Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
04/09 Tiếp tục rao giảng Tin Mừng
- Viết bởi Lc 4, 38-44
Tiếp tục rao giảng Tin Mừng.
Thứ tư tuần 22 thường niên.
"Ta còn phải rao giảng Tin Mừng cho các thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến".
Lời Chúa: Lc 4, 38-44
Khi ấy, Chúa Giêsu chỗi dậy ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon. Nhạc mẫu ông Simon phải cơn sốt nặng, và người ta xin Người chữa bà ấy. Người đứng bên bà, truyền lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến khỏi bà. Tức thì bà chỗi dậy, và dọn bữa hầu các ngài.
Khi mặt trời lặn, mọi người có bệnh nhân đau những chứng bệnh khác nhau, đều dẫn họ đến cùng Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân, và chữa họ lành. Các quỷ xuất khỏi nhiều người và kêu lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa". Nhưng Người quát bảo không cho chúng nói, vì chúng biết chính Người là Đức Kitô.
Đến sáng ngày (hôm sau), Người ra đi vào hoang địa, dân chúng liền đi tìm đến cùng Người, họ cố cầm giữ Người lại, kẻo Người rời bỏ họ. Người bảo họ rằng: "Ta còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến". Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Phải loan báo Tin Mừng
Suy niệm :
Sáng ngày sabát Đức Giêsu đã giảng dạy ở hội đường Caphácnaum.
Lời của Ngài đầy uy quyền và uy lực.
Lời ấy đã trục được quỷ khỏi một người đàn ông (Lc 4, 31-37).
Có lẽ đến trưa, Đức Giêsu rời khỏi hội đường để về nhà ông Simôn.
Tiếc thay bà mẹ vợ của ông lại bị sốt nặng, nằm một chỗ.
Người ta yêu cầu Ngài chữa cho người phụ nữ này.
Ngài đã lại gần và cúi xuống trên bà.
Ngài quát mắng cơn sốt như đã quát mắng thần ô uế (c. 39).
Lập tức cơn sốt phải rút lui.
Bà có thể đứng dậy được để phục vụ cơm nước cho Đức Giêsu và môn đệ.
Một lần nữa, chúng ta lại thấy sức mạnh của Lời Ngài.
Ngài chữa bệnh cho người phụ nữ chỉ bằng một lời ra lệnh.
Bệnh tật, dù nhẹ đi nữa, cũng làm phiền con người,
làm cản trở mọi sinh hoạt bình thường, và làm con người mất tự do.
Đức Giêsu đã nâng dậy một người đang nằm, mất sức làm việc.
Khi mặt trời lặn, lúc đã hết ngày sabát là ngày lễ nghỉ,
người ta mới đem cho Ngài những người bị đau đủ thứ bệnh.
Ngài chữa cho họ bằng cách đặt tay trên từng người (c. 40).
Đức Giêsu cúi xuống và chạm vào nỗi đau của từng thân xác.
Không rõ khi nào Ngài dừng tay để đi ngủ.
Chỉ biết khi trời hừng sáng, Ngài đã thức dậy ra đi, đến một nơi vắng vẻ.
Hẳn là Ngài cần chút thinh lặng, để xa đám đông, để gặp gỡ Cha,
Ngài cần dâng cho Cha một tuần mới đang đến.
Đức Giêsu không chỉ mê phục vụ cho đám đông,
Ngài còn mê ở một mình, mê cầu nguyện, mê chỗ vắng.
Nhưng các đám đông hối hả đi tìm Ngài, vì nhiều người cần chữa bệnh.
Khi bắt được Ngài, họ không cho Ngài lìa bỏ họ (c. 42).
Thành công và tiếng tăm, thiện cảm và sự thân quen gần gũi,
là những điều có thể giữ chân người tông đồ.
Trước sự chèo kéo của những người đau yếu đang thực sự cần Ngài,
Đức Giêsu vẫn muốn giữ cho mình sự tự do của người được Cha sai.
Ngài nhìn thấy cánh đồng mênh mông của thế giới.
Ngài hiểu là mình không được phép dừng chân ở một chỗ, để đặt trụ sở.
Ngài biết là mình được mời gọi lên đường mỗi ngày.
Đâu phải chỉ có thành Caphácnaum hay Nadarét hay vùng Galilê.
“Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa
cho các thành khác nữa, vì tôi được sai cốt để làm chuyện đó” (c. 43).
Chữ phải đến như một mệnh lệnh từ Cha, kéo Đức Giêsu đi không nghỉ.
Ngài vượt qua bao biên giới của gia đình, làng quê, tỉnh thành…
Rồi có ngày việc loan báo Tin Mừng sẽ trải dài đến tận cùng thế giới.
Khi chữa lành cho con người, Đức Giêsu cho thấy Nước Thiên Chúa đến.
Con người hôm nay cũng bị đau yếu về nhiều mặt.
Mong mỗi tông đồ hôm nay cũng có khả năng chữa lành như Thầy Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy Niệm 2: Mến Chúa Và Yêu Người
Năm 1990, trong chuyến viếng thăm Phi Châu, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến Gia Mô Su Cô, thủ đô nước Qua Tê Ðô Bu A để kính viếng Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình do tổng thống nước này cho xây cất và dâng tặng cho Tòa Thánh.
Ðược mô phỏng từ Vương Cung Thánh Ðường ở Rôma, ngôi giáo đường vĩ đại này có thể chứa đến tám ngàn chỗ ngồi và mười ngàn chỗ đứng. Người ta không biết rõ kinh phí xây cất ngôi thánh đường này là bao nhiêu, nhưng tổng thống Kufues cho biết mọi chi phí đều do gia đình ông đài thọ. Vào giữa lúc dân chúng Qua Tê Ðô Bu A vẫn còn sống trong nghèo nàn lạc hậu, nhiều người đã có lý để chất vấn ông Kufues tại sao không dùng số tiền kếch sù ấy để xây cất trường học và đẩy mạnh công cuộc phát triển có lợi cho dân nghèo. Ðây cũng chính là điều kiện để Tòa Thánh đón nhận món quà của tổng thống nước này.
Ðức Thánh Cha đã đến thánh hiến Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình nhưng đồng thời cũng kêu gọi tổng thống Kufues quan tâm tới công tác giáo dục và xã hội cho dân nghèo. Do đó, tổng thống Kufues đã tặng cho Giáo Hội một khu đất gần nhà thờ để thiết lập một bệnh viện cho người nghèo.
Ðức Thánh Cha đã thánh hiến ngôi giáo đường nguy nga nhưng đồng thời cũng đặt viên đá đầu tiên để xây cất bệnh viện. Cử chỉ này mang một ý nghĩa tượng trưng cao độ, nó nói lên mối quan tâm của Giáo Hội đối với vấn đề phát triển toàn diện con người.
Rao giảng Tin Mừng không chỉ có nghĩa là công bố những chân lý liên quan đến phần rỗi linh hồn, sống đạo không chỉ có nghĩa là xây cất nhà thờ và chu toàn những việc đạo đức đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ. Góp phần phát triển xã hội, tranh đấu cho công bình, nỗ lực mang lại no cơm ấm áo và xoa dịu bao vết thương đau của con người, đó cũng là thành phần thiết yếu của công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Giáo Hội trong thế giới ngày nay như hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng khẳng định không thể xa lạ hay làm ngơ trước những vui mừng và hy vọng, đau thương và sầu khổ của con người thời đại, và những vấn đề sống còn của con người. Giáo Hội hành động như thế là vì tính cách toàn diện của ơn cứu rỗi. Thiên Chúa không chỉ cứu rỗi phần linh hồn mà cả con người với hồn lẫn xác. Giáo Hội loan báo ơn cứu rỗi toàn diện như thế là bởi vì chính Chúa Giêsu đã loan báo và thực hiện một ơn cứu rỗi như thế. Ngài không chỉ rao giảng và hứa hẹn một Nước Trời hoàn toàn xa lạ với những thực tại trần thế. Nước Trời mà Ngài rao giảng đến ngay trong những thực tại trần thế và trong cuộc sống cụ thể của con người. Ngài không chỉ tha tội trừ quỉ, chữa phần linh hồn mà còn dâng bánh và cá cho nhiều người được ăn no nê, cũng như chữa lành mọi thứ tật bệnh của con người.
Cử chỉ của Chúa Giêsu đối với nhạc mẫu của thánh Phêrô và việc Ngài đặt tay chữa những người bệnh tật ốm đau được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của một tình yêu được trải rộng đến mọi người, từng người, từng nhu cầu của con người mà Chúa Giêsu muốn Giáo Hội tiếp tục trong thế giới ngày nay. Cần có nhà thờ để qui tụ lại, tôn vinh Thiên Chúa và thỏa mãn nhu cầu thiêng liêng của con người, nhưng càng cần có nhà thương và trường học để phục vụ con người hơn. Gặp gỡ Thiên Chúa trong nhà thờ đã đành, nhưng gặp gỡ Ngài trong tha nhân và cuộc sống hàng ngày mới thiết thực hơn. Có những giây phút tĩnh lặng để cầu nguyện, nhưng cầu nguyện là để được tỉnh thức hơn hầu gặp gỡ, yêu thương và phục vụ người anh em trong cuộc sống hàng ngày. Con đường nào cũng phải dẫn tới nhà thờ nhưng nhà thờ nào cũng có lối thông với cuộc đời. Người tín hữu Kitô gặp gỡ Chúa để múc lấy sức sống và trở lại cuộc sống hàng ngày hầu gặp gỡ và yêu thương người anh em của mình nhiều hơn.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết thống nhất hai giới răn mến Chúa và yêu người và ý thức rằng cốt lõi của Ðạo là Tình Yêu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Tin mừng cho toàn thế giới
Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Ngài bỏ họ mà đi. Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng cho thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm, việc đó.” (Lc. 4, 42-43)
Đức Kitô đã nói:” Tôi còn phải loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa cho các nơi khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Người không chỉ đến một thành, là Ca-pha-na-um, hay những vùng lân cận đó, nhưng đến tận cùng thế giới.Chữa những bà mẹ vợ và còn bao nhiêu bà khác nữa!Chữa những người bị quỷ ám và còn phải đuổi bao nhiêu thần ôuế khác nữa!
Đừng nên bóp nghẹt Người vào một chỗ: đừng nên độc quyền nắm giữ sứ điệp nước trời cho riêng mình. Cần phải loan truyền Tin Mừng cho khắp mọi nơi như Người đã muốn, như chính Người đã làm. Chúng ta không thể là những người sở hữu độc nhất và đặc quyền khai thác Tin Mừng. Hiến chế về Giáo Hội của công đồng Va-ti-can II nói với chúng ta: “ Mỗi môn đệ của Chúa Kitô, tùy theo địa vị của mình, đều phải làm tròn trách nhiệm gieo hạt giống đức tin”. (số 17). Phép rửa tội làm cho chúng ta trở nên những nhà truyền giáo. Chúng ta không chỉ là Kitô hữu cho nơi của mình. Về phần chúng ta phải mang Tin Mừng đi khắp mọi nơi chúng ta đến.
Giáo Hội phát triển nhờ những cuộc bách hại thời sơ khai thúc đẩy các môn đệ Chúa Kitô đi lập cơ sở mới ra khỏi thế giới Do-thái. Những bất mãn hiện thời của nhiều nhóm công giáo lâu đời buộc chúng ta phải cởi mở ra thế giới khác chúng ta, họ khao khát Thiên Chúa, có sức thấm nhuần và thăng tiến lời Chúa mạnh mẽ. Xưa, Đức Giêsu đã truyền lệnh cho các tông đồ: “ Nếu họ từ chối các con, thì các con hãy đi sang làng khác”. Thiên Chúa không còn áp đặt. Con Chúa cũng vậy. Suốt dòng lich sử Giáo Hội, chúng ta đã quên điều đó. Công đồng Va-ti-can II đã nhắc nhở chúng ta trong một tuyên ngôn cách mạng về tự do tôn giáo.
Thật chính đáng khi nhận biết rằng: tất cả là ơn Chúa, tất cả là sự quan phòng của Chúa, tất cả qui hướng về vinh quang cao cả của Chúa. Những người bị bỏ rơi đã được Chúa chọn, khiến chúng ta phải hiểu ơn gọi của người Kitô chúng ta là: Hãy đi đến với mọi người không trừ ai, vì không có một người nào mà Chúa không ghé mắt đoái nhìn. Còn chúng ta, phải nói gì với họ.
GF
Suy Niệm 4: CỨU ĐỘ BẰNG TÌNH THƯƠNG (Lc 4, 38 - 44)
“Ông là Con Thiên Chúa”. Đây là lời tuyên xưng của ma quỷ khi bị Đức Giêsu trục xuất khỏi những người mà chúng làm hại. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Thiên Chúa mà truyền cho chúng phải câm miệng.
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Đức Giêsu biết rất rõ trong tâm thức thực dụng của các môn đệ và những người Dothái thời bấy giờ là mong muốn và hy vọng về một Đấng Messia theo kiểu trần tục. Họ khát mong Đấng đó phải là người: giải phóng dân tộc Israel khỏi ách đô hộ của đế quốc Lamã, đem lại tự do, cơm no áo ấm và vinh quang cho đất nước...
Nhưng sứ mạng của Đức Giêsu không phải đến để giải phóng theo ý hướng của họ, mà là đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, chữa lành bệnh tật và đem lại cho họ niềm hạnh phúc thật sự là được ở với Chúa.
Vì thế, Đức Giêsu đã cấm ma quỷ nói về Ngài, vì bây giờ không phải là lúc thuận tiện để mọi người hiểu được cốt lõi sứ mạng nơi Đức Giêsu.
Thật vậy, con đường cứu độ của Đức Giêsu là con đường của vâng lời, hy sinh, phục vụ, tự hủy và chịu chết, chứ không phải là con đường nhung lụa, vũ trang, quyền lực, thống lãnh... theo kiểu nhà binh.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy sống và chu toàn sứ mạng mà Chúa trao phó trong vai trò và bổn phận của mình cách trung thành. Luôn đứng về phía người nghèo, thấp cổ bé họng, để bênh đỡ họ, vì chính Chúa đã đồng hóa Ngài với những người như thế. Đây phải là đối tượng số một của Tin Mừng và sứ mạng của người Kitô hữu. Mặt khác, đây cũng là thước đo lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống tinh thần yêu thương như Chúa khi xưa, hầu nhiều người sẽ nhận ra chúng con là môn đệ của Chúa khi chúng con biết yêu thương nhau. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Chữa Trị Bệnh Tật
"Chúng ta hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" đó là lời phát biểu của Mẹ Têrêsa Calcutta để gián tiếp chấp nhận lời yêu cầu của một số ký giả và những người làm phim muốn làm một cuốn phim tài liệu trình bày những công việc từ thiện do Mẹ và các Nữ tu Dòng Thừa sai bác ái thực hiện. Từ mấy chục năm nay, tinh thần và tình yêu của Mẹ Têrêsa đối với những người đau khổ bệnh tật đã được lan ra khắp nơi trên thế giới, như một tiếp tục công tác chính Chúa Giêsu đã thực hiện mà chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay.
Thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác, thánh sử Luca ghi lại: "Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài. Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ". Những dòng kế tiếp cho thấy Chúa Giêsu có uy quyền trên sự dữ. Ở đây sự dữ xuất hiện dưới hai hình thức: bệnh tật và ma quỉ. Chúa Giêsu ra lệnh và quở mắng để chế ngự, nhưng Ngài không tiêu diệt chúng. Ngoài ra, trong nhiều cơ hội khác, Chúa Giêsu làm gương bằng sự ân cần của Ngài đối với các bệnh nhân, kể cả những người mang chứng bệnh khiếp sợ nhất lúc bấy giờ là bệnh phong cùi.
Trong giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Ngài đồng hóa mình với những người bệnh tật, những người nghèo đói, những kẻ sa cơ lỡ bước, những người bị cầm tù. Ngài nói: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta". Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đem lại cho đau khổ và bệnh tật ý nghĩa và giá trị cứu rỗi.
Xin cho công trình giải phóng và cứu rỗi của Chúa được nhiều người quảng đại dấn thân tiếp tục. Xin cho đôi mắt đức tin chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa nơi những người đang cần được giúp đỡ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
03/09 Chúa Giêsu giải phóng người bị quỷ ám
- Viết bởi Lc 4, 31-37
Chúa Giêsu giải phóng người bị quỷ ám.
Thứ ba tuần 22 thường niên – Thánh Ghêgôriô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
* Thánh nhân sinh quãng năm 540 tại Rôma. Người theo con đường công danh, nhưng đã từ chối chức thái thú Rôma. Người gia nhập đan viện và sau khi làm phó tế, người nhận nhiệm vụ sứ thần Công-tăng-ti-nốp. Ngày 3 tháng 9 năm 590, người được chọn làm người kế vị thánh Phêrô suốt mười bốn năm phục vụ Hội Thánh (590-604). Dầu sức khỏe không dồi dào, người đã tận tụy chu toàn bổn phận, giúp đỡ người nghèo, củng cố và truyền bá đức tin. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm về luân lý và thần học. Hoạt động của người được nuôi dưỡng nhờ chiêm niệm. Người qua đời ngày 12 tháng 3 năm 604.
Lời Chúa: Lc 4, 31-37
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thành Capharnaum, xứ Galilêa, và ở đó Người giảng dạy họ trong các ngày Sabbat. Người ta bỡ ngỡ về giáo lý của Người, vì lời giảng dạy của Người có uy quyền. Bấy giờ trong hội đường, có một người bị quỷ ô uế ám, thét to lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, giữa chúng tôi và Ngài có chuyện chi đâu? Ngài đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Nhưng Chúa Giêsu trách mắng nó rằng: "Hãy câm đi và ra khỏi người này". Và quỷ vật ngã người đó giữa hội đường và xuất khỏi nó, mà không làm hại gì nó.
Mọi người kinh hãi và bảo nhau rằng: "Lời gì mà lạ lùng vậy? Vì Người dùng quyền năng mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra". Danh tiếng Người đồn ra khắp nơi trong xứ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lời có uy quyền
Suy niệm :
Phép lạ đầu tiên được kể trong Tin Mừng Luca là một phép lạ trừ quỷ,
diễn ra tại hội đường Caphácnaum vào một ngày sabát (c. 31).
Đức Giêsu dạy dỗ dân chúng, và họ sửng sốt trước lời dạy của Ngài,
bởi lẽ lời của Ngài là lời đầy quyền uy (c. 32).
Quyền uy làm sửng sốt ấy đến từ con người Ngài,
vì Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Trong hội đường ngày hôm đó, có một người bị quỷ thần ô uế nhập.
Anh ta tự nhiên la to, vì thấy mình bị đe dọa: “Ông Giêsu Nadarét,
chuyện chúng tôi can gì đến ông ? Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao?”
Sự hiện diện và lời dạy quyền uy của Đức Giêsu, làm quỷ xuất đầu lộ diện.
Nhưng nó sợ, muốn tránh Ngài trong cuộc chiến không cân sức.
Quỷ biết rõ đối thủ có sức tiêu diệt mình là ai.
Nó biết được điều mà dân chúng không biết về căn tính của Đức Giêsu.
Ngài không phải chỉ là ông Giêsu ở Nadarét,
mà còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 34).
Có một sự đối lập gay gắt giữa thần ô uế và Đấng Thánh tinh tuyền.
Đức Giêsu trừ thần ô uế chỉ bằng một lời quát mắng (c. 35).
“Câm đi, hãy xuất ra khỏi người này !”
Ngài không cho quỷ nói lên danh tánh của Ngài,
vì Ngài không muốn sự thật được nói lên bởi miệng những kẻ dối trá.
Lời truyền lệnh của Ngài khiến thần ô uế phải xuất ra.
Nó không còn được ở lại hay có quyền gì trên người này nữa.
Quỷ vật anh ngã xuống, xuất ra, nhưng lại không làm hại được anh.
Người trong hội đường kinh ngạc, không vì chuyện Đức Giêsu trừ quỷ,
nhưng vì họ thấy uy quyền và uy lực nơi lời nói của Ngài (c. 36).
Lời nói ra như một mệnh lệnh, và quỷ phải vâng nghe.
Thế giới hôm nay dễ bị tấn công và thống trị bởi các thần ô uế.
Thần ô uế có mặt ở khắp nơi, và có sức hấp dẫn mê hoặc con người.
Ô uế nơi thân xác, nơi trí tưởng tượng, nơi những ám ảnh không ngơi.
Ô uế trở thành một thứ văn hóa, xâm nhập vào mọi ngõ ngách,
chi phối mọi lối nghĩ và lối hành xử của con người.
Chúng ta phải nhìn nhận sức mạnh của thần ô uế trong thế giới hôm nay.
Rất nhiều bạn trẻ đã phải thú nhận mình không đủ sức kháng cự lại.
Đức Giêsu cho chúng ta niềm tin vào sự chiến thắng.
Sự hiện diện của Ngài làm thần ô uế không thể giấu mặt.
Sự thánh thiện của Ngài làm nó phải run sợ cúi đầu.
Uy quyền và uy lực nơi Lời quát mắng của Ngài khiến nó phải tháo lui.
Hãy để cho Đức Giêsu thánh thiện có chỗ trong đời chúng ta.
Hãy tin vào sức mạnh giải phóng của Lời Ngài.
Hãy để Lời Ngài nâng chúng ta dậy và cho chúng ta được tự do.
Một người ở trong hội đường hay nhà thờ cũng có thể bị thần ô uế ám.
Chúng ta mong Chúa cho ta khả năng trục được sự ô uế ra khỏi đời ta.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự :
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy Niệm 2: Bộ mặt đích thực của Giáo Hội
Khi Giáo Hội sống đúng ơn gọi và sứ mệnh của mình, Giáo Hội là một sức mạnh tinh thần khiến cho các chế độ chính trị phải trọng nể hay lo sợ. Sức mạnh ấy không tới từ thế giới hay những phương tiện Giáo Hội có trong tay.
Giáo Hội múc lấy sức mạnh từ chính uy quyền của Ðấng sáng lập là Chúa Kitô. Thật thế, Chúa Kitô đã hứa ngay cả cửa hỏa ngục cũng không thắng nổi Giáo Hội. Chúa Giêsu đã phú bẩm cho Giáo Hội uy quyền của chính Ngài. Tin Mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân chúng khi họ lắng nghe lời giảng dạy của Ngài và nhất là khi Ngài trừ quỉ. Họ thán phục vì Ngài giảng dạy như Ðấng có uy quyền.
Trong cách đánh giá thông thường, một người xem là có uy tín khi tài năng hay đức độ của người đó được nhìn nhận, lời nói của một người có uy tín có sức thuyết phục người khác, việc làm có uy tín của một người có thể tạo được niềm tin nơi người khác. Nói chung, nơi một người có uy tín, lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, hoặc việc làm và cuộc sống có giá trị thuyết phục và lôi kéo. Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền là bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài đã sống và sống những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài lại được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài. Ðây chính là uy quyền mà Chúa Giêsu đã mặc cho Giáo Hội của Ngài. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được uy quyền của Chúa Giêsu khi Giáo Hội sống và rao giảng những gì Ngài đã sống và rao giảng. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được bộ mặt đích thực của mình khi sống phục vụ mà thôi. Càng thể hiện được bộ mặt thật ấy, Giáo Hội càng tỏ ra là một sức mạnh có sức đạp đổ mọi thứ khí giới và sự dữ và trở thành chỗ dựa cho mọi người.
Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu có nghĩa vụ phải bày tỏ bộ mặt đích thực của Giáo Hội. Sức mạnh và uy quyền của Giáo Hội được thể hiện không phải qua con số các tín hữu hay qua các biểu dương của số đông mà thiết yếu qua cuộc sống có tính thuyết phục của các tín hữu. Giữa một xã hội trống rỗng những giá trị đạo đức, các tín hữu Kitô phải thể hiện một niềm tin có sức mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Giữa một xã hội băng giá về ích kỷ, các tín hữu Kitô cần phải sống một tình mến có sức sưởi ấm tâm hồn con người. Giữa một xã hội chao đảo về thiếu định hướng, các tín hữu Kitô phải bày tỏ một niềm hy vọng có sức soi rọi vào tăm tối của cuộc sống mọi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Ðấng giảng dạy với uy quyền, củng cố niềm tin, gia tăng đức mến và bảo toàn niềm trông cậy nơi chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Một người đầy uy quyền
Trong hội đường có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: “Ông Giêsu Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”quỷ vật người ấy xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. (Lc. 4, 33-35)
Ngay từ buổi đầu cuộc giảng đạo công khai, Đức Giêsu tỏ ra một người đầy uy lực. Lời và hành động của Người biểu lộ quyền bính phi thường.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Đức Giêsu đã tỏ ra là bậc thầy dạy một giáo lý vững chắc có sức đáng động và gây ấn tượng mạnh ngay tại những người Do-thái chịu ảnh hưởng của nhiều trường luật sĩ giảng dạy rất đông đệ tử. Dân chúng say mê nghe lời Người. Không phải chỉ nhờ lời nói hay. Người còn liên kết sứ điệp của Người với quyền phép trừ quỷ bằng một sức mạnh làm những người chứng kiến kinh ngạc.
Từ hai ngàn năm, Đức Giêsu không bao giờ ngừng tạo thế lực vừa bằng đạo lý, vừa bằng hành động giải phóng nhân loại, không chỉ cứu thân xác bệnh hoạn mà nhất là cứu tâm trí con người được hạnh phúc. Ngày nay hơn bao giờ hết, Người lôi cuốn mọi người khám phá về Người. Không bao giờ người ta nói về Người nhiều như ngày nay, hoặc để thử loại bỏ Người, chối không có Người hoặc bảo vệ Người rất nhiệt tình. Báo chí, truyền thanh, truyền hình, sách vở, nghệ thuật âm nhạc, quảng cáo đã thấm nhập về Đức Kitô và tuyên truyền làm cho người ta hiểu biết về Đức Kitô một cách tiêu cực hay tích cực.
Dù người ta nói gì, Người vẫn là một bậc Thầy vĩ đại trong các bậc Thầy cho mọi người trên trái đất phải suy nghĩ. Đúng như câu kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay:
“Tiếng đồn về Người lan ra khắp mọi nơi”. Và như ông Si-mê-on đã nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en, vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà,thì một mũi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. (Lc. 2, 34-35)
Suy Niệm 4: SỰ THẬT SẼ GIẢI PHÓNG CHÚNG TA (Lc 4, 31-37)
Trong xã hội hôm nay, nạn nói dối đã trở thành “đại dịch” và không ít người đang trong tình trạng “nan y”. Trước diễn biến đó, nhiều người đã phải gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh tới mọi thành phần trong xã hội... Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đã “bó tay”, bởi vì nạn thành tích, hối lộ, gian tham đã trở thành “ung thư” đang dần gặm nhấm làm sói mòn lương tâm con người.
Vì thế, không lạ gì khi người ta chẳng còn tin tưởng lẫn nhau, bởi những món ăn người ta thiết đãi nhau lại toàn là: “Bánh vẽ" lẫn "thịt lừa”. Vì thế, như một hệ lụy, bây giờ tìm được một người tử tế thật thì quả là: “Mò kim đáy biển”!
Hôm nay, Đức Giêsu đã làm cho mọi người bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài, vì lời giảng dạy của Ngài có uy quyền. Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Ngài giảng dạy không giống các Kinh Sư và Pharisêu. Mọi lời Ngài phát ra đều chân thật. Sự thật trong lời nói và hành động của Ngài đã trở thành một thể thống nhất, vì thế, đã làm cho người tiếp nhận phải suy nghĩ và tự cật vấn lương tâm.
Thật vậy, chỉ có sự thật mới giúp chúng ta trở thành người tự do đích thực. Chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta đối xử với nhau chân tình và mới giải phóng chúng ta cách trọn vẹn. Và, cũng chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta thành con Chúa đúng nghĩa.
Hôm nay, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Thiên Chúa để chỉ cho ma quỷ thấy sự thật của nó là kẻ chuyên gây nên gian dối, đau khổ và chết chóc cho con người. Vì thế, chỉ một lời nói: “Câm đi, hãy ra khỏi người này”, thì phép lạ liền xảy ra. Đây là sự khác biệt giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ!
Thật vậy, nhờ sự thật trong quyền năng, Đức Giêsu đã giải phóng con người thông qua hình ảnh của những người bị quỷ câm ám. Qua phép lạ này, Đức Giêsu cho thấy, con người luôn bị sự gian dối cầm buộc. Cần phải giải thoát bằng sự thật, nếu không, con người vẫn mãi bị cầm tù trong những chuyện gian tham xảo quyệt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: chúng ta thuộc về Thiên Chúa thì phải “ly dị” sự dối trá trong tư tưởng, hành động, lời nói và việc làm. Không được sống tráo trở, dối trá, hai mặt... Nếu cứ an nhiên tự tại để sống trong sự dối trá, thì đương nhiên, chúng ta thuộc về thế giới của những kẻ gian dối, mà thủ lãnh của trong thế giới này là ma quỷ.
Điều mà chúng ta cần nhận ra hệ lụy nhãn tiền cho những ai ưa trò cầu thân nịnh bợ và sống giả tạo là: họ không có uy quyền và sức cảm hóa trong lời nói và việc làm. Đôi khi những việc đạo đức, lời nói thánh thiện của họ phát ra lại trở thành gương mù gương xấu và phản tác dụng, chẳng khác gì: “Gậy ông đập xuống lại dần lưng ông”; hay như: “ngửa mặt... và nhổ nước miếng, đương nhiên nước miếng rơi chúng mặt mình???”. Mặt khác, lại là cớ cho người khác khinh bỉ, bởi vì họ đang ngu ngơ diễn xuất màn kịch vụng về đến nỗi trở nên lố bịch trên một “sân khấu ảo”.
Mỗi khi chúng ta sống như thế, hẳn chúng ta trở nên vô nghĩa với Thiên Chúa và vô dụng với tha nhân, bởi lẽ đây là hệ quả của con cái ma quỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: chỉ có sự thật mới đem lại cho chúng con hạnh phúc, bình an và có giá trị thực sự, bởi vì sự thật thuộc về Thiên Chúa. Gian dối thuộc về ma quỷ. Xin cho chúng con biết khôn ngoan để lựa chọn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Lời nói và cuộc sống
Ðược bầu làm Bề trên cộng đoàn, một tu sĩ nọ đến hỏi một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và thánh thiện: - Thưa cha, thế nào là một bài giảng hay?
Vị ẩn sĩ trả lời: - Một bài giảng hay phải là bài giảng có nhập đề và kết luận hay, nhất là phần nhập đề và kết luận càng gần nhau càng tốt.
Khi nói đến khoảng cách giữa nhập đề và kết luận trong một bài giảng, hẳn vị ẩn sĩ muốn nói đến sự trung thực của lời nói. Một lời nói được xem là trung thực khi giữa lời nói và thực tế không có khoảng cách, nhưng có sự thống nhất giữa lời nói và cuộc sống.
Lời nói vốn là phạm trù cơ bản nhất trong Kitô giáo. Ở khởi đầu Kinh Thánh, chúng ta thấy rằng hoạt động đầu tiên của Thiên Chúa là nói, nhưng khi Thiên Chúa nói thì liền có vạn vật. Không có khoảng cách giữa lời của Thiên Chúa và hành động của Ngài. Lời của Thiên Chúa là lời chân thật, nghĩa là luôn được thể hiện bằng hành động và có hiệu quả. Khởi đầu Tin Mừng của ngài, thánh Gioan cũng xác quyết: "Từ khởi thủy đã có Lời và Lời đã hóa thành nhục thể". Nơi Chúa Giêsu, lời là thực tế, nghĩa là không có khoảng cách giữa lời Ngài và cuộc sống của Ngài. Và đó có thể là ý tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta.
Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền. Uy quyền ấy không phải là thứ uy quyền được áp đặt trên người khác. Uy quyền của Chúa Giêsu phát xuất từ chính sự thống nhất giữa lời nói và hành động của Ngài: Ngài chỉ cần nói với tên quỉ câm: "Câm đi, hãy ra khỏi người này", thì phép lạ liền xẩy ra. Những người chứng kiến phép lạ đã thấy được sự khác biệt giữa lời giảng dạy của Chúa Giêsu và của các Luật sĩ đương thời.
Phép lạ của Chúa Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt đối với Chúa Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi".
Lời Chúa là lời chân thật. Ước gì lời ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ xiềng xích của dối trá, để lời tuyên xưng và cuộc sống của chúng ta luôn được thống nhất. Trong một xã hội đầy trói buộc và dối trá thì chứng tá cuộc sống là lời nói có giá trị nhất.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
02/09 Tin mừng của Chúa Giêsu
- Viết bởi Lc 4, 16-30
Tin mừng của Chúa Giêsu.
Thứ hai tuần 22 thường niên.
"Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình".
Lời Chúa: Lc 4, 16-30
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Trả lại tự do
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu
đến giảng tại hội đường Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16),
Dù trước đó Ngài đã giảng tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23),
nhưng thánh Luca đã cố ý đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai
cuộc gặp gỡ đặc biệt này giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét.
Đây là nơi Đức Giêsu tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài.
Chương trình ấy được gói trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia.
Được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1, 35),
và được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22),
Đức Giêsu đã được xức dầu để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ.
Sứ mạng này chủ yếu là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…)
Tin Mừng này trước hết dành cho người nghèo theo nghĩa đen,
nghĩa là những người không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc.
Ai là người nghèo nữa dưới mắt của Đức Giêsu?
Đó là những người nghèo tự do, phải chịu cảnh giam cầm.
Họ có thể là những người bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ.
Đó là những người nghèo sức khỏe,
họ bị coi là chịu sự trói buộc của Xatan (Lc 13, 16),
Đó là những người nghèo đời sống tâm linh,
họ phạm tội nên thấy mình xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn.
Đức Giêsu đến để giải thoát những người nghèo này khỏi áp bức.
Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ và trả lại tự do cho họ.
Chính vì thế Tin Mừng của Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui.
Đức Giêsu đã loan báo: Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20).
Ngài đã chữa bệnh cho những kẻ ốm đau thân xác,
đã mở mắt người mù để họ thấy ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài cũng đã giao du và ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về.
Bởi đó thời của Đức Giêsu là Năm hồng ân, Năm Thánh.
Lời giảng của Đức Giêsu bước đầu đã được dân làng thán phục.
Họ có vẻ hãnh diện vì một người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm.
Nhưng Đức Giêsu không muốn mình bị chi phối bởi dân làng.
Ngài không muốn bị buộc phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23).
Đức Giêsu còn nhìn xa hơn đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27).
Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa.
Hai vị này đã giúp bà góa ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri.
Dân Nadarét phẫn nộ và định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng
Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi.
Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa.
Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản.
Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu,
hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Loan báo Tin Mừng là làm con người thực sự thêm giàu có.
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy Niệm 2: Bí Quyết Nên Thánh (Lc 4,16-30)
Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng ở vùng gần Giêrusalem bên bờ sông Giócđan nơi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Chúa Giêsu trở về thăm làng cũ. Ở đó dân chúng đã nghe nói về nội dung lời rao giảng của Ngài, ở đó người ta cũng nghe nói tới một số phép lạ Ngài đã làm. Tin đồn này làm cho những người đồng hương bỡ ngỡ: "Ông ta đã học được những điều đó ở đâu? Ông không phải là con ông Giuse đó sao?" Ðó là một thắc mắc rất chính đáng.
Người dân Nazareth, nhất là những người đã từng quen biết và lớn lên với Chúa Giêsu hẳn có đủ lý do để tỏ ra ngỡ ngàng khi nghe kể về thành tích của Ngài, bởi vì trong suốt ba mươi năm sống trong ngôi làng nhỏ bé ấy, Ngài đã chẳng tỏ ra bất cứ một dấu thánh thiện siêu phàm nào. Chúng ta có thể tự hỏi làm sao Chúa Giêsu đã có thể sống trong ngôi làng bé nhỏ ấy trong suốt ba mươi năm mà không để lộ bản tính của Ngài? Làm sao Con Thiên Chúa lại có thể sống trong ngôi làng hẻo lánh nghèo nàn ấy trong bao nhiêu năm mà dân chúng không hề thắc mắc? Câu trả lời chỉ có thể là Chúa Giêsu chỉ có một ý niệm về thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đồng hương và cả chúng ta nữa. Thời Ngài, thánh thiện có nghĩa là tuân giữ chi ly mọi Lề Luật, trung thành với truyền thống và phong tục vốn được xem là biểu thị của đời sống đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã không nghĩ như thế. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ, tất cả những ai đã từng biết Ngài trong ngôi làng nhỏ bé ấy đều thắc mắc và bỡ ngỡ. Quả thật, tất cả những ai đã từng quen biết Ngài chỉ xem Ngài như một người như họ mà thôi, Ngài không để lộ bất cứ một dấu thánh thiện hay siêu phàm nào.
Ðiều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ là không nơi nào trong các sách Tin Mừng viết rằng Chúa Giêsu là một con người đạo đức, chúng ta chỉ đọc được rằng Ngài đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu có một quan niệm về sự thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đương thời. Ðối với Ngài, thánh thiện là sống hoàn toàn như một con người, là làm người như Thiên Chúa đã dựng nên, đó là câu giải đáp thắc mắc tại sao những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu thắc mắc và bỡ ngỡ khi Ngài bắt đầu rao giảng và chữa bệnh. Ðối với lối suy tư của họ, Ngài xem ra quá trần tục, quá là người cho nên không thể làm được những chuyện cả thể như người ta đã đồn thổi. Tuy nhiên đây chính là một mạc khải sâu xa: Thiên Chúa nhập thể làm người để sống như một con người như mọi người, hầu dạy chúng ta biết sống cho ra người. Chính cuộc sống đơn giản và bình thường ấy lại chứa đựng một sự thánh thiện tuyệt vời.
Trong các thứ học thì hẳn học làm người là điều khó nhất, người ta có thể đỗ đạt thành tài trong cuộc sống, người ta có thể nắm vững được lãnh vực chuyên môn của mình, nhưng học làm người là một thứ trường học mà con người sẽ chẳng bao giờ tự cho là mình đã tốt nghiệp và thôi học. Sống như một con người, như Chúa Giêsu đã sống ba mươi năm âm thầm tại Nazareth, âm thầm đến độ những người quen biết không thấy có gì đáng chú ý trong cuộc sống ấy. Sống như một con người chính là sống một cách sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Sống một cách phi thường những việc tầm thường nhất trong đời thường, sống bằng một tình yêu cao cả những việc làm nhỏ bé nhất hàng ngày, đó chính là bí quyết để nên thánh vậy.
Suy Niệm 3: Không có thứ thanh niên đó nơi chúng tôi
Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” (Lc. 4, 21-22)
Giờ Thiên Chúa đã điểm cho Đức Kitô xuất hiện. Ngài vừa chuẩn bị sứ mệnh trong một cuộc tình lâu dài và kham khổ trong hoang địa. Ngài định thi hành sứ vụ công khai bằng cuộc thăm viếng ngôi làng nhỏ bé nơi sinh trưởng của Ngài là Na-gia-rét. Ngài vào hội đường lúc giờ kinh phụng vụ và lên tiếng giải thích bài sách tiên tri I-sai-a: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, cho kẻ bị tù đầy được tự do và cho người mù được thấy ánh sáng, giải phóng cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”
Đức Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh” những người đồng hương ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài, họ chưa hiểu Ngài. Ngài nói với họ: Tôi, Người đang nói với ông bà anh chị em là chàng thanh niên của ông bà và anh chị em đều biết rõ tôi, tôi là Người Chúa đã truyền đi thực hiện những điều lạ lùng như tiên tri I-sai-a đã nói.
Nhưng bây giờ tôi không còn là chàng thanh niên đó nữa nên các ông bà anh chị em không chấp nhận tôi, không nghe tôi, không muốn có tôi. “Tôi bảo thật: không có một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Quá khứ đã chứng tỏ hùng hồn cho điều đó. Bao nhiêu ngôn sứ như Ê-li-a và E-li-sê đã không thể làm điều gì lạ ở nơi quê mình và các ông bà anh chị em tiếp tục theo lề thói xưa nên đã khinh thường tôi. Tôi chỉ là con ông Giu-se. Tôi không thể thông thái hơn các ông bà. Không có gã thanh niên nào nơi các ông bà, giám yêu sách đòi làm ngôn sứ cho các ông bà. Đó có phải là trò đùa không.
Đó là thứ dỡn mặt quá trớn, cần phải trừ khử đi! Quả thực, “Họ đã phẫn nộ phải đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi làng, khéo lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi”. Vì giờ rao giảng của Ngài đã tới, giờ chết của Ngài chưa điểm.
Chúng ta cũng có những ngôn sứ của chúng ta. Những gã thanh niên, thanh nữ này... Họ đang mang sứ điệp của Đức Kitô đến mọi nơi. Họ âm thầm, hiền lành và khiêm nhường trong lòng! nhưng lại không có nơi chúng ta sao?
Chúng ta đối xử với họ thế nào?
GF
Suy Niệm 4: LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO (Lc 4, 16-30)
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu trở về quê hương và Ngài được mời lên để đọc Sách Thánh. Đoạn sách mà Đức Giêsu công bố hôm nay được lấy từ sách Tiên tri Isaia nói về ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những người nghèo. Đọc xong, Ngài tuyên bố: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
Thấy vậy, mọi người trong Hội Đường hy vọng Đức Giêsu sẽ ưu ái đặc biệt với họ. Tuy nhiên, điều mà họ mong muốn lại không được Đức Giêsu đáp ứng. Thay vào đó, Đức Giêsu muốn cho họ hiểu rằng: ơn gọi, sứ mạng của Ngài là đến với muôn dân, và đối tượng số một là những người nghèo. Nghèo về tinh thần, nghèo về vật chất, những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng... chứ không chỉ dành cho một số người ưu tuyển hoặc đặc quyền thân quen...!
Khi bị Đức Giêsu lật ngược ván cờ, họ sinh ra lòng căm nghét, vì thế, dân chúng đã trục xuất Đức Giêsu ra khỏi Hội Đường.
Khi suy niệm tới đây, hẳn chúng ta xầm xì về những hành vi phũ phàng của người Dothái với Đức Giêsu! Nhưng nếu hồi tâm một chút, hẳn chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa.
Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta mang trong mình tâm thức: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Và như một hệ lụy, nhiều người đã vất vả, khó khăn khi phải đối diện với sự chọn lựa theo tinh thần của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quý trọng quê hương, gia đình. Vì quê hương là nơi “chôn nhau cắt rốn”, là nơi cung cấp cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp thủa ban đầu. Gia đình là nơi chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên thành người...
Tuy nhiên, quê hương chỉ là nơi cưu mang chúng ta một thời. Gia đình là chỗ ta đi về và thể hiện tình nghĩa. Còn khi chúng ta đã trưởng thành, Chúa mời gọi chúng ta hãy đi và phải vươn xa tầm nhìn để mở rộng trái tim, để ôm ấp những người bé mọn, ốm đau, bị áp bức, bất công...
Cần phải vượt ra khỏi những kỳ thị vùng miền, giai cấp địa vị để đến với muôn dân, mọi nơi.
Được như thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu và trở thành người mang Tin Mừng của Ngài đến cho người nghèo...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi bất cứ nơi đâu Chúa cần chúng con hiện diện. Xin cũng ban cho chúng con trái tim của Chúa, để chúng con vượt qua mọi ranh giới, ngõ hầu đến được với những người đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Bụt Nhà Không Thiêng
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
02/09 Tin mừng của Chúa Giêsu
- Viết bởi Lc 4, 16-30
Tin mừng của Chúa Giêsu.
Thứ hai tuần 22 thường niên.
"Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình".
Lời Chúa: Lc 4, 16-30
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Trả lại tự do
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu
đến giảng tại hội đường Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16),
Dù trước đó Ngài đã giảng tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23),
nhưng thánh Luca đã cố ý đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai
cuộc gặp gỡ đặc biệt này giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét.
Đây là nơi Đức Giêsu tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài.
Chương trình ấy được gói trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia.
Được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1, 35),
và được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22),
Đức Giêsu đã được xức dầu để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ.
Sứ mạng này chủ yếu là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…)
Tin Mừng này trước hết dành cho người nghèo theo nghĩa đen,
nghĩa là những người không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc.
Ai là người nghèo nữa dưới mắt của Đức Giêsu?
Đó là những người nghèo tự do, phải chịu cảnh giam cầm.
Họ có thể là những người bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ.
Đó là những người nghèo sức khỏe,
họ bị coi là chịu sự trói buộc của Xatan (Lc 13, 16),
Đó là những người nghèo đời sống tâm linh,
họ phạm tội nên thấy mình xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn.
Đức Giêsu đến để giải thoát những người nghèo này khỏi áp bức.
Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ và trả lại tự do cho họ.
Chính vì thế Tin Mừng của Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui.
Đức Giêsu đã loan báo: Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20).
Ngài đã chữa bệnh cho những kẻ ốm đau thân xác,
đã mở mắt người mù để họ thấy ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài cũng đã giao du và ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về.
Bởi đó thời của Đức Giêsu là Năm hồng ân, Năm Thánh.
Lời giảng của Đức Giêsu bước đầu đã được dân làng thán phục.
Họ có vẻ hãnh diện vì một người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm.
Nhưng Đức Giêsu không muốn mình bị chi phối bởi dân làng.
Ngài không muốn bị buộc phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23).
Đức Giêsu còn nhìn xa hơn đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27).
Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa.
Hai vị này đã giúp bà góa ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri.
Dân Nadarét phẫn nộ và định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng
Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi.
Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa.
Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản.
Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu,
hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Loan báo Tin Mừng là làm con người thực sự thêm giàu có.
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy Niệm 2: Bí Quyết Nên Thánh (Lc 4,16-30)
Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng ở vùng gần Giêrusalem bên bờ sông Giócđan nơi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Chúa Giêsu trở về thăm làng cũ. Ở đó dân chúng đã nghe nói về nội dung lời rao giảng của Ngài, ở đó người ta cũng nghe nói tới một số phép lạ Ngài đã làm. Tin đồn này làm cho những người đồng hương bỡ ngỡ: "Ông ta đã học được những điều đó ở đâu? Ông không phải là con ông Giuse đó sao?" Ðó là một thắc mắc rất chính đáng.
Người dân Nazareth, nhất là những người đã từng quen biết và lớn lên với Chúa Giêsu hẳn có đủ lý do để tỏ ra ngỡ ngàng khi nghe kể về thành tích của Ngài, bởi vì trong suốt ba mươi năm sống trong ngôi làng nhỏ bé ấy, Ngài đã chẳng tỏ ra bất cứ một dấu thánh thiện siêu phàm nào. Chúng ta có thể tự hỏi làm sao Chúa Giêsu đã có thể sống trong ngôi làng bé nhỏ ấy trong suốt ba mươi năm mà không để lộ bản tính của Ngài? Làm sao Con Thiên Chúa lại có thể sống trong ngôi làng hẻo lánh nghèo nàn ấy trong bao nhiêu năm mà dân chúng không hề thắc mắc? Câu trả lời chỉ có thể là Chúa Giêsu chỉ có một ý niệm về thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đồng hương và cả chúng ta nữa. Thời Ngài, thánh thiện có nghĩa là tuân giữ chi ly mọi Lề Luật, trung thành với truyền thống và phong tục vốn được xem là biểu thị của đời sống đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã không nghĩ như thế. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ, tất cả những ai đã từng biết Ngài trong ngôi làng nhỏ bé ấy đều thắc mắc và bỡ ngỡ. Quả thật, tất cả những ai đã từng quen biết Ngài chỉ xem Ngài như một người như họ mà thôi, Ngài không để lộ bất cứ một dấu thánh thiện hay siêu phàm nào.
Ðiều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ là không nơi nào trong các sách Tin Mừng viết rằng Chúa Giêsu là một con người đạo đức, chúng ta chỉ đọc được rằng Ngài đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu có một quan niệm về sự thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đương thời. Ðối với Ngài, thánh thiện là sống hoàn toàn như một con người, là làm người như Thiên Chúa đã dựng nên, đó là câu giải đáp thắc mắc tại sao những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu thắc mắc và bỡ ngỡ khi Ngài bắt đầu rao giảng và chữa bệnh. Ðối với lối suy tư của họ, Ngài xem ra quá trần tục, quá là người cho nên không thể làm được những chuyện cả thể như người ta đã đồn thổi. Tuy nhiên đây chính là một mạc khải sâu xa: Thiên Chúa nhập thể làm người để sống như một con người như mọi người, hầu dạy chúng ta biết sống cho ra người. Chính cuộc sống đơn giản và bình thường ấy lại chứa đựng một sự thánh thiện tuyệt vời.
Trong các thứ học thì hẳn học làm người là điều khó nhất, người ta có thể đỗ đạt thành tài trong cuộc sống, người ta có thể nắm vững được lãnh vực chuyên môn của mình, nhưng học làm người là một thứ trường học mà con người sẽ chẳng bao giờ tự cho là mình đã tốt nghiệp và thôi học. Sống như một con người, như Chúa Giêsu đã sống ba mươi năm âm thầm tại Nazareth, âm thầm đến độ những người quen biết không thấy có gì đáng chú ý trong cuộc sống ấy. Sống như một con người chính là sống một cách sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Sống một cách phi thường những việc tầm thường nhất trong đời thường, sống bằng một tình yêu cao cả những việc làm nhỏ bé nhất hàng ngày, đó chính là bí quyết để nên thánh vậy.
Suy Niệm 3: Không có thứ thanh niên đó nơi chúng tôi
Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” (Lc. 4, 21-22)
Giờ Thiên Chúa đã điểm cho Đức Kitô xuất hiện. Ngài vừa chuẩn bị sứ mệnh trong một cuộc tình lâu dài và kham khổ trong hoang địa. Ngài định thi hành sứ vụ công khai bằng cuộc thăm viếng ngôi làng nhỏ bé nơi sinh trưởng của Ngài là Na-gia-rét. Ngài vào hội đường lúc giờ kinh phụng vụ và lên tiếng giải thích bài sách tiên tri I-sai-a: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, cho kẻ bị tù đầy được tự do và cho người mù được thấy ánh sáng, giải phóng cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”
Đức Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh” những người đồng hương ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài, họ chưa hiểu Ngài. Ngài nói với họ: Tôi, Người đang nói với ông bà anh chị em là chàng thanh niên của ông bà và anh chị em đều biết rõ tôi, tôi là Người Chúa đã truyền đi thực hiện những điều lạ lùng như tiên tri I-sai-a đã nói.
Nhưng bây giờ tôi không còn là chàng thanh niên đó nữa nên các ông bà anh chị em không chấp nhận tôi, không nghe tôi, không muốn có tôi. “Tôi bảo thật: không có một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Quá khứ đã chứng tỏ hùng hồn cho điều đó. Bao nhiêu ngôn sứ như Ê-li-a và E-li-sê đã không thể làm điều gì lạ ở nơi quê mình và các ông bà anh chị em tiếp tục theo lề thói xưa nên đã khinh thường tôi. Tôi chỉ là con ông Giu-se. Tôi không thể thông thái hơn các ông bà. Không có gã thanh niên nào nơi các ông bà, giám yêu sách đòi làm ngôn sứ cho các ông bà. Đó có phải là trò đùa không.
Đó là thứ dỡn mặt quá trớn, cần phải trừ khử đi! Quả thực, “Họ đã phẫn nộ phải đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi làng, khéo lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi”. Vì giờ rao giảng của Ngài đã tới, giờ chết của Ngài chưa điểm.
Chúng ta cũng có những ngôn sứ của chúng ta. Những gã thanh niên, thanh nữ này... Họ đang mang sứ điệp của Đức Kitô đến mọi nơi. Họ âm thầm, hiền lành và khiêm nhường trong lòng! nhưng lại không có nơi chúng ta sao?
Chúng ta đối xử với họ thế nào?
GF
Suy Niệm 4: LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO (Lc 4, 16-30)
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu trở về quê hương và Ngài được mời lên để đọc Sách Thánh. Đoạn sách mà Đức Giêsu công bố hôm nay được lấy từ sách Tiên tri Isaia nói về ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những người nghèo. Đọc xong, Ngài tuyên bố: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
Thấy vậy, mọi người trong Hội Đường hy vọng Đức Giêsu sẽ ưu ái đặc biệt với họ. Tuy nhiên, điều mà họ mong muốn lại không được Đức Giêsu đáp ứng. Thay vào đó, Đức Giêsu muốn cho họ hiểu rằng: ơn gọi, sứ mạng của Ngài là đến với muôn dân, và đối tượng số một là những người nghèo. Nghèo về tinh thần, nghèo về vật chất, những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng... chứ không chỉ dành cho một số người ưu tuyển hoặc đặc quyền thân quen...!
Khi bị Đức Giêsu lật ngược ván cờ, họ sinh ra lòng căm nghét, vì thế, dân chúng đã trục xuất Đức Giêsu ra khỏi Hội Đường.
Khi suy niệm tới đây, hẳn chúng ta xầm xì về những hành vi phũ phàng của người Dothái với Đức Giêsu! Nhưng nếu hồi tâm một chút, hẳn chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa.
Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta mang trong mình tâm thức: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Và như một hệ lụy, nhiều người đã vất vả, khó khăn khi phải đối diện với sự chọn lựa theo tinh thần của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quý trọng quê hương, gia đình. Vì quê hương là nơi “chôn nhau cắt rốn”, là nơi cung cấp cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp thủa ban đầu. Gia đình là nơi chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên thành người...
Tuy nhiên, quê hương chỉ là nơi cưu mang chúng ta một thời. Gia đình là chỗ ta đi về và thể hiện tình nghĩa. Còn khi chúng ta đã trưởng thành, Chúa mời gọi chúng ta hãy đi và phải vươn xa tầm nhìn để mở rộng trái tim, để ôm ấp những người bé mọn, ốm đau, bị áp bức, bất công...
Cần phải vượt ra khỏi những kỳ thị vùng miền, giai cấp địa vị để đến với muôn dân, mọi nơi.
Được như thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu và trở thành người mang Tin Mừng của Ngài đến cho người nghèo...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi bất cứ nơi đâu Chúa cần chúng con hiện diện. Xin cũng ban cho chúng con trái tim của Chúa, để chúng con vượt qua mọi ranh giới, ngõ hầu đến được với những người đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Bụt Nhà Không Thiêng
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
01/09 Nhắc lên – Hạ xuống
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Chúa Nhật 22 Thường Niên năm C.
"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Lời Chúa: Lc 14, 1. 7-14
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, nhằm một ngày Sabbat Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời, chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này'. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Rồi Người lại nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi ông dọn bữa ăn trưa hay tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có, kẻo đến lượt họ cũng mời ông, và như thế ông đã được trả lễ rồi. Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN – C 2019
Lời Chúa: Hc 3,19-21.30-31; Dt 12,18-19.22-24a; Lc 14,1.7-14
1. Khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ - Dã Quỳ
Chủ đề suy niệm từ Tin Mừng nói với chúng ta về một vật rất đỗi bình thường trong cuộc sống, đó là chiếc ghế. Tự bản chất, ghế chỉ để ngồi. Nhưng chỗ ngồi ở mỗi vị trí lại có giá trị khác nhau. Vì thế, người ta tranh nhau cái ghế và cố gắng bảo vệ chỗ ngồi của mình bằng mọi cách! Từ hình ảnh "Thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi", Chúa Giêsu dạy cho chúng ta bài học về lòng khiêm tốn và nhân đức khiêm nhường. Thế nhưng, giữa một thế giới mà trong đó con người đang giành nhau những vị trí cao nhất ở mọi lãnh vực, vậy bài học về đức khiêm nhường của Chúa có còn thích hợp với người thời nay nữa hay không?
Người Việt Nam chúng ta vốn quan niệm "Một miếng giữa đàng hơn một sàng xó bếp." Quan niệm ấy cho ta hai suy nghĩ vừa tích cực lẫn tiêu cực. Chiều tích cực cho thấy sự trọng vọng của mọi người dành cho người có chức quyền và địa vị ở mọi thời. Sự vinh quang này cũng có thể là động lực giúp cho nhiều người cố gắng vươn lên trong khả năng của mình cho bằng người khác. Tuy nhiên, mặt trái của sự vinh quang thế gian ấy cũng làm cho chính đương sự nhiễm thói kiêu ngạo, vênh vang tự đắc, coi trời bằng vung và chẳng xem ai ra gì! Nhiều khi chính vì địa vị của họ mà người ta rơi vào vùng trời cô đơn, chỉ những kẻ nịnh bợ được lợi mới là bạn. Và đôi khi địa vị của họ cũng trở thành tầm ngắm của nhiều người muốn giành giật. Vì vậy cuộc sống của họ phải đối diện với trăm ngàn mưu mô, cạm bẫy, khó khăn ngay cả với những kẻ thuộc cấp. Khi còn đương chức thì dương dương tự đắc, vì "Miệng nhà quan có gang có thép." Và bao người đón đưa, ca tụng.
Thế nhưng, sông có khúc, người có lúc. Khi có chức quyền thì phải sống sao để khi hết chức, hết quyền người ta vẫn còn lòng quí mến và kính trọng mình. Cách riêng đối với những người đang nắm giữ những chức vụ trong Giáo Hội, trong các đoàn thể..., chúng ta càng phải ý thức và sống cách triệt để lời Chúa căn dặn môn đệ khi thấy họ cãi nhau xem ai là người làm lớn: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." (Mc 9,35) Thực ra, chức vị và quyền hành không phải là một cái gì tội lỗi, đáng sợ hay xấu xa, vì những người khôn ngoan và có khả năng, nhiệt thành, được tập thể tín nhiệm trao phó trọng trách để phục vụ con người, công ích và phục vụ Giáo Hội. Vậy hãy nhớ lời sách Huấn Ca nhắc nhở: "Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Chúa."(Hc 3,18)
Chức quyền chỉ là luân phiên để phục vụ "Quan chỉ nhất thời, dân mới vạn đại." Thế nên, người khiêm tốn sẽ biết khả năng, chức vụ của họ chỉ là phương tiện phục vụ mọi người. Trong đời sống đức tin, chúng ta cần ý thức mình chỉ là một trong những dụng cụ Chúa dùng để phục vụ phần rỗi và ơn cứu độ nhân loại. Chúng ta như những chiếc ghế dùng để ngồi. Thiên Chúa muốn đặt ở đâu cũng không sao. Ai ngồi lên cũng không thành vấn đề. Nếu không còn được dùng nữa, chiếc ghế vui vẻ sẵn sàng nằm trong kho hoặc trở thành những thanh củi để cho đời một chút lửa, một cục than hay một nắm tro tàn.
Chúng ta cần ý thức "Khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ. Kiêu căng một chút cũng bằng thừa." Người khiêm tốn thì luôn kính trọng tha nhân, làm việc theo ý chung vì lợi ích tập thể.
Người khiêm tốn ý thức giới hạn của bản thân nên luôn nhận trách nhiệm khi công việc thất bại, còn thành quả là do tập thể.
Người khiêm tốn âm thầm làm việc mà không cần người khác khen ngợi, vì họ biết đó là bổn phận và trách nhiệm của họ.
Người khiêm tốn luôn bình tĩnh nghe sự góp ý của người khác về khuyết điểm của mình và sẵn sàng sửa đổi.
Người khiêm tốn không thích nói về mình, không đề cao mình, những gì họ đạt được là do ơn Chúa và nhờ sự trợ giúp của mọi người.
Người khiêm tốn nỗ lực và ý thức trách nhiệm trong mọi việc đã lãnh nhận, cố gắng với tất cả khả năng và phó thác thành công cùng thất bại trong bàn tay Chúa.
Người khiêm tốn luôn cư xử nhẹ nhàng, hòa nhã và tinh tế với mọi người, luôn đặt lợi ích và quyền lợi của người khác trên bản thân mình.
Người khiêm tốn biết giới hạn của mình và chỉ thực hiện những gì trong tầm tay và khả năng cho phép. Họ không đứng chỉ tay nhưng vén tay áo để cùng làm việc với mọi người.
Người khiêm tốn ý thức chức vụ và quyền hành là để phục vụ, vì thế họ sẵn sàng rút lui khi sức khỏe và khả năng giảm sút không còn đủ hay không phù hợp để phục vụ mọi người.
Người khiêm tốn là người biết nhận định chính xác về bản thân mình trong mọi sự.
Bài học khiêm tốn tuy đơn giản nhưng không phải dễ dàng học và thực hiện trong đời mình. Con công đẹp ở bộ lông, con chồn quí ở bộ da. Nhưng chúng chết hoặc bị săn lùng cũng chỉ vì những thứ mà chúng khoác trên mình! Xin cho chúng ta hôm nay thấm nhuần được bài học khiêm nhường của Chúa- Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Người đã chọn chỗ rốt hết trong thân phận làm người, nghèo hèn trong cuộc sống, đơn giản trong cách ăn nết ở, hòa nhã và thân thiện với tất cả mọi người. Cuối cùng, Người đã chấp nhận hủy mình ra không trong cái chết. Người đã chọn chỗ rốt hết trong bữa tiệc nhân sinh. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người. Qua cuộc sống, Người đã trở nên mẫu gương cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi lòng chúng con nên khiêm nhường giống như Chúa. Amen.
2. Hạ mình xuống - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mùa hè 1992, Đài Truyền hình Sài Gòn và Cần Thơ đều chiếu cuốn phim Tây Du Ký. Cuốn phim rất hấp dẫn, đến nỗi bé 5, 6 tuổi cũng nhận mình là Ngộ Không, hay Đường Tăng, Trư bát Giới, những vai trong phim.
Hấp dẫn về hình thức đầy những cảnh sắc kỳ lạ huyền ảo, với bao nhiêu lâu đài hào nhoáng rực rỡ, và những cử điệu nhảy múa, nhào lộn, bay biến, đánh nhau, biến hóa xuất quỷ nhập thần. Nhưng giá trị tuyệt diệu của cuốn phim chính là ý nghĩa sâu sắc này:
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống,
Ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại Thánh: bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ Vương, Hoàng hậu, Hoàng tử, Công chúa đều bị lột mặt lạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết, bọ cạp, heo bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về sống kiếp quái vật.
Những thứ tôn mình lên như thế thì vô kể.
Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ này, nhờ người kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh, thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
May cho Ngộ Không, Sa Tăng, Trư bát Giới, đã biết từ bỏ tật kiêu ngạo để hạ mình xuống kịp thời theo Đường Tăng, nên không bị hóa kiếp quái vật.
600-700 năm trước Đường Tăng, Đức Giêsu đã thực hiện hạ mình xuống: “Từ ngôi vị Thiên Chúa cao cả, Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người …cả trên trời, dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và mở miệng ra tuyên xưng rằng “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phil. 2, 6-11).
Hôm nay, Người nói cho mọi người thấy rõ chân lý ấy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thánh Kinh cũng chứng tỏ chân lý ấy: Satan được vào hàng ngũ các Thiên thần thiêng liêng sáng láng hưởng tôn nhan Thiên Chúa, thế mà dám đòi bằng Thiên Chúa nên bị giáng xuống làm tướng dưới đáy hỏa ngục. Nó đã cám dỗ Adam Evà theo nó bất phục tùng Thiên Chúa. Adam Evà lại bị đuổi khỏi vườn địa đàng vinh phúc, đi làm chủ bùn đất, cho biết thân phận bùn đất hèn hạ của mình, đau thương và khóc lóc phải trở về bùn đất. Con cháu lại rủ nhau xây tháp Babel chọc trời, trời đã phạt phải phân tán khắp mặt đất, lưu lạc, chia rẽ nhau và hóa ra những kẻ thù luôn luôn xâm chiếm chém giết nhau. Thiên Chúa vẫn yêu thương chọn một số những kẻ làm dân riêng, lập nước riêng, xây thủ đô Giêrusalem riêng. Nhưng Giêrusalem muốn mình lên tận trời, thì lại bị hạ xuống vực thẳm điêu tàn, không có hòn đá nào trên hòn đá nào. Sống với con thành Giêrusalem, Đức Giêsu đã khóc thương họ, họ đã giành giựt nhau chỗ ngồi trong cỗ bàn, nơi tiệc cưới. Họ đã nhảy lên chỗ nhất, nhưng họ không biết xấu hổ khi bị mời xuống chỗ cuối.
Trên thế gian này, còn bao nhiêu bọn tôn mình lên như Hitler, Stalin, Polpot đều bị loài người lên án là bọn sát nhân ghê tởm.
Chỉ những người như Giuse tổ phụ, sẵn sàng hy sinh chịu trói vứt xuống giếng, bị bán làm nô lệ, bị tù tội oan uổng, mới được tôn lên làm Thủ tướng của một nước Ai cập văn minh nhất thời đó, và đã cứu được bao nhiêu dân tộc khỏi chết đói.
Chỉ những vị Vua như Đavid, biết nhận mình là đứa chăn chiên yếu đuối, chỉ trông cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa, nên với hòn đá nhỏ bé đã ném vỡ sọ tên hổ tướng Gôliat.
Chỉ có bác thợ mộc âm thầm khiêm tốn như Giuse mới được tôn lên làm cha nuôi Đấng Cứu thế. Chỉ có những thiếu nữ nhận mình là nô tỳ như Maria, mới được Thiên Chúa tôn vinh làm mẹ Thiên Chúa.
Ngày nay trên thế giới có một bà già sống tới 87 tuổi, qua đời 05/09/1997, chẳng có chức vị gì trong xã hội, thế mà được nhiều giải thưởng cao quý nhất thế giới, như giải Nobel Hòa Bình. Bà còn được các Tổng thống, Chủ tịch lớn nhất thế giới mời bà đến viếng thăm đất nước, như Tổng bí thư Gopbachop Liên Xô, tổng thống Mỹ Regan, Trung Quốc, Ấn Độ … Đó là mẹ Têrêxa Calcutta: Một nữ tu đã hạ mình xuống hầu hạ những người cùng khổ, bệnh tật, nằm nửa sống nửa chết ở hè phố.
Gia đình chúng ta chỉ được an vui, hòa thuận, khi ông bà, bố mẹ, con cái biết hạ mình xuống, nghe nhau, bảo nhau, nhịn nhau. Hàng xóm chỉ được yên ổn, vui vẻ, tay bắt mặt mừng, khi biết khiêm tốn, tử tế, giúp đỡ nhau.
Mỗi người chúng ta chỉ được thanh thản, an vui khi biết hạ mình xuống hết lòng mến Chúa và thương yêu phục vụ mọi người, như Đức Giêsu đã nói với chủ nhà rằng: “Khi ông đãi tiệc hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì trả ơn, như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày kẻ lành sống lại”.
3. Con là không, Chúa là tất cả - Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
- Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
***
"Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14, 11). Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là "chỗ nhất" trên trời cao, nhưng lại chọn "chỗ cuối" dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là "tự nhận mình là không và Chúa là tất cả", nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khí yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta "đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại", thì chúng ta "mới thật có phúc", vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu "ăn miếng trả miếng". Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người" (Ga 3, 16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen.
4. Phú quý
Phú quý sinh lễ nghĩa, cha ông chúng ta vốn thường mỉa mai như vậy. Những kẻ có tiền bạc, có địa vị bao giờ cũng thích cho người khác biết đến mình và trọng vọng. Vì thế họ phải phô trương, phải chọn nơi, chọn chỗ để xuất hiện. Ăn nói cho có điệu bộ, có kiểu cách, đúng là trưởng giả học làm sang.
Trước kia thói ham danh vọng và địa vị còn xâm nhập vào cả nơi nhà Chúa mà đáng lý ra ở đó tất cả đều chỉ là anh em, bình đẳng. Không thiếu gì nhà thờ bên tây cũng như bên ta, có những ghế và bàn quỳ dành riêng cho các vị phú hào, chức sắc, có bảng đồng ghi tên đàng hoàng, dù họ không tới ngồi, thì cũng chẳng ai được phép thế chỗ. Cò ngày nay thì sao? Chưa hẳn là đã hết chuyện giai cấp trong xã hội cũng như trong Giáo Hội. Chúa thì dạy: Ai đứng đầu thì phải hầu thiên hạ, nhưng trong thực tế, kẻ làm đầu vẫn ở vị trí số một và kẻ hầu hạ vẫn luôn là những người thấp cổ bé miệng trong dân. Chúa Giêsu thì trái lại, tuy là Thiên Chúa nhưng Ngài đã hạ mình xuống làm người và ở giữa chúng ta như một người anh em, như một người tôi tớ. Và trong đêm bị nộp, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ, để dạy cho các ông bài học yêu thương và phục vụ. Ngài nói với các ông rằng: Vua chúa trần gian thì làm chúa thiên hạ và những ai cầm quyền thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần anh em, đừng làm như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như kẻ nhỏ nhất và kẻ làm đầu thì phải hầu thiên hạ. Bởi lẽ, giữa kẻ ngồi bàn và kẻ hầu bàn ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi bàn chứ? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu hạ.
Chính vì đầu óc kỳ thị phong kiến mà người Pharisêu xa tránh những người dân ngoại và kẻ tội lỗi. Họ không muốn bị mang tiếng là bạn bè cùng người thu thuế và tội lỗi, nên họ không bao giờ chung đụng, gần gũi. Chúa Giêsu trái lại, Ngài thường đón tiếp những hạng người này. Không phải chỉ gặp gỡ qua loa đôi ba lần, nhưng là thường xuyên, hơn thế nữa, còn đồng bàn, ăn uống với họ nhiều lần. Thói đời là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, kẻ sang chơi với người sang. Kẻ thấp hèn mà mon men tới gần người sang trọng sẽ bị chê là thấy người sang bắt quàng làm họ. Trái lại, đi lại với những người mang tiếng xấu, sẽ bị thiên hạ đồng hoá với kẻ xấu và xa lánh, chê cười. Chúa Giêsu thì không thế, Ngài nói với bọn biệt phái: Người khoẻ mạnh thì không cần thầy thuốc, chỉ những kẻ đau yếu mới cần đến má thôi. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi sám hối ăn năn. Vì yêu thương nhân loại tội lỗi và để cứu chuộc chúng ta, Ngài đã chẳng ngần ngại hy sinh danh dự, địa vị của mình. Ngài bỏ quên địa vị Thiên Chúa, nhưng không bỏ rơi con người tội lỗi. Hơn thế nữa, Ngài còn hy sinh cả tính mạng vì chúng ta: Con Người đến không để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm được những gì để giúp đỡ những kẻ tội lỗi sám hối ăn năn và quy trở về cùng Thiên Chúa.
5. Cây cao dễ gãy.
Sau một trận bão, người ta thường thây những câu cao bị đổ gãy, trái lại những cây nhỏ và thấp, thì vẫn đứng trơ trơ. Sau cuộc chính biến, những kẻ quyền cao chức trọng bị lật đổ, bị mất chức, bị tù tội còn những kẻ thấp cổ bé miệng thì trước sau vẫn vậy.
Tuy nhiên, trong bất kỳ xã hội, bất kỳ tổ chức nào cũng thế, người ta vẫn tranh nhau những chức vụ cao để hưởng nếu không phải là lợi lộc, thì ít ra cũng là danh vọng. Mâm cao cỗ đầy. Chức càng lớn thì bổng lộc càng nhiều, đi tới đâu cũng được trọng vọng. Ngày xưa thì võng cáng, lọng che còn ngày nay thì mô tô hộ tống, cảnh sát còi hụ dẹp đường, lính tráng dàn chào. Cái thói ham danh vọng này không tha cả những người lãnh đạo tôn giáo vì thế các chức sắc đạo Do Thái ngày xưa thích mặc áo thụng, may dài thẻ kinh tới đâu thì cũng chiếm hàng ghế đầu, còn ngồi ở bàn tiệc thì chọn chỗ nhất.
Vì thế Chúa Giêsu không ngần ngại lên tiếng chỉ trích họ, nhân dịp Ngài được mời dự tiệc trong nhà một ông biệt phái. Dĩ nhiên đa số khách mời đều là biệt phái cả. Họ không ưa gì Chúa Giêsu và hôm nay họ được dịp dò xét kỹ để bắt lỗi. Chẳng hạn họ để ý xem Người có rửa tay trước khi ăn hay không? Nhưng họ đâu ngờ rằng chính họ lại đang bị Chúa Giêsu dò xét, bởi vì Ngài thấy ông nào ông nấy cũng đều ham địa vị cao, thích ngồi vào chỗ danh dự nhất trong đam khách được mời.
Bài học của Ngài hôm nay là bài học khiêm nhường, có lẽ đã làm cho họ ăn mất ngon và hẳn nhiều ông đã mất mặt. Chúa Giêsu không chỉ nhận xét về khách dự tiệc mà còn thẳng thắn đưa ra một bài học khác cho chủ nhà, bởi vì ông này mở tiệc đãi khách, thực ra không hpải vì khách mà vì mình. Thực vậy, cái thói mời người có chức quyền, mời người giàu sang để khoe rằng mình quen biết lớn, giao thiệp rộng, rằng bè bạn của mình toàn là những ông to bà lớn. Cái thói này ở mọi nơi, mọi thời đều rất thịnh hành. Ông chủ nhà hôm nay cũng là một trong những kẻ thích khoe khoang. Ông ta mời Chúa Giêsu có lẽ chẳng phải vì mến phục, nhưng chỉ để khoe với bè bạn về tài giao thiệp của mình, bởi vì lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã là một nhân vật nổi tiếng.
Thế nhưng được ăn thì cũng phải được nói, nhân dịp này Chúa Giêsu nhắc nhở ông đừng tốn của cho những kẻ vốn đã giàu sang, nhưng hãy nghĩ đến những người nghèo khó, những người đang cần được ăn để sống chứ không sống để ăn như những kẻ giàu sang quyền quý.
Lòng khiêm tốn và nhân hậu chính là nền tảng của đạo đức, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài. Thói thường, thì những kẻ làm lớn thì ăn trên ngồi trốc, thống trị mọi người. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài không đến để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống như vậy. Thế nhưng lòng khiêm tốn phải đi đôi với tình bác ái, với tinh thần phục vụ. Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để dạy các ông bài học phục vụ. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ, để nâng đỡ gánh nặng của người khác, còn chúng ta thì sao?
6. Khiêm nhường
Tối hôm ấy, ông nhà văn quyết định đem vợ và 4 đứa con của mình đi xem phim tại một rạp hát. Khi họ đến thì trong rạp mới chỉ có sáu người. Và khi họ bước vào thì cả sáu người trong rạp đều đứng lên vỗ tay. Ông nhà văn mỉm cười đáp lễ. Sau khi ngồi vào chỗ, ông nhà văn bèn quay sang bà vợ và nói: - Có lẽ họ đã nhận ra anh vì hình ảnh của anh được đăng trên báo và những tác phẩm của anh được quảng cáo một cách rộng rãi.
Ngay lúc đó, có một chàng thanh niên tiến đến bắt tay ông. Ông nhà văn bèn hỏi: - Làm sao anh nhận ra tôi.
Thế nhưng, chàng thanh niên đã trả lời:
- Tôi chẳng hề biết ông là ai cả. Sở dĩ chúng tôi vỗ tay khi ông và gia đình bước vào rạp là vì viên quản lý rạp hát đã bảo: Nếu không có thêm bốn khán giả cho đủ mười người thì ông ta không thể chiếu xuất phim này.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, mời gọi chúng ta sống khiêm nhường, bởi vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Ông nhà văn là một người nổi tiếng, cho nên cũng chỉ là điều thường tình, khi ông nghĩ rằng chàng thanh niên đến bắt tay ông đã nhận ra ông là ai. Và khi hay chàng thanh niên ấy cho hay chẳng hề biết ông là ai, thì tôi không hiểu phản ứng của ông nhà văn như thế nào? Hụt hẫng và chới với, hay là chấp nhận giới hạn nhỏ bé và khiêm tốn của mình.
Vậy sự khiêm tốn là gì? Chúng ta phải sống thế nào mới được gọi là người khiêm tốn? Phải chăng khiêm tốn là tự hạ mình xuống và cho rằng mình kém cỏi? Phủ nhận những giá trị đích thực của mình hay giảm thiểu nó đi?
Tôi xin thưa: Không phải là như thế. Đức khiêm tốn mang một chiều kích sâu xa và tốt đẹp hơn thế nhiều. Khiêm tốn không phải chỉ là ít nghĩ về mình, mà hơn thế nữa còn là không nghĩ gì về mình hết. Riêng với chúng ta, những người Kitô hữu, khiêm tốn cũng có nghĩa là trở nên giống hệt như Chúa, Đấng đã từng nói: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng… Và Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vu và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Như vậy khiêm tốn có nghĩa là bắt chước sống như Chúa, không sống cho riêng mình, nhưng sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ, không phải cho bản thân và lợi ích riêng của cá nhân, mà là cho người khác và những nhu cầu của họ.
Trong mối liên hệ với Chúa cũng như với người khác, chúng ta hãy sống khiêm tốn, từ trong tư tưởng, lời nói đến việc làm, nhờ đó mà chúng ta sẽ được người khác yêu mến và hơn nữa được chính Chúa chúc phúc. Bởi vì càng khiêm tốn, thì chúng ta cùng trở nên cao cả và càng được Chúa yêu thương.
7. Bài học khiêm hạ - Huệ Minh
Từ ngàn xưa và cho đến ngày nay, người khiêm tốn đều đáng được người đời mến phục, kính yêu. Trái lại, kẻ kiêu ngạo thì đều bị chê trách. Nếu họ là người quyền cao, chức trọng thì người ta có thể sợ, nhưng không hề kính chút nào. Sách Huấn ca cho ta những lời dạy thiết thực: “Con ơi… càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa”.
Ta thấy rằng quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó”(Hc 3,18.20.28) (bài đọc thứ nhất).
Câu chuyện hôm nay chúng ta nghe được Thánh Luca kể xảy ra tại nhà một người Pharisêu, ông này đã mời Chúa Giêsu đến dùng bữa trưa sau buổi cử hành phụng vụ ngày Sabát. Hẳn nhiên với quy luật thông thường của người Do Thái, vụ khách quan trọng nhất ngồi ở giữa, người chủ ở bên cạnh, còn những người khác cứ theo tuổi mà ngồi vào. Nhưng rồi cũng vẫn có người nào đó muốn ngồi vào chỗ cao hơn của ai đó, gần với trung tâm hơn.
Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời... Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.
Thật thế, rất dễ hiểu rằng con người vẫn thường bận tâm là đạt được vinh quang và danh tiếng, là xác định địa vị, đạt được các vị trí. Mỗi người cứ muốn ở cao hơn người khác, xa hơn người khác. Những người đồng bàn với Chúa Giêsu hôm ấy đã tỏ lộ khuynh hướng này ra qua việc muốn có những chỗ nhất. Chúa Giêsu hẳn là mỉm cười khi thấy cảnh tượng ấy, Người mới nói với họ một dụ ngôn.
Khao khát danh dự và uy thế, ra sức đánh bóng hào quang của mình đều không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta không được bận tâm về cái tôi của mình, vì đó là một thứ ích kỷ. Do đó, chọn chỗ cuối không phải để được người ta ca ngợi, nhưng để trở thành lớn trước nhan Thiên Chúa.
Khao khát danh vọng, chức tước, uy quyền là chuyện không đáng kể đối với Thiên Chúa. Chúng ta không được dành sức lực và thì giờ cho việc ấy. Tất cả những việc ấy đều là bận tâm lo cho cái tối của mình, là một dạng ích kỷ. Chúng ta phải để cho Thiên Chúa phân phối các chỗ ngồi. Giá trị và tầm quan trọng của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa, chứ không tùy thuộc tham vọng cua chúng ta. Đức Maria đã hiểu như thế khi hát: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52). Tuy nhiên, thật không dễ gì có được “não trạng” của Thiên Chúa!
Qua đó, ta thấy Chúa Giêsu chỉ một quy luật ứng xử khôn khéo, đó là: khi đi dự tiệc cứ chọn chỗ thấp, không phải do khiêm tốn, nhưng do tính toán, và cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ cho khách mời. Như thế, ta sẽ khỏi xấu hổ khi bị chủ nhà mời ngồi lùi xuống mà nhường chỗ cho người đáng trọng hơn, hoặc sẽ được nở mặt nở mày khi được chủ nhà mời ngồi lên trên. Hẳn là người ta nhớ đến đoạn sách Cn 25,6-7.
Thật ra, Chúa Giêsu muốn gợi lại quy luật ứng xử khôn khéo. Chúa nói theo kiểu dụ ngôn nhằm cho chúng ta hiểu rằng cứ lo tìm chỗ và tìm danh dự thì thất bại thôi; tốt nhất cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ ngồi. Điều này đúng với loài người, theo những quy luật họ đang theo. Nhưng Chúa Giêsu nói thế để đưa chúng ta đến khẳng định: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên” (c. 11). Chúng ta không thể không nghĩ tới dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế, với câu kết tương tự (Lc 18,14). Khi các môn đệ cãi nhau về chỗ nhất, Đức Giêsu đã dạy họ về sự phục vụ (22,24-27).
Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.
Với tất cả tâm tình đó, ta được mời gọi nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có đều là do bởi lãnh nhận. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Người bởi Chúa Cha mà ra và mọi sự Người có đều do Cha ban tặng (Ga 7, 29; 16, 28; 17, 1-26). Quanh ta, cạnh ta, ta vẫn thấy có nhiều người ngông cuồng, tự cao tự đại? Giản đơn để trả lời đó là vì họ vô tình hay chủ ý quên mất sự thật này: họ được tạo thành chứ không phải tự mình mà có. Nếu giả như họ xác tín rằng ngay chính sự sống và những khả năng, chức phận, những thành quả hay công nghiệp của họ đều do bởi đã lãnh nhận, thì chắc chắn sẽ không có lý do gì để lên mặt, để tự mãn trong cao ngạo hay cuồng ngông.
Và rồi nhìn nhận rằng chúng ta chỉ thực sự là mình nếu biết sống và hoạt động theo ý Đấng tạo nên chúng ta. Chúa Kitô nhiều lần khẳng định rằng Người đến thế gian này không phải làm theo ý riêng mà để chu toàn thánh ý Chúa Cha (Ga 6, 38; 7,17). Người nhìn nhận việc thực thi thánh ý Chúa Cha chính là lẽ sống của Người. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34).
Khi đã tin nhận rằng những gì chúng ta đang là, đang đều do bởi đã lãnh nhận từ ai đó thì việc sử dụng sự sống mình, các khả năng của mình theo ý người ban tặng là lẽ tất yếu đương nhiên. Một trong những ý nghĩa của cuộc đời con người đó là sống cho tha nhân, sống vì tha nhân. “Con Người đến thế gian này không phải để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28).
Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
Sống trong xã hội ngày càng tiến bộ, con người tự nhiên muốn vượt lên khỏi những cái tầm thường hiện tại. Họ muốn tìm cho mình một địa vị nào đó để đảm bảo cho cuộc sống; họ ham muốn giàu sang, uy quyền, muốn chiếm cho mình chỗ nhất nơi công hội, tiệc tùng. Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đề ra nét đặc thù của Kitô giáo đi ngược với thái độ hám danh và cũng là bài học cho mỗi người, đó là bài học khiêm nhường.
Ta được mời gọi nhìn lên Chúa Giêsu hạ mình và xả thân một cách quảng đại với anh chị em đồng loại. Và như vậy khi ta sống tinh thần khiêm hạ, xả kỷ không phải chỉ là lời khuyên nhưng trở thành nếp sống đạo mới của chúng ta theo gương Chúa Giêsu, Ðấng đã dạy chúng ta hãy học với Người mà ở khiêm nhường và hiền lành trong lòng; và đã mở cửa Nước Trời và bàn tiệc Nước Trời chỉ dành cho những người như vậy.
8. Chỗ cuối
(Trích dẫn từ ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước.
Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi hai bên tả hữu Thầy Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội, vì ông sợ mất ghế.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy các khách dự tiệc cứ chọn ghế nhất mà ngồi.
Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế.
Chiếu trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những bạn trẻ cố kiếm được mảnh bằng và chỗ làm lương cao để ung dung hưởng thụ một chỗ đứng trong xã hội.
“Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên.”
Đức Giêsu mời ta vượt qua thói háo danh, để sống khiêm tốn.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên.
Khiêm tốn không phải là coi thường mình hay sợ người khác.
Khiêm tốn không phải là rụt rè, không dám nhận trách nhiệm.
Khiêm tốn là biết mình đã nhận tất cả từ Chúa, và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân.
Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay ghế nhất.
Chiếc ghế không phải là mục đích họ cần chiếm được, nhưng là phương tiện để phục vụ mọi người.
Chức vụ cho họ cơ hội cúi xuống thật gần với nỗi đau của nhân loại đang chờ họ giúp đỡ.
Người khiêm tốn không tự tìm vinh quang cho mình, họ hồn nhiên vô tư để Thiên Chúa tự do định liệu.
Chúng ta dễ đánh giá người khác dựa trên ghế của họ. Nhưng một người quét đường có lương tâm còn giá trị hơn một giám đốc tham ô lãng phí.
Đức Giêsu nói đến việc chọn khách để mời ăn. Ngài khuyên nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Ngài đưa chúng ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh.
Chúng ta thường thích giao du với người có thế giá, có học thức, có của cải, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, kém cỏi về mọi mặt.
Hãy ra khỏi thế giới quen thuộc của mình, để đến với những người cần chúng ta hơn.
Bao trẻ em ở vùng xa cần giáo viên. Bao bệnh viện ở các huyện cần bác sĩ.
Ước gì chúng ta hạnh phúc khi cho không tính toán vì thấy mình đã nhận được gấp trăm điều mình cho.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những hình thức khiêm nhường giả tạo? Một người khiêm nhường thực sự phải là người như thế nào?
Trong môi trường bạn sống, bạn có thấy những người bất hạnh, ít được nâng đỡ quan tâm không? Bạn đã làm gì để giúp họ?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
9. Khiêm tốn là nhận ra chính mình – Lm. An Phong
Tin Mừng Chúa Nhật 22 Thường Niên C xoay quanh đề tài Đức Giêsu phê phán những người Pharisêu về thói đạo đức giả, thích phô trương, thích được người ta trọng vọng. Hôm nay, ngay tại bàn ăn trong nhà của chính họ, Người cũng phê phán sự cao ngạo của họ bằng một dụ ngôn.
Nội dung dụ ngôn đó là: Nếu các thực khách tự chọn chỗ ngồi rốt hết, thì ông chủ sẽ mời họ lên chỗ nhất và ngược lại.
Những người Pharisêu là những người thích chọn chỗ nhất. Họ luôn tự đánh giá mình là hạnh kiểm loại "A". Trước mặt Thiên Chúa, họ kể lễ dài dòng những "thành tích" đạo đức của mình. Trước mặt người khác, họ coi thường và cho mình "quyền được hơn người khác".
Nhưng trong vương quốc của Thiên Chúa thì khác: trật tự hiện nay sẽ bị đảo lộn; những chỗ tốt nhất là do Thiên Chúa ban như một quà tặng, chứ không do con người tự chọn cho mình. Như thế, con người có là chi trước mặt Thiên Chúa. Họ cần cúi mình xuống - khiêm tốn.
Khiêm tốn đích thực là nhìn nhận thực tế những gì mình hiện có và mình là. Khiêm tốn đích thực là dám chấp nhận những gì mình có chỉ là hồng ân của Thiên Chúa. Khiêm tốn đích thực sẽ mang lại niềm vui, bình an. "Tất cả là hồng ân" (thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu).
Đức Giêsu còn đưa ra một lời khuyên nghịch lý: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối... hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù". Không thể hiểu câu này theo nghĩa đen, nhưng cần hiểu theo một nghĩa sâu xa hơn, tức là về các mối tương quan xã hội khác nhau của mỗi người chúng ta.
Thực vậy, mỗi người chúng ta thường được người khác đánh giá qua đẳng cấp xã hội, tiền tài, nghề nghiệp... Đó là "môi trường" bao chung quanh một người. Chính những "môi trường" này đã phân chia con người làm nhiều hạng, loại trong cùng một xã hội. Những người cùng một "môi trường" như nhau thường liên kết, giao du với nhau. Từ đó, sự phân cách trở nên ngày càng lớn. Chúng ta thường bị điều kiện hóa bởi "môi trường" của mình. Điều này thường ngăn cản chúng ta không mở rộng vòng tay, tấm lòng tới tất cả mọi người không phân biệt một ai. Đức Giêsu đến để phá đổ những bức tường ngăn cách giữa con người với nhau. "Không còn Do Thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do" (Gl 3,28), không còn người giàu hay người nghèo, thánh nhân hay người tội lỗi. Tất cả mọi người đều phải có chỗ trong con tim của chúng ta, nhất là những người yếu đuối, bất hạnh, tàn tật... Sự khiêm tốn đích thực là nhìn nhận mình chẳng là gì hết trước mặt Thiên Chúa, cho dù mình có thuộc về một "môi trường sống" cao hay thấp; đồng thời nhìn nhận mọi người là anh chị em cùng một Cha trên trời.
Nơi bàn tiệc Thánh Thể chúng ta tham dự mỗi ngày, không có chỗ nhất hay chỗ bét, chỗ ưu tiên, dành riêng cho tùy loại người. Tất cả đều được Thiên Chúa tiếp đón như những người con và như những người anh em của Đức Giêsu. Đời sống người kitô hữu là một bàn tiệc Thánh Thể, thánh lễ kéo dài. Thánh lễ là cuộc đời và cuộc đời là thánh lễ. Chúng ta được Thiên Chúa mời gọi tham dự bàn tiệc Thánh Thể cùng với anh chị em mình trong Đức Giêsu Kitô. Điều cần thiết là biết nhận ra chính mình trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em mình.
Phải chăng chúng ta nhận ra chính mình chẳng là gì trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng chúng ta nhìn nhận mọi người là anh chị em, cùng một Cha trên trời?
Lạy Chúa,
Chúng con hiểu rằng
tự sức mình chúng con chẳng làm được gì.
Tất cả những gì chúng con có được chỉ là hồng ân.
Xin cho chúng con khiêm tốn đủ
để cho phép người khác giúp đỡ mình,
đồng thời cũng cởi mở đủ
để người khác có thể tìm thấy nơi chúng con
một sự tương trợ khi họ cần đến.
10. Tự hạ & yêu thương phục vụ - Am Trần Bình An
Vào ngày Thứ Sáu, 28.11.2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu chuyến công du quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi máy bay hạ cánh tại phi trường Ankara-Esenboga, thay vì lên một chiếc xe limousine Mercedes bóng nhẫy, lộng lẫy, dành cho quốc khách, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại tự ý lên một chiếc xe Volkswagen Passat tầm thường, cùng ở trong đoàn xe đón ngài, khiến các quan chức Thổ bất ngờ, lúng túng không biết phải ứng xử ra sao.
Trước khi bắt đầu cuộc công du Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo Hoàng đã ngỏ ý không muốn đi xe sang trọng, nhưng chính phủ Thổ làm ngơ. Nhưng rồi họ cũng đành chấp nhận, khi ngài lên chiêc xe Volkswagen Passat không bọc sắt chống khủng bố. Khi đến thăm bảo tàng Hagia-Sofia-Museum, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng dùng xe Renault Clio rất nhỏ thay vì xe Mercedes sang trọng.
Quan sát viên cho rằng đây là một tấm gương khiêm nhường. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hiện thân của sự khiêm nhường đạm bạc, muốn bày tỏ với Tổng thống Thổ Recep Tayyip Erdogan vừa cho xây xong dinh thự tổng thống tốn đến hơn 500 triệu Euro. TT Erdogan là người chuộng sang trọng, xa xỉ, hệt như chính trị gia ở nhiều nước khác. (Duong Hong-An, Tấm Gương Khiêm Nhường)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đầy Tớ các đầy tớ của Chúa, đã dứt khoát từ chối sự ưu ái đặc biệt dành cho quốc khách, để hoà mình vào công chúng, theo như huấn dụ Tin Mừng. Trình thuật Tin Mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu được mời dự tiêc trong ngày Sabat tại nhà một thủ lãnh Biệt phái. Thấy thực khách tranh giành nhau chỗ ngồi trên, Người giảng huấn về lòng khiêm nhường và yêu thương phục vụ.
Tự hạ
- “Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa; vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhường phải tôn vinh Chúa.” (Hc 3, 18) Lời giáo huấn của kinh sư Ben Xira sau này được Đức Giêsu tóm tắt cụ thể và súc tích hơn: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người." (Mc 9, 35) Lời Chúa không chỉ dành cho những người lãnh đạo có chức có quyền, mà còn dành cho tất cả mọi người, đều cần khiêm tốn, tự hạ đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Khiêm hạ trước Thiên Chúa, vì con người chỉ là tạo vật đầy khiếm khuyết, bất toàn, hữu hạn trước Đấng Tạo Hoá chí tôn toàn năng, vĩnh cửu. Tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Chúa trao ban nhưng không, từ thân xác, tinh thần, linh hồn, sở trường, trí tuệ, tài năng.”Tất cả là hồng ân,” như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm sống, tuy đời ngài ngắn ngủi, đầy gian nan, thử thách.
Trong tâm tình khiêm hạ, biết ơn, cảm tạ, nhạc sĩ Phanxicô đã thành tâm cảm nhận phận hèn con người, chẳng biết lấy gì báo đáp Đấng Tạo Hoá: "Lạy Chúa con chỉ là tạo vật, Chúa thật (í a) sang giàu. Có gì mà dâng Chúa đâu, có gì mà dâng Chúa đâu. Vì trước mặt Chúa Thái Sơn cũng mọn hèn, dòng sông cả mấy sâu có là mấy đâu. Giữa đời con đây nhỏ bé, biết tìm chi dâng tiến Ngài." (Ns Phanxicô, Con chỉ là tạo vật)
Tiếp đến, mỗi người còn cần khiêm tốn với đời, vì biết bao học thuật, nghệ thuật, kiến thức được chắt lọc, tích luỹ từ hàng bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu công sức sáng tạo, tìm tòi, thử nghiệm, của các nhà thông thái, học giả, khoa học gia, nghệ sĩ. Chẳng qua, ai đó biết làm mới lại, đào sâu thêm, hay dựa vào đó sáng chế. “Điều đã có, rồi ra sẽ có, chuyện đã làm, rồi lại sẽ làm ra: Dưới ánh mặt trời, nào có chi mới lạ?” (Gv 1, 9)
Cuối cùng, ai cũng thật cần khiêm nhường với tha nhân, vì chẳng ai tài sắc vẹn toàn. Người được cái này, thì mất cái nọ. Cũng chẳng ai nắm tay thâu đêm. Nên luôn phải hãm mình khiêm hạ, chớ tự cao, tự đắc, tự đại, kiêu căng, ngạo mạn, kinh rẻ, xúc phạm tha nhân, kẻo bị luận phạt. “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mt 5, 22) Hơn nữa, có khiêm nhường mới có thể nhận ra cái sai, cái thiếu sót, lỗi phạm của mình, để học hỏi, canh tân, nhờ tha nhân giúp đỡ, chỉ dạy.
Tóm lại, khiêm nhường là đức tính thiết yếu của thân phận làm người, dám can đảm chấp nhận sự thật của chính mình, về những ưu khuyết điểm, về tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh, dẫu có bẽ bàng, yếu đuối, khiếm khuyết, tội lỗi, xấu xa, để biết ứng xử đúng đắn, lễ độ, cung kính, với Chúa và tha nhân. Với người Kitô hữu, càng nhất thiết phải sống thật khiêm hạ, vì Đức Giêsu “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), vì Người đã hết sức chân tình khuyên nhủ và mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hòa và khiêm nhượng, tâm hồn anh em sẽ được nghỉ yên bồi dưỡng.” (Mt 11, 29. Nếu không thì “kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó.” (Hc 3, 28)
Trước nhan Thánh Chúa, dù đã làm tròn bổn phận và trách nhiệm cũng cần luôn khiêm nhường thân thưa:“Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (Lc 17, 10) Đừng vênh váo, kiêu căng kể lể, khoe khoang công đức, như dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ:“Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 19, 10-14)
Yêu thương phục vụ
Bữa tiệc của một thủ lãnh Biệt phái hôm nay phục vụ thật chu đáo, nhằm phô trương thanh thế, bánh ít đi bánh qui lại, vừa có tiếng lẫn có miếng. Nên ngoài Đức Giêsu và các môn đệ, thực khách còn lại toàn là các bậc vị vọng, đáng kính, đồng trang lứa, đồng vai vế, chức sắc, quyền cao chức trọng, “phe ta” cả. Chẳng hề thấy bóng dáng một người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù, sứt mẻ nào dám bén mảng đến. Nếu ông chủ tiệc hào phóng, tha thiết mời cả những kẻ bần cùng khốn khó ấy vào chung vui, thì chắc hẳn “ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại." Nhưng sự khôn ngoan thế gian chẳng bao giờ dễ dàng chấp nhận như thế.
Tin Mừng luôn nghịch lý thế gian. Người thủ lãnh “không dùng quyền uy mà thống trị,” trái lại trở nên người phục vụ thân thương và chu đáo, như Đức Giêsu đã xác định công khai sứ vụ: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22, 24-27). Vì thế, Người khuyên nhủ các môn đệ, các tín hữu Kitô hãy noi gương phục vụ: “Các con hãy biết rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 1-15)
Theo Đức Giêsu, phục vụ tha nhân hoàn toàn vô vi lợi, thắm tình yêu thương, bác ái, nhân ái, không phân biệt hay loại trừ bất cứ ai. Dân Việt ta có câu: “Thương người như thể thương thân,” cũng giống với Tin Mừng: “Hãy yêu người thân cận như chính bản thân mình.” (Mt 22, 35-40) Người thân cận nghèo khổ, đói rách, bệnh hoạn cần được giúp đỡ, chính là Đức Giêsu ẩn mình: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; … (Mt 25, 35-36)
“Khi con tự hạ mình, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, mà con vui lòng chấp nhận vì Chúa, lúc ấy con khiêm nhượng thật.” (Đường Hy Vọng, số 509)
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu và soi sáng chúng con nhận biết mình là "những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù" trước Thiên Chúa chí thánh, để chúng con luôn biết khiêm hạ với Chúa và với tha nhân. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con luôn yêu thương phục vụ mọi người trong mọi nơi, mọi lúc. Amen.
11. Nhận và cho nhưng không - Am Trần Bình An
Sau khi được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức nước Pháp, chị Bênadêta đã xin vào tu viện một dòng Kín ở Nevers. Một ngày Chúa nhật kia, vào năm 1876, một nữ tu đưa cho Bênadêta xem bức ảnh người ta đã chụp chị ở hang đá Lộ Đức trước đây để xem phản ứng chị thế nào.
Đang chăm chú xem bức hình của mình, đột nhiên Bênadêta hỏi:
- Người ta dùng chổi để làm gì hả chị?
- Để quét nhà.
- Quét xong họ để chổi ở đâu?
- Trong góc nhà, sau cánh cửa, chỗ "cư trú" thường lệ của nó.
- Đời em cũng thế chị ạ. Đức Mẹ đã dùng em, rồi để em vào chỗ của em. Em sung sướng lắm, và em muốn ở yên trong chỗ đó mãi! (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng)
Hôm nay trong trình thuật Tin Mừng thánh Luca, Đức Giêsu đến dự tiệc do một thủ lãnh Pharisiêu khoản đãi. Thấy thói đời bon chen, giành nhau ghế đầu, cũng như ưa phục vụ người cao sang, quyền quý, hay bạn bè, thân hữu, Người nhắn nhủ về thái độ nhận và cho. Chị Bênadêta nhận được ơn trọng đại, đã chia sẻ cho mọi người, rồi chị âm thầm ẩn mình vào Dòng Kín, noi gương Mẹ khiêm nhường.
Nhận
Nhận là lãnh, thâu lấy cái gì người khác trao, gửi, đem đến cho mình, từ vật chất đến tinh thần. Nhận quà cáp, nhận lời mời dự tiệc, nhận lời khen, tiếng chê. Trong quan hệ gia đình, cộng đoàn hay xã hội, nhận và cho thể hiện mối quan hệ hỗ tương giữa hai người, hay giữa cá nhân với tập thể, hoặc ngược lại.
Trong bản thân, mỗi người cũng tự nhận mình như thế này, thế nọ. Thường dễ cường điệu, chủ quan, tự trang điểm, nhuận sắc cho mình hay ho, tốt lành, đẹp đẽ. Thường tánh kiêu ngạo tiềm tàng khiến người ta luôn cảm thấy tự mãn, hợm hĩnh giỏi giang, khôn ngoan, thông minh, tài năng hơn tha nhân. Nhất là bao giờ cũng cho mình có giá trị hơn người khác, vượt trội hơn, cao trọng hơn. Mình luôn luôn number one! Dĩ nhiên, cũng không thiếu kẻ lại mặc cảm tự ty, luôn cảm thấy thua kém thiên hạ.
Đức Giêsu khuyên nhủ hãy khiêm tốn ngồi vào chỗ cuối, để nhìn lại kỹ bản thân. Biết sự thật về mình, vốn là tạo vật, đầy khiếm khuyết, đầy nết hư tật xấu. Hơn nữa, còn lấm lem tội lỗi kín đáo, chắc gì tốt lành hơn ai, mà cứ còn đòi chọn chỗ nhất mà ngồi.
“Trước long nhan đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: ‘Xin mời ông lên trên!’ còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” (Cn 25: 6-7).
Quan trọng nhất là hiểu biết mình đang nhận hồng ân của Thiên Chúa ban cho mình, từ khi tượng thai cho đến khi quay về với cát bụi. “Tất cả đều là hồng ân!” như Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm thốt lên. Nhận được những ơn phúc tràn trề, chúng ta mới có điều kiện thăng tiến, phát triển thân xác cũng như tình cảm và trí tuệ, hơn người này kẻ kia. Nếu họ cũng có cơ hội như chúng ta, và khéo léo dùng vốn liếng Chúa ban cho, có khi còn kết quả, thành đạt hơn chúng ta.
Do vậy, luôn sống khiêm nhường, tự hạ, bé nhỏ, tầm thường, mới có thể nhận thức thân phận bọt bèo, mà cảm tạ tri ân, ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa, để không còn dám vênh váo, tự mãn kiêu ngạo, trước mặt thiên hạ.
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52)
Hiểu thấu thân phận vốn nghèo nàn, được nhận lãnh biết bao hồng ân, mà người đời quen coi là may mắn, mới trân trọng nhân đức khiêm nhu, tự hạ. Thánh Phanxicô Borgia thấm thía tấm gương khiêm nhường tuyệt hảo của Chúa Giêsu: "Tôi thực tâm muốn đặt mình ở dưới Giuđa, vì tôi đã thấy Ðức Giêsu ngồi dưới chân anh ấy." Nếu chúng ta chọn ngồi ở chỗ cuối, thì chỉ vì đó là chỗ ngồi quen thuộc của Ðức Giêsu.”
Cho
Nếu đã nhận nhưng không những ơn huệ Chúa ban tặng, thì cũng biết cho đi nhưng không, biết phục vụ vô tư, không vụ lợi, không đặt điều kiện với người nhận, người được phục vụ, không màng đến chuyện trả ơn báo đáp. Vì tất cả việc tốt lành, hy sinh, bác ái chưa thể nào đền đáp, sánh nổi những gì đã nhận miễn phí từ Thiên Chúa.
Cho đi âm thầm, không khoa trương, không đánh trống, khua chiêng, thổi kèn, hầu kiếm chút danh thơm phù phiếm. Vì Đức Giêsu đã dăn dặn: “Còn anh em khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,1-4).
Cho đi cả thương yêu, không đắn đo tiếc rẻ. ”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy." (Lc 6,38)
Cho đi vô tư là phục vụ tận tình. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10, 45)
Cho đi cả cuộc đời, như, noi gương Đức Giêsu chịu khổ nạn để cứu độ nhân loại, thánh Maximilianô Kolbe chết đi thay người bạn tù.“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (Ga 15,13)
“Người khiêm nhường như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp!” (Đường Hy Vọng, số 517)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn thương yêu những tâm hồn bé bỏng, đơn sơ, khiêm nhu, bác ái. Xin dạy chúng con biết khiêm nhường mà dấn thân phục vụ vô vị lợi, để được Chúa yêu nhiều hơn.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã thấu hiểu tình yêu Chúa dành cho những ai khiêm tốn, nhỏ bé khi Mẹ ca tụng: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52). Xin Mẹ luôn luốn nhắc nhở và dạy chúng con biết khiêm nhường, để được Chúa đoái thượng phận hèn tôi tớ. Amen.
12. Khiêm tốn và vô vị lợi – Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong xã hội ngày nay, người ta nói khá nhiều về sự khiêm tốn. Những khẩu hiệu như ‘Cán bộ là đầy tớ của nhân dân’ được treo dán khắp nơi, nhưng trong thực tế, nhiều khi những biểu thức đó chỉ là sáo ngữ rỗng tuếch. Ngay cả nhiều anh em linh mục vẫn bị giáo dân than phiền vì thái độ hống hách và quan quyền trong cách ứng xử. Khiêm tốn là một đức tính căn bản và cần thiết trong mọi tương giao xã hội. Hơn thế nữa, đây lại chính là cốt lõi của linh đạo Thập giá mà Chúa nói đến trong Tin Mừng hôm nay. Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi khởi nguồn từ chính khuôn mẫu nội tâm mà Đức Giêsu đã diễn bày qua cái chết của Ngài.
Linh đạo Thập giá.
Ngày 19 tháng 05 năm 1997, ông Kofi Anal Tổng Thư ký Liên hiệp quốc phát đi một bản cáo phó gửi đến toàn thế giới với nội dung ‘Một người quyền lực nhất thế giới vừa mới vĩnh viễn rời bỏ chúng ta’. Người giàu quyền lực ấy là ai? Thưa, chỉ là một phụ nữ ốm yếu già nua, đã 87 tuổi, trong tay không có một tấc sắt để tự bảo vệ mình. Người giàu quyền lực ấy đã phải ngửa tay xin từng cái giường cũ để chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh, và khi chết vẫn không có một xu dính túi. Đó chính là Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta. Con người giầu quyền lực ấy là một phụ nữ yếu ớt đã sống khiêm tốn không phải với khẩu hiệu xuông, nhưng bằng lối sống rất cụ thể. Một con người đã can đảm đi đến mọi ngõ ngách của thế giới để chung chia cuộc sống vơi những người cùng khốn. Sự khiêm tốn mà Mẹ Têrêsa đã thể hiện khởi nguồn từ chính Thập giá. Trong cầu nguyện và suy niệm, Mẹ đã nghe văng vẳng lời Chúa Giêsu vang vọng trên Thánh giá: “Ta khát”. Suốt cuộc sống, Mẹ đã cố gắng sao chép lại hình ảnh của Đức Giêsu, đấng ‘vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hang với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá’ (Phil 2,6-8).
Thập giá Đức Giêsu là khung quy chiếu căn bản về sự khiêm nhường mà các bài đọc lời Chúa hôm nay trình bày. Trong bài đọc 1, tác giả sách Huấn ca viết: “Càng tự hạ, con càng làm đẹp lòng Đức Chúa. Người được tôn vinh nơi kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng vô phương cứu chữa”. Đương nhiên, các sách Cựu Ước chưa thể đi sâu vào mầu nhiệm cứu độ thể hiện nơi cái chết của Đức Giêsu, nhưng đã từ từ vén mở cho chúng ta con đường dẫn đến hoàn thiện. Đích đến của con đường này chính là Thập giá.
Trong bài Tin mừng với dụ ngôn về một ông chủ mời các thực khách đến ăn cưới, Chúa cũng đưa ra huấn dụ về sự khiêm tốn. Ngài kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Theo bản tính tự nhiên, ai cũng muốn được mọi người nể trọng, có được địa vị cao sang trong xã hội. Chẳng ai thích trở thành ‘kẻ rốt hết’ trước mặt các bá quan văn võ. Khiêm tốn để hạ mình xuống, điều đó mọi người chúng ta ai cũng biết, nhưng không phải dễ thực hành. Thánh Tôma Aquinô đã từng nói với một chút cường điệu: “Ai cũng có cái tôi. Khi chúng ta chết rồi, 15 phút sau, cái tôi đó mới chết hẳn”.
Ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh, tác giả sách Sáng thế đã nói đến sự sa ngã của nguyên tổ. Tội đầu tiên du nhập vào trần gian chính là tội kiêu ngạo và người gây ra là Adam. Trong thư Rôma chương 5, Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy hình ảnh song đối giữa Adam cũ và Adam mới, là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã cho chúng ta được công chính hóa nhờ cái chết của Ngài. Ađam cũ gieo mầm sự chết do kiêu ngạo. Đối lại, Ađam mới làm cho chúng ta nên công chính nhờ khiêm tốn và vâng phục. Nói tóm lại, sự khiêm tốn mà Chúa Giêsu mời gọi, đặc biệt qua bài Tin Mừng hôm nay, chính là một nền linh đạo khởi phát từ mầu nhiệm Thập giá.
Tinh thần vô vị lợi.
Chúa Giêsu nói dụ ngôn hôm nay trong khung cảnh một bữa ăn. Một người Pharisiêu mời Ngài đến nhà dự tiệc. Đương nhiên, hiện diện trong bữa tiệc hôm đó còn có nhiều vị khách quý khác, có thể có những nhân vật ‘tai to mặt lớn’ trong xã hội thời bấy giờ. Người ta thường xếp chỗ ngồi theo thứ bậc. Đó là điều rất thường tình và ở đâu cũng thế. Giáo xứ có tiệc mừng, đương nhiên Đức Cha sẽ được ngồi vào chỗ trọng vọng nhất, rồi đến các Cha, các viên chức, rồi mới đến ‘quần chúng nhân dân’. Điều này không có gì đáng nói. Nhưng nhân cơ hội, Chúa dạy chúng ta bài học về sự khiêm tốn, hãy chịu khó ngồi vào chỗ rốt hết để được mời lên trên. Chúng ta không cần bàn đến những nghi tiết xã hội hay những tập tục theo phong hóa địa phương và những chuyện đó không quan trọng lắm. Song, tinh thần khiêm tốn biết hạ mình xuống mới là nội dung mà Chúa nhắm đến để khuyến mời. Tinh thần khiêm tốn này đi đôi với một tấm lòng vô vị lợi. Đây là điều rất thực tế mà chúng ta cần nghiền gẫm để đem ra thực hành.
Trong xã hội hiện nay, người ta vẫn thường áp dụng nguyên tắc ‘Có đi có lại mới toại lòng nhau’ hoặc ‘Ông đưa cái giò bà thò chai rượu’. Người ta thường hay nói: “Ở trên đời này, chẳng ai cho không một cái gì”. Không phải đây chỉ là lề thói xã hội, nhưng ngay cả trong Giáo hội, người ta vẫn hay thực hành theo lối suy nghĩ ấy. Đám cưới con gái tôi, ông đi phong bì 500 ngàn, mai mốt đến đám cưới con gái ông, tôi cũng phải ‘lại quả’ 500, không nhiều hơn cũng chẳng ít hơn. Đó là sự sòng phẳng theo lề thói xã hội. Ngay các Cha vẫn hay ứng xử như vậy. Ngày lễ bổn mạng giáo xứ tôi, Cha đến đồng tế, khi nào đến lễ bổn mạng giáo xứ của Cha tôi cũng sẽ ‘phải’ đến để đáp lễ hay để ‘trả nợ’. Còn Cha không đến, thì tôi, tôi cũng sẽ không đến. Ở một mức độ nào đó chúng ta thấy có vẻ hợp lý, nhưng trong trật tự nước trời thì không phải vậy. Trong trật tự mới này, Chúa có vẻ như thách đố chúng ta. “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Điều Chúa thách đố xem ra có vẻ hơi khác thường và ‘dở hơi’. Nhưng đây lại chính là sự dở hơi thánh thiện phát nguyên từ Thập giá mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn sâu vào. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã cho đi tất cả, không so đo tính toán, không mong được đáp đền. Đó chính là một ‘Tình cho không biếu không’ cách tuyệt đối, một tình yêu vô vị lợi mà chúng ta phải nghiền ngẫm, phải đào sâu và phải cố gắng đem ra thực hành.
Kết luận:
Sự khiêm tốn nội tâm và tấm lòng quảng đại trao ban vô điều kiện là linh đạo Thập giá của tất cả mọi người chúng ta, từ các anh em linh mục, tu sĩ đến giáo dân. Trong lá thư thứ nhất, Thánh Phêrô tông đồ đã dạy: “Anh em hãy trang điểm bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho những ai khiêm nhường (1P 5,5). Cũng vậy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Anh em hãy học với tôi, vì tôi có sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Học nơi ngôi trường này, chúng ta phải cần cù, phải siêng năng, phải học mãi, phải học cho đến suốt đời và chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp.
13. Thứ nhất khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khiêm nhường là một đức tính đáng quý, cần phát huy của mỗi con người. Khiêm nhường sẽ giúp con người thành công một cách vững chắc nhất. Chẳng thế mà trong lịch sử nhân loại đã không có ít bậc danh nhân vì chán ghét cảnh tranh chấp quan trường mà cáo quan về ở ẩn. Họ luôn giữ cho lòng mình trong sáng, tinh thần khiêm tốn, thanh cao. Thực tế, khiêm nhường là đặc điểm chung của các nhà lãnh đạo tuyệt vời, các vị cao sang đều mến chuộng đức khiêm nhường. Người ăn ở khiêm nhường chẳng những được người đời kính trọng mà cả Thiên Chúa cũng yêu thích kẻ khiêm nhường. Lời Chúa trong sách Huấn Ca dạy : "Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa" (Hc 3, 19-21. 30-31).
Hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học quan trọng là ở khiêm nhường. Người mời gọi chúng ta vượt qua thói háo danh để sống tự hạ và khiêm nhường. Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường. Khiêm nhường không có nghĩa là tự coi mình không có giá trị gì, không phải là khinh rể bản thân, hay thụ động, không dám nhận trách nhiệm. Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Người khiêm nhường là người chấp nhận sự thật, nhận biết thân phận thụ tạo của mình, nhận mình là mình, có sao có vậy, những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa. Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng. Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, có nhiều giới hạn, cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý...
Giữa một thế giới tự cao tự đại, kiêu ngạo, giả hình, háo danh, đề cao quyền lực và lợi nhuận, say mê thống trị và chiếm đoạt, bè phái và chia rẽ, thái độ công kích, đối đầu vẫn thường bị nhầm lẫn là sức mạnh thì người khiêm nhường không được đánh giá cao; bởi người ta đánh đồng khiêm nhường với yếu đuối.
Bằng dụ ngôn khách được mời tới dự tiệc cưới, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy khiêm nhường dành chỗ nhất, chỗ trọng cho người khác : "Đừng tìm kiếm chỗ nhất ". Chúa biết chúng ta thường thích chỗ nhất ở nơi công cộng, trong nhà cũng như ngoài phố, nơi hội họp cũng như bàn ăn… Người biết ý định của chúng ta, nên Người khuyên chúng ta : "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất" (Lc 14,8).
Chỗ nhất là chỗ quan trọng nhất. Ta chọn ngồi chỗ nhất là vì ta thấy mình quan trọng, xứng đáng được hưởng vinh dự đó... Tiếc thay, chỗ nhất chỉ có một chứ không có nhiều, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình. Những cuộc tranh giành như thế vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia... Ở đâu có hai người trở lên là có đụng chạm, chỉ vì có một chỗ nhất. Vì thế Chúa Giêsu khuyên bảo ta: "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14,11). Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên. Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, tuy có giá trị đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý và bền vững. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, còn ai tự hạ thì rồi được tôn.
Vì muốn chọn chỗ nhất, nên ngươi ta thường thích giao du với người có thế giá, có học, có của, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế mà xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, vì kém cỏi về mọi mặt. Chúa Giêsu cũng nhắn nhủ ta trong việc chọn khách để mời ăn, nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Người đưa ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh, giảm bớt sự kiêu căng, nâng cao đức khiêm nhường.
Khiêm nhường sẽ giúp cho bản thân mình nhận ra rằng còn điều gì thiếu sót mà mình phải hoàn thiện, học hỏi được từ người khác nhiều điều mà mình không có. Kẻ ăn ở khiêm nhường sẽ khắc phục được rất nhiều khuyết điểm, và hoàn thiện được bản thân. Khiêm nhường luôn đi liền với sự hòa nhã, hòa đồng với mọi người, vì tinh thần không ngừng cố gắng học hỏi. Còn kẻ tự mãn thì luôn thấy người khác là thấp hơn mình, không đáng học hỏi. Bởi vậy đức khiêm nhường vô cùng quan trọng, giúp cho mỗi con người chúng ta có thể thấy được rằng không có điều gì là đủ, là thừa. Càng khiêm nhường, chúng ta càng học được nhiều điều.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết ăn ở khiêm nhường để xứng đáng được Chúa yêu thương. Amen.
14. Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Nhằm một ngày sabbat”: xem ra chi tiết quan trọng này hé mở ra chân trời của Vương Quốc, nơi ấy Đức Giêsu chuẩn bị bữa tiệc dành cho chúng ta là những người được mời. Đây không phải là bữa tiệc bình thường, vì được diễn ra “trên núi Sion, là thành trì của Thiên Chúa hằng sống là Giêrusalem trên trời”, có sự hiện diện của “muôn ngày thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời” (Bài đọc 2). Là nơi chúng ta có quyền lợi ở đấy. Đó là điều Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.
Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn ám chỉ chỗ nhất trong bữa tiệc. Một vấn đề thương gây tranh luận trong các trường học Do thái thời Ngài. Thực ra, chủ nhà không có qui định chỗ ngồi cho các vị khác, nên mỗi người phải chọn lấy cho mình một chỗ sao phù hợp với địa vị của mình so với thực khách khác. Có thể có nhiều khách sang trọng hơn ta đến vào giây phút cuối, lúc ấy, cần phải thận trọng nhường chỗ cho những thượng khác đó. Họ có thể được mời vào chỗ vinh dự hơn, khi mà Chủ nhà ra dấu hiệu trong bữa ăn, vẫn còn nhiều chỗ trống, cũng có thế sớm muộn người ấy phải nhường chỗ cho người quyền chức đến vào giờ áp chót.
Lời khuyên của Đức Giêsu không có gì là cách mạng, vì sách Châm ngôn đã từng dạy: “Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: "Xin mời ông lên trên!" còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng. Điều mắt con nhìn thấy” (Cn 25, 6-7). Thoáng nhìn, người ta có thể nghĩ, đơn giản chỉ là cách ứng xử thận trọng trong cuộc sống, nhưng quả thật, không dễ chịu chút nào khi thấy mình bị hạ xuống trước mặt mọi người. Hoặc là lịch sự so với các thực khách khác, vì họ xứng đáng vào chỗ nhất trong đám tiệc. Hoặc là chịu đựng có tính toán, hơi chút kiêu căng: tôi chọn chỗ dốt hết, với nụ cười trên môi thể hiện sự khiêm nhường, nhưng ẩn tàng hy vọng được mời bước qua trước mặt mọi người để lên ngồi chỗ nhất...
Đây không phải điều mà Đức Giêsu mong đợi chúng ta. Khi nói về Nước Trời; đôi lúc Ngài cũng thêm vào “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, người hạ bệ không ai khác ngoài Thiên Chúa, Ngài hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo là “người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18, 9), khi “sự thiện không có ở trong người ấy” (x. Rm 7, 18). Họ “tự cao tự đại, nên chẳng thấy tội mình mà chê ghét” (Tv 36, 3). Như người pharisiêu trong dụ ngôn, ông tự phụ khoe khoang trước mặt Thiên Chúa và người đời: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì con không như những người khác” (Lc 18, 11). Ông ngửa mặt lên trời và xét đoán nghiêm khắc về tha nhân.
Trái lại, người khiêm nhường, trước Mạc khải tình thương của Thiên Chúa, họ ý thức về thân phận bụi đất của mình, nên “khiêm nhường”. Như người thu thuế (Lc 18, 13), hay như vịnh gia, than vãn: “Xin rủ lòng thương con, lạy Chúa: con kêu con gọi Chúa suốt ngày. Lạy Chúa, xin làm cho con được vui thoả, vì con nâng tâm hồn lên tới Chúa. Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng, giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin” (Tv 85, 3.5). Ý thức về thân phận tội lỗi của mình trước nhan Chúa, tin tưởng nài van và xưng thú tội lỗi cùng Ngài, là những điều căn bản của sự khiêm nhường.
“Những kẻ khiêm nhường” thực sự mới có thể nói lời “tạ ơn” đối với Thiên Chúa (Bài đọc 1) vì vinh quang từ đâu đến để chúng ta có thể “tạ ơn” Đấng Tối Cao, nếu không phải đến từ Thiên Chúa? Chúng ta đón nhận vinh quang ấy thế nào nếu không phải là nhận lãnh Tin Mừng với lòng thống hối ăn năn? Vì thế “ý tưởng của người khôn ngoan là lắng tai nghe” (Ibid.), họ nghe tiếng Chúa gọi, và “hướng về Đức Giêsu, trung gian của Giao ước mới” (Bài đọc 2), để đón nhận ơn cứu độ tự nơi Người.
Thật ý nghĩa trong kính Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi, vì Người đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ” (Lc 1, 46-48). Đức Maria “đầy ơn phúc”, vì Mẹ đã khiêm nhường tự hạ trước Đấng đổ tràn ơn phúc xuống cho Mẹ: “Ai tự hạ sẽ được tôn lên”. Triết gia Nietzsche trách Kitô giáo là tôn của những người yếu thế; thấp cổ bé họng; khi tán dương kẻ khiêm nhường ở dưới đất trong khi mong đợi tiến về trời cao. Một quan niệm về khiêm nhường như vậy thực sự mà nói quá thụ động với đòi hỏi của Tin Mừng. Tuy Đức Giêsu chịu đựng những điều lăng nhục trong cuộc Thương khó, nhưng Ngài đã chọn lựa con đường này có suy nghĩ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Ph 2, 6-8), vì Ngài muốn “qui tu con cái Thiên Chúa tản mát khắp nơi về một mối”. Đức Giêsu hoàn toàn tự nguyện hạ mình xuống, để nâng chúng ta lên: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.” (Ga 17, 24). Sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Con biểu lộ đức ái cáo cả, Người ấp ủ trong lòng ơn cứu rỗi các linh hồn và tôn vinh Thiên Chúa Cha trong họ. Khiêm nhường thật để duy trì hạnh phúc phục vụ anh em, “lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (x. Ph 2, 3). Đối với người yêu mến, thì phục vụ vô vị lợi là phần thưởng của họ: “Khi anh dọn tiệc mời khách, thì hãy mời những người nghèo; và anh sẽ hạnh phúc, vì họ không có gì để trả lại anh.” Anh có thể có bác ái trong sự khiêm nhường, vì người khiêm nhường không qui chiếu về mình nhưng làm phúc vô vị lợi đối với tha nhân trong tình yêu. Thế nên, Tình Yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa là khiêm nhường hoàn hảo nhất.
Lạy Chúa, xin đẩy xa tính ích kỷ, kiêu ngạo xa con, dẫn con đi trên đường chân lý là khiêm nhường, để con coi người khác trọng hơn mình, và tìm thấy niềm vui khi phục vụ người khác. Xin đừng để sự tự cao, tự đại làm con thỏa mãn; nhưng ban cho con ơn nhận ra Chúa luôn khiêm nhường, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, là Thiên Chúa toàng năng, trao ban chúng con tình yêu và sự sống. Amen.
15. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Nếu cuộc đời là một bữa tiệc, hẳn có nhiều thực khách đã chọn chỗ nhất mà ngồi.
Tôi chọn ngồi chỗ nhất vì tôi thấy mình quan trọng, tôi xứng đáng được hưởng vinh dự đó...
Tiếc thay, không có nhiều chỗ nhất trong bữa tiệc cuộc đời, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình.
Những cuộc tranh giành như thế đâu phải là điều xa lạ. Chúng vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia... Nơi nào có hai người ở với nhau là có thể có đụng chạm, vì chỉ có một chỗ nhất.
Giữa một thế giới tự cao tự đại, rồi xâu xé nhau, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống tự khiêm, tự hạ.
Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường.
Khiêm nhường không phải là khinh rẻ bản thân, cũng không phải là thụ động, không dám nhận trách nhiệm, trách nhiệm làm người ở đời và làm con Thiên Chúa.
Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Abraham là một mẫu gương khiêm nhường. Ông ý thức mình chỉ là tro bụi (Kn 18,27), nhưng ông đã dám mạnh dạn mặc cả với Đức Chúa về số người công chính, đủ để cứu thành Sôđôma.
Giêrêmia đã từ chối làm ngôn sứ, lấy cớ mình còn trẻ người non dạ (Gr 1,6). Nhưng khi ông dám nhận trách nhiệm Chúa trao, thì ông trở thành khiêm tốn và can đảm.
Nhiều người định nghĩa khiêm nhường là chấp nhận sự thật. Nhưng chấp nhận sự thật là điều khó biết bao, vì sự thật đòi tôi xét lại cách sống.
Khiêm nhường là nhận biết thân phận thụ tạo của mình: những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa.
Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng.
Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, tôi có nhiều giới hạn, tôi cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý... Tha nhân ấy không phải chỉ là người trên tôi, mà còn có thể là người kém tôi hay chẳng ưa tôi.
Nơi lời chỉ trích, tôi gặp được khá nhiều sự thật.
Nếu tôi khiêm hạ trước người khác, tôi sẽ thấy được nhiều ưu điểm bất ngờ của họ. Những ưu điểm này không phải là mối đe dọa cho tôi nhưng là quà tặng làm tôi thêm phong phú.
“Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.”Càng biết, chúng ta càng khiêm nhường thẳm sâu.
Thánh Phanxicô Borgia viết: “Tôi thực tâm muốn đặt mình ở dưới Giuđa, vì tôi đã thấy Đức Giêsu ngồi dưới chân anh ấy.”
Nếu chúng ta chọn ngồi ở chỗ cuối, thì chỉ vì đó là chỗ ngồi quen thuộc của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đối với bạn, thế nào là một người kiêu ngạo? Bạn nhận ra người đó qua những cử chỉ bên ngoài và thái độ bên trong nào?
Theo ý bạn, người khiêm nhường thực sự thi có những nét nào? Làm sao để tập được đức khiêm nhường trước Thiên Chúa và tha nhân?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
16. Những bàn tiệc – G. Nguyễn Cao Luật, OP
Từ bàn tiệc trần gian
Ðức Giêsu được mời đi dự một bữa tiệc. Tại đó, Người đưa mắt quan sát những sự việc đang xảy ra: những người hầu bàn chạy đi chạy lại, các quan khách trò chuyện trao đỗi, mời chào nhau, người này chọn chỗ nọ, người khác tìm chỗ thuận tiện cho mình. Không có gì thoát khỏi tầm quan sát của Ðức Giêsu. Trong một bữa tiệc như thế, tính cách và tâm trạng của con người được bộc lộ một cách rõ ràng. Trước mắt Ðức Giêsu, tất cả như tạo nên một bức biếm hoạ với cả những nét đáng yêu lẫn đáng ghét. Tất cả như một trò ngu xuẩn, một chuyện ngớ ngẩn.
Nhưng không phải chỉ có thế. Nếu Ðức Giêsu chỉ đến dự tiệc và đứng quan sát thì Người cũng giống như mọi người, hay vượt lên trên một chút mà thôi. Trái lại, Nggười đến với tư cách là Ðấng thiên sai đến tham dự bữa tiệc trần gian để mở ra một bữa tiệc khác, rộng lớn hơn, sang trọng hơn và đích thực hơn. Ðó là bàn tiệc Nước Trời. Người không mất giờ để nghĩ hay nói xấu bất cứ ai, Người có mặt trong bữa tiệc, cũng như trong trần gian này với mục đích khác.
Trước mắt Ðức Giêsu, bữa tiệc hôm nay là một thế giới thu nhỏ, trong đó con người sống, làm việc. Ðó là khuôn mặt của nhân loại với những tranh giành, những mưu toan, những niềm vui và nỗi buổn. Bữa tiệc không phải chỉ là ăn uống, đó là một nghi lễ có tính cách xã hội, trong đó có những nghi thức, có lễ nghi. Bữa tiệc cho thấy khuôn mặt của xã hội với những quy tắc, những giá trị của nó. Như thế, có thể nói rằng, bữa tiệc là một thứ "cơ cấu" được tỗ chức, được quy định cách rõ ràng. Kẻ nào muốn đụng chạm, muốn thay đỗi những nghi thức ấy, quả là liều lĩnh.
Vậy mà Ðức Giêsu muốn thay đỗi tất cả cái "cơ cấu" đó, bởi vì Người muốn hướng xã hội đến một tầm nhìn khác, cao hơn, đúng đắn hơn. Người đã đến trần gian trong thân phận của người tôi tớ, người phục vụ, và Người muốn cho nhân loại thấy đó chính là con đường đúng đắn nhất, con đường dẫn tới Nước Trời. Người đã nhiều lần cho thấy người ta phải sống với nhau trong một tinh thần mới, khác với những điều trước đây, đó là tinh thần khiêm tốn và yêu thương. Do đó, từ một bữa tiệc trần gian, Người đã bày tỏ tinh thần của Nước Trời, Người đã đưa ra một cách ứng xử khác với những thói quen xưa nay.
Còn có bàn tiệc khác
Trong mối quan tâm đến con người và trong tinh thần hiệp thông với Chúa Cha, Ðức Giêsu coi bữa tiệc hôm nay như một hình ảnh của Nước Trời. Nhưng để bữa tiệc trần gian này trở thành dấu chỉ đích thực cho vương quốc Thiên Chúa, cần phải có hai điều kiện:
- Trước hết: "Khi anh được mời đi dự tiệc... thì hãy vào ngổi chỗ cuối." Ðây là cách thế hoạt động của Chúa Cha và cũng là của Ðức Giêsu. Thiên Chúa đã không bắt con người phải hầu hạ, nhưng đã sai Con của Người đến để phục vụ. Con Thiên Chúa đã đến trần gian không phải để áp đặt, nhưng là để bày tỏ Nước Thiên Chúa. Thay vì đến xét xử trần gian, Con Thiên Chúa đã hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc. Trong suốt quãng đời sống trên trần thế, Ðức Giêsu luôn sống như một người nghèo. Người đã chia sẻ thân phận của những người bị loại bỏ, bị đẩy ra bên lề xã hội. Không ít lần Tin Mừng đã thuật lại mối quan hệ của Ðức Giêsu với những người, mà trước mắt con người thời xưa cũng như thời nay, được gọi là những kẻ tội lỗi. Ngay cả những người bị xã hội lãng quên vì bệnh tật, vì hoàn cảnh, Ðức Giêsu cũng đến bên họ để nâng đỡ, để chữa lành. Người đã không từ chối bất cứ ai đến với Người, và cũng chẳng từ chối bất cứ ai cần đến Người.
Bởi đó, chẳng lạ lùng gì khi Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã sống đến tột cùng của ý tưởng phục vụ, để rổi sau đó, còn đi xa hơn nữa qua việc chịu treo trên cây thập giá.
Chính ở chỗ rốt cùng ấy, Ðức Giêsu đã thông cảm, đã chia sẻ trọn vẹn với tất cả những gì là yếu đuối, là khỗ đau, ngoại trừ tội lỗi của con người. Và từ chỗ rốt cùng ấy, Người đưa con người lên đỉnh cao tuyệt vời, đỉnh cao của những người được chọn, những người được tham gia vào đời sống thần linh. Chính ở chỗ rốt cùng của bàn tiệc trần gian, Ðức Giêsu đưa con người vào dự bữa tiệc Thiên Quốc, trong đó mọi người đều được no thoả.
Phải nói thêm rằng, lời khuyên của Ðức Giêsu, tuy nhắm đến Nước Trời, nhưng cũng cho thấy một cách ứng xử mới trong xã hội; không tranh giành, không kiêu căng, nhưng khiêm tốn... Có lẽ đây cũng là điều cần phải có trong xã hội, nhưng không vì thế mà áp dụng theo nghĩa đen, gây khó khăn cho người khác.
- Thứ nữa, Ðức Giêsu còn đi xa hơn; Người đặt vấn đề về chuyện mời khách: "Khi đãi tiệc... hãy mời những người không có gì đáp lễ." Tại sao vậy?
Ðây cũng là cách thức hành động của Chúa Cha và của Ðức Giêsu. Thiên Chúa mời tất cả nhân loại, dù họ có yếu đau tật bệnh, dù họ có thế nào chăng nữa, đến dự tiệc do Người khoản đãi. Mời mà không đòi hỏi gì, mời cách nhưng không.
Thiên Chúa mong muốn tất cả mọi người đều được cứu độ, đều được quy tụ trong Nước Trời. Tin Mừng được loan báo cho hết mọi người, và mọi người đều có thể đón nhận không cần có một ưu tiên, một đặc quyền nào. Ai cũng được, miễn là họ đón nhận lời mời và sẵn sàng đáp trả.
Như vậy, cái vòng luẩn quẩn của xã hội thông thường bị phá đổ hoàn toàn, người ta không còn đối xử với nhau theo kiểu "hòn đất ném đi, hòn chì ném lại", nay tôi mời anh, mai anh mời tôi, nhưng đặt trên tương giao mới là tình yêu, là kính trọng. Sự thay đỗi này thật lớn lao: bởi vì mời dự tiệc không chỉ có nghĩa là phân phát lương thực cho những người khốn cùng, nhưng còn là công nhận, còn thăng tiến phẩm giá của họ.
Ðây chính là điều làm cho Nước Thiên Chúa có được chiều kích lớn rộng bởi vì chẳng có giới hạn nào cả. Bất cứ ai cũng được mời tham dự và được mời cách nhưng không. Người được mời tức là được Thiên Chúa công nhận có quyền tham dự vào vương quốc của Người. Ðó là hồng ân vô thường của Thiên Chúa: Người muốn đưa họ vượt qua những yếu đuối, những lầm lỗi của mình để bước vào đời sống mới. Và dự tiệc cũng có nghĩa là được công nhận, được đổng bàn với Thiên Chúa. Thật là điều cao quý.
Thánh lễ, bàn tiệc của Thiên Chúa
Cho đến ngày nay, thánh lễ của Giáo Hội vẫn tôn trọng hai điều kiện này. Thánh lễ là bàn tiệc do Thiên Chúa khoản đãi và mọi người đều có quyền tham dự, bất kể tuỗi tác, màu da, trình độ văn hoá. Ðức Giêsu đã chịu chết để cứu độ mọi người, và hy lễ đó vẫn được dâng lên để quy tụ về một mối những con người ở các thời đại khác nhau. Thánh lễ là một sự hạ mình của Thiên Chúa để đưa con người lên, là một hiến lễ dưới hình thức một bữa ăn mở rộng cho tất cả. Thánh lễ không còn là bữa tiệc trần gian, nhưng cũng chưa phải là bàn tiệc thiên quốc. Ðây mới chỉ là khai mào, là bước khởi đầu. Tuy thế, ai từ chối tham dự vào bàn tiệc này cũng là từ khước lời mời của Thiên Chúa và như vậy, khó có thể được tham dự vào bàn tiệc vĩnh cửu.
Mỗi ngày Chúa nhật, tín hữu chúng ta đến nhà thờ để tham dự thánh lễ là sống lại hy lễ của Ðức Ki-tô. Bàn tiệc này không chỉ đóng khung trong số những người quen biết, những bạn hữu, nhưng phải mở rộng cho mọi người. Ðiều này đòi chúng ta phải khiêm tốn, phải nhẫn nại: người giàu kẻ nghèo đều bình đẳng trước Thiên Chúa, cùng cử hành hy lễ của Ðức Ki-tô, cùng đón nhận lương thực như nhau là Mình và Máu Người. Những người được mời có thể từ chối, nhưng phần chúng ta, chúng ta không được quyền không mời họ. Ngày xưa, vào thời gian đầu, Thánh Thể được lưu trữ trong Nhà Tạm là để dành cho các anh chị em vắng mặt.
Như vậy, ngay từ hôm nay, Thiên Chúa đã mở tiệc Thánh Thể. Người mời mọi người đến tham dự mỗi ngày, và sau này để tham dự vào bàn tiệc vĩnh cửu. Trong bàn tiệc của Thiên Chúa, mọi người đều có chỗ, không còn kể chỗ đầu hay chỗ cuối, nhưng tất cả đều được no thoả.
* * *
Lạy Chúa,
xin ngự đến trong con,
để chỉ còn là Chúa,
chứ không phải con nữa.
Ước chi con được nên trong sáng
nhờ sự hiện diện và tình yêu của Chúa,
và con trở thành chứng nhân.
Xin thứ tha
biết bao tính toán, bao ngại ngần, bao lười biếng
và khước từ yêu thương.
Xin giúp con
biết đem mọi khả năng
làm tất cả những gì Chúa muốn,
nhờ biết sử dụng mọi điều Chúa ban,
mọi điều Chúa làm trong con.
Xin cho con luôn biết cảm tạ
vì bao ân sủng và thương mến Chúa dành cho.
(theo Claude)
17. Khiêm tốn – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
1) Nhân một bữa tiệc
Chúa Giêsu được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa Giêsu, người Do thái chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hêrôđê. Có nhóm cách mạng chống đế quốc La-mã. Có nhóm Essenien khắc kỷ. Có nhóm Saduce tư tế. Nhóm Pharisêu gồm các tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm này tự cho là mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thày dạy của dân, nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế thủ lãnh của nhóm Pharisêu phải là người có thế lực rất lớn.
Được mời dự bữa tiệc hôm nay, Chúa Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn tỏ mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pharisêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông giúp cho một việc gì.
Vì ai cũng muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên cỗ nhất thiếu chỗ. Có những bậc vị vọng đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Chúa Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót.
Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Chúa Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
2) Chúa Giêsu đã dạy một chân lý trong đời sống xã hội.
Nhân hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy ta bài học khiêm tốn.
Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.
Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến. Sách Trang tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa. Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
Vì thế Chúa Giêsu đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật xấu hổ.
3) Nhưng nhắm đến thực tại Nước Trời
Lời Chúa Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời. Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.
Hãy nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Chúa Trời cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khiêm tốn phục vụ như Chúa đã làm gương. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự phải như thế nào?
2) Bạn dễ quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn thường quan tâm đến những người khốn khổ, bị bỏ rơi?
3) Bạn đã bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa?
4) Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?
18. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Khuyến khích sống khiêm hạ
"Xin ông hãy nhường chỗ" (Lc 14, 9)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ba khuynh hướng xấu lớn nhất của con người là "danh, lợi và thú". Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta về khuynh hướng hám danh, nói cách khác là tính kiêu căng.
Chúng ta hãy chăm chú nghe Lời Chúa dạy bảo và hãy ngoan ngoãn sống theo giáo huấn của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đều mang tính kiêu căng, mỗi người thể hiện một cách.
Vì ham danh vọng, chúng ta đã làm nhiều điều đáng trách
Chúng ta đối xử đặc biệt tốt đối với những người có địa vị, và khinh miệt những kẻ thấp hèn.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 3, 17-18. 20. 28-29)
Đoạn sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:
Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu
Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn
Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
2. Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
3. Tin Mừng (Lc 14, 1. 7-14)
Khung cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì "hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên".
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: bài học phục vụ vô vị lợi. Chúa Giêsu lấy thí dụ bằng việc mời khách dự tiệc:
"Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui": ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ "người nghèo". Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5, 8; Lv 21, 18).
"Họ không có gì đáp lễ": người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời ("ông sẽ được đáp lễ": thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
4. Bài đọc II (Dt 12, 18-19. 22-24a) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư Do Thái tiếp tục khích lệ các kitô hữu gốc do thái: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hai bài học ngược đời
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
a/ Khi được mời dự tiệc:
Chúa Giêsu thấy người Do Thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó danh dự hơn (tiếng "chủ tịch" nghĩa là làm chủ chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy "chỗ ngồi" là danh dự.
Những người Do Thái tự chọn chỗ danh dự nghĩa là tự tô vẽ danh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị hố và xấu hổ.
- Chú ý câu cuối "Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống": Động từ "Bị hạ xuống" ở thể thụ động, một kiếu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ danh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Danh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Abel/Cain Giacóp/Êsau Giuse/Các anh Đavít/các anh Đức Maria v. v)
b/ Khi đứng ra đãi tiệc:
Người Do Thái làm theo óc tính toán. Cái lợi là được người ta đền đáp
Chúa Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp, và như thế chắc chắn trọng hậu hơn.
* 2. Con là không, Chúa là tất cả (Lc 14,1. 7-14)
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
- Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
***
"Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14, 11). Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là "chỗ nhất" trên trời cao, nhưng lại chọn "chỗ cuối" dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là "tự nhận mình là không và Chúa là tất cả", nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khí yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta "đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại", thì chúng ta "mới thật có phúc", vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu "ăn miếng trả miếng". Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người" (Ga 3, 16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Những bậc thang xã hội
Tổ chức xã hội nào cũng có những bậc thang cao thấp: trong cơ quan, trong trường học, trong hội đoàn v. v. Chủ tịch hay Giám đốc là cao nhất, kế đến là Phó, rồi Thư ký, quản lý v. v.
Ngay trong Giáo Hội cũng thế: có một số người luôn được ngồi ghế danh dự, luôn có quyền phát biểu trước... trong khi nhiều tín hữu khác chấp nhận thân phận thấp cổ bé miệng của mình.
Lời Chúa Giêsu hôm nay phải khiến chúng ta đặt lại vấn đề: "Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và những kẻ hàng đầu sẽ hạ xuống chót". Làm thế nào để thực hành lời Chúa mà không khiến cộng đoàn bị xáo trộn và cũng không phải thay thế một kiểu chủ nghĩa hình thức này bằng một chủ nghĩa hình thức khác?
Sau đây là một số hoàn cảnh chúng ta cần suy nghĩ:
Cách chọn người đại diện cho những thành phần tín hữu.
Những hình thức ưu tiên trong cộng đoàn.
Cách đối xử với người nghèo, người ít học và cả người "tội lỗi" v. v.
* 4. Đức tin bị vỡ mộng
Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu Do Thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại... Những tín hữu gốc Do Thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v. v.
Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé.
5. Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc: "Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà!" Người chủ nhà nhanh trí đáp: "Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi". Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy 2 đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
- Những cục vàng kia để làm gì thế?
Thánh Phêrô giải thích:
- Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh Phêrô nói tiếp:
- Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
- Sao vậy?
- Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải thích:
- Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toàn sẽ được lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng ra một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
- Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:
- Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
- Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: "Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả". Thánh Phêrô ôn tồn đáp:
- Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
- Tin vui gì?
- Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
- Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.
- Nghĩa là anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, lý tưởng người Kitô hữu cần đạt được trong cuộc sống trần gian là mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu hơn. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Chúa Giêsu nói: / Anh em hãy học với tôi / vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn noi gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu, Vị Mục tử nhân hậu.
2. Con người vốn có rất nhiều tham vọng: / muốn được giàu sang / đam mê quyền lực / thích được địa vị cao trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / nhận thấy được tính mau qua của mọi thực tại trần gian.
3. Chúa ghét kẻ kiêu căng và thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu hiểu được chân lý này / để cố gắng khiêm tốn và hiền lành trong cung cách xử sự của mình.
4. Đức bác ái buộc người tín hữu phải tôn trọng nhân phẩm / và chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái như Chúa đã dạy.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi chúng con hãy nên trọn lành như Cha trên trời, mà một trong những phương thế hữu hiệu giúp người Kitô hữu đạt được mục tiêu này chính là sống theo Lời Chúa dạy trong Tin mừng. Xin cho chúng con ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Kinh Lạy Cha nhắc chúng ta nhớ rằng mọi người chúng ta là anh em với nhau do cùng một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy chúng ta hãy đối xử với nhau một cách quảng đại, thật tình chứ đừng tính toán thiệt hơn.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là thói kiêu ngạo, hám danh, vụ lợi... Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an..."
VII. Giải tán
Xin Chúa giúp anh chị em trong tuần này biết sống khiêm tốn và quảng đại, vì "ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên", và nếu chúng ta giúp đỡ những người không có khả năng đáp trả thì chính Thiên Chúa sẽ thay mặt họ đáp trả bội hậu cho chúng ta.
19. Khôn ngoan hay lịch duyệt trước mặt Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Mới đọc đoạn Tin Mừng Lu-ca hôm nay, tôi có cảm tưởng Đức Giêsu quả là một nhà mô phạm đang say sưa giảng dạy một bài học về cách xử thế, điều mà các loại sách ‘học làm người’, bắt đầu từ cuốn ‘Giáo Khoa Thư’ mà tôi đã học từ tấm bé, vẫn thường dạy. Thế nhưng, điều tôi phải xác tín là: đây đích thực là một bài Tin Mừng mà nội dung Đức Giêsu đang đề cập tới là xác định mối tương quan mỗi người chúng ta cần có đối với Thiên Chúa là Cha; phải chăng bài học đó mới chính là điều mà Đức Kitô Giêsu đã phải cất công xuống thế làm người để có thể dạy dỗ loài người chúng ta?
Hình ảnh bàn tiệc hay được Đức Giêsu dùng để chỉ Nước Trời hay Nước Thiên Chúa; bàn tiệc này được bày biện sao cho mọi người có thể tham dự, từ những kẻ được mời (là dân Do Thái), cho đến bàn dân thiên hạ: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc”. Nếu bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước đã cho chúng ta thấy chỉ những người đi qua được cửa hẹp của lòng khiêm cung mới được vào dự tiệc, thì bài Tin Mừng tuần này cũng đề cập tới điều tương tự: trong bàn tiệc đó, chỗ cao nhất sẽ dành cho ai nhận mình là kẻ khiêm hạ nhất.
Ngoài nghi vấn: ai sẽ được cứu rỗi, ta cũng thường nghe thấy nhiều người ưu tư về chỗ của họ trên thiên đàng. Để giải đáp vấn nạn sau này, câu trả lời hợp lý và lô-gích nhất sẽ là: phải làm nhiều việc lành phúc đức để có công trước mặt Chúa; ai càng giầu công nghiệp thì trên thiên đàng chỗ càng cao. Điều này từ lâu đã từng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhiều người công giáo trung thành giữ đạo, đọc kinh tối sớm, ăn chay hãm mình, tập tành các nhân đức… và làm nhiều việc thiện. Họ mong thu tích cho được thật nhiều công nghiệp, hầu chiếm được chỗ cao chỗ trọng trên thiên đàng mai ngày.
Tôi không biết tư tưởng đó đúng đến đâu trong suy nghĩ của Đức Giêsu, nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã tuyên bố chắc nịch: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!” Như vậy Người khảng định: cho dầu lập công đức có cần thiết tới mấy đi nữa thì điều quan trọng nhất vẫn phải là sở đắc được một lòng khiêm cung chân thành: ai không có lòng khiêm tốn thì không thể vào dự bàn tiệc Nước Trời, còn nếu có vào được đi nữa thì cũng sẽ bị giáng xuống chỗ thấp nhất mà thôi; tại sao lại thế nhỉ?
Đơn giản là vì: Nước Trời tự bản chất, chính là lòng thương xót cứu độ được Thiên Chúa từ nhân ban nhưng không cho hết thảy mọi người. Tự mình con người không ai xứng đáng vào vương quốc đó, kể cả những người được thiên hạ coi là lành thánh, là hoàn hảo nhất. Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng không phải là cái gì có thể mua tậu được bằng tiền bạc cũng như bằng các việc lành việc thiện, hay bằng bất cứ nhân đức nào do con người nỗ lực luyện tập mà có. Giá cả duy nhất để có thể mua Nước Trời chính là: khiêm cung đón nhận; chính vì thế mà, ai càng hạ mình khiêm tốn đón nhận bao nhiêu, thì càng lãnh hội trọn vẹn Nước Trời bấy nhiêu.
Hình ảnh mà thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã sử dụng thật chính xác lắm thay: thiên đàng là hồng ân tình yêu của Thiên Chúa được đổ đầy vào những cái ly cái cốc là tâm hồn mỗi người; ly của ai càng sâu bao nhiêu (khiêm hạ bao nhiêu) thì càng đón nhận được nhiều bấy nhiêu. Hình ảnh này giải thích ngay cả trường hợp của Đức Maria: dù nhận được muôn điều cao cả trọng đại, nhưng Mẹ vẫn luôn xưng mình là tôi tớ thấp hèn nhất của Thiên Chúa. Nói đúng ra, Ma-ri-a được nên cao trọng vô song cũng chỉ ‘vì’ Ma-ri-a đã có lòng khiêm hạ thẳm sâu hơn hết thảy mọi người: Ma-ri-a trở nên cao trọng trước hết trong ánh sáng chói lọi của Tin Mừng mà thôi.
Đúng vậy, chỉ có lòng khiêm hạ mới làm ta hiểu và thâm nhập được vào lòng thương xót Thiên Chúa ban cho nhưng không, để rồi từ đó nẩy sinh ra thứ phục vụ bác ái thuần khiết nhất. Nhiều người vẫn nghĩ rằng: qui luật ngàn đời ‘Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại’ cũng sẽ được áp dụng cho phần thưởng trên thiên quốc, thế nhưng theo Đức Giêsu thì qui luật này không áp dụng cho Tin Mừng cứu độ. Chỉ những ai đã từng khiêm tốn đi thật sâu vào trong lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa từ nhân, người đó mới có khả năng “đãi tiệc… mà mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù… Họ không có gì đáp lễ”. Và chỉ có ai làm được như thế, tức là thực hành bác ái phục vụ phản ảnh lòng thương xót nhưng không của Thiên Chúa, thì mới xứng đáng được nghe lời khen thưởng của ông chủ từ nhân: Anh mới thật có phúc: vì anh sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Như vậy thì khiêm hạ không những là nhân đức nền tảng của đời sống thiên liêng tu đức trên đó ta xây dựng mọi nhân đức khác, như đã từng được khảng định trong tu đức học; khiêm hạ trong Tin Mừng, khi được diễn tả bằng lòng thống hối chân thành, sẽ là điều kiện và thái độ thiết yếu cho tất cả những ai đón nhận ơn cứu độ. Phải chăng đây mới đích thực là một TIN MỪNG lớn lao hơn hết cho toàn nhân loại, đặc biệt cho những con người tội lỗi và yếu đuối như chúng ta: “ơn cứu độ chỉ được ban cho những tâm hồn khiêm cung mà thôi!”
Lạy Chúa, xin hãy dạy con: ‘tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu’. Tuy nhiên để có thể làm được các điều ấy, con cần nhận được lòng thương xót vô biên mà Chúa đã ban tặng khi cứu độ con cách nhưng không, bất chấp những yếu đuối và bất xứng của con. Xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, để nhờ đó con có được lòng khiêm hạ chân thành; để rồi trong thấp hèn nhỏ bé của mình, con sẽ cất tiếng ca ngợi tình yêu thương xót của Chúa đến muôn đời. Amen.
20. Hạ mình xuống
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy có một hạng người hay bị Chúa Giêsu chiếu cố, có khi khiển trách nặng lời, đó là những người Pha-ri-sêu. Phải công bằng nhìn nhận rằng: những người Pha-ri-sêu có nhiều cái hay, nhưng đồng thời cũng có nhiều cái dở. Một trong những cái dở đó là giả hình và kiêu ngạo. Họ tự cho mình là hơn người, nên hay tìm chỗ nhất và ghế danh dự trong hội đường hoặc nơi phòng tiệc, và thích được bái chào nơi phố xá. Chúa Giêsu thấy đó là một thái độ cần sửa chữa nên Ngài đưa ra một lời khuyên: khi được mời dự tiệc, đừng ngồi vào chỗ nhất, vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Thật ra, trong Cựu Ước cũng đã có những lời khuyên tương tự: “Trước mặt vua, con chớ vênh váo và đừng ngồi chỗ của kẻ quyền cao”, “Hãy ngồi dưới hai hoặc ba chỗ, để thà người ta mời mình lên hơn là bị mời xuống”, và các kinh sư cũng thường dạy: “Tôi nâng mình lên là tôi tự hạ mình xuống, và hạ mình xuống là nâng lên”. Những lời trên đây chúng ta thấy rất gần với lời Chúa dạy hôm nay.
Như vậy, có phải Chúa Giêsu dạy chúng ta một tiểu xảo, một mánh lới không? giả vờ hạ mình xuống để được nâng lên, giả vờ ngồi chỗ cuối, chỗ dưới để được mời lên trên? Chúng ta có thể trả lời ngay: chắc chắn là không. Chúa không dạy chúng ta một tiểu xảo, bởi vì nếu Chúa có ý như vậy thì Ngài đã làm ngược lại chính chủ trương của Ngài. Ngài không dạy chúng ta hạ mình xuống với hậu ý là để được cất nhắc lên, và ai có dụng tâm hay ý đồ như vậy, thì là kẻ háo danh chứ không còn phải là người khiêm nhường nữa.
Hạ mình xuống không phải là một tiểu xảo, một mánh lới mà là chân thành nhìn nhận giá trị thực sự của mình. Nói rõ hơn, hạ mình xuống là khiêm nhường, mà khiêm nhường thực sự là biết mình, biết sự thật về ưu điểm cũng như khuyết điểm của mình. Chúng ta có biết mình thực sự không? Khó lắm, bởi vì tự ái, kiêu căng, ích kỷ dễ làm chúng ta phán đoán, suy nghĩ, nhận định lệch lạc. Chúng ta hay có khuynh hướng phóng đại: phóng đại những cái tốt, cái hay của mình và phóng đại những cái xấu, cái dở của người khác. Vì thế, hạ mình xuống là sửa lại những phóng đại lệch lạc cho đúng sự thật, đúng với chân giá trị của mình.
Cũng thế, chúng ta hay dựa vào một số khả năng, một số uy quyền của mình để cho rằng mình có quyền trên tất cả. Chúng ta thành công trong một phương diện mà cứ cho rằng mình thành công trên mọi mặt, cho rằng mình không thể thua kém ai hay không ai có thể hơn mình. Chúng ta tự đưa mình lên đến trời và tìm cách hạ anh em xuống tận bùn đen. Như thế là tự cao tự mãn, khoe mẽ cầu danh, phô trương, hợm mình, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, và nếu có ai hơn mình thì bực tức, khó chịu, rồi tìm cách bôi nhọ, hạ giá người ấy và bao lâu người ấy còn hơn mình thì chúng ta khổ tâm dằn vặt. Đó là chính mình làm khổ mình, đó là kiêu ngạo hạng nặng.
Kinh nghiệm cũng dạy: khước từ một lời khen thì rất dễ, nhưng đón nhận một tiếng chê lại rất khó; phủ nhận một ưu điểm người ta ca tụng thì rất dễ, nhưng nhìn nhận một khuyết điểm người ta phê phán lại rất khó. Giả sử có ai đó khen chúng ta một điều gì, có thể chúng ta hỉnh mũi và im lặng thích thú trong lòng. Nhưng nếu có ai chê chúng ta một điều gì, chúng ta có đủ bình tĩnh để im lặng không hay chúng ta nóng mặt, bực tức và bốp chát lại liền? rõ ràng “cái tôi” của chúng ta còn lớn lắm. Vậy khiêm nhường hạ mình xuống là chấp nhận xóa bỏ “cái tôi” của mình. “Cái tôi” có thể xuất hiện hay bộc lộ dưới nhiều hình thức: trong ước muốn thống trị người khác, trong ý chí muốn trổi vượt và tìm cách gây ấn tượng nơi người khác, cả trong những thái độ nhún nhường, có khi ngầm chứa bên trong lại là ý định tạo ảnh hưởng của mình.
Như vậy, bài học khiêm nhường Chúa Giêsu dạy luôn mang tính thời sự nóng bỏng đối với cá nhân mỗi người chúng ta. Ai dám bảo đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt đồng loại? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và cố gắng tập luyện khiêm nhường luôn mãi.
Tập luyện bằng cách nào và thế nào? Trước hết là phải cầu nguyện, bởi vì trong những giây phút thinh lặng của cầu nguyện, chúng ta sẽ suy nghĩ lại, và nhất là sẽ được ơn Chúa soi sáng để biết rõ chính mình và biết mình làm việc, hành động, đối xử vì tình yêu Chúa hay vì những lý do gì khác như ích kỷ, danh vọng, khoe khoang. Rồi trong thực tế quan hệ với nhau, chúng ta phải tránh đừng bao giờ nói về mình hay so sánh mình với người khác, cũng đừng bao giờ khinh thường, chê bai, nói hành, nói xấu người khác… Tất cả những điều đó đều là “sản phẩm” của khoe khoang và kiêu ngạo. Vì thế, khi cảm thấy bị cám dỗ so sánh mình với người khác hoặc muốn chê bai, nói hành người khác, thì chúng ta hãy làm ngược lại, là chân thành cố gắng tìm hiểu họ, thông cảm với họ, đánh giá cao những tài năng hay những thành quả của họ. Chúng ta hãy tập nói những lời khen và chia vui với những thành công của người khác.
Tóm lại, thái độ kiêu xa, cao ngạo bao giờ cũng khiến cho người khác khó chịu, xa tránh. Trái lại, ai cũng mến yêu những người khiêm nhu, từ tốn. Vậy chúng ta hãy cố gắng loại bỏ tất cả những gì là kiêu xa, cao ngạo và phát triển những gì khiêm nhu, từ tốn.
21. Chúa nâng cao kẻ khiêm nhường
"Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."
Chính Chuá Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: Chúa thích những ai có lòng khiêm nhường. Tại sao vậy? Chúng ta hãy xem khiêm nhường là gì. Theo Tự Điển Công Giáo phổ thông, khiêm nhường là không vượt quá chính mình. Đây là nhơn đức giúp yêu thương mình đúng đắn, dựa trên việc đánh giá đúng vị thế của mình trước mặt Chúa và tha nhân. Khiêm nhường trong tôn giáo là nhận biết mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Khiêm nhường trong luân lý là nhìn nhận mình bình đẳng với người khác, không tự ti, không tự hạ quá đáng nhưng biết nhận ra những ân huệ Chúa ban mà cảm tạ Chúa.
Nhiều người Biệt phái được Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng hôm nay không có lòng khiêm tốn, không biết vị trí của mình, nghĩ rằng mình là đáng kính hơn người khác. Họ vào phòng tiệc thì lo kiếm chỗ nhất. Họ không cần biết ai là quan trọng. Họ cho mình là số 1, không ai hơn họ nữa! Họ thiếu khiêm nhường nên không biết chỗ của mình. Chúa Giêsu là Thiên Chúa đến dự tiệc họ cũng không biết. Trong thực tế, họ muốn chiếm luôn chỗ của chúa. Đó cũng là một hình thức giống tội của nguyên tổ chúng ta: Muốn giành lấy vị trí của Thiên Chúa, mặc dù không có tài cán gì bao nhiêu. Họ không nhớ rằng, nếu Chúa rút ân huệ lại thì con người chỉ là cát bụi hư vô.
Hễ ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống. Vua Saolê xưa kia tự phụ, không biết vâng lời, cãi lại mệnh lệnh Chúa nên bị truất phế. Chúa nâng cao những người phận nhỏ: Chúa chọn Đavít là con út trong gia đình Giêsê. Đavit vóc người thấp bé, không có công trạng gì hơn các anh mình trong gia đình hay xã hội lúc đó. Khi Samuel tới thì Giessê giới thiệu các anh của Đavid cho Samuel. Nhưng chúa lại không chọn ai trong số đó. Chúa chọn Đavid, vóc người bé nhỏ, khiêm nhường... Đến thời viên mãn, Chúa để cho Con Chúa xuống thế làm người. Chúa chọn một thôn nữ ở làng Nazarét, một ngôi làng nhỏ bé không mấy ai biết đến. Chính con Thiên Chúa cũng sinh ra trong cảnh nghèo đói, thiếu thốn, lớn lên trong cảnh nghèo cơ cực. Chúa đã sẵn sàng trở nên bé nhỏ nghèo hèn để cho chúng ta được lớn lên, được giàu sang, được dồi dào ơn phúc. Và đến lượt chúng ta cũng hãy cứu giúp anh chị em mình. Điều này không phải dễ làm. Người ta có xu hướng nhìn lên, ít ai nhìn xuống. Người ta bỏ ra cái gì thì mong gặt hái ngay một lợi lộc tương tự. Người ta sẵn sàng tốn vài triệu để đãi người có chức tước để nhờ vả chứ ít ai tính lỗ cho mình. Vì vậy, để thực hiện lời Chúa Giêsu, quan tâm đến người nghèo thì phải có lòng kính sợ Chúa, có lòng bác ái theo gương Chúa Giêsu, nhận biết Chúa là Cha, quãng đại khiêm tốn, tôn trọng mọi người và cũng là tự trọng nữa. Vì yêu mến Chúa nên không muốn làm Chúa phải nổi giận, vì anh em thiếu tình tương thân tương ái. Những người nghèo khổ, tàn tật không ai đoái hoài tới, Chúa muốn giúp đỡ cách gián tiếp nhờ lòng bác ái của chúng ta là môn đệ Chúa và cũng là con cái Chúa, thay mặt Chúa ở trần gian. Nếu chúng ta tin có đời sau, tin Chúa là Cha chung của mọi người thì chúng ta sẵn sàng giúp đỡ người nghèo, để mai sau chính họ sẽ rước chúng ta vào thiên đàng vinh phúc.
22. Khiêm nhường phục vụ - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Là người được sinh ra và lớn lên trong cùng một quê hương, ai cũng mong cho quê hương mình được bình an, cho mọi người được no ấm. Ai cũng mong cho quê hương mỗi ngày được giầu đẹp hơn. Ai cũng khát khao niềm an hoà trên quê hương đất nước. Thế nhưng ước mơ đó không thể từ trời rơi xuống. Ước mơ đó cần phải có những con người dựng xây, biết kiến tạo bằng cả cuộc sống dấn thân vì lợi ích của dân tộc. Một đất nước muốn an vui thịnh vượng, không thể có những con người “ăn trên ngồi trốc” mọi người, càng không thể có những loại người dùng địa vị của mình để vun quén cho bản thân, để hưởng thụ đến mức độ tha hoá đạo đức, những loại người như thế chỉ làm nghèo đất nước và khổ người dân. Một đất nước muốn được yên vui đầm ấm không thể có sự chia rẽ nội bộ hay phân biệt giai cấp và chủng tộc. Cần phải có sự đoàn kết yêu thương, và biết tôn trọng quyền lợi chung của mọi người. Mỗi người bất luận là ai, già hay trẻ, khoẻ mạnh hay tật nguyện đều phải được đối xử trong tôn trọng và yêu thương. Có như vậy cuộc sống mới yên vui, tình người mới đầm ấm.
Lời Chúa hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biết sống khiêm tốn với mọi người và sống hoà hợp với nhau trong yêu thương chân thành. Người làm lớn phải biết cúi mình phục vụ. Biết khiêm tốn khi sống giữa anh em, biết lấy tình yêu để đối xử với nhau một cách vô vị lợi. Chúa đã kết án thói trưởng giả của những người biệt phái. Thích dệnh dạng trong đám tiệc. Thích ngồi”mân cao cỗ đầy”. Họ dùng quyền bính để được người khác cúi mình phục vụ. Lối sống của họ chẳng có ích cho cộng đoàn mà còn làm khổ anh em. Chúa còn dạy chúng ta khi đãi tiệc, hãy thiết đãi cả những kẻ không có khả năng mời lại chúng ta một ly rượu. Đừng mời nhau theo kiểu “có qua có lại”, mà quan yếu là tình người với nhau. Con người cao qúy hơn tiền bạc, hơn mọi thứ vật chất trần gian, thế nên, phải biết đặt tình người hơn những tính toán lợi nhuận. Đừng vì những lợi nhuận vật chất mà loại trừ anh em, nhưng hãy dùng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Đó cũng chính là cách sống mà Chúa đã thực thi trong suốt cuộc đời dương gian. Ngài đã chọn sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã sống khiêm tốn ẩn dật giữa làng quê Nagiaret. Ngài đã đến trần gian không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chính trong bữa tiệc ly, Ngài đã làm bổn phận của người tôi tớ khi cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng chẳng màng đến địa vị cao qúy của mình, chỉ biết một điều là tự hủy chính mình để trở nên tôi tớ cho mọi người. Chúa cũng không chọn một đối tượng nào để phục vụ. Chúa cũng không loại trừ một giai cấp nào trong bàn tiệc mà chính Chúa thiết đãi. Tất cả mọi người từ đông chí tây đều được mời gọi tham dự yến tiệc mà Chúa đã dọn sẵn.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên còn đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên hai con dê qúa bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực thẳm và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã qùy mọp xuống đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng ta tiếp tục con đường của mình.
Vâng, thế giới hôm nay nếu muốn cứu mình khỏi hố diệt vong cần phải biết xây dựng tình người hơn là xây dựng những cơ sở vật chất lộng lẫy nguy nga. Thế giới hôm nay muốn an vui thịnh vượng cần phải có những con người biết quên mình phục vụ anh em. Ước gì mỗi người chúng ta luôn học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu chúng ta cùng góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.
23. Sống cho người nghèo - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa có câu: "Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập", nghĩa là khi có mùi hương thì tự nó thơm, không cần phải ra đứng ở đầu ngọn gió. Khi một người thực sự là một người tài giỏi, đạo đức, thánh thiện thì hãy để mọi người nhìn nhận chứ đừng tự mình nói ra. Và Người xưa cũng đã từng dạy: "Tự khiêm thì người ta càng phục, tự khoe thì người ta càng khinh".
Có người kể rằng: Một ngày trong năm 11 tuổi, tôi trở về nhà khóc vì chỉ được giao một việc nhỏ của chương trình Thiếu nhi tại nhà thờ, trong khi các bạn khác được phân công vai chính. Thản nhiên, mẹ tôi lấy chiếc đồng hồ của bà và đặt vào tay tôi.
- Con có thấy gì không?
- Một hộp vàng, mặt và những cây kim.
Rồi bà mở phía sau hộp và nhắc lại câu hỏi. Tôi nhìn thấy những bánh xe nhỏ và những đinh vít. Bà nói: “Chiếc đồng hồ này sẽ vô dụng nếu thiếu đi mỗi phần, ngay cả những phần con không thể nhìn thấy”.
Bài học của bà làm tôi vui sướng hơn tất cả. Tôi đã không còn mặc cảm vì mình đóng vai phụ. Tôi không còn lệ thuộc bởi vai này vai nọ mà quan yếu ở việc mình hết lòng với việc được giao.
Thế nhưng, ở đời người ta vẫn thích khoe khoang, vẫn thích phô trương công đức của mình nơi đầu đường phố chợ. Con người vẫn thích làm trung tâm điểm của mọi người. Ngay cả các linh mục, vẫn có những người thích được cất nhắc lên chức này chức nọ hay ít ra cũng ở những chỗ phố thị rộn ràng mới cân xứng tài đức của mình. Lòng tự tôn, tính tự kiêu khiến họ luôn xem trọng mình, để cao mình đến mức độ trở thành lố bịch trước anh em.
Chúa Giêsu không bao giờ muốn có những môn đệ như thế! Chúa Giêsu từng thao thức cho các môn đệ mình đừng mắc phải tính giả hình của nhóm biệt phái tự kiêu. Ngài mong muốn các môn sinh luôn khiêm tốn để dễ dàng cúi mình phục vụ bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào... Ngài mong muốn các môn sinh đừng tìm đến những nhà cao cửa rộng, những đại gia sang trọng mà bỏ rơi người nghèo hay coi khinh người nghèo. Chúa mong muốn các môn sinh sống nghèo và gần gũi hòa đồng với người nghèo. Hãy sống đối xử tốt với người nghèo dù rằng họ chẳng có gì cho lại ta, nhưng họ vẫn là hình ảnh của Chúa, là anh em của ta, thế nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Nhưng đáng tiếc, vẫn có những người muốn thể hiện đẳng cấp ưu việt của mình bằng việc đi xe sang trọng, đến những nơi sang trọng và kết giao với những người sang trọng. Họ xấu hổ, mặc cảm khi đi chung với người nghèo. Tính tự tôn khiến họ xa lánh người nghèo và gần gũi kẻ quyền thế giầu có. Họ chỉ rao giảng cho người nghèo nhưng lại không sống cho người nghèo. Thế nên, người nghèo vẫn cô đơn, vẫn lẻ loi, vẫn sống trong tủi hận lầm than...
Chúa Giêsu luôn sống nghèo và vì người nghèo. Ngài đã chọn mái nhà nghèo để cư ngụ. Ngài đã chọn công việc tầm thường để kiếm kế sinh nhai. Ngài đã sống chung với dân nghèo làng Nagiaret. Cuộc đời công khai, Ngài luôn đi cùng người nghèo và đi đến người nghèo để thi ân, để phục vụ. Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta cũng phác họa lại chân dung tình yêu Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn để sống gần gũi hòa nhập với đám đông nghèo khó. Xin đừng vì thói trưởng gia, thích xa hoa mà tự kiêu, xa lánh người nghèo luôn có ở bên. Amen.
24. Bệnh 'muốn làm lớn' – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người luôn thích làm lớn, muốn làm lớn để thỏa mãn lòng tự cao tự đại của mình. Lịch sử đã ghi lại đày dẫy những con người mang bệnh 'muốn làm lớn', muốn trở thành 'mặt trời' để kẻ khác xoay chung quanh:
1/ Vua Babyon đã từng tuyên bố: “Ta sẽ lên trời, trên các vì sao của Thiên Chúa, ta sẽ bắc ngai ta, ta sẽ ngự trên núi Tao Phùng, nơi bồng lai cực bắc. Ta sẽ lên chót vót tầng mây, ta sẽ đồng hàng với Thượng Đế” (Is 14:13-14)
2/ César, khi chưa lên ngôi hoàng đế La-mã, đã nói 1 câu trở thành phần nào kinh điển cho hậu thế: “Thà làm số 1 ở 1 làng nhỏ hẻo lánh bên xứ Gaule, còn hơn làm số 11 ở kinh đô La-mã!”. Cha ông Việt Nam xưa thì nói: “thà làm đầu chuột hơn là đuôi voi”.
3/ Và hiện nay, hàng năm trên thế giới có xuất bản cuốn “Guiness”, sách ghi các kỷ lục thế giới, chẳng hạn: người nào chạy nhanh nhất, sống lâu nhất..., nghĩa là chỉ những ai số 1 ở một lãnh vực nào đó mới được ghi tên vào cuốn Guiness này, nhiều người đã cố gắng lập những kỷ lục kỳ cục cốt chỉ để nổi danh, để thế giới biết tiếng. Ví dụ: có người đã ra sức phá 1 hơi 2 cái đàn pianô trong vòng 5 phút! Dhanajay Kurksai, người Ấn, được mệnh danh là nhà quán quân của những kỷ lục kỳ cục như sau: năm 1981, anh đứng một chân liền một mạch 35 giờ đồng hồ; năm 1981: đi giật lùi một mạch 65 cây số; năm 1982: nhảy lò cò được 10 giờ 10 phút và nói liền 1 mạch không nghỉ 15 tiếng đồng hồ; tháng 10/1987: nuốt hết 2 kg 600 thủy tinh...
Tham vọng ở trên muôn người đã đẩy nhân loại vào biết bao những thị phi đắng cay. Một ông vua tham vọng bành trướng sẽ phát động chiến tranh. Một thương gia tham vọng giầu có sẽ tìm cách loại trừ người khác. Một ca sĩ, một nghệ sĩ... muốn mình nổi trội thường nói xấu, chê bai lẫn nhau. Một người đàn ông tính gia trưởng luôn nạt nộ vợ con để được “ăn trên ngồi trốc” mọi người. Một người phụ nữ lấn quyền thường hay “mắng con chửi chó suốt ngày”...
Xem ra ở đâu còn có người đầy tham vọng quyền bính thì ở đó vẫn còn những thị phi đắng cay. Ở đâu còn có người thích trưởng giả ở đó còn đó những bất công. Ở đâu còn có người thích “ăn trên ngồi trốc” ở đó vẫn còn những người thích đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Chúa Giêsu khi đến trần gian đã không ngần ngại sống một cuộc sống nghèo nàn như bao người. Ngài đến không để phục vụ mà tìm đến mọi người để phục vụ họ trong yêu thương. Ngài không tìm chốn cung điện nguy nga để dùng tiệc mà đi đến những mảnh đời bất hạnh để chia sẻ cho họ cái bánh, con cá mộc mạc nhưng đầy tình người. Ngài đã cúi mình thẳm sâu để phục vụ như người tôi tớ rửa chân cho ông chủ. Ngài đã hy sinh kể cả tính mạng để mạng lại niềm vui hạnh phúc cho nhân gian.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.
Xin cho chúng ta biết học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu cùng nhau góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.
25. Khiêm nhường phục vụ
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Là người được sinh ra và lớn lên trong cùng một quê hương, ai cũng mong cho quê hương mình được bình an, cho mọi người được no ấm. Ai cũng mong cho quê hương mỗi ngày được giầu đẹp hơn. Ai cũng khát khao niềm an hoà trên quê hương đất nước. Thế nhưng ước mơ đó không thể từ trời rơi xuống. Ước mơ đó cần phải có những con người dựng xây, biết kiến tạo bằng cả cuộc sống dấn thân vì lợi ích của dân tộc. Một đất nước muốn an vui thịnh vượng, không thể có những con người "ăn trên ngồi trốc" mọi người, càng không thể có những loại người dùng địa vị của mình để vun quén cho bản thân, để hưởng thụ đến mức độ tha hoá đạo đức, những loại người như thế chỉ làm nghèo đất nước và khổ người dân. Một đất nước muốn được yên vui đầm ấm không thể có sự chia rẽ nội bộ hay phân biệt giai cấp và chủng tộc. Cần phải có sự đoàn kết yêu thương, và biết tôn trọng quyền lợi chung của mọi người. Mỗi người bất luận là ai, già hay trẻ, khoẻ mạnh hay tật nguyện đều phải được đối xử trong tôn trọng và yêu thương. Có như vậy cuộc sống mới yên vui, tình người mới đầm ấm.
Lời Chúa hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biết sống khiêm tốn với mọi người và sống hoà hợp với nhau trong yêu thương chân thành. Người làm lớn phải biết cúi mình phục vụ. Biết khiêm tốn khi sống giữa anh em, biết lấy tình yêu để đối xử với nhau một cách vô vị lợi. Chúa đã kết án thói trưởng giả của những người biệt phái. Thích dệnh dạng trong đám tiệc. Thích ngồi"mân cao cỗ đầy". Họ dùng quyền bính để được người khác cúi mình phục vụ. Lối sống của họ chẳng có ích cho cộng đoàn mà còn làm khổ anh em. Chúa còn dạy chúng ta khi đãi tiệc, hãy thiết đãi cả những kẻ không có khả năng mời lại chúng ta một ly rượu. Đừng mời nhau theo kiểu "có qua có lại", mà quan yếu là tình người với nhau. Con người cao qúy hơn tiền bạc, hơn mọi thứ vật chất trần gian, thế nên, phải biết đặt tình người hơn những tính toán lợi nhuận. Đừng vì những lợi nhuận vật chất mà loại trừ anh em, nhưng hãy dùng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Đó cũng chính là cách sống mà Chúa đã thực thi trong suốt cuộc đời dương gian. Ngài đã chọn sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã sống khiêm tốn ẩn dật giữa làng quê Nagiaret. Ngài đã đến trần gian không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chính trong bữa tiệc ly, Ngài đã làm bổn phận của người tôi tớ khi cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng chẳng màng đến địa vị cao qúy của mình, chỉ biết một điều là tự hủy chính mình để trở nên tôi tớ cho mọi người. Chúa cũng không chọn một đối tượng nào để phục vụ. Chúa cũng không loại trừ một giai cấp nào trong bàn tiệc mà chính Chúa thiết đãi. Tất cả mọi người từ đông chí tây đều được mời gọi tham dự yến tiệc mà Chúa đã dọn sẵn.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên còn đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên hai con dê qúa bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực thẳm và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã qùy mọp xuống đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng ta tiếp tục con đường của mình.
Vâng, thế giới hôm nay nếu muốn cứu mình khỏi hố diệt vong cần phải biết xây dựng tình người hơn là xây dựng những cơ sở vật chất lộng lẫy nguy nga. Thế giới hôm nay muốn an vui thịnh vượng cần phải có những con người biết quên mình phục vụ anh em. Ước gì mỗi người chúng ta luôn học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu chúng ta cùng góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.
26. Kẹt! – Như Hạ, OP
Ðức khiêm nhường giúp chúng ta nhận biết mình yếu đuối và bất xứng trước nhan Thiên Chúa toàn hảo và nhân lành. Người khiêm nhường nhận thức rằng người nghèo nhất tại bàn tiệc cũng xứng đáng, có lẽ xứng đáng hơn họ, vì người nghèo gần Ðức Giêsu và sứ vụ của Người nhất (x. Fahey 1994:577, 579).
HAI THÁI ÐỘ SỐNG.
Ðức Giêsu đã đưa ra những hình ảnh thật sống động để diễn tả đức tính vô cùng cần thiết trong Nước Chúa: khiêm nhường. Nói khác, sống trong Nước Chúa cũng giống như trường hợp "anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất. Trái lại, hãy ngồi vào chỗ cuối." (Lc 14:8, 10) Ðó là thái độ của người được mời vào dự hôn lễ Con Chiên (Kh 19:7) Chỉ có thái độ đó mới thực sự làm cho người dự tiệc cưới Con Chiên được hạnh phúc. Thái độ khiêm cung là thái độ của người nghèo Giavê, người được hưỡng mối phúc đầu tiên và được mời vào chung vui trong Nước Chúa. Chỉ những người nghèo như thế mới được mời mà thôi. Trên đời, họ bị thiệt thòi đủ mặt, nhưng lại được Chúa chúc phúc: "Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới của Con Chiên!" (Kh 19:9)
Khi đón nhận được hạnh phúc đó, họ sẵn sàng lên đường. Hành trình của họ rất đơn giản. Họ chỉ cần một chiếc áo cưới là lòng khiêm cung. Áo đó rất đơn sơ. Lối phục sức và thái độ của họ không lôi kéo nổi ai, ngoài Chúa. Chính khi tìm đến chỗ cuối, họ đã biết rõ thân phận và địa vị của mình. Cuộc sống đã đẩy họ vào đường cùng. Nhưng Thiên Chúa luôn xuất hiện ở đường cùng để giải cứu những ai hết lòng tin tưởng nơi quyền năng vô biên của Người. Cách xử sự đó khác hẳn với người đời. Người đời chỉ chú trọng đến những ai ăn trên ngồi trốc và tranh giành miếng đỉnh chung. Bởi đó mới có những cảnh vinh nhục. Vinh nhục đó có khi diễn ra ngay trong bàn ăn. Người tự kiếm vinh hoa không tương xứng với mình có thể trải qua những giây phút bàng hoàng, "phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối." (Lc 14:9) Ngược lại, có những cảnh vinh thăng bất ngờ. Giá trị được nâng cao khi chủ tiệc phát hiện: "Xin mời ông bạn lên trên cho." (Lc 14:10)
Cảnh vinh nhục đó chỉ diễn ra tại một xó góc nào trong bữa tiệc, nhưng cũng trở thành một bài học khôn ngoan cho hậu thế: "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." (Lc 14:11; Ed 22:32) Sự thật vẫn là sự thật. Ðánh giá quá mức về mình nhiều lúc không phù hợp với thực tế. Thái độ khôn ngoan đòi phải kiên nhẫn chờ đợi Thiên Chúa. Tính chủ quan dễ mê hoặc lòng người. Ðức Giêsu muốn tránh cho môn đệ khỏi mắc tính chủ quan đó. Nên Người dặn dò kỹ lưỡng.
Tuy nhiên Ðức Giêsu chỉ mượn khung cảnh tiệc cưới để dạy một bài học cao siêu hơn. Thiên Chúa chính là chủ tiệc cưới Con Chiên. Tiệc cưới chính là Nước Trời. Chính Người sắp xếp mọi thứ bậc trong bữa tiệc. Con người không có quyền định đoạt cho chính mình. Bởi vậy thái độ tự tôn không thể chấp nhận được. Nếu biết mình, con người sẽ thấy ngay vị thế của mình trong bữa tiệc. Ai chẳng muốn tìm chỗ "ngon"? Nhưng chỉ có những người đánh giá mình thấp hơn những người khác, mới được vinh dự nghe lời chủ tiệc: "Xin mời ông bạn lên trên cho." (Lc 14:10) Chỗ vinh dự này không ai tự dành cho mình. Nhưng Chúa cho ai, nấy được. Không phải vì tài năng hay đức độ, con người có thể đạt đến công trạng xứng đáng hưởng vị thế đó. Nhưng con mắt Chúa để ý đến những ai hèn mọn. Chính Ðức Maria đã phải thốt lên: "Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới" (Lc 1:48) khi cảm nhận hồng ân Chúa vượt ngoài mọi dự tính. Chính vì hạ mình quá sâu thẳm, nên Mẹ đã được Chúa cất nhắc lên trên các thiên thần và loài người. Không còn vinh dự nào lớn hơn! Mẹ là người khách đã ngồi chỗ thấp nhất trong bữa tiệc. Mẹ đã hoàn toàn từ bỏ chính mình, bởi thế Mẹ đã có thể hòa mình với mọi người và có thể trải rộng tình thương trên toàn thể nhân loại. Bởi đó đã được vào dự hội vui với Chúa. Mẹ đã được mời lên cao hơn chín phẩm thiên thần!
Chính vì thế Mẹ đã trở thành gương mẫu cho những ai muốn vào dự tiệc cưới Con Chiên. Thái độ khiêm cung đã khiến Mẹ gần gũi những người khó nghèo và đau khổ. Nếu đứng vai chủ tiệc, chắc chắn Mẹ đã mời "những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù." (Lc 14:13) Họ là những người bị gạt ra ngoài xã hội chỉ vì "không có gì đáp lễ" (Lc 14:14) theo lối sống "hòn đất ném đi, hòn chì ném lại" hay "bánh ích đi, bánh qui lại" ngoài xã hội. Nhưng chính khi mời những người như thế, mới thấy tính cách vô tư và quảng đại của người chủ tiệc. Phải có một tấm lòng, một lối sống và một cái nhìn khác thường mới có thể thái độ như vậy. Một tấm lòng vô vị lợi. Một lối sống khiêm cung, hòa mình với những người nghèo khổ. Một cái nhìn vượt khỏi những tính toán trần tục và vươn cao trên những biên giới đời này. Có thế "ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại." (Lc 14:14) Chính niềm hi vọng đó đã khiến ông coi tất cả chỉ là phương tiện phục vụ con người. Càng phục vụ những người nghèo khổ, càng nắm chắc niềm hi vọng. "Vì quyền năng Ðức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường." (Hc 3:20) Trước mặt ông, con người không được đánh giá qua của cải trần thế. Chỉ có niềm tin mới có thể xác định giá trị con người mà thôi. Niềm tin đó mạc khải cho ông thấy mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và là đối tượng cứu độ của Ðức Giêsu. Ðó chính là giá trị đích thực khiến Thiên Chúa mời mọi người vào dự tiệc Nước Trời.
TÌM MỘT CHỖ TRONG TIỆC CƯỚI.
Thiên Chúa chính là chủ tiệc đích thực. Khi sai Con Chúa đến trần gian, Người muốn chuyển thiệp hồng đến từng người trong cộng đồng nhân loại. Bữa tiệc khoản đãi mọi người không phân biệt giàu nghèo, nam nữ, chủng tộc, văn hóa, tôn giáo v.v. Con Chúa đã hạ mình xuống làm người tôi tớ chuyển thiệp hồng khắp ngang cùng ngõ hẻm. Nhưng hỏi mấy người đến dự tiệc? (Mt 22:1-10) Cuối cùng chỉ có "những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù" nhập tiệc mà thôi. Vâng lời Chúa, Giáo hội đã xả thân giúp đỡ những người nghèo khổ, xấu số. Giáo hội mong đợi gì? Phải chăng mong chiêu dụ tín đồ? Thực ra, Giáo hội chỉ biết phục vụ. Nếu người ta đọc được ý nghĩa chứng từ, Giáo hội hân hoan cảm tạ Chúa. Nếu họ muốn giải thích sai chứng từ, Giáo hội cũng chỉ biết cầu nguyện và kiên nhẫn làm chứng. Muốn hay không muốn trở thành tín đồ, việc hoàn toàn tùy thuộc quyết định cá nhân.
Trước ông chủ tối cao là Thiên Chúa, chúng ta đều là "những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù" cả. Thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn cứ tưởng mình đáng chiếm chỗ tốt hơn, ngon hơn những người khác. Nhất là khi có chức có quyền, chúng ta lại càng tưởng mình xứng đáng hơn. Nhưng thật ra "càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Ðức Chúa" (Hc 3:18) và chiếm được lòng người nữa. Chức vị không làm con người cách xa anh em đồng loại, nhưng chỉ là một phương tiện đưa mọi người "tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời." (Dt 12:22-23) Ðại hội đó phải diễn ra ngay tại thế, giữa các cộng đồng dân Chúa. Thế nhưng, nhiều cộng đồng vẫn chưa chấp nhận sự có mặt của những người anh em khác màu da, phong tục, văn hóa. Trong Ðại Hội Liên Dòng Toàn Quốc Hoa Kỳ mới đây, nữ tu Mary Mollison cho biết trong lịch sử phần đông các dòng tu tại Hoa Kỳ đã không thâu nhận các thành viên thuộc các sắc tộc khác. Ngày nay nhiều dòng "đang thực hiện tìm đường lối để xóa bỏ sự kỳ thị chủng tộc trong các cộng đoàn chúng ta." (VietCatholic 29/8/2001) Như thế, chính những người hiến trọn đời cho Tin Mừng vẫn chưa thực hiện được một đòi hỏi căn bản của Tin Mừng. Có những cấp độ mâu thuẫn ngay trong Giáo hội Hoa Kỳ. Ví dụ giáo phận cho phép thành lập các giáo xứ Việt Nam biệt lập, trong khi Hội Dòng Hoa Kỳ vẫn bắt buộc anh em Việt Nam lệ thuộc. Hi vọng chính sách toàn cầu hóa sẽ ảnh hưởng lớn tới các cộng đồng dòng tu tại đây. Vấn đề kỳ thị phải chấm dứt, Tin Mừng mới có thể rao giảng cho mọi người.
27. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Hôm nay, Đức Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa. Một sự việc bình thường trong xã hội Do Thái: người ta thường mời bạn hữu về nhà, sau buổi cầu nguyện ở Hội Đường ngày Sabbat. Người ta không chú trọng đến việc ăn uống, vì chỉ là những món ăn bình dị, nhưng là cơ hội để trao đổi và thảo luận về cuộc sống. Chúng ta cũng đã có dịp thấy Chúa Giêsu đến dùng bữa ở nhà Simon biệt phái.
Đời thường trong những cái bình dị nhất của nó vẫn là nơi Thiên Chúa hiện diện, viếng thăm và mang lại cho nó một ý nghĩa mới, một định hướng, một sức mạnh. Và người ta phải biết đón nhận những dấu chỉ của nó. Đấy chính là điều sách Đức Huấn Ca nhắc nhở.
Chả cần phải là một người thông minh, tài trí, cũng có thể thấy ở những bữa ăn ngày Sabbat ấy không có những hạng người nghèo khổ, bọn cùng đinh, bọn tội lỗi, bọn thu thuế hay đĩ điếm.. Một người Do Thái chân chính không thể hòa mình với bọn người ti tiện này. Đó là sự phân chia giai cấp hết sức rõ ràng trong xã hội Do Thái, sự phân chia mang tính "tôn giáo". Từ sự phân chia ấy, hình thành một lối suy nghĩ, một lối sống mặc nhiên, thầm kín nhưng hết sức mãnh liệt: "phải được xã hội thừa nhận địa vị ưu tuyển,thế giá đạo hạnh trước mọi người", lối sống mà Đức Giêsu luôn phải đối diện: "sống giả hình", "những kẻ được mời, chọn chỗ nhất". Cách sống và suy nghĩ ấy đã đẩy xô đại đa số những người nghèo khổ vào nỗi tủi nhục "không danh phận", trong đời thường của những bữa ăn, và cả trong kinh nguyện và thờ phượng nữa.
Xã hội chúng ta tự hào về nếp sống văn minh, nhưng vấn đề cũng không kém phần gay gắt. Cứ nhìn vào những tổ chức cưới hỏi, ma chay người ta có thể hiểu được cái não trạng giả hình ấy đã chồng chất thêm mâu thuẫn và bất ổn: có những đám cưới thuê bao cả 30 xe đời mới trong đám rước dâu chỉ để đưa rước 50 người khách mời..
Sự có mặt của Đức Giêsu trong bữa ăn hôm nay, hay ở nhà Simon biệt phái, cũng như trong mọi hiện diện khác mau chóng bộc lộ tính chất TIN MỪNG. Nếu như khi đồng bàn với những người nghèo, với bọn thu thuế và tội lỗi, Chúa Giêsu bộc lộ thái độ trân trọng, yêu thương, tha thứ, để bất kể là ai trong số họ cũng nhận ra được tấm lòng bằng hữu của Người, được giải phóng khỏi tâm trạng bị khinh miệt, bị kết án, bị loại trừ, thì ở đây Người tố giác tính chất "giả hình", "tính ưa chuộng địa vị, tìm kiếm thế giá", để đòi hỏi phải mở rộng bữa ăn cho những người nghèo.
Có một sự thật trong đời sống Đức Giêsu mà chúng ta phải làm sáng tỏ để hiểu con người và sứ điệp của Người: Không những người nhận vào ăn trong nhà những người tội lỗi, mà chính nhà của Ngài, hay những nơi Ngài cư ngụ, người ta thường thấy bọn cùng đinh tội lỗi đồng bàn với Ngài và các môn đệ, thế nên có dư luận kết án Ngài "là kẻ mê ăn uống và say sưa với bọn đàng điếm và tội lỗi". Bữa Tiệc Ly chỉ là bữa cuối cùng Ngài thết đãi họ. Bữa ăn là một sinh hoạt đời thường, nhưng bữa ăn của Đức Giêsu lại luôn mang tính LOAN BÁO TIN MỪNG. Bữa ăn giải phóng cho con người. Những gì được nói tới trong dụ ngôn hôm nay, thực chất chỉ là phản chiếu SỰ THẬT ĐỜI SỐNG của Đức Giêsu.
Qua đó chúng ta có cảm nghiệm chắc chắn là "Bữa Tiệc Nước Trời" đã hiện diện ngay giữa những bữa tiệc đời thường khi nó được mở ra cho những người nghèo khổ. Khi người nghèo được kính trọng, được yêu thương, được tha thứ, được là bạn hữu. Rõ ràng điều ấy không thể đi đôi với thái độ "ưa tìm chỗ nhất", thái độ "vinh vang trong kiếm tìm địa vị, kiếm tìm thế giá, dù là thế giá đạo đức". Thái độ "lắng nghe", thái độ "hiền lành và khiêm nhường", thái độ "bao dung và tha thứ" phải là thái độ cơ bản trong mọi "bữa ăn Nước Trời". Đây chính là sự lớn lao và kỳ diệu của Mạc Khải Giao Ước mới mà thánh Phaolô nói tới trong đoạn thư của Người. Mạc Khải về "cộng đoàn các thánh", một cộng đoàn trong đó sự bao dung, quảng đại, hiệp nhất và thứ tha trở thành nếp sống thường hằng trong mọi sinh hoạt, một cộng đoàn, ở đó, người nghèo tìm lại được nhân phẩm cao cả của mình.
28. Tôi là người khiêm tốn nhất trần gian!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Xưa lẫn nay và đến muôn đời, người khiêm tốn đều đáng được người đời mến phục, kính yêu. Trái lại, kẻ kiêu ngạo thì đều bị chê trách. Nếu họ là người quyền cao, chức trọng thì người ta có thể sợ, nhưng không hề kính chút nào. Sách Huấn ca cho ta những lời dạy thiết thực: "Con ơi... càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó"(Hc 3,18.20.28).
Bài tin mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật chuyện Chúa Giêsu nhân thấy nhiều người thích chọn chỗ nhất trong bữa tiệc nên đã lên tiếng dạy về đức khiêm nhường. Chắc hẳn Chúa Giêsu không muốn dạy chúng ta sống khiêm nhượng kiểu "ống điếu", tức là cố tình hạ mình xuống để được người ta nâng lên. Với kiểu nói ngoa ngữ như ngụ ngôn, Chúa Giêsu đã làm nổi rõ cái hậu quả rất khác biệt giữa người khiêm tốn và kẻ kiêu ngạo. Vậy thế nào là khiêm tốn đích thực đây? Không gì hơn hãy nhìn vào cuộc đời, thái độ sống của Giêsu Kitô, Đấng đã minh nhiên mời gọi hãy học cùng Người vì Người hiền lành và khiêm nhượng (x.Mt 11,28-30). Qua cuộc đời của Đấng Cứu Độ, chúng ta có thể nói rằng khiêm tốn là nhìn nhận sự thật, sống trong sự thật và làm chứng cho sự thật (x.Ga 18,37).
Sự thật thứ nhất: Nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có đều là do bởi lãnh nhận. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Người bởi Chúa Cha mà ra và mọi sự Người có đều do Cha ban tặng (x.Ga 7,29; 16,28; 17,1-26). Vì sao có nhiều người ngông cuồng, tự cao tự đại? Xin thưa rằng trên hết, trước hết là vì họ vô tình hay chủ ý quên mất sự thật này: họ được tạo thành chứ không phải tự mình mà có. Nếu giả như họ xác tín rằng ngay chính sự sống và những khả năng, chức phận, những thành quả hay công nghiệp của họ đều do bởi đã lãnh nhận, thì chắc chắn sẽ không có lý do gì để lên mặt, để tự mãn trong cao ngạo hay cuồng ngông.
Sự thật thứ hai: Nhìn nhận rằng chúng ta chỉ thực sự là mình nếu biết sống và hoạt động theo ý Đấng tạo nên chúng ta. Chúa Kitô nhiều lần khẳng định rằng Người đến thế gian này không phải làm theo ý riêng mà để chu toàn thánh ý Chúa Cha (x.Ga 6,38; 7,17). Người nhìn nhận việc thực thi thánh ý Chúa Cha chính là lẽ sống của Người. "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người"(Ga 4,34). Khi đã tin nhận rằng những gì chúng ta đang là, đang đều do bởi đã lãnh nhận từ ai đó thì việc sử dụng sự sống mình, các khả năng của mình theo ý người ban tặng là lẽ tất yếu đương nhiên. Một trong những ý nghĩa của cuộc đời con người đó là sống cho tha nhân, sống vì tha nhân. "Con Người đến thế gian này không phải để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28).
Khi truyền bảo những người dọn tiệc đãi khách thì đừng mời những người thân quen, chức cao quyền lớn, mà hãy mời những người tàn tật, đui mù, nghèo hèn.. chắc chắn Chúa Giêsu muốn dạy người đương thời và chúng ta mọi thời rằng những gì chúng ta đang có như của cải, quyền uy đều do đã lãnh nhận và phải sử dụng chúng theo thánh ý Cha trên trời, Đấng muốn chúng ta phải yêu thương nhau một cách vô vị lợi, không chút tính toán thiệt hơn. Thể hiện tình yêu với những người nghèo hèn, bé mọn là một cách thế sống tình yêu vô vị lợi cách rõ nét.
Trong một dịp tỉnh tâm, một linh mục bạn thân dí dỏm: "Thưa các cha, con đây học hành kém cỏi, khả năng thì hạn chế. Tóm lại, tài thì mọn và đức cũng kém, cái gì cũng xin thua các cha, may ra có đức khiêm tốn thì trỗi vượt tất cả. Con thành thật thú nhận mình khiêm tốn nhất trần gian". Quả thật, dù là giám mục hay linh mục, dù là tu sĩ hay giáo dân trong bậc hôn nhân, đang độc thân hay góa bụa, dù có chút địa vị hay chỉ là hạng "phó thường dân", thảy chúng ta đều vướng phải cái tội của tổ tiên đó là sự kiêu ngạo. Sự kiêu căng ở đây chủ yếu không phải là thái độ cao ngạo, hống hách cách hịch hỡm đáng ghét, nhưng chính là tình trạng xa rời sự thật. Tên cám dỗ của vườn địa đàng thưở nào đã khiến tiên tổ và cả chúng ta mọi thời quên mất sự thật là chúng ta vốn là loài thụ tạo (x.St 3,1-7). Hữu ý hay vô tình lãng quên sự thật này thì chúng ta dễ lầm tưởng rằng những gì tốt đẹp chúng ta đang là, đang có là do chính bàn tay chúng ta làm nên. Đây chính là căn nguyên của sự kiêu ngạo đáng trách và cũng đáng phạt.
Trong hỏa ngục rất có thể có những người rộng rãi bố thí cho người nghèo. Cũng rất có thể có nhiều người đã từng làm nhiều phép lạ, những người giảng dạy các chân lý cao sâu...nhưng chắc chắn sẽ không hề có bóng dáng một người sống khiêm nhu, biết nhìn nhận và sống trong sự thật. "Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm...Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!"(Lc 23,41-42). Khi biết nhìn nhận sự thật, người gian chịu treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã nhận được thành quả của sự khiêm nhu: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43).
29. Khiêm tốn là cách sống của công dân Nước Trời
Với cái nhìn của người đời, ai được ăn trên ngồi trước là người đó cao sang và quyền thế. Người cao sang và quyền thế sẽ được kẻ hầu người hạ, cơm bưng nước rót... Do đó, người ta sẽ làm tất cả hầu đạt được điều đó. Thậm chí, vì thế người ta có thể bất chấp cả. Thế nhưng, cách suy nghĩ và cách sống ấy lại không phù hợp với cách suy nghĩ và cách sống của một công dân trong nước trời.
Ngày nọ, Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc trong nhà kia. Quan sát thấy có nhiều người tranh giành nhau chỗ nhất trong tiệc cưới nên Người nhắc nhở họ: "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn " (Lc 14, 8 - 10). Cuối cùng, Chúa Giêsu khẳng định: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." (Lc 14, 11).
"Vỏ quít dày có móng tay nhọn" hay "Núi này cao còn có núi khác cao h ơn ". Cho nên, trong cuộc sống nếu chúng ta cứ mãi theo đuổi những danh vọng và quyền thế ở trần gian này có thể sẽ đến lúc chúng ta sẽ cảm thấy thất vọng tràn trề. Một người sống khiêm tốn sẽ luôn cảm thấy bình an. Bình an vì mình không phải tranh đua để tìm kiếm những thứ mau hư nát đời này.
Tuần trước, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta chọn cách sống phù hợp với Nước Trời là hãy đi con đường hẹp. Tiếp theo lời mời gọi ấy hôm nay Người mời gọi chúng ta sống khiêm tốn. Vì sống khiêm tốn là cách sống rất phù hợp với Nước Trời.
Khiêm tốn là nhìn nhận thân phận thụ tạo mỏng dòn yếu đuối để biết tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tuần qua với gương sáng của Thánh Mônica và con là thánh Augustinô, chúng ta học được cách sống thật khiêm tốn trước Chúa.
Khiêm tốn là biết sống nhường nhịn và tha thứ cho anh chị em. Nhường nhịn và tha thứ có thể sẽ làm cho ta mất một số quyền lợi ở đời này. Nhưng chúng ta xác tín rằng quyền lợi đời này rồi cũng sẽ tan biến.
Khiêm tốn trước Chúa và với anh chị em thật là thái độ sống khôn ngoan của người tín hữu. Biết sống khiêm tốn như thế thì vị thế của chúng ta trong Nước Trời sẽ có phần bảo đảm hơn.
30. Con đường khiêm nhường
(Trích dẫn từ ‘Logos C’)
Họa sỹ cũng là nhà điêu khắc thiên tài Leonardo da Vinci đã vẽ bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly trong vòng 7 năm. Đó là bức tranh vẽ Chúa Giêsu và 12 Tông đồ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị bắt và bị giết chết.
Leonardo tìm người mẫu rất công phu. Giữa hàng ngàn thanh niên, ông mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện và thanh khiết tuyệt vời làm mẫu vẽ Chúa Giêsu.
Sáu năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 11 Tông đồ, chỉ còn có Giuđa người môn đồ phản Thầy là chưa vẽ. Họa sỹ bỏ nhiều công sức để tìm một người đàn ông có khuôn mặt cực kỳ gian ác để vẽ Giuđa. Cuối cùng ông đã tìm được tên tử tội ở Rôma có khuôn mặt thích hợp để vẽ kẻ phản bội. Người tử tù này đã từng giết người và cướp của. Được phép của Hoàng đế, tên tử tội được đưa tới Milan nơi bức tranh đang vẽ dở dang.
Khi nét vẽ cuối cùng được hoàn thành, Leonardo bảo người lính gác mang người tử tù đi, nhưng bỗng nhiên hắn vùng vẫy và quỳ xuống bên người họa sỹ khóc nức nở: “Ôi, ngài Da Vinci, ngài không nhận ra tôi sao? tôi chính là người mà 7 năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Giêsu!”
Quả thật, chỉ có 7 năm thôi mà cuộc sống tội lỗi đã làm biến đổi một người có khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu trở thành người mang gương mặt xấu xa của Giuđa! Đó là sự đảo ngược kỳ lạ xảy ra ở bức tranh “Bữa Tiệc Ly”. Nhưng trong chính bữa tiệc ly có một sự đảo ngược còn kỳ lạ hơn nữa: Chúa Giêsu, “người chủ tiệc” đã trở thành “người phục vu” khi quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Phải chăng đó chính là định luật của Nước Trời: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên”. Đó cũng là bài học khiêm tốn Chúa Giêsu dạy mọi người trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay.
Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh các người biệt phái. Trước bao con mắt đang dò xét, Chúa Giêsu nhận thấy khách mời thích chọn những chỗ ngồi quan trọng trong bàn tiệc, Ngài dạy họ bài học khiêm nhường: Hãy chọn chỗ rốt hết để được mời lên chỗ cao hơn. Chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị trong xã hội. Người ta chọn vị trí quan trọng trong bàn tiệc không phải để được ăn ngon, nhưng để được vinh dự hơn. Vì thế, người ta luôn thích ngồi ở những vị trí quan trọng ở những nơi đông người để thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Nhưng Chúa đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Con đường tự hạ của Chúa Giêsu
Mặc dù là một Thiên Chúa cao cả, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình xuống đến tận cùng, mang lấy kiếp phàm nhân, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chính cuộc đời của Chúa Giêsu là bài ca của người Tôi Tớ khiêm hạ: “Ngài vốn là một Thiên Chúa, nhưng không nghĩ đến việc giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống người phàm, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Nhưng Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Phil 2, 1-9).
Chúa Giêsu đã hạ mình xuống như một người nô lệ thấp hèn để dạy cho các môn đệ một bài học của sự tự hạ. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của mình. Từ “chỗ nhất” trên trời cao, Ngài đã chọn “chỗ cuối” dưới chân con người để phục vụ con người. Đó là bài học Chúa dạy chúng ta hôm nay: “Các con hãy biết rửa chân cho nhau” (Ga 13, 1-15).
Đi theo con đường tự hạ của Chúa Giêsu.
Chúng ta được mời gọi để đi theo Chúa, đi vào con đường khiêm nhường thẳm sâu, con đường hy sinh đến tận cùng, con đường phục vụ quên mình.
Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn cho mình vị trí cuối cùng trong bữa tiệc cuộc đời để chúng ta sẽ được Thiên Chúa mời lên chỗ cao trọng trong bữa tiệc Nước Trời mai sau.
Bằng những lời khuyên nhủ khôn ngoan, bài trích sách Huấn Ca hôm nay cũng chỉ cho chúng ta thấy con đường khiêm tốn là con đường đẹp đẽ được mọi người quý chuộng và được Thiên Chúa mến yêu. Còn sự kiêu ngạo là con đường dẫn đến tai họa và diệt vong.
Con đường khiêm hạ còn là con đường phục vụ vô vị lợi. Chúa dạy khi mời khách dự tiệc hãy mời những người nghèo khó vì họ không có gì để trả lễ. Chúa muốn dạy chúng ta tinh thần phục vụ vô vị lợi, phục vụ mà không mong được đền đáp, phục vụ trong âm thầm và khiêm tốn.
Những “chiếc ghế” trong cuộc sống
Ai cũng mong tìm cho mình một “chiếc ghế” vững vàng trong cuộc đời. “Chiếc ghế” tượng trưng cho địa vị hay chức vụ trong cuộc sống xã hội. “Chiếc ghế” còn là biểu tượng của quyền lực và sự giàu có trong cuộc sống con người. Người ta sẵn sàng hãm hại nhau để tranh giành “chiếc ghế” trong xã hội. Người ta cũng sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn và mưu đồ đen tối để củng cố “chiếc ghế” của mình thêm vững chắc. Người ta cũng sẵn sàng bán rẻ lương tâm để giữ vững “chiếc ghế” của chức quyền và tham vọng.
Nhưng Chúa Giêsu đã dạy cho mọi người bài học của tinh thần khiêm nhường khi Ngài rời bỏ “chiếc ghế” của người thầy trong bữa tiệc ly để đi làm công việc của một người nô lệ. Ngài đã từ “ngai tòa” của một Thiên Chúa cao sang đến với nhân loại qua con đường nhập thể khiêm hạ để cứu chuộc con người. Hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi chúng ta đi tiếp con đường khiêm nhường ấy để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Qua con đường “tự huỷ”, Ngài đã được Thiên Chúa Cha siêu tôn trong vinh quang. Cũng vậy, qua con đường phục vụ khiêm nhường, chúng ta cũng được nâng lên trong vinh quang muôn thuở.
Trên con đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên 2 con dê quá bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực sâu và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã quỳ mọp xuống sát đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng lại có thể tiếp tục con đường của mình.
Trên những “lối mòn” của cuộc sống, nếu chúng ta biết cúi xuống để phục vụ anh em trong tinh thần khiêm tốn chính là chúng ta đang đi trên con đường đẹp nhất, con đường dẫn đến hạnh phúc muôn đời.
31. Bài học từ nước – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nước cần thiết cho sự sống muôn loài. Nước quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người, cho sự tăng trưởng của súc vật và cây cối. Không có nước, không có sự sống. Mọi sinh vật đều gồm phần lớn là nước dù sống ở đâu. Chín phần mười thể tích cơ thể con người là nước.
Khi sử dụng nước trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cho là điều tự nhiên. Nhưng thật sự, nước là của châu báu Trời ban cho quả địa cầu.
Nước từ trên nguồn cao đổ xuống, nước uốn mình theo ghềnh thác, nước lượn khúc trong những khe suối, nước chảy xuôi dòng sông, nước dồn về biển cả. Không có gì mềm mại hơn nước và cũng không có gì mạnh mẽ bằng sức nước. Nước không có độ cứng dày nên không đo lường được chiều cao, sâu, rộng, dài của nước.
Nước chảy tới đâu đem lại sự sống đến đó. Gặp ghềnh thác hay các tảng đá chắn lối, nươc vẫn len lõi chảy không gây xích mích hay hận thù với ai.Nước có thể bị vẩn đục khi chảy qua rừng rậm, ruộng đồng, nương rẫy nhưng nước có khả năng thanh tẩy trở lại thanh sạch ban đầu.
Nước là biểu tượng cho đức khiêm nhường. Nước luôn tìm chỗ thấp mà chảy xuống. Dù hạ mình thấp hèn nhưng nước thật cao cả vì đem lại sự sống cho mọi loài.
Đức Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận dùng hình ảnh nước để huấn dụ cho các chủng sinh về đức khiêm nhường: "Khi ta ngồi lên ngai cao, nhiều người muốn đạp ta xuống; khi ta nằm xuống sát đất, nhiều người muốn nâng ta lên...Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi dòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông".
Khiêm hạ như dòng nước chảy xuống thấm nhuần vào đất đai. Nước bao giờ cũng chảy xuống thấp nên có thể đến mọi nơi. Nước thấm tới đâu làm đất đai ở đó thêm màu mỡ và phì nhiêu.
Bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy rằng: "Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, con sẽ được đẹp lòng Chúa". Hạ mình là cách thế tốt nhất để gặp gỡ và đến với tha nhân. Con đường khiêm hạ là con đường Thiên Chúa đến với nhân loại. Qua sự khiêm hạ, con người đến với nhau và đến mọi nơi.
Bài Tin Mừng kể chuyện Chúa Giêsu đi dự bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh các người biệt phái. Chỉ một bữa ăn cũng đủ là đề tài để Chúa dạy nhiều bài học. Bài học cho những kẻ được mời là hãy khiêm nhường nhìn nhận việc mình được mời là một ân huệ. Và cũng thêm một bài học cho chủ nhà là người mời. Ông biệt phái mở tiệc đãi khách, thực ra không phải vì khách mà vì mình. Ông mời người có chức quyền, mời người giàu sang để khoe rằng mình quen biết lớn, giao thiệp rộng, rằng bè bạn của mình toàn là những người tai to mặt lớn. Ông biệt phái thích khoe khoang nên có lẽ mời Chúa Giêsu chẳng phải vì mến phục, nhưng chỉ để khoe với bè bạn về tài giao thiệp của mình. Chúa nói đến bữa tiệc mà khách quý phải thuộc giới nghèo không có khả năng đáp lễ. Hãy biết nghĩ đến những người nghèo khó bất hạnh.
Bài học Chúa dạy là đức khiêm nhường và đức bác ái. Hai nhân đức này là nền tảng của đạo đức.
1. Bài học khiêm nhường
Hãy chọn chỗ rốt hết để được mời lên chỗ cao hơn.
Chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị trong xã hội. Người ta chọn vị trí quan trọng trong bàn tiệc không phải để được ăn ngon nhưng để được vinh dự hơn. Vì thế, người ta luôn thích ngồi ở những vị trí quan trọng ở những nơi đông người để thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Còn Chúa dạy nói: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống sẽ được nâng lên".
Khiêm tốn là ít nghĩ về mình, và nhiều lúc không nghĩ gì về bản thân. Đối với Kitô hữu, khiêm tốn là trở nên giống Chúa Giêsu: "Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng"; "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vu và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".
Khiêm tốn sống như Chúa Giêsu là không sống cho riêng mình mà sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ tha nhân.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nhu nhược hèn nhát, nhưng chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, mà là một hành vi yêu thương, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý.
Khiêm nhường còn là khuôn mặt của tình yêu. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không kết thân với người giàu có quyền thế nhưng luôn quan tâm những người nghèo, người bị ruồng bỏ, người ốm yếu tật nguyền, Ngài an ủi và chữa lành cho họ.
Bằng những lời khuyên nhủ khôn ngoan, Sách Huấn Ca cũng chỉ cho thấy con đường khiêm tốn là con đường tuyệt đẹp được mọi người quý chuộng và được Thiên Chúa mến yêu.
2. Bài học bác ái
Con đường khiêm hạ còn là con đường phục vụ vô vị lợi. Chúa dạy rằng, khi mời khách dự tiệc hãy mời những người nghèo khó vì họ không có gì để trả lễ. Đó là tinh thần phục vụ vô vị lợi, không mong đền đáp, làm việc âm thầm.
Chúa Giêsu nói với ông chủ nhà, hãy mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp trả, và như thế, ông mới thật có phúc vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại.
Người ta thường nghĩ những kẻ đui mù, tàn tật, què quặt và nghèo khó là những người bất hạnh làm gánh nặng cho xã hội. Nhiều khi người ta ngoảnh mặt, giả điếc làm ngơ và từ chối giúp đỡ.Chúa Giêsu dạy các môn đệ, hãy sống gần gũi hòa đồng với người nghèo, người bất hạnh. Sống và cư xử tốt với họ dù rằng họ chẳng có gì đáp lại. Lý do là vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là anh em con một Cha nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Con đường bác ái yêu thương là lối vào Nước Trời. Chúa Giêsu chính là hiện thân nơi những người bất hạnh, nghèo khó. Ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Chúa.
3. Tình yêu như dòng nước.
Bác ái và khiêm nhường là hai nhân đức căn bản. Bác ái là bản chất, khiêm nhu là vóc dáng. Vóc dáng giúp chủ thể thon gọn thuận tiện ở mọi sinh hoạt trong mọi lãnh vực. Bác ái là nền tảng làm nên phẩm giá và tư cách hấp dẫn con người ở mọi nơi mọi thời. Người sống bác ái chính là biết khiêm nhường phục vụ, làm nên vóc dáng xứng hợp với cửa hẹp Nước Trời.
Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người.
Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quãng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo. Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu như Chúa đã yêu và yêu đến cùng.
Nước biểu tượng đức khiêm nhường và đặc tính của nước cũng giống như tình yêu. Nước còn là biểu tượng cho mọi phúc lộc của Thiên Chúa. Trong thuật ngữ Kitô giáo, nước được sử dụng như như biểu hiệu của một diễn trình biến đổi và trở về nội tâm. Qua phép Rửa bằng nước, người Kitô hữu lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nước của phép Rửa có sức tẩy sạch tội lỗi gây sự chết và đưa vào đời sống mới. Nước của phép Rửa có sức chữa lành, thánh hóa và đem lại sự tươi mát cho tâm hồn. Được làm con cái Thiên Chúa qua phép Rửa là hồng ân với đời sống mới, luôn khiêm tốn và bác ái hướng tới trọn lạnh.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Amen.
32. Khiêm hạ
Trong quan hệ xã hội, thái độ cao ngạo bao giờ cũng khiến cho người khác khó chịu. ai ai cũng yêu mến những con người khiêm nhu, từ tốn. trong đời sống tôn giáo, người tín đồ nào cũng được nhắn nhủ phải biết thân,biết phận mà giác ngộ, mà hối cải tội lỗi, vấp phạm không phải là vật cản nhưng là giúp ta tới gần Chúa. Biết mình tội lỗi, nhìn nhận những lỗi lầm của mình mà sám hối ăn năn, người tín hữu vẫn có thể trở thành thánh thiện, khiêm hạ, đơn sơ trước mặt Chúa, và trước mặt anh em là điều rất quan trọng cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta
Khi tường thuật dụ ngôn "chọn chỗ thấp nhất" Luca không chỉ nhắc lại lời khuyên xử thế của Đức Giêsu, nhưng đối tượng mà Đức Giêsu nhắm tới trước hết là bọn biệt phái Pharisêu cùng đến dự tiệc với người trong nhà ông thủ lãnh nhóm biệt phái. Họ tỏ ra là những con người ham hố chức quyền, địa vị hơn ai hết. Họ muốn tỏ ra cho người khác biết họ quan trọng, đáng kính, đáng nể như thế nào. Thái độ đó đã làm cho Đức Giêsu và những người khác khó chịu, và Ngài đã lên tiếng.
Nhưng đoạn Tin Mừng muốn dẫn chúng ta đi xa hơn như thế. Từ thái độ tham lam, ham hố địa vị, chức quyền. Qua đó muốn dạy chúng ta cũng phải có thái độ khiêm hạ, và biết sống vô vị lợi với anh em. Thật ra, trước mặt Chúa hay trong vương quốc Nước Trời chúng ta có gì mà vênh vang tự đắc, để mà lên mặt dằn đời. tất cả những gì chúng ta có được là do ơn ban của Thiên Chúa mà thôi: Từ sự sống, khả năng cho đến thời gian, của cải sở đắc... chúng ta đều được nhận từ Chúa và tha nhân. Thái độ biết ơn trân trọng là thái độ của kẻ sĩ, của bậc hiền triết Đông Phương. Đức Giêsu còn khuyên chúng ta hãy biết nhìn xa hơn một chút: trong cuộc sống thường thì "mã tầm mã, ngưu tầm ngưu", nghĩa là chúng ta thường nghĩ tới, và thường chỉ quan hệ với những người giống mình, ngang mình... Thế nhưng đức ái Kitô giáo đòi buộc và chỉ dạy chúng ta phải làm hơn như thế nữa, đi xa hơn thế. Chúng ta phải biết nghĩ đến những người cần đến mình hơn là nghĩ đến những người giống mình. Làm ơn, làm điều tốt là giúp cho kẻ thiếu thốn, nghèo hèn tật nguyền... vì chính họ không có khả năng lo cho số phận hẩm hiu của họ, họ cũng không có khả năng đền ơn đáp nghĩa cho những hành động vị tha bác ái của chúng ta. Làm ơn cho kẻ không thể đền ơn thì công lao của chúng ta lại càng được nhân lên vì tính vô vị lợi của nó, tính vị tha trong hành động ấy được nâng cao rất nhiều. Thiên Chúa là Đấng sẽ nâng những con người khiêm hạ lên, thì cũng chính Thiên Chúa sẽ làm cho phúc cũa người ban ơn tràn đầy hơn. Thiên Chúa đứng về phía người nghèo, người khiêm hạ là thế.
Bài học khiêm hạ và vô vị lợi luôn mang tính thời sự, nóng bỏng đối với đời sống cá nhân cũng như đối với tập thể của người có lòng tin. Ai lại dám tin chắc rằng mình luôn sống được với mọi người với thái độ từ tốn, khiêm nhu trước mặt Chúa và trước mặt đồng loại. Tuy rằng cũng có những người như thế thế, những hiếm lắm. Vì thỉnh thoảng trong ngõ ngách tâm tư có thể làm sống lại và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Lúc đó tinh thần trục lợi, tính toán hơn thiệt dễ dàng luồn lách vào trong tâm trí mỗi người. Thậm chí trong đời sống các linh mục tu sĩ cũng không dễ dàng gì nhận định minh bạch đâu là cầu lợi, cầu vinh, đâu là phục vụ chân chính. Đời sống con người vô cùng tinh vi phức tạp, có rất nhiều "cớ" lành thánh, cũng có nhiều ảo tưởng khiến con người không biết đâu là thật, đâu là giả. Nhưng nếu có che dấu thì chúng ta cũng chỉ có thể che dấu được với con người, với vài người, chứ làm sao chúng ta có thể che dấu được với hết mọi người, với Thiên Chúa.
Đời sống tôn giáo càng được biểu hiện ra ngoài bằng nhiều hình thái tôn giáo dễ coi, dễ nổi.... thì trong tâm hồn chúng ta cần phải đầy tràn tinh thần, khiêm nhu và vô vị lợi. Đức Giêsu chính là mẫu gương của sự thấp hèn, Ngài là Đấng cao cả hơn ai hết nhưng lại chọn chỗ thấp hèn nhất, tăm tối nhất. Ngài cũng là Đấng vô vị lợi nhất, ban phát rộng rãi và nhưng không. Vì thề còn gì mà chúng ta lại không theo gương Ngài sống đúng tư cách là công dân Nước Trời.
Kinh Magnificat là lời kinh bất hữu, ca ngợi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa, Đấng làm những kỳ công nơi những con người bé mọn, khiêm nhu. Đức Maria là người đã đi đầu cho chúng ta noi theo, vì người sống đúng vai trò nữ tì của Chúa. Bài học khiêm hạ của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và của các thánh là cơm bánh giúp chúng ta sống và lớn lên hằng ngày. Chúa yêu thương người nhỏ bé và chúc phúc cho kẻ làm mà không kể công. Amen.
33. Khiêm nhường – Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh
1/ Trong nét nhìn của Đức Giêsu để tuyển chọn những người thuộc về Nước Chúa, chắc chắn Chúa sẽ không theo tiêu chuẩn dựa trên bình diện xã hội. Vì Chúa không đánh giá con theo địa vị, giàu có, sang trong, tài năng, nhan sắc... Vậy Chúa dựa theo tiêu chuẩn nào để đón nhận một người thuộc Vương Quốc của Ngài? Trang Tin mừng hôm nay là câu trả lời cho những ai muốn thuộc về Chúa thì phải sống khiêm nhường.
2/ Khiêm nhường là bản chất của Chúa Giêsu. Vì Chúa đã khẳng định: Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x,Mt11,29). Về điều này, Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philípphê đã cảm nghiệm rất thấu đáo về thái độ khiêm nhường của Đức Giêsu, khi ngài đã thốt lên: "Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế"(Pl 2,6-7).
3/ Chúa là Đấng khiêm nhường, nên những ai sống kiêu căng là đi ngược với bản chất của Chúa. Vì vậy Chúa luôn dạy mọi người trong cuộc sống phải có những tâm tình như Chúa.
Lời dạy của Chúa về đức khiêm nhường đã được Chúa nói đến bằng hình ảnh bữa tiệc cưới trong trang Tin mừng hôm nay. Chúng ta nên nhớ Chúa luôn dõi mắt nhìn từng người chúng ta: Ai khiêm nhường ai kiêu căng Chúa đều biết cả. Vì trong bữa tiệc Chúa nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Chúa đã dạy khi dự tiệc điều tốt nhất hãy ngồi vào chỗ cuối. Vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (x,Lc14,7-12).
4/ Theo tự nhiên, khi ngồi chỗ cuối trong bữa tiệc có vẻ mình cảm thấy bị rớt giá, bị hạ thấp. Từ cảm nghĩ tự nhiên này cũng cho chúng ta thấy rằng: Kiêu căng thật dễ để làm nên nó, còn khiêm nhường thật khó để cho riêng mình. Nhưng làm gì thì cuối cùng khiêm nhường vẫn là con đường để chúng ta được an vui, được nâng cao, được mọi người yêu mến cảm phục, được gia nhập vào những người thuộc về Chúa trong bữa tiệc Nước trời.
Nói như thế cũng để chúng ta thấy muốn sống khiêm nhường, đó cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nhưng mọi sự cũng sẽ trở nên dễ dàng, nếu chúng ta thực hành những điều kiện để thực sự là người sống khiêm nhường như Chúa.
5/ Điều kiên để sống khiêm nhường, trước hết đòi hỏi chúng ta phải cảm nghiệm thật sự về cả cuộc đời của Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, và trong thân phận con người Ngài mang lấy thân nô lệ, trong thân kiếp nô lệ Ngài đã tự hạ để phục vụ, để vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Trong cuộc sống chúng ta hãy lấy Đức Kitô là lẽ sống cho riêng mình, hãy theo con đường Chúa đi và hãy sống theo lời Chúa dạy. Nhờ vậy mỗi ngày chúng ta sẽ được nên hoàn thiện, được diễm phúc mặc lấy tâm tình khiêm nhường như Chúa.
Thứ đến điều kiện để sống khiêm nhường là phải biết từ bỏ cái tôi của mình. Khi quá đề cao cái tôi thì tự nhiên nó sẽ xuất hiên muôn vàn hình thức dối trá như: Tham vọng chức quyền, triệt hạ người khác, đề cao bản thân, sống ích kỷ hẹp hòi, cạnh tranh về mọi phương diện... Từ chỗ thích sống phô trương như thế, cuối cùng sẽ dẫn đến tại hại không ngờ là mối tương quan với Thiên Chúa bị đổ vỡ. Vì Chúa đã nói: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống"(Lc14,11). Còn mối tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ không còn, cùng lắm chỉ còn một chút hình thức là bằng mặt chứ không bằng lòng.
6/ Chúa Giêsu rất quý trọng lòng khiêm nhường. Chúa luôn ưu tiên cho những ai chọn khiêm nhường là lẽ sống, Chúa sẵn sàng trao ban cho họ hạnh phúc viên mãn là được sống trong nhà Chúa suốt cuộc đời.
Đức Maria, trên hết Mẹ là người đã đáp lại trước tiên những điều kiện để được sống hạnh phúc bên Chúa. Cuộc sống của Mẹ đã rập theo khuôn mẫu của Đức Giêsu Con Mẹ là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Hơn nữa trước ý định của Thiên Chúa, Mẹ đã tự nguyện xoá mờ đi cái tôi của mình để sẵng sàng vâng phục ý Chúa cách tuyệt đối trong những lúc túng quẫn nhất, cay đắng nhất, đau khổ nhất. Vì Mẹ đã chọn sống khiêm nhường để trở nên giống Chúa, để hoàn toàn được thuộc về Chúa. Vì vậy Mẹ đã hiểu rất rõ cách Thiên Chúa sẽ đối sử với những người quyền thế, những người khiêm tốn như thế nào, khi Mẹ nói: " Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường" (Lc1,52).
Chúng ta khiêm tốn xin Mẹ giúp chúng ta luôn can đảm sống như Mẹ. Nhờ đó mỗi ngày hình ảnh của Đức Giêsu là Đấng hiền lành và khiêm nhường sẽ sáng tỏ trong cuộc sống chúng ta. Và đó cũng là tiêu chuẩn để chúng ta được đón nhận vào Vương Quốc của Chúa mai sau. Amen.
34. Dự tiệc và đãi tiệc – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu được thủ lãnh nhóm Pharisiêu mời dùng tiệc. Nhân bối cảnh bữa tiệc Chúa Giêsu dạy hai bài học: khi được mời dự tiệc và khi đứng ra đãi tiệc.
1. Khi được mời dự tiệc.
Được mời dùng bữa, Đức Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi chỗ nhất. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn. Chỗ ngồi là danh dự. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự. Điều đó cho thấy, thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ.
Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn? Có câu chuyện kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với những người bình dân nghèo hèn. Sau Daniel còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối cùng, bàn của Daniel đang ngồi là còn trống chỗ. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc: nhưng đây là bàn cuối cùng mà! Chủ nhà nhanh trí đáp: thưa không, đây là bàn danh dự vì là bàn có ông Daniel đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ. Ý nghĩa câu chuyện là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Phần lớn, những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisiêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi ghế bên tả, bên hữu Đức Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội vì ông sợ mất ghế.
Bài Phúc Âm cho thấy, ai cũng muốn ngồi chỗ nhất nên chỗ nhất thiếu chỗ, có những bậc vị vọng đành phải ngồi xuống chỗ dưới. Có lẽ Đức Giêsu không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm nên đã tự động ngồi vào ghế chót.Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những vị khách không mấy quan trọng xuống khỏi chỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giêsu lên chỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói. Nhân hoàn cảnh đó, Đức Giêsu dạy bài học cách sống khiêm tốn: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Không có đời sống tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường.
Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật là xấu hổ.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên, coi thường mình hay sợ người khác, rụt rè không dám nhận trách nhiệm. Khiêm tốn là biết mình đã nhận được tất cả từ Chúa và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân. Bài đọc 1 ca ngợi đức khiêm tốn. Sự hiền hoà và khiêm tốn là nhân đức căn bản và quý giá của con người. Nhờ khiêm tốn, con người khám phá được sự cao trọng của Thiên Chúa và mở ngõ cho con người đi vào sự khôn ngoan. Lời dạy này là kết tinh của kinh nghiệm biết bao bậc hiền triết khôn ngoan từ thuở xưa. Chính Chúa Giêsu cũng lấy đức khiêm tốn làm một trong các mối phúc của bài giảng trên núi và mời gọi mọi người hãy học cùng Người là Đấng hiền lành và khiêm tốn trong lòng. Ai sống hiền lành và khiêm tốn thì được nghĩa trước mặt Chúa và được mọi người yêu mến.
Ngày nay, khiêm nhường thường bị người đời coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược. Trái lại Thiên Chúa nâng cao những ai khiên nhường. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôi nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
2. Khi đứng ra đãi tiệc
Người ta dễ đánh giá người khác dựa trên chiếc ghế của họ. Thật ra, một người quét đường có lương tâm lại có giá trị gấp nhiều lần một giám đốc tham ô lãng phí. Người ta thường thích giao lưu với những người có thế giá, có học thức, có của cải để dễ nhờ vả khi cần. Nhưng Đức Giêsu khuyên rằng: khi mời tiệc nên mời những người nghèo khó, tật nguyền. Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Ngài dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp. Như thế Đức Giêsu mong muốn người tín hữu vượt qua óc tính toán vụ lợi để yêu thương phục vụ những người bất hạnh.
Đức Giêsu muốn minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Đức Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. "Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng" (Lc 1,51-54). Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn. Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.
Chúa Giêsu dạy bài học khiêm nhường và bác ái, bài học về cách dự tiệc và cách đãi tiệc. Đó là bài học về những cách sống trong cuộc đời. Lời Chúa dạy xem ra đảo lộn mọi trật tự xã hội trần thế. Nhưng sống Tin mừng luôn là lội ngược dòng và Thiên Chúa luôn đứng về phía những người khiêm nhường, những người thấp hèn trong địa vị xã hội, những người bị áp bức bất công. Sống khiêm nhường và yêu thương người nghèo là con đường đi đến Nước Trời. Người tín hữu đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để kín múc tận nguồn sự khiêm hạ trong tình yêu.
35. Thiên Chúa nâng cao kẻ khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi đề cập về Chúa Giêsu, người ta thường giới thiệu Người là Thiên Chúa Ngôi Hai cao cả, là Vua hoàn vũ, là Thẩm Phán tối cao, là Đấng quyền năng phép tắc… nhưng Chúa Giêsu còn có một phẩm chất cao đẹp khác ít được đề cập đến: Người là Đấng rất khiêm nhường!
Trong thư Philip (2, 6-11), thánh Phao-lô trình bày sự khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu như sau:
Mặc dù Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa quyền năng, đồng hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng Người đã hủy mình ra không! Từ tột đỉnh danh dự và vinh quang, Người đã gieo mình xuống cõi đời ô trọc, hoá thân thành một trẻ sơ sinh yếu đuối, được sinh ra trong nơi rốt hèn; khi lớn khôn thì sống bằng nghề mộc ngày ngày đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm. Thiên hạ còn gọi Người là “bạn bè của quân thu thuế và phường tội lỗi”; rồi cuối cùng, Người đón nhận cái chết thấp hèn và đau thương trên thập giá cùng với hai kẻ bất lương.
Chúa Giêsu là Đấng rất khiêm nhường nên Người cũng muốn cho chúng ta trở nên khiêm nhường như Chúa. Chúa Giêsu không kêu mời chúng ta hãy học cùng Người vì Người thông thái, vì Người có tài hùng biện thu phục quần chúng, vì Người khôn ngoan… nhưng trước hết, Người kêu gọi chúng ta hãy học với Người, vì Người có lòng dịu hiền và khiêm nhường.” (Mt 11, 29)
Chúa Giêsu còn thuyết phục chúng ta sống khiêm nhường bằng một dụ ngôn rất cụ thể và thực tế như sau: “Khi anh em được mời dự tiệc, đừng chọn chỗ nhất, kẻo khi có người khách khác quan trọng hơn đến sau, chủ nhà sẽ đến nói với anh em: Mời anh xuống ngồi chỗ dưới nầy cho… Trái lại, khi được mời dự tiệc, anh em hãy chọn chỗ cuối…. Vì hễ ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên” (Lc 14, 8-11).
Cây cao, tàng lớn, đứng trên đỉnh cao thì nguy cơ bật gốc hay gãy đổ càng cao. Cây nhỏ, thân mềm như lau sậy, dù đứng ở vị trí nào cũng được an toàn trước cuồng phong bão tố.
Khi huấn dụ các chủng sinh về khiêm nhường, Đức Cố Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận nói: “Khi ta ngồi lên ngai cao, nhiều người muốn đạp ta xuống; khi ta nằm xuống sát đất, nhiều người muốn nâng ta lên.”
Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi giòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: “Biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông.”
Ai hiền lành khiêm nhượng, biết hạ mình xuống thì tình trạng tâm hồn của họ như là chỗ trũng, là lũng sâu. Ơn phúc của Thiên Chúa cũng như tình yêu của bạn bè sẽ chảy tuôn vào những con người ấy.
* * *
Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả cuộc đời khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước lúc nào cũng khiêm tốn. Nước luôn tìm chỗ rốt hèn. Nước luôn mềm mỏng dịu dàng không hề xô xát va chạm với ai.
Nước không hề kháng cự hay đối đầu nhưng rốt cục nước vẫn chiến thắng nhờ sự mềm mỏng của mình. Búa tạ giáng vào tường, tường đổ; búa đập vào đá, đá tan; nhưng nếu có ai quai búa đập mạnh vào vũng nước, nước không cần kháng cự, nhưng búa sẽ phải cắm xuống đáy bùn! Đúng là “nhu thắng cương, nhược thắng cường”!
Nước luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao nên mới tạo ra thủy năng, một nguồn năng lượng phi thường!
Khi bị hỏa thần tấn công, nước nhẹ nhàng bốc mình lên cao thành những lớp mây trời và khi hỏa thần hừng hực thiêu rụi những cánh rừng tươi tốt, nước có thể gieo mình xuống dập tắt hỏa thần.
Tuy mềm mại nhưng nước có sức xói mòn tất cả; dù rắn như đá thì "nước chảy đá cũng phải mòn".
Nhờ mềm mỏng, nước rửa sạch tất cả, cuốn trôi tất cả.
Nhờ biết hóa mình thành muôn hạt li ti, nước có thể len lỏi vào mọi ngõ ngách của các địa tầng, thấm nhập khắp muôn nơi.
Tuy hạ mình thấp hèn, nước đem lại sự sống cho mọi loài. Nơi đâu thiếu nước, ở đó chỉ còn là sa mạc, khô cằn. Nơi đâu nước ngấm đến, ở đó sự sống sẽ phong nhiêu.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiền lành khiêm nhượng, xin cho chúng con, những người môn đệ Chúa, biết chọn chỗ rốt hèn như nước, biết sống khiêm hạ như Chúa đã nêu gương.
36. Khiêm nhường, hiếu khách và luật lệ
(Suy niệm của Lm. Đào Quang Chính)
Bài phúc âm chúng ta nghe trong tin mừng theo thánh Luca Chúa nhật tuần 22 này không đơn giản như đôi khi chúng ta nghĩ. Nếu đọc trọn đoạn thánh kinh của Luca (Lc 14 1; 7-14), chúng ta thấy trước khi dậy dỗ về sự khiêm hạ, Chúa đã chữa lành một bệnh nhân bị phù thũng ngay tại nhà đó (Lc 14: 2-6).
Một cách đơn sơ, chúng ta đồng ý với sự can đảm của Chúa khi Người, tuy được mời đến dự bữa ăn nơi nhà của người Pharisêu, can đảm lên tiếng chỉ trích thói quen của các vị "vọng tộc" giầu có -trong đó có người Pharisêu- thường thích ngồi chỗ quan trọng nhất nơi bữa ăn hoặc bàn tiệc. Chúng ta nhấn mạnh đến lời dậy dỗ của Chúa về hai nhân đức: khiêm tốn và hiếu khách.
Tuy nhiên, nơi đây, Chúa không chỉ nhằm đến hai nhân đức trên mà còn thách đố cả lề luật và lối sống Do thái thời đó.
Như nhiều tôn giáo khác, Do thái giáo không hẳn chỉ là một chuỗi những luật lệ về Yahweh - Chúa, nhưng còn là một tổng hợp những tập quán, cách thực hành, liên quan và ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong cuộc sống con người.
Luật điều Torah
Năm cuốn sách đầu trong cựu ước gọi là sách luật hoặc sách Torah. Tổng cộng có 613 điều luật. Sách đề cập đến những gì người Do thái phải tuân theo khi thức dậy buổi sáng, những gì được ăn và không được ăn, những gì phải làm để tuân giữ ngày Sa-bat và lễ trọng, những điều phải theo khi liên hệ với Chúa và với tha nhân..Tiếng Do thái gọi những điều luật này là Halakhah. Mục đích của Halakhah là để tăng thêm chiều kích tinh thần của đời sống, tránh đi các việc làm quá vật chất, nhờ đó, họ dễ giao tiếp với Chúa hơn. Thí dụ như sau khi ăn, hãy nhớ tạ ơn. Tạ ơn sau khi ăn (birkat ha-mazon) là một trong những lời kinh quan trọng nhất của người Do thái. Sách Đê nhị Luật đoạn 8:10 dậy rằng "Khi con đã ăn xong, nhớ tạ ơn Chúa, Chúa của con, vì Ngài đã ban cho con quốc gia đẹp tốt này". Tạ ơn Chúa sau bữa ăn gồm 4 loại:
1. Birkat Hazan: tạ ơn Chúa đã ban thức ăn cho thế giới
2. Birkat Ha-Aretz: tạ ơn Chúa đã mang dân Do thái ra khỏi Ai cập, thiết lập giao ước và ban cho dân Do thái đất làm gia nghiệp.
3. Birkat Yerushalayim: tạ ơn Chúa đã tái lập Giêrusalem và hứa ban đấng Me-si-a
4. Birkat Ha-Tov v'Ha-Maytiv: tạ ơn Chúa cho sống đẹp và làm việc thiện.
Trong số 613 luật điều Torah, có những luật điều ghi chép rõ ràng và minh bạch, như chớ giết người. Có luật điều nửa minh bạch nửa không, như giữ ngày Sa-bát, không làm việc xác ngày Sa-bát, mà không nói rõ phải giữ như thế nào.
Luật điều từ các tư tế.
Để giải thích luật, nhất là những luật không minh bạch, các thầy Rabbi đưa ra điều luật gọi là Rabbanan. Luật Rabbanan cũng mang tính cách ràng buộc như luật Torah. Thí dụ luật Rabbi giải thích điều luật chớ làm việc xác ngày Sa-bát bằng cách nói rằng trong ngày Sa-bát, không được nhấc búa, nhấc bút, nhấc tiền, vì những động tác này chứng tỏ rằng người đó đang làm việc. Điều luật Rabbanan giúp người Do thái khỏi vô tình mắc lỗi gọi là gezeirah. (Do đó, khi Chúa thách đố các người Pharisêu có nên chữa bệnh trong ngày Sa-bát hay không, họ đã không thể và không dám trả lời.)
Còn loại điều luật khác nhằm giúp dân sống và nhớ luật thường xuyên, gọi là takkanah. Takkanah buộc người Do thái phải đọc sách luật các ngày thứ hai và thứ năm.
Từ các luật buộc trên phát sinh ra các hệ quả không lường trước. Để đọc sách luật và đọc lời tạ ơn Chúa sau bữa ăn, người ta cần có những người thạo luật và những chỗ dành riêng. Từ đó nhiều người thích được ở chiếu nhất, chỗ quan trọng hầu dễ nghe và dễ đọc sách luật, đồng thời cũng chứng minh cho người khác thấy mình luôn lưu tâm và kính trọng lề luật.
Chúa Giêsu, khi dậy dỗ người nghe khiêm nhường và hiếu khách đã thách đố cả lề luật Rabbanan. Có lẽ nhờ vậy chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Chúa nói "ta đến không để phá hủy mà để làm trọn lề luật (Mt 5: 17)."
Nghe luật, đọc luật, đọc kinh tạ ơn trước và sau bữa ăn như luật dậy là điều nên làm và phải làm, nhưng từ đó biến thành những lo lắng quá độ về tôn ti, trật tự trong bữa ăn, chỗ ngồi ở hội đường, cộng đoàn hoặc nhà thờ, thì hành động đó lại trở nên sai trái. Chúa đã dùng cơ hội chỗ ngồi trong bữa ăn dậy dỗ cho mọi người biết đâu là sự khiêm hạ và đâu là sự hiếu khách thực. Khiêm hạ là người biết rõ vị thế của mình -không phải chỉ với người khác- mà nhất là với Chúa. Biết mình chẳng là gì trước mặt Chúa. Đằng khác, cũng đừng nên đi đến thái cực khác. Nhiều người ra vẻ khiêm nhường để chủ nhà phải mời đôi ba lần mới dời lên bàn trên. Tuy nhiên, nếu chủ nhà "quên" mời thì về nhà giận dữ..
Hiếu khách là người "khi con đãi khác ăn trưa hoặc ăn tối, đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có, kẻo họ cũng mời lại con.. Trái lại, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ. Như vậy con mới thật có phúc (Lc 14: 14)." Hiếu khách như trên đúng như lời cổ nhân ta thường nói "làm phúc tay phải, đừng cho tay trái biết."
Để xã hội có trật tự, cần có tôn ti, nhưng đừng quá quan trọng "chiếu trên, chiếu dưới." Hãy thấy Chúa trong những người hèn kém. Hãy nhìn đến tương giao của mình với Chúa. Có như vậy mới là làm trọn lề luật.
37. Hãy ngồi chỗ cuối - Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Đức Giêsu được một người Pharisiêu (trong hàng ngũ lãnh đạo) mời đến nhà dùng bữa. Khi đến, Người cảm thấy mình đang bị dò xét. Bởi các đối thủ đang theo dõi Người sát sao, hy vọng tìm ra lý do, để vu cáo chống lại Người. Đức Giêsu cũng thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, họ tranh giành, tỏ ra kiêu căng tự đắc và ích kỉ. Đức Giêsu đưa ra hai giáo huấn khá ngắn:
Giáo huấn thứ nhất nói với khách được mời.
"Đừng ngồi cỗ nhất". Điều Đức Giêsu nói đây là một quy luật, một châm ngôn đã có từ lâu đời trong nhân gian. Sách Châm Ngôn viết: "Trước mặt vua, ngươi chớ làm bộ bệ vệ, đừng ngồi vào chỗ các quan lớn, được người ta mời: "Hãy lên đây" tốt hơn là bị hạ xuống trước mặt bá quan" (Cn 25,6-7; St 7,4). Sách Lêvi cũng dạy khách ngồi bàn ăn bằng những lời: "Hãy ngồi tụt xuống hai hay ba cấp, dưới chỗ ngươi đáng ngồi, để người ta mời: Hãy ngồi lên "hơn là" đi xuống dưới ngồi".(Lv 7,1-5). Bởi thế, những luật sĩ, các biệt phái không tự ái, khi nghe Đức Giêsu nói "Đừng ngồi cỗ nhất", cho dù họ đang tìm cỗ nhất, bởi họ cho Đức Giêsu chỉ nhắc lại Kinh Thánh.
Tuy nhiên, theo Noel Quesson, lời Đức Giêsu đây, không đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn... song còn đưa chúng ta sang bình diện Nước Thiên Chúa. Trong nước Thiên Chúa: "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên". Thực vậy, không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất, chính là tình cảm về sự công chính bản thân mới là bước cản chúng ta đến gặp Đấng Cứu chuộc. Kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa, mọi tội khác người ta phạm chỉ vì yếu đuối, nhưng tội kiêu ngạo là cố tình loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, không cần Ngài, không muốn có Ngài. Đức Maria trong kinh Magnificat đã nói: "Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường". Đó là việc Thiên Chúa ưa thích, đó là việc Thiên Chúa thường làm. Lời Chúa còn đó: "Hãy học cùng Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường thật lòng".
Giáo huấn thứ hai nói với chủ nhà.
Theo lẽ thường, ta chỉ mời những người có liên hệ với mình: Bà con, họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, vật chất hay một cách nào đó. Những người đó đến lượt, họ sẽ mời lại, để đáp lễ theo luật có đi có lại: Ông mất chân giò bà thò chai rượu. Còn những người nghèo khổ, tàn tật, đui mù, thường bị ta bỏ qua.
Luật Dothái dạy: Những người điếc lác, thọt chân, cụt tay, mắt hỏng không được tham dự các sinh hoạt tế tự trong đền thờ (2Sm 5,8; Lv 21,18). Những người Étsênien ở Qumrân còn quả quyết: "Những người đui mù, khuyết tật, thọt chân, què tay không được tham dự hội đường các ngày Sabbát, cũng không được ở giữa hội đoàn của những người danh tiếng".
Giờ đây, Đức Giêsu lại nói với chủ nhà: "Khi ông mở tiệc, đừng mời bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có. Ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì trả lễ và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ chết sống lại". Thực ra, đây không phải là những lời mới mẻ.
Sách Khôn Ngoan Aram của người Dothái viết: "Hãy nhận vào nhà bạn kẻ thấp hơn bạn và kẻ nghèo hơn bạn, nếu anh ta ra đi và không trả ơn bạn, Chúa sẽ trả cho bạn". Sách Đệ Nhị Luật dạy: "Ba năm một lần, anh em hãy đưa ra tất cả thuế thập phân của năm ấy, và đặt ở cửa thành anh em, để Thầy Lêvi, người không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở trong thành của anh em sẽ đến, họ sẽ ăn và được no nê, để Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em chúc phúc cho mọi công việc tay anh em làm" (Đnl 14, 28).
Điều lề luật dạy làm cứ ba năm một lần. Đức Giêsu bảo: Hãy làm bất cứ lúc nào. Khi luật pháp bảo cứ để sẵn cổng thành cho người ta đến dùng, Đức Giêsu bảo hãy đi mời người ta lại. Cuối cùng luật pháp hứa đền bù ở đời này, Đức Giêsu bảo sẽ được báo đáp ở đời sau. Đức Giêsu đã chẳng lặp lại y nguyên luật pháp, Người đã triển khai, kiện toàn và đưa luật pháp lên bình diện đạo đức, thiêng liêng hơn.
Để kết luận, tưởng cũng nên kể đây một câu chuyện: Một chủ nông giầu có nọ mời các tá điền và những người làm công dùng bữa cơm tối tại nhà ông. Đây phải gọi là một yến tiệc mới đúng, bởi vì tất cả các món ăn đều được dọn trên các đĩa bằng sứ hay mạ bạc quý giá, còn rượu ngon hảo hạng được rót vào những ly thủy tinh đắt tiền. Bàn ăn được trải toàn khăn bằng vải và một bát nước rửa tay. Có một anh nông dân kia, vì trong đời anh chưa bao giờ được dự một bữa tiệc sang trọng và thịnh soạn đến thế, nên sau khi ăn uống no nê, anh đã bưng bát nước dùng để rửa tay uống cạn. Một vài thực khách sành điệu bắt đầu cười thầm, rồi tiếng cười bỗng bật thành tiếng. Thấy vậy, người chủ tiệc lập tức với tay bưng lấy bát nước trước mặt mình uống cạn. Cử chỉ này làm tắt ngay những tiếng cười chế nhạo sự quê mùa của anh nông dân kia.
Ước gì mỗi người chúng ta cũng làm như vậy.
38. Khiêm hạ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Vào một buổi sáng mùa hè, tôi thả bộ chung quanh công viên Devoe, bên cạnh nhà thờ. Quan sát cảnh sinh hoạt xuất hiện có người già, thanh niên, thiếu nữ, người Mỹ, Tây, Ta và Tầu. Đây đó mấy người còn đang ngủ trên những chiếc ghế gỗ. Vài người đi lượm long. Có người dẫn chó đi dạo buổi sáng. Người tập thể dục, người ngồi đọc báo và đám trẻ chơi banh bóng rổ. Có những kẻ ăn mặc đẹp hơn vội vã tắt ngang qua công viên đi làm việc. Một nhóm chàng trai trẻ vô gia cư, di dân bất hợp pháp và đang ngồi tãn gẫu. Một vài người thu dọn làm sạch công viên. Xem ra cảnh vẻ thật êm đềm, họ không dứt lác và không quấy rầy. Họ là những người thấp cổ bé miệng. Những người nghèo khó ăn mặc đơn sơ chỉ chăm lo kiếm sống mỗi ngày. Họ không la hét, vênh váo, đua đòi hay ăn xài hoang phí. Đa số thuộc thành phần lao động khiêm tốn.
Tôi chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa trong mọi sự. Tôi có khác gì những người đang có mặt trong công viên. Đã có lúc cả gia tài của tôi vỏn vẹn chỉ một bộ đồ trên người. Tôi cũng thuộc thành phần di dân, ngoại kiều và được chấp nhận như một công dân. Tôi được may mắn có nơi ăn chốn ở, có công ăn việc làm và có mọi thứ cần thiết. Thầm cám tạ ơn Chúa. Chẳng phải vì công lao hay sức lực riêng mà chỉ do lòng thương xót của Chúa ban. Tác giả sách Huấn Ca giúp chúng ta nhận được thân phận yêu hèn và thấp bé của mình. Lời khuyên răn rất chân tình: Hỡi con, con hãy thi hành công việc con cách hiền hoà, thì con sẽ được người đẹp lòng Chúa quý chuộng (Hc 3, 17). Nhìn những người chung quanh, tôi cảm thấy thật thương họ. Một người mẹ trẻ đi lượm long để kiếm thêm chút tiền cho bữa ăn gia đình. Mọi công việc họ làm đều đáng tôn trọng. Họ không ngại ngùng, không sợ dơ dáy, bẩn thỉu hay hôi hám. Họ kiếm sống bằng đôi bàn tay tinh sạch qua công khó và mồ hôi nước mắt. Họ rất đáng được tôn trọng.
Buông bỏ lớp vỏ ngoài, ai cao trọng hơn ai chứ! Danh dự hay chức vị là để phục vụ. Sách Huấn Ca dậy rằng: Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa (Hc 3, 18). Hạ mình là cách thế tốt nhất để gặp gỡ và đến với tha nhân. Con đường khiêm hạ là con đường của Chúa đến với nhân loại. Không bao giờ chúng ta học hết được bài học về nhân đức khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng trở nên vĩ đại. Qua sự khiêm hạ, chúng ta có thể đến với mọi người và mọi nơi. Khiêm hạ như dòng nước chảy xuống thấm nhuần vào đất. Nước bao giờ cũng chảy xuống thấp nên có thể đến mọi nơi. Nước thấm tới đâu thì làm đất đai thêm mầu mỡ và phì nhiêu.
Sự kiêu căng là bức tường ngăn cách với tha nhân. Kiêu căng là tự đặt mình lên trên người khác. Người kiêu là người luôn tỏ vẻ trí thức, hiểu biết, quyền lực và tốt lành thánh thiện hơn người. Thùng càng rỗng, càng kêu to. Tai hoạ dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa, vì mầm mống tội lỗi đã ăn sâu vào lòng chúng mà chúng không biết (Hc 3, 28). Sự kiêu ngạo đã len lỏi vào đời sống của con người ngay từ thuở ban đầu. Ông Adong và bà Evà đã bị ma quỉ gạt gẫm và muốn được hiểu biết mọi sự giống như Thiên Chúa. Ông bà nguyên tổ đã vụt mất tất cả hồng ân. Sự kiêu ngạo đã thấm nhập vào nhiều tâm hồn, họ đã chối từ tôn thờ chính Đấng ban nguồn sự sống. Cậy dựa vào sự hiểu biết nông cạn của mình để cả dám giơ tay thách thức quyền năng Vua vũ trụ. Nhạo cười Đấng đã được sai đến. La Fontaine kể ngụ ngôn này: Cây sồi tự đắc thân to, rễ nhiều, cao ráo và miệt thị cây lau nhỏ tí yếu ớt. Cây lau trả lời rằng: Tuy thân mình nhỏ nhưng nếu gặp phong ba thì chưa chắc ai thua ai. Một hôm, trời chuyển gió và phong ba nổi dậy… cây sồi vì cao, tàn lớn nên bị gió thổi trốc gốc đổ xuống. Còn cây lau mềm uốn mình theo chiều gió, nhờ thế mà vẫn đứng yên.
Chúa Giêsu đã nhắc nhở: Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên (Lc 12,11). Đứng trước quyền năng vô biên của Thiên Chúa, con người là chỉ loài thụ tạo xuất hiện đó rồi tan biến đó. Sự kiêu ngạo làm con người tự cất nhắc mình lên và chiếm hữu đạt quyền của kẻ khác. Chúa phán rằng ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chân lý này có thể áp dụng cho hết mọi người sống trong xã hội. Càng làm lớn, càng biết hạ mình thì càng được tôn trọng và quí mến. Người sống khiêm nhu không phải là người yếu đuối hay tiêu cực. Chúng ta thường nói lấy nhu thắng cương là thế. Không ai chê bai, phản đối hay khinh thường những người biết sống khiêm nhường. Chỉ những ai có tính kiêu ngạo đã không nhận ra được giá trị trân quí của nhân đức này.
Suy niệm bài phúc âm. Một thí dụ cụ thể chọn chỗ ngồi nơi bữa tiệc. Trong hoàn cảnh văn hóa hiện tại, có nhiều thay đổi theo phong tục văn hóa cho hợp lẽ. Chủ hôn sẽ xếp đặt chỗ ngồi cho khách hoặc để tự do cùng bạn bè chọn lựa nơi chỗ thích hợp. Ngày xưa, Chúa Giêsu chỉ dẫn: Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc (Lc 12, 10). Chúa muốn nói về sự khiêm hạ trong lòng. Thực thế, trong bất cứ đám tiệc đều có nhiều người tham dự gồm kẻ có chức quyền, có địa vị hoặc là thành viên của gia đình, chúng ta nên trông trước ngó sau để cư xử hợp tình hợp lẽ. Không nên gây khó xử cho gia chủ. Người ta thường nói rằng: Lời chào cao hơn mâm cỗ. Vì để giữ mặt mũi, nên đôi khi chúng ta lại bị mất mặt.
Thơ Do-thái nói về cứu cánh cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta không tìm đến những nơi gây khiếp sợ như lửa cháy, gió lốc, mây mù và bão táp nhưng là tiến về Nhà Chúa: Anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời (Dt 12, 22). Tất cả mọi sự đều được qui tụ về một mối là Chúa Giêsu Kitô. Đấng làm trung gian vạn vật. Chúa Giêsu đã mở cửa ngõ dẫn dắt chúng ta bước vào con đường khiêm hạ theo thánh ý Chúa Cha. Chúa đã học vâng phục và vâng phục cho đến chết. Vâng lời là học sự khiêm tốn. Chúa phán: Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hòa và khiêm nhượng, tâm hồn anh em sẽ được nghỉ yên bồi dưỡng (Mt 11, 29).
Tất cả mọi sự đều chung qui về một cùng đích là sự sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu mời gọi mọi người vào Nước Trời qua nhiều cửa ngõ khác nhau. Con đường bác ái yêu thương là lối vào gọn nhẹ nhất. Vì chính Chúa Giêsu hiện thân nơi những kẻ đơn sơ bần cùng nghèo khó. Ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Chúa. Chúa Giêsu căn dặn: Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại (Lc 12, 13-14). Chúng ta thường nghĩ những kẻ đui mù, tàn tật, què quặt và nghèo khó là những người bất hạnh làm gánh nặng cho xã hội. Nhiều khi chúng ta ngoảnh mặt, giả điếc làm ngơ và tránh những ánh mắt van nài xin bố thí của họ. Cửa xe gài kỹ và đóng kín để tránh sự phiền hà. Chúng ta không muốn tiếp cận với những kẻ cùng khốn tật nguyền. Vì sợ bị quấy rầy, chúng ta đã chối từ giúp đỡ họ. Chúng ta đang mất nhiều cơ hội chia sẻ bác ái và làm phúc.
Lạy Chúa, con đã có rất nhiều cơ hội để chia sẻ giúp đỡ tha nhân, nhưng lòng con qúa hẹp hòi và ích kỷ. Con đã từ chối giúp đỡ họ. Con không muốn nhìn thấy Chúa nơi những người đau khổ và cô thế cô thân. Xin cho con học biết sự hiền lành và khiêm nhượng trong lòng để con biết chia sẻ tình bác ái với anh chị em.
39. Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
Hc 3, 17-21, 30-31
Bài đọc I, trích từ tác phẩm của hiền nhân Ben Xi-ra, là lời khuyên thực hành đức khiêm tốn, đó là con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Dt 12, 18-19, 22-24
Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái nêu bật sự tương phản giữa Giao Ước Cũ, ở đó Thiên Chúa tỏ mình ra trong quang cảnh kinh thiên động địa, và Giao Ước Mới, ở đó Thiên Chúa hành động trong nội tâm, tất cả đều xảy ra trong trật tự tinh thần. Con đường khiêm hạ này dẫn đến thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Lc 14, 1, 7-14
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra bài học về đức khiêm tốn trong một bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh người Pharisêu khi ngỏ lời với các vị khách mời.
BÀI ĐỌC I (Hc 3, 17-21, 30-31)
Ông Ben Xi-ra, một bậc vị vọng thành Giê-ru-sa-lem và là một hiền nhân, sống vào cuối thế kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông ghi lại giáo huấn và kinh nghiệm của ông vào năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau đó, tác phẩm của ông được người cháu trai của ông dịch sang tiếng Hy-lạp.
1. Ý hướng của Tác Phẩm:
Sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê (336-325 trước Công Nguyên), vùng Cận Đông mở cửa đón văn hóa Hy-lạp. Miền Pa-lét-tin không tránh khỏi trào lưu này (nhất là vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên). Những môi trường của giới quý tộc Giê-ru-sa-lem cũng như vài giáo sĩ cho thấy sẵn lòng đón nhận ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Ben Xi-ra không phải không nhạy bén với tư tưởng Hy-lạp, ông biết trường phái triết học Khắc Kỷ, nhưng ông tiên cảm một mối nguy hiểm đối với Do thái giáo. Ông để hết tâm trí vào việc phục hưng những giá trị truyền thống. Theo ông, sự khôn ngoan đích thực là sự khôn ngoan của dân Israel, vì Thiên Chúa là mẫu mực khôn ngoan của dân Ngài và Lề Luật là cách thức diễn tả sự khôn ngoan của Ngài.
Sách của hiền nhân Ben Xi-ra là loại cẩm nang thực hành cho người Do thái trung thành. Sách chứa đựng những lời khuyên cho cuộc sống hằng ngày. Tất cả mọi đề tài đều được đề cập đến. Trong đoạn trích hôm nay, đề tài được bàn đến là đức khiêm tốn. Đây là một đức hạnh tiêu biểu Kinh Thánh, mà người ta không gặp thấy ở nơi nền luân lý ngoại giáo.
2. Ca ngợi đức khiêm tốn:
“Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách khiêm tốn”. Ông Ben Xi-ra ngỏ lời với môn đệ của mình, hiện tại hay trong tương lai, như một người cha với đứa con của mình. Đây là cách xưng hô quen thuộc của thầy đối môn đệ của mình được xem như đứa con tinh thần của mình.
Đây không là lòng quý mến dành cho đức khiêm tốn một cách trừu tượng, nhưng lời khuyên thực hành nhân đức này, việc thực hành phải thấm đẩm mọi hành vi của cuộc sống. Sách Châm Ngôn cũng được điểm xuyến bằng những lời khuyên tương tự, không kể đến các Thánh Vịnh, sách Gióp, vân vân. Xa hơn nữa, không phải là ông Mô-sê được ca ngợi như là “một con người rất đổi khiêm nhu, không ai như thế trong mọi người có trên mặt đất” (Ds 12,3) sao? Mặt khác, ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã tiên báo hành động của Đức Chúa theo chiều hướng này: “Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không còn nghênh ngang trên núi thánh Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa các ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nơi nương ẩn nơi danh Đức Chúa” (Xp 3,11-12).
3. “Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”:
“Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”, có nghĩa“con sẽ được sủng ái trước nhan Thiên Chúa”. Cách nói Kinh Thánh kinh điển này sẽ được củng cố trong Tin Mừng hôm nay khi gia chủ nói với người ngồi ở chỗ cuối: “Xin mời ông bạn lên chỗ trên cho”.
4. Lên án thói kiêu ngạo:
Tiếp đó tác giả cho thấy rằng kẻ kiêu ngạo dẫn đến thảm họa. Lời kết án chỉ được gói gọn trong một câu: “Thảm trạng của người kiêu căng thật vô phương cứu chữa, vì sự ác đã đâm rễ vào lòng họ”. Hình ảnh thật mãnh mẽ: thói kiêu ngạo đã nhiễm độc kẻ ấy tận căn rồi, không tài nào có thể cứu chữa được.
5. Đức khiêm tốn: biết lắng tai nghe:
“Ước nguyện của hiền nhân là biết lắng tai nghe”. Nghệ thuật của hiền nhân là biết lắng nghe, như lời cầu nguyện của vua Salômon, vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất: “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái” (1V 3,9). Suy cho cùng, thái độ này là thái độ khiêm tốn, thái độ lành thánh, vì nó dẫn đến việc gẫm suy và học hỏi sự khôn ngoan.
BÀI ĐỌC II (Dt 12, 18-19, 22-24a)
Bản văn này là đoạn trích dẫn cuối cùng thư gởi các tín hữu Do thái trong Phụng Vụ Chúa Nhật năm C này. Tác giả ngỏ lời với những Kitô hữu gốc Do thái, những người này luyến nhớ những buổi phụng tự hoành tráng và uy nghi của Giao Ước Cũ so với các nghi thức Kitô giáo quá giản dị. Tác giả khuyên họ bằng những lời lẽ đầy hình tượng. Trong một bức tranh rất song đối, ông sẽ đối lập những nét đặc trưng của Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới.
1. Phẩm chất của người Kitô hữu thuộc trật tự tinh thần:
Tác giả phác họa bức tranh bộ đôi tương phản giữa dân Giao Ước Cũ tiến đến núi Xi-nai hữu hình và dân Giao Ước Mới tiến đến thành đô Thiên Chúa hằng sống là Giê-ru-sa-lem thiên quốc. Việc gia nhập vào Tân Ước qua việc hoán cải thuộc trật tự tinh thần, và phép Rửa biến đổi con người từ phàm nhân sang con cái Thiên Chúa cũng hoàn toàn thuộc nội tâm.
2. Khía cạnh trần thế của Giao Ước Cũ:
Giao Ước Cũ được ký kết trên núi Xi-nai giữa những dấu chỉ khả giác và trong quang cảnh kinh thiên động địa: lửa, sấm chớp, mây mù, bóng tối, giông tố trong tiếng kèn vang dậy và tiếng nói thét gào đến nổi con cái Israel phải kinh hoàng sợ hãi đến mức hồn xiêu phách lạc.
3. Khía cạnh thiên quốc của Giao Ước Mới:
Núi Xi-nai đối lập với núi Xi-on, núi này cũng là nơi Thiên Chúa ngự, nhưng là thành đô thiên quốc với muôn vàn thiên sứ.
Dân của thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc sống trong bầu khí hân hoan chứ không trong tâm trạng run rẩy sợ hãi: “Anh em đến dự hội vui giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”. Diễn ngữ “những kẻ đã được ghi tên trên trời” là hình ảnh Kinh Thánh Cựu Ước (Xh 32, 32; Is 4, 3; Đn 12,1; Tv 69,29), được sách Khải Huyền lấy lại dưới tên gọi “Sổ Trường Sinh” (Kh 3,5; 13,8, v.v…). Thuật ngữ “con đầu lòng” ở Israel hàm chứa những người được hưởng những đặc quyền và được thánh hiến cho Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Kitô giáo, con đầu lòng tuyệt vời là Đức Kitô. Chính ở nơi Ngài mà “những người công chính đã được nên hoàn thiện” được dự phần vào những đặc quyền của Ngài. Để chỉ cuộc hội tụ các thánh này, tác giả sử dụng từ Ekklesia, nghĩa là Giáo Hội, Giáo Hội thiên quốc, Giê-ru-sa-lem trên trời.
Đó là bức tranh mà tác giả phác họa nhằm gởi đến các Kitô hữu gốc Do thái này mà đức tin của họ bị chao đảo, thậm chí có vài người có ý định quay trở lại quá khứ xưa kia. Đức Giêsu Kitô là đích điểm mà họ tiến đến. Khi trở thành người Kitô hữu, họ tiến bước về Chúa Kitô, Đấng Trung Gian của Giao Ước Mới và Ngài sẽ dẫn họ về Thiên Chúa, “Đấng xét xử mọi người”.
TIN MỪNG (Lc 14, 1. 7-14)
Thánh Lu-ca là vị thánh ký duy nhất kể ra ba lần những người Pharisêu mời Chúa Giêsu đến nhà mình dùng bữa (Lc 7,35; 11, 27; 14, 1-14). Vì thế, chúng ta nhận ra rằng những người Pharisêu mở rộng cửa đón tiếp Chúa Giêsu để dò xét Ngài rõ hơn. Chúng ta đã có dịp đọc một trong ba câu chuyện này rồi, đó là tại nhà một người Pharisêu ở đó đã diễn ra tình tiết về một người phụ nữ tội lỗi được thứ tha (Chúa Nhật XI).
Chúa Giêsu của Tin Mừng Luca là Chúa Giêsu của mọi người, Ngài sẵn sàng đến với mọi người, dù chống đối hay dò xét Ngài, để hy vọng đưa họ về đường ngay nẻo chính. Vì thế, Chúa Giêsu thường không bỏ lỡ những cơ hội như vậy để gởi đến cho những người Pharisêu những bài học nhớ đời, vừa mang tính xã hội vừa đầy ý nghĩa tôn giáo.
1. Một ngày sa-bát:
Vào ngày sa-bát, phụng vụ trong hội đường đã diễn ra vào ban sáng. Bữa ăn trưa, thường long trọng, được định vị sau phụng vụ tại hội đường. Vào dịp này, một viên trưởng hội đường long trọng đón tiếp Ngài. Những khách được mời rất đông. Chúa Giêsu quan sát thái độ của họ. Chính những khách mời này mà Ngài ngỏ lời trước tiên về đức khiêm tốn: hãy khiêm tốn chọn chỗ ngồi cho mình trong bàn tiệc để sau này được Chúa sắp chỗ trong Nước Trời. Tiếp đó, Ngài quay về gia chủ để cho ông một lời khuyên Đức Ái về việc mời người dự tiệc trong hoàn cảnh xã hội cụ thể ở đó có những người bất hạnh.
2. Bài học về đức khiêm tốn:
Chúa Giêsu lên tiếng như một hiền nhân. Ngài nhắc lại đạo xử thế của các khách mời dự tiệc. Sách Châm Ngôn đã dạy đạo xử thế này theo cùng một cách tương tự: “Trước long nhan đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: ‘Xin mời ông lên trên!’ còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” (Cn 25, 6-7).
Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến thái độ của khách mời dự tiệc, nhưng gián tiếp nhắm đến thái độ của những người Pharisêu mà Ngài quở trách “ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Lc 20, 46). Từ đó, Chúa Giêsu rút ra một câu kết luận: “Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu cũng sẽ lập lại lời cảnh báo này khi kết thúc dụ ngôn về người Pharisêu và người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện (Lc 18, 14).
Đây là câu kết luận của bài học về đức khiêm tốn về mặt xã hội nhưng cũng là chìa khóa để hiểu bài học về mặt thiêng liêng. Chủ từ của thể thụ động được dùng ở đây chính là Thiên Chúa và thì tương lai được dùng ở đây để chỉ về ngày sau hết, ngày chung thẩm. Như thế bài học về đức khiêm tốn không chỉ dạy về phép đối nhân xử thế trong cuộc sống thường ngày nhưng còn mang tính tôn giáo nữa: những người Pharisêu tự cho mình là dân Chúa chọn, được hưởng những đặc ân, thì hãy coi chừng, có thể sẽ ngồi vào chỗ rốt hết (Lc 13, 28-30).
Thật là có ý nghĩa biết bao khi mà những lời đầu tiên của Đức Giêsu là: “Khi anh được mời đi ăn cưới…”. Hình ảnh tiệc cưới trong Tin Mừng là hình ảnh bữa tiệc cánh chung, tự nó biểu tượng hạnh phúc của những người công chính trong Nước Thiên Chúa, đặc biệt Mt 22, 1-10 ở đó những khách được mời lại không được tham dự bàn tiệc trong khi những kẻ bé mọn lại được dự phần vào tiệc cưới.
3. Bài học phục vụ trong khiêm tốn:
Chúa Giêsu không chỉ nghĩ đến những người Pharisêu; Ngài đã ngạc nhiên và sẽ còn ngạc nhiên khi gặp thấy những thái độ như thế tại các môn đệ của Ngài. Thánh Lu-ca tường thuật chính xác vào buổi chiều Tiệc Ly các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu phải nên người phục vụ” (Lc 22, 24). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giêsu cũng đưa ra cho các môn đệ Ngài bài học như thế, nhưng trong một bối cảnh khác: “Trong anh em, người nào lớn hơn cả phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23, 11-12).
4. Bài học về Đức Ái:
Bài học Chúa Giêsu gởi đến cho gia chủ cũng mạnh mẽ không kém. Bài học này không mang giọng điệu của phép xử thế. Hoàn toàn trái với thông lệ của người Do thái vốn khinh chê những người bất hạnh này, Chúa Giêsu mời gọi gia chủ mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Lý do mà Ngài đưa ra: không tìm kiếm những phần thưởng trần thế cho những cử chỉ bác ái, nhưng chờ đợi những phần thưởng của Nước Trời: “Họ không có gì trả lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại”. Hành động một cách vô vị lợi, cho một cách hoàn toàn nhưng không.
Tiếp đó, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn của Ngài bằng một dụ ngôn khác: dụ ngôn“khách được mời xin kiếu, thay vào đó là “những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” (14: 21). Cũng một bài học tương tự.
40. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Nội dung bài Tin Mừng tuần trước khẳng định nếu muốn vào Nước Thiên Chúa, ta phải phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào. Tỉ dụ thực tiễn này chuẩn bị đưa ta đến một thái độ cần thiết để ta được thuộc về vương quốc ấy, đó là sự khiêm nhượng. “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Để nói lên bài học khiêm nhượng, Chúa Giêsu lợi dụng ngay một hoàn cảnh sống trong xã hội: khung cảnh khách dự tiệc lựa chỗ trọng vọng nhất mà ngồi.
1) “Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi”
Không phải mọi người Pharisêu đều là kẻ thù của Chúa, điển hình là ông thủ lãnh nhóm Pharisêu trong câu truyện hôm nay đã mời Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông chắc phải là một người bạn của Chúa. Bữa ăn đông người, vì có Chúa là thượng khách. Quang cảnh nhộn nhịp của bữa tiệc cũng không che nổi hình ảnh nhiều người đến dự tiệc đã dành chỗ ăn trên ngồi trốc, một thái độ không thể chấp nhận đối với những người được mời đến dự tiệc Nước Trời.
Khách được mời đến dự tiệc cưới là do lòng tốt của người mời, chứ không phải họ có quyền muốn đến là đến. Do đó, được mời đến là một ân huệ khách nhận được từ người mời và mục đích họ đến là để đáp lại ân huệ của người mời chứ không phải để tìm vinh dự chỗ cao trọng cho mình. Việc sắp xếp chỗ ngồi hoàn toàn do người mời, không phải do đòi hỏi của khách dự tiệc. Một ngày kia, anh em ông Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho các ông được ngồi hai bên tả hữu của Chúa, Người đã trả lời: “Chén Thầy uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã dọn sẵn cho ai thì kẻ ấy được” (Mc 10,39-40).
Cũng vậy, Thiên Chúa Cha là chủ tiệc cưới Nước Trời và Chúa Giêsu là chàng rể, còn toàn thể nhân loại là khách được mời. Khi ta đáp lời mời cứu độ của Chúa, đến gia nhập vào Vương quốc của Người, điều kiện trên hết ta phải có là có lòng khiêm nhượng. Khiêm nhượng để nhận biết đây là một ân huệ vô cùng lớn lao Chúa ban cho ta. Nếu không khiêm nhượng, ta sẽ lầm tưởng mình xứng đáng được mời vào và sẽ coi thường ân huệ mà không hết lòng hết sức làm bất cứ gì để đền đáp ân huệ ấy. Lãnh nhận ơn cứu độ là để cho mình được biến đổi, như cục đất sét mặc cho bàn tay thợ gốm uốn nắn. Vì thế lời đầu tiên Chúa Giêsu rao giảng khi Người khai mở Triều Đại Thiên Chúa là: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15), hoặc: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10,15). Làm sao sám hối và đón nhận ơn cứu độ như trẻ em được, nếu ta không có lòng khiêm nhường?
2) “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”
Châm ngôn người xưa nói về cách xử sự khôn ngoan của người được mời đi ăn cưới là hãy chọn chỗ thấp để được chủ mời lên chỗ cao hơn. Nhưng Chúa Giêsu không dạy ta làm điều ấy, mà Người chỉ mượn hình ảnh người khách được chủ tiệc mời ngồi lên cỗ trên và người khách bị mời xuống cỗ dưới để nói lên một chân lý: phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Thực vậy, trước mặt Chúa ta có là gì đâu. Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức thân phận mình: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5). Vậy mà Ađam và Evà những tưởng mình là quan trọng, còn muốn được như Thiên Chúa nên đã bất tuân mệnh lệnh Người. Thế là đang được ở trong Vườn địa đàng bị đuổi ra và thân phận trở nên khốn nạn và đau khổ. “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống”.
Tuy nhiên trong kế hoạch cứu độ Thiên Chúa muốn phục hồi thân phận làm con cái cho A-đam bằng một nguyên lý ngược lại: ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên. Vậy để thực hiện kế hoạch theo nguyên lý này, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống trần gian. Chúa Kitô, Con Một Thiên Chúa, đã hạ mình xuống làm người (Ga 1:14) và nhận lấy thân phận tôi đòi và vâng phục Thiên Chúa hoàn toàn đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Chính nhờ hạ mình và khiêm nhượng tuyệt đối, Chúa Kitô đã được Thiên Chúa siêu tôn (Pl 2,7-9).
Chúa Kitô đã vạch sẵn con đường cứu độ để những ai theo Người và tin vào Người thì sẽ không phải hư mất đời đời. Nhiều người Do-thái đã không tin vào Chúa Kitô, nhưng hãnh diện vì có Lề Luật và tin rằng việc giữ Lề Luật sẽ cứu độ họ. Họ đặt việc giữ Lề Luật lên trên việc sống theo Tin Mừng của Chúa Kitô cho nên họ sẽ bị hạ xuống, nghĩa là không được cứu độ. Trái lại, dân ngoại đã khiêm nhượng đón nhận Tin Mừng và đáp lại lời gọi của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã nói với người Do-thái về thực trạng này: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại...” (Cv 13:46).
Não trạng của người Do-thái vẫn còn nằm trong nhiều người Công giáo hôm nay. Họ nghĩ rằng họ mang danh là Công giáo thì thế nào cũng tốt hơn người không có đạo. Có những người Công giáo khác thì cho rằng họ làm những việc đạo đức trong giáo xứ, như làm thừa tác viên cho rước lễ, đem Mình Thánh Chúa cho người già cả, điều khiển ca đoàn... thì chắc chắn họ là những người đạo đức hơn những người khác. Đúng là một cách “tôn mình lên” thật kín đáo và nguy hiểm.
3) “Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”
Chỉ một bữa ăn cũng đủ là đề tài để Chúa dạy nhiều bài học. Bài học cho những kẻ được mời là hãy khiêm nhượng nhìn nhận việc mình được mời là một ân huệ. Nhưng cũng thêm một bài học cho chủ nhà là người mời. Tuy Chúa Giêsu kêu gọi chủ nhà hãy tỏ lòng hào hiệp đối với kẻ nghèo khó, nhưng Người cũng mở cho ta thấy một khía cạnh khác của bữa tiệc Nước Trời. Được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và đáp trả không chỉ là việc cá nhân, nhưng mang chiều kích cộng đồng. Nếu chính ta đã được Thiên Chúa mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ thì ta cũng phải chia sẻ ơn cứu độ ấy với nhau. Mỗi Kitô hữu phải là người đãi tiệc, giúp đem ơn cứu độ đến với những anh chị em nghèo khó, tức là những người đang cần được cứu độ.
Ta có trách nhiệm đối với phần rỗi của anh chị em, nhất là đối với những người ta có trách nhiệm. Linh mục là người đãi tiệc. Cha mẹ cũng là những người đãi tiệc. Thầy cô dạy giáo lý cho các em cũng đóng vai trò đãi tiệc. Triều Đại Thiên Chúa là thời gian Người đãi tiệc. “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25:6). Ta tiếp tay với Thiên Chúa để giúp cho bữa tiệc cứu độ càng thêm đông, bằng cách kêu mời anh chị em đến. Ta làm công việc ấy khi ta cho họ thấy cuộc sống của ta đang được ơn cứu độ biến đổi và ta đang sống như con cái Thiên Chúa.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Được Chúa mời gọi đến dự tiệc cánh chung, tôi đã đáp lại như thế nào? Từ chối vì bận rộn? Lần lữa nói với Chúa để ít nữa sẽ lo lắng phần hồn? Khiêm tốn và vui mừng đến để thi hành ý Chúa muốn cứu độ tôi?
Có khi nào tôi vỗ ngực cho mình là người Công giáo tốt không? Việc “tôn mình lên” thường biểu lộ bằng những cách nào nơi tôi? Lời nói? Thái độ khinh người? Thích so sánh hơn thiệt?
Nếu tôi là bậc làm cha mẹ, tôi nghĩ gì khi nghe người bạn phàn nàn về con cái rồi kết luận: “Thôi, kệ xác nó. Nó lớn rồi, có linh hồn thì phải lo mà giữ!”?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 14)
41. Một tình yêu mang kích thước nhân loại
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Bài Phúc Âm hôm nay mô tả hai nét trong tính chất đặc trưng Kitô giáo là khiêm hạ và bất vụ lợi. Những bộ óc rất cao siêu có thể đưa ra những lời khuyên tương tự, nhưng họ luôn luôn thiếu kinh nghiệm sống của một người từng sống như Đức Kitô. Vì thế muốn đọc bài Phúc Âm hôm nay với một tâm tình thích hợp, phải nhờ gương mẫu Đức Kitô soi sáng cho. Chúng ta suy niệm vắn tắt về đức khiêm hạ và đức bất vụ lợi của Chúa Giêsu.
1) Đức khiêm hạ của Chúa
Một trong những nét chung của mọi tham vọng con người là lòng ham muốn giàu sang, quyền thế, xác định cá tính, thành đạt. Ham muốn đó thường kéo theo những thái độ mập mờ, đi tới bất công, hà khắc, khoe khoang, người ta chấp nhận tất cả miễn là thành công. Đức Giêsu tự đặt mình ở phía đối lập cái triết lý phàm tục ấy. Chúa khiêm hạ, không phải vì quan niệm triết lý hoăc vì nhu nhược, đơn giản chỉ vì bản tính Chúa khiêm hạ. Chúa không phô trương một lý tưởng nhân loại, nhưng Người muốn ở trong sự thật đối với Chúa Cha và đối với nhân loại. Cái thước so sánh của Người, dưới thế này không có, vì nó là nhãn quan của Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa là AI? Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu biểu lộ tình yêu khi Người nhập thể để gặp nhân loại. Người ta có thể nói đến sự hạ mình, nhưng thật ra đây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm cỡ con người. Khiêm hạ là một trong những bộ mặt tình yêu. Thiên Chúa ở bên trên con người, ở tầm cao vô cùng, nhưng vì Người là tình yêu cho nên Người mặc lấy kích thước con người, đối thoại với con người. Vì vậy Đức Giêsu, Người-Chúa, xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không tìm kiếm địa vị cao sang nổi bật, Chúa khinh chê sự kết thân với kẻ giàu mạnh. Trái lại Chúa quan tâm chiếu cố những kẻ nghèo, những kẻ bị ruồng bỏ, những kẻ ốm yếu tật nguyền, an ủi và chữa lành họ. Kitô hữu cũng vậy, phải quan tâm chiếu cố những bạn bè quen thuộc, nhất là không được quên rằng căn bản mọi sự khiêm hạ là tôn trọng nhân vị kẻ khác.
2) Đức bất vụ lợi của Chúa
Sự khiêm hạ đích thật khiến người ta tôn trọng bất cứ ai với một tâm tình bất vụ lợi. Lòng đại lượng của Thiên Chúa không đòi hỏi có đi phải có lại. Thiên Chúa đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn mà không làm cho họ mặc cảm vì họ chẳng có gì đền đáp. Đức Giêsu nói đến bữa tiệc mà khách quý phải thuộc giới nghèo không có khả năng đáp lễ. Chúa đưa ra dụ ngôn ấy vì chính Người xử sự như vậy. Đức Giêsu nói đến bữa tiệc Thiên Chúa mời tất cả mọi người không phân biệt, nhất là những kẻ nghèo, vì nghèo mới dễ dàng nhận lời mời gọi. Về mặt thiêng liêng, kẻ nghèo là kẻ không khoe khoang kiến thức, đức hạnh, hoặc bất cứ một ưu điểm nào khác trước mặt Thiên Chúa. Họ biết rõ thân phận mình, nhận ân huệ của Thiên Chúa mà chẳng có gì để dâng hiến Thiên Chúa. Con người càng nhận dễ dàng bao nhiêu, Thiên Chúa càng tỏ ra rộng rãi và bất vụ lợi bấy nhiêu. Chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng đón nhận ân huệ, chúng ta cũng có bổn phận san sẻ cho kẻ khác một cách rộng rãi, và không vị lợi ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta rất hậu và nhưng không. Chúng ta hãy san sẻ ưu tiên cho kẻ nào không có gì tặng lại chúng ta, nghĩa là chúng ta phải rộng rãi vì tình thương không vị lợi, vì tôn trọng nhân phẩm kẻ khác.
42. Sự khiêm nhường dẫn đến chỗ cao hơn
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’ – Charles E. Miller
Một nghi thức ấn tượng và đơn giản đã xảy ra trong phụng vụ ngày thứ Sáu tuần thánh. Sau khi mọi người đã tụ họp lại, vị linh mục và những thừa tác sấp mình xuống im lặng trước bàn thờ. Đó là sự diễn tả kính sợ và khiêm nhường trước Thiên Chúa. Vị linh mục và các thừa tác nằm trước bàn thờ như những người đã chết. Nhưng tiếp đó họ đã đứng lên để trình bày rằng họ đã sống lại từ cõi chết của tội lỗi và sống một đời sống mới trong Đức Kitô.
Nghi thức cổ xưa này đã được diễn tả một cách ít bi kịch hơn trong phần nghi thức thống hối của Thánh Lễ. Trước Thiên Chúa và trước anh em, chúng ta đã nhận biết tội lỗi của chúng ta và nhu cầu cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong tâm tình đó, chúng ta sấp mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Đó là phương cách đầy đủ mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Khi các con được mời đến dự tiệc cưới, hãy đi và ngồi những chỗ rốt bét”. Chúa Giêsu đã hướng dẫn theo sự khôn ngoan mà chúng ta đã nghe trong sách Khôn ngoan: “Hãy để cho công việc của anh em được hướng dẫn trong sự khiêm nhường, anh em càng lớn, anh em càng khiêm nhường và anh em sẽ được nghĩa với Thiên Chúa”.
Tìm kiếm ơn nghĩa với Thiên Chúa mà chúng ta phải có: Nhờ Người Con dâng hiến chính mình trên thánh giá, mà Chúa Cha đã Phục Sinh chúng ta trong sự sống mới. Khi chúng ta hạ mình khiêm nhường trong nghi thức thống hối –sau khi chúng ta đã sấp mình một cách thiêng liêng hoặc đã đặt mình vào chỗ rốt bét- Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy đến chỗ cao hơn”. Chúng ta có thể được dẫn lên chỗ của chúng ta với giá trị mà Đức Kitô đã mặc lên trên chúng ta. Chúng ta có thể thông dự một cách đầy đủ vào trong hy tế và bữa tiệc cưới lớn lao của Chiên Thiên Chúa.
Có lẽ một số người trong chúng ta vướng mắc trong vấn đề khiêm nhường này. Chúng ta có thể nhấn mạnh về sự tội lỗi và sự bất xứng của chúng ta một cách quá độ mà quên rằng những gì mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta để Phục Sinh chúng ta khỏi tội lỗi. Đức Kitô đã kêu gọi chúng ta tới sự thật, không phải gian dối nhưng là sự khiêm nhường. Nói cách khác, một số người trong chúng ta có thể có thái độ hơi sai lệch, một chút ích kỷ, hoặc những gì giống như thế và ngay lập tức chúng ta ngần ngại tiến đến chỗ cao nhất nơi Tiệc Cưới. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đừng kiêu ngạo, nhưng hãy khiêm nhường.
Sự quân bình cần thiết khi chúng ta nghĩ rằng, dù chúng ta có giá trị hay không có giá trị. Phụng vụ cho chúng ta môt sự quân bình bằng việc khuyến khích chúng ta một mặt chấp nhận rằng mình tội lỗi và mặt khác bảo đảm rằng chúng ta một cách nào đó được Đức Kitô Phục Sinh khỏi sự chết của tội lỗi.
Trong kinh nguyện Thánh Thể thứ hai, linh mục đã thưa với Thiên Chúa nhân danh tất cả chúng ta: “Chúng con cám ơn Chúa vì Ngài đã thương đến sự yếu hèn của chúng con, để chúng con xứng đáng đứng trước nhan Ngài và phục vụ Ngài”. Bản Latinh thật sự mạnh mẽ bởi đã chuyển dịch theo nghĩa chữ sẽ như thế này: “Chúng con tạ ơn Chúa vì Ngài đã làm cho chúng con nên xứng đáng đứng trước nhan Ngài diện đối diện”.
Những người khiêm nhường phải cẩn thận đừng bao giờ nghĩ rằng Đức Kitô thì không làm một việc tốt khi cứu chuộc họ. Đừng bao giờ nghĩ rằng chúng ta vẫn còn là những tạo vật khốn khổ, những người đó thì không bao giờ làm hài lòng Thiên Chúa.
Trước khi hiệp lễ vị linh mục tuyên bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian phúc cho những ai được kêu gọi đến dự bữa tiệc Chiên Thiên Chúa”. Bữa tiệc này không phải là bữa tối sau cùng. Đó là bữa tiệ cưới lớn lao của Chúa trên thiên đàng (Kh 19). Quả thật, phúc cho chúng ta là những kẻ thấp hèn bởi vì chúng ta là như thế và nhờ Thánh Thể chúng ta sẽ được dẫn tới chỗ cao hơn trên Nước Trời và chúng ta sẽ vui hưởng tiệc cưới lớn lao của Chiên Thiên Chúa.
43. Ghế Giám Mục
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đức Giám Mục Helder Camera là một Giám mục nổi tiếng của Châu Mỹ La Tinh. Tên tuổi của ngài được gắn liền với những hoạt động tích cực để bênh vực những người nghèo khổ bị áp bức trong xã hội.
Ngày nọ, Đức Cha Camera tiếp một số nông dân nghèo tại Tòa Giám Mục. Nhiều người không có chỗ ngồi, phải đứng trong phòng khách. Trong khi đó thì chiếc ghế dành cho vị Giám mục thì không ai dám động đến. Thấy có một bác nông dân cao niên đứng gần chiếc ghế bỏ không ấy, Đức Cha Camera đến cầm tay ông ấy dìu ông ngồi xuống chiếc ghế giám mục của mình.
Đối với một con người sống chết cho người nghèo như Đức Cha Camera thì hẳn đây không phải là một cử chỉ khoe khoang, có tính toán. Nhưng đó là một chọn lựa cơ bản của một con người thực sự dấn thân phục vụ người nghèo và đồng hóa mình và những người nghèo.
Thưa anh chị em,
Cử chỉ của Đức Cha Camera đối với người nghèo hoàn toàn trái ngược với cử chỉ của nhóm Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ tranh giành ngồi vào chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Chúa Giêsu đã chứng kiến được cảnh chọn chỗ nhất nầy khi Ngài đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh của những người Biệt phái Pharisêu. Ngài đã kể cho khách dự tiệc một ví dụ để dạy cho họ một bài học, không chỉ là thuật xử thế mà còn về đức khiêm tốn hoàn toàn trái ngược với cái óc tự phục, háo danh của họ.
Bài học thật là đơn giản: Theo Chúa Giêsu dạy, người khách tới dự tiệc không nên tự động tìm cho mình chỗ nhất, nhất là khi không chắc rằng mình là người khách quý nhất của đám tiệc. Chỗ nhất là để dành cho người nhất, chỗ sang trọng là để dành cho người sang trọng. Do đó mới có sự mời người nầy lên, mời người kia xuống. Nếu được mời lên thì càng được vinh dự trước mặt các người khác mời; còn nếu bị mời xuống thì càng thêm xấu hổ trước mặt mọi người. Không phải cứ giành lấy chỗ nhất, chỗ sang trọng là đương nhiên trở thành người nhất, người sang trọng. Người nhất, người sang trọng, dù có ngồi chỗ rốt hết cũng vẫn là người nhất, là người sang trọng, và cuối cùng vẫn được đưa về lại chỗ xứng đáng của mình. Vì vậy, Chúa nói: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
Nghe thoáng qua, xem ra Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về cách xử thế ở đời và ẩn núp trong cung cách đó, có một chút gì là tính toán: Giả vờ ngồi chỗ cuối, để rồi được chủ tiệc mời lên trên và khi đó sẽ được danh giá trước mặt mọi người. Đó là khiêm tốn giả tạo, là kiêu ngạo trá hình. Cần phải lưu tâm đến câu kết luận của Chúa: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Câu châm ngôn nầy đã làm sáng tỏ ý nghĩa của ví dụ: Ở đây, không còn là cách xử thế ở đời nữa, nhưng là giáo huấn về Nước Trời được sánh ví với bữa tiệc. Việc sắp xếp chỗ ngồi trong bữa tiệc là việc của chủ tiệc chứ không phải của khách mời. Cũng vậy, việc tham dự vào Nước Trời không tùy thuộc vào sự đánh giá của con người về chính mình, nhưng tùy thuộc vào lời mời gọi và đánh giá của Thiên Chúa. Còn người trước mặt Thiên Chúa như thế nào thì chỉ là thế ấy thôi, không hơn không kém. Do đó, để ngồi đúng chỗ của mình, mỗi người phải tự đặt mình trước mặt Thiên Chúa, chứ không so sánh với người khác. Vì chỉ có Thiên Chúa mới đánh giá đúng địa vị đích thực của mỗi người. Trước mặt Chúa, con người chỉ là một tạo vật bé nhỏ, nghèo khó vô cùng. Và khi đó, khiêm nhường chính là sự thật, giúp chúng ta hiểu đúng đắn con người của mình.
Người khiêm nhường vì hạ mình sát đất, nên không còn có thể ngã xuống đâu được nữa, cũng chẳng có ai tranh dành chỗ thấp ấy, nên họ luôn có sự bình an và còn được cảm tình của nhiều người. Trái lại, người kiêu ngạo như leo lên ngọn núi cao, dễ bị chóng mặt và té xuống tan xương nát óc. Đồng thời, vì tranh dành địa vị, tiếng khen hơn người nên bị mọi người ghen ghét và tâm hồn không lúc nào bình an thực sự.
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa hôm nay đụng chạm đến những người Biệt phái Pharisêu tự phụ, giả hình. Họ vẫn tự dành cho mình chỗ nhất ở mọi nơi và ngay cả trong Nước Trời. Họ dựa vào những tước hiệu nầy nọ để bắt cả Thiên Chúa phải dành quyền ưu tiên họ vào Nước Trời mà quên mất rằng mình phải trở nên con người xứng đáng với chỗ nhất đó. Thực ra, chẳng những đối với người Biệt phái, mà Tin Mừng hôm nay còn đụng chạm đến cái tôi của mỗi người chúng ta. Tuy không nói ra, nhưng thực ra ai cũng tìm kiếm danh vọng, địa vị, thích được người khác kính nể, ca tụng, thích được nổi bật giữa đám đông, gây được ảnh hưởng trên dân chúng.
Ngày nay, khiêm nhường thường bị con người coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược, nhưng lại được Thiên Chúa tôn lên. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôn nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
Chính Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã bỏ chỗ nhất để ngồi vào chỗ cuối cùng khi Ngài nhập thể làm người ở giữa loài người. Nói như Cha Huvelin: “Đức Kitô là Ngài về chỗ đó nữa”. Và Thánh Phaolô đã nói: “Đức Kitô đã hủy mình ra không, lãnh lấy thân phận tôi đòi… đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá. Bởi vậy, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài… hầu trước Danh hiệu của Đức Giêsu, mọi gối đều phải quỳ xuống bái lạy… và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: Giêsu Kitô là Đức Chúa” (Pl 2,6-11).
Khiêm nhường còn là một bộ mặt của tình yêu: Vì yêu thương con người, Thiên Chúa ở tầm cao vô biên đã hạ mình xuống ở tầm cỡ kích thước của con người. Ngài xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không tìm kiếm địa vị cao sang nổi bật. Chúa không kết thân với kẻ giàu có, quyền thế. Trái lại, ngài quan tâm chiếu cố những người nghèo, những kẻ bị ruồng bỏ, những kẻ ốm yếu tật nguyền, an ủi và chữa lành họ.
Vì vậy, ngay trong bữa tiệc nầy, sau khi đã cho khách mời một bài học về việc chọn chỗ chót, Chúa Giêsu cũng không quên hướng về ông chủ tiệc để nhắc nhủ ông về việc mời khách dự tiệc. Chúa nói: khi mời khách dự tiệc, đừng mời những người giàu sang, quyền thế. Vì như vậy chỉ là hình thức trao đổi để trục lợi. Mời người để được người mời lại. Hãy mời những người nghèo khó, không có khả năng đáp đền. Chúa nói như vậy, vì chính ngài đã xử sự như vậy. Thiên Chúa đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn mà không làm cho họ mặc cảm vì họ chẳng có gì đáp lễ.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. “Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-54).
44. Chỗ ngồi nơi bàn tiệc - McCarthy
Suy Niệm 1. NHỮNG CHỖ NGỒI DANH DỰ
Đức Giêsu được mời đến nhà của một người lãnh đạo nhóm Pharisêu để dùng bữa. Khi Người đến, Người cảm thấy những người Pharisêu dò xét Người. Vì thế Người quyết định dò xét lại họ đôi chút. Cảnh quan mà đôi mắt Người bắt gặp không có tính cách xây dựng. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự, điều đó chỉ chứng tỏ thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ. Không có đời sống tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường. Đức Giêsu nói “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng cao”.
Khi chúng ta bước vào một ngôi nhà thờ lớn, lập tức chúng ta cảm thấy phải khiêm cung. Chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé và vô nghĩa. Chúng ta nhận thấy mình lệ thuộc vào những điều tầm thường giả tạo. Nhưng một cách lạ lùng, chúng ta cũng được nâng cao. Bởi lẽ khi chúng ta hạ mình xuống và buông bỏ những sự vật đã cho chúng ta một cảm thức giả tạo về tầm quan trọng và cao siêu của mình, khiến chúng ta cách biệt với những người khác, lúc đó chúng ta thấy mình được nâng cao. Chúng ta bắt đầu nhận thức sự cao cả thật của chúng ta không ở trong chính mình, mà ở trong sự kiện chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
Mỗi Chúa nhất, chúng ta được mời đến dự tiệc –bữa tiệc Thánh Thể. Ở đây Đức Giêsu là chủ, còn chúng ta là khách của Người. Ở đây không có những chỗ ngồi đặc biệt- bạn có thể ngồi vào chỗ nào mà bạn muốn. Ở đây đặc quyền, địa vị, tầng lớp không còn ý nghĩa gì. Sự khác nhau không đáng kể. Đó là vì trước mặt Thiên Chúa tất cả chúng ta đều bình đẳng.
Không phải vì chúng ta đã bị hoá đồng mẫu số. Đúng hơn vì tất cả chúng ta đều được nâng cao. Chúng ta giống những người đang ở trên đỉnh núi. Trên đỉnh núi mà nói chỗ đầu, chỗ cuối hoặc chỗ cao hơn, chỗ thấp hơn thì thật là ngớ ngẩn. Điều đó cũng được áp dụng cho ngôi nhà của Thiên Chúa. Ở đây, mọi chỗ đều là chỗ danh dự. Bước vào đây làm cho mọi người được bình đẳng. Khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa này, mọi đặc quyền bay đi như làn khói, và tất cả chúng ta đều trở nên khiêm hạ nhưng cũng được nâng cao lên. Trước hết, chúng ta phải hạ mình xuống để được tôn lên. Sau đó chúng ta phải mang theo tinh thần này vào đời sống với chúng ta.
Một lần nọ, ông thị trưởng của một thành phố mời tất cả dân chúng của thành phố đến dự tiệc. Trong số những người đến dự, có một người rất lỗi lạc có tên là Daniel. Ông Daniel là một học giả lớn và là một người khôn ngoan. Dĩ nhiên, ông rất khiêm nhường và không thích được tôn vinh khi ông đến, dĩ nhiên ông thị trưởng mời ông ngồi ở đầu bàn. Ông Daniel cám ơn ông thị trưởng và nói rằng ông thích ngồi ở giữa những người nghèo ở cái bàn gần cửa nhất. Và ông đã làm như thế.
Khi những người khách mời danh giá khác đến, ông thị trưởng mời họ ngồi bất cứ nơi nào họ thích. Dĩ nhiên họ đã chọn ngồi ở bàn đầu. Phòng tiệc đã đầy ắp và tình cờ chỗ duy nhất còn lại ở bàn cuối. Thế mà vào phút chót con người danh giá ấy đến. Ông thị trưởng không có chọn lựa nào khác hơn là dẫn ông này đến chỗ trống.
“Nhưng đây là chỗ ở bàn cuối” người khách phản đối,
“Không, đây là chỗ bàn đầu”, ông thị trưởng đáp.
“Tôi không hiểu” người khách nói.
“Nơi nào có ông Daniel ngồi thì chỗ ấy là bàn đầu”. Ông thị trưởng đáp.
Bài học luân lý của câu chuyện: không phải chỗ ngồi làm vinh dự cho người khách, nhưng người khách làm vinh dự cho chỗ ngồi. Chúng ta không biết Chúa Giêsu ngồi ở chỗ nào trong suốt bữa ăn, nhưng dù Người ở nơi nào thì nơi ấy là một chỗ vinh dự.
Bữa tiệc là một biểu tượng của Nước Trời. Chúng ta không nên quan tâm đến việc tìm kiếm chỗ ngồi vinh dự trong Vương Quốc. Chúng ta hãy coi việc mọi người chúng ta đều được mời là một đặc ân. Dù trong tình huống nào, mọi chỗ trong Vương Quốc đều là một chỗ danh dự.
Suy Niệm 2. SỰ CHO CHÂN THẬT
Sự ban cho hoặc dâng tặng là tâm điểm của Tin Mừng, và thuộc về bản chất của đời sống Kitô hữu. Nhưng không phải mọi sự cho đều chân thật.
Nicholas, một con người nổi tiếng là quảng đại, ông chết và được lên thiên đàng. Thánh Phêrô đợi ông ở cửa. Ở đó, Thánh Phêrô chỉ cho ông hai đống vàng, một đống nhỏ và một đống lớn gồm những cục vàng có kích thước khác nhau.
“Những cái này là gì vậy?” Nicholas hỏi.
“Đây là những hành động ban tặng mà ông đã thực hiện ở trần gian –mỗi hành động là một cục vàng”.
Ông Nicholas cảm thấy trong lòng đầy sự tự hào. Nhưng rồi, Thánh Phêrô lại nói: “Khổ nỗi, không phải mọi sự cho đều là sự chân thật. Nhiều lần nó bị dính bén bởi vì lòng ích kỷ. Vì thế chúng ta phải tiến hành trắc nghiệm những hành động ban tặng của ông. Vì thế, những cục vàng trong đống vàng lớn không được tính đến”.
“Sao vậy?” Nicholas hỏi.
“Chúng tượng trưng cho những lần ông ban tặng cho bạn bè, người thân, bồ bịch v.v… Chúng không tạo nên vàng thật. Kể cả bọn kẻ cướp cũng tốt với người thân của chúng”.
Nói đến đây những cục vàng trong đống lớn biến thành cát. Thánh Phêrô cầm một cái sàng có mắt rộng đặt những cục vàng trong đống nhỏ vào sàng. Sau khi lắc sàng, chỉ còn lại trong sàng những cục rất lớn.
“Ngài đang làm gì vậy?” Nicholas hỏi.
“Tôi sàng sảy những sự ban tặng mà ông chỉ làm để được đáp lại một điều gì đó. Cho như thế là một thứ đầu tư. Ông có được sự trả lại mà đôi khi có lời hậu hĩ”.
Đến đây, Thánh Phêrô đổ những cục đã sàng được qua một bên và chúng trở thành cát bụi. Rồi ngài làm cho các mắt sàng nhỏ lại và hốt đống vàng còn lại vào sàng. Ngài lại sàng tiếp và đổ bỏ qua một bên các cục còn giữ lại trong sàng.
“Làm thể để làm gì?” Nicholas hỏi.
“Để sàng sảy những việc lành mà ông đã làm để được những người khác ngợi khen. Người ta có thể làm mình trở nên một thần tượng qua việc ban tặng”.
Thánh Phêrô làm cho các mắt sàng nhỏ hơn nữa, rồi sàng tiếp phần còn lại. Ngài nói: “Bây giờ chúng ta loại bỏ những việc lành mà khi ông làm chỉ vì những cảm giác ông cảm nhận khi thực hiện”.
Nicholas nhìn thánh Phêrô bỏ những cục vàng còn giữ lại trong sàng mà khi vào không khí chúng trở thành bụi bặm. Thánh Phêrô lại thu gom phần còn lại cho vào trong sàng sau khi đã làm cho mắt sàng nhỏ lại.
“Bây giờ đến cái gì vậy?” Nicholas hỏi:
“Bây giờ chúng ta sẽ sàng bỏ những sự ban tặng mà ông chỉ làm vì ý thức của bổn phận”.
Ngài lắc sàng. Những gì còn giữ lại ngài đổ bỏ sang một bên và chúng chịu chung số phận với những cục vàng đã thành cát bụi.
“Dừng lại thôi!” Nicholas kêu lên: “Nếu ngài tiếp tục như thế thì chẳng còn lại gì cả. Như thế làm sao tôi có thể được thông hành vào thiên đàng?”.
“Chúng ta phải tiếp tục thôi”. Thánh Phêrô nói: “Chúng ta phải nhìn thấy cái giá của việc ông ban tặng. Giả sử chúng ta loại bỏ những vật ông ban tặng mà không tốn kém gì cho ông thì có bao nhiêu lần ban tặng sẽ biến mất? Và ông đã ban tặng những gì chỉ vì người nhận là một người mà ông cảm thấy xứng đáng với quà tặng của ông?”.
Nhưng ông Nicholas không còn muốn nghe gì nữa: “Thật là một cảm giác khủng khiếp như khi người ta có vàng trong tầm tay mà sau đó bị giật lấy khỏi tay bạn”, ông kêu lên:
“Nhưng nếu nó không trở thành vàng thật mà là vàng giả”. Thánh Phêrô nói thêm. “Này ông Nicholas, sự cho thật rất hiếm, cũng như vàng thật rất hiếm. Cho mà không mong được đáp trả lại gì cả trừ phần thưởng cao cả là thiên đàng mới chính là sự cho chân thật. Nhưng hãy vui mừng lên, tôi có một tin mừng cho ông”.
“Tin mừng gì?” Nicholas hỏi.
“Chúa là Đấng ban tặng cao cả nhất. Hành động ban tặng của Người là vàng ròng. Nhưng chúng ta đã nói chuyện nhiều rồi. Đây là lúc phải gặp chính Chúa”
“Nhưng tôi chỉ có tay không”. Nicholas kêu lên.
“Điều đó có nghĩa là ông nghèo khó”. Thánh Phêrô đáp: “Nhưng đừng bao giờ hoảng sợ. Chúa ban cho một cách rất quảng đại những người nghèo khó mà không xấu hổ thừa nhận mình nghèo. Thôi, đi nào”.
45. Con là không, Chúa là tất cả – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một hôm Dương Chư sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
- Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đâu mà chẳng được người yêu quý tôn trọng.
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Đức Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã khiêm hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quỳ xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Đức Giêsu tự hạ mình xuống như thế không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa, biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt đưọc từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khi yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta “đãi tiẹc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm, hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3,16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, mới trở nên giống Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen.
46. Ai mời gọi chúng ta – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
“Rồi Chúa Giêsu nói…”. Tiếng ‘rồi’ đưa vào một bài học thứ hai thường bị che giấu bởi vì người ta không thích theo dõi lắm.
Được mời dự một bữa tiệc xa hoa, được chuẩn bị kỹ lưỡng cho tới cả những chỗ ngồi nơi bàn tiệc, Chúa Giêsu quan sát, nói đùa và lưu ý sắc bén đến quyền ngồi trên: “Chớ ngồi chỗ cao nhất”.
Bữa tiệc tiếp tục, Chúa Giêsu buồn phiền và không có gì tốt hơn nên Ngài tiếp tục quan sát. Người ta ở vào số những người ‘lành’, Ngài hơi ngột ngạt trong cái thế giới quá được chọn lựa này. Đâu là những người không được yêu thương mà Ngài luôn luôn lo lắng đến? Ngài đưa ra một ý tưởng chấn động: “Khi muốn tổ chức một bữa ăn ngon, ngươi đừng nghĩ đến người bạn này, người bà con nọ hoặc người láng giềng kia làm bạn quan tâm. Tốt là ngươi hãy mỡi những người nghèo, những kẻ tàn tật”.
Đây là điều khó nuốt. Bạn thấy mình đang xáo trộn việc mời khác theo kiểu này phải không? Nhưng điều tiếp theo có lẽ còn khó chịu hơn nữa: “Ngươi sẽ được trả công trên trời”. Nào tốt lắm! Đây cũng vẫn là đức tính khéo léo. Lời khuyên vào đầu bữa tiệc là: “Hãy chọn chỗ thấp, người ta sẽ mời ngươi lên trên”. Bây giờ là tới tư tưởng mới: “Ngươi hãy mời những người không có khả năng đáp lễ, họ sẽ nhờ Chúa trả công cho ngươi”. Đây là những lời khuyên lạ lùng.
Họ yêu cầu được lắng nghe trong một ánh sáng nào đó: đối với Chúa Giêsu, bữa tiệc luôn luôn là một biểu tượng của cuộc sống với Thiên Chúa. Ở đây, Chúa Giêsu khởi đi từ hai thái độ rất con người. Đây là những phản xạ của người được mời: “Miễn là tôi không ngồi ở cuối bàn… Người ta có đặt tôi ngồi bên phải ông chủ tịch hay không? … “Và đây là những phản xạ của người mời: tổ chức những bữa tiệc hấp dẫn và có ích.
Nhưng trong khi rút chúng ta ra khỏi những lo lắng của chúng ta, Chúa Giêsu đột ngột khai mở cho chúng ta ý nghĩ có thể có trong đó: Khi ngươi hành động như vậy, ngươi là người nào trước mặt Thiên Chúa?
Bạn lo lắng đến việc xã hội đánh giá bạn, bạn đo lường sự đánh giá đó và hơi băn khoăn đối với việc người ta tiếp đón bạn trong các buổi tiếp tân. Không phải loại bỏ cũng như phóng đại điều đó, đó không phải là điều quan trọng. Bạn hãy đi xa hơn nữa! Cho đến giá trị của bạn trước mặt Thiên Chúa. Chính việc bạn là như thế nào trước mặt Ngài với một ngày kia tạo nên giá trị thực và quyết định của bạn. Đây là điều sẽ được tất cả mọi người ca ngợi hoặc xét như là điều tệ hại nhất trong các điều thất bại.
Và những bữa tiệc trứ danh, những lo lắng của bạn về những khách mời thì sao? Tôi đã làm bạn hơi xúc động khi nói bạn đừng mời những người bạn quan tâm. Đó là để bạn nới lỏng những lãnh vực có ích và thân thiết với bạn để nhìn vào tâm lòng của bạn là người mời dự tiệc. Đứng trước tâm lòng của Thiên Chúa! Đôi khi bạn có mời một cách trong sáng, chỉ với ý tưởng làm cho một người được hạnh phúc hay không? Người hạnh phúc đó sẽ không đáp lễ bạn gì cả.
Cái được thua là rất to lớn, phải đọc kỹ những lời cuối cùng này: “Ngươi sẽ được hạnh phúc. Và ngươi sẽ được báo đáp trong cuộc sống vĩnh cửu”. Chúa Giêsu đi ngay đến kết quả cuối cùng, nhưng “ngươi sẽ được hạnh phúc” là một hạnh phúc tức khắc: ngươi hạnh phúc vì mời những người như thế. Một ngày kia bạn sẽ được ngồi cùng bàn với Thiên Chúa bởi vì ngay từ bây giờ, bàn tiệc của ngươi là bàn tiệc của Thiên Chúa.
Do đó đây không phải là việc mời gọi người khuyết tật cô đơn này hoặc bà quả phụ kia để chiếm được một chỗ tốt trên thiên đàng. Phải, và đây là điều khó khăn khác, là người bình thường thực hiện những cử chỉ đó đến độ người ta có thể nói chúng ta: “Tại nhà người ấy, người ta cảm thấy như tại nhà của Chúa”.
47. “Hãy vào ngồi chỗ cuối”
Đức Giêsu nói với chúng ta: “Hãy vào ngồi chỗ cuối”, chính Người đã làm gương, Người tự làm người nghèo khó với những người nghèo khó.
Không phải chỉ là những lời khuyên bảo về thuật xử thế mà Chúa Giêsu nêu ra, chính là một lời cảnh cáo về những điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa.
Trước hết phải gạt bỏ tất cả tính tham vọng và lòng muốn hơn kẻ khác, để làm người nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa, là Đấng tôn lên những kẻ khiêm nhường và hạ xuống những kẻ kiêu ngạo.
Rồi, như Đức Giêsu, phải hết sức lưu ý đến những người nghèo khổ và yêu mến họ, bởi vì họ không có gì để trả lễ.
Tình yêu nhưng không và vô vị lợi này sẽ được thưởng ngày sống lại.
Sống không tham vọng và hoàn toàn vô vị lợi, đó là phương thế chắc chắn chinh phục được lòng Thiên Chúa và lòng người ta.
Ngồi vào chỗ cuối với hy vọng thầm kín được mời lên chỗ nhất, đó là sự giả dối phải không?
Muốn biết điều đó, phải chọn chỗ cuối và nhất quyết ở lại chỗ đó.
Bây giờ chúng ta sẽ nhận thấy phải có cái gì hơn là sự giả hình để ở lại đó, phải có tình thương.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Con của Chúa đã không ngần ngại chọn chỗ cuối, chỗ mà không ai ưa thích.
Người đã đứng về phía người nghèo và người khiêm tốn. Nhờ Người và nhờ ơn Thánh Thần, chúng con biết Chúa vô cùng quyền phép: ban ơn và tha thứ.
Tại bàn tiệc Nước Trời, những chỗ danh dự được dành cho những kẻ bé mọn.
48. Chọn chỗ nơi bàn tiệc – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Một học giả người Mỹ tên là Tom Roberson đã kể về một cầu thang dài ở nơi hành hương bên Trung Quốc. Cầu thang này là giai đoạn cuối cùng của con đường leo lên núi hành hương, vì đã hơn cả 1000 năm dòng người hành hương đã làm những bậc cầu thang bị mòn và thậm chí nguy hiểm.
Trên thực tế, đã có rất nhiều người hành hương bị trợt té và bị tai nạn. Những người ở trong vùng đã đề nghị các vị tăng ni ở đó nên sửa chữa lại những bậc cầu thang, vì e rằng họ có thể bị mất khách hành hương và đó cũng là nguồn trợ cấp cho thiền viện. Nhưng vị sư chủ trì đã từ chối và nói rằng, thật đáng tiếc cho những khách hành hương bị tai nạn, nhưng điều này có thể là vì họ ngẩng đầu quá cao. Tuy nhiên, họ chỉ là số ít trong số những cả triệu người nhận biết rằng, trong cuộc sống người ta phải bước đi cẩn thận. Ngẩng đầu cao nhưng không quá cao không đến nỗi không thấy cái hố cao trước mặt.
Chương 14 Tin Mừng thánh Luca đã đưa vào vài câu chuyện và lời dạy của Chúa Giêsu, đặc biệt trong đoạn văn nói về tiệc cưới. Chúa Giêsu không lạm dụng sự quảng đại của chủ nhà mà lấy lời giảng dạy để chỉ trích họ, nhưng thánh Luca đã biến bữa ăn thành cơ hội để Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có thái độ thích hợp đối với bàn tiệc cứu độ của Thiên Chúa mà Ngài đã dọn sẵn cho chúng ta là dân của Ngài.
Như thế, chúng ta phải đón tiếp nước Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta như thế nào? Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn để dạy những người thích chọn chỗ vinh dự nơi bàn tiệc. Không nên làm như vậy, mặc dù mình là nhân vật quan trọng, kẻo phải nhường lại chỗ đã chọn cho những khách đặc biệt khác quan trọng hơn mình, lúc đó mình sẽ bị xấu hổ.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để phá đổ sự kiêu căng lố bịch và dạy một bài học về khiêm tốn. Ngài đã tuyên bố: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Và ngay trong bài đọc I sách Huấn Ca cũng đã khuyên nhủ: “Hỡi con, con hãy thi hành công việc của con cách hiền hòa. Càng làm lớn con càng phải hạ mình khiêm tốn trong mọi sự thì con sẽ được đẹp lòng Chúa”.
Hình như lòng khiêm tốn không còn chỗ đứng trong một xã hội đầy cạnh tranh gay gắt, và xem ra khiêm tốn chỉ là một thứ mặt nạ để người ta chú ý đến mình nhiều hơn. Điều này rất dễ được nhận thấy khi được người ta khen ngợi và ca tụng. Nhưng trái lại, khiêm tốn Kitô hữu đích thực là chân thành nhìn nhận tình trạng thực tế trong thân phận của chính mình trước mặt người khác và trước mặt Thiên Chúa, qua một thân phận yếu kém và bất toàn, một thân phận yếu đuối và cả tội lỗi nữa. Một khi chân thành biết sự giới hạn của mình thì càng trở nên khiêm tốn hơn và đón nhận tình thương của Thiên Chúa nhiều hơn.
Trong câu chuyện hai người vào đền thờ cầu nguyện, một người kể công và khoe khoang những việc mình làm, và một người đứng xa xa chỉ biết đấm ngực xin Chúa thương xót, Chúa đã chiếu cố đến người khiêm tốn này. Khiêm tốn là bài học đầu tiên cho lòng hối cải và sự tha thứ. Khiêm tốn là cửa ngõ để ta bắt đầu bước vào nhìn nhận và thông cảm với anh chị em xung quanh chúng ta. Và khiêm tốn chính là chỗ ngồi trong bàn tiệc cứu độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người.
Trong tu đức, trái ngược với khiêm tốn là kiêu ngạo và người ta xếp kiêu ngạo vào hàng thứ nhất của bảy mối tội đầu. Thánh Augustinô cũng đã dạy rằng: “Trước tiên con phải có lòng khiêm tốn, nếu không, dù có làm việc đạo đức tốt lành đi nữa thì chính tính kiêu ngạo cũng xen vào làm cho hư mất”.
Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương để noi theo học tập, và sau bài học yêu thương đó là bài học khiêm tốn: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Hãy ngẩng đầu để thấy trời cao đẹp đẽ và đầy hy vọng, nhưng cũng hãy nhìn xuống đất để biết đôi chân của mình đang đi mà vững bước trên đường. Hãy yêu thương để sống quảng đại và hãy khiêm tốn để sống biết đón nhận, đó là thái độ của người Kitô hữu chúng ta. Giờ đây chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.
49. SLC- Ăn
Người Việt Nam chúng ta rất coi trọng cái ăn. Chữ ăn có thể được ghép với bấy kỳ chữ nào trong tiếng Việt: từ an chơi, ăn tiệc, ăn cưới đến ăn đòn, ăn gian, ăn năn. Chữ ăn dường như bao trùm bàng bạc trong suốt cả cuộc sống.
Ăn không phải chỉ là một nhu cầu của thân xác, mà còn là một sinh họat biểu lộ nhân cách, biểu lộ tính người của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết giữ phép lịch sự trong khi ăn như tục ngữ đã bảo:
- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
Cũng như phải tránh đi những căng thẳng làm mất đi bầu khí thân mật của bữa ăn:
- Trời đánh còn tránh bữa ăn.
Và nhất là đừng để cho miếng ăn trở thành miếng nhục khi con người không còn thể hiện được nhân cách, không còn thể hiện được tính người của mình trong cái ăn. Đó là trường hợp của những bon chen vàdành giật, như ăn tham, ăn hối lộ…
Ăn đối với con người thiết yếu là ăn cùng, ăn với, nghĩa là phải thể hiện được đòi hỏi cao quí nhất trong tình người, đó là sự chia sẻ và tình liên đới với người khác.
Hiểu như thế, chúng ta mới thấy được tại sao Chúa Giêsu đã dành một chỗ đứng quan trọng cho cái ăn trong cuộc sống công khai của Ngài.
Thực vậy, Tin mừng đã ghi lại rất nhiều sinh hoạt của Chúa Giêsu về cái ăn.
Ngài đã đi ăn cưới tại Cana. Ngài đã tới ăn tiệc do người biệt phái khoản đãi. Ngài đã ăn những bữa cơm thân mật tại Bêtania. Ngài đã cùng ngồi ăn với những người thu thuế và tội lỗi, chẳng hạn tại nhà ông Matthêu và tại nhà ông Giakêu.
Sau khi sống lại, Ngài đã hiện ra với các môn đệ trong lúc ăn uống. Và quan trọng hơn cả, Ngài đã thiết lập giao ước mới trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ.
Hơn thế nữa, Ngài lại còn thường dùng hình ảnh bữa ăn trong những lời rao giảng của mình. Biết bao nhiêu lần, Ngài đã sánh ví Nước trời như một tiệc cưới,trong đó Thiên Chúa mời gọi tất cả, không trừ một ai.
Dưới mắt Thiên Chúa, điều làm nên giá trị cho con người không phải là tài năng hay sự thành đạt trong xã hội, mà chính là tình yêu phục vụ.
Chúa Giêsu không kết án những người chiếm địa vị cao ngoài xã hội. Nhưng theo quan điểm của Ngài, càng có quyền thế, thì lại càng phải hy sinh và phục vụ nhiều hơn. Giá trị đích thực của con người chính là phục vụ và phục vụ một cách vô vị lợi.
Người nghèo nhất trong xã hội sẽ được coi là người cao trọng nhất trong Nước trời, nếu người đó biết thực sự sống yêu thương và phục vụ.
Chính Chúa Giêsu cũng đã sống trọn vẹn cho yêu thương và phục vụ trong suốt cuộc đời trần thế. Thực vậy, là Thiên Chúa, Ngài đã tự hạ đến chỗ cuối cùng, để có thể yêu thương và phục vụ những người kém may mắn nhất. Tình yêu thương và tinh thần phục vụ đã đưa Ngài tới chỗ hèn kém nhất của xã hội, đó là chịu chết trên thập giá như một tội nhân bị bêu xấu.
Ngoài ra, Ngài còn mời gọi chúng ta cũng phải biết noi gương Ngài để yêu thương và phục vụ lẫn nhau, nhờ đó kéo dài tình thương của Thiên Chúa cũng như tung vãi hồng ân của Ngài cho anh em đồng loại.
Ngài nói với chúng ta:
- Khi dọn bữa trưa hay bữa tối, các ngươi đừng mời bạn bè, anh em bà con hay láng giềng giàu có, mà hãy mời những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù…vì họ không có gì để mời lại các ngươi.
Và trong bữa tiệc ly, Ngài cũng nói với các môn đệ:
- Nếu Ta vừa là Thầy vừa là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng hãy rửa chân cho nhau.
Thể hiện tình yêu thương của Thiên Chúa là thương yêu không biên giới, là thương yêu không so đo, không tính toánh.
Đức Kitô đã không giam mình trong một giai cấp nào cả, tình yêu thương của Ngài đã trải rộng trên mọi người. Mặc dù Ngài đã dành ưu tiên cho những người nghèo hèn, nhưng đồng thời cũng không bỏ rơi những kẻ giàu có. Ngài đã ngồi ăn với những người thu thuế và tội lỗi, nhưng vẫn nhận lời mời đến dự tiệc do một người biệt phái khoản đãi. Người không phân biệt đối xử và không loại trừ một ai.
Hãy yêu thương và biểu lộ tình yêu thương ấy bằng những công việc phục vụ cụ thể, bởi vì yêu thương chính là cho đi.
50. Ngồi vào chỗ cuối - Cao Huy Hoàng
Thánh Luca mở đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay với chi tiết thời gian và không gian "một ngày Sa-bat nọ", tại "bữa tiệc" của một thủ lãnh nhóm Pharisiêu. Chúa Giêsu được mời tham dự "bữa tiệc trần gian", của những "con người trần gian" nầy. Bữa tiệc ấy đã phát họa trọn vẹn cái cung cách trần gian của những con người phàm tục- hoặc chưa hiểu gì về con người mới, con người có văn hóa Thiên Chúa, hoặc không tiếp nhận ánh sáng mới của Tin Mừng để thay đổi. Họ vẫn còn cũ rích trong cách suy nghĩ, cách sống... Tất cả cho cái tôi, cái riêng tiềm ẩn trong chính họ, như là một căn bệnh di truyền do tội lỗi của nguyên tổ để lại. Cái tôi khiến người ta tranh giành tư thế độc tôn, tranh giành cho mình mọi sự nhất: được suy tôn nhất, được đề cao được chú ý nhất...
Đức Giêsu đã dùng chính những diễn biến trong bữa tiệc trần gian ấy để rao giảng bài học quí giá cho con người về bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa. Những người văn hóa cũ rích và đáng bị lên án kia, cũng đang là chính mỗi chúng ta, những con người của thế kỷ 21, được mang danh là những con người của thời văn minh hiện đại. Ngài đã lên án điều gì, và Ngài đã dạy gì?
Không dành cho người kiêu ngạo
Ngài lên án thói kiêu ngạo: " Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống".
Quả thật, không phải vô duyên vô cớ mà mối tội đầu Kiêu Ngạo được đưa lên đầu danh sách bảy mối tội, vì theo các nhà tu đức, thì thần dữ kiêu ngạo luôn có những chiêu thức cực kỳ hiểm độc, và có tài điều binh khiển tướng làm cho sáu thần dữ của sáu mối tội kia có sức mạnh đánh đâu thắng đó. Khi đã để cho thần dữ kiêu ngạo hoạt động trong lòng, thì việc hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, làm biếng là điều quá dễ dàng. Một trong những chiêu thức tài tình nhất của thần dữ kiêu ngạo là tặng cho con người ta sự tự ngộ nhận mình là đạo đức, là thánh thiện, là khiêm nhượng, là từ thiện, là bác ái hơn người, và luôn luôn hơn người, một cách chủ quan. Nhưng thật ra, tất cả những điều ấy đều là sự giả dối, sự tự đánh lừa mình từ trong tận gốc rễ. Cách suy nghĩ ấy, cách sống ấy, của những người Pharisiêu xưa, đã bị Đức Giêsu vạch mặt thần dữ kiêu ngạo trong họ và lên án nghiêm trọng.
Cả chúng ta nữa, lời rao giảng của Đức Giêsu đã hơn hai ngàn năm vẫn chưa thẩm thấu và thay đổi được cái căn tính tồi tệ ấy trong mỗi con người hôm nay. Chiêu thức "cám dỗ làm điều tốt" vẫn luôn luôn được rao bán hoặc biếu không, khuyến mãi khắp nơi trên thế giới và trong cõi lòng thâm sâu của ta. Cái vỏ bọc đạo đức bề ngoài cho thấy, không phải chúng ta không biết thế nào là đạo đức, nhưng chúng ta lại chấp nhận theo cách đạo đức được hướng dẫn bởi thần dữ kiêu ngạo, không phải bởi Thần Khí của Thiên Chúa. Tự nhận cho mình trách nhiệm xây dựng Giáo hội theo kiểu của mình là phải chỉ trích, lên án, rêu rao, phản đối... mà chưa kịp suy niệm cho ra những ý định tuyệt vời của Thiên Chúa; tự nhận cho mình một công tác mang tầm vóc tổ chức của Giáo Hội để thành lập uỷ ban nầy, tập thể kia mà không được ủy thác; tự tôn phong cho mình một vai trò quan trọng trong giáo hội ngang tầm với ý định riêng tư của cõi lòng mình....... hoặc cụ thể hơn, tôi phải làm cái gì đó, to hơn, lớn hơn người đi trước tôi hoặc hơn những nơi khác; tôi phải làm ông kia bà nọ trong giáo xứ vì mấy người nầy làm chẳng ra chi; phải có tôi, phải có đóng góp của tôi thì việc mới thành công được.... Tất cả, tất cả những suy nghĩ ấy đều có thể bị đánh lừa bởi sự giả dối của thần-dữ-kiêu-ngạo-thật-trong-lòng đang chỉ đạo.
Không hẳn chỉ người có quyền, có tiền, có tài mà sinh ra lòng kiêu ngạo. Thực ra, đôi khi họ chưa kịp kiêu ngạo thì kẻ yếu thế, người nghèo khổ, người kém cỏi đã kiêu ngạo trước họ rồi- kiêu ngạo với lòng bất mãn, ganh tỵ, chống đối, chê bai, chỉ trích. Thần dữ kiêu ngạo không trừ ai, không miễn trừ thành phần nào và cũng không hà tiện một thủ đoạn nào, miễn là nó đạt được mục đích tối hậu là làm cho con người không được tham gia vào bữa tiệc Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu hôm nay cũng đang cảnh cáo mỗi chúng ta-những con người thích ngồi chỗ nhất, mâm cỗ nhất, thích được đánh bóng, thích được ngụy tạo một chổ đứng một vị trí, thích cho danh mình được cả sáng...-và cho chúng ta cơ hội đặt mình trước mặt Ngài để nhờ ánh sáng Lời Ngài chiếu dọi vào tận cõi lòng mà tìm ra cho được sào huyệt thường trú của thần dữ kiêu ngạo tinh quái.
Nhưng dành cho những ai có lòng khiêm nhượng
"Thứ nhất khiêm nhượng chớ kiêu ngạo" -nhân đức ưu tiên được đề cập đến trong "cải tội bảy mối", là lời dạy thiết thực của Chúa Giêsu trên trang Tin Mừng hôm nay dành cho những ai muốn bảo đảm một vé mời dự tiệc Nước Thiên Chúa.
"Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối..." Chúng ta đã được "mời vào dự tiệc" Nước Thiên Chúa qua các Bí tích, từ việc tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được gọi Thiên Chúa là Cha, được nhận lấy Thần Khí sự sống, được sống bằng chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong tiệc Thánh Thể..., nhưng còn việc "vào ngồi chỗ cuối" thì chắc hẳn phải xem lại.
Chổ cuối Chúa dạy chúng ta vào ngồi là chỗ của Đức Giêsu, chỗ chấp nhận thân phận làm người, và chấp nhận dưới mức tận cùng của kiếp người với lòng khiêm hạ tối đa vì lòng yêu mến và tuân phục Cha, để mọi người được cứu rỗi. Chỗ cuối, chỗ của yêu thương và phục vụ tận tình. Chỗ cuối, chỗ của lòng tin tuyệt đối, lòng cậy vững vàng-tín thác hoàn toàn, và chỗ của lòng mến không vụ lợi. Chỗ cuối, chỗ nên giống Chúa Giêsu hoàn toàn trong cách suy nghĩ, cách nói, và cách cư xử: kiên quyết loại trừ thần dữ kiêu căng trong lòng trí con người,và mặc lấy tâm tình đơn sơ nhỏ bé phó thác để hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và cho vinh danh Thiên Chúa.
Lòng khiêm nhượng của Đức Giêsu là từ bỏ chính mình, chính cái rất riêng của mình, lắng nghe và thấu hiểu ý của Cha. Vì vậy, chỗ của Chúa Giêsu, là chỗ khiêm nhượng chân thành nhưng khôn ngoan nhờ việc luôn kết hợp mật Thiết với Thiên Chúa Cha và làm theo ý của Cha qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Lời dạy dành cho người mời tiệc "hãy mời những người nghèo khó..." mặc khải cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa Cha về tiêu chuẩn khách được mời vào trong tiệc Nước Thiên Chúa: khiêm nhượng.
Bữa tiệc của Nước Thiên Chúa không dành cho những người kiêu ngạo, nhưng dành cho những người có lòng khiêm nhượng, người chọn vào ngồi chỗ của Đức Giêsu, chỗ rốt cùng vì quảng đại đến cùng cho công cuộc cứu rỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chỗ của Chúa và vào ngồi chỗ của Chúa trong cuộc đời, trong Giáo Hội và trong Nước Chúa.
51. Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời thường, mọi người thường trao đỗi nhau để tạo cho mình những nhu cầu cần thiết. Người có tiền thì dùng tiền để đỗi lấy những gì mình muốn, hai bên đồng ý nhau và mỗi người nhận phần của mình. Đó là cuộc trao đổi sòng phẳng.
Thế nhưng cũng có người sau khi nhận được phần của mình rồi, mới nhận biết mình đã bị lợi dụng, vì người kia muốn được lợi hơn cái họ đã trao đỗi, nên họ đã lừa dối bạn trao đỗi với mình. Đó là vì con người thường muốn được hơn cái mình đã bỏ ra, muốn được hơn cái mình đang có. Cũng vì lý do đó mà biết bao nhiêu tranh chấp, biết bao hận thù vẫn còn tiếp diễn.
Chúa Giêsu nhìn thấy những ưu tư lo lắng của con người trong mọi thời đại. Ngay trước mắt Ngài đây, mọi người đang cố ngoi lên trong một việc không đáng là gì. Họ cố tìm một chỗ ngồi trong buổi tiệc. Cố khẳng định mình trong cuộc sống thuộc mọi lãnh vực, bằng tất cả mọi phương cách, những cách chính đáng và cả không chính đáng họ cũng không từ bỏ. Ngài nhìn thấy hướng đi sai lầm như thế, Ngài cho họ một bài học: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ dược nâng lên".
Ngài lấy thí dụ chỗ ngồi trong buổi tiệc và cả những khách mời dự tiệc. Mọi người đều mong muốn được cái mà mình không xứng đáng, hay khá hơn là đòi đền đáp lại cách sòng phẳng như một cuộc mua bán. Ngài bảo họ hãy làm việc đừng mong đền đáp, như thế trong ngày những người công chính sống lại, sẽ được đền đáp xứng đáng.
Chúa Giêsu cũng muốn nói với từng người trong chúng ta, những người của thời đại mới, đặt biệt hơn là những người đang lắng nghe Ngài đây. Ngài đang nhìn thấy những tranh chấp, những ưu tư lo lắng cho cuộc đời nầy của mọi người. Ngài cũng nhìn thấy những cuộc trao đổi sòng phẳng và cả những bất công. Ngài còn nhìn thấy những lọc lừa, những mưu mô, hầu chiếm đoạt cái mình không đáng được, để cố ngoi lên trong mọi hoàn cảnh và tìm lợi ích riêng tư cho mình.
"Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ dược nhắc lên".
Lời nói của những ngày xa xưa nhưng vẫn thực tiễn, vẫn cấp bách và vẫn còn hiệu lực đối với những người của ngài hôm nay.
Trong đời sống hằng ngày, mỗi người cố gắng để vươn lên, đó là một điều rất tốt. Chính nhờ thế mà xã hội mới được tiến bộ. Nhưng điều quan trọng là phương cách để vươn lên như thế nào? Và để làm gì? Mỗi người để ra một chút suy tư nhìn lại con người, nhìn lại cách sống của mình.
Chúng ta cố gắng, vất vả suốt cuộc đời để đạt được cuộc sống như ngày hôm nay. Nhưng mỗi người có bằng lòng về chính mình chưa, hay chúng ta đang còn mong muốn điều gì, đang còn đòi hỏi điều gì nữa? Mỗi người hãy nhắm mắt lại để nhìn lại cuốn phim cuộc đời đã qua và tự đánh giá về mình: xem giờ nầy chúng ta đang được nâng lên hay hạ xuống? Lời Chúa nói: "Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên" có làm cho chúng ta rung động chút nào không?
Có khi nào trong cuộc sống chúng ta dám cho đi mà không tính toán, chúng ta dám làm việc mà không đòi trả công xứng đáng, chúng ta dám chấp nhận cuộc sống mà không một lời phiền trách. Nếu cuộc sống được như thế thì chúng ta đã yên tâm có một chỗ ngồi xứng đáng mà không cần phải dùng một thủ đoạn nào của trần gian để chiếm lấy.
Nhưng nếu chúng ta thấy mình cứ có những tính toán sòng phẳng trong cuộc sống, hay còn tệ hại hơn, muốn chiếm lấy điều mình không đáng được, cứ muốn đưa mình lên, cứ muốn tìm những lợi lộc riêng tư cho bản thân mà bất chấp tất cả. Nếu như thế, chúng ta nên hồi tâm xin Chúa tha thứ, để rồi chúng ta bắt đầu lại với những gì tốt đẹp hơn.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, để biết sống như lòng Chúa mong ước.
52. “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”
Kính thưa cộng đoàn,
Bài Tin mừng hôm nay, Thánh sử Luca đã thuật lại cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu đến dự tiệc tại nhà của trưởng nhóm nhóm Pha-ri-sêu. Qua cách ứng xử của Chúa, Chúa đã cho chúng ta nhận ra một thực tại, một căn bệnh trầm kha của con người trần thế đó là ham danh vọng, hay tự mãn cho mình hơn kẻ khác, đồng thời Chúa cũng dậy chúng ta phải có lòng bác ái, vị tha đừng vụ lợi ăn miếng trả miếng. Hãy cho đi mà không cần đáp trả vì chính Chúa sẽ trả công cho chúng ta.
Trong bữa tiệc, Chúa quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông ta, ngồi vào cỗ nhất hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ ông giúp cho một việc nào đó. Nhưng với Đức Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót. Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
Lạy Chúa Giêsu, xưa đi dự buổi tiệc, Chúa đã nhận thấy một thói xấu vẫn thường có nơi những người biệt phái là chọn ngồi chỗ nhất. Ngày nay, vẫn còn đó biết bao người vẫn ham tìm danh vọng, chức quyền bằng mọi cách, mọi thủ đọan; vẫn còn đó sự kiêu ngạo, ai cũng muốn mình trổi vượt hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn người khác. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách để chà đạp người khác.
Để được vào nước trời, Chúa muốn chúng con sống khiêm nhường, bái ái với tha nhân, nhưng lạy Chúa điều đó thật khó để chúng con có thể thực hiện được khi chúng con vẫn còn mang trong mình sự ích kỷ, lòng tham, ham danh và kiêu căng.
Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
Dụ ngôn được đem ra dạy dỗ không chỉ đơn thuần là một quy luật xã giao, một thứ lịch sự phải có khi giao tế, mời mọc kẻ khác, nhưng Chúa cho thấy đây cũng là quy luật sống trong Nước Thiên Chúa. Ngày phán xét chung, Thiên Chúa sẽ hạ những kẻ kiêu căng xuống. Đừng ai nghĩ rằng trước mặt Chúa mình là thế này thế khác để đòi ân huệ. Tất cả chỉ là hồng ân nhưng không. Nhưng Thiên Chúa ban cho kẻ khiêm nhường và chống lại người kiêu hãnh: một cô gái nghèo nàn như Ma-ri-a đã trở thành nhân vật cao trọng trước mặt mọi người: “Vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn nữ tỳ Chúa”; còn người muốn tham vọng bằng Thiên Chúa như E-và, đã thấy mình trơ trọi, bị đuổi khỏi địa đàng. Tại buổi tiệc năm xưa, Chúa đã nhắc nhớ những người biệt phái cần biết điều đó, đừng kiêu hãnh vì dòng tộc Do-thái, vì giữ một số luật lệ, rồi cho đó là công chính và khinh chê những kẻ khác. Ngày nay, Chúa cũng muốn nhắc nhở mỗi người chúng con đừng bao giờ cho mình là đạo đức, tài giỏi, giàu có hơn người…để từ đó dễ sinh ra kiêu căng, khinh dể, coi thường người khác.
Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường (Mt 11, 29). Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Chúa Giêsu, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quí và bền vững. Vì Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm nhường như Đức Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em.
Khiêm nhường như Đức Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm nhường phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quí. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Xin Chúa dạy chúng con bài học sống khiêm nhường, biết quên mình, sống tự hạ tự hủy mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa!
Xin Chúa dạy chúng con bài học sống vô vị lợi, sống bác ái, sống hiến dâng mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa, sống giống Chúa! Amen.
53. Ghế dành riêng – Lm. Vũ Đình Tường
Quan khách hay khách quan đều nói về người nhưng mang ý nghĩa khác nhau. Từ khách quan mang tính cách thương mại trong kinh doanh. Từ quan khách nói lên tính trang trọng của người khách. Nói đến quan khách là nói đến ghế danh dự dành riêng cho quan khách trong những cử hành lễ hội công cộng. Thực ra vấn đề xếp chỗ cho quan khách không đơn giản như chúng ta thấy nơi các buổi lễ hội công cộng. Khi có người đồng giai cấp, thứ bậc việc sắp xếp chỗ ngồi ngang hàng quả là nhiêu khê. Có nhiều vận động ngầm về chỗ ngồi giữa các viên chức làm việc trong các văn phòng hành chánh cho người lãnh đạo phe nhóm. Người ta nhân danh vị đó đòi hỏi nghi thức đón tiếp làm đau đầu, nhức óc ban tổ chức lễ hội. Tranh cãi đây không phải là ghế ngồi mà chính là danh dự, tiếng tăm, vị thế của người ngồi ghế đó trong ngày lễ hội. Mặc dù các nghi thức cử hành chỉ vỏn vẹn trong thời gian ngắn nhưng danh dự, tiếng tăm đối với những khách danh dự thật là quan trọng.
Khách danh dự trong nước Thiên Chúa hoàn toàn khác. Nước Thiên Chúa không thuộc vào hạng người nắm quyền ngang trời, thế dọc đất. Hành hạ mọi người, già trẻ, lớn bé không trừ ai. Những người vang bóng một thời, hét ra lửa, thở ra quyền. Nói ra kẻ tung, người hứng, lên xuống có người đóng mở cửa. Đứng lên có kẻ bợ, ngồi xuống có kẻ đỡ. Có quyền sinh sát trong tay, có quyền bẻ cong công lí. Trong nước Thiên Chúa không có chỗ riêng cho những người đó. Nước Thiên Chúa dành cho những ai? Thưa là những người có thời mất công lí nay được tuyên công, người nghèo khổ nay vui mừng, kẻ cô đơn nay có bạn thân tình. Người chết vì đức tin nay sống ngàn thu, người tù đầy trong tối tăm nay thấy ánh sáng huy hoàng. Đức Kitô Con Thiên Chúa đứng ra phát thiệp mời họ, đón họ, biến họ là khách danh dự trong nước của Ngài. Theo tinh thần bài Phúc Âm tuần trước họ là những người đi qua cửa hẹp mà vào. Kẻ béo quyền hành, tốt bè phái muốn qua cửa hẹp phải dẹp bỏ tất cả mới qua lọt, bằng không những thế lực kia kéo lại sẽ không thể qua lọt. Bỏ được những quyến rũ bất chánh cần có tinh thần sẵn sàng từ bỏ, cần có tấm lòng khiêm nhu, tự nhận mình sai trái, thiếu sót, giới hạn và khiêm nhường đón nhận Lời Chúa làm hướng đi cho cuộc sống. Thực hiện được điều đó qua hành động cụ thể mến Chúa, yêu tha nhân họ sẽ dễ dàng qua cửa hẹp.
Trong nước Thiên Chúa không có cạnh tranh, vận động ngầm để được ngồi vào ghế danh dự. Những khách vào nước Trời là những người có tấm lòng khiêm cung. Họ đến không phải để được ca tụng nhưng đến chính là vì yêu mến anh em, đến để gặp gỡ, để cùng với mọi người tay bắt, mặt mừng trong ngày hội. Họ đến trong tình thân hữu chân thành, trong tình con một Cha chung là Đức Kitô. Họ đến trong tinh thần sẵn sàng phục vụ người khác như tinh thần lời Đức Kitô phán trong Mat 20,26. Tinh thần đó là con người đến để phục vụ anh em chứ không phải để được phục vụ.
Khiêm nhường và thống hối luôn đi chung với nhau. Người tự nhận khôn ngoan, bằng cấp cao, trí hiểu nhiều rất khó sống khiêm nhường. Người khiêm nhường luôn nhận biết giới hạn, yếu đuối của con người. Họ biết trước mặt Thiên Chúa tài họ không bằng chi, giầu sang của họ là hư không. Vì sao? Vì tất cả những gì họ có đều do Chúa ban. Nhận biết điều này nên họ sống trong khiêm nhường, cưu mang tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Nhận biết điều này nên họ không ghen tị với anh chị em khác khi người đó trội hơn họ về mọi mặt vì họ biết đó là ơn Chúa ban riêng cho người đó. Nhận biết điều này nên họ sống phó thác, tin yêu vì họ biết những gì trong tay là do Chúa trao. Vì là của Chúa ban nên họ có trách nhiệm coi sóc, phát triển và đồng thời chia sẻ những điều đó với anh chị em cần đến chúng. Nói cách khác họ không phải là chủ nhân tài năng mình có mà là người quản gia, gia tài Chúa trao cho họ chăm sóc, bảo vệ, giữ gìn, phát triển và chia sẻ. Làm được những công việc đó họ xứng đáng ngồi trong ghế danh dự nước trời.
54. HRK/165- Chọn chỗ
“Phàm ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho tất cả những ai muốn theo Ngài. Giới luật này xem ra thật đơn giản, nhưng trong thực tế ai trong chúng ta cũng phải nhận đức khiêm nhường là một nhân đức phức tạp khó lường. Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật. Sau khi đã sáng chế ra điện tính, ông Samuel đã lãnh nhận được rất nhiều giải thưởng, nhưng ông luôn cho mình bất xứng với những lời khen tặng đó, ông đã nói: “Tôi được hân hạnh đóng góp vào nền văn minh của nhân loại, nhưng không phải vì tôi tài giỏi hơn kẻ khác, mà chỉ là vì Thiên Chúa muốn ban quà tặng này cho nhân loại, nên khi đã đến lúc Ngài muốn tỏ bí mật này cho con người, Ngài đã thương bày tỏ cho tôi”.
Biết nhìn nhận tất cả những gì mình có là do Thiên Chúa ban chứ không phải do công lao tài ba của mình, đó mới là người khiêm nhường. Chính vì vậy, khi được lãnh nhận ân phúc Chúa ban, họ luôn qui hướng tất cả về Thiên Chúa. Thế nhưng trong thế giới này có nhiều người dù được lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa, nhưng lại lợi dụng ân phúc của Chúa để kéo những danh dự về cho mình.
Chuyện kể rằng, tại một sở thú nọ, trong khi một con công đang từ từ xòe đuôi, giương cánh ra vẻ oai phong xinh đẹp của nó cho mọi người thưởng thức, thì có một con vịt già từ đâu lệ khệ bước đến, trong phút chốc, con công trở nên hung bạo, dữ tợn đánh đuổi con vịt đi. Con vịt trở lại hồ nước và bơi lội nhẹ nhàng uyển chuyển trên nước, lôi cuốn được sự chú ý của mọi người.
Người tự kiêu cũng tương tự như thế, không những không biết ơn Chúa ban mà còn dùng ơn Chúa ban để coi thường kẻ khác. Cũng có những người bề ngoài tỏ ra khiêm nhường, nhưng trong lòng lại chẳng khiêm nhường chút nào. Bác sĩ Henry thường bị các bạn chỉ trích vì tính kiêu kỳ của ông. Để giúp ông sống khiêm nhu hơn, họ đề nghị ông ra đường, trước ngực có đeo tấm bảng có ghi một câu Kinh thánh và lớn tiếng đọc Phúc âm cho những người chung quanh nghe.
Sau một buổi trên đường phố, ông trở về với vẻ mặt kiêu hãnh tuyên bố: “Tôi dám cá với các ông là không ai trong thành phố này dám làm như tôi đã làm”. Cũng có người bề ngoài nói rằng mình không xứng đáng, đáng mọi người ghét bỏ, nhưng nếu bị người khác đối xử đúng như lời họ nói thì họ lại tức giận khó chịu. Có những người cố tình lẩn tránh để bắt kẻ khác tìm kiếm, mời mọc mới chịu xuất đầu lộ diện.
Khiêm nhường là sự thật, nên trong đức khiêm nhường không thể có những sự giả hình, giả tạo như vậy. Vì vậy, cho dù Chúa Giêsu đã dạy trong bài Phúc âm hôm nay: “Hãy chọn chỗ rốt hết, để khi được mời lên chỗ cao hơn thì sẽ được vinh dự trước mặt mọi người”. Nếu người đó làm như vậy với ước mong là sẽ được vinh dự trước mặt mọi người, thì đó cũng chẳng phải là khiêm nhường thật. Đức khiêm nhường thật phải xuất phát từ một tâm hồn nhìn nhận sự thật. Chúng ta có một mẫu gương trọn vẹn là Chúa Giêsu. Dù là Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã nhận thân phận của một người bình thường, sống giữa những người bình thường. Chúa đã tuân theo những định luật của người Rôma, những chỉ thị của những người làm đầu trong dân và Chúa đã vâng lời cho đến chết. Chúa đã hạ mình rửa chân cho các môn đệ. Gương khiêm nhường của Chúa là một mẫu gương đáng chúng ta noi gương bắt chước trong cuộc sống hằng ngày.
55. CSTM/201- Khiêm nhường
Thiên Chúa thật kỳ diệu trong việc tạo dựng con người: mỗi người là một cá biệt, không ai giống ai, không một người nào giống người nào, xét trên mọi phương diện. Đặc biệt hơn nữa, về điều kiện và hoàn cảnh sinh sống, mỗi người có một vị trí riêng của mình và không giống với bất cứ ai. Đây là nhận xét căn bản sẽ giúp chúng ta dễ ý thức về một thái độ sống là điểm chính của đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu dạy: Hãy sống khiêm nhường.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhìn lên mình chẳng bằng ai. Nhìn xuống lại chẳng thấy ai bằng mình”. Sự “Nhìn lên, nhìn xuống”đó không phải chỉ so sánh giữa mình và người khác trong phạm vi của cải, tài năng… mà còn có thể áp dụng rất bao quát và toàn diện cho con người với tất cả những thứ con người “là”và con người “có”. Thật vậy, những thứ tôi “là”và tôi “có”không bằng ai hay giống ai hết, và cũng chẳng ai bằng tôi hay giống tôi cả. Biết chân nhận cái tôi cũng như biết về người khác, tôn trọng sự khác biệt và giữ đúng tương quan, liên hệ giữa mình và mọi người, suy nghĩ và cư xử đúng chính là thái độ sống khiêm nhường đúng nghĩa nhất. Ngược lại, không nhận thức được những điều trên, tức không nhận chân được thực tế, không nhìn ra chỗ đứng của mình, con người dễ rơi vào cách suy nghĩ và sống ở hai thái cực: hoặc băn khoăn bực bội, tự ti hoặc vênh vang tự đắc, vì tự xếp loại mình vào hai trạng thái: “Mình chẳng bằng ai”hay “Không ai bằng mình”. Vì thế, khiêm nhường tất nhiên trái ngược với tự tôn tự đắc tự cao tự đại; nhưng cũng không phải là tự ti mặc cảm, luôn bị ám ảnh thua kém, khiến sinh ra nhu nhược, nhút nhát, luôn cắn răng chịu đựng, không dám có ý kiến, dễ bị khuất phục trước đe dọa dù là phi lý. Không dám có thái độ bênh vực sự thật thì không còn là khiêm nhường nữa mà là nhu nhược, hèn nhát. Người khiêm nhường cộng thêm sự khéo léo, tế nhị sẽ biết kiên nhẫn, nhường nhịn vừa phải, đúng lúc, biết tùy cơ ứng biến, đối chất để thuyết phục, giảng hòa.
Trái lại, người kiêu ngạo tự cho mình là “trung tâm vũ trụ”, lên mặt vênh váo và coi thường mọi người, biểu lộ qua hai thái độ “vơ vào”hoặc “tránh né”. Chẳng hạn: khi thấy những ai khác được vinh dự, may mắn thì tự hỏi: “Tại sao không phải là tôi mà lại người kia người nọ?”. “tại sao không hỏi ý kiến tôi mà lại hỏi người ấy?”. Ngược lại, khi gặp điều không may hoặc bị trách cứ, dù là chính mình gây lầm lỗi, thì người kiêu ngạo lại tránh né, đổ thừa: “Tại sao không trách người khác mà lại trách tôi?”. Hai trường hợp trên đây đã diễn tả được hết cái gian manh, xảo trá, lừa lọc đi đôi với lòng kiêu ngạo, tự cho mình là tất cả, không chấp nhận tương quan nào ở trên mình. Trái lại, lòng khiêm nhường là chấp nhận sự thật, chấp nhận tương quan trên dưới mà sống cho hài hòa, tốt đẹp. Vì biết rõ vị trí, biết nhận cái hay cái dở của mình, đồng thời tôn trọng những phạm vi của người khác, người khiêm nhường sẽ tự chủ được những công việc, hoạt động của mình mà không va chạm, xúc phạm đến người khác. Tóm lại, dù chúng ta là ai, ở cương vị nào, chúng ta cũng đừng bao giờ vênh vang tự đắc cũng đừng tự ti mặc cảm. Chúng ta hãy sống khiêm nhường thật sự để tương quan cư xử, giao tiếp luôn được hài hòa, tốt đẹp với mọi người, và như thế cũng đẹp lòng Chúa, vì Chúa chỉ chúc lành và ban ơn cho người khiêm nhường.
Ai dám bảo đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt anh em? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và cố gắng tập luyện khiêm nhường luôn mãi.
Chúng ta hãy luôn tự nhủ: con người từ hư vô, từ tro bụi và sẽ trở về tro bụi, mình có chút tài năng gì thì cũng do Chúa ban. So sánh với người khác, mình có hơn cũng chẳng hơn bao nhiêu, hoặc hơn về điểm này nhưng lại kém ở điểm khác. Có tập luyện được chút khả năng tài khéo gì, có học hỏi được gì cũng do ơn Chúa trợ giúp và chắc chắn còn muôn vàn điều không biết. Con người ta bị giới hạn tứ phía: tâm linh, trí tuệ, thể xác… cần cố gắng thêm mãi.
Càng biết Chúa, biết mình, biết người, biết đời rõ bao nhiêu càng bớt tự phụ kiêu căng bấy nhiêu. Do đó, chúng ta có thể nói: càng giỏi, càng có nhiều càng phải khiêm nhường, chỉ có những ai dốt nát, dại dột mới cậy mình, khoe mình và kiêu ngạo.
56. Chan hòa niềm vui – Đỗ Lực, OP
Mẹ Têrêsa Calcutta là một linh hồn tràn ngập ánh sáng Chúa Kitô, cháy lửa yêu mến Chúa và nồng nhiệt ước mong “làm cho Chúa nguôi ngoai cơn khát tình yêu và các linh hồn.” Mặc dù “vóc dáng nhỏ bé, nhưng đức tin cứng như đá, Mẹ Têrêsa Calcutta đã được ủy thác sứ mệnh loan báo Thiên Chúa khao khát yêu thương nhân loại, nhất là những người nghèo khổ nhất trong các người nghèo. (1)
Chính ở nơi tận cùng bằng số của kiếp người, Mẹ Têrêsa đã gặp gỡ Thiên Chúa và đã hoàn thành sứ mệnh cứu độ của Ðức Kitô. Phải chăng từ Tin Mừng Luca hôm nay, Mẹ đã rút ra được bài học cụ thể cho chiều hướng dấn thân của mình giữa nhân loại. Chúng ta thử theo hướng dấn thân của Mẹ để tìm một bài học ý nghĩa và giá trị từ Tin Mừng cho người nghèo khổ hôm nay.
NIỀM VUI ÐẠI HỘI
Nhìn vào tiệc cưới, Ðức Giêsu nhận thấy có nhiều cảnh thật tức cười. Có những khách quý ngồi chỗ cuối và khách xoàng ngồi chỗ sang. Cảnh lộn xộn trong tiệc cưới diễn tả tất cả tâm trạng con người trong xã hội. Thói kiêu căng và tham vọng làm cho con người không còn nhìn ra sự thật về chính mình. Họ là những con người thích “chơi nổi,” và muốn mọi người nhìn vào họ như mẫu điển hình. Họ biến mọi người thành nấc thang đưa họ lên đài danh vọng. Khi nêu lên thói rởm đời giữa tiệc cưới, Chúa cũng muốn phơi bày tất cả dáng vẻ kiêu căng của các thủ lãnh nhóm Pharisêu. Các tông đồ cũng không khá hơn. Họ đã từng tranh nhau chỗ ngồi bên tả hữu Chúa. Sự thật làm gì có nơi những tham vọng kệch cỡm đó?!
Sự thật cũng không thể hiện diện nơi những con người chọn sai vị trí. Theo đúng hướng dẫn của chủ tiệc, những người quyền quý sẽ tìm thấy chỗ ngồi giữa những người cùng địa vị hay kiến thức. Có lẽ vì khiêm tốn, họ đã muốn nhường những chỗ cao sang cho người khác. Nhưng khiêm tốn không phải là tự giáng cấp. Người khiêm tốn đích thực biết đánh giá đúng mức và chân thành phục vụ đúng như cam kết. Chúa Giêsu muốn các môn đệ đi tìm nơi phục vụ, chứ không phải tìm thanh thế.
Trên thực tế cũng có những người tỏ vẻ khiêm tốn để lũng đoạn người khác. Có những người giả vờ khiêm tốn để che giấu nhu cầu muốn mọi người biết đến danh mình. Không nên tìm cách xóa mình một cách giả tạo, nghĩa là không nên trút bỏ trách nhiệm hay công việc mọi người đang trông chờ nơi chúng ta.
Người khiêm tốn đích thực chỉ so sánh mình với Ðức Kitô. Làm thế, họ ý thức về tình trạng tội lỗi và những giới hạn của mình. Mặt khác, họ cũng nhận ra những hồng ân và sức mạnh của mình mà hành động theo sự hướng dẫn của Chúa Kitô. Họ không muốn giống như người đầy tớ đem chôn vùi nén bạc xuống lòng đất. Trái lại, không phải vì muốn khoe khoang, khi họ đem nén bạc đầu tư để tạo cơ hội dấn thân phục vụ mọi người. Nếu đúng thế, họ sẽ được Chúa ban thưởng như những đầy tớ trung tín. Chỉ có người khiêm tốn đích thực mới hưởng trọn vẹn niềm vui.
Khiêm tốn không còn là một nhân đức thuần túy luân lý, nhưng đã được nâng cao lên đức tính của Thiên Chúa. Trong Con Chúa, khiêm tốn không còn là điều kiện, nhưng đã trở thành sức mạnh cứu độ. Khi sinh trong máng cỏ Bêlem, rửa chân các môn đệ tối Thứ Năm Tuần Thánh, hay chết trần truồng trên Thánh giá, Ðức Kitô đã cho thấy thân phận và sứ mệnh Người gắn liền với lòng khiêm cung sâu thẳm. Có khiêm tốn mới chấp nhận cảnh khó nghèo cùng cực như thế.
Con người khiêm tốn sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón tiếp mọi người, giàu sang cũng như nghèo khó, và đặc biệt ưu tiên cho những người nhỏ bé. Chỉ khi nào khiêm tốn và khó nghèo thực sự, chúng ta mới trở nên giống Chúa Giêsu, biết đồng cảm với những người cùng khổ. Người đã đến trần gian để cứu mọi người, không loại trừ ai. Người bị trấn lột hoàn toàn. Bởi thế, Người mới tự do cứu giúp mọi người, cả giàu lẫn nghèo. Nếu cũng bị ràng buộc vào những tiếng khen, danh vọng, quyền lực, chắc chắn Chúa đã không thể xả thân hết mức như thế.
Mở tiệc đãi những người kém may mắn như thế là tạo cho người nghèo cũng được ăn uống và trọng đãi như người giàu. Khi vì tình yêu đích thực hoạt động hoàn toàn bất vụ lợi, chúng ta sẽ đem lại sự bình đẳng xã hội, mà chẳng cần phải đấu tranh giai cấp. Trong cuộc sống, phải ưu tiên chăm sóc những người nghèo khó và bệnh tật, vì Ðức Kitô đã muốn đồng hóa với họ. Chính nơi khuôn mặt đôi khi dị dạng của một số người, chắc chắn chúng ta gặp Thánh Nhan Chúa Kitô (x. Mt 25:35-45).
Dưới ảnh hưởng Thần Khí, Chúa Giêsu đặc biệt hiến thân cho người nghèo, bệnh tật và tội lỗi. Ðó là lý do tại sao Chúa khuyên chúng ta làm tiệc đãi những người nghèo khổ, tàn tật, què quặt, đui mù, những người không có gì để trả ơn chúng ta. Nhưng chính họ lại là những ân huệ Thiên Chúa ban cho những người giàu có. Quả thế, họ mở ra cơ hội cho người giàu tạo nên những giá trị và ý nghĩa đích thực cho cuộc sống. Ðó là kinh nghiệm bất cứ ai làm việc bác ái cũng cảm thấy sau khi giúp những người nghèo khổ và kém may mắn. Một niềm vui và hạnh phúc khôn tả tràn ngập tâm hồn và cuộc đời.
Ở ÐỜI MUÔN SỰ CỦA CHUNG
Chỉ những người khiêm tốn mới có khả năng mở rộng tâm hồn và hòa mình với mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Theo Ruusbroek, càng khiêm tốn, con người càng lặn sâu trong Thiên Chúa, để thấy mình liên đới với người nghèo. Chính vì thế, khi xét đến đặc ân Tin Mừng dành cho người nghèo, Giáo Hội nhắc lại nhiều lần rằng “những người may mắn hơn hãy từ bỏ một số quyền lợi của mình mà dùng tài sản để phục vụ người khác cách quảng đại hơn.” (2) Giúp đỡ người nghèo là phục vụ Chúa Kitô. Khi hoạt động cho người nghèo, Giáo hội luôn sánh vai với họ và coi họ như những người anh chị em của mình. Tình bằng hữu này bắt nguồn từ tình yêu Chúa Cha trong Ðức Giêsu Kitô. Nếu người nghèo là anh chị em, Giáo Hội sẽ chia sẻ tận tình tất cả những gì mình nhận được từ Thiên Chúa.
Người nghèo trở thành một mối phúc cho Giáo hội. Quả thực, “tình yêu Giáo Hội dành cho người nghèo được gợi hứng từ các Mối Phúc trong Tin Mừng, từ sự nghèo khó của Ðức Giêsu và sự quan tâm của Chúa về người nghèo. Tình yêu đó liên quan tới cái nghèo vật chất và nhiều hình thức nghèo nàn về văn hóa và tôn giáo nữa.” (3) Sự nghèo khó nào cũng bắt nguồn từ bất công. Bởi đấy, chống lại bất công là cứu con người khỏi sự nghèo khốn cả vật chất lẫn tinh thần.
Làm việc bác ái hay bố thí cũng được Giáo hội coi là hoạt động cho công lý, đẹp lòng Thiên Chúa. Thực vậy, “khi chú tâm tới những nhu cầu của những người đang lâm cơn quẫn bách, chúng ta trả cho họ những gì của họ, chứ không phải của chúng ta. Chúng ta trả nợ do công lý đòi hỏi, hơn là thực thi công việc từ thiện.” (4) Nghe thế, chắc nhiều người không hài lòng. Từ trước đến nay, họ vẫn hãnh diện về bao nhiêu công tác từ thiện, bố thí, làm phúc, bác ái. Họ đã chia bớt bao nhiêu của cải cho người nghèo. Của cải đó do chính họ vất vả làm ra, chứ có lấy của ai đâu? Sao bây giờ lại ăn nói “vô ơn” như vậy?!
Thực ra, tất cả đều là hồng ân. Của cải là những món quà họ đã đón nhận từ Thượng đế. Nói khác, Thiên Chúa trao cho họ quản lý những món quà đó, nhưng vẫn giữ quyền làm chủ. (5) “Của cải là một ơn lành do Chúa ban để ông chủ xử dụng và lưu chuyển, cho cả người khốn cùng có thể hưởng dùng.” (6) Thánh Basiliô Cả minh họa: “một con thác lớn chảy xối xả vào miền đất phì nhiêu, qua hàng ngàn kênh đào. Vậy thì, qua hàng ngàn đường lối khác nhau, bạn hãy làm cho của cải đến nhà những người nghèo khó. Mục đích Chúa trao tặng những món quà đó là để họ tiếp tục trao đi cho người khác.”
Tất cả những công cuộc bác ái đều cần thiết cho con người hoàn thành sứ mệnh và tạo nên ý nghĩa cũng như giá trị cuộc đời. Như thế, mới hiểu tại sao khi “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đi mù,” (Lc 14:13) chúng ta lại trở thành những người “thật có phúc.” (Lc 14:14) Tiếp tục cho đi là cách tốt nhất chuẩn bị đón nhận hồng ân cao cả nhất “trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14:14) Quả thế, “Chúa Giêsu đến thiết lập ‘Nước Thiên Chúa,’ để con người có một lối sống mới trong xã hội: công bình, huynh đệ, liên đới và chia sẻ. Trong Thánh Linh, con người được kêu gọi trả lại công lý cho người nghèo, giải thoát người bị áp bức, an ủi những người bị bách hại, tích cực tìm kiếm một trật tự xã hội mới để giải quyết thỏa đáng sự nghèo túng vật chất và kiềm chế những lực lượng đang ngăn trở các nỗ lực giải thoát người hèn yếu nhất khỏi những hoàn cảnh khốn cùng và kiếp nô lệ.” (7) Có thế, mối phúc một người mới được nhân lên đến ngàn lần.
MONG ÐỢI GÌ NƠI GIÁO HỘI?
Bình thường ai cũng muốn giao du với những người quyền thế, giàu sang để thăng quan tiến chức. Chỉ có những tâm hồn khiêm tốn mới nhìn thấy mối liên đới trách nhiệm với những người nghèo khó và quan tâm tới hạnh phúc của họ. Quả thế, nếu không có một tâm hồn khiêm tốn và nghèo khó, chắc chắn Ðức Giêsu đã không thể đề nghị mời những người nghèo khó, đui mù, què quặt đến dự tiệc.
Hiện nay, hàng tỷ người nghèo đói đang chầu chực ngoài các bàn ăn thịnh soạn của bao người giàu có. Họ không có gì để ăn ! Trước tình trạng ấy, Giáo Hội có thể làm gì? Có phải con người đang mong chờ những món quà viện trợ từ Vatican hay các tòa giám mục? Làm sao Giáo Hội có khả năng để giúp đỡ một số người đông đảo như thế? Giáo hội có phải là một đế quốc đâu ! Vậy nhân loại mong chờ gì nơi Giáo Hội?
Trước hết, nhân loại không trông mong những giúp đỡ vật chất nơi Giáo Hội cho bằng tiếng nói bênh vực công lý. Tiếng nói Giáo hội thật cần thiết để đánh động lương tâm con người trước một vấn đề trầm trọng của thời đại. “Khởi đầu Tân Thiên Niên Kỷ, tình trạng nghèo đói của hàng tỷ người, nam cũng như nữ, là ‘vấn đề duy nhất thách thức lương tâm con người và Kitô hữu.’ (8) Nghèo đói đặt ra một vấn đề bi đát về công lý. Trong nhiều hình thức và hậu quả khác nhau, đặc tính của vấn đề là sự phát triển bất quân bình vì người ta không nhìn nhận “quyền mọi người đều có chỗ ngồi như nhau ‘trong bữa đại tiệc chung.’ Tình trạng nghèo đói như thế khiến không thể thực hiện một nền nhân bản Giáo hội hằng hy vọng và theo đuổi cho con người và các dân tộc có thể ‘khá hơn’ và sống trong những điều kiện nhân bản hơn.” (9)Thực tế, bao nhiêu tổ chức và chính phủ đã thất bại trong việc giải quyết vấn nạn lớn lao đó. Nếu Giáo hội cũng làm như mọi người, chắc chắn vấn đề vẫn còn nguyên vẹn. Nhân loại không lối thoát. Người nghèo vẫn gặp bế tắc …
Rất may, “cuộc chiến chống lại nghèo đói tìm được động lực mạnh mẽ khi Giáo hội dành tình yêu ưu tiên và lựa chọn đứng về phía người nghèo. (10) Khi tái khẳng định nguyên tắc liên đới, học thuyết xã hội của Giáo Hội đòi phải cổ võ ‘thiện ích của mọi người và mỗi người, vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm đối với mọi người.’ (11) ngay trong cuộc chiến chống nghèo đói, nguyên tắc liên đới phải luôn đi kèm với nguyên tắc bổ trợ nhờ đó có thể nuôi tinh thần sáng tạo, nền tảng mọi phát triển xã hội và kinh tế trong các nước nghèo. (12) Nên coi người nghèo “không phải như một vấn nạn, nhưng như những người có thể nắm vai trò chính yếu trong việc xây dựng một tương lai nhân loại mới và nhân đạo hơn cho mọi người.” (13) Những người cô đơn giữa anh em cũng phải được kể vào số những người nghèo khổ nhất về tinh thần.
Bao giờ ta mới bừng tỉnh trước Lời Chúa: “Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (Gr 1:17b)?!
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự thật và can đảm bênh vực những anh em đang đau khổ vì chính anh em mình. Amen.
------------------------------------------------
1. http://www.vatican.va/news_services/liturgy/saints/ns_lit_doc_20031019_madre-teresa_en.html
2. Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 158.
3. Giáo Lý Công Giáo, sô 1033.
4. Thánh Grêgôriô Cả, Regula Pastoralis, 3, 21: PL 77, 87, trích lại từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 184.
5. x. Thánh Grêgôriô Cả, trích Toát Yếu Học Thuyết Xã hội Giáo Hội 2005, số 329
6. Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 329.
7. ibid, số 325.
8. ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Sollicitudo Rei Socialis, 33: AAS 80 (1988), 558; x. ÐGH Phaolô VI, Tông Thư Populorum Progressio, 47: AAS 59 (1967), 280, trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 449.
9. ÐGH Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2000, 14: AAS 92(2000), 366; x. ÐGH Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 1993, 1:AAS 85 (1993), 429-430.
10. x. ÐGH Gioan Phaolô II, Diễn văn đọc trước Ðại Hội các Giám Mục Châu Mỹ Latinh lần III, Puebla, Mexico (28.01.1979), I/8: AAS 71 (1979), 194-195, trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 449.
11. ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Sollicitudo Rei Socialis, 33: AAS 80 (1988), 566; trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.
12. x. ÐGH Phaolô VI, Tông Thư Populorum Progressio, 55: AAS 59 (1967), 284; ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Sollicitudo Rei Socialis, 44: AAS 80 (1988), 575-577; trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.
13. ÐGH Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2000, 14: AAS 92(2000), 366.; trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.
57. NTGT/235- Khiêm nhường
Cuộc sống của chúng ta có thể sánh ví như một bữa tiệc, mà nơi đó người ta đang tranh nhau để chiếm cho mình một chỗ nhất. Quả thật, “Danh-Lợi” vốn luôn là một cám dỗ đầy hấp dẫn đối với con người qua mọi thời đại. Dù không nói ra, nhưng ai trong chúng ta cũng thích được người khác ca tụng, thích được kính nể, ai cũng lo tìm kiếm danh vọng, địa vị, chức quyền. Dân gian Việt Nam có câu: “Cọp chết để da, người chết để tiếng”. “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Câu tục ngữ này phản ánh rất trung thực tâm lý của những người dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay và qua đó Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta một giáo huấn về sự khiêm nhường. Vậy, theo bài Tin Mừng, thế nào là khiêm nhường, một sự khiêm nhường đích thực để chúng ta có thể thi hành trong đời sống Kitô hữu mình?
Trước hết, nhìn qua bài dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy, giáo huấn về sự khiêm nhường của Chúa Giêsu dường như chỉ là một bài học về cách đối nhân xử thế theo kiểu “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Thậm chí sự khiêm nhường ở đây còn hàm chứa một sự tính toán vị kỷ, ra vẻ khiêm nhường để tạo sự chú ý nơi người khác, để được mời lên chỗ cao hơn và như thế đó chẳng qua chỉ là một sự kiêu ngạo tinh tế.
Đàng khác, cũng có quan niệm coi khiêm nhường như một hình thức an phận thủ thường, một sự yếm thế, khinh rẻ bản thân hay tự ti mặc cảm, thiếu ý chí vươn lên và thoái thác trách nhiệm trong cuộc sống. Chắc hẳn đó không phải là sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu muốn nói cho chúng ta? Trong cuốn “Rèn nhân cách”tác giả Hoàng Xuân Việt đã viết như sau: người khiêm nhường không phải là người tự ti mặc cảm, thiếu tự tin, khinh rẻ mình một cách vô lý đến nỗi không sử dụng tài năng của mình. Người khiêm tốn là người sáng suốt nhìn nhận mình có khuyết điểm, có ưu điểm, có tài đức, có trật tự…”
Vâng, khiêm nhường là ý thức cách sâu xa về chính mình, là nhận ra sự thật về con người mình để thấy rằng, tôi là gì? Là ai? Là con người thế nào trong tương quan với kẻ khác? Để từ đó biết chọn cho mình một vị trí, một chỗ ngồi xứng hợp trong bữa tiệc cuộc đời này. Người ta định nghĩa cách vắn tắt như sau: “Khiêm nhường là chấp nhận sự thật, sự thật về chính mình, về những ưu khuyết điểm, về tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh.
Cicêrô nhà hùng biện nổi tiếng của Rôma đã nói: “Khi người ta bảo một người rằng: bạn hãy tự biết mình, thì đó không phải chỉ để hạ lòng kiêu căng của kẻ ấy, mà còn để cho họ biết giá trị của họ nữa”.
Như vậy, khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình trong tương quan rộng mở với người khác. Bài học khiêm nhường không chỉ dừng lại ở đây, nhưng Tin Mừng còn hướng chúng ta lên cao hơn, khiêm nhường là nhận biết chính mình trong tương quan với Thiên Chúa, là ý thức thân phận thụ tạo tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và cứu độ. Việc những người dự tiệc tranh giành và tự ý chọn cho mình một chỗ nhất là phản ánh tâm lý của các luật sĩ và biệt phái cũng như của con người thời đại hôm nay, họ muốn chối bỏ Thiên Chúa, muốn chiếm đoạt quyền hạn của Ngài, và với thái độ kiêu căng tự mãn, họ cho rằng chỉ mình họ là xứng đáng chiếm hữu Nước Trời. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy, việc sắp xếp chỗ ngồi cho thực khách là công việc của chủ tiệc, và theo lẽ thường, chỗ nhất là để cho người nhất, chỗ sang trọng là cho người sang trọng, do đó mới có vấn đề mời người này lên và mời kẻ nọ xuống. Không phải cứ giành lấy chỗ nhất, chỗ sang trọng thì đương nhiên là người nhất, người sang trọng. Người nhất dù có ngồi chỗ rốt hết cũng vẫn là người nhất và cuối cùng họ vẫn được đưa về lại chỗ xứng đáng của mình. Người ta thường nói: “Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập”nghĩa là: Có xạ tự nhiên thơm, không cần phải đứng đầu gió. Cũng vậy, không phải hễ tự cho mình là đạo đức thánh thiện, là công chính xứng đáng, thì đương nhiên sẽ được vào dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa như người chủ tiệc, chỉ mình Ngài biết rõ ai xứng đáng, chỉ mình Ngài có quyền chọn gọi và sắp đặt chỗ ngồi cho thực khách trong bàn tiệc của Ngài.
Đến đây, chúng ta nhận thấy không chỉ đưa ra một giáo huấn về sự khiêm nhường, Chúa Giêsu còn mạc khải về mầu nhiệm Nước Trời được sánh ví như một bữa tiệc và khiêm nhường là điều kiện cần thiết để được tham dự vào bàn tiệc này. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã một lần nghe qua dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện. Chính với thái độ khiêm nhường, ý thức thân phận tội lỗi của mình, kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa mà người thu thuế được ơn công chính hóa, còn người biệt phái kiêu căng, tự mãn thì trở về tay không. Vì chưng “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII kể lại một kinh nghiệm độc đáo của đời mình như sau: “Lúc tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Nhưng một đêm kia trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi: Kìa Gioan, đừng tự xem mình là quan trọng! Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy tôi đã cố gắng áp dụng câu nói này trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày. Đừng tự xem mình là quan trọng! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng!”. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy những tranh chấp, kiêu căng và tự mãn. Giáo huấn về sự khiêm nhường thoáng nghe qua tưởng chừng như không hợp thời hay có thể nói là lỗi thời, là đối nghịch với chiều hướng thăng tiến con người và phát triển xã hội. Nhưng nếu một khi ý thức được rằng khiêm nhường đích thực là nhận biết chính mình, là không đánh bóng, không giảm trừ chính mình, thì quả thật, khiêm nhường là nhân đức không chỉ cần thiết cho sự thành công trong đời sống hiện tại, mà còn như chiếc chìa khóa để mở cho chúng ta cánh cửa Nước Trời.
58. Khiêm tốn
1. Dân gian ta có câu: "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp", qua câu tục ngữ nầy cho thấy con người thường ham danh vọng, những người Pharisêu thời Đức Giêsu và ngay cả chúng ta thời nay cũng dễ phạm lề thói nầy. Vì thế trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, từ việc rất tự nhiên trong cuộc sống đó là chỗ ngồi nơi bữa tiệc và khách được mời dự tiệc, Đức Giêsu muốn hướng sang đời sống thiêng liêng, khiêm nhường và phục vụ vô vị lợi, như là những điều kiện để được tham dự bàn tiệc Nước Trời.
2. Thực ra, nơi các đám tiệc, cỗ nhất hay chỗ nhất không hẳn phải có gì đặc biệt hơn những mâm hay chỗ khác! Nhưng ta muốn ngồi chỗ quan trọng, vì chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị. Điều đáng nói là ta thường tự nâng mình lên, trong khi thực sự vị thế của mình không được như vậy! Tự nâng mình lên thể hiện tính kiêu căng của con người, là rơi vào mưu chước của ma quỷ. Xưa kia, vì nổi loạn chống lại Thiên Chúa nên Satan, nguyên là thiên thần, bị phạt làm tà thần, ma quỷ. Vì ngã theo sự xúi dục của ma quỷ, với thái độ kiêu căng, muốn trở nên như Thiên Chúa (x. St 3,5) mà Adong - Evà không còn được sống hạnh phúc với Thiên Chúa nữa! Có thể nói từ đó kiêu căng ăn sâu tâm khảm của con người nên tội "kiêu ngạo" đứng đầu trong danh sách các tội mà con người hay phạm. Với tội kiêu căng nầy con người tự đưa mình vào chỗ chết: khước từ Thiên Chúa là nguồn sống thật và chống đối lẫn nhau...
3. Chính vì yêu thương con người, Đức Giêsu đã không ngần ngại dùng phương cách trái ngược lại. Với bài giảng đầu tiên trên núi, Tám Mối Phúc Thật (Mt 5,1-12), mối phúc đầu tiên mà các mối khác có thể quy hướng vào, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy có "tinh thần nghèo khó", biểu hiện của sự khiêm tốn đối với Thiên Chúa và tha nhân. Không được cậy dựa vào tiền của mà hãy cậy dựa vào Thiên Chúa và ý thức rằng những gì ta có được là do tình thương của Ngài ban cho, để rồi phải biết dùng để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân cách khiêm tốn.
Đức Giêsu cũng đã mời gọi chúng ta hãy học cùng Ngài vì Ngài hiền lành và khiêm nhượng trong lòng (x. Mt 11,28-30). Nhìn vào cuộc đời của Đức Giêsu có thể nói là một chuỗi bài học khiêm hạ đáng cho chúng ta suy gẫm và noi theo, chẳng hạn như: Vua cả trời đất mà lại chọn nơi sinh ra là hang bò lừa ở Bêlem; Vua cả trời đất lại quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ của mình; Vua cả trời đất mà lại chịu chết ô nhục trên thập giá; Vua cả trời đất mà âm thầm ẩn mình qua Bí Tích Thánh Thể nơi nhà tạm vắng lạnh...
Sự khiêm hạ của Đức Giêsu đem lại sự sống mới cho chúng ta, thánh Phaolô từng nói: Bởi một người mà tội đã xâm nhập vào trần gian, mà bởi tội thì có sự chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu Kitô còn dồi dao biết mấy cho muôn người (x.Rm 5, 12-15). Sự khiêm hạ của Đức Giêsu còn được Chúa Cha ghi nhận và tôn vinh Ngài (x. Plp 2,8-9).
4. Khiêm tốn không phải tự coi thường mình hay là giả vờ hạ thấp mình để được nâng lên, mà khiêm tốn là nhìn nhận sự thật về mình, giới hạn của mình để từ đó sống trong tâm tình gắn bó với Thiên Chúa, là nguồn sống đích thực. Khiêm tốn để có thể sống hài hoà với tha nhân, qua việc học hỏi hoặc chia sẻ kinh nghiệm... Nhờ khiêm tốn có thể tránh những bất hoà với nhau, thực tế trong cuộc sống không thiếu những trường hợp do hơn thua nhau một lời nói, một chỗ ngồi mà người ta tìm cách hãm hại nhau. Nhờ khiêm tốn mà con người có thể bắt tay nhau để xây dựng xã hội đời nầy và cùng nhau hướng tới hạnh phúc đời sau.
5. Cách tích cực hơn khiêm tốn là dùng những gì mà Chúa ban cho ta để phục vụ chứ không tìm tư lợi. Sự hiểu biết cũng như chức quyền trong Giáo Hội hay ngoài xã hội không gì hơn để phục vụ, chứ không phải để thoả mãn danh vọng, ích kỷ của mình. Tiền bạc của cải phong phú không để hưởng thụ riêng mình mà phải biết chia sẻ cho người cùng túng. Chính thái độ phục vụ cách khiêm tốn vô vị lợi, sẽ được nhiều người biết đến và yêu mến; dân gian ta có câu: "Hữu xạ tự nhiên hương". Chúa muốn cho người môn đệ luôn có tinh thần như thế, nên trong đoạn Tin Mừng nầy, không những Ngài dạy phải có tinh thần khiêm tốn mà còn dạy tinh thần phục vụ vô vị lợi. Ngài dạy rằng:"Khi đãi khách... đừng mời bạn bè, anh em... mà hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù" (Lc 14, 12-13), đây chỉ là một kiểu nói nhấn có nghĩa là "đừng chỉ mời" những người thân thích, giàu có, mà hãy mời cả những người nghèo khó.
6. Nước Trời không có chỗ cho người kiêu căng tự phụ, chỉ nghĩ đến bản thân mình, bài học của bè Satan, của Adong - Evà vẫn còn đó. Ngược lại Đức Maria, nhận mình là nữ tỳ thấp hèn của Thiên Chúa, đã âm thầm phục vụ cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã âm thầm phục vụ tha nhân, thế nhưng Thiên Chúa đã ân thưởng Mẹ trọng hậu như thế nào?
Ước mong rằng mọi người chúng ta biết sống khiêm tốn, bác ái vô vị lợi để chúng ta có thể cảm nhận được hạnh phúc ngay đời nầy và bảo đảm hạnh phúc đời sau. Amen.
59. Khiêm nhường - Lm. Phạm Thanh Liêm
Ai cũng thích được trọng vọng; tuy nhiên Lời Chúa hôm nay dạy con người sống khiêm nhường. Ai sống khiêm nhường, sẽ được yêu thương và hạnh phúc.
Khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình
Có một số người tưởng rằng, khiêm nhường là phải nhận mình là dở nhất hoặc mình chẳng có gì hay. Vì quan niệm như vậy, nên có người thấy mình có điều hay, cũng không dám nhận và còn phủ nhận điều đó. Thật sự, khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình. Điều rất căn bản mà những người khiêm nhường xác tín: “tất cả những gì mình có hoặc hay hơn người khác, là ơn Chúa ban, chứ tự mình thì không chừng mình còn tệ hơn cả những người tệ nhất”.
Khiêm nhường là chấp nhận mình như “mình là”. Chấp nhận điều hay mình có, để tạ ơn Chúa. Chấp nhận điều dở như mình là, để “khiêm nhường”, không buồn phiền, không dằn vặt, không oán trách hay càm ràm con người hay Thiên Chúa. Nếu mình có gì hay, và cũng có thể hay hơn người khác, hãy “khiêm tốn”nhận thực rằng, nhờ ơn Chúa mà mình có được điều đó. Nếu nhờ ơn Chúa mà mình hay hơn người khác, vậy thì tại sao mình lại hành xử như thể do tự mình mà mình có điều đó? Nếu nhờ ơn Chúa mà mình có điều đó, thì đâu có gì để vênh vang tự hào!
Hay không kiêu, dở không thất vọng! Đó là thái độ của người khiêm nhường. Nhận thấy mình hay, hoặc được người khác khen mình, hãy tạ ơn Chúa. Trong trường hợp này, Chúa được tôn vinh. Con người nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho họ.
Người khiêm nhường có thể sống với mọi người
“Càng khiêm nhường, càng trở nên tuyệt, và càng đẹp lòng Thiên Chúa”. Một người khiêm nhường, là người “đẹp”. Họ không khinh người kém hơn họ, hơn nữa, họ luôn kính trọng người khác, và coi mình cũng như tất cả mọi người, nếu họ có gì hay, đó là do được ban cho, chứ tự họ, họ cho rằng họ cũng bình thường và không chừng còn dở hơn mọi người.
Người khiêm nhường, là người đề cao Thiên Chúa trong đời sống. Những người kiêu ngạo, thường cho mình hơn người khác, đòi người khác đối xử với mình cách đặc biệt như mình muốn. Hình ảnh của người đi dự tiệc muốn ngồi chỗ nhất trong dụ ngôn Đức Yêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là một thí dụ. Người không khiêm nhường, dễ làm cho người khác khó chịu, đặc biệt những người “kiêu ngạo”như họ. Họ đòi ngồi chỗ nhất, đòi người khác phải chào hỏi, đòi người khác phải xưng hô với họ thế này thế kia.
Người khiêm nhường, không ước vọng quá sức mình. Chấp nhận mình như mình là, chấp nhận mình như Chúa muốn vậy, và an bình trong cuộc sống của họ. Nói như vậy, không có nghĩa là những người “khiêm nhường”này không phấn đấu hoặc không cố gắng. Một khi họ đã cố gắng hết sức, họ chấp nhận kết quả một cách an bình. “Không tìm điều ngoài sức mình”.
Đức Yêsu- người khiêm nhường tuyệt vời
Đức Yêsu, vốn là Thiên Chúa, nhưng đã không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự huỷ trở nên một người phàm (Pl.2, 6). Người yêu thương người khác, bất chấp họ cư xử như thế nào với mình, vẫn yêu thương và chấp nhận họ, đó là người khiêm nhường tuyệt vời.
“Yêu mến là chu toàn tất cả lề luật”. Yêu mến bao gồm mọi nhân đức. Yêu mến, là chấp nhận người khác như họ là, và cố gắng giúp họ trở nên tốt hơn, ngay cả phải chết. Những người này, khi làm như vậy, đang trở nên giống Đức Yêsu, đang trở nên một Yêsu khác.
Thập giá, ngày xưa, bị coi là dấu chỉ của sự đáng nguyền rủa và bị khinh bỉ. Hôm nay, với tình yêu và cái chết của Đức Yêsu, thập giá trở thành dấu chỉ của tình yêu, dấu chỉ của sự chiến thắng. Ước gì mọi Kitô hữu đều giống Thầy Chí Thánh, khiêm tốn và yêu thương đối với mọi người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Có người cho rằng, khiêm nhường đồng nghĩa với giả hình và nhu nhược. Bạn trả lời sao?
2. Theo bạn, tại sao người ta thường không muốn nhận sự thật về chính mình?
3. Bạn có nghĩ rằng, khiêm nhường giúp người ta dễ sống hạnh phúc không? Tại sao?
60. Một phúc lành ngọt ngào
Một đám đông tụ họp gần một cái ao trong một sở thú rộng lớn. Họ đang ngắm nhìn một con công đang xòe ra bộ đuôi tuyệt đẹp của nó. Con công đứng thẳng trong cung điệu lộng lẫy của nó. Bỗng dưng không biết ở đâu một con vịt màu nâu xấu xí bơi lại gần chỗ con công đang đứng. Thấy con vịt xấu xí ấy, con công liền sừng sổ đuổi con vịt đi. Bộ mặt thùy mị sang trọng của con công lúc này đã biến mất mà thay vào đó là bộ mặt hung dữ. Con vịt thấy vậy thì âm thầm bình tĩnh ung dung bơi ra chỗ khác. Thế là đám đông nãy giờ đang chiêm ngắm con công bỗng dưng đâm ra trầm trồ khen ngợi con vịt.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đang dự tiệc với những người khách tại một nhà ông Pharisiêu. Ở đây chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu trong nhân tính của Ngài. Ngài cũng làm như những người khác thường làm tại các buổi tiệc. Bởi vì ngồi cùng bàn với Ngài là những người Pharisiêu, cho nên câu chuyện bất ngờ đổi về luật lệ giữ ngày Sabát. Chúa Giêsu đã nói với những người dự tiệc rằng có lúc luật pháp phải nhường chỗ cho những giá trị cao quí hơn của con người. Chẳng hạn họ sẽ phải coi sóc người bệnh, hoặc cứu giúp người con của họ bị bệnh vào ngày Sabát. Sau đó, Chúa Giêsu còn dạy cho tất cả mọi người một bài học mới về mời khách dự tiệc. Ngài khuyên họ đừng nên mời những người mà mình quen biết hằng ngày, những người mà mình sẽ cần đến họ, hoặc là những người mà mình cần phải dựa hơi. Ngài khuyên họ nên đổi mới tư tưởng bằng cách mời những kẻ ăn mày và nghèo khổ đến dự tiệc bởi vì qua đó họ sẽ được trổi vượt trên đường nhân đức, và chính Thiên Chúa sẽ khen thưởng họ.
Trong khi trao đổi trong bàn ăn, Chúa Giêsu lại còn nêu lên một vấn đề nữa là lòng khiêm nhường. Ngài khuyên những người đi dự tiệc không nên ngồi vào chỗ nhất hay những chỗ sang trọng, nhưng nên tìm ngồi vào những chỗ rốt bét để chủ nhà đến mời lên chỗ cao hơn thì mới có danh dự. “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14:8,10-11).
Sự khiêm nhượng là căn bản để đạt tới cuộc sống mỹ mãn. Nếu chúng ta tin vào lời của Chúa Giêsu phán rằng sự khiêm nhượng có thể lớn lên, cải tiến, biến đổi, tha thứ, và yêu thương, thì chúng ta đang đi trên con đường tiến đến cuộc sống mới. Sự khiêm nhượng Kitô giáo thật là một điều phúc lành. Nó làm cho chúng ta cảm thấy sự ngọt ngào trong tâm hồn.
Ở thời đại chúng ta, thật là một điều khó khăn để thực hành sự khiêm nhường. Chúng ta bị áp lực đủ phía để chống lại điều căn bản trong đạo Kitô giáo này. Thế giới ngày nay ca tụng sự tranh chấp, cải tiến, và danh dự thế gian. Thắng bại là một điều quan trọng, chứ không phải là thi hành sự khiêm nhường của Phúc Âm.
Một cha sở nọ in ra một câu truyền thông như sau và dán lên bảng tin tức của giáo xứ, “Cuộc sống là Yêu Thương, chứ không phải là cuộc Thi Đấu.”Ngày hôm đó, điện thoại nhà xứ rung như điên. Hết người này đến người nọ gọi cho cha sở để bài bác và chửi cha bởi vì họ cho rằng cuộc sống phải là một cuộc thi đấu. Thật là rõ ràng bởi vì nhiều Kitô hữu không nhận ra bài học của bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu khuyên răn chúng ta rằng người nào biết sống khiêm nhường sẽ được nâng cao.
Điều đó đối với chúng ta ra sao? Chúng ta sẽ ôm ấp lý thuyết của thế gian răng đền răng, hay chúng ta sẽ đón nhận giáo lý của Chúa Giêsu, phục vụ không hưởng thụ.
Lạy Chúa, con cầu xin cho con sức mạnh để con có thể thành công, con đã được ban cho sự yếu nhược để con biết học sống khiêm nhượng.
Con cầu xin Ngài cho con sức khỏe để con có thể làm những việc lớn lao, con đã được ban cho sự đau yếu để con biết làm những việc tốt hơn.
Con cầu xin Ngài cho con của cải để con sống hạnh phúc, con đã được ban cho sự nghèo khổ để con biết khôn ngoan.
Con cầu xin Ngài cho con quyền lực để con được thiên hạ ca ngợi, con đã được ban cho sự yếu đuối để con biết cậy trông vào Ngài.
Con cầu xin Ngài cho con tất cả để con có thể hưởng dụng cuộc sống, con đã được ban cho sự sống để con có thể hưởng cuộc sống.
61. Suy niệm của Lm. Augustine
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Năm 1888 Đức Lêô XIII phong thánh cho một vị thừa sai tại Châu Mỹ La Tinh và tôn vị ấy làm bổn mạng các hoạt động truyền giáo cho người da đen trên toàn thế giới. Đó là thánh Phêrô Claver (1580-1654).
Quì bên cạnh để rửa mặt rửa mình cho họ
Người ta có thể nghe chính vị thánh này mô tả về tình trạng của những người da đen mà ngài hiến thân phục vụ qua một đoạn trích của lá thư gửi các bạn của ngài như sau: “… Hôm qua… Lễ Chúa Ba Ngôi, một số lớn dân da đen bị bắt dọc các bờ sông ở Phi Châu được đưa vào bờ bằng một chiếc tàu rất lớn. Chúng tôi vội vã chạy ùa ra mang theo hai thúng đầy cam, chanh, bánh ngọt và đủ mọi thứ linh tinh. Chúng tôi phải cố gắng dạt đám đông ra mới tới được với những người đau ốm. Hàng đám họ đang nằm dài trên đất ẩm, đúng hơn là trên bùn, thân thể trần truồng không một mảnh vải che thân. Chúng tôi cởi áo choàng ra, đi đến một nhà kho gần đó, kiếm đủ thứ gỗ còn xài được mang về và ghép chúng lại với nhau thành một cái bục, đoạn xông qua đám lính gác, và cuối cùng chúng tôi dàn xếp mang được tất cả những người ốm đau đến đó… Phải chi các bạn có thể nhìn thấy lòng biết ơn biểu lộ trong ánh mắt họ! Bằng cách này chúng tôi đã nói với họ không phải qua lời nói mà bằng hành động. Bất cứ bằng hình thức ngỏ lời nào khác có lẽ cũng không phù hợp. Đoạn chúng tôi ngồi xuống hoặc quì bên cạnh họ và rửa mặt rửa mình cho họ.”
Điều thánh Phêrô Claver vừa mô tả ăn khớp với lời khuyên của Đức Giêsu ngỏ cùng vị thủ lãnh nhóm Pharisêu đã mời Người đến dự tiệc, rằng: “Khi ông đãi tiệc hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế, ông mới thật có phúc.”(cc.13-14). Hai thúng cam, chanh, bánh ngọt mà thánh nhân mang tới chỉ mới là đồ khai vị sơ khởi ban đầu. Những cống hiến tiếp theo còn đáng kể hơn nhiều. Những cống hiến ấy được tượng trưng bằng việc thánh nhân “ngồi xuống hoặc quì bên cạnh họ và rửa mặt rửa mình cho họ.”Tất cả những điều đó trở nên hạnh phúc lớn biết bao cho thánh Phêrô Claver khi thánh nhân hưởng được ngày các kẻ lành sống lại (c.14).
Thiết lập Nước Thiên Chúa nơi bản thân Đức Giêsu
Quả thật, sứ mạng Đức Giêsu đến để thể hiện là thiết lập Nước Thiên Chúa nơi bản thân Người. Nước đó Người thường ví như một bữa ăn hoặc một bữa tiệc linh đình.
Người Do Thái cũng như người Hy Lạp thời Đức Giêsu, thường ăn hai bữa, không kể bữa lót lòng ban sáng trước khi đi làm: đó là bữa sáng hoặc về trưa và bữa chính ban chiều. Khi ăn người Do Thái có thể ngồi hoặc ngả lưng trên cỏ (Mt 14,19) hay trên ghế dài có đệm mà không có tay vịn (Ga 13,23) với thân mình dựa trên khuỷu tay trái và thức ăn chủ yếu được kẹp trong bánh dễ cầm tay. Thường người ta chỉ ăn bánh mì, uống nước lã và ăn trái cây, tuy ban chiều cũng thường có những món ăn nóng. Thịt và rượu nho cũng như những thức ăn mỹ vị thường dành cho đại tiệc (Lc 15,22-32).
Trong Kinh Thánh, bữa ăn đã từng là cơ hội để phê chuẩn giao ước được ký kết (St 26,30; 31,46-54). Bữa ăn luôn nói lên tình huynh đệ ngang qua hành vi duy trì sự sống. Cộng đoàn dự tiệc luôn giả thiết tình mến khách về phía người mời khách đến ăn. Ngược lại, khách dự tiệc cũng được giả thiết phải có một số những đức tính tương xứng. Câu Thánh Vịnh 40,10 “Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con”như tiên báo cho thấy Giuđa sẽ trở nên kẻ phản bội Thầy mình như thế nào trong bữa tiệc ly (Lc 22,21).
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu lần lượt ngỏ lời cùng khách dự tiệc (cc.7-11) rồi cùng chủ nhà là người mời khách tới (cc.12-14): Cả hai đều tìm thấy ý nghĩa đầy đủ của nó ở lời bình phẩm của một người đồng bàn lên tiếng nói với Thầy Giêsu rằng: “Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.”(c.15)
Người nhỏ nhất là kẻ lớn nhất
Khách dự tiệc được Đức Giêsu khuyến cáo làm điều xem ra với lý do không được thanh cao lắm chăng? Họ được đề nghị vào ngồi cỗ dưới không phải vì lý do tốt lành, mà chỉ để được chủ tiệc cất nhắc lên cỗ nhất: “Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn”(c.10). Nhưng Luca cho ta biết điều vừa nêu là dưới hình thức một dụ ngôn (c.7) thường được hiểu là một câu chuyện buộc người nghe phải suy nghĩ để khám phá ra ý nghĩa tiềm ẩn của nó. Ở đây ý nghĩa phải được tìm là ở câu 11 khi Đức Giêsu nói “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”Tức là trong ngày phán xét Thiên Chúa sẽ đảo ngược lại thang giá trị bất công của thế gian. “Người sẽ hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”(Lc 1,52). Do đó việc các môn đệ tôn mình lên đã từng bị Thầy Giêsu quở trách khi mà các ông chỉ mới “chợt suy nghĩ tự hỏi xem ai là người lớn nhất trong các ông”. Thầy Giêsu biết điều các ông đang suy nghĩ trong lòng, Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: “… Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là kẻ lớn nhất!”(Lc 9,46-48).
Đừng mời người có thể đáp lễ
Theo cùng một văn mạch xem ra cũng dưới hình thức dụ ngôn như trên (c.7), Đức Giêsu quay lại khuyến cáo chủ tiệc đừng nên mời bạn bè, anh em hay bà con là những người có thể đáp lễ (c.12) mà ngược lại, hãy mời những người đui mù, què quặt, v.v… là những người không có gì để đáp lễ. “Như thế, ông mới thật có phúc”(c.14). Nói cách khác, khi làm việc thiện cần phải tránh tinh thần vụ lợi; mọi phần thưởng chỉ được chờ đợi nơi Thiên Chúa khi Người cho kẻ lành sống lại. Kiểu nói mạnh “Đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông”là để nói lên tinh thần hoàn toàn vô vị lợi đó.
Đảo ngược thang giá trị
Quả thật tinh thần đảo ngược thang giá trị trần thế của Nước Thiên Chúa cũng như tinh thần hoàn toàn vô vị lợi nhằm phục vụ người nghèo chính là điều mà Chúa Giêsu muốn dạy ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Tinh thần ấy thánh Phêrô Claver đã bật sáng lên không chỉ bằng một cử chỉ ngôn sứ thoáng qua nhưng bằng cả một đời tận hiến cho người da đen suốt 40 năm!
Sinh ra trong một gia đình nghèo ở miền Đông Bắc nước Tây Ban Nha, cậu Phêrô Claver ngay từ nhỏ đã được hấp thụ một đức tin vững mạnh và được triển nở về lòng khiêm tốn sâu thẳm. Thêm vào đó, vì là người con duy nhất trong gia đình, cậu được hưởng một tình thương âu yếm của mẹ cha. Tất cả những nét ấy sẽ tiếp tục ghi khắc sâu đậm vào cuộc đời trên dưới 70 năm của Phêrô Claver.
Sau một thời gian học tại quê nhà, nhờ một ông chú cho tiền ăn học, Phẽrô Claver được gởi đi học xa gia đình và đã xin nhập Dòng Tên ngày 7.8.1602. Sau hai năm ở tập viện và một thời gian học văn chương, ngày 11.11.1605, Phẽrô Claver đặt chân tới học viện Dòng Tên ở đảo Mallorca nơi một tu huynh gác cổng 33 năm nổi tiếng là người đạo đức và thánh thiện đến nỗi nhiều nhân vật đạo đời lui tới bàn việc thiêng liêng với thầy. Chính thầy An Phong Rodriguez này đã khuyên bảo Phêrô Claver rằng “Nếu anh thật lòng yêu mến Chúa Kitô, anh hãy xin đi phục vụ bao anh em ở Nam Mỹ!”Đó chính là điều mà Phêrô Claver đã làm, là xin hiến thân phục vụ người da đen một cách hoàn toàn vô vị lợi. Thánh nhân đã mang lại kết quả lớn lao cho họ. Người ta ước lượng trong gần 40 năm, thánh Phêrô Claver đã ban bí tích rửa tội cho khoảng 300.000 người da đen. Do đó mà năm 1888 Đức Lêô XIII đã tôn thánh nhân làm bổn mạng các hoạt động truyền giáo cho người da đen.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ tại sao Chúa Giêsu lại nói “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(c.11)? Lời này của Chúa Giêsu có thể đem ra thực thi trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội của người Kitô hữu chăng? Bạn nghĩ tinh thần của Chúa Giêsu dành mối quan tâm ưu tiên cho những người nghèo, bị bỏ rơi hoặc bị đối xử bất công, tinh thần ấy có thể thay đổi xã hội bạn đang sống chăng?
2. Riêng bạn có lẽ không có cơ hội hiến thân phục vụ người da đen ở Châu Mỹ La Tinh như thánh Phêrô Claver, nhưng tinh thần phục vụ vô vị lợi của ngài, thực ra là của chính bài Tin Mừng này, vẫn có thể được áp dụng bằng nhiều cách chăng?
62. Con người khiêm tốn
"Anh em hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình". (Lc 3, 24)
Anh chị em thân mến,
Đức Hồng Y Jos. Bernadin của Tổng giáo phận Chicago, Mỹ, tâm sự với các chủng sinh: Từ ngày Ngài nhận giáo phận Chicago, hầu như không thiếu ngày nào, mỗi ngày Ngài đều nhận một lá thư gởi đến chửi Ngài là "son of bitch" (chó đẻ!) Tại sao vậy? Vì Ngài theo đường hướng của Giáo hội, luôn lên án các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản, nên bị chửi như thế! Đức HY Bernadin, đã khiêm tốn sẵn lòng để cho người ta chưởi bới... Bài Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu dạy cho mọi người cách xử thế khiêm tốn trước mặt Chúa, cũng như tha nhân.
Nhân khi thấy khách được mời dự tiệc, họ hay lựa chỗ nhất, có khi còn coi thường người khác nữa, Chúa Giêsu dạy cho họ bài học khiêm nhượng, một thứ khiêm nhượng chân thật, và bên trong, phát xuất từ đáy lòng. Vì thế:
1) Khiêm nhượng là chấp nhận sự thật về chính mình: Người xưa có câu: "Khiêm nhượng không phải là nghĩ ít hơn về cái mình có; nhưng là ít nghĩ về mình. Thực sự, khi ai ít nghĩ về mình, hay không nghĩ về mình nữa, làm sao họ có thể tự phụ được? Thánh Augustinô nói: Khiêm nhượng làm cho con người trở nên thiên thần; nhưng kiêu ngạo làm thay đổi các thiên thần thành ma quỉ.
Thánh Phêrô dạy: "Anh em hãy lấy đức khiêm nhượng mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường".
2) Khiêm nhượng là biết mình có tội: Ma quỉ (Lucifer) chính là những thiên thần mang ánh sáng; vậy mà khi thiên thần phạm tội thành ma quỉ, chúng không nhận, cũng không biết mình có tội. Nếu ma quỉ đã nhận mình có tội, và biết mình có tội, thì cũng đồng nghĩa với ăn năn, chúng sẽ được tha rồi. Thực tế nơi ma quỉ không có khiêm nhượng, ngược lại chỉ có kiêu căng mà thôi.
Biết mình thấp hèn, tội lỗi trước mặt Chúa và anh em, đó chính là nền tảng của đức khiêm nhượng, cũng là nền tảng của việc cầu nguyện để đưa ta tới với Thiên Chúa
3) Chúa Giêsu là mẫu gương của đức khiêm nhượng: Xem qua cuốn phim Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta có thể nhờ đó hiểu được phần nào khổ đau của Con Thiên Chúa phải chịu vì nhân loại chúng ta. Nhất là mới có thể hiểu được: dù là Con Thiên Chúa, Ngài khiêm tốn biết bao, như lời thư Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Philipphê (2, 6-9):.... Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, để mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân giữa trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nổi bằng lòng chịu chết, và chết trên thập giá......
4) Gợi ý sống và chia sẻ: Khiêm nhượng thật sự là tự biết mình, cả về ưu lẫn khuyết điểm. Biết cái ưu điểm là để phát huy, làm cho lớn mạnh thêm, đồng thời cũng sẵn sàng lãnh trách nhiệm với mọi người, với tập thể. Biết cái khuyết điểm là để sửa chữa, phấn đấu vươn cao lên. Đó mới là đức khiêm nhượng thật sự. bao lâu nay ta đã thực hành đức khiêm nhương như thế nào? Cũng có một thứ gọi là khiêm nhượng ống điếu, khi trước mặt người khác, ta cũng giả bộ nhận lỗi, cũng xỉ vả mình; nhưng sau lưng thì tìm cách tự bào chữa... ta đã sống như thế nào đây?
63. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có bao giờ bạn làm ra vẻ yêu thương ai, giả bộ khiêm nhường, tỏ ra mình là người có giá trị, có tư cách không?
Bạn nghĩ gì về sự giả bộ này? Nó có phổ biến nơi tâm lý mọi người không?
2. Khi người khác thành công hơn bạn, được ca tụng hơn bạn, bạn có tự nhiên cảm thấy có gì đó làm mình khó chịu, ganh tức, buồn phiền không?
3. Hành động theo khuynh hướng giả trá ấy có lợi ích lâu dài không? có phải là khôn ngoan không? Tại sao?
Suy niệm
1. Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có giá trị, và được mọi người công nhận và tôn trọng giá trị của mình
Thiên Chúa đã dựng nên con người giống như Ngài, theo hình ảnh Ngài (xem St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hoàn hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hoàn hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hoàn hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã xâm nhập vào bản thể con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hoàn hảo, có giá trị thật sự (điều này khó, đòi hỏi con người phải cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị đích thực hay không.
Vì thế, khi xét mình, nếu thành thật với lòng mình, ai cũng đều cảm nhận khuynh hướng này: “Tôi biết anh nịnh tôi, nhưng tôi vẫn thấy thích thú”, và nếu ai nói về một tật xấu hay điều dở của ta, cho dù có đúng 100%, ta cũng cảm thấy khó chịu. Từ đó, thay vì nỗ lực hoàn thiện “cái tôi”, làm cho nó có giá trị đích thực, thì ta lại tìm đủ mọi cách để “cái tôi” được tôn trọng, được coi là có giá trị. Chẳng hạn, khi dự tiệc thì thích lên ngồi ở chỗ danh dự, chỗ dành cho những bậc vị vọng, trong giáo xứ hay trong xã hội thì tìm cách vận động để ngoi lên những chức vụ quan trọng… Ngoài ra còn tìm đủ mọi cách để che bớt những cái xấu, cái dở của mình, để đừng có ai nhìn thấy. Khuynh hướng giả trá này còn đi xa hơn: bên trong càng ít giá trị, thì bên ngoài lại càng phải tỏ ra nhiều giá trị. Vì thế nên mới có tình trạng “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, “thùng rỗng kêu to”, càng tự ty thì lại càng tự tôn. Thậm chí sẵn sàng đánh lừa cả chính mình: nghĩ mình đích thực có giá trị đúng như mình đang muốn làm ra vẻ như thế.
2. Phải vạch mặt khuynh hướng giả trá ấy ngay trong bản thân mình
Chính khuynh hướng này, xem ra rất tự nhiên nơi mỗi người và mọi người, là đầu mối gây nên biết bao nhiêu tội lỗi, xấu xa và rắc rối cuộc đời. Tại sao? Vì nó chính là một khuynh hướng giả trá, ma mãnh, nên kết quả cuối cùng bao giờ cũng là thất bại thê thảm, mặc dù nhất thời nó có thể đem lại nhiều vinh quang, lợi lộc. Ta dễ ganh tị khi thấy người khác hơn mình (tốt hơn, đẹp hơn, hạnh phúc hơn, đạo đức hơn, tài năng hơn, giàu có hơn, được yêu mến hơn…). Sự ganh tị ấy khiến ta vô tình hoặc cố ý tìm cách hạ người khác xuống bằng lời nói hoặc bằng hành động, thậm chí làm hại hoặc trừ khử họ. Nhưng rồi tới một lúc nào đó, chẳng sớm thì muộn, sự ganh tị ấy cũng sẽ bị lột mặt nạ, để rồi tất cả những gì giả tạo mình vất vả xây dựng được, có thể bằng tội ác, bằng những phương tiện bất chính, sẽ sụp đổ hoàn toàn. Lúc đó trước mặt người khác, mình lại trở thành kẻ vô giá trị, hơn thế nữa, bị nguyền rủa thậm tệ.
Khuynh hướng giả trá này, bao hàm sự ganh tị, là mẫu số chung tự nhiên của tất cả mọi con cháu Ađam–Eva, cho dù người ấy thánh thiện tới đâu. Sự thánh thiện của một con người không phải nằm ở chỗ không có hay tiêu diệt khuynh hướng ấy, mà thắng vượt được khuynh hướng ấy. Thật vậy, cho dù tôi có thánh thiện tới đâu, khi có ai nịnh tôi, hay khi tôi được đề cao (dù không xứng đáng) thì phản ứng tâm lý đầu tiên của tôi là cảm thấy thích thú, và khi có ai chê bai (dù là chê đúng), hay khi thấy bạn bè hơn mình, tôi vẫn thấy khó chịu. Nếu không thế thì chắc hẳn tôi đã thoát khỏi hậu quả xấu ác của tội nguyên tổ rồi! Phản ứng đầu tiên hay “sơ cấp” phát xuất từ tâm lý ấy, dù tôi không muốn phản ứng như thế cũng không được, trừ trường hợp tôi đã tu luyện rất nhiều năm. Và phản ứng tuy xuất phát từ một khuynh hướng xấu, nhưng không phải là tội lỗi, vì nó xảy ra ngoài ý muốn của tôi. Nhưng sau đó, tôi bắt đầu phản tỉnh lại và nhận ra đó là một khuynh hướng xấu. Vấn đề là sau khi phản tỉnh, tôi có hành động theo khuynh hướng xấu đó hay không. Phản ứng sau này hay “thứ cấp” có sự can dự của ý chí, nghĩa là ta có thể hành động theo hoặc không theo khuynh hướng đó tùy quyết định của ta. Thánh thiện hay tội lỗi là tùy thuộc phản ứng thứ cấp này. Như vậy, người thánh thiện hay tội lỗi đều giống nhau ở phản ứng sơ cấp, nhưng khác hẳn nhau ở phản ứng thứ cấp.
3. Nhận định hậu quả cuối cùng rất tai hại của khuynh hướng giả trá ấy để dứt khoát không chiều theo
Hành động theo khuynh hướng giả trá này có thể đem lại một số lợi lộc nhất thời, chóng qua, nhưng kết quả cuối cùng và lâu dài thì rất tai hại. Chúng ta rất dễ bị hấp dẫn, lôi cuốn vì những lợi lộc nhất thời ấy, nhất là khi chúng ta không nghĩ tới hậu quả cuối cùng rất tai hại và kéo rất dài của nó. Chẳng hạn, trường hợp một người không xứng đáng ngồi vào chỗ danh dự trong bàn tiệc, nhưng lại chiều theo khuynh hướng “muốn có vẻ là có giá trị”, hay “muốn được coi là danh giá” nên ngồi vào đó. Khi ngồi đấy, anh ta cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến những cặp mắt đang nhìn anh ta với sự nể phục. Nhưng hạnh phúc đó không thể kéo dài được nếu nó không có nền tảng là sự xứng đáng. Chỉ trong chốc lát, khi có nhiều bậc vị vọng tới dự tiệc, họ xứng đáng ngồi ở chỗ đó hơn, thì chủ nhà nhận ra ngay sự không xứng đáng của anh ta. Thế là anh ta bị mời xuống. Niềm hãnh diện và hạnh phúc chỉ kéo dài được dăm ba phút khi bữa tiệc mới bắt đầu, nhưng sự nhục nhã và đau khổ thì kéo dài suốt cả bữa tiệc, thậm chí nhiều ngày tháng sau bữa tiệc nữa.
Ngược lại, nếu ta không màng gì tới những cái có vẻ bên ngoài ấy, thì cuối cùng ta cũng chẳng mất chúng. Vì cuối cùng chúng sẽ trở lại với người xứng đáng với chúng. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, nếu ta là người xứng đáng ngồi ở chỗ danh dự, nhưng vì nghĩ mình không xứng đáng nên ta lại chọn một chỗ hèn kém, thì khi chủ tiệc nhận ra sự có mặt của ta ở chỗ hèn kém ấy, ông ta sẽ mời ta lên chỗ cao hơn. Như thế, ta chẳng những không bị mất danh dự xứng đáng với ta, mà người khác còn thấy được phong cách cao thượng của ta nữa.
Tuy nhiên, điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bên ngoài. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, ta cố ý chọn một chỗ kém hơn địa vị của ta với mục đích được được nâng lên. Nhưng nếu người chủ vô ý không mời ta lên bàn trên, thì ta trở nên bực bội trong lòng… Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vinh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh thản, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin giúp con thắng được khuynh hướng giả trá muốn làm ra vẻ có giá trị hơn giá trị đích thực của con. Xin giúp con thành thật với chính mình, và với mọi người, đừng để con ham được đánh giá cao hơn bản chất thực của con. Xin giúp con đừng coi mình là gì cả, đừng quan trọng hóa mình, để con trở nên một con người chân thực, một phản ảnh quan trọng của Cha ở trong con. Amen
64. Sự thật không nhìn thấy
1/ Khi anh được mời ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất... hãy ngồi vào chỗ cuối..
Khi giải thích đoạn nầy thường người ta nói là khiêm nhường. Khiêm nhường hiểu là nhường chỗ trên chọn chỗ duới hoặc hạ thấp mình. Còn nói chọn chỗ rốt để được mời lên thì không là khiêm nhường, khiêm tốn gì đâu. Gọi là humilite accrochee. Phải hiểu lời nầy của Đức Giêsu thế nào?
Nghĩa đời thường: khi đi ăn tiệc thì nên thận trọng vì không biết chủ nhà mời ai với ai, ai lớn hơn mình, không biết chỗ đứng của mình là chỗ nào. Nên chờ chủ nhà xếp cho. Trong khi chờ thì tạm chỗ nào đó. Nhưng nếu ngồi cao bị mời xuống thì ê quá nên thận trọng là ngồi dưới, rốt cũng được để khi chủ nhà sắp chỗ thì được mời lên ít ra thí cũng không phải ê. Dè dặt thì tốt.
Còn những kẻ tự cao tự đại, chọn chỗ nhất, không tự lượng sức mình, bị mời xuống thì phải ê là đáng!
Đức Giêsu không nhằm dạy sự khôn ngoan đời thuờng theo kiểu thế gian mà là muốn dạy về Nước Trời nên phải coi đây là dụ ngôn.
Trước hết hãy xem gương Đức Giêsu:
Người không nghĩ phải "dành được ngang hàng với Thiên Chúa" mà Người tự khiêm, tự hạ đến tự hủy, làm nguời thấp hèn, vâng phục cho đến chết và chết thập tự. Thiên Chúa làm người và làm người nhỏ nhoi. Hạ mình không phải là yếu đuối, là kém cõi mà là "cái dủng của thánh nhân", là sự vĩ đại của Thiên Chúa. Thiên Chúa mới làm nổi, mới làm đuợc. Vì thế Người được siêu tôn vì Thiên Chúa "nâng cao những người phận nhỏ, đề cao những kẻ khiêm nhường"....
Thiên Chúa làm người và làm người thấp hèn để dạy con nguời biết thân phận con người mà biết làm người đúng là người. Nhưng con người thì thích làm Chúa. Người ta thích câu: Chúa làm người để người làm Chúa.
Khiêm nhuờng nghĩa là gì? Thần học luân lý định nghĩa: Nhìn nhận đúng sự thật về chính mình. Đây là điều mà Thiên Chúa muốn và chờ đợi nơi con người.
Nếu đến tiệc cưới chủ nhà có dán tên khách mời trên lưng ghế thì mọi người cứ chỗ có tên mình mà ngồi vào thì không có vấn đề mời lên mời xuống. Đúng trật tự rồi. Nếu ai cố tình ngồi trên thì phải bị mời xuống là tất nhiên. Phải đúng trật tự mới được. Còn nếu cố tình ngồi dưới để được mời lên thì làm rối trật tự sẽ phiền chủ nhà.
Về trật tự trong Nước Trời thì rõ ràng con người phải nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình, nhìn nhận mọi sự mình có là của Chúa ban và có bổn phận sinh lợi theo ý Chúa là chủ, là Tạo Hóa, là Đấng ban cho.Phần của ta là cái công sinh lợi. Đừng dựng mình lên làm tề thiên, cốt khỉ thì phải hoàn khỉ không khác được đâu.(khi nghe nói con người là con cháu loài khỉ thì ai ai cũng nhảy dựng lên không chịu nhưng thật là thế).
Thiên Chúa không đòi ta phải hạ mình trước mặt Người như kẻ độc đoán muốn tất cả phải phục lạy dưới chân mình, muốn đi trên đầu trên cổ tất cả. Thiên Chúa chỉ muốn sự thật vì Người là chính sự thật.
Nhìn nhận đúng thực tế của mình, đúng như mình là, là thụ tạo, là được dựng nên từ không, thì là nhỏ bé trước Thiên Chúa. Không đòi tự hạ mà đòi ta phải nhìn nhận mình nhỏ bé đúng như mình là, cái gì là của Chúa cái gì là của ta.
Về mặt luân lý: Cửa trời hẹp, nhỏ mới lọt qua được, to không thể vào. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng.
2/ Khi dọn bữa trưa hay tối thì đừng mời bà con bạn bè.... hãy mời những người nghèo khó tàn tật... họ không có gì đền đáp...ông có phúc vì sẽ được (Thiên Chúa) đền đáp khi các người công cính sống lại.
Đức Giêsu nói chuyện Nước Trời. Đời nầy thì chẳng có ai!
Người ta thường giải nghĩa câu nầy là "vô vị lợi". Bất cứ con vật hay con người không lợi là không làm. Con vật chết vì miếng mồi, con người chết vì miếng ăn. Không có ăn thì không ai chịu dám chết. Phải có lợi và lợi to như Đức Giêsu nói là bội hậu, đời nầy và cả đời sau. Bỏ cái lợi đời nầy để được cái lợi lớn vô cùng và đời đời ở đời sau. Nói rõ như vậy mà còn chưa hấp dẫn được mấy nguời huống chi nói vô vị lợi thì vô phương, không lọt được tai ai! Thánh Phanxico Xavie mỗi khi được Chúa cho một chút an ủi thì thưa với Chúa: satis, lạy Chúa, đủ rồi, xin để cho đời sau.
Cho cách nào thì được kể có công?
Trước hết chúng ta hãy kể những cái cho không kể:
- Cho vì bổn phận như đóng thuế, cho người thân...
- Cho vì tư lợi như đầu tư, tính toán...
- Cho để tỏ ra là người trên, để được khen..
- Cho để được cảm giác minh làm được việc tốt.
Chỉ có cho vì tình yêu thúc giục, vì Chúa Giêsu "ta đói cho ta ăn, ta khát cho ta uống".., như các tu sĩ của Mẹ Teresa "họ làm mọi sự cực nhọc vì làm cho Chúa Giesu". Cho Chúa thì Chúa mới kể và mới thưởng.
Thiên Chúa bỏ vốn, ta sinh lợi. Thiên Chúa định đoạt về ta nhưng không phải tùy tiện, độc đoán mà theo như "ta có, theo những gì Ta làm, như thể ta là".
Là sự thật 100% mà không ai thấy có lẽ vì không muốn thấy.
Lạy Chúa xin giúp chúng con thấy và nhìn nhận sự thật và sống đúng sự thật về chính mình.
65. Thái độ về “cái tôi”
khiến ta nên thánh thiện hay tội lỗi
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn nghĩ gì về “cái tôi” của bạn? Nó tốt hay xấu, thuận lợi hay bất lợi cho việc nên thánh của bạn?
2. Người thánh thiện có còn “cái tôi” của mình không? “Cái tôi” của người thánh thiện khác với “cái tôi” của kẻ tội lỗi ở điểm nào?
3. Bạn nghĩ gì về một người chọn chỗ kém nhất trong bàn tiệc rồi ngồi mong người ta mời lên chỗ cao hơn? Đó có phải là kẻ khiêm nhường không?
4. Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa và sống hòa hợp với tha nhân, “cái tôi” giúp ta hay cản trở ta? Giúp hay cản trở thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. “Cái tôi” hay ngôi vị của mỗi người là hồng ân cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa có ngôi vị hay bản vị (persona), nghĩa là một Thiên Chúa có “cái tôi”. Con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài, nên mỗi người cũng có một “cái tôi”. Vì thế, “cái tôi” là một giá trị căn bản và thâm sâu nhất của một con người. Không có bản vị hay “cái tôi” thì chúng ta chỉ hiện hữu giống như đất đá, cỏ cây, là những thứ không có bản vị. Do đó, chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho chúng ta một hồng ân rất cao quý là có “cái tôi” như Ngài đã có. Phải nói rằng không có hồng ân nào cao quý cho bằng hồng ân ấy.
2. Thái độ về “cái tôi” quyết định sự thánh thiện hay tội lỗi
Tuy nhiên, “cái tôi” vô cùng cao quý ấy lại gây ra những vấn đề vô cùng rắc rối. Cũng “cái tôi” ấy có thể làm cho con người trở thành thánh thiện mà cũng có thể trở thành tội lỗi.
– Thánh thiện là khi “cái tôi” biết tự xóa mình đi trước “cái tôi” của Thiên Chúa và của tha nhân. Chính Thiên Chúa, nguồn mạnh mọi sự thánh thiện, luôn luôn tự xóa mình; chúng ta có thể thấy điều này qua hành động tự xóa mình của Ngôi Hai trước Hai Ngôi kia: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).
– Tội lỗi là khi ta đặt “cái tôi” của ta lên trên “cái tôi” của Thiên Chúa và của tha nhân. Tội lỗi của thiên thần Lucifer và ông bà nguyên tổ của con người nằm ở chỗ đã đặt “cái tôi” của mình lên trên “cái tôi” của Thiên Chúa.
Vì thế, “cái tôi” là một con dao hai lưỡi. Chính thái độ của “cái tôi” của ta đối với “cái tôi” của Thiên Chúa và của tha nhân khiến ta trở nên thánh thiện hay tội lỗi.
3. Nghịch lý của “cái tôi”
Theo niềm tin Kitô hữu, Thiên Chúa đã dựng nên linh hồn con người – yếu tố chủ yếu làm nên “cái tôi” của ta – mang tính bất tử hay vĩnh cửu. Vì thế, dù “cái tôi” ấy có tự xóa mình đến thế nào thì nó cũng vẫn tồn tại. Điều rất nghịch lý nhưng cũng rất hữu lý là “cái tôi” càng tự xóa mình hay tự làm nhỏ mình đi bao nhiêu, thì nó càng trở nên vĩ đại, nổi bật và có giá trị hơn trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Trái lại, “cái tôi” càng muốn phình to và nổi bật lên để lấn át những “cái tôi” khác thì nó càng trở nên nhỏ bé, lu mờ và kém giá trị trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Đúng như lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng: “phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Hai lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng ứng dụng cái nghịch lý trên. Trong bữa tiệc, hay trong rất nhiều tình huống khác của cuộc đời, ta nên chọn chỗ hèn kém hơn tha nhân. Chọn chỗ hèn kém không phải để sau đó mong chờ người ta đưa mình lên. Nếu còn ý hướng mong chờ đó thì việc chọn chỗ hèn kém ấy chỉ là giả hình, giả khiêm nhượng, không phải là xóa mình thật sự. Chọn chỗ hèn kém như một thái độ tự xóa mình thật sự – nghĩa là vì không muốn ai để ý đến mình, không làm theo khuynh hướng tự nhiên của “cái tôi” là muốn được trọng vọng, đề cao – thì mới thật sự là khiêm nhường. Khiêm nhường thật sự như thế mới có giá trị cao cả trước mặt Thiên Chúa.
Khi làm ơn cho ai, nếu còn mong người ta nhớ ơn hay trả ơn mình – khiến ta chỉ muốn làm ơn cho những ai mà ta hy vọng họ sẽ trả ơn ta – thì ta vẫn còn đặt nặng “cái tôi” của mình. Người thánh thiện hay trọn hảo, khi làm ơn cho ai, không mong được họ đáp trả, nên sẵn sàng làm ơn cho cả những người không thể trả ơn được, và họ ưu tiên làm ơn cho những đối tượng này. Làm được việc gì, dù to tát đến đâu cũng không cậy công, không tự hào rằng mình đã làm được như thế. Đức Giêsu dạy: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”(Lc 17,10). Có như thế mới thật sự là xả kỷ, quên mình. Nhưng chính khi quên mình thật sự như thế, ta mới thật sự gặp lại chính mình: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”(Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô Khó Khăn). Người biết xóa mình hay quên mình thì thường xuyên sống trong bình an và hạnh phúc.
4. Quan trọng hóa “cái tôi” là một trở ngại rất lớn cho việc sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân
Trong đời sống Kitô hữu, điều quan trọng nhất phải thực hiện là mến Chúa và yêu người, hay nói cách khác là sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân. Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa, dụ ngôn sau đây trong Ấn Độ giáo có một ý nghĩa sâu sắc:
“Xưa có một linh hồn tu nhiều kiếp đến gõ cửa Thiên Đàng. Thượng Đế hỏi:
– Ai đó?
– Con, linh hồn trả lời.
– Con là ai? Thượng Đế hỏi lại.
– Con là con, linh hồn đáp.
– Ở đây không đủ chỗ cho Ta và con cùng ở, con hãy đi nơi khác! Thượng Đế nói.
Linh hồn ấy trở lại trần gian tu luyện thêm 1000 năm nữa, sau đó lên Trời gõ cửa lại. Thượng Đế hỏi:
– Ai đó?
– Con, linh hồn trả lời.
– Con là ai? Thượng Đế hỏi lại.
– Con là Ngài, linh hồn đáp.
Khi ấy, Thượng Đế mở cửa Thiên Đàng cho linh hồn ấy vào”.
Dụ ngôn trên cho thấy muốn kết hiệp với Thiên Chúa, con người phải xóa mình đi, nghĩa là phải biết coi nhẹ “cái tôi” của mình, coi nó như không là gì cả. Lúc ấy, “cái tôi” của ta như bị mất cái vỏ bên ngoài chỉ còn cái lõi bên trong là chính Thiên Chúa, nên rất dễ kết hợp với Ngài. Vì Thiên Chúa chính là nền tảng, là cốt tủy cho sự hiện hữu và tồn tại của “cái tôi” mỗi người. Đúng như thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính nội tâm tôi” (Deus intimior intimo meo). Chỉ khi kết hiệp với Thiên Chúa trong tình trạng tự xóa như thế, sự kết hiệp mới trọn vẹn và đem lại hạnh phúc tuyệt vời.
Đối với tha nhân, ta chỉ có thể yêu thương và hòa hợp với tha nhân khi ta tự xóa mình. Đối với ta, “cái tôi (của ta) là cái đáng yêu” nhất, nhưng đối với tha nhân, “cái tôi (của ta) là cái đáng ghét”nhất. Vì thế, tự đề cao mình, tự làm cho mình nổi bật lên, tự quan trọng hóa mình… trước tha nhân chỉ làm cho “cái tôi” của mình thêm đáng ghét, khiến ta và tha nhân tự nhiên xa cách nhau. Khi tự xóa mình trước tha nhân, coi tha nhân là quan trọng, làm cho tha nhân được nổi bật lên, thì đối với tha nhân, “cái tôi” của ta sẽ trở nên đáng yêu, khiến ta và họ trở nên gần gũi, dễ hòa hợp với nhau. Nhờ đó việc sống chung, làm việc chung trở nên vui thú và hạnh phúc.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha đã dựng nên con có một ngôi vị hay một “cái tôi” giống như Cha. Chính nhờ “cái tôi” này mà con có thể trở nên thánh thiện như Cha, mà cũng có thể tội lỗi như ma quỉ. Vấn đề là con đã hành xử với “cái tôi” của con thế nào: con coi nó quan trọng hơn Cha, hơn tha nhân, là trung tâm của vũ trụ, hay coi nó chỉ một “cái tôi” nhỏ bé cần đặt dưới tất cả những “cái tôi” khác!? Tội lỗi hay thánh thiện nằm ở thái độ này. Xin cho con biết coi nhẹ “cái tôi” của mình trước Cha và tha nhân.
66. Khuyến khích sống khiêm hạ- Lm. Hồ Bặc Xái
A. Khám phá sứ điệp Lời Chúa hôm nay
Sứ điệp nổi rõ nhất qua Bài đọc I, đáp ca và bài Tin Mừng là Khuyến khích sống Khiêm hạ.
- Bài đọc I chứa đựng những châm ngôn về sự khiêm hạ được sưu tầm trong một đoạn sách Huấn ca.
- Đáp ca: Ca tụng lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người nghèo hèn yếu đuối.
- Tin Mừng: Chúa Giêsu chỉ trích thói dành chỗ vinh dự trong bàn tiệc và thói thích mời những kẻ danh giá đến dự tiệc của mình.
B. Tìm hiểu sứ điệp
1. Bài đọc I (Hc 3,17-18.20.28-29)
Đoạn sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:
- Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu
- Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn
- Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
2. Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
3. Tin Mừng (Lc 14,1.7-14)
Khung cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
- Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
- Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
- Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: Chúa Giêsu lấy việc mời khách dự tiệc làm thí dụ:
- “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (xem 2Sm 5,8; Lv 21,18).
- “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là Đấng chủ động).
4. Bài đọc II (Dt 12,18-19.22-24a)
Tác giả thư Do thái khích lệ các kitô hữu gốc do thái đang gặp khó khăn: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
C. Rao giảng sứ điệp
I. GỢI Ý GIẢNG
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
1. Vinh dự trong cuộc sống:
- Chúa Giêsu thấy người do thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó vinh dự hơn (tiếng “chủ tịch”nghĩa là làm chủ chiếc chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy “chỗ ngồi”là vinh dự.
- Những người tự chọn chỗ vinh dự nghĩa là tự tô vẽ vinh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, vinh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ vinh dự có thể bị hố và xấu hổ.
- Chú ý câu cuối “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”: Động từ “Bị hạ xuống”ở thể thụ động, một kiểu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ vinh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Vinh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Rất nhiều thí dụ trong Thánh Kinh: Abel và Cain; Giacóp và Êsau; Giuse và các anh; Đavít và các anh; Đức Maria v.v)
2. Đền đáp trong cuộc sống:
- Nhiều người mong sự đền đáp nơi người ta. Vì thế họ làm gì cũng theo óc tính toán: “do ut dat”(tôi cho nó để nó cho tôi). Nhưng mong đợi như thế chưa chắc là sẽ được thỏa mãn, bởi vì có khi người ta không đền đáp cân xứng với mong đợi của mình, thậm chí có khi người ta còn không nhớ ơn để mà đền đáp. Và cho dù người ta có đền đáp thì cái mà người ta đền đáp cũng chỉ có giá trị tạm bợ ở đời này.
- Chúa Giêsu dạy chúng ta khôn ngoan hơn, đừng chờ mong sự đền đáp của người ta, mà hãy nghĩ tới sự đền đáp của Thiên Chúa. Một mặt, Thiên Chúa không bao giờ quên những việc lành chúng ta làm; mặt khác Chúa mà đền đáp thì dĩ nhiên sự đền đáp ấy chẳng những cân xứng mà còn bội hậu.
- Chúa còn hứa rằng khi ta làm một việc tốt cho những người không có khả năng đền đáp thì chính Chúa sẽ thay họ đền đáp cho chúng ta. Những người không có khả năng đền đáp là “những người tàn tật, què quặt và đui mù”, nói tóm lại là những người nghèo.
II. ĐỂ THAM KHẢO THÊM
1. Đức tin bị vỡ mộng (Bài đọc II – Thư Do thái)
Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu do thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ Kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những tín hữu gốc do thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v.v.
Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé (Viết theo Flor McCarthy).
2. Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc: “Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà!”Người chủ nhà nhanh trí đáp: “Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi”. Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự (Sưu tầm).
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy hai đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
- Những cục vàng kia để làm gì thế?
Thánh Phêrô giải thích:
- Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh Phêrô nói tiếp:
- Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
- Sao vậy?
- Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải thích:
- Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toán sẽ được cho lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng thêm một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
- Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:
- Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
- Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: “Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả”. Thánh Phêrô ôn tồn đáp:
- Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
- Tin vui gì?
- Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
- Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.
- Nghĩa là anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo (Sưu tầm).
67. Khiêm tốn trước Chúa
Mỗi khi dâng Thánh lễ, trước hết Giáo hội luôn mời gọi chúng ta sám hối. Giáo hội muốn nhắc chúng ta nhớ, trước Chúa mình chỉ là những tôi tớ hèn mọn, là những con người tội lỗi cần được Chúa xót thương và ban ơn. Đấy là thái độ khiêm tốn cần thiết cho người tín hữu chúng ta trước Chúa.
Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu mượn hình ảnh người được mời đến dự tiệc để dạy chúng ta: "... Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".
Có người phụ nữ kia một hôm nằm mơ thấy mình được gặp Chúa:
Chúa hỏi: "Chị là ai?"
Chị trả lời: "Dạ, dạ con là vợ của ông biện A ở họ đạo X, giáo phận Y nè Chúa nhớ con không?"
Chúa đáp lại: "Ta không hỏi con về chuyện đó, Ta hỏi con là ai?"
Chị ta tưởng Chúa chưa nghe rõ nên mới trả lời lớn hơn: "Dạ con là vợ của ông biện..." và thêm một hơi: "con đi lễ misa mỗi ngày, con ăn chay mỗi tuần và 4 đứa con nhờ con biết nuôi dạy nên chúng nó đã thành tài hết rồi Chúa ơi: 2 đứa làm bác sĩ, một đứa làm kỹ sư và một đứa làm giáo viên..."
Chị nghĩ trong lòng sẽ được Chúa khen nhiều lắm. Tuy nhiên, Chúa vẫn nói với chị là Người không hỏi điều đó. Chị buồn lắm không biết trả lời thế nào nên lặng thinh hồi lâu. Sau đó, chị trả lời trong nước mắt: "Dạ con là một con người yếu đuối tội lỗi nhưng vẫn được Chúa thương tha thứ và cho làm con Chúa."
Không ngờ chính câu trả lời ấy Chúa đã gật đầu và tỏ vẻ rất đồng ý. Chị sực tỉnh giấc và nhớ lại dường như từ đó đến giờ mình sống kiêu ngạo quá. Những gì mình làm chỉ với ý muốn khoe với Chúa và người khác thôi. Từ đó về sau, chị đã sửa mình. Chị vẫn sống và làm tiếp những gì đã làm nhưng với thành ý đền ơn Chúa và đền tội mình, chứ không còn ý nghĩ kiêu ngạo như trước.
Thái độ lúc đầu của chị này, làm ta nhớ lại dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (Lc 18, 9-14). Người Pharisêu cũng đã hãnh diện khoe với Chúa đủ điều nhưng vẫn không được Chúa khen. Ngược lại, người thu thuế đứng cuối đền thờ không dám ngước mặt lên mà rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" đã được Chúa khen.
Như thế, một trong những thái độ quan trọng và cần thiết của chúng ta trước Chúa là hết sức khiêm tốn. Khiêm tốn như thế là chúng ta đón nhận chính con người thật của mình. Chúng ta chỉ là thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Nếu Chúa Giêsu không khiêm tốn đón nhận những gì Chúa Cha trao phó có lẽ chúng ta sẽ khó mà nhận được ơn cứu chuộc. Và cả cuộc đời của Chúa Giêsu, biết bao lần dư khả năng dùng quyền phép của mình nhưng Người vẫn khiêm tốn chẳng tỏ ra. Chẳng hạn, khi ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc Chúa Giêsu đã phải khiêm tốn lắm mới không đáp lại những thách thức của ma quỷ. (Lc 4, 1 - 13). Vì thế, chúng ta hãy sống luôn trong thái độ khiêm tốn trước Chúa và luôn nhớ lời Người dặn: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".
68. Suy niệm của Lm. Trần Văn Trợ
ĐỐI XỬ TRONG TÂM TÌNH KHIÊM HẠ VỚI NGƯỜI CHUNG QUANH.
Khi ta tự chọn cho mình chỗ tốt nhất, rõ ràng là ta chỉ biết nghĩ đến bản thân mình trước hết mọi người khác, đó chính là động lực âm thầm nhưng rất mạnh mẽ vẫn thúc đẩy nhiều công việc thường ngày của ta! Động lực này phô bày cái bản năng ích kỷ, lo lắng cho cái tôi trước nhất mọi sự! Nó hoàn toàn trái ngược với con đường quên mình trong phục vụ của Chúa Giêsu!
Bài học chọn ngồi chỗ cuối của Chúa Giêsu dành cho chúng ta không những là một bài học hết sức thực tiển trong cuộc sống để tránh bị bẻ mặt trước đám đông; nhưng còn là một thách đố liên lỉ cho mỗi người biết quên mình mà nghĩ đến anh chị em chung quanh trước tiên. Nó nhắc nhở ta suy nghĩ và hành động ngược lại với bản năng thô thiển của người thiếu đắn đo suy nghĩ trong hành động. Nó giúp ta biết để ý mở tâm hồn và cõi lòng mình ra mà chăm lo cho những người xung quanh trước, giống như gương lành của Chúa Giêsu đã sống và trối lại cho các môn đệ của Ngài. Chỉ có con đường duy nhất là hy sinh phục vụ trong tinh thần yêu thương mới giúp ta đi theo đúng con đường yêu thương phục vụ của Chúa Kitô. Vì nếu việc hy sinh phục vụ người khác là một bản năng tự nhiên trong mỗi chúng ta, chắc hẳn Chúa Giêsu đã không phải khổ sở xuống thế làm người, để nêu một tấm gương sống động cho loài người noi theo. Và gương sáng của Ngài vẫn còn đó, nhưng liệu có mấy người tin theo và dám sống như Ngài đã từng sống trọn vẹn một đời cho yêu thương phục vụ? Chúng ta là những người đang sống với danh hiệu Kitô hữu, nếu ta không dám sống như người đã từng sống trong việc yêu thương phục vụ, thì ta chỉ là những kẻ mạo danh, đội lốt làm nhơ ố Danh Thánh của Ngài, khiến người đời càng khinh rẻ Ngài thêm nữa!
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con tin yêu Ngài tha thiết hơn, để con có thêm can đảm sống như Ngài muốn con sống, suốt một đời yêu thương phục vụ, hầu cho người đời nhận biết rằng chỉ có Chúa là Thiên Chúa thật của tình yêu thương.
69. Giảng về nhân đức khiêm nhượng
(Suy niệm của Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang)
"Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên (Lc.14,11)
Sự quan trọng của nhân đức khiêm nhượng
Kiêu ngạo là vua của các tính xấu, là đầu của mọi tội lỗi.
Vì kiêu ngạo, một số đông thiên thần bị Chúa đuổi ra khỏi thiên đàng, trở thành ma quỷ khốn nạn trong hỏa ngục. Vì kiêu ngạo, hai tổ tông loài người là ông Adong và bà Evà bị Chúa đuổi ra khỏi vườn địa đàng, không những làm cho mình bất hạnh, mà còn làm cho con cháu mình sau nầy cũng mất hạnh phúc. Vì kiêu ngạo, tháp Babel bị sụp đổ, tên khổng lồ Goliát bị giết chết. Vì kiêu ngạo, nhiều người biệt phái, luật sĩ, tư tế Do Thái ngày xưa bị Chúa Giêsu loại ra khỏi nước Trời.
Trái lại, nhân đức khiêm nhượng là vua của các tính tốt, là vị chỉ huy của các nhân đức. Không có tính tốt nào mà không đặt nền móng trên nhân đức khiêm nhượng, không có nhân đức nào mà không đặt cơ sở trên nhân đức khiêm nhượng.
Chúa không thể nào yêu ta được nếu ta không khiêm nhượng. Kẻ nào kiêu ngạo, Chúa hạ xuống thấp; kẻ nào khiêm nhượng, Chúa nâng cao lên.
Chúa không thể nào tha tội cho ta được nếu ta không khiêm nhượng. Chúa tha mọi tội cho ông Giakêu, cho bà Mađalêna, cho người trộm lành vì họ có lòng khiêm nhượng. Còn ai kiêu ngạo, Chúa không ban ơn tha thứ cho họ.
Chúa loại ta ra khỏi nước Trời nếu ta không khiêm nhượng. Chúa phán rõ: "Nếu các con không trở nên bé nhỏ như các trẻ thơ, các con không được vào nước Trời đâu".
Chúa Giêsu rất khiêm nhượng
Chúa Giêsu nhấn mạnh về đức khiêm nhượng. Ai hạ mình xuống, mới được nâng lên. Ai là sau hết, mới trở nên trước hết. Khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ dưới. Người nào làm lớn, hãy lo phục vụ những người ở dưới họ. Khi làm xong việc gì cho Chúa, phải tự nói rằng: "Tôi chỉ làm việc tôi phải làm, tôi chỉ là đầy tớ vô dụng". Khi bố thí, khi làm việc lành, đừng để tay trái biết việc tay mặt làm. Khi cầu nguyện, đừng cầu to tiếng giữa chợ búa cho người ta thấy mà khen, nhưng cầu nơi kín đáo cho Chúa thấy mà thôi. Phải khiêm nhượng như trẻ nhỏ mới được vào thiên đàng.
Không những nhấn mạnh về sự quan trọng của đức khiêm nhượng, Chúa Giêsu còn treo cao gương khiêm nhượng trước mặt mọi người. Chúa Giêsu khiêm nhượng trong đời sống thế trần: sinh khiêm nhượng (chọn một bà mẹ nghèo, sinh ra nơi miền xa, không có nhà trú, không có chỗ trọ, nên phải chào đời trong một hang lừa hôi hám, nằm lạnh lẽo trong máng cỏ rơm của bò lừa, giữa đêm khuya đầy sương tuyết, không có chăn mền ấm áp); sống khiêm nhượng (sống tại Nazarét là nơi dân nghèo; làm nghề thợ mộc vừa đủ nuôi gia đình; ra đi giảng đạo với hai bàn tay trắng; chọn những môn đệ trong hạng người nghèo hèn, thất học, không có địa vị gì trong xã hội; sống lang thang không có chỗ trú ngụ nhất định, nhiều lúc thầy trò phải nhịn đói cho qua ngày đêm); chết khiêm nhượng (bị bắt như một tên tội phạm nặng nề; bị đánh đập sĩ vả ê chề, bị lên án xử tử công khai, bị lột hết áo quần ra và bị đóng đinh chết đứng trên hai miếng gỗ, bị treo lên giữa trời và đất cho mọi người chế nhạo; phải mượn mồ của kẻ khác để tạm chôn một cách vội vàng).
Và hiện giờ cho đến tận thế, trong phép Thánh Thể, Chúa Giêsu sống khiêm nhượng một cách lạ lùng trong các Nhà Tạm trên khắp hoàn cầu: sống triền miên thinh lặng, hoàn toàn giấu ẩn tính cao sang huy hoàng của Con Thiên Chúa, chịu đựng mọi sĩ nhục lăng mạ của loài người tội lỗi, chịu đựng những sự thờ ơ của ngay những người tin Ngài, luôn chờ đợi, không ép buộc ai, chỉ biết mời mọc: "Hãy đến với Ta, Ta bổ sức lại cho".
Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong suy nghĩ, trong tâm tình và trong hành động.
Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong suy nghĩ. Tôi suy nghĩ về mình.
Trong quá khứ, tôi đã thế nào? Tôi đã là không không, tôi không đáng là gì, tôi mới có đây thôi. Nếu Chúa đã không thương cho tôi chào đời, thì tôi sẽ đời đời không bao giờ có mặt trên đời nầy đâu. Hiện tại, tôi đang thế nào?
Hiện tại, tôi chỉ là kẻ tội lỗi vì tôi phải luôn luôn đấm ngực mình mà nói: "lỗi tại tôi mọi đàng". Hiện tại, tôi phải luôn đọc lời cầu nguyện của kinh Kính Mừng: "Cầu cho con là kẻ có tội khi nầy và trong giờ lâm tử". Hiện tại, tôi không có gì vì cái gì tôi đang có là do Chúa cho tôi mượn, do Chúa ban cho tôi. Hiện tại, tôi không đáng gì, vì chỉ cần một làn gió nhẹ thổi vào sau lưng tôi, chỉ cần một mạch máu nhỏ bị đứt trong quả tim tôi, chỉ cần một vỏ dưa làm trượt chân tôi, cũng đủ làm cho tôi chết ngay tại chỗ, bỏ vợ, bỏ con, bỏ hết của cải gia tài sự nghiệp.
Trong tương lai, tôi sẽ thế nào? Hãy nhìn một nấm mồ là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của tôi sau khi thân xác tôi chết: bụi đất, thúi tha, giòi bọ, xương cốt héo khô. Còn về số phận của linh hồn tôi sau khi chết, tôi hãy nhìn xuống hỏa ngục hơn là nhìn lên thiên đàng, vì tôi đâu chắc chắn được mình sẽ chết lành, bởi lẽ chỉ cần một nháy mắt mà tôi chết thình lình, không kịp ăn năn tội vì Chúa, thì đủ để mất linh hồn đời đời.
Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong tâm tình. Tôi phải xác tín và thành thật nhìn nhận mình là kẻ yếu đuối, kẻ tội lỗi, chứ không phải chỉ nói ra những lời bên ngoài mà thôi. Tôi phải có lòng khiêm nhượng thật như lời Chúa nhấn mạnh: "khiêm nhượng thật trong lòng", chứ không phải giả bộ khúm núm, khép nép bề ngoài. Tôi phải thật tâm muốn cho kẻ khác biết tôi là kẻ hèn hạ, đáng khinh, đáng chê, đáng bị bỏ rơi, là kẻ có lỗi, là kẻ có tội. Tôi phải thành thật khinh chê mọi sự ở đời nầy vì Chúa. Tôi thật tình thích làm những công việc khiêm hèn, những công việc không ai để ý tới. Tôi vui mừng thật trong lòng khi thấy ai được việc, được thành công, hơn tôi về mặt nầy mặt khác. Tôi luôn vui vẻ bằng an trong tâm hồn khi tôi làm được việc cũng như khi tôi làm hỏng việc, khi tôi được lợi cũng như khi tôi bị thất lợi, khi tôi được khen cũng như khi tôi bị chê, khi tôi được thông cảm khuyến khích cũng như khi tôi bị chỉ trích chê bai.
Nhân đức khiêm nhượng còn là một nhân đức trong thái độ. Tôi ăn nói dịu dàng. Cử chỉ điệu bộ của tôi nết na. Tôi không chữa lỗi, tôi không đổ lỗi, tôi không khoe khoang, tôi không khinh dễ kẻ khác, tôi không lên án ai, tôi không xa lánh ai, tôi không xử tệ với người nào. Tôi ý tứ trong khi cười, trong khi ăn, khi uống. Tôi vâng lời một cách nhanh chóng, vui vẻ và hoàn toàn. Tôi nhịn nhục, tha thứ kẻ khác. Tôi nói lời cám ơn kẻ chỉ trích tôi, kẻ lên án tôi. Tôi nói lời xin lỗi kẻ hiểu lầm tôi. Tôi không bao giờ nhắc lại những gì người ta đã làm cho tôi một cách bất công hoặc có ý xấu. Tôi luôn mĩm cười với mọi người.
Ích lợi của đời sống khiêm nhượng.
Người nào khiêm nhượng thì được Chúa luôn ở gần bên: "Ta ngự trên trời cao nhưng ta vẫn ở gần bên kẻ nào hối cải và khiêm tốn"; được Chúa ban ơn: "Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhượng"; được Chúa cứu giúp: "Thiên Chúa hạ kẻ kiêu căng nhưng cứu giúp người khiêm nhượng"; được Chúa nâng lên cao: "Ai tâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên"; được Chúa tha tội: "Người thu thuế đứng ở xa, không dám ngữa mặt lên trời, lại còn đấm ngực nói: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội". Ta bảo thật các ngươi: "Người nầy khi trở về nhà, sẽ được nên công chính"; được Chúa cho thoát cơn hoạn nạn: "Khi Ta khép các cửa trời mà không có mưa, khi Ta ra lệnh cho cào cào châu chấu phá hoại xứ sở, hoặc khi Ta cho ôn dịch hành hạ dân Ta, nếu dân Ta biết hạ mình xuống lấy Danh Ta mà cầu khẩn..., thì từ trời cao, Ta sẽ nghe lời họ và Ta sẽ cho xứ sở họ thoát cơn hoạn nạn"; được Chúa dẫn dắt và dạy dỗ: "Chúa dẫn dắt người khiêm nhượng theo đường công chính. Chúa dạy dỗ người khiêm tốn biết đường lối Ngài"; được Chúa nhậm lời cầu nguyện: "Chúa thương nhậm lời kêu cầu của người khiêm nhượng. Chúa nâng đỡ tâm hồn họ, Chúa lắng tai nghe họ".
Người kiêu ngạo dễ bị trượt, dễ bị bổ, dễ bị té, dễ bị nhào vì họ trèo lên cao, vì họ đứng trên cao.
Người khiêm nhượng không bao giờ bị trượt, bị bổ, bị té, bị nhào vì họ luôn ngồi dưới đất, luôn nằm sát đất, luôn đứng chỗ thấp. Nếu người khiêm nhượng có trèo lên cao, có đứng trên cao, thì họ cũng không bị trượt, không bị bổ, không bị té, không bị nhào vì họ bám chặt vào Chúa là Đấng không bao giờ nghiêng ngã, vì họ được bàn tay vô cùng chắc chắn của Chúa nâng đỡ.
Hạnh phúc thay người sống đời khiêm nhượng. Họ nhìn Thánh Giá. Họ cầm Thánh Giá. Họ ôm Thánh Giá. Họ hôn Thánh Giá. Họ mang Thánh Giá. Thánh Giá dạy họ sống đời khiêm nhượng thật của Chúa Giêsu: vui lòng chịu mọi sự sĩ nhục; im lặng không nói lời gì lên án ai; tha thứ cho kẻ làm hại mình; cầu nguyện cho kẻ làm mất lòng mình; cầu nguyện cho mình và cho mọi người được vào nước thiên đàng như người trộm lành xưa; hoàn toàn phó thác cho thánh ý Chúa sắp đặt mọi sự; chu toàn mọi việc bổn phận lớn nhỏ của mình cho đến hơi thở cuối cùng; vui lòng dâng lên cho Chúa mọi nỗi đau khổ phần xác phần hồn.
Lạy Mẹ Maria, mặc dầu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cao sang, nhưng Mẹ vẫn luôn luôn xưng mình là tôi tá của Chúa, luôn luôn sống như người nữ tỳ của Chúa, xin Mẹ luôn dạy con sống đời khiêm nhượng theo gương Chúa Giêsu Con Mẹ: "Hãy học cùng ta vì Ta khiêm nhượng thật trong lòng".
70. Hãy sống khiêm tốn trung thực
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP.)
Thưa quý vị, Bất cứ người Việt Nam nào cũng thuộc lòng câu ca dao: “Bực mình mang lửa đốt trời, ai hay lửa cháy lửa rơi xuống đầu”. Nhưng ít ai hiểu ra ý nghĩa của nó, bết bát hơn nữa là học được bài học người sáng tác ra nó muốn nhắn gửi thiên hạ. Bài học đó là ăn ở khiêm nhường chứ đừng kiêu ngạo, hành xử bằng thái độ tự cao tự đại. Tuy nhiên, ngày nay khi nói chuyện cùng bất cứ người chưa quen biết nào, nhất là thanh niên, chúng ta thường cảm nghiệm có một “khối” kiêu căng trước mặt. Họ nổ lung tung về mọi vấn đề, xem chừng như họ biết hết, kinh nghiệm hết ngóc ngách của cuộc đời. Sau khi họ đi khỏi, chúng ta có ấn tượng họ là “ông biết hết”, “cô biết hết”, “bà biết hết”. Sự đời chung chung là như vậy, trái ngược với lời dạy bảo của Đức Kitô trong phúc âm hôm nay: “Hãy chọn chỗ rốt hết”.
Phải chăng Đức Giêsu khuyên bảo người ta khiêm tốn giả đò? Để rồi được chủ nhà đến và mời lên chỗ cao hơn? Và nếu xét theo hoàn cảnh xã hội của Ngài, thì lời khuyên còn lạc lõng hơn nữa. Trước mắt các lãnh đạo xã hội, tôn giáo lúc ấy, Đức Giêsu chẳng được ai tôn trọng, trái lại bị họ coi là tay bợm nhậu, tội lỗi, lê la với hạng bẩn thịu, như chúng ta ngày nay coi hạng đĩ điếm, xì ke, đầu trộm đuôi cướp chẳng có tư cách nào mà dạy bảo người khác khiêm nhường thật sự.
Hãy xem lời Ngài khuyên bảo chủ nhà: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em họ hàng hay và con hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đặt tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”. Như vậy thì còn đâu là địa vị xã hội? Mục tiêu của đãi tiệc là chi, nếu không phải là tiếng khen, thân hữu? Lời khuyên của Chúa cho vị chủ nhà Pharisêu trọng vọng quả là lạc lõng giữa hoàn cảnh ấy. Ngài chẳng phải là nhà mô phạm xã hội,, hoặc tư vấn lỗi lạc, kiểu người ta tư vấn hàng ngày trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình, internet.
Nhưng xin nhớ Ngài luôn huấn luyện cho các môn đệ về lòng khiêm tốn chân thật, gạt bỏ ham hố danh vọng thế gian. Ngài làm gương sáng bằng lời nói việc làm và cái chết nhục nhã trên thập tự, chúng ta ngộ ra lời Ngài hôm nay quả là chí lý. Ong chủ mời Chúa Giêsu hôm nay là một thủ lãnh nhóm Pharisêu và bữa tiệc là quan trọng. Bữa tiệc của ngày Sabát mừng dân Do Thái thoát ách nô lệ Ai Cập và bất cứ sự nô lệ nào: “Một ngày Sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa”. Dĩ nhiêm trong bữa tiệc này, mỗi người được sắp xếp theo đúng nghi lễ, đồ ăn, thức uống, khách được mời, vị trí và phong cách khách mời. Mọi thứ đều theo tập tục cách hoàn hảo, không để điều chi thiếu sót. Luca thêm một câu làm cho độc giả suy nghĩ về Chúa Giêsu: “Họ cố dò xét Người”. Chẳng hoá ra Chúa đã bị mang tiếng là tay “phá cách”, “ngang ngược”!
Trong bữa tiệc Đông phương làm chi có bảng hiệu tên cho mỗi thực khách, cũng chẳng có bàn nào đề chữ “reserved” (dành riêng). Ai nấy cứ theo địa vị xã hội mà ngồi vào vị trí của mình. Dĩ nhiên là có sự lộn xộn và họ dò xét thái độ của Chúa Giêsu xem Ngài hành xử như vậy không? Tức có khiêm tốn đúng với vị trí của mình, hoặc tự thổi phồng ngồi vào chỗ danh dự? Đối với họ, Ngài chỉ là tay gàn, rao giảng lang thang như các phù thuỷ thời ấy. Biết rõ bụng họ, nên Ngài đưa ra bài học luân lý, chứ không phải dạy bảo người ta giả hình. Trước hết cho những khách dự tiệc: “Khi anh được mời đi ăn tiệc cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất”. Cỗ nhất là cỗ danh dự, dành cho những người cao trọng. Ngồi chỗ đó là tự nhận mình có địa vị trong xã hội, tôn giáo. Thực tế chỉ có số rất ít có vị trí đó, đa phần thì không. Khiêm nhường là vào đúng chỗ của mình. Điều này chúng ta cũng thường hay mắc phải, tự nhận mình cao hơn giá trị thực. Hay nói cách tượng hình: phình to ra như con nhái trong câu truyện “bò và nhái con” của Esop. Thứ hai, lời khuyên cho chủ nhà: không nên đãi tiệc để được lợi lộc, tiếng khen và hệ quả sau đó. Nhiều khi chúng ta đãi tiệc để nhắm lợi lộc: thí dụ để được thăng quan tiến chức, hay kiếm chác vật chất: trúng thầu, trúng hợp đồng, viện trợ không hoàn lại, …
Chuyện kể rằng có một ông nhà giàu kia tên là Oliver. Ông là người tốt bụng, rộng rãi và thường xuyên làm việc bố thí và phân phát rất hào phóng. Ông già rồi chết đi, dân làng ai cũng khen ông nhân đức, sẽ bay lên thiên đàng thẳng băng. Đúng là ông lên thiên đàng, nhưng khi tới nơi, cửa lại đóng. Ông gõ cửa và thánh Phêrô xuất hiện. Ông xưng danh tánh và chờ đợi thánh Phêrô cho vào. Nhưng thánh nhân cản lại, chỉ vào hai đống vàng vụn, đủ mọi kích cỡ. Một đống lớn và một đống nhỏ, lấp lánh sáng ngời. Thánh nhân nói: hai đống vàng đó là công nghiệp của ông khi còn ở trần gian. Nhưng chúng phải được gạn lọc, viên nào xứng đáng tinh ròng, viên nào còn vương mùi ich kỷ, tư lợi, kiêu ngạo, tiếng tăm hão.
Rồi thánh nhân đưa ra một cái ràng, mắt ràng có thể điều chỉnh. Thánh Phêrô bắt đầu lọc vàng, từ đống nhỏ trước. Oliver ngạc nhiên hỏi: “Tại sao Ngài không bắt đầu từ đống lớn?”. Thánh nhân trả lời “không cần, vì đống to là những tặng phẩm Oliver ban cho bạn bè, thân thích bà con. Cái đó không có giá trị chi cả”. Bỗng dưng một cơn gió đến thổi tung bay tất cả, và chúng biến mất. Oliver xanh mặt thất vọng. Thánh Phêrô sàng đống nhỏ, mẻ sàng còn lại các hột vàng to, thành nhân gom lại và hắt sang một bên, chúng phút chốc thành tro bụi và biến mất. Oliver kinh ngạc hỏi tại sao vậy? Thánh nhân trả lời: “nó còn vương bụi bặm khoe khoang”. Mẻ sàng thứ hai với mắt lưới được điều chỉnh nhỏ hơn. Và thành Phêrô cũng hắt sang một nên những hạt to còn lại trên sàng, chúng cũng đều biến ra tro bụi và bay đi. Oliver thắc mắc tại sao thế? Thánh Phêrô trả lời: “còn vướng mắc lòng tự mãn, coi mình rộng rãi hơn thiên hạ”. Mẻ sàng thứ ba với mắt lưới nhỏ hơn nữa khiến những hạt vàng còn to không lọt xuống được. Thánh Phêrô lại hắt ra ngoài và chúng cũng biến đi nhanh chóng. Thánh nhân giải thích: “còn vương ẩn ý đền bù, làm êm dịu lương tâm”. Mẻ thứ tư và mẻ thứ năm thì chẳng còn gì để mà sàng. Oliver thất vọng, than khóc vì lấy chi mà vào nước Trời? Cả đời coi như toi công.
Tuy nhiên thánh Phêrô an ủi: “Hãy còn tin vui”. Oliver sáng mắt hy vọng: “Thưa Ngài tin vui gì?”. Thánh nhân trả lời: “Bây giờ anh nghèo quá, vì chẳng còn lại gì. Nhưng đó là giấy thông cho anh được vào chầu Chúa”.
Câu truyện không phải là để khuyên chúng ta ươn hèn lười biếng, nhưng cho thấy những việc bác ái không phải để lãnh công Nước Trời, mà là huấn luyện chúng ta nên tốt, nên thánh thiện. Thiên Chúa giàu có vô biên, cần gì “công lênh” của phàm nhân? Một là chúng ta thương yêu nhau vô vị lợi, không dính bén, vị kỷ, tiếng tắm, hay vì một mối liên hệ xác thịt mào đó. Thiên Đàng của mọi người thì Chúa Giêsu đả lập công rồi, bằng giá máu châu báu của Người, phần thưởng thì đã có sẵn. Chỉ cần chúng ta ăn ở tốt lành để chiếm lấy. Vì vậy Đức Giêsu có lý khi Người khuyên ông chủ nhà, đừng mời khách sang trọng, nhưng là những người đui mù, què quặt, lang thang khắp đó đây. Họ chẳng có chi để trả, lúc ấy việc đãi tiệc mới không hề vướng mùi vị kỷ. Kiêu ngạo hết khả năng len lỏi vào các công việc như thế. Các thầy Rabbi Do Thái nói: bố thí đúng nghĩa nhất, là khi người ta không biết mình cho ai, và người nhận cũng không biết tặng phẩm từ đâu đến. Au cũng là thái độ của chúnng ta ngày nay. Xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn đích thực.
Nói cho đúng, Thiên Đàng không phải là hàng hoá để người ta mua bán. Ngay cả mọi công nghiệp của thế gian này góp lại cũng không thể “tậu” nổi Nước Trời. Thiên Chúa không như chúng ta. Người là Đấng ban phát nhưng không vĩ đại nhất. Tại sao chúng ta lại cậy lập công để chiếm được Thiên Đàng? Thật vô lý, mà có vì công nghiệp đi nữa, thì có bao nhiêu vượt qua được thử thách thanh lọc của Thánh Phêrô? Chẳng có chi cả, vì việc làm của chúng ta luôn nhuốm mùi vị kỷ, tiếng khen, lời cảm ơn. Chẳng bao giờ chúng ta vô vị lợi hy sinh cho người khác, ngược lại thu vén cho mình trên lưng trên cổ thiên hạ. Chuyện này quá rõ trong sinh hoạt hằng ngày. Duy một mình Đức Kitô dám hy sinh mạng sống vì kẻ khác một cách hoàn toàn bất vụ lợi. Ngài trộn lẫn công nghiệp của mình với nhân loại, và ban cho những ai tay trắng, mà chẳng đòi hỏi họ điều chi, ngoài việc họ phải tuân hành thánh ý Thiên Chúa, để cha Người được vinh quang trên trái đất này. Nếu cần tìm một con chiên bị thất lạc, Người sẵn lòng bỏ lại chín mươi chín con khác và chịu cực nhọc để tìm con chiên lạc. Người chỉ lo đến đàn chiên, không hề lo cho thân mình. Xin đọc kỹ Phúc âm để nghiệm ra chân lý này.
Nên chúng ta phải dùng hết mọi tài năng, thời giờ, tiền bạc phục vụ các linh hồn. Thi hành bác ái, bố thí tiền bạc, của cải không phải là xa xỉ hay nhiệm ý của người Kitô giáo. Nó là bổn phận không cần bàn cãi. Người tín hữu chân thật là người yêu tha nhân hết tình, coi họ như anh chị em mình, mà không mong được đền đáp. Chúng ta thi hành bổn phận chia sẻ cuộc sống với tha nhân, không phải là được nổi tiếng hay lợi lộc, nhưng chỉ vì phải đứng dậy để kẻ khác cùng trỗi dậy với chúng ta trong đời sống mới mà Đức Kitô đã mang xuống trần gian.
Tôi chắc rằng Đức Giêsu không khuyên chúng ta đừng mời mọc thân nhân đến nhà mình dùng bữa, nhất là trong những ngày lễ đặc biệt. Đó không phải là điều Ngài ám chỉ trong Phúc âm hôm nay khi khuyên ông Pharisêu. Người chỉ muôn nhấn mạnh về lòng khiêm tốn khi làm việc bác ái. Ngoài ra, nếu chúng ta làm đúng như Chúa chỉ dẫn, chúng ta được nhiều cái lợi. Thí dụ có những bạn bè mới, tương quan mới, nhất là tìm thấy Chúa Giêsu trong những người nghèo khổ, vì Người thường đồng hoá mình với họ. Người nghèo cần giúp đỡ, nhất là cần nhân phẩm, điều mà xã hội giàu có không muốn cho họ.
Vậy Đức Giêsu không thay đổi quan điểm, ngược lại, nhất quán triệt để ngay cả trước mặt Pharisêu. Ngài không xúi ngầm chúng ta dùng mánh lới để leo lên bậc thang xã hội. Giả vờ ngồi chỗ rốt hết để được cất nhắc lên cao. Ngài chỉ muốn chúng ta có lòng khiêm nhường đích thực, không hậu ý để được khen hay lời cảm ơn. Đồng thời vươn tới những người nghèo khổ, chia sẻ nhân phẩm, của cải vật chất với họ. Có những tương giao mới hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Thánh lễ hôm nay cũng là một bữa tiệc. Chúng ta đối xử với nhau ra sao? Tuy rằng cùng một gia đình Thánh Thể, nhưng trong giáo xứ, hội đoàn, tu viện có rất nhiều những khác biệt, cấp bậc. Liệu chúng ta có ở đúng vị trí, hay đòi “cầm nọc” thiên hạ, cố vấn lung tung, bắt kẻ khác phục tùng ý kiến của mình, ngoi lên địa vị độc tôn rồi chia bè kéo đảng? Bài đọc một và hai cũng cho những lời khuyên thấm thía: “Con ơi hãy hoàn thành việc của con cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đep lòng Thiên Chúa”. “Anh em đã tới núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa là Giêrusalen trên trời với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa”. Như vậy thái độ hống hách trịch thượng là không hợp lý. Chúng ta khiêm tốn phục vụ nhau và chú tâm vào Lời Chúa còn rất mới mẻ hôm nay. Mặc dầu thế giới còn rất nhiều khác biệt. Nhưng trước Thánh Thể, chúng ta chỉ là một gia đình, chúng ta có quan hệ với nhau trong Thần Khí Đức Kitô. Cho nên không có lý do để giữ thái độ kiêu căng, kẻ cả. Trái lại hãy nghe lời Chúa mà sống khiêm nhường vô vị lợi. Amen.
Ý đẹp:
Trong Bí tích Thánh Thể, các tín hữu được đồng bàn ăn uống với Chúa Giêsu, vị tiên tri vĩ đại, như vậy họ phải mở linh hồn ra cho các thách đố của vị đại tiên tri này. Họ phải sẵn sàng hợp tác với Ngài trong công việc biến đổi kẻ khác. Đó là đòi hỏi của tinh thần liên đới đồng bàn. Thoái thác đòi hỏi này là rút lui khỏi bữa tiệc.
Sự thách đố căn bản của vị đại ngôn sứ Giêsu là lòng hối cải (metanoia), một tiến trình trọn đời của mỗi linh hồn. Những ai đồng bàn với Chúa phải luôn sẵn sàng để sự hiện diện của Ngài biến đổi. Chúng ta phải trở nên giống Ngài, bởi vì Ngài đã nên giống chúng ta. Không ai được miễn trừ khỏi thách đố hối cải, bởi lẽ chẳng một ai là công chính, tất cả nhân loại đều có nhu cầu ăn năn, xin ơn Chúa tha thứ.
Một thách đố khác là: thói xấu tìm kiếm danh dự, đặc ân, lợi lộc cá nhân, giống như các khách mời trong bữa tiệc hôm nay, hoặc như ông chủ nhà biệt phái chỉ mời những khách sang trọng, giàu có, chức quyền với hy vọng được đáp lễ. Đúng là có những thách đố lớn trong bữa tiệc hưu lễ tại nhà ông biệt phái vị vọng. Cho nên, muốn đồng bàn trong Nước Thiên Chúa, người ta phải tìm kiếm chỗ rốt hết và người chủ nhà phải mời những kẻ bần cùng đói khổ. (La Verdière: Dining in the Kingdom of God, 1994).
71. Khiêm nhường & phục vụ
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP - Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp)
Bài đọc trích sách Huấn ca hôm nay có thể củng cố những quan điểm về người đạo đức – những người được cho là có lòng khiêm nhường. Khi nghĩ đến sự khiêm nhường, nhiều người nghĩ ngay đến việc đấm ngực, những tâm hồn đạo đức chấp nhận xem mình như thảm cửa cho những kẻ tham vọng bước qua. Chúng ta thường cho rằng những người khiêm nhường thì không hay chống lại luật lệ hoặc trật tự, họ chỉ cầu nguyện và khi gặp gian nan khốn khổ, họ “phó thác” cho Chúa. Nhưng Ben Sira, tác giả sách của quyển sách Khôn ngoan này, không xem khiêm nhường là thụ động và mềm yếu như vậy.
Ông là thầy dạy của người trẻ (57,23-30) và ông muốn bảo tồn niềm tin của người Dothái giữa những thế hệ thày dạy và hiền nhân tiếp theo. Bài giảng về lòng khiêm nhường của Ben Sira là về sự từ bỏ và tín thác nơi Thiên Chúa. Người khiêm nhường thì mở lòng mình ra, học hỏi đường lối của Thiên Chúa và thực thi đường lối ấy. Chẳng phải Đức Giêsu cũng từng nói về Người như là một con người khiêm hạ đó sao? Những ai có thể nhận ra Người như Đấng Chúa sai đến cũng sẽ có một trái tim khiêm hạ.
Hiền nhân viết bài đọc thứ nhất hôm nay không dạy môn đệ của mình hay chúng ta nhún nhườngg khi chúng ta đối mặt với sự dữ và cái ác. Nhưng hoàn toàn ngược lại: người khiêm hạ cúi mình trước thiên Chúa và mở lòng đón nhận thánh ý của Ngài, sẽ đứng thẳng bảo vệ chân lý – biết rằng Thiên Chúa, Đấng Công Chính, luôn đứng về phía những ai khiêm nhường và khát tìm chân lý. Kẻ khiêm nhường muốn cộng tác với Thiên Chúa; thái độ khẳng khái như thế sẽ tăng cường và khơi lên chân lý trong lòng họ và rồi họ “sẽ tìm thấy niềm vui trong Chúa”.
Tin mừng Luca có nhắc đến rất nhiều bữa tiệc. Hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu ở một bữa tiệc khác. Ngay phần mở đầu câu chuyện thánh Luca đã đưa ra một tình trạng căng thẳng. Đức Giêsu đến dự tiệc ở nhà một “thủ lãnh Pharisêu.” Chúng ta đoán Người sẽ gặp rắc rối khi nghe thánh Luca cho biết “họ cố dò xét Người.”
Tôi cũng mới dự một tiệc cưới rất tuyệt. Ngay khi bước vào phòng tiệc, tôi đã thấy có một cái bàn và trên đó có sơ đồ ghi tên và chỗ ngồi của tất cả các vị khách mời. Tôi đến và tìm xem tôi sẽ ngồi bàn nào. Tôi đã thật sự vui mừng vì thấy mình được sắp xếp ngồi cùng bàn với một số bạn cũ và vài người tôi chưa từng quen biết. Mãi đến khi chúng tôi ăn tiệc và trò chuyện, tôi mới nhận ra rằng chúng tôi có cùng một sở thích và địa vị giống nhau. Tôi biết chủ tiệc cưới đã thận trọng sắp xếp tôi ngồi cùng với những vị khách mà chúng tôi có thể cùng nhau thưởng thức tiệc cũng như chia sẻ niềm vui của bữa tiệc.
Vào thời Đức Giêsu và trong nền văn hóa của Người, việc sắp xếp chỗ ngồi trong bữa tiệc là rất rõ ràng. Chủ tiệc phải sắp xếp khách mời vào “vị trí xứng hợp.” Người quan trọng nhất sẽ ngồi vào chỗ cao nhất và nổi bất nhất. Những người khác sẽ lần lượt ngồi vào những vị trí thấp hơn tùy theo tầm quan trọng của mình. Một khi mọi người đã yên vị, tất cả những gì anh chị em cần làm là nhìn quanh để thấy rọ tầm quan trọng của mỗi thực khách trong mắt chủ tiệc.
Đức Giêsu là một vị khách trong nhà của một vị Pharisêu quan trọng. Có thể chúng ta không biết Đức Giêsu được xếp ở vị trí nào, là một thày giảng và một người nổi bật, có thể Người được mời vào một vị trí nổi bật trong bàn tiệc – chúng ta không biết rõ điều này. Điều chúng ta biết chắc là Người ngồi vào một nơi không mấy gì là thiện cảm, Người cũng không bị tác động bởi “những kẻ quan sát Người.” Người bắt đầu nhìn quanh và chỉ dạy cho những kẻ đang tìm chỗ ngồi quan trọng trong bàn tiệc. Người là một vị khách, nhưng hành xử như ông chủ tiệc, sắp xếp khách khứa vào những chỗ nên ngồi trong bữa tiệc.
Đức Giêsu đưa ra một bữa tiệc khác cho những ai có cái nhìn thiển cận và chẳng bao giờ thỏa mãn. Giống như tác giả sách Huấn ca, Đức Giêsu là một hiền nhân, chỉ cho người ta thấy đâu là sự mãn nguyện đích thực: đó không phải là những chỗ quan trọng trong bữa tiệc, nhưng là việc lắng nghe thông điệp cứu độ của Người. Một khi họ lắng nghe và sống những điều này, bằng cách nhận ra và trân trọng “người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù,” thì họ sẽ nhận được chỗ ngồi danh dự trong bàn tiệc đời đời mà Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta. “Vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày những kẻ lành sống lại.”
Những người mà Đức Giêsu nói đến thì cũng không tham vọng gì hơn con người ngày nay. Nếu họ nhận được ân huệ từ một nhân vật quan trọng, một vị trí cao trong bàn tiệc, thì họ cũng sẽ tổ chức một buổi tiệc để đáp lễ. Như chúng ta thường nói: “Có qua có lại” – cả hai đều nhận được cái gì đó từ phía người kia.
Nhưng Đức Giêsu đang chuẩn bị cho chúng ta một yến tiệc mà nơi đó những kẻ bần cùng sẽ nhận được sự trân trọng cùng với tất cả sự dư đầy. Vì thế, chúng ta cần thực hành những “hành động thuộc nước trời” ngay bây giờ: hành vi trong cuộc sống của chúng ta sẽ phản ảnh vương quốc mà chúng ta là công dân trong đó. Hành vi của chúng ta phải làm sáng tỏ niềm tin của chúng ta, những cảm nghiệm của chúng ta. Chúng ta chưa làm được gì; chẳng có địa vị xã hội hay danh xưng cao sang nào có thể giúp ta trở thành phần tử trong vương quốc của Đức Giêsu. Nhưng, nếu chúng ta áp dụng dụ ngôn vào cuộc đời chúng ta, thì chúng ta thấy Người đã để ý đến chúng ta và nhu cầu của chúng ta, đồng thời mời gọi chúng ta vào vị trí ưu tiên. Chúng ta không đạt được điều đó, nhưng chúng ta nhận được điều đó. Đó là ân sủng.
Nếu chúng ta tin mình nhận được quà tặng này, một chỗ ngồi trong bàn, không phải do tài cán của chúng ta, nhưng do lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta có thể tỏ ra bằng hành vi tương tự: bằng cách mời vào cuộc đời chúng ta, một cách cụ thể, những người thấp bé và bị bỏ rơi. Hay nói cách khác, chúng ta hành xử như ông chủ tiệc mà Giêsu mô tả trong dụ ngôn, dành chỗ nhất cho những ai bé nhỏ nhất. Và sau khi làm như thế, chúng ta trở thành người phục vụ cho những người chúng ta mời – vì Người cũng dạy chúng ta làm như thế.
Tôi cũng mới thấy dụ ngôn này tái hiện trong chương trình tin tức trên truyền hình buổi tối. Chương trình kết thúc với cảnh nói về một ông chủ nhà hàng Ý ở Anaheim, California. Tên ông là Bruno Serato, và nhà hàng của ông chuyên phục vụ những người giàu có và nổi tiếng ở Quận Cam, ngay bên cạnh Disneyland. Ông đồng thời cũng quản lý Câu lạc bộ Boys & Girls trong vùng, đó là một tổ chức quốc gia để giúp đỡ những trẻ em nghèo. Trong khu vực đó, có rất nhiều trẻ em nghèo đang sống cùng gia đình trong những nhà trọ rẻ tiền. Năm 2005, bà Caterina, mẹ của ông, đến thăm vùng quê này, sau khi đưa bà đến nhà hàng đắt tiền, ông đưa bà đến thăm những đứa trẻ ở Câu lạc bộ. Khi bà thấy những đứa trẻ nghèo đói này, bà quay lại đứa con đang làm ông chủ và bảo ông “Cho chúng ăn!” Và đó chính là công việc ông làm mỗi ngày trong suốt năm năm qua.
Bruno phục vụ trẻ em mỗi ngày một bữa, không phải với thịt băm và rau xào, nhưng là một bữa tối thịnh soạn y chang thức ăn mà ông phục vụ ở nhà hàng đắt tiền. Chủ nhiệm câu lạc bộ nói: “Những đứa trẻ thích như thế! Chúng tôi giúp một số trẻ em nghèo nhất ở Anaheim thưởng thức một trong những nhà hàng ngoại hạng mỗi tối.”
Với việc suy giảm kinh tế, thì số trẻ em ăn tối của Bruno tăng lên, nhưng thực khách của nhà hàng giảm đi. Vì thế ông lỗ, và phải thế chấp căn hộ của mình để nuôi những đứa trẻ. Nhưng ông vẫn khẳng định sẽ không bao giờ ngừng việc cung cấp thức ăn cho những đứa trẻ, ông nói: “Không Bao Giờ!”
Bruno đã hóa thân vào dụ ngôn mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay mà chẳng mất mát gì. Như chương trình phỏng vấn trên TV, ta thấy kết quả trong cuộc sống của Bruno là ông nhận được quà tặng của niềm vui “… khi tổ chức tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù: như thế ông thật có phúc vì họ không có gì để đáp lại, và ông sẽ được đáp lễ trong ngày những kẻ lành sống lại.”
72. Phúc cho ai đến dự tiệc Thiên Chúa
(Suy niệm của Fr Jude Siciliano)
Khiêm nhường, giản dị là con đường nhỏ bé của các người con Chúa để tiến đến Nước trời, làm bạn hữu với Thượng đế, Đức Kitô, các thiên thần và các thánh (bài đọc 1 và Tin Mừng). Vẻ lộng lẫy của Cựu ước nhường bước cho lòng cậy trông đơn thành của Tân ước, đóng ấn bằng máu Đức Kitô (thánh thơ).
Thưa quý vị,
Quả là điều lạ, bài Tin Mừng hôm nay lại liên quan đến Bí tích Thánh Thể, bữa tiệc cánh chung. Bởi lẽ Chúa Giêsu nói: “Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế ông mới thật có phúc: Vì ông sẽ được thưởng công trong ngày các kẻ lành sống lại”. Thực ra thánh Luca luôn liên kết các bữa ăn trong Tin Mừng với Phép Thánh Thể, Tiệc cánh chung. Vậy hôm nay chúng ta tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về tư tưởng này.
Trước hết, xin đưa ra vài điều nhận xét: Xưa nay người tín hữu thường tách rời Bí tích Thánh Thể ra khỏi các biến cố khác của Tin Mừng và sứ vụ của Chúa Giêsu. Điều này không đúng, cần chỉnh lại. Lời lẽ và hành động của Chúa Giêsu trong Bữa tiệc ly phản ánh toàn thể những gì Người đã dạy dỗ và thực hiện. Và trong phụng vụ cũng vậy, chúng ta cũng phạm một lỗi tương tự. Hồi còn nhỏ tôi được dạy rằng xem lễ mà đi chậm đến phần dâng lễ vật vẫn chu toàn bổn phận. Người khác lại bảo lúc rửa tay mới là ranh giới mất lễ! Người khác nữa đưa ra ý kiến xem bù đến phần ấy thôi! Chao ôi kiểu cách giữ đạo “kinh tế”! Thế thì Lời Chúa không quan trọng lắm sao? Hoặc Lời Chúa có thể tách rời khỏi Thánh Thể? Hay Thánh Thể chẳng liên quan gì với sứ điệp của Tin Mừng? Tới thời kỳ Công đồng Vatican II, các thế hệ trẻ được dạy dỗ đầy đủ hơn. Nhưng não trạng cũ vẫn còn đó đây. Người ta đi dâng lễ đúng thời gian linh mục bước lên bàn thờ, và ra về lúc chủ tế bắt đầu cho rước lễ. Các cụm từ “đạo gốc”(cây), đạo dòng (đi), đạo núp (xe) rất phổ thông trong giới trẻ ngày nay. Nguyên do cũng là tại chúng ta quan niệm Bữa cuối cùng của Chúa Giêsu cắt ra khỏi lời nói, việc làm, sự chết và sống lại của Ngài!
Giáo Hội tiên khởi nhìn Bí tích Thánh Thể là một phần trọn vẹn của Tin Mừng. Họ cử hành Thánh Thể trong bữa ăn, sau khi nghe đọc Lời Chúa. Đến thời Trung cổ có một sự thay đổi. Lý do là việc tranh cãi vấn đề sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Cuộc đấu khẩu này kéo dài nhiều năm, kết quả là Hội Thánh nhấn mạnh về điều Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly và coi nhẹ giáo huấn cũng như các việc khác của Ngài trong suốt tiến trình thi hành sứ vụ. Hội Thánh tập trung quan trọng vào lời truyền phép: “Này là Mình Ta, này là Máu Ta”. Công thức trở nên trang trọng và đơn độc. Tuy nhiên, các tác giả viết về Kinh thánh, như Eugene la Verdiere dạy rằng trước khi Phúc Âm được viết thành văn, thì đã được các môn đệ của Chúa Giêsu sống và truyền tụng. Những việc làm của họ như giảng dạy, chữa lành, hoà giải đã biểu lộ nội dung Tin Mừng. Như vậy Phúc Âm đã được loan báo trong khung cảnh Thánh Thể như thánh Phaolô viết: “Chúng tôi loan truyền việc Chúa chịu chết, cho đến khi Ngài lại đến”(I Cor 11,26). Thánh Luca chú ý đặc biệt đến ý nghĩa của Thánh Thể. Tác giả La Verdière nói rằng Luca đã trình bày Tin Mừng của ông trong một kiểu cách làm cho Thánh Thể không thể rời khỏi sứ điệp Tin Mừng. Thánh sử thực hiện điều này bằng cách dàn dựng câu truyện Phúc Âm thành một cuộc hành trình lớn lên Giêrusalem. Trên đường đi, các bữa ăn, lòng hiếu khách, viễn tượng Nước trời, giữ vị trí quan trọng đối với Chúa Giêsu và các kẻ đồng hành. Các môn đệ là những người nhận lãnh sự tử tế, yêu thương và nhân hậu của Chúa. Họ nghiêng mình đồng bàn với Ngài. Cho nên họ phải giống như Ngài ban lại những tình cảm đó cho người khác nhất là những kẻ chịu thiệt thòi trong xã hội như nghèo đói, bần cùng, ngoài lề, bệnh tật, chịu áp bức bất công… Bữa ăn trong Phúc Âm Luca, hoặc là ăn thật, hoặc là chỉ đề cập đến trong lời giảng của Chúa Giêsu, đều hướng về Thánh Thể, ngược lại, Thánh Thể hướng về nội dung Phúc Âm, những biến cố trong cuộc đời Chúa Cứu Thế, đau khổ, tử nạn và phục sinh. Cho nên Tin Mừng Luca kể lại câu truyện của Chúa Giêsu và những kẻ theo chân ngài, nam phụ lão ấu trên con đường tiến về Thiên Chúa với Ngài. Suốt cuộc hành trình dài ngày này, những mạc khải có ý nghĩa đều đã xảy ra ở các bữa ăn hoặc khi Ngài nói về tiệc tùng.
Tới đây chắc hẳn quý vị đoán ra hướng đi của bài suy niệm này, phải không? Tin Mừng hôm nay kể Chúa Giêsu được một ông Pharisêu mời vào nhà ăn tiệc mừng ngày Sabbath. Người Do thái có tục lệ như vậy. Đang khi ăn người ta dò xét Ngài. Ngài dạy họ một dụ ngôn về bữa ăn và chỉ dẫn chủ nhà nên mời những ai. Như trên đã nói, thánh Luca luôn liên kết các bữa ăn với bí tích tình yêu và vì vậy lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay cũng cảnh giác chúng ta về điều thánh sử luôn có ý khuyên bảo cộng đồng của ông. Xin nhớ lại Tin Mừng tuần vừa qua. Nó đi trước tuần này và sửa soạn khung cảnh cho tuần này. Người ta hỏi Chúa, kẻ được cứu thoát thì ít, phải không? Ngài trả lời: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào. Vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”Nghĩa là khi Chúa trở lại, không phải những ai đã từng ăn uống với Ngài là được cứu rỗi. Họ phải thi hành nhiều hơn nữa (13,26). Ngoài ra, ngày cánh chung, bữa tiệc Nước trời sẽ bao gồm các khách kỳ lạ. Họ từ “đông sang tây, từ nam chí bắc”tới (13,29). Chúa Nhật này, chúng ta sẽ được biết thêm Thiên Chúa sẽ tặng ban cho chúng ta điều gì qua Đức Kitô và đòi hỏi những gì nơi những ai tụ họp quanh bàn tiệc Thánh Thể.
Trong nhà ông Pharisêu, Chúa Giêsu quan sát thấy người ta xô đẩy nhau tìm chỗ nhất, tranh nhau lấy nơi danh dự, bất kể thuộc thành phần nào, tương tự như chúng ta ngày nay trong các tiệc tùng đình đám. Chẳng thế mà các cụ đã đặt ra câu ca dao: Một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp. Có những cuộc cãi vã ghê gớm, thù hận suốt đời vì một miếng ăn nơi công cộng. Một vị linh mục bỏ ra về, vì chủ nhà không xếp đúng chỗ danh dự. Hoặc mắng mỏ người ta vì không gọi theo tên, theo chức vụ. Than ôi, kẻ vỗ ngực làm môn đệ Chúa! Bữa ăn ngày Sabbath là tục lệ trung tâm trong đời sống đạo Do thái. Ngày Sabbath có nhiều ý nghĩa. Nhưng ý nghĩa chính yếu là dân chúng nhớ đến công việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Ngài truyền rằng ngày thứ bảy trong tuần là ngày nghỉ khỏi mọi lao động nô lệ và là ngày thánh. Sách Đệ nhị luật còn thêm: Ngày Sabbath cư dân phải tỏ lòng liên đới với những kẻ khốn cùng, đang chịu đau khổ vì bất cứ lý do nào. Thí dụ các nô lệ phải được tha khỏi công việc nặng nhọc và nghỉ ngơi: “Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai Cập, và Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã dang cánh tay mạnh mẽ, uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó. Bởi vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi cử hành ngày Sabbath”(5,15). Đúng, giống như các dân tộc chung quanh, Israel cũng có nô lệ, nhưng họ phải đối xử với họ bằng thương cảm và vì vậy nô lệ cũng phải được nghỉ việc ngày Sabbath. Đức Kitô ở bữa ăn đã tỏ ra rất trung thành với tinh thần truyền thống. Người Kitô hữu sẽ có lỗi khi hạ cấp việc người Do thái giữ ngày Sabbath thành hoàn toàn vụ luật bề ngoài. Sự thật, mọi tôn giáo đều có tệ nạn này: “Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”hoặc “bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”. Trong xã hội tân tiến, mọi sự đều vội vã xô bồ, thiên hạ làm nô lệ cho tiền bạc, chức vị, công việc. Chúng ta đang thần thánh hoá quá mức Măm mon, thì một chút nghỉ ngơi ngày thứ bảy là đúng lý. Cho nên, phong tục hưu lễ của Do thái giáo mang lại lợi ích cho nhân loại về thể xác cũng như tinh thần rất nhiều. Bắt chước được vài lời dạy của dân tộc Israel về ngày Sabbath quả là một kho báu. Cho nên chỉ trích không phân biệt tính vụ luật của họ là thiếu suy nghĩ.
Ngày nay, Hội Thánh đang lấy lại truyền thống này. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô vừa phát hành thông điệp về ngày Chúa Nhật thánh, cũng là để cổ võ và phổ biến truyền thống tốt đẹp cho nhân loại. Việc nghỉ hư lễ của người tín hữu cho phép chúng ta tụ họp với nhau, bỏ qua những chuyện tầm phào, bon chen, tranh giành để lắng nghe Chúa Giêsu dạy bảo về bữa ăn Thánh Thể và các bổn phận tôn giáo. Chúng ta lại được nghe Ngài tuyên bố Thiên Chúa lộn nhào các giá trị mà nhân loại hằng ấp ủ. Bởi chúng chỉ am hợp với xác thịt kiêu căng mà không phải là ý muốn Thiên Chúa. Hẳn quý vị còn nhớ bài Phúc Âm tuần qua? Kẻ trước nhất sẽ xuống hàng sau chót! Những ai nghĩ mình sang trọng, đáng được ở trên những người khác, kiểu như những thực khách được mời trong bữa tiệc hưu lễ hôm nay, sẽ ngạc nhiên thấy mình chẳng đáng giá chi trước mặt Thượng Đế. Ngược lại những ai chịu thiệt thòi, bị xã hội ruồng bỏ, khinh bỉ, những kẻ ngoài lề, nghèo khổ, hèn hạ lại được đánh giá cao. Những luật sĩ, ký lục, Pharisêu đang lên mặt, rình mò, quan sát Chúa Giêsu trong bữa tiệc, sẽ là đối tượng để Chúa Giêsu khiển trách: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người biệt phái giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế”(Mt 23,27). Nếu họ muốn sống công chính như Chúa Giêsu rao giảng, dạy dỗ và thực hành, thì họ phải noi gương lòng nhân hậu của Thiên Chúa, xử lý với những kẻ thấp hèn trong xã hội như những nhân vật quan trọng với đầy đủ nhân quyền và nhân phẩm, kẻ sau chót sẽ lên hàng trước tiên. Cho nên, những ai lắng nghe Chúa giảng dạy thì phải “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”vào bàn tiệc nhà mình.
Đó là điều Thiên Chúa thực hiện cho mỗi người chúng ta trong thánh lễ này. Chúng ta đui mù, què quặt về đời sống thiêng liêng. Không trừ một ai, chúng ta đều là những tội nhân, thấp hèn trước mặt Đấng Tối Cao, đáng ở vị trí sau chót trong hàng ngũ phàm nhân. Nhưng chúng ta đến đây không vì địa vị xã hội hoặc quyền lợi mà hoàn toàn qua Chúa Giêsu. Chúng ta được lòng thương xót của Ngài đưa lên hàng danh dự. Thiên Chúa đã gọi chúng ta lên vị trí của phẩm giá cao sang. Ngay trên bàn tiệc hôm nay, những ai lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa Giêsu đều được biến đổi làm con Thiên Chúa nhờ cuộc thương khó, tử nạn, và sự phục sinh của Ngài. Cũng tại nơi đây Hội Thánh nhắc nhở chúng ta về Bí tích Thánh tẩy, căn cước chính yếu của mỗi người vào Nước trời. Chúng ta phải sống kết hiệp với Chúa Kitô, cộng tác với Ngài, đồng hành với Ngài cải tạo và xây dựng thế giới mới, trong đó ơn thánh và yêu thương ngự trị. Liệu chúng ta có thật sự tin vào những chi Chúa dạy ở bữa tiệc hưu lễ của người biệt phái? Liệu chúng ta đáng là những kẻ lãnh nhận lòng thương xót của Chúa? Nếu vậy, thì sau khi rời khỏi thánh lễ, chúng ta phải hành động như Ngài đối với những số phận hẩm hiu trong xã hội, những kẻ bị chà đạp, cầm tù, loại trừ, áp bức, những kẻ không có chi để đền đáp chúng ta. “Những gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy thi hành cho tha nhân.”Lòng yêu thương vô điều kiện là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại. Chúng ta được kêu gọi để trở thành dấu chỉ đó. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta ở nhà thầy biệt phái: “Điều quan trọng không phải là chỗ nhất, nhưng là bữa tiệc và danh sách những kẻ được mời.”Ước chi mọi người luôn ý thức điều này. Amen.
Ý đẹp: Trong Bí tích Thánh Thể, các tín hữu được đồng bàn ăn uống với Chúa Giêsu, vị tiên tri vĩ đại, như vậy họ phải mở linh hồn ra cho các thách đố của vị đại tiên tri này. Họ phải sẵn sàng hợp tác với Ngài trong công việc biến đổi kẻ khác. Đó là đòi hỏi của tinh thần liên đới đồng bàn. Thoái thác đòi hỏi này là rút lui khỏi bữa tiệc. Sự thách đố căn bản của vị đại ngôn sứ Giêsu là lòng hối cải (metanoia), một tiến trình trọn đời của mỗi linh hồn. Những ai đồng bàn với Chúa phải luôn sẵn sàng để sự hiện diện của Ngài biến đổi. Chúng ta phải trở nên giống Ngài, bởi vì Ngài đã nên giống chúng ta. Không ai được miễn trừ khỏi thách đố hối cải, bởi lẽ chẳng một ai là công chính, tất cả nhân loại đều có nhu cầu ăn năn, xin ơn Chúa tha thứ… Một thách đố khác là: thói xấu tìm kiếm danh dự, đặc ân, lợi lộc cá nhân, giống như các khách mời trong bữa tiệc hôm nay, hoặc như ông chủ nhà biệt phái chỉ mời những khách sang trọng, giàu có, chức quyền với hy vọng được đáp lễ. Đúng là có những thách đố lớn trong bữa tiệc hưu lễ tại nhà ông biệt phái vị vọng. Cho nên, muốn đồng bàn trong Nước Thiên Chúa, người ta phải tìm kiếm chỗ rốt hết và ông chủ nhà phải mời những kẻ bần cùng đói khổ. (La Verdière: Dining in the Kingdom of God, 1994).
73. Chú giải của Noel Quesson
Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa
Luca, môn đệ của Phaolô nguyên là một người Pharisêu nên ngài dễ dàng phá bỏ hình ảnh quá đơn giản của một Đức Giêsu được trình bày một cách có hệ thống như người chống lại nhóm Pharisêu. Một cách tiên thiên, Đức Giêsu không chống lại một ai: Người là Người tự do, có thể giao du với tất cả mọi người: Các người thu thuế Pharisêu (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Ở đây, chúng ta thấy Người được mời đến nhà “một thủ lãnh nhóm Pharisêu”, một trong các vị thân hào này đóng vai trò lãnh đạo trong đảng của những người công chính. Nhóm này thường chống đối Đức Giêsu mạnh nhất.
Luca ghi nhận đó là một ngày Sabát. Ngày này, các bữa ăn có một sự quan trọng đăc biệt. Bữa ăn trưa liền sau thánh vụ ở Hội Đồng. Sau một kinh cộng đoàn dài, bữa ăn mang một tính cách sang trọng hơn, vui vẻ hơn bữa ăn của các ngày làm việc. Thật vậy, vì thời gian nghỉ ngơi trong ngày Sabát phải rất chuẩn xác nên mọi món ăn phải được chuẩn bị vào tối ngày thứ sáu, đây là ngày “chuẩn bị” (Máccô 15,42). Như thế, tách khỏi mọi lo lắng về vật chất, những ai tiếp đãi bạn bè hoặc gia đình họ có thể hoàn toàn sống cho tình bằng hữu, cho việc trao đổi đối thoại. Ngày Sabát, người ta sẵn sàng mời khách. Và những “câu chuyện ở bàn ăn” là một cơ hội để vui vẻ và để suy tư.
Những ngày Chúa nhật của chúng ta chẳng phải đã đánh mất một cái gì đó sao?
Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.
Vậy Đức Giêsu đã quan sát. Người đã thấy có những người khéo luồn lách để được ngồi vào chỗ tốt. Trong mọi xã hội, người ta thừa nhận cuộc chạy đua để dành các chỗ nhất đó. Ngày nay có hàng ngàn dấu hiệu phân biệt, và không chỉ ở bàn ăn, để tôn cao giá trị. Từ cách trang phục cho đến xe ôtô của một địa vị xã hội nào đó, rồi đến thói bọc làm sang trọng các đề tài phải đề cập khi trao đổi câu chuyện vì đó là thời thượng!
Trước tiên, rõ ràng Đức Giêsu không kể lại dụ ngôn để khuyến khích chúng ta tôn trọng các quy tắc thế tục của sự tương xứng về xã hội và cấp bậc.
Người muốn khuyến khích chúng ta phải hạ mình, khiêm tốn. Nhưng trước hết, như thường lệ, Người nói với chúng ta về “Thiên Chúa”: Điều kiện nào là chủ yếu để được nhận vào Nước Thiên Chúa?
Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn
Vâng, để được nhận vào Nước Chúa, điều kiện căn bản chính là phải đón nhận, phải tiếp đón Nước Trời, phải làm cho mình trở nên hoàn toàn bé nhỏ: Chính người “Chủ tiệc” sẽ có sáng kiến và nói “hãy đến, hãy tiến lên cao hơn”. Và thật nghịch lý, người nào coi mình là “người sau rốt” sẽ sẵn sàng hơn người kiêu ngạo, để nhờ ân sủng, đón nhận ơn mà mình nghĩ rằng mình không xứng đáng được hưởng. Chính những tội lỗi của chúng ta làm chúng ta cảm nhận sâu sắc sự kém cỏi triệt để của mình: Người “tội lỗi” trở về nhà và được “công chính hóa”, trong lúc kẻ tự phụ công chính tiếp tục đứng thẳng trước mặt Thiên Chúa kể lể những hành động tốt của mình; “Chúa thấy đó, con không cần đến Ngài, con không phạm tội, không trộm cắp, bất chính, ngoại tình... con làm điều lành, con ăn chay và bố thí...” (Lc 18,9-14).
Không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất mà chính là tình cảm về sự “công chính của bản thân”: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Thánh Phao lô, lấy lại mạc khải này của Đức Giêsu, sẽ chứng minh rằng không một ai có thể đòi hỏi sự cứu độ đời đời như một quyền lợi căn cứ vào các công nghiệp của riêng mình qua việc hoàn thành Luật (Rm 3,21-31; Gl 2,16-21).
“Anh hãy ngồi vào chỗ cuối!” Đức Giêsu không nặng lặp lại điều đó; trước thánh Phaolô. Trước mặt Thiên Chúa phải biết mình “yếu đuối” “nhỏ bé” và “ở chỗ cuối”, để hoàn toàn trông cậy vào Người, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình (Lc 17,10; 18,10-14).
Phải nhỏ bé như một trẻ thơ để có chỗ trong Nước Trời (Lc 9,48). Bạn hãy đặt mình vào chỗ cuối? ông chủ sẽ cho mời bạn lên chỗ cao hơn.
Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
Tính kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa. Ai tưởng rằng mình xứng đáng không thế có chỗ trong Nước Thiên Chúa. Kinh nghiệm lịch sử của Israel rõ ràng là sự lật ngược các giá trị của trần gian này: Thiên Chúa đã chọn dân tộc nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất trong các dân tộc trên mặt đất... “Không phải vì anh em công chính hay vì lòng anh em Ngay thẳng mà anh em sắp được vào chiếm hữu đất ấy đã hứa cho anh em, bởi vì anh em là một dân cứng cổ... (Đệ nhị luật 9,5~ - 4,37-38; Edêkien 21,31; Thánh Vịnh 147,6). Hạ mình xuống ư. Thế giới hiện đại không chấp nhận thái độ ấy. Ngày nay, người ta diễn tả, thái độ ấy bằng không từ ngữ có nghĩa xấu? Nằm bẹp xuống... đào nhiệm... bò lết... nhượng bộ... đầu hàng... Trái lại người ta ca ngợi sự phát triển, mở mang, thăng tiến.... Tuy nhiên, sự hạ mình phải là một điều rất cao cả để Đức Giêsu khuyên chúng ta làm và trước hết chính Người đã sống sự hạ mình ấy như thái độ của chính Thiên Chúa ở giữa chúng ta! “Người đã chọn chỗ sau rốt đến nỗi không bao giờ và không một ai có thể cướp lấy của Người”. Đó chính là ý nghĩa của Nhập thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế: Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Nhưng để nhổ bỏ mọi xu hướng khỏi thái độ ấy, chúng ta phải biết rằng khi đặt mình vào chỗ sau rốt, chỗ của người bị đóng đinh, Đức Giêsu không giảm giá trị của minh, Người không thua kém chính mình. Trái lại, bằng sự hạ mình ấy, Người đã biểu lộ trọn vẹn sự cao cả tối thượng của Người. Người đã trở thành Tình Yêu Tuyệt Đối? Người đã trở thành “con người vì những người khác!” “con người vì Chúa Cha”. Chính trong ý nghĩa ấy, sự sống lại trong vinh quang không còn là điều trái ngược với thập giá. Sự quên mình hoàn toàn của Người đã trở thành vinh quang của Người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!
Chúng ta không chứng kiến những nguyên tắc về lễ độ nơi bàn ăn! Chúng ta được mời gọi đến được Nước Thiên Chúa, bằng cách noi gương Thiên Chúa, Đấng kín nhiệm, ẩn giấu, khiêm hạ; Đấng đã làm mình thành người sau rốt, người phục vụ cho mọi người! Không có sự đào nhiệm nào trong thái độ thánh thiêng ấy. Đó là sự cao cả của Người. Trái lại, chính nhu cầu khẳng định mình chống lại những người khác, thống trị họ bằng sức mạnh hoặc bằng sự mua chuộc, thúc cùi chỏ vào họ để được đứng ở hàng đầu tiên; chính bản năng sinh vật ấy muốn là kẻ mạnh nhất thể hiện sự yếu đuối nguyên thủy của chúng ta, tội nguyên tổ của chúng ta: Muốn được như các thần linh... như Thiên Chúa giả hiệu ấy; ở đó chúng ta quy chiếu bản năng chúng ta.
Trong bữa ăn cuối cùng để chia tay ở nhà Tiệc ly, những khách mời của Đức Giêsu vẫn chưa hiểu: “Các ông còn cãi, nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân... Anh em thì không như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ... Thầy đây Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ (Lc 22,24-27).
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi
Xung quanh đề tài về “bàn ăn” đây là một dụ ngôn mới. Dụ ngôn này mời gọi chúng ta có thái độ vô tư, phải cho và phục vụ không chờ đền đáp lại. “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. (Lc 6,32-35).
Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ
Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Những lời này thật sự là cách mạng. Thật vậy ở đây, phải hiểu rằng Đức Giêsu kể ra những hạng người bấy giờ bị coi là những hạng người ô nhục. Một cấm kỵ lâu đời trong nghi lễ cấm những người dị dạng tham dự các buổi lễ ở Đền Thờ (2 Samuen 5,8; Lê vi 21,18). “Luật Qumram”, thời Đức Kitô quy định như sau: “Không một người mắc phải sự ô uế của con người được vào trong Hội đường của Thiên Chúa! Mọi người bị tì vết trong da thịt mà người ta có thể nhìn thấy, bị liệt ở bàn chân, bàn tay, bị thọt, mù hoặc điếc, hoặc câm. Những người này không được vào để tham dự ở giữa Hội đoàn của những con người danh tiếng!”. Vả lại, theo Đức Giêsu, chính những con người bị khinh miệt ấy, những người tàn tật ấy lại là đối tượng của các ơn huệ thiêng liêng và được mời đến Bàn Tiệc của Người (Lc 14,21). Bệnh nhân, người đau khổ, nghèo khó, bị nhục mạ, xấu hổ, đáng thương, thương tích, đựng sau rốt, bạn đang được Chúa yêu thương. Tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta lớn hơn tấm lòng của chúng ta. Sự yếu đuối của Đức Kitô còn mạnh mẽ hơn sự mạnh mẽ của chúng ta! Khôn ngoan của Nước Thiên Chúa là sự điên rồ đối với con người. Ai khiêm nhường ấy là phúc thật, họ sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy…
Như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại
Người ta thấy rằng bởi việc nhắc đến ngày sống lại sau cùng, những lời nói về bàn ăn của Đức Giêsu đi xa hơn những lời khuyên tầm thường khi mời khách. Nhưng điều đó không có nghĩa là không được áp dụng vào các bình diện cụ thể hơn. Thật vậy, những lời của Đức Giêsu nhắm đến ba loại bữa ăn:
Trước tiên những bữa ăn của bàn ăn con người: phải chăng là điều Đức Giêsu nói với chúng ta?
Kế đó là bữa ăn Thánh Thể: có phải là không phân biệt ngôi thứ, mở ra cho tất cả mọi người?
Sau cùng, bữa ăn thời thế mạt: Thiên Chúa đã dự trù sự no nê cho những lũ tội lỗi, với điều kiện duy nhất là họ noi gương Thiên Chúa để sống yêu thướng mà không chờ đền đáp lại.
74. Chú giải của R. Gutzwiller
KHIÊM NHƯỜNG (14, 7-11)
Lời khuyến dụ thứ hai của Đức Giêsu trong bữa tiệc có nhiều điểm khác lạ. Bề ngoài đó chỉ là vấn đề lịch sự. Ở đây Ngài còn nhận định trong phạm vi hoàn toàn tự nhiên. Ngài thấy khách dự tiệc chọn chỗ tốt nhất, nên mới lên tiếng nhắn nhủ: ‘khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, nhưng hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết. Trong trường hợp này, gia chủ sẽ đến và nói: ‘này bạn, xin mời bạn lên trên’.
Theo phép lịch sự, không nên ngồi trên mà trái lại nên tế nhị kín đáo tìm chỗ thấp. Sắp xếp chỗ ngồi là phận sự của gia chủ chứ không phải khách tiệc. Khi nhấn mạnh về xã giao, Đức Giêsu đã xử sự khác thường: người ta cũng có thể nói Ngài giả hình vì Ngài khuyên thực khách mưu mô ở dưới để được đưa lên hàn trên: ‘Khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: ‘này bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được vinh dự trước mặt những người dự tiệc’.
Tuy nhiên nếu tìm chỗ dưới với hậu ý hay hy vọng được lên cao, đó chẳng phải là khiêm tốn giả tạo và nhún nhường một cách tinh vi sao?
Tự cao là điều không nên có nơi Kitô hữu.
Thực sự đối với Đức Kitô thì hoàn toàn khác. Chắc chắn lời cảnh cáo những người biệt phái của Ngài hoàn toàn có tính cách tự nhiên, nhưng còn tiềm ẩn trong đó một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Đối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng nước Thiên Chúa, một đề tài đã được Thánh Luca nói đến trong đoạn trước. Thực vậy, Thánh Luca đã viết: ‘và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa’. Lời đó cũng ám chỉ những người sau hết sẽ trở thành trước hết và ngược lại.
Chúng ta phải hiểu lời đó của Đức Giêsu trong tương quan với ý tưởng này: ‘Vì hễ ai nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên’. Trong tương giao giữa người với người, khiêm nhường thường quá chịu ảnh hưởng phức tạp của mặc cảm thua kém, yếu hèn tự nhiên, ảo tưởng sai lầm và nhận định thiếu thực tế. Không thể ngây ngô nghĩ rằng mình thua kém tha nhân. Có thể người này hơn người kia về sức mạnh thể xác, sắc đẹp, thông minh, năng lực, ưu điểm, tinh thần, và các đức tính luân lý. Dẫu thế họ vẫn phải đối đáp với người khác với tinh thần khiêm nhu.
Thái độ đó chỉ có ý nghĩa –ý nghĩa đích thực- khi ta biết đối chiếu không phải giữa người này với người kia, nhưng là giữa Thiên Chúa với con người và rút ra những qui tắc cho mối tương quan đó. Khi đó khiêm nhượng trở thành chân lý và giúp ta hiểu đứng đắn con người mình.
Trước nhan Thiên Chúa, con người là tạo vật sánh với Đấng Tạo hoá, tạm thời với Vĩnh cửu, tương đối với Tuyệt đối, bất tất đối với tất yếu, hữu hạn đối với Vô hạn, cho nên dưới mọi khía cạnh vẫn là bé nhỏ trước vĩ đại. Hơn thế, con người còn khiếm khuyết nữa và đã mang thân phận tội lỗi, con người như tội nhân ra trước quan toà, con nợ đứng trước chủ nợ, dơ bẩn trước vẹn sạch, tội nhân trước Đấng Thánh.
Xét như thế –và như thế mới là cái nhìn chính xác- khiêm nhường là một thái độ tất yếu duy nhất. Ước mong con người, dù có khiếm khuyết cũng được mời tham dự bàn tiệc nước trời với sự khoan hồng đặc biệt. Và với tâm tình tri ân, hẳn họ sẽ hoan hỷ chấp nhận chỗ kém.
Nếu Thiên Chúa mời gọi họ đến với Ngài, thì hẳn Ngài sẽ cho họ chỗ trọng hơn. Đó là một ân xá mà không thể không ngạc nhiên. Đấy là một vinh dự mà Thiên Chúa ban, lẽ ra họ không đáng được. Chỉ có ai tự hạ với ý thức mình là hư vô mới có thái độ chân chính, mới biết rõ lời mời gọi là ân sủng. Như thế, họ mới ở trong tình trạng sẵn sàng nhận ân sủng đó, ân sủng sẽ nâng họ lên cao.
Trái lại, ai tưởng mình cao trọng –họ nghĩ như thế vì ảo tưởng nào không rõ- thì chiếm lấy cho mình những điều thuộc về Thiên Chúa, thiếu ý thức về tính nhưng không của việc tuyển chọn, thiếu tư cách và thiếu chuẩn bị tư tưởng để đón nhận ân sủng.
Như thế, trong nước Thiên Chúa, khiêm nhường là điều kiện tiên quyết và cơ bản, là nhân đức chính danh Kitô giáo, bắt nguồn từ tinh tuý sâu xa nhất của cử chỉ đạo đức.
Lời nói của Đức Giêsu vượt ra ngoài tầm yêu sách của phép lịch sự và cách xử thế bên ngoài, nó đem lại cho nhân loại đi xuống chiều sâu khôn dò của lòng khiêm hạ, và tiến lên chiều cao thăm thẳm của ân sủng Thiên Chúa.
VÔ VỊ LỢI (14, 12-14)
Đức Kitô đòi hỏi gia chủ phải vô vị lợi. Ông không nên mời bằng hữu và những người giàu có quen biết để họ sẽ đãi lại hay dễ dàng lợi dụng cho mình: Không: ông ta nên mời những người không hy vọng đền đáp hay không thể đối xử lịch thiệp với mình: người ăn xin, què quặt, tàn tật và mù loà.
Ngay lúc đó Đức Giêsu đã quy hướng về đời sau: ‘Vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn’. Ở đây có hai điểm nổi bật:
Trước hết, quan điểm của Đức Giêsu về đời sau. Đang lúc dự tiệc trần gian, Ngài liên tưởng đến bữa tiệc trong nước Thiên Chúa sẽ thành tựu hoàn toàn trong vinh quang của Ngài.
Tiến về thành thánh Giêrusalem thiên quốc. Sự viên mãn trần gian là mục tiêu viên mãn của siêu nhiên. Thế nên, Ngài để hết tâm tư vào thời sau hết, điểm này cho thấy lý do những điểm khai triển của Ngài trong suốt bữa tiệc.
Khi nói về việc chữa lành trong ngày Sabat và về luật nghỉ lễ, Ngài đã nghĩ đến ngày Sabat vĩnh cửu, trong ngày đó, mọi người sẽ được lành mạnh và được nghỉ ngơi trong Chúa. Ngày Sabat phàm trần có lẽ chỉ là sự tiền dự, là ánh chớp ngắn ngủi của ngày Sabat vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao được phép chữa lành và sự chữa lành đáp ứng tinh thần của ngày này.
Khi đề cập đến vấn đề chỗ hơn chỗ kém, điều này chính yếu ám chỉ môt cuộc đảo ngược giá trị và địa vị trong thế giới bên kia.
Những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế phải hạ xuống. Người giầu có trở về tay trắng và kẻ nghèo nàn sẽ được giầu sang. Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn, và Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.
Những người mù loà và bất toại trong tiệc cưới cũng được như vậy. Xét theo bề ngoài họ là những người có vẻ tàn tật và bạc phận, nhưng đối với Thiên Chúa, trong tâm hồn, họ có thể là một người giàu có, một kẻ mạnh mẽ tiến đến Thiên Chúa, một người tinh mắt được cái nhìn của đức tin soi chiếu. Họ đúng là một thực khách được mời dự tiệc của Chúa.
Trái lại, một người lân cận ‘tư sản’, một người bạn (có thể là bạn đãi bôi), một thân nhân, có thể thực sự lại là người xa cách Thiên Chúa; nói theo lối tu đức, có lẽ giao du với họ cũng chẳng được ích lợi gì.
Thứ nữa, người ta có thể tự hỏi xem việc ám chỉ về đời sau là thời mà ‘khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn’ đã không che dấu tâm trạng ích kỷ, đạo đức hơn lòng vô vị lời chân thành sao? Phần thưởng hứa ban là gì nếu không phải là việc chiếm hữu Thiên Chúa.
Con người có thể và phải ao ước đến gần Ngài bao nhiêu có thể, kết hợp với Ngài một cách sâu xa để được nhận biết Ngài một cách sâu thẳm nhất trong cuộc sống mai hậu.
Con người được sáng tạo vì Thiên Chúa và sống bởi Thiên Chúa, khát khao Ngài mãnh liệt. Vì niềm vui và hạnh phúc là hiện thân của Thiên Chúa mà tâm tư con người luôn khát khao những thứ này.
Đức Kitô đề cập đến điều đó. Chính Thiên Chúa ấn định những ước vọng đó trong bản tính nhân loại. Con của Ngài còn củng cố và khai triển thêm. Vinh danh Thiên Chúa và hạnh phúc của thụ tạo đều hợp với nhau và biến nên một trong thế giới bên kia.
Cho nên, ước vọng đó của con người thật chính đáng. Trong bàn tiệc vĩnh cửu, niềm vui sẽ ngự trị mà không bị hạn hẹp. Do đó, con người có thể và phải mong ước được tham dự bàn tiệc đó và ở đây sẽ nhận được phần thưởng mà Đức Kitô luôn nhắc nhở và mới thực là mục tiêu chi phối hành vi cuả chúng ta.
75. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU ĐÃ ĐẢO LỘN TẤT CẢ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ chuyện ăn uống
“Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), nơi Người sẽ bị “hạ xuống chỗ thấp nhất”, trên thập giá, “giữa hai tên gian phi” (23,33), Đức Giêsu được mời dùng bữa, “vào một ngày Sabát”, “nơi nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu”. Một bữa ăn như thế cũng thường là dịp nổ ra những tranh luận tôn giáo.
Chuyện mời Chúa dùng bữa này chức không phải là không có dụng ý, bởi Luca ghi nhận: “họ cố ý dò xét Người” (14,1).
Vừa vào bàn, Đức Giêsu đã gặp ngay “một người mắc bệnh phù thũng”, và Người không ngần ngại chữa lành nạn nhân, dù hôm đó là “ngày Sabát”, vậy mà các nhà thông luật và những người Pharisêu có mặt “không thể đáp lại lời nào” (14,6).
2. Mọi quy tắc về ngôi thứ bị đảo lộn:
Đến lúc vào bàn ăn, Người lại bỡ ngỡ trước cảnh những khách mời cứ lo tranh dành nhau “cỗ nhất mà ngồi”. Thực ra phải nói là gối nhất mà nằm, bởi vào thời đó, trong các bữa tiệc, người ta nằm mà ăn trên những bộ ghế dài. Nhưng chỗ nhất đó, theo lời giải thích của A. Stoger, là những chỗ gần chủ nhà nhất. Các gối nằm được xếp theo ba nhóm. Ví trí danh dự ở vào phía trước hay ở chính giữa. Vào thời Đức Giêsu, ngôi thứ trong bàn tiệc được ấn định tuỳ tầm cỡ danh giá của thực khách, tức là phụ thuộc vào chức vị và tài sản của người đó.
Sử dụng lời nói dạy khôn ở đời, nói mà không gây tổn thương hay xúc phạm đến ai, Đức Giêsu ngỏ lời trước hết với những khách được mời: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất”.
Chúng ta đừng vội lầm! Ở đây Đức Giêsu không có ý dạy một bài học về nghệ thuật ứng xử ở đời để nhằm thành đạt nhờ những thủ đoạn khéo léo. Đàng khác, để loại bỏ mọi hàm hồ, Luca xác định rõ Đức Giêsu diễn tả bằng “dụ ngôn” (c.7) và Người đề cập đến “những bữa tiệc cưới “ (c.8), một đề tài lớn trong truyền thống Kinh Thánh, gợi lên bữa tiệc cưới giữa Thiên Chúa và loài người. Thực thế, dựa vào một câu trong sách Châm Ngôn (“Chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng”) (Cn 25,6), Người cho thấy việc hình thành Nước Thiên Chúa gây nên một sự đảo lộn như thế nào trong thái độ sống của con người – ngược lại với thói thích ăn trên ngồi trước trong xã hội Do Thái: “Trái lại, khi anh được mời, thì hãy ngồi vào chỗi cuối...”
Trong suốt lịch sử dân Do Thái, sự thực cho thấy Thiên Chúa luôn đứng về phía những thành phần bé nhỏ và khiêm tốn: “Người thấp hèn sẽ được Chúa nâng lên, kẻ quyền thế sẽ bị Người hạ xuống”, ngôn sứ Êdêkien xưa đã loan báo như thế. Hôm nay, đến lượt Đức Giêsu cũng công bố: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Và con đường mà chính Người đường bước đi để tiến về Giêrusalem không gsì khác hơn là con đường của sự khiêm nhường và hạ mình.
N. Quesson đưa ra nhận xét: “Chúng ta thấy, đây chẳng đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn. Chúng ta đang được mời gọi đến với Nước Thiên Chúa bằng cách noi gương Chúa là Đấng âm thầm, ẩn mình; khiêm tốn. Người đã tự nguyện làm kẻ cuối hết, làm đầy tớ phục vụ mọi người! Sự cao cả của Chúa là ở chỗ đó”
3. Thành phần được mời cũng bị xáo trộn.
Sau khi ngỏ lời với những khách được mời, giờ đây, câu chuyện của Đức Giêsu quay sang nói với những người đứng ra đãi tiệc. Cũng vẫn với kiểu nói dạy lẽ khôn ngoan: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối...”. Và nhân danh tính chất mới mẻ của Nước Trời, luôn luôn nhằm mời gọi phải có một cách sống ngược lại với lề lối thông thường của loài người chúng ta.
Theo lẽ thường, ai trong chúng ta cũng chỉ mời những người có liên hệ với mình cách nào đó: bà con họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, tư tưởng, hay một cái gì đó; và những người này đến lượt họ lại phải mời lại chúng ta để “đáp lễ”. Trái lại, theo lời kêu gọi của Đức Giêsu, chúng ta hãy mở rộng bàn tiệc cho tất cả những ai không có khả năng đáp lễ: người nghèo, kẻ bị loại trừ, thành phần bị con như đồ bỏ. Tại sao? Bởi vì đó chính là cách xử sự của chính Thiên Chúa. Người tỏ lòng thương yêu đặc biệt đối với những người phận nhỏ, thấp hèn, và sẵn sàng mời vào bàn tiệc của Người những kẻ “tàn tật, đui mù, què quặt” (Lc 14,15-24). Những người này từng thuộc diện bị Lề Luật khai trừ khỏi sinh hoạt tế tự ở Đền Thờ (2 Sm 5,8 và Lv 21,l8)
Khi thuật lại những lời này của Chúa, Luca có ý nhắc nhở cho mọi anh chị em Kitô hữu xưa cũng như nay – phải cử hành nghi lễ Bẻ Bánh trong Ngày của Chúa với tinh thần nào. Với cung cách của chính Đức tin, Đấng đã muốn sống giữa anh em như “một người phục vụ” (Lc 22,24-27). Bữa Tiệc của Chúa dứt khoát không chấp nhận những tranh dành ngôi thứ, nhưng ngược lại đòi hỏi thái độ phục vụ lẫn nhau vô vị lợi (x. 1Cr 11,17-22. 33-34).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Một lô-gic mới không ai ngờ.
“Những ai mong sẽ tìm thấy nơi giáo huấn của Đức Giêsu một nền đạo lý bay bổng, sẽ phải thất vọng thôi. Điều Người dạy xem ra rất thường. Nó còn có vẻ như phát xuất từ một sự tính toán hơi vị kỷ: giả bộ ngồi vào chỗ cuối để cho thiên hạ chú ý, mà trong bụng thì nhắm chỗ khác ngon hơn”.
Lời Đức Giêsu dạy, bao giờ cũng vậy. rất tinh tế. Nó mang nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau. Có thể hiểu như là một lời khuyên về cách xử thế, theo kinh nghiệm khôn ngoan về mối giao tiếp giữa người với người. Có thể hiểu như là lời mời gọi phải tránh thói thổi phồng chính mình, phải tập luôn luôn ăn ở khiêm tốn. Nhưng coi chừng! Ở đây đang nói về những bữa tiệc cho những đầu óc thấm nhuần Kinh Thánh và quen với tính chất ẩn dụ trong ngôn ngữ của Đức Giêsu. Đây cũng chính là bữa tiệc cưới của Thiên Chúa với loài người, “Bữa Tiệc Nước Trời”, biến cố Thiên Chúa can thiệp để đổi mới địa cầu như hằng được mong đợi.
Một cách kín đáo, Đức Giêsu xác nhận lại điều Người đã từng nói: đối với Thiên Chúa, kẻ cuối hết là người trước hết. Bài Magnificat đã hát lên rằng: “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Qua toàn bộ cách sống của mình, Người Thợ Mộc làng Nadarét kia đã chứng tỏ một sự quan tâm đặc biệt tới những người bệnh hoạn, tật nguyền, những người “nghèo” nhất trong số những người nghèo.
Theo cái logic đó, Đức Giêsu bồi thêm một câu kết luận bất ngờ và khiến ai nấy kinh ngạc. Người quay sang phía chủ nhà và trách ông ta chỉ biết mời có bạn bè, bà con và láng giềng giàu có. Người ta có thể tưởng tượng những khách được mời sẽ phản ứng thế nào! Không lẽ phải rút lui hết để nhường chỗ cho hạng “tàn tật, què quặt, đui mù?”. Tiệc tùng như thế còn ra cái gì nữa?
Vẫn cứ mãi “hôm nay”, lời của Đức Giêsu tiếp tục giải phóng, mở rộng, mời gọi con người đi tới. Lời đó được gởi đến mỗi người, được gởi đến mọi người. Ai sẽ là người biết mời những kẻ không thể có khả năng đáp lễ lại? Cho đến bao giờ các dân tộc giàu có cứ ăn uống dư thừa trong lúc những dân tộc khác đang chết đói? Biết lúc nào chúng ta mới bắt đầu cử hành ‘tiệc cưới’, ‘bữa tiệc của Thiên Chúa’, ‘bữa tiệc của mọi người’? và ‘sống ngay từ trần thế này cuộc phục sinh của các kẻ lành?’.
2. Thiên Chúa tự tỏ ra trong sự ẩn mình
(“Missel Emmaus des dimanches”, trg l091).
“Không gì ngăn cách con người khỏi Thiên Chúa cho bằng sự kiêu căng tự phụ, khi con người chỉ biết tìm kiếm vinh dự cho chính mình. Thói kiêu căng chỉ giam hãm con người trong những giới hạn của riêng mình, đồng thời chỉ mưu vùi dập người khác xuống. Nó ngược hẳn với cung cách của Thiên Chúa: Người biểu dương vinh quang của Người, tức là chính tình yêu, bằng cách tự xoá mình đi. Chính trong sự ẩn mình của Thiên Chúa, chúng ta lại càng khám phá ra được vẻ cao cả đích thực của Người. Đó là điều Đức Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy khi Người hạ mình làm đầy tớ phục vụ loài người, khi Người vui lòng chịu đóng đinh vào thập giá. Đó cũng là điều Người mời gọi chúng ta nhận ra qua Bữa Tiệc Thánh Thể. Tuy nhiên, khiêm nhường thật không phải là chuyện dễ. Đôi khi chúng ta làm ta vẻ khiêm tốn chẳng qua để được thêm vinh quang danh dự mà thôi. Chỉ mình Thiên Chúa có thể giải gỡ chúng ta khỏi vòng vây của thói kiêu căng tự mãn”.
76. Suy niệm của William Barclay
Luca không tả về Chúa Giêsu như một nhà khổ tu nghiêm nhặt mà như một người với những tình cảm nhân bản, có khuynh hướng đoàn thể. Ngài sống chung với các người khác một cách tự nhiên, thờ phượng với họ trong nhà hội, ăn uống với họ trong gia đình. Không có một cảnh thân mật nào trong đời sống của Chúa được thánh ký phác họa tỷ mỷ bằng một bữa tiệc ngày sa bát tại nhà một người biệt phái. Luca thấy Chúa tiến vào nhà cùng với các khách dự tiệc, để ý thấy những giai cấp xã hội của họ, và ngài dẫn đầu trong một cuộc đàm luận. Nhưng Ngài không bao giờ quên sứ mạng của Ngài, Ngài nắm lấy cơ hội để nghiêm khắc khác thường, bởi vì Ngài đang ở giữa những kẻ bên ngoài thì tỏ vẻ lịch sự, nhưng trong lòng thì thù ghét Ngài. Nhưng Ngài đã tỏ cho mọi người ân huệ không suy giảm của Ngài về lòng Ngài ước muốn cho họ nhận được phúc tốt nhất.
Khi thấy khách được mời cứ tìm những chỗ danh dự, Ngài quở trách tính ham danh và dạy một bài học về lòng khiêm nhường. Khi Chúa Giêsu khuyên khách dự tiệc: “Hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải nói: mời ông lên trên cho” thì không phải Ngài chỉ dạy họ giữ phong thái tốt đẹp hay sự khôn ngoan trần thế, cũng không phải khuyên nên ngụy trang sự kiêu hãnh bằng vẻ khiêm nhường. Ngài đã đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Ngài cũng lợi dụng bữa tiệc để ban bố một thông điệp về lòng bác ái. Trong giọng nói đượm vẻ hài hước, Ngài bảo chủ nhà khi mời khách thì đừng chỉ nhắm vào người giàu, kẻo rồi mai họ mời lại, nhưng phải nhắm mời cả những người nghèo là những người không có điều kiện mời lại. Lại một lần nữa, không phải Chúa chỉ dạy về những luật theo truyền thống xã hội, nhưng minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Qua đoạn Kinh Thánh này Chúa dạy ta về khiêm nhường và bác ái.
Chúa Giêsu đã chọn một hình ảnh quen thuộc để diễn tả chân lý vĩnh cửu. Nếu một người khách tầm thường đến sớm và chiếm chỗ ngồi cao nhất, sau đó có một người khách trọng hơn đến, và người chủ tiệc đề nghị người đã chiếm ghế nhất kia lùi xuống sau thì thật mất mặt cho người ấy. Nhưng nếu có người tình nguyện ngồi ghế cuối cùng, sau đó được mời lên ghế cao trọng hơn, thì thái độ khiêm tốn ấy lại đem đến vinh dự.
Khiêm nhường vốn là một trọng những đặc tính tất yếu của các vĩ nhân. Khi Thomas Hardy được nổi tiếng đến nỗi tờ báo nào cũng sẵn sàng trả tiền nhuận bút hậu hĩnh cho ông, thế mà khi gởi một bài thơ cho một tờ báo nào đó, ông vẫn kèm theo phong bì dán tem và địa chỉ sẵn để tiện việc trả lại bản thảo cho ông nếu bài bị loại. Dầu đã là vĩ nhân, ông vẫn khiêm nhường để nghĩ rằng bài của mình có thể bị loại. Trong ngày đăng quang của Đức Piô X, lúc kiệu của Đức Tân Giáo Hoàng vừa tiến vào đền thờ thánh Phêrô, toàn dân nhiệt liệt chào rằng “Viva Papa”. Nét mặt Đức Thánh Cha sụ lại, mắt Ngài ngấn lệ: “Đừng hoan hô người đầy tớ trong nhà ông chủ”. Ngài nghĩ rằng không bao giờ sự hoan hô đó lại có thể dành cho Ngài. Chỉ có kẻ tiểu nhân mới tự tôn tự đại. Nhưng làm sao chúng ta có thể giữ được sự khiêm tốn:
1. Chúng ta có thể giữ được mình khiêm nhường bằng sự nhận biết thực tế. Dầu chúng ta biết nhiều đến đâu cũng vẫn còn là ít nếu so sánh với toàn bộ tri thức. Dầu chúng ta thành công đến đâu cũng vẫn còn rất ít. Dầu chúng ta tưởng mình quan trọng đến đâu thì cũng cần nhớ rằng khi chúng ta chết, hoặc khi chúng ta hưu hạ, cuộc đời và công việc cứ tiến hành như trước kia.
2. Chúng ta có thể giữ đức khiêm nhường bằng cách so sánh chính mình với những người toàn vẹn. Khi chúng ta đã đi đây đó, đã được mắt thấy tai nghe những nhà chuyên môn, những nhà thông thái, ta sẽ nhận mình kém cỏi biết bao. “Ở nhà nhất mẹ nhì con. Ra đường nhiều kẻ còn dòn hơn mẹ con ta”. Nhiều người không có ý được bước lên sân khấu nữa sau khi được nghe một nhạc sĩ đại tài trình diễn. Nhiều diễn giả phải tự hạ mình đến chỗ hầu như tuyệt vọng sau khi nghe lời giảng của một đầy tớ thánh của Chúa.
Và nếu chúng ta đem đặt mình bên cạnh đời sống của Chúa Giêsu vô cùng thánh thiện, và nếu chúng ta ý thức được sự bất xứng của mình trước ánh sáng rực rỡ chói lọi bởi đời sống tinh tuyền trọn vẹn của Ngài, thì tính kiêu ngạo trong chúng ta sẽ phải chết tức thì và lòng tự mãn cũng héo tàn ngay.
Ngài dạy chúng ta về lòng bác ái. Đối chiếu với lời Chúa, chúng ta phải xét lại các lý do ẩn đằng sau tất cả những gì có liên quan đến lòng bác ái của chúng ta.
1. Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho loài người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
2. Ngừơi ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi ghi thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
3. Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các rabi Do thái có câu nói rằng cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
4. Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành luật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho chỉ vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
77. Hãy khiêm nhường – Jos.Vinc. Ngọc Biển
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối giáo huấn của Đức Giêsu tuần trước. Nếu tuần trước, Đức Giêsu dạy hãy qua “cửa hẹp” mà vào, tức là phải vứt bỏ lại những thứ không cần thiết, phải chiến đấu, sám hối, và uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, thì tuần này, Đức Giêsu dạy cho những người cùng dự tiệc với Ngài một bài học về đức khiêm nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).
Theo truyền thống của người Dothái, khi đến dự tiệc, mỗi vị khách thường được mời kể một câu chuyện để phục vụ những người cùng bàn với mục đích giúp cho khách ăn ngon miệng. Vì thế, họ thường kể cho nhau nghe những chuyện vui, bông đùa…, đến lượt Đức Giêsu, Ngài không kể chuyện tiếu lâm hay một vài mẩu chuyện vui như những người đồng bàn đã làm, nhưng Ngài quan sát và thấy người ta đi dự tiệc lại cứ thích ngồi chỗ nhất, chỗ danh dự, nên Đức Giêsu đã tập trú vào đề tài khiêm tốn khi được mời đi dự tiệc (x. Lc 12,7-11). Đây là một đề tài khiến cho những người dự tiệc hôm ấy nhức óc vì họ thường “đánh lận con đen” giả bộ khiêm nhường hoặc đòi được trọng vọng nơi đám đông.
Khởi đi từ sự quan sát, Đức Giêsu cất tiếng nói: "Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này'. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết”. Câu nói này của Đức Giêsu đã soáy sâu vào tận trái tim của những người dự tiệc hôm ấy, và Ngài đã lật tẩy mặt nạ giả bộ giả hình của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói.
Tiếp theo, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn cho tất cả mọi người khi được mời đi dự tiệc: “Khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc”. Đây là quy luật tất yếu trong cuộc sống: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
“Nâng lên” và “hạ xuống” là hai động từ trái ngược nhau. “Nâng lên” chính là muốn khẳng định mình; tự coi mình là nhất. Đây là hành vi của những kẻ kiêu ngạo, mà kiêu ngạo là đầu mối sinh ra những tội khác như: “Hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh” (x. GLHTCG. số 1866).
Những người kiêu ngạo thường không biết mình, không biết những giới hạn của mình, họ thường coi mình là “cái rốn vũ trụ”, coi mình là “number one”, là “đệ nhất đế vương…”.
Còn “hạ xuống” là thái độ của người khiêm nhường. Khiêm nhường là khiêm tốn nhìn nhận mình còn thiếu, còn bất toàn để vươn lên, còn yếu đuối để sám hối. Khiêm nhường còn là đón nhận sự thật và lấy sự thật làm căn gốc. Chấp nhận “tôi” là “tôi” với đầy đủ những mặt mạnh và mặt yếu của mình.
Người khiêm nhường thật là người luôn sống trong tinh thần tự hủy, coi mình không là gì cả. Khi bị xúc phạm, họ vẫn cảm thấy thanh thản, khi được khen, họ luôn tạ ơn Chúa và không có thái độ vênh vang tự đắc. Họ coi mọi sự mình có là do Chúa ban cho nên không hề có thái độ khinh khi những người thấp kém hơn mình.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho mỗi chúng ta một bài học căn bản trong cuộc sống chính là sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, ta không thể gặp được Chúa. Môsê muốn gặp Chúa, ông phải cởi dép ra, phải trở về với sự trần trụi của mình khi đến trước nhan Chúa; Giakêu muốn được Chúa vào nhà thì ông phải tụt xuống khỏi cây sung; Phêrô và Phaolô muốn trở thành bạn hữu của Chúa và trở thành những kẻ “chung phần” với Thầy thì các ông phải khiêm tốn và vứt bỏ những thanh gươm kiêu ngạo, tự phụ và hiếu thắng của mình.
Thật vậy, trong đời sống gia đình, nếu vợ chồng, con cái không có thái độ khiêm nhường, chúng ta không thể đón nhận được sự khác biệt của nhau, không biết lắng nghe nhau, không thông cảm và tôn trọng nhau. Như thế, mỗi người sẽ là một hòn đảo, và một con chim én không thể làm nên một mùa xuân.
Trong cuộc họp, ai cũng thi nhau nói và ai cũng bảo vệ lập trường của mình, cho dù biết đó là điều sai, thì cuộc họp ấy thất bại và gây thêm chia rẽ.
Trên giảng đường, và trong trường đời, nếu ta bảo thủ và cho rằng chúng ta biết hết mọi sự và không cần lắng nghe, học hỏi…ấy là lúc ta đang tụt hậu mà không biết, ta đang trong tình trạng “ếch ngồi đáy giếng” mà chẳng hay!
Thật vậy, nhìn ra xã hội hôm nay, chúng ta thấy nhiều người luôn có khuynh hướng “chơi trội”. Nếu người khác có nhà một tầng, ta phải hai tầng; người khác có xe, ta phải có xe tốt hơn; chức tước và học vị cũng là những điều con người thời nay thường khẳng định…thái độ đó cho thấy ta không chịu thua kém người khác. Nhưng có ít ai thấy rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về “sắc sắc, không không” trước mặt Chúa?
Tóm lại, khiêm nhường chính là cái gốc, là nền móng của chúng ta. Có được điều đó, ta sẽ xây dựng được sự chân thành; tình huynh đệ; sự hiệp nhất; lòng bao dung và sự tôn trọng. Hơn nữa, có được đức khiêm nhường là ta đang trở nên giống Chúa, đang được ở trong mối tương quan nghĩa thiết với Ngài.
Mong thay hình ảnh kiêu ngạo của Adong, Eva; những người xây tháp Baben và những khách được mời dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay là bài học cho chúng ta nếu chúng ta đang là những người tự phụ, kiêu căng và đang đi tìm những danh vọng ảo tưởng ở đời này…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.
78. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
HẠ MÌNH ĐƯỢC NÂNG CAO - TỰ CAO BỊ HẠ XUỐNG
Ý lực của Chúa Nhật XXII tường niên, năm C cho chúng ta thấy cái cốt lõi của Tin Mừng Chúa Giêsu giảng dạy: "Tự cao và khiêm nhượng". Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án những người Pharisêu, những bậc thông thái, những nhà lãnh đạo tôn giáo giả hình, tự cao, tự mãn, hống hách và luôn đề cao những kẻ khiệm hạ, từ tốn..." Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lc 14, 11).
Đọc những trang Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta không khỏi bỡ ngỡ và ngạc nhiên. Bỡ ngỡ và ngạc nhiên khi thấy cái thói rởm của những người Pharisêu: họ nới rộng thẻ kinh, kéo dài tua áo. Đi đâu họ cũng muốn ngồi chỗ nhất và muốn cho mọi người gọi họ là thầy. Hãy xem thái độ của người Pharisêu cầu nguyện trong Đền thờ...Tất cả đều là tự khoe, kể công và hãnh diện tự kiêu tự đại trước mặt người khác. Chúa đã từng ca tụng Thiên Chúa Cha: " Lạy Cha là Chúa Trời Đất, Con xin ca tụng Danh Cha vì Cha đã mặc khải những điều đó, mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn..." Những kẻ bé mọn là những kẻ khiêm nhượng. Chúa yêu thương những kẻ bé mọn, những kẻ khiêm nhượng, tự hạ. Ngài luôn lên án gắt gao những Pharisêu, những kẻ giả nhân giả nghĩa, những kẻ tự tôn tôn. Ngài không những yêu thương những kẻ khiêm nhượng, tự hạ mà còn làm gương cho mọi người. Ngài là Thiên Chúa nhưng đã không đòi ngang hàng với Thiên Chúa, nên đã tự hủy mình ra không, sống kiếp phàm nhân ngoại trừ tội lỗi (Philip 2, 6-11). Chúa là vị Chúa, là Thầy mà lại quì xuống rửa chân cho các môn đệ, các đầy tớ của mình. Chúa đã tự hạ không phải để được ca tụng, khen ngợi mà để yêu thương và phục vụ. Sự khiêm hạ của Chúa là cái chết cứu độ, cái chết yêu thương trên thập giá. Khiêm nhượng là hy sinh, là trao ban như thánh Gioan đã viết: " Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người " (Ga 3, 16). Đây là sự trao ban vô vị lợi, sự trao ban nhưng không và tự hạ tột đỉnh. Chúa dạy hãy trao ban, hãy khoản đãi tiệc vô vị lợi, không biệt giầu nghèo bởi vì có yêu thương vô vị lợi người ta mới " đãi tiệc những kẻ khó nghèo, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại người khác ". Đây đúng là bữa tiệc Nước Trời mà Chúa Giêsu khoản đãi. Ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang lại là ơn cứu độ phổ quát không dành riêng cho bất cứ dân tộc nào, người nào nhưng Chúa luôn đòi con người dự tiệc phải mặc áo cưới, đó là sự sám hối trở về thật tình, đó là sự đáp trả một chút tình thương của Chúa. Chúa luôn yêu thương những người nghèo hèn, khiêm nhượng và thấp cổ bé họng. Điều này chúng ta nhận thấy rằng chính sự khiêm hạ, tự tốn luôn được Chúa yêu thương và đề cao đến nỗi trong Kinh Nguyện Thánh Thể thứ hai, vị chủ tế đã thay mặt mọi người thân thưa với Thiên Chúa: " Chúng con cám ơn Chúa vì Ngài đã thương đến sự yếu hèn của chúng con, để chúng con xứng đáng đứng trước nhan Ngài và phục vụ Ngài ".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được bữa tiệc lớn lao Chúa mời gọi chúng con là bữa tiệc trên Nước Trời (Kh 19).
79. Học sống khiêm hạ noi gương Đức Giêsu
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
1. LỜI CHÚA: "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên"(Lc 14,11).
2. CÂU CHUYỆN:
Cách đây ít lâu, tại bang Phờ-lo-ri-đơ (Florida) Hoa Kỳ, tờ Thời báo Xanh Pi-tơ-bớc (St Petersburg Times) có đăng một câu chuyện thú vị về Đông Su-lơ (Don Shula), huấn luuyện viên của đoàn cá heo ở Mai-ơ-mi (Miami). Ông đang cùng vợ con nghỉ hè tại một thị trấn nhỏ ở miền Bắc tiểu bang Mai-ơ-mi. Vào một buổi chiều nọ, vì trời mưa nên Su-lơ cùng vợ và 5 đứa con quyết định đi xem một xuất phim đang chiếu tại rạp hát của thị trấn. Khi họ đến nơi thì đã trễ mất 10 phút. Thế nhưng họ thấy đèn trong rạp vẫn còn sáng báo hiệu phim vẫn chưa bắt đầu. Khi Su-lơ và gia đình bước vào trong rạp thì tất cả 6 người đang ngồi ở băng ghế đầu liền hân hoan đứng dậy hướng về phía họ và vỗ tay hoan hô. Su-lơ vừa vẫy tay chào lại vừa mỉm cười đáp lễ. Sau khi đã ngồi vào chỗ, Su-lơ quay sang nói với bà vợ: "Chúng ta từ Mai-ơ-mi xa cả ngàn dặm đến đây, thế mà họ vẫn nhận ra và đón tiếp anh thật nồng nhiệt! Chắc hẳn là đám cá heo trình diễn trên truyền hình đã lan đến tận nơi ngõ ngách này!" Ngay lúc đó, một người đàn ông tiến lại bắt tay và Su-lơ tươi cười hỏi ông ta rằng: "Làm sao ông bạn nhận ra tôi sắp đến đây vậy?" Ông ta trả lời: "Thưa ông, tôi chẳng biết ông là ai cả. Chẳng qua là ngay trước khi gia đình ông bước vào rạp hát, viên quản lý rạp có nói với chúng tôi rằng: Trong vòng 15 phút nếu không có thêm 4 khán giả nữa vào rạp thì ông ta sẽ buộc phải trả lại tiền vé và hủy bỏ xuất chiếu này". Vì thế khi thấy gia đình ông đến vừa đủ 4 người theo yêu cầu của quản lý rạp, nên chúng tôi rất vui mừng và giờ đây tôi đến để cám ơn gia đình ông đã đến kịp thời giúp chúng tôi khỏi phải về không".
Câu chuyện trên làm sáng tỏ giáo huấn của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: Người đòi các tín hữu chúng ta phải sống khiêm tốn noi gương Người. Đông Su-lơ đã thể hiện đức khiêm tốn ấy: Là một huấn luyện viên cá heo tài giỏi, nên cũng thật tự nhiên khi Su-lơ nghĩ rằng những người trong rạp hát đã nhận ra ông là ai. Đến khi người đến bắt tay cho biết mình chẳng hề biết ông thì Su-lơ lại là người đầu tiên tự chế giễu mình. Ông rất vui khi phát hiện ra điều này, nên đã kể chuyện đó trên báo cho nhiều người biết về thói háo danh của ông, điều mà bình thường ông sẽ phải giấu kín. Chỉ người nào thực sự khiêm tốn mới làm được như Su-lơ mà thôi!
3. SUY NIỆM:
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các người biệt phái hai bài học này: Một là nếu họ là khách được mời thì cần phải khiêm tốn để ngồi vào đúng chỗ xứng hợp với địa vị của mình, tránh cảnh "trèo cao té đau. Hai là nếu họ là chủ nhà thì phải quan tâm mời cả những người nghèo khó bệnh tật đến nữa. Vì cũng vậy, Nước Thiên Chúa chỉ dành cho những ai có lòng khiêm nhường và có tinh thần nghèo khó (Lc 14,21). Vậy khiêm nhường là gì? Phải chăng khiêm nhường là phủ nhận giá trị thực của mình? Ta phải làm gì để học tập gương khiêm nhường của Đức Giêsu?
1) Thế nào là khiêm nhường?
- Khiêm nhường là học và sống noi gương Đức Giêsu: Muốn biết khiêm nhường là gì chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương Đức Giêsu như Người đã dạy: "Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng" (Mt 11,29-30). Đức Giêsu « vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế... » (Pl 2,6-7). Tuy là Thầy là Chúa, nhưng Người đã nêu gương khiêm nhường cho các môn đệ khi tự hạ rửa chân các ông trong bữa tiệc ly và dạy các ông cũng phải rửa chân phục vụ lẫn nhau (x Ga 13,14-15). Hơn nữa, Người còn thể hiện khiêm nhường qua hành động «vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá» (Pl 2,8). Tin mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện: Khi được viên thủ lãnh các người biệt phái mời đến nhà dự tiệc, Đức Giêsu thấy một số khách thuộc nhóm biệt phái đã tranh nhau ngồi chỗ nhất trong bàn tiệc. Người đã dạy họ về cách ứng xử khiêm nhường như sau: "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này". Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối" (Lc 14,8-9).
- Khiêm nhường noi gương Đức Ma-ri-a: Trong biến cố truyền tin, khi được sứ thần chào là đấng « đầy ân phúc luôn có Chúa ở cùng », Đức Ma-ri-a đã tự xưng là nữ tì của Thiên Chúa và đã cúi đầu « xin vâng » như lời sứ thần truyền (x Lc 1,38). Sau khi nghe biết bà Ê-li-sa-bét đã có thai được sáu tháng, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm và mở chào hỏi bà Ê-li-sa-bét trước. Cuối cùng Đức Ma-ri-a còn ở lại để phục vụ bà ba tháng cuối, cho đến khi bà sinh con rồi mới trở về nhà mình (x Lc 1,39-56).
2) Phân biệt giữa khiêm nhường thật với khiêm nhường giả tạo: Đức khiêm nhường không phải là giả vờ tự hạ để chờ được người khác tôn lên. Khiêm tốn cũng không phải là thái độ tự ti mặc cảm, tự khinh bản thân hay trốn tránh trách nhiệm... Nhưng là ý thức các khả năng và ưu điểm của mình là do Chúa ban, rồi quy mọi vinh quang về cho Thiên Chúa, noi gương Đức Ma-ri-a khi được bà Ê-li-sa-bét khen có phúc đã ca ngợi Chúa trong kinh Ma-nhi-phi-cát như sau: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn!" (Lc 1,48-49). Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay sợ ngồi vào ghế nhất, nhưng đối với họ: chiếc ghế không phải là mục tiêu, mà chỉ là phương tiện để phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Người khiêm tốn sẽ luôn ý thức thân phận yếu đuối của mình nên sẽ giữ thái độ bình tĩnh khi nghe kẻ khác phê bình và sẵn sàng tu sửa để ngày một hoàn thiện hơn. Người khiêm tốn không tự tìm vinh danh cho mình, nhưng luôn cố gắng làm hết sức rồi phó thác thành bại cho Chúa quan phòng.
3) Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và ghét kẻ kiêu ngạo: Chúa Giêsu đã ca tụng Chúa Cha "Vì đã mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn..." (x Mt 11,25). Những kẻ bé mọn ở đây là những người khiêm nhường tự hạ. Chúa Giêsu đã yêu thương những kẻ khiêm nhường và quở trách bọn người tự cao và giả hình: "Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác"(Mt 23,27-28; Lc 11,44).
4) Ta phải làm gì để học tập gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giêsu?
- Phải tránh thói xấu kiêu ngạo:
Tránh tự ái cao: Không dễ nổi nóng khi nghe người khác phê bình mình hay người thân của mình. Tránh công khai xúc phạm người khác.
Tránh khoe khoang thành tích để tự đề cao mình, và tránh chứng tỏ sự trổi vượt của mình hơn bạn bè.
Tránh thái độ ganh ghét đố kỵ những ai hơn minh thể hiện qua việc dèm pha nói xấu để hạ giá trị của họ.
Tránh thái độ độc đoán háo thắng: Người kiêu ngạo thường cao ngạo nên không chấp nhận những ý kiến đối lập, không muôn nghe những sự góp ý của thuộc cấp, nên công việc họ làm khó có điều kiện thăng tiến phát triển.
- Thực tập đức khiêm nhường như sau:
Cần nhìn nhận cả ưu lẫn khuyến điểm của mình. Trong việc tông đồ cần nhận biết sự yếu đuối bất toàn của mình để khiêm tốn xin ơn Chúa trợ giúp. Vì như Đức Giêsu đã dạy môn đệ: "Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được!" (Ga 15,5b).
Tập nhận ra những ưu điểm của người khác và thành thật khen ngợi họ.
Tập chọn phần thua thiệt: quyền lợi ít hơn và trách nhiệm nhiều hơn anh em.
Tập đi bước trước đến với tha nhân hơn là đòi họ phải đến với mình trước.
Tập nói năng bình tĩnh vừa đủ nghe khi sửa dạy con cái hay thuộc cấp.
Tập làm những việc nhỏ bé tầm thường ít ai muốn thực hiện.
Tập nhận nguyên nhân thành công là do ơn Chúa giúp và là kết quả của tập thể. Khi thất bại hãy nhận nguyên nhân là do sự thiếu sót bất toàn của mình và tránh đổ lỗi hoàn toàn do hoàn cảnh hay người dưới.
Chỉ những ai biết hóa nên như trẻ nhỏ mới được Chúa yêu thương và được Người đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này (x Lc 9,48).
Tóm lại, khiêm nhường là học tập sống theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu như Người đã nói: "Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11,29). Khiêm nhường còn là sẵn sàng rửa chân phục vụ tha nhân trong yêu thương (x. Ga 13,4.14), nhất là hiến thân phục vụ người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Đức Giêsu: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10, 35-45).
4. SỐNG LỜI CHÚA:
1) Kẻ kiêu ngạo thường biểu lộ ra ngoài qua những thái độ cử chỉ nào khi tiếp xúc với tha nhân?
2) Người khiêm nhường giả tạo thường biểu lộ qua những câu nói nào?
3) Người hay la lối to tiếng và dễ tức giận khi có kẻ dưới quyền làm trái ý mình thì có phải là người khiêm nhường không?
4) Khi nghe người khác phê bình chỉ trích trực tiếp hay qua một người trung gian, chúng ta nên phản ứng thế nào để thực hành đức khiêm nhường noi gương Đức Giêsu?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊSU. Thích được người khác khen ngợi, thích được ăn trên ngồi trước, thích được danh vọng chức quyền... cũng chính là thói xấu của mỗi người chúng con. Hôm nay Chúa dạy các người Pha-ri-sêu bài học khiêm nhường và cũng gián tiếp dạy chúng con: "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất... Nhưng hãy vào ngồi chỗ cuối". Con biết Chúa không dạy con giả đò theo kiểu khiêm nhường giả tạo, nhưng Chúa muốn chúng con coi thường danh vọng hão huyền và luôn sống nhỏ bé khiêm hạ. Chúa cũng dạy chúng con phải noi gương Chúa rửa chân phục vụ lẫn nhau.
- LẠY CHÚA. Chúa đã đi con đường khiêm hạ và mời gọi chúng con bước theo. Xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai sót và quyết tâm sửa đổi. Xin cho chúng con biết thông cảm và mở rộng lòng đón nhận tha nhân. Xin giúp chúng con tránh lên mặt xét đoán ý trái cho kẻ khác, nhưng biết học tập những điều tốt đẹp nơi họ. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa tôn vinh trước tòa phán xét sau này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
80. Khiêm hạ phục vụ noi gương Đức Giêsu
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Ý CHÍNH:
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các người Pharisêu và cũng dạy các môn đệ của Người hai bài học về cách đối nhân xử thế: Một là khi được mời dự tiệc phải biết hành xử khiêm tốn bằng cách tránh tranh giành chỗ ngồi hơn kém. Hai là các người chủ tiệc phải tránh phân biệt đối xử để mời cả những người nghèo khó, tàn tật... đến tham dự. Đây là điều kiện để được Chúa mời tham dự bàn tiệc Nước Trời đời sau.
CHÚ THÍCH:
- C 1: + Đức Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu: Tin mừng Luca cho thấy người đứng đầu nhóm Pharisêu ở đây có thiện cảm với Đức Giêsu, nên đã mời Người đến nhà mình dùng bữa (x Lc 11,37), + Dùng bữa: Tin mừng ghi lại nhiều sinh hoạt của Đức Giêsu liên quan đến việc dùng bữa: Dự tiệc cưới tại Cana (x. Ga 2,2), dự tiệc do người Pharisêu khoản đãi (x. Lc 14,1), ăn bữa cơm gia đình ở làng Bêtania (x. Lc 10,38-42), đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi (x. Mt 9,10), hai lần nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng (x. Mt 14,19-21; 15,36-38), dùng bữa Tiệc Ly với các môn đệ trước cuộc khổ nạn (x. Lc 22,14-20). Ngoài ra, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu cũng dùng bữa tối với hai môn đệ tại làng Emmau (x. Lc 24,30), Người ăn cá nướng trước mặt các môn đệ (x. Lc 24,41-43), và cùng ăn bữa sáng với các ông tại bờ hồ Galilê (x. Ga 21,9-13).). + Họ cố dò xét Người: Ở đây những người Pharisêu dò xét không phải để bắt lỗi, nhưng chỉ để tìm hiểu về Đức Giêsu.
- C 7-9: + Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi: Đây là thái độ biểu lộ thói kiêu ngạo của người Pharisêu khi luôn tìm kiếm hư danh trước mặt người khác. + Khi anh em được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất...: Đức Giêsu dạy bài học khôn ngoan và phép xã giao khi tham dự tiệc cho người Pharisêu và các môn đệ.
- C 10-11: + Thì hãy ngồi vào chỗ cuối, để người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”...: Điều kiện để được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa là phải trở nên như trẻ nhỏ (x. Mt 18,3-4). Cần ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình, coi mình chỉ là đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10), để không cậy vào sức riêng khi làm các công việc siêu nhiên, nhưng biết cậy trông vào ơn Chúa giúp (x. Ga 15,5). + Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống...: Tội nặng nhất chính là tội kiêu ngạo và ngược lại, nhân đức lớn nhất là đức khiêm nhường như lời ca ngợi Thiên Chúa của Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Thánh Phaolô cũng đề cao sự khiêm hạ của Đức Giêsu trong thư gửi tín hữu Philip (x Pl 2,6-11). Chính Người đã hạ mình rửa chân cho môn đồ trước khi dạy các ông bài học thể hiện tình yêu thương lẫn nhau(x Ga 13,14).
- C 12-14: + Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè... Lời dạy của Đức Giêsu trái với lối ứng xử của người đời. Những hạng người được Đức Giêsu đề cập tới ở đây đều là những người nghèo: Nghèo tiền bạc (so sánh với Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh đến sự nghèo khó trong tâm hồn), bé mọn (x. Lc 10,21), khiêm hạ (x. Lc 18,14). Chính Đức Giêsu cũng được sinh ra như một người nghèo. Qua câu này Người kêu gọi mọi người hãy đối xử tốt với những ai đang lâm cảnh khốn cùng, làm ơn cho những người không có khả năng báo đáp. Đó là điều kiện để được vào Nước Trời đời sau.
CÂU HỎI:
1) Hãy kể ra những lần Đức Giêsu dùng bữa được ghi trong Tin mừng? 2) Khi dạy người dự tiệc chọn ngồi chỗ cuối để được chủ nhà mời lên cỗ trên. Phải chăng đó cũng là một hành động kiêu ngạo? 3) Đức Giêsu đã dạy thế nào về giá trị của đức khiêm nhường? 4) Thánh Phaolô dạy về gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giêsu ra sao trong thư thứ hai gửi giáo đòan Philíp? 5) Tội nặng nhất khiến Luxiphe và các thần dữ phải sa hỏa ngục và ông bà nguyen tổ Ađam Evà bị đuổi ra khỏi địa đàng là tội gì? 6) Đức Giêsu đã dùng phương thế nào để ban ơn cứu độ, giải thóat lòai người khỏi chết và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).
2. CÂU CHUYỆN:
1. Khiêm tốn sẽ được mọi người kính trọng yêu mến:
Sách Trang Tử có thuật lại câu chuyện như sau: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa. Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
2. Cuộc biến dạng kỳ lạ sau bảy năm phóng đãng:
Họa sỹ kiêm điêu khắc gia thiên tài LEONARDO DA VINCI đã vẽ bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly trong vòng 7 năm. Đó là bức tranh Đức Giêsu và 12 Tông đồ đang dùng bữa ăn cuối cùng trước khi Người chịu tử nạn. Cuộc đi tìm khuôn mặt làm người mẫu rất khó khăn: Giữa hàng ngàn thanh niên, họa sĩ mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện và thanh khiết tuyệt vời để vẽ Đức Giêsu.
Sáu năm tiếp theo ông mới vẽ xong 11 Tông đồ, chỉ còn người môn đồ phản Thầy Giuđa là chưa vẽ. Họa sỹ đã bỏ ra nhiều công sức để tìm kiếm một người đàn ông có khuôn mặt cực kỳ gian ác làm mẫu vẽ Giuđa. Cuối cùng ông đã tìm được tên tử tội ở Rôma có khuôn mặt thích hợp để vẽ kẻ phản bội. Người tử tù này đã từng giết người và cướp của. Được phép của Hoàng đế, tên tử tội được đưa tới Milan nơi bức tranh đang vẽ dở dang. Khi nét vẽ cuối cùng được hoàn thành, Leonardo bảo người lính gác mang người tử tù đi, nhưng bỗng nhiên hắn ta vùng vẫy và quỳ xuống bên người họa sỹ khóc nức nở: “Ôi, ngài Da Vinci, ngài không nhận ra tôi sao? Tôi chính là người mà 7 năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Đức Giêsu!”.
Quả thật, chỉ có 7 năm thôi mà cuộc sống trác táng tội lỗi đã làm biến dạng một người có khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu trở thành người mang gương mặt xấu xa của Giuđa! Đó là sự biến đổi lạ kỳ trong quá trình hình thành bức tranh “Bữa Tiệc Ly” nổi tiếng.
Nhưng cũng trong bữa tiệc ly này còn có một sự đảo ngược kỳ lạ hơn nữa: Đức Giêsu, vốn là Thầy là Chúa nhưng đã tình nguyện làm việc của người tôi tớ phục vụ, khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đó chính là bài học khiêm hạ mà Đức Giêsu muốn dạy cho mọi tín hữu chúng ta hôm nay.
3. Câu chuyện xử sự của hai con dê núi:
Một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên con đường nhỏ hẹp sát bên sườn núi, một bên là vách núi cao cheo leo, bên kia lại là vực sâu thăm thẳm, có hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con đi qua, nên hai con dê đứng đối đầu nhau không biết làm gì để tiếp tục đi. Nếu chen lấn, chúng chắc sẽ bị rơi xuống vực thẳm tan xương nát thịt. Sau cùng chúng đã nghĩ ra một cách hoàn hảo: một con dê đã chịu qùy mọp xuống đất để con kia bước qua thân mình. Thế là sau đó cả hai lại có thể tiếp tục đi theo con đường của mình.
4. Người huấn luyện cá heo khiêm tốn:
Cách đây ít lâu, tại bang Phờloriđơ (Florida) Hoa Kỳ, tờ Thời báo Xanh Pitơbớc (St Petersburg Times) có đăng một câu chuyện thú vị về Đông Sulơ (Don Shula), huấn luuyện viên của đoàn cá heo ở Maiơmi (Miami). Ông đang cùng vợ con nghỉ hè tại một thị trấn nhỏ ở miền Bắc tiểu bang Maiơmi. Vào một buổi chiều nọ, vì trời mưa nên Sulơ cùng vợ và 5 đứa con quyết định đi xem một xuất phim đang chiếu tại rạp hát của thị trấn. Khi họ đến nơi thì đã trễ mất 10 phút. Thế nhưng họ thấy đèn trong rạp vẫn còn sáng báo hiệu phim vẫn chưa bắt đầu. Khi Sulơ và gia đình bước vào trong rạp thì tất cả 6 người đang ngồi ở băng ghế đầu liền hân hoan đứng dậy hướng về phía họ và vỗ tay hoan hô. Sulơ vừa vẫy tay chào lại vừa mỉm cười đáp lễ. Sau khi đã ngồi vào chỗ, Sulơ quay sang nói với bà vợ: “Chúng ta từ Maiơmi cách xa cả ngàn dặm đến đây, thế mà người ta vẫn nhận ra và đón tiếp anh thật nồng nhiệt! Chắc hẳn là đám cá heo trình diễn trên truyền hình đã lan đến tận nơi ngõ ngách này!” Ngay lúc đó, một người đàn ông tiến lại bắt tay và Sulơ đã vui vẻ hỏi ông ta rằng: “Làm sao ông bạn biết tôi sắp đến đây xem phim để chào đón tôi như vậy?” Ông ta trả lời: “Thưa ông, tôi chẳng biết ông là ai cả. Chẳng qua là ngay trước khi gia đình ông bước vào rạp hát, viên quản lý rạp có nói với chúng tôi rằng: “Trong vòng 15 phút nữa, nếu không có thêm 4 khán giả nào vào rạp thì ông ta sẽ buộc phải trả lại tiền vé và hủy bỏ xuất chiếu này”. Vì thế khi thấy gia đình ông đến vừa đủ 4 người theo yêu cầu của quản lý rạp, nên chúng tôi rất vui mừng và giờ đây tôi đến để cám ơn gia đình ông đã đến kịp thời, giúp chúng tôi khỏi phải về không”.
Câu chuyện trên làm sáng tỏ giáo huấn của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: Người đòi các tín hữu chúng ta phải khiêm tốn noi gương Người. Đông Sulơ đã thể hiện sự khiêm tốn ấy: Là một huấn luyện viên cá heo tài giỏi, nên cũng thật tự nhiên khi Sulơ nghĩ rằng những người trong rạp hát đã nhận ra ông là ai. Đến khi người đến bắt tay cho biết mình chẳng hề biết ông thì Sulơ lại là người đầu tiên tự chế giễu mình. Ông rất vui khi phát hiện ra điều này, nên đã kể chuyện đó trên báo cho nhiều người biết về thói háo danh của ông, điều mà bình thường lẽ ra ông đã phải giấu kín. Chỉ người nào thực sự khiêm tốn mới làm được như Sulơ mà thôi!
3. SUY NIỆM:
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các người biệt phái hai bài học như sau: Một là nếu họ là khách được mời thì cần khiêm tốn để ngồi vào chỗ xứng hợp với mình, tránh cảnh “trèo cao té đau”. Hai là nếu họ là chủ nhà thì phải quan tâm mời cả những người nghèo khó bệnh tật đến dự tiệc nữa. Cũng vậy, bàn tiệc Nước Thiên Chúa cũng chỉ dành cho những ai có lòng khiêm hạ và có tinh thần nghèo khó (x. Lc 14,21). Vậy khiêm hạ là gì? Phải chăng khiêm hạ là phủ nhận giá trị thực sự của mình? Ta phải làm gì để học gương khiêm hạ của Đức Giêsu?
1) Gương khiêm hạ của Đức Giêsu và Thánh Mẫu Maria:
- Khiêm hạ hay khiêm nhường là thái độ tự hạ mình xuống trong khi giao tiếp với tha nhân. Người tín hữu cần học tập theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu vè sự khiêm hạ này như Người đã dạy: ”Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Đức Giêsu «vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế… » (Pl 2,6-7). Tuy là Thầy là Chúa, nhưng Người đã nêu gương khiêm nhường cho các môn đệ khi tự hạ mình rửa chân cho các ông trong bữa tiệc ly và sau đó dạy các ông cũng phải khiêm hạ rửa chân phục vụ lẫn nhau (x Ga 13,14-15). Hơn nữa, Đức Giêsu còn nêu gương khiêm hạ «vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá» (Pl 2,8). Tin mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện: Khi được viên thủ lãnh các người biệt phái mời đến nhà dự tiệc, Đức Giêsu thấy một số khách thuộc nhóm biệt phái tranh nhau ngồi chỗ nhất trong bàn tiệc. Người đã dạy họ như sau: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia đành phải đến nói với anh: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ để xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14,8-9).
- Khiêm nhường tự hạ noi gương Đức Maria: Trong biến cố truyền tin, khi được sứ thần chào là đấng «đầy ân phúc luôn có Chúa ở cùng», Đức Maria đã tự xưng là nữ tì của Thiên Chúa và đã cúi đầu «xin vâng» như lời sứ thần truyền (x Lc 1,38). Sau khi nghe biết bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, Đức Maria đã vội vã lên đường đến thăm và chào hỏi bà trước. Cuối cùng ngài còn ở lại để giúp đỡ phục vụ bà trong suốt ba tháng cuối, cho đến khi bà sinh con mới trở về nhà mình (x Lc 1,39-56).
2) Phân biệt giữa khiêm nhường thật với khiêm nhường giả tạo: Đức khiêm nhường không phải là giả vờ tự hạ để chờ được người khác tôn lên. Khiêm tốn cũng không phải là thái độ tự ti mặc cảm, tự khinh bản thân hay trốn tránh trách nhiệm… Nhưng là ý thức khả năng và ưu điểm của mình là do Chúa ban, rồi quy mọi vinh quang về cho Thiên Chúa, noi gương Đức Maria khi được bà Êlisabét khen có phúc, Mẹ đã dâng lời ca ngợi Chúa trong kinh Manhiphicát như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,48-49). Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay sợ ngồi vào ghế nhất, nhưng đối với họ: chiếc ghế không phải là mục tiêu phải đạt được, nhưng chỉ là phương tiện để có thể phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Người khiêm tốn sẽ luôn ý thức về thân phận yếu đuối của mình nên sẽ bình tĩnh khi nghe người khác phê bình, và sẵn sàng nhận lỗi để khắc phục những sai sót. Người khiêm tốn không tự tìm vinh danh cho mình, nhưng luôn cố gắng làm hết sức mình rồi phó thác thành bại cho Chúa quan phòng.
3) Thiên Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và ghét kẻ kiêu ngạo: Đức Giêsu đã ca tụng Chúa Cha “Vì đã mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn…” (x Mt 11,25). Những kẻ bé mọn ở đây là những người khiêm nhường tự hạ. Đức Giêsu đã yêu thương những kẻ khiêm nhường và quở trách bọn người tự cao giả hình: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác”(Mt 23,27-28).
4) Ta phải làm gì để học tập gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giêsu?
- Phải tránh thói kiêu ngạo:
Tránh tự ái cao: Không dễ nổi nóng khi nghe người khác phê bình mình hay kể tội người thân của mình. Tránh nói to tiếng xúc phạm đến người khác.
Tránh “nổ” nghĩa là khoe khoang thành tích để tự đề cao mình, và chứng tỏ mình trổi vượt hơn người khác.
Tránh thái độ ganh ghét đố kỵ những ai hơn minh qua việc dèm pha nói xấu những ai hơn mình, nhằm hạ giá trị của họ.
Tránh thái độ độc đoán háo thắng: Người kiêu ngạo thường cao ngạo nên không chấp nhận những ý kiến đối lập, không muốn nghe những sự góp ý của thuộc cấp, nên công việc họ làm khó thăng tiến phát triển.
- Tập sống khiêm nhường như sau:
Cần nhìn nhận cả ưu lẫn khuyến điểm của mình. Trong việc tông đồ cần nhận ra sự yếu đuối bất toàn của mình để khiêm tốn xin ơn Chúa giúp, như Đức Giêsu đã dạy môn đệ: ”Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được!” (Ga 15,5b).
Tập nhận ra những ưu điểm của người khác và thành thật khen ngợi họ.
Tập chọn phần thua thiệt: quyền lợi ít hơn và trách nhiệm nhiều hơn anh em.
Tập đi bước trước đến với tha nhân hơn là đòi họ phải đến với mình trước.
Tập nói năng bình tĩnh vừa đủ nghe khi sửa dạy con cái hay thuộc cấp.
Tập làm những việc nhỏ bé tầm thường ít ai muốn thực hiện.
Tập nhận nguyên nhân thành công là do ơn Chúa giúp và là kết quả của tập thể. Khi thất bại thì nhận là do sự thiếu sót bất toàn của mình và tránh đổ lỗi cho hoàn cảnh hay cho người dưới.
Chỉ những ai biết hóa nên như trẻ nhỏ mới được Thiên Chúa yêu thương và được Người đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này (x Lc 9,48).
Tóm lại, khiêm nhường là học tập theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu như Người đã nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Khiêm nhường còn là sẵn sàng rửa chân phục vụ tha nhân trong tình yêu thương (x. Ga 13,4.14), nhất là hiến thân phục vụ người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi để nên giống Đức Giêsu, Đấng “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10, 35-45).
4. SỐNG LỜI CHÚA:
1) Kẻ kiêu ngạo thường biểu lộ qua cử chỉ lời nói nào khi tiếp xúc với tha nhân? 2) Người khiêm nhường giả tạo thường biểu lộ qua những câu nói nào? 3) Người hay la lối to tiếng và dễ tức giận khi kẻ dưới làm trái ý mình có đức khiêm nhường không? 4) Khi nghe người khác phê bình mình trực tiếp hay qua người trung gian, chúng ta nên phản ứng thế nào để thể hiện đức khiêm nhường noi gương Đức Giêsu?
5. NGUYỆN CẦU
- Lạy Chúa Giêsu. Thích được người khác khen ngợi, thích được ăn trên ngồi trước, thích được danh vọng chức quyền... cũng chính là thói xấu của chúng con. Hôm nay Chúa dạy các người Pharisêu bài học khiêm nhường và cũng là dạy chúng con: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất... Nhưng hãy vào ngồi chỗ cuối”. Con biết Chúa không dạy con giả đò theo kiểu khiêm nhường giả tạo, nhưng Chúa muốn chúng con coi thường danh vọng hão huyền và luôn sống nhỏ bé khiêm hạ. Chúa cũng dạy chúng con phải noi gương Chúa rửa chân phục vụ lẫn nhau.
- Lạy Chúa. Chúa đã đi con đường khiêm hạ và mời gọi chúng con bước theo. Xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai sót và quyết tâm sửa đổi. Xin cho chúng con biết cảm thông và mở lòng đón nhận tha nhân. Xin giúp chúng con tránh lên mặt xét đoán ý trái cho kẻ khác, nhưng biết học tập những điều tốt đẹp nơi họ. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa đón nhận chúng con vào Nước Trời sau này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
81. Lạy Chúa con có là gì!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Sống trong một thế giới văn minh vượt bực, ai cũng chỉ muốn cho mình có của ăn, của để dư thừa. Ai cũng muốn cho mình có địa vị giầu sang, chức quyền cao trọng. Ai cũng muốn cho mình được người khác nể trọng và khen ngợi. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta cái nhìn hết sức trái ngược với ý nghĩ của con người. Con người thích thái độ tự kiêu, tự mãn, Chúa lại dậy con người phải khiêm nhượng.
AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG VÀ AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN: Đức Giêsu là người khiêm nhượng tuyệt đối. Người yêu thích sự khiêm nhượng và làm gương cho mọi người về sự khiêm nhu, tự hạ. Người là Thiên Chúa nhưng đã tự hạ: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế..."(Pl 2,6-7). Chúa là Đấng cao vời, cao quí, là Cha và là Thầy, nhưng Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Sự tự hạ của Người vô cùng tuyệt vời, vô cùng quí giá vì: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá " (Pl 2, 8). Chúa làm gương và Chúa dậy con người qua dụ ngôn trong Tin Mừng Lc 14, 7-14. Chúa cho thấy khi dự tiệc có nhiều người cứ hăm hở, háo hức chọn chỗ nhất, chỗ cao ở bàn tiệc. Còn Chúa chớp lấy cơ hội này, Người khuyên con người hãy khiêm nhượng, chọn phần chót hết, nghĩa là chọn địa vị sau chót: “Khi được mời dự tiệc cưới, đừng chọn chỗ nhất, sợ có nhân vật nào có địa vị, quan trọng cũng được mời...ngược lại khi được mời hãy ngồi vào chỗ cuối. Xem ra chọn chỗ cuối trong bữa tiệc phải được thực hiện cách tự nhiên, đơn sơ, không hề có hậu ý gì, nếu không sẽ trở nên giả hình, kiêu ngạo một cách tinh tế vì xếp chỗ ngồi là quyền của chủ nhà chứ không thuộc quyền của khách. Hạ mình xuống là khiêm nhượng, mà khiêm nhượng thực sự là biết mình, biết về ưu điểm cũng như khuyết điểm của mình. Khiêm nhượng như Chúa dậy là coi mình là không và coi Chúa là tất cả. Chỉ khiêm nhượng như thế mới đáng được Chúa tôn lên. Gương Đức Mẹ trong Tin Mừng và gương của thánh Giuse. Mẹ coi mình là nữ tì của Chúa và là người phục vụ trong yêu thương. Thánh Giuse tự hạ nhận Mẹ về nhà mình và dưỡng nuôi Chúa Giêsu.
LỜI KHUYẾN CÁO CỦA CHÚA TIỀM ẨN MỘT Ý NGHĨA SÂU XA: Tiệc cưới đối với Chúa Giêsu là Nước Trời và trong đó kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên và kẻ nào tự tôn, tự kiêu, tự đại sẽ bị hạ xuống. Chúa Giêsu muốn đưa nhân lọai, đưa con người đi vào chiều sâu của đời sống. Cuộc đời con người không chỉ ở trần gian, với của cải vật chất, với danh dự, chức vị cao quí, nhưng con người còn có một cuộc đời mai sau. Do đó, Chúa đưa con người đi vào chiều sâu của sự khiêm hạ mà vươn tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Trời là một hồng ân cao quí mà chỉ có những ai khiêm nhượng, chỉ những ai hiểu biết và nhận ra Chúa là tất cả thì họ mới có thể lãnh nhận được Nước Thiên Chúa. Còn những kẻ tự kiêu tự đại, tự tôn, tự mãn tưởng mình có thể vào Nước Trời cách dễ dàng mà không phải cố gắng hy sinh, vác thập giá mà theo Chúa thì quả thực Nước Thiên Chúa vượt ra khỏi tầm tay của họ. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và nâng cao kẻ phận nhỏ, kẻ khiêm nhượng. Ađam và Eva vì tự mãn muốn bằng Thiên Chúa, nên ông bà đã hoàn toàn bị hạ xuống. Mẹ Maria vì khiêm nhượng, Chúa nâng Mẹ lên: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả " (Lc 1, 48-49)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và chống lại kẻ kiêu căng, tự kiêu, tự mãn. Xin củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con nhận ra giới hạn con người của mình và tín thác vào Chúa vì Chúa là tất cả cho con người chúng con. Amen.
82. Những thực khách đích thực
(Suy niệm của Lm. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb)
Trên đường lên Giêrusalem, khi đi qua các thành thị và làng mạc, Chúa Giêsu không ngừng rao giảng nước Thiên Chúa. Lời rao giảng cũng như những việc làm nhất cử nhất động của Chúa Giêsu đều được giới thủ lãnh Dothái xem xét ti mỉ. Một thủ lãnh Pharisêu mời Chúa Giêsu dự tiệc không phải vì mối tình thân hữu của ông đối với Chúa mà chỉ nhằm mục đích dò xét Người. Chính trong bữa tiệc đậm mùi "chính trị" như thế, Chúa Giêsu hướng dẫn cho những vị khách quý của viên thủ lãnh Pharisêu -hay đúng hơn là những tên mật thám tôn giáo, bài học về sự khiêm nhường và tinh thần phục vụ.
Những vị khách mời dự tiệc ngày hôm đó cứ chen lấn, dành nhau chỗ nhất mà ngồi, đúng ra phải là những gối nhất mà nằm. Chỗ nhất hay gối nhất là như thế nào? Vào thời đó, trong các bữa tiệc, người dân có thói quen nằm chứ không ngồi như vẫn thường thấy. Gối nhất hay chỗ nhất ở đây là nơi gần với chủ nhà nhất. Các gối nằm được sắp xếp dựa vào thanh danh của thực khách, tức là phụ thuộc vào chức phận hay sự giàu sang của người đó.
Dùng dụ ngôn, Chúa Giêsu nhắc khéo những vị khách một quy luật khôn ngoan: "Khi anh được mời dự tiệc, thì đừng ngồi vào cỗ nhất". Phải chăng Chúa Giêsu muốn dạy nghệ thuật ứng xử có hàm chứa sự tính toán, những thủ đoạn khéo léo bên trong? Hẳn là không. Vì ý nghĩa của dụ ngôn không nằm ở cách giao tế khéo léo mà là giáo huấn về sự khiêm nhường- một thái độ cần phải có để có thể dự tiệc nước Thiên Chúa. Thật thế, những ai tham dự vào bàn tiệc nước Thiên Chúa không hệ tại cách đánh giá bên ngoài hay mình có những lợi thế hơn người như tiền tài, danh vọng,... mà là hệ tại ở tình yêu thương của Thiên Chúa. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy, trong bữa tiệc, chủ nhà có quyền sắp xếp những thực khách vị vọng ngồi chung với mình; thì bữa tiệc trong nước Thiên Chúa cũng vậy, Thiên Chúa cũng có quyền để lựa chọn, sắp đặt những ai được vinh hạnh tham dự vào bàn tiệc nước Chúa. Và, những vị trí đó luôn là những quà tặng nhưng không của Thiên Chúa chứ không phải do sự lựa chọn của con người. Những vị trí quan trọng trong nước Thiên Chúa không có chỗ cho những kẻ kiêu hãnh, thích ăn trên ngồi trước, mà là dành cho hết những ai biết sống khiêm nhường, thấp hèn.
Sau khi đã nhắc khéo thực khách về thái độ khiêm nhường cần có để có thể xứng đáng mời dự tiệc nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu quay sang chủ nhà, đề cập đến đối tượng được mời dự tiệc: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối,...". Cách nào đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu trách khéo viên thủ lãnh Pharisêu chỉ biết mời có bạn bè, bà con láng giềng giàu có mà không biết mời những vị khách khó nghèo, tàn tật, đui mù. Mời những vị khách tàn tật, đui mù, què quặt đến dự tiệc? Thế thì còn gì là tiệc tùng nữa? Điều xem ra có lẽ phi lý, nhưng lại là điều trọng yếu đối với Thiên Chúa. Theo Chúa Giêsu, chúng ta cần mở rộng bàn tiệc cho hết những ai không có khả năng đáp lễ. Những vị khách "đặc biệt" cần được mời trong danh sách của Chúa Giêsu là những hạng người bị dân Dothái đạo đức khinh thị, bị Lề luật khai trừ khỏi sinh hoạt tế tự của Đền thờ. Thế nhưng họ lại là đối tượng đầy yêu thương của Thiên Chúa. Người yêu thương họ và sẵn sàng mời họ tham dự bàn tiệc. Từ nay những ai bước đi trong đường lối Chúa, hành xử khôn ngoan theo lối hành xử của Người đều nhận ra chân lý này: khi phục vụ, thi ân cho những người tàn tật, đui mù, nghèo khó, người mắc nợ chúng ta không phải những con người đáng thương đó mà chính là Thiên Chúa. Vâng, chính Thiên Chúa sẽ mắc nợ chúng ta, và Người sẽ trả công bội hậu cho chúng ta trong ngày sau hết như Người đã hứa. "Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới có phúc, vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại".
Giáo huấn của Chúa Giêsu xem ra có vẻ khó chấp nhận như đó lại là lối sống được đề cao trong nước Thiên Chúa. Khi chúng ta chấp nhận lối sống khiêm nhường, đặt mình dưới hết mọi người, thực thi công bình bác ái cách vô vị lợi không phải để đánh bóng chính mình, nhưng là vì đó là nơi Chúa Giêsu yêu thích, là chỗ quen thuộc của Người. Nói như thánh F. Borgia: "Tôi thực tâm đặt mình ở dưới Giuđa, bởi tôi đã thấy Chúa Giêsu ngồi dưới chân anh ấy". Ước gì lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta biết sống khiêm nhường và nhận ra đâu là cách thế để chúng ta trở nên người có phúc trước mặt Thiên Chúa.
83. Hãy nghĩ đến kẻ khó nghèo
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài sống hoàn toàn hòa đồng với con người, Ngài không xa cách, không sống khắc khổ như những Rabbi hay một vị khổ tu nào đó. Chúa Giêsu xuất thân từ quần chúng, từ giới lao động, Ngài cảm thông với con người, đặc biệt những con người nghèo hèn, đau khổ. Ba năm đi giảng đạo, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đi theo Ngài...Ngài giảng dạy trong các Hội Đường, Ngài đi khắp nơi lúc giảng nơi đường phố, lúc trên núi, dưới các cánh đồng, lúc bồng bềnh trên sóng nước mênh mông. Chúa thường ví Nước Trời như một tiệc cưới. Ngài cũng đi tham dự các tiệc cưới khi được mời,Ngài cũng đi dự các bữa cơm gia đình để sống trọn đời thường, tình làng nghĩa xóm vv...Chúa cũng nhận lời mời dùng cơm ở các nhà của người Biệt phái dù Ngài biết họ mời Ngài để dò xét hơn là vì họ hiếu khách vv...
Chúa Giêsu đã có những thái độ, những cử chỉ rất người của mình, như trong bữa tiệc tại nhà ông Simon, Chúa đã tha thứ cho người đàn bà tội lỗi nhưng lại có lòng thống hối, ăn năn. Chúa Giêsu lại có lối cư xử tình người và rất tự nhiên đến nỗi một số môn đệ của Gioan đã gán cho Ngài thích chè chén yến tiệc vv...Chuyện thuật rằng hôm ấy là ngày sabbát, Chúa Giêsu được một thủ lãnh Biệt phái mời đến nhà ông để dự tiệc. Thực tế, khi mời Chúa Giêsu, họ tìm cách dò xét Ngài để lên án Ngài. Do đó, hôm nay họ tấp nập đến ăn tiệc và đồng thời để dò xét Ngài. Tuy nhiên, chính Chúa Giêsu lại là người dò xét họ trước. Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn rất bình thường, Ngài nói rằng khi được mời dự tiệc chúng ta đừng chọn chỗ nhất. Vì biết đâu gia chủ có mời vị nào có thế giá hơn mình, nên buộc lòng chủ nhà phải mời mình nhường chỗ cho khách, thì mình xấu hổ biết bao. Cho nên, từ một bài học xã giao thường thức, Chúa Giêsu muốn nhắm về một ý tưởng cao thương hơn: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên". Thực vậy, muốn chiếm một chỗ trong Nước Trời, con người phải hạ mình trước mặt Thiên Chúa và làm theo ý của Ngài. Con người cũng phải đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, nghĩa là trở nên đơn sơ, thánh thiện và ngoan ngùy trước mặt Chúa.
Và trong bữa tiệc kéo dài hôm nay, Chúa Giêsu còn dùng nhiều cơ hội để dạy dỗ con người như Ngài nói với gia chủ hãy nghĩ đến người nghèo, người cùng khổ.Qua việc nhắc nhở gia chủ, Chúa Giêsu cũng dạy dỗ tất cả chúng ta. Sống ở đời, người ta thường cân nhắc, mời ai để họ có thể mời lại mình. Đó là việc xã giao rất bình thường ở đời này. Bởi vì ở đời thường người ta mời mọc hay cho chác là mong được mời lại, cho lại vv... Chúa Giêsu khuyên mọi người chúng ta quan tâm đến những người nghèo, những người neo đơn, túng cực,những người này chẳng có gì để trả lại.Những người nghèo là những người vô tư lợi, những người tay trắng lòng ngay, do đó, họ sống rất thanh tao, cao đẹp trước mặt Thiên Chúa.
Marc Sevin đã viết: “Kết luận của Chúa Giêsu mang mầu sắc của một châm ngôn: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên ". "Tự hạ mình" và "tôn lên": hai động tự này không mang nghĩa chung chung. Các Kitô hữu áp dụng hai động tự này cho Chúa Giêsu, Đấng được sinh ra để làm tôi tớ. Người đã sống lại, được tán dương và ngự bên hữu Chúa Cha. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống và đã được nâng lên. Người trở nên gần gũi với những ai khốn khổ bần cùng nhất. Vậy nên, thánh sử Luca đưa Chúa Giêsu vào trong ví dụ. Các môn đệ cũng đi theo những bước chân của Thầy mình, và chọn cuộc sống như Chúa để trở nên những người phục vụ ".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn hiểu rằng Chúa yêu thương mọi người bằng một tình yêu vô vị lợi. Chúa luôn quan tâm đến mọi hạng người. Chúa luôn tha thứ tội lỗi cho những ai thật lòng sám hối ăn năn. Xin cho chúng con biết học cùng Chúa: “Hiền Lành và Khiêm Nhượng" vì Chúa đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên".
31/08 Trung tín và sáng kiến
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Trung tín và sáng kiến.
Thứ bảy tuần 21 thường niên.
"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Lời Chúa: Mt 25, 14-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi.
Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Trách nhiệm của các bậc cha mẹ
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc một ông chủ trước khi đi xa, đã trao cho đầy tớ, mỗi người một số nén bạc để làm lợi thêm, và khi trở về, ông chủ đã gọi các đầy tớ đến tính sổ. Ðã có nhiều lối giải thích suy tư về các nén bạc; ở đây chúng ta lồng dụ ngôn trong khung cảnh: ông chủ là Thiên Chúa, đầy tớ là các bậc cha mẹ, nén bạc là con cái.
Ðiều răn thứ tư dạy con cái phải thảo kính cha mẹ; điều này có nghĩa là nếu con cái lỗi phạm giới răn này thì sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Bổn phận của con cái là tôn kính, yêu mến và đền đáp công ơn cha mẹ: đó là bài học cơ bản của các kẻ làm con. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không phải là vị thẩm phán chí công, nếu không xét xử những bậc cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình. Nếu con cái phải thảo kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng yêu thương con cái. Mỗi người con là một nén bạc Chúa trao, cha mẹ là những đầy tớ có nghĩa vụ canh giữ và làm lợi nén bạc này. Dĩ nhiên, chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ duy nhất và tuyệt đối trên mỗi người con: bổn phận của cha mẹ là cộng tác dưỡng nuôi thân xác, hướng dẫn tinh thần và thiêng liêng, để con cái lớn lên trong sự thật và trong niềm kính sợ yêu mến Thiên Chúa.
Nếu con cái là hình ảnh của cha mẹ tiếp liền sau hình ảnh của Thiên Chúa, thì điều này nhắc nhớ cha mẹ phải là những người sinh con hai lần: một lần cho trần gian, và một lần cho Thiên Chúa. Ðịnh mệnh vĩnh cửu của con người không phải ở trần gian này, nhưng là trời cao. Do đó, cha mẹ phải luôn hướng dẫn tâm hồn con cái hướng về trời cao khi chúng còn thơ bé, và cả khi chúng đã lớn khôn nữa.
Trách nhiệm của các bậc cha mẹ thật nặng nề, nhưng cũng vô cùng cao cả. Nếu cha mẹ chu toàn bổn phận Chúa trao, chắc chắn trong ngày Chúa đến, họ sẽ được nghe lời này: "Hỡi tôi tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho các bậc làm cha mẹ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Cộng tác với ơn Chúa (Mt 25,14-30)
Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thiên Chúa như ông chủ đi công tác xa trao lại cho mỗi chúng ta một số bạc, tượng trưng cho tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta và bổn phận chúng ta là dùng số bạc đó để sinh lợi. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Ðấng dựng nên ta và ban cho chúng ta những khả năng riêng, những nén bạc nhiều ít tùy ý Ngài. Chúa cũng chỉ đòi hỏi chúng ta sinh lợi theo khả năng của mình. Thiên Chúa không bắt chúng ta phải làm những gì vượt quá khả năng Ngài đã ban cho chúng ta, chỉ cần một chút trung thành là chúng ta có thể làm trọn công việc của Ngài trao cho chúng ta.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến và thanh toán sổ sách. Kẻ sinh lợi được năm nén cũng được khen như người sinh lợi được hai nén: "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh", vì cả hai cùng làm tròn nhiệm vụ của chủ giao với hết khả năng của mình. Nhưng khả năng Chúa ban cho không phải chỉ để được chôn vùi dưới đất, không phải để được cất giữ nhưng phải để được sinh lợi, phục vụ anh em.
Vậy mỗi chúng ta hãy cố gắng sống trung thành và trọn vẹn với những gì mình đã lãnh nhận, tức là chúng ta tích cực cộng tác với ơn của Chúa, với tinh thần trách nhiệm để làm cho những ân huệ, những khả năng Chúa ban và ngay cả sự hiện hữu của ta được sinh hoa kết quả trong cuộc sống hàng ngày, là thời gian dường như Chúa vắng mặt. Chúng ta không nên có thái độ như người lãnh một nén, xem Chúa như người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, nên đã lo sợ và đem chôn giấu nén bạc dưới đất, để rồi đến lúc đem trả lại y nguyên. Chúa sẽ trách chúng ta như ông chủ trong dụ ngôn trách người đầy tớ biếng nhác: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác, anh đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi sổ bạc của tôi cho các chủ ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu hồi của thuộc về tôi cùng với số lời chứ. Vậy, các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người có mười nén". Chúng ta không nên nghĩ xấu cho Chúa để rồi sống mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ Ngài. Nhưng hãy sống đơn sơ phó thác như con thảo đối với cha mình và yêu thương anh chị em. Khi sống trong tình thương và gắn bó với Thiên Chúa, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy sợ hãi nhưng là luôn sống tích cực trong phận vụ của mình trong sự cậy trông và tin tưởng vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin ban cho chúng con một đức tin vững bền để chúng con trung thành với ơn mình đã lãnh nhận là làm phát sinh những điều thiện hảo, nhờ đó mọi người sẽ được hưởng niềm vui của ngày Chúa đến trong vinh quang.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Sau một thời gian
Đức Giêsu nói: “Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến, mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người.” (Mt. 25, 14-15)
Dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhắc nhở chúng ta là: trong suốt đời sống của chúng ta không phải chỉ có trung tín làm theo ý Chúa mà còn phải biết sáng kiến và làm theo những điều Chúa mong đợi mỗi người chúng ta.
Tùy theo phương tiện mỗi người.
Điều đáng chú ý là Chúa không đòi cái gì quá sức chúng ta, quá khả năng chúng ta. Không thể đòi ta phải làm cho ta lớn lên một tấc! khi người ta đòi phải “ vượt mức chỉ tiêu” thì đó chỉ là đòi theo sức tương đối không hiểu như một bổn phận. Cũng thế, Chúa đòi ta phải đổi mới con người, có ý nghĩa là sửa chữa, đào tạo, giáo dục con người đã dựng lên và con người tạo vật của mình.
Chúng ta được biết rằng chủ sẽ về sau một thời gian. Chúa cho chúng ta thời gian để thực hiện đời sống mình và sống theo thánh ý Chúa. Nếu chúng ta làm những điều xấu, sống trong lầm lạc, Chúa không đến treo giò không kết án ngay đâu.
Chúa cho chúng ta thời gian làm cho sinh hoa kết quả những ơn mà Chúa cho chúng ta mượn để rồi lại ban tất cả cho chúng ta. Ngài nắm giữ thời gian, Ngài để cho chúng ta bắt tay vào việc. Đầy tớ trung tín lo làm trọn điều mình phải làm, chủ có thể về tùy theo lúc chủ muốn, chủ sẽ vui mừng khi ý chủ đã được thực hiện, mọi sự đều tốt đẹp.
Lòng yêu mến nồng nàn.
Khi ta trung thành vui vẻ theo ý Chúa, Ngài có thể đòi hỏi ta tùy lúc Ngài thỏa lòng, Ngài mong chúng ta luôn sẵn sàng.
Vậy mọi sự đều tùy thuộc lòng mến của ta.
Đầy tớ xấu thì sao? Tại sao nó không được thưởng? Nó không làm gì, chẳng yêu ai, chỉ biết đổ lỗi thất bại cho người khác: “Thưa ông, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo thu nơi không vãi...”. Ai đáng trách? chủ hay đầy tớ lười biếng vô dụng? Ai trong chúng ta đáng trách? nếu chúng ta từ chối Thiên Chúa và thánh ý Ngài?
Ước chi chúng ta can đảm một chút để nhận lỗi, hãy chân thành thú nhận những ti tiện của mình.
JM
SUY NIỆM 4: HÃY SINH LỜI THÊM (Mt 25, 14-30)
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được thuộc về Chúa, trở thành công dân Nước Trời. Khi trở thành con cái trong nhà, chúng ta được Thiên Chúa tin tưởng và trao cho chúng ta trách nhiệm làm ngôn sứ cho Ngài. Đây chính là nén bạc Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mượn hình ảnh của người làm kinh tế để nói về việc sinh lời nén bạc tinh thần. Nếu ông chủ trao cho đầy tớ những nén bạc và nhủ hãy đi sinh lời thêm, thì Thiên Chúa cũng vậy. Ngài trao ban cho chúng ta những nén bạc là Lời Chúa, là những "ơn ban...” và không ngừng mời gọi chúng ta sinh lời ra nhiều, để làm vinh danh Chúa và giúp ích cho anh chị em chung quanh mình nhiều hơn.
Thật vậy, mỗi người đều được Chúa trao cho những nén bạc khác nhau tùy vào khả năng. Điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng nó cho đúng mục đích cách trung tín và khôn ngoan hay không mà thôi.
Người khôn ngoan là người biết đón nhận thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Người quản lý trung tín là người biết nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố vui buồn của cuộc sống. Biết đón nhận đau khổ và sẵn sàng hy sinh vì mối lợi đời sau. Biết nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ đói khát...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự đặt mình trước mặt Chúa để cật vấn mình rằng: Chúa đã đầu tư cho tôi những nén bạc như sức khỏe, tài năng và nhiều ơn ban khác..., nhưng tôi có thực sự sinh lời ra thêm bằng việc tạ ơn Chúa, sẵn sàng giúp đỡ anh chị em mình và có biết dâng những hy sinh đau khổ, thất bại trong cuộc đời lên Chúa để xin Chúa thánh hóa, hầu sinh ích cho mình và tha nhân hay không?
Nói chung, tôi đã dùng của cải tài năng và ân huệ Chúa ban như thế nào? Tôi có tích cực phát triển “vốn đầu tư” mà Chúa đã trao cho tôi không? Hay tôi lo chôn giấu cho thật kỹ trong sự ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và hận thù?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban, đồng thời, xin cũng cho chúng con biết sinh lời những nén bạc đó bằng những nhân đức trong đời sống hằng ngày. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Vào mà hưởng niềm vui
Suy niệm:
Người ta vẫn hay có cái nhìn tĩnh và buồn về đời sống Kitô hữu.
Đó là một đời sống cam chịu, nhẫn nhục, cúi đầu vâng phục Ý Chúa,
một đời sống khổ đau vì phải bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá.
Nhìn như thế đúng nhưng không đủ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác,
tươi tắn hơn nhiều, chủ động và tích cực hơn nhiều.
Thiên Chúa được ví như một ông chủ sắp đi xa.
Vì tin tưởng các đầy tớ của mình, nên khi vắng nhà (c. 14),
ông không ngại giao phó cho họ những món tiền rất lớn, tùy khả năng.
Người được năm yến, kẻ được hai, người được một (c. 15).
Mỗi yến bạc tương đương với sáu ngàn ngày công.
Hẳn các đầy tớ hiểu ý chủ muốn mình đầu tư sinh lợi.
Anh nhận được năm yến đã đi ngay lập tức và làm ăn với số vốn ấy.
Chúng ta không rõ anh đã đầu tư thế nào và bao lâu,
chỉ biết anh đã sử dụng cách hiệu quả những gì anh nhận được.
Sau một thời gian, tiền lời bằng số vốn bỏ ra.
Anh nhận được hai yến cũng vậy, cũng sinh lợi được hai yến khác.
Anh được một yến cũng đi,
nhưng là đi đào lỗ dưới đất để chôn giấu yến bạc (c. 18).
Anh không dám đầu tư vì sợ làm ăn lỗ lã.
Anh sợ số bạc lớn bị mất, nên anh muốn chôn giấu nó cho an toàn.
Khi ông chủ trở về để nghe báo cáo sổ sách của các đầy tớ,
ông đã khen hai anh đầy tớ vất vả làm ăn bằng những lời giống nhau:
“Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín!
Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh.
Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (c. 21. 23).
Còn anh đầy tớ chôn giấu yến bạc dưới đất vì sợ hãi ông chủ,
đã bị chủ chê là đầy tớ xấu xa và biếng nhác.
Yến bạc của chủ còn nguyên chẳng hề là điều đáng tự hào.
Ông chủ ngạc nhiên vì tại sao anh lại không gửi tiền vào ngân hàng
để đồng vốn có thể sinh lợi (c. 27).
Anh bị tước mất yến bạc anh đã giữ kỹ, và tống vào chỗ tối tăm.
Một đầy tớ không sinh lợi từ số vốn được trao là một đầy tớ vô dụng (c. 30).
Mỗi Kitô hữu cũng là một người đầy tớ, một quản lý của Chúa,
được tin cậy giao phó, được yêu cầu đầu tư, được mong mỏi sinh lợi.
Sống đời Kitô hữu là chấp nhận dùng tất cả khả năng của mình (c. 15)
để làm cho những gì Chúa ban sinh lợi nhiều nhất.
Điều đó cần đến công sức, tính toán, sáng tạo, và nhất là tình yêu.
Yến bạc là khả năng và hoàn cảnh thuận lợi để ta làm việc cho Chúa.
Kitô hữu không phải là người thích an nhàn hay hưởng thụ.
Họ nỗ lực phấn đấu từng ngày để đời mình sinh hoa trái cho Chúa.
Ngày Phán xét, chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên nỗ lực sinh lợi của mình.
Mỗi người chúng ta không rõ mình đã nhận bao nhiêu yến bạc.
Điều quan trọng là không được giấu đi, và vui vẻ tận dụng điều mình có.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
30/08 Chờ đợi Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chờ đợi Chúa Giêsu.
Thứ sáu tuần 21 thường niên.
"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".
Lời Chúa: Mt 25, 1-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi". Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tích cực sống đức tin
Ðời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó. Ðợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc quí chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.
Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ, nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để cháy sáng.
Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn cháy sáng. Ðèn cháy sáng là dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.
Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi Kitô hữu phải tích cực sống đức tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được; mỗi Kitô hữu cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.
Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với thánh ý Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Ánh lửa huy hoàng
Thầy Rabbi dạy các học trò của mình phải luôn nhớ rằng mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy cho chúng ta đôi điều gì đó. Một học trò hỏi lại:
- Thưa thầy, một chuyến xe lửa đi qua thì có thể dạy chúng ta điều gì?
Thầy bảo:
- Nó dạy ta rằng chỉ trong một phút giây, chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả.
Kinh nghiệm của thầy Rabbi có thể giúp chúng ta hiểu Lời Chúa hôm nay hơn. Có thể nói chỉ vì một chút thiếu cảnh giác vì ngủ quên hay vì không mang dầu mà các cô dại khờ đã không gặp được chàng rể. Hệ quả là các cô đã bị loại trừ vĩnh viễn. Ngày nay, mỗi chúng ta là những trinh nữ đương thời, đang trông chờ chàng rể là Chúa Giêsu đến lần thứ hai trong cuộc giáng lâm vinh hiển của Người. Trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm vào giờ phút cuối cùng của lịch sử, mỗi người đồ đệ được Chúa viếng thăm hàng ngày trong Lời Chúa, trong các bí tích và trong những biến cố, sự kiện, xảy ra trong cuộc sống thường nhật. Thử hỏi, chúng ta có đủ tỉnh thức, sẵn sàng để nhận ra những lần Chúa viếng thăm này không?
Kinh nghiệm của thầy Rabbi là mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy chúng ta đôi điều gì đó và chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả. Chỉ trong một phút giây cũng dạy cho chúng ta bài học khôn ngoan để luôn tỉnh thức và sẵn sàng như các trinh nữ khôn ngoan trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe.
Mỗi giây phút trong cuộc đời ta đều có tính quyết định cho cả cuộc đời.
Hãy sẵn sàng có nghĩa là mỗi giây phút sống và là giây phút chúng ta sống tốt đẹp nhất, hạnh phúc nhất, bình an nhất, trọn vẹn nhất, tưởng chừng như đó là phút giây cuối cùng của ta trên cuộc đời lữ hành trần thế, là giây phút chàng rể đến, giây phút chúng ta chờ đợi đã đến, giây phút chúng ta được gặp Ðấng là nguồn ánh sáng. Chúng ta sẽ hưởng hạnh phúc viên mãn khi chúng ta đem ánh lửa của mình hòa nhập vào nguồn ánh sáng để nó được bừng lên trong ánh sáng huy hoàng.
Vì thế, chúng ta hãy tích cực cộng tác với ơn Chúa, hãy giữ lấy ngọn lửa đã được thắp lên trong lòng chúng ta trong ngày chúng ta lãnh bí tích thánh tẩy, để cho lòng chúng ta lúc nào cũng bừng cháy lên ngọn lửa hy vọng được gặp Chúa Kitô, chàng rể. Khi chúng ta chắc rằng chúng ta luôn đầy tràn dầu của tình yêu và nhiệt thành, chính ngọn lửa ấy sẽ soi rọi mọi nẻo đường chúng ta đi. Dầu của tình yêu và nhiệt thành sẽ làm cho ngọn lửa hy vọng được tỏ rạng giúp chúng ta nhận ra ý định của Thiên Chúa nơi thế giới quanh ta và ngay cả những gì thuộc về mình. Trong một tầm nhìn rộng hơn, chúng ta sẽ đọc được những dấu chỉ của thời đại, chúng ta có thể thức tỉnh khi lòng chúng ta luôn sẵn sàng để lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua những dấu chỉ đó và chúng ta sẵn sàng đáp trả ở mức độ trọn vẹn nhất.
Ước gì chúng ta đừng để cho mỗi một giây phút nào qua đi mà không giúp chúng ta nghe rõ tiếng của chàng rể, là Ðấng mà ta hằng mong đợi và là niềm hạnh phúc viên tròn của cuộc đời ta. Chúng ta hãy gặp Người trong từng phút giây của cuộc đời ta, rồi giây phút trọng đại diện đối diện ấy cũng sẽ đến, đó là lúc chúng ta đã sẵn sàng được theo chàng rể vào dự tiệc cưới.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống. Xin ban cho chúng con ân sủng, sức mạnh và lòng nhiệt thành để mỗi giây phút sống là mỗi giây phút chúng con kết hiệp thân tình với Chúa và sống trọn vẹn cho anh chị em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Nhìn xa trông rõ
Đức Giêsu nói: “Bấy giờ Nước Trời cũng giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn các cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.” (Mt. 25, 1-4)
Kết thúc bài giảng trên núi, Chúa đã so sánh hai hạng người một khờ dại, một khôn ngoan. Kẻ khờ dại đã xây nhà trên cát, kẻ khôn ngoan xây nhà trên đá. Trong dụ ngôn này, chúng ta thấy sự đối nghịch giữa khờ dại. Những kẻ khôn ngoan thì nghe lời Tin Mừng và đem ra thực hành. Những kẻ khờ dại nghe Tin Mừng mà không sống theo.
Dàn cảnh.
Những cô trinh nữ theo cô dâu ra đón chàng rể và các cô đưa dâu về tới nhà chàng rể để dự tiệc cưới.
Điều đáng chú ý trong câu chuyện dụ ngôn kể hoàn toàn hợp lý, không tìm thấy một chi tiết nhỏ nào bị thay đổi. Nhưng bản văn tin mừng nhấn mạnh hơn đến ánh sáng đức tin. Mỗi Kitô hữu đều biết rõ ai là chàng rể, những ai là cô khờ dại hay cô khôn ngoan, đám cưới có ý nghĩa gì và cổng đóng lại tượng trưng cho sự khủng khiếp nào.
Hình ảnh và sự thực.
Trong những dụ ngôn này của Đức Giêsu luôn luôn nhắc đi nhắc lại điều này: dầu đầy bình, áo cưới khi dự tiệc cưới, xây nhà trên đá đều làm nổi bật một đời sống độc nhất đó là đời sống đức tin sẽ được Đấng phán xét đón nhận.
Chúa còn muốn dạy chúng ta một bài học khác nữa: đó là chúng ta tự do làm điều ta muốn, và không phải Chúa từ chối, chính chúng ta không sẵn sàng tiếp nhận Ngài hoặc tiếp nhận Ngài, nhưng đòi Ngài phải theo điều kiện mình, phải theo tính nông cạn của chúng ta. Có khi ta sẵn sàng đi theo một bước nào đó, trong đường lối của Chúa, nhưng chúng ta lại không chấp nhận đi đến cùng đường với Ngài! như vậy, chúng ta đều là kẻ khờ dại. Bao giờ chúng ta là những kẻ khôn ngoan.
JM
SUY NIỆM 4: SẴN SÀNG ĐÓN ĐỢI CHÚA (Mt 25, 1 -13)
Là con người, ai cũng phải chết, đây là quy luật sinh tử của kiếp người. Tuy nhiên, không ai trên trần gian này biết trước giờ chết của mình. Ý thức được như vậy, chúng ta sẽ dễ hiểu bài Tin Mừng hôm nay khi Đức Giêsu kể dụ ngôn: “Mười trinh nữ”.
Toàn cảnh dụ ngôn là câu chuyện tiệc cưới. Tuy nhiên, ngang qua đó, Đức Giêsu muốn nói đến cuộc giáng lâm lần thứ hai của Ngài trong ngày cánh chung.
Vị hôn phu chính là Đức Kitô. Mười cô trinh nữ tượng trưng cho Giáo Hội. Hành vi ra đón chàng rể là hình ảnh ngày chết của mỗi người.
Chàng rể chậm trễ một phần muốn nói lên sự bất ngờ, phần khác muốn nói đến sự kiên trung, nhẫn nại và sẵn sàng mà mỗi người cần có...
Đèn còn dầu và hết dầu nơi các cô trinh nữ nói lên sự sẵn sàng, tỉnh thức, hối cải, nhạy bén hay không!
Được đưa vào phòng tiệc là hình ảnh được cứu độ.
Cửa đóng lại muốn nói lên sự quyết liệt, dứt khoát trong ngày chung thẩm.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy cho người đương thời và mỗi người chúng ta bài học về tinh thần trách nhiệm trong đức tin và tự do. Đồng thời, nhắc cho chúng ta về sự tỉnh thức, sẵn sàng để đón đợi Chúa bằng những việc bác ái, hy sinh, tha thứ, yêu thương... như năm cô khôn có dầu dự trữ mang theo. Không ai trên trần gian này có hai cuộc sống cũng như hai cái chết! Vì thế, phải sẵn sàng.
Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay làm cho mỗi người chúng ta suy nghĩ đến cái chết của mình để chuẩn bị cho xứng đáng. Bởi vì biết suy nghĩ đến cái chết hằng ngày là người khôn ngoan.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết kiên trì, trung thành và bền đỗ đến cùng trên hành trình tin và theo Chúa. Xin cho chúng con biết chuẩn bị chu đáo cho ngày chết của mình, để Chúa đến với chúng con bất cứ lúc nào, chúng con sẵn sàng ra đi đón Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Vừa mang đèn, vừa mang dầu
Suy niệm :
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.
Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.
Vụ chìm tàu du lịch Dìn Ký tại Bình Dương hồi cuối tháng 5/2011 vừa qua
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang vui vẻ chúc mừng nhau
trong bữa tiệc mừng sinh nhật của cháu bé 3 tuổi.
16 người chết vì bị kẹt lại trong chiếc tàu du lịch bị mưa to gió lớn đánh chìm.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Ðiện Biên Phủ (tháng 10/1996),
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,
lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,
như chú rể đến lúc nửa đêm.
Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,
hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.
Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.
Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.
Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.
Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.
Nhưng muộn quá!
“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm,
khiến đèn của mình hết dầu.
Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,
vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.
Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng,
không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ!
Ðèn cần phẳi sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.
Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!
Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!
Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.
Ðòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,
có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,
của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ...
Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,
nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế.
Chẳng ai biết giờ chết của mình.
Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,
trong biến cố nào, nơi con người nào.
Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,
khi nhận ra mình đã mê muội.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
29/08 Cái chết của một tiên tri
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Cái chết của một tiên tri.
Thứ Năm tuần 21 thường niên – Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết. Lễ nhớ.
"Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa".
* Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị chém đầu ở Makêron, gần Biển Chết, do lệnh của vua Hêrôđê Antipa. Cái chết của người, vị Tiền Hô của Chúa Kitô, cho thấy rõ người có tâm hồn quả cảm như thế nào và người đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa trọn vẹn ra sao.
Khi chết cũng như khi còn rao giảng, người đều làm chứng cho chân lý. Người quả là “ngọn đèn cháy sáng” như lời Đức Giêsu đã nói.
Lời Chúa: Mc 6, 17-29
Khi ấy, Hêrôđê đã sai đi bắt Gioan và giam ông trong ngục: nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe.
Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muốn gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho".
Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gio-an Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ.
Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cái chết của một tiên tri.
Qua lệnh truyền của một bạo chúa, một chiếc gươm gieo, một chiếc đầu rơi trong ngục tối. Ðó là những diễn tiến đã kết thúc cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả, một biến cố mà Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm hôm nay.
Chúng ta đã thấy một lời thề thiếu khôn ngoan, một quan niệm thiển cận về danh dự của một bạo chúa cũng như lòng hận thù của một hoàng hậu lăng loàn đã đưa Gioan Tẩy Giả vào cái chết. Nhưng đây là cái chết đã nâng ngài lên cao trên đài danh vọng, danh vọng của các vị tiên tri đích thực, vì Gioan cũng bị đau khổ, giam cầm và chết vì lời mình rao giảng.
Gioan Tẩy Giả cũng đã tự ví mình là "tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường lối cho ngay thẳng" và ngài đã đóng trọn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm Phép Rửa thống hối. Tích cực vì ngài đã dám vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, không nể nang, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê.
Qua đó, Gioan Tẩy Giả đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật: sự thật về hiện tình của xã hội, sự thật về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình. Gioan tuyên bố rõ ràng ngài không phải là Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ là người được kêu gọi để đóng vai trò Tiền Hô chuẩn bị cho ngày Ðấng Cứu Tinh sẽ đến.
Mọi Kitô hữu chúng ta cũng được kêu mời để đáp lại tiếng gọi. Và mặc dù không ai có thể tái diễn vai trò của thánh Gioan Tẩy Giả, nhưng mọi Kitô hữu phải tiếp diễn sứ mệnh của ngài trong mọi hoàn cảnh mình đang sống. Ðó là sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ của R. Veritas)
SUY NIỆM 2: Vị Thánh Can Đảm Và Cương Quyết
Những trang Tin Mừng của thánh sử Marcô nói về Gioan Tẩy Giả quả thực gây ấn tượng mạnh cho những ai tìm gương một vị thánh can đảm dám nói lên sự thật, mặc dầu khi biết rằng nói lên điều mình phải nói sẽ nhận lại hậu quả không lường trước: “Vị Thánh đó là Gioan Baotixita, vị ngôn sứ kiên cường không bao giờ sợ chết”. Phúc Âm của thánh Marcô 6, 14 viết: “Vua Hêrôđê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: “Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông. “Kẻ khác nói: “Đó là ông Êlia”. Kẻ khác nữa lại nói: “Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ”. Vua Hêrôđê nghe thế liền nói: “Ông Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” (Mc 6, 14-16).
Những câu Tin Mừng của thánh Marcô chúng ta vừa nghe trên đây minh chứng: “Vua Hêrôđê đang lo âu về sự hiện diện của Chúa Giêsu và cho thấy sự tàn ác của một cường bạo Hêrôđê đã đang tâm truyền lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả vì Người dám nói lên sự thật: Vua không được lấy vợ của anh Ngài” (Mc 6, 18).
Đọc đoạn Tin Mừng 6, 17-29 của thánh Marcô trong ngày lễ kính nhớ thánh Gioan Tẩy Giả chúng ta thấy thật chua xót và mỉa mai. Cái chua xót bởi vì chỉ với một lời hứa với đứa con gái riêng của người vợ loạn luân của mình bà Hêrôđia (Mc 6, 23). Vua sẵn sàng cho lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả. Cái chua xót càng dâng cao khi Vua Hêrôđê cho thị vệ chém đứt đầu Gioan Tẩy Giả và đặt trên mâm theo lời xúi giục của bà Hêrôđia (Mc 6, 24-25). Sự việc càng mỉa mai hơn khi Vua vừa tỉnh vừa say và để hồn mình mê ly theo điệu vũ của đứa con gái của bà Hêrôđia (Mc 6, 22). Đối với chúng ta đọan Tin Mừng của thánh Marcô 6, 26 càng làm chúng ta ngao ngán vì con người dâm ô, bạo tàn và chà đạp sự thật, chà đạp công lý và vượt trên cả pháp luật của đất nước mà Hêrôđê trị vì: “Nhà Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với con gái Hêrôđia”.
Một lệnh truyền của một bạo Chúa trong lúc say sưa chè chén với bọn bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê trong ngày sinh nhật của mình (Mc 6, 21). Một lời hứa dựa trên cảm tính, hết sức thô bạo và coi thường luật pháp của mình, Hêrôđê đã làm một việc hết sức tàn nhẫn, giết chết một vị ngôn sứ vô tội để thỏa mãn thú tính đê hèn của mình. Cái chết của Gioan Tẩy Giả đã là một lời cảnh tỉnh tất cả những ai quyết định thiếu khôn ngoan, thiển cận, ích kỷ, đê hèn chỉ nghĩ tới mối lợi đê tiện của cá nhân mình mà quên đi việc lớn lao hơn: “đại nghĩa”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã chết đi nhưng sự ra đi của Ngài được nâng cao trên đài danh vọng, danh vọng của những vị ngôn sứ đích thực, những ngôn sứ dám nói lên sự thật, vì Gioan Tẩy Giả cũng đã chịu cầm tù, đau khổ trong tù ngục, và chết để làm chứng cho những lời rao giảng của mình.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã sống hoàn toàn đúng nghĩa của một vị ngôn sứ chân chính, đích thực, Ngài đã hoàn toàn đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa: “Ngài đã không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các Vua Chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã vạch mặt chỉ tên mọi người sống bê tha, tội lỗi. Lời rao giảng sám hối và phép rửa cải tà qui chánh, cải hoá nội tâm của Ngài đã nói lên một sự thực muôn đời: “Tất cả đều phải sám hối và ăn năn”. Thánh nhân đã không chùn bước trước những thế lực mạnh nhất lúc đó là Hêrôđê. Ngài đã can đảm nói lên việc Hêrôđê cướp vợ của anh mình là Philíp, nàng Hêrôđia… Sự can đảm và cương quyết của Ngài đã bị cường bạo đè bẹp bằng lời hứa thật đê hèn và thô bạo. Nhưng cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả đã minh chứng cho chân lý ngàn đời: “Sự thật sẽ giải phóng tất cả”.
Gioan Tẩy Giả đã chết đi để bảo vệ cho sự thật, minh chứng cho Chúa Giêsu: “Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6).
Gioan Tẩy Giả chỉ là vị ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, để dọn đường cho Chúa đến” (Mc 1,23) và khi Đấng Thiên Sai đến, thánh nhân xác định rõ ràng: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30). Thánh Gioan Tẩy Giả đã trở nên chứng nhân tuyệt vời và hoàn hảo nhất nơi Đức Kitô Giêsu.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu bầu cho chúng con trước ngai toà Chúa để niềm tin của chúng con được nâng cao hầu chúng con luôn sẵn sàng đáp trả lại lời mời gọi của Chúa: “làm chứng nhân cho Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời”. Amen.
Lm Nguyễn Hưng Lợi
SUY NIỆM 3: Lễ thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết
Thánh Gioan tẩy giả là người anh họ của Đức Chúa Giêsu. Thân mẫu ngài là thánh nữ Êlizabeth và thân phụ ngài là ông Zacaria. Chương đầu tiên của Tin mừng theo thánh Luca thuật lại biến cố sinh nhật tuyệt vời của thánh Gioan. Và Tin mừng theo thánh Marcô, nơi chương thứ 6, các câu 14-29, kể lại những chi tiết tàn bạo về cái chết của Gioan tẩy giả.
Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình là bà Hêrôđia. Gioan nói cho Hêrôđê biết điều ấy là sai, nhưng Hêrôđê và Hêrôđia không muốn nghe và giữ giới luật của Thiên Chúa. Họ chỉ muốn làm theo ý riêng mình. Và Gioan tẩy giả đã phải trả giá cho lòng tốt của ngài! Tuy nhiên, thánh nhân không thể hành động theo cách khác được. Ngài không im lặng trước tội lỗi và bất công. Sứ mệnh của Gioan là mời gọi người ta cải hối cuộc đời; và ngài mong muốn cho hết thảy mọi người được ơn giao hòa cùng Thiên Chúa.
Hêrôđia đã giữ mối hận thù đối với Gioan. Và khi dịp thuận tiện xảy đến, bà đã ra tay sắp đặt để Gioan bị chém đầu. Gioan đã phải chấp nhận những hậu quả nghiệt ngã cho việc giảng dạy chân lý Phúc âm.
Thánh Gioan tẩy giả rao giảng phép rửa sám hối, chuẩn bị cho người ta đón nhận Đấng Mêsia. Ngài đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giođan và được hưởng kiến niềm vui vì sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu đã khởi sự. Gioan tẩy giả đã khích lệ các môn đồ của mình đi theo Đức Chúa Giêsu. Ngài biết rằng danh Chúa phải tỏa sáng ra, còn danh mình phải lu mờ đi. Trong chương thứ nhất Phúc âm theo thánh Gioan, thánh Gioan tẩy giả nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, chỉ thức tỉnh người ta hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng mà thôi! Thánh nhân mời gọi mọi người hãy sẵn sàng để chuẩn bị đón nhận Đấng Mêsia. Sứ điệp của Gioan tẩy giả phải chăng cũng là sứ điệp của mỗi người chúng ta?
Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan tẩy giả giúp chúng ta luôn sẵn sàng để đón nhận Chúa Giêsu ngự đến trong cuộc sống của mình.
SUY NIỆM 4: Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết
Bài tường thuật của Mác-cô về cái chết của Thánh Gioan Tẩy giả rất rõ ràng và dễ hiểu.
Ta cần ghi nhớ 2 điều:
- Gioan đã chết vì can đảm nói sự thật, theo đúng chức năng ngôn sứ của mình.
- Cái chết của Gioan có nhiều nét tiên báo cái chết của Chúa Giêsu, vị ngôn sứ tiêu biểu: chết do can đảm sống sứ mạng của mình, chết do ác tâm của con người, chết trong sự thương tiếc của các môn đệ.
1. Trước hết, ta hãy nhìn vào Hêrôđê: Một con người vẫn còn lương tâm (“vua nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi nghe Gioan nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ thích nghe”), nhưng rồi lại không can đảm làm theo tiếng lương tâm của mình.
Văn hào Chateaubriand của Pháp vào thế kỷ 19 đã viết về lương tâm con người như sau: “Con sư tử sau khi giết và ăn thịt con mồi có thể nằm lăn ra ngủ, nhưng con người không thể ngủ yên sau khi giết hại một người đồng loại của mình”.
Thi hào Victor Hugo trong bài thơ “Lương tâm” đã mô tả tâm trạng vô cùng đau thương của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Cho dẫu Cain có đi đâu, cho dẫu ông có đào một huyệt sâu trong lòng đất để trú ẩn, ánh mắt lương tâm cũng không bao giờ buông tha cho ông”.
Con người có phẩm giá cao cả vì con người có lương tâm. Lương tâm chính là ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không ngừng dõi theo con người để mời gọi thôi thúc con người vươn lên. Thảm trạng đau thương nhất của cá nhân cũng như của xã hội chính là tiếng nói của lương tâm bị bóp nghẹt. Xét cho cùng, thảm trạng ấy cũng đồng lõa với việc loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Khi ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không còn nhìn xuyên qua tâm hồn con người nữa, thì đó là lúc con người đang dãy chết.
2. Ta nhìn tiếp đến bà Hêrôđia: Một người đàn bà hoàn toàn để cho dục tình lôi cuốn. Vì dục tình, bà đã loạn luân. Vì thế, khi Gioan vạch tội bà, bà không ngại tìm dịp giết Gioan để không ai còn ngăn cản được cộc sống loạn luân của mình nữa.
Bà Hêrôđia đã làm những điều mà có lẽ ai trong chúng ta cũng lên án. Thế nhưng, xét cho kỹ thì trong thiên hạ cũng chẳng thiếu gì những người như thế. Không phải chỉ là loạn luân mà còn biết bao nhiêu tội ác khác nhiều khi còn tệ hơn nữa.
Tại một xứ Hồi giáo nọ, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:
- Tâu bệ hạ, xin cho thần được chồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không truyền lại cho hậu thế được.
Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn chồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:
- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không trồng được.
Nhà vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.
Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.
Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
- Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.
Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.
3. Ta hãy nhìn nàng Salômê: một người có tài mà không có đức. Cô đã dùng tài múa nhảy của mình để đòi phần thưởng là cái đầu của một vị ngôn sứ.
Tài năng của con là những nén bạc Chúa trao để cho con sử dụng mà làm việc tốt phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Phục vụ chứ không khai thác để thỏa mãn những đam mê hay vơ vét vào cho mình. Chỉ khi nào, con người biết phục vụ thì lúc đó họ mới thấy cuộc đời của mình đậm đà ý nghĩa.
Dương Chấn, người đất Quan Tây đời nhà Hán, làm quan Thái Úy, tính tình thanh liêm, chánh trực. Khi đang làm Thứ Sử, ông có tiến dẫn Vương Mật làm Lệnh Doãn huyện Xương Ấp.
Một hôm, trời tối đi ngang qua Xương Ấp, Dương Chấn nghỉ lại đó một đêm. Vương Mật lén đem 10 lượng vàng đến để đền ơn thuở trước. Dương Chấn thấy vậy, trách Vương Mật:
- Ta biết tài ngươi, mà ngươi không biết được lòng ta.
Vương Mật cố năn nỉ:
- Đêm hôm khuya khoắt, không có một ai hay biết, ngài sợ gì?
Dương Chấn nghiệm mặt đáp:
- Sáng thì có trời đất biết, tối thì có quỷ thần soi biết, trong có ta biết, ngoài có ngươi biết. Chỗ hay biết có nhiều như vậy, sao ngươi gọi là không ai biết?
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết sống tốt đối với mọi người để cho lương tâm của chúng ta lúc nào cũng được thanh thản và bình an.
SUY NIỆM 5: Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết
Có những cái chết để lại cho đời niềm thương nhớ khôn nguôi. Có những sự ra đi làm cho con người thương nhớ, nhắc nhớ tên người chết mãi mãi không ngơi. Có những cái chết khiến người khác trề môi, phỉ nhổ. Chết là trở về nơi cũ. Chết là ra đi. Chết là trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và tác sinh. Cái chết của thánh Gioan tẩy Giả, Giáo Hội mừng kính hôm nay khiến nhân loại phải ghi nhớ, khiến nhiều người thương tiếc, nhưng cũng không khỏi nguồn rủa sự điên rồ, ngạo nghễ và dại gái, khôn nhà dại chợ của Hêrôđê, một vị vua tàn ác và thiếu tư cách làm người.
Một cái đầu, một sự trả giá vô biên
- Hêrôđê đã đi vào con đường tội lỗi. Sự dại gái, khôn nhà, dại chợ của Hêrôđê đã khiến vị vua này trở nên ngông cuồng điên dại. Sống trong tội lỗi,tâm hồn của Hêrôđê đã trở nên mù quáng, tối tăm. Ở trong bóng tối, Hêrôđê đã không còn biết phân biệt đâu là phải, đâu là trái. Ông đã hành động tùy tiện việc nước, đã ăn chơi, chè chén trác táng. Ông không còn biết nhận ra sự thật. Số là Hêrôđê đã cướp vợ của ngay người em mình. Sự loạn luân không thể tha thứ, đã làm cho Gioan Tẩy Giả phải lên tiếng quở trách nặng lời hành động vô luân của Hêrôđê và Hêrodias, vợ loạn luân của Hêrôđê. Đúng như lời Kinh Thánh nói: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng…” (Ga 1,6-7).
- Gioan không phải là ánh sáng, nhưng Gioan tới để minh chứng về ánh sáng. Vì chứng minh cho Chúa Giêsu là sự thật, là ánh sáng. Gioan đã không bao giờ chịu khuất phục trước những việc chướng tai gai mắt của con người, của xã hội đương thời và của nhân loại. Gioan đã có lần nói: “Có Đấng đến sau ông và ông không xứng đáng cởi giây dép của Ngài”. Gioan quả thực đã tới trần gian để dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Làm công tác dọn đường, Gioan đã sống đích thực sứ mạng của vị tiên tri. Ngôn sứ phải nói lên sự thật và không bao giờ sợ nguy hiểm cho dù công tác của vị ngôn sứ luôn gặp sự hiểm nguy. Để làm chứng cho Đấng cứu thế, Ngài đã nói công khai với mọi người khi họ lầm tưởng Gioan là Đức Kitô: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Gioan đã lớn lên trong sự minh chứng cho sự thật. Chống lại hành động loạn luân và dâm dật của đôi dâm phụ Hêrôđê và Hêrodias. Gioan Tẩy Giả đã phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời ngôn sứ của mình: cái chết. Hêrôdias vì không chấp nhận sự thật, không chịu nổi lời quở trách của vị tiên tri. Nên đã căm thù tìm cơ hội khử trừ vị ngôn sứ đầy uy tín. Với sự nhảy múa cuồng nhiệt nhân ngày sinh nhật, Hêrodiađê đã làm ngây ngất vua Cha. Cái đầu, vẫn là sự căm tức ngông cuồng của Hêrôdias. Đầu của vị ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã nằm gọn trong chiếc dĩa trước mặt Hêrôđê.
Lời chứng đáng giá nhất của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả
- Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan Tẩy Giả vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị ngôn sứ. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời chứng của mình. Gioan Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu phải trả là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị ngôn sứ sau cái chết chịu đóng đinh nơi thập giá đối với người Do Thái lúc đó. Gioan Tẩy Giả đã tự xóa nhòa mình để cho Đấng cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại. Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả hoàn toàn lời mời gọi của Thiên Chúa: “Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”.
(Lm Nguyễn Hưng Lợi)
SUY NIỆM 6: Đầu Gioan Tẩy giả
Suy niệm :
Ngày sinh nhật của một người lại dẫn đến cái chết của một người khác.
Nếu sự kiện xảy ra đúng như truyền thống mà Máccô nhận được và ghi lại
thì thật là khủng khiếp.
Ai có thể tưởng tượng nổi chuyện trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê,
một cô bé dám bưng mâm, trên có cái đầu vừa bị chặt của một người,
máu còn chảy ròng ròng, mắt đang nhắm hay mở?
Cô bưng và vui vẻ trao cho mẹ cô.
Mẹ cô sẽ bưng và trao cho ai cái đầu của Gioan, người mà bà căm ghét?
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho ta một số kinh nghiệm của Hêrôđê.
Trước hết là kinh nghiệm bị giằng co giữa cái tốt và cái xấu.
Hêrôđê Antipas đã bắt ông Gioan tẩy giả và xiềng ông trong ngục.
Lý do vì Gioan đã cản trở cuộc hôn nhân sai trái của ông với Hêrôđia.
Dầu vậy Hêrôđê vẫn biết Gioan là người công chính thánh thiện,
vẫn sợ ông và che chở ông khỏi sự trả thù của Hêrôđia (cc. 19-20).
Hêrôđê còn lương tâm khi ông thích nghe Gioan nói, dù rất bối rối khi nghe.
Kế đến là kinh nghiệm về sự thiếu chín chắn của Hêrôđê khi thề hứa.
Cái gì đã xui khiến ông nói câu dại dột này với cô bé Salômê:
“Con xin gì ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23)?
Bầu khí cuồng nhiệt của bữa tiệc sinh nhật, hay điệu vũ đẹp mê hồn,
hay rượu đã ngà ngà say, hay muốn chứng tỏ mình đầy quyền lực?
Hay sự cộng hưởng của mọi yếu tố trên?
Có những lời nói vội vã mà sau đó ta phải hối tiếc và trả giá.
Cuối cùng là kinh nghiệm về sự mất tự do trước khi quyết định.
Khi cô bé xin cái đầu của Gioan, Hêrôđê hẳn đã sửng sốt ngỡ ngàng.
Ông buồn hết sức vì mình đã lỡ thề hứa như vậy (c. 26).
Ông có thể rút lại lời đã nói không? Dĩ nhiên là có.
Nhưng nỗi sợ đã khiến ông không dám làm.
Sợ từ chối cô bé, làm cho cô buồn và mẹ cô nổi giận,
sợ bị mang tiếng là nuốt lời trước mặt bá quan văn võ.
Nói chung ông sợ mất danh dự của mình, mất thiện cảm của người khác.
Bởi vậy, dù Hêrôđê thấy việc giết Gioan là điều sai trái,
ông vẫn không dám xin rút lại lời thề thiếu suy xét của mình.
Cần can đảm để giữ lời hứa, nhưng có khi cần can đảm hơn để không giữ.
Danh dự hão của Hêrôđê được mua bằng máu của một vị ngôn sứ lớn.
Hêrôđê đã can dự vào cái chết của Gioan.
Ông chịu áp lực từ khách dự tiệc và mẹ con Hêrôđia.
Philatô đã can dự vào cái chết của Đức Giêsu.
Ông này chịu áp lực từ dân chúng và các thượng tế.
Cả hai ông đều không có tự do, không có can đảm để tha cho người vô tội.
Cả hai ông đều nghĩ đến mình, cái ghế của mình, danh dự của mình.
Quyền lực được sử dụng như bạo lực, khiến người lành phải chết oan.
Chúng ta xin cho mình luôn có tự do, để mọi quyết định phù hợp với ý Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 7: Thánh GIOAN TẨY GIẢ bị trảm quyết
(tonggiaophansaigon.com)
1. Gương thánh nhân
Để dọn đường cho Chúa Giêsu đến cứu chuộc loài người, Thiên Chúa đã cho bà Ysave son sẻ được sinh con. Người con đó là Gioan Tẩy giả. Lớn lên, ngài vào sống khổ hạnh trong sa mạc : Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. (Mt. 3,4).
Năm 29 tuổi, thánh nhân đến sông Giođăng, rao giảng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và lãnh phép rửa sám hối của Ngài, để dọn lòng xứng đáng đón rước Chúa Cứu thế. Nhiều người đã đến lãnh nhận phép rửa thống hối, và xin ngài chỉ dạy cách thế để hoán cải đời sống. Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu đi rao giảng Nước Trời, cũng đến nhờ Ngài làm phép rửa, để được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu Thế, và Chúa Cha công khai nhìn nhận là Con Yêu Dấu.
Thời điểm Gioan Tẩy Giả làm phép rửa sám hối bên bờ sông Giorđan trùng hợp với lúc Hêrôđê Antipa làm quận vương cai trị xứ Galilê. Cuộc sống của ông có nhiều lầm lỗi nhưng lầm lỗi lớn nhất mà ai cũng biết đó là ông ngang nhiên lấy vợ của anh làm vợ của mình. Người đàn bà xấu nết đó là bà Hêrôđia. Thấy vậy, Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng công khai cảnh cáo và ngăn cản. Việc đó đã đến tai Hêrôđia làm cho bà hết sức tức giận. Bà đã yêu cầu Hêrôđê bắt giam Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả đã bị bắt giam nhưng bà ta vẫn chưa vừa lòng. Biết Gioan Tẩy Giả là một con người không thể mua chuộc cho nên bà luôn tìm dịp để giết ngài. Và đây là dịp. Chúng ta hãy nghe thánh sử Mátcô thuật lại việc làm nầy của Hêrôđia :
Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrođê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê. Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: - Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.
Vua lại còn thề: - Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước, cũng được.
Cô gái đi ra hỏi mẹ » - Con nên xin gì đây?
Mẹ cô nói: - Đầu Gioan Tẩy giả. Lập tức cô vội trở vào, đến bên nhà vua và xin rằng: - Con muôn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy giả, đặt trên mâm.
Nhà vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dư tiệc, nên chẳng muốn thất hứa với cô. Lập tức vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm, trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ". (Mc. 6,2128).
Thánh Hiêrônimô còn cho chúng ta biết thêm một chi tiết thú vị này: Sau khi nhận được đầu của Gioan Tẩy Giả, Hêrođia đã lấy giao cạy miệng ra và đâm một nhát thấu qua cái lưỡi đã dám nói lên những lời xúc phạm đến bà.
Thánh Linh mục Bêđa khả kính đã giải thích ý nghĩa cái chết của ngài như sau: “Đấng thánh loan báo Chúa sinh ra, rao giảng và chịu chết, đã tỏ cho chúng ta thấy một sức mạnh xứng đáng được Chúa nhìn. Như lời Kinh Thánh chép: “Theo nhãn giới người phàm, thì người đã gặp nhiều đau khổ, nhưng hy vọng của người đã tràn đầy bất tử.”
2. Bài học
Gioan đã chết vì can đảm nói lên sự thật. Đây là tấm gương sáng ngời cho những ai tin theo Chúa.
Ngày 27/04/1945, quân Đức Quốc Xã thất trận, phải rút quân ở Italia về biên giới nước Áo. Trên đường rút quân, họ đã bắn phá nhiều làng mạc để trả thù quân kháng chiến Italia đã cố tình tìm cách cản trở đường rút rui của họ. Trong tình cảnh này, Linh mục Decande, một Cha sở nhân lành vì muốn cứu dân làng Fiatsa gần thành phố Vêrôna khỏi bị quân Đức tàn sát, đã đích thân đến gặp viên quan chỉ huy đoàn quân Đức để van nài ông đừng bắt giết và tàn sát dân làng vô tội. Bị quẫn trí vì sự thất trận.Viên sỹ quan giận dữ ra lệnh bắt giam Cha Sở. Ông quát lên với Ngài: - Mày phải bị xử bắn và chết thay cho những tên kháng chiến phá hoại mà chúng tao không bắt được. Mày phải đền tội thay cho những kẻ khác!
Nói rồi, viên sỹ quan ra lệnh cho toán quân hành quyết sẵn sàng. Vị Linh mục bị trói, đứng bất động chờ loạt đạn của tiểu đội hành quyết. Bỗng nhiên từ hàng quân đang chĩa súng vào ngài đợi lệnh để nổ súng, một quân nhân bước ra khỏi hàng, tiến đến trước mặt ngài và nghiêm chỉnh chào. Rồi anh quay lại nói với vị chỉ huy của mình: - Tôi là tín hữu Công Giáo, không bao giờ tôi lại bắn vào vị Linh mục của Chúa.
Viên sỹ quan tái mặt. Ông ra lệnh trói luôn người lính can đảm kia bên cạnh vị Linh mục. Một vài phút sau đó, một loạt đạn nổ vang, hai thây người ngã gục, toán lính kéo hai xác người vùi xuống một hố bom gần đó. Dân làng Fiatsa không biết người lính Đức Công Giáo đó tên là gì, họ chỉ tìm thấy trên thi hài anh một sâu chuỗi mân côi.
Nghĩa cử của người lính Đức trên đây thật là can đảm! Anh đã nhận định được ngay điều phải làm khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn: Một đàng là bất tuân thượng lệnh, từ chối bắn vào người vô tội; một đàng là tuân lệnh thượng cấp để tham gia vào việc sát nhân. Anh đã biết chọn lựa đúng nguyên tắc: cương quyết tránh xa mọi tội ác dù có phải hy sinh cả tính mạng mình!
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho thánh Gioan Tẩy giả báo trước mầu nhiệm Con Chúa sinh ra và chịu chết
Xưa thánh nhân đã anh dũng hy sinh vì chân lý và chính đạo thế nào, thì nay xin Chúa cũng cho chúng con biết xả thân làm chứng cho Tin Mừng như vậy. Amen.
SUY NIỆM 8: Thánh GIOAN TẨY GIẢ bị trảm quyết
(http://www.giaophanhunghoa.org // Én Nhỏ)
Trong Tin Mừng hôm nay, vua Hêrôđê mới nghe thấy danh tiếng của Đức Giêsu nổi lên thì đã hoang mang lo sợ. Có tật giật mình, vua nghe thì sợ hãi cho rằng ông Gioan mà ông cho chém đầu đã sống lại để bắt tội vua chăng? Não trạng của người Do Thái bấy giờ cho rằng người sống lại có khả năng tuyệt vời, có quyền làm phép lạ. Vua sợ là phải, vì đã nhúng tay vào vụ giết người oan nghiệt trong Tin Mừng hôm nay. Bởi sự thường nếu sai một li đi một dặm, ông thỏa hiệp với thú vui trong tiệc tùng, vì trót nhẹ dạ thề hứa nên sợ mất mặt với quan khách. Một cô gái nhảy được tán thưởng và thế là số phận vị Tẩy Giả bị quyết định. Tội này kéo theo tội khác, từ chỗ ngang nhiên cướp vợ anh mình, gây ra oán hận hờn căm nơi bà Hêrôđia với ông Gioan Tẩy Giả vì bị “cản mũi kỳ đà», nên đã gây nên cái chết không án cho người vô tội. Đó là hậu quả gây ra nỗi sợ hãi bất an của vua. Ông bị ám ảnh bởi cơn ác mộng về người công chính đã bị ông sát hại. Hôm nay, ông mới chỉ nghe đồn chứ chưa gặp Ngài mà đã run sợ. Sau này ông có cơ hội gặp Ngài mà cũng chẳng đổi thay được chuyện gì. “Vua Hêrôđê thấy Đức Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả” (Lc 23,8-10). Ông muốn gặp vì tò mò, không thiện chí nên không giải quyết được gì và thêm thất vọng.
Tin Mừng hôm nay là một thảm kịch diễn ra trong một bữa tiệc, kết thúc thật là bi thảm với cái chết oan nghiệt của Gioan Tẩy Giả. Ông đã bị bỏ tù vì dám quở trách Hêrôđê Antipa về tội ngoại tình lộ liễu. Cuối cùng ông đã phải chết cách bi thảm vì sự thật. Trình thuật này khiến ta nghĩ đến số phận đang chờ đón Đức Giêsu, báo trước cho thấy cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc an táng sau này của chính Ngài. Ông Gioan là chính hình ảnh phản ánh Đức Giêsu, đến độ mới chỉ nghe danh tiếng Đức Giêsu, vua Hêrôđê đã bị ám ảnh, mường tượng đó chính là hiện thân của Gioan Tẩy Giả trỗi dậy nên mới quyền năng như thế.
Cả cuộc đời và cả cái chết của ông Gioan đều báo trước cho sứ mạng Tiền Hô, tiền hô cả khi sống và cả lúc chết cho Đấng Cứu Thế. Cái chết của vị Ngôn sứ cuối cùng nói lên số phận của các Ngôn sứ là thế đó. Mở đầu và kết thúc đoạn Tin Mừng này đều nhắc tới Đức Giêsu, cho thấy cái chết của ông Gioan như mối liên hệ, là báo trước cho cái chết của Đức Giêsu. “Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giêsu.”
Gioan Tẩy Giả phải chết, Đức Giêsu cũng phải lãnh án tử, nhưng trổi vượt, vì chính Người đã sống lại từ cõi chết.
Ngày nay chúng con cũng được đồng hóa, nên một với Chúa, giống như Chúa. Xin cho chúng con can đảm sống Đức Tin, trung thành với chân lý như Gioan, để chúng con dám hy sinh cả mạng sống mình mà giúp anh em đến với Chúa, tin nhận Chúa và làm chứng cho sự thật. Amen.
SUY NIỆM 9: Thánh GIOAN TẨY GIẢ bị trảm quyết
(http://fmavtn.org //Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Nghe danh tiếng của Đức Giê-su, nhất là về các phép lạ Người thực hiện, Vua Hê-rô-đê cho rằng Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết trỗi dậy: Ông Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy! (Mc 6, 16)
Đó là một sai lầm; nhưng đối với chúng ta, sai lầm này lại mang nhiều ý nghĩa trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và đã loan báo cho chúng ta mầu nhiệm Vượt Qua rồi.
Vua Hê-rô-đê loại trừ một Gioan Tẩy Giả, thì lại có một Gioan Tẩy Giả khác xuất hiện. Như thế, Sự Thiện, Ánh Sáng và Chân Lý không thể bị loại trừ bởi bạo lực, nghĩa là bởi Sự dữ, Bóng Tối và Dối Trá.
Vua Hê-rô-đê làm điều dữ và ông bị dày vò bởi điều dữ, cái nhìn của ông bị chi phối tất yếu bởi điều dữ ông đã làm. Như thế, không phải Sự Thiện dùng phương tiện của Sự Dữ chống lại Sự Dữ, nhưng Sự Dữ sẽ tự hủy diệt Sự Dữ, như lời Thánh Vịnh loan báo : « Cho bọn ác nhân mắc bẫy chính chúng gài, còn con đây, thì được thoát khỏi » (Tv 141, 10).
Đức Giê-su không phải là Gioan Tẩy Giả sống lại, nhưng Ngài là Đấng ông loan báo, Ngài là niềm hi vọng của ông, là sự sống lại của ông. Thật vậy, nơi mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giê-su sẽ bị giết chết cách bất công như thánh Gioan, nhưng Ngài mạnh hơn sự chết, Ngài sẽ phục sinh và làm cho mọi người phục sinh, trong đó có thánh Gioan.
1. Thánh Gioan, “Người đi trước mặt Chúa” (Lc 1, 17 và 76)
Cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả được Tin Mừng Mác-cô, và hai Tin Mừng nhất lãm còn lại cũng vậy, tường thuật lại trong một bối cảnh đặc biệt, đó là những thắc mắc liên quan đến Đức Giêsu: (x. Mc 6, 16). Và để làm sáng tỏ những thắc mắc này, tác giả Tin Mừng đã kể lại thật chi tiết cái chết của Gioan. Như thế, cuộc đời của Gioan gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu biết bao. Vì thế, trong lời nguyện nhập lễ, chúng ta thưa với Thiên Chúa rằng thánh Gioan là người đi trước loan báo Đức Kitô cả trong cách sinh ra lẫn trong cách chết đi. Thậy vậy, khi vừa được sinh ra, bố Giacaria của Gioan đã nói rằng: Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người. (Lc 1, 76)
Và với bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta “chứng kiến” thánh Gioan hoàn tất thật trọn vẹn sứ mạng của mình, vì ông không chỉ đi trước chuẩn bị cho những lối bước của Đức Chúa bằng lời rao giảng và phép rửa, nhưng bằng cả cái chết nữa, và xét cho cùng, bằng cả cách mình được sinh ra nữa.
Chúng ta cũng vậy, bởi tình yêu và ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, cũng gắn liền với Đức Giêsu, vấn đề là chúng ta có nhận ra hay không.
2. Thánh Gioan bị trảm quyết
Như thế, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay rất mạnh mẽ, nhưng cũng thật kín đáo: thánh Gioan chuẩn bị đường đi cho Đức Giê-su một cách hoàn hảo bằng chính cái chết của mình, đúng hơn là bằng chính cách mình bị giết chết.
Thật vậy, bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta thật chi tiết bối cảnh dẫn đến cái chết của thánh Gioan, với sự tham dự của rất nhiều người, có thể nói của cả một vương quốc. Chúng ta có thể đọc lại từ từ và ghi lại những suy nghĩ và tâm tình mà trình thuật gợi ra cho chúng ta. Thánh Gioan bất động và im lặng trong ngục tù, nhưng lại làm bộc lộ ra những điều sâu kín nhất của con người: vô độ, sợ chân lí, ghen ghét, mưu đồ, bạo lực, phi nhân và có thể nói, thú tính. Những điều này thường được che đậy bằng những vỏ bọc vui vẻ, quảng đại, quí phái, danh dự…
Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su và nhất cái chết trên Thập Giá của Ngài còn có sức mạnh mặc khải sự dữ triệt để hơn và tuyệt đối hơn nữa, bởi vì Người là Con Chiên Vô Tội. Trong mầu nhiệm Vượt Qua, đối diện với Người sẽ là Sự Dữ và Sự Chết tuyệt đối, bởi lẽ Người là Sự Thiện và Sự Sống tuyệt đối. Người tự nguyện trở thành nạn nhân của Sự Dữ để hủy diệt Sự Dữ và chữa lành chúng ta khỏi Sự Dữ ngay hôm nay.
3. Phúc của thánh Gioan
Tuy nhiên, khi nghe hay đọc trình thuật này, chúng ta có thể tự hỏi một cách tự phát: vậy đâu là phúc của thánh Gioan, được loan báo khi mới sinh ra, khi mà ông đã cho đi tất cả, dâng hiến tất cả và cuối cùng, đã phải chịu chết như thế? Thánh Gioan loan báo Đức Kitô trong sự sinh ra, trong cuộc sống và trong cái chết, thì phúc của thánh Gioan, chính là trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Ki-tô. Và Tin Mừng đã kín đáo nói cho chúng ta điều này: sau khi bị giết chết, có kẻ nói về Đức Giê-su: “Đó là Gioan Tẩy Giả, từ cõi chết chỗi dậy” (c. 14). Như thế, phúc của thánh Gio-an là trở nên một với Đức Ki-tô trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người.
Nếu là như thế, phúc của thánh Gioan, cũng là phúc của mọi người Kitô hữu chúng ta, những người sống đời sống hôn nhân, cũng như những người sống đời dâng hiến, đó là Đức Giêsu Kitô trở nên một với chúng ta, nơi mầu nhiệm Nhập Thể và nơi mầu nhiệm Thánh Thể, để cho chúng ta có thể trở nên một với Ngài trong hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi, để cùng với Người đi vào Cõi Hằng Sống, là Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
SUY NIỆM 10: Sự bất tử của thánh nhân
Những bậc vĩ nhân thường được nhân gian biến thành bất tử. Người Do thái tin rằng vị tiên tri vĩ đại nhất của họ là Êlia đã không chết, nhưng được cất nhắc về Trời; khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, người ta lại tin rằng ngài chính là hiện thân của Êlia: rồi đến lượt Gioan Tẩy Giả bị giết chết, người ta lại cho rằng ngài đang sống lại trong con người Chúa Giêsu.
Có lẽ để xóa tan những lời đồn đoán như thế, thánh sử Marcô đã kể lại từng chi tiết cuộc xử trảm Gioan Tẩy Giả, cũng như ghi lại việc chôn cất thánh nhân. Gioan Tẩy Giả đã thực sự chết và ngài đã không bao giờ sống lại, cũng chẳng được cất nhắc lên trời như Êlia.
Gioan Tẩy Giả là nạn nhân của bất công. Có bất công khi người ta đặt chính trị lên trên những giá trị khác của cuộc sống, như tinh thần và niềm tin; có bất công khi người ta hành động theo bản năng hơn là theo tinh thần. Vua Hêrôđê lẫn nàng Hêrôđia đều đã hành động theo lối ấy. Hêrôđia sống bất chấp luân thường đạo lý, còn Hêrôđê thì cho dù vẫn sáng suốt để phân biệt được điều ngay với lẽ trái, nhưng lại chọn sống theo bản năng hơn là lý trí.
Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần của Gioan Tẩy Giả, của các Tông Ðồ, của các Thánh Tử Ðạo, đã sống mãi trong Giáo Hội và trở thành giây liên kết mọi Kitô hữu. Ðiều này luôn được Giáo Hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt các thánh được đặt trên bàn thờ. Tập san Giáo Hội Á Châu do Hội Thừa Sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục:
"Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo Hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi giây liên kết với Giáo Hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi giây liên kết hữu hình ấy. Ðây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hiệp với Người mãi mãi".
Chúng ta cũng hãy hiên ngang nói lên niềm tin và lòng trung thành với Chúa Kitô. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta cũng hãy thốt lên: "Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 11: Tấn tuồng của con người
Vua Hê-rô-đê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: “Đó là ông Gia-an Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” Kẻ khác nói: “Đó là ông Ê-li-a.” Kẻ khác nữa nói: “Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ.” Vua Hê-rô-đê nghe thế, liền nói: “Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” (Mc. 6, 14-16)
Cái chết của thánh Gioan Baotixita là một trong những trang bi thảm nhất của Phúc âm vì những hoàn cảnh éo le đã xui nên. Những tâm tình hắc ám nhất của nhân loại đều thấy cùng gặp gỡ nhau ở đây: một người có ý định sát nhân, đúng hơn lại muốn để cho người khác can tội vì muốn bảo toàn danh dự mình hoặc khỏi mất thanh danh đối với những khách dự tiệc có lẽ đang say xỉn; một cô gái nhảy đùa giỡn với mạng sống con người với tư thế ung dung như cô đang chơi trò giật dây con rối vậy. Đó là một trong những trang bi đát nhất của tất cả tấn tuồng của con người từ đó để lộ ra lẫn lộn tất cả sự hèn nhát, nhân nhượng, mưu mô, thù oán, say sưa và tàn bạo hầu làm nên cái mà Mauriac gọi là uẩn khúc nham hiểm của loài rắn độc.
Tính nhu nhược của Hêrôđê là đầu mối cho tất cả sự việc này. Từ khi nghe lời Hêrôđia xúi xiểm tống giam Gioan Tẩy giả cho đến khi bị mắc kẹt trước các khách dự tiệc, không thể rút lại mà không phơi trần một sự yếu hèn hơn, Hêrôđê sẽ vẫn là một con người bị người khác vận dụng và sẵn sàng nhượng bộ tất cả với điều kiện là “giữ được thể diện” cho mình. Ông sẽ chẳng coi chi những tâm tình vị nể và cảm phục ông Gioan, người mà tự thâm tâm ông vẫn thích nghe.
Sau đó ít lâu, một tấn tuồng khác gần tương tự sẽ còn làm nổi bật tính nhu nhược này của con người. Tại pháp đình, trước đám đông người Do thái bị các trưởng tế xúi giục hò hét, Philatô sẽ rửa tay tỏ ra vô can trong cái chết của Đức Kitô, mặc dầu ông không tìm được chứng cớ nào để kết án tử Người.
Thiết lập một danh sách liệt kê những biến cố đại loại như trên, thiết tưởng không phải là chuyện khó làm. Những vụ giết người và phản bội thường có nguồn gốc là một lô những nhu nhược, hèn nhát, yên lặng đắc tội…Những người có quyền, có địa vị mà nhu nhược thường bao che cho những kẻ quỷ quyệt để chúng hưởng lợi. Quả thực, ít có những người có sự thật và biết tôn trọng sự thật đến cùng, một sự thật ngoan cường.
Còn chúng ta, chính chúng ta thường tỏ ra khôn khéo hơn trong vai những người mềm yếu và nhu nhược khi chúng ta diễn lại tấn tuồng trên đây của con người.
SUY NIỆM 12: SỐ PHẬN CỦA NGÔN SỨ (Mc 6, 14 – 29)
Có những cái chết đã đi vào bất tử, trường tồn, bởi nó đã trở thành biểu tượng cho một tinh thần bất khuất. Vì thế, muôn thế hệ sẽ còn tưởng nhớ chính nhân.
Cái chết đó chính là cái chết của Gioan Tẩy Giả.
Nếu các Ngôn Sứ là những người thay mặt Chúa, thông truyền sứ điệp của Thiên Chúa cho dân; sứ mệnh của các ngài chính là việc dạy dỗ, khuyên răn dân đi theo đường lối của Thiên Chúa để được sống; đồng thời, lên tiếng tố cáo những việc làm sai trái mà dân đang thực hiện. Mặt khác, các ngài cũng không quên một nhiệm vụ quan trọng, đó là nhắc dân từ bỏ con đường bất chính gian tà để trở về với Thiên Chúa. Chính vì thế, các ngài thường bị dân chúng giết chết để khỏi trướng tai gai mắt họ.
Thật vậy, Gioan cũng đã chung số phận khi lên tiếng tố cáo cuộc sống loạn luân của vua Hêrôđê khi ông ta bỏ vợ để cướp vợ của anh cùng cha khác mẹ với mình. Cuộc sống của vua đã trở thành đồi bại, vô luân, và nhất là gây nên một gương mù lớn trong dân.
Khi Gioan tố cáo Hêrôđê, thì đồng nghĩa với việc ông lên tiếng phản đối cả một hệ thống lãnh đạo suy đồi khi cùng với vua hưởng lạc trong lúc chứng kiến con gái bà Hêrôđia múa hát để chiêu mộ lòng vua!
Sự thật thì mất lòng! Gian dối lên ngôi! Tội lỗi hoành hành! Và, nhất là một con người nhu nhược, không có lập trường như Hêrôđê, Gioan đã bị giết dưới lưỡi gươm của tội lỗi!
Tiếp nối sứ vụ của Gioan, và nhất là thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, suốt hơn 2.000 năm nay, Giáo Hội không ngừng lên tiếng cho công lý, sự thật, bảo vệ những người nghèo, không có tiếng nói..., thế nên nhiều chứng nhân anh dũng đã can đảm nói không với ái ác, bất nhân và vô luân. Họ đã: "Vâng lời Thiên Chúa, hơn là vâng lời con người". Vì thế, biết bao nhiêu máu đào đã đổ ra và những đống xương “chất đầy thành núi” qua các cuộc tử đạo để gióng lên tiếng nói của lương tâm, hầu tố cáo những thói vô luân của con người, nhất là những vị lãnh đạo bất nhân và ham dục...
Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên ngôn sứ của Đức Kitô, trở nên người loan báo chân lý...
Tuy nhiên, theo bản tính tự nhiên, chúng ta khó có thể vượt qua được những toan tính thiệt hơn của con người, nên thay vì làm chứng cho Chúa, chúng ta lại phản chứng khi trở nên như Hêrôđê, ghen tỵ, oán ghét, và tàn độc.
Những lúc như thế, ấy là lúc chúng ta chưa dám sống công chính và đi theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm, trung thành với sứ vụ, đồng thời, xin cũng ban cho chúng con lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ cho anh chị em chúng con, khi bị thù ghét, bỏ vạ, cáo gian. Amen.
Ngọc Biển SSP
28/08 Mồ mả tô vôi
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Mồ mả tô vôi.
Thứ tư tuần 21 thường niên – Thánh Âu-tinh, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri".
* Thánh nhân sinh năm 354 tại Ta-gát, châu Phi. Người đã trải qua giai đoạn thanh xuân đầy náo động cả về đạo lý lẫn cách sống cho tới khi được thánh Am-rô-xi-ô thanh tẩy cho năm 387. Người trở về quê hương và sống một cuộc đời khắc khổ. Rồi người được chọn làm giám mục giáo phận Híp-pôn.
Trong suốt ba mươi bốn năm làm giám mục, người đã tận tụy chăm sóc đoàn chiên. Nhưng đáng kể nhất là tư tưởng và chứng tá đời sống của người đã lan tỏa.
Người đã sống một cuộc đời hoàn toàn lo tìm kiếm Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh. Đối với người, Hội Thánh là cộng đoàn tín hữu Híp-pôn và đồng thời cũng là Thân Thể Chúa Kitô trải rộng khắp thế giới. Người qua đời năm 430.
Lời Chúa: Mt 23, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác.
Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: "Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên tri". Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kết án tội giả hình
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại hai lời kết án nữa của Chúa Giêsu chống lại các Luật sĩ và Biệt phái.
Với lời kết án thứ sáu, Chúa Giêsu ví các Luật sĩ và Biệt phái như những mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Tại Palestina, người dân có thói quen quét vôi trắng các mồ mả, nhất là vào dịp lễ Vượt Qua, để người ta có thể nhận ra và tránh xa khỏi bị nhơ uế ngăn trở cho việc phụng tự. Vẻ đẹp bên ngoài của các mồ mả che dấu thực tại ghê tởm bên trong. Cũng vậy, các Luật sĩ và Biệt phái bên ngoài xem ra là những người công chính, nhưng bên trong thì đầy sự giả hình và tội ác; việc họ giữ luật cách nghiêm nhặt chỉ là tấm màn che đậy một đời sống tương phản với những điểm cốt yếu của Lề Luật Thiên Chúa, đó là sự công bình, lòng bác ái và trung tín.
Trong lời kết án thứ bẩy, Chúa Giêsu tố cáo sự giả hình của các Luật sĩ và Biệt phái: họ xây mồ cho các tiên tri và sửa sang phần mộ những kẻ mà cha ông họ đã sát hại; họ than trách tội ác của cha ông họ trong quá khứ và tự phụ rằng nếu sống vào thời tổ tiên, họ sẽ không hành động như thế; nhưng họ quên rằng họ là con cháu của những kẻ đã sát hại các tiên tri, và giờ đây họ đang đi vào con đường đó bằng việc mưu hại Ngài.
Chúa Giêsu cũng chờ đợi nơi mỗi người chúng ta những thành quả tốt đẹp của việc cải hóa tâm hồn, nếu không, chúng ta cũng sẽ phải lãnh nhận số phận như các Luật sĩ và Biệt phái: cây khô sẽ bị chặt đi và bị ném vào lửa đời đời. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự giả hình, khỏi tính ích kỷ và tự mãn. Xin cho chúng ta khiêm tốn nhận mình tội lỗi và thành tâm trở về với Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Xét lại đời sống mình
Lời trách của Chúa Giêsu gọi các văn sĩ và những người biệt phái Pharisiêu sống giả hình như những mả tô vôi thật là rõ ràng và thức tỉnh chúng ta hãy xét lại đời sống của mình. Tục lệ của dân Do Thái Palestine thời Chúa Giêsu là sơn mồ mả bằng màu vôi trắng để cho người khác dù ở xa cũng có thể nhận ra dễ dàng và dừng lại đàng xa để khỏi bị nhiễm ô uế.
Hình ảnh cái mả tô vôi trắng làm cho mỗi người chúng ta hiểu sâu xa hơn về sự giả hình. Giả hình là một thái độ gán cho mình điều tốt mà thật ra mình không có hay không làm. Bên ngoài chúng ta chứng tỏ mình là người tuân giữ luật Chúa nhưng bên trong tâm hồn thì lại tích chứa những điều xấu xa không như là những mệnh lệnh của Chúa đòi hỏi.
Nhìn về kinh nghiệm sống của mình, chúng ta có thể cảm nghiệm được tầm mức của những lời kết án của Chúa không phải như là chuyện đã qua của thời quá khứ nhưng có liên quan đến mỗi người chúng ta hôm nay, chúng ta có che giấu những tội lỗi tật xấu của mình bằng những tấm kịch cho qua lúc. Chỉ có phương thế duy nhất để tránh những lời kết án trên của Chúa là sự thật lòng ăn năn trở lại, là khiêm tốn và can đảm bỏ đi những mặt nạ mà chúng ta quen mang từ trước đến nay. Chúng ta đừng trở thành những người chỉ có danh hiệu là Kitô mà kỳ thực là những con người xa lìa Chúa. Chúng ta đừng sống theo ảo tưởng của những lời khen tặng của kẻ khác mà tưởng mình là kẻ chi chi, nhưng hãy ý thức rõ về thân phận tội lỗi của mình và khiêm tốn xin Chúa thứ tha.
Lạy Cha,
Chúng con chúc tụng Cha, Ðấng ngự trên trời, vì đã giải thoát chúng con khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết nhờ qua cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Con Cha. Xin Cha hãy đổ tràn ân sủng tình yêu của Cha trong tâm hồn chúng con ngõ hầu chúng con biết đáp lại những ơn soi sáng của Cha một cách chân thành.
Lạy Cha, xin giải thoát chúng con khỏi sự giả hình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Mồ mả quét vôi
Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.” (Mt. 23, 27)
Một lần nữa, Đức Giêsu tiếp tục nhấn mạnh cái hố sâu giữa thực chất của hữu thể và cái ảo ảnh. Tư tưởng này được soi sáng bằng một hình ảnh khá kinh khủng.
Hằng năm, trước mấy ngày lễ Vượt qua, người Do-thái quét vôi những mồ mả của họ. Chính là để thấy rất rõ và tránh động đến mồ mả sợ bị dơ, lỗi phạm đến luật trong sạch. Quét vôi trắng phản chiếu ánh mặt trời lấp loáng không che giấu được đống hôi thối bên trong nấm mồ.
Thánh ý Thiên Chúa
Mồ mả, đó là hình ảnh biệt phái, cũng là hình hài chúng ta. Những ảo ảnh bên ngoài về công bình không thể che lấp sự độc ác bên trong. Tất cả cái hiện thấy bên ngoài chỉ là lừa gạt, giả hình người ta có thể tự lừa dối mình, mình sống theo thánh ý Thiên Chúa nếu chỉ lo lắng theo nghĩa đen, thay vì sống sâu sa tận thâm tâm tinh thần.
Thiên Chúa làm sống lại rất nhiều ngôn sứ, nhiều người công chính giữa lòng dân tộc. Ngài không ngừng gửi các ông đến, trao cho các ông loan báo sứ điệp của Ngài cho đến tận ngày nay nữa. Nhưng người ta lờ đi, liệng bỏ đi.
Luôn luôn có giả hình lộ dạng qua những hành động của biệt phái và của chúng ta. Kẻ giả hình cứ tưởng mình tốt hơn cha ông mình, tưởng mình là người công chính khi sơn phết mồ mả người xưa. Đó là sự ngộ nhận. Một ngộ nhận đáng sợ về tình trạng riêng của mình! Ta có thể tự hỏi những ảo tưởng đó không có ở các Kitô hữu chăng? Nếu nhìn lại những trang sử đen tối của Giáo Hội, Kitô hữu chúng ta chẳng khá hơn gì cha ông mình.
Cũng thật đáng hổ thẹn khi nhìn lại trang sử Giáo Hội của chúng ta hiện nay và cũng đáng hổ thẹn khi lên án tất cả mọi cái xảy ra vì lấy cớ giả dối là phải trung thành với truyền thống.
Cần phải đặt lại lịch sử và chiêm ngắm các vị thánh đã sống trong thời buổi bi thảm của lịch sử, sẽ thấy được các Ngài đã phải hoàn toàn vâng phục những quyền bính yếu đuối đến chừng nào.
JM
SUY NIỆM 4: ĐỪNG GIẢ DỐI (Mt 23, 27-32)
Tại các khu đô thị lớn, chúng ta vẫn thấy có những nghĩa trang nằm ngay tại những trung tâm của các thành phố. Những nhà hữu trách đã tìm mọi cách, dù tốn công, tốn của để quy hoạch và biến nó thành công viên nghĩa trang, trông rất tráng lệ!
Những mồ mả ở đây được thiết kế nhiều mẫu khác nhau, trông thật bắt mắt. Đến nỗi người dân trung quanh có thể vào đó để đi dạo.
Việc làm đẹp những ngôi mộ cho người quá cố quả là điều đáng trân quý. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là: bên trong các ngôi mộ đó, dù là của người nghèo hay giàu; có chức quyền hay là thường dân; trẻ em hay người già, tất cả đều chỉ là một nắm xương ghê rợn mà thôi!
Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu khiển trách những người Pharisêu: họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài trông rất đẹp mắt, nhưng bên trong thì toàn xương người chết thối tha, nhơ nhớp. Qua đó, Ngài tố cáo họ vì lối sống giả hình.
Bởi vì, họ tự cho mình là công chính; là “con cưng” của Thiên Chúa. Thật tội nghiệp khi họ cứ cố gắng tô trát cái vỏ bên ngoài để che dấu tâm địa xấu xa bên trong! Tuy nhiên, càng che đậy, họ càng bị Ðức Giêsu phát hiện và lên án gắt gao.
Trong đời sống đạo hiện nay, cũng có nhiều khi chúng ta tìm mọi cách để che đậy những chuyện xấu xa, khuyết điểm, lỗi lầm để tự cho mình là người đạo đức hơn người. Điều khó hiểu là chúng ta an tâm để sẵn sàng lên án kẻ khác vì những thiếu xót của họ mà không hề suy nghĩ hay áy náy gì đến lỗi lầm của mình! Hơn nữa, nhiều khi quá giỏi che đậy, nên không ai biết đến những khuyết điểm của mình, vì vậy, chúng ta lại an tâm và “bình chân như vại” để tiếp tục lún sâu vào con đường tội lỗi tiếp theo.
Nhưng xin nhớ rằng: chúng ta có thể che giấu bằng những biện pháp tinh vi, xảo quyệt để che mắt người đời, nhưng với Chúa, Ngài biết hết và biết rõ ràng từng lỗi lầm của chúng ta.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống thật tâm với lòng mình. Không được sống giả hình nhân đức. Cũng không được nhân danh đạo đức để trà đạp anh em và tìm mọi cách để vươn mình lên nhằm đạt được mục đích “rẻ tiền” như quyền, tiền, tình...
Nếu chúng ta không lo sám hối thì sẽ rơi vào tình trạng trên, khi ấy, hẳn chúng ta không khác gì những người Kinh Sư và Pharisêu khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở về với đời sống nội tâm thực sự, để chúng con nhận ra mình chẳng là gì, nhưng Chúa là tất cả. Nhận ra mình thấp hèn, cần phải khiêm tốn để được đón nhận hồng ân cứu độ của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Có vẻ công chính
Suy niệm
Ở xứ Paléttin, các ngôi mộ thường được quét vôi màu trắng,
để người Do-thái dễ nhận ra và tránh xa.
Đặc biệt trước lễ Vượt qua, mộ được quét vôi lại,
vì có đông đảo khách hành hương tuốn về quê dự lễ.
Ai bất cẩn đụng vào mộ là bị trở nên ô uế trong bảy ngày (Ds 19, 16).
Đối với người Do-thái, ngôi mộ là điều nên tránh,
vì bên trong đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô nhơ (c. 27),
tuy bên ngoài có vẻ sạch sẽ tốt đẹp.
Đức Giêsu đã dám ví các kinh sư và người Pharisêu với ngôi mộ,
vì bên ngoài họ có vẻ công chính trước mặt người ta,
nhưng bên trong thì đầy đạo đức giả và gian ác (c. 28).
Có sự tương phản giữa cái có vẻ bên ngoài và cái thực tế bên trong.
Bên ngoài không diễn tả bên trong, nhưng làm hiểu sai cái bên trong.
Tất cả nỗ lực của chúng ta là làm cho bên ngoài và bên trong nên một,
để ai thấy bên ngoài của ta đều biết được điều sâu kín bên trong.
Đức Giêsu còn đề cập đến một sự giả hình khác (cc. 29-32),
đó là việc các người Pharisêu xây mồ, tô mả cho các ngôn sứ thời xưa.
Họ khẳng định mình không can dự và tội giết các ngôn sứ của cha ông họ.
Tiếc thay, họ lại can dự vào tội giết các ngôn sứ do Đức Giêsu sai đến,
qua đó họ cho thấy mình đúng là người thuộc dòng dõi của cha ông,
Khi đọc toàn bộ chương 23 của Tin Mừng Mátthêu
về những lời phê phán của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo tôn giáo,
chúng ta có thể bị sốc, vì chúng quá nặng nề.
Liệu Đức Giêsu hiền lành có nói nguyên văn những lời như thế không?
Điều cần biết là không phải người Pharisêu nào cũng giả hình.
Có nhiều người thực sự thánh thiện đạo đức,
và Đức Giêsu đã có tương quan tốt với một số người trong nhóm.
nhưng trong nhiều dịp khác nhau, và Mátthêu gom lại thành một chương.
Cuối cùng không nên quên là hầu chắc giọng điệu gay gắt của chương này,
Vào thời Mátthêu viết Tin Mừng này, có những kitô hữu bị bách hại,
bị đánh đòn, bị giết và đóng đinh bởi người Do-thái (Mt 23, 34).
Bởi đó những lời của Đức Giêsu nhắm vào người Pharisêu ngày xưa,
lại trở thành lời nhắc nhở chúng ta hôm nay,
những người sống trong Hội Thánh và những người lãnh đạo.
Thói giả hình về đạo đức thời nào và ở đâu cũng có.
Nó tạo ra một bầu khí dối trá trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.
Hội Thánh vẫn muốn cho đọc bài Tin Mừng gây sốc này
vì các kitô hữu vẫn bị cám dỗ giữ đạo bên ngoài mà không sống đạo.
Thật ra chúng ta chỉ có thể rao giảng Tin Mừng cho con người hôm nay
khi những khoảng cách giữa lời nói và hành động được xóa bỏ,
khi người ta thấy sự thống nhất trong lối sống của chúng ta,
khi mọi mặt nạ được cởi ra, và sự thật được tỏ hiện.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
27/08 Chúa động lòng thương
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Chúa động lòng thương
Thứ ba tuần 21 thường niên – Thánh nữ Mônica. Lễ nhớ.
Bổn mạng Giới Hiền Mẫu.
"Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy"
Lời Chúa: Lc 7, 11-17
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Đừng khóc nữa". Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
* Thánh nữ MONICA sinh năm 331 tại Ta-gát, châu Phi trong một gia đình theo Kitô giáo. Lúc còn thanh xuân, thánh nữ đã kết hôn với anh Pa-tri-xi-ô và sinh được những người con, trong đó có thánh Âu-tinh. Khi Âu-tinh mất đức tin, thánh nữ đã dâng những dòng lệ tựa những lời cầu nguyện âm thầm lên Thiên Chúa. Khi thấy Âu-tinh trở lại, thánh nữ đã tràn ngập vui mừng. Người không còn gì để chờ đợi ở trần gian này nữa, Thiên Chúa đã gọi người về ở Ốt-ti-a, năm 387, khi người đang sửa soạn trở về châu Phi, quê hương của người. Thánh nữ là tấm gương sáng chói cho những người làm mẹ: nuôi dưỡng lòng tin bằng lời cầu nguyện và chiếu tỏa ra bên ngoài bằng các nhân đức.
SUY NIỆM 1: Quan Thầy Của Các Bà Mẹ
Hôm nay chúng ta mừng lễ thánh Monica, Nữ vương của các bà mẹ nói chung và của các bà mẹ công giáo nói riêng. Sự kiên tâm bền chí của thánh nhân trong cầu nguyện là một lời chứng hùng hồn về đời sống đức tin sâu xa của một người nữ trong cương vị là một người mẹ.
Thánh Monica đã nếm mùi đau khổ trong việc nuôi dạy người con ngỗ nghịch của mình là thánh Augustino. Như chúng ta biết, thánh Monica là người đã đau khổ nhiều vì thánh Augustino, có lúc tưởng chừng như tuyệt vọng, nhưng đức tin đã cung cấp cho thánh nữ sức mạnh, lòng tin tưởng và kiên trì trong lời cầu nguyện cho người con xa Chúa, và phần thưởng cho sự kiên trì đó là ơn trở lại của Augustino và cuối cùng, thánh nhân đã được hạnh phúc chứng kiến người con của mình trở thành người của Chúa, được tận hiến cho Chúa để chăm sóc cho một cộng đoàn. Có thể nói thánh Monica đã thành thật sống đức tin của mình để nêu gương cho người con đã một thời sống ngoài luật Chúa. Thật là trái ngược với thái độ sống giả hình của những người biệt phái và kinh sư mà Chúa Giêsu đã nặng lời khiển trách.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thánh nữ Monica
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Có những giọt nước mắt đem lại hạnh phúc cho người khác. Có những giọt lệ làm lay chuyển tâm hồn người khác. Giọt nước mắt của người mẹ luôn có tác dụng rất lớn đối với con cái. Giọt nước mắt của thánh nữ Monica đã biến đổi cả cuộc đời của Augustinô, người con trai, đầu lòng thông minh nhưng ngang tàng, trụy lạc. Thánh nữ Monica đã cầu nguyện, đã khóc lóc, Chúa đã nhậm lời và ban cho con của thánh nữ là Augustinô ơn cải hóa từ tâm, ơn đổi mới tâm hồn, ơn làm đẹp con tim: con tim mới, cái nhìn mới.
MỘT CON NGƯỜI
Có một người nữ được sinh ra trong một gia đình đạo hạnh, thánh thiện: tên người nữ ấy là Monica. Monica sinh vào năm 332 tại làng Sucara bên Phi Châu. Gia đình Monica vốn có truyền thống đạo đức, yêu thương tha nhân, yêu thương người nghèo. Được sống trong bầu khí đạo đức của gia đình, Monica sớm trở thành một cô bé ngoan hiền, nhiệt thành, sốt sắng. Ngay từ lúc còn nhỏ Monica đã có tâm hồn quảng đại yêu thương người nghèo: mỗi bữa cơm Monica thường dành ra một phần cho người đói túng thiếu, và Monica thường tìm chỗ vắng vẻ để thân mật nói chuyện với Chúa. Monica đã biết biến những phút giây gặp gỡ người nghèo, chia sẻ cho người nghèo, cầu nguyện làm hạnh phúc cho đời mình. Cô đã biết biến những phút giây ấy làm phút giây cứu độ cho mình và cho người khác.
Con người đạo đức vẫn thường gặp truân chuyên như nhiều người thường nói. Ông Gióp đã là chứng minh hùng hồn cho cuộc đời thánh thiện, nhưng gặp toàn những chuyện thử thách, rắc rối.
Thánh Giuse là người công chính nhưng cũng gặp đắng cay: nếu không hiểu được ý Chúa, chắc chắn Người đã đứt gánh giữa đường. Monica cũng nằm trong diện ấy.
Năm 22 tuổi, vì vâng lời cha mẹ, thánh nữ đã kết hôn với Patricius thuộc dòng dõi quí phái, nhưng tính tình xấu xa, ngang ngược, độc ác, và lại hơn Monica cả hai con giáp. Đau khổ nhưng Monica đã chấp nhận ý cha mẹ, và âm thầm cầu nguyện cho chồng, vì thánh nữ xác tín mình sẽ cứu được một linh hồn trở về với Chúa. Nhờ lòng quả cảm, đức tính khiêm nhường, và nhờ cầu nguyện vững tin vào Chúa, Monica đã cảm hóa được người chồng, và sau này bà sinh được 3 người con mà Augustinô là con đầu lòng. Sau này chính nhờ những giọt lệ thành tâm và nhờ lời cầu nguyện liên lỉ của thánh nữ, Augustinô đã trở lại và trở nên thế giá, trở nên thánh.
VẪN GIỌT NƯỚC MẮT CỦA MONICA
Monica tuy sống trong một gia đình ngoại giáo, đã luôn chứng tỏ bà có Chúa ở cùng. Sự thánh thiện, lòng quảng đại, yêu thương của Monica đã cảm hóa được người chồng ác độc, ngang tàng, ích kỷ. Monica luôn dậy con cái biết mến Chúa, yêu người. Bà luôn yêu thương con cái với tất cả con tim, với tâm hồn đầy ắp Chúa. Bà đã biết biến mọi giây phút trong cuộc đời của bà trở thành những giây phút, những cơ hội hồng ân để thay đổi lòng người khác. Chính cái phút giây bà vâng lời cha mẹ kết hôn với Patricius đã thay đổi đời bà, nghĩa là bà đã chấp nhận điều mình không ưa thích để biến nó thành phút giây cứu độ cho mình và cho người mình sẽ sống, sẽ nhận làm chồng, dù rằng bà biết bà sẽ phải đau khổ nhiều, phải hy sinh, phải từ bỏ. Tình yêu Đức Kitô thúc bách bà. Bà đã đi tới cùng, bà đã làm thay đổi chồng, con, và biến đổi người con trụy lạc, ham chơi, ham lạc thú là Augustinô trở nên người con tốt, người con đẹp cho Giáo Hội. Qua những giọt lệ của Monica, qua lời cầu xin tha thiết của bà, Monica đã làm thay đổi tất cả, đã làm mới mọi sự để bà có thể nói được như ông già Siméon: ”Giờ đây xin để tôi tớ ra đi bình an…” .
Thánh nữ Monica đã qua đời năm 387, sau khi Augustinô được thánh Giám mục Ambrosiô rửa tội. Thánh nữ được an táng tại Otti. Đức Thánh Cha Martinô truyền đem xác thánh nữ về nhà thờ Thánh Augustinô ở Roma vào năm 1430.
Lạy Thánh nữ Monica, xin ban cho các bà mẹ công giáo luôn có tâm hồn thánh thiện và đạo đức như thánh nữ .
Xin cho các bà mẹ luôn biết giáo dục con cái mình biết mến Chúa và yêu người .
Xin cho các bà mẹ công giáo luôn biết nêu gương sáng cho con cái trong đời sống, để con cái nhiệt thành mến Chúa và yêu tha nhân.
SUY NIỆM 3: Thánh nữ Monica
(tgpsaigon.net)
Thánh nữ Monica sinh năm 332 trong một gia đình đạo hạnh làng Sucara bên Phi Châu. Với bầu khí đạo đức, Monica sớm trở thành một cô bé ngoan ngoãn và sốt sắng: mỗi bữa ăn cô thường dành một phần cho người nghèo và những lúc nhàn rỗi thường tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện.
Năm 22 tuổi, Monica vâng lời cha mẹ kết hôn với Patricius thuộc dòng dõi qúy phái, nhưng tính tình ngang tàng, độc ác và tuổi lại gấp đôi. Dù rất khổ tâm nhưng Monica vẫn vui vẻ vâng lời cha mẹ với hy vọng sẽ cứu được một linh hồn. Quả vậy, nhờ lời cầu nguyện và đức kiên nhẫn, Monica đã cải hóa được người chồng và mấy năm sau sinh được ba người con mà Augustinô là con đầu lòng. Dù sống trong một gia đình ngoại đạo, nhưng Monica đã chu toàn sứ mệnh làm mẹ, luôn giáo dục con cái biết yêu mến Chúa, yêu người. Bà luôn yêu thương con cái, nhất là đối với Augustinô. Nhưng càng lớn, Augustinô càng biểu lộ các tính hư tật xấu. Ỷ vào trí thông minh, Augustinô đâm lười biếng. Bị sửa phạt, Augustinô bèn lừa dối, lường gạt cha mẹ, thầy dạy, rồi từ đó ham mê lạc thú, ăn chơi, kiêu căng và ham hố danh vọng. Nhất là từ khi chàng được gửi đi học ở tỉnh thì những làn sóng tội lỗi lại tràn ngập tâm hồn. Rồi chàng lại theo bè rối Manikê chống lại đức tin. Còn gì đau khổ hơn cho Monica khi thấy người con yêu quý của mình ngày càng bước sâu vào con đường tội lỗi. Nhưng tin vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa, bà lại càng kiên tâm cầu nguyện và làm các việc lành.
Lời cầu nguyện và nước mắt của Monica đã được Chúa chấp nhận. Sau những thất bại, Augustinô đã tìm đường trở lại cùng Thiên Chúa. Monica vui mừng dâng lời tạ ơn. Thánh nữ cùng tĩnh tâm với Augustinô ở Cassicicum và có mặt trong lễ rửa tội của con. Ðêm Phục Sinh năm 387, Augustinô đã được lãnh bí tích Rửa Tội do thánh Giám Mục Ambrosiô. Lòng tràn ngập vui sướng, hai mẹ con cùng trở về Phi Châu. Tại Ostia, thánh nữ chia sẻ với con mình sự hoan lạc trong tâm hồn mà thánh Augustinô ghi lại trong cuốn IX “bộ tự thuật”. Thánh Monica đã nói như sau:
- Con ơi, phần mẹ, mẹ không còn thấy vui sướng vì bất cứ điều gì ở đời này nữa. Mẹ không hiểu sẽ phải làm gì và tại sao lại còn sống ở đây. Niềm hy vọng của mẹ trên thế gian này đã được hoàn thành. Chỉ có một điều mẹ ao ước là được thấy con trở thành người công giỏo trước khi mẹ lìa đời. Thiên Chúa cho mẹ được toại nguyện và hơn nữa đã cho mẹ thấy con chán ghét hạnh phúc trần gian và hiến thân phụng sự Ngài. Mẹ còn làm gì nữa đây?
Chẳng bao lâu sau đó, thánh nữ mang bệnh và chết bình an trong Chúa năm 387, tại Ostia, khi đó thánh nữ đã 56 tuổi.
Xác thánh nữ được mai táng ở Otti. Năm 1430, Ðức Thánh Cha Martinô truyền đem về nhà thờ Thánh Augustinô ở Rôma.
SUY NIỆM 4: Thánh nữ Monica (331-387)
(http://cdmartin.org //Lm. Anphong Trần Ðức Phương)
Người phụ nữ luôn kiên vững trong Niềm Tin vào Chúa và liên lỉ cầu nguyện giữa bao gian truân khốn khó trong đời sống Gia Đình.
Thánh Nữ Monica sinh năm 331 tại thành phố Tagaste, Phi Châu (bây giờ thuộc nước Algeria), trong một gia đình Công Giáo. Khi cò là một thiếu nữ, vâng lời cha mẹ, Monica lập gia đình với Ông Patricius, một người không công giáo. Ông Patricius là một viên chức hành chánh ở Tagaste. Monica sống với chồng và mẹ chồng. Ông Patricius hơn Thánh nữ nhiều tuổi. Hai ông bà sinh được ba người con: Augustinô, Navigio, và Perpetua. Mặc dầu thánh nữ muốn các con được chịu phép Thánh Tẩy theo lễ nghi Công Giáo, nhưng Patricius nhất định không chịu. Ông là một người tốt bụng, nhưng tính tình nóng nảy và thích sống đời sống ăn chơi phóng khoáng. Vì thế, mặc dầu vẫn kính nể đời sống tốt lành của Monica, những lại không thích lối sống mà ông cho là quá đạo đức, nhiệm nhạt. Hơn nữa mẹ của Patricius cũng bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do của Patricius, con bà. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Monica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ. Tuy nhiên, vì có đời sống đức tin vững mạnh và luôn sống theo tinh thần Phúc Âm theo tình thương của Chúa Kitô, Monica vẫn kiên trì chịu đựng mọi sự khó hằng ngày theo thánh ý Chúa. Monica vẫn một lòng yêu mến và kính trọng chồng và mẹ chồng; trong cách sống bà luôn nêu gương sáng cho các con và giáo dục các con theo tinh thần Phúc Âm của Chúa, dậy các con biết làm Dấu Thánh Giá, đọc kinh và cầu nguyện. Vì có lòng thương người và hay giúp đõ những nười nghèo khó, Monica được mọi người trong vùng yêu mến; hơn nữa, mọi người lại nể phục Monica như một người vợ và người mẹ rất gương mẫu.
Monica phải sống những chuỗi ngày trong đau khổ cả về tinh thần lẫn thể xác, trong nước mắt và cầu nguyện tha thiết với Chúa. Sau cùng, chính Ông Patricius và bà mẹ chồng cũng ăn năn hối hận và xin lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và trở nên người Công Giáo vào năm 371. Ít lâu sau trong năm 371, ông Patricius qua đời trong niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Hai người con là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập giáo hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.
Nhưng Chúa vẫn để Monica tiếp tục vác Thánh Giá theo chân Chúa. Thánh Giá đó là chính người con trưởng của bà, ông Augustinô. Augustinô là một người rất thông minh, lanh lợi và hoạt bát, lại thích giao du bạn bè và thích sống đời sống tự do, phóng khoáng như người bố trước đó. Vì thế, dù mẹ nói mấy mặc lòng, Augustinô nhất định không chịu gia nhập đạo thánh Chúa, vì ông không thích lối sống theo lề luật của Chúa và Giáo Hội. Trái lại ông thích sống theo các quan niệm của các triết thuyết và giáo phái có quan điểm sống tự do và buông thả hơn.
Sau khi học xong, Augustinô trở nên một Giáo Sư và càng ngày càng nổi tiếng tại quê hương Tagaste của ông. Sau một thời gian Augustinô di chuyển đến thành phố phồn thịch là Carthage ở Bắc Phi, cũng là nơi Augustinô đã theo học trước đó (Carthage là phần đất gần thủ đô Tunis của nước Tunnisia bấy giờ).
Thế rồi vào năm 383, lúc Augustinô 29 tuổi, vì muốn bay nhảy cho “thỏa chí tang bồng”, muốn thăng tiến đường công danh sự nghiệp, muốn nghiên cứu và học hỏi thêm, lại muốn xa cách người mẹ cúc lúc nào cũng theo sát bên mình khuyên nhủ, Augustinô quyết định rời bỏ quê hương Phi Châu để đi Rôma (thủ đô của Đế Quốc Rôma thời đó, cũng là trong tâm văn minh của thế giới đương thời).
Nhưng dù đi đâu xa xôi mặc lòng, Augustinô cũng không thể xa được người mẹ quyết tâm đi theo con mình đến bất cứ chân trời góc biển nào. Vừa đi theo tìm con, vừa khóc lóc, cầu xin Chúa cho con mình hồi tâm ăn năn trở về với chúa và Giáo Hội.
Khi Augustinô rời bỏ Rôma để đến Milan (ở miền Bắc nước Ý và là một Thành Phố cũng nổi tiếng thời đó về văn chương và nghệ thuật), Monica cũng đi theo.
Trên đường đi theo con, Monica thường đến gặp các linh mục và tu sĩ, và bất cứ ở đâu cũng xin các Ngài cầu nguyện người con “cứng lòng” của mình. Nhiều người lúc đó quen biết tính tình của Augustinô, thì coi như đã “hết thuốc chữa”. Nhưng bà Monica thì không bao giờ thất vọng, luôn vững tin rằng Chúa sẽ cứu vớt con mình. Một ngày kia, Bà gặp một linh mục để xin cầu nguyện. Cha này đã nói với Monica: “Không thể nào có một ngưòi con mà bà mẹ đã đổ ra bao nước mắt để khóc thương và cầu nguyện cho, lại có thể hư mất được!” Nhờ lời khuyến khích của vị linh mục này mà Monica càng vững lòng trông cậy nơi Chúa và cứ tiếp tục cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện với nước mắt và hy sinh hãm mình.
Cuối cùng sau 17 năm trường, sống trong khóc lóc, hy sinh, hãm mình, làm việc bác ái và cầu nguyện nhiệt tình với Chúa, Monica đã cứu được người con “vô hy vọng” của mình. Vào năm 386, lúc 33 tuổi, Augustinô đã nhận ra “chân lý vĩnh cửu” và tin vào Phúc Âm tình thương của Chúa là chân thật và là con đường cứu rỗi.
Augustino đã từ bỏ tất cả chủ trương sai lạc, quyết tâm gia nhập Giáo Hội Chúa và xin chịu phép Thánh Tẩy do chính tay Đức Tổng Giám Mục thành Milan lúc đó là Ambrosio, cũng là một người gia nhập đạo Thánh Chúa lúc 34 tuổi, ngay khi đươc bầu lên làm Tổng Giám Mục Milan và là Thánh Ambrosio, một vị Thánh Giáo Phụ thời danh của Giáo Hội, mà chúng ta mừng kính Ngài vào ngày 7 tháng 12.
Sau khi gia nhập Giáo Hội Chúa, Augustinô đã từ bỏ mọi tham vọng và vui thú trần gian, trở về quê hương Phi Châu, bước vào cuộc đời tu trì khổ hạnh, rồi được chọn làm Giám Mục thành phố Hippo. Sau 34 năm tận tụy chăn dắt đoàn chiên Chúa, Ngài đã được Chúa gọi về Nước Chúa vào năm 430, lúc Ngài 76 tuổi.
Thánh Augustinô viết nhiều tác phẩm về thần học và triết học. Ngài được kính như một Thánh Giáo Phụ thời danh và là Thánh Tiến Sĩ trong Giáo Hội. Chúng ta kính lễ Ngài vào ngày 28 tháng 8 hằng năm (ngay sau lễ kính Thánh Monica 27 tháng 8). Thánh Augustinô cũng nổi danh là nhà triết học nhân bản, các tác phẩm có tính cách triết học của Ngài vẫn được các Giáo sư và sinh viên trong các trường đại học ngày nay trên thế giới nghiên cứu. Ôi sự kỳ diệu của ơn Thánh Chúa!
Riêng Monica, sau khi con mình trở về với Chúa và Giáo Hội, bà vô cùng vui mừng tạ ơn Chúa và đã cùng các con trở về Phi Châu. Nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu, trên đường trở về quê hương, Chúa đã cất Monica về với Chúa tại Ostia, một hải cảng gần cửa sông Tibre ở Roma, vào năm 387, hưởng thọ 56 tuổi.
Thánh Nữ Monica đã được Chúa thương thực hiện những gì bà cầu xin, mà nhiều người cứ cho là vô vọng. Bà thật là một tấm gương tuyệt diệu cho mọi người chúng ta, nhất là các Bà Mẹ Công Giáo, để tất cả chúng ta luôn biết kiên trì hãm mình cầu nguyện trong niềm tin tưởng và tuyệt đối phó thác mọi sự trong tình thương và sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa là Cha nhân từ của mọi người chúng ta.
SUY NIỆM 5: Thánh nữ Monica (331-387)
(tinmung.net // Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
Không có gì cao sang trong cuộc đời bình thường, cũng không phải là “đấng nam nhi” hay “bậc anh hùng hảo hán”. Mônica chỉ là phận gái “liễu yếu đào tơ”, nhưng cuộc đời của người phụ nữ này, đã trở thành tấm gương ngời sáng cho những người phụ nữ khác, đặc biệt là những người vợ, người mẹ trong các gia đình. Dù Mônica không sinh trưởng tại quê hương Việt nam, nhưng ở Thánh nữ chúng ta vẫn thấy đầy chất Á Đông của người phụ nữ đất Việt: “Công, Dung, Ngôn, Hạnh” và “Tam tòng, Tứ đức”.
Cuộc đời Thánh Mônica
Thánh nữ sinh tại Thagaste, thuộc Bắc Phi châu vào năm 332 trong một gia đình công giáo. Lập gia đình với ông Patricius, một người ngoại giáo và có được ba người con. Chồng Mônica là một người giàu có, nhưng tính tình nóng nảy và không chung thủy. Người mẹ chồng của thánh nữ cũng gắt gỏng và khó chịu. Patricius thường hay rầy la vợ, vì Mônica hay tỏ ra thương yêu và giúp đỡ mọi người. Dù vậy, thánh nữ vẫn luôn âm thầm hy sinh, kiên trì, chịu đựng trong nước mắt của nguyện cầu. Cuối cùng, Mônica cũng chinh phục được mẹ chồng cùng với chồng, và họ đã trở lại cùng Thiên Chúa. Patricius qua đời năm 371, sau khi đã lãnh nhận Bí tích rửa tội. Hết chồng rồi lại đến con, Augustin học theo tính khí của cha, sống phóng đãng và chạy theo bè rối Manichée, trong chín năm. Mônica theo con để mong ngày con được trở lại cùng Chúa. Những hy sinh của Mônica thật không uổng tí nào. Đêm Phục sinh, ngày 24 tháng tư năm 387, bà vui mừng dự lễ rửa tội cho thánh Augustin. Cuối năm 387, khi mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi châu, thì Thiên chúa đã gọi Mônica về, lúc 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.
Gương thánh nhân
Thánh Mônica lập gia đình và hoàn thành sứ mạng mà Thiên Chúa trao ban qua ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, ngài hết tình yêu thương và chiều chuộng chồng, tính nết hiền lành và đạo đức, đó là bí quyết mà thánh nhân dùng để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Làm mẹ, ngài tận tình chăm sóc và giáo dục con cái, nhất là đời sống đạo đức. Nhờ đó mà chồng con đều lần lượt trở lại đạo Chúa. Mônica nên thánh trong một đời sống gia đình, rất bình thường như những gia đình của mỗi người. Điều đó cũng làm cho chúng ta, nhất là các bà mẹ công giáo thử đặt lại vấn đề, tại sao tôi không dùng chính đời sống gia đình của mình để làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày? Là một người vợ hay một người mẹ, tôi đã cầu nguyện với Chúa mỗi khi chồng con khô khan, nguội lạnh hay thậm chí mất đức tin…
Lạy Thánh Monica, bổn mạng của giới Hiền mẫu, qua lời bầu cử của Ngài, xin cho các người vợ, người mẹ có đời sống thánh thiện, hiền lành, yêu thương và nhẫn nhục, để hướng dẫn gia đình trong tình thương của Thiên Chúa. Giữa một cuộc sống đầy thử thách, tình trạng chối bỏ sự sống ngày càng lan tràn, giáo dục con cái trở nên đầy thách đố. Xin cho các gia đình luôn biết lắng nghe và thực thi lời dạy của Chúa qua những giáo huấn của Giáo hội. Amen.
SUY NIỆM 6: Thánh nữ Monica
(Lm Carôlô Hồ Bặc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu cứu sống con trai bà goá thành Naim:
- Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì động lòng thương.
- Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ goá con côi, tre già khóc măng non.
- Cứu sống đứa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh khổ của người khác.
Thấy người nghèo thường quá, tôi không còn cảm động cái khổ của người nghèo.
Thấy người bệnh thường quá, tôi không còn cảm được nỗi đau của họ.
Thấy người tội lỗi quen quá, tôi dửng dưng nhìn người ta càng ngày càng chìm sâu trong tội.
Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng trái tim bằng thịt.
2. Xin Chúa cũng dạy con biết tế nhị: thấy được nhu cầu người khác trước khi họ xin con giúp, và giúp họ một cách tế nhị nhẹ nhàng như hôm xưa Chúa đã trao đứa con lại cho người mẹ.
3. “Tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài”: việc làm này bị luật coi là ô uế. nhưng để an ủi gia đình người chết, và để “tiến lại gần” (ý muốn được gần gũi với người đau khổ), Chúa không ngại gì cả. Yêu thương giúp đỡ đòi hỏi phải can đảm và hy sinh.
4. Chuyện người mẹ Naim đau khổ được Chúa cứu giúp khiến tôi nghĩ tới cảnh khổ của bản thân mình. Bà không biết người đàn ông đúng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng cứu sống. Bà không ngỏ lời xin Chúa. Nhưng Chúa chạnh lòng thương, tự động Chúa lại gần và Chúa kéo bà ra khỏi cơn đau khổ.
Chúa lúc nào cũng ở gần tôi. Khi tôi phải khổ, Chúa cũng chạnh lòng và Ngài sẵn sàng cứu giúp. Tôi không bao giờ cô đơn.
5. “Chúa Giêsu tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và phán: ‘Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy.’ Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.”. (Lc 7,14-15).
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ, Chúa Nhật nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên gường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải?
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ, Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại “tám” với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà!
Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng nhu cầu của bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng gọi con từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna)
6. Hôm nay tôi muốn được chia sẻ đôi điều với anh chị em, đặc biệt với những ai được mang danh hiệu cao quí là Mẹ.
Khi viết về người Mẹ một nhà văn Pháp đã có những lời diễn tả như thế này: “Bà mẹ không phải như một họa sĩ vẽ cái đẹp lên tranh, không như một nhà điêu khắc chạm hình trong đá, không như nhà văn diễn đạt tư tưởng hay bằng những lời chọn lọc, cũng không như một nhạc sĩ ký thác tâm tình đẹp trong tiếng đàn. Phận sự của bà mẹ chính là nhờ ở sức Chúa giúp đỡ, hình thành nên trong linh hồn những người con hình ảnh của Chúa trên trời."
Vâng kính thưa anh chị em,
Có lẽ không có lời nào hay hơn thế để mô tả về một người mẹ, một người mẹ rất nổi tiếng trong Giáo Hội mà hôm nay chúng ta mừng kính. Đó là thánh nữ Monica.
7. Chúng ta chỉ biết Thánh Mônica qua quyển Tự Thuật của người con là Thánh Augustino.
Bà sinh khoảng năm 332 ở Tagaste miền bắc Châu Phi, là con trong một gia đình có đạo. Lúc 18 tuổi, bà phải kết hôn với một người ngoại tên là Patricius theo ý của gia đình và sau đó sinh được 3 người con: người con cả là Augustinô. Bà luôn theo dõi sự phát triển của con với niềm vui lẫn âu lo.
Bà đã phải khóc lóc vì thấy nơi người con của bà có những dấu hiệu sai lạc về luân lý và tinh thần. Dầu vậy bà luôn luôn lấy tình thương khuyên nhủ con. Sau một thời gian quá dài nhưng chưa chinh phục được người con của mình, bà đã được một vị Giám mục, nói chính xác là thánh Ambrosiô, đã an ủi bà: "Không lẽ một người con đã làm cho bà rơi biết bao nhiêu nước mắt, lại phải hư mãi sao?".
Như vậy là chúng ta thấy không những bà đã lo lắng cho chồng để ông được trở lại đạo một năm trước khi ông qua đời, khoảng năm 371. Rồi sau khi chồng mất, bà đã từ Roma theo người con cả Augustino lên tận Milan nơi ông dạy học để ở nơi đây Bà được chứng kiến cảnh con của mình từ bỏ lạc giáo trở về với Chúa, chịu rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh năm 387 dưới sự hướng dẫn và dìu dắt của Giám Mục Ambrôsiô. Sau khi trở lại, Augustinô, em và mẹ đã quyết định trở về Tagaste.
Mùa thu năm 387 cả ba mẹ con từ bỏ Rôma, lên đường về Châu Phi. Chúng ta hãy nghe chính Augustinô thuật lại những giờ sau hết của mẹ mình trên dương thế: "Con không nhớ rõ con đã trả lời làm sao. Nhưng phỏng năm ngày sau, hay hơn một chút, mẹ con ngã bệnh sốt rét. Đang khi nằm bệnh, thì ngày nọ ngài bất tỉnh, không còn nhận ra những người chung quanh. Chúng con chạy tới thì ngài tỉnh lại ngay, nhìn con và em con đang đứng đó; ngài có vẻ tìm kiếm cái gì đó và bảo chúng con” “Mẹ ở đâu thế này?”
Rồi thấy chúng con buồn sầu và lo sợ, ngài nói: "Các con hãy nhớ chôn mẹ ở nơi đây!' Con thinh lặng và kìm hãm nước mắt. Nhưng em con nói mấy lời tỏ ý ước ao thấy ngài được chết tại quê nhà hơn là ở tha hương. Nghe thấy vậy, ngài tỏ vẻ không bằng lòng. Ngài quắc mắt nhìn em con, vì nó đã có những tư tưởng như vậy, rồi nhìn con mà nói: "Con xem, nó nói như vậy đó!” Đoạn ngài bảo hai chúng con: "Các con chôn xác này ở đâu cũng được; các con đừng quá lo về việc đó. Mẹ chỉ xin các con một điều, là bất cứ các con ở đâu, các con hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa". Sau khi cố gắng nói được điều đó rồi, mẹ con ở lặng và cơn bệnh gia tăng, làm cho ngài càng đau đớn. Vậy, sau khi thụ bệnh được 9 ngày, thì linh hồn thánh thiện và đạo đức đó đã lìa khỏi xác: ngài được 56 tuổi còn con được 33 tuổi" đúng tuổi sống trên đời của Chúa Giêsu.
Augustinô đã chôn cất mẹ tại Ostia.
Sau này khi nhớ về cái chết của Mẹ mình Augustinô đã viết: "Con mất mẹ cách đột ngột, nhưng con cảm thấy an ủi khi dâng cho Chúa nước mắt con khóc mẹ. Con dâng nước mắt ấy cầu nguyện cho mẹ con. Nếu ai đoán xét con, phạm tội vì khóc thương một bà mẹ chết đi và tạm thời mắt con không còn trông thấy được nữa, thì con xin họ nhớ rằng chính bà đã khóc than biết bao năm trường để mắt bà được trông thấy con sống lại với Chúa, xin họ đừng nhạo cười con, nhưng xin họ cũng khóc lóc vì tội lỗi con đã phạm trước mặt Chúa. Chúa là cha của tất cả anh chị em chúng con trong Đức Kitô.
Ngày nay xác bà được dời về thánh đường kính Thánh Augustinô tại Rôma.
Vâng đó là cuộc đời của người mẹ thánh. Và sự thánh thiện đã đổ tràn qua người con. Một niềm vui vô cùng lớn lao nhưng là một niềm vui phải trả bằng một giá thật lớn. Rõ ràng một người mẹ nhờ ở sức Chúa giúp đỡ hình thành nên trong linh hồn người con của mình hình ảnh của Chúa trên trời."
8. Hình như số phận của những người làm mẹ muốn cho con của mình được thành đạt, thành đạt trong cuộc sống đời thường hay thành đạt trong lãnh vực thiêng liêng đều phải như thế.
Ông Comolet Sue, nhà giáo dục danh tiếng, đã điều tra và kể lại trong bản báo cáo về Hội Hôn nhân Thiên Chúa giáo ở Pháp câu truyện này:
Có lần ông gặp một bà góa. Các con bà giữ đạo sốt sắng và thành công một cách vinh quang trên đường đời. Ông hỏi bà:- Bà đã làm gì trong công việc giáo dục con cái bà? Bà đã dìu dắt con bà một cách thực tế như thế nào trong cuộc đời? Bà đã một mình làm tròn sự nghiệp phức tạp ấy!
Bà trả lời cách gọn gàng, giản dị: - Tôi không biết.
Ông gặng hỏi: - Bà giấu đấy chứ? Các con trai bà đã làm cách nào để tạo được những địa vị danh giá mà đồng thời vẫn là tín đồ đáng nể phục? Các con bà hình như rất bằng lòng với cuộc sống của mình. Có bao bà phải thất vọng không ...?
Bà mỉm cười và hỏi: - Ông có tin tưởng Thiên Chúa không?
- Chắc là Thiên Chúa cai trị sóng gió, nhưng nếu bà không biết lo liệu thì thuyền cứ chìm.
- Lo liệu phòng ngừa là phải cầu nguyện cho nhiều.
- Không đủ, thưa bà. Bởi chắc không phải lúc nào bà cũng chắp tay quỳ gối trong nhà thờ?
Bị hỏi dồn, bà nói thiệt: - Ngày chồng tôi chết, để lại cho tôi mười đứa con nhỏ, đứa lớn chưa đầy 15 tuổi. Tiền của eo hẹp, nên tôi phải quả quyết... Trước hết là... Là xét lại lương tâm, khi xét mình tôi đã nhận thấy cần phải tu chỉnh, cải tạo đời sống mình cho tốt hơn, thêm nhiều đức tính tốt hơn nữa. Tôi làm ngay... và cứ thế mà tiến...
- Có thế thôi sao? Bà còn làm gì hơn nữa cho con bà?
- Không có gì khác cả, thưa ông. Tôi tự sửa mình và chính Chúa đã đào tạo chúng nó.
Ngạn ngữ của người Roma có câu: “Không ai có thể cho cái mình không có.” Bà Monica thánh thiện cho nên sự thánh thiện của bà đã tràn qua người con.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúng con thật hạnh phúc vì Chúa luôn đồng hành với chúng con. Chúa lúc nào cũng ở gần chúng con. Khi chúng con gặp đau khổ, chắc chắn Chúa cũng chạnh lòng thương xót chúng con như xưa Chúa đã chạnh lòng trước nỗi khổ của người mẹ mất con thành Nain. Chúng con xin phó thác cuộc đời trong tay Chúa. Xin Chúa gìn giữ hộ phù chúng con trong sự quan phòng của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, trái tim con người là họa ảnh của Chúa vốn giầu lòng thương xót và thành tín. Nhưng Chúa ơi, sao chúng con lại quá chai lỳ, thờ ơ trước nỗi khổ của người khác. Chúng con không quan tâm đến cái chết của người hàng xóm. Chúng con không cảm thông với nỗi bất hạnh của tha nhân. Chúng con bỏ ngoài tai tiếng van xin của anh em. Xin tha thứ cho hành vi thiếu bác ái của chúng con. Xin ban tặng cho chúng con trái tim của Chúa để chúng con biết cảm thông trước những thống khổ của tha nhân và mau chóng giúp đỡ trong khả năng của mình.
Lạy Chúa, xin cho chúng con đủ can đảm và đầy hy vọng để vượt qua những thử thách gian nan trong cuộc đời. Chúng con biết rằng chính lúc khó khăn nhất, Chúa đang ở bên cạnh, đồng hành, và nâng đỡ chúng con. Xin dạy chúng con biết nương tựa nơi Chúa là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng con. Amen.
SUY NIỆM 7: Thánh nữ Mônica: Người mẹ tuyệt vời
(http://conggiao.info //Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Đối với văn hóa của người Á Đông thì vai trò người phụ nữ luôn bị giảm nhẹ. Từ quan niệm trên, người phụ nữ đôi khi bị coi thường. Chính vì vậy, bản thân người phụ nữ cũng trở nên tự ty, co cụm lại trong những công việc như nội chợ, cơm núc... Nói chung là lo những chuyện lặt vặt trong nhà.
Tuy nhiên, hôm nay, phụng vụ mừng kính một vị thánh nữ là vợ, là mẹ trong gia đình. Ngài được biết đến bằng những chuyện bình thường nhưng đã thi hành cách phi thường. Mang trong mình phận gái:“liễu yếu đào tơ”, nhưng cuộc đời và lối sống ngang qua những hành động, hẳn ngài thật giống một: “đấng nam nhi” hay “bậc anh hùng hảo hán”.
Con người đó là ai? Thưa! Ngài chính là thánh nữ Mônica, mẹ của thánh giám mục Augustinô.
Thật vậy, cuộc đời của ngài đã trở nên tấm gương: anh dũng, can trường, nhân hậu, hiền từ, kiên trì, trung thành trong đời sống thường ngày, nhất là gương hy sinh và cầu nguyện.
Mừng lễ thánh Mônica, chúng ta cùng nhau tìm hiểu cuộc đời của thánh nhân, để ngang qua đó, như một bài học cho đời sống đức tin của chúng ta.
1. Thân thế cuộc đời thánh Mônica
Gia đình của thánh nữ Mônica không có gì nổi nang trong làng. Cha mẹ ngài là những người bình dân nhưng đạo hạnh, hay thương người. Thánh nữ sinh năm 332, tại làng Sucara bên Phi Châu.
Ngay từ nhỏ, Mônica đã được hấp thụ truyền thống đạo đức, và một nền giáo dục có thể nói là “linh đạo tình yêu”. Những đặc tính như: nhân từ, hiền hậu, thương người là nét đẹp nơi gia đình của thánh nhân mà ngài được thừa hưởng.
Quả thật, tấm lòng quảng đại, yêu thương người nghèo dường như đã thường trực trong tâm hồn cô, khiến cô không thể ngồi yên và no bụng trong khi nhiều người chung quanh mình phải đói khát! Vì thế, mỗi bữa cơm Mônica thường dành ra một phần cho kẻ khó nghèo. Việc chia sẻ cho kẻ nghèo đã làm cho Mônica coi là niềm hạnh phúc của mình vì được diễm phúc đụng chạm, gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa ngang qua những người kém may mắn đó.
Một điểm đáng lưu ý khác nữa là Mônica thường xuyên ẩn mình nơi vắng vẻ để thân mật, cầu nguyện với Chúa lâu giờ.
Tuy nhiên, tưởng chừng một con người đạo hạnh như Mônica, ắt phải được tận hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc! Ai ngờ cô lại gặp phải cảnh éo le và truân chuyên quá đỗi!
Năm 22 tuổi, vì vâng lời cha mẹ, Mônica đã kết hôn với Patricius. Chồng cô thuộc dòng dõi quý tộc. Vì thuộc về thành phần giàu sang trong làng, nên ngay từ khi còn nhỏ, chàng Patricius đã được nuông chiều thái quá, dẫn đến tình trạng ngang tàng, hách dịch, nghiện rượu, tính tình nóng nảy và không chung thủy, độc ác và tàn nhẫn.... Ông luôn tỏ vẻ khó chịu mỗi khi thấy vợ làm từ thiện và cầu nguyện.
Hơn nữa, sẵn có lợi thế con nhà giàu, lại hơn tuổi của Mônica quá nhiều, nên Patricius thường xuyên thể hiện vai trò chủ - tôi đối với cô. Mặt khác, cô lại còn phải chịu cảnh hất hủi của mẹ chồng. Điều làm cho cô Mônica buồn nhất, đó là bà lại hùa theo con trai để bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do cho Patricius. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Mônica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ.
Thêm vào đó, sau khi sinh được Augustinô, người con trai đầu lòng, bà vui mừng phấn khởi, nhưng chẳng bao lâu, Augustinô buông theo lối sống của cha, nên cũng trở nên lêu lổng, phóng túng...
Nhưng khi gặp những nghịch cảnh ngập đầu, Mônica không hề oán trách, nhưng ngài đã tìm ra những liều thuốc giải độc tốt nhất cho linh hồn mẹ chồng, chồng và các con, đó là sự hy sinh, lời cầu nguyện liên lỷ, cộng thêm những đức tính tuyệt vời như lòng bác ái, tình yêu thương, tinh thần quả cảm, đức tính khiêm nhường, và vững tin vào Chúa. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Mônica vẫn một lòng yêu mến, kính trọng chồng và mẹ chồng; lại luôn sống làm gương sáng cho các con; yêu thương giúp đỡ dân làng.
Vì vậy, mưa dầm thấm lâu. Thiên Chúa đã thưởng công Mônica, đó là mẹ chồng và Patricius đã xin Rửa Tội và tin theo Chúa. Còn Augustinô đã chia tay bè rối Manichê (Nhị Nguyên) là một tà thuyết chống lại Giáo Hội và đức tin của Công Giáo mà ông đã dồn toàn tâm toàn trí trong suốt chín năm trường. Sau đó ngài được Rửa Tội. Hai người con còn lại là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập Giáo Hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.
Niềm vui tột cùng đó đã làm cho Mônica thốt lên với Augustinô trong những giây phút cuối đời: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện”.
Cuối năm 387, khi mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi Châu, thì Thiên Chúa đã gọi Mônica về với Ngài, hưởng thọ 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.
2. Gương sáng của thánh nhân
Cuộc đời và gương sáng của thánh nhân cho chúng ta thấy rằng: ngài đã “làm những chuyện bình thường cách phi thường”. Tại sao vậy?
Trước tiên: là chu toàn bổn phận. Chu toàn bổn phận cách trung thành, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác thì quả là anh hùng. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao trong ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, thánh nhân đã hết lòng quý trọng, yêu thương và trung thủy với chồng. Làm mẹ, thánh nhân hết mực yêu thương, hy sinh cho con cái. Tận tụy giáo dưỡng con cái nên người. Khi không được như ý của mình, ngài vẫn không bỏ cuộc. Thánh nhân đã cầu nguyện và hy sinh liên lỷ cho con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và phục vụ Giáo Hội.
Thứ đến: là cảm hóa bằng gương sáng. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm cho tính khí của mẹ và chồng. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ là lựa chọn của thánh nhân trong những lúc khó khăn và gặp chuyện chẳng lành.
Thứ ba: là mẫu gương cầu nguyện và hy sinh. Thánh nhân đã kết hợp với Chúa cách liên lỷ và hoàn toàn phó thác nơi Ngài.
Cuộc đời của ngài với những biến cố vui buồn, thành công hay thất bại đều kết hợp với Chúa. Ngài luôn phó thác mọi sự trong sự an bài của Thiên Chúa.
Thứ tư: là sự kiên trì và trung thành. Kiên trì trong cầu nguyện. Trung thành trong niềm tin, dù nhiều khi phải quặn đau.
Quả thật, cả cuộc đời của thánh nhân đã để lại cho chúng ta gương sáng tuyệt vời nơi những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người.
3. Bài học cho chúng ta
Mỗi khi mừng lễ thánh Mônica, chúng ta hãy học nơi ngài những gương sáng để xây dựng hạnh phúc gia đình ngày càng tốt đẹp.
Bài học thứ nhất: Chu toàn bổn phận hằng ngày trong lòng mến. Làm những việc tầm thường cách phi thường trong sự kết hợp với Chúa và phó thác cho Ngài.
Bài học thứ hai: Biết dùng gương sáng như công cụ số một để cảm hóa người khác, nhất là người đó lại là người ngang tàng mất nết...
Bài học thứ ba: Cần xác định thật rõ:“mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Làm mọi việc trong tâm tình tín thác. Đón nhận tất cả, miễn sao điều đó đẹp lòng Chúa và ích lợi cho phần hồn mọi người.
Bài học thứ tư: Đó là sự kiên trì, trung thành. Đời sống đức tin của chúng ta cần có những nhân đức này. Nếu không kiên trì, chúng ta dễ bỏ cuộc. Không kiên trì khó có thể trung thành.
Lạy Chúa, xin nhận lời thánh nữ Mônica chuyển cầu mà ban cho chúng con, nhất là những người vợ, người mẹ trong các gia đình luôn có đời sống thánh thiện, hiền lành, yêu thương và nhẫn nhục, kiên trì và trung thành, tin tưởng và phó thác nơi Chúa như thánh Mônica khi xưa. Amen.
Thứ ba: Mt 23, 23-26
Thứ Ba 27/08/2019 – Khốn cho kẻ giả hình.
27/08 – Thứ ba tuần 21 thường niên.
"Phải làm những điều này, và không bỏ các điều kia".
Lời Chúa Mt 23, 23-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, hồi hương và thì là, còn những điều quan trọng hơn trong lề luật, là đức công bình, lòng nhân từ và lòng tin thì các ngươi lại bỏ qua; đáng lẽ phải làm những điều này và không bỏ các điều kia.
"Hỡi những kẻ dẫn đường đui mù, các ngươi gạn lọc một con muỗi ra, nhưng lại nuốt trửng cả con lạc đà. Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, vì các ngươi rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong, các ngươi đầy gian tham và nhơ bẩn. Hỡi những người biệt phái đui mù, hãy rửa bên trong chén đĩa trước đã, để bên ngoài cũng được sạch".
SUY NIỆM 1: Bên trong, bên ngoài
Suy niệm :
Đức Giêsu đã từng nói về tám Mối Phúc trong Bài Giảng trên núi.
Trong chương này, Ngài sẽ nói với các kinh sư và nhóm Pharisêu bảy lần:
“Khốn cho các ngươi!”
Đây không phải là lời chúc dữ cho bằng là lời trách than, buồn tiếc,
vì những sự giả hình, che đậy nơi một số nhà lãnh đạo Do thái giáo.
Nhưng giả hình không phải chỉ là bệnh của một số kinh sư ngày xưa.
Nó là bệnh của những Kitô hữu trong Hội Thánh của Mátthêu sau năm 70.
Và nó cũng là bệnh của những Kitô hữu thuộc thế kỷ hai mươi mốt.
“Khốn cho các ngươi!” là một lời cảnh báo đối với chính bản thân tôi.
Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ tư (c. 23)
là bệnh quá tập trung vào điều phụ thuộc mà bỏ quên điều cốt yếu.
Có một số người Pharisêu bày tỏ sự đạo đức của mình
qua việc nộp thuế thập phân về những thứ rau lặt vặt họ trồng trong vườn.
Ba thứ rau thơm: bạc hà, thì là, rau húng, đúng ra không phải tính thuế,
vì chỉ phải nộp thuế về hoa lợi của vụ mùa, của vườn cây ăn trái thôi.
Nhưng có người đã nộp thuế về mọi thứ rau cỏ trong vườn (Lc 11, 42).
Thuế thập phân chỉ đòi nộp một phần mười sản phẩm nông nghiệp làm được,
để giúp việc thờ phượng Chúa trong Đền thờ và các người làm việc tại đó.
Đức Giêsu không cản chuyện nộp thuế về những điều lặt vặt (c. 23).
Ngài chỉ tiếc là những chuyện nặng ký hơn trong Lề Luật
như công lý, lòng nhân và thành tín, lại bị bỏ quên (c. 23).
Ba điều này đều được các ngôn sứ nhắc nhở (Is 1, 17; Hs 6, 6; Hb 2, 4).
Ngôn sứ Mikha đã viết một câu nổi tiếng (Mk 6, 8):
“Đức Chúa đòi anh em điều gì nếu không phải là sống theo công lý,
mến chuộng lòng nhân và khiêm hạ đi với Thiên Chúa của anh em.”
Có thể thái độ đạo đức giả bắt nguồn từ thói háo danh và sợ khó.
Nộp thuế dễ được người ta thấy hơn
và cũng khỏi phải hoán cải nơi bề sâu của lòng mình.
Tập trung vào những cái lặt vặt để khỏi phải áy náy về chuyện hệ trọng.
Làm tốt một chuyện nhỏ, nhưng lại làm hỏng một chuyện rất lớn.
Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ năm (c. 25)
là bệnh quá coi trọng cái bên ngoài mà coi thường cái bên trong.
Một số người Pharisêu loay hoay với chuyện lau sạch bên ngoài chén đĩa.
Họ sợ mình trở nên ô uế nếu sử dụng đồ chưa được rửa kỹ.
Tiếc thay, họ không để ý đủ đến sự nhơ uế bên trong tâm hồn.
Mà đó mới là thứ nhơ uế thật sự đáng quan tâm.
Có nguy cơ là sự sạch sẽ bên ngoài nhằm che đậy sự nhơ uế bên trong,
và đánh lừa cái nhìn của người khác, khiến họ lầm tưởng.
Thật ra trở về với lòng mình để nhận ra những ô nhơ, thật là điều khó.
Rửa tay trước khi ăn, rửa bát đĩa trước khi dùng, là điều dễ hơn nhiều.
Trở vào lòng mình, ta dễ bắt gặp bao tham lam, gian dối, thèm muốn vô độ.
Những điều ấy ta không muốn nhìn nhận có nơi mình.
Đức Giêsu mời chúng ta tìm kiếm sự tinh tuyền bên trong trước đã,
rồi mới để ý đến cái sạch sẽ bên ngoài sau (c. 26).
Xin Chúa cho chúng ta đừng bị đui mù, nhưng được sáng mắt (cc. 24. 26),
để biết phân biệt cái chính, cái phụ, cái trong, cái ngoài.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Kết án thái độ vụ hình thức
Tin Mừng hôm nay ghi lại hai lời kết án của Chúa đối với thái độ vụ hình thức. Trước hết là việc giữ luật bên ngoài thật tỉ mỉ, mà không có lòng đạo đức thật, không thi hành công bằng và tình yêu thương.
Trong Do thái giáo, luật đóng thuế thập phân trên những sản phẩm con người làm ra là một hành động tôn giáo để nhìn nhận quyền tối cao của Thiên Chúa. Theo luật Môsê được ghi trong sách Thứ Luật, thì chỉ buộc trả thuế thập phân trên những sản phẩm chính là gạo, rượu, dầu, con vật đầu lòng. Thế nhưng, có lẽ vì quá sốt sắng, những Luật sĩ và Biệt phái muốn áp dụng thuế thập phân cho những sản phẩm nhỏ, không cần thiết như: bạc hà, thì là, rau húng.
Chúa Giêsu không kết án các Luật sĩ và Biệt phái vì sự tuân giữ luật Môsê một cách tỉ mỉ; nhưng Ngài kết án vì thái độ không trung thực: họ tuân giữ những điều hết sức nhỏ để tỏ ra mình sốt sắng đạo đức, nhưng họ lại lỗi phạm những điều lớn về đức công bằng và tình yêu thương, họ làm như thế chẳng khác nào lọc lừa con muỗi ra ngoài, nhưng lại nuốt con lạc đà nguy hiểm hơn.
Thái độ vụ hình thức thứ hai của các Luật sĩ và Biệt phái còn được thể hiện trong sự tuân giữ những nghi thức bên ngoài, mà không chăm lo tinh tuyền bên trong: họ lo rửa chén đĩa bên ngoài, mà bên trong tâm hồn thì đầy cướp bóc, tham lam. Việc tuân giữ nghi thức thanh tẩy bên ngoài, việc đến nhà thờ đọc kinh ngoài môi miệng mà thôi chưa đủ, cần phải để cho ơn Chúa biến đổi tận bên trong tâm hồn ngõ hầu trở nên con người mới. Sự hoán cải nội tâm quan trọng hơn và phải đi trước những thực hành đạo đức bên ngoài để tránh thái độ giả hình, vụ hình thức đáng bị Chúa khiển trách.
Nguyện xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi những tham lam, ích kỷ, hẹp hòi. Xin cho chúng ta sống ngay chính bên trong cũng như bên ngoài, sống điều chúng ta nói trên môi miệng để làm chứng cho Chúa giữa mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Công bình, nhân ái, thành tín, trong sạch
Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này mà không bỏ các điều kia.” (Mt. 23, 23)
Tôi rất thích mấy câu Phúc Âm này. Một lần nữa Đức Giêsu tỏ ra yêu thương những người biệt phái. Người hiểu và kính trọng họ biết bao. Nhưng Người cũng khiển trách thái độ nước đôi của họ: Vừa cứu vãn những vẻ bề ngoài bằng những cử chỉ vô ích, vừa loại bỏ những điều chân thực bên trong.
Đó là kiểu mẫu người tốt thời Đức Giêsu và chúng ta ngày nay cũng thế. Một đàng họ rất khắt khe tỉ mỉ bên ngoài, đàng khác họ quá phóng túng bên trong. Họ tỏ ra rất tự do rộng rãi đối với những điều thật sự quan trọng.
Càng đọc đi đọc lại những câu Tin Mừng này, tôi càng thấy nực cười! Đó là những câu rất đúng với hiện tại! Nếu chúng ta muốn rõ, chúng ta thử tự đánh giá mình một chút xem Tin Mừng là tấm gương soi cái gì?
Ba điều:
Ba điều này làm cho chúng ta phải chú ý: “Ba điều quan trọng nhất trong lề luật là: Công bình, lòng nhân ái và thành tín”. Các ngôn sứ, Đức Kitô, thánh Phao-lô và ngày nay Giáo Hội hằng rao giảng. Chính những điều này. Những bổn phận về công bình xã hội và tình yêu thương quan trọng hơn những bổn phận về nghi lễ. Các Ngài đã không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng: Giúp những người nghèo khó, trung tín trong đời sống gia đình, công bình xã hội trong công ăn việc làm, định mức giá cả, thuế má, đồng lương. Ngôn sứ Za-ca-ri-a cũng kêu gọi: “Hãy thực hiện công bình theo chân lý, thực hành lòng yêu thương đối với nhau. Chớ áp bức kẻ góa bụa, mồ côi, khách lạ, nghèo khó và đừng mưu mô trong lòng để hãm hại nhau” (7, 9-10).
Không trong sạch:
Nhờ so sánh những lời Đức Giêsu khiển trách biệt phái, chúng ta thấy đó cũng là những lời khiển trách chúng ta. Phải, Người khiển trách tôi, khiển trách bạn: “Các ngươi lọc con muỗi, nhưng lại nhốt con lạc đà”, “Các ngươi rửa sạch chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ”, bất công, lừa đảo lẫn nhau.
Chỉ con tim trong sạch mới nhìn thấy rõ Thiên Chúa. Không phải cái bên ngoài vào miệng làm cho con người ra nhơ bẩn, nhưng cái bên trong con người ra, mới làm nhơ bẩn con người thật sự. (Mt. 15, 11. 15-20)
JM
SUY NIỆM 4: HÃY HỒI TÂM VÀ HOÁN CẢI (Mt 23, 23-26)
Trong tình huynh đệ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có buổi gặp gỡ các đức giám mục Hàn Quốc vào chiều ngày 14-8-2014 nhân dịp ngài thăm đất nước này. Trong bài phát biểu, ngài đã nói:
“Anh em là con cháu của các vị tử đạo, là những người thừa kế chứng tá đức tin anh dũng của các vị nơi Chúa Kitô [... ]. Thật là điều đầy ý nghĩa sự kiện lịch sử Giáo Hội tại Hàn Quốc được khởi đầu với một cuộc gặp gỡ trực tiếp với Lời Chúa. Đó là một vẻ đẹp nội tại và sự toàn vẹn của sứ điệp Kitô, Tin Mừng và lời mời gọi hoán cải, canh tân nội tâm và sống đời bác ái”.
Khi gợi lại gương sáng chứng nhân anh dũng của các thánh tử đạo và mời gọi Giáo Hội tại Hàn Quốc noi gương các ngài để tiếp bước trên con đường chứng nhân, hẳn Đức Thánh Cha cũng muốn tất cả mọi người noi gương đời sống yêu thương, tin tưởng và cậy trông nơi Chúa tuyệt đối như các thánh. Đồng thời, ngài cũng mời gọi mọi người hãy hồi tâm, hoãn cải nếu chưa sống theo tinh thần Tin Mừng.
Thật vậy, hồn người tông đồ sẽ trống rỗng khi khái niệm hồi tâm không thường trực trong con người của mình.
Cũng vậy, chúng ta sẽ trở nên hình thức, hào nhoáng bên ngoài nếu không có những khoảnh khắc hoãn cải để canh tân đời sống nội tâm.
Và, mọi chuyện trở nên “công dã tràng” khi không gieo vào đó hạt mầm bác ái, yêu thương qua lời nói, trong hành động và nơi phụng vụ.
Sư điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm một cuộc “thanh tẩy nội tâm”. Tức là trở về với lòng mình để đối diện với Thiên Chúa, hầu thấy được điều nên làm và điều không nên làm. Điều đúng phát huy. Điều sai phải từ bỏ.
Nếu không “thanh tẩy nội tâm”, có lẽ chúng ta không khác gì những Kinh Sư và Pharisêu khi xưa: họ luôn quan tâm đến bề ngoài mà bên trong thì rỗng tuếch. Họ lo rửa chén đĩa bên ngoài, nhưng bên trong tâm hồn thì toàm là “hôi thối, xấu xa” bởi những tham lam, ích kỷ và hận thù. Họ nói yêu thương, nhưng thực ra họ là những người phản lại sứ điệp “yêu thương” khi bất bao dung, vô cảm với người nghèo, bà góa và những người thấp cổ bé họng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên chứng nhân của Chúa cách trung thành. Có thế, chúng con mới thực sự xứng đáng trở thành người loan truyền sứ điệp của Chúa cho anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP