Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
26/12 Tử Đạo tiên khởi
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Tử Đạo tiên khởi.
Thứ Ba – Ngày thứ hai tuần Bát Nhật Giáng Sinh – THÁNH TÊPHANÔ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI. Lễ kính.
"Không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha"
LỜI CHÚA: Mt 10,17-22
Ngày ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:
"Chúng con hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp chúng con cho công nghị, họ sẽ đánh đòn chúng con nơi hội đường. Vì Ta, chúng con sẽ bị điệu đến trước vua quan, để làm chứng trước mặt họ và các dân.
Nhưng khi người ta nộp chúng con, chúng con chớ lo lắng phải nói sao và nói gì, vì không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha chúng con sẽ nói thay cho.
Anh sẽ nộp em cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết.
Vì Ta, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Xin nhận lấy hồn con
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Giáo Hội mừng kính lễ thánh Têphanô vào ngay sau lễ Giáng Sinh.
Ngài đã chết như chứng nhân đầu tiên cho Chúa Giêsu.
Người làm chứng đã trở thành người tử đạo.
Stêphanô là một phó tế đầy đức tin và Thánh Thần (Cv 6, 5),
đầy ân sủng và quyền năng, làm được những điềm thiêng dấu lạ (c. 8).
Ông gặp sự chống đối từ một số người Do Thái gốc Hy Lạp (c. 9).
Nhưng họ không địch nổi sự khôn ngoan và Thần Khí nơi ông.
Ông đã bị bắt, bị đem ra xử trước Thượng Hội Đồng (c. 12).
Stêphanô đã giảng một bài dài về dòng lịch sử cứu độ (Cv 7).
Chính bài giảng này đã khiến họ tức điên lên chống lại ông.
Khi đứng trước Thượng Hội Đồng Do Thái giáo,
khuôn mặt của Stêphanô giống như thiên thần (Lc 6, 15).
Ông nhìn lên trời, thấy trời mở ra và thấy vinh quang Thiên Chúa.
Nhưng hình tượng quan trọng ông thấy là Đức Giêsu.
Ngài đang đứng ở bên hữu Thiên Chúa, ở vị trí danh dự (c. 56).
Ông đã tuyên xưng trước mặt mọi người điều mình vừa thấy.
“Tôi thấy Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa. ”
Stêphanô gọi Đức Giêsu là Con Người,
một lối nói Đức Giêsu vẫn hay dùng để nói về bản thân.
Tuyên xưng của ông bị coi là xúc phạm đến Thiên Chúa.
Những người nghe đã xông vào, lôi ông đi và ném đá ông ở ngoài thành.
Stêphanô bị ném đá vì tội nói phạm thượng (cc. 57-58).
Thật ra ông đã chỉ làm chứng về Đấng Công Chính là Đức Giêsu (c. 52).
Cái chết tử đạo của Stêphanô được thánh Luca kể lại
với những nét giống với cái chết trước đó của Đức Giêsu.
Cái chết của ông là cái chết an hòa và bao dung.
Như Đức Giêsu trên thập giá, ông chết khi ông đang cầu nguyện.
Đức Giêsu đã kêu lên Thiên Chúa, Đấng mà Ngài âu yếm gọi là Cha:
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).
Khi cận kề với cái chết, Stêphanô cũng cầu xin với Đấng ông vừa thấy:
“Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con” (c. 59).
Ông gọi Đức Giêsu phục sinh là Chúa và ông trao đời ông cho Ngài,
như Ngài đã trao đời Ngài trong Cha.
Như Đức Giêsu, Stêphanô đã kêu một tiếng lớn trước khi chết,
Ông chết trong tư thế quỳ, đống đá đè trên người ông và vùi lấp ông.
Ông chết trong tư thế cầu nguyện cho kẻ giết mình.
“Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (c. 60).
Bầu khí xử án Stêphanô là bầu khí của Ba Ngôi.
Có sự hiện diện của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu và Thánh Thần.
Thánh Thần giúp chúng ta làm chứng về Chúa Giêsu cho thế giới.
Ơn gọi Kitô hữu bao giờ cũng đòi chúng ta lội ngược dòng.
Ngược dòng với thế gian, với những cám dỗ đến từ chính lòng mình.
Không chỉ trao linh hồn ta vào tay Chúa lúc ta gần chết,
chúng ta phải trao đời ta vào mỗi buổi sáng và trong suốt hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Triều thiên
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tê-pha-nô là triều thiên. Ngài là triều thiên của người môn đệ. Được vinh dự tôn kính ngay sau ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Không chỉ vì là vị tử đạo đầu tiên trong Hội Thánh. Nhưng còn vì ngài nên giống Chúa Giê-su. Nên một với Chúa Giê-su. Và vì thế trở thành vị chứng nhân cho Nước Trời.
Tê-pha-nô là triều thiên của người môn đệ. Vì ngài theo sát Chúa Giê-su. Hoàn toàn từ bỏ mình. Vác thánh giá mình mà theo Chúa. Như Chúa truyền dạy. Ngài kết hợp mật thiết với Chúa. Và nhất là đã đồng hoá với Chúa. Chịu chết như Chúa. Và trong giờ chết ngài ăn nói cư xử y hệt Chúa. Như Chúa ngài phó thác linh hồn khi kêu lên: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con”. Như Chúa ngài xin tha thứ cho kẻ giết mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Phải kết hợp chặt chẽ với Chúa Giê-su nên trong giờ phút nguy nan nhất lời nói và hành động bộc phát ra như trong lòng đã ấp ủ sâu xa.
Tê-pha-nô là triều thiên của các chứng nhân. Vì ngài không chỉ làm chứng bằng lời nói. Nhưng còn bằng chính đời sống. Ngay lúc bị xử tử ngài làm chứng rằng: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”. Thật là một bằng chứng hùng hồn. Chân thực và sống động. Ngài chẳng màng gì đến thân xác trần gian đang bị hành hạ đau đớn. Ngài chỉ hướng về trời. “Ông đăm đăm nhìn trời”. Và thấy vinh quang Thiên Chúa đã làm quên đi những đau khổ đang hành hạ. Đó là bằng chứng trung thực nhất.
Ngài đã thực hiện đúng lời Chúa: “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho các dân ngoại”. Và còn hơn nữa: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”. Quả thật, Tê-pha-nô đầy tràn Thánh Thần nên “họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông”.
Ngài quả thật là triều thiên của Chúa ban cho nhân loại. Xin triều thiên ngài chiếu sáng tâm hồn con. Để con được trở nên môn đệ đích thực. Và làm chứng cho Nước Trời trong thế giới tục hoá ngày càng mạnh này.
Suy Niệm 3: Cuộc Tử Ðạo Tiên Khởi Của Thánh Stêphanô
(Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Hôm nay lễ kính thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội. Giữa bầu khí an bình hân hoan của Mùa Giáng Sinh mà mừng kính một vị tử đạo thì xem ra không bình thường, vì sự tử đạo thường gợi lên máu đào và chết chóc. Nhưng chắc chắn Giáo Hội đã có một lý do rất đặc biệt để mừng lễ của vị tử đạo tiên khởi này vào ngay sau Lễ Giáng Sinh.
Trong lá thư gởi cho các thiếu nhi khắp thế giới được ký vào ngày 3/10/1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II xem ra muốn giải thích cho chúng ta cái lý do sâu xa ấy. Ngài viết cho các em thiếu nhi như sau: "Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là đến ngày lễ theo truyền thống của Cựu Ước, tám ngày sau đó Hài Nhi đã được đặt tên, tên của Ngài là Giêsu".
Sau bốn mươi ngày chúng ta tưởng niệm việc Ngài được dâng hiến trong đền thờ giống như bất cứ đứa con trai đầu lòng nào của Israel. Trong dịp này, một cuộc gặp gỡ phi thường đã diễn ra, vừa cùng với Hài Nhi đến trong đền thờ, Mẹ Maria đã gặp cụ già Simêon. Cụ đã bồng Hài Nhi Giêsu trên tay và tiên báo như sau: "Lạy Chúa, giờ đây xin để tôi tớ Chúa được ra đi bình an theo như lời Chúa hứa, vì chính tôi tớ Chúa đã thấy ơn cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân. Ðó là ánh sáng soi cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài". Sau đó ông nói với Mẹ Maria: "Con Trẻ này sẽ là duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy, Con Trẻ là dấu hiệu bị người đời chống đối, và chính là một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà. Ngõ hầu những ý nghĩ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra".
Như vậy, ngay từ những ngày đầu của cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta đã nghe được lời tiên báo về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, và cũng ám chỉ đến cuộc tử đạo của Maria, Mẹ Ngài. Ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Mẹ sẽ đứng thinh lặng bên Thập Giá của Con Mẹ. Cũng thế, không bao lâu sau khi Chúa Giêsu được sinh hạ thì Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một mối đe dọa trầm trọng. Ông vua hung bạo Hêrôđê sẽ ra lệnh tàn sát tất cả các trẻ em dưới hai tuổi. Và vì lý do này, Chúa Giêsu sẽ phải bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai Cập.
Chắc hẳn tất cả chúng con đã biết các biến cố gắn liền với việc sinh hạ của Chúa Giêsu. Cha mẹ chúng con, các linh mục, các giáo lý viên và những biến cố ấy, và cùng với toàn thể Giáo Hội, mỗi người trong chúng con sống lại một cách thiêng liêng trong biến cố ấy trong Mùa Giáng Sinh. Như vậy, chúng con đã biết những khía cạnh bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu.
Sống lại một cách thiêng liêng những biến cố bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu, đó không phải là những lời nhắn nhủ mà Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II gởi riêng cho các em thiếu nhi. Vì qua các em, Ngài cũng mời gọi tất cả mọi người sống một cách thiêng liêng cuộc tử nạn của Chúa Giêsu ngay trong chính mầu nhiệm Giáng Sinh.
Mầu nhiệm Giáng Sinh gắn liền với mầu nhiệm Tử Nạn Thập Giá của Ngài. Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước, có lẽ đó là lý do tại sao ngay ngày thứ nhất của tuần bát nhật Giáng Sinh, Giáo Hội mừng kính vị thánh Tử Ðạo tiên khởi là thánh Stêphanô.
Thật thế, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về mầu nhiệm tử nạn được tiếp diễn trong lịch sử Giáo Hội. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáng Sinh. Phải chăng chúng ta không được mời gọi để nhận ra bóng đêm của mầu nhiệm tử nạn? Bóng Thánh Giá phải chăng đã không chập chờn phủ xuống trên máng cỏ của Hài Nhi Giêsu? Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ ôn lại những bi thảm trong thời thơ ấu của Ngài. Khi tưởng niệm việc tử đạo vị thánh tiên khởi của Giáo Hội, chúng ta hẳn phải được nhắc nhở về số phận ơn gọi làm Kitô hữu của chúng ta, đó là bước theo Chúa Giêsu qua từng giai đoạn của cuộc sống Ngài, và như Ngài, như vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội đã vạch ra cách sống kiên trung cho đến cùng trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa.
Ước gì niềm vui Giáng Sinh củng cố chúng ta trong những cố gắng theo Chúa Giêsu, sẵn sàng đón nhận và đương đầu với những thử thách bách hại mà Thiên Chúa an bài gởi đến cho chúng ta, như Ngài đã loan báo trước: "Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người thù ghét".
Suy Niệm 4: Muốn được Chúa bình an, phải đương đầu với nhiều đối kháng
Chúng ta mới mừng lễ Chúa Giáng Sinh ngày hôm qua, dân Chúa tiếp tục phụ họa tiếng hát thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Lời ca này như còn đang văng vẳng bên tai, thế mà ngày hôm sau (26/12), Phó tế Stêphanô là mẫu người sống hết lòng tin theo Chúa Giêsu, thì bình an chẳng đến với ông, trái lại bị nhiều người căm phẩn, họ hùa nhau ném đá cho chết, đó là mẫu người được hưởng sự bình an Chúa Giáng Sinh ban đấy ư? Đúng thế, Chúa Giêsu đã nói với những môn đệ đi theo Ngài: “Thầy ban bình an chúng con không như thế gian ban” (Ga 14,27). Do đó, những kẻ ước mơ thứ bình an “rẻ tiền” để hưởng thụ, thì Chúa Giêsu dạy: “Đừng tưởng Ta đến đem bình an trên mặt đất, ta đến không phải đem bình an, mà là đem gươm giáo. Ta đến gây chia rẽ ngay nơi những người trong cùng một gia đình, và kẻ thù của người ta lại là người nhà của mình” (Mt 10,34-36). Quả thật, những người Do Thái cùng gọi Thiên Chúa là Cha, cùng tôn thờ Ngài theo Luật Môsê hướng dẫn để tin vào Chúa Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất (x Gl 3,24), thì chính những người này lại đối nghịch với ông Stêphanô, vì ông đã chia rẽ niềm tin của họ. Đó là lý do họ quyết liệt loại trừ ông khỏi mặt đất.
Chúng ta còn nhớ ngày Đức Giêsu bị xét xử, ông Philatô không muốn nhúng tay vào tội ác giết Ngài, nên ông nói với người Do Thái: “Các ông cứ đem xử theo Luật của các ông”, thì người Do Thái lại trả lời: “Chúng tôi không có phép lên án xử tử ai” (Ga 18,31). Người Do Thái trả lời cho ông Phi-la-tô như thế, là vì vào thời ấy, Do-thái đang bị đặt dưới ách thống trị Roma, quyền bính Roma không cho phép người Do Thái lên án xử tử ai, dù Luật Do Thái cho phép họ ném đá kẻ nào phạm đến Luật Môsê. Thế mà tại sao những người Do Thái lại tự quyền ném đá ông Stê-pha-nô? Thưa vì vào năm 36, tổng trấn Phi-la-tô đang cai trị miền Giu-đa, ông bị hoàng đế triệu về Roma, mãi đến năm 37 Roma mới đặt tổng trấn Marxili cai trị miền Giuđa, như thế người Do Thái lợi dụng lúc không có ai điều hành pháp luật, họ đã ném đá Stêphanô cho chết ! Sự cố này đã làm ứng nghiệm Lời Chúa Giê-su nói: “Kẻ thù là người nhà của mình” (Mt 10,36). Khi Phó tế Stêphanô bị “người nhà” ném đá, tâm tư ông giống hệt Chúa Giêsu, lúc sắp chết ông hướng tâm hồn về đồi Golgotha, chiêm ngưỡng Đức Giêsu bị treo trên thập giá, và ông bắt chước Ngài cầu nguyện cho kẻ hại mình: “Lạy Chúa Giêsu, xin đoái nhận hồn con, và xin Chúa đừng chấp tội kẻ hại con” (Lc 23,34-46 = Cv 7,59-60). Như thế nội dung lời cầu nguyện của ông Stêphanô giống hệt nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá, chỉ khác một điều là ông đã đảo lộn thứ tự lời cầu: Đức Giêsu thì cầu nguyện cho kẻ hại mình trước, sau đó mới phó dâng linh hồn cho Chúa Cha, xem ra như Ngài muốn yêu sách: Nếu Cha không tha tội cho kẻ hại Con, thì Con không dám dâng hồn Con cho Cha ; Còn ông còn Stêphanô, vì là phàm nhân nên cần được Thiên Chúa cứu độ mình trước, ông mới có khả năng cứu được người khác, nên ông đã cầu nguyện: Xin Chúa đón nhận lấy hồncon trước, sau đó ông mới xin Chúa tha tội cho kẻ giết ông. Chính nhờ ông Stêphanô biết cầu nguyện cho kẻ hại mình, ông đã thực hành đúng Lời Đức Giêsu đã dạy: “Hãy yêu mến thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Sống như thế mới được đồng danh với Chúa Giêsu vì cùng là Con Đấng Tối Cao (x Lc 1,32 = Lc 6,35). Nhờ ông Stêphanô cầu nguyện cho những kẻ giết mình, nhất là cầu cho Saulô, kẻ ôm áo động viên những người Do Thái ném đá ông (x Cv 7,58: Bài đọc). Hiệu quả lời cầu nguyện ấy là Chúa biến “sói Saulô” thành “bồ câu Phaolô” đem Tin Mừng bình an đến cho muôn dân. Đó mới thực là phúc bình an Chúa ban cho ai biết dùng “gươm” chân lý để chiến đấu. Bởi vậy trong giờ Kinh Phụng Vụ buổi Sáng kính thánh Stêphanô, Hội Thánh đã đặt vào miệng chúng ta lời Thánh vịnh: “Thanh gươm hai lưỡi (Lời Chúa) cầm chắc trong tay, để trả thù muôn nước và trừng trị chư dân, để xiềng chân vua chúa (kẻ ác), và xích cổ vương hầu, để thi hành án phạt, Chúa đã viết từ xưa, đó là niềm vinh dự cho những kẻ trung hiếu với Người” (Tv 149,6-9).
Để sống niềm tin vào Chúa Kitô như ông Stêphanô, chúng ta phải cầu nguyện: “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con, xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con. Xin giải thoát con khỏi tay địch thù, khỏi người bách hại con” (Tv 31/30, 3. 4. 6a. 16bc: Đáp ca).
Suy Niệm 5: Tin vào Chúa Kitô là hy vọng nơi ngày cánh chung
(Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh)
Trong mùa Vọng, người Kitô hữu ai cũng thích nghe lời ngôn sứ Isaia tiên báo về thời đại Thiên Chúa ra tay cứu độ loài người thoát khỏi mọi sự dữ: “Sói sống chung với chiên, trẻ con thọc tay vào hang rắn lục…” (Is 11,1-4: Bài đọc). Có nghĩa là vào thời Con Thiên Chúa làm người, kẻ ác không còn làm hại người lành, sự thiện thắng sự dữ, hoặc kẻ ác, người lành vẫn sống chung hòa bình, nhờ Đấng Cứu Thế đến như Mục Tử chăn dắt con chiên thuộc ràn của Ngài. Thế mà Đấng ấy đã đến trần gian gần 40 năm rồi, và Ngài đã đánh gục tử thần, sống lại vinh hiển ; rồi về Trời dọn chỗ cho những kẻ đi chung đường phục vụ với Ngài (x 1Ga 2,6), và tiếp tục tuôn đổ bình an xuống cho loài người Chúa thương. Vậy tại sao Chúa lại để cho “sói Saulô” vẫn ăn thịt “chiên Stêphanô”, và rắn lục là các đầu mục Do Thái vẫn cắn chết “trẻ thơ Stê-pha-nô”?
Thắc mắc này chỉ có thể trả lời vào ngày cánh chung, vì ngày ấy mới thấy “sói Saulô” và “chiên Stêphanô” sống chung với nhau. Khi ấy “sói Saulo” và “chiên Stêphano” có thể đùa giỡn với nhau.
Hãy hình dung:
Stêphanô vừa thấy Phaolô tới cửa Thiên Đàng, ông Stêphanô lên tiếng thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, tên này xưa kia động viên người ta ném đá con, nay hắn lại vào đây, chắc rồi hắn sẽ lại kích động cả các thần thánh ném đá Chúa không chừng?
Ông Phaolô cũng không vừa, ông kêu cầu tới Chúa:
- Lạy Chúa, Ngài dạy phải tha thứ cho kẻ thù mình tới 70 lần 7 mỗi ngày, thế mà anh Stêphanô này được vào Thiên Đàng trước con mà tâm hồn vẫn còn chấp nhất tìm cách trả thù kẻ đã hại mình kìa.
Lúc ấy, hẳn Chúa Giêsu lên tiếng can thiệp:
- Thôi mà hai anh em con đừng chọc ghẹo nhau nữa.
Thế là hai ông ôm nhau khóc bởi qua vui mừng: Nhờ Stêphanô đã cầu nguyện cho Saulô mà Chúa xuất hiện đón lấy hồn Stêphanô ; còn Saulô được Stêphanô cầu nguyện mà ông trở nên Tông Đồ xuất sắc không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5), nay cùng nhau được sum họp trên Thiên Đàng hưởng phúc vinh với Chúa.
Vậy hai ông Stêphanô và Phaolô đã minh họa “sói – chiên” sống chung với nhau trong bình an vô tận với Chúa.
Suy Niệm 6: Vinh dự lớn lao là được chết cho Chúa
Xét theo góc độ con người thì khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay, hẳn mỗi người cảm thấy buồn buồn! Buồn bởi vì niềm vui mừng, hân hoan của cả thế giới đón chào Chúa Giáng Sinh chưa hết, thì hôm nay, lời Đức Giêsu làm chúng ta không khỏi ngỡ ngàng cho những ai bước vào sứ mạng làm môn đệ của Đức Giêsu, Ngài phán: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy”.
Lời loan báo của Đức Giêsu đi ngược hẳn với các nhà lãnh đạo thế gian. Thật vậy, khi muốn chiêu mộ ai, người đời thường đưa ra những lời đường mật, an ủi, họ đưa dẫn chúng ta đi trên con đường đầy hoa thơm, và hứa hẹn những sự dễ dãi ... cho người mà họ muốn chiêu dụ ... Nhưng làm môn đệ của Đức Giêsu thì khác hẳn: những thử thách, đau thương và đôi khi cả chính cái chết là là những quà tặng mà người môn đệ sẽ nhận được trong cuộc đời sứ vụ của mình.
Kinh nghiệm cho thấy, trải qua biết bao thế hệ, hàng hàng, lớp lớp những môn đệ của Đức Giêsu khắp năm châu đã phải đón nhận những hệ quả tang thương đó. Tuy nhiên, những đau khổ đó không thể làm chùn chân bước của các môn đệ. Lớp này ngã xuống, lớp kia đứng lên, đến nỗi những người gây ra những tội ác đó cũng phải ngỡ ngàng và không hiểu nổi! Tuy nhiên, đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta hiểu được nguyên lý đó, vì: “Hạt lúa cuộc đời phải mục nát đi thì mới sinh được nhiều bông hạt khác”; hay “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”. Đây là nguyên lý bất hủ và trường tồn vĩnh viễn nơi những người con của Chúa. Vì thế, không ai và không có gì có thể dập tắt được tình yêu của những người “say men Giêsu”.
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng kính lễ thánh Têphanô, ngài là một người can đảm, anh hùng hào kiệt. Chắc hẳn, thánh nhân đã cảm nghiệm được sâu xa nguyên lý của hạt lúa trong thân phận tự hủy. Bởi lẽ, sự hào hùng, can trường mới làm toát lên đặc tính của những người thuộc về Đức Kitô là: không bao giờ và không thể chấp nhận thỏa hiệp với sự dữ, sự tội. Vì thế, thánh nhân đã xuất sắc trong khi thi hành sứ vụ, bởi vì ngài được tình yêu Đức Kitô nung đốt tâm hồn. Thánh Têphanô xứng đáng lãnh nhận lời khen ngợi của Kinh Thánh: ngài là người “đầy lòng tin và đầy Thánh Thần". Quả thật, ngài đã hăng say rao giảng về Đức Giêsu, và sẵn sàng đón nhận chính cái chết để làm chứng về Đấng mà mình loan báo.
Thánh Têphanô đã thay đổi thế cuộc, vì lúc ban đầu là một phiên tòa ghê rợn với bản án tử hình khủng khiếp với trò ném đá đến chết bị cáo; cảnh náo động bao trùm phiên tòa bất chính này, nhưng bị cáo hôm nay thì khác hẳn, và chính lúc mọi người thi hành án thì ngài lại cảm thấy bình an, thanh thoát, nhẹ nhàng và tràn đầy hy vọng. Khung cảnh này đã làm đảo ngược tình thế, và cáo trạng mà người ta gán ghép cho Têphanô giờ đây lại chất vấn lương tâm họ, khiến họ cảm thấy bất an và lo sợ.
Trong xã hội ngày nay, nhiều người trong chúng ta còn ái ngại, dè dặt khi loan báo về sự thật mà Giáo Huấn của Đức Giêsu cũng như Giáo Hội mời gọi. Có khi vì cảm thấy sợ hãi, liên lụy đến tính mạng mà im hơi lặng tiếng để cho qua cầu; hoặc cũng có thể rơi vào tình trạng như đức Hồng Y Thuận đã nói: họ là những hạng người: “Sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen”, nên khi không có lợi cho bản thân là họ sẵn sàng trở thành kẻ nịnh thần để cho xong chuyện ...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta can đảm, trung thành làm chứng cho Chúa dẫu có gặp phải thử thách gian truân. Noi gương thánh Têpphanô, sống chết vì sứ vụ, miễn sao sự thật được loan báo và Đức Kitô được tin nhận.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con khi mừng kỷ niệm ngày Chúa giáng trần, thì cũng hiểu được sứ vụ của Chúa trong tương lai và trách nhiệm của người môn đệ khi bước theo Chúa trên con đường đó. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Không thuộc về thế gian
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu tiên báo sự bách hại. Tin theo Chúa, chúng ta sẽ bị người đời đối kháng. Nhưng ta không được sợ hãi, vì Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ý định của Chúa khi Chúa đến trần gian là để con được trở nên con người sống cho Thiên Chúa, không thuộc về thế gian. Và như thế con sẽ gặp cảnh bị ghét bỏ. Có những lúc vì sống theo Lời Chúa, con bị thế gian cười chê. Con cũng có thể bị mất nhiều quyền lợi chỉ vì con thuộc về Chúa. Ngay trong gia đình có thể con còn bị cả người nhà ghét bỏ nữa.
Cuộc đời của con theo Chúa là cuộc đời chết cho chính mình. Con sẽ luôn nhìn lên Chúa để sống. Con cũng sẽ luôn nhìn lên thánh giá để noi gương. Thánh Tê-pha-nô hôm nay Giáo hội mừng kính quả là gương chói ngời cho con. Con cũng được diễm phúc như Ngài: con đã là một người thuộc về Chúa. Con đã được diễm phúc mang danh là Kitô. Thánh Tê-pha-nô đã bị chống đối. Ngài đã bị khổ đau. Và Ngài đã thể hiện cuộc sống theo Tin mừng. Xin cho con được sống chết cho Nước Trời như Ngài, bất chấp chống đối hiềm thù.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã tuyên báo cho con biết về sự bách hại vì đạo mà con sẽ nhận lãnh trong suốt cuộc đời theo Chúa. Từ thế gian, từ gia đình, đều có những sự dấy lên ghì con sống khác Chúa. Xin Chúa giúp con luôn. Xin Chúa trợ giúp con liên tục để con được mạnh sức và khôn ngoan sống theo gương Chúa như thánh Tê-pha-nô đã sống. Xin cho con được kiên trì dâng hiến khi gặp những khó khăn vì Tin mừng và sẵn sàng yêu thương tha thứ cho mọi người gây khó dễ cho con. Cả khi họ làm hại con, xin cho con được biết thương yêu và cầu nguyện cho họ nữa. Amen.
Ghi nhớ: “Không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha”.
Suy Niệm 8: Thánh Têphanô Tử đạo
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1 Theo bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết: các ông sẽ bị người ta ganh ghét, bách hại. Họ sẽ tố cáo và sẽ nộp các ông cho vua quan. Có khi cả người thân trong gia đình cũng tố cáo giết hại nhau.
Đó là dịp may để các ông làm chứng cho Chúa. Lúc đó, Chúa Thấn Thần sẽ soi sáng cho các ông ăn nói khôn ngoan. Và ai bền đỗ theo Chúa đến cùng thì được cứu rỗi.
Thánh Têphanô được phúc chết vì Chúa trước hết. Như thế, Chúa muốn cho chúng ta biết: môn đệ phải gặp khó khăn bách hại mới xứng với Thầy, sống chết như Người ...
2. Thánh Têphanô là một trong bảy phó tế trong Giáo hội tiên khởi. Nhiệm vụ của Ngài là quản lý tài sản của Giáo hội và thường đi thăm các tín hữu trong các hang toại đạo. Ngài là người tử đạo đầu tiên của Giáo hội Công giáo. Ngài đã đi theo đúng đường lối hy sinh anh dũng của Chúa Giêsu, và do đó, được hưởng ơn cứu chuộc bằng chính máu đào đổ ra để minh chứng cho tình yêu.
Hôm qua chúng ta mừng kính Sinh nhật của Đấng Cứu Thế sinh ra cho trần gian. Hôm nay chúng ta lại mừng ngày sinh vào Nước Trời của thánh Têphanô vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội đã sống một đời sống đau khổ khải hoàn, nay về trời.
3. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Đức Giêsu loan báo cho các Tông đồ về những sự bách hại trên đường truyền giáo của các ông.
Câu mở đầu: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói ... ” (Mt 10,16) kết thúc những lời Đức Giêsu huấn thị khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, đồng thời cũng là câu cảnh giác các Tông đồ trước những sự nguy hiểm trên bước đường truyền giáo.
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng yên ủi và khích lệ các ông, vì bị bách hại là số phận thường tình của người môn đệ, vì chỉ có thế, Nước Trời mới đến được trần gian này. Nhưng giữa những cuộc bách hại, người môn đệ có được hai lý do để hãnh diện và an ủi mình:
- Một là mình vì Thầy mà bị bách hại.
- Hai là bách hại lại là dịp để đưa lời chứng hùng hồn của mình ra trước Hội đồng Do thái, vua chúa quan quyền ngoại giáo về Thầy.
4. Cái chết của thánh Têphanô là mở đầu cho cuộc bách hại trong Giáo hội. Chúng ta gọi những người được chết vì Chúa là các “người tử đạo”. Hai chữ ‘Tử đạo” chúng ta quen dùng ngày nay có nguyên ngữ Hy Lạp là Martus nghĩa là làm chứng. Người tử đạo là người làm chứng cho Chúa bằng chính những đau khổ và cái chết của mình. Bởi đó trong đoạn Tin Mừng này, khi báo trước những sự bách hại, Đức Giêsu nói: “Chúng con sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng ... ”
5. Những cuộc bách hại các Kitô hữu chắc chắn sẽ xẩy đến, nhưng đó là dịp tốt để họ làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người. Cái chết làm chứng của thánh Têphanô và các thánh Tử đạo làm ứng nghiệm những lời Chúa nói. Cuộc bách hại vì danh Chúa Kitô có thể xẩy ra ngay trong gia đình, giữa những người thân thuộc, là thành viên trong gia đình , có khi tôi phải chịu thiệt thòi, bất công, chỉ vì muốn sống theo thánh ý Chúa. Tôi có dám coi đó là cơ hội tốt để làm chứng cho Chúa không?
6. Trong cuộc Tử đạo của thánh Têphanô, chúng ta thấy Ngài có một thái độ hết sức đáng khâm phục, đó là biết tha thứ cho kẻ hành hạ mình. Sách Công vụ Tông đồ còn ghi lại: Họ ném đá Têphanô đang lúc ông cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quì xuống kêu lớn tiếng: “ Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ (Cv 5,59-60).
Thánh Têphanô là người chứng thứ nhất tái hiện sự tha thứ mà Chúa Giêsu đã thực hiện trên thánh giá. “Lấy ân báo oán” là phương châm hành động của thánh Têphanô. Không có cách trả thù nào cao quí hơn bằng yêu thương, tha thứ cho chính kẻ thù. Lấy bạo động để tiêu diệt bạo động, con người chỉ đổ thêm dầu vào ngọn lửa hận thù và kích thích thêm bạo động mà thôi, chỉ có tình thương, chỉ có lòng tha thứ mới có thể tiêu diệt được hận thù. Têphanô đã làm như Chúa Giêsu đã làm: “Trên Thập giá, Chúa đã tiêu diệt sự hận thù” (Ep 2,16).
7. Truyện: Tình yêu thắng hận thù.
Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: “Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết chết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà”.
Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh:
“Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết”.
Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: “Tôi là một tín hữu Kitô”, và với niềm tin cả anh lính người Anh và bà mẹ người Đức đã để cho Lời Chúa tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, và đưa họ vào con đường yêu thương.
Suy Niệm 9: Cuộc bách hại đối với các môn đệ Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Phân tích
Chúa Giêsu tiên báo những cuộc bách hại đối với các môn đệ Ngài:
- Bách hại do những nhà cầm quyền thù nghịch với Chúa. Nhưng đó là dịp để ta làm chứng cho Chúa.
- Bách hại do chính những người thân của mình (cha mẹ, anh em, con cái) vì họ không đồng quan điểm đức tin với mình. Nhưng hãy kiên trì, vì “ai bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát. ”
Suy gẫm
1. Hai chữ tử đạo chúng ta quen dùng ngày nay có nguyên ngữ Hy Lạp là Martus nghĩa là làm chứng. Người tử đạo là người làm chứng cho Chúa bằng chính những đau khổ và cái chết của mình. Bởi đó trong đoạn Tin mừng này, khi báo trước những sự bách hại, Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng ... ”
2. Thánh là ai? Ngày kia một em bé theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai mẹ con đi qua một thánh đường nguy nga. Em bé ngước nhìn thánh đường rồi đưa tay chỉ mẹ và nói: “Mẹ xem kìa, những cửa kính màu bám đầy bụi, trông chả đẹp tí nào. ”
Bà mẹ không nói gì, nhưng lại nắm tay con dẫn vào bên trong thánh đường. Từ bên trong thánh đường nhìn ra, những cửa kính dơ bẩn xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc tuyệt đẹp. Em bé ngạc nhiên mở to mắt nhìn. Em thích thú đặc biệt khi ngắm nhìn 4 vị thánh trên cửa kính sau bàn thờ đang rực rỡ chói lòa nhờ ánh mặt trời chiếu thẳng qua.
Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ cô giáo hỏi: “Các em có biết vị thánh là ai không?” Trước câu hỏi bất ngờ, cả lớp đều thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào nhà thờ hôm trước giơ tay xin trả lời. Em nói: “Thưa cô, vị thánh là người được ánh sáng mặt trời chiếu qua. ”
Stêphanô là một vị thánh vì ngài đã phản ánh Chúa Giêsu, nhất là qua cái chết của ngài. Bài đọc I (Cv 6,8-10 7,54-60) tường thuật ngài chết giống Chúa Giêsu: cũng phó linh hồn trong tay Chúa (c. 59) và cũng cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ hại mình (c. 60).
3. “Vì danh Thầy các con sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền đỗ đến cùng thì sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22)
Một người bạn hỏi tôi: “Bạn có thấy anh ấy đã làm điều xấu xa đó không?” Dù thấy nhưng tôi đã trả lời không, vì anh ấy là con của thầy hiệu phó, và vì tôi không muốn bị liên luỵ. Điều này làm tôi ray rứt. Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã nhát đảm không dám nói lên sự thật.
Thánh Stêphanô đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật. Còn tôi hôm nay chưa phải hy sinh đến mạng sống mà đã chối quanh, thì thử hỏi làm sao dám bênh vực và đấu tranh cho sự thật?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, có những lúc con đã sống hèn yếu như vậy. Xin cho con cảm nghiệm được sự bình an và niềm hạnh phúc của người biết làm chứng cho sự thật.
Suy Niệm 10: Thánh Têphanô
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dặn dò các môn đệ ba điều:
- Số phận những người theo Chúa là chịu bắt bớ như Ngài: Họ sẽ nộp anh em cho Hội Đồng. Nhưng trong những thử thách đó, người môn đệ cảm thấy được an ủi, vì đó là dịp làm chứng cho Thầy. Sau này sách Công vụ còn nói: Các Tông đồ hân hoan vì cảm thấy xứng đáng chịu khổ vìChúa Kitô.
- Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành với họ trong những cuộc bắt bớ và sẽ dạy họ phải nói gì trước những kẻ bắt bớ. Lý lẽ hùng hồn của Stêphanô đã minh chứng điều đó.
- Lời dặn thứ ba là nhiều khi chính những người thân thuộc sẽ bắt bớ họ, cũng như Chúa Giêsu đã chịu đồng bào mình lên án chết: Anh sẽ nộp em, cha nộp con cho ngươi ta giết.
Khi suy gẫm những lời dặn đò của Chúa hôm nay, tôi có cảm tưởng Chúa cũng đang dặn dò chúng ta như vậy:
- Người tông đồ nhiều khi bị hiểu lầm, bị bách hại. Đó là số phận chung của những người theo Chúa.
- Nhưng trong những thử thách của đời sống đức tin, dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta vui mừng vì có dịp làm chứng cho Chúa.
- Và chúng ta đừng lấy làm lạ, nhiều khi những người làm khổ chúng ta, bách hại chúng ta không là ai khác mà lại chính là những người thân của chúng ta, vì hiểu lầm không biết hay vì ác ý. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị môn đệ thân tín là Giuda bán đứng.
2. Mừng lễ thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương ngài. Ngài là một vị phó tế của cộng đoàn Jêrusalem (Cv 6,5) một người được mô tả là đầy Thánh Thần. Ngài được trao phó làm việc bác ái trong cộng đoàn, nhưng sách Công Vụ cho thấy là các phó tế vẫn tham dự vào việc giảng dạy và bênh vực đức tin. Trước khi chịu chết, Stêphanô đã giảng một bài thật dài và thật hùng hồn, tóm tắt lịch sử ơn cứu độ để minh chứng và qui trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu cho các Thượng tế, luật sĩ và Pharisiêu. Và cũng vì lời giảng dạy đó mà Stêphanô phải chịu ném đá chết.
Cuộc tử đạo của Stêphanô được diễn ra theo mô hình của cuộc khổ nạn của Chúa Kitô: người ta cũng xách động dân chúng làm chứng gian chống lại ông; ông đối chất với Thượng tế có uy quyền trước mặt mọi người. (Cv 6,15). Ông nhìn thấy Con Người tức là Chúa Giêsu bên hữu Chúa Cha (7,55). Ông cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết ông (7,60). Cuộc thương khó của thánh Stêphanô giống hệt cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Trong quang cảnh này có nhiều điều đáng ghi nhận về Stêphanô:
a/ Chúng ta thấy được bí quyết lòng can đảm của ông. Vượt trên những gì người ta có thể làm hại ông, ông đã thấy Chúa của ông đang chờ đợi để đón tiếp ông. Ông thấy cái chết của người tử đạo là cánh cửa mở ra, đưa ông đến với Chúa Cứu Thế.
b/ Chúng ta thấy Stêphanô đã có những cách ứng xử thật giống Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Thiên Chúa tha tội cho kẻ giết Ngài, thì Stêphanô cũng làm y như vậy.
Trong lời cầu nguyện của thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương thánh Stêphanô yêu thương cả kẻ thù.
Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: "Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà!"
Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh:
"Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều được sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết".
Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: "Tôi là một tín hữu Kitô", và với niềm tin xác tín này, cả anh lính người Anh và bà Mẹ người Đức đã không để cho chiến tranh lôi kéo mình vào trong trận chiến của ghen ghét và hận thù. Trái lại, họ đã để cho giáo huấn của Đức Giêsu tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: "Mắt đền mắt, răng đền răng", và đưa họ vào con đường yêu thương, hoà giải: "Các con hãy yêu thương những kẻ thù địch của các con, hãy làm ơn cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống các con. " (Mt 5,44). Amen.
Suy Niệm 11: Thánh Têphanô yêu thương những kẻ thù địch
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dặn dò các môn đệ ba điều:
- Số phận những người theo Chúa là chịu bắt bớ như Ngài: Họ sẽ nộp anh em cho Hội Đồng. Nhưng trong những thử thách đó, người môn đệ cảm thấy được an ủi, vì đó là dịp làm chứng cho Thầy. Sau này sách Công vụ còn nói: Các Tông đồ hân hoan vì cảm thấy xứng đáng chịu khổ vì Chúa Kitô.
- Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành với họ trong những cuộc bắt bớ và sẽ dạy họ phải nói gì trước những kẻ bắt bớ. Lý lẽ hùng hồn của Stêphanô đã minh chứng điều đó.
- Lời dặn thứ ba là nhiều khi chính những người thân thuộc sẽ bắt bớ họ, cũng như Chúa Giêsu đã chịu đồng bào mình lên án chết: Anh sẽ nộp em, cha nộp con cho ngươi ta giết.
Khi suy gẫm những lời dặn đò của Chúa hôm nay, tôi có cảm tưởng Chúa cũng đang dặn dò chúng ta như vậy:
- Người tông đồ nhiều khi bị hiểu lầm, bị bách hại. Đó là số phận chung của những người theo Chúa.
- Nhưng trong những thử thách của đời sống đức tin, dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta vui mừng vì có dịp làm chứng cho Chúa.
- Và chúng ta đừng lấy làm lạ, nhiều khi những người làm khổ chúng ta, bách hại chúng ta không là ai khác mà lại chính là những người thân của chúng ta, vì hiểu lầm không biết hay vì ác ý. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị môn đệ thân tín là Giuda bán đứng.
2. Mừng lễ thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương ngài. Ngài là một vị phó tế của cộng đoàn Jêrusalem (Cv 6,5) một người được mô tả là đầy Thánh Thần. Ngài được trao phó làm việc bác ái trong cộng đoàn, nhưng sách Công Vụ cho thấy là các phó tế vẫn tham dự vào việc giảng dạy và bênh vực đức tin. Trước khi chịu chết, Stêphanô đã giảng một bài thật dài và thật hùng hồn, tóm tắt lịch sử ơn cứu độ để minh chứng và qui trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu cho các Thượng tế, luật sĩ và Pharisiêu. Và cũng vì lời giảng dạy đó mà Stêphanô phải chịu ném đá chết.
Cuộc tử đạo của Stêphanô được diễn ra theo mô hình của cuộc khổ nạn của Chúa Kitô: người ta cũng xách động dân chúng làm chứng gian chống lại ông; ông đối chất với Thượng tế có uy quyền trước mặt mọi người (Cv 6,15). Ông nhìn thấy Con Người tức là Chúa Giêsu bên hữu Chúa Cha (7,55). Ông cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết ông (7,60). Cuộc thương khó của thánh Stêphanô giống hệt cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Trong quang cảnh này có nhiều điều đáng ghi nhận về Stêphanô:
a/ Chúng ta thấy được bí quyết lòng can đảm của ông. Vượt trên những gì người ta có thể làm hại ông, ông đã thấy Chúa của ông đang chờ đợi để đón tiếp ông. Ông thấy cái chết của người tử đạo là cánh cửa mở ra, đưa ông đến với Chúa Cứu Thế.
b/ Chúng ta thấy Stêphanô đã có những cách ứng xử thật giống Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Thiên Chúa tha tội cho kẻ giết Ngài, thì Stêphanô cũng làm y như vậy. Trong lời cầu nguyện của thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương thánh Stêphanô yêu thương cả kẻ thù. Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: “Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà!”
Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh: “Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều được sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết”.
Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: ”Tôi là một tín hữu Kitô”, và với niềm tin xác tín này, cả anh lính người Anh và bà Mẹ người Đức đã không để cho chiến tranh lôi kéo mình vào trong trận chiến của ghen ghét và hận thù. Trái lại, họ đã để cho giáo huấn của Đức Giêsu tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, và đưa họ vào con đường yêu thương, hoà giải: “Các con hãy yêu thương những kẻ thù địch của các con, hãy làm ơn cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống các con” (Mt 5,44). Amen.
26/12 Vì Danh Chúa
- Viết bởi Mt 10,17-22
26/12/2023 – THỨ BA, NGÀY II TRONG TUẦN BÁT NHẬT GS
Th. Tê-pha-nô, phó tế, tử đạo tiên khởi
Mt 10,17-22
VÌ DANH CHÚA
“Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10,22)
Suy niệm: Ai cũng có thể cảm nghiệm được rằng niềm tin của chúng ta được củng cố là nhờ đời sống gương mẫu của các chứng nhân đức tin, nhất là các chứng nhân tử đạo. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su đã tiên báo cho các môn đệ biết dù bị thế gian thù ghét, bách hại, nhưng các ông không được nhượng bộ, thỏa hiệp, mà phải can trường làm chứng tá cho Chúa. Vậy mà các ông chỉ có thể thực hiện vai trò chứng tá ấy khi để Thiên Chúa hoàn toàn chi phối cuộc đời mình vì lòng yêu mến. Nhìn vào đời sống thánh Tê-pha-nô tử đạo, chúng ta thấy rõ trái tim yêu mến một lòng một dạ thực hiện lời Chúa của ngài. Chúng ta hôm nay cũng vậy thôi, khi để cho các giá trị Tin Mừng như lòng chân thành, chung thủy, bác ái… chi phối lối hành xử của mình, là ta đang sống tinh thần tử đạo, làm rạng danh Thiên Chúa.
Mời Bạn: Khao khát, mong ước được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su phải là tiền đề, kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong đời sống thường nhật của bạn và tôi. Bạn thấy sao khi được mời gọi xây dựng hình ảnh đẹp của một Ki-tô hữu trong thời đại hôm nay? Bạn đáp lại bằng phương thế nào?
Chia sẻ: Bạn đã làm gì để những người xung quanh nhận ra niềm vui mới mẻ của người được Chúa Hài Đồng ở cùng? Sống Lời Chúa: Luôn tâm niệm chỉ có Hài Nhi Giê-su mới là Hoàng tử Hòa bình đích thực, và nỗ lực sống tâm tình hòa bình ấy với người lân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban ơn can đảm cho mọi người Ki-tô hữu, để họ luôn sống đúng với tên gọi của mình, nỗ lực làm rạng danh Chúa. Amen.
25/12 Chúa giáng sinh
- Viết bởi Mt 1, 18-25
Chúa giáng sinh.
Thứ Hai – LỄ CHÚA GIÁNG SINH – Lễ Đêm.
"Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
THÁNH LỄ VỌNG
LỜI CHÚA: Mt 1, 18-25
"Maria sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu".
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
THÁNH LỄ BAN ĐÊM
LỜI CHÚA: Lc 2, 1-14
"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".
THÁNH LỄ RẠNG ĐÔNG
LỜI CHÚA: Lc 2, 15-20
"Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
THÁNH LỄ BAN NGÀY
LỜI CHÚA: Ga 1, 1-18
"Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm LỄ GIÁNG SINH
Lời Chúa:
Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18
Contents
1. Ngôi Lời là ánh sáng thật--Ga 1, 1-18--‘Manna’
2. Tin Mừng trọng đại--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
3. Tin mừng trọng đại-- Lc 2, 1-14--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
4. Ngôi Lời đã thành Người-- Ga 1, 1-18--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
5. Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta--ĐTC Gioan Phaolô II
6. Hài nhi Giêsu mang đến niềm an ủi đích thực--Lễ Đêm--ĐTC Phanxicô
7. Vinh danh Thiên Chúa trên trời--Lc 2,1-14--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Đêm Ánh Sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
9. Lời ngỏ của Tình Yêu--Ga 1,1-18--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
10. Ngôi Lời đã tỏ mình--Lễ Rạng Đông Lc 2, 15-20--TGM Giuse Nguyễn Năng
11. Lễ Ban Ngày: Mầu Nhiệm Lòng Thương Xót--TGM. Giuse Nguyễn Năng
12. Lòng thương xót của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm Giáng Sinh--GM Giuse Nguyễn Năng
13. Lễ Đêm Giáng Sinh--TGM Phaolô Bùi Văn Đọc
14. Noel: Lễ nhập cuộc--‘Nút vòng xoay’--GM. Giuse Vũ Duy Thống
15. Tình nghĩa-- GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần
16. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em--GM GB Bùi Tuần
17. “Vinh danh Thiên Chúa, bình an cho loài người”--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
18. Lời đã trở thành nhục thể--Lm Carôlô Hồ Bắc Xá
19. Thiên Chúa ở cùng chúng ta--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
20. Lễ Giáng Sinh: Con Thiên Chúa làm người--Lm Giuse Đinh Tất Quý
21. Ánh sáng đã đến chiếu soi cho mọi người trong trần thế--Ga 1, 1-18--Lm. Đan Vinh
22. Sứ điệp yêu thương của mầu nhiệm Giáng Sinh--Lm Đan Vinh
23. Nhân loại đang cần Vua Hòa Bình: lễ đêm--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
24. Đêm trời đất giao hòa--Lễ đêm giáng sinh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
25. Tại sao Thiên Chúa làm người?--Lễ Ban Ngày: Ga 1, 1-18-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
26. Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta--Lễ đêm--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
27. Bài học khiêm hạ nơi máng cỏ Belem--Lễ Đêm-- Lm. Giuse Lê Danh Tường
28. Một Người Con Được Tặng Ban Cho Nhân Loại—Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
29. Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa--Lễ đêm--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
30. Tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại--Lễ đêm--Lm Uyên Nguyễn
31. Noel! Ngày lễ Hòa Bình--Thiên Phúc
32. Ánh sáng rạng ngời--Ga 1,1-14--Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
33. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh--Lc 2,1-14--“Suy Niệm Lời Chúa”--Radio Veritas Asia
34. Ngôi Lời đã trở nên người phàm--Ga 1,1-8--Niềm Vui Chia Sẻ
35. Ôn cố tri tân--Lễ Đêm--Lm JP. Vũ Minh
36. Ánh Sáng đã đến thế gian--Lm. Anmai
37. Ba quả táo--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
38. Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người?--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
39. Chúa tìm gì nơi ta?--Lc 2, 1-14--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
40. Lòng nhân ái thực sự--Lc 2, 1-14--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
41. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
42. Chúa giáng sinh giữa những người khổ đau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
43. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta--Lc 2,1-14--Camille Gagnon
44. Đánh mất cơ hội ngàn vàng--Lc 2, 1-14--Lm. Ignatiô Trần Ngà
45. Chúa Giêsu là vầng đông toả sáng--Lm. Ignatiô Trần Ngà
46. Loài người Chúa thương--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
47. Verbum Dei, Lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta--Ga. 1,1-18--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
48. Lễ Giáng Sinh--Lm Giacobe Tạ Chúc
49. Các mục đồng, chứng nhân đầu tiên--Ga. 1,1-18--Lm Trịnh Ngọc Danh
50. Suy niệm của R. Gutzwiller--Lc 2, 1-20
51. Sứ điệp vinh quang và bình an--Lc 2,1-14
52. Chiêm ngắm Mầu nhiệm Giáng Sinh--Lm Thái Nguyên
53. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
54. Lễ Giáng Sinh--JKN
55. Đừng thờ lầm--Ga 1, 1-18--Lương Thực Ngày Chúa Nhật
56. Của lễ dâng Chúa Hài Nhi—Lễ Đêm-- Lm Giuse Nguyễn Thành Long
57. Dấu hiệu của Chúa--Lm. Phạm Quốc Hưng
58. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
59. Chú giải của Fiches Dominicales
60. Chú giải của Noel Quesson
61. Thiên Chúa làm người vì chúng ta--Noel Quesson
62. Đêm hôm nay--Lm. Jos. DĐH
63. Ngày hồng phúc--Lm. Jos. DĐH
64. Một người con đã được ban tặng cho ta--Lc 2,11--Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
65. Hài nhi Giêsu là ai?--Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
66. Từ trí qua tâm, đến hành động--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
67. Đêm ánh sáng – Đêm an bình--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
68. Loan báo niềm vui Giáng Sinh cho anh em--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
69. Ánh sáng tin mừng--Trầm Thiên Thu
70. Sung mãn--Trầm Thiên Thu
71. Tin Mừng--Lễ đêm--Trầm Thiên Thu
72. Tỏ tường--Lễ rạng đông--Trầm Thiên Thu
73. Đón Chúa Giáng Sinh với tâm tình nào?--Lễ Rạng Đông--Jos. Vinc. Ngọc Biển
74. Đức Giêsu là quà tặng vô giá--Lễ Đêm--Giuse Vinc. Ngọc Biển
75. Thiên Chúa đến với con người trong lịch sử--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
76. Cứ dấu nầy--Lm. Damien OFM
77. Chúa đã tặng Người Con để cứu ta--Lm. Raymond Châu Diên, CMC
78. Con người--Lc 2,1-20
79. Không nhà không cửa
80. Bệnh Giêsu
81. Ngạc nhiên
82. Đêm Thánh
83. Noel: Tình bạn
84. Noel: Hữu hình
85. Noel: Lễ vật dâng Chúa
86. Noel: Đổi đời
87. Đêm An Bình
88. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
89. Chiêm ngắm Ngôi Lời
90. Sức mạnh--Lc 2,1-20
91. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui
92. Noel: Yêu thương
93. Vinh danh
94. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
95. Tìm kiếm
96. Món quà vô giá
97. Ánh sáng nào soi chiếu trong ta?--Ga 1,1-18
98. Chúa giáng trần--Ga 1, 1-18
99. Giáng sinh: Nhập thể--Ga 1, 1-18
100. Giáng sinh: Hoà Bình--Ga 1, 1-18
101. Lúc nào cũng có chỗ cho thêm một người nữa
102. Sứ điệp Giáng sinh
103. Những điều bất ngờ
104. Gia đình
105. Những lá thư chết
1. Ngôi Lời là ánh sáng thật--Ga 1, 1-18--‘Manna’
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động,
vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu,
một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát.
Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người.
Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha.
Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi,
Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn.
Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người.
Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang:
Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực:
Ngài là trẻ thơ khóc oe oe.
Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian.
Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp,
không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo
để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua
kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất.
Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm.
Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9).
Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối,
vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19).
Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay,
trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc,
trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa,
trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác,
đón nhận Đức Giêsu vào đời mình,
cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn.
Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời.
Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
2. Tin Mừng trọng đại--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ 2022
Một người Do-thái sẽ rất khó nhận ra Đấng Mêsia
khi đứng trước hang bò lừa ở Bê-lem đêm hôm ấy.
Một đôi vợ chồng trẻ, lúng túng vì không tìm ra chỗ,
vất vả với đứa con trai đầu lòng mới chào đời.
Em bé được quấn tã, đặt nằm trong máng cỏ.
Nghĩ đến Đấng Mêsia, người ta nghĩ ngay đến một vị vua,
với hoàng cung cao sang và ngai vàng quyền lực.
Khó lòng tin em bé tầm thường này là Đấng Mêsia,
Đấng được sai đến để giải phóng Israel.
Một người Do-thái theo độc thần lại càng khó tin
em bé này là Thiên Chúa trở nên người phàm.
Giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô tận,
Thiên Chúa có những phẩm tính siêu việt vô biên.
Ngài là Đấng quyền năng, cai quản trên trời dưới đất.
Ngài là Đấng vô hình nên không ai tô vẽ được.
Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, Đấng ba lần thánh,
Đấng tỏ mình long trời lở đất ở núi Sinai.
Chẳng ai thấy Ngài mà còn sống.
Một Thiên Chúa như thế làm sao thành người được?
Điều con người không dám mơ, thì Thiên Chúa dám làm,
vì Tình yêu làm được mọi sự.
Thiên Chúa đã làm vượt quá những gì Ngài đã hứa.
Ngài không chỉ ban một Mêsia hay một ngôn sứ như Môsê,
Ngài còn ban chính Ngôi Lời là Thiên Chúa Con Một,
đã trở nên người phàm, đã sống trên trái đất,
và đã đảm nhận toàn bộ phận người của chúng ta.
Kitô hữu là người dám tin vào mầu nhiệm lạ lùng này.
Nơi Hài Nhi Giêsu, chúng ta gặp gỡ một Thiên Chúa
chẳng những nghe được, mà còn thấy được và chạm được.
Một Thiên Chúa hữu hình, gần gũi, yếu đuối, mong manh.
Thiên Chúa ấy được cưu mang trong lòng một phụ nữ,
được sinh ra, biết khóc, biết cười,
sống nhờ sữa mẹ, ấm áp nhờ được quấn tã.
Thiên Chúa ấy phải vâng theo lệnh của hoàng đế Rôma,
nên chào đời xa nhà, thiếu thốn đủ điều,
chỗ nằm là máng ăn của súc vật.
Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giêsu không làm ai sợ hãi.
Không thấy quyền lực uy nghi, chỉ thấy tình yêu dịu dàng.
Thiên Chúa thu hút con người bằng sự buông bỏ thẳm sâu.
Hài Nhi dang hai tay để đón lấy cả nhân loại.
Không thấy Maria và Giuse nói gì trong đêm ở Bê-lem.
Cả hai có nhiều điều cần làm và cần suy nghĩ.
Khi Mẹ Maria sinh con trong sự thiếu thốn tư bề,
Mẹ nghĩ đến lời thiên sứ Gabriel xưa báo về Hài Nhi.
Con của Mẹ sẽ thừa kế ngai vàng của vua Đa-vít,
sẽ trị vì một vương quốc đến muôn đời muôn thuở.
Vậy mà bây giờ Con của Mẹ không có chỗ để nằm.
Khi các người chăn chiên huyên thuyên kể chuyện
về việc thiên sứ hiện ra, loan tin Đấng mới chào đời,
kể chuyện đạo binh thiên quốc tưng bừng hát xướng,
Maria đã chăm chú lắng nghe và kinh ngạc.
Mẹ nghĩ đến bầu khí yên tĩnh ở Bê-lem đêm nay,
có ít ánh sáng và tiếng ca, có nhiều bận tâm và lo lắng.
Không phải biến cố nào cũng dễ hiểu đối với Maria.
Maria có thói quen giữ kỹ mọi chuyện (Lc 2,19.51),
và nghiền ngẫm mọi chuyện trong trái tim của mình.
Maria chấp nhận mình không hiểu ngay mọi biến cố,
nên lúc nào cũng cần hồi tâm để đọc ra ý Chúa.
Như các mục đồng, chúng ta cũng được mời đến Bê-lem.
Dấu hiệu để nhận ra Chúa đang đến hôm nay
vẫn rất đơn sơ và làm chúng ta ngỡ ngàng.
Thiên Chúa đến dưới dạng những người nghèo khổ,
không cơm ăn áo mặc, không có chỗ để nằm.
Nơi những phụ nữ không được đi học ở Afghanistan,
những trẻ sơ sinh bị phá thai mỗi ngày trên thế giới,
những gia đình tan nát vì chiến tranh.
Hãy vội vã đi Bê-lem với tất cả lòng tin đơn sơ,
vui sướng vì gặp được dấu chỉ như lời sứ thần báo.
Hãy làm một điều gì đó cho Chúa Giêsu hôm nay.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Hài Nhi Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho nhân loại,
nhưng chúng con thích xung đột và chiến tranh,
Chúa đến để bày tỏ tình thương của Chúa Cha,
nhưng chúng con thích chiếm đoạt hơn chia sẻ,
thích chinh phục hơn trao hiến.
Bởi đó thế giới này còn mang nhiều vết thương.
Xin cho chúng con đừng trách Chúa,
dù Chúa đã đến làm người từ hai ngàn năm qua.
Chúa đã gõ cửa, những chúng con không mở.
Chúa đã đến nhà mình, nhưng chẳng ai ra đón.
Xin cho chúng con nhận ra Chúa
nơi khuôn mặt của kẻ thù,
và nhận ra kẻ thù cũng là anh em cần được yêu thương.
Nhờ đó chúng con được hưởng bình an của Chúa:
“Bình an cho người thiện tâm.” Amen.
3. Tin mừng trọng đại-- Lc 2, 1-14--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy niệm:
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng.
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ,
làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2).
Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống,
chấp nhận thân phận hữu hạn của con người.
Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn.
Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ.
Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng.
Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét.
Ngài cũng không được chào đời
nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem.
Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7).
Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời.
Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật.
Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm?
Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa.
Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không?
Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không?
Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ.
Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ.
Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya,
ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại.
Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người!
Nhóm người chăn chiên, những kẻ sống bên lề xã hội,
chứ không phải là những nhà lãnh đạo tôn giáo hay trần thế,
mới là những người đầu tiên được sứ thần loan báo Tin Mừng.
Họ sống ngoài đồng, chia phiên nhau thức đêm để canh giữ đoàn vật.
Bất ngờ họ bị bao trùm bởi vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa (c. 9).
“Hôm nay, Đấng Cứu độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được sinh ra cho anh em.”
Đấng dân tộc anh em chờ mong từ lâu, nay đã đến.
Đây là Tin Mừng! Đây là Niềm Vui cho mọi người!
Nhưng dấu hiệu để nhận ra vị Tân Vương thuộc nhà Đavít
thì vừa bình thường: “một trẻ sơ sinh được quấn tã”,
vừa lạ thường: “nằm trong máng cỏ” (c. 12).
Đấng Mêsia mới được sinh ra không ngự nơi cung vua.
Dấu hiệu sứ thần cho ông Dacaria là bị câm.
Dấu hiệu sứ thần cho Maria là bà chị Êlisabét mang thai lúc đã già.
Dấu hiệu sứ thần cho các anh chăn chiên là trẻ thơ quấn tã nơi máng cỏ.
Các anh chăn chiên cần có đức tin để dám tin vào dấu hiệu ấy.
Thiên Chúa vẫn đến với con người bằng những nẻo đường bất ngờ.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (c. 14).
Hoàng đế Augustô được ca ngợi là đấng cứu độ.
Ông được coi là người đem lại hòa bình,vì ông đã chấm dứt chiến tranh.
Hôm nay, Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta bình an thật qua Đức Kitô.
Ngài muốn ban cho chúng ta Đấng Cứu Độ thật là Đức Giêsu.
Xin cầu cho hòa bình trên mặt đất, bình an trong lòng người.
Ước gì chúng ta biết được rằng mình là những người được Chúa thương.
Cầu nguyện:
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong
và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
4. Ngôi Lời đã thành Người-- Ga 1, 1-18--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy niệm:
Trong ngày đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh,
Giáo Hội cho chúng ta nghe Lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan.
Lời mở đầu này là một bài ca về sự cao trọng vô song của Ngôi Lời.
Ngôi Lời là Đấng vĩnh hằng, đã hiện hữu từ nguyên thủy.
Ngài là Thiên Chúa, là Con Một luôn hướng về Thiên Chúa Cha (c. 1).
Tương quan giữa Thiên Chúa và Ngôi Lời là tương quan giữa Cha với Con.
Thiên Chúa Cha đã muốn Ngôi Lời cộng tác trong việc tạo dựng vũ trụ.
Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành (cc. 3, 10).
Chẳng có thụ tạo nào hiện hữu mà lại không được dựng nên bởi Ngôi Lời.
Dù khác nhau về màu da, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo…
mỗi con người đều mang trong mình Sự Sống của Ngôi Lời.
Sự Sống ấy là Ánh Sáng vẫn chiếu soi cả nhân loại (c. 4),
và soi chiếu lương tâm từng con người, chẳng trừ ai (c. 9),
bất chấp sức mạnh gớm ghê của bóng tối (c. 5).
Rồi khi đến thời viên mãn, vì quá yêu thương con người trầm luân
Thiên Chúa đã sai Ngôi Lời, Con Một của Ngài vào trần gian để cứu độ.
Ngôi Lời vĩnh cửu đã trở nên người phàm, mang tên Giêsu,
mang thân xác giới hạn như chúng ta, sống trong dòng lịch sử,
và ở giữa chúng ta trên cùng một trái đất (v. 14).
Đấng Tạo thành vạn vật bây giờ trở nên một thụ tạo bé nhỏ,
được sinh ra, được bú mớm, từ từ lớn lên và trưởng thành.
Đấng Tạo thành vạn vật nay sẽ là Đấng Cứu độ loài người,
để ai tin vào Ngài thì Ngài cho họ quyền làm con cái Thiên Chúa (c. 12).
Khi vâng ý Cha chấp nhận nhập thể và nhập thế,
Ngôi Lời đã cúi xuống bắc cầu nối kết Thiên Chúa với con người,
để đưa con người vào sống tình thân với Thiên Chúa.
Chưa bao giờ và mãi mãi về sau,
chẳng bao giờ có một Vị Trung Gian cứu độ nào tuyệt vời đến thế.
Vì chỉ mình Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là một con người thật.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng đại lễ Thiên Chúa đến cứu con người.
Thiên Chúa Cha không muốn cứu độ nhân loại bằng cách chỉ phán một lời.
Ngài muốn tặng cho ta món quà cao quý là chính Người Con duy nhất.
Chẳng ai thấy tận mắt hay biết rõ Thiên Chúa bao giờ.
Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta được quen biết và gặp gỡ Thiên Chúa.
Vì duy chỉ mình Ngài là Con hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha (c. 18).
Lễ Giáng Sinh đem lại niềm vui cho toàn thể thế giới con người.
Vì Con Thiên Chúa đã mang phận người vất vả, long đong,
nên đời người, dù đổ vỡ khổ đau, cũng có ý nghĩa, và đáng sống.
Vì Con Thiên Chúa đã mang khuôn mặt, và thân xác con người,
nên bất cứ ai là người, đều mang hình ảnh của Con Thiên Chúa.
Vì Con Thiên Chúa đã cư ngụ trên trái đất nhỏ xíu này của chúng ta,
đã sống nhờ không khí, nước và thức ăn của trái đất này,
nên trái đất này thật là thế giới linh thánh, cần trân trọng.
Lễ Giáng Sinh bao giờ cũng mời ta nhìn lại đời mình,
nhìn lại khuôn mặt những người chung quanh, nhìn lại trái đất mình sống,
với lòng kính trọng, vui sướng, và biết ơn.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.
Ước gì tôi biết đưa hai tay ra để đón lấy quà tặng cao quý ấy.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương,
và đã ban cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết khi chưa mở mắt chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, hận thù ở khắp nơi.
Người ta cứ giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Bêlem,
Chúa đã cứu độ thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn có mặt trên địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Bêlem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
5. Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta--ĐTC Gioan Phaolô II
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: "Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta".
Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao giờ ngừng lặp lại rằng: “Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta". Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh tân, nó vang dội trong Đêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Đây là Giáng Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch sử. "Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta".
Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Đấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Đêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Đức Nữ Đồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Đấng là sự sống đời đời.
Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc phúc cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm của cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem, một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.
Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những ngày hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Địa, tâm trí tôi trở lại với hang đá nơi tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính miền đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế giới. Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay vì hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với họ.
Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,
Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện thật sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn vùng Trung Đông.
Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang lên một lần nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên thần, của các mục đồng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi người được Chúa yêu thương".
Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay, cũng như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành. Ngày hôm nay, Đấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.
Không phải trong một lâu đài mà Đấng Cứu Chuộc sinh ra, Đấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi sự nghèo cùng và đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh nghèo hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa để sinh ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống mới do Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường hòa bình.
Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng của Ngài với lời nguyện:
Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Đấng Cứu Chuộc đã Giáng Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.
6. Hài nhi Giêsu mang đến niềm an ủi đích thực--Lễ Đêm 2015--ĐTC Phanxicô
Đêm nay "một ánh sáng tuyệt vời" chiếu sáng (Is 9: 1); ánh sáng của Chúa Giêsu giáng sinh tỏa sáng chung quanh tất cả chúng ta. Thật đúng và thời điểm trong những lời của tiên tri Isaia mà chúng ta vừa nghe: “Ngài đã mang lại niềm vui dồi dào và niềm vui lớn lao" (9: 2)! Trái tim chúng ta đã vui mừng trong chờ đợi thời điểm này; bây giờ niềm vui sung mãn và tràn đầy, vì cuối cùng lời hứa đã được thực hiện. Vui mừng hớn hở là dấu chỉ chắc chắn rằng sứ điệp chứa đựng trong mầu nhiệm của đêm này thật sự là từ Thiên Chúa. Không còn nghi ngờ gì nữa; hãy để lại sự nghi ngờ đó cho những người còn bi quan, vì chỉ tìm kiếm lý lẽ không thôi thì không bao giờ tìm ra sự thật. Không có chỗ cho sự thờ ơ đó ngự trị trong trái tim của những người không thể yêu vì sợ mất một cái gì đó. Tất cả nỗi buồn đã bị trục xuất, vì Hài Nhi Giêsu mang lại sự an ủi đích thật cho mọi trái tim.
Hôm nay, Con Thiên Chúa sinh ra, và tất cả mọi thứ thay đổi. Đấng Cứu Thế của thế giới đến để tham dự vào bản tính con người của chúng ta; chúng ta không còn lẻ loi và bị bỏ rơi. Đức Trinh Nữ cho chúng ta Con của Ngài như là sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Ánh sáng thật đã đến để soi sáng đời sống chúng ta mà thường xuyên bị bao vây bởi bóng tối của tội lỗi. Hôm nay, chúng ta một lần nữa phát hiện ra chúng ta là ai! Tối nay chúng ta đã được chỉ cho biết con đường để đạt được đoạn kết của cuộc hành trình. Bây giờ chúng ta phải bỏ đi tất cả nỗi sợ hãi, vì ánh sáng cho chúng ta thấy con đường đến Bethlehem. Chúng ta không còn bị bỏ lại đàng sau nữa; chúng ta không được phép đứng nhàn rỗi. Chúng ta phải bước ra đi để xem Đấng Cừu Thế của chúng ta nằm trong máng cỏ. Đây là lý do để vui mừng hớn hở của chúng ta: Hài Nhi này đã được "sinh ra cho chúng ta"; Ngài đã được "ban cho chúng ta", như tiên tri Isaia đã loan báo (9: 5). Biết bao con người qua hai ngàn năm đã đi qua tất cả các con đường của thế giới để loan báo cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ hầu chia sẻ niềm vui này mà bây giờ là sứ mệnh của mỗi người chúng ta làm cho vị "Hoàng tử của hòa bình" và trở nên người tôi tớ hiệu quả ở giữa của các quốc gia.
Vì vậy, khi chúng ta nghe về câu chuyện Giáng sinh của Chúa Kitô, chúng ta hãy im lặng và để cho Hài Nhi này nói. Chúng ta hãy đem lời nói của Ngài vào trong tâm hồn trong chiêm niệm say mê về khuôn mặt của Ngài. Nếu chúng ta bồng Ngài trong vòng tay và để cho mình được Ngài ôm, Ngài sẽ đem đến hoà bình vô tận trong trái tim. Hài Nhi này dạy chúng ta những gì là thực sự cần thiết trong cuộc sống của chúng ta. Ngài sinh ra trong sự nghèo đói của thế giới này; không có chỗ trong nhà trọ cho Ngài và gia đình của Ngài. Ngài đã tìm thấy nơi trú ẩn và hỗ trợ trong chuồng chiên và được đặt nằm trong máng cỏ cho gia súc. Chưa hết, từ chỗ hư vô này, ánh sáng vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa. Từ bây giờ, con đường giải thoát đích thực và sự cứu rỗi viên mãn được mở ra cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ, những người có trái tim đơn sơ. Hài Nhi này, với khuôn mặt chiếu tỏa sự tốt lành, lòng thương xót và tình yêu của Chúa Cha, huấn luyện cho chúng ta, các môn đệ của Ngài, như Thánh Phaolô nói, "hãy chối bỏ những con đường không có Chúa" và sự phú qúy của thế gian, để sống "tiết độ, công minh, sốt sắng "(Tit 2:12).
Trong một xã hội thường xuyên bị đầu độc do chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa khoái lạc, giàu có và xa hoa, vẻ bề ngoại và tự đại, Hài Nhi này kêu gọi chúng ta phải hành động nghiêm nghị, nói cách khác, trong một cách thế đơn giản, cân bằng, phù hợp, có khả năng thấy và làm những gì cần thiết. Trong một thế giới mà tất cả mà thường là tàn nhẫn với người tội lỗi nhưng nhân nhượng với tội lỗi, chúng ta cần phải nuôi dưỡng một ý thức mạnh mẽ về công lý, để phân biệt và làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Giữa một nền văn hóa của sự thờ ơ mà không phải là không thường xuyên trở thành tàn nhẫn, phong cách sống của chúng ta phải là đạo đức, đầy sự cảm thông, lòng từ bi và lòng thương xót, hàng ngày xuất nguồn từ nguồn cội của sự cầu nguyện.
Giống như những người chăn chiên của Bethlehem, có thể chúng ta cũng vậy, với đôi mắt đầy kinh ngạc và bỡ ngỡ, khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Con Thiên Chúa. Và trước sự hiện diện của Ngài, ước chi trái tim của chúng ta oà tung ra trong lời cầu nguyện: "Lậy Chúa, xin chỉ cho chúng con lòng thương xót của Chúa và ban cho chúng con ơn cứu độ" (Tv 85: 8).
7. Vinh danh Thiên Chúa trên trời--Lc 2,1-14--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
8. Đêm Ánh Sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang. Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu.
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người. Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin.
Anh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là thánh Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại "vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng". Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy "một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hy vọng.
Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên chúa gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại. Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Anh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên chúa gieo vào thế giới.
Đó là ánh sáng Tin Mừng.
Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh. "Họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này". Tin Mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm hồn. Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.
9. Lời ngỏ của Tình Yêu--Ga 1,1-18--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
10. Ngôi Lời đã tỏ mình--Lễ Rạng Đông Lc 2, 15-20--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Ngôi Lời Thiên Chúa đã xuống thế làm người tại một chuồng bò lạnh lẽo hôi tanh. Nơi gia đình thánh Giuse và Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã sinh sống. Với người nghèo khổ đơn sơ, Ngôi Lời đã tỏ mình ra.
Cầu nguyện: Ôi lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, vinh dự thay cho các mục đồng đến chiêm ngắm thờ lạy Chúa nơi hang Be-lem như lời các thiên thần đã báo. Hồng phúc thay! Biết bao người đã ngóng trông Đấng Cứu Tinh mà không được. Biết bao người đã sống cạnh Đấng Cứu Thế mà không nhận ra Ngài. Có những người chức quyền như Phi-la-tô, Hê-rô-đê, đã không được diễm phúc như các mục đồng. Có những người tài giỏi như các tiến sĩ cũng chẳng nhận ra Đấng Cứu Thế. Lại cũng có những người mang trách nhiệm trong đạo như các Biệt phái, Thượng tế, đã không nhận ra Chúa. Thật các mục đồng hạnh phúc quá.
Còn con, con không ngớt cảm tạ Chúa. Con được diễm phúc Chúa tỏ mình cho con. Con đã được làm con Thiên Chúa, gia đình con cũng được Chúa ngự trị. Linh hồn thân xác con mỗi ngày đều được Chúa sinh hạ. Chúa không chê gia đình con. Chúa không chê thân xác linh hồn con. Mỗi lần con mời Chúa ngự trị, con đều được Chúa viếng thăm.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Mẹ Maria đã chiêm ngắm và hằng ghi nhớ những kỷ niệm này. Xin Chúa giúp cho con hằng ghi nhớ hồng ân Chúa dành cho con. Mỗi ngày xin Chúa giúp con thích thú đến với Chúa cách mau mắn và ngây ngất như các mục đồng. Xin cho con mỗi ngày mỗi sống thân tình với Chúa hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi”.
11. Lễ Ban Ngày 2015: Mầu Nhiệm Lòng Thương Xót--TGM. Giuse Nguyễn Năng
Trung tâm điểm và đồng thời cũng là cao điểm của bài Tin Mừng hôm nay là lời khẳng định của thánh Gioan: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Con Thiên Chúa đã trở nên con người và đi vào lịch sử loài người. Con Thiên Chúa nhập thể để làm gì?
1. Thánh Gioan nói trong lời mở đầu của Tin Mừng: Ngôi Lời đến để chiếu sáng thế gian, để tỏ cho thế gian biết Chúa Cha; nhưng đây là thế gian chìm ngập trong bóng tối. Tác giả thư Do Thái (Bài đọc 2) cho thấy Con Thiên Chúa đến trần gian để mạc khải Chúa Cha cho chúng ta, và còn hơn nữa, để chịu chết và đền tội cho chúng ta. Con Thiên Chúa đến trần gian để tẩy trừ tội lỗi, và “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Con Thiên Chúa lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời”.
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Ngôi Lời làm người để cứu độ nhân loại. Ơn cứu độ trước hết hệ tại ở ơn tha tội. Thiên Chúa tha thứ cho tội lỗi của nhân loại. Chúa Giêsu đã thực sự sống cuộc đời của con người, trải qua những kinh nghiệm của đời người, chỉ trừ tội lỗi, để đền tội cho chúng ta.
2. Ơn cứu độ không phải là một trò ảo thuật. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối tội lỗi cần được Ánh sáng chiếu soi. Nhưng Thiên Chúa không đọc câu thần chú để làm tiêu tan bóng tối. Để chiếu sáng thế gian, Ánh sáng đã đi vào thế gian tăm tối, chứ không chiếu sáng từ bên ngoài. Nhân loại chìm ngập trong tội lỗi cần được tha thứ. Nhưng Thiên Chúa không cứ ở mãi trên trời cao tuyên bố lời tha bổng tội lỗi cho con người. Không, tội lỗi quá nặng nề, nên ơn tha tội không quá rẻ như thế. Thiên Chúa không ở trên toà cao, trái lại, đã cho Con Một mình đi vào đời, làm người để đền tội cho chúng ta.
Có tội thì phải đền tội. Đó là lẽ công bằng, là đòi hỏi của công lý. Nếu không đền tội, thì còn đâu công lý? Nhưng ngược lại, nếu Thiên Chúa cứ đòi hỏi theo luật công bằng thì còn đâu tình yêu thương? Hơn nữa, loài người đâu có gì để đền bù cho cân xứng với sự xúc phạm đến Thiên Chúa.
Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã làm một tổng hợp tuyệt vời, vừa thực thi công lý vừa biểu lộ lòng thương xót. Đúng hơn, công lý của Thiên Chúa lại cũng chính là lòng thương xót, bắt nguồn từ lòng thương xót. Do lòng thương xót, Thiên Chúa ban cho chúng ta có cái gì đó để đền bù tội lỗi cho cân xứng. “Cái gì đó” là chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Người ta kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau. Một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một ổ bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, ông thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải nộp 10 đôla”. Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đôla và trao cho người đàn ông khốn khổ.
Đó là phần đầu của câu chuyện. Cùng một lúc, ông thị trưởng vừa thi hành công lý vừa tỏ lòng thương xót đối với kẻ ăn trộm, thi hành công lý bằng cách thương xót.
Thiên Chúa là vị Quan toà tối cao đòi loài người phải đền tội vì đã phạm tội, xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. Đó là công lý. Nhưng Thiên Chúa lại thi hành công lý bằng cách thực thi lòng thương xót. Vì quá yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban tặng Con Một cho thế gian, để người Con ấy đền tội thay cho chúng ta. Con Một của Thiên Chúa đã làm người để đền bù tội lỗi thay cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa đi bước trước và biểu lộ lòng thương xót để chúng ta có khả năng thi hành công lý đối với Thiên Chúa.
Công lý là những gì chúng ta nhận được do việc chúng ta làm. Còn lòng thương xót là những gì chúng ta nhận được do việc Thiên Chúa làm. Lòng thương xót của Thiên Chúa bao trùm và vượt trên cả những đòi hỏi của công lý.
Mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm của lòng thương xót. “Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1, 78). Khi mừng mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã ban cho chúng ta người Con Một để người Con ấy đền tội nhân danh toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Giáng sinh là quà tặng của lòng thương xót. Lòng thương xót được biểu lộ hôm nay qua mầu nhiệm Giáng sinh, và sẽ đạt tột đỉnh qua việc Thiên Chúa hy sinh trọn vẹn Con Một mình trong mầu nhiệm Thập giá.
3. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Mầu nhiệm Nhập thể chiếu toả ánh sáng vào thân phận con người để chúng ta nhận ra rằng những anh chị em nghèo hèn đói khổ đang sống bên cạnh chúng ta là chính Chúa. Chúng ta đã được Thiên Chúa thương xót, vì thế hãy thương xót lẫn nhau.
Trở lại với câu chuyện ăn cắp ổ bánh mì.
Sau khi trao cho người ăn cắp 10 đôla để nộp phạt, ông thị trưởng quay xuống cử tọa nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão. Khi chiếc mũ đã được chuyền một vòng, người ta đếm được 47 đôla 50 xu. Ông thị trưởng trao tất cả cho ông lão. (Trích từ “Lẽ Sống”).
Có bao giờ chúng ta nhận thấy mình cũng có trách nhiệm về những tội ác xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta không? Biết đâu vì chúng ta dửng dưng vô cảm, thiếu liên đới chia sẻ, nên mới xảy ra biết bao tội ác trong xã hội! Không nhiều thì ít, một cách nào đó, trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nếu chúng ta ý thức về trách nhiệm liên đới, chia sẻ, thực sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta sẽ góp phần giảm bớt cảnh đói khổ, và như thế tội ác trên thế giới cũng sẽ giảm đi. Thế giới không thiếu thực phẩm, không thiếu tài nguyên. Chỉ tại thiếu lòng thương xót.
Chúng ta thực sự có lỗi, có tội, có trách nhiệm, và là lỗi nặng, trách nhiệm nặng, khi không quan tâm đến cảnh đói khổ của tha nhân. Dụ ngôn về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 31-46) cho ta hiểu rằng sự dửng dưng vô cảm trước những nỗi đói khổ của người khác là một lỗi nặng đưa chúng ta đến lửa đời đời. Mầu nhiệm Nhập thể nhắc chúng ta nhớ rằng mỗi người sẽ bị xét xử tuỳ theo thái độ của mình đối với người anh chị em nghèo hèn đói khổ, không phải chỉ vì họ là hình ảnh của Chúa, mà hơn nữa, vì khi chúng ta giúp đỡ họ là chúng ta giúp đỡ Chúa, và ngược lại, khi sống vô cảm mà gạt bỏ họ là chúng ta gạt gạt bỏ chính Chúa.
4. Có bao giờ chúng ta tự hỏi: nếu thế giới này không có Chúa Giêsu thì sẽ ra sao? Nếu Thiên Chúa không thương xót nhân loại mà ban tặng Con Một, nhân loại có còn tồn tại đến hôm nay không? Thư Do Thái (Bài đọc 2) trả lời: “Thiên Chúa đã nhờ Con Một mà dựng nên vũ trụ”; hơn nữa, vạn vật được duy trì và tồn tại là nhờ Chúa Giêsu. Còn trong Tin Mừng, thánh Gioan khẳng định: “Từ nguồn sung mãn của (Ngôi Lời làm người), tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”.
Mầu nhiệm Giáng sinh củng cố niềm hy vọng của thế giới. Nhân loại còn sống và tồn tại được là vì có Chúa Giêsu, cuộc đời chúng ta tràn đầy niềm vui và hy vọng là nhờ tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tương lai của nhân loại tuỳ thuộc thái độ của con người sống lòng thương xót như thế nào, tuỳ thuộc con người có biết đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa và biết thương xót lẫn nhau không. Thế giới này là “nhà” của Chúa Giêsu, nhưng khi “Ngài đến nhà mình, thì người nhà đã không đón nhận”. Qua mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hiểu rằng nhân loại không thể hưởng bình an và hạnh phúc nếu không có Chúa Giêsu, thế giới này sẽ không có tương lai khi gạt bỏ Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót.
Lễ Giáng sinh là khởi đầu cho tương lai tươi sáng của nhân loại. Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng chân lý và ân sủng là chính Chúa Giêsu.
12. Lòng thương xót của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm Giáng Sinh 2015--GM Giuse Nguyễn Năng
Đêm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để mừng ngày sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Đây là biến cố vĩ đại, như lời thánh Phaolô (Bài đọc 2), đêm nay “ân sủng của Thiên Chúa được biểu lộ”, Con Thiên Chúa sinh ra trong thế giới của chúng ta để “đem ơn cứu độ đến cho mọi người”. Đây là ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót đối với nhân loại đang sống trong khổ đau, tinh thần và thể xác.
1. Khi bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái sống trong cảnh khổ đau trên bình diện tinh thần và thể xác, cá nhân cũng như quốc gia. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót không nỡ để họ mãi mãi chìm ngập trong khổ đau và thất vọng. Qua lời tiên tri Isaia (Bài đọc 1), chính Thiên Chúa lên tiếng loan báo cho họ ngày giải thoát, ngày Thiên Chúa cứu họ khỏi bàn tay hung dữ độc ác của kẻ thù. Ngài sẽ cho một trẻ thơ chào đời để cứu họ. Người con ấy là Đấng quyền năng, là Thủ lãnh hoà bình, sẽ thiết lập nền hoà bình vô tận, trong một vương quốc được xây dựng trên nền tảng chính trực và công minh. Chính niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Do Thái qua những chặng đường lịch sử. Họ luôn trông đợi sẽ có ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng xót thương.
Thế giới của chúng ta hôm nay cũng đầy dẫy những khổ đau. Từ bản thân đến gia đình, từ họ hàng đến làng xóm, từ cá nhân đến xã hội, từ quê hương đất nước đến thế giới toàn cầu, cuộc sống tràn ngập khổ đau. Sự dữ lớn nhất là tội lỗi, tội cá nhân, tội tập thể. Rồi nào là hận thù, áp bức, cướp của, chém giết, xung đột, khủng bố, bạo hành, đang diễn ra từng ngày trên thế giới, ngay trong xã hội, trường học và gia đình của chúng ta. Trầm trọng hơn, nhiều quốc gia vẫn chìm trong khói lửa của chiến tranh loạn lạc. Nhiều nơi khác, nguy cơ chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Chúng ta mong đợi một sự giải thoát, khao khát ấm no hạnh phúc. Có lẽ chúng ta chờ đợi một phép mầu xoá tan mọi đau khổ để khai sinh một thế giới mới bình an và hạnh phúc. Thiên Chúa có thương xót nhân loại nữa chăng? Lòng thương xót của Chúa có đủ quyền năng để giải cứu loài người không?
Với niềm tin Kitô hữu, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương nhân loại, yêu thương từng người chúng ta. Ngài là Chúa của lịch sử, là Đấng quyền năng vô biên. Ngài sẽ cứu thế giới như đã cứu dân Do Thái.
2. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ giới hạn nơi việc giải thoát dân Do Thái. Lời hứa của Thiên Chúa nhắm đến những thực tại lớn lao và sâu xa hơn. Trong đêm Giáng sinh này, lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ qua việc ban tặng cho nhân loại người Con Một yêu dấu. “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha… Vào thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài xuống thế gian, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria, để biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta một cách quyết liệt… Chúa Giêsu thành Nazareth, qua lời nói, hành động và toàn bộ con người của Ngài, đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa” (Dung mạo lòng thương xót, số 1). Con Thiên Chúa đã làm người sống giữa nhân loại. Nhờ mầu nhiệm Nhập thể, loài người được giao hoà với Thiên Chúa, và mọi người trong thế giới được giao hoà với nhau. Đó là sự giải cứu sâu xa và lớn lao đem lại bình an và hạnh phúc đích thực cho nhân loại.
3. Thiên Chúa thương xót chúng ta bằng cách ban tặng Chúa Giêsu để Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và dục vọng. Tội lỗi và dục vọng, phải, mọi đau khổ đều bắt nguồn từ đó. Con người gây ra đau khổ cho nhau là vì trước hết con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa và trở thành kẻ phản loạn phá đổ công trình tạo dựng của Ngài. Một khi loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, thì đồng thời con người cũng loại trừ nhau. Một tâm hồn bất an và bị xâu xé bởi đủ loại dục vọng làm sao có thể sống hài hòa với người khác được?
Do lòng thương xót muốn cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi và dục vọng là căn nguyên của mọi đau khổ, nên đêm nay, Con Thiên Chúa từ trời cao đã đi vào trần gian đi tìm chúng ta. Nhân loại tựa như đoàn chiên lầm đường lạc lối, hôm nay được Chúa Giêsu xuống thế tìm kiếm đưa về Nhà Cha. Vị Mục tử giàu lòng thương xót ôm chúng ta vào lòng và đưa về sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Hoặc có thể dùng một hình ảnh khác, nhân loại tựa như nạn nhân bị cướp đánh nhừ tử và bỏ dở sống dở chết bên đường, hôm nay đã được Chúa Giêsu như người Samari nhân hậu, xuống lừa, xoa dầu, băng bó vết thương và chữa lành. Lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ như thế đó.
Vì thế điều đầu tiên phải làm để được cứu độ là nhìn nhận mình có tội để được Thiên Chúa thương xót thứ tha. Nếu muốn sống khoẻ mạnh, điều kiện đầu tiên là loại trừ bệnh tật. Mang mầm bệnh trong người thì làm sao khoẻ mạnh? Mà muốn khỏi bệnh, phải nhận mình có bệnh. Không nhận mình có bệnh thì làm sao được chữa khỏi bệnh? Cũng thế, hãy nhìn nhận mình cần được Chúa thương xót.
4. Một khi đã được Thiên Chúa thương xót và thứ tha, chúng ta hãy trở thành chứng nhân và sứ giả của lòng thương xót. Chúa Giêsu đã đi vào đời và gieo mầm tin yêu khắp nơi, để đến phiên mình, mỗi người cũng biết thực thi lòng thương xót, để nhờ đó góp phần kiến tạo một thế giới mới, một xã hội mới, được xây dựng trên công lý và tình thương.
Nếu không có lòng bao dung nhân ái và tha thứ, bạo lực sẽ sinh ra bạo lực, hận thù sinh ra hận thù, tựa như vòng xoáy luẩn quẩn ngày càng lan rộng và không bao giờ chấm dứt. Nếu như vậy thì cuộc đời không thể sống nổi. Chỉ có tình yêu mới cứu được thế giới. Chỉ có tình yêu mới đem lại bình an và hạnh phúc đích thực. Đừng gieo rắc hận thù ghen ghét, đừng sử dụng bạo lực nữa. Gia đình hãy thôi cảnh bạo hành. Đừng dạy cho giới trẻ lòng hận thù báo oán, nhưng hãy thông truyền cho họ tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Giới trẻ và học sinh đừng đánh đập chém giết nhau. Thay cho hận thù và bạo lực, hãy đối xử với nhau theo lối sống của nền văn minh tình thương.
Cùng với lòng bao dung tha thứ, trái tim chúng ta cũng mở ra để thương xót những anh chị em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, những người sống trong hoàn cảnh đau thương, những người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Trong đêm Giáng sinh, thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong quán trọ, đã bị xua đuổi và loại trừ, nên Chúa Giêsu phải sinh ra trong hang lừa bò. Ngày nay biết bao người nghèo khổ cũng bị bỏ rơi và quên lãng, bị xua đuổi và loại trừ. Là Kitô hữu, chúng ta không được thờ ơ vô cảm. Trái tim của chúng ta phải nên giống trái tim của Chúa, biết chạnh lòng thương xót, biết động lòng trắc ẩn. Khi chúng ta cảm thông giúp đỡ họ là chúng ta làm cho Chúa; ngược lại, khi lòng chúng ta khép lại, là chúng ta từ chối Chúa. Hãy nhớ rằng “vào lúc cuối đời, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu” (Dung mạo lòng thương xót, số 15).
5. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói: nhân loại được cứu độ không phải là nhờ “các lời hứa hẹn to tát”, nhưng là nhờ “ánh sáng thầm lặng của sự thật, của lòng nhân lành của Thiên Chúa”. Những chủ thuyết, những nhà độc tài, những chính sách chuyên chế, chỉ để lại cho thế giới này một sự“trống rỗng vĩ đại” và một “sự tàn phá khủng khiếp”. Chúa Giêsu đã không làm một “cuộc cách mạng đẫm máu”, “không thay đổi thế giới bằng vũ lực”, nhưng Chúa đã đến “thắp lên bao nhiêu ánh sáng để tạo thành một đại lộ ánh sáng qua suốt bao nhiêu thiên niên kỷ” (Bài giảng tại giáo xứ Maximilianô Kolbê, Roma, ngày 13-12-2010).
Chỉ có tình yêu mới thay đổi được thế giới. Hãy làm cho lòng thương xót thấm vào mọi sinh hoạt hằng ngày, hãy đổi mới xã hội bằng cách đổi mới lối sống của chúng ta. Đó chính là Phúc-Âm-hoá đời sống xã hội. “Sự khả tín của Giáo hội được biểu lộ qua cách thức Giáo hội thực thi lòng thương xót và trắc ẩn” (Dung mạo lòng thương xót, số 10). Nếu biết sống lòng thương xót, chúng ta sẽ chiếu toả vẻ đẹp của Phúc Âm và làm cho lời rao giảng của Giáo hội có sức thuyết phục.
Trong đêm Giáng sinh, các thiên thần hát mừng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người được Thiên Chúa yêu thương”. Lời ca của thiên thần trên trời đã trở thành lời ca của con người ở dưới đất. Đó là lời ca được hát nhiều nhất trên thế giới trong đêm nay, đêm bình an. Xin “Thủ lãnh hòa bình” ban bình an cho thế giới và quê hương Việt Nam; xin cho xã hội, từng gia đình và từng người được sống bình an hạnh phúc trong tình yêu thương. Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng là hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho chúng ta một trái tim mới.
Chúc anh chị em mừng lễ Giáng Sinh đầy tràn niềm vui, ân sủng và bình an của Chúa Giêsu.
13. Lễ Đêm Giáng Sinh 2015--TGM Phaolô Bùi Văn Đọc
1. Tối nay, chúng ta cùng nhau cử hành Lễ Đêm mừng Chúa Giáng Sinh tại giáo xứ Hợp An, chúng ta vui mừng hân hoan đón Chúa đến với chúng ta. Chúng ta muốn suy nghĩ sâu xa hơn về ý nghĩa của việc Chúa đến.
Chúa đến đây làm gì? Chúa đến trần gian để đem Niềm Vui, đem Hạnh Phúc của Chúa đến cho chúng ta. Chúa đến trần gian để đem Ơn Tha Tội đến cho loài người đã sa ngã phạm tội từ thời đại này sang thời đại kia. Chúa đến trần gian để mạc khải Tình Yêu, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha cho loài người chúng ta. Chúa đến để đem Bình An, để hòa giải loài người lại với Thiên Chúa và con người lại với nhau.
2. Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (Lc 2, 1-14) cho chúng ta biết việc Chúa sinh ra ở đời là một sự kiện lịch sử, xảy ra thời Hoàng đế Augustô (x. Lc 2,1). Thánh Giuse và Mẹ Maria từ Nazareth thuộc vùng Galilê đến Bêlem miền Giuđê, quê hương của Vua Đavít, tổ tiên ngài (x. Lc 2,4). Hai ông bà, vì không có tiền thuê quán trọ, đã sinh Chúa Giêsu trong hang bò lừa (x. Lc 2,7). Đó là một sự kiện lịch sử, nhưng cũng là một Biến Cố Siêu Việt, Siêu Lịch Sử. Đấng Sinh Ra là Đấng Thánh, là Đấng Tạo Thành Trời Đất, là Chủ và là Chúa của Lịch Sử. Chính vì thế mà có sứ thần Chúa hiện ra cho các mục đồng đang chăn chiên: “Anh em đừng sợ! Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân.” (Lc 2,10)
3. Theo Thánh Phaolô trong thư gởi Titô (Tt 2,11-14), Đấng Thánh sinh ra cho nhân loại chúng ta, Người Con giáng trần vì chúng ta, là Ân Sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2,11). Ân Sủng đó là chính Chúa, dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục (x. Tt 2,12). Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính (x. Tt 2,14).
4. Chúng ta hát lên mừng Chúa một bài ca mới; hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh (x. Tv 96 (95),1-2a). Chúa đã ban cho Dân Chúa chứa chan niềm hoan hỷ, đã tặng thêm nỗi vui mừng (x. Is 9,2a). Họ mừng vui trước Nhan Ngài, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt (x. Is 9,2b). Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta (x. Is 9,5a). Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh (x. Is 9,6b).
5. Noel năm nay mọi người chúng ta hãy hướng tới Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi cũng như khuyết điểm và chúc phúc cho chúng ta. Chúng ta đã mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót tại Nhà Thờ Chính Tòa. Giờ đây chúng ta hãy đón nhận Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vào trong cuộc sống và đưa ra thực hành. Hãy xót thương những người nghèo khổ, những người cô thế cô thân, những người khuyết tật, những người bị bệnh nan y…
14. Noel: Lễ nhập cuộc--‘Nút vòng xoay’--GM. Giuse Vũ Duy Thống
Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi: “Noel, bồ có đi đâu không?”. Có tiếng đáp: “Không, mình ở nhà”. Và khi tiếng đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó xen vào: “Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường chứ!”.
Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con đường lớn đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường, đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập cuộc.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng khôn tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân loại cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm mốc thời gian rõ ràng là “thời Hoàng đế Cêsarê Augustô” và được cấp sổ đỏ không thể chối cãi là “thành Bêlem xứ Giuđêa” như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình, đã được cưu mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào đời và sống đời như bao người khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng thăm Dân mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống.
Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia, Thiên Chúa được xưng tụng là “Chúa hùng dũng”, thế mà Người đã hóa nên con người yếu đuối trong hình hài một thơ nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là “Thủ Lĩnh bình an”, nhưng chính Người khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được an thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới “hậu khổ”! Người ta dòng dõi vua chúa sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng cỏ bò lừa. Người là “Cha vạn thuở”, bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân thế Người là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có, thế mà hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với tiến trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là “Cố Vấn kỳ diệu”, nhưng khi sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra Người đã “cố mà vấn vào đời mình” những gì là bình thường nhất nếu không muốn nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một đời người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có lẽ đã không có kiểu nói diễn tả “bụi trần”, và nếu cuộc đời luôn hạnh phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt chuyện “đời là bể khổ” làm chi. Chẳng bi quan cũng thấy cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón lấy cuộc đời ấy, để chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào trong những bấp bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và con người.
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc đời thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để cứu độ trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào lại “trật tự nguyên thủy” như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo mà tội lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là “Ngày sáng thế mới”. Đêm Noel là đêm đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về với ơn cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở rồi về mà là một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp với nhân loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo nào, các thiên thần đã hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo: “Thiên Chúa làm người cho người được làm con Thiên Chúa”. Như vậy, Noel chính là lễ của một sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên Thánh lễ đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu gương mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê như trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của mình một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng quẫn hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như thế mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan hòa sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy bàn tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh phúc con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong đêm Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm vui cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.
15. Tình nghĩa-- GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần
Nhìn hang đá Belem, tôi thấy nhiều điều nên suy nghĩ. Như sự Chúa giáng sinh tự chọn cảnh nghèo. Như sự những người sống đạo ở Belem bấy giờ đã không quan tâm đủ đến kẻ lỡ đường xin trọ. Như những người mục đồng làm thuê làm mướn lại được phúc gặp Chúa Cứu thế sớm nhất.
Nhưng có một điều nho nhỏ nơi hang đá Belem cũng đã lôi cuốn tôi. Điều nho nhỏ đó là tình nghĩa.
Vai trò tình nghĩa trong đời Chúa Giêsu.
Tình nghĩa là bầu khí bao trùm Hài nhi Giêsu. Ngoài Đức Mẹ và Thánh Giuse vây quanh hài nhi, tôi thấy còn có các mục đồng và ba vua. Cả con lừa và mấy con chiên cũng đứng sát vào một cách thân yêu. Những hơi thở, những ánh mắt, những cử chỉ của người và vật đều diễn tả tình nghĩa thân thương đối với Hài Nhi.
Nhìn cảnh này, tôi có cảm tưởng: Đây không phải là một sự tình cờ, nhưng là một điều Chúa muốn. Người muốn tình nghĩa nên được hiểu là một điều tốt. Chúa quý mến tình nghĩa. Tình nghĩa là một nâng đỡ quý giá đồng hành với Chúa Cứu thế từ hang đá Belem đến thánh giá trên núi Sọ.
Thực vậy, căn cứ vào Phúc Âm, tôi thấy Chúa Cứu thế đã có những tình nghĩa mặn nồng nâng đỡ sứ mạng của Người suốt hành trình dài.
Đầu tiên là thánh Gioan Baotixita. Tình nghĩa của Gioan đối với Chúa Giêsu nổi bật ở hai điểm này:
Một là Gioan khiêm tốn, tự nhận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa Cứu thế.
Hai là Gioan giới thiệu giá trị đích thực của Chúa Giêsu ở tại việc hy sinh gánh tội trần gian, và tự nguyện chịu chết để đền tội cho nhân loại. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Lời giới thiệu đó nói lên một tình nghĩa đi vào căn bản.
Sau thánh Gioan Baotixita, tôi thấy tình nghĩa của gia đình chị em Matta, Maria và Ladarô. Gia đình này nâng đỡ Chúa Giêsu về mọi mặt, tinh thần và vật chất, tình cảm và làm chứng. Họ làm chứng về niềm tin Chúa Giêsu là Đấng cứu thế.
Sau cùng là tình nghĩa của các môn đệ Chúa, nhất là thánh Phêrô và thánh Gioan tông đồ.
Tình nghĩa của thánh Phêrô nổi bật ở điểm nhiệt thành, táo bạo trong tuyên xưng đức tin.
Tình nghĩa của thánh Gioan đậm nét ở chỗ được Chúa yêu thương, chia sẻ cho những sự sâu kín nhiệm mầu về đời sống Chúa Ba Ngôi, nhất là ở chỗ được Chúa cho thấu hiểu sâu xa điều răn mới là yêu thương nhau.
Trên đây là những tình nghĩa thường xuyên đậm đà. Cũng còn một vài tình nghĩa vắn, trong các trường hợp đặc biệt. Như trên đường vác thánh giá lên núi Sọ, Chúa được nâng đỡ bởi bà Veronica,một số phụ nữ và ông Simon, người nông dân.
Sau cùng, ở núi Sọ, dưới chân thánh giá, số người nâng đỡ Chúa chỉ còn một số rất nhỏ.
Nói chung, những tình nghĩa đã nâng đỡ Chúa Giêsu khi Người vừa sinh ra ở Belem cho tới khi Người tắt thở trên thánh giá ở núi Sọ, đều rất khiêm tốn, âm thầm. Dầu vậy, những tình nghĩa đó phải được coi là rất quý giá.
Với nhận thức đó, tôi nhìn vào các môn đệ Đức Kitô, xưa và đặc biệt là hôm nay.
Vai trò của tình nghĩa nơi các môn đệ Đức Kitô.
Trên đường bước theo Chúa Cứu thế, môn đệ Chúa cũng gặp được những nâng đỡ. Nếu "đầy tớ không trọng hơn Thầy" (Ga 15,20), thì những nâng đỡ dành cho các ngài cũng rất giới hạn. Tất nhiên nâng đỡ nói đây phải hiểu là nâng đỡ chính đáng.
Cũng vẫn là nâng đỡ của số ít như tại hang đá Belem. Cũng vẫn là nâng đỡ của một số ít làm chứng cho niềm tin hơn là cho cá nhân người môn đệ. Cũng vẫn là nâng đỡ của một số ít như ở Calvariô.
Riêng tôi, tôi coi những tình nghĩa đó là những ơn đặc biệt Chúa ban cho đời tôi.
Kinh Thánh nói: "Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc. Ai gặp được người bạn như thế là gặp được kho tàng. Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành, và giá trị của người bạn ấy không cân nào lường được" (Hc 6,14-15).
Trung thành ở đây phải được hiểu là trung thành trong những trường hợp không mấy ai muốn chọn. Như trường hợp sau đây:
Ngày 19 tháng 9 năm 1997, tại một nhà thờ ở Berne, thủ đô Thuỵ Sĩ, có lễ an táng một nữ tu. Nư tu này tên là Rosalba, dòng Tuổi Muội.
Khi còn sống, chị nữ tu này là bạn trung thành của những bệnh nhân mắc bệnh ung thư. Chị thường xuyên thăm họ. Ngoài ra, chị cũng là bạn trung thành của những nữ phạm nhân đã hết hạn tù. Chị thường xuyên liên lạc với họ. Đặc biệt, chị là bạn trung thành của những nữ phạm nhân còn bị giam trong tù. Chị tình nguyện và được phép sống chung với họ trong tù, chịu chế độ tù y như các phạm nhân thực sự. Có chị Rosalba ở trong tù, mỗi phạm nhân như cảm thấy một lễ Noel đến với mình mỗi ngày.
Ngày an táng chị là ngày của những nước mắt. Nước mắt của những người bệnh ung thư, của những nữ tù nhân đã được tha, của những nữ tù nhân còn bị giam giữ. Họ khóc một người bạn trung thành. Chị nữ tu này đã tìm tình nghĩa nơi những người bị loại trừ. Nhiều người nức nở tiễn biệt chị bằng những lời liên quan đến đức tin như: "Thưa chị, nếu thực có thiên đàng, khi lên đó rồi, xin chị vẫn hãy là bạn của em". Những nước mắt trong lễ hôm ấy gieo vào biết bao lòng người những hạt giống khao khát đi tìm dung mạo thực của Thiên Chúa tình yêu, mà chị dòng Tiểu Muội đã giới thiệu chỉ bằng đời sống tình nghĩa của chị đơn sơ, khó nghèo, phục vụ.
Một cái nhìn về tình nghĩa hôm nay.
Tôi đã tìm tình nghĩa với kẻ túng nghèo như ở Belem. Tôi đã tìm tình nghĩa với kẻ bị loại trừ như ở chân thánh giá trên núi Sọ.
Tôi đã thấy. Tôi đã gặp. Tôi hết lòng cảm ơn họ.
Những tình nghĩa ấy đã nâng đỡ tôi. Qua những nâng đỡ đó, tôi cảm nhận được Chúa ở bên tôi. Chúa giáng sinh đến với tôi không phải để tôi bớt khổ, nhưng để chia sẻ nỗi khổ đời tôi.
Người chịu khổ cùng với tôi, chịu nhục cùng với tôi, chịu vất vả cùng với tôi, chịu thử thách cùng với tôi. Tôi cảm nhận được sự thực đó. Tôi coi đó cũng là gương, để tôi biết sống như thế với những người đau khổ.
Trên thực tế hôm nay, cuộc sống đang phơi bày khoảng cách giữa người nghèo và người giàu, giữa người bệnh tật và những khoẻ mạnh, giữa người có quyền chức và người dân thường. Nhiều khoảng cách rất lớn. Nhìn vào, tôi thấy vừa choáng váng và vừa xót xa.
Trong thực tế này, đang nảy sinh những lo âu, những phũ phàng, những ganh tỵ, những tranh giành, những nghi kỵ, những phe nhóm và những mưu lược, những chịu đựng xót lòng. Có đủ thử giả, kể cả tình nghĩa. Cả những tự tử, như bước đường cùng.
Tôi áy náy, không biết Hội Thánh Việt Nam, trong năm truyền giáo này, đã đóng góp được nhiều hay ít trong việc cải thiện thực tế đáng ngại đó, mà ai cũng đang thấy.
Với những cảm nhận như thế, tôi rất mong và rất trân trọng những tình nghĩa. Cho dù đó chỉ nhỏ hẹp khiêm tốn âm thầm như tình nghĩa ở hang đá Belem.
Chớ chi tình nghĩa xưa tại hang đá Belem sẽ là một thời sự của hôm nay. Mong thời sự hôm nay sẽ hứa hẹn một cuộc sống mới, không phải chỉ giàu hơn về văn hoá, nhưng nhất là giàu hơn về tình nghĩa trung thành và tình thương chân thành.
Riêng tôi, trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn ghi sâu trong lòng mọi tình nghĩa và tình thương của bất cứ ai dành cho Hài nhi Giêsu luôn hiện diện lặng lẽ trong tôi và cuộc đời tôi.
16. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em 2004--GM GB Bùi Tuần
Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh.
I. Theo tôi, chúng ta mừng lễ Chúa Giáng sinh, không có nghĩa là chúng ta nhớ lại hoặc kỷ niệm một Noel đã xảy ra hơn 2000 năm trước đây. Mà là chúng ta đón nhận Chúa Giáng sinh đang đến với chúng ta hôm nay. Người thực sự đang đến với bản thân mỗi người chúng ta, đang đến với gia đình chúng ta, đang đến với Quê Hương chúng ta, đang đến với thế giới chúng ta, đang đến với Hội Thánh chúng ta. Người đang đến hôm nay. Người đang đến lúc này.
Tình hình hôm nay nói chung có nhiều điều tốt, nhưng cũng có nhiều điều đáng ngại. Đáng ngại nhất là về mặt bình an và về mặt đạo đức.
Chính trong một tình hình như thế mà Chúa đến với chúng ta.
Người đến vì mục đích gì? Thưa mục đích đó đã được khẳng định trong kinh Tin Kính: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã trừ trời xuống thế". Nghĩa là Chúa Giáng sinh xuống trần là vì mục đích cứu độ chúng ta. Đó là mục đích chúng ta rất mong chờ.
Mục đích của Chúa Giáng sinh là như thế. Còn hành trình ta đón nhận Người sẽ phải thế nào?
II. Theo tôi, hành trình của chúng ta cũng phải tương tự như hành trình các mục đồng ở Belem xưa. Các mục đồng ở Belem xưa có một hành trình đơn sơ gồm 4 điểm:
1/ Họ lắng nghe thiên thần từ trời báo: "Hôm nay, Đấng Cứu thế đã sinh ra cho anh em" (Lc 2,11).
2/ Nghe vậy, các mục đồng liền vui mừng ra đi. Kinh Thánh nói: "Họ hối hả ra đi" (Lc 2,16).
3/ Đến hang đá, họ ngạc nhiên thấy một Hài nhi nằm trong máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn. Tuy vậy, họ tin Hài nhi đó là Đấng Cứu thế. Kinh Thánh kể: "Họ vừa ra về, vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa" (Lc 2,20).
4/ Họ cảm được sự bình an sâu lắng, mà các thiên thần hát khen trước đó: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" (Lc 2,14).
Trên đây là hành trình sơ lược của các mục đồng Belem xưa. Hành trình này cũng đang diễn lại tương tự nơi những ai muốn đón nhận Chúa Giáng sinh hôm nay.
Trong đời tôi, tôi đã gặp vô số trường hợp như vậy.
Trước hết, Chúa báo tin mừng cho họ qua một vài sự việc rất nhỏ. Như một gặp gỡ tốt, một trang sách đạo, một bài giảng gây chú ý, một tấm ảnh Chúa, một vài soi sáng nội tâm vv...
Được gợi ý, họ khát khao đi tìm Chúa. Có nhiều cách tìm, như: Cầu nguyện tự phát, làm quen với người sống đức tin, đi vào nhà thờ, gặp gỡ những người có vài nét như Đức Mẹ và thánh Giuse. Rồi, dần dần, họ được ơn đức tin.
Sau cùng, tâm hồn họ được bình an như một dấu chỉ họ đã có Chúa Cứu thế đến trong lòng họ.
Tất cả mọi chi tiết như thế đều diễn ra một cách âm thầm, không ồn ào, không tốn kém.
III. Tiện đây, tôi xin phép chia sẻ kinh nghiệm của riêng tôi: Chính tôi đã thường được đón Chúa Cứu thế vào lòng tôi và đời tôi, cũng qua những chi tiết tương tự. Điều quan trọng là phải có thiện tâm, thiện chí.
Ơn cứu độ là một ơn rất trọng, Chúa sẵn sàng ban cho mọi người. Nhưng Chúa không áp đặt, không ép buộc ai phải nhận. Ai muốn nhận, thì phải biết lắng nghe tiếng Chúa kêu mời, phải chịu khó lên đường, phải khiêm tốn nhận ra Chúa Cứu thế, cho dù Người đến dưới hình thức nghèo hèn, ẩn dật. Sau cùng phải biết gìn giữ sự bình an Người ban cho.
Anh chị em thân mến,
Lễ Noel trước năm 1955, tôi đã sống trong một tình hình đạo đời gây nhiều lo âu. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều, để Chúa Giáng sinh ban ơn cứu độ.
Lễ Noel trước năm 1975, tôi cũng đã sống trong một tình hình đạo đời gây nhiều bất ổn. Tôi cũng đã cầu nguyện rất nhiều, để Chúa Giáng sinh ban ơn cứu độ.
Hôm nay, lễ Noel trước năm 2005, tôi có một cảm tưởng tốt hơn, nhưng cũng không vắng những lo âu về nhiều mặt. Nhất là lo âu cho sự bình an và đời sống đạo đức xã hội, gia đình, Hội Thánh và các cộng đoàn.
Nhưng trong tình hình lo âu, tôi vẫn nghe tiếng thiên thần báo tin "Hôm nay, Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em" (Lc 2,11).
Tôi mong anh chị em cũng lắng nghe được lời báo đó, biết tìm đến Chúa Cứu thế, biết tin vào Chúa, và biết đón nhận ơn bình an Chúa chia sẻ cho những người thiện tâm, thiện chí.
Với vài tâm tình đơn sơ trên đây, cùng với Đức Cha Già Micae và Đức Cha Giuse, Đức Giám Mục giáo phận, tôi xin thân ái chúc anh chị em một lễ Giáng sinh và một mùa Giáng sinh tốt đẹp nhất.
17. “Vinh danh Thiên Chúa, bình an cho loài người”--TGM Giuse Vũ Văn Thiên 2022
Lời ca của các sứ thần tại Belem đêm đông năm xưa đã trở thành bài thánh thi quen thuộc của phụng vụ Kitô giáo. Thánh Luca nói với chúng ta: đây là bài ca của đạo binh thiên thần đông đảo, cất tiếng ca tụng Thiên Chúa.
Việc Hài Nhi sinh hạ tại Belem năm xưa đã diễn tả vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng trọn hảo. Vinh quang của Ngài có từ ngàn đời. Tuy vậy, vinh quang rạng ngời ấy, từ bao thế hệ vẫn ẩn giấu, hoặc có tỏ lộ, thì chỉ ở mức giới hạn hoặc nhất thời. Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã tỏ vinh quang của Ngài với ông Môisen và với dân tộc Do Thái trong hành trình về đất hứa. Ngài cũng tỏ vinh quang của Ngài khi vua Salomon khánh thành đền thờ Giêrusalem (vào khoảng năm 930 trước Công nguyên). Nay, nơi Hang đá Belem, vinh quang ngàn đời của Thiên Chúa đã xuất hiện và chiếu soi rạng rỡ. Tác giả thư Híp-ri viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Hr 1,1-2). Vâng, nếu trong Cựu ước, Thiên Chúa chỉ nói với con người qua các trung gian, thì nay Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Đó là khẳng định của Thánh Gioan, một khẳng định táo bạo và có thể là “mạo phạm” đối với người Do Thái. Vinh quang Thiên Chúa đã xuất hiện giữa nhân loại. Hài Nhi Giêsu là “Ánh sáng bởi Ánh sáng; Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Khi khẳng định: Ngôi Lời đã trở nên người phàm, thánh sử Gioan diễn giải tiếp: chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”. Như thế, nhìn thấy Đức Giêsu là nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Những người đương thời với Chúa Giêsu, khi họ chứng kiến những phép lạ của Chúa và khi nghe những lời giáo huấn sâu sắc của Người, đã cảm nhận được vinh quang Thiên Chúa nơi Người. Nhiều người đã thốt lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7,16). Những người này đã được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đến trần gian để tôn vinh Thiên Chúa, để danh Thiên Chúa được cả sáng, và để muôn dân nhận biết quyền năng cao cả của Đấng Sáng tạo. Cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá của Người cũng là để Thiên Chúa được tôn vinh. Người đã tuyên bố với các kỳ mục Do Thái: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là: Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Trong truyền thống Thánh Kinh, danh xưng “Hằng Hữu” chỉ được dành cho Thiên Chúa, quy chiếu về lời của Chúa nói với ông Môisen trong sự kiện bụi gai bừng cháy mà không bị thiêu rụi (x. Xh 3,14). Lời ca tụng vinh danh Thiên Chúa của triều thần thiên quốc tại Belem, vừa là lời ca ngợi quyền năng vinh hiển của Ngài, vừa diễn tả vinh quang Ngài đã bày tỏ qua Hài Nhi mới sinh. Qua Hài Nhi này, Thiên Chúa được tôn vinh ca ngợi.
Đêm Belem là đêm nối kết đất với trời. Đêm ấy, Thiên Chúa được vinh danh và con người được an bình. Đức Giêsu là Hoàng Tử bình an. Ông Dacaria đã ngẫu hứng hát lên trong ngày con mình là Gioan Tẩy giả sinh ra: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79). Với Dacaria, Đức Giêsu chính là Vầng Đông và là Bình An được Thiên Chúa gửi đến trần gian, nhờ đó mọi người trong gia đình nhân loại có thể bước đi trong cuộc lữ hành trần gian tăm tối. Khung cảnh thanh bình của Hang Đá Belem diễn tả sự bình an, và cũng hứa hẹn bình an cho những ai đón nhận Chúa Giêsu trong cuộc đời.
Nếu vinh quang Thiên Chúa đã tỏ hiện trong đêm Giáng sinh, thì hôm nay, vinh quang của Ngài vẫn hiện hữu nơi thế gian này. Đó là Đức Giêsu, Đấng đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Người hiện diện để khẳng định với nhân loại mọi thời: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Vinh quang Thiên Chúa còn thể hiện nơi cuộc đời của mỗi tín hữu, như thánh Giám mục Irênê (130-202) đã khẳng định: “Vinh quang Thiên Chúa là con người đang sống – La gloire de Dieu, c’est l’homme vivant”. Con người đang diễn tả vinh quang Thiên Chúa qua đời sống của mình. Khẳng định này vừa giúp chúng ta tôn trọng sự sống nơi bản thân, vừa nhắc nhở chúng ta tôn trọng sự sống và phẩm giá của người khác. Khi chúng ta nhận ra giá trị của sự sống và trân trọng nó, là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa.
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Người là vinh quang của Thiên Chúa. Đón nhận Ngôi Lời là đón nhận vinh quang của Thiên Chúa. Đón nhận Ngôi Lời cũng là đón nhận ơn an bình cho tâm hồn và cuộc đời mỗi chúng ta.
18. Lời đã trở thành nhục thể--Lm Carôlô Hồ Bắc Xái
A. Phân tích (Hạt giống... )
Các chuyên viên Thánh Kinh đã gọi đoạn này là quyển Tin Mừng Thứ Tư tóm lược vì chứa đựng dưới dạng súc tích tất cả những chủ đề chính của tác phẩm như: Chúa Giêsu là Lời, Sự Sống, Sự Sáng, Làm chứng, Sự thật...
1. Đức Giêsu là “Lời” của Thiên Chúa, tiền hữu và hằng hữu (cc 1-2)
2. Ngài là Đấng Tạo hóa (c 3a)
3. Ngài là sự sống và sự sáng (cc 3b-5)
4. Gioan Tiền hô là người làm chứng cho Chúa Giêsu (cc 6-8)
5. Chúa Giêsu là sự thật (c 9)
6. Ngài đến ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Ngài mà có. Nhưng thế gian đã không nhận Ngài (c 10-18)
B. Suy niệm (... nẩy mầm)
1. “Lời đã trở thành nhục thể”. Trong những thế kỷ đầu, có những lạc thuyết không chấp nhận việc Thiên Chúa nhập thể vì cho rằng thể xác là xấu xa không đáng cho Thiên Chúa nhập vào. Nhưng Con Thiên Chúa đã thực sự nhập thể, chứng tỏ thân xác chúng ta không xấu xa, chứng tỏ lòng Ngài quá thương chúng ta, và còn cho biết từ nay Thiên Chúa muốn gặp gỡ chúng ta qua thực tại nhân tính với tất cả những yếu đuối hèn hạ của nó. Hệ luận của mầu nhiệm nhập thể này là từ nay ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi gặp gỡ con người, ta có thể yêu mến Thiên Chúa khi yêu mến con người...
2. “Ánh sáng chiếu trong bóng tối và bóng tối đã không tiêu diệt được ánh sáng": Nói một cách triết lý, Tối chỉ là thiếu Sáng, cho nên khi nào Sáng đến thì Tối phải tan. Chỉ một ngọn nến nhỏ được đưa vào một gian phòng mênh mông cũng đủ đuổi bóng tối ra khỏi gian phòng. Suy rộng ra, Ác chỉ là thiếu Thiện, cho nên Ác không thể nào thắng Thiện, ngược lại Thiện thắng Ác là điều tất yếu. Ngôi Hai đã nhập thế và nhập thể, ai đón nhận Ngài vào lòng mình thì chắc chắn sẽ đẩy lùi bóng tối và sự ác khỏi lòng mình. Bởi thế, trong quyển sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, Đức Gioan Phaolô II luôn lặp đi lặp lại lời kêu gọi đầy lạc quan: “Đừng sợ. Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”.
3. Một đêm kia, trên một đường phố vắng vẻ, Bóng Tối ngồi co ro, buồn bã. Từ một xó nọ loé lên một Tia Sáng, rất nhỏ và rất yếu, nhưng là một tia sáng, phát ra từ một cây nến nhỏ mà ai đó đã cắm ở đấy. Một người khách đi qua nhìn thấy cây nến nhỏ và nói:
- Sao mi lại chiếu sáng trong cái xó kẹt này? Thiếu gì chỗ khác, mi đến đó mà chiếu sáng thì sẽ hữu ích hơn nhiều.
- Tại sao hả, cây nến trả lời. Tôi chiếu sáng bởi vì tôi là cây nến. Tôi có chiếu sáng thì tôi mới là cây nến. Vả lại tôi chiếu sáng đâu phải chỉ để cho người ta thấy mà còn để cho tôi vui, vui vì được làm Tia sáng, vui vì được chiếu sáng.
Bóng Tối nghe thế rất bực bội. Nó nhào tới phủ lên Tia sáng mong làm cho Tia sáng bị tắt. Nhưng chẳng những Tia sáng không tắt, trái lại Bóng Tối còn bị rách nát ra. (Willi Hoffsuemmer).
19. Thiên Chúa ở cùng chúng ta--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
EMMANUEL hay NOEL có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hôm nay cả thế giới hân hoan mùng lễ Noel, là kỷ niệm ngày Thiên Chúa xuống thế làm người, là việc kỷ niệm Thiên Chúa hạ cố làm người để nâng con người lên làm Thiên Chúa. Hôm nay trời đất gặp nhau, hôn nhau âu yếm, tạo nên một chữ đồng. Chúa giáng trần để cứu rỗi loài người, đem con người trở lại làm con Thiên Chúa và ban cho con người tràn trề hy vọng trong cuộc sống mai hậu. Ta hãy hợp cùng Giáo hội long trọng mừng lễ đêm nay để cảm tạ Chúa về hồng ân Giáng sinh này, và xin Chúa ban cho mọi người được sựï bình an hồn xác như các thiên thần ca hát:
Thượng vinh ư Thiên Chúa
Hạ hòa ư thiện nhân.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 9,1-6.
Vì bất trung với Giao ước, dân Israel đã kéo cơn thịnh nộ của Chúa xuống trên mình: quân đội Assyria đã xâm chiếm vương quốc Israel và bắt một phần dân xứ đó đi lưu đầy ở Babylon. Họ trở thành “dân tộc bước đi trong u tối”, bị quân thù áp bức đủ bề.
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo là họ sẽ được giải thoát: “Dân tộc bước đi trong u tối sẽ được thấy ánh sáng chứa chan”. Đó là một hài nhi sẽ sinh ra cho họ. Trước mắt, hài nhi này thời đó, là vua Ezechias, nhưng thực ra vua Ezechias không thực hiện được tất cả nội dung của lời tiên tri này. Nội dung đầy đủ của lời tiên tri này sẽ chỉ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô mà thôi. Đây là Tin mừng mà ngôn sứ Isaia loan báo cho dân Israel khi họ còn sống trong “miền âm u của sự chết”.
+ Bài đọc 2: Tt 2,11-14.
Thánh Phaolô viết thư này cho ông Titô có lẽ vào khoảng năm 65 trước khi thánh nhân chịu tử đạo tại Rôma. Ngài nhấn mạnh về tính chất nhưng không của ân sủng mà Thiên Chúa ban cho ta qua Đức Giêsu Kitô. Kitô hữu hãy hướng lòng tới cuộc xuất hiện vinh quang của Đức Giêsu Kitô sau này. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của chúng ta không dựa trên những công việc tốt lành mà chúng ta thực hiện được, nhưng dựa vào lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa.
Trong lúc chờ đợi, Kitô hữu phải cố gắng từ bỏ sự gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức.
3. Bài Tin mừng: Lc 2, 1-14.
Thánh Luca thuật lại cho chúng ta bối cảnh ngày Chúa Giáng sinh. Bối cảnh này có thể chia thành hai phần đối chọi nhau:
* Phần đen tối: lúc đó người Rôma đặt ách cai trị trên dân tộc Israel, dân chúng phải sống trong cảnh áp bức, đời sống tinh thần và vật chất gặp nhiều khó khăn, phải tuân hành mệnh lệnh của nhà cầm quyền đô hộ... Gia đình Thánh gia cũng là một gia đình nghèo nàn như nhiều gia đình khác, không tìm được chỗ trọ trong hàng quán nên phải sinh Đức Giêsu nơi hang đá Be lem, nằm trong máng cỏ.
* Phần sáng chói: Chính trong sự đơn sơ khó nghèo này mà quyền năng và nhất là lòng nhân từ của Thiên Chúa được tỏ rạng. Hài sinh mới sinh này là Con Thiên Chúa. Do đó, quang cảnh ngày Giáng sinh rất rực rỡ: đoàn thiên sứ báo tin vui, ánh hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa, tiếng ca hát của muôn thiên thần vang lên trên không trung:
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Việc Đức Giêsu sinh ra đã làm đảo lộn cục diện thế giới: đen tối trở thành ánh sáng, tội lỗi sẽ được thay thế bằng ân sủng, buồn sầu sẽ trở thành mừng vui vì Đấng Cứu thể đã sinh ra.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta
I. CHÚNG TA MỪNG LỄ GIÁNG SINH.
1. Ý nghĩa ngày lễ Giáng sinh.
Hôm nay khắp nơi trên thế giới hoan hỉ mừng lễ Chúa Giáng sinh, đó là ngày lễ quốc tế chứ không phải của một dân tộc nào ; đối với Kitô hữu, hôm nay được gọi là lễ Chúa Giáng sinh. Nhiều người không muốn dùng từ lễ Giáng sinh mà chỉ dùng chữ Noel trên các tấm thiệp cũng như trong các đèn ông sao và nơi hang đá.
Tại sao gọi là Noel? Chính ra phải gọi là lễ Nuel mới đúng, vì từ Nuel được rút ra từ chữ Emmanuel, có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Sau này người ta đổi chữ Nuel thành Noel. Như vậy mừng lễ Noel là mừng ngày Thiên Chúa giáng trần và ở cùng chúng ta.
Ngược dòng lịch sử: khi Ađam và Evà phạm tội bất trung, Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà, nhưng đồng thời cũng hứa ban Đấng Cứu thế đến cứu chuộc nhân loại bằng cách cho Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta, và sẽ dùng cái chết của mình trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi cho con người. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngôi Hai Thiên Chúa đầu thai trong lòng Trinh Nữ Maria và đã được sinh ra tại hang đá Belem trong một đêm đông lạnh lẽo.
Hôm nay khắp thế giới kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần để ở cùng loài người. Loài người chúng ta hân hạnh quá vì được đồng hành với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hoá thân làm người như chúng ta, nhận lấy kiếp sống phàm trần như ta để chia sẻ buồn vui với loài người và nâng cao thân phận con người lên để xứng đáng làm con Thiên Chúa.
2. Mừng ngày Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hôm nay Con trẻ Giêsu được sinh ra tại hang đá Belem, mọi người đều hướng về Ngài. Vậy Ngài là ai mà quan trọng thế? Ngài vừa là Con Thiên Chúa vừa là con của loài người. Ngài đến nối kết trời và đất, Ngài là Đấng Trung hòa. Trong Ngài trời và đất không còn xa nhau, không còn khoảng cách. Tất cả đều nên một cho nên phải nói:Ngài thực sự là Đấng “Chí Trung Hoà”, là Đấng “Thái Hoà” thực hiện đúng lý tưởng của văn hóa Đông phương hằng mong ước.
Ngài là Con Thiên Chúa, cho nên Ngài nên một với Thiên Chúa. Ngài là con người nên hoà đồng với con người, nhận lấy thân phận khốn khổ của loài người. Chính thánh Phaolô đã giải thích mầu nhiệm này: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất thiết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, sống như người trần gian. Người lại còn hạ mình vâng lời bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2,1-8). Người đồng hóa như vậy đó: “Cho loài người tham dự với Người vào các mầu nhiệm Thiên Chúa. Biến đổi loài người nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Cầu bầu cho nhân loại, và cứu rỗi họ bằng sự chết của mình” (Thân văn Tường, Kitô học, tr 136).
Theo Đông phương, Đức Giêsu Kitô là Đấng “Chí Trung Chí Hoà”. Chữ Trung gồm nét sổ thẳng chính giữa tâm hình tròn. Hình tròn biểu tượng thái cực là Trời, là Thiên Chúa. Hình tròn viết thành chữ thì biến thành hình vuông. Vuông chỉ đất là người. Nét sổ thẳng chính trung tâm vuông tròn không xê dịch, sai lệch một chút nào, đó là Chí Trung, dấu chỉ Đức Giêsu là trung tâm trời đất. Còn Chí Hoà, chữ Hoà gồm chữ hoà là lúa và chữ khẩu là miệng: cơm bánh là thực phẩm hợp khẩu vị nhất, là đồ ăn hoà đến cùng cực để trở nên sự sống của loài người. Đức Kitô đã biến bánh miến và rượu nho trở nên Thịt Máu mình để trở nên của ăn của uống ban cho chúng ta sự sống muôn đời. Một sự hoà đồng cùng cực: Chí Hoà”. Thật Người là Đấng Chí Trung Chí Hoà để cho tất cả nên một. Thiên Chúa và con người không còn xa cách, không còn không gian, thời gian nào phân ly được nữa... (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 22)
Truyện: hoàng tử và cậu bé nghèo.
Văn hào Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một cuốn sách tiểu thuyết nổi tiếng tựa đề “Hoàng tử và cậu bé nghèo”. Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.
Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình một mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất trong xã hội.
Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.
Giữa lúc Tom cậu bé nghèo sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giầu lòng thương người (Lẽ sống,447)
Cũng giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng ta. Người mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước hiệu làm con Thiên Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ đau của con người.
3. Những Đấng Kitô ngày nay!
Chúa Giêsu đã xuống thế lần thứ nhất vào ngày Ngài giáng sinh. Ngài hứa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang của Ngài để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Trong khi chờ đợi Ngài đến lần thứ hai, ngày nay ta thấy xuất hiện nhiều người tự xưng là Đấng Kitô, Chúa Cứu thế. Cho đến nay, đã xuất hiện 18 tân Kitô tại Ấn độï, Nga, Mỹ và Pháp và tự xưng mình là Chúa, trong đó có một nữ Chúa Cứu thế với 15 triệu tín đồ. Điên khùng hay bịp bợm, các nhà tiên tri ấy hứa hẹn với các tín đồ một thiên đàng dưới đất chăng?
Cách đây 1000 năm, loan báo ngày tận thế sẽ vào năm 1000, phải chăng nay lại tái diễn? Trong số các Đấng Cứu thế này có Sathya Sai Baba là nổi tiếng nhất trong số các Messie hiện tại. Ông ở tuổi 68, ông Kitô Ấn độ này với kiểu tóc bờm ngựa, đã chiêu tập được 10 triệu tín đồ. Xuất hiện trước công chúng, ông ta luôn mặc cái áo dài màu cam, ngồi trên ngai và để chân lên đệm. Ông cũng làm được một vài điều lạ như đẻ ra trứng trước mặt nhiều người, chữa bệnh bằng thần giao cách cảm. Có một cặp vợ chồng người Tây phương hỏi ông có phải là Đấng Kitô đăng quang lần thứ hai không, ông ta chỉ mỉm cười.
Còn Đấng Kitô đáng chú ý nữa là Mary Davy Christ, Kitô đàn bà, người Do thái. Theo truyền thống Do thái, lại không nhận có Kitô đàn bà. Nhưng các đệ tử của Mary Davy Christ lại lý giải thật đơn giản: đăng quang lần đầu tiên Kitô là đàn ông, thì lần thứ hai để loan báo ngày tận thế, Kitô sẽ là đàn bà: chuyện đó rất đơn giản.
Đấng Cứu thế đã đến rồi và Ngài sẽ trở lại mà chưa biết ngày nào, chúng ta hãy chờ đợi. Còn những Kitô giả hiệu không được có chỗ đứng trong suy nghĩ của chúng ta: Chúng ta chỉ có một Chúa Kitô là Đức Giêsu.
II. CẢM NGHĨ VỀ LỄ GIÁNG SINH.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con yêu qúi của Ngài là Đức Giêsu. Trong ngày kỷ niệm ngày Ngài giáng sinh, chúng ta phải có những tâm tình nào đây? Không lẽ chúng ta chỉ coi lễ Giáng sinh như là một ngày vui chơi sao? Như thế lễ Giáng sinh không còn có ý nghĩa thiêng liêng nữa.
1. Ngày lễ của Tình yêu.
Hôm nay chúng kỷ niệm ngày Đức Giêsu ra đời. Ngày đáng ghi nhớ. Ngày trời đất gặp nhau hôn nhau âu yếm. Ngày trời đất se chữ đồng. Ngày Thiên Chúa hạ xuống làm người để con người được làm Thiên Chúa. Lễ hôm nay phải được gọi là lễ của Tình yêu, tình yêu cao vời của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa đã bỏ mọi vinh quang trên trời, hạ mình xuống làm con người hèn hạ. Nhìn vào hang đá, ta thấy một hài nhi bé bỏng nằm trong nôi, ngoài Đức Maria và thánh Giuse chỉ có mấy con bò lừa thở hơi ấm cho Chúa Hài nhi, và trên không trung chỉ có tiếng ca hát của các thiên thần. Sau đó, các thiên thần báo tin cho mục đồng đến chiêm bái Chúa Hài đồng.
Người ta ai cũng có quan niệm rằng: Đấng Cứu thế phải là con vua con chúa, phải sinh ra nơi lầu son gác tía, được mọi người tung hô chúc tụng ; nhưng thực tế lại khác hẳn, Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát: không nhà không cửa, không giường không chiếu, không lấy một mảnh chăn êm, không ai đến thăm hỏi. Thật là cám cảnh. Có ai trong chúng ta đi lễ đây đã bao giờ sinh con trong hoàn cảnh như vậy chưa? Chắc chắn là không. Thế mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã sinh ra trong hoàn cảnh như vậy đó. Vậy lý do nào đã khiến Thiên Chúa hành động như vậy? Không còn lý do nào khác ngoài tình yêu đối với chúng ta, vì đã yêu thì không có tính toán hơn thiệt.
Truyện: Hoàng đế Sabat.
Hồi đó, Hoàng đế Sabat cai trị vương quốc Ba tư và rất được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để dễ tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một công nhân nghèo khổ lần mò các bậc thang để xuống tận hầm tối của lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ là đống tro tàn và lương thực hằng ngày là mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ già và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng thấm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.
Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua nhiều lần cải trang để đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả cử chỉ nhân đạo của nhà vua. Sau cùng, nhà vua tự nhủ: ta sẽ tỏ lộ cho cụ già này biết ta là ai, để xem ông ta sẽ xin ta sự gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:
- Bấy lâu nay có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân nghèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua, ta rất mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban cho.
Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng ông chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm:
- Có lẽ ông chưa hiểu rằng ta là vua, ta có thể làm cho ông nên giầu sang, danh vọng.
Cụ già cúi đầu đáp:
- Tâu Hoàng thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao qúi nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa, con chỉ xin một điều là Hoàng thượng đừng bao giờ lấy lại món quà quí giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.
2. Tâm tình trong ngày lễ.
Hôm nay mọi người đều nô nức đi dự lễ, kể cả những người ngoài công giáo. Mỗi người có một cái nhìn về lễ Giáng sinh: họ cũng mừng lễ, chúng ta cũng mừng lễ, nhưng tâm tình về ngày lễ thì khác nhau. Vậy chúng ta có tâm tình nào? Với ý tưởng gì? Ta có những ý tưởng tốt đẹp và cao qúi trong ngày lễ Giáng sinh không? Hay chỉ nghĩ rằng hôm nay là ngày lễ để vui chơi, để có dịp gặp gỡ nhau hoặc có dịp khoe thời trang?
Truyện: Ý tưởng về Lễ Giáng sinh.
Một giáo sư tâm lý của trường đại học tại Hoa kỳ ra một bài thi để dò xem ý tưởng của 40 sinh viên trong lớp của mình. Trước hết ông bảo họ lấy giấy bút ra viết chữ “Lễ Giánh sinh”, rồi ông nói: “Bây giờ các anh chị hãy viết vào sau chữ ấy ý nghĩ đầu tiên mà các anh chị liên tưởng đến về ngày lễ ấy”.
Khi họ nộp quyển, ông coi lại thì thấy có những chữ sau đây: cây giáng sinh, dây kim tuyến, tặng phẩm, gà tây, bài ca giáng sinh và ông già Noel, không có một ai viết “Ngày Chúa Giêsu ra đời”.
Ngày này lễ Giáng sinh không còn ý nghĩa cao qúi ấy nữa, người ta đã tục hóa lễ Giáng sinh, người ta chỉ coi lễ Giáng sinh là một ngày vui chơi cho mọi người, thậm chí có những người lợi dụng lễ Giáng sinh để kinh doanh.
Tôi xin nhắc lại câu hỏi: hôm nay anh chị em nghĩ gì về lễ Giáng sinh? Nếu anh chị em quên hay không biết, tôi xin được phép nhắc lại: Hôm nay chúng ta mừng lễ Giáng sinh là có ý kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần, ngày Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta. Anh chị em hãy nhìn vào chữ Emmanuel hay chữ Noel để nhớ đến ý nghĩa của ngày lễ. Emmanuel hay Noel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa.
Trong dịp lễ Giáng sinh hôm nay, tôi xin gửi đến mỗi người một tấm thiệp Noel với hàng chữ ghi trong tấm thiệp mà tôi mới nhận được từ bên Mỹ:
Every day is Christmas for me
because I love you.
20. Lễ Giáng Sinh: Con Thiên Chúa làm người--Lm Giuse Đinh Tất Quý
LỄ ĐÊM
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm, có một người được Thiên Chúa ban cho ơn đặc biệt, đó là tiên tri Isaia, ông hướng về tương lai của nhân loại mà thần của Thiên Chúa đã hé mở cho ông, ông nói những lời mà chúng ta vừa được nghe lại.
Kể từ ngày đó, nhân loại đợi trông Con trẻ đã được tiên báo ra đời. Rồi người ta thấy một Người có những điểm rất kì diệu xuất hiện.
Ngài là Con Trời nhưng lại chịu làm con một người thợ mộc tầm thường. Dầu sống bình thường, nhưng tuổi thơ ấu của Ngài làm cho vị Vua Hêrôđê đầy kiêu ngạo và gian ác phải khiếp sợ. Ngài là Đấng Tạo Hóa quyền năng, nhưng gặp nhiều hiểm nguy có liên hệ đến tính mạng nên cha mẹ Ngài đã phải ẵm Ngài đi tị nạn.
Ngài là Đấng giàu có tột đỉnh trong nước trời, nhưng lại chịu trở nên nghèo nàn vô cùng trên trái đất. Ngài nghèo đến nỗi, khi sinh ra, không có chỗ đặt lưng. Phải nằm nhờ trên một máng cỏ trong hang chứa súc vật của một người không quen biết. Ngài không có tiền đến nỗi phải bảo một môn đi câu để tìm một đồng bạc nơi miệng cá để đóng thuế. Muốn đãi toàn dân một bữa ăn, Ngài phải nhờ bánh và cá của một em bé. Khi muốn qua bên kia bờ biển, Ngài phải đi nhờ thuyền của người chài lưới. Muốn vào thành Giêrusalem Ngài phải dùng con lừa mượn của người khác. Khi chết, Ngài chỉ còn một cái áo, nhưng bọn lính cũng lấy cái áo đó của Ngài. Sau khi chết, Ngài không có tiền để lại để mua một cái huyệt, mà người ta phải chôn Ngài trong một cái huyệt của người khác. Thế mà ngày nay đâu đâu cũng có nhà của Ngài.
Ngài không có cấp bằng đại học, nhưng cho dù sự khôn ngoan cao nhất ở đại học từ cổ chí kim, cũng không sao so sánh được với sự khôn ngoan của Ngài. Khi mới mười hai tuổi, Ngài đã làm cho bao người thông thái phải ngạc nhiên vì những lời đối đáp cao siêu của Ngài. Nghe lời Ngài giảng dạy, mọi người phải ngạc nhiên vì Ngài giảng dạy có uy quyền….. khác hẳn những người khác, vì Ngài có đầy đủ thẩm quyền phán quyết cho mọi vấn đề. Ngài có quyền trên định luật thiên nhiên. Một đám tiệc cưới bất ngờ thiếu rượu, Ngài đã biến nước thành rượu để giúp chàng rể khỏi bẽ mặt trong ngày vui của chàng. Chỉ dùng một phần ăn của anh em nhỏ, năm cái bánh và hai con cá, Ngài đã đãi hơn năm ngàn người một bữa ăn no nê lại còn dư ra mười hai giỏ đầy những miếng bánh vụn. Một đêm khuya kia trong một cơn giông dữ dội, Ngài đã coi thường định luật hấp lực của trái đất, Ngài đã đi trên mặt biển rộng đang lộng gió để đến với các môn đệ. Họ đang kinh hãi vì các ngọn sóng biển cao gầm thét, nhưng Ngài không sợ mà trái lại, Ngài đã quở gió và biển, chúng phải vâng lệnh ….. im lặng như tờ. Việc lạ lùng đến nỗi các môn đệ kinh ngạc hỏi nhau “Ngài là ai?”
Các bác sĩ phải dùng thuốc để chữa bệnh, nhưng Ngài chỉ dùng lời phán để chữa lành mọi bệnh tật. Thật lạ lùng! Ngài đã giải tán đám tang bằng cách rờ vào quan tài của cậu trai đã chết và cho cậu sống lại để trở về nhà cùng bà mẹ của cậu. Ngài biến cảnh đau thương biệt ly của Mátta thành cảnh vui mừng sum họp bằng cách gọi Ladarô sống lại, ra khỏi mồ, dù chàng đã chết và đã chôn được bốn ngày.
Ngài chẳng hề viết một cuốn sách nào nhưng hiện nay trên thế giới, không có một thư viện nào có đủ chỗ để chứa những sách người ta viết về Ngài. Ngài không hề vẽ một bức tranh nhưng ngày nay không biết bao nhiêu bức tranh người ta vẽ về Ngài. Ngài không sáng tác một bài nhạc hay một bài ca nào để nói về Ngài, nhưng những bản nhạc đại hòa tấu chúc tụng Ngài nhiều vô kể và đang vang tiếng khắp bốn bể năm châu!
Ngài không hề có vũ khí trên tay. Ngài cũng không hề tuyển mộ binh sĩ để thành lập quân đội, nhưng không có một tướng lãnh nào hay bất kì vị lãnh tụ nào có nhiều người bằng lòng tuân lệnh Ngài. Đã có hàng tỉ người tự nguyện tuân lệnh Ngài từ hai ngàn năm nay và mãi mãi về sau. Trong lịch sử loài người đã có rất nhiều người quyết tâm chống trả Ngài với tất cả khả năng quyền lực của họ, nhưng rồi trong số đó đã có người phải chịu quy hàng, đầu phục Ngài. Không phải vì Ngài đã chinh phục họ bằng vũ lực, nhưng Ngài đã chinh phục họ bằng tình yêu nhân lành Ngài dành cho họ.
Các đế quốc hưng thịnh rồi suy tàn. Các vua chúa lần lượt ra đi, nhưng Ngài còn lại đời đời. Vua Hêrôđê không giết được Ngài, đế quốc La Mã không tiêu diệt được Ngài. Sự chết không có quyền trên Ngài. Mồ mả không giữ được Ngài, vì vị trí của Ngài là ở bên hữu Đấng Toàn Năng.
Tất cả ai nấy đều chết vì mình, nhưng Ngài lại chết vì tội nhân. Tất cả mọi người đều bị khuất phục trước sự chết, nhưng ngài đã chiến thắng sự chết và bước ra khỏi mồ một cách khải hoàn. Người đời thường rời cuộc đời trần thế bằng nấm mồ chôn ba tấc đất, nhưng ngài rời cuộc đời trần thế bằng cách thăng thiêng về trời. Lúc đó một đám đông ngơ ngác, ngước mắt lên nhìn theo Ngài vì việc quá lạ lùng xảy ra trước mắt họ!
Ngài đã từng bị khinh bỉ nhục nhã, nhưng nay Ngài đang ngồi trên ngai vinh hiển của Thiên Chúa. Trước khi trở lại ngôi trời, Ngài đã hứa một điều lạ lùng cùng những kẻ thuộc về ngài rằng: Ta đi và sắp sẵn cho các con một chỗ. Khi Ta đã sắp sẵn cho các con một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các con đi với Ta, hầu ta ở đâu thì các con cũng sẽ ở đó với ta. Lời hứa lạ lùng này sẽ thành tựu trong tương lai gần đây. Lúc đó những người của Ngài sẽ vui mừng trọn vẹn vì được sống hạnh phúc vĩnh cửu với Đấng kì diệu của họ.
Đấng kì diệu ấy là ai? Thưa Ngài chính là Chúa Giêsu. Ngài là con trẻ đã sinh ra tại chuồng chiên nằm trong máng cỏ cách đây hơn 2000 năm. Ngài đã từ trời giáng thế để đem những ai tin nhận Ngài từ trần gian về cõi trời.
Xin kính chúc tất cả một mùa Giáng Sinh vui vẻ và đầy hồng ân của Chúa Giêsu.
LỄ RẠNG ĐÔNG
Kính thưa anh chị em.
Chúng ta đang ở trong bầu khí mừng Chúa Giêsu giáng sinh làm người.
Nhìn vào biến cố diễn ra tại hang đá Belem, chúng ta thấy một cảnh tương phản khó hiểu xuất hiện trước mắt chúng ta.
1. Trước hết là cảnh tương phản giữa trời và đất.
Bầu trời hôm ấy rực sáng... ”trong vùng ấy” đêm hôm ấy bừng sáng. Cả bầu trời vang dội tiếng ca mừng biến cố, với quy mô lớn lao và hoành tráng chưa từng có “Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời; bình an dưới thế cho loài người Chúa thương “. Vâng! Đất trời tưng bừng mở hội
Còn gì cao đẹp hơn! Còn gì tuyệt diệu hơn. “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời - Và Bình an dưới thế cho người Chúa thương.
Nhưng dưới bầu trời rực sáng đó là một hang đá nghèo hèn, tăm tối người ta dùng để làm chỗ trú đêm cho loài vật lúc đêm về. Trong hang đá đó có một cặp vợ chồng trẻ vì hoàn cảnh nghèo, nghèo quá cho nên không tìm được chỗ trọ ở trong phố chợ, đã phải ra đó để nương nhờ, mượn chỗ đó làm nơi hạ sinh cho đứa con đầu lòng thân yêu của họ. Vâng! Giữa cảnh rực sáng của bầu trời, không dè lại tồn tại một cảnh nghèo hèn như thế ngay ở trên cõi dương gian này!
2. Tiếp đến là cảnh tương phản giữa người với người trong biến cố này.
Nào mấy ai hiểu được rằng hài nhi được sinh ra trong hang đá nghèo hèn đó là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Nào mấy ai hiểu được rằng Hài Nhi đó là Đấng mà muôn dân đợi trông... đợi trông từ bao ngàn năm qua! Nào có mấy ai hiểu được rằng Hài nhi nghèo khó tại hang đá Belem hôm đó là Đấng Cứu Thế, Đấng đem lại ơn Cứu độ cho cả loài người. Và có mấy ai ngờ được rằng những người đầu tiên được đón nhận mạc khải của biến cố, lại không phải là những người giàu có, quyền uy... mà lại là những con người mạt rệp của xã hội thời ấy: “những người chăn chiên “, những người thường bị coi là những tên bất lương, phường trộm cắp. Những người ở nấc thang cuối cùng của xã hội thời đó. Nào mấy ai ngờ được rằng những người vốn bị khinh bỉ ấy lại là những người đầu tiên được chia sẻ ơn Giáng sinh của Đấng có một người mẹ là “kẻ khiêm hạ”, và Đấng sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ (4. 18).
Vâng sứ điệp mà “Thiên thần Chúa” gởi đến cho họ là “Một Tin Mừng” một niềm vui trọng đại. Đó là tin vui “cho toàn dân “, tin vui về một hài nhi Giáng sinh, mà chỉ hài nhi đó mới có đầy đủ những danh hiệu là “Đấng Cứu độ, Đấng Mêsia”, “Đức Chúa “, bởi vì hài nhi đó là mạc khải sống động của lòng nhân hậu Chúa.
Và “Dấu chỉ” được ban cho các người chăn chiên trong vùng Bêlem hôm ấy không phải là giường vàng nệm ấm, cũng chẳng phải là hoàng tử của ông hoàng bà chúa mà là “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ “, Thật là lạ lùng, ai mà ngờ được dấu chỉ đó lại là dấu chỉ cho các mục đồng nhận ra Đấng Cứu Thế!
Khi suy niệm về sự việc này, R. Meynet viết: “Kẻ đứng đầu trở nên người rốt hết. Người là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia sẽ được ban cho ngôi báu Đavít, lại đã nằm trong máng cỏ bò lừa; Người được bọc tã nằm trong cái nôi của số phận nghiệt ngã, và chính cái đó, cái dấu chỉ ngược đời này đã được ban cho các người chăn chiên cũng như cho những kẻ có lòng tin của mọi thời. Bằng chứng oai phong của Chúa là sự thấp hèn, bé nhỏ của Người, dấu chỉ quyền năng của Người là vẻ yếu đuối”,
Khi vùng quê Bêlem đã trở về với đêm tối và tĩnh mịch, các người chăn chiên đã hối hả ra đi “đến xem sự việc đã xảy ra “. “Họ thấy bà Maria, ông Giuse cùng với hài nhi đặt nằm trong máng cỏ “.
3. Kính thưa anh chị em, ngày xưa là như vậy. Và hôm nay cũng vậy thôi, Người đến xô đẩy những gì người ta vẫn coi là ưu tiên, những quan điểm hẹp hòi và những chương trình to lớn vĩ đại của ta. Ở đâu người ta ít chờ đợi Người, thì Người lại xuất hiện. Và với một Đức Kitô như thế, thì rất có nguy cơ lại trở về tình trạng chẳng khác gì đêm Noel xa xưa ngày ấy: sẽ chẳng ai mà đoái hoài đến, chẳng ai biết cho, luôn bị đe doạ, bị thành phần ưu tú của tín hữu và những kẻ thế lực đời này ruồng rẫy thôi. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”.
Mà tại sao lại thế? Là vì Người không chỉ bằng lòng với việc kêu gọi cầu nguyện và tổ chức những lễ lạy rình rang, nhưng Người giảng dạy sự tha thứ và lòng xót thương; Người tuyên bố phẩm giá và những quyền của con người phải được tôn trọng. Là vì Người vạch rõ những con đường để thực thi công lý, hòa bình, hiệp nhất và 'huynh' đệ' bằng việc hoán cải cái tâm, thay đổi cái tính và uốn nắn cái tình.
Vâng! Thiên Chúa đến làm cho chúng ta trở nên “một dân hăng hái làm điều thiện”. Thế nên ta hãy làm cho lòng ta thành một cái nôi lãnh nhận Lời ban sự sống. Và khi bàn tay ta, giống như máng cỏ, giơ ra để nhận Lời hóa bánh, thì hãy nhớ rằng Người đến trong ta để lấy đó làm nơi cư ngụ, để soi sáng, giải thoát, biến đổi ta và để làm cho ta trở thành những chứng nhân và làm bằng chứng cụ thể cho tình yêu của Người đối với mọi người vậy...
(J. Debruyne, trong “Jésus, sa chair, ses racines”, Desclée, trg 201-202).
“Đêm đó các người chăn chiên đã lên đường đi tìm Chúa.
Phải chăng hài nhi sơ sinh kia
Là người thân của họ
Nên đã sinh ra trong chuồng bò lừa như thế
Có lẽ rồi đây Người cũng sẽ là kẻ chăn chiên chăng?
Thế tại sao hài nhi bé bỏng kia
Rồi đây lại không muốn làm
“một chú bé mục đồng “
Họ là những người canh giữ đoàn vật
Luôn trông chờ bình minh mau tới,
Qua ánh sao, họ nhận ra dấu chỉ
Giữa trời đêm, họ đọc Thánh Kinh.
Họ là những người nay đây mai đó,
Mòn vết chân trên những đồng cỏ thưa,
Họ khéo léo tập hợp bầy chó dại.
Và rất dễ dàng quy tụ đoàn chiên.
Hơn là bế bồng nâng niu em nhỏ,
Có lẽ họ là lời loan báo
Rằng đêm nay
Một cuộc xuất hành mới bắt đầu chăng?
Có lẽ vì họ là
Những con người của lều trại
Không cố định ở một chốn nào lâu.
Vì họ là những anh em bà con của Chúa,
Nên khi ở với họ,
Chúa cảm thấy như ở nhà mình chăng?
Phải có được những con mắt như họ,
Mới có thể giữa trời đêm
Nhắm ánh sao mà tiến tới,
Để nhận ra Thiên Chúa ẩn mình
Dưới hình hài một trẻ sơ sinh...
Đêm hôm đó,
Đêm vui của những người nghèo
Vẫn chưa trở thành ngày lễ
Cho những kẻ giàu sang.
Nét thanh bần
Vẫn chưa phải là lễ hội của quà chia,
Đêm lặng lẽ đó,
Vẫn chưa phải là lễ hội đem tưng bừng thật sự
Đêm hôm đó.,
Chẳng cần cổ võ thêm những cuộc vui,
Mà nên triệt bỏ đi mới phải.
Nếu đêm nay Chúa đang ở đó,
Thì ta phải cúi xuống tìm gặp Người,
Và quỳ xuống
Để lượm lấy Người nằm dưới đất.
Hài nhi sơ sinh đó
Còn chưa nói ra được một tiếng
Thế mà lại đã là Lời
Mà ý nghĩa thật là đảo lộn.
Là thế giới đảo ngược,
Là đảo ngược các thang giá trị,
Là tương lai đã đang đi trên đầu rồi.
LỄ BAN NGÀY
“Lời trở thành người phàm” và cư ngụ giữa chúng ta”
Lời khẳng định trên đây là một lời quả quyết huyền bí và có nhiều ý nghĩa nhất trong bất cứ một thứ ngôn ngữ nào
A. Dĩ nhiên, đâu phải ai cũng biết “Lời” là gì. Trong truyền thống Do thái, “Lời” có nghĩa là cách thế mà Thiên Chúa hành động. Ví dụ trong câu truyện tạo dựng được thuật lại trong sách Khải Nguyên (Kn 1,1-31), Thiên Chúa đã không làm gì khác nhưng Người chỉ “phán” tức là sử dụng lời: “Thiên Chúa đã phán: “Hãy có ánh sáng, thì liền có ánh sáng... ”
“Lời” có nghĩa là điều mà con người chúng ta nói về tất cả những gì chúng ta có thể biết được về Thiên Chúa, thông qua những hành động của Người.
“Lời trở thành người phàm”. Gioan đã không viết là Ngôi Lời đã trở nên người nhưng ông cao rao rằng Ngôi Lời đã trở nên người phàm, một từ chỉ toàn diện con người cả xác lẫn hồn.
Từ “người phàm” được dịch từ từ “sarx” của Hy lạp. Từ đó chỉ toàn diện con người, cả xác lẫn hồn với tất cả sự yếu đuối, mỏng giòn hay hư nát của nó. Đó là cái bao bọc nhân vị con người. Từ sarx (người phàm) cũng là căn nguyên của tất cả niềm vui, của tất cả sức mạnh và là cội rễ của tất cả những yếu đuối cũng như những nỗi bất hạnh của chúng ta.
Một điều khó khăn và thật là kỳ khôi sẽ xảy ra khi chúng ta nối liền hai từ “Lời” và “Người phàm” bằng từ “Trở thành”.
“Lời trở thành người phàm” và cư ngụ giữa chúng ta” (dịch sát chữ là: “đã dựng lều giữa chúng ta”): Đối với các độc giả của Gioan lúc ấy, kiểu nói “dựng lều “ gợi nhớ ngay đến “nơi cư ngụ của Chúa” giữa dân Người. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người xưa được biểu tượng bằng Nhà Lều ở sa mạc thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, thì giờ đây được thể hiện một cách trọn vẹn và triệt để nơi Đức Giêsu. Thiên Chúa làm người (cf. Ga. 2. 19-22: “Đền thờ Người muốn nói ở đây là chính thân thể Người”
Nơi con người Đức Giêsu, cộng đoàn của thánh Gioan quả quyết rằng họ đã được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là nhìn thấy một phẩm chất, một ánh rạng ngời tỏ lộ Thiên Chúa. “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người “
Thiên Chúa là Đấng vô hình, vô tượng, vô sú, vô thanh nhưng chính Đức Giêsu Kitô đã tỏ cho chúng ta. “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết “
Vâng quả thật là lạ lùng khi nói rằng “Thiên Chúa đang ở đây, Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta!”.
B. Chúng ta có thể tự hỏi: “Tại sao Ngôi Lời lại trở thành người phàm?
Đây quả là một mầu nhiệm cao cả và câu trả lời có thể là: Ngôi lời đã trở thành người phàm là để Thiên Chúa và thế giới mà Người đã tạo thành được gắn chặt lại với nhau một cách vĩnh viễn, đời đời.
C. Hằng năm, cứ vào đêm Giáng sinh Hài Nhi Giêsu thường đi một vòng rảo qua khắp các làng mạc và đô thị để tặng quà cũng như nhận quà và phân phát cho những ai cần đến.
Năm nay tại một đô thị nọ, Ngài đang cần một món quà không dễ tìm ra. Đó là một quả tim lành mạnh để thay thế cho quả tim của một người đang hấp hối.
Bệnh nhân có quả tim gần như ngừng đập này là một nhân vật nổi tiếng trong cả nước. Đó là bộ trưởng tài chánh!
Tất cả các các bác sĩ trong nước đều bó tay. Cuối cùng họ mới chạy đến với Chúa Hài Nhi Giêsu vì tin tưởng rằng ít ra trong Đêm Giáng Sinh Ngài sẽ làm một phép lạ. Nhưng Hài Nhi Giêsu trả lời với các bác sĩ: “Không phải ta là Người làm phép lạ nhưng chính là lòng quảng đại của một người sẵn sàng dâng hiến quả tim của mình”.
Tin tưởng ở lòng người, Hài Nhi Giêsu đã đến gõ cửa nhà của thân nhân, bạn hữu của vị bộ trưởng. Họ đang mừng lễ Giáng Sinh: cây Giáng sinh của họ đầy rẫy những hoa đèn và quà tặng, bàn ăn của họ đầy rẫy những thịt rượu và của ngon vật lạ. Họ đang ăn uống say sưa. Vừa thấy Hài Nhi đứng trước cửa nhà, họ tưởng Ngài là một cậu bé vô lại phá đám, cho nên đã tống khứ Ngài đi càng sớm càng tốt.
Hài Nhi Giêsu buồn bã bỏ đi... Nhưng Ngài vẫn chưa thất vọng về tình người. Lần này Ngài đến gõ cửa những người thân cận của vị bộ trưởng. Họ là những người đã từng bán đứng lương tâm, chối bỏ phẩm giá của mình để tìm kiếm lạy lục một chút cặn bã của vinh hoa, lợi lộc phù phiếm. Hài Nhi Giêsu nghĩ thầm ít ra đây cũng là dịp để họ tỏ lòng biết ơn đối với ông bộ trưởng. Nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Trái tim của họ đang hướng đến người sẽ lên thay thế ông bộ trưởng trong những ngày gần đây.
Hài Nhi Giêsu lại tiếp tục đi gõ cửa từng nhà nhưng nhà nào nhà nấy đang bận bịu với cuộc vui đêm Giáng Sinh.
Ngài đi, đi mãi trong đêm, để rồi mệt lả không còn lê bước được nữa. Ngài ngồi xuống vệ đường ven đô thị. Ngài đang miên man nghĩ đến tình người thì bỗng dưới ánh đèn đường mờ ảo, một bóng đen thất thểu tiến lại gần Ngài. Con người này xem chừng như không biết đến lễ Giáng sinh là gì. Quần áo bẩn thỉu, dáng đi ngập ngừng. Trên vai của anh đeo lủng lẳng một chiếc đàn vĩ cầm cũ kỹ. Đó là tất cả vốn liếng của một kẻ lãng tử. Vừa thấy em bé ngồi tiu nghỉu bên vệ đường, anh mới dừng lại, lấy chiếc đàn ra và dạo lên những khúc nhạc du dương, trầm buồn. Bản nhạc bỗng mang lại hy vọng cho Hài Nhi. Trên môi Ngài một nụ cười bé thơ cũng vừa hé nở. Con người lang thang phiêu bạt này, con người không có lấy một mái nhà để nương náu, không có được một ngày lễ trong cuộc sống, không biết được đêm nay là đêm Giáng Sinh: Vậy mà con người ấy có được một trái tim quảng đại sẵn sàng dâng hiến!
Hài Nhi Giêsu đến nắm tay anh, đưa anh vào bệnh viện. Tại đây, với nụ cười tươi nở trên môi, anh để cho các bác sĩ khoét vào lồng ngực của anh để lấy quả tim quảng đại của anh và đặt vào chỗ của tim đang thoi thóp của ông bộ trưởng tài chính.
Cuộc ghép tim vừa chấm dứt thì mọi người đã có thể thấy được phép lạ. Ông bộ trưởng với quả tim quảng đại và yêu đời của người lãng tử đứng dậy khỏi giường và bắt đầu ca hát.
Ông đã ném quả tim chỉ biết rung động vì tiền của, để thay thế bằng quả tim quảng đại biết ca hát và sẵn sàng tự hiến cho mọi người.
21. Ánh sáng đã đến chiếu soi cho mọi người trong trần thế--Ga 1, 1-18--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 1, 1-18
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. 6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9 Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 10 Người ở giữa thế gian,và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”. 16 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. 18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng lễ Ban Ngày mừng Chúa Giáng Sinh chính là Lời tựa của sách Tin Mừng theo thánh Gio-an (1,1-18). Nội dung bài Tin Mừng gồm hai điều như sau:
Một là trình bày Đức Giê-su chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Sự Sống và là Ánh Sáng chiếu soi cho trần gian (1,1-13).
Hai là Người đến để ban ân sủng cứu độ và mặc khải sự thật về Thiên Chúa cho nhân loại (1,14.16-18).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”. (Ga 1,14).
2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM:
1) GIÁNG SINH LÀ LỄ HỘI VUI MỪNG CHUNG CỦA TOÀN THỂ NHÂN LOẠI:
– Hai em học sinh nói chuyện với nhau, một em hỏi bạn: “Bạn có biết lễ gì mà hầu hết mọi người trên thế giới đều biết và chia sẻ niềm vui cho nhau không?”
Người bạn kia ấp úng trả lời: “Đó là lễ mừng Chúa Giáng Sinh của đạo Công giáo đấy”.
– Niềm tự hào của em bé đó cũng có thể là niềm tự hào của mọi tín hữu chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một lễ hội chung của mọi người trên trái đất nầy. Nhưng bên cạnh những vẻ hào nhoáng vui mừng của ngày lễ, điều mà chúng ta phải tự hỏi, nhất là đối với các tín hữu chúng ta, là có mấy ai trong chúng ta đã hiểu và sống đúng ý nghĩa của mầu nhiệm lễ Giáng Sinh hay không?
2) GIÁNG SINH MỜI GỌI CHIA SẺ TÌNH NGƯỜI:
– Hôm ấy, vào đêm vọng Giáng Sinh, trong một trường giáo dục trẻ em tàn tật ở Mỹ, người ta cho các trẻ em diễn một hoạt cảnh Giáng Sinh, trước sự hiện diện của phụ huynh và ân nhân.
Vở kịch có ba màn. Màn đầu diễn ra ở Nagiaret, với sắc lệnh của Hoàng đế Xê-sa-rê Au-gút-tô. Màn hai diễn lại cảnh Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a vào quán trọ, bị chủ quán xua đuổi. Màn ba là cảnh Chúa Giáng Sinh trong hang lừa máng cỏ.
Ban giám đốc và các phụ huynh khá lo âu, sợ các em diễn xuất vụng về. Nhưng màn đầu diễn ra tốt đẹp. Qua màn hai, người ta thấy Giu-se và Ma-ri-a đến gõ cửa các quán trọ. Nhìn thấy ông Giu-se áo quần nghèo khó, còn Ma-ri-a lại đang bụng mang dạ chửa, các chủ quán đã giơ tay xua đuổi lia lịa với lời từ chối: “Không có chỗ, không có chỗ! “ Hai vợ chồng lên tiếng năn nỉ vì trời đêm giá lạnh. Chủ quán tỏ vẻ lưỡng lự, những rồi sau đó chỉ vào hàng chữ trên quán: “Không còn chỗ”. Cảnh van xin và từ chối lại diễn ra. Nhưng khi thay vì nói: “quán đã hết chỗ” theo kịch bản, thì em đóng vai chủ quán đã nghẹn ngào không nói nên lời. Em đưa tay ra giật tấm bảng có ghi hàng chữ “Không còn chỗ” xuống, và nói trong nước mắt: “Con xin nhường phòng con cho hai người!”.
Trước cảnh xảy ra bất ngờ đó, giáo viên đạo diễn tỏ vẻ lúng túng và cho ngưng vở diễn vì đã ra ngoài kịch bản. Nhưng hầu như toàn thể khán giả hiện diện đều cảm xúc ra mặt, trước vẻ hồn nhiên trong sáng của em bé diễn viên tốt bụng. Cử chỉ, ngôn ngữ và cung cách của em nói cho mọi người hay về ý nghĩa thực sự của Lễ Giáng Sinh: Giáng Sinh là lễ của tình thương chia sẻ.
– Có lẽ nhiều người chúng ta, cách nầy hay cách khác, cũng đã có lần đóng vai chủ quán năm xưa khi chúng ta xua đuổi những kẻ nghèo hèn đến nhà ăn xin. Có lẽ nhiều lần chúng ta cũng đã treo tấm bảng: “Không còn chỗ” của chủ quán năm xưa qua thái độ giả điếc làm ngơ, trước những nhu cầu của tha nhân. Ước gì khi nghe câu Lời Chúa: “Bà Ma-ri-a đã bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, chúng ta quyết tâm sẽ không bao giờ xua đuổi Chúa ra khỏi lòng chúng ta, ra khỏi gia đình chúng ta.
3) GIÁNG SINH ĐÒI CẢM THÔNG “VUI VỚI NGƯỜI VUI, KHÓC VỚI NGƯỜI KHÓC”:
– Trong một gian hàng bán quà Giáng Sinh, một cậu bé 5 tuổi đang cầm trên tay một con búp bê rất xinh. Người bán hàng nói với cậu rằng: “Chắc cháu không đủ tiền mua con búp bê đắt tiền này đâu?”. Nhưng cậu bé vẫn tiếp tục cầm con búp bê xinh đẹp trên tay.
Bấy giờ một người đàn ông bước đến gần hỏi xem cậu bé mua con búp bê làm gì? Cậu đáp: “Đây là con búp bê mà em gái cháu rất thích. Nó luôn tin rằng năm nay thế nào ông già No-en cũng sẽ mang đến tặng nó một búp bê xinh đẹp trong đêm Giáng Sinh”. Khi được hỏi em gái đang ở đâu, cậu bé trả lời: “Em cháu mới được về với Chúa rồi và mẹ cháu cũng sắp sửa đi theo em gái cháu”. Cháu yêu mẹ nhiều lắm và ước mong mẹ đừng đi, nhưng bố cháu bảo rằng mẹ cháu bệnh nặng sắp phải theo em cháu rồi”.
Lựa lúc cậu bé không để ý, người đàn ông cho tay vào túi quần lôi ra một ít tiền lẻ. Ông nói với cậu: “Cháu đã có bao nhiêu tiền rồi? Để ta giúp cháu đếm lại lần nữa xem sao nhé”. Sau khi đếm xong số tiền trong đó có thêm số tiền người đàn ông kín đáo cho vào, cậu bé vui vẻ nói: “Cảm ơn Chúa đã cho cháu có đủ tiền mua búp bê rồi. Cháu đã cầu xin Chúa cho cháu để dành đủ tiền mua búp bê tặng em gái dịp lễ Giáng Sinh và Chúa đã nhậm lời”.
Người đàn ông chợt nhớ lại bản tin ông đã đọc trên tờ báo vào chiều hôm trước: “Một chiếc xe tải đi quá tốc độ đâm vào xe hơi cùng chiều, làm một bé gái thiệt mạng và mẹ em cũng bị chấn thương sọ não khó lòng qua khỏi”. Hôm sau, báo lại đưa tin, người phụ nữ trẻ trong tai nạn hôm trước đã chết. Chiều hôm đó, người đàn ông theo địa chỉ trên báo đã đến nhà thăm. Ông ta thấy hai quan tài với di ảnh của hai mẹ con mới qua đời. Đứa con trai đứng gần quan tài chính là cậu bé ông mới gặp chiều hôm trước. Ông cũng thấy một con búp bê xinh xắn nằm trên quan tài của cô bé gái.
– Khi biết đón nhận Hài Nhi Giê-su vào lòng, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông với tha nhân để chia sẻ niềm vui nỗi buồn với họ, giống như người đàn ông trong câu chuyện trên. Chúng ta sẽ sẵn sàng trao tặng người khác một nụ cười, một cái bắt tay thân ái, một cử chỉ thân thiện,… chúng ta sẽ dễ dàng giúp đỡ người nghèo vượt qua hoàn cảnh khó khăn với hết khả năng Chúa ban. Trong mùa Giáng Sinh năm nay chúng ta sẽ làm gì để thi hành sứ điệp của Chúa là viếng thăm chia sẻ tình người như lời thánh Phao-lô: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).
4) GIÁNG SINH NGÀY LỄ CỦA HÒA BÌNH:
– Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích: “Anh em hãy lắng nghe đi!”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính hai bên vui vẻ đi dạo chung quanh khu vực đang có chiến tranh, nhưng người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện gia tăng thêm, thì người ta tổ chức một trận bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin hai bên hòa hoãn này đã lan tới tai các vị tướng trên cao, và họ đã ban những mệnh lệnh gay gắt phải cấp thời chấm dứt mọi chuyện. Các sĩ quan đã dồn binh lính trở lại xuống hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Sau lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến giữa hai bên lại tiếp tục như trước.
Chúa đến đem bình an cho nhân loại như lời các thiên thần đã ca hát trong đêm Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).
– Mỗi người chúng ta tuy không thể làm được những việc xây dựng hòa bình trên bình diện quốc tế, nhưng chúng ta vẫn có thể ăn ở thuận hòa với những người chung quanh như kinh Tám Mối Phúc: “Phúc cho ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Vậy trong Mùa Giáng Sinh năm nay mỗi chúng ta có thể làm gì để làm hòa với những người đang có ác cảm với chúng ta thể hiện qua hành động nói hành nói xấu và gây thiệt hại cho chúng ta?
3. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA. xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng cho đi một nụ cười thân ái, một lời động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Xin cho chúng con biết đến vói những người bất bạnh để chia sẻ tình thương cho họ. Ước gì niềm vui trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh không dừng lại ở việc trao tặng của cải vật chất bên ngoài, nhưng ở tình người được nhân lên mãi, được nối kết trở thành vòng tay lớn, xây dựng thế giới chúng con đang sống ngày một an bình thịnh vượng và đầy tràn niềm vui của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
22. Sứ điệp yêu thương của mầu nhiệm Giáng Sinh--Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 2,1-14
(c 1) Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (c 2) Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. (c 3) Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (c 4) Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. (c 5) Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. (c 6) Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa. (c 7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. (c 8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đoàn vật. (c 9) Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (c 10) Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: (c 11) Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. (c 12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.(c 13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (c 14) “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng Lu-ca mô tả hoàn cảnh và thời gian của Con Thiên Chúa giáng trần: Tuy được sinh ra trong cảnh nghèo hèn… nhưng Người lại là Thiên Chúa quyền năng. Người đời đã hất hủi xua đuổi Đấng Cứu Thế trong khi các thiên thần lại vui mừng hát ca. Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót đã đến trong thân phận nghèo hèn để đồng cảm với người nghèo và mời gọi mọi người hãy yêu thương nhau, thể hiện qua việc quảng đại chia sẻ cơm áo và niềm vui cho nhau.
3. CHÚ THÍCH:
– C 1: + Hoàng đế Au-gút-tô: Hoàng đế Rôma cai trị từ năm 29 trước Công nguyên (CN), đến năm 14 sau CN).
– C 2: + “thành vua Đa-vít”: Khi gán tước hiệu “thành Vua Đa-vít” cho Bê-lem (x. Mt 2,6), Tin Mừng dựa vào lời sấm của ngôn sứ Mi-kha về quê hương của Đấng Cứu Thế (x. Mk 5,1).
– C 5: + “Người đã đính hôn với ông Giu-se là bà Ma-ri-a đang có thai”: Câu này nhắc lại việc sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho Trinh Nữ Ma-ri-a (x. Lc 1,27).
– C 7: + Bà sinh con trai đầu lòng: Sinh “Con đầu lòng” chỉ có nghĩa là sinh “đứa con đầu tiên hay con thứ nhất”, không nhất thiết sẽ phải sinh thêm con kế tiếp. Sở dĩ Lu-ca đề cập đến “con trai đầu lòng” ở đây là muốn nhắc đến điều luật Mô-sê qui định phải dâng “các con đầu lòng cho Chúa”(x. Xh 13,2), và cách cha mẹ phải làm để chuộc lại con, sắp được hai ông bà Giu-se Ma-ri-a thực hiện cho Hài Nhi Giê-su (x. Lc 2,23). + Không tìm được chỗ trong nhà trọ: Các chủ quán từ chối không cho ở trọ phần vì dáng vẻ quê mùa nghèo khó của hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, phần vì họ sợ đón phụ nữ mang bầu vào nhà sẽ mang lại xui xẻo cho việc kinh doanh của họ!
– C 11: + Đấng Ki-tô Đức Chúa: Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a. Quyền Chúa Tể và Vương Đế của Người được chính Thiên Chúa trao ban (x. Cv 2,36).
– C 14: + Bình an dưới thế”: Lời của các sứ thần ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa cho thấy sứ mệnh của Hài Nhi Cứu Thế là làm vinh danh cho Thiên Chúa và thiết lập một nền hòa bình vĩnh cửu (x. Is 9,5-6; Mk 5,4).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI: Phải chăng bà Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi thụ thai Đấng Cứu Thế (x. Is 7,14), rồi sau khi đã sinh “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,6) thì sống đời vợ chồng bình thường với ông Giu-se, và từ đó đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác (x. Mt 13,55-56)?
ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. Vấn đề ở đây là ý nghĩa thực sự của từ “cho đến khi” và “anh em và chị em của Đức Giê-su” như thế nào?:
+ “Cho đến khi”: Câu Mt 1,24-25 nên được diễn giải như sau: Khi tỉnh giấc, ông Giu-se đã thi hành 3 lệnh truyền của sứ thần trong giấc mộng: Một là ông “tổ chức lễ cưới chính thức để rước cô dâu Ma-ri-a” về nhà mình; Hai là ông “không ăn ở với Ma-ri-a như vợ chồng” vì Ma-ri-a đã được thánh hiến dâng mình phục vụ Thiên Chúa như một nữ tu khấn trọn; Ba là “cho đến khi” Ma-ri-a sinh con thì ông “đặt tên cho con trẻ là Giê-su” như lời sứ thần truyền để nhìn nhận trẻ Giê-su là con chính thức của mình về luật pháp (x. Lc 3,23). Tin Mừng không viết: hai ông bà đã không ăn ở cho đến khi Ma-ri-a sinh con thì lại ăn ở với nhau, như có người lầm tưởng!
+“anh em và chị em của Chúa Giê-su”: Trong Tin Mừng Mát-thêu, các từ “anh em ông”, “chị em ông” (x. Mt 13,55-56) hay “mẹ và anh em của Người” (x. Mt 12,46-47) chỉ là các anh chị em bà con mà thôi. Vì Chúa Giê-su là “con trai đầu lòng”, là người con thứ nhất, nên nếu Đức Ma-ri-a có thêm các người con khác thì họ phải được gọi là “các em trai” và “các em gái” thay vì được gọi chung chung là “anh em” và “chị em” như ở đây. Hơn nữa, bằng chứng quan trọng nhất cho thấy Đức Ma-ri-a chỉ có một con trai duy nhất là: Chúa Giê-su đã trối Mẹ Người làm mẹ của môn đệ Gio-an và “Kể từ giờ đó, người môn đệ đã rước bà về nhà mình” (Ga 19,26-27). Chắc Đức Giê-su sẽ không trối Mẹ Ma-ri-a cho môn đệ Gio-an rước về nhà mà phụng dưỡng sau khi Người chết, nếu Mẹ Ma-ri-a còn có nhiều người con khác.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa (Lc 2,11).
2. CÂU CHUYỆN:
1) MÓN QUÀ GIÁNG SINH QUÍ NHẤT
Người ta tìm thấy trên bàn làm việc của một ông giám đốc xí nghiệp vừa từ trần một bức thư với nội dung như sau: “Thưa ông giám đốc, chiều nay tôi và cả gia đình tôi mới nhận được một tin vui là ông giám đốc đã nhận tôi vào làm công nhân trong nhà máy của ông. Tôi coi tin này là một món quà to lớn trong mùa Giáng Sinh năm nay. Vì từ hôm nay, vợ con tôi lại có cơm ăn áo mặc hàng ngày và có tiền để trang trải các khoản chi phí mà chúng tôi đang thiếu hụt. Tôi xin chân thành cám ơn ông giám đốc”. Bên dưới bức thư này có mấy dòng chữ của ông giám đốc mới qua đời phê vào bức thư như sau: “Bức thư này quả là một món quà tinh thần quí giá nhất mà tôi đã nhận được trong lễ Giáng Sinh năm nay. Tôi chắc sẽ không bao giờ quên được niềm vui lớn lao mà món quà này đã mang lại cho tôi”.
2) MỘT LỄ GIÁNG SINH ĐẸP NHẤT TRONG ĐỜI THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN 23:
Theo một thông lệ từ lâu trong Giáo Hội, các Đức Giáo Hoàng đều bị hạn chế đi lại trong bốn bức tường rào của điện Va-ti-can và không được tự do ra ngoài. Đây là điều Đức Gio-an 23 khi mới được bầu làm Giáo Hoàng cảm thấy vô lý. Cuối cùng ngài đã quyết định phá bỏ thông lệ ấy. Ngài chia sẻ: “Vào ngày Lễ Giáng Sinh năm đầu tiên làm Giáo Hoàng, tôi muốn đến thăm các trẻ em đau yếu đang được điều trị tại bệnh viện Chúa Giê-su Hài Đồng ở thủ đô Rô-ma. Nếu lễ Giáng Sinh là lễ của các trẻ em thì tại sao môt vị Giáo Hoàng lại không đến thăm các em? ”. Thế là vị Giáo Hoàng được mệnh danh là người cha hiền từ, đã quyết định ra ngoài Va-ti-can để đến gặp gỡ các em bệnh nhi tại bệnh viện dành riêng cho các em. Vừa thấy bóng ngài, các em đã réo gọi ngài bằng tên Gio-an như một người bạn thân. Ngài đã gặp gỡ chuyện trò thân mật với các em. Ngài ngồi bên cạnh một em bé bị thương nặng thể hiện lòng nhân từ thương xót của Chúa Giê-su. Sau này Ngài đã coi Lễ Giáng Sinh năm đó là ngày đẹp nhất trong đời giáo hoàng của ngài và cũng là ngày vui vẻ hạnh phúc nhất đối với các em nhi đồng.
3. THẢO LUẬN:
Đấng Cứu Thế đến thiết lập một Nước Trời bình an, hy vọng, vui tươi và hạnh phúc. Trong Mùa Giáng Sinh này, mỗi người chúng ta cần làm gì cụ thể để tích cực cho Nước Trời ấy mau đến ngay tại gia đình, khu xóm và nơi làm việc của chúng ta?
4. SUY NIỆM:
1) Giáng Sinh là lễ của tình thương: Thiên Chúa là Tình yêu đã sai Con Một xuống thế cứu chuộc làm người là Đức Giê-su. Người là Lời sáng tạo quyền năng nhưng đã hóa nên một trẻ thơ yếu đuối, sinh bởi một trinh nữ, nên giống như chúng ta mọi đàng ngọai trừ không có tội. Khi giáng sinh, Người đã hóa nên một trẻ thơ để mời gọi mọi người yêu thương trẻ nhỏ, nâng đỡ người nghèo hèn. Đến ngày tận thế, Đức Vua Thẩm Phán Giê-su sẽ tái lâm để phán xét chung mọi người: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-40).
2) Giáng Sinh là Tin Mừng trọng đại cho tòan dân: Trong bài Tin Mừng hôm nay sứ thần đã báo tin vui cho các mục đồng ở ngọai ô Bê-lem: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người.: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 10-12). Trong Mùa Giáng Sinh này mỗi người chúng ta sẽ làm gì để chia sẻ tin mừng cho tha nhân bên cạnh?
3) Giáng Sinh với việc thực hiện bài ca thiên thần: Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong đêm Chúa Giê-su giáng sinh “Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” vẫn luôn vang lên trong dịp Giáng Sinh và cần phải được tiếp tục vang lên trong tâm hồn của các tín hữu, biến thành lời ca chúc bình an với ước mong cho mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đều đem bình an hạnh phúc cho tha nhân. Chúng ta hãy noi gương các mục đồng ở Bê-lem cùng nhau đến thăm viếng giúp đỡ những trẻ Giê-su khó nghèo tại các trại mồ côi, an ủi những ai đang bị giam cầm và những tâm hồn đau khổ bị đối xử bất công giữa lòng xã hội. Đêm nay, dưới gầm cầu, bên hàng hiên của những ngôi nhà cũng vẫn còn đó những trẻ Giê-su đang nằm co ro vì lạnh, vì đói và vì không có nhà để đi về…
4) Giáng Sinh – lễ của niềm vui chia sẻ: Vào dịp lễ Giáng Sinh, người ta thường thể hiện tình cảm quí mến đối với bạn bè và những người thân quen, bằng việc gửi đi những cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh. Theo phong tục của những nước phương tây, buổi sáng ngày lễ Giáng Sinh, cha mẹ thường thay ông già No-en tặng quà cho con cái của mình, người lãnh đạo tặng quà cho các nhân viên thuộc cấp, chủ nhà tặng quà cho các người giúp việc… còn chúng ta thì sao? Trong mùa Giáng Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ tặng gì cho những người thân quen, những người đã giúp đỡ chúng ta suốt năm qua, nhất là những người đáng thương như các cụ già neo đơn, các bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang, các người mù lòa khuyết tật và những người đang lang thang đầu đường xó chợ…?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giê-su. Trong đêm Giáng Sinh, Hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đã lâm vào hoàn cảnh cùng cực tại thành Be-lem, khi Đức Ma-ri-a phải sinh con trong một chuồng chiên nghèo hèn, giữa cảnh trời đồng lạnh giá. Tin Mừng đã ghi lại như sau: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Ôi! Thật trớ trêu: “Ngôi Lời Thiên Chúa ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,5.10-11).
– LẠY CHÚA. Hôm nay Giáng Sinh lại về. Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người quên ngủ, vui vẻ liên hoan… Kìa, hai người lữ hành Be-lem đã từng lỡ bước đêm xưa vẫn đang còn lỡ bước đêm nay, vì các chủ quán trọ năm xưa vẫn đang còn đó! Giàu: chủ đón rước vào nghỉ trong khách sạn. Nghèo: hãy theo gót Giu-se Ma-ri-a ra vỉa hè công viên hoặc tại những nơi đầu đường xó chợ! Xin Chúa giúp chúng con biết nhìn thấy hài nhi Cứu Thế đang hiện thân nơi những kẻ nghèo hèn, những bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị, những trẻ em đang sống lang thang hè phố, những cụ già cô độc không con cái chăm sóc… để chúng con biết thể hiện tình thương đối với họ bằng những việc làm cụ thể như: thăm viếng và chia sẻ tình người, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó, chúng con xứng đáng trở thành những môn đệ đích thực của Chúa.
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
23. Nhân loại đang cần Vua Hòa Bình: lễ đêm--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 2022
“Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14) là câu cuối của đoạn Tin Mừng công bố đêm nay chúng ta vừa nghe. Lời các Thiên Thần và một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa, từ 21 thế kỷ qua, Giáo Hội vẫn không ngừng hát lên trong các Thánh Lễ Chúa nhật và Lễ Trọng.
Thế giới hiện nay
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất an, bất ổn. Thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 được đánh dấu bằng vụ tấn công khủng bố kinh hoàng vào tòa Tháp Đôi ngày 11 tháng 9 năm 2001 ở nước Mỹ làm hơn 4.000 người chết, khiến nhân loại bị ám ảnh về hiểm họa khủng bố ở khắp mọi nơi, làm cho con người cảm thấy lo sợ, bất an nhiều hơn. Tiếp theo đó là cuộc chiến gọi là “chống khủng bố” nổ ra và những hệ lụy của nó càng đưa thế giới vào tình trạng bất an, bất ổn hơn bao giờ hết. Đại dịch Covid-19 xảy đến chỉ cho con người biết mình thật sự mong manh và nhận ra sự giới hạn của chính mình. Những tin tức hằng ngày về bạo hành, xung đột, dịch bệnh, thiên tai, nhân họa, ngày càng nhiều trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet, nhất là chiến do Nga châm ngòi tại Ucraina gần 1 năm nay… khiến nhiều người lo âu tự hỏi không biết thế giới chúng ta đang sống sẽ đi về đâu.
Về phương diện nội tâm, lòng người vốn bất an nên sinh ra bất hòa, bất mãn, bất bình, bất nhân, bất nghĩa, bất cần đời….bao nhiêu là chữ “bất” thậm chí đưa đến những cái chết “bất đắc kỳ tử”. Thật vậy, con người trong xã hội hiện đại ngày càng bất an, bất hòa, bất đồng nên tình yêu, hôn nhân, gia đình đổ vỡ; tỷ lệ ly hôn ngày càng gia tăng ngay ở những nước mới thoát khỏi nghèo đói như Việt Nam. Tỷ lệ ly dị ở Việt Nam đang gia tăng đến mức báo động, khoảng 30%. Đáng lo ngại là hiện tượng mà các nhà tâm lý gọi là “ly hôn xanh”, tức là những vụ ly hôn xảy ra ở những cặp vợ chồng mới kết hôn vài ba năm, con còn quá nhỏ, mà đã kéo nhau ra tòa ly dị với những lý do chưa đáng để ly hôn như thường thấy.
Điểm qua tình hình thế giới và con người, một câu hỏi cần đặt ra là tại sao con người từ xưa đến nay không tìm thấy sự bình an thật? Mặc dù có nhiều triết lý, tôn giáo xưa nay đã bàn luận nhiều đến nan đề này, tuy nhiên, có thể nói con người không thể tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Đúng như Isaia nói là: “Dân tộc bước đi trong u tối” (Is 9,2). Nhân loại hiện nay đang khao khát sự bình an. Có người tưởng rằng vật chất, tiền bạc, tiện nghi khoa học, kỹ thuật sẽ đem lại hạnh phúc, bình an nhưng con người đã nhầm.
Tội làm cho con người bất an
Sách Sáng Thế ghi lại bi kịch trong vườn địa đàng khi tổ tông loài người phạm tội bất tuân lệnh Chúa mà ăn trái cấm (x. St 3,6). Tội lỗi đã khiến con người bối rối, sợ hãi. Dòng dõi loài người do A-đam sa ngã sinh ra lại tiếp tục ghen ghét, chém giết nhau. Bi kịch trong gia đình đầu tiên của nhân loại: Ca-in đã giết em ruột mình là A-ben vì ganh tị (x. St 4,8). Lịch sử nhân loại cũng từ đó trở thành lịch sử của chiến tranh. Hòa bình chỉ là sự ngưng nghỉ của chiến tranh mà thôi. Đúng như Isaia nói: “Những kẻ ác chẳng hưởng sự bình an bao giờ” (Is 48,22).
Hài nhi giáng sinh là Vua Hòa Bình
Isaia loan báo một tin vui toàn thế. Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết… Một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi… Người là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàn, Người Cha Muôn Thủa, Ông Vua Thái Bình” (Is 9,1.5).
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, con người có lẽ cần đến Ðấng Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở nên phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, đem lại bình an cho con người, nếu không phải là Ðấng yêu thương loài người cho đến mức độ trao ban chính Con Một là Vua Hòa Bình cho con người.
Cuộc chiến do Nga khai mào mệnh danh là “đặc biệt” kéo dài gần một năm chưa có hồi kết cho thấy. Nhân loại đang rất cần Hòa Bình. Con người khiêm nhường cúi đầu quỳ gối xuống trước “một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,7) là Vua Hòa Bình đem bình an cho dương thế.
“Thế Giới Đang Cần Đến Hòa Bình” là một thông điệp gửi đến tất cả mọi người trên thế giới này, giữa lúc cuộc chiến giữa Nga và Ucraina ngày khốc liệt. Thế giới nói chung, Âu Châu nói riêng bất an và dường như không còn dựa vào sức riêng của mình được nữa, thế giới đang cần Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết. Chỉ có Vua Hòa Bình mới mang bình an và ơn cứu độ đến cho nhân loại.
Cùng với các Thiên Thần chúng ta vang lời ca hát và khẩn khoản nài xin: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiên tâm” (Lc 2,14).
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành, thế giới được hòa bình!
24. Đêm trời đất giao hòa--Lễ đêm giáng sinh 2018--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đêm nay là đêm vui nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta, cũng là đêm linh thiêng nhất, đêm trời đất giao hòa, vì đêm nay Giáo hội loan báo tin vui cho toàn thể nhân loại, cho mọi người và từng người: “Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta” (đáp ca).
Nghe lại những lời trên của Thiên Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, làm chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2018 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, và cư ngụ giữa chúng ta. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại.
“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đây là lời loan báo vang vọng trong đêm đen cho những ai đang tỉnh thức, như các mục đồng tại Bêlem; Lời ấy vang lên cho những ai đã sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng tiếp nhận sứ điệp của niềm vui, được hát lên trong Thánh lễ đêm nay.
Khi nghe những lời trên Giáo hội hết sức vui mừng, niềm hy vọng dâng trào và đức tin được củng cố. Noel là lễ Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, gần gũi với con người, đã từ bỏ tất cả vì chúng ta. Con Trẻ nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật. Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng là một cộng đoàn Ba Ngôi, với tình yêu hỗ tương trong sự cho đi và nhận lại. Ngài là Cha, Con và Thánh Thần. Hài Nhi ấy không chỉ biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, nhưng còn hiến mạng vì chúng ta, mà không đòi hỏi một đặc quyền nào hết. Nếu như thánh Iréné khi suy niệm về Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Con đã viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”.
Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, là Tình Yêu đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử. Tình Yêu ấy vượt qua thời gian, vì trong mỗi phút giây sống, tất cả các lễ đều là lễ Giáng sinh! Ngoài những khuôn mặt của thế giới này, Người còn ở lại với chúng ta. Và bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày có sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Và nếu xưa kia tại Bêlem, các thiên thần ca hát, hôm nay đây chúng ta vẫn cùng với các Thiên Thần và Tổng Lãnh Thiên Thần hát ca mỗi lần dẫn vào mầu nhiệm Thánh Thể: “Thánh! Thánh! Thánh! Chúa Thiên Chúa các đạo binh!”
Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1,21). Không phải trong một lâu đài mà Ðấng cứu chuộc sinh ra, nhưng trong một chuồng loài vật; và sống giữa chúng ta. Người sinh xuống trần gian, từ cung lòng của một Người Nữ được chúc phúc hơn mọi người nữ; Người là Con Ðấng Tối Cao. Sự giáng sinh của Người đã làm cho chúng ta được ơn cứu rỗi.
Quả thật, khi chiêm ngắm Chúa Hài Nhi nằm trong máng cỏ, chúng ta khám phá được rằng, Tình yêu của Thiên Chúa là chung kết và tối thượng, nghĩa là ở ngay từ một Hài Nhi bé bỏng đã mang đến cho chúng ta một tình yêu không bao giờ vơi cạn, tình yêu đó chấp nhận bước vào cuộc đời này trong một thân phận không thể thấp hèn hơn được nữa, để những ai trong Đêm Giáng Sinh dù không có một mái nhà, dù đang đau khổ vì tình yêu bị phản bội, khổ đau vì bị con cái hắt hủi thì nhìn vào mái ấm gia đình ở nơi hang đá vẫn cảm thấy trong cuộc đời này có ai đó đồng cảm và thông cảm được với mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con chiêm ngắm Chúa, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, tình yêu đã thôi thúc Chúa cởi bỏ vinh quang Thiên Chúa, để sinh ra sống giữa con nguời và chịu chết vì chúng con.
Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay, sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường Hòa Bình.
Lạy Chúa là Hoàng tử Bình An, là Ðấng Cứu Chuộc, đã giáng sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo hội Chúa trên con đường lữ thứ trần gian! Amen.
25. Tại sao Thiên Chúa làm người?--Lễ Ban Ngày: Ga 1, 1-18-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh chúng ta được nghe đọc: Khi Chúa Giêsu giáng sinh có Thiên Thần báo tin cho các mục đồng: "Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt… Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Đavít" (Lc 2,10-11).
Câu "Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi ", gợi lên cho chúng ta những câu hỏi: Con người là gì và làm sao mà phải cứu độ? Tại sao Thiên Chúa làm người? Tại sao Thiên Chúa làm điều đó? Tôi nhớ đến câu bổn, hỏi vì lẽ nào mà Ngôi Thứ Hai ra đời? (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13)
Con người là gì?
Có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng: Con người là con vật thượng đẳng đã đạt tới chặng cuối cùng trong quá trình tiến hóa ( Đác- Uyn). Có ý kiến khác cho rằng: Con người là cây sậy biết suy tư. Trước sự bao la của vụ trụ, sức mạnh của thiên nhiên, thân phận con người chỉ như một cây sậy, nhưng là một cây sậy có lý trí. Thiên nhiên có thể đè bẹp con người, nhưng không biết mình thắng, ngược lại con người bị thiên nhiên quật ngã, nhưng con người ý thức được mình thua. Những ý kiến đó không nói lên đầy đủ về phẩm giá và định mệnh con người theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo con người giống hình ảnh Chúa (St 1, 26).
Vì không biết đầy đủ về giá trị con người nên nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá của mình, và xúc phạm đến phẩm giá người khác một cách bất công và tàn bạo, quyền con người bị tước đoạt, kể cả quyền sống, người nô lệ trở thành con vật trong tay chủ nhân ông. Ngày nay chế độ nô lệ được bãi bỏ, nhưng cảnh người bóc lột người vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua. Mãi đến năm 1948, Liên Hiệp Quốc mới công bố bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, trong đó nói: "Mọi người sinh ra đều bình đẳng có quyền bất khả xâm pham: như quyền sống, quyền cư trú, quyền làm việc, quyền đi lại, quyền tự do tôn giáo…" Tuyên ngôn thì như thế, nhưng trong thực tế thì nhân phẩm và nhân quyền luôn bị chà đạp ở nhiều nơi và dưới nhiều hình thức.
Con người cần được cứu độ
Để cứu con người ra khỏi tình trạng đó, Thiên Chúa đã thân hành xuống thế làm người nơi Đức Giêsu mà hôm nay cả thế giới kỷ niệm ngày sinh nhật của Người. Nhất là vì tôi lỗi loài người đã mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên Ngôi thứ Hai đã ra đời mà lập công chuộc tội (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13).
Trẻ Giêsu nằm trong máng cỏ chưa biết đi biết nói, nhưng đã mang cho loài người một bài học nhân sinh quan đầy đủ và sâu sắc nhất đúng theo kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, kế hoạch mà tội lỗi con người đã làm sai lệch đi.
Noel, Thiên Chúa làm người, đã đảm nhận lấy nơi mình thân phận con người với mọi chi tiết đặc thù của nó để bất kỳ ai dù ở địa vị nào, gặp hoàn cảnh nào cũng tìm được nơi Chúa một người bạn đồng hành và một tấm gương sống cho xứng đáng với phẩm giá con người.
Chúa đã giáng sinh làm con trẻ và sống đời thơ ấu để dạy cho ta biết con trẻ dù còn là thai nhi trong dạ mẹ, cũng có một nhân phẩm như người lớn cần được tôn trọng và kẻ nào làm hư hỏng một trẻ em đó thì đáng chúc dữ và buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn.
Noel, Thiên Chúa làm người, đồng hóa mình với tất cả mọi người, để cứu độ con người. Nhưng con người chỉ được cứu độ với điều kiện là có thiện tâm, như lời Thiên Thần hát mừng đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Thiện tâm là tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và hăng say thực hiện những điều Chúa truyền dạy tóm lại: Kính mến Thiên Chúa như Cha, yêu thương nhau như là anh em. Ngày nào con người thực hiện được hai điểm đó, cảnh thái bình sẽ xuất hiện trên mặt đất như lời các thiên thần cầu chúc đêm Chúa Giáng Sinh.
Thiên Chúa đã làm người vì yêu
Để trả lời cho câu hỏi tiếp theo được đặt ra xuyên suốt hai ngàn năm lịch sử kitô giáo: Tại sao Thiên Chúa đã làm người? Tại sao Thiên Chúa đã làm như vậy?
Thưa vì yêu thương con người, tất cả vì yêu, tình yêu là lý do cuối cùng Thiên Chúa Nhập Thể. Về điểm này, H.U. von Balthasar đã sau: "Thiên Chúa, trước hết, không phải là một quyền lực tuyệt đối, nhưng là tình yêu tuyệt đối, mà chóp đỉnh của tình yêu đó không được thể hiện trong việc giữ lại cho mình những gì thuộc về mình, mà trong việc từ bỏ những điều đó" (Trích Mầu nhiệm Vượt Qua I,4). Thiên Chúa mà các mục đồng gặp thấy nằm trong máng cỏ, có Mẹ Maria và thánh Giuse ấy là Thiên Chúa Tình Yêu (x. Lc 2, 16). Vì yêu thương nhân loại: "Người đã đến nhà các gia nhân Người" (Ga 1,11).
Trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa đã đến sống giữa chúng ta; Người đến và ở lại với chúng ta, vì yêu chúng ta như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn đọc “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta "; " Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14) ban cho những ai tiếp nhận Người "quyền trở nên con cái Thiên Chúa"(Ga 1,12).
Hiện nay, con người đã lên tới Mặt Trăng và Sao Hoả, sẵn sàng chinh phục vũ trụ. Con người đang không ngừng khám phá những bí mật của thiên nhiên và giải mã thành công cả những điều kỳ diệu nơi tế bào "gen", đi vào trong đại dương ảo của internet, nhờ những kỹ thuật truyền thông tân tiến, biến trái đất, ngôi nhà chung to lớn thành một làng nhỏ toàn cầu, Thử hỏi Đấng Cứu Thế có còn cần thiết cho con người nữa hay không?
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, thời hậu tân tiến, con người có lẽ cần đến Đấng Cứu Thế hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở thành phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, nếu không phải Đấng yêu thương con người cho đến mức độ trao ban chính Con Một làm giá chuộc muôn người.
Thiên Chúa đã làm người trong Chúa Giêsu Kitô, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, mang đến cho chúng ta tình yêu, bình an và hạnh phúc của Chúa Cha trên trời gửi tặng nhân loại nhân ngày mừng Sinh nhật Con Chúa. Chính Người là Đấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng con tim để Chúa ngự vào, và hãy đón tiếp Người, ngõ hầu Vương Quốc tình yêu và an bình của Người ngự trị trên toàn thế giới.
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành!
26. Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta--Lễ đêm 2018--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Từ 21 thế kỷ qua, lời rao giảng vui mừng trên vang lên từ con tim Giáo Hội. Trong đêm thánh này, Thiên Thần Chúa lặp lại với mỗi người chúng ta những lời như sau: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Ðavít” (Lc 2,10-11).
Trong bầu khí linh thiêng của đêm Noel năm nay, khi chiêm ngắm Con Chúa ra đời, chúng ta xin Chúa điều gì? Chắc chắn mỗi người mỗi tâm tình, mỗi ý nguyện, phần lớn những người hiện diện nơi đây đều có những lời cầu xin của riêng mình. Tôi đề nghị một lời cầu xin tha thiết nhất, một nỗi khát vọng mãnh liệt và triền miên của toàn thể nhân loại chúng ta hôm nay đó là xin ơn “Đức tin và Bình an“.
Đề nghị thứ nhất: xin ơn Đức tin
Đấng cứu độ chúng ta đã ra đời, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật. Những điều chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa
Giáng Sinh là dịp thuận lợi để chúng ta suy niệm về mầu nhiệm Chúa Kitô, và khẳng định lại những điều chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tinh Kính của Công Đồng Nicê năm 325 và Công Đồng Constantinôple năm 381. Những điều ấy dẫn chúng ta vào mầu nhiệm của Chúa Kitô.
“Một Hài Nhi, được sinh ra bởi Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời“, đây là cách diễn đạt nghịch lý của Giáo phụ Romanos de Mélode. Có lúc, Thiên Chúa gần gũi đến lạ thường, và cũng thật siêu việt, vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, Một Hài Nhi là Con Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời. Để hiểu được cách diễn đạt “sinh bởi Đức Chúa Cha “, chúng ta cần phải đọc lại chương mở đầu của Tin Mừng theo Thánh Gioan: “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa ” (Ga 1,1).
Chúng ta không nghĩ đến sự sinh bởi Thiên Chúa, vì chúng ta có những ý niệm về không gian và thời gian… Nhưng ở nơi Thiên Chúa, thì không có khởi đầu và kết thúc. Chúa Cha sinh ra Chúa Con tự đời đời. Vì thế Chúa Cha là Cha tự đời đời, và Chúa Con là Con tự đời đời.
Đặc điểm của Chúa Cha là trao ban hoàn toàn cho Con mình. Và đặc điểm của Chúa Con là lãnh nhận hoàn toàn từ nơi Cha và vâng phục trong tình yêu đối với Chúa Cha. Chúa Kitô là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa; điều này thường thấy trong Tin Mừng, khi mà Chúa Kitô dùng từ ” TA LÀ ” (Ga 9, 58).
Quả thật, trong trình thuật cuộc thương khó Chúa Giêsu theo Thánh Gioan, lúc ở trong vườn Giệtsimani, Đức Giêsu hỏi những người đến tìm bắt Ngài rằng: “Các ngươi tìm ai?” Họ trả lời: “Giêsu Nagiarét“. Đức Giêsu nói: Này ta, “Khi Đức Giêsu nói với họ này ta, họ liền lùi lại và ngã ra đất hết ” (Ga 18,6). Họ ngã, không phải là vì họ trượt chân, nhưng là vì họ ở trong tư thế tôn thờ, vì lời Đức Giêsu nói với họ: chính Ta hay là Ta có nghĩa là thần thánh.
Thập giá đối với người Do Thái là sự sỉ nhục, đối với người dân ngoại là sự điên dồ, nhưng đây là sự mạc khải của Thiên Chúa: “Khi nào tôi được treo lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng tôi, lúc đó các người sẽ biết ta là ai“. Nhưng Giáng sinh có ý nghĩa, vì Giáng sinh là Thánh Giá có một cái bóng được gọi là Phục Sinh.
“Ánh Sáng bởi Ánh Sáng“
“Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng” (Ga 1, 4-5).
Như vậy, với tác giả Tin Mừng, ánh sáng đồng nghĩa với sự sống thần linh; Nhập thể của Người là ánh sáng, là một trận chiến chống lại bóng tối. Ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang.
Vậy, đâu là bóng tối? Chắc chắn là thế gian rồi, nhưng trước hết vẫn là trong lòng người ta. Chúng ta có vùng tối mà chúng ta không muốn thấy, ánh sáng không phải là bạo lực, do đó ánh sáng tràn ngập, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Ánh sáng này sau đó sẽ xuất hiện trên khuôn mặt của nhân loại: thần linh hóa mọi tạo vật, chiếu dọi vào tâm hồn, phản ánh vinh quang rực rỡ của Chúa Cha.
Thế giới của chúng ta đang cần những chứng nhân cho ánh sáng. Ở những thế kỷ đầu của Giáo hội, những người chịu phép Rửa tội được gọi là “ánh sáng” chiếu tỏa ánh sáng Thần Linh.
Việc tái truyền giảng Tin Mừng, là làm thế nào để người môn đệ biến đổi. Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã nói với các linh mục rằng: “Người ta muốn thấy Chúa Giêsu qua anh em“. Nơi mỗi người đã chịu phép Rửa tội, bởi vì họ là nhà của “ánh sáng từ ánh sáng” phải được chiếu soi rạng ngời.
Nguồn gốc của ánh sáng là Tình Yêu. Vì vậy, đừng quên rằng nếu như tội lỗi, nghĩa là bóng tối tách ra, Tình Yêu biến thành ánh sáng thần linh. Trong máng cỏ, Hài Nhi Giêsu chiếu tỏa ánh huy hoàng của Người trên khuôn mặt rạng ngời của Thánh Giuse.
“Thiên Chúa thật và là Người thật“
Công đồng Chacédoan năm 451 đã tuyên xưng: “Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và người thật“.
Tuyên xưng Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, không phải vì một người là Thiên Chúa, những là bởi Thiên Chúa đến vì các tội nhân, Ngài đến để cứu từng người trong chúng ta!
Làm thế nào để Thiên Chúa toàn năng, Thánh, chí Thánh, ngàn trùng chí Thánh, ba lần thánh này, có thể đồng bàn với phường tội lỗi? Làm thế nào để Thiên Chúa đến thi thố tình yêu cho chúng ta?
Hài Nhi nằm trong máng cỏ đến thanh tẩy tội lỗi chúng ta và đem dâng lên trước tòa Chúa. Không, Thiên Chúa không phải là một người cha ngáo ộp, hay một thẩm phán, cũng không phải một kẻ giáo điều. Hài Nhi, Thiên Chúa thật nhỏ bé đến mạc khải cho chúng ta Một Thiên Chúa thật.
Đó là lý do tại sao Chúa Con được sai đến trong thế gian. Không chỉ mạc khải về Chúa Cha, nhưng để nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Làm cho chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót.
Khi tuyên xưng Hài Nhi năm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật, là loại bỏ các lạc thuyết, Ảo thân thuyết, dưỡng tử thuyết. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô vừa là Thiên Chúa thật và là người thật. Người là Đấng cứu chuộc chúng ta.
Nếu Đức Kitô chỉ là Thiên Chúa, thì Người không thể cứu độ tất cả chúng ta! Người là Thiên Chúa và là người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Tuy nhiên, “Tất cả những gì được Người đảm nhận đều được cứu.” (St. Athanasius)
Con Thiên Chúa đã đảm nhận một thân xác, và vì thế từ nay, Người trở nên người nhờ Chúa Thánh Thần, đó là lý do tại sao thân xác của chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta đã được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Bởi tội nguyên tổ, chúng ta đã đánh mất sự sống, nhờ Hài Nhi nằm trong máng cỏ, chúng ta tìm lại được. Vì thế, chúng ta càng theo Chúa Kitô, chúng ta sẽ càng trở nên giống Người hơn. Chúng ta được trao ban cho Chúa Kitô, chúng ta được thần linh hóa.
Khi chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta, để chúng ta tin vào Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Đề nghị thứ hai là: xin ơn bình an.
Chúng ta cầu xin Chúa “ơn bình an” như chính lời Kinh Thánh gợi ý: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương! ” (Lc 2,14). Đây là điều rất cần thiết và thực tế. Theo Kinh Thánh, sự bình an đi đôi với hạnh phúc mà Chúa ban cho loài người. Ai trong chúng ta mà không khao khát hạnh phúc cho mình và tha nhân? Ai trong chúng ta mà không ước muốn được bình an? Thiếu sự bình an, thì không thể có hạnh phúc. Hạnh phúc trước hết và trên hết là niềm vui “được yêu”, được Thiên Chúa yêu thương, được loài người yêu thương.
Sự bình an là một ân sủng, là “quà tặng Giáng Sinh” của Thiên Chúa cho chúng ta. Để có được quà tặng ấy, chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này (x. Tt 2,12).
Nguyện xin ân sủng và bình an của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và tình yêu của Chúa Cha ở cùng tất cả chúng ta. Amen.
27. Bài học khiêm hạ nơi máng cỏ Belem--Lễ Đêm-- Lm. Giuse Lê Danh Tường
“Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”
Hang đá Belem năm ấy không như hang đá giáng sinh ngày nay. Người ta làm hang đá mỗi khi Giáng sinh về. Ai cũng cố gắng dùng mọi hình thức để diễn tả cái nghèo khó và vắng lặng của hang đá Belem năm xưa, cố gắng trang hoàng làm nổi bật điều mình muốn diễn tả. Và rồi, sự tấp nập của đêm Giáng sinh và ánh sáng trang trí nơi hang đá đã khiến ta không còn cảm được cái nghèo, cái vắng của Belem nơi Chúa hạ sinh.
Đứng trước máng cỏ với Hài nhi Giê-su ta đối diện với sự khiêm hạ, một sự hạ mình xuống đến tận cùng. Một Thiên Chúa hạ mình đến với con người trong hang súc vật, một Hoàng tử hạ mình xuống nơi hoang vắng nghèo hèn, một vị vua chấp nhận lùi xa trước sự xua đuổi của thần dân mình, Đấng uy quyền xuất hiện trong thân phận hài nhi bé nhỏ không khả năng tự vệ, Đấng là ánh sáng xuất hiện giữa đêm đen.
Thiên Chúa đã đến với con người không với tư cách cha chú hay kẻ cả. Nhưng Ngài đến trong âm thầm, nhỏ nhẹ, kiên trì gõ cửa tâm hồn con người, chờ đợi để được con người mở cửa lòng đón tiếp.
Bởi đâu mà Thiên Chúa phải nhọc công làm vậy? Thưa bởi lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Isaia, một bài thơ chan chứa niềm hy vọng của tiên tri Isaia: sự sáng bừng lên trong u tối, lòng người reo vui như ngày được mùa, như ngày thắng trận, mọi gông cùm, áp bức bị đập tan, vị Vua Hòa Bình đến ngự trị giữa muôn dân.
Isaia đã tiên báo về một cảnh trời mai chói lọi ấy trong hoàn cảnh dân bị tan tác, mất nhà cửa, bị đi lưu đày. Một cảnh huống mà Isaia diễn tả: Dân tộc đang bước đi trong u tối. Vì sao nên nỗi lầm than như vậy. Dọc chiều dài Kinh thánh cho ta thấy chính con người đã vất bỏ giao ước với Thiên Chúa, từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong xã hội mình, trong cuộc đời mình. Chính khi rời bỏ Thiên Chúa, lòng người ly tán.
Họ bất trung với Thiên Chúa và quay ra đàng điếm với các thần ngoại; họ cầu cứu những phương thế của loài người để giải quyết chiến tranh; dân cậy dựa vào sức lực của con người để vượt lên số phận; họ tin tưởng và tuyệt đối bám víu vào của cải mau qua ở thế giới này. Con người rời xa Thiên Chúa.
Làm gì đây khi con người đã đóng sầm cánh cửa trước lời mời gọi trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa thua con người rồi sao. Thiên Chúa chấp nhận ly dị với con người sao. Lời thề ước trung thành không lẽ hết giá trị rồi ư.
Không. Tình thương của Thiên Chúa đã không chịu khuất phục trước tội lỗi của loài người. Thiên Chúa đã duy trì mối dây liên kết với con người bằng mọi giá. Chúng ta kiêu căng, Ngài sẵn sàng hạ mình xuống; chúng ta từ chối đón tiếp, Ngài kiên trì chờ đợi; chúng ta lên tiếng sỉ vả, Ngài nhẫn nhục lắng nghe; chúng ta phản bội, Ngài âm thầm dõi theo để chờ đợi giây phút hoán cải.
Thiên Chúa đã hạ mình trong thân phận Hài nhi nơi máng cỏ trong hang đá giữa trời khuya giá rét. Ấy là vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Tình yêu xả kỷ đã chiến thắng tội lỗi.
Giờ đây, khi đứng trước hang đá với hàng ngàn bóng điện nhấp nháy như bầu trời sao, bạn và tôi, chúng ta nghĩ gì.
Đứng trước lòng trung thủy trong khiêm hạ của Hài Nhi Giê-su khiến ta chạnh lòng nghĩ tới lòng trung thủy của lòng mình. Tôi và bạn, chúng ta phải làm gì đây trong một xã hội mà dường như sự trung tín, lòng trung thủy với lời kết ước đã trở thành thứ xa xỉ phẩm; khi mà lời kết ước hôn nhân trở thành thứ vô vị và chỉ còn là thủ tục giấy tờ; khi mà mối tương quan được đo bằng tiền.
Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng, xin dạy con biết khiêm nhu sống tín thác vào Chúa và tin tưởng ở tha nhân. Giữa những đổ vỡ trong cuộc sống bởi lòng kiêu căng, xin Người hàn gắn và vực con chỗi dậy. Nguyện xin Người kéo lòng con về bên máng cỏ, để con cảm nếm cái thực của một tình yêu tinh tuyền trong khiêm hạ.
28. Một Người Con Được Tặng Ban Cho Nhân Loại 2017—Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Dân Israel là dân riêng của Thiên Chúa, được Người tuyển chọn giữa muôn dân, có nhiệm vụ thay cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Độ mà Người đã hứa, ngay sau khi Nguyên tổ phạm tội (x. St 3,15).
Tuy nhiên, thay vì trung thành với sứ vụ của mình, thì dân Israel đã nhiều lần bất trung. Nhưng dù dân Israel có bất trung, thì Thiên Chúa vẫn luôn tín trung. Người dùng miệng các ngôn sứ mà lặp lại lời hứa cứu độ và làm cho dân Israel nhớ lại lời hứa ấy.
Isaia là một trong những ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến để làm công việc ấy. Ngôn sứ Isaia đã loan báo rằng: “Đoàn dân đang lẫn bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… Chúa sẽ ban cho họ chứa chan niềm vui mừng, hoan hỉ… Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người là Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ mở rộng quyền bính và lập nền hòa bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít…” (x. Is 9,1-6).
Người con được ban tặng cho nhân loại mà ngôn sứ Isaia loan báo, đó chính là Đức Giê-su. Người là Ngôi Lời vĩnh cửu, là Con Một Chúa Cha, được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời, muôn vật muôn loài nhờ Người mà được tạo thành…. Nhưng Người cũng là con của Đức Maria và thánh Giuse khi xuống thế làm người và làm Đấng cứu độ, Người được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không phải do tác động của nam nhân, Người được sinh ra nơi hang chiên lừa nghèo hèn, giữa trời đêm đông, trong cánh đồng Bê-lêm mà chẳng có ai hay ai biết, chỉ có thần thánh trên trời và các mục đồng mà thôi.
Dù được sinh ra trong hoàn cảnh như vậy, nhưng Người được gọi là ‘Tin mừng trọng đại cho toàn dân, là Đức Ki-tô và là Đức Chúa’. Người đến để làm cho lời hứa cứu độ được nên trọn, khai mở một kỷ nguyên mới cho nhân loại, kỷ nguyên ‘Thiên Chúa ở cùng con người mọi ngày cho đến tận thế’ (x. Mt 28,20), kỷ nguyên Thiên Chúa yêu thương và bảo vệ sự sống con người và giá trị của hôn nhân, gia đình.
Quả thật, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo, Chúa có trăm ngàn cách để cứu độ nhân loại, nhưng Chúa đã chọn cách thế làm người và làm người nghèo hèn nhất trong thế giới loài người, dưới dáng hình của một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ.
Giáng sinh trong hoàn cảnh như thế, Chúa muốn dạy con người bài học về giá trị và phẩm giá con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, cần phải được tôn trọng bảo vệ. Sự sống con người là vô giá và linh thánh. Vô giá và linh thánh đến nỗi ‘không có gì trên trần gian này đổi được mạng sống con người’ (x. Mc 8,37), Thiên Chúa đành phải sai Con mình xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết và sống lại, để cho con người ‘được sống và sống dồi dào’ (x. Ga 10,10).
Hơn nữa, khi xuống thế làm người, với quyền uy của mình, Con Thiên Chúa có thể ‘xé trời mà xuống’ (Is 63,19), đâu cần đến gia đình, xã hội và tôn giáo. Nhưng cũng như mọi người, Chúa đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ có cha (Đức Maria và thánh Giuse) và thuộc về một dân tộc, xã hội và tôn giáo nhất định (dân tộc, xã hội và tôn giáo Do-thái).
Lựa chọn như thế, Chúa có ý tôn trọng và bảo vệ định chế hôn nhân, gia đình và xã hội mà Chúa đã thiết lập, đồng thời Chúa cũng mời gọi mọi người hãy tôn trọng và bảo vệ các giá trị của hôn nhân, gia đình, xã hội và tôn giáo.
Tiếc thay, dù Chúa đã xuống thế làm người hơn hai ngàn năm và hàng năm sứ điệp giáng sinh của Chúa vẫn luôn được nhắc lại ít nhất một lần, nhưng xem ra phần đông nhân loại vẫn khước từ và dửng dưng trước sứ điệp của Người. Khủng bố, bạo lực, vi phạm nhân quyền, xúc phạm nhân phẩm, hủy diệt sự sống, đàn áp tôn giáo, phá vỡ định chế hôn nhân và gia đình vẫn luôn xảy ra khắp nơi trên thế giới.
Riêng ở Việt Nam dường như sự sống con người, nhất là trẻ em và những người nghèo, bị bỏ rơi và phó mặc cho những thế lực đen tối thao túng, khiến người dân phải sống trong cảnh bất an và cơ cực… Đặc biệt trong những ngày gần đây, qua các phương tiện thông tin đại chúng, người dân rúng động bởi những vụ việc ‘bà nội giết cháu ruột ở Thanh Hóa, chồng giết vợ…, vợ giết chồng rồi chặt xác phi tang ở Bình Dương…’ Phải chăng đó là hậu quả của một xã hội và một nền giáo dục được định hướng bởi chủ nghĩa “Tam vô”: vô tổ quốc, vô gia đình và vô tôn giáo?
Trước một xã hội dửng dưng, vô cảm và đầy bóng tối như thế, người Ki-tô hữu phải sống sứ điệp của Chúa giáng sinh một cách vui tươi và linh động, để làm chứng và biểu lộ tình thương, ân sủng của Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta và trong thế giới này. Nghĩa là ‘chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này’ (x. Tt 2,12), chấp nhận những hy sinh lớn lao, vượt qua mọi khó khăn thử thách để sống trung thành với Chúa, tôn trọng và bảo vệ sự sống con người trong mọi hoàn cảnh, nhiệt thành trong công việc tông đồ và bác ái xã hội, chăm lo cho con cái được giáo dục toàn diện về thể dục, trí dục, cũng như đức dục và tâm linh.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng con, dưới hình hài một trẻ thơ bé nhỏ trong gia đình Thánh Gia, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ của xã hội và tôn giáo. Xin cho chúng con và thế giới này biết tận dụng mọi phương thế để tôn trọng nhân phẩm và bảo vệ sự sống con người, bảo vệ định chế hôn nhân và gia đình mà Chúa đã thiết định an bài. Amen.
29. Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa--Lễ đêm 2013--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Kính thưa Ông Bà Anh Chị em giáo dân,
Kính thưa Quý Vị và các bạn ngoài Kitô giáo,
Trước hết, thay mặt cho bà con giáo dân giáo xứ Quảng Ngãi, giáo hạt Quảng Ngãi, tôi xin được trân trọng gởi đến quý vị không có chung niềm tin Kitô đang có mặt ở-đây-giờ-nầy lời cám ơn chân tình và lời chúc mừng Giáng Sinh tốt đẹp và trân trọng nhất.
Tôi muốn dành những lời đầu tiên nầy để chia sẻ cùng quý vị không cùng niềm tin với chúng tôi. Chúng tôi cám ơn quý vị, quý bạn đã đến đây để chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với chúng tôi, để tham quan ngôi từ đường của đại gia đình kitô hữu Quảng Ngãi, để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, để nghe những bài thánh ca Noel, để lòng lắng đọng trước một đôi gợi ý của Kinh Thánh về huyền nhiệm đức tin Kitô,… và đối với các bạn trẻ hoặc một số người, Giáng Sinh còn mang theo cả một trời kỷ niệm, kỷ niệm của những mối tình đầu thơ mộng, mà bài hát “Hai Mùa No-en” của Ns Nguyên Vũ đã phần nào diễn tả:
Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường
Mùa Noel đó anh đón em vào tình yêu
Quỳ bên hang sâu nghe lời kinh thánh van cầu
Nhìn nhau không nói nên câu
Vì biết nói nhau gì đâu…
Với chúng tôi, những người Công Giáo của miền Núi Ấn-Sông Trà, quả thật đây là dịp duy nhất trong một năm, chúng tôi được đón tiếp quý vị như những vị khách quý để có thể chia sẻ với quý vị đôi điều về niềm tin của chúng tôi, để giới thiệu đôi nét đan thanh về Chúa Giêsu, mà với niềm xác tín của những người Kiô hữu chúng tôi, là Đấng Cứu Độ duy nhất, một Đấng mà chắc chắn quý vị còn rất mù mờ, có khi được hiểu cách lệch lạc và rất nhiều khi được thông tin với một ý đồ không mấy thiện chí, nếu không muốn nói là xuyên tạc và thù nghịch.
Đặc biệt năm nay, Năm mà Giáo Hội Công Giáo muốn các gia đình đem Tin Mừng hiện thực trong chính mái ấm của mình, tôi xin được chia sẻ cùng cônghj đoàn Kitô hữu và toàn thể quý vị một khía cạnh, một ý nghĩa đặc biệt về Chúa Giêsu và về cuộc Giáng Sinh của Ngài:
Chúa Giáng Sinh: Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa.
Để minh họa cho ý nghĩa nầy, tôi xin được kể một câu chuyện nhỏ mang tựa đề: NHỮNG NỤ HÔN TRONG CHIẾC HỘP RỖNG.
Gia đình nghèo và việc chi tiêu rất eo hẹp. Nhưng cô bé lại dùng cuộn giấy gói xa xỉ đó chỉ để bọc một cái hộp đặt dưới gốc cây thông Nô-en. Người cha tỏ ra vô cùng giận dữ trước sự phí phạm của con gái. Mặc dù vậy, buổi sáng hôm sau, cô bé vẫn mang hộp quà đó tới trước mặt cha và hớn hở nói: “Cha ơi, con tặng cha món quà Giáng sinh!”. Người cha cảm thấy vô cùng bối rối bởi phản ứng thái quá trước đó của mình: Cô con gái nhỏ dù sao cũng chỉ muốn một hộp quà bọc gói thật đẹp để tặng cha. Nhưng khi mở gói quà ra, nụ cười vừa nở trên môi ông đã tắt lịm. Trước mắt ông chỉ là một chiếc hộp rỗng! Nhìn thẳng vào mắt con gái, người cha quát rất to: “Con không biết điều này hay sao? Khi con tặng quà ai đó, chắc chắn phải có gì đó bên trong gói quà!”. Cô bé nước mắt giàn giụa nhìn cha và nói: “Không, cha ơi. Chiếc hộp con tặng cha có rỗng đâu. Con đã thổi rất nhiều nụ hôn vào đó. Tất cả những nụ hôn đó con dành tặng cha mà.”...
Một thời gian ngắn sau đó, tai nạn xảy ra cướp đi cuộc sống của cô bé dễ thương. Còn người cha vẫn giữ bên mình chiếc hộp bọc giấy vàng tuyệt đẹp nhiều năm sau đó.
Và bất cứ khi nào ông cảm thấy tuyệt vọng, chán nản, ông đều lấy chiếc hộp ra và hình dung đến con gái bé bỏng yêu thương đang ôm và thơm vào má cha – những nụ hôn trong chiếc hộp ngọt ngào...
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Phải chăng, ý nghĩa đầu tiên và sâu sắc nhất của mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng Sinh chính là “Chiếc hộp bằng vàng chứa đựng nụ hôn tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta”, đúng như lời khẳng định trong Tin Mừng Thánh Gioan:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình.
- Giáng sinh: đó là cách thế để Thiên Chúa dạy cho con người biết thế nào là yêu thương và phải đáp trả tình yêu dành Ngài và cho nhau phải được thể hiện làm sao.
Thi sĩ linh mục Trăng Thập Tự đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa nầy trong bài thơ Tại Sao mà xin được trích ra đây đôi dòng tiêu biểu:
Còn Ngài yêu con, Ngài đã làm người
Để có thể khóc, để có thể cười,
Để có thể chết thay con mà chuộc tội,
Và nhờ đó con hiểu thế nào là tội lỗi,
Thế nào là lòng Chúa thương yêu.
Để con hiểu ra vẽ diễm kiều
Khi được làm người, khi được làm con Thiên Chúa.
Lạy Đấng Cứu Thế, là Trời, là Tạo Hóa,
Chiều nay trên thập giá,
Chúa có ân hận đã làm người?
Con hỏi và con tự trả lời
Khi con đã biết
Ngài yêu là yêu cho đến đời đời kiếp kiếp
Lạy Thượng Đế làm người, lạy Chúa Giêsu
(Trăng Thập tự, “Có ai về Cát Minh”, Bài “Tại Sao”, tr.184-186)
Thiên Chúa vẫn tiếp tục giáng sinh trong thế giới nầy.
Tuy nhiên, trong đêm nay cũng có kẻ sẽ tự nói rằng: Giáng Sinh đó là câu chuyện huyển tưởng của bọn Kitô giáo, có liên hệ gì đến mình đâu.
Không có liên hệ đấy quý vị. Chỉ cần 6 ngày nữa, khi tấm lịch cuối cùng ngày 31 tháng 12 năm 2013 được xé bỏ để bắt đầu tờ lịch mới 1.1.2014, cũng đã nói với quý vị rầng: Ngày sinh của Chúa Giêsu mà hôm nay chúng ta mừng kính đã được chọn làm cột mốc của khởi đầu cho Công lịch. Kể từ năm sinh của Ngài đến hôm nay đã được 2013 năm.
Nhưng điều chúng ta cần dừng lại đó lại là ý nghĩa tâm linh và chiều kích nhân sinh, xã hội mà mầu nhiệm Giáng Sinh mang đến cho con người.
Chúng tại phải trở về với lời Kinh Thánh, đặc biệt sứ điệp Tin Mừng được công bố hôm nay để tìm những chỉ dẫn cho những ý nghía nầy:
Bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiện ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã tìm được điều gì nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh cách đây 2013 năm?
Thật trái với mong đợi của bao khát vọng trần tục của loài người.
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đấng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gươm đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chủ trương “phúc cho ai xây dựng hòa bình, phúc cho ai bị bách hại vì chính đạo...”
- Thay kéo bè kết cánh với những thế lực uy quyền và giàu có, Đấng Cứu thế lại giao du thân mật với những người nghèo, kẻ bất hạnh và chọn lựa những kẻ thất học, dân chài vai u thịt bắp để làm môn sinh và xây dựng. Giáo Hội
- Thay vì đăng quang chấp chánh trên ngai vàng lẫm liệt bắt muôn dân sấp mặt cuối đầu thì Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ, giữa những người tội lỗi…
Và phải chăng, đó chính là ý nghĩa cuối cùng của mùa nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm EMMANUEL, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất, chỉ với một mưu cầu là đạt được những mưu đồ chính trị…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế, cho dù đã có không ít đề nghị, chủ trương Ngài là Nhà Cách mạng vô sản, Ngài là lãnh tụ của thành phần dân nghèo đứng lên đòi quyền giả phóng.... Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Tin và đón nhận Đức Ki-tô đó chính là không ngừng khám phá và gặp gỡ chính Ngài đang hiện diện thật sự trong thế giới nầy, trong nhân loại nầy, đặc biệt, Ngài hiện diện trong những con người bé nhỏ khó nghèo, bị chà đạp, bị tổn thương, bị vất bỏ bên vệ đường xã hội…
Câu chuyện trong kho tàng khôn ngoan của Ấn Độ sau đây đã phần nào diễn tả ý nghĩa nầy:
“Có một vị linh sư Ấn giáo và các môn sinh ngồi quây quần bên một bếp lửa hồng. Sức nóng của than hồng và hơi nóng của từng người làm cho căn phòng ấm hẳn ra….Nhưng bổng chốc, vị linh sư già run lập cập, môi ông bập bẹ không nói ra lời. Các môn sinh lo lắng cho sức khỏe của thầy: “Thưa thầy, chắc thầy yếu trong người, chúng con xin phép được cho thêm củi vào lò sưởi”. Trong cơn thổn thức, vị linh sư già cố gắng nói từng tiếng: “Lửa và sức nóng trong căn phòng nầy quá đủ cho ta…Ta cảm thấy lạnh là bởi vì bên ngoài có một người hành khất đang run lập cập”. Quả thật, đúng như lời của vị thầy, các môn sinh đã mở cửa và nhìn ra ngoài, và họ đã tìm thấy một người hành khất đang rét run vì đói và lạnh….Họ đưa ngươi đó vào trong căn phòng, săn sóc cho anh và từ giây phút ấy, vị linh đạo sư cũng trút bớt nổi rét run của mình...”
Kính thưa cộng đoàn và toàn thể ông bà anh chị em,
Trong năm vừa qua, chúng ta đã ghe biết và chứng kiến bao nhiêu đau thương, tệ nạn liên tiếp xảy ra trong các gia đình Việt Nam chúng ta. Từ vụ xác của chị Lê thị Huyền bị bác sĩ thẩm mỹ Cát Tường ném xuống sống Hồng Hà cho đến hành vi chém và đốt xác người yêu tại Đà Nẵng hay sự kiện người bảo mẫu hành hạ đến chết trẻ em được giao chăm sóc…thì quả thật, sứ điệp Giáng Sinh hôm nay quả thật cần thiết biết bao! Cần thiết biết bao cuộc nhập thể giáng sinh của Ngôi Lời trong mọi cơ cấu của xã hội để hoán cải, để chữa lành, để phục sinh, như chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô đã cắt nghĩa trong bài huấn dụ trước lễ Giáng Sinh ngày 18.12.2013 tại Quảng trường Rôma:
“Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa! “
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong mùa Giáng Sinh nầy chúng ta đã từng nhận được rất nhiều cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh cùng với những lời chúc tốt đẹp, và chắc chắn ai trong chúng ta cũng ước mơ những lời chúc ấy sẽ trở thành hiện thực. Riêng tôi, tôi ước mong anh chị em phải biến cuộc đời mình, gia đình mình, cộng đoàn mình thành Tin Mừng Giáng Sinh, thành một Quà Tặng Sự sống, quà tặng của sự trung thành và hy sinh trong mái ấm gia đình, quà tặng của yêu thương và phục vụ ở giữa cộng đoàn, quà tặng của bác ái vị tha với mọi người chung quanh, quà tặng của bao dung tha thứ dành cho những người ghét ghen đố kỵ và xúc phạm đến mình. Chắc chắn, khi có được những quà tặng như thế, chúng ta sẽ nhận được “chiếc hộp vàng đựng nụ hôn chúc phúc của Chúa Hài Nhi Giêsu”, nụ hôn của niềm vui và an bình, nụ hôn của tin yêu và hạnh phúc hôm nay để dẫn dắt chúng ta đi trót cuộc hành trình dương thế để nhận được nụ hôn của Ba Ngôi Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi vì, đó chính là lời chúc mà các thiên sứ đã hát lên trong đêm Giáng Sinh đầu tiên ở Bê-lem: ”Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”; và đó cũng chính tiêu đích của cuộc Nhập thể - Giáng sinh mà chính Chúa Giêsu đã từng khẳng định: “Ta đến để chúng được sống và sống phong phú”. Amen.
30. Tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại--Lễ đêm--Lm Uyên Nguyễn
‘Tôi loan báo cho anh em một
Tin Mừng trọng đại, là niềm vui cho toàn dân’.
Trong đời, tưởng chừng không gì bất tử với lòng người nhân loại hay thay đổi. Tuy nhiên vẫn có những điều trường tồn ngoài sự suy đoán? Lạ lùng hơn là những việc xem ra dưới mức bình thường, trong âm thầm, quạnh quẽ, dần qua thời gian đã nên rạng ngời vinh quang, lưu tồn bất tận. Những sự kiện như vậy thường không là ngẫu nhiên, cũng vì tự tại đầy sức toả sáng, bất tử, huy hoàng giữa nhân loại.
Xem ra không mấy sự lạ lùng được như vậy, ngoại trừ biến cố được gọi là Giáng Sinh hay còn gọi là Noen. Lần theo tường thuật của Luca được GH trích đọc trong đại lễ truyền thống trọng trị tràn ngập hân hoan đêm nay, không thể không nhận ra những gì đã gây nên ấn tượng tôn vinh khó phai trong lòng nhân loại từ sự kiện Giáng Sinh trải qua bao thế hệ!
Điều thứ nhứt, Giáng sinh là ‘con đường’ làm người của Ngôi Con TC. Con đường hiện diện để yêu thương, hiện diện cho nhân loại, cho đời. Để là vậy, Người trải qua con đường chung của bất cứ ai được sinh ra làm người, nghĩa là cũng thụ thai, cũng được sinh hạ. Tuy nhiên quá trinh sinh làm người của con TC được phủ bóng quá giản đơn, phút chốc, có gì đó dưới thấp hèn. Sinh ra trong thời điểm mọi người vâng lệnh hoàng đế Augustô trở về quê hương để tuân hành pháp lệnh kiểm tra dân số. Người mẹ đang đến thời mãn nguyệt khai hoa, không tìm được nơi tá túc giữa lòng Thành Phố chật ních người. Theo đó, Luca tường thuật bằng một chất giọng nao nao tình trong cảm kích trọng thị: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”( c.7). Luca cố tình dùng những cụm từ quen thuộc gần gũi đời thường: dành cho những người có gia cảnh bé mọn, lãng quên giữa phố chợ phồn hoa. Bà sinh con trai, lấy tã bọc, đặt nằm trong máng cỏ, vì không tìm được chỗ. Luca tự mình tra vấn: là con TC sinh hạ ư? Sao quá giản tiện, đơn hèn, bất đắc dĩ vì hoàn cảnh hay vì thâm ý? Mà Con TC được Tin Mừng Gioan gọi là Lời, Lời của TC Cha. Nếu TC như Gioan định tín: “TC là Tình Yêu”. Vậy Tình Yêu với vai trò diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng Lòi tự tỏ bày như thế ư? Quả quyết vậy, chắc cũng không sai, bởi ngạn ngữ nói: “Đầu xuôi đuôi lọt”, cả cuộc đời với vai trò Con TC cứu độ đã theo đuổi cách sống không có gì là rạng rỡ như thế từ khởi sự cho đến trọn 33 năm hoàn tất nhân sinh! Sinh không vinh quang, chết cũng không rõ vinh quang. Tuy nhiên lẽ sinh, lẽ chết, ý nghĩa và hành vi cống hiến cho đời mới là cứu cánh định giá khác biệt để mới có thể gọi là sinh trong cùng đinh để chết đat đỉnh vinh quang tối hậu. Thế mới biết đâu là Lời của TC Cha, Lời vâng phục Chúa Cha, đã vì để trở nên cứu cánh nhân loại phải là thế?!
Điểm thứ hai, một biểu trưng cho một dáng vóc của tột cùng thấp hèn. Trước nhãn giới mang tính thèm khát cao vọng hồn nhiên của con người, Con TC sinh ra như thế được kể là thấp hèn. Thực chất không là thấp hèn mà là một TC tự hạ để sau này trên đường đi loan báo TM, giữa cuộc sống đời trần đầy dẫy ganh ghét, bon chen, dẫm trèo lên nhau, trong chân tình, Người dạy: “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường”( x.11,29). Vậy ở đây chắc chắn không phải là thấp hèn mà phải được nhìn nhận và tôn vinh là khiêm hạ. Con TC khiêm hạ vì Người bằng lòng hoá thân tự hạ để khả thi thực hiện điều được gọi là ‘nhập thể’, nên một giữa khối nhân loại bởi Người mà được tạo thành. Thấy rõ hơn về điều ấy, khi được đọc lại những gì Luca viết nêu giãn dị đôi nét về lai lịch vị trí sinh hạ: “Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật” (c.2,8). Sinh ra trong vùng, giản đơn là nơi nào đó trên cánh đồng chỉ có những người chăn chiên đêm đêm thao láo mắt thức canh đàn vật.
Những người chăn chiên là ai? Phẩm vị họ cao thấp, được tôn trọng hay, trước tâm khảm những ai khác họ, có bị nhìn là những kẻ đáng khinh vì bị liệt vào hàng thấp hèn không ít lần phạm phải hành vi trộm cướp cắp? Dẫu vậy, chính họ là những người mà Luca trong tường thuật, là những kẻ ưu tiên được diễm phúc, ưu tiên đón nhận tin mừng, ưu tiên được loan báo tin vui cho toàn dân, ưu tiên đi xem sự việc, ưu tiên chiêm ngưỡng và thực sự là những nhân chứng tiền thân. Xem ra là vậy! nên có thể hỏi tình thương đích thực mang đến ban phúc, đã thực hiện theo quá trình nào, khởi sự từ cao trọng xuống thấp hay từ thấp hèn lên cao trọng? ở đây xem ra Tình thương con TC làm người mang diễm phúc cho đời không theo quy trình hành xử như người đời mà bằng con đường độc lập của lòng ưu ái TC. Để xác quyết như vậy, qua tường thuật của Luca, sẽ rõ những gì mà nhóm những người này bộc lộ cho nhau: “ Nào chúng ta sang Belem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho chúng ta biết” ( c.2. 15). Luca cũng nói đến những cảm nghĩ của họ, bộc phát từ ơn lành, cho nhau: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng TC, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (c.20). Cảm nghĩ của các kẻ chăn chiên là tin cẩn dấu lạ loan báo, xác tin vào tin vui loan báo, tin vào phúc mà họ bỗng dưng được ban từ trời giữa đêm buồn quạnh quẽ giá rét, lòng họ đầy hân hoan trong trào dâng cảm xúc ca ngợi và cảm tạ TC.
Phần chúng ta cảm nghĩ gì? Có phải Giáng Sinh không là vậy không là Giáng sinh, là Noen! Chắc là vậy vì mọi tình huống ấy đã được công bố từ khơi nguồn do lời và tiếng hát hoà vang nhiệm lạ của các ‘thần thiêng’ trên không trung trong đêm tịch liêu khuya khoắt, công bố cho hiện tại và cho cả mọi thế hệ tương lai! Thế nên điều tưởng chừng không giá, không nghĩa, lại đầy sức mầu khoác cho mình ánh sáng rực rỡ hấp dẫn, bùng lên vẻ vang qua mọi thời. Là như vậy, chỉ có là: Giáng Sinh, Noen. Bởi chính đó là Đấng cứu độ, Đấng mang lửa yêu thương từ trời cao ném vào băng giá trần gian, bằng con đường làm người trong và qua giản đơn, mọn hèn, để như lửa len mình vào mọi chất đốt đủ kích cỡ làm bùng lên cháy rực giữa cõi nhân sinh đang thênh thang chung lộn trên miền băng giá! Noen vậy, rất đáng cảm kích, không thể không huy hoàng rực rỡ ư? và sẽ không vẻ vang hơn như thế cho đến ngày cùng vũ trụ?!
Thân lạy Đấng là Hài nhi mới sinh! Con xin được ngợi khen và tôn vinh Danh Người, nguyện cho Danh Người luôn được cao sang. Xin cho Giáng Sinh bừng cháy lên trong tâm hồn mọi người giữa mọi dân nước. Xin đừng ai chưa hay không đón nhận được tin vui Giáng Sinh: là ơn cứu độ tuyệt hảo dành cho những ai thành tâm cũng cố dời mình đón nhận Giáng Sinh đầy hiệu quả và trọn vẹn!
31. Noel! Ngày lễ Hòa Bình--Thiên Phúc
Ở thế chiến thứ hai, trên một mặt trận giữa hai nước Pháp và Đức, quân của hai bên giành nhau từng chiến hào; gây cấn đến độ vô phúc cho người nào sơ ý ló đầu ra khỏi chỗ núp là nát đầu ngay. Đó là tình hình vào những ngày 21, 22, 23 tháng12, 1943. Các sĩ quan hữu trách của cả hai bên đều đề phòng cấm ngặt binh sĩ của họ không được lơ là bỏ vị trí chiến đấu kể cả ngày Noel. Đến chiều 24 tháng 12, vẫn là bầu khí ngột ngạt của tử thần. Không có hưu chiến. Đó là lệnh cấp trên truyền xuống.
Đêm về, trong bầu khí yên lặng căng thẳng đó, bỗng một tiếng hát vọng lên từ một thông hào: “Đêm thanh bình, đêm ơn lành!” (Silent Night), rồi nhiều tiếng hát vọng theo, rồi người ta nghe cả hai phía Pháp Đức đều vang dậy tiếng hát Giáng Sinh; không ai bảo ai, bất chấp quân lệnh, binh sĩ của cả hai bên đều bật dậy, bỏ vị trí chạy lại bên nhau, ôm nhau cười nói, chúc lễ Giáng Sinh cho nhau. Họ trao cho nhau đồ dùng, cùng ăn uống với nhau như thể là những người bạn thân lâu ngày hội ngộ. Trước cảnh đó, các vị chỉ huy đều đồng ý hưu chiến đến hết ngày hôm sau.
Ngày 25-12 năm 1943 là một ngày đáng ghi nhớ cho những người ở trận tuyến đó. Hai bên Đức, Pháp cách đó mấy giờ là tử thù của nhau, bây giờ họ cùng chụp hình, trao kỷ niệm, chơi bóng, ăn chung với nhau như những người anh em rất yêu quí. Noel, ngày lễ Hoà bình.
***
Giáng Sinh là lễ của Hòa Bình. Hàng năm, cứ vào lễ Giáng Sinh, dù chiến trận có sôi sục đến đâu, người ta cũng thường dàn xếp để hai bên có được thời gian mừng lễ. Đó gọi là ngày hưu chiến. Sở dĩ có hưu chiến trong ngày lễ Giáng Sinh vì Ngôi Hai đã xuống thế làm người để giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước cứu chuộc sẽ được ký kết bằng máu của Ngôi Hai là Thiên Chúa và cũng là người thật. Đó là niềm vui vô cùng lớn lao của cả loài người được ơn cứu độ. Từ nay, tội tổ tông đã được tẩy xoá nhờ máu thánh của Con Thiên Chúa. Con người không còn vương vấn tội nhơ thì an bình sẽ ngự trị trong tâm hồn: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
***
Lạy Chúa, tâm hồn bình an thì không còn hận thù, đố kỵ, ganh ghét, nhưng luôn tin yêu, hy vọng, vui sống. Xin ban cho con sự bình an của Chúa để con luôn là sứ giả của an bình. Chúa đã hứa: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Xin cho cầu nguyện cảm nếm được sự ngọt ngào của an bình trong tâm hồn và như thế là đủ cho con rồi. Vì có Chúa là đời con bình an. Amen!
32. Ánh sáng rạng ngời--Ga 1,1-14--Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một ngọn đuốc chiếc đèn khác dọc theo các con đường.
Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đàng sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sức thâm thúy: “Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.
***
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
Ánh sáng tình yêu
Thiên Chúa là đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, cứu chuộc và yêu thương họ còn hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Ánh sáng chân lý
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).
Ánh sáng ban nguồn sống.
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh.
Ánh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).
Mừng lễ Giáng Sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho Ánh Sáng: là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,20).
***
Lạy Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời. Xin cho chúng con luôn trở nên ngọn đèn rọi sáng giữa đêm đen. Xin dậy chúng con biết tích cực lan tỏa ánh sáng đến các tâm hồn, để Ánh sáng rạng ngời của Chúa luôn luôn tỏa sáng. Amen.
33. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh--Lc 2,1-14--“Suy Niệm Lời Chúa”--Radio Veritas Asia
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thật thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về lễ Giáng sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng chính là một bản nhạc bất hủ Thiên Chúa dành cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc.
Thánh Gioan tông đồ, người đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau: "Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể". "Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể" nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta. Ngài đã sống giữa chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000 năm qua. Lời ấy đã được dịch ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới. Và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất cả nhân loại.
Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và nhất là thinh lặng trong suốt ba mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa, bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn nói với chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thân thiết với mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả nhân nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi con người sinh ra trong thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Sự hiện hữu của Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn trong một không gian, một thời đại, giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề là một người chồng, Chúa Giêsu không hề là một người cha trong gia đình. Chúa Giêsu cũng chưa từng sống trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch sử nhân loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh, là khi chúng ta để cho Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý nghĩa cuộc đời này cho dẫu chúng ta phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi một người anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng sinh, khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh đó không chỉ được cất hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ, hành động và cư xử của chúng ta để mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như bằng chứng tá thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
34. Ngôi Lời đã trở nên người phàm--Ga 1,1-8--Niềm Vui Chia Sẻ
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến “Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố” một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:
“Thưa Ông “dà” Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn…
Con muốn được lên “chời” để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên “chời” nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con “xung xướng”. Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn…
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc… Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa “người” hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống”. Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình thương… Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.
35. Ôn cố tri tân--Lễ Đêm 2013--Lm JP. Vũ Minh
Cuộc kiểm tra đầu tiên (Lc 2:1-3): Kinh Thánh Sử Gia Eusebius* (260-340) đã nhắc tới cuộc kiểm tra này, và còn nói thêm là người Do Thái thời đó cho rằng việc kiểm tra để bắt dân chúng đóng thuế không khác hơn là Đế Quốc La Mã ra lệnh kiểm tra để đánh thuế sẽ làm cho họ trở thành như những người nô lệ, và đây cũng là khởi điểm để người Do Thái vùng lên chống lại bạo quyền. Xã hội Hoa Kỳ cũng làm kiểm tra 10 năm một lần không phải vì để tìm người đóng thuế nhưng là để phân định lãnh thổ chính trị trong nước và theo tỷ số mà chọn những người đại diện cho dân làm dân biểu trong quốc hội, và di chuyển nguồn lợi từ thuế má để trang trải cho những phí khoản về y tế và trợ giúp người nghèo. Người trong xã hội tự do này tuy dù phải đóng thuế nhưng người ta không phản loạn vì họ nhận thấy việc đóng thuế là một điều đương nhiên trong khi đó ở xã hội cộng sản - như ở Việt Nam - người ta phải đóng thuế, nhưng tiền thuế đó dân không được hưởng; trái lại, những số tiền đó chỉ có làm giầu cho những người thu thuế và những người này cũng phải “chung tiền” lại cho cấp trên… do đó thuế má trong xã hội cộng sản không đem lại lợi ích gì cho công chúng.
Các mục đồng: Họ là những bần cố nông chỉ biết làm lụng để nuôi sống cho mình và gia đình họ; họ bị kềm chế mọi mặt nhất là về thuế má và không có cơ hội để vươn lên; họ là những người ngày đêm lái xe vận tải hay xe đò, những người chỉ biết làm thợ thuyền trong các công xưởng… họ không có tương lai, nhưng giờ đây họ được thiên thần loan tin là một vị cứu tinh sẽ đến để giải thoát họ trong cảnh lầm than này. Họ rất hoan hỷ khi nghe tin đó vì lý do tại sao nữa?
Thành của David (Lc 2:11): Vua Đavid, theo truyền thống, đã được sinh ra ở Be-Lem (nhà của bánh mì), là vị vua đầu tiên mà Thiên Chúa chọn - người tuy dù nhỏ bé nhưng đã đánh chết người lính thuộc dòng giống khổng lồ (David và Goliad) - để lãnh đạo và làm ổn định xã hội của dân Chúa nơi Đất Hứa. Nhà của bánh này cũng có nghĩa là “Bánh Hằng Sống bở trời” để nuôi sống trần gian (Ga 6:26-58)!
Bọc trong khăn vải sô (Lc 2:12): Vua Salomon là con của Vua Đavid đã viết trong Sách Khôn Ngoan rằng chính ông cũng đã được bọc trong khăn vải sô khi ông chào đời (KN 7:3-6); do đó, Vị Cứu Tinh mà thiên thần loan báo thuộc về dòng giõi David sẽ lên ngôi để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Thêm vào đó, các mục đồng biết rằng những con chiên mà họ bán để làm con vật tế sinh sẽ phải là những con chiên không tỳ ố và họ thấy những con chiên lành mạnh tốt đẹp thì họ sẽ để riêng ra để chăm sóc thì sau đó họ mới bán dược nhiều tiền… những con chiên đo sẽ được họ gói bó thật kỹ trong những vải sô như Vua Solomon đã được gói trong đó (tấm - không mịn màng như cám - nhưng vẫn còn êm ấm chứ không như vải gai khó chịu)… Chúa Giêsu cũng đã được tẩm liệm khi chết bằng tấm vải sô… Các mục đồng nghe lời các thiên thần và hiểu ngay là đứa trẻ này sẽ là con chiên làm lễ tế sinh cho họ và họ thấy mừng vui cho số phận của mình. Số phận của bạn thế nào thì bạn đã biết… và trong cảnh trầm luân này, bạn có hy vọng gì thì hãy dâng lời nguyện xin để cho mọi ước vọng của bạn được toại nguyện, và biết thêm rằng: chúng ta chỉ biết cậy nhờ vào Thiên Chùa trong mọi sự mà thôi!
Nằm trong máng cỏ (Lc 2:12): Máng cỏ là chỗ để đồ ăn cho bò lừa và dê chiên. Tuy dù là nơi để nuôi thú vật, Đấng Cứu Tinh này nằm trong máng cỏ cũng là biểu tượng của ơn từ Trời để nuôi sống mọi loài trên trần gian; do đó, khi Chúa Giêsu nói: “Ta là Bánh Hằng Sống, là bánh ban phát từ trời…” (Ga 6:26-58), lời này mang ý nghĩa rất sâu đậm mà các mục tử là những kẻ tin đã hiểu ngay về tin vui này và họ đã tấp tốc đi tìm Đấng Cứu Tinh mà thiên thần đã báo cho họ. Xin bạn hãy cùng vui với tôi, và chúng ta đi tìm Chúa Giêsu Đấng cứu Tinh cho đời mình theo lời của thiên thần loan báo.
Nguyện xin lời của thiên thần và chứng nhân của các mục tử sẽ làm cho anh chị em vui mừng khi chúng ta đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh 2013!
36. Ánh Sáng đã đến thế gian--Lm. Anmai
Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài nhưng rồi tội lỗi đã làm cho tình yêu đó bị vụn vỡ. Thế nhưng, dù con người thế nào đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người.
Thuở đầu mới tạo dựng, ánh sáng, tình yêu của Thiên Chúa chan hòa và chiếu tỏa trên con người cách riêng nơi ông bà nguyên tổ Ađam - Eva. Điều đáng tiếc là hai ông bà đã không nhận ra hay nói một cách khác là khước từ tình yêu của Thiên Chúa. Từ giây phút hái trái cấm cũng chính là giây phút khước từ tình yêu Thiên Chúa. Khi, ấy bóng tối của tội lỗi đã bao trùm trần gian. Tội lỗi của hai ông bà không dừng lại ở nơi hai ông bà mà ngay chính con của hai ông bà cũng đã khước từ tình yêu Thiên Chúa bằng cách giết hại chính đứa em mình. Cain đã giết Aben cũng chỉ vì hờn ghen, cũng chỉ vì ganh tỵ.
Bóng tối của tội lỗi cứ lan tràn mặt đất. Nhưng, bên cạnh đó, lời hứa của Thiên Chúa chính là lời hứa cứu độ cũng được gởi đến ngay lúc hai ông bà phạm tội. Thiên Chúa đã phán với con rắn: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3, 14.15).
"Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi". Dòng giống ấy được tiên báo đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Và, từ Mẹ, Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra như lời đã hứa.
Giữa đêm tối của tội lỗi, giữa bóng tối của kiêu căng có một luồng sáng mới chiếu tỏa, có ơn cứu độ xuất hiện. Ánh sáng, ơn cứu độ đó được Isaia nói trong trang sách hôm nay:
Dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ,
đã tăng thêm nỗi vui mừng.
Họ mừng vui trước nhan Ngài
như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,
như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.
Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ,
và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy
như trong ngày chiến thắng quân Mađian. (Is 9, 1-3)
Và, Isaia cũng loan báo:
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó".
Thế đấy! Cũng chính vì yêu thương, Đức Chúa sẽ thực hiện điều đó cho dân.
Lời hứa cứu độ mà Đức Chúa hứa ở vườn Địa Đàng, lời hứa mà Đức Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia loan báo đó được thực hiện vào thời Đức Trinh Nữ Maria.
Thánh sử Luca ghi lại thời gian, không gian rất rõ ràng: "Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-se từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ". (Lc 2, 1-7).
Hôm nay muôn dân đã được thấy Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ánh Sáng của Thiên Chúa không như ánh sáng của thế gian. Ánh Sáng của Thiên Chúa đến nhưng rồi ta lại bắt gặp những con người hết sức đơn sơ nghèo hèn đến gặp Ánh Sáng chính là những mục đồng. Những mục đồng chăn chiên, chúng ta biết rằng cuộc sống và đời của họ như thế nào. Nay đây mai đó, chẳng có gì là ổn định, chẳng có gì là bảo đảm cho cuộc sống của họ cả và rồi nghe tiếng của thiên thần, họ đã đến và tìm gặp Ánh Sáng của Thiên Chúa.
Ánh Sáng của Thiên Chúa đã đến trần gian này hơn hai ngàn năm rồi nhưng Ánh sáng đó vẫn bị khước từ như những chủ quán trọ ngày xưa, như những người Biệt Phái và Luật Sĩ ngày xưa. Họ là những người giữ đạo rất tốt và họ cũng đang mong chờ Đấng Mêsia đến với đời họ nhưng rồi họ không tìm gặp được Đấng mà họ mong đợi bởi lẽ suy nghĩ của họ khác, cái nhìn của họ khác và cung cách sống của họ khác.
Những mục đồng đơn sơ nghèo hèn đã đến và đã thờ lạy Ánh Sáng. Không chỉ dừng ở chỗ đến thờ lạy mà các mục đồng cũng đã đi loan báo tin vui Đấng Cứu Độ đã đến trần gian. Lời loan báo cứu độ có đó nhưng rồi mấy ai đón nhận lời đó.
Thánh Gioan đã nhắc nhớ sự khước từ của lòng người:
Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga 1, 9-12)
Ai tin và đón nhận Ánh Sáng vào trong đời mình sẽ được trở nên con Thiên Chúa
Khi Ánh Sáng xuống trần gian, ta thấy muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương." Thiên Chúa đã gửi Ánh Sáng xuống trần gian để mang ơn cứu độ đến cho muôn người rồi nhưng liệu rằng người ta có đón nhận Ánh Sáng đó hay không mà thôi.
Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh không phải là mừng một biến cố, mừng một kỷ niệm để rồi tổ chức lễ nghi linh đình và tiệc tùng hoành tráng. Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh để nhắc nhớ ta rằng Ánh Sáng đã đến thế gian thật rồi. Hãy mở lòng ra đón nhận Ánh Sáng đó vào trong cuộc đời chúng ta.
Tâm tình Thánh Phaolô trong thư gửi cho Titô thật hay: Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này
Để mừng Đại Lễ Giáng Sinh thật ý nghĩa, chắc có lẽ chúng ta cũng phải nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày bớt đi lòng đam mê trần tục, sống chừng mực và công chính. Chỉ có như thế Ân Sủng của Ánh Sáng mà Thiên Chúa trao ban mới có thể đến và ở lại trong cuộc đời của ta được.
37. Ba quả táo--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
LỄ GIÁNG SINH
Một bạn giáo lý viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị khuyết mất một góc? Tôi lên google tìm câu trả lời và thú vị biết thêm mấy quả táo đặc biệt nữa.
Trong lịch sử nhân loại có ba quả táo nổi tiếng liên quan đến đời sống con người. Đó là quả táo của bà Evà trong trình thuật sách Sáng thế, quả táo của Newton trong định luật vạn vật hấp dẫn và quả táo của hãng Apple qua ứng dụng ipad iphone không ngừng cải tiến.
1. Quả táo Newton
Isaac Newton (1642-1727) là nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lý học cổ điển". Ông đã khám phá ra "Nguyên lý vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ.
Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống "bịch" một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nhìn quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đã cho ông một gợi ý làm ông nghĩ miên man.Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời chứ? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đá đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?
Sau này Newton nêu ra: mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau. Vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.
Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của trái đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất? Vì mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời thì trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.
Vào buổi tối khi nhìn lên bầu trời thấy vô vàn những vì sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật "Vạn vật hấp dẫn" nổi tiếng của Newton.
2. Quả táo Steve Jobs
Apple Inc là tập đoàn công nghệ máy tính của Hoa Kỳ.Theo số liệu khảo sát đầu năm 2013 của IDC, Apple đã trở thành hãng điện thoại lớn thứ nhất thế giới, đứng trước Nokia và Samsung. Hàng của Apple nổi tiếng là đẹp, vừa toát lên vẻ hiện đại, kỹ nghệ cao, vừa tiện dụng. Logo đầu tiên của hãng do Steve and Wayne thiết kế năm 1976 vẽ hình nhà vật lý Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo và có dòng chữ Apple Computer Co quấn quanh.Sau đó, logo đã được thay đổi bởi nhà thiết kế Rob Janoff với một quả táo màu cầu vồng (vì nó có nhiều màu sắc) và bị cắn một bên phải được cho là để kỷ niệm sự kiện khám phá lực hút trái đất và sự tán sắc ánh sáng của Isaac Newton.Qua vài năm, logo Apple xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau và đến giờ thì chỉ sử dụng màu trắng hoặc màu crôm bạc.Theo quan niệm của người phương Tây thì táo tượng trưng cho sức mạnh, sự khám phá và cái đẹp cao quý.Còn về chi tiết quả táo bị cắn mất một miếng phía bên phải cũng có một cách lý giải khác là xuất phát từ một quả táo nguyên vẹn, nhưng Steve Jobs cho là Apple chưa thực sự hoàn hảo, và ông luôn muốn đi tìm kiếm sự hoàn hảo, coi như là một thông điệp để nhắc nhở các nhân viên phải luôn sáng tạo.
3. Quả táo Evà
Sách Sáng Thế kể về công trình sáng tạo tốt đẹp, vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi. Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục: “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ‘sự biết tốt xấu’ ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” (St 2,16-17).
Ađam, Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eđen, ngang qua cây biết lành biết dữ. Không may gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật: Evà, Evà ơi, cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không? Evà phản kháng: không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi, Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào: “Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái quả táo ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” (St 3, 4-5).Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của quả táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” (St 3,6). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Còn Ađam thì sao? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu: ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh; Ađam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng…“Và ông đã ăn” (St 3,6). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Ađam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Ađam ơi!
Nguyên Tổ cắn vào quả táo “Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” (St 3,7). Kể từ đó Địa Đàng đóng ngõ cài then. Xuân Địa Đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh Thánh viết về một nổi đớn đau làm sao: “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” (St 3,18-19).
4. Giáng sinh đất trời giao duyên
Trong ba quả táo đó thì quả táo của bà Evà có tầm vóc và mức độ ảnh hưởng sâu rộng hơn cả, không chỉ ghi dấu trên một thế hệ mà còn “gây hậu quả nghiêm trọng” đến sự tồn vong của cả nhân loại gọi là “Tội Tổ Tông”.
Nhưng cũng từ ngày quả táo Eva nhiễm nộc độc Satan, nhân loại lại được nghe vang lên lời hứa của Thiên Chúa: một người thuộc dòng giống người nữ sẽ đến giải cứu “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" (St 3,15). Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự dữ.Người hứa sẽ thực hiện cứu độ con người và nhân loại. Niềm tin đó đi liền với niềm hy vọng. Nên từ đó, lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời”.
Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa vào đời nối lại tình người với tình thánh, làm nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và nối kết con người với nhau. Bởi vậy, Mầu nhiệm Nhập Thể chính là Mầu nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban chính Con Một của mình đến trần gian làm người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, để đem ơn bình an cho con người.Thánh Luca ghi lại dấu chỉ để nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa, đó là “một Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Dấu chỉ quá bình thường, chẳng có gì đặc biệt.
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi Hài Nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang…. Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Dấu chỉ của tình yêu nằm nơi sự đơn sơ của tấm khăn bọc Hài Nhi, đó là sự chân tình không lừa lọc giả dối.Dấu chỉ của tình yêu ở nơi sự nghèo hèn của máng cỏ, đó là sự phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa không cậy dựa vào vật chất thế gian.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban cho mỗi người chan chứa ân sủng và bình an của Tình Yêu Thiên Chúa.
38. Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người?--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Phanxicô Assissi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự hỏi: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thốt lên lời thán phục: “Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể yêu mến Người”.
Tất cả ý nghĩa của lễ Giáng Sinh đều xoay quanh một đứa trẻ. Hài Nhi ấy là Thiên Chúa đã thật sự làm người, đã thật sự sinh ra trong hình hài một đứa trẻ, với cha mẹ là Giuse và Maria.Và đó là Tin Mừng mà thiên sứ đã trao cho những người chăn chiên: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,10-11). Tin Mừng sứ thần loan báo cho các mục đồng tại làng Bêlem năm xưa thực sự là Tin Mừng cho nhân loại mọi nơi và mọi thời.
Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người.Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã hiện thân nơi một đứa trẻ bé bỏng mong manh, bọc tã, nằm trong máng cỏ.
Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người?
Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa (năm 325) đã trả lời: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã đưa ra 4 lý do: là để cứu độ chúng ta, là để giúp chúng ta nhận ra tình thương của Chúa, là để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta và là để chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLCG số 457-460).
1. Thiên Chúa sinh xuống làm người là để cứu độ loài người.
Các thiên thần báo tin cho các mục đồng tại Bêlem: “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, cũng là tin mừng cho cả toàn dân: hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít” (Lc 2,10-11). Thánh Gioan tông đồ viết: “Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng Cứu Độ thế gian” (1Ga 4,14).
Từ nay,Thiên Chúa không còn đến với con người qua trung gian mà là Con Một được tặng ban cho nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là lời hứa mà bằng chính nghĩa cử cao đẹp Ngôi Lời nhập thể. Từ nay, lời hứa cứu độ đã được thực hiện nơi Một Hài Nhi đã sinh ra. Lời hứa ngọt ngào từ thưở địa đàng khi Nguyên Tổ sa ngã đánh rơi khỏi tầm tay trái táo hạnh phúc (St 3,15). Rồi trải qua hàng ngàn năm bằng sự loan báo của các Ngôn sứ, Thiên Chúa vẫn mãi lời hứa tình yêu cứu độ.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
2. Thiên Chúa sinh xuống làm người để giúp con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8).Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai thấy được và do đó con người cũng khó nhận ra tình yêu của Người. Vì thế thánh Gioan viết tiếp: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).
Nếu tội tổ tông gây tác hại là làm mất tình trạng ơn phúc và để cho tội lỗi lẻn vào thế giới, từ đó đau khổ và sự chết mặc sức hoành hành. Hài Nhi Giêsu sinh đến trong xác phàm lại là khởi đầu một mùa giải thoát. Hết rồi đêm tối vì Hài Nhi là ánh sáng. Hết rồi lỗi tội vì Hài Nhi là thánh ân. Hết rồi chết chóc vì Hài Nhi là nguồn sống. Hết rồi sầu muộn vì Hài Nhi là thiên đàng. Như vậy, khi xuống thế, Thiên Chúa đã đem thiên đàng vào cõi trần gian, để mối tình trời đất bị cắt đứt bao đời lại được kết nối một cách mầu nhiệm cho vinh danh trời cao và cho an bình dưới thế.
Tình yêu Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14,10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.
Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài đã luôn gần gũi với những người nghèo hèn trong xã hội, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của họ và ưu tiên rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người bé nhỏ, những người bị bỏ rơi.Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó, sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Giakêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…Ngài chính là Thiên Chúa yêu thương.
3. Thiên Chúa sinh xuống làm người để trở thành mẫu mực thánh thiện cho con người.
“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha“. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha nhân hậu giàu lòng xót thương.
Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chúa Giêsu đã dạy con người phải sống thánh thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Chúa Giêsu, một con người thánh thiện không có một dấu vết tội lỗi nào. Chính Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống đã làm người, giống chúng ta mọi phần, chỉ trừ tội lỗi. (Dt 4,15). Ngài dạy cho nhân loại con đường thánh thiện, và nêu gương thánh thiện. Vì thế, Ngài đã có thể nói: “Hãy học cùng tôi” (Mt 11,29). Khuôn mẫu thánh thiện mà Ngài để lại cho chúng ta được biểu lộ một cách rõ ràng qua tình yêu của Ngài đối với chúng ta, vì tình yêu là cốt lõi của lề luật. Vì thế Ngài dạy rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nơi Thiên Chúa, tình yêu và sự thánh thiện là một, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và đồng thời cũng là Đấng Thánh.
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11,3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu.
4. Thiên Chúa sinh xuống làm người để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thánh Irénée đã nói về Đức Kitô rằng: “Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người”. Đó không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong Con Thiên Chúa nhập thể sao? Về sau, Clément (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) đã làm biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, để con người trở thành con Thiên Chúa, với món quà tuyệt vời: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” ( 2Pr 1,4).
Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại.Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Ngôi Lời làm người mang lấy bản tính nhân loại và làm cho bản tính ấy được thông phần bản tính Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã tự nguyện sinh ra làm con loài người để loài người trở thành con Thiên Chúa nhờ kết hợp với Ngài. Từ khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa đã tự đồng hóa mình với mỗi người trong nhân loại. Từ đây, phẩm giá của con người được nhìn nhận không chỉ vì họ là con người vượt trên mọi loài, nhưng còn vì họ là con Thiên Chúa.
Tin Mừng Giáng Sinh nâng cao phẩm giá con người ngay từ khi được cưu mang trong dạ mẹ và vừa mới sinh ra. Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta sẽ học được nhiều bài học về Sự Thật, Tự Do, Công Lý, Hoà Bình và Tình Thương. Hài Nhi Giêsu đã mở ra triều đại của Công Lý Tình Thương trên “nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,5-6). Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.
Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi Nhà Thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
39. Chúa tìm gì nơi ta?--Lc 2, 1-14--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thánh Gioan đã nói: "Thiên Chúa yêu thế gian đã tặng ban Con Một của Ngài cho thế gian". Người Con của Lời hứa. Người Con mà cả dọc dài lịch sử dân thánh luôn khắc khoải mong chờ. Ngài chính là Thái Tử Bình An. Ngài đến để ban bình an xuống cho nhân trần như lời các thiên thần ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người lòng ngay".
Vâng thưa anh chị em, món quà mà nhân loại luôn khao khát mong chờ không phải là cơm áo gạo tiền mà là niềm vui của bình an hoan lạc. Có tiền mà sống trong loạn lạc, có lẽ cũng chẳng có bụng dạ nào để no say hưởng thụ. Có tiền mà không có lương tâm an bình có lẽ cũng chẳng có niềm vui và hạnh phúc từ trong sâu thẳm tâm hồn.
Cách đây hơn 20 năm vào mùa Giáng sinh năm 1989, trong cuộc họp thượng đỉnh tại đảo Malta, Tổng thống Bush cha đã tặng chủ tịch Gorbachov của liên bang Xô Viết một viên gạch. Viên gạch này mà một thời nó đã góp phần làm nên một bức tường "ô nhục Bá Linh". Một bức tường ngăn cách tình người. Tình người trong một đất nước, một dân tộc. Một sự ngăn cách tưởng chừng như vô bờ, thế mà hôm nay bức tường này đã được đập bỏ. Tổng thống Bush tặng viên gạch này như dấu chỉ một khao khát hoà bình. Một khao khát sống liên đới thuận hoà để con người cùng nhau xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng.
Thiên Chúa cũng đã tặng ban cho chúng ta không phải là một viên gạch vô tri, vô giác mà là chính Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ngài đã mang lấy thân phận con người để đưa con người trở về với Thiên Chúa. Con người là hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải sống đúng với phẩm giá làm người của mình. Ngài đến để ban bình an, nhưng Ngài cũng đòi con người hợp tác để bình an của Chúa được trải rộng khắp muôn nơi. Dấu chỉ của sự hợp tác tích cực mà Chúa muốn con người là: hãy tặng lại cho Ngài chính hình ảnh trong sáng, ngay thẳng, đầy yêu thương mà Ngài đã tạo dựng con người ngay từ ban đầu.
Trong kỳ họp Apec tổ chức tại Việt Nam, các thành viên đều nhận được một món quà là chính hình ảnh của mình được các nghệ nhân Việt Nam điêu khắc trên đá. Có lẽ đó là món quà qúy giá mà các nguyên thủ các quốc gia đã nhận được từ các nghệ nhân Việt Nam. Họ đã đến Việt Nam và họ đã nhận lại được hình ảnh của họ từ những con người rất hiếu khách của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc luôn ưa chuộng hoà bình, luôn lấy "dĩ hoà vi qúy" làm nền tảng cho mọi giao tiếp hằng ngày. Một dân tộc luôn đề cao tình làng nghĩa xóm đến mức độ "tối lửa tắt đèn có nhau", để rổi sống liên đới chia sẻ với nhau trong tình thần "chị ngã em nâng" và "lá lành đúm lá rách". Nhất là luôn sống tha thứ cho nhau để có được một cuộc sống vui tươi an bình, vì "một điều nhịn chín điều lành". Đó cũng là những hình ảnh rất đẹp mà các nguyên thủ các quốc gia đến họp hội nghị Apec đã thấy nơi nền văn hoá Việt Nam. Thế nhưng, thử hỏi lại lòng mình, chúng ta đã thực sự sống điều đó để giữ mãi bản sắc tươi đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam? Với bốn ngàn năm văn hiến, chúng ta đã thực sự sống những nét cao đẹp của văn hoá Việt Nam mà cha ông đã để lại cho chúng ta hay chưa? Hay chúng ta đang quên dần, và cố đuổi theo những trào lưu hưởng thụ, thoái hoá đạo đức, băng hoại luân lý và xa rời tình người?
Với tư cách là người kytô hữu, là những con người luôn ý thức mình mang hình ảnh Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta còn giữ sự tinh tuyền của Ngài nơi tâm hồn chúng ta hay không? Hay hình ảnh của Ngài đã bị hoen ố bởi thói hư tật xấu của chúng ta? Có lẽ trong giờ phút này, Thiên Chúa cũng đang cần chúng ta tặng lại cho Ngài hình ảnh tinh tuyền ban đầu của tạo dựng. Một hình ảnh trong sáng không bỉ hoen ố bởi đam mê nhục dục, bởi tham vọng thống trị anh em và tham lam vô độ. Một hình ảnh chân thật không quanh co, giả dối đến nham hiểm hại người hại đời. Một hình ảnh đầy tình yêu không bị những toan tính trục lợi, những bất công lừa đảo, và lỗi công bình bác ái với anh em. Tất cả những cách sống sai lệch với hình ảnh ban đầu của tạo dựng, đã làm mờ nhạt đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi cuộc sống thường nhật của chúng ta. Và là bức tường ngăn trở cho nước Chúa trị đến, cho an bình của Chúa trải rộng khắp muôn nơi.
Mỗi người chúng ta được mời gọi sống thánh giữa đời, được cụ thể qua việc tuân giữ hai giới răn quan trọng nhất đó là Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự nghĩa là phải để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc sống. Đừng vì những đam mê danh lợi thú mà quên đi giá trị đích thực của phẩm giá con người là hình ảnh của Chúa. Con người được gọi là "nhân linh ư vạn vật", nghĩa là con người hơn muôn loài vật. Không loài nào sánh bằng con người. Không loài nào xứng đáng để con người tôn thờ. Do vậy, chỉ có Thiên Chúa mới đáng cho chúng ta tôn thờ. Tiền bạc, địa vị, sắc dục chỉ là thọ tạo thấp bé và rất tầm thường so với con người. Vì thế đừng vì nó mà bỏ quên Chúa. Đừng vì nó mà xúc phạm đến anh em. Đồng thời, mến Chúa phải yêu mến anh em. Yêu mến không chỉ trên đầu môi chóp lữơi, nhưng bằng những hành động cụ thể: đó là kính trọng anh em, là sống công bình bác ái với anh em, và đỉnh cao của tình yêu là sự dấn thân phục vụ anh em trong khiêm tốn và chân thành.
Lạy Chúa, Chúa đã sinh ra trong thân phận con người. Chúa đã tự đồng hoá mình với những người khổ đau. Xin cho chúng con luôn nhận ra Chúa trong anh em để chúng con luôn đối xử với nhau trong công bình, bác ái, trong kính trọng và yêu thương. Xin giúp chúng con luôn biết gìn giữ hình ảnh tinh tuyền của Chúa nơi chúng con. Xin gìn giữ linh hồn chúng con khỏi những đam mê bất chính làm hoen mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con. Amen.
40. Lòng nhân ái thực sự--Lc 2, 1-14--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một bà mẹ kể rằng: Một cơn bão vừa tàn phá thị trấn nhỏ gần thành phố của chúng tôi làm nhiều gia đình phải sống trong cảnh khốn khó. Tất cả các tờ báo địa phương đều đăng hình ảnh và những câu chuyện thương tâm về một số gia đình mất mát nhiều nhất. Có một bức ảnh làm tôi xúc động. Một phụ nữ trẻ đứng trước ngôi nhà đổ nát của mình, gương mặt hằn sâu nỗi đau đớn. Đứng cạnh bà là một cậu bé chừng 7 hay 8 tuổi, mắt nhìn xuống. Đứa con gái nhỏ bám chặt quần mẹ, nhìn chằm chặp vào máy ảnh, mắt mở to vẻ bối rối và sợ hãi. Bài báo đi kèm cùng kêu gọi mọi người giúp đỡ những người trong gia đình đó. Tôi nhận thấy đây sẽ là một cơ hội tốt để dạy các con mình giúp đỡ những người kém may mắn hơn.
Tôi đưa tấm ảnh gia đình đó cho các con tôi xem, giải thích nỗi khổ của họ cho hai đứa con trai sinh đôi 7 tuổi và đứa con gái 3 tuổi. Tôi bảo chúng: "Chúng ta có quá nhiều trong khi những người này bây giờ không còn gì cả. Chúng ta hãy chia sẻ với họ những gì mình có". Tôi và hai con trai chất vào thùng cứu trợ nào đồ hộp và xà bông, mì gói... Tôi cũng khuyến khích chúng chọn ra một số đồ chơi mà chúng không chơi nữa. Đứng nhìn hai anh sắp xếp mọi thứ, con gái tôi có vẻ nghĩ ngợi. Tôi nói với con: "Mẹ sẽ giúp con tìm một thứ gì đó cho em bé trong ảnh".
Trong lúc hai anh mình đặt những món đồ chơi cũ chúng đã chọn vào thùng, con gái tôi đi vào, tay ôm chặt con búp bê cũ kỹ nhạt màu, tóc rối bù, nhưng là món đồ chơi nó yêu thích nhất. Nó ôm hôn con búp bê lần chót trước khi bỏ vào thùng. Tôi nói: "Con không cần phải cho nó, con thương nó lắm mà".
Con gái tôi gật đầu nghiêm trang: "Nó đem lại niềm vui cho con mẹ ạ, có lẽ nó cũng sẽ đem lại niềm vui cho bạn kia".
Khi bạn tặng hoa, bạn sẽ chọn một hông hoa đẹp nhất để tặng. Khi bạn chọn một tặng vật, bạn cũng gởi gắm một sứ điệp nào đó qua món quà. Người ta nói: "Vượt lên trên món quà là cả một tấm lòng". Quà tặng không dựa trên giá trị vật chất nhưng quan trọng ở tấm lòng người tặng. Thế nhưng, con người chúng ta thường dễ dàng đem cho những thứ mình bỏ đi, ít ai dám đem tặng những cái mình yêu thích nhất. Điều đó chưa hẳn phát xuất từ tấm lòng nhạy cảm trước nhu cầu tha nhân, mà thường là việc làm chiếu lệ cho qua. Lòng nhân ái thực sự là đem cho những gì mình yêu quý nhất. Sự chia sẻ chân thành là lòng mong muốn người khác cũng được vui tươi, được hạnh phúc như chính mình. Đó mới thực sự là nghĩa cử cao đẹp của người có tấm lòng quảng đại, vị tha.
Thiên Chúa cũng dành một món quà vô cùng quý giá cho con người, chính là cho Con Một Ngài giáng trần. Ngài là Emmanuel ở giữa nhân loại. Ngài là niềm vui cho những mảnh đời bất hạnh lầm than. Qua Ngôi Lời giáng thế, Thiên Chúa đã đi sâu vào kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể lau khô những giọt nước mắt lầm than cho những người nghèo khổ, cho những kẻ tật nguyền. Vâng, Chúa đã làm người nên Ngài có thể hiểu được nhu cầu của con người. Ngài có thể thông chia những vui buồn cùng con người. Chính Ngài đã đi cùng con người qua những thăng trầm của đời người. Chính Ngài cũng muốn nếm cảm sự mỏng dòn của kiếp người vô thường: sinh - bệnh - lão - tử. Chính Ngài đã đi đến tột cùng của hiến dâng là dám chết cho người mình yêu.
Như vậy, sứ điệp của giáng sinh là trao ban, là chia sẻ, là bác ái cảm thông. Chúa giáng sinh là món quà quý báu mà Thiên Chúa Cha đã tặng ban cho trần gian. Đồng thời, khi chiêm ngắm Ngôi Hai Thiên Chúa trong hình hài một hài nhi yếu đuối, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy dành cho Ngài một chút chia sẻ tình thương. Ngài cũng cần chúng ta thi thố tình thương cho Ngài. Ngài đã sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã và đang thiếu thốn tư bề. Ngài đang cần chúng ta làm điều gì đó cho Ngài. Như các mục đồng năm xưa đã dâng cho Hài Nhi Giêsu những con lừa, con bò, những cọng rơm để sưởi ấm cho Chúa. Hôm nay, Chúa cũng đang đồng hoá mình trong thân phận những con người lầm than, cơ hàn. Ngài đang cần chúng ta chia sẻ một chút tình người, một chút lòng bác ái, một chút tinh thần dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau thể xác và tinh thần trên những con người bất hạnh mà chúng ta gặp trên mọi nẻo đường. Có thể chúng ta đang mang trong mình những dự tính thật lớn lao để phục vụ anh em, nhưng thực ra, Thiên Chúa đang cần chúng ta phục vụ Ngài từ những việc rất bình thường trong đời sống hằng ngày. Vâng, một cái nhìn cảm thông và một nụ cười khích lệ tưởng như nhỏ nhoi, chẳng đáng kể, nhưng điều đó lại có thể xua tan những mây mù giữa trần đời và kiến tạo mùa xuân yêu thương cho trần gian. Một đồng tiền lẻ, một chén gạo tình thương xem ra thật nhỏ bé nhưng có thể làm ấm lòng bao người đang đói rách tư bề.
Vâng, Chúa giáng sinh đang tiếp tục giáng sinh trong trần thế qua những thân phận bất hạnh, yếu đuối, bị bỏ rơi. Ngài đang cần chúng ta đến với Ngài trong yêu mến và phục vụ chân thành như các mục đồng năm xưa. Đây chính là lời mời gọi thiết thực nhất từ hang đá Belem. Chúa Giáng sinh đang cần bạn và tôi không chỉ đến thờ lạy Ngài mà còn dâng tặng cho Ngài một chút tình thương để sưởi ấm Ngài trong đêm thâu giá lạnh.
Ước gì mỗi người chúng ta khi mừng Chúa Giáng sinh chúng ta cũng biết nghĩ đến những người nghèo chung quanh chúng ta. Xin đừng lạnh lùng, vô cảm trước những bất hạnh của tha nhân. Ước gì tình người chúng ta được liên đới với nhau bằng sợi dây yêu thương sẽ làm cho việc kỷ niệm Con Chúa Giáng sinh thêm nồng ấm tình thương. Amen.
41. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Lễ Noel là lễ của chia sẻ, lễ của bác ái. Chia sẻ không chỉ cơm bánh, gạo tiền cho anh em nghèo khó mà còn chia sẻ tình người cho anh em đang sống chung quanh chúng ta. Vì con người sống cần cơm bánh để lớn lên và cũng rất cần tình thương để tồn tại. Chính vì lẽ đó, mà khi nhập thể làm người Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong cung điện nguy nga, trong hoàng thân quốc thích. Ngài đã sinh ra trong cơ hàn, trong một gia đình lao động bình thường giữa chúng sinh. Ngài còn đồng hoá mình với những con người nghèo đói cơ hàn, những con người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Chính Ngài đã từng nói rằng: "Hỡi những kẻ được cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các ngươi, vì khi ta đói, ta khát, ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp đón ân cần". Ngài đã đồng hoá mình với những người khổ đau để con người biết vì Ngài mà biết thương nhau, biết vì Ngài mà phục vụ lẫn nhau, biết vì Ngài mà hy sinh cho nhau, mà đón nhận lẫn nhau trong yêu thương và tha thứ.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người bị loại trừ, vẫn còn đó những ánh mắt thiếu cảm thông, những cái nhìn tẩy chay của con người dành cho nhau. Xem ra Thiên Chúa vẫn bị khước từ. Ai cũng biết rằng Thiên Chúa là Emanuel đang ở cùng chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cố tình loại trừ lẫn nhau, vẫn đang tìm cách xua đuổi anh em của mình một cách bất khoan dung. Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến Chúa, thế nhưng, có mấy ai đã vì Chúa mà nhịn nhục lẫn nhau, đã vì Chúa mà sống khoan dung, tha thứ cho nhau. Đôi khi, chính cách đối xử bất khoan dung đó đã khiến anh em không có cơ hội để sửa đổi và làm lại cuộc đời.
Người ta kể rằng: Trong một xóm đạo nhỏ ở một miền quê hẻo lánh, có một thanh niên nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp được người đời đặt cho biệt hiệu: "Hiền bụi đời". Với thành tích, trộm cắp và gây mất trật tự thôn xóm, anh đã bị tập trung cải tạo. Thời gian anh cải tạo là thời gian xóm làng bình an. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi không có anh. Cho đến khi nghe tin Hiền bụi đời sắp trở về xóm nhỏ này sau thời gian dài trong trại giam. Người dân xem ra chẳng vui mừng mà còn lo sợ. Lâu lâu người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục cửa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo để chống trộm. Hôm ấy, hắn trở với khuân mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới để cải tà quy chính, một cuộc sống lương thiện như bao người khác. Đối với hắn, dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi của những người dân trong xóm. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười ngượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: "Vì muốn trả thù đời".
Vâng, Hiền bụi đời đã tiếp tục cuộc sống trộm cắp vì sự loại trừ của đồng loại. Anh không được đón nhận trong cuộc đoàn. Anh bị khước từ bởi lầm lỗi quá khứ. Chính thái độ bất khoan dung của thôn xóm đã tạo nên một Hiền bụi đời để trả thù đời.
Hôm nay ngày lễ giáng sinh, là dịp để chúng ta nhắc lại với nhau, Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đang cần chúng ta yêu thương. Ngài đang cần chúng ta giúp đỡ. Ngài đang cần chúng ta đón nhân. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài cái nôi đón nhận trong sâu thẳm lòng mình. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài những cọng rơm hy sinh của nhịn nhục, của bác ái vị tha làm ấm áp lòng Ngài. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài hơi ấm của tình thương chia sẻ với tấm lòng quảng đại, nhiệt thành như các mục đồng năm xưa.
Nguyện xin Đấng Emanuel chúc lành cho những nghĩa cử yêu thương cùa chúng ta. Nguyện xin Ngài đón nhận những hy sinh nhịn nhục và bác ái vị tha của chúng ta dành cho nhau như là dành cho chính Ngài. Và cầu chúc cho mỗi người chúng ta biết đón nhận nhau như là đón nhận Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta để nhờ đó mà chúng ta biết trao cho nhau những nghĩa cử ấm áp tình người và chan hoà tình nhân ái bao dung. Amen.
42. Chúa giáng sinh giữa những người khổ đau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đôi khi nghe bài hát “Điệu lý qua cầu ”tôi vẫn tự hỏi liệu có ai dám bỏ phố thị về quê chung sống theo người tình trăm năm hay không? Liệu dòng sông thơ mộng với cù lao xanh có mang lại hạnh phúc khi phải sống thiếu thốn dưới mái tranh nghèo và chiếc xuồng ba lá làm phương tiện sinh sống mà bài hát đã diễn tả thật rộn ràng hấp dẫn hay không?
Bằng lòng đi em về với quê anh
Một cù lao xanh một dòng sông xanh
Một vườn cây xanh hoa trái đơm hương
Thuyền ai qua sông dòng hò mênh mông.
Bằng lòng đi em anh đón qua cầu
Mùa mưa cầu tre dẫu khó đưa dâu
Bằng lòng theo anh dưới mái tranh nghèo
Về đây người quê chỉ có tấm lòng
Có chiếc xuồng ba lá để yêu em
Ôi đóa hoa tím trôi líu riu
Dòng sông nước chảy líu riu
Anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu nên anh thương ơ…ơ…
Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc
Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Ôi đoá hoa …..anh thương ơ…ơ…
Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc
Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Hình như tình yêu của đôi uyên uơng này có gì khang khác với các đôi trai gái thời nay. Bởi vì khi yêu ai thì người ta muốn được giàu sang và có mọi phương tiện hiện đại, nhưng với anh này thì anh chỉ có mái tranh nghèo với tình yêu bằng cả tấm lòng. Và, người yêu của anh chỉ nhỏ xíu bên cạnh cái dòng sông nước chảy liu riu thôi!
Cái nhìn của anh, quan niệm của anh rất khác so với nhiều người, nhưng quan niệm tình yêu ấy lại rất đúng vớicái nhìn, quan niệm của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa yêu con người và tìm đến với con người nơi những mảnh đời khổ đau. Ngài đã bỏ tất cả để đến cư ngụ giữa những người mình yêu dầu chỉ là dưới mái tranh nghèo nơi cánh đồng hoang Belem và lớn lên sinh sống bên mái tranh nghèo miền thôn dã Nagiaret.
Đêm nay chúng ta cùng với muôn thiên thần hát lên thật to rằng: “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi khó nghèo”. Đây là niềm vui và hạnh phúc cho những người thành tâm thiện chí xây dựng hoà bình, và đặc biệt là những gia đình đang khổ đau. Vì từ nay Con Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta. Từ nay Ngài đi vào cuộc đời để hiểu và đồng cảm những khó khăn của chúng ta.
Đây là cái nhìn của Thiên Chúa khác với loài người chúng ta, vì chính Ngài cũng từng nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi ”(Is 55,8). Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt bởi cách hàng động của Chúa không? NhưngThiên Chúa là vậy! Ngài giáng trần không phải vì tìm kiếm sự giầu sang phú quý. Ngài càng không tìm đến những chốn phố thị nguy nga tráng lệ. Ngài đã đến để cư ngụ giữa những người khổ đau đang thất vọng vì cuộc sống có quá nhiều vất vả lầm than.
Điều quan yếu là Ngài đã tự nguyện đến và lưu lại nơi những người Ngài thương yêu đang còn đói nghèo, bất hạnh và khổ đau. Ngài mong tình yêu của Ngãi sẽ bồi đắp lại cho những bất hạnh của họ bằng chính tình yêu phục vụ của Ngài.
Năm nay với đường hướng đồng hành với gia đình khó khăn, giáo hội muốn nhắn nhủ các gia đình đang gặp những khó khăn hãy vui lên vì Chúa đang ở giữa anh chị em. Hãy tin tưởng và hân hoan vì Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt khổ đau cho anh chị em. Hãy tin tưởng vào tình thương của Ngài. Ngài sẽ đến và lưu lại nơi những mái tranh nghèo, nơi những con người lầm than bởi bệnh tật, bởi vất vả bôn ba với miếng cơm manh áo. Ngài sẽ đồng hành với anh chị em di dân đang lênh đênh nơi đất khách quê người.
Ước mong lời loan báo tin vui Chúa đã giáng sinh cho chúng ta được loan đi khởi đầu dành cho những mái tranh nghèo của các mục đồng hôm nay lại tiếp tục được loan báo đến cho những ai đang gặp bất hạnh hôm nay. Hãy vui lên vì Chúa đã giáng sinh cho chúng ta. Hãy vui lên vì Ngài là hoàng tử bình an, là ông vua thái bình sẽ mang lại niềm vui hạnh phúc cho chúng ta.
Cầu chúc cho mọi người một đêm giáng sinh an lành. Xin Chúa Hài đồng ngự đến từng mái nhà đơn sơ của chúng ta để chúc phúc và ban bình an cho những ai thành tâm đón nhận Ngài. Amen.
43. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta--Lc 2,1-14--Camille Gagnon
Đây là thời gian hoan lạc.
Từ vài tuần lễ nếu không phải là vài tháng chúng ta đã dự tính và tổ chức lễ Giáng Sinh: Chúng ta sẽ đi đến nhà ai, ai sẽ đến nhà chúng ta. Điều này đối với nhiều người là một mối bận tâm lớn, để sắp xếp mọi cuộc gặp gỡ và mọi lời mời. Thậm chí thời tiết cũng ảnh hưởng đến những lo toan của chúng ta: Có bão là các cha mẹ trẻ tuổi sẽ không lên đường được vì sẽ quá nguy hiểm cho trẻ thơ. Rồi những tuần sau, khi nhà sẽ đầy người, niềm vui sẽ lớn lên: “Ôi, tôi rất vui được gặp bạn!” – “Ôi, cuối cùng bạn đã đến rồi!” – “Thật mừng là bạn có thể đến được!”.
Ở đây, trong nhà thờ chúng ta có thể lập lại một lời gì giống như vậy trong suốt mùa Vọng: “Vì Ngài ở với chúng ta! Vì Chúa Giêsu ở với chúng ta”. Lời này đã trở thành khẩu hiệu cho việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh. Nhưng tối nay, những lời ngắn gọn này thốt ra như một tiếng kêu của con tim: “Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa ở với chúng con, chúng con cũng ở với Chúa. Nơi nhà Chúa, tối nay người ta đi viếng thăm nhau. Chúa đến nơi nhà chúng con và chúng con đi đến nhà Chúa! Con ở đây, vì Chúa cũng ở đây nữa!”.
Tiếp khách.
Thường lệ khi khách đến, người ta tiếp đón, hỏi han một chút. Người ta hỏi thăm có điều gì mới không và khi có một em bé cùng đi người ta quan tâm kỹ hơn, vuốt ve ân cần hơn. Tại sao chúng ta hết thảy không đón tiếp Chúa Giêsu như vậy?
Quả thật, chính với tư cách một hài nhi mà Ngài đến viếng thăm: “Đức Maria hạ sinh một con trai đầu lòng, quấn tã và đặt nằm trong máng cỏ”. Nhưng hài nhi này đến viếng thăm chúng ta với những nét đặc biệt, mang một niềm hy vọng rất đặc biệt, như bài đọc thứ nhất đã nói: Ngài sẽ là “cố vấn tuyệt vời”, Ngài sẽ là “quyền năng của Thiên Chúa”, “Nguồn sự sống đời đời”. Ngài sẽ là “một mầm mống bình an”. Một hài nhi như vậy thật là quí báu. Trong một gia đình, đây là một phúc lành thật sự làm cho mọi người vui mừng.
Không có Ngài, chẳng có gì như vậy được.
Chăm sóc một em bé vài tiếng đồng hồ, thời gian một cuộc viếng thăm ngắn ngủi, không đòi hỏi nhiều lắm. Nhưng khi người ta đến ở lâu, ở mãi, làm cho gia đình tăng số, lúc đó sự việc trở nên nghiêm túc hơn. Mỗi lần một người nào khác đến ở bên cạnh chúng ta, điều này sẽ mang lại bao nhiêu sự thay đổi! Phải thay đổi bao nhiêu thói quen.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón “bé Giêsu” có ích gì nếu ta không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói: “Thầy chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta”. Vì ta phải ý thức: chấp nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với người này hay người khác trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa. Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến một mình, Ngài kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này: “Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm điều đó?”. Anh chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự mang gương mặt của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường là những gương mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.
Đây là thời hoan lạc.
Nhưng đêm nay, chỉ với một con tim tươi trẻ mà chúng ta mới có thể nhận ra những lần Thiên Chúa đến viếng thăm trong cuộc đời chúng ta và để cho niềm hoan lạc bùng lên. Phải, ta có thể nói: Không có Ngài cuộc đời của chúng ta không thể như vậy được. Vì bao nhiêu niềm vui đã nhận được và cho đi, bao nhiêu tình nhân ái đã trổ hoa trong lòng con người vì Hài Nhi này. Hài Nhi mà người ta để cho lớn lên trong nội tâm mình.
Chính nhờ thế mà chúng ta có thể kêu lên: “Vì Ngài ở với chúng con, nên đây là thời gian hoan lạc!”.
44. Đánh mất cơ hội ngàn vàng--Lc 2, 1-14--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu chàng vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong dáng dấp người nông dân nghèo khổ. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.
* * *
Như vị hoàng tử hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta.
Trong khi chúng ta vẫn yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa uy linh trên cõi trời cao, chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững với những chi thể của Ngài, với hiện thân của Ngài đang sống quanh ta.
* * *
Thánh Phao-lô nhấn mạnh:
"Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6,15)
"Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận" (I Cr 12, 27)
"Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể." (I Cor 12, 13)
* * *
Chúa Giêsu cũng khẳng định rằng tha nhân là hiện thân của Ngài, vì thế ai khước từ bạc đãi người khác là bạc đãi Ngài, xúc phạm đến người khác là xúc phạm đến Ngài.
Khi Chúa Giêsu phục sinh khiển trách Sao-lô: "tại sao ngươi bắt bớ Ta"(Rm 9,4) đang khi Sao-lô chỉ đụng đến các tín hữu, là Ngài tự đồng hoá mình với họ. Ngài dạy: "Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta." (Mt 25, 40)
* * *
Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.
Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giêsu nên Mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ.
* * *
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta rất khó nhận ra đó là hiện thân của Thiên Chúa nên thường đối xử tệ bạc với tha nhân. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là "Người đã đến nhà của Người mà người nhà đã không tiếp nhận Người." (Gioan 1, 11)
* * *
Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên vì cô đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!
Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.
45. Chúa Giêsu là vầng đông toả sáng 2014--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Nhà văn Hans Christian Andersen, người Đan-mạch, có sáng tác một câu chuyện nổi tiếng khắp thế giới mang tựa đề “Cô gái bán diêm”.
Tôi xin lược thuật lại chuyện đó như sau:
Hôm ấy là buổi chiều rét buốt cuối năm. Tuyết không ngừng rơi và đêm đang xuống dần. Một bé gái bán diêm, đôi chân bầm tím vì lạnh, co ro lê bước giữa phố phường giá rét. Suốt ngày qua, em chẳng bán được hộp quẹt nào và cũng chẳng có ai bố thí cho em xu nào.
Em muốn rảo bước về nhà để tránh cơn lạnh cắt da, nhưng nếu chưa bán được hộp diêm nào, chưa được ai thí cho đồng nào mà lê gót về nhà thì sẽ bị mẹ mắng nhiếc thậm tệ và bị ba đánh đập tàn nhẫn.
Em cảm thấy đói khát và mệt lả. Mùi thơm từ những con ngỗng quay toả ra từ tiệm ăn đầu phố làm cho cơn đói dằn vặt em nhiều hơn.
Càng về đêm, trời càng thêm lạnh. Tuyết vẫn rơi đều trên phố và phủ trắng mái tóc vàng óng của em. Đôi chân tê cứng vì lạnh không cho phép em bước xa hơn. Em ngồi xuống, thu mình vào một góc hẹp giữa hai căn phố. Người qua lại chẳng ai để ý đến đứa bé cùng khốn như em.
Khao khát lớn nhất của em bây giờ là được sưởi ấm, nhưng em không dám phí phạm những que diêm. Mất một que diêm có nghĩa là mất đi ít bánh rất cần thiết cho gia đình. Em không được phí phạm. Nhưng rét quá. Hai bàn tay gần như chết cóng rồi. Em chỉ ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm thôi.
Một que diêm được bật lên. Ôi, giữa đêm tối rét buốt, ánh sáng que diêm nhỏ bé kia sao mà tuyệt vời đến thế! Với trí tưởng tưởng mạnh của trẻ thơ, em nhìn ánh lửa que diêm mà hình dung ra một lò sưởi ấm áp. Em định đưa chân ra để sưởi cho đôi chân bớt cóng thì ngọn lửa đã biến đi và lò sưởi cũng biến theo. Đánh bạo hy sinh thêm một que diêm nữa. Ánh sáng lại bùng lên. Ôi thích quá! ấm áp quá! Ánh lửa ấm áp gợi lên trong tâm trí em một phòng ăn ấm cúng, có khăn trải bàn trắng xóa, có bát đĩa bằng pha lê, và tuyệt vời hơn hết là trên bàn có một con ngỗng quay đang tỏa hương thơm phức. Suốt đời mình, chưa từng được thưởng thức một bữa ăn có thịt, nên giờ đây, đang lúc bụng đói cồn cào, em ao ước biết bao! Thế nhưng ánh lửa diêm lại lụi tàn, phòng ăn biến mất, em lại trở về với thực tại đen tối, đói khát và rét buốt.
Thế rồi, em bị cám dỗ bật thêm que diêm thứ ba. Dưới ánh sáng của que diêm này, tuyệt vời thay, em thấy hình ảnh bà ngoại hiện về. Mừng quá, em gào lên: “Bà ơi, chờ cháu với, cho cháu đi theo bà!” Em sợ diêm tắt và hình ảnh của bà cũng tắt theo, nên em bật thêm que diêm thứ tư, thứ năm và rồi bật hết những que diêm còn lại, bởi vì em khao khát có bà ở lại với mình. Trong trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ, em thấy bà rất đẹp, rất hiền. Bà ôm lấy em và cả hai bà cháu cùng bay lên cõi Thiên đàng, đến nơi chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn đói khát, chẳng còn đau thương.
Qua sáng hôm sau, khi trời hừng sáng, người qua lại phát hiện em bé ngồi trên vỉa hè, đầu nghiêng một bên, trên môi còn nở nụ cười nhưng em đã chết cóng tự bao giờ.
Thân phận đứa bé bán diêm trong câu chuyện trên đây cũng là thân phận của nhân loại hôm nay. Nhiều người trên thế giới hiện nay vẫn đang còn chịu đựng những hình thức đói, rét hết sức thảm hại. Đó là tình trạng đói tình thương, khát hoà bình, rét vì thiếu hơi ấm của tình người và lòng thương xót.
Vì thế, nhân loại đang cần được sưởi ấm bởi một “lò sưởi tình thương”. Tuy nhiên, tình thương trên thế giới nầy chỉ lập lòe như một ngọn lửa diêm, bùng lên giây lát rồi tắt ngúm, không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của bao người.
Nhân loại đang khát khao một lò sưởi ấm áp như em gái trong chuyện trên đây cần ánh lửa của một que diêm, để sưởi ấm cho đôi tay lạnh cóng của mình.
Phúc thay! Khát vọng của nhân loại đã được Thiên Chúa đáp ứng. Ngài rộng ban cho họ cả một Mặt Trời, cả một Vầng Đông rực rỡ để chiếu soi, để sưởi ấm, như lời Chúa trong Tin Mừng Luca:
“Thiên Chúa Ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ trời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và từ trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Lc 1, 78-79)
Chúa Giêsu chính là Vừng Đông rực rỡ, là Ánh Thái Dương mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người.
Vầng đông đem lại cho loài người hai lợi ích lớn: Một là soi sáng, hai là sưởi ấm cho toàn thể địa cầu.
Chúa Giêsu là Vầng Đông soi sáng tâm hồn
Như ánh sáng của mặt trời xua tan đêm tối che phủ địa cầu để vạn vật được tỏ bày, thì ánh sáng của Đức Giêsu, tức là Tin Mừng của Ngài, sẽ xoá tan bóng tối bao phủ lòng người, giúp mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha của mình, nhận biết Đức Kitô là Đấng cứu độ, nhận ra Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, nhận ra mình có một quê thật trên trời.
Chúa Giêsu Vầng Đông sưởi ấm địa cầu
Như ánh sáng của mặt trời sưởi ấm quả địa cầu này, giúp cho nó khỏi bị chết đông vì băng giá, thì Tin Mừng và quy luật yêu thương của Đức Kitô cũng làm cho mọi người biết nhận ra nhau là anh chị em một nhà, biết sống yêu thương đùm bọc nhau, nhờ đó, nhân loại được ấm lên bởi tình yêu thương huynh đệ.
Lạy Chúa Giêsu,
Trong đêm thánh nầy, đêm tưởng niệm biến cố Chúa là Vầng Đông từ trời đến chiếu soi tâm hồn nhân loại, chúng con cầu xin cho tất cả mọi người biết mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa, để ai nấy đều nhận ra một sự thật tuyệt vời, đó là Thiên Chúa là Cha thật của mình, nhận ra mỗi người chung quanh đều là anh em con cùng một Cha; nhờ đó, mọi người đều yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà; nhờ đó, tất cả đều được sưởi ấm bằng tình yêu thương; tất cả đều được no đầy hạnh phúc vì được làm con của Cha trên trời.
46. Loài người Chúa thương--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Khi hai người đang ở đó thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đạt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”. Sự kiện đơn sơ như thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như một biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai đã sớm nhận ra điều này: hài nhi mới sinh ra tại Bê-lem trong đơn nghèo lại đang làm đảo lộn cả một lịch sử bi tráng của toàn nhân loại. Sự kiện mang tính cách mạng này lại không phải là một chiến thắng vẻ vang, một cuộc lật đổ ngoạn mục, mà nhiều khi chỉ mang lại lo âu và sợ hãi, cũng không phải là hoàn tất một công trình hoành tráng vĩ đại đòi nhiều đóng góp khó nhọc và lao công. Một ‘Trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ’ lại là một ‘tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân’. Việc hạ sinh này tỏ lộ ‘vinh quang Thiên Chúa trên trời’, đồng thời cũng mang lại ‘bình an cho loài người Chúa thương dưới thế’. Có thể thế được chăng? Tin Mừng vĩ đại lại có thể đơn sơ đến như thế sao?
Thế đấy, cái đêm lễ hội phức tạp và công phu nhất trong năm (chỉ cần nhìn vào cách người ta trang hoàng đường phố cửa tiệm, dọn dẹp nhà cửa, trang trí nhà thờ, mua sắm quà cáp, nấu dọn yến tiệc cho ngày đại lễ) lại có một ý nghĩa, một nội dung quá ư giản dị và thuần khiết! Và để có thể khám phá ra sự đơn thuần này cần phải có được một đêm tĩnh mịch, đêm thầm lặng, đêm sâu lắng của cõi lòng (Silent Night). Vinh quang Thiên Chúa (Gloria Dei) không tỏ hiện trong hào quang sáng chói, không tiền hô hậu ủng trong tiếng nhạc tiếng sấm vang rền, không phô trương rầm rộ với binh hùng tướng mạnh. Vinh quang đó âm thầm xuất hiện giữa đêm đông tĩnh mịch, trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt sinh ra trong chuồng chiên bò hôi hám… Điều đó sẽ là hoàn toàn hợp lý khi nào người ta nếm cảm được cái thứ vinh quang của tình yêu thương, của lòng nhân ái; âm thầm và thinh lặng như người cha ngỗi bên giường bệnh của đứa con thoi thóp thở trong góc phòng của một bệnh viện vắng lạnh, hoặc bà vợ đứng sau chiếc xe lăn của người chồng tật nguyền trong xó nhà quạnh hưu… Lúc đó sự thinh lặng, nghèo nàn, tăm tối…, và chỉ có như thế, mới nói lên được tất cả, nói cách hùng hồn và diễn đạt đầy đủ nội dung sâu sắc nhất của tình yêu thương vĩ đại.
Và một khi loài người dưới thế, trong thinh lặng và sâu lắng. nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu mến xót thương, được ‘đầy ân sủng và Đức Chúa ở cùng’ (Lc 1:28), họ sẽ biết đón nhận biến cố này với tâm hồn an bình, với tâm tình mừng vui diễn tả qua lời ca ngợi tri ân. Đặc biệt Kitô hữu chúng ta, duy nhất giữa muôn người được nhận biết mình là phần tử của ‘loài người Chúa thương’, một loài người không chỉ gồm toàn những kẻ lương thiện tốt lành, mà bao gồm cả các tội nhân bất hảo. Qua kinh nghiệm bản thân, các Kitô hữu hiểu rõ mình thuộc về thứ loài người này trong cả diện tích cực lẫn tiêu cực của nó. Và khi cử hành sự kiện Hài Nhi giáng sinh tại Bê-lem, họ nhận mình chính là người đầu tiên tiếp lấy lòng xót thương thần linh. Tâm hồn họ lúc đó được tràn ngập thứ bình an độc nhất vô nhị, như chính Đức Giêsu sẽ khảng định sau này: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng” (Ga 14:27)… Đúng là “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Maria là người nữ đã chào đón ‘hài nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ’ trong thinh lặng và sâu lắng như thế. Sinh nở luôn kéo theo không biết bao nhiêu vấn đề thể lý, tinh thần, vật chất và giao tế… dễ làm xáo trộn bất cứ ai, nhất là các sản phụ đặc biệt trong hoàn cảnh xa nhà, giữa muôn vàn thiếu thốn và bị xua đuổi… Tác giả Lu-ca đã đề cao thái độ lạ lùng của người mẹ rất đặc biệt này: ‘Còn Maria thì hằng ghi nhờ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’. Maria đúng là Kitô hữu tiên khởi, tuyệt vời nhất ngay từ giờ phút đầu tiên khi ‘vinh quang Thiên Chúa’ xuất hiện nơi dương thế.
Là một Kitô hữu, hơn nữa là linh mục - tu sĩ, tôi không thể cử hành biến cố Hài Nhi giáng trần cách nào khác. Dầu có bận rộn tới mấy đi nữa (chưa bằng một phần nhỏ của Maria đâu!), tôi vẫn phải tự nhủ: để khám phá ra và ca tụng ‘Vinh quang Chúa’, và nhận biết mình là ‘loài người Chúa thương’, tôi tuyêt đối cần phải giữ cho tâm hồn mình được thinh lặng và sâu lắng trong suốt thời gian cử hành lễ Giáng Sinh này.
Lạy Hài Nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ, con muốn cùng Mẹ Maria thinh lặng chiêm ngắm tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa giáng trần. Xin cho con nhận ra tăm tối, giá lạnh và nghèo nàn… tại Bê-lem hôm đó lại chính là tiếng ca ngợi vinh quang tình yêu Thiên Chúa cách vang dội nhất. Đặc biệt xin cho con nghe được thấu hiểu lời tuyên bố long trọng về Hài Nhi giáng thế: “Thiên Chúa yêu thương loài người”, trong đó có chính con, và mọi người tội lỗi thấp hèn…, để con và ‘loài người Chúa thương’ được hưởng bình an trọn vẹn và cất lời ca ngợi Chúa không ngừng. Amen.
47. Verbum Dei, Lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta--Ga. 1,1-18--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Lời tựa sách Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một khảng định quan trọng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả”. Như vậy mọi hiểu biết về Thiên Chúa trước khi Đức Giêsu xuất hiện (Cựu Ước, mọi tôn giáo khác, cũng như các suy luận triết học) đều chỉ là phỏng định; hay nói cách khác là nhân cách hóa, có nghĩa là người ta dựa phần lớn vào tư duy con người, cho dầu có siêu việt đến đâu đi nữa. Nắm bắt và thấu triệt Thiên Chúa cách chính xác chỉ có thể có được qua sự xuất hiện của Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) trên trần gian. Vấn đề quan trọng ở đây là xác định được nội dung chính của Lời đó là gì?
Một số khảng định liên quan tới Lời - Verbum được nêu lên: ‘Lời đã có từ lúc khởi đầu… Lời vẫn hướng về Thiên Chúa… Lời là Thiên Chúa… Lời tạo thành vạn vật… Lời là sự sống, là ánh sáng… Lời hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha’. Tất cả các điều này chỉ qui vào một điểm duy nhất: ‘Lời phản ánh, và là hình ảnh trung thực nhất của Chúa Cha’ (xem Dt 1:3; Cl 1:15). Chính Đức Giêsu sau này cũng đã không ngừng lặp đi lặp lại ý tưởng này cho các môn đệ Người, “Không phải là đã có ai thấy được Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6:46), “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” (Ga 14:9)
Lời - Verbum đó ‘đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Như vậy là từ nay loài người có thể trực tiếp đọc được Lời, nói cách khác có thể trực tiếp thấy và biết Thiên Chúa. Để làm được điều này, cách duy nhất (và tuyệt đối không có bất cứ cách nào khác!) là chịu khó đọc Lời, là chiêm ngắm Lời - Giêsu từ lúc còn mang hình hài một ‘trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ’ (Lc 2:12), cho tới giờ phút cuối cùng của thập giá khi ‘một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra’ (Ga 19:34). Maria là người duy nhất đã có mặt ở cả hai biến cố đó, đã cẩn thận đọc Lời – Giêsu trong tư thế chiêm niệm thâm sâu nhất. Và rồi Mẹ đã hiểu: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ… hằng thương xót…nâng cao kẻ khiêm nhường… ban cho kẻ khó nghèo đầy dư…’ (Lc 1:47-55). Người môn đệ Gio-an cũng đã theo sát, gần gũi với Thầy Giêsu nên đã có thể đọc được: ‘Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.’ (1Ga 1:1) và lên tiếng làm chứng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4:8) ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…’ (Ga, 3:16); đồng thời quả quyết: “Lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật…” (Ga 19:35).
Chỉ những ai chân thành đọc Lời, chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu với tâm hồn sâu lắng nhất mới có cơ hội nhận biết Thiên Chúa cách đích thực; bằng không ý niệm họ có về Người sẽ mãi mãi chỉ là mơ hồ và méo mó. Thực tế cho thấy rất nhiều người vẫn tự cho là mình biết rõ, biết sâu về Thiên Chúa (các tư tế, Biệt Phái và luật sĩ thời Đức Giêsu ngày xưa, hoặc có thể cả các triết - thần học gia lỗi lạc ngày nay), thậm chí còn mở miệng giảng dạy cho người khác về Thiên Chúa thế này thế nọ, nhưng lại không cất công đọc Lời - Giêsu, không dành thời giờ chiêm ngắm, gần gũi và kết hiệp với Lời. Những người như thế thì làm sao có thể vỗ ngực cho là mình hiểu biết về Thiên Chúa? Phải chăng chính họ là các tiên tri giả mà Đức Giêsu đề cập tới (xem Mt 7:15-20). Chẳng trách, Thiên Chúa tình yêu tạo thành thế gian nhưng khi Lời tình yêu đến ‘thế gian lại không nhận biết Người’. Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh tình yêu của Người, nhưng khi Lời tình yêu ‘đến nhà mình, thì người nhà lại chẳng chịu đón nhận’. Họ quá quen với suy luận của tri thức rồi, quá quen với ý niệm về một Thiên Chúa cao sang quyền phép rồi, thì làm sao nhận ra ‘Hài Nhi bọc trong tã’ chính là Ngài?
Tôi vẫn được nhắc nhở phải chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh. Thế nhưng tôi trộm nghĩ, còn hơn cả mầu nhiệm Giáng Sinh như một biến cố, tôi cần chiêm ngưỡng Giêsu như một ‘người phàm và đang cư ngụ giữa chúng ta’ với mục đích để biết rõ hơn về Thiên Chúa tình yêu. Giáng Sinh chỉ là khởi điểm để tôi chuyển từ một hiểu biết Thiên Chúa từ suy luận triết thần, qua Thiên Chúa từ nhân của Đức Giêsu Kitô. Giáng Sinh phải bắt đầu nơi tôi một thứ linh đạo chiêm ngắm, đào sâu và kết hiệp với Lời - Giêsu để, như Maria, tôi đặt niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa, Đấng cứu độ và giầu lòng xót thương.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết thinh lặng quì bên máng cỏ và chiêm ngắm Hài Nhi giáng trần; cũng xin giúp con biết ngước nhìn lên Giêsu chết trên thập giá để nhận ra một Thiên Chúa cứu độ đầy từ tâm. Qua việc lần hạt con muốn được cùng Mẹ ghi nhớ mọi điều trong cuộc đời Giêsu và suy niệm trong lòng, hầu biến trọn niềm tin Kitô hữu thành một khám phá và minh chứng cho mọi người về ‘Thiên Chúa, đấng cứu độ… hằng xót thương’. Kể từ lễ Giáng Sinh này, xin Mẹ đưa tay dẫn dắt con tiến bước trên con đường chiêm niệm và sâu lắng, mà Mẹ đã từng bước đi. Amen.
48. Lễ Giáng Sinh 2013--Lm Giacobe Tạ Chúc
Kính thưa quý ông bà và anh chị em!
Chúng ta đang long trọng và vui sướng đứng trước một cử hành rất lớn của Giáo hội Công giáo hoàn vũ. Đêm nay, trên tòan thế giới, những anh chị em tin Thiên Chúa, lòng trào dâng những cảm xúc dạt dào vô tận, vì được chiêm ngắm Máng cỏ, Hang đá nơi mà Chùa Hài nhi cất tiếng khóc chào đời, bên cạnh Thánh Giuse, Mẹ Maria.
Thật vậy, mỗi dịp Giáng sinh về, chúng ta cầu chúc cho nhau được an lành hạnh phúc. Những cánh thiệp gởi trao nhau, những món quà cho những người già yếu, một chút bánh kẹo tượng trưng cho các trẻ em, qua hình ảnh ông già noel…Tất cả là biểu cảm của tình yêu thương. Quả vậy, Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã hạ mình, nhập thể trong thân xác một con người, một trăm phần trăm là người như chúng ta, để mời gọi anh chị em biết sống và yêu thương nhau. Chỉ tiếc rằng, thế giới hôm nay đang còn quá nhiều thù hận, ghen ghét và đố kỵ. Chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh vẫn xảy ra như cơm bữa. Tình người đang bị xơ cứng và nạn dửng dâng, vô cảm ngày một nhiều. Vừa qua, trên các trang báo Thanh niên, tuổi trẻ đều đồng loạt đưa tin: “Vụ hôi bia ở Biên hòa”, câu chuyện được kể rằng, ngày 4/12/2013 anh tài xế tên là Hồ Kim Hậu lái xe tải chở bia từ Sài gòn ra Huyện Bắc bình Bình thuận thì gặp nạn tại vòng xoay Tam hiệp Biên hòa. Thế là mọi người thay vì giúp tài xế thì họ xông vào hôi của, chở bia đem về nhà mình. Thật đau lòng cho con người Việt Nam ngày hôm nay, và cũng thật vô cùng xấu hổ khi tình yêu thương đồng loại đang ngày một vắng bóng. Chúa Hài nhi mời gọi con người nhìn nhận nhau là anh chị em có cùng Cha chung trên trời. Mừng Chúa Giáng sinh là thông điệp để chúng ta biết bảo vệ sự sống bảo vệ và chăm sóc các trẻ em. Cũng còn đó biết bao nhiêu trẻ thơ không được nhìn nhận và giúp đỡ. Những bào thai vô tội bị bứng ra khỏi lòng mẹ khi chưa kịp cất tiếng khóc chào đời. Những em bé bị chính cha mẹ, người thân, những bảo mẫu hành hạ và giết chết cũng vẫn thường xảy ra. Chúa Hài Nhi Giê-su nhắc nhở mỗi người sứ điệp bảo vệ chân lý chống lại những bất công bạo tàn.
Anh chị em thân mến! năm 2014 sắp đến, năm Phúc âm hóa gia đình, hơn bao giờ hết mẫu gương gia đình Chúa Hài Đồng vẫn là một tấm gương lớn cho chúng ta noi theo và học hỏi. Sống trong một cuộc sống biến động và đổi thay, những bực làm cha mẹ phải biết cho con bú sữa đức tin, dòng sữa ngọt ngào là ân sủng của Thiên Chúa, chứ không chỉ sữa của người mẹ, hay các loại sữa được con người chế biến. Mừng Chúa Giáng sinh anh chị em hãy sống thật tình của lòng yêu thương, sự tha thứ và tinh thần trách nhiệm của những người con cái Chúa. Về trong gia đình, cha mẹ vợ chồng con cái hãy dành cho nhau những lời nói, cử chỉ và tình yêu mà chúng ta đón nhận được từ chính Chúa Hài Đồng. Cầu chúc cho anh chị em tin tưởng và nhận được ơn phúc lành từ Thiên Chúa chúng ta qua con một rất yêu dấu của Ngài là trẻ thơ Giê-su. Anh chị em hãy mời và đón tiếp những anh chị em không cùng tôn giáo đến, để chia sẻ niềm vui Giáng sinh và một năm mới dương lịch sắp đến với mỗi người chúng ta. Amen.
49. Các mục đồng, chứng nhân đầu tiên--Ga. 1,1-18--Lm Trịnh Ngọc Danh
Cách nay hơn hai ngàn năm, vào một đêm đông năm ấy, tại thành Bêlem, miền Giuđê thuộc thành vua Đavít, đã xảy ra một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Biến cố ấy như thế này:
“Hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi”. Trong số những người trở về nguyên quán, có một cặp vợ chồng mới cưới là ông Giuse và bà Maria, từ thành Na-da-rét, miền, Ga-li-lê. “ Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”, vì không tìm được chỗ trong nhà trọ. Hai ông bà đã phải tìm đến một hang nuôi súc vật. Ơ đó, bà Maria đã sinh con đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt trong mang cỏ”.
Kể ra thì việc bà Maria sinh con vào trường hợp ấy thì cũng có gì đáng nói so với bao cảnh sinh ra nghèo nàn, thiêu thốn khác!
Nhưng chuyện gì đã xảy ra trong cái tầm thường ấy?
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ! Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh họp với sứ thần cất tiếng ngơi khen Thiên Chúa rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Làm sao một đứa trẻ sinh ra trong cảnh nghèo hèn hạ như thế lại có thể là “một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân!” Lại càng không thể tin được rằng hài nhi sinh ra trong cảnh nghèo hèn túng thiếu đủ mọi thứ thế lại có thể là “ một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa”!
Giả sử tin vui ấy cũng được loan báo cho các chức sắc trong tôn giáo hay cho những người có quyền thế, có điạ vị xã hội, chắc gì họ đã mau mắn tin vào lời loan báo của thiên sứ, dù họ vẫn mong đợi Đấng Mêsia sẽ đến như lời các ngôn sứ đã nói! hay khi nghe tin ấy, sợ đụng chạm đến quyền lợi, điạ vị của mình lại tìm cách triệt hạ như Hêrôđê đã sát hại biết bao nhiêu hài nhi! Và giá như chúng ta cũng sinh sống vào thời đó, khi nghe tin báo như thế, có mấy ai tin đó là sự thật!
Nhưng các mục đồng khi nghe thiên sứ báo tin, họ không phân vân đắn đo thiệt hư thế nào. Họ tin và mau mắn lên đường: Sau khi thiên sứ từ biệt, họ bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Đến nơi, họ đã trông thấy cảnh tượng như thiên sứ đã nói, họ thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (xem Lc 2, 1-20).
Các mục đồng đã thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên, nhưng chưa chắc người ta đã tin Hài Nhi nằm trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế! Chỉ có “bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.”
Các mục đồng là ai? Họ không phải là những nhà thông thái, cũng không là những vị chức sắc trong tôn giáo, hay những bậc vị vọng trong xã hội.
Họ là những người thấp kém về địa vị xã hội và cả về học vấn. Họ là những người đơn sơ, chất phát, dễ tin. Họ là những người sống lam lũ. Đời sống của họ gắn chặt với đàn súc vật. Nhưng họ lại được diễm phúc đón nhận tin vui cứu độ, được hân hạnh là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Cứu Thế. Họ đã nghe tận tai, thấy tận mắt những gì thiên sứ đã nói. Họ là những nhân chứng của biến cố vĩ đại có một không hai ấy cho người đương thời và cho những thế hệ mai sau.
Cách thức Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm của Ngài khác với những suy luận của con người: Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế theo suy luận của con người thì phải sinh ra nơi cung điện sang trọng, thì Hài Nhi lại giáng thế trong cảnh túng thiếu, bần cùng; con người khát vọng giàu sang phú quí, thích có địa vị xã hội, muốn được người ta nể phục.. thì Thiên Chúa lại chúc phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo, cho những ai hiền lành, sầu khổ, cho những ai trở nên như trẻ thơ…Ý muốn của Thiên Chúa trái nghịch với ý muốn khát vọng của con người. Những gì Thiên Chúa muốn và kêu gọi con người sống và hành động để đạt được hạnh phúc, thì con người lại chối bỏ, không tin hoặc không muốn tin vì ý riêng của mình.
Những mục đồng xưa kia trong đêm đông năm ấy đã hành động như thế nào khi được sứ thần loan báo tin mừng trọng đại?
Trong đêm đông lạnh giá, khi mọi người trong thành đang ngủ say, thì họ là những người đang thức. Chính nhờ sự thức tỉnh của họ mà thiên sứ đã đem tin vui đến với họ.
Trong tâm tình tin tưởng, khiêm nhu, đơn sơ, chất phát, không nghi ngờ, thắc mắc, họ đã mau mắn lên đường để nhìn thấy tin vui; và sau khi đã tận mắt thấy nhìn thấy Hài Nhi nằm trong máng lừa, họ đã tin Hài Nhi ấy là: Đấng Cứu Độ. Họ đã tường thuật lại cho mọi người điều họ đã nghe và thấy, và ra về, họ đã ca tụng tôn vinh Thiên Chúa.
Những hành động của các mục đồng vào đêm đông năm ấy: thức tỉnh, nghe, ra đi, thấy, thuật lại, và ca tụng tôn vinh Thiên Chúa cũng là những đòi hỏi hành động đối vơi hết mọi người Kitô hữu, những chứng nhân Đấng Cứu Thế.
Trong cuộc sống Kitô hữu cũng thế, chỉ khi chúng ta có thức tỉnh tâm hồn, cố đi tìm thánh ý Thiên Chúa nơi chính mình, nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận ra tin vui cứu độ đến từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, nhưng chúng ta có thức tỉnh tâm hồn để tìm kiếm Ngài, để được Ngài tỏ hiện như đã tỏ hiện cho các mục đồng xưa kia hay không! Ngài vẫn luôn hiện diện cận kề với chúng ta qua cuộc sống, giữa những công việc chúng ta làm, giữa môi trường chúng ta sinh sống; điều quan trọng là chúng ta có thức tỉnh như các mục đồng để mong tìm gặp Ngài hay không.
Khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận tin vui cứu độ, chúng ta cũng được thấy Đấng Cứu thế, nhưng chúng ta đã hành động như thế nào sau khi được gặp gỡ Đức Kitô?
Các mục đồng đã thuật lại cho người khác những gì họ đã nghe, đã thấy; và ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.
Họ đã thực thi lời vị chủ tế tuyên bố khi kết thúc thánh lễ: Thánh Lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an! Đó cũng là lúc chúng ta ra về để ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời mang sứ vụ sống làm chứng và loan báo cho mọi người ơn cứu độ như các mục đồng xưa kia đã làm.
Các mục đồng trở về với cuộc đời thường, nhưng từ biến cố họ đã được chứng kiến, họ đã trở thành những chứng nhân của Đức Kitô. Họ đã có một cái nhìn mới làm thay đổi niềm hy vọng của họ trong cuộc sống.
Ước gì qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ của mỗi người Kitô hữu, lời ca tụng và tôn vinh của các thiên thần vào mùa đông năm ấy sẽ mãi mãi còn vang vọng trong tâm tình chúc tụng và tôn vinh tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho loài người: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
50. Suy niệm của R. Gutzwiller--Lc 2, 1-20
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.
1) Chúa Giáng Sinh.
Việc Giáng Sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ ‘hoà bình của Rôma’, thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến ‘bình an của Thiên Chúa’.
Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính con người.
Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.
2) Loan báo tin Chúa Giáng Sinh.
Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ lùng: ‘Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ’. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có ‘trời, vinh danh và Thiên Chúa’. Phần hai có ‘thế trần, hoà bình và con người’.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.
Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay lời nguyện xin. ‘Chúc tụng Thiên Chúa’ đó là một lời loan báo và cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.
51. Sứ điệp vinh quang và bình an--Lc 2,1-14
Từ nhiều thế kỷ nay, những bài Phúc Âm tường thuật về cuộc đời thơ ấu của Chúa đã kích thích trí tưởng tượng thi nhân và nuôi dưỡng lòng đạo đức của bao tâm hồn đơn sơ. Còn ngày nay chúng làm đối tượng cho những sự phân tích tinh vi và óc tưởng tượng huyền hoặc của một số trí khôn phức tạp đã tìm cách hạ thấp chúng xuống cho ngang với tầm mức của mình. May mắn thay, có một khoa học nghiêm chỉnh vẫn duy trì những bài tường thuật ấy ở trình độ mà Giáo Hội từ xưa nay vốn đặt chúng. Bài tường thuật của thánh Luca kể lại một sự kiện. Ngài kể lại một cách giản dị không vẽ vời thêu dệt, khả dĩ giúp ta chiêm thờ được. Ở đó người ta không nhận thấy một cách tỏ tường như trong những bản văn khác, cái mối ưu tư của tác giả là làm sao đặt việc Chúa Giáng Sinh trong tương quan với những gì đã được loan báo bởi Cựu Ước. Nhưng người ta bắt gặp cái tư tưởng tiêu biểu của thánh sử Luca: là Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hôm nay, trong thành Đavít, một vị Cứu Tinh đã sinh ra cho các ngươi. Ta thử đứng thật sát đoạn văn đơn sơ mà tuyệt vời này để rút ra một vài nét về ý nghĩa của danh xưng ‘Cứu Chúa’.
* Chúa Giêsu là Cứu Chúa đã được hứa hẹn. Đó là lý do tại sao Người được mô tả là phát sinh từ dòng dõi Đavít, ít ra về mặt pháp lý, và điều đó rất quan trọng trong xã hội Do Thái.
* Chúa Giêsu sinh ra bởi một Trinh Nữ. Thánh Mátthêu cho ta biết thánh Giuse đã nhận Maria làm bạn trăm năm trong hoàn cảnh nào.
* Chúa Giêsu là một con người. Người là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật. Người đã bắt đầu cuộc sống và sự sống Người đã nẩy nở trong lòng Maria. Sinh ra bởi một người phụ nữ, như thánh Phaolô nói, Người không tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của mọi người. Người không giả bộ làm người; Người là người thật.
* Chúa Giêsu được loan báo cho người nghèo khó, cho người chăn chiên, nghĩa là người đến trong nhân loại thông thường nhất, giữa hạng người không có thời giờ để lo sao cho có nhiều tiện nghi, hạng người bám vào phận sự hàng ngày cốt sao cho được sống mà thôi.
* Người mang tới sứ điệp vinh quang và bình an, nghĩa là người đến tái lập trong linh hồn con người cái ý thức rằng Thiên Chúa là Chúa, Người tập hợp loài người lại và bảo họ rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, vì thế họ là anh em với nhau.
Ngoài ra, chúng ta hãy nêu lên trong bài tường thuật này một sắc thái căn bản mà con người thời đại ta đang cần, đó là sự thờ phượng.
+ Thờ phượng, ấy là đức tuân phục của Maria và Giuse đến Bêlem, khi nhận ra ý Chúa qua một biến cố, là cuộc kiểm tra dân số.
+ Thờ phượng, ấy là công bố rằng: Hài Nhi chính là Đức Kitô Chúa Tể. Sự sợ hãi của bọn mục đồng có thể tan biến khi viếng máng cỏ, nhưng Hài Nhi gần gũi với họ đó, vẫn là Thiên Chúa. Ta hãy nghĩ tới Thánh Thể; bí tích ấy làm cho Thiên Chúa trở nên gần gũi ta, và một sự tục hóa thiếu suy nghĩ có khuynh hướng coi thường. Một cộng đoàn họp mặt cử hành Thánh Thể nâng cao con người trong lời ngợi khen và tạ ơn.
52. Chiêm ngắm Mầu nhiệm Giáng Sinh--Lm Thái Nguyên
Chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh không chỉ để tưởng niệm một biến cố đã qua hơn 2000 năm nay, hoặc để kỷ niệm ngày sinh của một con người siêu vượt, nhưng là một thực tại phát sinh ơn cứu độ cho tất cả nhân loại chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh:
Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Những ai tin nhận và yêu mến Ngài thì tràn đầy hy vọng đạt tới chính Thiên Chúa, là niềm vui sự sống muôn đời.
Ai cũng có một khát vọng sâu xa là muốn được tồn tại và hạnh phúc mãi mãi. Người ta đua nhau đi tìm kiếm điều đó nơi các thần tượng, các triết thuyết, các chế độ, các tổ chức xã hội... Nhưng chẳng có thần minh nào, triết thuyết nào, cũng chẳng có tổ chức xã hội hay hệ thống kinh tế nào, hay bất cứ ai có thể ban cho chúng ta điều đó, vì tất cả chỉ là tạm bợ, là hư vô, là những kẻ phải chết.
Chỉ có Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô mới làm cho chúng ta được toại nguyện khát vọng vĩnh cửu đó thôi. Vì thế, những ai chỉ lo đi tìm thỏa mãn vật chất, danh vọng, tiền tài trong cuộc đời này mà quên mất lẽ sống chân thật của mình là chính Thiên Chúa, thì đều là những kẻ chạy theo ảo vọng.
Gốc gác của mỗi người chúng ta là thần linh. Dù tin hay không tin, dù nhận biết hay không nhận biết, thì đó vẫn là sự thật, bởi vì chúng ta được sinh ra từ chính sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Và chỉ có Thiên Chúa mới đưa chúng ta trở về cội nguồn là chính Ngài. Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta khả năng hoàn thành một cuộc đời tốt đẹp nhất, và cho chúng ta đạt tới cuộc sống sung mãn nhất. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã làm người, đã sống trọn kiếp người, và trở nên mô mẫu của việc làm người cho mỗi người chúng ta.
Khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Giáng Sinh, ta mới thấy Thiên Chúa yêu thương nhân loại chúng ta sâu thẳm dường nào, và từ đó ta cũng nhận ra thân phận cao cả của mình là con cái Thiên Chúa. Vì yêu thương vô biên, nên Chúa đã chọn bước xuống làm người bé mọn, chọn cha mẹ quê mùa, chọn gia đình vô danh, chọn nơi chốn sinh ra tồi tàn, chọn cuộc sống nghèo hèn, chọn hoàn cảnh bấp bênh, chọn một dân tộc cứng đầu cứng cổ, chọn những môn đệ yếu kém, chọn con đường thập giá, chọn chén đắng ô nhục, và cuối cùng, chọn cái chết bi thảm (x.Pl 2, 6-8).
Có ai được tự do hoàn toàn và quyền năng vô cùng, mà lại lựa chọn cuộc sống như thế không? Chẳng ai làm thế ngoài một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chọn làm người như thế, để không ai còn có thể than trách về số phận hay tình cảnh của mình, mà phải nhận ra thân phận Chúa trong chính thân phận mình. Dù cuộc đời mình có gian nan khốn khó nào đi nữa thì cũng là cuộc đời của chính Thiên Chúa đã làm người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho ta tuyệt đối xác tín rằng: Chúa đã một lần giáng sinh trong cuộc đời ta, Ngài đã bước xuống lòng ta. Từ đó Ngài ở trong ta và âm thầm sống cho ta. Ngài thật sự đảm nhận trọn vẹn cuộc đời ta qua mọi tình trạng và hoàn cảnh. Ngài đã đón nhận và cùng đau cái nỗi đau của ta qua những vấp váp, yếu đuối, trì trệ và thất bại; Ngài đang đón đợi và hoàn thiện hoá từng nổ lực kiên trì vươn lên của bản thân ta trong mọi lúc. Quả thật, chính Chúa đang sống trong ta, và cho ta kinh nghiệm sống trong Chúa.
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở, mời gọi và thúc đẩy ta biết chọn Chúa một cách quyết liệt hơn để hoàn thành sự sống cao cả của mình. Hãy để cho Chúa Giêsu bước vào cuộc đời mình, được cư ngụ trong tâm hồn mình. Hãy để Ngài được sinh ra và lớn lên trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta được trở nên khuôn mặt và tấm lòng của Ngài ở giữa mọi người. Để từ đó ta có thể trao ban Chúa Giêsu cho người khác bằng chính sự hiện diện của mình: một sự hiện diện khiêm hạ và đầy nhân ái yêu thương; một sự hiện diện đem lại bình an, vui mừng và tràn đầy hy vọng cho mọi người chung quanh.
53. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Có một bài ca Giáng Sinh bất hủ mà mỗi độ Giáng Sinh về chúng ta đều nghe vọng lại cách thân thương quen thuộc: Bài Đêm Thánh Vô Cùng. (Silent night, Holy night). Vâng Đêm nay quả thật là Đêm Thánh. Bởi vì đêm nay, hầu như tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ lớn bé, tín ngưỡng hay vô thần, tin Chúa hay tin Phật…đều đỗ nhau ra đường, tuôn đến các Thánh đường, các tụ điểm sinh hoạt văn hoá, để chung một niềm vui: Vui Noel, để rạo rực một tâm tình: tâm tình Giáng Sinh.
Nhưng nếu lễ Noel chỉ đem lại cho mỗi người chúng ta chỉ một niềm vui thoáng qua, một hạnh phúc chóng tàn, như cái bóng hạnh phúc ảo ảnh trong ánh lửa của cô bé bán diêm trong câu chuyện “Cô bé bán diêm” của văn hào Andecxen, để rồi sau đó, đêm Noel qua đi, những bài ca Giáng Sinh ngừng lại, ánh sáng của sao lạ, hang đá máng cỏ vụt tắt, rồi tất cả lại quay về với một đời thường tăm tối, đắng cay, thất vọng, khổ sầu…thì việc đón mừng Giáng Sinh của chúng ta chẳng khác nào tiếp đón một người khách xa lạ, khách đi rồi mà chẳng để lại nơi tâm hồn ta, nơi mái nhà ta, nơi cuộc sống ta một dư âm nào, một kỷ niệm nào, và nhất là, một chuyển biến nội tâm nào.
Không, trong phút giây đặc biệt nầy, tôi xin mời gọi ông bà và anh chị em hãy cùng tôi khám phá những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh, để niềm vui đêm nay, ánh sáng đêm nay, âm thanh đêm nay, không chỉ loé sáng lên để rồi vụt tắt lịm như những que diêm của Cô bé bán diêm xấu số cùng với cái chết thương tâm của cô giữa trời tuyết lạnh; nhưng phải được nối dài, phải được vang vọng trên mọi nẽo đường cuộc sống của chúng ta.
I. GIÁNG SINH: MỘT MẦU NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa làm người: Phải chăng đây là một khẳng định táo bạo, một sự lừa bịp, một tuyên truyền láo khoét? Không, với mỗi người Kitô hữu chúng ta, “Thiên Chúa làm người” đó là một xác tín cơ bản, một niềm tin căn cốt đã ăn sâu trong hồn, đã thuộc lòng trên môi miệng và đã được cử hành, nhắc nhớ trên từng cây số của cuộc sống. Chân lý nầy lại được một lần nữa long trọng cử hành trong chính đêm nay, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính của Thánh lễ nầy “ Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong long Trinh Nữ Maria và đã làm người”.
Nhưng với những người không chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta, thì quả thật “mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người” quả là một thách đố, nếu không nói là xa lạ và ảo tưởng. Điều nầy cũng đễ cảm thông thôi; vì, cách đây 2000 năm, cho dù được các Sứ ngôn tiên báo, cho dù được Sách Thánh thông tin xa gần, dân Do Thái vẫn không hề chấp nhận được “Một Đấng Cứu Thế” sinh ra trong hang lừa máng cỏ, một Đấng Emmanuel con của gia đình Bác Thợ Mộc Giuse và Bà Maria ở làng quê Nadarét. Với tâm thức chung của họ lúc bấy giờ, và cũng là tâm thức của nhiều người trong nhân loại hôm nay, Thiên Chúa phải là một “Ông Trời” toàn năng trên các tầng mây, một Thượng Đế uy nghi lẫm liệt trên cõi vĩnh hằng; nếu Ngài có “hạ cố làm người”, thì cũng phải làm người trong cung cách của một vị đế vương oai hùng lẫm lẫm nơi gác tía lầu son, nơi cung đình tráng lệ, chứ làm gì có một “Ông Trời sinh ra trong thân phận của một Em Bé khóc oa oa vấn tả nằm trong máng chiên lừa bao quanh chỉ có mấy chú mục đồng khổ nghèo kiết xác. Cũng vì quan niệm như thế mà địa chỉ đầu tiên Ba Nhà Đạo Sĩ Phương đông tìm đến để kiếm tìm Đấng Cứu thế là Thủ đô Giêruxalem nơi cung điện của đại vương Hêrôđê. Nhưng nơi đó làm gì có Đấng Cứu thế giáng sinh. May mắn, nhờ “Sao Lạ dẫn đường, các Đạo sĩ đã tìm gặp Đấng Emmanuel nơi hang lừa máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem, trong thân phận của một em bé nghèo hèn yếu đuối. Vâng, nếu không có “Anh sao lạ”, nếu không có “thiên thần hiện ra loan báo Tin vui”, nghĩa là, nếu không có sự “mặc khải”, sự dẫn đưa của Thiên Chúa, thì loài người chúng ta không ai có thể khám phá, nhận biết được mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Chúng ta sẽ mãi mãi ngủ vùi trong một giấc ngủ triền miên của sự lầm lạc, cách xa và mù tối về sự hiện diện của Thiên Chúa làm người. Thật cần thiết biết bao “ánh sao mặc khải của Thiên Chúa”.
II. GIÁNG SINH: VÌ YÊU THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
Nhưng làm sao Thiên Chúa lại phải làm người, và làm người trong thân phận nghèo nàn, tăm tối, thấp hèn?
Để hiểu phần nào chân lý nầy, chúng ta có thể mượn câu ca dao của Việt Nam:
“Yêu nhau trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Một trăm chỗ lệch: Giữa chúng ta, giữa con người với Thiên Chúa không phải chỉ có “một trăm chỗ lệch” nhưng là cách xa muôn trùng. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, toàn thiện, toàn mỹ, còn chúng ta chỉ là thân phận tạo vật do bàn tay Người tác tạo. Sự cách biệt đó càng lớn, càng sâu, càng cách xa vời vợi khi con người phản bội, chối từ Ngài, mà Lời Chúa trong Sách Sáng Thế đã nói với chúng ta qua câu chuyện “bi kịch ăn trái cấm nơi vườn địa đàng”.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cao xa quyền năng đó, lại là một “Thiên Chúa nhân từ” và giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa luôn nhớ lại lòng khoan dung. Chính vì tình yêu bao la đó, mà Thiên Chúa đã không đành bỏ mặc con người trong khoảng cách xa vời vợi, trong thân phận mồ côi lạnh lùng, trong sự lạc loài cách biệt. Thánh sử Gioan đã nói: “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến đổi đã ban Con Một xuống trần…” (Ga 3,16).
Thiên Chúa làm người để con người được ơn cứu rỗi, hay như lời một Giáo Phụ: “Thiên Chúa làm người để con người được làm Chúa”. Nói cách khác: Thiên Chúa muốn nâng con người lên, đem con người vào vị trí cao cả mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã muốn tác tạo: đó là giống hình ảnh Người. Đúng là “một trăm chỗ lệch…”
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình. Cho nên, mừng mầu nhiệm Giáng Sinh chúng ta mừng hai ý nghĩa, hai tác động có liên quan mật thiết:
- Thiên Chúa làm người và con người được nâng lên
- Là ngày “chúng ta tái diễn cuộc vào đời của Thiên Chúa “, là dịp chúng ta ý thức “Hồng ân vĩ đại, cao cả của mỗi người chúng ta vì chúng ta được mời gọi làm con Thiên Chúa, được chia sẻ vinh quang thần linh của Thiên Chúa.
III. GIÁNG SINH: THIÊN CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
Nhưng khẳng định trên, chân lý trên, có ích gì cho xã hội hôm nay, cho mỗi người chúng ta hôm nay? Vâng, đã hơn 2000 năm rồi, Thiên Chúa đã làm người, đã cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết và sự sống lại của Ngài, bằng chính Giáo Hội mà Ngài thiết lập để qui tụ nhân loại và ban ơn cứu độ là chính Thánh Thần của Thiên Chúa…thì thế giới vẫn còn nguyên đó với chiến tranh đầu rơi máu đỗ, với chết chóc hận thù, với bịnh tật khổ đau…Để hiểu tại sao như thế, chúng ta phải trở về với chính những Lời Chân Lý được công bố hôm nay:
Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn I-sa-ia đã vang vọng những lời tuyệt đẹp: “Đoàn người bước đi trong tăm tối, đã nhìn thấy ánh sáng bao la, ánh sáng bừng lên trên những miền âm u sự chết…vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người con đã được ban tặng cho chúng ta”
Trong khi đó, bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiên ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Vâng, giữa cảnh nô lệ, lưu đày nước mất nhà tan khi đế quốc Assur thôn tính Ít-ra-en vào khoảng 700 năm trước Công Nguyên, vị tiên tri thi sĩ I-sa-ia đã tiên báo “ một Đấng Emmanuen sẽ được một Trinh nữ sinh ra”… và 700 năm sau, trong buổi bình minh của thiên niên kỷ đầu tiên của công nguyên, cũng lại là một đất nước Ít-ra-en tan nát dưới quyền đô hộ của Rôma, sứ thần đã loan Tin Mừng vĩ đại cho các mục đồng ở Bê-lem: “Đấng Cứu thế đã giáng sinh”.
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã có được những gì, đã chứng kiến được, đã cảm nhận thật sự điều gì đã xảy ra? Có hay không Một Đấng Cứu thế như lòng họ hằng mơ ước? Có hay chăng một Vị Vua oai hùng lẫm liệt đăng quang trở về chấp chính để an bang tế thế? Có hay chăng một Đấng Cứu tinh mang lại no cơm ấm áo, đất đai biên giới mở rộng thênh thang, quyền uy chính trị trãi trên ngàn dân nước?
Không! Hoàn toàn trái ngược hẳn:
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đâng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gưom đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ…
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Cũng chính vì lẽ đó, “Hiến chương Nước Trời” được Ngài vạch ra như nẽo đường dẫn tới cõi phúc chân thật lại là những giá trị xem ra thật ngược đời, nhưng cũng thật anh hùng và đòi hỏi: Tinh thần khiêm hạ khó nghèo, hiền lành nhân ái, hy sinh để chia sẻ và cho đi, yêu thương để xây dựng hòa bình, không ngừng biết khoan dung để tha thứ…
Chính cuộc đời 33 năm trần thế của Ngài, cho dù không để lại một công trình kiến trúc vĩ đại, không một tác phẩm văn chương uyên bác, không một sáng chế khoa học diệu kỳ…thì 20 thế kỷ qua vẫn là cột trụ của nhân loại, là hy vọng của muôn thế hệ, là điểm tựa cho muôn ức triệu tâm hồn. Từ máng cỏ Bê-lem cho tới đỉnh đồi Núi Sọ, cuộc đời của Chúa Giêsu duy nhât chỉ là một định nghĩa đúng đắn nhất về tình yêu: Yêu là cho đi và cho đi đến cùng: Thiên Chúa trở nên nghèo hèn, tự hiến để con người được cứu độ vinh quang; Thiên Chúa chấp nhận làm “hạt lúa gieo vào trần gian mục nát”, để con người ngẩng cao đầu đứng lên tìm được hạnh phúc vĩnh hằng. Đó cũng chính là ý nghĩa cuối cùng của mầu nhiệm được cử hành hôm nay: mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mầu nhiệm Nhập thể - Giáng Sinh.
Kết luận: Như vậy, chúng ta đón nhận và sống mầu nhiệm Giáng Sinh như thế nào đây cho đầy đũ ý nghĩa và mang giá trị hiện thực? Để thay cho câu trả lời tôi xin kể một câu chuyện nhỏ: “Tiệm tạp hóa bên kia ngọn đồi”
Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, có một chàng thanh niên đứng đợi trước cửa hàng tạp hóa bên kia ngọn đồi. Chờ mãi mà cửa vẫn chưa mở. Sắp sửa định bỏ đi, thì bổng có tiêng mở cửa và một thiên thần xuất hiện:
- Anh cần gì? Tôi là chủ ở đây.
- Ở đây Ngài có bán hòa bình không?
- Tôi bán tất cả.
- Con muốn mua hòa bình đem vào nơi chiến tranh, mua an hòa đem vào nơi tranh chấp, mua chân lý đem vào chốn lỗi lầm…
- Còn mua gì nữa nào?
- Con muốn mua ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm, mua niềm vui đem vào chốn u sầu…Con muôn mua tất cả những gì để thế giới không còn khủng bố, chiến tranh, bạo lực, hận thù, ghen ghét, để mọi người hít thở trong không khí trong lành, huynh đệ yêu thương…Vâng con muốn mua được những liều thuốc chữa được mọi bệnh tật, mọi người được no cơm ấm áo…
- Thiên thần từ tốn đáp: Nầy anh, ở đây không bán quả. Thượng Đế giao cho tôi chỉ bán hạt giống thôi…
Thưa ông bà và anh chị em. Sứ điệp Giáng Sinh hôm nay cũng là “Hạt Giống” Tin mừng được trao gởi cho mỗi người chúng ta. Hạt giống của Niềm vui và bình an, hạt giống của yêu thương và chia sẻ, hạt giống của hy sinh và tận hiến, hạt giống của tha thứ và khoan dung, hạt giống của huynh đệ và đoàn kết…Đó chính là những hạt giống mà Con Thiên Chúa đã trao tặng khi xuống thế làm người và muốn chúng ta sinh hoa kết trái. Ước gì niềm vui và ân sủng của Giáng Sinh năm nay sẽ ở lại nơi tâm hồn mỗi người chúng ta và biến đổi cuộc đời chúng ta thành nhứng chứng nhân của hòa bình và công lý, của bác ái yêu thương, của khoan dung tha thứ, của phục vụ quên mình. Và như thế, chiến tranh bạo lục, khủng bố hận thù, ghét ghen tranh chấp, đói khát nghèo nàn…sẽ bị đẩy lùi để nhường chõ cho một thế giới tốt đẹp hơn, anh bình hơn, vui tươi và hạnh phúc hơn như lời sấm của Sứ Ngôn I-sa-ia trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi làm mồi nuôi lửa. Vì Một Hài đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Giờ phút nầy, lời sấm ngôn đó không còn là một lời tiên báo nữa, vì chút nữa đây, chúng ta sẽ được chia sẻ chính thịt máu Ngài được ban tặng cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết tri ân và cảm tạ, hân hoan và yêu mến. Amen.
54. Lễ Giáng Sinh--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có - đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan phòng để Đức Giêsu, Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
2. Đặt mình vào địa vị của Đức Maria và thánh Giuse, bạn sẽ nghĩ và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Nagiarét vào Bêlem, không tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong chuồng bò?
3. Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu phải chịu đau khổ, nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con của Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?
Chia Sẻ
1. Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn kém
Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần gian nếu biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì hoàng đế ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị cho con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền... thật sang trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như mình, nên người Do Thái thời Đức Giêsu đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra trong cung vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giêsu đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn Giuse và Maria phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình, nhất là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều không tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!? Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay không? Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!
2. Cách xếp đặt của Thiên Chúa… thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên Chúa đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai người đặc biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy! Giuse và Maria đang sống yên lành tại Nagiarét, những tưởng đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai gái đức hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa - vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ đầy gian khổ!
Từ làng Nagiarét vùng Galilê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng và nàng phải vượt qua vùng Samari đầy đồi núi của miền Trung để về tận làng Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên 150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành trình chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Maria mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một hành trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả mọi người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để trọ và sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả gia đình gồm 3 người Giuse, Maria và Giêsu là khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! - Có thể nói đây là gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì thế, nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những «người của Ngài» phải hy sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác. Nhưng bù lại, Ngài sẽ ân thưởng cho «người của Ngài» vinh quang, hạnh phúc cao quí nhất!
3. Nghịch lý... nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu mới chấp nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào: một là đau khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai 1.000? Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những người Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức Giêsu, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giêsu trở thành người hạnh phúc và vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan như thế, thì việc Đức Giêsu phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và một niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc đời. Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì điều đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành cho ta một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ chối. Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và lớn thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta sẵn sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu thương đã dành cho ta, vì «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!» (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh, về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Kitô hữu, người mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang danh là «người của Ngài», mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phaolô đã phiền trách: «Tôi không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt» (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu sinh ra thật nhục nhã và sống một cuộc đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể trời đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp đau khổ, nhục nhã, trái ý… con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra như vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giêsu và bao vị thánh của Cha. Đúng ra con nên nói «con được đau khổ» chứ không phải «con bị đau khổ»!
55. Đừng thờ lầm--Ga 1, 1-18--Lương Thực Ngày Chúa Nhật
Phần tự ngôn Phúc âm theo thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta nhận thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi của mầu nhiệm Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta. Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào chính mầu nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân mật của Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy đến thờ lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi ơn lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi, Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu thương. Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung cấp cho chúng ta một phong cách thờ phụng.
1) Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng tạo hóa. Não trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý niệm về Đấng tạo hoá, con người chỉ muốn những gì mình có là do sức mình. Một số tiến bộ nào đó để tìm hiểu những diễn biến vật chất của sự sống, đã đem lại chước cám dỗ xui con người muốn quyết định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc đời mình sẽ diễn tiến thế nào. Con người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự thể bởi đâu mà mình có được thân xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành động như thể không bị hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y. Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong thế gian (Mạc khải 4, 8), nghĩa là Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước hết mọi khởi đầu, do Người mà muôn vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu, Người không được tạo thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta có được mọi sự.
2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy trong tâm trí và trong sự thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch nhân loại là con người thường nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn con người bị cám dỗ thờ ngẫu tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì nhân lại chỉ còn biết dò đường trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán nản hết sinh động. Thế mà Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh y.
Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối linh hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất hạnh cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người nào tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát ra, người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.
Lễ Giáng Sinh mừng ánh sáng. Trong khi vui ngắm những giây đèn giăng mắc ngoài đường phố và trong tư gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần thiết hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức Kitô soi sáng lòng và trí chúng ta.
56. Của lễ dâng Chúa Hài Nhi—Lễ Đêm 2014-- Lm Giuse Nguyễn Thành Long
Chúng ta đang cùng với toàn thể Giáo Hội long trọng mừng kỷ niệm một biến cố đặc biệt, biến cố Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đi vào trần gian. Tất nhiên, Ngài đi vào trần gian không phải để đi du lịch, hay để đi tham quan một vòng cho biết trần gian; cũng không phải để vi hành như các vua chúa trần gian thường làm. Con Thiên Chúa nhập thể vào trần gian là để làm người và ở với con người.
Con Thiên Chúa đi vào trần gian cũng không phải như một nhân vật thần thoại hóa nhân, hay một siêu nhân hoá kiếp... Ngài đi vào trần gian cũng không phải như là một sản phẩm của trí tưởng tượng con người, đại loại như một thần đồng vươn vai lớn lên như Phù Đổng, mạnh mẽ phi thường như Thiên Vương khiến hùm beo phải sợ. Ngài là một nhân vật lịch sử có phả hệ, có lý lịch hẳn hoi như mọi người; có dòng tộc tổ tiên (gia phả dài), có ông bà cha mẹ, có quê hương đất nước. Thật ra, nếu Thiên Con Thiên Chúa đến trần gian để làm vua hay làm Chúa thì chẳng có gì để nói, bởi vì tự bản tính Ngài là Vua trên các vua, là Chúa trên các chúa. Nhưng Ngài đã làm người như ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi.
Chúa Giêsu đã đi vào gia phả của nhân loại với mục đích nào? Ngài đi vào gia phả của nhân loại để thiết lập tương quan huyết thống với con người. Ngài đi vào gia phả của nhân loại để đưa con người vào phả hệ thần linh của Thiên Chúa. Có điều, Ngài đi vào trần gian, đi vào gia phả nhân loại trong cảnh nghèo hèn khiêm hạ. Tại sao vậy?
Trong nhân loại chúng ta, chẳng ai có quyền được chọn lựa gia đình hay gia cảnh để sinh ra, ngoại trừ Đức Giêsu Kitô, vì Ngài là Thiên Chúa. Vậy tại sao Đức Giêsu lại chọn sinh ra trong cảnh nghèo hèn như thế?
Có lần tôi hỏi các thầy đang học tại Chủng Viện thánh Nicôla, Phan Thiết rằng nếu Chúa Giêsu giáng sinh trong thời đại ngày hôm nay thì Ngài sẽ chọn quốc gia nào và hoàn cảnh nào để sinh ra?
Có thầy bảo: “Theo con Chúa sẽ chọn nước Mỹ để sinh ra vì nước Mỹ hùng mạnh và Chúa Giêsu sẽ có những phương tiện tốt nhất để để loan báo Tin Mừng cho cả thế giới”.
Có thầy cho rằng Chúa Giêsu sẽ chọn một nước ở Phi Châu vì ở đó có nhiều người nghèo đói, hơn nữa Chúa sinh ra làm một người da đen cũng tốt thay vì da trắng. Là da đen, Chúa sẽ gần gũi với người Phi Châu nghèo khổ hơn.
Thầy khác thì bảo rằng Chúa Giêsu sẽ chọn nước Anh, vì ngày nay ngôn ngữ quốc tế thông dụng nhất đó là tiếng Anh. Và lúc đó mọi người sẽ hiểu được những gì Chúa nói khỏi cần thông dịch viên.
Một số thầy khác thì cho rằng Chúa Giêsu sẽ chọn Trung Quốc, bởi vì Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc cũng là nơi có nhiều hàng độc hại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, và Chúa sẽ đổi mới người dân Trung quốc để họ bớt gian dối và rất có thể ngài sẽ biến Trung Quốc thành kinh đô của Kitô giáo. Nhưng thầy này cũng lưu ý Đức Mẹ khi mang thai coi chừng bị người ta bắt phá thai!?
Một số thầy khác nữa thì bảo rằng Chúa Giêsu sẽ chọn Philipin hoặc Việt Nam, vì ở hai quốc gia này quanh năm phải chịu nhiều thiên tai bão lụt. Sinh ra ở đây Chúa Giêsu sẽ đồng cảm với người dân những nước này hơn.
Có thầy lại chọn Nam Cực làm nơi cho Chúa sinh ra, vì ở đó có nhiều gấu và chim cánh cụt rất dễ thương, khí hậu lại trong lành. Chúa Giêsu có thể dùng xe tuyết đi lại an toàn.
Đặc biệt có thầy không chọn một quốc gia nào hết, mà lại chọn trạm không gian. Vì trên trạm không gian không bị ô nhiễm môi trường, nên sẽ tốt cho trẻ sơ sinh và bà mẹ đang cho con bú. Vả lại, sinh ở trên đó, Chúa Giêsu sẽ là của cả trái đất, chứ không phải của một dân tộc nào, khỏi phân bì, v.v…
Tuy nhiên, đại đa số các thầy vẫn cho rằng Chúa Giêsu vẫn sẽ chọn cảnh nghèo để sinh ra và để làm người. Sở dĩ Ngài chọn sinh ra trong cảnh nghèo là để “ở với” con người, để cảm thông với thân phận con người, đặc biệt là thân phận của những người thấp cổ bé miệng, và hơn thế nữa là để chết cho con người, để rồi qua cái chết của Ngài, con người được hưởng ơn cứu độ.
Quả thật, nếu Thiên Chúa sinh ra trong cung điện, trong đền đài vua chúa, hay sinh ra trong một gia đình giàu sang quyền quý, có lẽ những người phận hèn không bao giờ có cơ hội đến được với Ngài, càng không bao giờ dám được làm bạn với Ngài. Thực tế, Thiên Chúa đã đến trần gian để ở với con người và làm bạn với con người. Đó là điều có thật, chứ không phải là giấc mơ nữa.
Vậy thì sứ điệp của ngày lễ hôm nay muốn mời gọi ta điều gì? Mời gọi chúng ta hai điều:
- Thứ nhất: hãy như các mục đồng theo lời mời gọi của các thiên thần đến chiêm ngắm Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa.
Chiêm ngắm Chúa Hài Đồng nơi hang đá máng cỏ để ta cảm nghiệm ngày một sâu xa hơn tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta mà năng biết dâng lời tạ ơn Chúa. Thật vậy, Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa quyền năng vô tận, nhưng đã chấp nhận mặc lấy thân phận con người,sống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Chấp nhận thân phận con người thì cũng chấp nhận sự mỏng dòn, yếu đuối của thân xác: cũng đói, cũng khát, cũng có khi nhức đầu sổ mũi. Thân xác Hài nhi, cũng phải chấp nhận sự lớn lên, sự nuôi dưỡng như mọi người…
Chiêm ngắm Chúa hài Đồng trong hang đá máng cỏ, để chúng ta biết ý thức hơn về phẩm giá và địa vị cao quý của con người, dù còn bé tí hay già nua bệnh tật. Con người có địa vị và phẩm giá cao quý vì con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, được Con Thiên Chúa đến làm bạn, và hiến ban chính cả mạng sống mình.
Chiêm ngắm Chúa hài Đồng trong hang đá máng cỏ, để chúng ta cũng biết yêu mến anh chị em mình nhiều hơn, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn. Vì họ là hiện thân của chính Chúa.
- Thứ hai: hãy như các nhà đạo sĩ biết quảng đại tiến dâng của lễ đời mình cho Chúa. Của lễ nào?
Khi hỏi các thầy ở Chủng Viện cùng câu hỏi này, tôi nhận được rất nhiều câu trả lời. Có thầy thì nói rằng con cũng không biết dâng gì, vì dạo này toàn hàng Trung Quốc, nên đụng đâu cũng hàng giả. Nếu có dâng thì con dâng tặng Chúa chiếc xe đạp ba bánh để thánh Giuse chở Chúa đi dạo thôi.
Có thầy thì bảo Chúa sinh ra mùa đông lạnh lẽo, nên con sẽ dâng cho Chúa mấy bộ áo em bé để Chúa mặc, và tặng cho Chúa vài thùng sữa Vinamilk hoặc Milô để Chúa uống khi chỉ có thánh Giuse ở nhà.
Có thầy thì bảo con sẽ dâng Chúa hài Nhi một chiếc Attila để thánh Giuse có thể chở Đức Mẹ và Chúa Hài Nhi đi Aicập nhanh hơn. Có thầy thì dâng cho Chúa một visa để Chúa có cơ hội đi du lịch.
Có thầy bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một bình sữa không bao giờ cạn để Mẹ Maria đỡ vất vả. Có thầy bảo rằng nếu con là một trong ba nhà đạo sĩ, con sẽ dâng cho Chúa một cái máy sưởi hiệu Panasonic, loại tốt nhất, để sưởi cho Chúa bớt lạnh. Có thầy khiêm tốn hơn thì bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một cây viết và một cuốn sổ để Chúa viết nhật ký hằng ngày. Nhờ đó mà sau này hậu thế có chữ viết của Chúa và các Tông đồ khỏi vất vả ghi chép.
Có thầy quan tâm hơn đến thời thế thì bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một bộ áo chống đạn và một hộp sữa Trung Quốc nhiễm Melamine. Áo chống đạn để Chúa bình an giữa chiến tranh của Palestine và Israel. Sữa Trung Quốc nhiễm Melamine để Chúa thấy sự tồi tàn của một số doanh nhân Trung Quốc ngỏ hầu Chúa biến đổi họ…
Và rồi có thầy thì rất thực tế, bảo rằng con sẽ dâng Chúa Hài Đồng Vắccin chích ngừa miễn phí tất cả các thứ bệnh, học bổng từ lớp một đến hết đại học, và sau đó là quyền đặc cách vào Chủng Viện Saigon, v.v…
Tóm lại, của lễ dâng Chúa của mỗi thầy mỗi khác. Và có lẽ mỗi người chúng ta cũng thế. Cách chung đối với các em Thiếu nhi và Huynh Trưởng trong giáo xứ trong những ngày qua, của lễ thiết thực đó là thời giờ, và công sức mà các em bỏ ra để đi tập hát, tập múa, tập hoạt cảnh… Còn đối với nhiều người lớn của lễ đó có thể là tiền bạc vật chất. Từ đầu Mùa Vọng đến nay, tôi đã nhận được một số quà dâng Chúa Hài Đồng từ những người lớn: tiền, mì tôm, gạo….
Thực sự Chúa Giêsu Hài Đồng có cần chúng ta trực tiếp cho Chúa của cải hay các tiện nghi vật chất không? Không. Nhưng Chúa cần ta cho Chúa cách gián tiếp qua những người nghèo khổ bệnh tật neo đơn… Họ là hiện thân của Chúa Giêsu Hài Đồng. Vì thế, khi ta giúp đỡ chia sẻ với những kẻ bé mọn là ta đã làm cho chính Chúa.
Thấy Chúa Giêsu năm nào cũng mừng Giáng sinh trong háng đá nghèo hèn, năm nay anh em gia trưởng quyết định làm cho Chúa một “căn nhà” tình thương. Lúc đầu tính làm nhà cấp 3, nhưng thấy không đủ kinh phí, nên thu nhỏ lại thành nhà cấp 4. Làm nhà cấp 4 mà cửa chính cửa sổ vẫn chưa có cánh.
Thiết nghĩ, qua hình ảnh đó, anh chị em được mời gọi hãy chung tay, chung sức làm những căn nhà tình thương cho những Giêsu đang hiện thân nơi những anh chị em nghèo khổ. Ngay trên đất nước Việt Nam này, có rất nhiều Giêsu bằng xương bằng thịt đang cần những “ngôi nhà mơ ước”, tức những ngôi nhà tình thương. Họ đang phải sống tạm bợ nơi những căn nhà chòi, hay nhà lá tạm bợ không đủ che mưa che nắng, chứ chưa nói đến tiện nghi vật chất.
Dù khi không thể làm được nhà cho những người vô gia cư thì ta cũng có thể làm nghĩa cử nào đó cho họ. Đức Thánh cha Phanxicô, trong ngày mừng sinh nhật lần thứ 77, đã quyết định mời 3 người vô gia cư vào ăn trưa với mình. Một nghĩa cử đầy nhân ái làm ấm lòng những người bất hạnh. Âu đó cũng là một cách dâng lễ vật cho Chúa Hài Đồng trong Mùa Giáng Sinh.
Và trên hết, thiết nghĩ có một thứ của lễ mà ai trong chúng ta, dù giàu hay nghèo cũng luôn có sẵn, có sẵn ngay lúc này đây, và đây cũng là của lễ mà Chúa Giêsu luôn chờ đợi, đó chính là con người của chúng ta với cả tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Dâng cho Chúa để làm gì? Để cho Chúa tha thứ, chữa lành và biến đổi nên tốt đẹp hơn. Hãy dâng Chúa của lễ này. Amen.
57. Dấu hiệu của Chúa--Lm. Phạm Quốc Hưng
"Và sự này làm dấu cho các ngươi: các ngươi sẽ gặp thấy một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ."
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng nhận biết tầm quan trọng của các dấu hiệu. Có hai loại dấu hiệu: một loại là tự nhiên và một loại khác là qui ước. Khói và ánh sáng cùng sức nóng là dấu hiệu tự nhiên của lửa. Đèn đường xanh đỏ hay các bảng chỉ đường là những dấu hiệu qui ước của luật lưu thông. Khuôn mặt tươi vui là dấu hiệu của một con người hạnh phúc. Thân xác sống động của một người cũng là dấu hiệu của sự hiện diện toàn vẹn của cả người ấy với hồn thiêng bất tử. Cái bắt tay hay nụ hôn là dấu hiện của tình thân ái. Ngôn ngữ cũng là một loại dấu hiệu để con người trao đổi tâm tình và kiến thức với nhau. Và có lẽ ngôn ngữ là loại dấu hiệu quan trọng bậc nhất trong các liên hệ giữa con người với nhau. Chúng ta không thể có một liên hệ thân mật với ai, nếu chúng ta không nhận biết các dấu hiệu và ngôn ngữ của người ấy.
Thiên Chúa cũng dùng các dấu hiệu để thiết lập và hàn gắn tương quan yêu thương với con người chúng ta.
Thực vậy, Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Người, nghĩa là cho chúng ta có lý trí và ý chí tự do để chúng ta có thể yêu thương và đón nhận tình thương. Người đã cho con người sống trong liên hệ yêu thương mật thiết với Người, và chỉ trong liên hệ này con người mới tìm được hạnh phúc đích thực và viên mãn. Vì tội tổ tông, mối tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và con người đã bị tổn thương. Nhưng một lần nữa vì yêu thương, Thiên Chúa đã quyết định cứu chuộc con người, nghĩa là Người muốn hàn gắn lại liên hệ yêu thương giữa Người và nhân loại.
Để thực hiện việc hàn gắn lại mối tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và nhân loại còn gọi là việc cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái làm dân riêng trong thời Cựu Ước để chuẩn bị cho việc xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa đã bày tỏ ý định yêu thương này cho dân Do thái qua các tổ phụ và ngôn sứ do chính Người tuyển chọn. Về điều này, thánh Phaolô viết: "Đã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri"(Dt 1:1). Những tổ phụ và ngôn sứ - những người được chọn để chuyển thông ý định cứu chuộc của Thiên Chúa trong thời Cựu Ước - cùng với chính dân tộc Israel vì vậy chính là những dấu hiệu Thiên Chúa đã dùng để bắt đầu việc gầy dựng lại mối tương quan yêu thương với nhân loại chúng ta. Họ đã là những sứ giả của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô viết tiếp: "Vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con, mà Người đã đặt làm Đấng thừa tự tất cả mọi sự, và cũng nhờ Ngài mà Người đã làm ra các thế giới: Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ cả vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài, sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi, Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cữu trùng, trổi hơn thiên thần vạn bội, bời khác với họ, Ngài đã thừa hưởng một Danh khôn ví"(Dt 1:2-4)
Thời sau hết mà thánh Phaolô nói đến ở đây chính là thời Tân Ước kể từ khi Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã "hóa thành xác phàm và ở giữa chúng ta" (Ga 1:14). Đây là một biến cố trọng đại nhất trong lịch sử ơn cứu độ. Và đây chính là ý nghĩa sâu xa nhất của đại lễ Giáng Sinh mà chúng ta cử hành hôm nay.
Khác với các tổ phụ và các ngôn sứ trong thời Cựu Ước là những dấu hiệu hay những sứ giả Thiên Chúa dùng để chuẩn bị để trao ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại, Chúa Giêsu là chính Đấng Cứu Thế, là Trung Tâm của lịch sử nhân loại, là Dấu Hiệu của Sự Hiện Diện Đích Thực của Thiên Chúa ở giữa nhân loại, là chính Ơn Cứu Độ, và là chính Sự Bình An mà con tim nhân loại hằng mong mỏi đợi chờ.
Chính Thiên Chúa đã long trọng công bố sự kiện vô cùng trọng đại này cho nhân loại qua các lời thiên thần nói với những mục đồng trong đêm Chúa giáng sinh như sau:
"Đừng sợ! Này ta đem tin mừng cho các ngươi về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi Vị Cứu Chúa, tức là Đức Kitô Chúa, trong thành của Đavít. Và sự này làm dấu cho các ngươi: các ngươi sẽ gặp thấy một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ" (Lc 2:10-12)
Như vậy, dấu hiệu của Sự Hiện Diện Đích Thực của Thiên Chúa ỡ giữa nhân loại là "một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ".
Đây thật là một mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa Tình yêu, một mầu nhiệm vượt quá mọi suy tưởng và mơ ước của con người.
Ai dám nghĩ đến việc Thiên Chúa toàn năng nay biến thành một hài nhi nhỏ bé yếu đuối? Đấng Tạo Hóa mà muôn vật phải phục tùng nay phải lệ thuộc sự săn sóc chăm nom của đôi bạn trẻ Giuse và Maria. Chúa Tể Muôn Loài nay phải sinh ra trong cảnh nghèo hèn tận cùng của máng cỏ Bêlem.
Nhưng đó chính là đường lối của Thiên Chúa, đường lối của Tình yêu Nhập Thể - một tình yêu sẽ mãi mãi liên kết Thiên Chúa với nhân loại và với từng người nơi Chúa Giêsu.
Vì thế, từ biến cố giáng sinh mà chúng ta kỷ niệm hôm nya, đón nhận và yêu thương "một hài nhi mình vấn tả, đặt nằm trong máng cỏ" là đón nhận và yêu thương chính Thiên Chúa làm người, là đón nhận và yêu thương chính Thiên Chúa làm người, là đón nhận tình yêu nhập thể và hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Đón nhận và yêu thương con người với niềm tin yêu hướng về Thiên Chúa là đón nhận và yêu thường chính Chúa, như Chúa Giêsu đã phán: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25:40)
Tất cả những cố gắng sống đạo của chúng ta gồm cả việc tổ chức mừng đại lễ giáng sinh hôm nay sẽ trở thàny vô ích nếu chúng không giúp ta nhận ra dấu hiệu sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta để đón nhận và mến yêu Người, để đươc Người ban ơn cứu độ.
Ý nghĩa đích thật cho cuộc sống hiện tại và hạnh phúc vĩnh hằng đời sau của chúng ta tùy thuộc ở sự chấp nhận hay chối bỏ các dấu hiệu của Chúa trong cuộc đời chúng ta.
Ngày xưa, Chúa Giêsu đã chọn tỏ mình ra cho Đức Mẹ, thánh Cả Giuse và các mục đồng trong đêm giáng sinh đầu tiên nơi "một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ". Ngày nay, trong mỗi thánh lễ, Người tiếp tục tỏ mình cho chúng ta yêu mến tôn thờ và kết hợp với Người nơi bí tích Thánh thể.
Ngày xưa, bạo vương Hêrôđê đã tìm giết Chúa Giêsu bằng cách giết hài nhi vô tội để củng cố ngai vàng trần thế của ông. Ngày nay, người ta tiếp tục giết Chúa Giêsu qua việc giết các bé thơ vô tội ngay khi các em còn trong lòng mẹ qua tội ác phá thai để củng cố lối sống ích kỷ buông thả vô trách nhiệm của họ.
Chúng ta sẽ chọn noi gương Mẹ Maria, thánh Giuse và các mục đồng để đón nhận và yêu mến Chúa Hài Nhi qua các nỗ lực bảo vệ và bênh vực quyền sống các thai nhi hay chọn thái độ của bạo vương Hêrôđê qua lối sống ích kỷ buông thả vô trách nhiệm với những tội xúc phạm đến phẩm giá và sự sống con người.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin dạy chúng con noi gương Mẹ Maria nhận biết các dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin Chúa cho chúng con tin nhận Chúa hiện diện đích thực trong bí tích Thánh Thể như xưa Chúa đã ngự nơi hang đá Bêlem, để chúng con thêm lòng sùng ái và sốt sắng kếp hợp cùng Chúa. Xin Chúa cho chúng con nhận biết Hội thánh chính là Nhiệm Thể Chúa, để chúng con tha thiết mến yêu và vâng phục mọi giáo huấn chân thực của Hội thánh. Xin Chúa cho chúng con cảm mến niềm vui và bình an sung mãn của Chúa, qua việc nhận biết, yêu mến và phụng sự Chúa nơi những người xung quanh chúng con, cách riêng là những người "hèn mọn nhất". Amen.
58. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
SINH HẠ, CẮT BÌ VÀ ĐẶT TÊN
CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)
Từ đây bản văn sẽ phá vỡ tiến trình song song. Thực vậy, có hai khác biệt lớn lao giữa cảnh này và cảnh trước. Đối với Người Con của Đức Maria, Luca nêu bật trước hết cảnh sinh ra, trong khi việc cắt bì và đặt tên ông chỉ nhắc đến rất vắn tắt (c.21), điều này ngược với trường hợp của Gioan. Phần khác, một mặc khải đi liền theo sau việc cắt bì của vị tiền hô; nhưng việc tuyên sấm của ông Giacaria không có tầm vóc rộng lớn như cảnh sinh ra của Chúa Giêsu được gọi là Phúc Âm, Tin Mừng (c.10). Và nhất là, đối với Chúa Giêsu, cảnh mặc khải theo nghĩa chặt sẽ được chuyển đến cảnh tiếp theo trong Đền Thờ.
Các câu 1-7 trình bày việc kiểm tra dân số, hành trình của cha mẹ rồi việc sinh con trai đầu lòng. Sắc chỉ của Xêda Augustô gây khó khăn về phương diện lịch sử. Đúng là Quirinô đã cho tiến hành kiểm tra dân số xứ Giuđêa khi tỉnh này thuộc quyền cai trị trực tiếp của Rôma; điều đó đã gây ra cuộc nổi loạn của Giuđa người Galilê (Cv 5,37: có Giuđa người Galilê nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác). Nhưng vào khoảng năm 6 hoặc 7 SCN, lúc đó Chúa Giêsu đã chừng mười tuổi rồi –Người sinh ra dưới triều Hêrôđê (Lc 1,5; Mt 2,1), ông này băng hà vào năm 4 TCN. Như vậy Luca đã lầm khi, trong bài khởi đầu long trọng này, muốn đăng ký Chúa Giêsu vào lịch sử thế giới– ông sẽ làm lại một cách đầy đủ hơn ở 3, 1-2 và cũng tỏ bày cho thấy Thiên Chúa sử dụng sắc chỉ của Xêda. Trong sách Công Vụ, Thiên Chúa còn sử dụng các luật lệ La Mã để dẫn dắt Phaolô đến rao giảng Tin Mừng ở Rôma… nhất là điều đó đã là một cái cớ cho cuộc hành trình, là một cái cớ bởi vì những cuộc kiểm tra như thế luôn luôn làm ở nơi thường trú chứ không làm ở nguyên quán.
Thực ra nhờ truyền thống (x. Mt 2,1) Luca biết rằng con trẻ sinh ra ở Bêlem, thành của Đavít, địa điểm này cho phép nhấn mạnh một lần nữa rằng Chúa Giêsu là con cháu (c.4) Đavít. Tuy nhiên, Luca không trích dẫn sấm ngôn của Mk 5,1 (x. Mt 2,6); thực vậy rất hiếm thấy những trích dẫn rõ ràng ở Luca 1-2. Thực vậy, đích điểm của cuộc hành trình không phải chỉ là Bêlem mà chính là một máng cỏ trong thành này. Phòng trọ chật chội đến nỗi phải đặt em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, diễn ngữ này được dùng tới ba lần (c. 7.12.16) và điều ấy muốn nói rằng đó là kết quả của sáng kiến của Thiên Chúa. Mà có nơi nào ý nghĩa hơn đối với các mục tử cho bằng máng cỏ? Như vậy là chúng ta được quy hướng tới mấy chú mục tử này.
Luca lại dùng một lần nữa công thức thần học: “(những) ngày bà phải sinh con đã tới (hoàn tất)”, ông nói đến con trai đầu lòng để chuẩn bị cho việc dâng con trong Đền Thờ (2,23).
Bây giờ đến cảnh mặc khải cho các mục tử (cc. 8-14). Tại sao những người làm một nghề như thế lại được đón nhận mặc khải này? Hẳn là có một liên hệ văn chương giữa thành Bêlem và đề tài mục tử: Khi ấy Đavít chăn đàn súc vật của cha ông ở Bêlem (1Sm 16,11; 17,15), nhưng Luca không nói rõ về chuyện ấy, điều ông quan tâm nhiều hơn đó là các mục tử ở Palestin vẫn bị mang tiếng xấu, người ta thường coi họ là những kẻ bất lương và trộm cắp. Sách Tamud Babylon đã xếp họ vào một nhóm những người bị coi là kẻ tội lỗi: “Những mục tử và những người thu thuế thì khó mà sám hối được”. Những người bị khinh dể ở cấp bậc thấp nhất trong xã hội lại là những người đầu tiên được nói đến nhờ việc đản sinh của một em bé có mẹ là một người khiêm hạ (1,48) và sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo (4,18). “Tác động hướng về máng cỏ là dấu chỉ cho những người chăn chiên tội lỗi nhận ra được Đấng Cứu Tinh đã đến (B. Trémel); con trẻ sơ sinh đã là người sẽ đón tiếp những kẻ tội lỗi và sẽ ăn uống đồng bàn với họ (15,2)
Mặc khải đích thực (cc. 9-12) có nhiều yếu tố nhắc nhở những trình thuật về việc báo tin cho ông Giacaria và cho Đức Maria, chỉ có các vấn nạn là được bỏ đi. Sứ thần của Thiên Chúa thay thế cho thiên sứ Gabriel, việc đản sinh Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng, việc ấy sẽ tạo ra một niềm vui lớn: Ba tước hiệu được dành cho trẻ sơ sinh là: Hôm nay, Đấng Cứu Tinh là Đấng Kitô Đức Chúa đã sinh ra cho các ngươi, là những người nghèo và dân tộc bé nhỏ. Ba tước hiệu đều đến từ lời tuyên xưng niềm phục sinh của Giáo Hội, hai tước hiệu cuối ở môi trường Do Thái, tước hiệu thứ nhất ở môi trường lương dân để đi đôi với việc tôn thờ hoàng đế Xêdarê như vị cứu tinh. Như vậy, lời loan giảng của Giáo Hội mà Phêrô và Phaolô sẽ thực hiện sau này đã được mặc khải cho các mục tử.
Dấu chỉ –có ở đây như ở trong hai trình thuật báo tin, nhưng các người chăn chiên không đòi hỏi– thì rất trái ngược với tước hiệu Kitô học: điều đó cho phép những ai tìm dấu chỉ ấy sẽ gặp Hài Nhi mới sinh được bọc khăn, Hài Nhi ấy được đặt trong một máng cỏ chứ không phải là trong một chiếc nôi ở một đền đài đế vương nào đó. Độc giả có thể ngạc nhiên trước sự kiện dấu chỉ không có gì kỳ diệu. Trong khi Israel có thể chờ đợi Đấng Mêsia sinh ra với những dấu chỉ gây ngạc nhiên (x. ngôi sao dẫn đường các đạo sĩ ở Mt 2,2-9), dấu chỉ ở đây thích hợp với Đấng sẽ là vị Mêsia khiêm tốn và đau khổ của những kẻ nghèo, dấu chỉ ấy đặc biệt am hợp với những người chăn chiên.
Bấy giờ có tiếng khen ngợi của một nhóm đông vô kể của các thiên sứ (cc. 13-14) hợp với vị thiên sứ vừa tuyên bố Tin Mừng; bài thánh thi ngắn gọn mời các mục tử và các độc giả nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Đấng, qua việc đản sinh của Người Con Đức Maria, sẽ đem lại bình an, yên ổn, hòa hợp và thịnh vượng cho dân là đối tượng của lòng nhân hậu Ngài. Không đặt vấn đề thiện tâm mà con người có hay không để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Cảnh diễn ra trong các câu 8-14 tập trung vào những vị sứ giả từ trời: loan báo Tin Mừng và lời ngợi khen có tính cách phụng vụ. Tin Mừng từ Thiên Chúa được thông báo cho các mục tử trước khi họ loan truyền cho dân. Như ở phần trước, những chi tiết hữu hình mắt thấy được bị hạn chế tối đa.
Cho tới lúc đó, các mục tử ở trong tư thế thụ động; họ không còn thụ động nữa trong cảnh tiếp theo, nơi đó thuật lại ba phản ứng (cc. 15-20): phản ứng của các mục tử, phản ứng của những người nghe họ kể lại và cuối cùng là phản ứng của Đức Maria. Các mục tử thấy những sự việc như thiên thần đã loan báo và loan truyền lại sứ điệp của thiên thần; khi nghe họ dân chúng ngạc nhiên – như bà con của ông Giacaria (1,63), như cha mẹ của Chúa Giêsu (2,23). Câu 20 còn nói rõ hơn về các mục tử: sau khi từ máng cỏ trở về, họ làm nhiệm vụ của các thiên sứ là ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa (xcc. 13-14). Về phần Đức Maria, Người nổi bật vì thái độ đón nhận (câu 19 trong đó dội lại câu 51 chương 2). Từ sứ thần Gabriel, Người đã biết rằng con mình sẽ là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Thiên Chúa và là Đức Chúa; từ các mục tử đã được sứ thần loan báo, Người biết rằng con mình là Đấng Cứu Tinh. Nhưng một cách cụ thể các tước hiệu này có ý nghĩa gì? Nếu Đức Maria suy nghĩ về tất cả những điều đó trong lòng, chính là vì Người chưa hiểu hết ý nghĩa như chương 2 câu 50 xác minh.
Câu 20 là chuyển tiếp qua cảnh sau: như đối với người con của ông Giacaria và bà Êlisabét, đặt tên dường như quan trọng hơn nghi thức cắt bì; cả hai trường hợp đều có sự vâng theo lời sứ thần Gabriel. Cảnh đặt tên là đối tượng của một khai triển dài đối với vị tiền hô, nhưng ở đây lại không phải như vậy.
59. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM
VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG
(Lc 2,1-14)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bóng tối của một sự ra đời...
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy - nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với "sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ." J. Potin suy diễn thêm: "ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra" ("Đức Giêsu, lịch sử có thật", Centurion tr. 93).
- Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem "thành của Đavid" để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.
Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ " ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong "phòng tập thể”: (sau này chúng ta sẽ gặp lại "phòng tập thể" trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
2. Sẽ soi sáng mọi đêm tối".
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây "trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau, những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: "ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại". những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ "hèn hạ " (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ " (15, 2) ("Tin Mừng thánh Luca", Centurion tr. 38-39).
- Sứ điệp mà "các thiên thần của Chúa" mang đến cho họ là một "Tin Mừng" (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho "Toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu: "Đấng cứu độ", "Đấng Mêsia ", "Chúa " đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. "Đấng cứu độ ", "Đấng Mêsia” (Kitô), "Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36...) và của Phaolô (Cv 13,33...).
- "dấu chỉ" cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, “bọc tã nằm trong máng có", để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu ("Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học", Cerf, tr. 36).
- Lời tạ ơn “đột nhiên" vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự "bình an" mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền "hoà bình Rô-ma" Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Từ Bêlem đến Phục Sinh”
(A.George, trong "Assemblées du Seigneur", số 10, tr. 6f' 67).
"Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón... bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, "chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan " ( 2 C r 12, 9 ).
2. "Đã 2000 năm"
(Mgr. F.Favreau trong "Mùa Vọng năm 2000", Documents " épiscopat, số 14, tháng 10, 1 996).
(Tạm dịch)
Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sử giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM
VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
(Ga 1,1-18)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Lời Tựa là một Thánh Thi.
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng "Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu "trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta " (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: "Để mở đầu cho Tin Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, "Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa”, " ("L Evangile de Jean", Centurion 1 992, trang 31).
2. Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên “Khởi đầu" liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu "như điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người" (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói đến "Ngôi Lời Thiên Chúa" (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người: "Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: "Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống" và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.
- Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: "Có một Người…”
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: "ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”.
- Anh Sáng đã đến trong thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Còn trớ trêu hơn nữa, là "gia nhân của Người”, dân của Lời hứa, dân của Giao ước, "đã không đón nhận Người”.
+ "Còn những ai đón nhận Người - dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ Gioan đã viết "người phàm”, theo đúng chữ là "trở nên xác thịt”; từ "xác thịt" ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+ "Người cư ngụ giữa chúng ta" ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến "nơi ở" của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: "Chúa nói về Đền thờ thân xác Người").
+ "Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người" trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.
- Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
"Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Jean Perron nhận xét: "Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng "Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha": đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: "Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa" (Ga 13,3). Nhưng trong "tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: "Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy" (14,23)" ("Lire de Bible", số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Một câu không có "động từ " thì không có nghĩa
("Bible du Dimanche" trang 51 1-512).
(Trong tiếng Pháp, "verbe" vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
"Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: "Không ai đã được thấy Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói "Lời cuối cùng” của Người.
Chỉ có Lời ("động từ") này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta".
2. Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại.
(L. Sintas trong "Parole de diệu pour la méditation ét l'homélte -Năm C", Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
- Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.
Con Thiên Chúa "đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. "Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”.
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ".
3. Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược ("Célébrer" số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, "nhờ người". Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa...
- Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng "chúng tôi" để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: "Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...? Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con".
60. Chú giải của Noel Quesson
Lc 2, 1-14
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm" nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một “nhập đề" thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK). Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là "Sebastos", có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ". Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông "vua trần gian" như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng... để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê".
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng "Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng ta". Và những biến cố là "những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta" (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
Luca "giải thích" biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là "cứu Chúa” mà "một thiếu nữ Sion phải hạ sinh”, "trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê", giữa những người nghèo khổ, thuộc "số nhỏ còn lại"... trong "thành của Đavít". Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di... Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới "kín mật", một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào "những nhà hữu trách" chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: "Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai". Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là "trinh nữ” Vậy mà, cô lại "có thai"! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là "Cha" của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh Ta" các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, 'đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười... Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai...
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để "nhận ra" cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra " Từ giờ trở đi", Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta. Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở "củng chúng ta". Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm "trong máng cỏ", hiện diện trong một "hang" bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha". (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những "người chăn chiên", trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống "ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng "quê mùa"!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ "bé mọn", những người "nghèo khổ" những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình.
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. "Vinh quang" là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo. "Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói" của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi "Truyền đạt" của Thiên Chúa đều là "Tin Mừng tin vui". Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ "phổ quát” cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời "truyền đạt" của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố "giấy chứng minh" đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách "Cứu Chúa" này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: "Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ".
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự "nghèo khó" và "yếu đuối"! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của "ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn" (Lc 10,21). Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương".
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).
61. Thiên Chúa làm người vì chúng ta--Noel Quesson
Đêm Giáng Sinh, cả gia đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng người chủ gia đình không đi. Ông nghĩ Giáng Sinh là một câu chuyện huyền thoại, Thượng Đế mà thành một người là điều vô lý.
Đêm đông lạnh giá, vợ con đều đi lễ, một mình ông ở nhà, ngồi nghe gió lạnh rít qua khe cửa. Bỗng có tiếng đập mạnh vào cửa sổ. Hé rèm nhìn ra, ông thấy những con chim sẻ đang lao đầu vào cửa kính. Ông không muốn mở cửa dù thấy tội nghiệp lũ chim, vì ông sợ mưa hắt vào nhà. Những con chim bay vô sẽ làm náo động. Ông nghĩ nếu chúng muốn tìm chỗ ấm áp, an toàn thì có thể vào kho lúa ở phòng kế. Ông mặc áo ấm và đi hé mở cửa kho lúa. Nhưng không có cách nào kêu bầy chim vô kho lúa được, dù ông ráng gọi và ra hiệu. Những con chim không hiểu ý ông. Chúng vẫn lao đầu vô vọng vào các khung cửa kính có ánh đèn. Ông tự nhủ: giá mình là một chim sẻ thì mình sẽ dẫn cả bầy chim tìm được nơi trú an toàn ấm áp.
Nghĩ tới đó, ông chợt hiểu ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Con người rất khó mà hiểu Thiên Chúa, cũng như những chim sẻ không hiểu ý ông. Vì thế Thiên Chúa mới cần trở thành một con người, cần nói tiếng con người, sống cuộc sống con người, dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Có như thế, những ý định, những bài học của Ngài mới được con người thông hiểu và lãnh hội. Dĩ nhiên, Thiên Chúa trở thành một người có lẽ còn khiêm hạ hơn việc con người trở thành một chim sẻ. Nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự. Cần trở nên một con chim để lãnh đạo bầy chim! Cần phải có một người, cũng là Thiên Chúa, để dạy dỗ và đưa con người đến ơn cứu độ.
Bài học đầu tiên lễ Giáng Sinh dạy ta là bài học khiêm tốn. Thiên Chúa cao cả quyền uy. Trong Cựu Ước, mỗi lần Giavê xuất hiện là có sấm chớp, mây gió làm dân chúng kinh hãi giấu mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa Giáng Sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng bé nhỏ. Nhưng ngay ở xóm làng bé nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ ở, phải ra cánh đồng tạm trú trong một hang đá. Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nằm vào máng cỏ.
Người ta mong chờ Đấng Cứu Thế từ bao năm. Nhưng ai cũng nghĩ tới một Chúa Cứu Thế quyền uy, giàu có và mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới như một em bé, hèn, yếu, chẳng ai biết tới và đón chào. Đường lối Thiên Chúa bao giờ cũng bí nhiệm, xem như nghịch lý, khó hiểu, ngay cả những người đạo hạnh cũng khó nhận ra.
Thiên thần Chúa đã đến với các mục đồng, những người nghèo, và ánh vinh quang Thiên Chúa bao phủ họ, ánh quang tỏa sáng, đó là dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện. Hào quang Thiên Chúa thường xuất hiện nơi đền thánh. Từ đây, ánh quang đó che phủ những người nghèo. Chúa tự nhận mình vào số những người nghèo khó: “Việc gì các con làm cho một người nhỏ bé nhất, là các con làm cho Ta”.
Thiên thần loan báo một “Tin Vui”, một tin vui cho toàn dân. Đó là Chúa Cứu Thế đã Giáng Sinh, Ngài là Đức Kitô, là Thiên Chúa. Chúng ta có thấy tâm hồn hân hoan vui vẻ khi được đón Chúa vào lòng không? Muốn được niềm vui này, muốn nhận ra Chúa Cứu Thế và đón tiếp Ngài, phải theo đúng dấu hiệu thiên thần đã chỉ: “Một em bé sơ sinh, bọc tã nằm trong máng cỏ”. Phải đơn sơ khiêm tốn, không được khinh thường những người bé nhỏ khó nghèo. Chúa nằm trong máng như một thức ăn, để nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa, Ngài hạ mình xuống làm người, để dẫn đưa con người về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài. Xin giúp chúng con theo gương Chúa, biết hạ mình phục vụ Chúa trong mọi người, trở nên anh chị em của mọi người trong xã hội hôm nay.
62. Đêm hôm nay--Lm. Jos. DĐH
Bậc cha mẹ có nghĩa vụ chia sẻ kinh nghiệm, cho đi sự hiểu biết của mình, cắt nghĩa, giải thích, hướng dẫn con cháu từng bước đi, hoặc “kích thích” chúng chạy thật nhanh tới một danh hiệu cao quý. Phận làm con bao giờ cũng được phản ánh bởi quan niệm rất phong phú: cây tốt, sinh trái tốt; cha anh hùng, con hảo hán. Đêm hôm nay có khác đêm hôm qua không, đêm hôm nay, bậc sinh thành sẽ chia sẻ kiến thức, sự dao động của trí lòng? Đêm hôm nay, có phải tất cả những người làm con đang thổn thức vì “món quà” được hứa hẹn, hay chỉ một số trẻ em thơ ngây đã từng tỉnh thức đợi chờ? Dù nhiệt độ có thay đổi thì đêm hôm nay, cả nhân loại vẫn đang nóng lên bởi “tình người giáng sinh”, bầu khí ấm áp yêu thương ở sát gần với mọi gia đình.
Đêm hôm nay khắp trần thế đang vui mừng kỷ niệm Con Chúa giáng trần, biết bao tâm hồn đã đi theo tiến trình thức tỉnh chờ đợi của 4 tuần mùa vọng, cũng không thiếu những hoạt động sẻ chia quà Giáng Sinh cho trẻ thơ, cho người nghèo hèn bất hạnh. Đêm hôm nay trẻ em giầu nghèo, người đau bệnh hay trẻ khoẻ, người thành tâm thiện chí, kẻ mưu mô xảo kế, tất cả đều có cơ hội quy chiếu về Hài Nhi Giêsu, hang đá trí lòng mỗi người sẽ trả lời đêm nay là ĐÊM CHÚA GIÁNG TRẦN. Lời kêu gọi trở về quê quán để đăng kiểm, hình ảnh những đôi vợ chồng túng thiếu vật chất bị xã hội lãng quên, hoàn cảnh trẻ em mất đi tuổi thơ vì phải lam lũ trước cái ăn cái mặc, thương đau đó, là lời gọi hãy trở về với cõi lòng mình. Đêm hôm nay, tiếng hát Thiên Thần vẫn vang lên: vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho người thiện tâm, cho dù sự hào nhoáng và tính thế tục còn ồn ào, chưa lắng đọng.
Đêm hôm nay là “Đêm Thánh vô cùng”, cha Giuse, mẹ Maria, Hài nhi, Các Đấng thinh lặng, nhưng các mục đồng vẫn cảm nhận được niềm vui hạnh phúc, vì tin rằng Thiên Chúa cứu độ đã đến. Đêm hôm nay, sự “linh thánh” của cõi lòng, thế trần có rất nhiều bậc cha mẹ đã hiểu: “tình yêu thương” chính là căn bản nâng phận người lên làm Con Thiên Chúa, chứ đâu phải tài giỏi, giầu sang. Đêm hôm nay, dẫu chưa hết bất công, còn nhiều gia đình nghèo đói vật chất, nhiều trẻ em đường phố đang cần được quan tâm chăm sóc. Lời nói, việc làm yêu thương sẽ còn âm vang: “các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân, hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi”.
Đêm hôm nay Hài nhi Giêsu sẽ không cô đơn, khi mà người người đến hang Belem không phải chỉ có các mục đồng, nhưng là mọi đối tượng, có cả những người đến thăm vì hiếu kỳ, Chúa hằng có cách giúp họ. Đêm hôm nay, ở nơi thành thị, ở nông thôn trên khắp địa cầu, đều mọc lên hang đá và có ý nài xin Hài nhi Giêsu đến ở với muôn dân. Đêm hôm nay, nhiều người sẽ quên tuổi tác, nhiều người quên bệnh tật, quên hận thù, đơn giản vì mọi người tin rằng họ cần Chúa đến cõi lòng họ, cần tình yêu thương và ơn cứu độ. Đêm hôm nay sẽ còn là đêm liên kết muôn tấm lòng, vì có sự thông hiệp giữa các hiền tài với các mục đồng, có tiếng hát trầm ấm của các ca sĩ nghiệp dư, chuyên nghiệp, hoà chung với tiếng hát của các Thiên Thần hát nhắn gởi: “các ngươi sẽ thấy một Hài-nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
Đêm hôm nay, sự hoành tráng của niềm tin đang lấn át những phàn nàn tiêu cực: trời cho ai, người ấy hưởng, vì chưng, gặp được nhau đã là một cái duyên, có những người chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng lại khiến ta lưu luyến suốt đời. Các mục đồng năm xưa được Thiên Thần dẫn dường tới gặp Gia Đình Thánh, họ trở về cuộc sống với bao niềm vui say của hồng ân Chúa ở cùng. Đêm hôm nay, từ gia đình đến xã hội, từ người thánh đức đến người lem lấm bụi trần, mọi người không phân biệt mừng Chúa Giáng Sinh hay mừng lễ hội No-el, tất cả đều đang cùng tiếng nói yêu thương, tất cả sẽ nghe tiếng rõ đất trời giao hoà phúc an. Đêm hôm nay, trẻ vui nhà, già vui chùa, muôn dân thiên hạ sẽ thấm nhuần đạo làm người, đạo làm con Chúa thật sống động, vì Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu. Hài nhi Giêsu đang sinh ra ở khắp mọi hang đá tâm hồn, tình yêu thương của Hài nhi Giêsu hiện diện ở nơi ông già No-el, ở nơi những nhà thiện nguyện, họ thật phấn khởi chia sẻ tình thân ái cho nhau. Amen.
63. Ngày hồng phúc--Lm. Jos. DĐH
Có những ca khúc chúng ta hát hoài hát mãi và vẫn thấy hay, vì lời nhạc đã đi vào lòng người, gọi là bất tử. Có thể nhiều lần chúng ta chứng kiến tình huống con cái xúc phạm đến bậc sinh thành, rồi sau đó chúng hối lỗi, các ngài vẫn tha thứ, đơn giản vì nước mắt chảy xuôi, không chảy ngược. Xung quanh chúng ta hẳn không thiếu những người đàn ông vì “máu đỏ đen”, để rồi nhà tan cửa nát, trách trời không thương. Thời nào cũng có những người tài giỏi đức độ, mà xã hội, xóm làng bỏ qua, như không hề hay biết và trọng dụng. Mơ ước thành công, tìm kiếm hạnh phúc, là điều chính đáng, còn sử dụng thời giờ hợp lý, biết ứng xử có lý có tình, lại rất cần đến một quân sư trợ giúp, nếu không ta cũng chỉ là đứa học trò đầy thiếu sót sai lầm: cây cao bóng mát không ngồi, ra ngồi chỗ nắng trách trời không râm!
Cuộc sống chớ trêu, có những người hả hê đắc thắng cho rằng: tôi làm chơi mà ăn thật; lại cũng có khối kẻ than thở, tại sao cái nghèo khổ cứ bám theo tôi! Chẳng ai so sánh và đem lên bàn cân đo, tinh thần đạo đức giữa các luật sĩ biệt phái với những mục tử chăn chiên thế nào, cũng thật là thiếu công bằng, nếu chỉ có các mục đồng mới nhận ra hôm nay là ngày “hồng phúc”, ngày Con Thiên Chúa giáng trần. Thiên Chúa không thiên vị một gia đình hay một cá nhân nào, dịp thuận tiện để tới hang Belem, cơ hội để gặp Hài nhi Giêsu, bậc hiền tài, hoặc kẻ phàm phu đều giống nhau. Cũng không phải vì may mắn hơn người, hay vì Con Thiên Chúa đến thế trần chỉ muốn thông qua các mục đồng nghèo. Vấn đề phức tạp ở chỗ là làm sao chúng ta có thể nghe, hiểu, và cảm nhận Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thật, chuẩn, như các mục đồng?
Nghe, hiểu, tiếng hát của các thiên thần, các mục đồng không ngại cất công đến Belem khám phá sự thật về ánh quang toả rạng, dù sao thì các mục đồng cũng là những vị đã gặp, đã xem thấy, đã tin, Hài nhi nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa mà nhân loại hằng mong đợi. Ngày hôm nay, tiếng hát của thiên thần vẫn đang vang lên, tiếng hát ấy vẫn là thiêng liêng, bất tử, mọi người có lòng thành đều cảm nhận được ngày giờ là của Chúa, thời gian cứu độ là của Chúa. Ngày hôm nay là ngày yêu thương, ngày mà Con Thiên Chúa sẽ khởi đầu cho kế hoạch giải thoát tội lỗi cho từng tâm hồn chúng ta.
Hành trình mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay đến Belem, hẳn vẫn như các mục đồng, bầu khí thinh lặng, nhưng ấm áp tình Chúa, tình người, mắt tâm hồn sẽ giúp ta hiểu thế nào là tình yêu Thiên Chúa. Ngày hôm nay sẽ mãi là ngày thánh, vì cường độ của tình yêu tỉ lệ với việc lãnh nhận ơn ban, người được gặp, được xem thấy, cũng là người tin Thiên Chúa yêu thương cứu độ. Ngày hôm nay, ở bên hang đá không còn là cô đơn lẻ bóng một vài cá nhân ngoan đạo, vì sự linh thánh vẫn đang toả chiếu vào tâm trí con người một niềm vui, một tình yêu không đổi thay, cũng là tình yêu của Thiên Chúa cứu độ. Ngày hôm nay, hang đá của cõi lòng mỗi người đã và đang được biến đổi thành bầu khí tin yêu, cầu nguyện, và niềm an vui thực sự trở nên chứng nhân tin mừng cho toàn dân.
Ngày hôm nay chính là ngày hồng phúc, ngày mà từng người trong chúng ta đây sẽ trở nên những mục đồng, được ghi tên vào lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ngày hôm nay, mỗi chúng ta đã ý thức việc đến Belem chưa đủ, nhưng chúng ta sẽ kết hiệp cầu nguyện để thấu hiểu Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa đến trần gian là vì muốn chúng ta được sống và sống hạnh phúc. Ngày hôm nay, người ta yêu thôi chưa đủ, người ta phải thấu hiểu tâm hồn nhau, chứng minh được lực hút của con tim khối óc mới gọi là tình yêu đúng nghĩa. Con Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta sòng phẳng theo quan niệm hòn đất ném đi, hòn chì ném lại, song niềm tin yêu của mỗi người phải được trưởng thành theo chiều dài chiều rộng của thời gian.
Cha ông chúng ta có câu: người khôn nói ít làm nhiều, còn như người dại lắm điều điếc tai. Các ngài có ý nhắc nhớ con cháu hãy bằng lòng với sự hiểu biết của mình, mỗi người hãy sống tận tâm tận lực, qua đó mỗi ngày sống là mỗi ngày chúng ta hiểu được giá trị của tình yêu mà chúng ta lãnh nhận. Các mục đồng đến hang Belem thờ lạy rồi cũng sẽ trở về với cuộc sống thường ngày, nhưng chứng nhân về Hài nhi Giêsu vẫn là trọng trách của các mục đồng. Hang đá do tay con người làm ra cho Chúa Hài nhi hôm nay, dù có lộng lẫy đồ sộ tới đâu rồi cũng sẽ cất vào kho, nhưng người nghèo khó bất hạnh vẫn ở xung quanh chúng ta, sứ mạng Con Thiên Chúa đi vào tâm hồn mỗi người không thể im lặng và đửng dưng khi chúng ta đã từng được ơn ban. Xin tình yêu của Đấng Emmanuel, mãi mãi ở trong tâm hồn chúng ta, hầu mỗi giây phút trong đời, trong ngày, mỗi lời nói việc làm của chúng ta đều phản ánh được giá trị tình yêu thương của Chúa. Amen.
64. Một người con đã được ban tặng cho ta--Lc 2,11--Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Mỗi độ Giáng Sinh về, chúng ta tặng quà cho người thân, bạn bè. Mỗi món quà dù lớn, dù bé, dù đắt hay rẻ, đều mang thông điệp yêu thương mà người tặng gửi gắm trong đó. Khi nhận quà, người nhận phải khám phá và đọc ra được sứ điệp đó.
1- Món quà ý nghĩa
Người ta kể rằng: có một anh lính từ chiến trường xa trở về thăm vợ con nhân dịp mừng lễ Giáng Sinh. Lâu ngày xa cách, nhớ vợ thương con, nay được trở về, anh muốn mua một món quà để tặng vợ nhưng trong túi không có đồng nào. Về gần tới nhà, anh nghĩ ra một cách làm vợ con ngạc nhiên. Anh lấy một băng vải, viết lên trên đó hàng chữ: “Quà tặng em.” Rồi anh mang lên ngực. Nghe tiếng gõ cửa. Người vợ liền mở cửa và rất vui mừng vì thấy chồng trở về bình an. Nhưng bất ngờ và ngạc nhiên khi nhìn thấy hàng chữ, người vợ xúc động và ôm lấy anh. Vì quả thật đối với chị, chồng là món quà quý nhất, hơn mọi món quà khác trong ngày lễ Giáng Sinh.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta nói đến một món quà khác giá trị hơn các món quà vật chất. Đó là món quà Hài Nhi Giêsu mà Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta.
Quả thế, từ xa xưa trong Cựu Ước, tiên tri Isaia tiên báo về món quà mà Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu độ ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (Is 9,1.5). Những lời này đã thực ứng nghiệm qua biến cố Con Thiên Chúa sinh ra tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm. Đó là Tin Mừng cho toàn thể nhân loại, được các thiên thần loan tin trong bài Tin Mừng: “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em, trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11).
2- Quà tặng và người tặng quà
Thần học gia nổi tiếng người Đức, Karl Rahner nói rằng: “Nơi Thiên Chúa, người tặng và quà tặng là một. Thiên Chúa không ban một cái gì, một vật gì, mà ban chính mình Người cho chúng ta. Nhờ quà tặng là Thiên Chúa, mà chúng ta mới có thể đón nhận sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta.” Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chính Con Một yêu dấu của Người.
Thật vậy, Đức Giêsu là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại. Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ con người nên Người sai Ngôi Hai xuống thế làm người, cứu nhân độ thế. Chiêm ngắm biến cố này, thánh Gioan cảm nghiệm: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Khi tặng ban Con Một, Thiên Chúa đã ban điều lớn lao nhất, điều quý giá nhất, để minh chứng tình yêu lớn lao nhất của Người đối với nhân loại. Yêu là cho đi. Yêu là hiến mình. Yêu là cứu độ.
Thế nên, sứ điệp mà Hài Nhi Giêsu mang đến cho nhân loại trong đêm nay là sứ điệp yêu thương: Thiên Chúa yêu thương chúng ta; Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta. Nếu lịch sử của con người là lịch sử của sa ngã và phản bội, thì lịch sử của Thiên Chúa là lịch sử của trung thành và cứu độ. Thiên Chúa không bỏ mặc con người phải hư mất trong lầm than và tội lỗi.
Thánh Phanxicô Assisi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự vấn: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng.”
3- Trở nên quà tặng cho nhau
Đêm nay, chúng ta cử hành đại lễ mừng Con Chúa giáng sinh. Đây là đêm an lành, đêm hồng ân và đêm ánh sáng. Tất cả chúng ta được mời gọi quỳ bên hang đá, để thờ lạy Chúa Hài Nhi, chiêm ngắm Con Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn, để cảm nghiệm tình thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Lễ Giáng Sinh là “lễ tình thương,” tình Chúa giáng sinh trên tình người. Khi đón nhận món quà giáng sinh, niềm vui giáng sinh là Chúa Hài Đồng, chúng ta hãy mang Chúa về trong gia đình và chia sẻ niềm vui đó với mọi người xung quanh. Sứ điệp giáng sinh là sứ điệp hãy sống hòa bình, tôn trọng và nhân ái đối với tha nhân. Và để sống mùa Giáng Sinh ý nghĩa, thánh Phaolô trong bài đọc II mời gọi chúng ta: “Phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2,11-12).
Chúng ta cũng được mời gọi trở thành món quà cho nhau. Nếu trong gia đình và cộng đoàn, ai chưa hòa giải với Chúa và với nhau, mùa Giáng Sinh và năm mới là dịp thuận tiện để chúng ta hòa giải với Chúa và làm hòa với nhau. Như thế, việc cử hành lễ Giáng Sinh mới mang lại ý nghĩa đích thực cho chúng ta. Bởi lẽ, như lời các Giáo Phụ dạy: “Nếu Chúa Giêsu tiếp tục giáng sinh hàng ngàn lần ở Bêlêm, mà không một lần giáng sinh trong lòng chúng ta, thì những lần giáng sinh đó có mang lại ý nghĩa gì cho chúng ta chăng?”
Kính chúc anh chị em được đầy niềm vui, ân sủng của Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh và năm mới này. Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng chúc lành cho tất cả chúng ta. Amen!
65. Hài nhi Giêsu là ai?--Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong ngày mừng đại lễ Sinh Nhật Chúa Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu câu trả lời cho câu hỏi: “Hài Nhi Giêsu là ai?”
Bài Tin Mừng trong lễ Ngày Giáng Sinh được trích từ lời Dẫn nhập của Tin Mừng Gioan. So với thánh lễ Đêm và thánh lễ Rạng Đông Giáng Sinh, chúng ta thấy sự khác biệt rõ rệt trong bài Tin Mừng của ngày lễ này. Trong khi các bài Tin Mừng của các thánh lễ trước là những tường thuật về biến cố Chúa Giêsu sinh ra đã xảy ra như thế nào, ở đây, trong Tin Mừng Gioan, chúng ta được dẫn tới một suy tư sâu sắc về ý nghĩa của tường thuật giáng sinh này. Vì thế, ở đây, chúng ta không có một tường thuật về việc Chúa giáng sinh, nhưng chúng ta có một lối nhìn chiêm niệm cao siêu về sự sinh hạ của Chúa Kitô và chúng ta có câu hỏi như là tâm điểm suy niệm của chúng về ngày Lễ Giáng Sinh: Chúa Giêsu là ai? Hài Nhi vừa mới sinh là ai? Tại sao chúng ta phải cử hành sinh nhật của Người?
Chúng ta tìm thấy câu trả lời rất rõ ràng ngay tại những dòng đầu tiên của Tin Mừng Gioan: Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, là Ngôi Lời (Logos) hằng hữu. Người hiện hữu với Thiên Chúa trước khi tạo thành thế giới. Người ở với Thiên Chúa và Người đã là và là Thiên Chúa.
Điều này đòi hỏi chúng ta có cặp mắt đức tin để có thể nhìn thấy trong Hài Nhi nhỏ bé này là Thiên Chúa, là Ngôi Lời hằng hữu, Người có tiền hữu từ trước khi tạo thành thế giới.
Trong bài đọc II, thư Do Thái quả quyết: Người chính là Lời của Thiên Chúa, Đấng đã hoạt động trong tiến trình sáng tạo. Nhờ Người mọi sự được tạo thành. Chúa Cha đã tạo dựng mọi sự và mọi loài nhờ Ngôi Lời. Ngôi Lời cũng chia sẻ vinh quang, vinh dự và quyền năng với Chúa Cha. Người là ánh sáng cho muôn dân. Người là ánh sáng bởi ánh sáng (x. Hr 1,1-6). Đó là điều chúng ta tin và tuyên xưng trong Kinh Tinh Kính Nicêa: “Người là ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha.” Nguồn gốc của Chúa Giêsu được nói ở đây bắt nguồn từ Lời tựa của Tin Mừng Gioan.
Như thế, câu hỏi Chúa Giêsu là ai được thánh Gioan và tác giả thư Do Thái trả lời cho chúng ta hôm nay: Người là Ngôi Lời Thiên Chúa; Người là ánh sáng của Chúa Cha; Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng mà duy trì vạn vật. Nhờ Người chúng ta mới hiện hữu và mới được sống. Nếu không có Người, không có gì được tạo dựng; Người chính là Lời sáng tạo của Chúa Cha.
Một phần của mầu nhiệm mà chúng ta đang cử hành là Ngôi Lời hằng hữu này, Ngôi Lời mà nhờ Người chúng ta hiện hữu và sống động, Ngôi Lời đó được sai đến, làm người và ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy hình dung xem: Đấng Tạo Hóa nay đã trở thành một thụ tạo, chia sẻ mọi điều kiện của thụ tạo mà Người đã tạo dựng! Thật khó tin quá! Chúng ta hãy dành nhiều thời gian trong ngày này để suy nghĩ về điều đó. Hình ảnh của Đấng Sáng Tạo quyền năng nay trở thành một em bé, nghèo hèn, đơn sơ, nhỏ bé, như chúng ta. Đấng mà nếu không có Người, chúng ta không hiện hữu được, nay lại trở thành một thụ tạo mỏng giòn như chúng ta; Đấng Sáng Tạo ra khỏi tình yêu, tự do để vâng lời Chúa Cha đã xuống thế, cắm lều ở giữa chúng ta. Người thực sự trở thành một người như chúng ta. Người vui với niềm vui con người. Người buồn với nỗi buồn chúng ta. Người cũng đói khát, cũng bị cám dỗ; Người cũng trải qua mọi kinh nghiệm thường nhật của kiếp người, ngoại trừ tội lỗi. Người thực sự “cắm lều” ở giữa chúng ta. Người thực sự đã hội nhập, sống chết với điều kiện con người. Ôi, đây thật là một vinh dự lớn lao! Thật hạnh phúc vì chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa và Thiên Chúa thuộc về chúng ta.
Chúng ta hãy hình dung, nếu có một ai đó cao trọng đến viếng thăm gia đình chúng ta, chẳng hạn như một giám mục viếng thăm một gia đình giáo dân nghèo, chúng ta thường nghe họ nói: Lạy Chúa tôi, nhà con không đáng để Đức Cha đến viếng thăm! Chúng con bất xứng để được Đức Cha viếng thăm…” Đó cũng là vọng lại âm hưởng của lời mà viên đại đội trưởng trong Tin Mừng khi ông gặp Chúa Giêsu và chúng ta nói trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.” Đó là cách thức Thiên Chúa đến với chúng ta, khi Người trở thành một người bé mọn, để chúng ta có thể tới gần Người và yêu mến Người. Người trút bỏ mọi thứ vinh quang, địa vị của Thiên Chúa, để trở thành một người trong chúng ta; Người quả thật là Thiên Chúa ở với loài người. Nhờ đó, chúng ta có thể đến gần, đụng chạm tới Người và yêu mến Người.
Nhưng có một thực tế thật đáng buồn vì con người đã và đang khước từ Con Thiên Chúa. Sự hiện diện của Ngôi Lời Thiên Chúa trong cách thức nhân loại, trong con người Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta có sự đáp trả, nhưng thay vì đáp trả nhiều người khước từ Người. Đoạn Tin Mừng hôm nay không dấu diếm thực tại đáng buồn này: Người đến với gia nhân của mình. Nhưng gia nhân Người không tiếp nhận Người (Ga 1,11). Đây là điều đáng buồn vì Chúa Giêsu có thể bị từ chối bởi chúng ta. Con người không nhìn thấy nơi Người ánh sáng của Thiên Chúa, ánh rạng ngời của Chúa Cha, họ không nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Người. Nên họ không thấy và không đón nhận Người. Sự thật này có thể vẫn còn xảy ra hôm nay, cả trong ngày lễ Giáng Sinh: chúng ta đón nhận điều gì? Chúng ta đón nhận quà tặng, thích nhận phần thưởng và nhận lời mời đi dự tiệc… Chúng ta đón nhận rất nhiều món quà Giáng Sinh, cả những ân sủng và phúc lành nữa, nhưng có thể chúng ta không đón nhận chính Chúa Giêsu, là nhân vật chính của ngày lễ, là ánh sáng của Chúa Cha. Thật là một niềm vui lớn lao khi biết rằng Chúa Giêsu đến với chúng ta vì một mục đích như Tin Mừng Gioan nói: Người đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta để Người cho chúng ta quyền trở nên con Thiên Chúa (x. Ga 1,12). Người đến để chia sẻ với chúng ta quyền làm con của Người. Người đến để dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha, vì Người là đường dẫn tới Thiên Chúa. Người đến để thần hóa chúng ta và làm cho chúng ta nên giống Người.
Như thế, lễ Giáng Sinh không phải là dịp làm cho chúng ta thu nhập nhiều hơn vì quà cáp; cũng không phải là ngày lễ hội để chúng ta vui chơi, ăn uống nhiều hơn v.v… Nhưng là ngày để đón nhận ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta qua Hài Nhi Giêsu. Ngôi Lời trở thành người phàm nhờ đó chúng ta được trở thành con Thiên Chúa. Đây chính là quà tặng lớn nhất mà chúng ta đón nhận nơi Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nhận biết hồng ân đó. Chúng ta hãy học biết sứ mạng và hồng ân mà Người mang đến cho chúng ta hôm nay khi đến chiêm ngắm và thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi hang đá. Người là Ngôi Lời hằng hữu, là Thiên Chúa, nay làm người để cứu độ chúng ta.
Kính chúc anh chị em một Mùa Giáng Sinh an lành, thánh đức và tràn đầy ân lộc của Chúa Hài Đồng Giêsu. Amen!
66. Từ trí qua tâm, đến hành động--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Thế là một mùa Giáng Sinh lại đến với nhân trần. Với bà con rất nhiều quốc gia trên thế giới thì bầu khí Giáng Sinh như đã mở hội từ đầu tháng 12. Bóng hình các ông già Noel lẫn bà già Noel tung tăng khắp các đường phố và cả ngõ ngách chốn thôn dã để gieo rắc niềm vui và tình thương đến mọi nhà. Có thể nói mùa Giáng Sinh là mùa của ân tình, mùa của thiện tâm. Mong sao tâm tình và sứ điệp Giáng Sinh không dừng lại trong một vài ngày của tháng 12 mà phải được thắp sáng trong suốt hành trình dương thế của con người, mọi thời và mọi nơi.
“Anh em đừng sợ! Này ta báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh…Người là Đức Kitô…”(Lc 2,10). Đấng giáng sinh chính là Mặt trời công chính và là Hoàng tử hòa bình. Ngài bỏ trời cao xuống thế gian này là để chiếu soi ánh sáng chân lý cho muôn người như lời Ngài khẳng định với Philatô (x.Ga 18,37). Ai đón nhận chân lý Ngài truyền thì sẽ được giải thoát khỏi ác thần và hiệu quả là sẽ được sự bình an và hạnh phúc đích thực (x.Ga 8,21-22).
Đã là người thì dẫu trong thời đại nào, hoàn cảnh nào đều khát mong được sống trong bình an và hạnh phúc. Theo các con số thống kê của các Bộ Ngành, nhất là Ngành Y tế nước Việt chúng ta thì dường như khát mong ấy đang còn quá xa khi mà chính sức khỏe, sự sống của con người đang bị đe dọa đủ bề. Căn bệnh ung thư đã hủy hoại sự sống hơn 300 người dân Việt mỗi ngày mà nguyên nhân chủ yếu là do thực phẩm bẩn, độc hại. Theo thống kê của Viện nghiên cứu phòng chống ung thư, ước tính Việt Nam có khoảng 94.000 người chết vì ung thư/năm. Bên cạnh đó vấn đề đáng lo ngại là số người mắc bệnh ung thư ở Việt Nam đang có xu hướng ngày một tăng nhanh. Năm 2000 Việt Nam có khoảng 69.000 ca ung thư mắc mới, năm 2015 lên đến 150.000 ca mắc mới. Ước tính đến năm 2020 số ca ung thư mắc mới ở Việt Nam sẽ xấp xỉ 200.000 người, một con số nếu xét tỷ lệ với dân số thì cao nhất thế giới. (Báo Việtnammới – Ung thư ở Việt Nam: Những con số đáng ngại -ngày 19-3-2018). Theo VTV – Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, mỗi năm có khoảng 300.000 ca phá thai. Đây chỉ là con số được báo cáo tại những cơ sở y tế công, số lượng thực tế chắc chắn lớn hơn rất nhiều vì chưa kể các sơ sở y tế tư và những điểm phá thai chui. (VTV9-Thứ hai, ngày 02/07/2018 11:08 GMT+7). Chỉ với con số thống kê qua các cơ sở công mà thôi thì nước Việt Nam đã đứng hàng thứ ba trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Nga.
Vì sao con người lại hành xử tàn ác với đồng loại như thế, lại độc ác với cả giọt máu của mình? Nhìn lại lịch sử thì dân Việt chúng ta vốn có đó chữ thiện trong tâm. Chuyện “thương người như thể thương thân”; “lá lành đùm lá rách”; “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… là chuyện như rất thân thương và bình thường của con dân máu đỏ da vàng Việt Nam. Thế thì ví cớ nào sự độc dữ lại xảy ra nhan nhãn trước mắt chúng ta chỉ nội mấy mươi năm gần đây?
Cha Giuse Việt trình bày trên trang mạng xã hội của ngài qua nhân vật một nhà giáo nhận định rằng các hành vi độc dữ có nguồn là từ cái tâm ác. Cái tâm ác độc là do bởi cái trí lệch lạc, sai lầm. Xưa nhà độc tài Hitler đã gieo vào cái đầu của nhiều cộng sự viên và dân chúng thời Đức quốc xã cái ý tưởng cao ngạo về một sắc dân ưu việt Aryan. Và từ cái sai lầm về cái ý tưởng chủng tộc ưu việt của họ nên họ đã dã tâm tru diệt một sắc dân Do Thái mà họ cho là cạnh tranh với chủng tộc họ. Khoảng sáu triệu người Do Thái đã bị giết cách dã man, đặc biệt trong các lò hơi ngạt. ( Face book Joseph Viet)
Phải chăng vì bị gieo rắc một cái nhìn không có Đấng Tạo Hóa, không có linh hồn, không có lương tâm, cũng chẳng có đời sau hay chuyện thưởng phạt nên người ta dần dà làm cho lương tâm của mình thành chai đá và rồi nhìn tha nhân chỉ như là kẻ cạnh tranh sinh tồn với mình. Từ cái ý tưởng lầm lạc ấy trong đầu thì rồi sẽ dần làm cho cái tâm của ta thành ra ác, xấu khi nào chẳng hay và dẫn đến các hành vi ác độc là chuyện như đương nhiên. Miễn sao có lợi cho tôi, cho gia đình tôi, cho nhóm của tôi thì tôi sẵn sàng làm mọi sự bất nhân, vô đạo. Và chuyện sản xuất bán buôn lương thực, thực phẩm độc hại, chuyện phá thai vô tội vạ, chuyện buôn bằng bán chữ, gian lân thi cử, chuyện xách nhiễu, hối lộ, tham ô và những cuộc thanh trừng độc ác khác là những hậu quả kéo theo mà thôi.
Đêm nay, cùng với tín hữu Kitô nói riêng và cùng với cả nhân loại trên thế giới chúng ta mừng kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa giáng trần. Thiên Chúa đã làm người trong thân phận của một bé thơ nghèo hèn nhắc nhở cho chúng ta về phẩm vị cao quý của con người. Dù là một bé thơ dân dã hay một bào thai dị tật trong dạ mẹ… tất thẩy đều là hình ảnh của Đấng Tạo Thành, vì thế cần phải được trân quý, tôn trọng và bảo vệ. Chúng ta tin nhận Đấng làm người là Mặt trời công chính. Ngài đến để rọi soi chân lý cho loài người. Một trong những chân lý nền tảng Ngài chiếu tỏa đó là loài người chúng ta là loài thụ tạo, được dựng nên do bởi tình yêu và quyền năng của Đấng Tạo Thành là Thiên Chúa. Đấng Tạo thành chúng ta tôn thờ chính là Cha Toàn năng chí ái và như thế chúng ta là anh chị em với nhau. Con Thiên Chúa giáng sinh làm người đã mạc khải chân lý ngàn đời này khi dạy chúng ta lời kinh duy nhất: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9-13)
Đến với máng cỏ chúng ta sẽ nhận ra cội nguồn của mình và từ đó hiểu được mối tương quan giữa mình với tha nhân. Từ cái trí suy đúng đắn và chuẩn mực này thì cái tâm thiện sẽ được dệt xây và từ đó hình thành các hành vi liên đới yêu thương.
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (Lc.2,14). Phải xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Lời Thánh Vịnh khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương hết thảy mọi loài do tay Người tác tạo. Thế nhưng để có được sự bình an và hạnh phúc đích thực thì còn tùy sự đáp trả của con người vốn là loài được Thiên Chúa phú ban cho sự tự do. Một trong những điều kiện tất yếu phải có, đó là cái thiện tâm của con người. Và ta có thể nói: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người có thiện tâm. Sứ điệp Giáng Sinh là thế đó. Đến với Con Thiên Chúa làm người để cái tâm của chúng ta dần dà được cải thiện. Có được thiện tâm thì bao hành vi yêu thương liên đới sẽ tự nhiên thành hiện thực. Sự bình an và hạnh phúc sẽ ngày càng tỏa lan. Và dĩ nhiên để có cái tâm thiện thì trước hết cần loại bỏ cái lối nghĩ suy cao ngạo sai lầm cho rằng không có Đấng Tạo Thành; không có linh hồn, không có đời sau; không có chuyện thánh thiêng và cứ mãi ngông cuồng lầm lạc cho rằng tín ngưỡng và tôn giáo chỉ là một thứ thuốc phiện. Đây là lối nghĩ suy của một chủ nghĩa đã bị Nghị Viện Châu Âu kết vào tội ác chống loài người và theo Victor Hugo nó “là giấc mơ của vài người nhưng là cơn ác mộng của nhân loại”.
67. Đêm ánh sáng – Đêm an bình--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Bầu khí của đêm Giáng sinh hôm nay cho chúng ta một cảm nhận rất lạ, một bầu khí nhẹ nhàng, bình an thanh thản trong tâm hồn, mặc dù cuộc sống bên ngoài có vẻ như rất vội vã. Cùng với muôn màu lấp lánh của hàng vạn dây điện là những bài thánh ca du dương mừng Con Chúa ra đời, khiến cho lòng người như lâng lâng bước vào một khung trời mới. Cảm nhận này không chỉ là của riêng những Kitô hữu, mà là cảm nhận chung của nhiều người. Trong đêm Giáng sinh, mặc dù chưa tin Chúa, nhưng nhiều người đang hiện diện nơi đây cũng muốn hòa mình vào niềm vui chung của nhân loại trong đêm Giáng sinh này. Tại sao vậy?
Dù muốn hay không muốn, tin hay không tin, thì nhân loại này cũng không thể phủ nhận được đêm nay là đêm mừng sự kiện Đức Giêsu giáng sinh. Ngài là Đấng mà các Kitô hữu tin là chính Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, là nguồn ánh sáng và là Hoàng Tử – Vua Bình An. Cuộc giáng sinh của Ngài đã đặt một cột mốc, mở ra một trang sử mới cho cả nhân loại. Các bài đọc Kinh Thánh đêm nay muốn giới thiệu cho chúng ta cuộc Giáng sinh trong đơn sơ khó nghèo của vị Vua Bình An này.
Từ năm trăm năm trước công nguyên, tiên tri Isaia đã nói trước về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Lúc đó, dân Israel đang sống trong cảnh tăm tối của tình trạng lưu đày khổ dịch bên Babylon. Trước mặt họ là một tương lai mờ mịt, niềm hy vọng trở về Giêrusalem khôi phục lại đất nước còn quá mong manh xa vời. Những lời của Tiên tri Isaia hôm nay là nguồn tăng lực cho họ, lời lẽ của ông ngập tràn ánh sáng: “Đoàn dân đang bước đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng huy hoàng. Những người ngồi trong bóng tối nay được chiếu soi. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm vui mừng hoan hỷ. Họ hân hoan vui mừng như trong mùa gặt”.Tiên tri Isaia cho thấy lý do đổi đời của họ là vì một Đấng Cứu Tinh sẽ sinh ra, được ban tặng cho nhân loại. Đấng Cứu thế sẽ đem lại ánh sáng, niềm vui và hạnh phúc cho Israel. Ngài sẽ bẻ gẫy cái ách nô lệ đang đè trên cổ họ, Ngài thiêu hủy những cái roi đang quất xuống trên họ. Những đoàn quân của kẻ áp bức sẽ bị dẹp tan và một tương lai mới sẽ được thiết lập và ban tặng cho Israel. Vì Đấng Cứu Thế được sinh ra sẽ là đấng quyền năng, là người cha muôn thuở, là thủ lãnh hòa bình. Ngài sẽ thiết lập hòa bình trên toàn cõi địa cầu.
Lời tiên báo của Isaia ngày xưa đã được ứng nghiệm nơi cuộc sinh hạ của Đức Giêsu mà Thánh Luca thuật lại. Nếu Isaia dùng những hình ảnh hết sức mạnh mẽ, cụ thể để nói về Đấng Cứu Thế, thì hôm nay cuộc giáng sinh của Ngài lại hết sức đơn sơ, thầm lặng đến bất ngờ. Các mục đồng là những người đầu tiên được loan báo tin mừng trọng đại này và là những nhân chứng đức tin đầu tiên về cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa đã chọn một con đường hết sức bình thường để bước vào trần gian trong gia đình Giuse – Maria. Giuse và Maria cũng giống như bao gia đình khác tại Israel, nhưng Giuse và Maria là những người biết rõ nhất về hài nhi mà Maria đang cưu mang không phài là người thường, mà là “Con Đấng Tối Cao”. Vì sự nghèo khó của hai ông bà, nên khi về quê, họ không được người thân đón tiếp và cũng không có khả năng để thuê một quán trọ để qua đêm. Hai ông bà đã phải tìm đến một túp lều ngoài cánh đồng để dừng chân. Chính trong đêm đó, trong khung cảnh tồi tàn đáng thương đó, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh. Bà Maria sinh một con trai đầu lòng, lấy tã bọc con và đặt nằm trong máng cỏ.
Tin Mừng cho thấy sự tương phản nơi khung cảnh nghèo hèn của một hang bò lừa với vẻ huy hoàng của sự xuất hiện của Thiên Chúa. Giữa đêm tăm tối, ánh sáng đã bừng lên, vinh quang của Thiên Chúa đã tràn ngập bầu trời. Những con người đầu tiên được đón nhận tin vui trọng đại này là các mục đồng. Họ là những người thấp kém trong xã hội, những người nghèo, bị loại trừ, phải đi làm thuê làm mướn, nhưng họ có một tâm hồn thật đẹp, thành tâm thiện chí, khao khát Đấng Cứu Thế. Thánh Luca thuật lại: “Sứ thần của Thiên Chúa hiện ra đứng bên họ, vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa khắp vùng khiến họ sợ hãi kinh hoàng. Sứ thần đã trấn an họ: Anh em đừng sợ, này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.
Trong suốt thời gian đợi chờ, người Do Thái chỉ mong ngày “Thiên Chúa viếng thăm” như xưa Người viếng thăm dân Người, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và đưa họ về từ đất Babylon. Với cuộc giáng sinh của hài nhi Giêsu, sứ thần đã quả quyết với các mục đồng rằng: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã đến với anh em”.Hôm naylà cột mốc thời gian Thiên Chúa viếng thăm nhân loại, để vĩnh viễn giải thoát nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, khôi phục lại phẩm giá và địa vị cho con người và đưa nhân loại trở về quê hương là Nước Trời. Vì thế khi nghe những lời loan báo của sứ thần, các mục đồng đã nhận ra đêm nay là đêm khởi đầu một kỷ nguyên mới, Đấng Cứu Độ là Hoàng Tử Bình An, là Đấng sẽ xóa tan màn đêm u tối, sẽ bao trùm nhân loại này bằng ánh sáng vinh quang và quyền năng của Ngài. Các thiên thần cũng chỉ cho các mục đồng một dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu Thế, đó là: “Một trẻ sơ sinh được bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ”.
Các thiên thần và đạo binh thiên quốc đã phá vỡ sự im lặng và u tối của cánh đồng Bêlem bằng ánh sáng và những lời ca tụng Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.Lời ca này còn âm vang đến chúng ta ngày hôm nay và cho thấy khi Danh Chúa được tôn vinh ca tụng, được mọi người nhận biết, tôn thờ, thì bình an của Thiên Chúa sẽ ban xuống cho tất cả nhân loại là những kẻ Ngài đã yêu thương. Lời ca của sứ thần còn trao gửi cho chúng ta sứ mạng phải có bổn phận góp phần làm cho Danh Chúa được tôn vinh trên trời và dưới đất, mọi người nhận biết tôn thờ và là những người đem bình an của Chúa đến cho mọi người mọi gia đình và toàn thể nhân loại này.
Thế giới ngày nay vẫn chưa ngưng tiếng súng, sự bất công đói nghèo đang là mối đe dọa cho nhân loại. Những cuộc di dân lớn tại Châu Âu, Châu Mỹ đang khiến nhiều người bất chấp nguy hiểm, bỏ lại gia đình và quê hương để tìm đến nơi yên ổn. Bình an, ánh sáng và niềm vui Giáng sinh của Thiên Chúa dường như chưa đến được với những con người đau khổ này. Cũng vậy, quanh chúng ta còn nhiều người, nhiều gia đình vẫn đang sống trong cảnh bất an, bất ổn, đang bị đau khổ dày vò. Tình trạng bạo lực, giết người, phá thai dường như đang càng ngày càng gia tăng. Con người dường như càng ngày càng đánh mất phẩm giá của chính mình, để cho mình sống theo bản năng, phản ứng và cư xử với nhau thiếu tình người vv. Chúng ta sẽ phải làm gì để có thể đón nhận được sự bình an của Chúa Giáng Sinh, để phục hồi lại phẩm giá và tình trạng thánh thiện của tâm hồn?
Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta rằng: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được ban tặng cho con người. Ân sủng cao quý nhất chính là Đức Giêsu Kitô. Ân sủng này dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vây là vì chúng ta là những người trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi là ngày Chúa đến để đưa chúng ta về với Chúa”.Như thế có nghĩa là những Kitô hữu tuyên xưng Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian, phải đón nhận Ngài và sống theo lời dạy của Chúa Giêsu. Chúng ta phải dám từ bỏ khỏi mình lối sống bất công, gian dối, gian ác, không dùng bạo lực để đáp lại bạo lực nhưng dùng tình yêu và tha thứ. Chúa đến để phục hồi phẩm giá con người, vì thế chúng ta cần phải biết tôn trọng phẩm giá chính mình và tôn trọng phẩm giá người khác, tôn trọng sự sống và sức khỏe người khác, bảo vệ giúp đỡ những người yếu đuối, đón nhận và bảo vệ các thai nhi và các trẻ em. Khi cố gắng sống mỗi ngày như thế, niềm vui, ánh sáng và bình an của Chúa Giáng Sinh sẽ ngập tràn trong tâm hồn chúng ta và sẽ là niềm vui làn tỏa đến những người chung quanh.
Kính chúc mọi người mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an, tình yêu thương và phúc lành của Thiên Chúa. Amen
68. Loan báo niềm vui Giáng Sinh cho anh em--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có dịp quan sát các bạn trẻ dắt nhau đi xem hang đá và dự lễ Giáng Sinh, nhiều người tỏ ra khá rụt rè. Được hỏi thăm, một bạn đã nói: “Con là người ngoại đạo, nhưng quen với các bạn Công Giáo, các bạn ấy rủ đi chơi đêm Giáng Sinh, nghe thánh ca và dự lễ, nên con cũng đến đây. Điều khiến con ấn tượng đó là trong bầu khí ấm cúng của thánh đường, những bài thánh ca giáng sinh được hát lên ngân nga vui tươi thánh thiện như tiếng hát của thiên thần”.
Thưa quý OBACE, đại lễ mừng Chúa Giáng sinh ngày nay không còn phải là lễ riêng của người Kitô hữu, mà đã trở thành ngày lễ cho nhiều người kể cả những người ngoại giáo. Đây là điều đáng mừng và cũng đáng lo ngại. Đáng mừng, vì là dịp để nhiều người biết đến đạo Công Giáo, và biết về ngày lễ mừng Chúa Giêsu Giáng Sinh. Còn việc Ngài Giáng sinh để làm gì thì nhiều người vẫn chưa biết. Điều đáng lo là một khi lễ Giáng sinh trở thành ngày lễ hội, thì chính những Kitô hữu chỉ còn đón mừng ngày lễ này như một dịp lễ hội dân gian giống như bao nhiêu lễ hội dân gian khác, là dịp đi chơi, mua sắm mà thôi và cũng không biết Chúa Giáng sinh để làm gì.
Các bài đọc Lời Chúa thôi thúc chúng ta theo bước các mục đồng: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem những việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết. Họ đến nơi và gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh được đặt nằm trong máng cỏ… Các mục đồng khi trở về vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa và nói cho mọi người những điều mắt thấy tai nghe”.Mừng lễ Chúa Giáng sinh hôm nay, Tin Mừng muốn chỉ cho chúng ta ba bước đi trong đức tin của các mục đồng. Các mục đồng không đi xem Hài Nhi như người ta đi xem hang đá, nhưng họ tin theo lời của sứ thần để lên đường; gặp và tin Hài nhi Giêsu là Đấng Messiah và khi trở về hân hoan nói cho mọi ngườivề niềm tin của mình.
Đang đêm các mục đồng bị đánh thức dậy, các anh hết sức ngỡ ngàng bởi ánh sáng bao trùm cả cánh đồng, cùng tiếng ca hát của các thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.Sứ thần của Thiên Chúa hiện ra báo tin: “Này đây ta báo cho anh em một tin mừng, hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.Để tin vào lời của sứ thần, chắc chắn các mục đồng phải là những con người đang rất khao khát mong chờ Đấng Cứu Thế, đấng mà các tổ phụ, các ngôn sứ đã loan báo. Hơn ai hết, các mục đồng là những người đang mong chờ tin vui mừng này, vì họ tin rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải thoát họ khỏi kiếp lầm than vất vả. Vì thế khi được sứ thần loan báo tin vui, thì chính niềm vui này trở thành động lực để họ bỏ lại đằng sau tất cả quá khứ hôi hám, bỏ đàn vật và cả cơn buồn ngủ giữa khuya để cùng nhau lên đường đến Bêlem. Kinh Thánh nói: “Họ hối hả lên đường”.Điều đó cho thấy sự mau mắn của các mục đồng khi đón nhận được tin vui giáng sinh, họ muốn tìm đến để gặp được Hài Nhi.
Hình ảnh đầu tiên các mục đồng gặp thấy tại Bêlem là hình ảnh của một gia đình nghèo khó, đơn sơ nhưng tràn đầy thánh thiện. Họ gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh. Các mục đồng đã tin Hài Nhi bé nhỏ đang bọc trong khăn nằm trong máng cỏ kia là Đấng Cứu Thế. Niềm tin này thật không dễ dàng để đón nhận. Các mục đồng đã phải vượt qua cái nhìn tự nhiên để thấy nơi hài nhi bé nhỏ kia là chính Thiên Chúa quyền năng, nơi em bé được quấn tã nằm trong máng cỏ kia lại là Đấng tạo dựng trời đất, là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Sau này Gioan suy gẫm về Mầu Nhiệm Giáng Sinh và viết trong lời tiền ngôn Phúc Âm Gioan: “Ngôi Lời đã có từ khởi đầu, Ngài là chính Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Ngài là ánh sáng chiếu soi trong đêm tối, là ánh sáng sự thật. Ngài đến nhà mình mà người nhà đã chẳng đón nhận Người, còn những ai đón nhận Người, tin vào Người, thì Người cho họ quyền được làm con Thiên Chúa”.
Bước thứ ba trong hành trình của các mục đồng đó là họ trở về; kể lại điều họ đã tai nghe mắt thấy về Hài Nhi. Điều đó có nghĩa là họ đã đón nhận được niềm vui mà sứ thần loan báo, niềm vui vì họ đã gặp được Đấng Cứu Thế, niềm vui cứu độ và đã tin vào Ngài. Niềm vui này khiến họ không thể giữ kín trong lòng cho riêng mình, nhưng phải kể ra, nói lại cho mọi người về kinh nghiệm được gặp gỡ Hài Nhi Giêsu. Những người nghe các mục đồng kể lại cũng hết sức ngạc nhiên về những việc Chúa đã làm. Kinh Thánh còn cho thấy các mục đồng không chỉ nói cho mọi người, mà còn vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa về tất cả những gì họ đã nghe và đã thấy. Điều đó chỉ ra rằng: niềm vui và tâm tình tạ ơn Thiên Chúa được các mục đồng thể hiện qua cả cuộc sống của họ, từng bước đi từng lời nói của họ giờ đây trở thành lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Các mục đồng đã thực hiện điều tiên tri Isaia loan báo: “Hãy loan truyền cho khắp cùng cõi đất; hãy nói với thiếu nữ Sion, kìa ơn cứu độ của ngươi đang tới. Chúng sẽ được gọi là ‘dân thánh’ là ‘những người được Chúa cứu chuộc’”.Ơn Cứu độ là ơn lớn lao nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua Hài Nhi Giêsu – Đấng cứu độ. Ơn này thanh tẩy, canh tân và phục hồi phẩm giá con người đã bị chà đạp bởi tội lỗi và ma quỷ, hơn nữa còn ban cho con người địa vị được làm con Thiên Chúa. Tất cả những con người khiêm nhường, thấp hèn trong xã hội nhưng có tâm hồn rộng mở, đơn sơ, chân thành như các mục đồng đã được ưu tiên để lãnh nhận.
Thưa quý OBACE, mừng đại lễ Giáng Sinh hôm nay, chúng ta tuyên xưng một niềm tin hết sức quan trọng về Chúa Giêsu: “Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”.Như thế, chúng ta tuyên xưng Hài Nhi được sinh ra nơi máng cỏ Bêlem năm xưa là vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Từ việc tuyên xưng trên môi miệng đến việc tìm đến bái thờ và hân hoan ca tụng Thiên Chúa cùng nói cho mọi người về niềm vui Giáng Sinh này là trách nhiệm của mỗi chúng ta. Chúng ta không chỉ vui niềm vui Giáng Sinh như một cuộc vui bên ngoài, nhưng phải thực sự đón nhận như một niềm vuisâu xatrong tâm hồn. Cuộc vui sẽ sớm tàn, còn niềm vui có sức biến đổi và thôi thúc chúng ta chỗi dậy lên đường tìm đến với Chúa. Có thể chúng ta nghe tin vui Chúa Giáng Sinh này rất nhiều lần trong cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn không thoát được sự cám dỗ của cơn buồn ngủ, chiều theo dục vọng xác thịt và sự ươn hèn của mình, không chỗi dậy khỏi bóng tối để tìm đến với Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng. Nhiều người không cảm thấy bị thôi thúc để hối hả lên đường tìm kiếm Chúa, bởi vì chúng ta còn đang mải tìm kiếm nhiều thứ khác như nhà cửa, ruộng đất, tiền bạc, địa vị và thành công hơn là tìm kiếm Chúa Hài Nhi. Có nhiều người, nhiều gia đình đã không để cho Chúa giáng sinh trong tâm hồn và trong gia đình, khiến cho tâm hồn và gia đình thiếu vắng niềm vui, thiếu sự bình an và ơn lành của Chúa. Vì thế họ không cảm thấy bị thôi thúc để nói cho mọi người về niềm vui ơn cứu độ mà Chúa đem lại cho nhân loại và cho mỗi người.
Mừng lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi trở thành các sứ giả loan báo niềm vui Giáng sinh và ơn cứu độ đến cho mọi người, đặc biệt là những người bé mọn, đau khổ và những người chưa biết Chúa. Chúng ta sẽ phải thành những sứ giả của sự bình an và niềm vui của Chúa để tất cả mọi người khi gặp gỡ tiếp xúc với người Công Giáo, họ cảm nhận được sự bình an lan tỏa đến họ. Chúng ta phải sống sao để mọi người có thể cảm nhận được niềm vui thiêng liêng sâu xa nơi mỗi tín hữu cho dù phải trải qua những lúc đau khổ tăm tối của cuộc sống. Mỗi người sẽ phải có trách nhiệm đem niềm vui và bình an của Chúa về trong tâm hồn, trong gia đình, trong xóm ngõ của chúng ta, tạo nên một bầu khí vui tươi hân hoan cho gia đình và lối xóm.
Xin cho lời ca của sứ thần trong đêm Giáng sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dười thế cho loài người Chúa thương”,được mỗi chúng ta cảm nghiệm cách sâu xa và làm cho lời ca ấy ngân vang trong từng ngày sống của mình; xin cho bình an của Chúa được lan tỏa trong gia đình và mọi nơi, Danh Chúa được mọi người tôn vinh. Amen.
69. Ánh sáng tin mừng--Trầm Thiên Thu
Thiên tử giáng trần – vinh danh Thiên Chúa
Thế nhân thờ kính – hạnh phúc loài người
Đêm Con Thiên Chúa giáng trần là đêm vô cùng đặc biệt đối với cả nhân loại, kể cả những người không phải là Kitô hữu, dù cho đối với họ chỉ là một lễ hội theo xã hội. Không một nhân vật nào có ngày sinh nhật được mọi người biết đến và háo hức mong chờ, chỉ có Chúa Giêsu mà thôi. Có lẽ cảm thấy mình hèn kém nên một số kẻ có chức quyền cấm cả các Ông Già Noël không được phát quà tại các trường học.
Nhưng dù những kẻ thủ ác theo phe bóng tối bày đủ trò hèn hạ để bách hại thì họ càng tự chứng minh sự hèn hạ của mình, và không thể ngăn cản ánh sáng của Thiên Chúa. Lịch sử đã và đang chứng minh như vậy. Chính Thiên Chúa Cha đã từng minh định bằng lời tuyên phán về Chúa Giêsu: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2:7). Đó là Đấng Emmanuel, cư ngụ và vào đời với chúng ta.
Trong lịch sử loài người, đã có hằng ngàn hài nhi trở thành vua, nhưng chỉ có một lần một Vị Vua trở thành một Hài Nhi: Đức Giêsu Kitô. Trong Đêm Cực Thánh lung linh muôn ánh sao này, Lời Chúa khiến tất cả chúng ta đều phấn khởi vui mừng, vì Đấng Cứu Độ đã được Chúa Cha trao ban cho nhân loại. Đó là Tin Mừng của các tin mừng, vì chính từ đêm nay, sự bình an đích thực đã từ trời ban xuống cho nhân thế – trong đó có mỗi chúng ta. Niềm hạnh phúc quá lớn lao nên không thể bày tỏ bằng phàm ngôn!
Thật tuyệt vời! Thế thì không vui mừng sao được khi mà “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Ôi, hồng ân cao cả vô cùng, với lý do rất minh nhiên: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9:2). Đúng như lời ông A-xáp xưng tụng: “Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần” (1 Sb 16:25).
Cuộc đời bất công đã tạo ra nhiều đau khổ nên con người rất cần Thiên Chúa. Khi Ngài đến, không còn bất công và áp bức, công lý được sáng tỏ: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:3-5). Những Tôn Danh đó vô song, và chỉ có thể dành cho Thiên Chúa, không một người nào hoặc một thần linh nào xứng đáng với các Tôn Danh đó. Vì ảo tưởng mà ích kỷ, vì ích kỷ mà mê muội, thế nên vua chúa ngày xưa đã dám tự xưng là “thiên tử”. Kinh dị và quái gở thật!
Belem nhỏ bé, hẻo lánh, bỗng dưng trở nên to lớn và quan trọng, vì được chọn làm nơi Hài Nhi giáng sinh. Hài Nhi đó chính là Vua Công Lý, Ngài đích thân đến để giải thoát tội nhân khỏi ách nô lệ, các tử tù cũng được trắng án: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6). Lời hứa từ ngàn xưa đã ứng nghiệm, nên trọn.
Đêm Con Thiên Chúa giáng sinh là Đêm Hồng Ân, Đêm Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa, Đêm Cứu Độ, Đêm Bình An, đêm tràn ngập Ánh Sáng Tin Mừng Cứu Độ. Niềm vui trào dâng tràn ngập đất trời, chan hòa lòng người. Không ai có thể bất động mà không hân hoan thốt lên: Hãy vui lên! Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã phải lên tiếng mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3). Không ai có thể giấu kín niềm vui, dù chỉ là thoáng vui.
Thánh Vịnh gia không chỉ mời gọi người khác mà còn kêu gọi cả muôn loài cùng thể hiện niềm vui sướng đó: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Niềm vui mừng rộn rã đó thật là chính đáng, vì chính đêm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô Chúa chúng ta, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Chính Ngài là Ánh Sáng đến phá tan bóng tối, là Hòa Bình dập tắt chiến tranh, là Công lý triệt tiêu áp bức, là Tình Yêu tiêu diệt hận thù. Thật kỳ diệu, Ngài tự hạ để nâng chúng ta lên cao, Ngài chấp nhận nghèo khó để chúng ta giàu có, Ngài chịu bơ vơ để chúng ta sum họp,… Vô cùng tạ ơn Chúa Hài Đồng, phàm phu tục tử chỉ biết nói thế, vì phàm ngôn không đủ để có thể diễn tả hết ý nghĩa cao siêu về Thiên Chúa.
Đêm nay là đêm linh thánh và huyền diệu, đêm ứng nghiệm lời hứa từ ngàn xưa, tất cả đã được nên trọn theo ý Chúa: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao chúng ta phải cố gắng sống khác lúc trước? Thánh Phaolô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14). Vâng, không còn hạnh phúc nào lớn hơn nữa. Nguyện xin tất cả vì vinh danh Chúa mà thôi, đó là trách nhiệm và bổn phận của mọi chúng nhân!
Trình thuật Lc 2:15-20 ngắn gọn mà đầy đủ chi tiết về Cổ-Tích-Giáng-Sinh, một câu chuyện cổ tích CÓ THẬT chứ KHÔNG hoang đường hoặc huyền thoại. Thánh sử Luca kể…
Vào thời gian đó, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Mọi người đều phải về nguyên quán để khai tên tuổi cho đúng thủ tục. Theo luật, Chú Giuse cũng phải từ Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành vua Đa-vít – tức là Belem, miền Giu-đê, vì Chú thuộc Hoàng tộc Đa-vít. Chú lên đó khai tên cùng với tân nương là Cô Maria, lúc ấy Cô đang mang thai.
Trong khi hai người đang ở đó, Cô Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Và rồi Cô sinh Con Trai đầu lòng, lấy tã bọc con đặt nằm trong máng cỏ, vì hai Cô Chú không tìm được chỗ trong nhà trọ. Khó khăn đủ thứ, càng khó khăn hơn vì trời đã nửa khuya giữa đồng không mông quạnh!
Belem là vùng quê nhỏ bé, hẻo lánh, dân nghèo, đêm đó có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức để canh giữ đàn súc vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Hãi hùng là cái chắc, vì các mục đồng là những con nhà nghèo, học hành không nhiều, có thể cũng có người chẳng biết chữ. Dân quê chân chất, mộc mạc, nhưng rất chân thành. Đang đêm ngon giấc mà họ thấy ánh sáng chiếu sáng chói cả mắt, lại đang ngái ngủ, họ hoảng sợ là chuyện bình thường thôi, không có chi lạ.
Biết họ hoảng sợ, sứ thần liền trấn an họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Họ nghe nhưng có lẽ chả hiểu ất giáp chi cả, hẳn là họ tròn mắt và há miệng vì quá đỗi ngạc nhiên, y như những chú Tàu nghe kèn vậy. Ôi, lúc đó nhìn họ chắc thấy “tội nghiệp” lắm!
Biết họ chân chất thật thà nên sứ thần nói rõ ràng luôn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Ôi chao, dấu hiệu cũng “lạ”, hoàn toàn khác thường. Vậy mà họ không hề thắc mắc, thật thà chính hiệu. Họ liền mau mắn kéo nhau đi gặp Trẻ-Sơ-Sinh-Bọc-Trong-Tã như đã được thông báo. Và họ đã thấy y chang như sứ thần đã mách bảo. Các mục đồng thật diễm phúc vì là những người đầu tiên được thấy Đấng Cứu Thế, những chứng nhân đầu tiên đem Ánh Sáng Tin Mừng đến với người khác. Thật kỳ diệu và tuyệt vời!
Trong tâm tình tin mến và hòa chung niềm vui rộn rã tưng bừng, chúng ta cùng hợp lời với muôn vàn thiên binh hợp và sứ thần để cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin tỏa Ánh Sáng Tin Mừng để dẫn chúng con đến với Nguồn Sáng Giêsu và những con người hèn mọn nhất, xin giúp chúng con nhận biết Ngài qua tha nhân và xin cho người khác cũng nhận ra Ngài nơi chúng con, làm cho chúng con trở nên chứng nhân sống động của Tình Yêu Thương qua việc xây dựng nền văn minh tình thương và văn minh sự sống. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
70. Sung mãn--Trầm Thiên Thu
Mùa vọng tím mong chờ con Thiên Chúa
Giáng sinh xanh mãn nguyện nỗi khát khao
Sung mãn là tình trạng phát triển trọn vẹn nhất. Cách sống càng sung mãn càng bình an – cả đời thường và tâm linh. Chúa Giêsu đến thế gian để chúng ta được sống và sống dồi dào (x. Ga 10:10), và chính Ngài là Đấng làm cho chúng ta sống sung mãn: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1:16). Thánh Phaolô xác định: “Nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, và trong Người, anh em được sung mãn: Người vốn là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (Cl 2:9-10).
Lễ Giáng Sinh là biến cố trọng đại, nhắc chúng ta nhớ sự kiện nhập thể và nhập thế của Ngôi Hai Thiên Chúa – Đức Kitô Giêsu, Đấng Ngôi Lời. Ngài đã làm người vì thương xót phàm nhân chúng ta. Ánh Sáng Lòng Thương Xót đã bừng sáng khắp nơi, và địa cầu tràn đầy Ân Sủng Thiên Chúa. Mặt Trời Công Chính đang chiếu soi rạng ngời. Ân Tình Giáng Sinh đang chan hòa khắp thế giới. Thực sự chúng ta đã nhận được Tin Mừng ấy, do đó chúng ta có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng Lòng Thương Xót cho tha nhân bằng bất cứ cách nào theo hoàn cảnh riêng của mỗi người – cụ thể là bằng cách sống tốt lành.
Mừng Chúa Giáng Sinh không cần rườm rà bề ngoài, nên giữ TĨNH LẶNG và KHIÊM NHƯỜNG theo bí quyết của Đức Mẹ dạy Thánh Kowalska Faustina (*). Đó cũng là cách loan báo Tin Mừng – nhiệm vụ chung tuyệt vời và rất giá trị mà ai cũng phải thi hành. Thật vậy, Ngôn sứ Isaia đã thốt lên: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52:7a), và ông nói với Sion: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị” (Is 52:7b).
Xác định và động viên, ngôn sứ Isaia cho biết: “Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion. Hỡi Giêrusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Giêrusalem” (Is 52:8-9). Thiên Chúa thấy loài người thật đáng thương, thế nên Thiên Chúa Cha đã sai Thiên Chúa Ngôi Con phải đích thân giáng sinh làm người để chia sẻ đau khổ với chúng ta. Thật vậy, “trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Ngài: ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy” (Is 52:10). Chắc chắn không ai có thể làm ngơ hoặc im lặng khi thấy những điều kỳ lạ, đặc biệt là điều xảy ra quá đỗi nhiệm mầu.
Thánh Vịnh gia đồng cảm điều đó và đã lên tiếng mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Ngài chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Ngài” (Tv 98:1). Động thái xưng tụng Thiên Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm vinh hạnh của chúng ta, bởi vì “Chúa đã biểu dương ơn Ngài cứu độ, mặc khải đức công chính của Ngài trước mặt chư dân; Ngài đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98:2-3). Lời hứa xưa đã nên trọn, sự thật đã hiển nhiên.
Rất có thể vì cảm thấy bồn chồn, sốt ruột, thế nên Thánh Vịnh gia lại phải tiếp tục kêu gọi: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát. Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt, nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca. Kèn thổi vang xen tiếng tù và, tung hô mừng Chúa, vị Quân Vương!” (Tv 98:4-6). Biết chắc điều gì đó chính xác, người ta không thể không chia sẻ với người khác, muốn nói ra ngay với bất cứ ai, không thể trì hoãn, càng sớm càng tốt.
Tất nhiên có rất nhiều lý do để chúng ta chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác nhận bằng cách dẫn chứng chứng cớ từ xa xưa: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài” (Dt 1:1-2). Chính xác như vậy. Vả lại, “chính Ngài phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa, là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1:3a). Và rồi, “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Ngài lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời” (Dt 1:3b). Tuần tự như tiến. Mạch lạc. Rạch ròi. Chính xác.
Thật đúng là như vậy, bởi vì Thiên Chúa quá trác tuyệt và cao siêu, vượt xa ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Danh hiệu mà Chúa Con được thừa hưởng cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu thì Ngài lại nổi trội hơn bấy nhiêu. Quả thật, chẳng bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào rằng “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”, hoặc “Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta”. Do đó, khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa đã minh định như một mệnh lệnh tuyệt đối: “Mọi thiên thần của Thiên Chúa phải thờ lạy Ngài” (Dt 1:6). Thánh Phaolô phân tích tỉ mỉ và rõ ràng. Tất nhiên trách nhiệm rõ ràng đó cũng là trách nhiệm của chúng ta, bởi vì chính Thiên Chúa đã truyền lệnh chúng ta chỉ được phép thờ lạy một Chúa duy nhất và kính mến Ngài hết lòng. Ngoài Ngài không có thần linh nào khác (Đnl 4:35 và 39; Is 45:21; Is 46:9), và người ta cũng phải công nhận như vậy (Đn 3:29).
Hài Nhi giáng sinh nơi Belem là ai? Ngài là Ngôi Hai, là Đấng Thiên Sai, là Thánh Tử, là Đức Giêsu Kitô, là Ngôi Lời, là Đấng giàu lòng thương xót. Đấng ấy có từ bao giờ? Kinh Thánh nói rõ: Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời, chính Ngài là Al-pha và Ô-mê-ga (Kh 1:8; 21:6; Kh 22:13) – tức là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Thánh Gioan nói: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1:1). Cách diễn tả tuyệt vời quá! Và ông giải thích tiếp: “Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:2-5). Chính những hình ảnh đối nghịch nhau lại có thể làm nổi bật nhau. Đó là điều rất kỳ diệu và thú vị!
Thánh sử Gioan không dùng đại từ ở ngôi thứ nhất số ít, nhưng nói rằng “có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan”. Và ông dùng đại từ ngôi thứ ba số ít với ý nói về chính mình: “Ông [tức là ông ấy] đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1:7-8). Cách dùng đại từ tinh tế bao hàm sự khiêm nhường. Nhưng khi nói về Đấng Thiên Sai thì ông nói rạch ròi: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:9-11). Cũng vẫn có những điểm trái ngược. Văn phong độc đáo đấy!
Xưa nay vẫn thế đối với sự đời, chín người thì có tới mười ý, chẳng có ai giống ai. Ông Gioan nói: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Ôi, diễm phúc biết bao! Tại sao vậy? Bởi vì được làm con Thiên Chúa mà chỉ với một điều kiện đơn giản: Tin nhận và tín thác vào Ngài. Các tín nhân đó được sinh ra không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. Quả là sự kỳ diệu vô cùng!
Chính ngày này năm xưa, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14a). Con Thiên Chúa giáng sinh và ở cùng nhân loại. Niềm vui dâng cao tột đỉnh. Ông Gioan trẻ (Gioan tông đồ) làm chứng xác thực: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14b). Đã được mục kích sở thị, ông Gioan Tẩy Giả hăng say làm chứng về Đức Kitô, và ông mạnh mẽ tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”(Ga 1:15). Người sinh trước mà có sau, người sinh sau mà có trước. Thật khó hiểu vì quá vô lý, nhưng hoàn toàn là sự thật, và điều đó không thể lý luận theo kiểu phàm tục, nhưng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).
Giáng sinh là yêu thương. Thiên Tình Giáng Sinh là Đại Dương Thương Xót, thật là tuyệt vời và khôn tả! Niềm vui mừng đó cứ ngồn ngộn, không thể mô tả hoặc thể hiện bằng các động thái phàm nhân. Thánh Gioan giải thích: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã LÃNH NHẬN HẾT ƠN NÀY ĐẾN ƠN KHÁC. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1:16-17). Chưa bao giờ có ai thấy Thiên Chúa – vì con người tội lỗi bất xứng và con mắt phàm tục không thể chịu nổi ánh sáng vinh quang của Ngài, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết. Vì thế, điều rất quan trọng cần lưu ý là “Đức Tin quan trọng hơn phép lạ”. Nghĩa là đừng bao giờ “chạy đua” theo những “sự lạ” mà hãy không ngừng “chạy đua” trên Hành Trình Đức Tin, trên Hành Trình Đức Ái – tức là cố gắng hết sức để thể hiện Lòng Chúa Thương Xót một cách cụ thể và sống động, bằng tất cả con người của mình, theo điều kiện sống của mình.
Mỗi người được Chúa ban cho khả năng khác nhau. Các khả năng khác nhau là để cộng tác với nhau chứ không phải để tự mãn hoặc kèn cựa nhau. Ai có khả năng gì là cách Chúa thể hiện ý Ngài muốn người đó hoạt động về lĩnh vực đó – đặc biệt là các sở trường, thế mạnh hoặc yếu điểm – điểm mạnh (khác với nhược điểm – điểm yếu). Tất cả đều là hồng ân, chứ chúng ta chỉ là vô tích sự mà thôi!
Lạy Thánh Phụ nhân từ, xin cảm tạ Ngài đã ban Thánh Tử cho chúng con, đồng lao cộng khổ với chúng con, chia sẻ đau khổ kiếp người với chúng con. Xin thúc giục chúng con hành động theo Con Chúa bằng cách sống công bình, bác ái và thương xót mọi người theo tiêu chuẩn của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
—-
(*) Đức Mẹ cho Thánh nữ Maria Kowalska Faustina (1905-1938) biết cách đón Chúa Giêsu Hài Đồng: “Này con gái, hãy cố gắng giữ thinh lặng và khiêm nhường, để Chúa Giêsu, Đấng luôn ngự trong linh hồn con, có thể nghỉ ngơi. Hãy thờ lạy Ngài trong tâm hồn, đừng ra khỏi nội tâm”(Nhật Ký, số 785).
71. Tin Mừng--Lễ đêm--Trầm Thiên Thu
Con Thiên Chúa làm người, giao hòa Đất với Trời, vinh danh Thiên Chúa.
Tội thế nhân được sạch, đổi mới Hồn và Xác, hạnh phúc loài người.
Thiên Chúa tuyên phán: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2:7). Trong Đêm Cực Thánh lung linh muôn ánh sao này, Lời Chúa khiến tất cả chúng ta đều phấn khởi vui mừng, vì Đấng Cứu Độ đã sinh ra trong thế gian. Đó là Tin Mừng của các tin mừng, vì chính từ đêm nay, bình an chân thật đã từ trời đã ban xuống cho chúng ta. Niềm hạnh phúc quá lớn lao và khôn tả!
Không vui mừng sao được khi mà “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Thật là một hồng ân cao cả vô cùng, với lý do rất minh nhiên: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9:2).
Chúa đến, không còn bất công và áp bức, công lý được sáng tỏ: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:3-5). Những Tôn Danh đó vô song, và chỉ có thể dành cho Thiên Chúa, không một người nào hoặc một thần linh nào xứng đáng với các Tôn Danh đó.
Hài Nhi giáng sinh nơi hang đá hèn hạ lại chính là Vua Công Lý, Ngài đến để giải phóng các tội nhân, các tử tù cũng được trắng án: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6).
Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa, Đêm Cứu Độ, Đêm Bình An. Niềm vui tào dâng tràn ngập đất trời, chan hòa lòng người. Không ai có thể bất động mà không hân hoan thốt lên: ALLELUIA. Tác giả Thánh Vịnh đã phải mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Không chỉ mời gọi mọi người, tác giả Thánh Vịnh còn kêu gọi cả muôn loài cùng thể hiện niềm vui sướng đó: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Niềm vui mừng rộn rã thật chính đáng, vì chính đêm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô Chúa Chúng ta!
Ngài là Ánh Sáng đến phá tan bóng tối, Ngài là Hòa Bình đến dập tắt chiến tranh, Ngài là Công lý đến triệt tiêu áp bức, Ngài là Tình Yêu đến phá bỏ hận thù. Ngài tự hạ để nâng chúng ta lên cao, Ngài chấp nhận nghèo khó để chúng ta giàu có, Ngài chịu bơ vơ để chúng ta sum họp,… Vô cùng tạ ơn Chúa Hài Đồng, phàm phu tục tử chỉ biết nói thế, vì không phàm ngôn nào có thể đủ mức để diễn tả!
Lời hứa từ ngàn xưa đã được thực hiện, mọi lời tiên tri đã ứng nghiệm, tất cả đã được nên trọn: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14).
Vâng, không còn hạnh phúc nào lớn hơn nữa rồi. Nguyện xin tất cả vì vinh danh Chúa mà thôi!
Thánh sử Luca kể ngắn gọn mà đầy đủ Cổ-Tích-Thật-Giáng-Sinh...
Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, Chú Giuse từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít – tức là Belem, miền Giu-đê, vì Chú thuộc Hoàng gia Đa-vít. Chú lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với Chú là Cô Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, Cô Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Cô sinh Con Trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai Cô Chú không tìm được chỗ trong nhà trọ.
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Hãi hùng lá cái chắc, vì các mục đồng là những con nhà nghèo, học hành không nhiều, có lẽ có người cũng chẳng biết chữ, thế nên rất chân chất, mộc mạc, nhưng chân thành. Đang đêm ngon giấc mà họ thấy ánh sáng chiếu sáng chói cả mắt, lại đang ngái ngủ, không hoảng sợ sao được!
Thế nhưng sứ thần trấn an họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Họ nghe nhưng có lẽ chả hiểu ất giáp chia cả đâu, mắt chữ O và miệng chữ A, nhìn chẳng khác gì chú Tàu nghe kèn thôi. Lúc đó, nhìn họ chắc là thấy “tội nghiệp” lắm!
Sứ thần biết họ thật thà nên nói toạc móng heo luôn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Ôi chao, dấu hiệu “lạ” quá chừng. Thế nhưng họ không hề thắc mắc, rồi họ mau mắn kéo nhau đến gặp Trẻ-Sơ-Sinh-Bọc-Trong-Tã ấy. Và họ đã thấy y chang như sứ thần đã bảo. Các mục đồng thật diễm phúc vì là những người đầu tiên được thấy Đấng Cứu Thế!
Xin hợp lời với muôn vàn thiên binh hợp và sứ thần để cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin chiếu tỏa Ánh Sáng Đức Tin dẫn đường chúng con đến với Đức Kitô và những con người hèn mọn nhất, xin giúp chúng con nhận biết Chúa qua mọi người và những gì nhỏ bé nhất, để chúng con trở thành những chứng nhân sống động của Tình Yêu, đồng thời chung tay xây dựng nền Văn Minh Tình Thương và Văn Minh Sự Sống ở mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
72. Tỏ tường--Lễ rạng đông--Trầm Thiên Thu
Con Chúa làm người vì thương xót
Phàm nhân hạnh phúc đón Thánh Ân
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một người con đã được ban cho chúng ta, hài nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9:6). Một sự thật minh nhiên, một chân lý tỏ tường. Đã là sự thật thì không thể chối cãi, vì sự thật mãi mãi là sự thật, và chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Ngôn sứ Isaia vừa thông báo vừa mời gọi: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Tại sao chỉ nói với thiếu nữ Sion mà không nói với nam giới Sion? Thiết tưởng, nữ giới là phái yếu, thường bị áp bức, bị khinh miệt,… Và họ có thể đại diện cho những người hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị chà đạp nhân phẩm, bị tước đoạt nhân quyền, bị miệt thị nhân vị,… Họ cũng chính là chúng ta, những người bị tội lỗi đè đầu, bị thói hư tật xấu kiểm soát, bị xã hội ruồng bỏ.
Thực sự Đức Chúa đã đến hơn hai ngàn năm qua rồi. Lễ Giáng Sinh chỉ là kỷ niệm đại sự kiện Con Chúa làm người mà thôi. Vấn đề là chúng ta có để Chúa đến trong linh hồn chúng ta hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc hay không. Nếu chúng ta “cho phép” Chúa vĩnh cư nơi hang-đá-tâm-hồn thì chúng ta sẽ được gọi là “dân thánh”, là “những người được Đức Chúa cứu chuộc”, được gọi là “cô gái đắt chồng”, là “thành không bị bỏ” (Is 62:12). Như vậy thì thật là đại phúc!
Và nếu được đại phúc đó thì vô cùng vui mừng. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Ngọn lửa hồng mở lối tiên phong, đốt tiêu tan địch thù tứ phía. Ánh chớp của Người soi sáng thế gian, địa cầu trông thấy mà run sợ; núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:1-6). Thiên Chúa có phong cách không hề giống phàm nhân, tất nhiên chúng ta không thể nào hiểu nổi, chỉ còn biết cúi đầu kính phục, thờ lạy và chúc tụng. Nói theo kiểu thời @ ngày nay thì đó là “trên cả tuyệt vời”!
Thiên Chúa công chính nên Ngài muốn mọi thứ cũng phải tỏ tường, nghiêm chỉnh, chính xác, trước sau như một. Và vì thế mà Ngài “bị động” theo kiểu “bất lực”. Thiên Chúa mà “bất lực” ư? Vâng, đúng vậy. Nhưng Ngài “bất lực” cái gì và tại sao? Ngài “bất lực” về sự dối trá, nhẫn tâm, thù hận, nản lòng, thất hứa,… Ngài “bất lực” trong những động thái ác độc vì Ngài là Đấng chí thiện, là sự thật và là sự sống (x. Ga 14:6). Ngài là Đấng Thánh nên Ngài cũng buộc chúng ta phải nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). KHÔNG NÊN THÁNH là PHẢN BỘI CHÚA.
Lý do để chúng ta vui mừng rất tỏ tường: “Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay. Trước nhan thánh Chúa, người công chính hãy vui mừng tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ” (Tv 97:11-12).
Lý do vui mừng càng tỏ tường hơn theo “tầm nhìn” của Thánh Phaolô: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3:4-5).
Niềm vui càng tăng lên theo cấp số nhân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7). Không còn biết nói gì hơn nữa vì niềm vui đó quá lớn, ngỡ như chỉ có trong mơ, nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên. Đúng là đại phúc cho chúng ta!
Các mục đồng nghèo khổ và dốt nát nhưng lại hạnh phúc nhất: Những người đầu tiên được báo Tin Mừng và được trực tiếp diện kiến Chúa Hài Đồng. Họ là những nhân chứng sống động mà chúng ta phải noi gương.
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15). Thánh Luca cho biết là “họ liền hối hả ra đi”. Mau mắn hành động mà không chút đắn đo, suy tính. Lại một tấm gương sáng về việc “sống đạo” khiến chúng ta phải “giật mình” lắm!
Khi đế nơi phải đến, họ gặp Cô Maria và Chú Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ không ngạc nhiên, và rồi họ không thể im lặng, gặp ai họ cũng liền tíu tít kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên vô cùng.
Riêng Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2:19). Phong cách Cô Maria thật “khác người”, đúng là một thục nữ nhu mì và ngoan hiền. Thánh sử Luca cho biết thêm: “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20). Quả thật, mọi điều đã tỏ tường. Kế hoạch của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết mau mắn hành động vì Danh Chúa và chứng tỏ lòng thương xót của Ngài, để bất kỳ ai gặp chúng con thì cũng gặp được chính Ngài, qua các động thái yêu thương chân thành nhất. Xin giúp chúng con biết noi gương Đức Maria và Đức Giuse là NÓI ÍT mà LÀM NHIỀU. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
73. Đón Chúa Giáng Sinh với tâm tình nào?--Lễ Rạng Đông--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Có lẽ sự nhộn nhịp của thánh lễ đêm hôm qua đã làm cho nhiều người cảm thấy rộn ràng, vui tươi và hạnh phúc. Nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những người cảm thấy mệt mỏi sau một đêm dài với biết bao nhiêu calo phải bỏ ra nơi những cuộc vui chơi, ăn nhậu và nhiều khi trụy lạc nơi những quán bar, nhà nghỉ…
Còn thánh lễ Giáng Sinh vào rạng sáng hôm nay, vẫn quen gọi là thánh lễ Rạng Đông thì lại là một thánh lễ rất êm đềm, không ồn ào, không náo nhiệt, không ca nhạc, kịch nghệ, chẳng có chương trình vui chơi giải trí gì…!
Đối tượng dự lễ cũng chỉ còn lại đa số là những cụ già, hay những người lớn tuổi hoặc một số bạn trẻ đạo đức mà thôi… còn lại, mọi người đang chìm trong giấc ngủ sâu!
Tuy nhiên, trong bầu không khí tưởng chừng như tĩnh lặng này, Giáo Hội lại cho chúng ta nghe bài Tin Mừng do thánh Luca trình thuật nói về việc các mục đồng hối hả đi tìm, thờ lạy và loan truyền về Hài Nhi Giêsu cho người khác. Điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ?
1. Các mục đồng đi tìm Chúa như thế nào?
“Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2, 15).
Đây là lời của các mục đồng nói với nhau sau khi đã được các thiên sứ báo tin cho biết Đấng Cứu Thế đã giáng sinh trong thành Belem.
Thánh sử Luca cho biết thêm: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).
Như vậy, thánh lễ Rạng Đông của ngày Giáng Sinh giờ này có thể được gọi là lễ Chúa tỏ mình ra cho các mục đồng.
Tại sao Chúa lại không tỏ ra cho những người quyền cao chức trọng, giàu có hay những nhà lãnh đạo tôn giáo, mà lại tỏ ra cho các mục đồng là những người nghèo, đơn sơ chất phát, thấp cổ bé họng…
Thưa đơn giản, bởi vì nơi các mục đồng có điểm tương giao với Hài Nhi Giêsu.
Thật vậy, khi Con Thiên Chúa hạ sinh nơi cánh đồng Belem chốn bò lừa thanh vắng, quạnh hưu và nghèo khó như vậy, phải chăng Đức Giêsu đã phá cách để làm toát lên bản chất của Thiên Chúa là tình yêu khi không cần đến sự giàu sang của con người, nhưng Ngài muốn một sự gần gũi. Không cần đến cái bề ngoài, mà là sự thiêng thánh, chân thành và đơn sơ.
Đây chính là câu trả lời cho chúng ta biết tại sao các mục đồng và Hài Nhi Giêsu lại “Đồng thanh tương ứng”, và họ lại là người đầu tiên được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Sự đồng cảm này đã làm cho tâm hồn các mục đồng có một ngọn lửa yêu mến đến tha thiết, nên họ đã tỏ ra rất nhạy bén và tinh tế với những gì đã được các thiên sứ loan báo cho họ. Vì thế, giữa đêm tối âm u lạnh lẽo, họ đã đốt đuốc và hối hả ra đi để mong cho được sớm gặp thấy Hài Nhi mới sinh. Khi gặp thấy “Em Bé sơ sinh bọc tả nằm trong máng cỏ”, họ đã tin và nhận ra đó chính là: “Đấng Cứu Độ, là Đấng Kitô, là Đức Chúa” như thiên sứ đã báo.
Cũng trong tâm tình ấy, họ đã nghiệm được ra tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại mà chính họ là những người đầu tiên được tận hưởng ân lộc lớn lao đó, vì thế, sau khi đã ra về, họ luôn kể về những gì đã thấy cho anh em mình.
2. Con người hôm nay mừng lễ Giáng Sinh như thế nào?
Trên đây là tâm tình mừng Chúa Giáng Sinh của các mục đồng Belem, còn nhân loại và con người hôm nay mỗi khi lễ Giáng Sinh về, chúng ta đi tìm gì và đến với Chúa bằng tấm lòng nào?
Thực trạng thật cho thấy một sự trái ngược đến rõ nét giữa tâm tình và thái độ của các mục đồng thời xưa và con người ngày nay. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi những ngày trước lễ Giáng Sinh, nhiều người ưu tiên lo lắng cho những chuyện như: Giáng Sinh sắp đến rồi, chúng ta đã có tiền để mua đèn hoa trang trí chưa? Giáng Sinh năm nay chúng ta ăn gì, nhậu gì? Liệu có kiếm được món nào “độc” để đãi khách không?
Rồi đến chính đêm Giáng Sinh, nhiều người chủ yếu đi xem ca nhạc kịch, hay đèn hoa rực rỡ nơi các nhà thờ, khu phố…
Lựa chọn ưu tiên và hành động như thế, người ta đã biến lễ Giáng Sinh trở thành thời điểm mua sắm, ăn chơi hay như một lễ hội thuần túy!
Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như đem lại cho mình hạnh phúc, thì trên thực tế, hạnh phúc, niềm vui và bình an đích thực lại quá xa vời đối với họ, bởi lẽ những thứ họ tìm chính là những điều hoang tưởng hoặc chỉ là điều phụ thuộc bên ngoài.
Thật vậy, vui mừng sao được khi trong tâm không có sự chân thành. Hạnh phúc sao được khi sâu thẳm tâm hồn vẫn còn đó sự giận hơn chia rẽ. Bình an sao được khi trong tâm không có sự thánh thiện và đơn sơ!
Thiết nghĩ, khi mừng lễ Giáng Sinh với những thứ hình thức bề ngoài như vậy, chắc chắn họ sẽ không thể nào cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại. Và lẽ đương nhiên, họ không thể nào tin Chúa với một đức tin sống động như các mục đồng khi xưa, và lẽ tất yếu, không thể loan báo về Ngài cho người khác trong khi tâm hồn trống rỗng và hoang vu như vậy được.
3. Lời mời gọi của Giáo Hội
Mỗi lần lễ Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái mình hãy noi gương các mục đồng khi xưa để tìm gặp, yêu mến, tôn thờ và loan báo về Chúa cho người khác.
Nếu xưa kia, các mục đồng đã khao khát, hối hả lên đường, tới nơi họ gặp Hài Nhi Giêsu và đã sấp mình thờ lạy, đồng thời khi ra về, họ kể lại cho những người khác được biết về những gì đã thấy trong niềm tin sâu sắc.
Thì sứ điệp ngày lễ hôm nay cũng gửi đến cho mỗi người chúng ta là: hãy để mầu nhiệm tình yêu Giáng Sinh của Chúa đụng chạm đến tận sâu thẳm tâm hồn. Hãy biết yêu mến, khát khao và tin thờ Chúa, vì chỉ có Ngài là đường, là sự thật, là sự sống, nguồn cội của niềm vui, bình an và hạnh phúc. Đồng thời, hãy cảm nghiệm và ra đi loan báo về tình thương của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh cho anh chị em chưa biết Chúa.
Thứ đến, cần phải có một tâm hồn đơn sơ, chân thành, khó nghèo. Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên nghèo hèn để cho chúng ta được nên giàu có. Ngài cũng chấp nhận cúi xuống để tôn vinh con người bằng sự nhập thể của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa đã coi trọng đến tuyệt đối nhân phẩm và nhân vị của từng người, nhất là người nghèo. Thế nên, dù trong hoàn cảnh, môi trường nào, đời sống và cung cách của những Kitô hữu không thể trở thành người xa lạ, vô cảm, dửng dưng với một trái tim hóa đá đối với những anh chị em kém may mắn hơn mình.
Chỉ khi nào chúng ta có được tâm tình liên đới, yêu thương và huynh đệ với nhau, chúng ta mới thực sự hạnh phúc và bình an để cảm nghiệm và hát lên bài ca mà các sứ thần đã cất lên trong đêm Con Thiên Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Vẫn một tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, nghèo khó và xác tín mạnh mẽ như các mục đồng khi xưa, giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ, để chỉ lát nữa thôi, mỗi người cũng sẽ được đón nhận chính Chúa Hài Nhi Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vào trong tâm hồn của mình, để Ngài trở thành nguồn suối bình an, vui tươi và hạnh phúc cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, trong trắng như các mục đồng khi xưa, để tâm hồn chúng con được diễm phúc đón Chúa đến viếng thăm và ở lại với chúng con. Amen.
74. Đức Giêsu là quà tặng vô giá--Lễ Đêm 2013--Giuse Vinc. Ngọc Biển
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của họ như là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức"… Tuy nhiên, cái đêm âm u, miền thâm u sự chết, những cái ách nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia tiên báo về một trời mới đất mới, họ sẽ được giải thoát: "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung... Bởi vì “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Cũng vậy, tiên tri Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình”(Mk 5,1-4).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikêa cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ..., thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên:
“Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion;
trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì
“Bọn lính canh đòi ta hát xướng,
lũ cướp này mời gượng vui lên:
Hát đi, hát thử đi xem
Xion nhạc thánh điệu quen một bài!"(x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Và nỗi đau khổ của họ đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi. Đêm nay, đêm Trời Đất giao duyên. Đêm Thiên Chúa và con người gặp nhau, đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, "... anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7). Thật vậy, Hài Nhi Giê su đã trở thành "Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14). Ngài đã trở thành "Một Hài Nhi...một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta" (Is.9,5).
Vì vậy, Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm chan hòa Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa giữa trời và đất, Đêm Tình Thương cứu thế, Đêm khơi nguồn Bình An. Ôi niềm vui tràn ngập thế giới! Vì thế, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Thật vậy, việc Ngôi Hai Giáng Sinh là một quà tặng, là niềm vui, bình an, không chỉ riêng cho một thành phần nào trong xã hội loài người, mà là cho toàn thể nhân loại. Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi mang đến cho anh em một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, Chúa Kitô, đã Giáng Sinh cho anh em”.
Như thế, chính "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Tuy nhiên, đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh trong lòng chúng ta, trong trái tim, trong lương tâm của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra giá trị thánh thiêng của mầu nhiệm này thì khi đó chúng ta mới an vui và hạnh phúc thật sự. Và, giá trị đích thực là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi chúng ta.
Nếu "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Thì đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em chính Hài Nhi Giêsu, và bản thân của mỗi chúng ta. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình". Nếu không hướng tha, tâm hồn chúng ta chẳng khác gì cây không sinh trái, như nước trong ao tù, như một cánh rừng cớm hoặc hoang sơ mà thôi.
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hòan tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới con người để tìm gặp con người. Ngài đã trở thành Emmanuel để cư ngụ giữa chúng ta, Ngài đã đồng hành với nhân loại, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”, “Bánh hằng sống”,“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho họ được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Noi gương Chúa, và để cho Chúa sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, chúng ta hãy trở nên quà tặng cho mọi người qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa phát xuất từ niềm tin, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông, và đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, tất cả những ai tiếp xúc với chúng ta, họ đều nhận ra một vị Thiên Chúa – người, luôn gần gũi, yêu thương và hy sinh cho người khác qua khuôn mặt dễ thương của mỗi chúng ta.
Như vậy, chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
75. Thiên Chúa đến với con người trong lịch sử--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Thánh lễ Nửa Đêm cho ta chiêm ngưỡng khung cảnh Thiên Chúa đến với con người trong lịch sử nhân loại và ý nghĩa cứu độ của biến cố ấy. Còn bài Tin mừng của Thánh lễ Rạng Đông mang tính cách suy niệm, trình bày những người đầu tiên được chứng kiến Thiên Chúa làm người và phản ứng của họ trước tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ Maria, thánh Giuse và các người chăn chiên đại diện cho lớp người nghèo khó của nhân loại đã có những tâm tình nào khi đứng trước Tình Yêu nhập thể của Thiên Chúa? Những việc làm của họ không những phản ảnh những tâm tình cá nhân, mà còn trở nên những mẫu gương giúp ta biết phải làm sao đáp lại tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
1) Hành trình đức tin tới Bêlem
Từ cánh đồng chăn chiên tới Bêlem khoảng cách không bao xa, chỉ vài ba cây số. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là hành trình ấy dễ dàng. Làm sao dám bỏ cả đàn chiên lại một mình? Hơn nữa giữa đêm đông lạnh lẽo và tối tăm, đi lại thật ngại ngùng. Những người chăn chiên ở Do Thái ngày xưa không được liệt vào số những người tốt. Họ thường bị khinh dể vì nghề nghiệp, bị nghi oan là hay cái thói trộm cắp. Do đó, đối với họ “sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho biết” không phải là việc đơn giản. Điều sứ thần báo cho họ là một điều khó tin được. Đấng Cứu Độ là Đấng Kitô, là Đức Chúa mà lại là một trẻ sơ sinh bọc tã và nằm trong máng cỏ! Nhưng đó là dấu hiệu sứ thần đã nói cho họ biết. Dấu hiệu là cái giúp ta nhận ra một thực tại khác, thí dụ vương miện là dấu hiệu của hoàng đế. Nhưng ở đây, một trẻ sơ sinh nghèo nàn nằm trong máng cỏ bò lừa thì làm sao có thể là dấu hiệu của Đấng Cứu Độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được!
Đức tin luôn đòi hỏi một thái độ liều lĩnh trong sự khiêm tốn chấp nhận thế giá của người khác. Điều các thiên sứ loan báo không thể tin được. Nhưng họ có đủ sự khiêm tốn để nhìn nhận quyền năng và tình thương của Chúa, nên họ xác tín điều sứ thần loan báo là điều chính “Chúa đã tỏ cho họ biết. ” Như thế, từ lúc các thiên sứ nói với họ cho tới lúc rời họ, họ đã có một “bước nhảy vọt của đức tin,” liều lĩnh đi tới quyết định: “Nào ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết. ”
Tiếp theo quyết định là thái độ vội vã của họ. “Họ liền hối hả ra đi. ” Chắc ta còn nhớ thái độ ấy của Mẹ Maria sau khi sứ thần truyền tin cho Mẹ đã được thánh sử Luca ghi lại: “Bà Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi” (Lc 1,39). Động lực của vội vã hối hả đều do lòng tin, hay nói khác đi, lòng tin đã khiến cho Mẹ Maria và các người chăn chiên nhận thấy không thể trì hoãn, nhưng cần phải mau chóng đáp trả.
Cuối cùng họ đã đến Bêlem và gặp được những gì sứ thần đã báo tin. Thánh Luca không ghi lại chút nào về cuộc gặp gỡ ấy. Có lẽ ngài muốn tôn trọng những riêng tư của mỗi nhân vật đang chăm chú hướng nhìn vào “Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. ”
2) “Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”
Tột đỉnh hành trình đức tin của những người chăn chiên là ở đây. Ta thắc mắc không biết Bà Maria và ông Giuse đang chăm sóc cho Hài Nhi hay đang đắm mình trong suy tư và chiêm ngưỡng Hài Nhi? Chắc là các ngài đang chiêm ngưỡng Hài Nhi, vì Hài Nhi đã được đặt nằm trong máng cỏ rồi. Tuy nhiên điều ấy không quan trọng. Ta nên hiểu dụng ý của thánh Luca khi ngài lập lại hai lần “hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12 và 16). Hình ảnh trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ chiên bò không phải là một hình ảnh lý tưởng. Nhưng thánh sử muốn ghi lại một biểu tượng vô cùng ý nghĩa. Máng cỏ là chỗ chứa đựng nguồn sống và lẽ sống của chiên bò thế nào, thì cũng là nơi đặt nằm Chúa Giêsu Hài Đồng, nguồn sống mới của nhân loại như vậy. Hiểu được ý nghĩa biểu tượng ấy, ta sẽ không còn ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu qua bài diễn từ của Người về bánh trường sinh trong hội đường Caphácnaum: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
Trong những giờ phút chiêm niệm này, cùng với Mẹ Maria và thánh Giuse, các người chăn chiên đang nhớ lại từng lời của sứ thần: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin mừng Trọng Đại, cũng là Tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ. ” Bao nhiêu câu hỏi có thể đặt ra, nhưng giờ phút này không phải là lúc trả lời bằng trí óc, mà bằng những đầu gối quỳ phục bên Hài Nhi, để họ hoàn toàn sống sự hiện diện của Đấng Cứu Thế và sự hiện diện của chính họ.
3) “Họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này”
Từ chiêm niệm đi tới hành động, đó là con đường của đức tin. Đức tin được biểu lộ qua hành động. Các người chăn chiên hành động bằng cách kể lại câu truyện Hài Nhi Giêsu cho những người họ gặp tại miền đất Do Thái. Cũng như ngày nay ta nói trong Đại Hội Truyền giáo tại châu Á: chúng ta kể lại câu truyện Chúa Giêsu cho người dân châu Á. Đó là cách rao giảng Tin mừng, ngày xưa hay hôm nay thì cũng theo cùng một phương thức kể truyện. Dĩ nhiên không chỉ kể bằng lời, nhưng quan trọng hơn bằng cuộc sống hằng ngày.
Các người chăn chiên tiếp tục hành trình đức tin của họ. Họ “ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa. ” Những nẻo đường họ đi qua, dù chỉ là nẻo đường quen thuộc trở về với bổn phận coi sóc đàn chiên, cũng sẽ là những nẻo đường để họ sống và biểu lộ lòng tin vào ơn cứu độ Thiên Chúa đã ban cho họ.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nhìn ngắm hang đá được trang hoàng tại nhà thờ hay tại nhà, tôi có chú tâm vào “Hài Nhi nằm trong máng cỏ” hay chỉ thấy hoa đèn rực rỡ? Tôi có được dăm ba phút để suy niệm về những danh hiệu của Hài Nhi và ý nghĩa biểu tượng của máng cỏ không?
Tôi sẽ kể câu truyện Chúa Giêsu cho những người tôi gặp, trong gia đình, nơi sở làm... như thế nào?
76. Cứ dấu nầy--Lm. Damien OFM
Các mục đồng đi tìm Chúa Hài Nhi theo lời các thiên thần bảo: “Một em bé sơ sinh bọc tã,nằm trong máng cỏ. ”
“Noel xưa: “cứ dấu nầy”
Luca viết câu chuyện một cách hết sức đơn sơ, không nhiều tình tiết. Có gì đơn sơ bằng một em bé sơ sinh, bọc tã, đang nằm ngủ. Nhưng cũng không có gì đẹp bằng khuôn mặt trong trắng ngây thơ của một em bé sơ sinh đang nằm ngủ một giấc ngủ thiên thần; nhẹ nhàng thanh thoát làm sao.
Người ta thường đi tìm những vẻ đẹp khác, cái đẹp của nghệ thuật hay vẻ đẹp lộng lẫy của cung điện, cái đẹp của những đường nét, màu sắc bên ngoài. Người ta đi du lịch khắp nơi để tìm cái vẻ đẹp bề ngoài ấy, nơi các thành phố tối tân hay cổ kính, nơi những cảnh thiên nhiên của hang động, núi rừng hay biển cả. Nhưng ít ai biết đi tìm cái vẻ đẹp đơn sơ trong trắng của đời thường. Bởi lẽ, muốn thấy được cái vẻ đẹp nầy thì phải biết chiêm ngắm trong thinh lặng và suy tư, phải biết đưa tâm hồn lên cao, phải biết sống với nội tâm, chiêm ngắm với cả tâm hồn. Cũng như tâm hồn nhà nghệ sĩ rung động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà người khác chẳng cảm thấy gì cả; con mắt đức tin, một tâm hồn có niềm tin nhạy bén cũng nhìn được những vẻ đẹp làm rung động tâm hồn mà người khác không thấy gì.
Noel nầy:cứ dấu nào đây?
Noel nầy, cứ dấu nào mà tìm ra Chúa đây?
Trong bầu khí Noel, các nhà thờ đầy ắp ánh sáng; các hang đá được trưng bày lỗng lẫy, đèn nến sáng trưng; các buổi biểu diễn thánh ca trên sân khấu thật thu hút, hấp dẫn. Người ta đổ xô về những nơi ấy; người ta được thiệp mời đến tham dự những buổi biểu diễn thánh ca; người ta đua nhau đi xem các nhà thờ và hang đá. Nhưng có mấy ai biết rút lui vào thinh lặng của cõi lòng mình như vào nơi hoang vắng của cánh đồng Bêlem để tìm ra Chúa Hài Nhi đang nằm trong đó, như đang nằm trong hang đá, một hang đá ngổn ngang, hôi tanh mùi tội lỗi của cuộc đời. Mấy ai biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi như tiếng thiên thần mời gọi các mục đồng xưa: hãy trở về với cõi lòng con, một cõi lòng đầy tội lỗi, cho dù đã xưng tội rồi, cũng chẳng thơm tho gì hơn chuồng bò hôi tanh ngày xưa, thế mà Chúa Hài Đồng vẫn ngự xuống. Người ta tưởng mình có quyền rước Chúa đêm Noel một cách vui vẻ vì đã xưng tội rồi!
Không, tôi phải có thái độ tâm hồn của những mục đồng, những con người biết mình hèn mọn, tội lỗi, bất xứng. Những mục đồng ấy là những người bạn, những người khách đầu tiên đến thăm Chúa Hài Nhi; họ đến trước cả Ba vua. Họ biết thông cảm với cảnh nghèo hèn của Hài Nhi sinh trong hang đá, Ngài liên đới với họ cũng đồng số phận với họ.
Phải, đêm Noel, người ta đến nhà thờ đầy tiếng nhạc du dương và đèn nến sáng trưng; rồi sau đó vui vẻ ra về, ngồi bên bàn tiệc đầy ắp thức ăn thơm ngon; chứ đêm Noel, ai lại đến thăm một người ăn mày đang run lên vì đói rét, ngồi bó gối xo ro bên vỉa hè.
Đêm Noel người ta vui vẻ nghe đàn ca xướng hát bên bàn tiệc, chứ ai lại đi nghe tiếng rên rỉ của một bệnh nhân nghèo, cô đơn!
Vì thế, nếu Chúa sinh ra hôm nay, thì cũng phải sinh ra trong chuồng bò hay bên vỉa hè vắng lặng của đêm khuya mà thôi. Vì Chúa không có có chỗ trong cõi lòng con người, thì làm gì có chỗ trong gian nhà ấm cúng, trong thành phố tráng lệ, kể cả trong nhà thờ đèn nến sáng trưng.
Noel nầy, được mấy người nghĩ đến người nghèo, chia sẻ với người nghèo? Bò lừa xưa đã biết đến chia sẻ hơi ấm với Chúa Hài Nhi, còn tôi, Noel nầy tôi đã chia sẻ gì cho Chúa, cho người nghèo đây?
Máng cỏ của tôi
Một bé sơ sinh, một sự sống thật mong manh. Một máng cỏ, một hang bò lừa, một sự nghèo khó tận cùng của sự nghèo khó; chẳng lấy gì lấy làm sạch sẽ và thơm tho, ấm cúng cho lắm. Đó phải chăng là tình trạng của lòng con đêm nay. Chúa đến với con, một tâm hồn chẳng mấy đẹp đẽ thơm tho, thế mà con vẫn rước Chúa và Chúa vẫn đến với con.
Con cám ơn Chúa đã chấp nhận sinh ra trong chuồng bò hôi tanh, nếu không thì mấy ai dám đến rước Chúa đêm nay.
Con cám ơn Chúa đã bằng lòng sinh ra trong nghèo khó, nên những người nghèo khổ cảm thấy được thông cảm và an ủi.
Cám ơn Chúa đã bằng lòng sinh ra trong đêm đông lạnh giá, để những cõi lòng băng giá của những người nghèo, người cô đơn được ấm lên khi được rước Chúa vào lòng.
Xưa nay người giàu thì ít, ít về số lượng và nhất là ít về lòng nhân ái, ít khoan dung và ít chia sẻ; còn đại đa số là người nghèo. Trong sứ điệp đêm Noel 1999, ĐGH Gioan Phaolô đã nhắc đến một tỷ tư người nghèo đói trên hành tinh khi thiên hạ đang bước vào thiên niên kỷ thứ ba.
Còn người nghèo khổ, thì Chúa còn phải đến trong lòng những con người ấy để đồng hành với họ. Nơi nào còn tội lỗi thì sứ mạng Chúa lại phải bắt đầu. Sự nghèo đói và tội lỗi trở nên dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa Giêsu, vì chính những con người ấy mới cần đến Ngài cứu vớt.
Nếu thế thì xin Chúa hãy đến vì trong con và xung quanh con, đói nghèo và tội lỗi vẫn còn ngự trị. Và xin Chúa cũng cho con biết làm như chú lừa trong hang đá, dù chỉ là một chú lừa, biết đem hơi ấm của lòng mình, sưởi ấm những tâm hồn cô đơn lạnh giá chung quanh con.
Với cảnh nghèo Bêlem, con hiểu rằng, cái nghèo đói và tội lỗi nơi người khác là dấu chỉ đã mời gọi Chúa đến và cũng đang mời con đến đó: con phải biết chia sẻ, không được xa lánh họ, dù con cũng nghèo hèn như những chú mục đồng hay như những chú lừa kia mà thôi.
Dâng cả tội cho Chúa
Đêm Giáng sinh, bé Giêsu hiện ra với một vị ẩn tu: thánh Giêrôme. Chúa hỏi:
- Giêrôme, con lấy gì mà mừng Ta khi Ta giáng sinh?
- Con xin dâng lòng con.
- Được, nhưng còn gì nữa không?
- Con xin dâng mọi kinh nguyện và mọi tâm tình của con.
- Còn gì nữa không?
- Con xin dâng tất cả con đây.
- Còn gì nữa?
- Con dâng hết rồi, lạy Chúa con chẳng còn gì để dâng cho Chúa nữa!
- Còn một cái, đối với Ta đó mới là cái quan trọng mà con quên dâng cho Ta, đó là tội của con. Con hãy cho Ta tất cả tội của con để Ta tha thứ, đó là điều Ta mong ước nhất nơi con người khi Ta đến trần gian.
- Ôi lạy Chúa! Chúa làm con phát khóc lên được!
77. Chúa đã tặng Người Con để cứu ta--Lm. Raymond Châu Diên, CMC
Trong cuộc họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào mùa Giáng Sinh 1989, Tổng Thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ bức tường ô nhục Bá Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nó gói gém tất cả thiện chí và ước muốn hòa bình của toàn thể thế giới.
Trước đó vài ngày, trong cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô, Chủ Tịch Gorbachov đã tặng ngài một tập Sách Kinh in vào thế kỷ 14. Qua đó ông muốn khẳng định những giá trị đạo đức của tôn giáo rất cần thiết cho việc xây dựng xã hội.
Đáp lại, Đức Thánh Cha đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. " Đó là tất cả những gì Đức Thánh Cha và toàn thể thế giới Công Giáo có thể trao tặng cho một xã hội từ lâu gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống (Lẽ Sống 1991). Đó là những quà tặng thật ý nghĩa và giá trị.
Từ 2000 năm nay Thiên Chúa hằng ban tặng một món quà vô cùng quý giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho vũ trụ, cho xã hội, cho mỗi gia đình và mỗi cá nhân chúng ta.
Đối với vũ trụ, tiên tri Isaia và thánh Phaolô nói: Người Con đó là ánh sáng chiếu soi cho vũ trụ tăm tối này. Vũ trụ sẽ được bừng sáng lên trong ngày Đức Giêsu Kitô ngự đến. Người là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa vinh hiển. Người đến biến đổi trời cũ, đất cũ nên trời mới đất mới.
Đối với xã hội, đoàn dân đang lần bước trong lầm than, bao nhiêu ách đè lên cổ dân, bao nhiêu gậy đập xuống vai họ, bao nhiêu ngọn roi của kẻ hà hiếp, Thiên Chúa đều bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quang Thiên Chúa trên những mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đàn chiên và tất cả lớp dân lao động sống lầm than trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo cho họ một xã hội hòa bình trên nền tảng chính trực, công minh, tồn tại từ đời này đến đời kia.
Đối với gia đình, đơn nghèo như Giuse và Maria vẫn lên đường về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh nhà cầm quyền. Đơn nghèo đến nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận, đành sống thân phận như kẻ ăn xin, ra đồng tìm nương thân nơi hang bò máng cỏ. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm con những gia đình ấy, vui sống hy sinh trong cuộc sống như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ và đưa bình an Thiên Chúa đến cho họ.
Đối với cá nhân, Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng ta sống tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến thân chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta chan chứa niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ vui mừng trước thánh nhan Người, như thiên hạ vui mừng trong mùa gặt phong phú.
Vì yêu thương nồng nàn, Thiên Chúa càn khôn trao ban những quà tặng ấy cho vũ trụ, cho xã hội, cho gia đình và cho mọi cá nhân chúng ta. Vì thế, lễ Giáng sinh là lễ tặng quà. Cả một rừng thiệp Giáng Sinh, những bức họa đủ mọi cảnh sắc tuyệt đẹp để người ta trao tặng cho nhau. Cả một rừng cây thông mọc khắp nơi trên điạ cầu để tô điểm cho mùa Giáng Sinh thêm xanh tươi xinh đẹp. Hàng triệu quà bánh Giáng Sinh làm no lòng thỏa dạ con người và hàng ngàn bài ca du dương vang lên khắp năm châu làm êm ái lòng người để vui hưởng cảnh Giáng Sinh thanh bình.
Vũ trụ trao tặng những cây thông xanh tốt cho con người chiêm ngưỡng vẻ thanh tao, cao quý của Thiên Chúa, và xã hội đua nhau trưng bày hàng Giáng Sinh cho con người thấy được nguồn giàu sang phong phú Thiên Chúa ban cho mình. Gia đình cũng dọn những bữa ăn thơm ngon cho ông bà cha mẹ, con cháu được quây quần xum họp bên nhau thân mật đậm đà yêu thương, để vun đắp tình nghĩa gia đình được bền chắc khăng khít. Người người tặng cho nhau những tấm thiệp tuyệt đẹp để chúc mừng nhau được hưởng hồng ân hạnh phúc bởi trời.
Lạy Chúa, còn con, con lấy gì tặng quà cho Chúa và mọi người đây? Xin cho con lấy chính tình yêu của Con Chúa mà đến chia sẻ nỗi thống khổ của những người nghèo khó, của những người ngày đêm thổn thức vì lao động vất vả, của những gia đình tê tái giá lạnh giữa cảnh phân ly. Xin cho ánh sáng huy hoàng Giáng Sinh của Chúa làm cho con tim chúng con bừng cháy trong bình an và hạnh phúc muôn đời.
78. Con người--Lc 2,1-20
Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng sinh.
Thực vậy, với mầu nhiệm giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.
Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta.
79. Không nhà không cửa
Một hài nhi không nhà không cửa.
Hẳn rằng chúng ta còn nhớ, có lần Chúa Giêsu đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Lời nói này đã trở thành một sự thật ngay từ đêm hôm nay, khi Ngài mở mắt chào đời.
Thực vậy, Ngài đã sinh ra trong một hang đá ngoài đồng vắng, nơi nghỉ ngơi của chiên bò. Mẹ Ngài đã đặt Ngài nằm trong một chiếc máng có. Thế nhưng đó lại là một sự kiện kỳ diệu, làm chuyển biến cả số phận của nhân loại.
Theo lệnh của hoàng đế César, những người trở về Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu, đều tìm thấy một mái nhà để nghỉ qua đêm, hoặc là nơi hàng quán, hoặc là nơi bà con thân thích. Dường như chỉ có mình Ngài, một hài nhi không nhà không cửa, không cả chốn tựa đầu.
Theo lề thói thông thường, chúng ta có thể mường tượng Ngài sinh ra trong một toà lâu đài hay trong một cung điện kín cổng cao tường. Nhưng Ngài đã không làm thế, bởi vì Ngài là người của mọi người, Ngài đến để cứu chuộc cả nhân loại. Hang đá Bêlem không có cửa, và nếu có thì cánh cửa ấy vẫn luôn mở rộng, để tất cả chúng ta đến tìm gặp Ngài, mà không cần báo trước, không cần chờ đợi, không cần những thủ tục kính chuyển.
Hơn thế nữa, Ngài đã không sinh ra dưới một mái nhà kiên cố, điều ấy như muốn chứng tỏ rằng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, cho nên Ngài không cần tới một tấc đất để làm sản nghiệp. Ngài không tranh giành ảnh hưởng, Ngài không gây chiến để mở mang bờ cõi. Nhưng Ngài đã để lại và trao ban cho chúng ta tất cả, cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để chứng tỏ một tình yêu thương dạt đào: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hài nhi nơi máng cỏ Bêlem, phải chăng là một hình ảnh, một biểu tượng của vị vua hoà bình. Ngài chỉ muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi ách nô lệ, nhất là ách nô lệ của tội lỗi. Ngài chỉ ước mong cho chúng ta được nếm thử niềm vui, niềm vui của một tâm hồn trong sạch, hầu chuẩn bị cho hạnh phúc Nước Trời. Ngài không cần chúng ta dành cho Ngài một mái nhà, nhưng chính Ngài sẽ dành cho chúng ta một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trong nhà Cha trên trời.
Là một vị Vua không binh đội, không cung điện, không ngai vàng. Là một vị Vua của mọi tâm hồn, vì thế có lẽ điều Ngài mong đợi hơn cả nơi mỗi người chúng ta, đó là hãy dành cho Ngài một nơi cư ngụ trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta. Tâm hồn chúng ta phải là một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa và tình yêu của chúng ta sẽ là những tia nắng sưởi ấm cho Chúa. Thế nhưng chúng ta đã ý thức và thực hiện được điều đó hay chưa?
80. Bệnh Giêsu
Cách đây hơn 20 thế kỷ, một biến cố đã xảy ra và đã làm cho cuộc sống của nhân loại được phong phú. Đúng thế. Vào một đêm đông, một hài nhi nhỏ bé đã được sinh ra trong tăm tối. Nhưng rồi ba mươi năm sau, người ta lại thấy Ngài xuất hiện đi trên các nẻo đường như một ánh lửa khác thường của nhân loại. Ngài đã mời gọi thay đổi cả thế giới. Ngài đã lật đổ mọi thứ nặng nề trì trệ của cơ chế cũng như của tôn giáo.
Đối với Ngài, không có những bức hàng rào ngăn cách những gia đình, dòng tộc, phe nhóm và quốc gia. Ngài khơi dậy nơi mọi người sự ân cần của tình thương. Ngài đã nói năng thân mật với Thiên Chúa cao cả như một người con. Nơi nào Ngài đến, thì hệ thống đẳng cấp bị sụp đổ. Người nghèo được vui mừng. Người bệnh tật và bất hạnh thấy được bảo đảm. Người cuối hết trở thành kẻ thứ nhất. Ngài đã tái sinh ông nhà giàu dính cứng trong tiền bạc bất chính, người đàn bà hư hỏng, nhà thông luật nặng hình thức và thậm chí cả viên sĩ quan của nhà vua. Một sự sống chưa từng có đã bừng lên nơi những con người này, để nhờ đó, biến đổi cả cuộc sống xã hội và xây dựng một thế giới mới đầy tình thương.
Và như chúng ta đã biết: Ngọn lửa nhân bản và yêu thương ấy đã chỉ có một thời. Những kẻ quyền hành của thế giới cũ đã liên minh chống lại Ngài. Hài nhi sinh ra trong hang đá Bêlem năm nào đã bị đóng đinh trên thập giá. Ngài đã chết sau ba giờ hấp hối, vì đã muốn biến đổi thế giới, vì đã muốn khai sinh một nhân loại mới. Dọc theo các thế kỷ, từ đó cho đến nay, nhiều người đã quên mất Ngài, thậm chí trong số đó có cả những người mang danh hiệu Kitô hữu.
Thế nhưng, tinh thần của Đức Kitô không ngừng lây lan trong tâm hồn chúng ta, hay như một người Hồi giáo đã nói: Con người mang một cái bệnh gọi là bệnh Giêsu, thì không bao giờ có thể lành được. Ngày nay cũng vậy, Ngài có những người bạn nhiệt tình của mình. Tôi nghĩ đến những người trong đêm giáng sinh thay vì đi dự một tiệc rượu, đã tới thăm viếng những người đau yếu, nghèo túng và chia sẻ với họ một phần quà nho nhỏ. Tôi nghĩ đến những ông bác sĩ sau khi tốt nghiệp, thay vì mở phòng mạch tại thành phố, thì đã đi phục vụ không công tại những nơi xa xôi heo lánh. Tôi nghĩ đến những người dâng hiến cả cuộc đời cho những kẻ phong cùi cay cực. Thay vì lãng quên hay chạy trốn, họ đã tiến lại gần và tự hiến. Họ đã là những phản ánh trong sáng nhất cho tình thương của Ngài.
Thế nhưng tới đây thì một câu hỏi được đặt ra: Vậy thì Thiên Chúa ở đâu cho chúng ta tìm kiếm, hay Ngài chỉ còn là một kỷ niệm xa xưa? Cựu Ước kể lại rằng, đang khi Đavit dự tính xây cất một đền thờ cho Thiên Chúa, thì Ngài đã viếng thăm tiên tri Nathan và nói với ông: Ta chẳng bao giờ ở trong nhà kể từ ngày Ta đem con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Chính ta sẽ xây cho Đavit một ngôi nhà. Nhà của Đavit và vương quốc của Đavit hằng tồn tại trước mặt Ta.
Như thế chúng ta thấy Thiên Chúa không phải chỉ ở trong các đền thờ mà còn ở trong chính con người. Hay như thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Vậy thì Ngài đã thực sự hiện diện nơi bản thân chúng ta hay chưa, và hơn thế nữa chúng ta đã thực sự tìm gặp được Ngài nơi những người chung quanh, nhất là nơi những người anh em bệnh tật, đau khổ và nghèo túng hay chưa?
81. Ngạc nhiên
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau:
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:
- Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài nhi mà không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài nhi bằng đôi bàn tay trằng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
- Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta thường nói:
- Ngạc nhiên là khởi đầu của mọi khám phá.
Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đưa ra những giả thuyết, người ta mới tìm tòi, khảo sát và khám phá. Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên ấy.
Trong lãnh vực siêu nhiên cũng vậy. Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc nhiên để rồi từ đó khám phá ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Đúng thế, khi nhìn ngắm những kỳ công trong vũ trụ, cùng với trật tự lạ lùng của nó, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thán phục.
Từ chỗ ngạc nhiên và thán phục này, chúng ta phải đi đến một kết luận, đó là có Thiên Chúa và Ngài là Đấng quyền năng và thương xót, đã dựng nên, an bài sắp xếp và bảo tồn mọi sự. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, mà mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Vũ trụ này là một cuốn sách được mở ra để mời gọi con người tìm đọc lời ngỏ đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Tiếp đến, khi nhìn vào lịch sử nhân loại, cũng như cuộc đời riêng tư, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên trước biết bao ơn sủng mà Ngài đã trao ban, để rồi chúng ta sẽ khám phá ra bàn tay của Thiên Chúa luôn hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, cũng như mỗi người chúng ta trên vạn nẻo đường đời.
Và giờ đây trước máng cỏ Bêlem, nếu thực sự biết ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Ngài bằng cách trao ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài, hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Trước máng cỏ Bêlem, bằng cặp mắt đức tin hẳn chúng ta sẽ phải ngạc nhiên vì tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, để rồi từ sự ngạc nhiên ấy, chúng ta sẽ tin tưởng và phó thác cho tình yêu của Ngài. Khi gặp những sự may mắn, chúng ta dâng lên Ngài lời cảm tạ đã đành, mà ngay cả lúc khổ đau và đắng cay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn tình yêu của Ngài. Trong mọi sự, người biết ngạc nhiên sẽ luôn luôn nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
Ước gì trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy đến bên hang đá máng cỏ, ngạc nhiên trước tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, để rồi dâng lên Ngài tâm tình cảm mến tri ân.
82. Đêm Thánh
Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là “Đêm Thánh”? Nói cho ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện các mục đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuật ấy cũng không phải là bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này của Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác tín ấy vào chín tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang một ý nghĩa kép, một ý nghĩa “hàm hồ”- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian mà không ai có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy. Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín và tội lỗi, thời gian Chúa đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng đêm – để không bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta phải tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi như thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm chứa trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc thinh lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi chờ và cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta nghe tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến!”. Đêm tối trong Thánh Kinh còn là thời gian của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức Giêsu đã trải qua những đêm trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận như công trình của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên: “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa…” (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm chúc tụng Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, “đêm này kể lại với đêm kia” sứ điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta về sự vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo những chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu, như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả năng ẩn chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh – như một lời hứa nghe thật hay nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện thực, như một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai… Tất cả đều còn đó ý nghĩa hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục tiêu còn quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất…
… Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định lại mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy … thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm! Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và tất thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh! Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ: “Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng…”.
Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của “Mặt Trời Công Chính” (danh hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis invicti của dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật “thần mặt trời bất khuất”.
Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây là phút giờ thánh thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ ánh sáng chói lọi ‘khủng khiếp’ của Ngài, đã đến với chúng ta – thật lặng lẽ, thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm bước vào cõi dương trần khốn khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y như chúng ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô cùng thăm thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì, trên con đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa. Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ không bao giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta đi về với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc. Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta. Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim của một trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu mình, nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả…
Chúng ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn mình bằng cách không chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè chén hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh né mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ấy). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử hành, nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh lặng của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp nhận rút vào trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những loay hoay căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng trần tục vốn che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt mình trước sự hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện “lên lời” bằng chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể ‘nghe’ được nếu biết lắng nghe. Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao; Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả những gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu trời, và trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có thể làm cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn lao khôn dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi vào trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn ngập chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa thì đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng, một đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu mà đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào trong trái tim mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó, nếu có, là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn lao! Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta vốn có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta, lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và những ai đã bước vào trong cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng…
Giây phút tưng bừng…
83. Noel: Tình bạn
Nhiều thế kỷ trước đây tại nước San Marinese, có một ông vua rất kính sợ Thiên Chúa và thương yêu dân chúng. Ông sống chính trực và rất được dân chúng kính trọng, mến phục. Nhà vua không chỉ hài lòng với cuộc sống trên dung lụa của hoàng cung, cũng không chỉ nghe theo lời báo cáo tường trình của các quan cận thần mà thôi. Để biết rõ hơn về hoàn cảnh sống của dân chúng, nhà vua thường hay cải trang đủ cách để có thể đi lại dễ dàng và trà trộn giữa mọi lớp người để không bị theo dõi hoặc chú ý tới. Một hôm nhà vua cải trang với manh áo rách vá chằng chịt như một người hành khất và đến ngồi ăn xin tại một công viên. Nhà vua làm quen với người phu quyét đường thường ngồi nghỉ trên ghế công viên, ăn qua loa nắm cơm nguội dưới ánh nắng mặt trời nắng gắt. Ngày qua tháng lại, nhà vua trở nên như bạn thân của người phu quét đường. Họ chia sẻ từng nắm cơm, ly nước và chuyện trò vui vẻ như hai người bạn thân vậy. Sau cùng vua quyết định nói sự thật và tỏ mình cho người phu quét đường biết mình là ai. Nhà vua còn bảo người phu quyét đường có thể xin điều gì mà anh ta ưa thích nhất như mòn quà kỷ niệm tình bạn thân thiết ấy. Nghe nhà vua tỏ tình thương mến, người phu quét đường trố mắt ngạc nhiên nhìn nhà vua và nói: Thưa hoàng đế, nhà vua đã không quản ngại khó nhọc, khước từ vinh quang của cung điện để đến chia sẻ nắm cơm chén nước và những khó nhọc của bần hèn này. Nhà vua có thể ban tặng cho quan thần những món quà quí giá, nhưng đối với phận hèn này nhà vua đã dành cho món quà lớn nhất là chính mình. Vì thế nếu được, phận hèn này chỉ xin một điều duy nhất, là xin nhà vua đừng cất đi tình bạn mà nhà vua đã dành cho kẻ hèn từ trước tới nay.
Thật vậy, tình bạn là một trong những món quà lớn lao, quí giá nhất mà con người có thể nhận được. Tình bạn là mối dây liên kết vượt hẳn lên trên những mục đích chung của công việc làm, của những lợi lộc hoặc những vấn đề cá nhân. Tình bạn chân thật là sự hiện diện cạnh bạn khi vui cũng như lúc buồn, cho dù không thể tăng thêm niềm vui, cũng chẳng biết làm vơi đi nỗi buồn của bạn. Tình bạn làm cho cuộc sống thêm tươi sáng. Có bạn cuộc đời cũng đỡ bớt cô đơn. Trong Phúc âm, chính Chúa Giêsu cũng đã để cao giá trị của tình bạn khi Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đã gọi chúng con là bạn hữu, vì Thầy đã tỏ cho chúng con am tường mọi điều Thầy nghe nơi Cha Thầy”. Cũng vì tình yêu cao quí mà Chúa Giêsu đã tự nguyện đến trần gian mặc lấy thân phận con người. Niềm vui của Chúa Giêsu là trở nên như chúng ta những con người yếu đuối hạn hẹp mà Người đã muốn nâng lên hàng bạn hữu, là trở nên thành phần của đại gia đình nhân loại và cùng đi với chúng ta trên con đường trở về với Thiên Chúa Cha. Đấng Emmaunuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là món quà cao cả nhất. Thiên Chúa ở với loài người, là ý nghĩa sâu xa nhất của mầu nhiệm Giáng Sinh Nhập Thể.
84. Noel: Hữu hình
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua, một biến cố tràn đầy hạnh phúc nhưng đã chìm vào dĩ vãng. Vậy đâu là ý nghĩa của ngày lễ hôm nay?
Trong ngày lễ này, chúng ta xác tín: Thiên Chúa đã trở nên hữu hình đối với chúng ta. Ngài không còn là Thiên Chúa xa lạ, cách ta nghìn trùng nữa. Thiên Chúa đã đến với loài người. Ngài đã đến giữa loài người như một người trong chúng ta, sinh bởi một người phụ nữ, cần đến tất cả sự chăm sóc và âu yếm của mẹ Ngài, thừa hưởng cả một quá khứ gia đình. Việc Ngài sinh ra được bao bọc bởi vài thành viên trong gia đình và những người chất phác có Kitô hữu năng thán phục trước một hài nhi đã ra đời. Ngài đã đến trần thế này để dự phần vào những vui buồn của mỗi người trong chúng ta. Ngài không yêu cầu đặc ân nào ngoài đặc ân được ở giữa những người nghèo. Ngài đã có một chỗ đứng trong dòng tộc với quá khứ và tương lai của dòng họ. Tổ tiên của Ngài là những người chăn nuôi súc vật, những kẻ di dân, những người lao động tay chân và những người đánh giặc. Vài người trong họ đã để lại kỷ niệm xấu vì giết chóc và trộm cướp. Những người khác là những người có đức tin và lòng sùng đạo rất lớn với những nhân đức khiêm tốn nhưng bền bỉ. Chính như vậy đó mà Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong sự giống hệt loài người. Ngài không mặc lấy nhân tính của chúng ta như một bộ y phục. Ngài đã nhập thể và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa không ngừng trở nên hữu hình! Lý do của việc con Thiên Chúa nhập thể là “Thông ban ân sủng để cứu độ hết thảy mọi người”. Lý do này không bao giờ bị rút lại. Nó vẫn còn đó và luôn luôn được thể hiện.
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua mà ta không muốn quên, nhưng đây là lễ đón mừng một hồng ân hiện đang được ban cho loài người. Đôi khi người ta nói về một người mà sự nghiệp đặc biệt lừng lẫy nên người ấy vẫn tiếp tục sống ở giữa chúng ta do ảnh hưởng công việc của họ. Nhưng đó chỉ là một cách biết ơn nhân vật quá cố thôi. Vì người ấy cũng như sự nghiệp của họ không tồn tại mãi mãi được.
Nhưng công trình của Thiên Chúa, ân sủng làm cho chúng ta trở nên con cái của Ngài vẫn luôn luôn được thể hiện. Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong những cách hiện diện với loài người mà Chúa Giêsu đã chọn sau cuộc Phục sinh của Ngài: Cộng đoàn Giáo Hội, sự hiệp thông giữa các môn đệ của Ngài, là thân mình Ngài, sự hiện diện của lời Ngài nơi những tâm hồn biết lắng nghe trong đức tin, và Bí tích Thánh Thể, hồng ân và dấu chỉ sự hiện diện thật sự của Ngài. Mối tương quan mà những kẻ đã sống với Chúa Giêsu có thể thiết lập với Ngài trong đức tin và đức cậy, cũng có thể được đối với mỗi người chúng ta. Chúa Kitô bao giờ cũng niềm nở và lắng nghe, bao giờ cũng đầy lòng thương xót và luôn sẵn sàng ban sự sống như thế cả.
Lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành với một niềm vui lớn lao cũng thực sự là lễ mừng ngày chúng ta được sinh vào đời sống thiêng liêng mà con Thiên Chúa đến ban tặng cho chúng ta.
85. Noel: Lễ vật dâng Chúa
Đã biết bao nhiêu đêm như đêm nay đã đến với đời mỗi người chúng ta. Thế mà cứ mỗi lần nhìn thấy hang đá, ngắm những trang trí lạ mắt, ánh sáng rực rỡ lung linh, tiếng đàn tiếng hát du dương hớn hở, chung quanh ai nấy ăn mặc, trang điểm xinh đẹp thì tâm hồn chúng ta lại dâng trào niềm vui khôn tả. Chính lúc ngây ngất sung sướng đó, mỗi người chúng ta không thể không đưa mắt chiêm ngắm Chúa Hài đồng xinh xắn mà thương mến mà thầm ước.
Và có lẽ, trong giây phút linh thiêng trang trọng này, ai cũng tự hỏi mình phải làm gì cho Chúa hài đồng vui lòng đây, mình nên dâng cái gì quí nhất đây để tỏ lòng yêu Chúa. Chắc mọi người nghĩ ra nhiều việc hay, tưởng tượng nhiều quà quí hiếm để tiến dâng. Nhưng câu chuyện sau đây muốn trình bày cho chúng ta thấy một món quà Chúa ưa thích nhất:
Số là đúng cái đêm Chúa sinh ra như đêm nay, các thú vật chung quanh Bêlem đều tới mừng Chúa và mỗi con đều dâng Chúa một món quà nhỏ: Chị bò cái dâng sữa, anh Lừa hà hơi sưởi ấm, cậu Khỉ biếu Chúa mấy trái nho, chú Sóc biểu diễn một điệu nhảy đẹp mắt, Bé Vàng khuyên hát một bài du dương, cậu Bướm tình nguyện làm đồ chơi. Chúa Hài đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc các thú vui thích quây quần bên Chúa thì chàng Cáo xuất hiện. Mọi thú đều ghét cáo vì nó gian manh xảo quyệt. Chúng chặn đường không cho Cáo đến gần Chúa. Thấy thế, Chúa can thiệp và ra hiệu cho Cáo vào. Cáo đến quỳ bên Chúa thì thầm nói với Chúa một hồi. Thấy Chúa thích thú đến độ đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng nhận và chúc lành. Riêng Cáo hớn hở, vui tươi lễ phép đứng lên cáo biệt rồi đi thẳng. Những con vật khác tức tối, tò mò hỏi Chúa Cáo đã dâng gì cho Ngài mà Ngài thích thú như vậy. Mỉm cười Chúa đáp: “Cáo đã dâng cái mà ta thích nhất: Đó là những tội lỗi của nó”.
Nghe thế ai mà chẳng bỡ ngỡ vì tưởng gì chứ tội lỗi ai mà chẳng có, lại có rất nhiều. Nhưng có lẽ ai cũng thắc mắc tại sao Chúa lại ưa cái thứ quỉ quái xấu xa đó? Có gì lạ đâu, cứ nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, rồi nhìn vào thân phận yếu đuối của ta mà Chúa đã bỏ trời cao xuống trần mang lấy để gánh chịu mọi hậu quả của tội lỗi mà cứu thoát chúng ta. Vì khi ai biết cho Chúa mọi tội lỗi của mình thì người đó đã nhận ra sự hy sinh cao cả và tình yêu vô biên của Chúa.
Và rồi chúng ta tự hỏi cái gì trên cõi đời này làm cho con người phải điêu đứng khổ sở, phải lo lắng bối rối, phải ray rứt hối hận? Dĩ nhiên, tất cả bởi tội mà ra. Hơn nữa, khi Ngôi Hai xuống thế làm người là Ngài mong muốn chúng ta được an vui, hạnh phúc đích thực, nhưng chỉ còn một trở ngại ngăn cản cuối cùng là tội lỗi. Vì thế ai muốn có sự bình an thật thì phải dâng tội cho Chúa vì chỉ có Chúa mới tẩy xóa được chúng và giúp con người trở nên bạn hữu của Ngài.
Vậy khi dâng tội cho Chúa tức là chúng ta dâng trót cuộc đời còn lại của mình để cố gắng chừa cải ăn năn, để chỉ ước muốn làm điều đẹp lòng Chúa. Đổi lại, Chúa sẽ ban cho mỗi người chúng ta một tặng phẩm quí giá: Đó là sự anbình vui tươi của đêm thánh hôm nay đem lại cho mọi người thiện tâm thiện chí.
86. Noel: Đổi đời
Trời vừa rạng sáng, sao vừa biến và người khách cuối cùng vừa từ giã, mẹ Maria xếp lại đống rơm và Hài nhi thiu ngủ… Bỗng, cánh cửa của chuồng bò kẹt mở. Một người đàn bà xuất hiện, áo rách rưới, da nhăn nheo đến độ khuôn mặt tóp lại trông dễ sợ. Thấy bà, Mẹ Maria sợ như thể một mụ phù thủy mang xui xẻo đến. May thay, Hài nhi thiếp ngủ, bò lừa đang nhai rơm yên lành. Còn Mẹ Maria không ngớt theo dõi. Mỗi bước chân của bà già đối với Mẹ Maria hình như dài cả thế kỷ. Bà ta vẫn tiếp tục bước và đã đến bên máng cỏ. Bất chợt Bé Giêsu mở mắt nhìn và mẹ Maria hết sức ngạc nhiên khi thấy đôi mắt Con Mẹ và đôi mắt của bà già sao mà giống nhau như thể ánh lên cùng một niềm hy vọng. Đoạn bà già thò bàn tay khẳng khiu vào bọc áo tồi tàn mò tìm một vật gì cất rất kỹ. Mẹ Maria vẫn lo lắng quan sát và các con vật vẫn thản nhiên. Cuối cùng, bà ta hình như đã tìm được và lôi ra khỏi bọc một vật dấu trong bàn tay, rồi trao lại cho Hài nhi. Không biết quà tặng là cái gì và bà già là ai mà có vẻ bí hiểm. Mẹ Maria chỉ thấy chiếc lưng còng cúi xuống khá lâu trên chiếc nôi. Rồi bà già đứng thẳng dậy như trút được một gánh nặng trên hai vai, khuôn mặt rạng rỡ như tìm lại được vẻ trẻ trung cách kỳ diệu. Sau đó, bà ta từ từ rời khỏi nơi Hài nhi và biến mất vào đêm tối. Bây giờ mẹ Maria mới thấy được món quà tặng của bà già và biết rõ bà ta là ai. Thì ra, bà già ấy chính là Eva vừa trao lại cho Hài nhi một trái táo nhỏ. Trái táo của tội nguyên tổ. Và trái táo đó rạng ngời trong đôi tay xinh xắn của Hài nhi như một quả địa cầu của thế giới vừa mới được tái tạo nhờ Hài nhi.
Vậy có thể nói rằng ngay từ khi Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể đến ở giữa trần gian thì tất cả mọi tạo vật, kể cả tội nguyên tổ, đều được biến đổi, thăng hoa, ẩn chứa hồng ân cứu độ, phản ảnh tình thương của Thiên Chúa. Đặc biệt, đối với con người nhờ việc Ngôi Hai mặc lấy bản tính của họ nên họ được vinh dự lớn lao là trở thành tạo vật mới đầu tiên ở trong Chúa hài đồng.
Tuy nhiên, bất cứ một cuộc biến đổi nào muốn đi tới thành công mỹ mãn đều phải trải qua ba giai đoạn then chốt này: Một là xác định rõ hướng đi; hai là hợp tác chặt chẽ; ba là kiên trì theo đuổi đến cùng. Nhất là cuộc biến đổi hóa thần từ một bản tính yếu đuối tội lỗi thành một bản tính thần thiêng cao vời lại càng đòi buộc con người nhiều hơn nữa nếu con người muốn hóa thần thành công.
Thứ nhất là hướng đi. Đã là con người ai cũng cảm thấy thân phận mình thật mỏng dòn, yếu đuối, hay hướng chiều theo đam mê sa đọa, lúc nào cũng cảm thấy ray rứt bất an, luôn khao khát tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn. Tất cả những biểu hiện đó là do tội nguyên tổ gây ra, khiến con người cứ chìm đắm trong bến mê, thất vọng. Khi phải sống trong một tình trạng khốn khổ đó mà có ai đủ khả năng giải thoát con người khỏi bóng tối đến với ánh sáng, từ bị luận phạt giam tù đến chỗ tự do, từ đau khổ đến bến bờ hạnh phúc, chắc chắn người ta không bao giờ để tuột mất cơ hội ngàn vàng. Đó là Ngôi Hai giáng trần, một hướng đạo tài năng, một ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho nhân loại được cứu thoát.
Thứ hai là hợp tác. Khi đã xác định được hướng đi mà muốn thành công, hai bên phải biết hợp tác để cùng hành động và hỗ trợ cho nhau. Về phía Chúa, nguyên việc xuống thế, mặc lấy thân phận hư hèn của con người cũng đã đủ để nói lên tình thương và thiện ý của Ngài là muốn cứu thoát tất cả mọi người. Do đó, Ngài không từ chối bất cứ việc gì, ngoại trừ tội lỗi, để giúp con người đi tới hạnh phúc, nên Ngài đã không ngần ngại phó mạng sống và quyền năng của Ngài cho con người sử dụng. Còn về phía con người muốn đón nhận hồng ân cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban, đương nhiên phải biết hợp tác với Ngài bằng cách nhiệt tâm, tin tưởng, vâng theo những sự chỉ dẫn của Ngài. Nói khác đi, con người muốn được cứu thoát phải biết tiếp nhận Chúa như là bạn đường, như là khách quí mời vào trọ trong nhà mình để yêu mến, phục vụ Ngài tận tình chu đáo. Tất nhiên, khi có Chúa ở cùng, con người phải từ bỏ mình cùng với những xấu xa, coi ma quỷ như kẻ thù không đội trời chung…
Cuối cùng khi đã quyết chí lên đường theo Chúa để có thể đi đến cuối con đường của hạnh phúc đích thực được thì phải có lòng kiên trì bền vững luôn. Đây là một điều kiện then chốt vì con đường đến với Chúa và cùng đi với Ngài không phải là một con đường thoải mái, dễ dàng, nếu không có chí sắt đá, không có lòng kiên định thì khó mà đi trọn vẹn. Bởi vì, tin tưởng và chấp nhận đi theo Chúa không phải một vài lần là được mà phải chấp nhận suốt đời và cũng không phải lúc nào đời người đều bình yên lặng gió mà là luôn có trở ngại thử thách đủ thứ. Vì thế, chỉ có những ai bám chặt vào Chúa thì kẻ đó mới đến đích bình an.
Chúa vì thương con người đã làm một cuộc đổi đời kỳ lạ từ trời xuống đất, từ Chúa thành người để cứu vớt và đưa con người lên hàng thần thánh. Còn con người muốn được hóa thần phải biết đổi đời từ tối thành ánh sáng, từ hư hèn thành bất diệt.
87. Đêm An Bình
Trong đêm Giáng sinh, sứ thần Chúa đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Vào buổi sáng ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra và chào chúc các môn đệ:
- Bình an cho các con.
Ngài cũng đã xác quyết:
- Thầy ban bình an của Thầy cho các con.
Vậy sự bình an mà Chúa trao ban cho chúng ta là sự bình an như thế nào?
Trước hết đó phải là sự bình an trong tâm hồn qua việc giải thoát chúng ta khỏ sự kìm kẹp của tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa. Thực vậy, sự bình an bên ngoài chỉ có thể được xuất phát từ bên trong, từ tâm hồn, từ cõi lòng mà thôi. Bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự thù địch với Chúa, thì chúng ta còn băn khoăn, còn lo lắng, Chính sự bình an nội tâm này sẽ phản chiếu trên khuôn mặt và trên cuộc sống, làm cho chúng ta được vui mừng và hạnh phúc, dù hiện tại có gặp phải những túng cực và khổ đau. Chính trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Cũng trong chiều hướng này, Ngài đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi. Ngài đã bắc lại nhịp cầu đa gẫy, nối liền trời với đất. Ngài đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa. Ngài đã trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa.
Tuy nhiên, sự bình an nội tâm không phải là một quà tặng từ trời rơi xuống, mà hơn thế nữa, nó còn phải là kết quả của những cố gắng cộng tác với ơn thánh, những nỗ lực tìm kiến và xây dựng nơi chính bản thân mình, bởi vì sự bình an chỉ có cho những người thiện tâm mà thôi.
Sự bình an nội tâm này còn là nền tảng để chúng ta vun trồng một cách tốt đẹp những mối liên hệ với người chung quanh từ gia đình đến xã hội.
Trước hết là gia đình.
Như chúng đã biết gia đình ngày nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nó như một cây đã bị cắt mất rễ, thì làm sao sống nổi. Gia đình là trái tim nhân loại. Nếu trái tim này mà bị đau yếu, thì làm sao nhân loại được khỏe mạnh. Gia đình phải là sợi dây liên kết đầy yêu thương, phải là nơi cho sự bình an ngự trị, bằng cách quên đi va tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng lẫn nhau theo tinh thần Phúc Âm.
Một khi tâm hồn chúng ta đã ổn định qua việc hòa giải với Chúa, thì chắc chắn gia đình chúng ta cũng sẽ được êm ấm qua việc yêu thương nhau. Lúc đó sự bình an sẽ chiếu sáng qua mọi biên giới.
Và như vậy chúng ta đã bước vào lãnh vực xã hội.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Phải tu thân, tề gia, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Cũng trong chiều hướng áy, Đức Hồng Y Feltin đã nói:
- Đây là lúc người tín hữu phải rời bỏ tháp chuông, phải rời bỏ quốc gia nhỏ bé của mình để hướng tới cộng đồng thế giới, bởi vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng có chung một người cha và cùng được dựng nên theo hình ảnh Ngài. Như thế, mọi cuộc chiến tranh đều là những cuộc huynh đệ tương tàn, anh em sát hại lẫn nhau và làm cho máu Đức Kitô phải đổ ra một lần nữa, vì chúng ta đều là những chi thể của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, viễn ảnh một cuộc chiến tranh thẳm khốc với những vũ khí tốt tân là như một cơn mộng dữ, luôn ám ảnh và đè nặng trên con người, cùng với nó là những sự tàn phá khủng khiếp nhất. Những phương tiện tự nhiên như hòa đàm, thương nghị mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cần đến những phương tiện siêu nhiên, đó là sụ cầu nguyện và một cuộc sống được đổi mới theo tinh thần của Chúa.
Có một thi sĩ đã kể lị giấc mơ của mình như sau:
Bấy giờ Thiên Chúa ngự trên tòa và những người quyền thế nhất trần gian bắt đầu xuất hiện. Ngài hỏi Maisen:
- Con đã trao cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con trao cho họ những giới luật.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã phạm tội.
Ngài hỏi Napoléon, vị vua bách chiến bách thắng:
- Ngươi đem lại cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con đem lại cho họ vinh quang.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã bị tủi nhục.
Sau cùng, Ngài hỏi Đức Kitô:
- Con mang đến cho trần gian những gì?
- Con đã mang đến sự bình an.
- Và họ đã làm chi?
Đức Kitô không trả lời. Ngài úp mặt vào lòng bàn tay bị mang dấu đanh và Ngài đã khóc.
Đó là một giấc mơ, nói lên một sự thật. Ngày nay hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu cũng khóc và giơ hai bàn tay mang những dấu đanh cho chúng ta chiêm ngưỡng, là như dấu ấn của sự hòa bình mà Ngài đã kiến tạo, đã xây dựng.
Hãy trở nên những chiến sĩ hòa bình, khởi đi từ tâm hồn bằng cách tẩy trừ tội lỗi, cho đến gia đình bằng một cuộc sống yêu thương và tha thứ, để rồi lan rộng ra ngoài xã hội, bằng sự hòa giải và cảm thông, để ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn được hưởng sự bình an mà Chúa Hài nhi đã đem đến nơi máng cỏ Bêlem.
88. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
Chúng ta vừa nghe thánh Luca thuật lại cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hãy nhìn vào hang đá thì sẽ thấy được sự khó nghèo của Con Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có một vài mục đồng đến viếng thăm, và một vài con lừa hà hơi sưởi ấm cho hài nhi Giêsu, tất cả chỉ có thế, nghèo nàn khổ cực hơn cả người cùng cực thế gian, nhưng đó chính là niềm vui của các tâm hồn thiện chí và là sự cứu độ của toàn thể nhân loại.
Đêm nay, chúng ta hân hoan long trọng mừng Đấng Cứu Độ của chúng ta là Chúa Giêsu đã giáng trần, đó là một tin vui trọng đại, tin vui cho muôn người, tin vui này được các sứ thần của Thiên Chúa loan báo cho các mục đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.(Lc 2, 10-11)
Đêm nay được gọi là “Đêm Thánh” vì Con Thiên Chúa là Đấng Thánh đã giáng trần cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi; đêm nay cũng được gọi là “Đêm Bình An” vì chính sự giáng trần của Con Thiên Chúa là sự bình an cho mọi tâm hồn thiện chí biết xây dựng hòa bình cho anh em.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong ngày Chúa Giêsu giáng sinh vẫn còn đó, vang lên trong mọi tâm hồn của người tín hữu, và biến thành lời ca vang chúc bình an trên môi miệng của chúng ta với ước mong rằng, tất cả mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đem bình an cho tha nhân trong cuộc sống của mình.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca chúc mừng này biến chúng ta trở thành những mục đồng đi đến thăm viếng Chúa Giêsu khó nghèo nơi các trại mồ côi, an ủi những người bị tù ngục và những tâm hồn đau khổ vì bị bạc đãi trong xã hội này.
Đêm nay, ngoài đường vắng bóng người mặc áo quần lụa là, vì họ đang quây quần vui vẻ nâng ly rượu với bạn bè trong những nhà hàng sang trọng; nhưng đây đó dưới gầm cầu, bên góc xó hàng hiên của ngôi nhà to lớn bên đường có những em bé Giêsu đang nằm co ro vì lạnh vì đói và không nhà để trở về vì không có hộ khẩu...
Chúa Giêsu đã giáng trần cách đây hơn hai ngàn năm, và hôm nay, mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm hồn của chúng ta, để qua chúng ta, Ngài được an ủi nơi những người bất hạnh, như sứ điệp hòa bình mà các thiên thần đã loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Sứ điệp này đang ở trước mặt anh chị em, trong hang đá lộng lẫy ánh đèn nhấp nháy sáng lóe tia hy vọng, như mời gọi chúng ta hãy tỏa sáng lên tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống của mỗi người, bởi vì Con Thiên Chúa giáng trần không phải như ánh sao xẹt ngang bầu trời rồi tắt ngúm, nhưng là “ánh sao sáng vĩnh cửu” đầy hy vọng soi sáng tâm hồn người thất vọng, chiếu sáng người đang ở trong bóng đêm tội lỗi thấy đường để quay về với sự thiện vốn có của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
89. Chiêm ngắm Ngôi Lời
Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta, đó là lời rao giảng đầy xác tín của thánh Gioan tông đồ mà chúng ta vừa nghe trong bài tin mừng hôm nay.
Ngôi Lời ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tối hôm qua chúng ta long trọng, hân hoan và phấn khởi mừng kỷ niệm ngày Ngài giáng trần và ở giữa chúng ta, nhưng với đức tin Kitô giáo, chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn thấy và chiêm ngắm Đấng vì Yêu mà trở thành xác phàm như chúng ta.
1. Chiêm ngắm Ngôi Lời trong hang đá
Không ai thấy được Thiên Chúa cũng như không ai được đưa tay đụng chạm đến Ngài, nhưng nhờ Ngôi Lời mà chúng ta biết được Thiên Chúa Cha là Đấng đã yêu thương nhân loại là dường nào.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm em bé Giêsu nhỏ xíu đang nằm trong hang đá, em bé Giêsu tội nghiệp ấy chính là hình ảnh của Thiên Chúa Cha là Đấng vô hình, và là hình ảnh tuyệt đẹp của con người hữu hình. Trẻ Giêsu đang nằm đó, chúng ta nhìn và suy nghĩ đến hang đá Bêlem xưa kia, trời lạnh cực điểm mà không có mảnh chiếu che thân, chúng ta tội nghiệp cho Mẹ Maria và thánh cả Giuse là một gia đình nghèo đáng thương hại.
Đấng tạo dựng đất trời đang nằm trong hang đá đó chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài đã đến nhưng người nhà không chấp nhận, xua đuổi Ngài ra nơi chuồng bò, và chỉ có những người vô danh tiểu tốt đến thờ lạy Ngài là vua vũ trụ...
2. Chiêm ngắm Ngôi Lời nơi Thánh Thể
Ngôi Lời là Thiên Chúa mà chúng ta đang ngắm nơi hang đá được trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt ấy, chút xíu nữa đây trên bàn thờ, trong hình bánh rượu sẽ trở thành Bánh Thánh Máu Thánh nuôi sống linh hồn chúng ta.
Một Thiên Chúa làm người nằm trong hang đá Bêlem cũng là Thiên Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích Thánh Thể, đã trở thành tình yêu dâng hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận Thiên Chúa và chia sẻ thân phận làm người với nhân loại tội lỗi...
Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể để nhìn thấy được tình yêu không bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta, trong suốt cuộc sống của Ngài ở trần gian và sau khi về trời, chính tình yêu ấy đã làm cho gia đình hòa thuận yêu thương, chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội phát triễn trong hòa bình, chính tình yêu ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại sống hợp tác và tương trợ lẫn nhau...
Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm tốn và nghèo mãi nơi hang đá Bêlem cũng như nơi bí tích Thánh Thể, không có hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng không có đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng chính cái nghèo khó và thê lương ấy đã trở nên nguồn sống cho những ai tin vào Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó chính là mầu nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc...
3. Ngắm Chúa Giêsu nơi tha nhân
Mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh là mừng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, ngắm nhìn Hài Nhi trong hang đá chúng ta nhớ đến những em bé nghèo khó trên khắp thế giới sống trong cảnh khó nghèo; chúng ta cũng nhớ đến những người phải lìa xa quê hương ruột thịt để lánh nạn chiến tranh cường hào ác bá; chúng ta cũng suy nghĩ đến biết bao Giêsu đang bị bạc đãi trên khắp thế giới vì chính kiến, vì hận thù và vì đức tin...
Ngắm nhìn Chúa Giêsu nơi tha nhân là cốt lõi của tình yêu và giáo huấn của Ngài để lại cho nhân loại -qua Giáo Hội- bởi vì chúng ta không thể sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách thờ ơ với tha nhân, và chúng ta cũng không thể trở nên một chứng nhân cho tình yêu nếu tâm hồn chúng ta vắng bóng Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho đến tận thế; hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho nhưng những người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta, đó là một thực tại không thể làm ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có thói quen tặng thiệp, quà Noel cho người nghèo không?
- Mỗi lần Noel đến, bạn có nghĩ rằng bạn sống tốt thêm Noel năm ngoái không?
- Mỗi lần tặng thiệp, quà Noel cho bạn bè, bạn có nghĩ rằng mình là một thiên thần đem tin vui cho mọi người không?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
90. Sức mạnh--Lc 2,1-20
Có một người đi hành hương đất thánh, khi trở về, ông ta đã mua một bộ tượng sinh nhật gồm Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Thế nhưng, trước khi lên máy bay tại phi trường Tel Aviv, người ta đã kiểm soát từng bức tượng một, bằng quang tuyến X. Nhân viên hải quan đã xin lỗi và nói:
- Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng không hề có chất nổ trong những bức tượng này.
Lúc bấy giờ, ông khách hành hương đã thầm nghĩ:
- Phải chăng họ biết được rằng bộ tượng này còn chất chứa một năng lượng khả dĩ làm nổ tung cả thế giới. Vậy thì nguồn năng lượng ấy là như thế nào? Đó không phải là nguồn năng lượng vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên vũ trụ vật chất này trong thoáng chốc và có thể hủy diệt nó bằng một cái búng tay. Năng lượng mà ông khách hành hương muốn nói tới, chính là năng lượng của Tình yêu mà Ngài đem theo khi đến với nhân loại trong đêm Sinh Nhật đầu tiên tại Bêlem.
Thực vậy, năng lượng ấy được gồm tóm trong Tin Mừng Giáng Sinh, trong sứ điệp mà Ngài muốn nhắn gửi chúng ta. Tin Mừng ấy, sứ điệp ấy như thế này:
- Thiên Chúa, mặc dầu là Đấng quyền năng vô song, nhưng đồng thời Ngài cũng là một người Cha đầy lòng nhân từ và khoan dung, Ngài đã yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta… Và để giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi, khỏi án phạt đời đời, Ngài đã sai chính Con Một Ngài xuống thế để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Tuy nhiên, để loan báo Tin Mừng ấy, để công bố sứ điệp ấy, Ngài đã không đến như một ông hoàng với cung điện lộng lẫy, với binh đội hùng mạnh, nhưng Ngài đã đến như một hài nhi bé bỏng và yếu đuối, con của một gia đình nghèo nàn và túng thiếu. Ngài đã trở nên một người giống như chúng ta, cũng bơ vơ lạc lõng, cũng vất vả mệt mỏi, cũng biết đau, biết đói, biết khát… Cũng đã bị nhạo cười và hất hủi, thậm chí còn phải chịu một cái chết ê chề và nhục nhã nhất.
Khi đến, Ngài đã không được các vua chúa, các vị lãnh đạo thế giới chào đón, mà chỉ được các mục đồng, những kẻ thuộc giai cấp thấp hèn nhất đến viếng thăm. Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo khổ và túng thiếu, thậm chí ngay cả với những kẻ tội lỗi.
Những điều trên đây khiến chúng ta nghĩ tới quyền năng mà Ngài đem vào thế giới này. Bởi vì tư tưởng và đường nẻo của Ngài không giống với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Phải chăng đó chính là điểm đặc sắc, điểm thách đố mà mầu nhiệm Giáng Sinh đã gây nên. Sự thách đố này được diễn tả qua một bài thơ có nội dung như thế này:
- Khi ánh sao trên trời chợt tắt, khi các mục đồng và ba nhà đạo sĩ đã ra về, thì công cuộc Giáng Sinh mới thực sự bắt đầu: để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã rạn vỡ, để dựng lại những gì đã gãy đổ. Người đói được ăn, kẻ khát được uống, tù nhân được giải phóng và hòa bình thực sự trở về với mọi người.
Kể từ đêm Giáng Sinh đầu tiên cho tới ngày hôm nay, trải dài hơn hai ngàn năm, sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hài nhi Giêsu, không ngừng làm nổ tung và biến đổi bộ mặt thế giới. Sức mạnh ấy đã san bằng mọi giai cấp. Sức mạnh ấy đã phá đổ mọi bất công. Sức mạnh ấy đã giành lại những quyền lợi cho đàn bà và trẻ em. Sức mạnh ấy đã hủy diệt mọi thù oán…Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả, đó là sức mạnh tình yêu của mầu nhiệm Giáng Sinh đã tác động như thế nào đến bản thân và đến cuộc sống riên tư của mỗi người chúng ta?
91. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui.
Những tình tiết chung quanh sự việc Đức Giêsu Giáng Sinh là nguồn đề tài cho rất nhiều thiên khảo sát thông thái, là cảm hứng bất tận cho những suy niệm thiêng liêng và thi ca hướng thượng. Những nhà uyên bác muốn xem bản văn của thánh Luca như một thiên ký sự trong đó thực tế lịch sử được thích ứng với một mẫu tín ngưỡng dân gian bắt rễ ở những công thức kinh điển Cựu Ước. Sự suy–niệm thiêng liêng đã biết nhận ra trong ký sự ảnh hưởng của thuyết hiện thực lịch sử, vừa nhân bản vừa có tính chất thần linh, khi thuyết này được áp dụng, để khảo sát sự việc Thiên Chúa đến trong nhân loại. Dù sao, những công trình khảo cứu bác học và sự suy niệm thiêng liêng cũng gặp nhau ở điểm cùng xác nhận tính chất chắc chắn của những sự kiện sau đây: bà Maria và ông Giuse đã đến Bêlem, nơi đây Đức Giêsu Cứu Thế đã Giáng Sinh, cũng tại đây những kẻ đầu tiên đã tin vào sự loan báo lớn lao này.
Thánh Luca viết bản văn này khoảng thời gian rất lâu sau biến cố. Lúc ông soạn bộ Phúc âm mang tên ông thì sự kiện Phục sinh và Hiện xuống đã xảy ra rồi. Giáo Hội sơ khai đặt ra kinh nguyện theo sát kinh nghiệm thiêng liêng thu thập được. Có thể là Giáo Hội đã tuyển trong khối tài liệu phong phú về biến cố Giáng Sinh để lựa lấy những điều nào hợp với kinh nghiệm nhất: Vinh danh dâng lên Thiên Chúa và bình an được ban cho loài người dưới thế đã được thánh Luca trích ra để dùng từ một kinh nguyện phụng vụ, chính bản kinh này bắt nguồn ở mầu nhiệm tổng quát Giáng Sinh, Vượt qua và Hiện xuống. Ngày nay khi chúng ta mừng một biến cố xảy đến trong lịch sử Đức Giêsu, điều lợi ích cho ta là chớ lãng quên toàn bộ Mầu Nhiệm Đức Kitô, Con Chúa xuống thế làm người, để nhờ tác động của thần trí Người, Đức Kitô thực hiện trong Giáo Hội sứ mạng làm vinh danh Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại anh em Người. Xin lấy một ví dụ thực tế để gợi ý. Lĩnh ơn hoà giải qua bí tích giải tội, và tham dự sốt sắng thánh lễ tạ ơn – đó là những nguồn vui thật sự vào dịp Giáng Sinh. Ngoài ra, thi vị hoá ngày lễ và nô nức mừng lễ, cả hai chỉ là bộ áo phủ ngoài. Chúng ta có thể dừng lại ở hai chủ đề suy niệm:
1) Thiên sứ được Chúa sai đến bảo cho những mục đồng biết: Ta loan báo cho anh em một niềm vui lớn, nó cũng sẽ là niềm vui chung cho toàn dân. Đây là một niềm vui đáp ứng một hy vọng. Từ bao thế kỷ; não trạng Israel được duy trì và bồi dưỡng bởi các ngôn sứ, dựa vào niềm trông đợi Đấng Cứu Thế sẽ đến. Niềm vui này cũng là niềm vui chung cho toàn dân, chỉ có thể xuất phát từ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp thiên thần mang đến cho những ai có tâm hồn như trầm xuống trong niềm trông đợi Đức Kitô mà Thiên Chúa hứa ban cho trần thế. Điều này gợi ra một câu hỏi: trong tâm hồn ta, có dọn dẹp chuẩn bị một chỗ cho niềm vui được Thiên Chúa loan báo không? Chúng ta có những ước vọng nào? chúng hướng về đâu? Trong chúng ta có hay không một chỗ dành cho sự mong mỏi đợi chờ Chúng ngự đến để Người tác động mạnh hơn nữa? Thiên Chúa không thể loan báo cho chúng ta một niềm vui, nếu chúng ta không cần đến Người. Tuy nhiên, nếu nhờ đức tin mà chúng ta phát hiện và ngẫu nhiên cảm thấy điều sau: chỉ Thiên Chúa mới có thể ban phát tràn đầy ơn phúc cho chúng ta, thì ta phải hiểu rằng chính đức tin chuẩn bị chúng ta tiếp nhận những sự loan báo Tin Mừng.
2) Hôm nay một Đấng Cứu Thế được sinh ra cho anh em. Dù cam phận hay nổi loạn con người bị cưỡng bách phải nhận định điều này: đời sống cá nhân tiến dần đến cõi chết, đến chỗ tiêu tan bản thể. Cam phận hay nổi loạn, cả hai đều chứa đựng đau khổ. Đấng đem đến cho nhân loại phương thế hữu hiệu để vượt thắng chết và sự trầm luân, chúng ta tôn Người là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế được các thiên thần loan báo không chỉ đến phải cứu con người khỏi định mệnh phải chết, mà còn ban cho con người sự sống của Thiên Chúa. Não trạng thời hiện đại hướng tới chỗ xui giục một số người nào đó đành chịu rơi vào cõi chết – và xô đẩy một số khác nổi loạn cuồng nộ. Là tín đồ của Chúa, ta hãy ý thức rằng ta cần được cứu rỗi. Hãy từ khước sự can tâm nhận lấy hư vô. Mặt khác ta hãy đến với Đấng Cứu Thế, trình bày một niềm riêng tư của mình, chứ đừng có vun tưới cho những sự nổi loạn vô ích và ngu dại. Hãy hiệp thông với hành động của Chúa Cứu Thế chúng ta.
92. Noel: Yêu thương
Vào năm 1994, hai nhà giáo Mỹ được bộ giáo dục Nga mời sang dạy. Nhân mùa Giáng Sinh họ đến thăm một viện mồ côi, và kể chuyện Chúa Sinh Ra cho trẻ. Các em mồ côi cũng như ban quản đốc sung sướng há hốc mồm ngồi nghe họ kể chuyện Giáng Sinh. Sau đó, họ phát cho các em vật dụng thủ công để làm Máng Cỏ. Trong khi đi tới đi lui trông các em làm Máng Cỏ, họ ngạc nhiên khi thấy Máng Cỏ của bé Misha, trông chừng 6 tuổi, có đến hai bé sơ sinh nằm trong máng. Đức Mẹ sinh đôi? Không thể được! Bỡ ngỡ, nhưng bình thản, họ mời Misha kể lại đầu đuôi câu chuyện Chúa Sinh Ra. Nhỏ Misha kể rất thông suốt, rành mạch, đúng với Tin Mừng, từ lúc Truyền Tin cho đến khi hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ. Nhưng khi đến phần Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu và đặt trong máng, thì em bắt đầu tự do cho thêm mắm muối: Khi Đức Mẹ đặt Bé Giêsu vào trong máng, thì Bé nhìn em và hỏi: em có chỗ ở chưa? Em thưa: Con đâu có cha, có mẹ, con đâu có nhà! Vậy thì em ở với tôi nhé! Nhưng em ngại ngùng: con đâu có quà gì để tặng Chúa như người khác được! Vì em rất mong muốn được ở với Bé Giêsu, nên em nghĩ em có thể tặng Chúa tất cả những gì em có: Hay là con ôm Chúa cho Chúa ấm được không? Tuyệt, món quà quý đó chưa ai cho tôi cả. Thế là em nhảy ngay vào trong máng cỏ này và nằm ôm cho Chúa ấm. Chúa Giêsu cũng giang tay ôm lấy em và bảo: Em có thể ở với tôi luôn luôn. Vừa nói Misha vừa lấy tay chùi mắt chùi mũi. Lệ đã tuôn thành giòng trên gò má hốc hác của em bé mồ côi.
Hãy vào đây, hỡi những Misha, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25, 35-36, 40). Giữa lòng đời hôm nay cũng lắm trẻ thơ lạnh giá. Ngay trong xã hội Hoa Kỳ, và các nước tân tiến, giàu sang cũng đầy kẻ, đầy trẻ homeless. Không những homeless vì không có căn nhà để ở, không tìm được chỗ trong quán trọ, mà còn homeless ngay giữa bốn bức tường được cách hàn, cách nhiệt (insulation) vì phải sống giữa những trái tim được insulated - cách biệt quá kỹ bởi cá nhân chủ nghĩa, tư lợi chủ nghĩa, hưởng thụ chủ nghĩa,... bởi gia đình tan vỡ, ly dị, ly thân. Các em ấy đang mong đợi vòng tay ấm áp của bạn đó! Các em ấy đang giang tay mong chờ con tim bằng thịt, biết yêu, và yêu nồng nàn ấm áp của bạn đó! Và nếu lỡ các em ấy chính là người trong nhà bạn thì đau lắm! Lạnh ngắt con tim! Mời bạn mở rộng con tim, nhảy vào máng cỏ cuộc đời, sưởi ấm những bé thơ đang cần nhờ bạn, để không phải Đức Mẹ sinh đôi mà còn là Mẹ muôn người.
Xin Chúa Giêsu ngự trị con tim bạn!
Chúa Giêsu ngự trị lòng ta, luôn luôn!
93. Vinh danh
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều nhìn thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho tất cả loài người, sứ điệp đó chính là lời ca hát tung hô của các thiên thần trên hang đá Bêlem xưa kia.
Trước hết, về việc tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời đất… còn biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa, còn con người chúng ta thì sao? Biết đâu chúng ta sống mà không sống tôn vinh Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng ta còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm ngược lại chăng? Vì thế, chúng ta hãy tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng ta và bằng chính con người chúng ta, nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc phục vụ mọi người và phục vụ bằng những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ: bao lâu chúng ta còn sống với người khác và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số hoàn cảnh làm sáng danh Chúa, bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục vụ con người, phục vụ xã hội, bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì chính là một cách tôn vinh danh Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo Hội và xã hội hình ảnh sống động của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần làm sáng lên tình thương yêu của Chúa trong lịch sử cứu độ.
Còn vấn đề “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” thì sao? Câu đó bảo cho chúng ta biết: muốn có bình an, muốn được bình an, chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là lời các thiên thần là lời công bố bình an, nhưng lại gồm một điều kiện cần thiết: phải có thiện tâm. Thiện tâm không phải là hoàn hảo, cũng không đòi phải toàn thiện, nhưng là có một tấm lòng ngay thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta chỉ được bình an khi lương tâm trong sạch, như thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Một lương tâm trong sạch là nguồn bình an lớn nhất trong cơn hoạn nạn”. Hơn nữa, một tấm lòng trong sạch là một máng cỏ sẵn sàng để Chúa Hài đồng đến ngự. Nếu bình an của Chúa là như thế thì chúng ta có được lời chúc phúc của các thiên thần không? Muốn biết có hay không, chúng ta hãy nhìn vào kết quả của việc làm. Không ai cho cái mình không có, một người không có bình an thật sự của tâm hồn, họ sẽ chạy đi đây đi đó để tìm bình an giả tạo bên ngoài, nơi người khác hay sự vật và hoàn cảnh chung quanh, đó là những nơi thiếu vắng tình yêu của Chúa. Điều này rất dễ kiểm chứng, như sách Đại Học viết: “Một con tim không ngay chính, bất an xáo trộn, thì con người ấy dù có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng không thấy, lắng tai nghe cũng không được gì, mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết mùi vị nữa”. Đó, một khi con tim đã bất an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới cái nhìn, việc nghe và ăn uống như vậy, thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta hiểm độc, gian ác, tham lam còn ảnh hưởng tới gia đình và xã hội biết chừng nào, còn đâu nữa “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Hôm nay ngày Chúa Giáng Sinh, ngày Chúa ban bình an, Chúa muốn chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn, từng gia đình, từng cộng đoàn có được thực sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang xuống không? Xin mời mọi người hãy hồi tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất an, xáo trộn, sóng gió cho những ai và lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và người đó có còn bất an với nhau không? Tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt, hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại tránh né? Xin hãy nhìn lại gia đình mình: tại sao gia đình lại ngột ngạt, xô xát, chiến tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt, hành tỏi, lừa đối nhau, nghi ngờ nhau… có gia đình đang gặp chiến tranh nóng loại bỏ là làm hại nhau, chà đạp danh dự của nhau. Người ta bảo “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”. “Hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, chúng ta là những bậc bề trên, là người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho anh em, hàng xóm, cho chính con cái trong nhà và ngoài xã hội, và hiện giờ gia đình chúng ta đang ở trong tình trạng nào?
Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ hai chữ “bình an” để sống cho mình và giúp người khác cùng sống bình an. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu Hài Đồng: Lạy Chúa, Chúa đã nói “Phúc cho người xây dựng bình an, vì họ được gọi là con Thiên Chúa”, xin cho chúng con vào số chúc phúc đó. Từ địa vị một Thiên Chúa, Chúa đã hiện diện giữa nhân loại, bằng lòng chấp nhận thân phận đau khổ như mọi người để đem họ về nguồn bình an chân thật, thì xin cho chúng con biết từ bỏ mọi địa vị, khả năng, hoàn cảnh để gieo vãi tin mừng bình an. Chúa đã chết để đem lại bình an thật, thì xin đừng ai sống mà cắt xén hay làm chết đi niềm vui, hy vọng của anh em mình. Xin Chúa đoái thương riêng đến những gia đình đang bất an vì cơm áo, danh dự để họ gặp lại cảnh gia đình đầm ấm yêu thương. Xin cho chúng con luôn được sống trong bình an của Chúa.
94. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng Sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng Sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến.
Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu "thiện tâm" là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng Sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
Chúng ta nghĩ đến Palestina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin Mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palestin lại chim trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Khúc hát thiên thần: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.
Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái đêm nay ra khỏi nhà để vui đêm hội giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?
Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng Sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng Sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người.
Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng Sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an.
Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng Sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa.
Xin kính chúc các bạn MỘT ĐÊM AN BÌNH, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm".
95. Tìm kiếm
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì, khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên: - Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi. “Ngôi Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta”. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa: Thánh Gioan viết: “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa”.
Giáng Sinh là mùa tặng quà: “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người”. Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
96. Món quà vô giá
Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương liên giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như lời nói, thư từ, có khi là một cánh hoa hay là một tặng vật nào đó. Nhưng tất cả dù thể hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng đều có chung một mục đích là diễn tả ý nghĩa của một sứ điệp mà người gởi muốn tỏ bày.
Sứ điệp đó có khi là ước muốn hoà bình của nhân loại trên thế giới gói ghém trong một viên gạch được lấy từ bức tường ô nhục Bá linh mà tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch Gorbachov của Liên Xô trong cuộc họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp Giáng Sinh năm 1989.
Sứ điệp đó cũng có khi là một lời mời gọi, một xã hội sống xa lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn sự sống như quyển Tân Ước mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov, cũng vào mùa Giáng Sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Đó là tất cả những gì mà Đức Thánh Cha và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội đã từ lâu gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Trải qua hai ngàn năm, Thiên Chúa luôn tặng ban món quà vô giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho xã hội, gia đình và mỗi người chúng ta.
* Đối với xã hội:
Tiên tri Isaia và Thánh sử Luca cho chúng ta thấy quang cảnh: Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than, bao cái ác đè lên cổ dân, bao cái gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà hiếp, Thiên Chúa đến để bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quanh Thiên Chúa trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đoàn chiên và tất cả lớp dân lao động sống trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo một xã hội an bình trên nền tảng chính trực, xã hội ấy sẽ tồn tại mãi mãi.
* Đối với gia đình:
Biết bao gia đình cô đơn, nghèo khó đang mang gánh nặng, chẳng hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả Giuse, mặc dầu nghèo khó và Đức Mẹ đã tới ngày "mãn nguyệt khai hoa", vẫn sẵng sàng lên đường về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của nhà cầm quyền. Nô đơn đến nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận. Nghèo túng đến nỗi không có tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống thân phận của kẻ hành khất, ra đồng tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi loạn chống đối, chỉ biết vui sống trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ, đưa lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.
* Đối với cá nhân:
Sống trong một thế giới đầy dẫy những bất công, chỉ lo tìm hưởng thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Con Thiên Chúa thật là một món quà tuyệt vời; Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo và ham muốn trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng ta tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, nhờ đó chúng ta là dân riêng của Người. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân hoan trước nhan Người, như thiên hạ hoan hỷ trong mùa gặt bội thu.
Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã tặng ban món quà vô giá ấy cho xã hội, gia đình, và từng người chúng ta.
Phần chúng ta, là những người của ngàn năm thứ ba, chúng ta có thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong hang Belem? Chúng ta có biết đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ như các mục đồng năm xưa, hay chúng ta lại trở thành khách bàng quang, thành những người tôi tớ mà khi chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn 11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng băng giá, chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến giữa nhân loại.
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban cho chúng con tất cả, nhưng chúng con biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em chị em chúng con? Chúng con xin lấy chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ những thống khổ anh chị em chung quanh chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng con biết lấy Lời Chúa làm quà tặng cho những ai đang đói khát trong tăm tối tội lỗi, để ánh sáng huy hoàng Giáng Sinh của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy trong an bình và hạnh phúc. Ước chi niềm vui Giáng Sinh ở cùng chúng con luôn mãi. Amen.
97. Ánh sáng nào soi chiếu trong ta?--Ga 1,1-18
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm kính trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự rao giảng về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất. Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho con người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần. Ánh sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu của cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình độ ở đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn tiếp tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không thể nào thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê muội.
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa. Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi người chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa, Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với nhau. Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh em giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng điện của tình yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay. Trong mức độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái Chúa.
98. Chúa giáng trần--Ga 1, 1-18
"Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa." Chưa từng có một lời văn nào diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa Giêsu một cách hào hùng và trang trọng như thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc lấy xác phàm loài người chúng ta. Ngài là sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga 1,4). Thánh Gioan nói cho ta biết trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn Thánh Kinh huyền nhiệm đó, chúng ta đọc thấy câu, "Ngài đã đến nhà các gia nhân Người và đã không được đón nhận." Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp, "Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của Người Con Một đầy ân sủng và chân lý" (Ga 1,14). Ở đây, Thánh Gioan nhấn mạnh về mầu nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho dù có bị chối từ, Ngài vẫn đến để trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh Gioan đã viết tiếp rằng những ai đón tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt ra cho mình một câu hỏi, "Làm sao để chúng ta có thể được quyền làm con Thiên Chúa? là công dân Nước Trời?" Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay trong Phúc Âm.
"Hãy để những trẻ nhỏ đến cùng Thầy". Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ. "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng. Hãy tin Ta, nếu ai không đón nhận Nước Thiên Chúa giống như chúng thì chẳng được vào Nước Trời" (Lc 18:16-17). Thật đáng tiếc là trong cuộc sống thực tế, chúng ta đang phải cảm nghiệm những cực đoan của xã hội. Mừng Giáng Sinh không có nghĩa là chúng ta được giải thoát khỏi cái thế giới đầy hỗn độn này. Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây để chia sẻ niềm vui và nỗi khổ của nhau. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của những thử thách và gian nan trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Có lẽ một số các bạn bây giờ đang phải khổ não phiền muộn. Một số người trong chúng ta đang suy tư về sự hiện hữu của mình. Các nước đang chiến tranh với nhau. Nhiều người đang phải đói khổ. Những tên khủng bố đang ngầm phá. Các nước lớn đang dự trữ vũ khí nguyên tử để hăm dọa nhau. Thế nhưng giữa những điều tiêu cực đó, sứ điệp của Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng và sự dữ không thể thắng được Ngài. Không bao giờ!
Trong giây phút linh thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh, các bạn hãy để cho tâm hồn mình mở rộng để bình an của Chúa đổ tràn vào. Hãy trở nên những trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa. Ngài sẽ làm tất cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành chúng ta, và ban cho chúng ta sự sống mới. Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường công chính dẫn đến ơn cứu độ. Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói về câu truyện Giáng Sinh, thì có lẽ chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần của câu truyện Giáng Sinh nữa là phần Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi bên cạnh Thánh Giuse trên con đường gồ ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi đến Bethlehem, thì cả hai đều phải đối diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo. Chuyện xảy ra cách đây hai ngàn năm cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có tiền, các bạn có thể tìm được chỗ ở khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu "hết chỗ" (No Vacancy). Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên cả hai đã đi ra cánh đồng và ở trọ trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia Đình Thánh Gia còn chưa được ổn định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để giết, và cả ba Đấng Thánh lại phải chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất công, lừa dối, giết chóc, kiêu căng, nghèo khổ... tất cả đều có đầy đủ trong câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng những cây thông, gói quà, kẹo ngọt... nhưng là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ cho chúng ta tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận lấy Chúa Hài Đồng để Ngài ban cho các bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có thể chia sẻ những ơn ấy cho người khác.
Xin kính chúc tất cả các bạn được an hưởng một mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng!
99. Giáng sinh: Nhập thể--Ga 1, 1-18
“Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài muốn chúng ta thông phần vào tình yêu này”.
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của “Đấng Cứu Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này”.
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Theo tiếng Hy Lạp chữ “cư ngụ giữa chúng ta” có nghĩa là: “Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta”. Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con người của Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để làm gì?” Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.
“Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Giáo Hội dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
100. Giáng sinh: Hoà Bình--Ga 1, 1-18
Với mầu nhiệm xuống thế làm người, Thiên Chúa đã chia sẻ tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào thần tính của Ngài như Công đồng Vatican II quả quyết: “Người bày tỏ cho con người thấy bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình”.
Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta sống ơn gọi này theo gương Chúa Giêsu: “Anh chị em hãy có với nhau những tâm tình đã có nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài, với thân phận thần linh, đã không khư khư giữ lấy bậc ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình ra hư vô, nhận lấy thân phận nô lệ và trở thành giống như một người. Và khi cư xử như một người, Ngài còn hạ mình hơn nữa bằng cách vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.
“Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử này lại thương yêu hòa hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù với vua Fanxica bằng một mối thù truyền kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em. Sau khi hay tin em mình bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc ác giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về người kia.
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khỏe mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me… Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và sự khéo léo, đấu thủ cao người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là anh em ruột thịt. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người”.
Chính ma quỉ thù nghịch của Thiên Chúa đã gây nên mọi thứ tội lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con người đủ thứ mặt nạ ác thú để chém giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh, Nhập Thể xuống trần gian để lột mặt nạ ác thú ra khỏi con người, để họ nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm bẫy gian tà của ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét nhau như Công đồng Vatican II diễn tả: “Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã thể hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên một bằng cách cứu chuộc họ”.
Bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã chứng kiến những cuộc khủng bố và chiến tranh tàn bạo với những vũ khí tinh vi và kỹ thuật cao hơn. Ước gì chúng ta không đầu hàng bạo lực và oán thù. Nhưng sẽ là những sứ giả của hòa bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh chính là niềm vui được giải thoát khỏi sự hận thù do ma quỉ mưu đồ.
101. Lúc nào cũng có chỗ cho thêm một người nữa
Một cậu bé chín tuổi tên là Wally. Tuy là chín tuổi nhưng cậu chỉ mới học tới lớp hai. Cậu ta to và cao hơn các bạn đồng lớp, tuy thế cậu là một người vụng về và học dốt. Dầu vậy, Wally luôn tỏ ra là một cậu bé luôn sống hy vọng, có thiện chí, luôn vui tươi, biết biện hộ cho sự thiệt thòi, và cũng là người được các bạn mến. Cha mẹ cậu đã khuyến khích con mình tham gia vào hoạt cảnh Giáng Sinh của giáo xứ. Wally muốn đóng vai một chú bé chăn chiên. Thay vì đó, cậu đã được chọn để đóng vai người chủ nhà trọ mà sẽ từ chối Thánh Giuse. Trong lúc tập dượt, Wally đã được dặn dò và chỉ cách để mà cứng rắn với Thánh Giuse. Khi hoạt cảnh được bắt đầu, không có ai gây được nhiều sự chú ý cho bằng Wally. Cậu đã mở tung cánh cửa nhà khách trọ và hỏi một cách hăm dọa, "Muốn gì đó?" "Chúng tôi tìm chỗ để trọ," Thánh Giuse trả lời. "Tìm chỗ khác đi," Wally trả lời một cách cộc cằn. "Trong này hết chỗ rồi." "Làm ơn đi ông chủ tốt," Thánh Giuse nài nỉ, "Đây là vợ của tôi, Maria. Bà ấy đang có thai và rất mệt. Bà cần một chỗ để nghỉ." Sau đó là một khoảng cách thinh lặng trong khi Wally nhìn vào Maria. Người nhắc kịch đứng ở bên trong nhắc Wally cái câu kế tiếp: "Không có chỗ, đi chỗ khác đi!" Tuy vậy, Wally vẫn đứng thinh lặng. Sau đó cặp vợ chồng bị ruồng bỏ quay đầu ra đi. Thấy vậy, cặp lông mày của Wally bỗng nhíu lại có vẻ suy tư, và cặp mắt cậu bắt đầu rơi lệ. Bất chợt, cậu la lên, "Đừng đi! Hai người có thể trọ ở phòng của tôi."
Chúa Giêsu đến trần gian để mở ra cánh cửa trường sinh cho chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy chia sẻ mối quan hệ giữa Ngài và Chúa Cha. Trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào trong Ngài, chỗ mà Ngài sống. Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta đi vào Nước Ngài, chỗ mà Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta từ muôn thuở, chỗ mà luôn luôn rộng rãi cho tất cả mọi người.
Đấng Tạo Hóa của vũ trụ và nguồn gốc của mọi sự sống muốn chúng ta chia sẻ cuộc sống của Ngài. Đây là một điều tuyệt diệu mà trí óc chúng ta không thể hiểu thấu nổi. Đây là một điều phi thường vượt hơn khả năng của sự suy tư hạn hẹp của chúng ta có thể nắm được. Tuy thế, lời mời gọi đó có ý là để gợi lên một sự trả lời của chúng ta, một sự đáp lời bằng đức tin. Thiên Chúa mong muốn chúng ta đáp lời "Yes!" bằng đức tin.
Lập đi lập lại trong các Phúc Âm, Chúa Giêsu quả quyết với chúng ta đó là linh đạo dẫn chúng ta đến sự sung mãn; đó là cách thức Thiên Chúa tỏ ý muốn của Ngài cho chúng ta; đó là cách mà Đấng toàn năng muốn chữa trị vết thương của chúng ta; làm cho chúng ta nên hoàn hảo, và ban cho chúng ta sự bình an. Nói cách khác, Thiên Chúa yêu thương chúng ta! Một cách thực tế hơn, Đấng Toàn Năng muốn chúng ta đạt được hạnh phúc tuyệt đối. Đó là sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Đó là sứ điệp của ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh. Đó là Tin Mừng Chúa Giêsu đem đến thế giới chúng ta.
Mỗi năm, mỗi khi mùa Giáng Sinh đến, đa số chúng ta thường hay bận rộn với những việc sửa soạn. Chúng ta len lỏi qua các khu shoppings với cái danh sách mua sắm. Chúng ta sửa soạn cây Noel. Chúng ta bị lôi cuốn bởi những bài Thánh ca. Chúng ta trang trí nhà cửa với đèn và giây kim tuyến. Chúng ta bàn bạc để tổ chức bữa ăn thịnh soạn. Đúng, tất cả những cái đó là điều tốt, nhưng nếu chúng ta không cẩn thận, thì chúng ta sẽ đánh mất và quên đi mục đích và nhân vật chính của Mùa Giáng Sinh.
Sứ điệp Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, và qua đó chúng ta có thể làm được nhiều chuyện. Trong con mắt của Chúa, chúng ta là những con người quí báu và giá trị. Trong và qua Chúa Giêsu Kitô, qua hang đá Bêlem, qua bờ biển Galilê, qua những ngọn đồi Palestina, qua biến cố biến hình, qua giếng Giacób, qua bữa Tiệc Ly, qua đồi Calvariô, qua ngôi mộ trống, Thiên Chúa nói với chúng ta một điều "Bây giờ con có thấy Cha yêu thương con dường nào chưa?"
Qua máng cỏ Bêlem, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy chia sẻ cuộc sống của Ngài; trở nên một với Ngài. Chúng ta nghĩ sao về chuyện này? Chúng ta sẽ trả lời làm sao? Câu trả lời, dĩ nhiên, là đi theo Chúa Giêsu. "Ta và Cha Ta là một", Chúa Giêsu phán với các tông đồ (Gn 10:30). Sau đó Ngài tiếp, "Nếu Ta không làm việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Còn nếu Ta làm các việc đó, thì dù các ngươi không tin Ta, ít ra cũng hãy tin các việc đó" (Gn 10:37-38).
Để chúng ta có thể chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta cần phải bắt chước Chúa Giêsu biết thi hành thánh ý của Chúa Cha. "Con người đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ" (Mk 10:45). Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta cái chìa khóa để mở cánh cửa dẫn đến sự sống trường sinh, Ngài phán, "Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến viếng thăm" (Mt 25:37-38).
Chúa Giêsu đang nói với chúng ta là chúng ta sẽ không thể nào đạt được sự sống trường sinh, hưởng kiến Thiên Chúa, nhận ra giá trị toàn diện của mình, cứu chữa vết thương lòng, nếu chúng ta không biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi người khác.
Nguyện xin ơn phúc của Mùa Giáng Sinh được âm vang trong trái tim và trong gia đình chúng ta hôm nay! Nguyện xin cho đức tin của chúng ta được đáp trả sứ điệp Giáng Sinh như là một bài hát thánh thót yêu thương vòng quanh thế giới! Nguyện xin cho chúng ta trở nên những người tiền phong biết đem Tin Mừng đến muôn dân!
102. Sứ điệp Giáng sinh
Con người đầu tiên Ađam trở nên hữu thể có sự sống, còn Ađam cuối cùng trở nên Thánh Thần ban sự sống. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trích lại lời thơ Corintô (1Cor 15,45), đó là những lời của thánh Phaolô Tông đồ tổng kết mầu nhiệm nhân loại được Chúa Kitô cứu chuộc, một mầu nhiệm được giấu ẩn trong chương trình đời đời của Thiên Chúa, một mầu nhiệm theo một nghĩa nào đó đã trở thành lịch sử với sự Nhập Thể của Ngôi Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa Cha, một mầu nhiệm mà Giáo Hội đang sống một lần nữa với niềm xúc động sâu xa trong Lễ Giáng Sinh.
Ađam là con người đầu tiên, Chúa Kitô là Thần Khí ban sự sống, những lời của thánh Tông đồ Phaolô giúp chúng ta nhìn sâu xa hơn, giúp chúng ta nhìn nhận nơi Con Trẻ giáng sinh tại Bêlem là Con Chiên đã bị hiến tế và là Đấng mạc khải ý nghĩa của lịch sử. Lúc Người giáng sinh, thời gian và vĩnh cửu gặp nhau, Thiên Chúa sống trong con người và con người trong Thiên Chúa.
Con người đầu tiên Ađam trở thành hữu thể có sự sống, thiên tài bất tử Michel Ange đã vẽ ra trên trần nhà nguyện Sixtin giây phút Thiên Chúa Cha trao ban hồng ân sự sống cho con người đầu tiên và làm cho nó trở thành hữu thể có sự sống. Giữa ngón tay của Thiên Chúa và ngón tay của con người đưa ra hướng về nhau và gần như là chạm vào nhau nơi mà cách đó xem ra như có một lằn lửa vô hình, Thiên Chúa thông truyền cho con người sức mạnh của chính Ngài khi tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài và giống như Ngài.
Thần Khí này là phẩm vị duy nhất của mọi hữu thể con người, của khát vọng vô cùng của nhân tính hướng về cái vô cùng. Tâm tư chúng ta ngày hôm nay hướng về chính lúc đầu tiên của mầu nhiệm không thể hiểu thấu được, giây phút của khởi đầu sự sống con người trên mặt đất. Khi chúng ta chiêm ngắm Con Một của Thiên Chúa Cha trở thành con người, dung mạo đời đời của Thiên Chúa được phản chiếu trong dung mạo của Con Trẻ. Con người đầu tiêm Ađam trở thành trở thành hữu thể có sự sống do bởi lằn lửa Thần đặt vào bên trong con người, mà con người là một hữu thể có trí khôn và sự tự do, và như thế có khả năng chịu trách nhiệm quyết định đối với chính mình và vận mệnh riêng của mình.
Bức họa nổi tiếng của nhà nguyện Sixtin được tiếp tục với cảnh về tội nguyên tổ, con rắn cuộn tròn theo thân cây thuyết phục nguyên tổ chúng ta ăn trái cây đã bị cấm. Thiên tài của nghệ thuật và chiều sâu của biểu tượng của Kinh Thánh được hòa nhập tuyệt vời với nhau để gợi lên giây phút bi thảm đó, khởi đầu của một lịch sử phản loạn, tội lỗi và đau buồn từ phía nhân loại. Nhưng thử hỏi, Thiên Chúa có thể bỏ quên công việc do tay Ngài tạo nên tuyệt tác của tạo vật hay không? Chúng ta biết được câu trả lời của đức tin như sau: "Khi thời giờ đã nên trọn, Thiên Chúa Cha đã sai Con Ngài xuống sinh ra bởi Người Nữ, sinh ra trong lề luật để cứu chuộc những ai sống dưới lề luật, ngõ hầu chúng ta có thể trở nên dưỡng tử của Ngài".
Những lời của thánh Tông đồ Phaolô vang lên với sự hùng hồn đích thực khi chúng ta chiêm ngắm biến cố đáng phục Giáng Sinh trong năm nay. Nơi Con Trẻ mới sinh nằm trong máng cỏ, chúng ta chúc mừng Ađam mới trở thành Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Trọn cả lịch sử của thế giới hướng về Người, Đấng được sinh ra tại Bêlem, ngõ hầu thiết lập lại niềm hy vọng cho từng người nam, nữ trên mặt đất này.
Từ máng cỏ, đôi mắt của chúng ta hôm nay nhìn về toàn thể nhân loại, một nhân loại được mời gọi lãnh nhận hồng ân của Ađam thứ hai, dù còn phải lãnh nhận phần gia tài tội lỗi của Ađam thứ nhất. Thử hỏi, có phải lời thưa không đầu tiên đó tiếp tục làm méo mó dung mạo của nhân loại hay không? Những trẻ thơ phải gánh chịu bạo lực, bị hạ nhục và bỏ rơi. Những người nữ bị hãm hiếp và bị lạm dụng khai thác. Những người trẻ, những người lớn và những vị cao niên bị loại ra ngoài xã hội. Những lớp người khốn cùng bị đi đày và đi tỵ nạn, bạo lực và xung đột tại biết bao nơi trên thế giới.
Tôi lo âu nghĩ đến Thánh Địa, nơi mà bạo lực tiếp tục làm cho con đường khó khăn dẫn đến hoà bình bị nhuốm máu. Và có thể nói gì về những Quốc gia mà giờ đây tôi đặc biệt nghĩ đến Indonesia. Có thể nói gì về những Quốc gia nơi mà những anh chị em chúng ta trong đức tin đang phải trải qua những giây phút khó khăn của thử thách và đau khổ. Chúng ta không thể không gợi lại hôm nay rằng, những bóng tối sự chết chóc đang hăm dọa mạng sống con người ở mọi hạng tuổi và đặc biệt đang hăm dọa mạng sống con người vào ngay lúc khởi đầu và lúc kết thúc tự nhiên của nó. Càng trở nên mạnh mẽ hơn nữa, cám dỗ muốn làm chủ sư #hết bằng cách làm cho nó đến sớm hơn dường như thể chúng ta là người chủ của mạng sống mình và mạng sống của những kẻ khác. Chúng ta đang đối diện với những dấu chỉ báo nguy của một nền văn hoá sự chết đang hăm dọa nghiêm trọng tương lai.
Tuy nhiên, cho dù bóng tối xem ra dày đặc đến mấy đi nữa, niềm hy vọng của chúng ta vào sự chiến thắng của ánh sáng đã xuất hiện trong đêm Thánh tại Bêlem còn mạnh mẽ hơn. Quả thật, có biết bao điều tốt đã được thực hiện một cách âm thầm bởi những con người nam, nữ hàng ngày sống đức tin, chu toàn công việc và dấn thân phục vụ gia đình của họ và phục vụ điều thiện hảo của xã hội. Cũng thật là khích lệ vào những cố gắng của những ai, kể cả những con người nam, nữ trong đời sống công cộng, đang cố gắng cổ võ cho sự tôn trọng nhân quyền của mỗi một người và cổ võ sự gia tăng tình liên đới của các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau, ngõ hầu món nợ của những quốc gia nghèo nhất được giải tha, ngõ hầu hiệp ước hòa bình trong danh dự được đạt đến giữa các quốc gia đang xung đột với nhau thật bi thảm.
Với các dân tộc khắp nơi trên thế giới đang can đảm tiến đến các giá trị dân chủ, sự tự do, sự tôn trọng và chấp nhận lẫn nhau. Với tất cả mọi người thiện chí bất luận thuộc về nền văn hoá nào, sứ điệp vui mừng của Mùa Lễ Giáng Sinh hôm nay được gởi đến cho họ là: "Hoà bình dưới thế cho con người được Thiên Chúa yêu thương".
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã giáng sinh tại Bêlem vì chúng con, Chúa đã yêu cầu nơi nhân loại đang bước vào ngàn năm mới hãy tôn trọng từng người, nhất là những kẻ bé mọn và những người yếu đuối. Chúa yêu cầu chấm dứt mọi hình thức của bạo lực, chấm dứt chiến tranh, đàn áp và mọi tấn công vào sự sống.
Lạy Chúa Kitô mà chúng con hôm nay chiêm ngắm nằm trong vòng tay của Mẹ Maria, Chúa là lý do cho niềm hy vọng của chúng con. Thánh Phaolô đã nói với chúng con rằng, điều cũ đã qua rồi, và đây là điều mới đã đến. Trong Chúa và chỉ trong Chúa mà thôi nhân loại được ban cho cơ may để trở thành tạo vật mới.
Lạy Con Trẻ Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì món quà này, nguyện chúc tất cả Lễ Giáng Sinh đầy hạnh phúc.
103. Những điều bất ngờ
Nhìn vào hang đá Bêlem, quả thực chúng ta thấy được nhiều điều bất ngờ.
Đúng thế, Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt vời thế mà lại sinh ra tại chuồng bò, là một nơi vừa bẩn thỉu lại vừa hôi hám. Là Đấng tạo hoá quyền năng thế mà giờ đây lại nằm giữa đám chiên bò. Là bánh bởi trời thế mà giờ đây lại ngủ yên trên máng cỏ. Ngày xưa, người Do Thái đã thờ lạy con bò vàng và người Ai Cập thì thờ lạy con lừa. Loài người đã quỳ gối trước những con vật và coi những con vật ấy như là thần minh, như là Thiên Chúa, thì giờ đây để sửa lại lỗi phạm ấy, bò và lừa đã có mặt tại hang đá, phả hơi ấm cho Hài nhi Giêsu. Phúc Âm đã ghi lại, vì không tìm được chỗ nơi hàng quán, cho nên Ngài đã sinh ra nơi chuồng bò. Hàng quán là nơi gặp gỡ của mọi hạng người, là nơi trao đổi mọi lập trường, mọi quan điểm, là nơi ăn nhậu và du hí. Trong khi đó chuồng bò chỉ là nơi dành cho những kẻ nghèo túng và thấp kém. Nếu như Ngài đã sinh ra trong lâu đài cung điện thì có lẽ người ta đã đón nhận Ngài. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Hơn thế nữa, Hài nhi Giêsu, Đấng đã cho mặt trời toả chiếu trong vũ trụ, thế mà giờ đây lại nhờ tới hơi thở của bò lừa để được sưởi ấm. Đấng đã tô điểm cho những cánh hoa màu sắc rực rỡ, thế mà giờ đây lại trơ trụi giữa đêm đông giá lạnh. Đấng đã dựng nên cả bầu trời trăng sao, thế mà giờ đây đôi tay bé bỏng đang run lên vì gió rét. Là Ngôi Lời của Thiên Chúa, thế mà giờ đây lại thinh lặng và câm nín. Ngài quả thực cô đơn và nghèo túng. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Với vóc dàng của một hài nhi bé nhỏ, Đấng tạo hoá đã đến thăm những tạo vật, nhưng Ngài lại không được nhận biết. Ngài đã đến thăm những người thân của Ngài, nhưng Ngài đã không được họ đón nhận. Và cho đến ngày hôm nay, Ngài vẫn còn là một kẻ lạ mặt ngay giữa căn nhà, ngay giữa gia đình của Ngài. Và như thế Thiên Chúa đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Và sau cùng nếu để ý, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu sinh ra nơi chuồng bò và chết đi trên thập giá. Hang đá và thập giá chính là hai đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Ngài đã chấp nhận hang đá, vì đã không tìm thấy chỗ nơi hàng quán. Ngài đã chấp nhận thập giá bởi vì con người không muốn Ngài làm vua cai trị. Ngay từ lúc khởi đầu Ngài đã nhìn thấy lúc kết thúc. Hang đá không phải là của Ngài và mộ đá cũng không phải là của Ngài. Nơi hang đá Ngài nằm giữa bò lừa, còn trên thập giá, Ngài nằm giữa hai tên trộm cướp. Thế nhưng cũng chính tại hai nơi bất ngờ này mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng ta.
Trong những hoàn cảnh bất ngờ như thế, thì làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Tôi xin thưa, muốn nhận biết Ngài trong những hoàn cảnh không ngờ tới, thì chúng ta cần phải khiêm nhường. Khiêm nhường như Mẹ Maria và Thánh Giuse, khiêm nhường như những mục đồng, bởi vì chỉ có cách quỳ gối và thờ lạy chúng ta mới nhận ra Chúa, nơi hài nhi bé nhỏ trong hang đá Bêlem.
104. Gia đình
Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại. Tin mừng ấy là Đấng Cứu Thế đã ra đời. Nhưng dấu chỉ để nhận diện Người lại thật là khiêm tốn: một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm nơi máng cỏ. Vậy ai đã bọc tã cho trẻ nhỏ ấy nếu không phải là Mẹ Maria diu hiền bên cạnh Thánh Giuse cần mẫn.
Hoá ra tin mừng trọng đại này lại là tin mừng về một gia đình. Gia đình ấy nghèo đến độ chẳng có một mái nhà lúc sinh con. Cũng vì nghèo mà họ chẳng tìm được chỗ trong quán trọ. Họ chẳng cần có một mái nhà, nhưng lại có mái ấm tình thương. Một gia đình đúng nghĩa, chẳng bù cho những gia đình nhà cao cửa rộng, nhưng có mà như không có, khiến trẻ thơ mất hẳn mái ấm tinh thần.
Gia đình ấy phải sinh con giữa cảnh đồng không mông quạnh, nhưng phải chăng chính ở đó mà vẻ đẹp của gia đình được biểu lộ. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với cõi trời mênh mông, làm rung lên cả tiếng hát thiên thần: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với mọi người kể cả những kẻ nghèo hèn nhất là các mục đồng. Thật khác xa với đôi tình nhân hôm nào trong vườn địa đàng, khép kín với Thiên Chúa đến độ phải ẩn mình, khép kín với nhau vì những lời phiền hà trách móc và làm cho cả đất đai cũng trở nên gai góc. Vâng, gia đình ấy đã trở thành một tin mừng trọng đại, tất cả cũng chỉ vì Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa họ.
Trong một vở kịch mang tựa đề là “Quỷ ở với người”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã phác hoạ khuôn mặt một gia đình đang phá sản. Khi mà mối quan hệ gia đình được xây dựng trên đồng tiền, trên tình dục và quyền lực, chứ không phải trên đạo đức. Khuôn mặt gia đình ấy cũng có thể là dự báo về tình trạng nhiều gia đình đang và sẽ xuất hiện trong thời buổi hiện nay.
Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đặt tên cho gia đình đang phá sản ấy là Quỷ ở với người, thì tôi nghĩ, giải pháp để cứu vãn gia đình chính là Chúa ở với người. Giải pháp ấy khởi đi từ tin mừng về đôi vợ chồng trẻ, sinh con giữa cánh đồng Bêlem ngày xưa. Chúa ở với Người là để Đấng cứu độ đến với mỗi thành viên trong gia đình, mang lấy tâm tư và mặc lấy con người mới theo tinh thần của Người. Chúa ở với người là để cho Người hướng dẫn và chi phối cuộc sống gia đình của chúng ta. Chúa ở với người là để cho mầu nhiệm giáng sinh được trở nên hiện thực trong chính cuộc sống của cá nhân và gia đình. Có Chúa hiện diện trong gia đình và cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, thì bản thân chúng ta mới được bình an, và gia đình chúng ta mới trở thành một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
105. Những lá thư chết
Cách đây ít năm, một thành phố nước Anh có thanh niên tên là Fred Armstrong. Chàng làm ở bưu điện và người ta gọi chàng là trưởng ban thư chết vì chàng có nhiệm vụ giải quyết những lá thư đề sai địa chỉ hoặc thiếu sót hay khó đọc. Chàng sống trong một ngôi nhà cũ với cô vợ nhỏ nhắn. Một đứa con gái nhỏ và một cậu con trai còn bú sữa. Sau cơm tối, chàng thích phì phèo tẩu xì gà rồi kể cho cả nhà nghe những kỹ thuật mới nhất trong việc khám phá địa chỉ của những cánh thư lạc. Chàng tự coi mình như một người thám tử. Trong khung trời hiền hòa của chàng chẳng có gợn mây mù nào.
Cho đến một sáng kia, cậu con trai của chàng ngã bệnh. Thoạt nhìn thấy đứa bé, bác sĩ có vẻ suy tư. Và chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ là cục cưng của chàng không còn nữa.
Fred Armstrong buồn bã, tâm hồn chàng tan nát điếng nghẹn. Bà mẹ và cô bé Maria cũng khổ sầu không kém, nhưng họ quyết tự kiềm chế và vui sống với những gì còn lại. Nhưng ông bố thì không vậy. Cuộc đời của chàng bây giờ quả là một cánh thư chết không định hướng. Mỗi sáng đi làm việc như một người mộng du, ai hỏi chàng mới nói, mà nói rất ít. Chàng làm việc trong yên lặng, ăn một mình, ngồi như tượng đá ở bàn cơm, và đi ngủ thật sớm. Nhưng người vợ biết là chàng thức gần trắng đêm, mắt mở thao láo ngó lên trần nhà. Ngày lại ngày, tháng năm qua, tháng chạp đến, chàng càng tỏ ra thờ ơ suy nhược hơn nữa.
Bà vợ cố gắng thuyết phục chồng. Nàng bảo: "Tuyệt vọng như vậy là bất công đối với kẻ chết cũng như với người sống." Nàng sợ thái độ lầm lì đó sẽ đưa chàng tới bệnh viện tâm thần.
Giáng Sinh đã gần tới. Một buổi chiều xám ngắt. Fred đang phân loại thư từ thì thấy có một lá thư dứt khoát là không thể chuyển được. Địa chỉ của người nhận nguệch ngoạc bằng bút chì như sau:
"Kính gởi Ông già Noel Bắc Cực."
Armstrong định xé vất nó vào sọt rác nhưng có một thúc đẩy nào đó khiến chàng mở thư và đọc:
"Ông già Noel thân mến,
Năm nay nhà cháu buồn lắm. Vậy ông khỏi mang quà tới cho cháu nữa. Mùa xuân vừa rồi, thằng cu nhà cháu về trời. Cháu chỉ xin mỗi điều là khi ông tới nhà cháu, ông mang dùm đồ chơi về trời cho em cháu. Cháu để đồ chơi của nó ở gần lò sưởi góc bếp: con ngựa gỗ, cỗ xe lửa và hết mọi thứ khác. Em cháu thích phi ngựa ghê lắm, ông mang hết về cho nó và đừng để gì cho cháu cả. Nhưng xin ông cho ba cháu cái gì để ba cháu giống như hồi trước. Xin ông làm cho ba cháu lại hút xì gà và tiếp tục kể chuyện cho cháu. Cháu nghe ba nói với má là chỉ có "đời đời" mới làm cho ba cháu lành được thôi. Vậy xin ông gởi cho ba cháu một ít cái "đời đời" nhé. Cháu hứa sẽ rất ngoan ngoãn.
Ký tên
Marian."
Tối hôm đó, trên những con đường phố sáng rực đèn. Fred Armstrong rảo bước thoăn thoắt. Vào đến sân nhà chàng bật quẹt châm xì gà. Khi vừa mở cửa, chàng xả một hơi thuốc dài. Làn khói giống như một vòng hào quang quanh đầu hai mẹ con Marian đang trố mắt ngạc nhiên. Chàng lại tươi cười như trước.
***
Cuộc sống của mỗi người chúng ta đều phải trải qua những thăng trầm không thể tránh khỏi. Có những tháng ngày xem ra vô vọng không còn thiết sống. Có những lúc mây mù bao phủ khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Đôi khi qúa tuyệt vọng, chúng ta tự hỏi: tại sao Thiên Chúa để xảy ra nhiều đau khổ và bất công như thế? Thực ra, Thiên Chúa không tạo ra đau khổ, cũng không gây ra bất công, bởi vì Ngài là tình yêu thương và là sự công bằng vô biên.
Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng Thiên Chúa không nhận lời mình cầu xin. Nhưng chúng ta quên rằng cầu nguyện không phải là xin Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, mà là tự đặt mình trong tư thế sẵn sàng thực thi ý Chúa. Chương trình của Ngài vượt quá trí hiểu hẹp hòi và cái nhìn thiển cận của chúng ta.
Kitô giáo có một nghịch lý rất lớn, đó là kêu gọi con người nhìn vào Thập giá như biểu tượng của hy vọng, nhìn vào đau khổ và cái chết như khởi đầu của ơn phúc. Chắc chắn, Chúa Giêsu không phải là người rao giảng sự chết chóc.
Kitô giáo không phải là đạo của khổ đau. Đức Kitô cũng không tự mình đi tìm cái chết; mãi mãi cái chết ấy vẫn là một bản án bất công của con người dành cho Thiên Chúa. Ngài cũng không đòi chúng ta phải đi tìm thập giá, Ngài chỉ khuyến khích: "Hãy vác lấy thập giá mình mỗi ngày."
Mà kỳ thực, có cuộc sống nào mà không có đau khổ. Có ai thóat khỏi khổ đau? Từ khi Ngôi Hai giáng sinh và cứu chuộc, thập giá đã biến thành nguồn ơn cứu rỗi, cái chết đã trở thành Tin Mừng. Tin Mừng chính là Thiên Chúa luôn yêu thương dìu dắt con người trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống.
Từ đây, thất vọng đã bừng sáng lên niềm hy vọng. Những đau khổ của chúng ta sẽ không đi vào quên lãng, nhưng mang lại cho chúng ta niềm hạnh phúc mai sau.
C. Delavigne đã nói: "Sống là chiến đấu mà phần thưởng ở trên trời." Cervatès còn xác quyết: "Ở đâu có đời sống thì ở đó có niềm hy vọng." Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta nhìn thấy hoa trái của hạt giống mình đã gieo vãi. Bên kia những vất vả, mất mát, thử thách đau khổ, người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhìn thấy những ánh sao của niềm hy vọng, như Ba Vua tìm lại ánh sao sau khi lạc mất.
***
Lạy Chúa Hài Đồng, Chúa đã Giáng Sinh để chia sẻ những khổ đau của nhân loại chúng con. Xin cho con đừng bao giờ thất vọng, ngã lòng vì những đau khổ thử thách, nhưng cho con luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và được lớn lên trong niềm tin tưởng phó thác. Xin ban thêm cho con niềm hy vọng và nâng đỡ con trong cuộc sống. Xin củng cố trong con niềm tin tưởng, lạc quan, để mỗi khi tiếp xúc với con, mọi người sẽ thấy bừng sáng lên niềm hy vọng vào cuộc sống. Amen!
24/12 Trinh nữ hạ sinh con trai
- Viết bởi Lc 1, 26-38
Trinh nữ hạ sinh con trai.
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG năm B
"Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai".
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ".
Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền".
Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: 2 Sm 7,1-5, 8b-12,14a,16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38
MỤC LỤC
1. Mừng Vui Lên--‘Manna’
2. Thiên Chúa sai Thiên Sứ Gabriel--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
3. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
4. Khiêm nhường đón nhận--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. “Đức Chúa ở cùng chúng ta”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
6. Mầu Nhiệm Nhập Thể--GM. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
7. Ngôi đền vàng của Đấng Tối Cao--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
8. Chuẩn bị gần cho việc Chúa đến--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
9. Trở nên dụng cụ của Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
10. Một cuộc hòa đàm lý tưởng--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
11. Dọn lòng đón nhận Chúa đến như Mẹ Maria--Lm. Đan Vinh
12. Thiên Chúa tìm cho mình một ngôi nhà--Lm. G. Nguyễn Cao Luật OP.
13. Xin vâng--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
14. Mầu nhiệm truyền tin--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng OP.
15. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
16. "Thiên Chúa ở cùng chúng ta”--Lm. Xuân Hy Vọng
17. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
18. Xin vâng--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
19. Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
20. “Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
21. Sinh một con trai--Lm. Trầm Phúc
22. Sinh một con trai--Lm. Trầm Phúc
23. Nữ Tỳ của Chúa--AM Trần Bình An
24. Thiên Chúa viếng thăm dân Người--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
25. Emmanuel--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
26. Thiên Chúa viếng thăm dân Người--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
27. Đũa thần nào biến Maria thành Mẹ Chúa?--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
28. Đức Chúa ở cùng chúng ta--Peter Feldmeier--Lm. Văn Hào SDB chuyển ngữ
29. Cuộc hòa đàm lý tưởng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
30. Yêu cuộc đời, Yêu con người--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
31. Truyền tin cho cả tôi nữa!--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
32. Lời "Xin Vâng" cứu độ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
33. Vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
34. Chấp nhận chính mình--Lm. Giuse Lê Danh Tường
35. Thiên Chúa nhớ lại lòng thương xót--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
36. Thiên Chúa đến xây nhà Ngài--Guy Morin
37. Truyền tin cho Đức Maria--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
38. Đức Chúa ở cùng chúng ta--Peter Feldmeier--Lm. Văn Hào SDB chuyển ngữ
39. Tôi tớ đáng ao ước--Lm. Minh Anh
40. Ắp đầy niềm vui--Lm. Minh Anh
41. Truyền tin cho Đức Maria--JKN
42. Khiêm hạ để đón nhận mạc khải của Thiên Chúa--Lm. Anmai CSsR
43. Mẹ Maria là cây cầu của Thiên Chúa và nhân loại--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
44. Hãy là nhịp cầu đưa Chúa đến với anh em--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Trần Ngà
45. Chuyện cái lưỡi--Trầm Thiên Thu
46. Chân dung Gioan Tiền hô--Trầm Thiên Thu
47. Sứ mạng Mẹ Maria--Lm. Minh Vận, CRM
48. Xin Vâng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
49. Đấng lạ lùng--Lm. Thu Băng
50. Hai tiếng "Xin Vâng" quyết định--Lm. Phanxico Xavie Lê Văn Nhạc
51. Xin Mẹ dạy con hai tiếng ‘Xin Vâng’
52. Biến Cố Truyền Tin--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
53. Quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm trên bạn--Lm. Mark Link
54. Tâm tình…--Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế
55. Ý định của Thiên Chúa--Lm. Phạm Ngọc Hùng
56. Xin Vâng như trinh nữ Maria để chờ đón Chúa ra đời--Lm Trần Bình Trọng
57. Tình Chúa muôn ngàn đời--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
58. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Nguyễn Văn Phan
59. Bối rối, thắc mắc, ưng thuận--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
60. Chú giải của Hugues Cousin
61. Truyền tin cho Maria--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
62. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Trọng Hương
63. Đức Maria đã đón nhận quyền năng Thánh Thần--Fiches Dominicales
64. Chú giải của Noel Quesson
65. Sứ điệp của Chúa cho Maria--William Barclay
66. Truyền tin--R. Gutzwiller
67. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Anthony Trung Thành
68. Xin Mẹ dạy con hai tiếng XIN VÂNG--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
69. Như Mẹ Maria, thưa Vâng trong cả cuộc đời--Antôn Nguyễn Thành Chương
70. Dọn tâm hồn
71. Khiêm nhường
72. "Xin vâng" để Chúa đến
73. Đức Trinh Nữ Maria
74. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
75. Khiêm nhường
76. Thiên Chúa, Đấng trung tín
77. Mẹ Maria với chương trình của Thiên Chúa
78. Quyền năng Chúa
79. Xin vâng
80. Xin vâng
81. Xin vâng
82. Sự tin tưởng
83. Vui nhận ý Chúa
84. Mẹ Maria
85. Truyền tin
86. Tôi tớ
87. Xin Vâng trong niềm tin và hy vọng
88. Tôi tớ
89. Sự vâng phục
90. Cộng tác với Thiên Chúa
92. Khiêm nhường
93. Tự do và trách nhiệm.
1.Mừng Vui Lên--‘Manna’
Suy Niệm
Khi suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể,
chúng ta thường nghĩ tới biến cố Chúa sinh ra ở Bêlem.
Thật ra mầu nhiệm này đã bắt đầu
từ sau tiếng Xin Vâng của Đức Maria ở Nagiarét.
Sau tiếng Xin Vâng ấy, Ngôi Lời đã thành một thai nhi,
lớn lên trong lòng mẹ như hàng tỉ con người khác,
cần chín tháng mới có thể cất tiếng khóc chào đời.
Ngôi Lời không lẫm liệt từ trời bước xuống.
Ngài muốn là người trăm phần trăm,
nên Ngài cần một người mẹ.
Ngài đi ra từ lòng mẹ: mong manh, yếu đuối.
Ngôi Lời đã thành một người như chúng ta,
chia sẻ trọn vẹn phận người như chúng ta,
trừ phạm tội.
Ngôi Lời đã là người, và mãi mãi là người.
Ngài đã đi hết hành trình cuộc sống
với tất cả nỗi buồn vui, âu lo và trăn trở.
Chẳng ai hiểu chúng ta bằng Ngài.
Ngài chẳng xa lạ với những gánh nặng của cuộc sống.
Hôm nay Ngôi Lời vẫn là người, ngự bên Chúa Cha.
Có một người được tôn vinh ở giữa lòng Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nhập Thể đâu phải chỉ ở Bêlem,
vì Ngôi Lời mãi mãi là người, người Anh trưởng,
dẫn đưa chúng ta vào cung lòng Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu trái đất.
Trái đất chỉ là một trong số hàng tỉ tỉ vì sao,
nhưng nó vẫn có thế đứng ưu việt
vì là nơi Con Thiên Chúa đã đặt chân, đã sống.
Bầu trời, rừng xanh, mạch nước, biển khơi...
tất cả phải được gìn giữ cho thanh khiết.
Trái đất là nhà của con người,
nhưng cũng là ngôi nhà của Con Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu cuộc đời,
yêu mảnh đời nhỏ bé của mình.
Có lắm người dễ dàng tìm đến cái chết
vì thấy bế tắc, tuyệt vọng, vì thấy đời vô nghĩa.
Mảnh đời của Đức Giêsu không phải chỉ màu hồng:
long đong với phận nghèo, ê chề vì thất bại,
bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá.
Nhưng Ngài đã sống mảnh đời ấy cho đến cùng,
vững tin đến cùng vào tình Cha, ngay giữa vực sâu và tăm tối.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu mọi người.
Từ khi Con Thiên Chúa mang khuôn mặt của con người
thì mọi người đều mang khuôn mặt của Thiên Chúa.
Tất cả nhân loại đều là anh em
dù khác nhau về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, quan điểm...
Xúc phạm con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Noel đem lại cho ta sự bình an sâu thẳm.
Bình an cho trái đất đang bị tàn phá.
Bình an cho những người đang sống trong ngõ cụt.
Bình an cho chúng ta, cho mọi người.
Bình an của Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều bạn trẻ tự phá hủy đời mình bằng ma túy, thuốc lá, rượu bia, đua xe, ăn chơi trụy lạc... Theo ý bạn, đâu là lý do chính dẫn đến thái độ đó?
Ai trong chúng ta cũng có những người bạn đang mất bình an, đang cần được nâng đỡ hay tha thứ. Mùa Noel này, bạn định làm gì cho họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng
trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng chiến thắng
thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
2.Thiên Chúa sai Thiên Sứ Gabriel--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay thật quen thuộc với chúng ta.
Ai cũng biết chuyện thiên sứ Gabriel đến truyền tin cho Đức Mẹ.
Khi đọc bài này vào những ngày gần lễ Giáng sinh,
chúng ta nhớ lại chuyện xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm.
Tại làng quê Nadarét nhỏ bé ở vùng Galilê,
Con Thiên Chúa đã bắt đầu làm người trong lòng mẹ
khi Mẹ Maria thưa xin vâng với những lời thiên sứ nói.
Nhưng nhân vật chính trong bài này không hẳn là Maria,
mà là Thiên Chúa, Đấng đã sai thiên sứ đến với Mẹ.
Từ đây ta có thể nhận ra đôi nét về khuôn mặt Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Đấng tôn trọng tự do con người,
dù con người chỉ là thụ tạo vô thường,
còn Ngài là Đấng Tạo hóa siêu việt, vô phương đạt thấu.
Để cứu độ nhân loại đang trầm luân trong tội,
Thiên Chúa muốn sai Con của Ngài đến làm người như ta,
chia sẻ trọn vẹn phận người của ta.
Ngài cần một phụ nữ chấp nhận làm mẹ của Con Ngài.
Từ lâu Thiên Chúa đã chuẩn bị Maria cho chức vụ đó,
đã ban cho Mẹ muôn ơn chẳng ai sánh bằng.
Bà là “Đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà,
Bà được đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,28.30).
Vậy mà giờ đây Ngài vẫn thấy cần hỏi ý Maria,
và chờ nơi Mẹ một câu trả lời dứt khoát.
Con Thiên Chúa không thể có chỗ trong cung lòng Maria,
nếu Mẹ không tự do ưng thuận và mở lòng đón nhận.
Thiên Chúa khiêm hạ đã đến gặp Maria qua trung gian Gabriel,
Ngài cần con người cộng tác để cứu con người.
Thiên Chúa toàn năng cần Cô Maria bé nhỏ.
Thiên Chúa hứa với vua Đavít sẽ ban cho dân Do-thái
một vị vua có vương quyền và ngai vàng tồn tại mãi mãi.
Và Ngài đã trung tín giữ lời (2 Sm 7,12-17).
Gabriel cho thấy Đức Giêsu chính là vị vua này (Lc 1,31-33).
Nhưng Thiên Chúa không chỉ ban điều Ngài đã hứa.
Ngài là Đấng quảng đại ban nhiều hơn điều đã hứa,
vì Đức Giêsu không chỉ là một vị vua Mêsia cho dân Do-thái,
Ngài còn là Đấng Cứu độ cho cả nhân loại.
Thiên Chúa là Đấng bất ngờ và mãi mãi bất ngờ.
Ngài chọn Maria làm mẹ cho Con của Ngài,
Nhưng Ngài lại muốn người Con ấy được sinh bởi một trinh nữ.
Ngài cần một trinh nữ, nhưng đây là một trinh nữ đã đính hôn.
Khi thiên sứ loan tin cho Mẹ về kế hoạch của Thiên Chúa
thì Mẹ biết rằng đời mình không như cũ nữa.
Những dự tính của Mẹ về hôn nhân sẽ bị đảo lộn.
Mẹ sẽ sinh một người con, nhưng không phải con của Giuse,
mà là Con Đấng Tối Cao, Con Thiên Chúa.
Chắc Mẹ không thể hiểu hết, hiểu ngay, mọi chuyện.
Mẹ không thể hiểu hết lời giải thích của thiên sứ
về việc mình sẽ thụ thai nhờ “được Thánh Thần ngự xuống,
và được quyền năng Đấng Tối Cao tỏa bóng” (Lc 1,35).
Chắc Mẹ cũng không ngờ giây phút Mẹ xin vâng
là giây phút cả Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện:
Thiên Chúa Cha và Thánh Thần cùng với Con Thiên Chúa.
Mái nhà Nadarét là nơi Thiên Chúa Ba Ngôi
đang bắt đầu một chương trình cứu độ lớn lao
với sự cộng tác không thể thiếu của một cô thiếu nữ.
Mỗi lần đứng trước máng cỏ,
tôi cần nhớ mình đang đứng trước Thiên Chúa Ba Ngôi.
Cả Ba cùng hiện diện và hoạt động trong mầu nhiệm Nhập Thể,
“vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.”
Ngày xưa Thiên Chúa dùng Gabriel để báo tin cho Maria.
Ngày nay Thiên Chúa dùng ai để loan báo tin vui cho thế giới?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được gì?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa.
Helder Camara
3.Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm
Cách đây gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này
vào lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin cho Đức Mẹ.
Hôm nay chúng ta nghe đọc lại bài này trong bầu khí rộn ràng
của những ngày gần đại lễ Giáng Sinh.
Các sách Tin Mừng không nói nhiều về thời gian Đức Mẹ mang thai.
Luca chỉ nói về chuyện Mẹ đi thăm bà chị họ hiếm muộn (Lc 1, 39-45).
Còn Mátthêu nói về chuyện thánh Giuse nằm mộng và được sứ thần mời
đón nhận Maria làm vợ và thai nhi Giêsu làm con của mình (Mt 1, 18-24).
Nhưng thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng,
nhất là đối với người mẹ trẻ sinh con so.
Các bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm,
mầu nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình.
Dần dần mỗi chuyển động của thai nhi
và cả nhịp tim cũng được người mẹ cảm nhận.
Thai nhi trở thành người trọn vẹn
nhờ được dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ.
Con Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế.
Ngài không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng,
nhưng Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ.
“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể…
Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7).
Con Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha.
Tiếng Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không,
để “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7).
Khi trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ,
Con Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính.
Ngài vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất
để Ngài thực sự là anh em của họ.
“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa.
Xin xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38).
Ngay sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống,
và Con Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35).
Ngài từ từ có trái tim, khuôn mặt, vân tay riêng…
Đấng Cứu Độ sung sướng trở nên một sinh linh nhỏ bé,
để nói cho nhân loại biết về sự cao quý của một thai nhi.
Đức Maria trở thành Hòm Bia Thiên Chúa, nơi Ngôi Hai hiện diện.
Chúng ta ít khi nghĩ đến thời gian Mẹ Maria mang thai.
Thời gian cưu mang chẳng bao giờ nhẹ nhàng hay dễ dàng.
Để có thể sinh ra Đức Giêsu cho môi trường ta đang sống,
cũng cần thời gian thai nghén lâu dài và vất vả.
Chúng ta phải mang Ngài trong lòng mình,
kiên nhẫn và chăm chút để Ngài lớn lên, trước khi sinh Ngài cho thế giới.
“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ tôi” (Mc 3, 35).
Cầu Nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình ;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
4.Khiêm nhường đón nhận--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?
2) Từ bỏ ý riêng có dễ không?
3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?
4) Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?
5.“Đức Chúa ở cùng chúng ta”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúng ta đang tiến dần tới Mùa Giáng Sinh. Lời Chúa của Chúa nhật thứ bốn Mùa Vọng giới thiệu với chúng ta một nhân vật quan trọng mà Thiên Chúa đã mời gọi cộng tác để thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể, đó là Đức Trinh nữ Maria, quê ở Nagiarét. Với Đức Trinh nữ Maria, lời hứa ban Đấng Thiên sai không còn mơ hồ xa xôi hay mênh mang bàng bạc, nhưng đã quy về một con người cụ thể. Từ trời cao, Chúa sai Thiên Sứ của Ngài xuống gặp gỡ và ngỏ lời với một thôn nữ khiêm hạ. “Đức Chúa ở cùng Bà”, đây vừa là lời chào, vừa là lời khẳng định một chân lý sâu xa: Thiên Chúa hiện diện trong tâm hồn những người công chính và Ngài ban cho họ được ân sủng dồi dào.
Thiên Chúa hiện diện giữa Dân Người. Đó là giáo huấn từ thời Cựu ước. Sự hiện diện của Chúa làm cho dân Do Thái trở thành dân riêng của Ngài và đây cũng là điểm làm nên sự khác biệt giữa dân được tuyển lựa và các dân tộc khác. Sự hiện diện của Chúa không lệ thuộc vào không gian và thời gian. Bài sách thánh thứ nhất kể lại suy tư của vua Đavít. Vì lòng tôn kính dành cho Chúa, ông muốn xây cho Ngài một ngôi nhà. Ông nghĩ thật là bất kính nếu ông ở lầu son gác tía, trong khi Chúa lại ngự nơi lều tạm.
Nếu xây lâu đài là ý định của các bậc quân vương, thì ý của Chúa lại khác. Qua ngôn sứ Nathan, Chúa đã mời gọi vua Đavít nhìn lại lịch sử đã qua, để thấy Chúa luôn hiện diện giữa thăng trầm của đời ông cũng như trong lịch sử dân tộc. Ngài luôn bênh vực và giúp ông chiến thắng trong các cuộc giao tranh, củng cố ngai vàng của ông và tạo cho ông nổi danh giữa thiên hạ. Chúa muốn ông nhận ra sự hiện diện của Ngài suốt bề dày lịch sử, từ thời xa xưa. Ngài không có nhu cầu nhà ở, không cần một lầu son gác tía. Điều Ngài muốn nơi con người, đó là hãy trung tín với Ngài mọi nơi mọi lúc. Nếu bền chí đi theo giáo huấn của Ngài, Đavít sẽ được Chúa chúc lành. Ngài sẽ cho ông dòng giống trường tồn. Qua lối chơi chữ rất tài tình, ngôn sứ Nathan đã diễn tả ân sủng của Chúa qua hình thức “nhà” mà Ngài sẽ xây cho Đavít, để đối lại với “nhà” mà ông muốn xây cho Chúa. “Nhà” mà Chúa sẽ ban cho Đavít là vương quốc vững bền, khôn ngoan lỗi lạc và phú quý giàu sang. Những điều này là bằng chứng cho sự hiện diện và ơn chúc lành của Chúa.
“Đức Chúa ở với ngài!”. Đó là lời khẳng định và là lời chúc phúc của ngôn sứ Nathan với vua Đavít. Đó cũng là lời Sứ thần Gabrien nói với Trinh nữ Maria. Tuy vậy, nếu sự hiện diện của Chúa giữa Dân Ngài từ trước tới nay chỉ thể hiện qua sự quan phòng che chở, thì nay Thiên Chúa lại hiện diện một cách thức hoàn toàn mới mẻ. Sứ thần Gabrien đã giải thích điều đó: “Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Vâng, từ nay Thiên Chúa không còn ở chốn cao xanh xa vời vợi, nhưng Ngài đã hạ cố ghé thăm và ở lại với loài người. Ngôi Lời linh thiêng đã trở thành con người bằng xương bằng thịt để cư ngụ giữa chúng ta. Sau này, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai thấy Thày là thấy Chúa Cha”. Tác giả thư Do Thái cũng khẳng định: “Người là phản ánh vinh quang, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3). Như thế, qua Chúa Giêsu, con người được gặp gỡ Thiên Chúa, tâm sự với Ngài. Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa một cách mới mẻ, gần gũi.
Chúa Giêsu đã đến trần gian. Thiên Chúa hiện diện giữa nhân loại. Đó là một trong những nội dung quan trọng của sứ điệp Giáng Sinh. Từ nay, chấm dứt những nghi lễ của Cựu ước, vì Chúa Giêsu là Thượng Tế vĩnh cửu. Người đã hiến dâng chính mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho con người. Thánh Phaolô diễn giải điều này, để khẳng định, những ai tin vào Chúa Giêsu, thì không phải tuân thủ những ràng buộc của luật tế tự Cựu ước (Bài đọc II).
Nếu trong ngày truyền tin, Sứ thần đã chào kính Đức Maria: “Đức Chúa ở cùng Bà”, thì hôm nay, chúng ta cũng chào nhau trong phụng vụ: “Chúa ở cùng anh chị em”. Vâng, Chúa đang ở cùng chúng ta. Hãy xác tín vào sự hiện diện của Ngài. Hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài ban ơn trợ lực cho chúng ta trên bước đường đời. Thế giới hôm nay đang vắng bóng tình thương. Thay vào đó là sự hận thù ghen ghét và bạo lực giết chóc. Cùng với Đức Trinh nữ Maria, chúng ta hãy khiêm tốn thưa với Chúa lời xin vâng, qua đó chúng ta đón nhận và cộng tác với Ngài, để “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
6.Mầu Nhiệm Nhập Thể--GM. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
"Tình yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.
Sinh ra, lớn lên và chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.
Có tình yêu, con người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường, những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những con vật đi ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon.
Tình yêu khiên con người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui, cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong thân trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con người triển nở trong hạnh phúc.
Tình yêu là động lực thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một lòng, một trí, một ý chí, một cuộc đời.
Thánh Kinh luôn khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến Thiên Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình yêu được biểu lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa.
Những chương đầu của sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ khi con người được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen, Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của con người. Ngài cho con người hưởng các hoa quả, cho con người một bạn đường. Ngài đối thoại thân mật với con người.
Sách Sáng thế còn cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc biệt Ngài đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với Abraham một giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.
Khi con cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến để giải phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn - Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết một người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.
Với Maisen, Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng cho Ngài giữa muôn nước.
Trong sa mạc, Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần kề. Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.
Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp họ chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Đất hứa.
Khi dân Chúa đã sống ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Đavít muốn xây cho Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch đá như các thần minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Đền thờ đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra một Đền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Đavít; và qua những con người sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.
Với Đavít và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động trên lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn và thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận, lưu đày... Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.
Ngài thương dân như cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc đoàn chiên.
Nhưng Thiên Chúa như chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ với dân, không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận con người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như mọi người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu cho đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những ai khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng và quan trọng nhất của con người.
Giêsu, con của Maria và Giuse thuộc dòng dõi Đavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ nghèo nàn sống ở Nadarét.
Đó là khía cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để ta nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không viễn vông, không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo Ngài không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu chân thật.
Maria thụ thai Đức Giêsu là nhân loại thụ thai Đức Giêsu! Maria hạ sinh Đức Giêsu là nhân loại hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel dân Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý tử. Đó cũng là lời loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát sinh một con người toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.
Mầu nhiệm Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Đấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.
Đức Giêsu là bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Đức Giêsu là nơi hội tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.
Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động. Nhưng Đức Giêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt động của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự can thiệp của Thánh Linh: "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Đấng Tối cao trên Cô rợp bóng".
Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Đức Giêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc biệt hiện diện trong cuộc đời Giêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Giêsu tuy phải chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần số" tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đức Giêsu sống lại được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Đức Giêsu hiện diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ Thánh Linh Đức Giêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện diện bằng chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng như Luca cho thấy sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).
Đức Kitô vẫn luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi lắng nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại. Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến đổi trần thế thành Đất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa".
BÀI GIẢNG
Càng gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện chí và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.
Nhưng chính trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Đại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta.
Quả vậy, khi Đavít suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà, một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta, những người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Đó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận, suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời đại này, trên quê hương Việt Nam đang hình thành một nếp sống mới.
Trước hết chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người không còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy không cần phải quảng diễn thêm.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến mọi biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên Chúa lại như nhập thể ở giữa chúng ta.
Do đó thật là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý gì nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng một Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy yếu của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh chung quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ chúng ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi tất cả.
Chúng ta chỉ cần noi gương một Đavít và một Maria. Đavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa. Maria cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Đấng mình tôn thờ. Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ đến sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta nghĩ đến công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện tại sẽ khắc phục được dễ dàng. Đavít đã không nghĩ đến mình, Đức Maria cũng thế. Nên Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở trần gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.
Thế thì hôm nay và những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Điều cần hơn hết là chúng ta luôn phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài. Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi đó không?
Nguyện chúc tất cả anh em được như vua Đavít và Đức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.
Đức Mẹ Mùa Vọng
Chúng ta còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc chắn để lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng gợi lại thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời kỳ Tân Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó sang đời sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại và đẹp đẽ này.
Và cũng như Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người Đức Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những cái tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai Thiên Chúa có thể giáng trần.
Nếu quả thật trong bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi" thì phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ hoài tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch đón nhận đám mây từ nhân mưa Đấng công chính xuống. Đức Maria vì thế trở thành lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.
Nhưng một lý tưởng bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa, không ai có thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một cảm tình mộ mến dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của phụng vụ trong mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời của Đức Mẹ.
Chúng ta đừng thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Đức Mẹlà lễ Đức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng đó là hình ảnh Đức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng không đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng. Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Đức Mẹ trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên mừng sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9 tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu thai vô nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các nhà làm lịch lễ dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng đặt rồi họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời của Thiên Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai trò cứu nguy dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ, chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.
Nhưng nay, lễ Đức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế, nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng ta vẫn phải nói, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Đức Maria trong bầu khí mùa Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của Người chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội chỉ chờ mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Đức Maria không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt mùa phụng vụ này, Giáo hội phải sống với Đức Maria, phải nhìn ngắm Người và trông đợi với Người.
Kể ra làm gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Đức Maria; các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem, mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa. Điều đó chứng tỏ hình ảnh Đức Mẹ thật đã được gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Đức Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy, chúng ta mới biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.
Tinh thần mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian này. Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi thấy các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới như thể không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết trong giai đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc đời đen tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy hoàng của Đức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ còn là những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa Giáo hội còn biết rõ Đức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều đó; mới nghĩ rằng Đức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi trên Núi Sọ và mới quyết rằng Đức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Đức Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Đức Maria không những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại, chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu.
Chúng ta muốn nhìn thấy các hoạt động cụ thể của Đức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như thế về hoạt động của Đức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại với đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam có thể bảo: người ta hiện nay sống thì khôn, còn các Ngài hiện nay đã thác thì thiêng. Khôn thì ở một bình diện, còn thiêng lại ở bình diện cao hơn và cao hẳn. Không phải những trí óc khôn ngoan đang dẫn đưa lịch sử của thế giới này, nhưng chính là những bậc thiêng liêng huyền bí. Không phải chúng ta đang xếp đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Đức Kitô, chính vị đồng công cứu chuộc với Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động qua chúng ta và muốn chúng ta cộng tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn thì mây trời mới mưa Đấng công chính xuống.
Muốn biết chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng ta nhìn vào Đức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau này trở thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung nhan Đức Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa đã để lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà Ngài muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không bao giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời êm ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh lẹ không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính đáng của Giuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Đức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ ước mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng ta cũng chỉ là những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần Linh hiện nay đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc ấy như Trinh nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với các lời lẽ từ tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của Người đang cho chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Đức Mẹ mùa Vọng.
7.Ngôi đền vàng của Đấng Tối Cao--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
Thiên Chúa nhập thể đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu tại Bêlem hơn 2000 năm trước. Hôm nay, Thiên Chúa muốn mỗi người trở thành nơi Thiên Chúa được cưu mang và sinh hạ. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy trở thành nơi Thiên Chúa ngự như cung lòng Đức Maria, trở thành nơi Thiên Chúa sinh hạ như máng cỏ ở Bêlem, trở thành đền thờ để Thiên Chúa ngự trị và hiển lộ.
1. Ngôi nhà Thiên Chúa ngự
Vua Đavít muốn xây dựng một ngôi đền thờ cho Chúa ngự, vì vua nghĩ rằng thật không phải khi vua sống trong ngôi nhà bằng gỗ bá hương, còn Chúa ngự nơi “lều tạm.” Vua Đavít đã đem ý định này nói cho tiên tri Nathan, và tiên tri với lý trí con người, nghĩ rằng vua cứ làm theo điều vua thấy đúng.
Lời Chúa đã nói với tiên tri Nathan, để nói với Đavít: “ngươi là con người, mà muốn xây nhà cho Thiên Chúa ở sao?” Chính Thiên Chúa mới là Đấng “xây nhà” cho Đavít. Chính Thiên Chúa là Đấng tuyển chọn Đavít khi vua còn là cậu bé chăn chiên, đã làm cho Đavít nổi tiếng, đã cho Đavít chăn dắt nhà Israel. Chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho Đavít, sẽ cho triều đại vua tồn tại qua một người con cháu. Đáp lại ý định quảng đại của Đavít, Thiên Chúa mặc khải cho vua biết ý định của Ngài: một người từ dòng dõi của vua sẽ được yêu thương đặc biệt, và triều đại của vị vua đó sẽ trường tồn vạn đại. Chương trình yêu thương của Thiên Chúa cho con người vượt xa vô cùng điều con người định làm cho Thiên Chúa.
Con người không thể xây nhà để Thiên Chúa ngự, nhà Thiên Chúa ngự luôn là “lều tạm” vì đó là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho con người. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, nơi nào cũng là nhà Ngài cũng thuộc về Ngài, Ngài không cần ai xây nhà cho Ngài. Ở đây Thiên Chúa nhắc nhở con người hãy nhớ “Ngài là ai.” Ngài không giống con người, Ngài vượt xa con người, Ngài siêu việt, Ngài ở “trên trời” nhưng cũng ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa.
2. Đền thờ sống động cho Thiên Chúa
Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng xây dựng ngôi đền thờ này qua cha mẹ mỗi người khi cho mỗi người được sinh ra qua cha mẹ mình; cũng chính Thiên Chúa tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn ngôi đền thờ này qua những lời giảng dạy của những thày cô dạy giáo lý, qua các người thuộc về Ngài như các tu sĩ, qua chính Giáo Hội qua các linh mục và toàn thể dân Chúa.
Chính Thiên Chúa đang xây dựng đền thờ sống động là mỗi người chúng ta cho Ngài. Không ai xây dựng ngôi đền thờ này ngoại trừ chính Ngài, những người khác chỉ là công cụ Thiên Chúa dùng. “Lều tạm” nơi dân Do Thái ngày xưa, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân Do Thái. Mỗi người là đền thờ Thiên Chúa, không chỉ như lều tạm nữa, mà là nơi Thiên Chúa vui thích ngự vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Không ai yêu thương mình bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương tôi nhất.
Đền thờ Thiên Chúa là nơi con người có thể tới để gặp gỡ, nói chuyện, tâm sự với Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác, trở thành biểu hiện Thiên Chúa yêu thương người khác, trở thành dụng cụ sống động để Thiên Chúa hiện diện và diễn tả tình yêu của Ngài cho tha nhân. Mùa vọng và mùa Giáng Sinh, là dịp rất tốt để mỗi người trở về với Thiên Chúa, để mình sẵn sàng cho Thiên Chúa ngự trị và làm những gì Ngài muốn qua chính con người của mình.
3. Đức Maria- Đền Thờ Sống Động Tuyệt Vời của Thiên Chúa
Đức Maria đã đính hôn với Giuse (Lc.1, 27). Như vậy phải chăng cô gái tên Maria này đã quen Giuse, đã yêu Giuse; và họ đã quyết định lập gia đình với nhau; hơn nữa họ đã đi một bước dài: đã đính hôn. Có lẽ chỉ chờ thời gian để thành vợ thành chồng, chờ khi Giuse đón Maria về nhà mình.
Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời của Maria và Giuse, và qua đó ảnh hưởng tất cả nhân loại. Thiên Chúa đề nghị Maria có thai và sinh một con người đặc biệt, không phải do Giuse: “việc đó xảy ra thế nào, vì cho tới bây giờ tôi chưa có liên hệ vợ chồng (với Giuse)” (Lc.1, 34). Sứ thần cho biết, đây là con người đặc biệt, Thiên Chúa là Cha của Người, Người này sẽ trị vì trên nhà Đavít, nước Người rộng vô biên.
Để có thể thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, đức Maria đã phải đặt
· tình yêu Thiên Chúa trên tình yêu riêng (đối với thánh Giuse);
· ý định Thiên Chúa trên danh dự gia đình;
· niềm tin vào Thiên Chúa hơn là chính con người của mình.
Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, thì đức Maria mất người mình yêu thương. Khi thưa tiếng xin vâng, Maria sẵn sàng chấp nhận trường hợp này; vì ý Thiên Chúa được coi là trên hết đối với đức Maria. Nếu Giuse không chịu hiểu, và nếu chuyện tai tiếng xảy tới cho gia đình, làm sao thánh Gioan-Kim và thánh Anna có thể chịu đựng được điều như vậy? Đức Maria chấp nhận tất cả điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho gia đình cha mẹ và họ hàng, ý định của Thiên Chúa phải được coi là trên hết. Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, nếu Giuse tố cáo công khai thì sao, Maria có thể bị ném đá chết như một phụ nữ phạm tội ngoại tình! Nếu chuyện xảy ra như vậy, thì việc nhận lời thụ thai nào có ích lợi gì? Không, đức Maria vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả những gì, và Ngài có thể làm cho thành sự những gì Ngài đã khởi đầu. Chỉ khi phó thác như vậy, đức Maria mới có thể thưa tiếng xin vâng đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, dù Mẹ chưa thấy rõ hoàn toàn tương lai của mình. Chưa thấy rõ, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng phó thác tất cả cho Thiên Chúa: “Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc.1,45). Lúc này, những gì Thiên Chúa nói với Mẹ chưa được thực hiện, nhưng Mẹ tin chúng sẽ được thực hiện. Những điều này Đức Maria chỉ thấy được thực hiện khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết. Đức tin của Mẹ thật tuyệt vời.
Với tiếng Xin Vâng của Đức Maria, Thiên Chúa có thể thực hiện chương trình cứu độ con người của Ngài. Thiên Chúa cần tiếng Xin Vâng của Đức Maria. Thiên Chúa cũng cần tiếng “xin vâng” của mỗi người chúng ta, để thực hiện công trình cứu độ mỗi người chúng ta. Tiếng xin vâng của Đức Maria làm biến đổi lịch sử hoàn vũ, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời, người được chúc phúc giữa mọi người nữ. Nếu chúng ta thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, có thể Thiên Chúa đang dùng chúng ta để biến đổi môi trường sống của chúng ta: làm những người ở đó bình an hơn, vui hơn, hạnh phúc hơn. Lúc đó, chúng ta trở nên đền thờ sống động của Thiên Chúa, là nơi hiển lộ Thiên Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, người mà Đức Maria cưu mang và sinh hạ là ai vậy?
2. Khi nào và làm sao người ta biết người con Đức Maria cưu mang là Thiên Chúa nhập thể?
3. Tại sao lại phải loan báo về Đức Giêsu? Ích lợi gì?
4. Bạn đã và đang làm gì để trở nên máng cỏ sống động cho Thiên Chúa được sinh ra?
8.Chuẩn bị gần cho việc Chúa đến--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Càng gần đến lễ Giáng sinh, lời cầu chúc mà chúng ta vẫn nghe ở đầu Thánh lễ "Chúa ở cùng anh chị em" càng thêm ý nghĩa. Đây chính là lời ngôn sứ Natan nói với vua Đavít trong bài đọc I hôm nay, và cũng là lời thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ trong bài Tin Mừng. Chúng ta hãy dọn tâm hồn cho xứng đáng để Chúa thực sự ở cùng chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà không lo chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng.
Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo cho bản thân và gia đình mình mà không quan tâm đến những người khác.
Đã bao dịp lễ Giáng sinh người công giáo chỉ biết mừng lễ với nhau mà không chia xẻ niềm vui cho anh em lương dân.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-11. 16
Sau khi vua Đavít đã chiến thắng mọi quân thù và đã yên vị trong Hoàng cung, ông muốn xây cho Chúa một ngôi nhà. Ông đem dự định ấy ra hỏi ngôn sứ Natan. Natan thỉnh ý Chúa xong, trở lại trả lời cho Vua Đavít:
Thiên Chúa không cần ở trong những ngôi nhà vật chất cho dù có sang trọng và vững chắc bao nhiêu đi nữa.
Ngược lại, Thiên Chúa muốn xây "nhà" cho Đavít, nghĩa là củng cố triều đại của ông cho bền vững đến muôn đời.
2. Đáp ca: Tv 88
Tv này ca ngợi Thiên Chúa đã trung thành giữ lời Ngài đã hứa với Đavít là sẽ cho "nhà" (triều đại) của ông bền vững muôn đời.
3. Tin Mừng: Lc 1, 26-38
Nếu nhìn lại lịch sử bằng cái nhìn của loài người thì xem ra Lời Thiên Chúa hứa với Đavít (một triều đại trường tồn) đã không được thực hiện, bởi vì từ khi nước Do thái bị đế quốc Babylon thôn tính thì không còn vua thuộc dòng dõi Đavít nữa.
Nhưng Thiên Chúa có cách hành động vượt ngoài dự đoán của loài người: Đức Giêsu là dòng dõi Đavít chính là vị Vua sẽ làm cho triều đại Đavít vững bền mãi mãi. Qua biến cố truyền tin, Đức Giêsu bắt đầu nhập thể trong lòng Đức Trinh nữ Maria. Thiên sứ Gabriel đã nói cho Đức Mẹ biết về tương lai của hài nhi: "Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài... và triều đại Ngài sẽ vô tận".
4. Bài đọc II: Rm 16, 25-27
Thánh Phaolô suy gẫm về mầu nhiệm cứu độ: đó là điều được Thiên Chúa dấu kín từ đời đời nhưng nay nhờ Đức Giêsu mà được tỏ bày cho muôn dân.
Thật đúng như lời ngôn sứ Natan đã nói với vua Đavít và thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ: triều đại của Đức Giêsu mở rộng đến vô biên.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Loài người muốn xây nhà cho Chúa
Bài đọc I hôm nay thuật rằng vua Đavít muốn xây cho Chúa một ngôi nhà nhưng Ngài từ chối. Tin Mừng theo Thánh Luca cũng thuật rằng khi tới lúc Đức Giêsu sắp sinh ra, Thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong các quán trọ nên Đức Mẹ phải sinh Đức Giêsu trong hang đá.
Thiên Chúa không cần đến những ngôi nhà của loài người chúng ta!
Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn chính là một triều đại bền vững muôn đời, triều đại bắt đầu với Đavít và tiếp nối bởi những kẻ thực lòng kính mến tôn thờ Ngài. Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn là những tâm hồn như Đức Maria, luôn khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa.
Để chuẩn bị Lễ Giáng sinh, chúng ta cũng "cất nhà" cho Chúa. Đó là những hang đá, máng cỏ theo kiểu truyền thống; những mô hình cách điệu, những bức họa theo kiểu hiện đại; những trang trí lộng lẫy huy hoàng v. v. Nhưng chúng ta phải biết rằng Chúa không thích những ngôi nhà đó cho bằng những đền thờ được xây dựng trong chính tâm hồn chúng ta và tâm hồn những người chung quanh chúng ta.
* 2. Thiên Chúa xây nhà cho loài người
Vua Đavít có kế hoạch xây một Đền thờ huy hoàng cho Chúa bằng tất cả những vật liệu quý giá nhất mà ông có thể có được. Đức Maria cũng có một hướng sống mà Người cho là đẹp lòng Chúa nhất: "Tôi không biết đến người nam".
Thiên Chúa không từ chối ý tốt đó: Ngài nói với Đavít "Điều gì ngươi nghĩ trong lòng thì cứ thực hiện". Nhưng Ngài giúp vua Đavít và Đức Maria thực hiện theo một cách thức vượt ngoài dự tưởng của các ngài: Natan nói với Đavít "Thiên Chúa ở cùng bệ hạ"; Thiên sứ Gabriel cũng nói với Maria "Thiên Chúa ở cùng cô". Ngôi nhà mà Thiên Chúa cùng xây dựng với loài người chính là tâm hồn con người.
Nhưng do đâu mà tâm hồn vua Đavít được Chúa chọn làm nhà? Do lòng sám hối sâu xa về tội đã phạm. Và do đâu mà tâm hồn Đức Maria trở thành nhà của Chúa? Do lòng khiêm tốn và tuyệt đối tin tưởng vào Chúa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự nơi tôi như lời thiên sứ truyền".
* 3. Đón nhận Chúa
Hai gương mặt nổi bật hôm nay là Vua Đavít và Đức Maria. Cả hai giống nhau ở điểm là muốn làm cho Chúa những gì tốt đẹp nhất, nhưng cuối cùng điều tốt đẹp ấy không phải là do hai vị làm cho Chúa mà là đón nhận việc Chúa làm cho mình.
Chuyện của hai vị gợi cho chúng ta một số ý tưởng:
Thiên Chúa quý chuộng thiện chí của con người. Vì thiện chí nên vua Đavít và Đức Maria được Thiên Chúa chọn.
Nhưng Thiên Chúa có chương trình của Ngài. Chương trình này vượt quá dự tính của con người.
Nhờ vâng lời, con người được tham dự vào chương trình của Thiên Chúa và thiện chí của con người được Thiên Chúa nâng lên đến tầm mức kết quả không ngờ.
Chúng ta hãy chuẩn bị đón nhận Chúa bằng cách:
Trình bày cho Chúa những thiện chí của mình.
Khiêm tốn thưa với Ngài "Này con là tôi tớ của Chúa"
Xin vâng theo kế hoạch của Ngài, cho dù có bất ngờ hay vượt quá dự tưởng của mình.
* 4. Chiếc đũa thần và Cô bé Lọ lem
Câu chuyện được thánh Luca kể trong đoạn Tin Mừng này có phần giống chuyện cổ tích về Cô bé Lọ Lem. Cô Bé Lọ Lem Cinderella nghèo nàn xấu xí bỗng dưng trở thành nàng công chúa cực kỳ xinh đẹp chỉ bằng một cái phất nhẹ chiếc đũa thần của một Bà tiên.
Chúng ta hãy đọc kỹ những mô tả của Thánh Luca về tình trạng "đã là", "đang là" và "sẽ là" của Maria:
- Tình trạng đã và đang là của Maria thì rất tầm thường: một thôn nữ sinh sống ở làng Nadarét vô danh rất ít người biết đến, mang một cái tên khá phổ biến là Maria (nguyên trong Tin Mừng thôi đã có ít là 3 người phụ nữ khác cũng mang tên Maria như thế). Lý lịch của nhân vật thứ nhất trong câu chuyện của Luca chỉ có thế, không như lý lịch của nhân vật thứ hai là Giuse dù sao cũng còn được ghi kèm là "thuộc dòng dõi Đavít".
- Nhưng tình trạng sẽ là của Maria thì khác hẳn: Maria "sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Đứa con đó "sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận". Cô thôn nữ tầm thường Maria sẽ là mẹ của Đấng Cứu Tinh thiên hạ.
Chiếc đũa thần chính là quyền năng của Thiên Chúa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được". Mà giây phút chiếc đũa thần vung lên chính là lúc Maria thốt lên lời Fiat. Trong Kinh Truyền tin, chúng ta vẫn đọc "Phút ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người". Trước tiếng Fiat, Maria là Cô Bé Lọ Lem, sau tiếng Fiat, Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Tiếng Fiat nhiệm mầu giống câu thần chú "Vừng ơi mở ra" vậy!
Nhưng Fiat là gì? Fiat không hẳn là "Xin vâng", vì "xin vâng" hàm ý là Maria sẽ đi làm theo ý Thiên Chúa, phần chủ động vẫn là phía con người. Mà nếu như để con người làm thì con người có làm được gì đáng kể đâu. Bàn tay yếu ớt của Cô Bé Lọ Lem làm sao nhặt lựa cho hết mấy thúng hạt đậu. Cô thôn nữ Maria làng Nadarét làm gì được để cứu độ cả thế giới loài người. Đúng hơn, Fiat là "Xin Chúa cứ làm cho tôi", chính Chúa làm chứ không phải Maria làm, phần của Maria chỉ là để cho Chúa làm, bằng chiếc đũa thần quyền năng của Ngài. Và khi chiếc đũa thần ấy vung lên, Maria cảm nghiệm "Chúa đã làm cho tôi bao điều cao cả" (Đáp ca).
Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng Maria hoàn toàn thụ động, chỉ ở yên để Chúa làm, vậy thôi. Quả thật, phần cộng tác của Mẹ không nhỏ chút nào: Người muốn một tương lai êm ả, nhưng Chúa làm cho tương lai ấy hoàn toàn đổi hướng với biết bao xáo trộn. Thử tưởng tượng một thiếu nữ mang thai trước khi về nhà chồng. Biết bao rắc rối và khổ tâm đối. Biết bao khó xử đối với gia đình, với họ nhà chồng và nhất là với người chồng sắp cưới. Để Chúa làm có nghĩa là mình không làm chủ đời mình nữa nhưng giao trọn dòng đời cho Ngài định hướng, miễn sao mọi sự đi đúng chương trình của Ngài. Dù sao, Maria vẫn tin rằng Chúa sẽ hướng đời Mẹ đến chỗ tốt đẹp: "Phận nữ tì hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc" (Đáp ca).
Chúng ta cũng là những cô bé lọ lem. Thiên Chúa có chiếc đũa thần kỳ diệu "không có gì mà Thiên Chúa không làm được". Làm thế nào để Thiên Chúa vung chiếc đũa thần ấy lên cho đời ta được biến đổi? Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ thưa lên lời Fiat: "Xin Chúa cứ làm cho con"
* 5. Xin vâng
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau:
Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.
Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích. Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kể từ đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quảng đường về, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.
*
Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh Nữ: "Kính Mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc. 1, 28). Vâng, mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành, tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa" (Lc. 1, 3). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ" (Lc. 1, 35). Như vậy, việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.
Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bảo đảm tuyệt diệu: "Vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được" (Lc. 1, 38).
Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác, liền thưa: "Xin hãy thể hiện nơi tôi theo như ngài nói" (Lc. 1, 38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.
Với "Uy quyền Đấng Tối Cao", một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát.
Với "Uy quyền Đấng Tối Cao", một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế.
Với "Uy quyền Đấng Tối Cao", một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.
Lời thưa "Xin Vâng" của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay tất cả, nhưng là tiếng "xin vâng" liên lỉ trọn kiếp người. Từ tiếng "xin vâng" đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời "xin vâng" trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.
***
Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm mầu của Chúa. Nhất là xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 6. "Xin Chúa cứ làm nơi con"
"Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Câu này chẳng gây thắc mắc gì đối với những việc Thiên Chúa đã làm trong vũ trụ và trong lịch sử: Thiên Chúa đã làm ra trời đất muôn vật bao la vô vàn vô số; Thiên Chúa đã làm bao phép lạ từ xưa tới nay v. v.
Nhưng tôi có thể áp dụng câu này vào chính bản thân tôi không? Nói cách khác, Thiên Chúa có thể làm được bất cứ điều gì nơi bản thân tôi không?
Rất nhiều khuynh hướng xấu đã đâm rễ rất sâu trong con người tôi. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng tôi đã không bứng rễ chúng được. Thiên Chúa có bứng được không?
Tôi là một kẻ tội lỗi. Thiên Chúa có thể làm cho tôi thành một vị thánh không?
Tôi là một người rất ít khả năng. Thiên Chúa có thể dùng tôi để thực hiện những dự định lớn lao của Ngài không?
Dù còn bối rối và chưa hiểu như Đức Maria ngày xưa, nhưng thôi, tôi hãy bắt chước Mẹ mà thưa lại "Xin hãy thể hiện nơi con".
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, lễ Giáng Sinh đã gần kề, hôm nay Hội thánh nêu bật Đức Maria là mẫu gương cho những người tiếp đón Đức Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây:
1. Đức Maria đã rộng lòng đón tiếp Đức Giêsu xuống thế cứu độ loài người / Chúng ta hãy cầu nguyện cho mỗi thành phần trong Hội thánh biết noi gương Đức Maria / đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của mình.
2. Đức Maria đã tìm hiểu ý muốn của Thiên Chúa rồi sẵn sàng vâng theo / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người lãnh đạo các quốc gia biết tìm hiểu chương trình cứu độ của Đức Giêsu / để dẹp bỏ mọi thành kiến và nghi kỵ đói với đạo Chúa.
3. Đức Maria đã tin rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người là nạn nhân của chia rẽ, bất công, hận thù, nghèo đói không rơi vào thất vọng / nhưng tìm được hy vọng nơi Chúa là Đấng có thể làm được tất cả.
4. Đức Maria đã cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu nhập thể cứu độ / Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em trong cộng đoàn họ đạo chúng ta / biết cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu luôn được chúng ta tiếp đón trong cuộc đời.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến với mỗi người chúng con, giúp chúng con biết đón nhận Đức Giêsu, để đem Đức Giêsu đến cho mọi người chung quanh chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
- Nên đọc Kinh nguyện Thánh Thể 4, nhấn mạnh những chỗ sau:
. (Cuối đoạn 1): Hơn nữa nhiều lần Cha đã giao ước với loài người và dùng các ngôn sứ mà dạy cho biết đợi chờ ơn cứu độ.
. (Đầu đoạn 3): Lạy Cha chí thánh, Cha quá yêu thương thế gian, đến nỗi khi tới thời viên mãn, đã sai Con Một đến cứu độ chúng con...
- Trước kinh Lạy Cha: Bài đáp ca hôm nay chứa đựng một lời Chúa hứa cho vua Đavít: "Đavít sẽ thưa với Ta: Chúa là Cha tôi". Lời hứa này chúng ta đang được thừa hưởng: chúng ta trở thành con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Trong tâm tình vui sướng được làm con Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc Rước Lễ: Chúng ta hãy đón rước Chúa vào lòng với những tâm tình sốt sắng như Đức Mẹ ngày xưa. "Này con là tôi tớ Chúa. Xin hãy thực hiện nơi con điều Chúa muốn". "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng cứu độ trần gian..."
VII. Giải tán
Chúa đã ở cùng anh chị em. Anh chị em hãy ra về và suốt tuần hãy nhớ ở cùng Chúa trong mọi nơi, mọi lúc và mọi việc anh chị em làm.
9.Trở nên dụng cụ của Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng bất cứ cách nào Ngài muốn, theo sự khôn ngoan thượng trí của Ngài. Nhưng trong công cuộc cứu độ này, Ngài không muốn hành động một mình mà muốn có sự cộng tác của con người. Chính vì vậy mà Ngài đã sai sứ thần Gabriel đến hỏi ý kiến Đức Maria trong việc làm Mẹ Đấng Cứu thế. Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài không áp đặt mà chỉ đề nghị. Ngài muốn sự đáp trả sáng suốt và tự nguyện của con người. Sau khi Đức Maria đã thưa Xin Vâng, Ngôi Hai Thiên Chúa lập tức đầu thai trong lòng Trinh nữ Maria và Maria đã trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria để trở nên dụng cụ cho Thiên Chúa. Ngày xưa Ngài đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, ngày nay Chúa vẫn còn muốn nhập thể nơi chúng ta, vì vậy chúng ta phải trở nên dụng cụ ngoan ngoãn để Chúa nhập thể nơi ta, để ban ân sủng cho ta và ta sẽ đem ban phát cho nhiều người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2 Sm 7,1.8b-11-16.
Sau khi chiến thắng được mọi quân thù, chiếm lĩnh được thành Giêrusalem, yên vị trong hoàng cung rồi, vua Đavít nhờ tiên tri Nathan thỉnh ý Chúa về việc xây cho Chúa một ngôi nhà để làm nơi cho “Khám Giao ước” trú ngụ.
Thiên Chúa đã nhờ Nathan thông báo cho Đavít biết là Ngài không cần ở trong những ngôi nhà vật chất cho dù sang trọng và vững chắc bao nhiêu đi nữa. Đáp lại tấm lòng thơm thảo của vua, Thiên Chúa muốn xây cho ông một ngôi nhà, nghĩa là sẽ làm cho triều đại ông bền vững và vinh quang muôn đời.
+ Bài đọc 2: Rm 16,25-27.
Đây là đoạn thư cuối cùng gửi cho tín hữu Rôma, trong đó thánh Phaolô dâng lời ca tụng Thiên Chúa về ơn cứu độ và nhất là đã mạc khải mầu nhiệm này, đã được giấu kín từ đời đời mà nay đã nhờ Đức Giêsu mà tỏ bầy cho muôn dân.
Thánh Phaolô còn ca tụng Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí đã sắp đặt để muôn dân được hưởng ơn cứu độ:”Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Kitô”.
+ Bài Tin mừng: Lc 1,26-38.
Thiên Chúa có thể hành động bằng mọi cách để đạt tới mục đích. Trong việc Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã muốn cho con người cộng tác: Ngài đã chọn Đức Maria để đầu thai Con Một Thiên Chúa. Tuy Thiên Chúa là Đấng vô cùng thượng trí, có thể làm mọi sự theo ý của mình, nhưng thay vì đặt Đức Maria trước một quyết định độc đoán, Chúa đã gợi cho Mẹ biết trước điều Ngài đang chờ đợi nơi Mẹ.
Qua cuộc đối thoại diễn ra giữa Đức Maria và sứ thần thiên quốc, chúng ta được biết Đức Maria đã hoàn toàn hiến thân để thi hành thánh ý Chúa. Mặc dù đã trông thấy trước những khó khăn trong việc thực hiện này, nhưng Đức Maria đã dấn thân và tự nguyện chấp nhận đề nghị này trong tiếng “Xin Vâng”. Qua tiếng Xin Vâng này, Ngôi Hai đã nhập thể trong lòng Đức Maria và chờ ngày giáng sinh.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xin vâng theo thánh ý Chúa.
I. ĐỨC MARIA ĐƯỢC THIÊN CHÚA CHỌN.
1. Con người Đức Maria.
Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và vĩ đại, nhiều khi đã dùng những phương tiện nhỏ bé, yếu đuối, hèn mọn mà làm những việc vĩ đại. Công cuộc cứu chuộc loài người là một công cuộc hết sức lớn lao mà Thiên Chúa đã dùng một phương tiện nhỏ bé thấp hèn để thực hiện, đó là Trinh Nữ Maria.
Đây là một Trinh nữ khiêm tốn, bình dân, sống trong một làng nghèo nàn xứ Galilêa gọi là Nazareth với khoảng 20 nóc nhà và 150 nhân danh. Xét theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét theo tài năng, thông minh, học vấn, sắc đẹp, địa vị xã hội... chắc hẳn Maria không có gì đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc còn những thiếu nữ đặc biệt hơn Maria nhiều. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, Maria là người “đầy ơn phúc”, được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu thế để cộng tác với Ngài trong công cuộc lớn lao vô tiền khoáng hậu này.
Thiên Chúa chọn Maria không vì lý do nào khác ngoài ý muốn riêng và theo sự tự do của Ngài (x.Rm 9,12) và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Và Ngài đã thành công trong việc chọn Maria, trong khi có những người khác được Ngài chọn đã làm “hỏng việc” của Ngài, hay đã làm Ngài không hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Saul (x.1Sm 9,17; 13, 13,40), hay tông đồ Giuđa (Mt 26,47-50)
2. Đức Maria được hỏi ý kiến.
Thánh Augustinô viết:”Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta. Nhưng khi cứu độ ta, Ngài không thể thiếu ta”. Thiên Chúa chủ động về phía Ngài, nhưng khi cứu độ, Ngài cần đến sự cộng tác của ta. Trong công cuộc cứu độ này, Thiên Chúa muốn Maria cộng tác. Đó là lời mời gọi mà sứ thần đã trao gửi nơi Maria theo chương trình của Thiên Chúa, Mẹ phải tạo điều kiện cho Ngài làm người trong thân phận của Con Ngài.
Ngài không áp đặt điều gì: Ngài chỉ đề nghị. Chính vì thế, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabriel đến hỏi ý kiến Maria về việc làm Mẹ Chúa Cứu thế mà vẫn còn đồng trinh: “Maria sẽ thụ thai một con trai và đặt tên là Giêsu”. Đứa con đó “sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu vua Đavít, tôi tớ Người. Ngài sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.
Maria thấy mình tầm thường mà được Thiên Chúa ban cho vinh dự ấy, làm Mẹ Con Thiên Chúa mà vẫn còn đồng trinh. Làm Mẹ mà vẫn còn đồng trinh! Điều ấy làm cho Maria thắc mắc. Nhưng sứ thần đã trấn an Maria:”Không có điều gì mà Thiên Chúa không làm được”. Tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, Maria đã khiêm tốn thưa với sứ thần:”Này tôi là tôi tá Chúa, xin vâng như lời thiên thần truyền”. Maria đã đáp trả bằng lời mời gọi của Thiên Chúa một cách quyết đáp và khiêm tốn. Sau tiếng “Xin Vâng” này, Maria đã trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế.
II. TIẾNG XIN VÂNG CỦA CHÚNG TA.
1. Xin Vâng nơi Mẹ và nơi ta.
Từ khi thưa “Xin Vâng”, Đức Maria đã hoàn toàn tận hiến đời mình để thực hiện thánh ý Chúa. Nơi Đức Maria cũng như nơi chúng ta, một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là biết xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Chúa, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Thiên Chúa. Đó chính là tinh thần tự hủy (kenosis)mà Đức Giêsu là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Maria.
Theo gương Đức Maria, khi được Thiên Chúa chọn, ta hãy toàn tâm toàn ý cho việc của Ngài. Nếu Thiên Chúa chọn ta là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo thánh ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là công cụ của Ngài dùng mà thôi.
Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người xử dụng. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người xử dụng. Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có khi gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của mình.
Người được chọn thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Đức Giêsu và Đức Maria - là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi – phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ.
Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn:”Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang”(Rm 8,30)…
Cách thức “làm cho nên công chính “ của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ:
”Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn”(Dt 2,10),
“Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ”(1Tm 3,10),
“Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quí hơn vàng gấp bội”(1Pr 1,7).
Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao:”Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta”(Rm 8,18).
2. Chúa mời gọi ta cộng tác với Ngài.
Thiên Chúa không chỉ thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Ngài nơi chúng ta và cho chúng ta, mà còn mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài, tham gia vào việc thực hiện kế hoạch yêu thương và cứu độ của Ngài, nơi chúng ta và nơi những người có liên hệ với chúng ta nữa. Đó chính là niềm vinh hạnh và cũng là trách nhiệm nặng nề nơi chúng ta. Vậy mỗi lần chúng ta làm bất cứ việc gì đó để kế hoạch yêu thương và cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn và cuộc sống của mình là chúng ta đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
Cũng thế, mỗi lần chúng ta làm một việc gì đó giúp người khác hiểu biết, yêu mến Thiên Chúa hoặc giúp người khác yêu thương phục vụ tha nhân là chúng ta cộng tác với Ngài trong việc thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Ngài. Công việc ấy thật bề bộn và cấp bách; vì một đàng chung quanh chúng ta còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa đón nhận Tin Mừng, chưa đón nhận bí tích Thánh tẩy; đàng khác, nơi những người đã biết và đón nhận Chúa cũng còn rất nhiều người chưa hiểu biết cho sâu sắc, chưa biết sống gắn bó mật thiết với Chúa. Đó là cánh đồng truyền giáo mênh mông đang chờ đợi chúng ta.
Ngày nay Chúa vẫn còn muốn đầu thai trong lòng Đức Maria và chúng ta. Dĩ nhiên Ngài không còn đầu thai nữa như xưa ở trong lòng trinh nữ Maria, nhưng Ngài vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua Bí tích Thánh Thể đã làm cho chúng ta trở nên cao qúi trong việc cộng tác với Ngài.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp, Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến những biến cố xẩy ra hằng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho nước Ngài được lan rộng; và như vậy, Thiên Chúa lại nhập thể ở giữa chúng ta.
3. Hãy trở nên dụng cụ của Chúa.
Khi nói đến dụng cụ là nói đến một đồ vật để con người xử dụng theo ý mình. Dụng cụ chỉ biết phục tùng theo ý muốn người xử dụng. Không bao giờ dụng cụ có thể nói với người xử dụng tại sao lại dùng vào việc nọ việc kia, mà chỉ biết hoàn toàn vâng theo người xử dụng, có khi người xử dụng phế thải cả dụng cụ, thì chính dụng cụ ấy cũng không có quyền phản đối.
Chúng ta là dụng cụ của Chúa, một thứ dụng cụ bất toàn hoặc vô dụng, cũng như người đầy tớ nghèo hèn (x. Lc 17,7-10) không thể tự mình làm được việc gì như Chúa phán:”Sine me nihil potestis facere”: Không có Thầy các con không thể làm gì được, nhưng sẽ trở nên hữu dụng dưới bàn tay khôn khéo của Chúa.
Chúng ta cũng có thể tìm được hình ảnh này ngay trong văn chương bình dân của nước ta, trong ca dao tục ngữ, một hình ảnh rất quen thuộc đối với người dân quê:
Ai làm cho cải tôi ngồng,
Cho dưa tôi khú, cho chồng tôi chê.
Chồng chê thì mặc chồng chê,
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.
(Ca dao)
Ở miền quê, ai mà không biết ăn dưa cải chua? Đây là món ăn quen thuộc trong bữa ăn của người bình dân, một món ăn hợp với khẩu vị, nhất là khi ăn với thịt mỡ. Món dưa cải chua ngon là phải có màu vàng, dòn và thơm. Nhưng một khi dưa bị “khú” thì không ăn được nữa. Dưa khú có màu đen xám, không chua và nhạt, đôi khi có hương vị ung ủng. Người ta không ăn dưa khú, chỉ còn cách bỏ đi. Tuy thế, người dân quê lại biết biến “dưa khú” đó thành một món ăn khác, ăn vào vẫn ngon miệng, đó là nấu với cá trê. Vì thế, người ta mới mách bảo kinh nghiệm cho người khác trong việc nấu ăn:”dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ”.
Chúng ta hãy trở nên dụng cụ ngoan ngoãn của Chúa để lúc nào cũng chỉ biết “Xin Vâng”. Theo gương Mẹ Maria, trước khi nói lời Xin Vâng, Mẹ đã trải qua một hành trình đức tin. Xin Vâng không có nghĩa là thấy rõ con đường trước mặt mà Chúa muốn mình đi. Xin Vâng là mềm mại, buông mình cho Thiên Chúa dẫn đi, yên tâm không phải mình làm chủ tương lai, nhưng vì tương lai của mình nằm trong tay Chúa. Xin Vâng không phải vì mọi sự đều sáng sủa và trơn tru, nhưng Xin Vâng ngay giữa đêm tối gập ghềnh, là chấp nhận để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ.
Truyện: Thánh Gioan Vianney.
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Linh mục. Ngày kia, thừa lệnh Giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội nghiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn:
- Vianney, anh dốt như lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:
- Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng có một cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao (Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr 42).
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Thiên Chúa tự do chọn lựa mỗi người vào chương trình của Ngài. Ngài chọn chúng ta không vì tài năng, đức độ của chúng ta, Ngài quyền năng đến độ có thể biến đổi những con người hèn mọn thành những bậc siêu phàm. Điều quan trọng là chính sự đáp trả quảng đại của chúng ta đối với chương trình của Ngài. Thiên Chúa luôn làm được phép lạ, nếu con người biết cộng tác với Ngài, ngay cả bằng với sự dốt nát, ngu dại của mình.
Ngày xưa Thiên Chúa đã nhập thể nơi cung lòng Trinh nữ Maria, ngày nay Thiên Chúa vẫn còn muốn nhập thể nơi chúng ta, hãy trở nên dụng cụ ngoan ngoãn cho Chúa nhập thể. Ngài dùng Lời Thánh kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người sống như Chúa: và như vậy, Ngài đang muốn nhập thể để tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xẩy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn.
Điều cần hơn hết là chúng ta phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thế với Ngài. Ta hãy sẵn sàng đem tinh thần Phúc âm vào thế giới để đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa, này con đây, với tất cả những yếu hèn, khiếm khuyết của con, nhưng con tin rằng trong bàn tay nhào nặn của Chúa, tất cả đều có giá trị. Xin cho con luôn biết cởi mở đón nhận ơn Chúa, và phó thác cho chương trình của Chúa, như Mẹ Maria đã thưa lời “Xin Vâng”, đáp trả lại tình yêu của Chúa và phó thác hoàn toàn cho chương trình của Ngài. Amen.
10.Một cuộc hòa đàm lý tưởng--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Truyền tin là nhan đề của bài Phúc Âm hôm nay. Đây là một Tin mừng muôn thuở. Tin mừng này đã được thực hiện qua một cuộc hòa đàm chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cuộc hòa đàm diễn ra giữa hai nhân vật đại diện Thiên Chúa và loài người. Đại diện Thiên Chúa là sứ thần Gabriel, đại diện loài người là trinh nữ Maria.
Khung cảnh cuộc hòa đàm, không phải trong cung điện vua chúa, lầu các sang trọng, mà trong căn nhà thanh bạch nghèo nàn nơi vùng sâu thôn dã vô danh Nazareth. Khung cảnh thật giản dị, quê mùa, thô sơ, nhưng Thiên Chúa đã chọn làm khởi điểm lịch sử cứu độ vĩ đại.
“Đấng toàn năng đã làm cho nữ tỳ hèn mọn biết bao điều cao cả” (Lc. 1, 48-49).
Maria dù là nữ tỳ nhưng sứ thần đến mở đầu cuộc hòa đàm, không phải với thái độ ông chủ truyền lệnh. Ở đây, sứ thần hết sức khiêm cung, kính cẩn, lễ phép với lời chào: “Kính mừng Đấng đầy ân phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Khác xa lời cậu thanh niên chào cô thanh nữ. Tử tế lắm, cậu chỉ nói: Chào cô, chào em. Một kiểu chào cộc lốc, vô vị. Thường thì cậu kêu xách mé: Hoa ơi! Huệ ơi! Dung ơi! eo ơi!
Sứ thần rất trân trọng thôn nữ Maria: Vừa chúc tụng kính phục con người thánh thiện khả ái, vừa tôn vinh chức vụ cao sang của Bà được Thiên Chúa ở cùng.
Thôn nữ Maria sợ sự tôn vinh bất thường ấy, và tự nhủ lời chào ấy có ý nghĩa gì? Quả là sự tỉnh thức thận trọng của một thục nữ trinh trong, sáng ngời, đầy khiêm nhu, thùy mị.
Sứ thần đã nhận ra ý từ đó và giải thích thật rõ ràng cặn kẽ, trong suốt: “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, Bà rất đẹp lòng Thiên Chúa, Thiên Chúa ban cho Bà sinh con, đặt tên là Giêsu, Người là Con Đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít …”.
Nhưng, đối với Maria, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” hơn cả ngai vàng vua Đavít, vì Maria đã tận hiến suốt đời đồng trinh cho Thiên Chúa, nên Maria từ tốn đáp lễ: Làm sao có chuyện ấy được, thưa Ngài, vì tôi đã khấn trọn đời đồng trinh.
Sứ thần liền minh giải: “Việc đó rất chí thánh, do Chúa Thánh Thần với quyền phép Đấng tối cao, sẽ soi bóng trên Bà, nên Hài nhi khi Bà sinh ra là Đấng thánh, là Con Thiên Chúa..”
Nhận ra đó là việc toàn năng của Thiên Chúa hằng gìn giữ Bà nguyên vẹn đồng trinh, Maria đã sấp mình tôn thờ Thiên Chúa:” Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hết lòng vâng theo thánh ý Chúa như lời sứ thần truyền dạy”.
Sứ thần đã thành công trong sứ mạng vô cùng trọng đại. Maria đã hoàn toàn làm đẹp lòng Thiên Chúa, trọn vẹn hiến dâng đồng trinh với chức vụ thiên mẫu lạ lùng.
Đây thật là một cuộc hòa đàm gương mẫu cho muôn đời. Gương mẫu vì cuộc hòa đàm đã diễn ra đúng tinh thần đối thoại và hòa giải.
Đối thoại cần thiết phải có ba tính chất đặc biệt:
Thứ nhất, hai bên rất khiêm tốn, tôn trọng lẫn nhau. Thứ hai, hai bên thưa đáp trình bày ý tứ của mình rất trong sáng, rất đơn sơ và chân thành, mình nghĩ thế nào, lập trường làm sao, cần những điều gì mới đưa đến thành công. Thứ ba, hai bên đã nhận ra những ân huệ rất ích chung, rất thánh thiện mà Thiên Chúa muốn thực hiện.
Đây cũng là một cuộc hòa giải hoàn hảo:
Thứ nhất, giải quyết được những nỗi khó khăn vô cùng phức tạp, loài người không thể gỡ mối tơ vò, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới giải quyết được vấn đề: vừa đồng trinh, vừa sinh con, con Bà vừa là người, vừa là Thiên Chúa. Thứ hai, giải quyết được chương trình cứu độ nhân loại mà Thiên Chúa đã bao lần hòa giải thất bại với bao nhiêu nhân vật từ Ađam Evà cho đến nay. Nay Thiên Chúa mới thực hiện được chương trình thương yêu của Người nơi Đức Trinh nữ Maria.
Thiên Chúa đã giao ước với Ađam Evà, nhưng ông bà đã trở mặt theo con rắn satan. Thiên Chúa đã giao ước với Noe, nhưng con cháu đã xây tháp Babel ngăn chặn Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giao ước chọn lựa Abraham làm tổ phụ dân Người, nhưng con cái Giacob hằn thù chia rẽ, bán Giuse làm nô lệ cho con buôn Ai cập. Thiên Chúa đã giao ước với Môisen đưa dân về quê cha đất tổ để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng dân Israel đã chiều theo lối sống thờ thần Babylon. Giờ đây, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất là ký kết với Đức Maria, một đầy tớ trung tín và khôn ngoan, luôn luôn làm theo ý chủ mình là Thiên Chúa, một tôi tớ dâng hiến trọn vẹn toàn diện đời mình từ trong bào thai cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã toàn quyền sử dụng Maria theo thánh ý Người. Và Con Thiên Chúa đã xuống cung lòng Maria để ở cùng loài người cho đến tận thế.
Lạy Chúa, Chúa đã thương ký kết với mỗi người chúng con trong bí tích Rửa tội. Chúng con đã tuyên thề làm con hiếu thảo của Chúa, xin cho chúng con biết sống theo gương Đức Trinh nữ Maria, luôn luôn biết xin vâng theo thánh ý Chúa, để Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con, đến ở và hoạt động trong chúng con cho muôn dân được sống vinh phúc trong đại gia đình của Chúa, dưới cánh tay dịu hiền của Đức Nữ Trinh Maria. Amen.
11.Dọn lòng đón nhận Chúa đến như Mẹ Maria--Lm. Đan Vinh
1. KHAO KHÁT TÌM THÁNH Ý CHÚA:
+ Sứ thần vào nhà Trinh Nữ và chào: "Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà. Nghe lời chào ấy, Bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì" (Lc 1,28-29). Đứng trước một biến cố lớn lao bất ngờ, Maria đã bối rối. Nhưng sự bối rối ấy không do hoang mang nghi ngờ như Da-ca-ri-a, mà do tâm hồn luôn khao khát đi tìm Thánh Ý Chúa.
+ Về phần chúng ta thì thế nào? Đối diện với những biến cố xảy ra trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta chỉ biết than van kêu trách Chúa đã không thương mình, mà không thử tìm xem Chúa múôn nói gì với chúng ta qua những biến cố ấy. Chúa Giêsu vẫn thường đi qua cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta đã không gặp được Ngài vì không muốn gặp. Nhiều lần Chúa đã đứng ngoài cửa tâm hồn của chúng ta và gõ, nhưng chúng ta đã không nghe thấy nên không mở ra đón rước Ngài.
2. XIN VÂNG Ý CHÚA:
+ Mẹ Maria luôn sống Xin Vâng trong cả cuộc đời. Khi sứ thần truyền tin, dù chưa hiểu rõ mọi điều, nhưng Mẹ đã xin vâng. Rồi trong các biến cố sau đó trong cuộc đời Chúa Giêsu, Mẹ luôn ghi nhớ mọi điều xảy ra và suy đi nghĩ lại trong lòng (x. Lc 2,19). Mẹ quyết tâm làm trọn sứ mệnh được Chúa trao cho. Lời thưa Xin Vâng quan trọng nhất là khi đứng kề bên cây thập giá trong cuộc khổ nạn của Con, Mẹ chứng kiến cảnh Chúa Giêsu bị quân lính cầm lưỡi đòng đâm thấu cạnh sườn (x. Ga 19,25-34), ứng nghiệm lời ông già Si-mê-on đã tiên báo: "Này đây một lưỡi gươm sắt sẽ đâm thâu tâm hồn Bà" (x Lc 2,35)
+ Lời thưa "Xin Vâng" cũng phải là lời của các tín hữu chúng ta trong mọi lúc mọi nơi: Khi gặp may lành ta xin vâng và cảm tạ hồng ân Chúa ban. Nhưng ngay cả những lúc gặp gian nan thử thách, chúng ta cũng vẫn phải cảm tạ Ngài và "Xin Vâng" như Mẹ Maria, vì biết rằng: mọi sự Chúa để xảy ra cho chúng ta đều tốt đẹp và hữu ích cho phần rỗi chúng ta: "Tất cả đều là hồng ân" (x. 1 C 15,10). Mỗi khi gặp điều gì trái ý, chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu để cầu nguyện như sau: "Cha ơi, nếu được, thì xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha" (Mt 26,39)
3. TIN VÀO THIÊN CHÚA QUYỀN NĂNG:
+ ĐỨC TIN CỦA FULTON OURSLER: Vào một buổi chiều đông tiết trời lạnh giá, FULTON, một người đã mất Đức Tin và không đến nhà thờ nhiều năm, giờ đây đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Khi đi qua đại lộ có Nhà Thờ Chánh Tòa của Thành phố Nữu Ước. Tự nhiên ông thấy như có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông đi vào trong Nhà Thờ và đến quì trước tương Đức mẹ Maria đặt tại gian nhà nguyện bên hông Nhà Thờ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Fulton mở miệng ra cầu nguyện như sau: " Lạy Mẹ Maria, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ bây giờ để tiếp tục bài bác chế diễu các việc con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng lúc này con cảm thấy tâm hồn con thật bình an, dù đang gặp nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm Đức Tin". Ngay lúc đó, Fulton cảm thấy có một điều gì đó thật kỳ diệu xảy ra nơi ông và biến đổi ông trở thành một người mới. Ông đã có lại Đức Tin và trở thành một chiến sĩ nhiệt thành truyền bá Đức Tin. Cũng từ ngày đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Maria để làm chứng cho Chúa Giêsu bằng một cuộc sống khiêm nhường cậy trông phó thác và đầy tinh thần vị tha bác ái.
+ Thực ra, việc biến đổi những người vô tín để họ nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, cũng như việc đẩy lùi và xóa bỏ các tệ nạn xã hội như: Sì-ke ma-túy, cờ bạc đĩ điếm, lừa đảo cướp giựt... qủa thật là điều khó lòng thực hiện được chỉ với khả năng giới hạn của chúng ta, nhưng không phải là điều khó làm đối với Thiên Chúa, vì: "Không có gì mà Chúa không làm được" (Lc 1,37). Để việc tông đồ truyền giáo, là một việc vượt quá khả năng tự nhiên của chúng ta đạt kết quả, thì chúng ta cần phải liên kết với Chúa Giêsu và nhờ quyền năng của Ngài trợ giúp như Ngài đã nói: "Thầy là cây nho, các con là ngành. Ngành nào kết hiệp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái... Vì không có Thầy, các con chẳng làm được gì" (Ga 15,5).
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa,
chỉ còn ít ngày nữa là tới đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Chung quanh chúng con, người người đang tấp nập mua sắm và trang hoàng nhà cửa để chuẩn bị mừng lễ. Nhưng có lẽ điều Chúa muốn chúng con phải làm lúc này là chuẩn bị tâm hồn bên trong, làm cho lòng trí chúng con trở thành một cái hang đá trong sạch và đầy tràn ánh sáng của Chúa, xứng đáng đón rước Chúa đến ngự trong Đêm Giáng Sinh.
Xin Chúa giúp chúng con thật lòng sám hối tội lỗi, quyết tâm làm những việc tốt là khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhất là cho chúng con biết lưu tâm chia sẻ tình thương cho những người nghèo khổ đáng thương như: các cụ già cô đơn không nơi nuơng tựa, các trẻ khiếm thị khuyết tật, các trẻ mồ côi phải lang thang kiếm sống nơi đầu đường xó chợ, và hết những bệnh nhân yếu đau liệt giường mà không có tiền để chữa trị... nhờ đó chúng con xứng đáng được đón rước Chúa đến và ban dồi dào hồng ân cho chúng con trong Mùa Giáng Sinh này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria,
mỗi lần gặp phải sự khó khăn hoạn nạn, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn như người ta thường nói: "Hữu sự vái tứ phương", chúng con lại đi tìm sự trợ giúp nơi những con người hành nghề mê tín dị đoan như: thầy bói, cầu cơ, đồng cốt... đang khi lẽ ra chúng con phải một lòng cây trông vào quyền năng của Chúa, chạy đến ẩn mình dưới sự phù trì che chở của Chúa và xin ơn Chúa soi sáng để biết mình phải làm gì theo Thánh Ý Chúa? Đồng thời, phải biết nhờ Mẹ Maria và các thánh cầu bầu, noi gương Mẹ đã làm để giúp đôi tân hôn tại tiệc cưới Ca-na xưa.
Vậy xin Mẹ giúp chúng con biết lắng nghe lời Chúa phán, tìm biết Thánh Ý Chúa qua mỗi biến cố cuộc sống, và sẵn sàng mở lòng để thưa "xin vâng" như Mẹ đã làm xưa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
12.Thiên Chúa tìm cho mình một ngôi nhà--Lm. G. Nguyễn Cao Luật OP.
Tin Mừng cho người biết khiêm tốn
Ai ai cũng mong đón nhận một tin mừng: một thanh niên thành đạt trong cuộc thi hay đám cưới của một người bạn thân... Một đứa trẻ sắp ra đời cũng là một tin mừng -có lẽ là tin mừng lớn lao nhất, đúng nghĩa nhất- bởi vì trước hết, đó là một sự sống mới phát sinh từ tình yêu. Tuy vậy, một tin mừng không có nghĩa là không có lo âu, không có nghĩa là không có những thắc mắc về tương lai.
Biến cố truyền tin cho Đức Maria đúng là một tin mừng, một Tin Mừng đích thực. Với biến cố này, Đức Maria sẽ sinh hạ một người con, nhưng cũng là sinh hạ Con Người, Con Thiên Chúa, đổng thời cũng là sinh hạ một thế giới mới. Nơi người con này, sự chết sẽ vĩnh viễn bị tiêu diệt. Trước lời loan báo như thế, thái độ đáp trả của Đức Maria diễn ra theo ba giai đoạn: trước tiên, khi nghe lời chào của sứ thần, Mẹ hoảng sợ; sau đó, rất cụ thể và với tất cả ý ngay lành, Mẹ lo lắng vì "làm sao có chuyện ấy được"; cuối cùng, sau khi nghe lời giải thích của sứ thần, Mẹ thanh thản nhường chỗ cho Lời của Thiên Chúa, sẵn sàng chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa. Trong khi chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa, Đức Maria cũng tràn đầy vui mừng bởi vì Mẹ nhận biết rằng Thiên Chúa yêu mến Mẹ. Mẹ rất hãnh diện khi biết rằng mình là con cái Thiên Chúa, được Người tuyển chọn để thi hành một việc rất cao cả.
Quả thế, Đức Maria được mời gọi cộng tác vào việc hạ sinh Đức Giêsu. Đó là việc phục vụ tuyệt vời nhất, nhưng đồng thời cũng là công việc đau thương nhất của tất cả mọi người phụ nữ. Còn gì cao quý và hạnh phúc cho người mẹ hơn là việc hạ sinh một người con, một sinh vật hình thành từ chính máu thịt của mình. Nhưng cũng có gì đau thương hơn đối với người mẹ trong việc sinh con, không phải chỉ là những đau đớn thể lý, nhưng là thái độ không chiếm hữu người con, để cho người con ấy hành động như một con người, và tự mình sống đời của mình. Không ít người phụ nữ cảm thấy khó có thể chấp nhận được tình trạng đau thương này. Riêng với Đức Maria, khi chấp nhận cưu mang Đức Giêsu, Mẹ cũng đã chấp nhận việc Đức Giêsu thoát khỏi đôi tay của mình. Toàn bộ cuộc đời của Mẹ, từ sau biến cố này, luôn là một sự dấn thân, một cuộc phiêu lưu thực thụ trong việc từ bỏ mình, để cho chính người con mình đã sinh ra luôn hướng về việc thi hành thánh ý của Thiên Chúa (x. Lc 2,48-49). Bởi vì Mẹ biết rằng, người con Mẹ đã cưu mang trong cung lòng trinh khiết của mình là do Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, trong cuộc đời của Đức Maria, vai trò làm mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa, vẫn có tầm quan trọng thứ yếu. Điều quan trọng hơn hết, chính là lắng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa.
Ngôi nhà chính là một thái độ
Điều đáng lưu ý trong trình thuật truyền tin, đó là Đức Maria đã không bao giờ dám mơ tưởng mình sẽ nhận được một hồng ân lớn lao; nhưng khi được đề nghị, Mẹ đã ưng thuận. Nơi Đức Maria, niềm hy vọng của quân vương Đa-vít được thành tựu. Ông từng ước mong xây dựng cho Thiên Chúa một ngôi nhà, nhưng ông đã không được diễm phúc ấy. Đức Maria quả là ngôi nhà mà vua Đa-vít hằng mơ ước, bởi vì Thiên Chúa đã đích thân đến xây dựng nơi ở của Người giữa nhân loại. Chính Thiên Chúa xây dựng cho mình chứ không phải ai khác. Ngôi nhà ấy là một con người sống động, thật khiêm tốn chứ không phải là căn nhà uy nghiêm được xây bằng gỗ đá.
Đức Giêsu chính là Đền Thờ của Thiên Chúa. Người đã đến trong cung lòng Đức Maria. Về phần mình, Đức Maria chưa bao giờ nghĩ đến một điều như thế, và cũng chẳng bao giờ tìm cách xây dựng bằng nỗ lực của mình.
Như thế, một bên, chương trình của vua Đa-vít vẫn còn nằm trong ý tưởng, trong ước mơ, (mơ hồ về cả mục đích: mong muốn tôn vinh Thiên Chúa, điều ấy có; nhưng đồng thời cũng là khát vọng muốn tôn phong vương quyền của mình, muốn chiếm hữu Thiên Chúa. Một bên, Đức Maria chỉ có một ước mơ duy nhất là dâng hiến cuộc sống của mình cho Thiên Chúa (lời khấn trinh khiết là một dấu chỉ), và không tìm cách chiếm hữu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã thực hiện những điều kỳ diệu: Người đã đến xây dựng ngôi nhà cho mình.
Quả thế, tính cách cao cả nhất trong con người Đức Maria, tính cách làm cho Mẹ trở thành phần tử ưu việt của Ít-ra-en, tính cách làm cho Mẹ trở nên thánh thiện tuyệt vời, đó là Mẹ hoàn toàn thanh thản và sẵn sàng. Thái độ này đã được khởi đầu với lời khấn trinh khiết và ý muốn duy trì nếp sống này mãi mãi, cả khi nghe lời loan báo của sứ thần. Thế nhưng, cũng chính thái độ này làm bật lên tiếng kêu: "Này tôi là Nữ Tỳ của Thiên Chúa". Đức Maria đã từ bỏ một điều tốt đẹp để nhận lấy điều tốt đẹp hơn; đã từ bỏ ý định cao cả của mình để đón nhận điều cao cả nhất là chính Thiên Chúa, là hoàn toàn phục vụ Lời.
Tuy nhiên, Đức Maria chỉ là điểm để Thiên Chúa đi qua. Mẹ hạ sinh Đấng Cứu Thế; nhưng bởi vì là Mẹ Đức Giêsu, nên Mẹ phải để Người ra đi. Người Con của Mẹ không phải là của riêng Mẹ. Người là Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa. Toàn bộ phần kế tiếp của Tin Mừng Lu-ca sẽ nhấn mạnh chi tiết này. Đặc ân của Mẹ, chính là thái độ từ bỏ, để cho Người Con thực hiện chương trình của Thiên Chúa, và Mẹ đã đi theo Người Con ấy đến tận cái chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn đang tìm một ngôi nhà
Đọc đi đọc lại bản văn này, hẳn chúng ta sẽ cảm thấy bị thối thúc đặt mình vào vai trò của Đức Maria và suy tưởng những điều chúng ta phải làm.
Một em bé gái đã đặt câu hỏi với người nói cho em về Đức Maria: Tại sao lại là Mẹ mà không phải là tôi? Người kể chuyện đã đặt câu hỏi khác với em: Tại sao lại là tôi chứ không phải ai khác?
Mỗi chúng ta có thể nói như thế được không? Có thể được, bởi vì chúng ta biết rằng, mỗi lần Đức Ki-tô thâm nhập vào cuộc đời chúng ta, thì đó là một cuộc truyền tin mới, một lễ No-en mới. Và chúng ta hiểu rằng, đó là một hồng ân, một hồng ân đặc biệt Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta.
Bởi vì, như Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Maria, Người cũng muốn đến cư ngụ trong mỗi chúng ta, Người vẫn mong muốn bắt đầu lại nơi mỗi người cuộc phiêu lưu trong cái chết và phục sinh.
Theo nhãn giới này, câu trả lời của Đức Maria quả là một gương mẫu cho sự đáp ứng của con người trước Thiên Chúa, và qua đó, cũng cho thấy khoảng cách giữa chúng ta với gương mẫu này.
Trước lời chào của sứ thần, Đức Maria đã bối rối. Còn chúng ta, chúng ta lại thường điếc, không nghe thấy.
Khi nghe loan báo Tin Mừng, Đức Maria nói "Làm sao...". Còn chúng ta, chúng ta đặt câu hỏi "tại sao?"
Và khi Đức Maria thưa "Xin vâng", thì chúng ta lại tranh luận về những từ ngữ trong bản giao ước với Thiên Chúa.
Lời thưa "Xin vâng" của Đức Maria hoàn toàn chìm sâu trong tình yêu và tin tưởng. Tương lai sẽ ra sao, không cần biết! Thiên Chúa là Đấng tín trung, thế là đủ! Còn chúng ta, chúng ta lại chẳng mau mắn nắm lấy trong tay này điều chúng ta vừa cố gắng bỏ ở tay kia đó sao? Cuối cùng, truyền tin cho Đức Maria thì cũng là truyền tin cho cả nhân loại, cho con người trọn vẹn. Đức Maria đã đón nhận Tin Mừng, và Tin Mừng đã không tránh cho Mẹ những đớn đau, những vất vả. Còn chúng ta, chúng ta đón nhận như thế nào? Có phải Đức Giêsu luôn là Tin Mừng cho chúng ta không? Người vẫn đang đến và đang cần một ngôi nhà.
13.Xin vâng--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
Có một người kia đã nói: "Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen".
Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ ấy. Đó chính là câu truyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gáp-ri-en; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gáp-ri-en và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói".
Tiếng " Xin vâng" vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó, Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta: Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức Mẹ.
Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẩu đối thoại: từ một mẩu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẩu đối thoại giữa con rắn và bà E-và trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẩu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẩu đối thoại giữa sứ thần Gáp-ri-en và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những gì? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. Còn sứ thần Gáp-ri-en đề nghị: một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà E-và ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa "Xin vâng" và Ngôi Lời đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học: mầu nhiệm nhập thể, Con Đức Mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự "Xin vâng" của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu " Xin vâng thánh ý Chúa". Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là "Con đến để làm theo ý Cha". Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là "Vâng theo thánh ý Chúa", thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã chuẩn bị một lễ Giáng Sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh với tâm tình như Mẹ.
14.Mầu nhiệm truyền tin--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng OP.
Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đưa Đức trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.
Nhân vật được Thiên Chúa sai đi là sứ thần Gáp-ri-en, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna, thuộc dòng họ vua Đavít. Sứ thần báo cho Maria một tin rất trọng đại: Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng vì đã khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có ý nghĩa thế nào: làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và làm mẹ được? vì thế, Maria hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?”. Sứ thần cho biết đây không phải là trường hợp bình thường bởi loài người nhưng bởi Chúa Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn còn đồng trinh và cô sẽ sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn còn lơ lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ đã hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đã hoàn tất.
Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đã can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt mình vào vai trò của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do Thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta: “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” thì phụ nữ ở Do Thái còn “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của mình là bị kết tội giao du bất chính, ngoại tình và bị ném đá cho chết.
Đàng khác, Đức Mẹ sống trong làng Na-da-rét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đã nảy sinh trong đầu Đức Mẹ: làm thế nào để giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới? Làm thế nào để giải thích cho những vị lãnh đạo tôn giáo khắt khe trong làng? Nhưng tình yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đã thắng, Đức Mẹ đã chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực vậy, vì yêu Chúa, Đức Mẹ bằng lòng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay cả cái chết nữa. Cũng thế, vì yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đình, bởi vì lúc sứ thần đến truyền tin thì Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này thì việc cưới xin làm sao thành được nữa, nhưng Đức Mẹ đã bằng lòng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó thác mọi sự cho Chúa. Chính vì thế Thiên Chúa đã lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ, đây cũng là bài học cho chúng ta.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Tóm lại, mỗi khi gặp chuyện gì đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng” để giữ vững tinh thần và thêm niềm tin vào Chúa và xin Đức Mẹ trợ giúp: “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Mẹ ơi, đường đi phủ đầy bóng tối, bẫy chông giăng tràn muôn lối. Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời.
Xin Chúa cho chúng ta, dù làm gì, chúng ta luôn biết làm theo thánh ý Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa.
15.Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
Nếu cần phải chuẩn bị một món quà để trao ban cho người mà mình thương mến hay tặng cho một vị khách đặc biệt nào đó, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng sẽ phải cân nhắc, suy tính, lựa chọn để có quyết định nên trao tặng món quà mà thực sự có ý nghĩa và giá trị, không những thế món quà này còn phải làm cho người nhận cảm thấy vui, hạnh phúc và được trân quý. Thiên Chúa hôm nay cũng đang trao tặng cho nhân loại một món quà vô giá, Ngài đang mong muốn mỗi một người chúng ta đều có thể đón nhận được quà tặng này, nên Ngài đã và đang chuẩn bị một cách chu đáo. Thật vậy, trước cung cách, hành động trao ban của Thiên Chúa, chúng ta chỉ biết tri ân cảm tạ, hân hoan vui sướng và khiêm tốn mở lòng để đón nhận.
Tin mừng theo Thánh Luca hôm nay đã diễn tả và minh chứng cho chúng ta biết cách thức chuẩn bị quà tặng có một không hai của Thiên Chúa; đồng thời, Lời Chúa cũng soi sáng và mời gọi chúng ta hãy noi theo mẫu gương, cung cách đón nhận quà tặng của Mẹ Maria. Vì qua thái độ, hành động đón nhận tuyệt vời này, chính Mẹ cũng sẽ là Người trao ban quà tặng cao quý này cho chúng ta.
Cách thức chuẩn bị quà tặng của Chúa: Ngài đã sai Thiên thần đến để truyền tin, báo cho Maria biết rằng, Mẹ là người đã được Thiên Chúa sủng ái, tuyển chọn để cho Con Thiên Chúa được mặc lấy xác phàm, được giáng sinh để yêu thương và cứu độ nhân loại. “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ.” Maria là Người tuyệt hảo mà Thiên Chúa chọn, là Đấng đầy tràn ơn phước, không phải chỉ từ giây phút truyền tin này, nhưng ngay từ ban đầu, khi được làm người, Maria đã được Chúa thánh hiến, ban ơn chúc phúc với cách thức đặc biệt, không một vết nhơ và tỳ ố. Sự tuyển chọn và chuẩn bị này của Thiên Chúa quả là cả một hành trình trong công cuộc thực hiện lời hứa ban ơn cứu độ. Đứng trước ơn ban cao quý đó, Maria đã làm gì?
Thật tuyệt vời, với mẫu gương, cung cách đón nhận quà tặng của Mẹ Maria: Khi Thiên thần thưa với Mẹ “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu.” Đức Maria với bản tính con người, Mẹ cũng “bối rối” trước sự chuẩn bị của Thiên Chúa khi muốn ban tặng ơn cao quý riêng này cho Mẹ; hay đúng hơn Maria đã băn khoăn vì biết sức của bản thân mình, tôi không thể làm được. “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?” Maria đã ý thức được về chính con người cũng như hoàn cảnh thực tại của mình, vì mình là người nữ đã đính hôn với Giuse; không những thế Mẹ biết rằng cùng với việc chấp nhận, biết bao nhiêu hệ lụy, khó khăn và thử thách khi Mẹ sẽ mang thai và hạ sinh Chúa Giêsu. Do đó, chúng ta mới thấy được điều cao đẹp, trân quý nơi cung cách mà Mẹ đón nhận quà tặng ơn phúc này từ Chúa.
Đứng trước sự chuẩn bị và can thiệp này của Thiên Chúa, nếu là chúng ta, thì chuyện gì sẽ xảy ra: tôi sẽ rất hoang mang, lo sợ, tôi phải điều tra, tìm hiểu cho thật kỹ càng về lý do và nguyên nhân? hay là tôi nên rút lui, thoái thác khi thấy khó khăn và thử thách này ngoài sức của tôi? Thưa ACE, dẫu có băn khoăn, dẫu biết được giới hạn của sức mình là không thể, nhưng sau khi được Thiên sứ giải thích: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa… vì không có việc gì mà Chúa không làm được.” Maria đã khiêm tốn đón nhận món quà mà Thiên Chúa ký gởi, trao tặng với lòng tin, hơn thế nữa, Mẹ đã chấp nhận nhận ơn gọi, sứ vụ này trong ân sủng mà Thiên Chúa đã thương ủy thác cho mình nên Mẹ đã thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Đây thực sự là một cung cách đón nhận với lòng tin tưởng tuyệt đối, một thái độ khiêm tốn và vâng phục theo ý Chúa, vì Mẹ đã tin rằng, một khi việc Chúa muốn làm, thì mọi sự đều là tốt lành và ơn thánh.
Tiếng xin vâng của Mẹ Maria cũng chính là lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy noi gương Mẹ để đáp trả và sống xứng hợp hơn với ơn thánh mà Chúa đang chuẩn bị để trao ban cho chúng ta. Nhưng thưa ACE, khi chúng ta thưa xin vâng và sống theo ý Chúa như Mẹ, liệu chúng ta có bị đánh mất đi sự tự do hay chúng ta có đủ sức để thực hiện chăng, vì chúng ta chỉ là những con người yếu đuối, tội lỗi chứ không phải tinh tuyền, tràn đầy phúc đức như Maria. Chúa luôn tôn trọng sự tự do của mỗi người, trước quà tặng ơn ban cao quý này của Chúa, chúng ta sẽ đáp trả ra sao để chúng ta được trở nên người được Chúa chúc phúc là tùy thuộc vào cung cách đáp trả, thái độ đón nhận của chúng ta.
Xin Mẹ Maria cầu cùng Chúa giúp chúng con luôn biết khôn ngoan, khiêm tốn, trong việc lựa chọn và quyết định để hoàn toàn xin vâng như Mẹ, hầu đón nhận được quà tặng ơn phúc của Chúa. Amen.
16."Thiên Chúa ở cùng chúng ta”--Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ dân Chúa! Mỗi khi Giáng Sinh về, từng giáo xứ, nhà nhà bắt đầu dành thời giờ làm hang đá. Dù hang đá có hoành tráng hay đơn sơ, có lấp lánh ánh đèn bừng sáng hay chỉ lung linh huyền ảo, có to lớn hay nhỏ bé đi chăng nữa, thì không thể thiếu bộ tượng Thánh Gia Thất: Chúa Giê-su Hài Đồng nằm giang tay, Mẹ Maria và Thánh Cả Giu-se cung kính bái quỳ bên Con Chúa. Ngoài ra, đâu đó nơi hang đá có một dòng chữ “Em-ma-nu-el - Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nữa!
Chắc hẳn, trong mỗi chúng ta đều nghe đến và hiểu dòng chữ này, đặc biệt khi chờ trông, dọn lòng đón Chúa Hài Nhi giáng trần cứu chuộc nhân loại. Danh xưng “Em-ma-nu-el - Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không những xuất hiện trong Tân Ước mà đã được nhắc tới trong Cựu Ước khi nói đến một vị Thiên Chúa có tính nhân vị, hằng hữu và luôn ở cùng với Dân của Ngài. Tuy nhiên, danh xưng này được cảm nhận rõ rệt, cụ thể qua Con Một Thiên Chúa được sinh hạ bởi một người phụ nữ vẹn tuyền khiết trinh Ma-ri-a tại Bê-lem, quê hương Vua Đa-vít mà đã được tiên tri loan báo từ lâu “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-el” (Is 7, 14). Và lời tiên tri phán xưa đã được ứng nghiệm hầu hoàn tất Lời Chúa và chương trình Cứu độ của Ngài “…người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-el, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1, 22-23)
Nói như Thánh Phao-lô Tông Đồ, Thiên Chúa là người nhất quán, tín trung, thực hiện lời hứa cứu độ của Ngài. Thiên Chúa sống đúng với danh xưng “Em-ma-nu-en - Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ngài chẳng bao giờ bỏ quên chúng ta; Ngài chẳng loại chúng ta ra khỏi ý định cứu độ của Ngài; và như lời xác tín gửi cho giáo đoàn Rô-ma “…theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày…” (x. Rm 16, 25-26)
Thật vậy, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” trong mọi biến cố cuộc đời: vui mừng hay buồn tủi, thành công hay thất bại, tín thác hay nghi ngờ, thịnh vượng hay suy vong, hạnh phúc hay bất hạnh, mở lòng đón nhận hay khép kín cô độc, lúc mạnh khoẻ hay bệnh tật, khi thuận lợi hay bất lợi, những lúc được hẫu thuận hay bị chống đối…Về phần chúng ta, dường như chúng ta chưa cảm nhận sâu xa về điều này; hoặc vì nhiều nỗi lo toan cuộc sống, bôn ba công việc, kiếm kế sinh nhai, lo hoà nhập vào xã hội, hay đang đi tìm chỗ đứng trong xã hội, mà làm cho đôi mắt đức tin chúng ta trở nên mờ căm trước sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta!
Trong tinh thần Mùa Vọng - dịp thuận lơi, khoảnh khắc vô giá cho mỗi người chúng ta nhìn lại bản thân, hết lòng ăn năn, sám hối, dọn lòng đón mừng Chúa Hài Đồng sinh lại nơi tâm hồn, nơi gia đình, nơi cộng đoàn, giáo xứ, xã hội và cả thế giới đầy những sự bất an này. Hơn nữa, đây cũng là thời cơ vắn vỏi cho mỗi người chúng ta đến với Chúa, sống cùng với Chúa trong mọi trạng huống cuộc đời. Con người chúng ta thường chỉ nhận ra sự cần thiết của việc chạy đến với Chúa mỗi khi gặp khó khăn, gian nan, hay gặp những nỗi buồn chán, mà quên trở về bên Chúa nép vào lòng Ngài những lúc vui tươi, thành công hay hạnh phúc! Chúng ta không quên noi theo gương Mẹ Ma-ri-a sẵn sàng đáp lời “xin vâng” với Chúa, ngay cả thời khắc sợ hãi, hay đứng trước nguy cơ rủi ro, khi chưa hiểu thấu chương trình và ý định của Ngài, “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (x. Lc 1, 38)
Hơn nữa, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” và Ngài cũng ở cùng với anh chị em chúng ta nữa. Vì thế, mỗi khi chúng ta sống trong sự hiện diện của Chúa, sống kết hiệp với Chúa mọi giây phút, thì chúng ta cũng được mời gọi sống với anh chị em trong gia đình, lối xóm, cộng đoàn giáo xứ nữa. Thiết nghĩ, chẳng ai sống kết hợp với Chúa mọi lúc mà lại xa lánh tha nhân, anh chị em mình mà chính nơi họ “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” đang hiện diện cả! Hình ảnh “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” được bộc lộ cụ thể, rõ nét nơi mọi hành vi, lời nói, cử chỉ, tư tưởng của chúng ta; đặc biệt, trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta chọn cho mình một quyết tâm mà bấy lâu nay chúng ta chưa thực hiện được. Có thể chúng ta chọn tha thứ cho ai đó vì Giáng Sinh là mùa để thứ tha; hoặc chúng ta làm hoà với một ai đó vì Giáng Sinh là thời gian để giao hoà; và trên hết Giáng Sinh là Mùa hồng ân, nơi đó “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” tỏ hiện nơi xác phàm, ngõ hầu cứu độ chúng ta.
Giờ đây, chúng ta cùng lắng đọng ít phút trước Chúa Tình Yêu và thầm thỉ nguyện rằng:
Em-ma-nu-el, Thiên Chúa ở cùng chúng ta
Xin thương ân ban luôn được bên Chúa
Em-ma-nu-el, Thiên Chúa ở cùng chúng ta
Ra đi chia san, phó dâng trọn đời. Amen!
17.Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng nhấn mạnh sự đối đáp tương ứng giữa Bài Đọc I và bản văn Tin Mừng. Bài Đọc I đưa ra một điều khó hiểu, bản văn Tin Mừng đem đến một câu trả lời.
2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16
Bài Đọc I thuật lại chuyện vua Đa-vít có ý định xây dựng một Đền Thờ ở thành đô Giê-ru-sa-lem làm nơi đặt Hòm Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Ngôn sứ Na-than khuyên vua hoãn lại kế hoạch nầy vì chính Thiên Chúa sẽ xây cho vua một “nhà”.
Rm 16: 25-27
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải cho muôn dân mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời của Ngài, đó là sai phái Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô, đến ở giữa loài người.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng tường thuật biến cố Truyền Tin, trong đó “nhà” mà Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Hòm Bia thánh, Đền Thờ tuyệt mỹ vô song được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16)
Vào khoảng năm 1220-1200 trước Công Nguyên, dân Do thái vào Đất Hứa, tức xứ Ca-na-an, và sống theo từng chi tộc rải rác khắp xứ dưới thời các Thủ Lãnh hay còn gọi là Quan Án. Tuy nhiên, mối đe dọa xâm lăng thường hằng của dân Phi-li-tin đòi hỏi một cơ cấu chính trị và quân sự vững mạnh hơn cơ cấu các “Thủ Lãnh”. Chính vì hoàn cảnh đòi buộc, họ buộc phải quyết định chọn một vị vua trần thế, sau một thời gian dài ngần ngại, bởi vì chỉ có Đức Chúa là vua duy nhất của dân tộc họ.
1. Vua Đa-vít muốn xây dựng cho Thiên Chúa một nhà:
Sau khi trở thành vua của toàn thể dân Ít-ra-en, vua Đa-vít lập chiến công nầy đến chiến công khác, đoạn bắt đầu thôn tính các các cứ điểm của dân Ca-na-an kể cả thành Giê-ru-sa-lem vào năm 1000 trước Công Nguyên. Vua nghĩ đến việc thiết lập thành Giê-ru-sa-lem làm thủ đô. Ông định cư ở đó và truyền dời Hòm Bia thánh về thành đô. Thực tế, vấn đề được đặt ra là tại sao không xây dựng một nơi xứng đáng và bền vững cho thánh tích đặc biệt nầy, biểu tượng sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Ngài? Cơ hội thật thuận tiện, lãnh thổ được chinh phục này không thuộc vào bất cứ một chi tộc nào. Vì thế, việc thiết lập ở đây thành một nơi phụng tự chung cho toàn dân Ít-ra-en có thể củng cố sự hiệp nhất cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện tôn giáo.
2. Câu trả lời của ngôn sứ Na-than.
Với tư cách là vị cố vấn của vua, ngôn sứ Na-than không thấy bất kỳ trở ngại nào đối với thiện ý của vua Đa-vít, vị vua đã đem lại vinh quang cho dân tộc, hơn nữa, Thiên Chúa cho thấy Ngài luôn luôn che chở bảo vệ vua. Vì thế, ngôn sứ Na-than trả lời một cách tích cực: “Các điều ngài đang dự tính, xin ngài cứ thực hiện, vì có Chúa ở với ngài”. Ở đây ông đóng vai trò của một người tôi trung của vua.
Nhưng khi ngôn sứ Na-than được Thần Khí linh hứng, mọi chuyện hoàn toàn khác. Ông đến yết kiến vua và báo cho vua biết rằng Thiên Chúa đảo lộn vai trò: chính không phải vua Đa-vít xây nhà cho Đức Chúa; nhưng hoàn toàn ngược lại, chính Đức Chúa sẽ xây “nhà” cho vua và sẽ làm cho “nhà của vua” được muôn năm bền vững. Đây là kiểu chơi chữ trên một từ với hai nghĩa:“nhà” vừa có nghĩa “nơi để ở” vừa có nghĩa “dòng tộc”, tức là “vương triều” đối với vua. Chính ở nơi sấm ngôn nầy mà vị cố vấn của vua Đa-vít thực hiện chức năng của một vị ngôn sứ. Ông không nói với vua ý kiến của riêng mình, nhưng truyền đạt cho vua đúng như Lời Chúa phán với ông, cho dù Lời ấy đi ngược lại với thành tâm thiện chí của vua đi nữa.
Dù đã chuẩn bị vật liệu rồi, vua Đa-vít không tiến hành công việc xây cất. Chính con của vua là vua Sa-lô-môn, sẽ hiện thực giấc mơ của vua cha và sẽ cho xây một đền thờ nguy nga tráng lệ.
3. Tầm quan trọng của sấm ngôn.
Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than là một trong những sấm ngôn Cựu Ước quan trọng bậc nhất loan báo Đấng Mê-si-a. Quả thật, các lời hứa dần dần được vén mở. Lời hứa đầu tiên là lời loan báo mầu nhiệm về mối thù giữa dòng dõi của người nữ và tên cám dỗ (St 3: 15). Tiếp đó, sau trận Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa lập giao ước với ông Nô-ê và các con của ông, trong số họ, ông Sêm là “người được Thiên Chúa chúc phúc” (St 9: 26). Quả thật, chính từ dòng dõi của ông Sêm mà tổ phụ Áp-ra-ham sinh ra. Với vị tổ phụ nầy, Thiên Chúa đã chọn một dân dành riêng cho Ngài giữa muôn dân tộc khác. Với tổ phụ Gia-cóp, mặc khải ghi nhận một điểm mới, chính từ chi tộc Giu-đa mà vua Mê-si-a sẽ xuất hiện: “Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa…cho đến khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục” (St 49: 10). Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than xác định rõ hơn: “vị vua nầy sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít”.
Trong nhiều thế kỷ, mọi niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a sẽ được kết tinh ở nơi tử hệ Đa-vít này. Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa hứa ban được phác họa như một vị vua lý tưởng: trong triều đại của Ngài, nền hòa bình và công lý sẽ ngự trị. Chỉ sau khi nền quân chủ không còn nữa, dung mạo Đấng Mêsia sẽ mang lấy những sắc thái khác, đặc biệt là “Người Tôi Trung”.
Chính ở nơi sấm ngôn nầy mà sứ thần Gáp-ri-en quy chiếu đến khi loan tin cho Đức Ma-ri-a: “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai…Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cũng chính ở nơi sấm ngôn nầy mà trong hoạt cảnh truyền tin cho thánh Giu-se, sứ thần quy chiếu đến khi gọi thánh nhân là “con cháu vua Đa-vít” (Mt 1: 20) và yêu cầu thánh nhân đón nhận Đức Ma-ri-a và Con Trẻ để qua ông mà Con Trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít. Và cũng chính ở nơi sấm ngôn ầy mà trong hoạt cảnh Đức Giê-su tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, đám đông dân chúng quy chiếu đến khi tung hô Ngài là “Con vua Đa-vít” (Mt 21: 9).
BÀI ĐỌC II (Rm 16: 25-27)
Chính ở Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 mà thánh Phao-lô viết bức thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân dự tính đến Rô-ma, vì thế, ngài viết thư gởi các tín hữu Rô-ma nầy để chuẩn bị cuộc hành trình sắp tới của ngài. Nhưng những biến cố bất ngờ xảy đến không cho phép thánh nhân thực hiện dự định của mình. Bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào mùa xuân năm 58, đoạn bị chuyển đến giam ở Xê-da-rê, tiếp đó bị điệu đến Rô-ma. Trong khi bị giam cầm ở Rô-ma, ngài sẽ có dịp tiếp xúc với Giáo Đoàn Rô-ma nầy mà ngài đã mong ước biết bao.
Thư gởi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý.
1. Mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời:
Đoạn trích nầy là một bài thánh thi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan thượng trí đã “mặc khải mầu nhiệm tự ngàn xưa vốn được giữ kín, nhưng nay đã được bộc lộ nhờ Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô mượn chữ “mầu nhiệm” ở nơi văn chương Do thái, đặc biệt văn chương khải huyền, cũng như sách Khôn Ngoan. Trái lại, các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ sử dụng thuật ngữ nầy một lần duy nhất, trong khi Tin Mừng Gioan thì không bao giờ.
Chữ “mầu nhiệm” nầy mang dấu ấn kinh nghiệm cá nhân của thánh nhân. Nhờ ơn thần khải trên đường Đa-mát, thánh nhân đã ngộ được ý nghĩa Kinh Thánh. Chương trình của Thiên Chúa qua các sấm ngôn mà trước đó thánh nhân đã không thể nào hiểu được thì nay được sáng tỏ. Cuộc Giáng Trần của Đức Giê-su, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã vén mở mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời của Thiên Chúa. Trong ánh sáng nầy, việc đọc lại Kinh Thánh có sức thuyết phục đối với mọi dân mọi nước.
2. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô:
Bài thánh thi bắt đầu với lời “tôn vinh” và kết thúc với lời “chúc tụng” Thiên Chúa. Chúng ta lưu ý rằng thánh nhân chấm dứt bài thánh thi nầy với biểu thức “nhờ Đức Giê-su Ki-tô”, nghĩa là, Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất của chúng ta. Thần học Ki-tô giáo vẫn luôn luôn trung thành với viễn cảnh nầy. Phụng vụ thường kết thúc các kinh nguyện theo cùng biểu thức nầy. Sau cùng, bài thánh thi hoàn tất với lời tuyên xưng “A-men” theo cùng cung cách kinh nguyện Do thái.
Như vậy, bản văn nầy chuẩn bị cho chúng ta hiểu mầu nhiệm Giáng Sinh sâu xa hơn. Dù mầu nhiệm Cứu Độ vẫn còn ẩn kín ở nơi Hài Nhi Máng Cỏ, tuy nhiên chính ở nơi Con Trẻ nầy mà mầu nhiệm sẽ dần dần được hé lộ.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38).
Hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Ma-ri-a” nầy (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi với hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” trước đó (1: 5-25). Nhờ thể thức song đối nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: thời Cựu Ước và thời Tân Ước, với hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: tư tế Da-ka-ri-a ở thành đô Giê-ru-sa-lem và cô thôn nữ Ma-ri-a tại tư gia thuộc làng quê Na-da-rét xa xôi hẻo lánh, nhất là với hai hài nhi của họ: Gioan tẩy giả và Đức Giê-su.
1. Khung cảnh truyền tin.
Với câu mở đầu: “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” làm nhịp cầu nối kết hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thuộc miền Giu-đê, được xem là thành đô của dân Do-thái, để thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả của làng quê Na-da-rét nhỏ bé và khiêm hạ thuộc miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì đôi vợ chồng tư tế tuổi đã cao, biểu tượng những truyền thống Ít-ra-en xưa và trung tín, giờ đây chúng ta gặp cô Ma-ri-a, một thiếu nữ trẻ trung, đã đính hôn với chàng Giu-se và hướng đến đời sống hôn nhân của mình.
Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính nơi cực thánh nầy mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ka-ri-a nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiện hơn, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài. Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
2. Lời chào của sứ thần:
Sứ thần vào nhà và chào Đức Ma-ri-a: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.
“Hãy vui lên” là cách thức chào hỏi của người Hy lạp, tuy nhiên, “Hãy vui lên” cũng là lời mời gọi ngân vang niềm vui của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9) hay: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on…Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” (Xp3: 14-15). Niềm vui thời Mê-si-a nầy, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy, lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời cho Đức Ma-ri-a là nhằm hướng lòng Mẹ đến thời đại Mê-si-a và chuẩn bị lòng Mẹ trong tư thế sẵn sàng đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
“Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa sủng ái không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, Con của Ngài, nhưng những suy tư thần học còn thấy ở đây nhiều đặc sủng mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội”, nghĩa là Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tổ tông truyền, vì Đức Giê-su nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; “ơn trọn đời đồng trinh”, nghĩa là Mẹ hoàn toàn trinh khiết sau khi sinh con, vì Con của Mẹ cũng là Con của Thiên Chúa; “ơn hồn xác lên trời”, nghĩa là sau khi chết, thân xác của Mẹ không bị hư hoại trong nấm mồ, nhưng được lên trời cả hồn lẫn xác, vì không ai có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ của chúng ta, cho bằng Mẹ trong mối quan hệ của Mẹ với Con.
“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an nầy thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước. Nó được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê như thế trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12) khi ông e ngại đón nhận sứ mạng giải phóng dân Ngài. Một cách tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập đi lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ trong cung lòng thanh khiết của Mẹ.
3. Sứ điệp về Đức Giê-su.
Cũng như ông Da-ca-ri-a, nghe những lời chào ấy, Đức Ma-ri-a bối rối. Vì thế, sứ thần trấn an Mẹ: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Đoạn, sứ thần xác định mặc khải của mình: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.
A. Đấng Mê-si-a (Đức Ki-tô):
Tên của Hài Nhi là “Giê-su”, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua Con Trẻ của Đức Ma-ri-a. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” hay “Con Thiên Chúa”. Tước hiệu “Con Thiên Chúa” xảy ra chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Ma-ri-a là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh nầy, tước hiệu “Con Thiên Chúa” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu nầy chuẩn bị cho mặc khải tiếp theo sau.
B. Con Thiên Chúa.
Một vấn đề Đức Ma-ri-a đã thẳng thắng nêu lên: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?” Lời thắc mắc nầy cho thấy rằng Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền tin cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào tính hiệu quả của Lời Chúa, nhưng muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ kinh thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Ma-ri-a chưa chung sống với vị hôn phu của mình. Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Vấn nạn nầy giúp sứ thần khai triển mặc khải của mình: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Sứ thần muốn Mẹ nhớ lại vai trò của Thánh Thần theo Kinh Thánh: “Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” ban sự sống cho vũ trụ lúc còn nguyên sơ (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình Tạo Dựng mới mà Đức Ma-ri-a được mời gọi dự phần vào.
Để Đức Ma-ri-a có thể thấu hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”. Động từ “phủ bóng” là diễn ngữ Kinh Thánh, như xưa kia, trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Thật ý nghĩa biết bao, cũng chính thánh Lu-ca sử dụng diễn ngữ nầy để mô tả biến cố Biến Hình: “Bổng có một đám mây phủ bóng…và từ đám mây có tiếng nói rằng: Đây là Con Ta…” (Lc 9: 34). Do đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ hơn mặc khải của mình:“Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng là chân tính thần linh của Hài Nhi, Con của Đức Ma-ri-a.
4. Sứ điệp về Đức Ma-ri-a.
Đức Ma-ri-a không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự ý đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần kết thúc mặc khải của mình trong cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, khi ông rất đỗi kinh ngạc vì vợ ông, bà lão Sa-ra, có thể sinh cho ông một cậu con trai: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).
Đây là một trong những chủ đề chạy xuyên suốt sách Tin Mừng và sách Công Vụ, cả hai đều là tác phẩm của thánh Lu-ca. Trong hoạt cảnh trước đó, dù bà cụ Ê-li-sa-bét hiếm muộn và tuổi đã cao, cũng không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng một cách thức như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Với Đức Ma-ri-a, Mẹ của Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.
Với diễn ngữ Kinh Thánh “Phủ bóng trên bà” nhắc lại Hòm Bia Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa cư ngụ ở giữa dân Ngài, Đức Ma-ri-a được vinh quang rạng ngời của Ngài bao phủ, và Thánh Thần thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a và lời đáp trả tròn đầy của Mẹ đối với Thiên Chúa. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà Hài Nhi được thụ thai trong cung lòng Mẹ.
Không có gì có thể ngăn cản kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ Tình Yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “tớ nữ của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời“Xin Vâng” tròn đầy. Vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện kế hoạch yêu thương của Ngài cho nhân loại.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Bài Đọc I nói cho chúng ta biết vua Đa-vít muốn xây một nhà nguy nga tráng lệ để làm chỗ xứng đáng cho Hòm Bia thánh, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, nhưng gặp phải sự từ chối của Thiên Chúa. Việc chối từ nầy mặc lấy ý nghĩa viên mãn của nó trong hoạt cảnh Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến ở với loài người là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần. Cung lòng của Đức Trinh Nữ là Nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ tuyệt mỹ vô song, là nơi cực thánh mà Thiên Chúa nhập thể chọn để sống ở giữa chúng ta.
18.Xin vâng--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành, có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau:
Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc, đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.
Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích: Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kể từ đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quãng đường về, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.
Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh nữ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” (Lc 1,28). Vâng, Mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa” (Lc 1,30). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh nữ, và uy quyền Đấng Tối cao sẽ bao trùm Trinh Nữ” (Lc 1,35). Như vậy việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.
Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bhao đảm tuyệt diệu: “vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1,38).
Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác liền thưa: “Xin Vâng” (Lc 1,38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bô mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.
Lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay cho tất cả, nhưng là tiếng “Xin vâng” liên lỉ trọn cả kiếp người. Từ tiếng “Xin vâng” đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời “Xin vâng” trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.
* Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm màu của Chúa. Nhất là, xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen.
19.Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Thiên Chúa ở cùng là chủ đề căn bản được nhắc thường xuyên như điệp khúc trong mạc khải, cũng như trong phụng vụ.
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta là ân huệ lớn lao nhất, hơn tất cả những gì lòng người dám ước mơ. Chúa ở cùng, sẽ đảm bảo cho kẻ ở trong Ngài mọi phúc lành thiêng liên trên trời trong Đức Kitô.
Trên tất cả, lời hứa dành cho các tổ phụ và cho người được tuyển chọn, là được Thiên Chúa ở cùng.
Abraham và Đức Maria hằng được Thiên Chúa ở cùng. Các ngài đã trở nên dấu chỉ ơn cứu độ và niềm hy vọng lớn lao cho dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian.
Chúa nhật IV Mùa Vọng diễn tả những hồng ân được ban tặng thế gian trong ngày Con Thiên Chúa, Đấng Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta ngự đến.
Các bài sách thánh, tuyên đọc hôm nay, quảng diễn ơn phúc lành thiên hình vạn trạng được thực hiện trong Chúa Giê-su, nhằm công chính hóa và lôi kéo chúng ta đến cùng Thiên Chúa, bởi lòng thương dân Người.
Bài đọc I, trích sách Samuel quyển thứ II, nói về nguyện vọng của vua Đavid khi được ban tặng vô số hồng ân, ông đã muốn và đề đạt xây nhà cho Chúa ngự.
Thành ý của David là cảm thức chung của những kẻ thụ ơn. Họ làm thế, vừa để tỏ lòng tri ân, vừa để cầu mong ân huệ được luôn tiếp tục duy trì. Hành động tạ ơn kiểu này cũng chỉ nằm trong khuôn khổ của một sự công bằng giao hoán “có ăn có trả”, vẫn có “mùi” vị kỷ, tham lam.
Áp dụng vào trường hợp của David, vì được bình an tư bề, khỏi mọi quân thù xâm lấn, được sống trong lầu son gác tía, vua muốn xây nhà dâng kính Chúa.
Xét về phương diện tự nhiên, ý muốn của David là điều tốt, nên làm, nhưng đối với Chúa, dâng cho Ngài một thiện hảo vật chất không thôi chưa đủ, mà còn phải là sự gắn bó mật thiết trong tình con thảo theo mô hình của tình phụ/tử thần linh, làm nền tảng cho một đời tạ ơn mới đủ, vì, Chúa chỉ muốn lòng nhân từ, chứ không cần hy lễ (cf. Mt 12, 7).
Chúa dạy David và chúng ta bài học sâu sắc: trước hết và trên tất cả là sự “vâng phục”. Chỉ trong sự vâng phục tuyệt đối và trọn vẹn, mới trở thành con yêu dấu, con đẹp lòng Cha mọi đàng.
Sống vâng phục và thực hiện ý Cha, nghiễm nhiên, nhân loại được ở trong chính ngôi nhà do Chúa thiết lập “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23).
Chúa nói với David: ngươi mà xây nhà cho Ta sao? Chính Ta xây nhà cho ngươi, bằng việc cất nhắc ngươi từ nơi phân thổ, từ hàng lê thứ, lên bậc khanh tướng công hầu, lên hàng vua chúa thế gian. Ngươi phải ý thức, tuân giữ lời Ta, thì triều đại ngươi mới vững bền mãi mãi.
Thật và rất thật, đơn thành lắng nghe, thực thi ý Chúa là yếu tố nền tảng, để Đấng Emmanuel ngự đến và những thiện hảo vật chất lòng thành dâng kính mới trở thành hương thơm của lời ngợi khen đáng được chấp nhận.
Lời hứa Đấng Emmanuel được thực hiện khi thời gian tới hồi viên mãn: Thiên Chúa sai “Con Ngài” sinh bởi một người phụ nữ, sống dưới chế độ lề luật, để cứu những kẻ đang bị kiểm soát bởi lề luật.
Thánh Luca, trong bài Tin Mừng, loan báo thời khắc Con Thiên Chúa nhập thể làm người diễn ra trong một cuộc đối thoại hài hòa, tự do.
Đức Maria, vốn là người đầy tràn ân sủng, luôn được Chúa ở cùng, đã triệt để lắng nghe, thực thi ý Chúa, đã cung cấp cho Ngôi Lời tất cả những yếu tố làm nên nhân tính Giê-su. Sự dâng hiến này, trở thành hương thơm của lời ngợi khen tạ ơn đích thực và vĩnh viễn: “Từ nay, muôn đời sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1, 48).
Đây là cuộc đối thoại của lòng thương xót vô biên, của sự trung tín vững bền Thiên Chúa, nhằm thực hiện lời hứa cứu chuộc thuở ban sơ với nguyên tổ sa ngã.
Nội dung cuộc đối thoại: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi” (cf. Kinh tin kính).
Mục đích cuộc đối thoại: mời gọi Đức Maria cộng tác vào công trình cứu độ.
Kết quả cuộc đối thoại: cả đất trời hân hoan, vui sướng với lời thưa “Xin vâng” khiêm hạ, đầy lòng tín thác cậy trông, Mẹ đã vĩnh viễn đưa Chúa vào trần gian, thực hiện lời hứa cứu độ.
“... Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng, Mẹ trở nên Thánh Mẫu tuyệt vời.
Nhờ Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa đến với nhân loại.
Huyền nhiệm quá muôn đời tiếng xin vâng.
Mẹ thưa xin vâng, xin vâng trọn thánh ý Chúa Cha.
Mẹ thưa xin vâng, với Tin Mừng của Con chí thánh.
Mẹ thưa xin vâng với tác động của Chúa Thánh Linh.
Con muốn theo Mẹ, sống xin vâng với trái tin thảo hiền” (Trầm Hương FMSR).
Vâng, Mẹ ơi, con tạ ơn và ngàn lời tri ân Mẹ, đã tặng ban Giê-su cho con và cho cả nhân loại!
Xin Mẹ thương chỉ cho con được thấy Chúa Giê-su, Người Con phúc đức do lòng Mẹ sinh ra!
Vâng phục đức tin là con đường duy nhất Mẹ đã đi để được ở lại thường hằng trong nhà Cha, cũng là con đường Mẹ chỉ cho chúng ta đến gặp Giê-su “Mẹ là dấu chỉ và là niềm hy vọng cho dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian” (cf. Vat. II, LG. số 68).
Vâng phục đức tin là sẵn lòng để cho quyền năng Chúa thực hiện trong mọi biến cố cuộc đời, nhiều lúc cảm thấy bế tắc, tăm tối và khó hiểu.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, gọi đó là thánh ý nhiệm mầu vốn được giữ kín. Những đau khổ bế tắc, tăm tối cuộc đời, chỉ có thể được cắt nghĩa trọn vẹn trong mầu nhiệm thập giá.
Sự khôn ngoan của thập giá từng làm chúng ta choáng váng, lại là cách tuyệt hảo nhằm cứu những kẻ có lòng tin.
Ước gì niềm vui Chúa đến, nâng đỡ đức tin, củng cố đức cậy, gia tăng đức mến, để chúng ta luôn đơn thành lắng nghe và thực hành Lời Chúa, trở nên xứng đáng ở lại trong nhà Chúa muôn đời! Amen.
20.“Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Chiêm ngắm Đức Maria (c. 26-27)
Vị trí của Đức Maria thật là lớn lao và duy nhất trong tương quan với Thiên Chúa và loài người chúng ta: Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, trong đó có chúng ta, và Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Tuy nhiên, tất cả những ơn huệ lớn lao của Mẹ đã bắt đầu bằng một biến cố thật hạn hẹp, thật nhỏ bé, thật khiêm tốn, thật âm thầm và kín ẩn, đó là biến cố Truyền Tin. Nhỏ bé và âm thầm, nhưng đó chính là một kinh nghiệm thiêng liêng làm thay đổi cuộc đời của Đức Maria, và của lịch sử cứu độ. Và kinh nghiệm thiêng liêng này là một cuộc đối thoại, đối thoại giữa Đức Maria và sứ thần Gabriel.
Trước hết, chúng ta cần chú ý đến nơi chốn xẩy ra biến cố Truyền Tin, đó là nhà của Đức Maria: “Sứ thần vào nhà trinh nữ” (Lc 1, 28). Khi cầu ngyện với Lời Chúa, chúng ta được mời gọi hình dung ra nơi chốn, ở đó diễn ra biến cố mà bản văn Tin Mừng thuật lại: nhà, vườn, sa mạc, đồi Calvê… Việc “đặt khung cảnh” khi bước vào giờ cầu nguyện như thế có hai mục đích:
Khi cầu nguyện, chúng ta được mời gọi dấn thân cả con người của chúng ta, bên trong cũng như bên ngoài. Thế mà, bên trong của chúng ta, có nhiều thứ, trong đó có trí tưởng tượng. Dùng trí tưởng tượng để hình dung ra một nơi chốn khi cầu nguyện, đó là giúp chúng ta cầu nguyện với cả con người, đồng thời giúp định hướng cho trí tưởng tượng, vốn hay dẫn chúng ta đi lang lang, ra khỏi việc cầu nguyện. Hơn nữa, nơi chốn mà chúng ta hình dung ra, không phải là bất cứ nơi nào, đó là một nơi chốn của đời thường, nhưng đồng thời cũng là nơi “thánh”, nghĩa là nơi được Chúa viếng thăm.
Vì thế, một nơi chốn cụ thể còn có một ý nghĩa thiêng liêng: Thiên Chúa đến gặp gỡ con người không phải ở trên trời cao hay ở một nơi xa vời, nhưng tại một nơi chốn cụ thể và rất đời thường, chẳng hạn nhà của Đức Maria; và đối với chúng ta cũng vậy, đó có thể là một nơi nào đó trong cuộc đời của chúng ta: trường học, nơi hành hương, nhà tĩnh tâm, trong vườn của Nhà Dòng, trong căn phòng nhỏ bé, hay nơi nhà nguyện… Vậy đâu là nơi chốn, ở đó chúng ta được Thiên Chúa viếng thăm, đã làm thay đổi cuộc đời chúng ta, như trường hợp của Đức Mẹ?
Trình thuật Truyền Tin có thể được gói gọn trong tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ; và chúng ta thường hiểu tiếng “Xin Vâng” là câu trả lời tức khắc của Mẹ khi nghe lời đề nghị của Thiên Chúa, qua trung gian của sứ thần Gabrien. Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt lời “Xin Vâng” của Mẹ vào trong diễn tiến của trình thuật Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra rằng, tiếng “Xin Vâng” của Mẹ là điểm tới của cả một cuộc trao đổi khá dài, và nhất là đầy biến động trong tâm hồn.
Trước hết, chúng ta hãy tự hỏi Đức Maria là ai, theo lời kể của thánh sử Luca về mầu nhiệm Truyền Tin? Mẹ là một thiếu nữ Israel, ngụ tại Galilê, làng Nazarét. Mẹ là một thiếu nữ đã đính hôn, như bao thiếu nữ khác khi đến tuổi trưởng thành. Một cách chính xác, Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi Đavít. Như thế, lúc ban đầu, Mẹ là một cô gái như bao cô gái khác (và cũng tương tự như thế, đối với phái nam). Và có lẽ chúng ta cũng đã như vậy trước khi bước vào hành trình ơn gọi, ơn gọi gia đình hay dâng hiến: một cô gái với thân phận bình thường, và với ước mơ về đời mình cũng thật bình thường. Nhưng Mẹ lại không được vậy, vì, có thể nói, Chúa đến làm xáo trộn cuộc đời của Mẹ.
Ở đây chúng ta có thể nhìn lại hành trình ơn gọi của mình và tự hỏi: đâu là những dấu chỉ, những cách thức Chúa dùng để làm xáo trộn cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta không thể sống như những cô gái (hay một người) bình thường? Và trong trình thuật Truyền Tin, Chúa không đến trực tiếp, nhưng qua trung gian sứ thần Gabriel; vậy đâu là những người “trung gian” của Chúa trong cuộc đời và nhất là hành trình ơn gọi của chúng ta?
Lắng nghe Sứ thần Gabrien và Đức Maria
Cuộc đối thoại giữa Sứ Thần và Đức Maria được “đóng khung”, nghĩa là khởi đầu và kết thúc, bởi chuyển động vào và ra của sứ thần: “Sứ Thần vào nhà trinh nữ” (c. 28), và sau đó, “Rồi Sứ Thần từ biệt ra đi” (c. 38). Cuộc đối thoại có thể chia làm ba bước. Chúng ta hãy lắng nghe từng bước, nhưng không quên nhìn ngắm và quan sát cung cách đối thoại của Đức Mẹ, vốn diễn tả những tâm tình nội tâm, chẳng hạn sự bối rối lúc ban đầu.
Bước thứ nhất (c. 28-29)
Sứ Thần ngỏ lời với Đức Maria: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Lời chào của sứ thần dành cho Đức Maria trở thành lời chào của chúng ta, vì Kinh Kính Mừng hằng ngày của chúng ta, của cả Giáo Hội bắt đầu bằng lời chào này: “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”. Nhưng ở ngọn nguồn, lời chào này làm cho Đức Maria rất bối rối.
Chúng ta hãy hình dung ra Đức Maria đang trong trạng thái bối rối và tự hỏi tại sao? Chúng ta có kinh nghiệm tương tự như vậy bao giờ chưa? Chúng ta có bối rối như Mẹ không? Nếu chưa, nghĩa là chưa có kinh nghiệm về tình yêu nhưng không Thiên Chúa dành cho chúng ta từ thủa đời đời, thì Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, bởi vì tất cả những gì Mẹ nhận được là để chia sẻ. Ơn huệ lớn nhất mà Mẹ nhận được là Đức Giê-su, và Mẹ đã chia sẻ hết cho chúng ta và Mẹ vẫn chia sẻ mỗi ngày.
Và Đức Mẹ tự hỏi về ý nghĩa của lời chào. Không phải vì Mẹ không hiểu điều sứ thần muốn công bố, là ân sủng Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhưng không, nhưng Mẹ không hiểu ý nghĩa của ân sủng: qua ân sủng Thiên Chúa ban cho Mẹ tràn đầy, Chúa muốn nói gì với Mẹ, Chúa muốn mời gọi Mẹ thực hiện điều gì? Vì thế, ngay sau đó, sứ thần mặc khải điều Thiên Chúa mời gọi Mẹ thực hiện: “Này đây, bà sẽ thụ thai…”. Có lẽ chúng ta cũng vậy, khi Chúa đến ngỏ lời với chúng ta, một lúc nào đó trong quá khứ và nhất là trong những biến cố quan trọng của hành trình ơn gọi; chúng ta cũng bối rối và tự hỏi: tại sao Chúa lại chọn con, tại sao Chúa ưu ái với con cách nhưng không như vậy? Chúa mời gọi con làm gì?
Bước thứ hai (c. 30-34)
Sứ thần xác chuẩn ơn huệ nhưng không Chúa ban cho Mẹ: “Bà được đẹp lòng Thiên Chúa”, và sau đó, loan báo sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ: “Này đây bà sẽ thụ thai…”. Như thế, ơn huệ luôn đi đôi với sứ mạng; và đó chính là cung cách hành xử của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, trong lịch sử Hội Dòng và trong hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta.
Sứ mạng thụ thai, hạ sinh con trai, vốn là “Con Đấng Tối Cao”, là sứ mạng quá lớn, lớn hơn tất cả những gì Mẹ có và Mẹ là. Vì thế, Mẹ không thể không nêu câu hỏi, và câu hỏi của Mẹ chất chứa một ngăn trở, cũng rất lớn: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Chính ở nhịp thứ hai này của cuộc đối thoại, mà chúng ta cảm nhận được Đức Mẹ thật sống động, thật mạnh mẽ và cũng thật lý sự nữa. Vì thế, Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và trở ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa.
Còn có một điều bất ngờ lớn lao nữa, mà chắc chắn lúc này, Mẹ chưa hình dung ra hết được, bởi vì Mẹ sẽ phải khám phá ra từ từ, đó là cách Đức Giê-su trở nên cao cả, trở nên Con Đấng Tối cao, và nhất là cách Ngài thừa kế ngai vàng vua Đa-vít. Biến cố Đức Giêsu giáng sinh trong máng cỏ, việc dâng Hài Nhi cho Đức Chúa trong Đền Thờ và nhất là lời tiên tri của ông cụ Simeon: “một lưỡi gươn sẽ đâm thâu tâm hồn bà”, sẽ hướng Mẹ tới con đường Thập Giá của Con Mẹ.
Sứ mạng Chúa muốn trao cho chúng ta, khi mời gọi chúng ta đi Đức Ki-tô trong đời sống dâng hiến, luôn luôn vượt qua khả năng của chúng ta. Như khi Đức Giê-su mời gọi: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi”. Hay như kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12, 8-9). Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và trở ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được Chúa ban ơn huệ để thi hành sứ mạng, chúng ta hãy ca đảm, giống như Mẹ, dãi bày cho Chúa nghe những khó khăn và trở ngại của chúng ta: “việc ấy xẩy ra thế nào được?”
Bước thứ ba (c. 35-37)
Sứ thần rất coi trọng ngăn trở mà Đức Mẹ nêu ra; vì thế, để thuyết phục, ngài đã không dựa vào điều gì khác, ngoài quyền năng riêng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dừng lại thật lâu để suy niệm từng lời của sứ thần. Vì lời của sứ thần rất thuyết phục, thuyết phục đến độ, Đức Maria đã thốt ra lời “Xin Vâng” liều lĩnh, hướng đến rất nhiều thách đố, nguy nan và những điều bất ngờ. Trước hết, theo lời của Sứ Thần, Người Con Mẹ sẽ cưu mang và sinh ra, là hoàn toàn do quyền năng của Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, …”. Làm phát sinh sự sống, ở nơi mà loài người không thể làm gì được, đó chính là quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa.
Sứ thần Gabrien đến gặp Đức Maria, vào thời điểm bà Elizabeth có thai được sáu tháng; vì thế, trong lời đối thoại với Đức Mẹ, sứ thần long trọng nêu ra trường hợp bà Elizabet để thuyết phục Đức Mẹ. Sự kiện bà Elizabet với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, có ý nghĩa đặc biệt trong lời xin vâng của Mẹ và trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa:
Trường hợp bà Elizabet nhắc nhớ Lịch sử cứu độ; và lời xin vâng của Mẹ đặt trên nền tảng hành động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.
Lời xin vâng của Mẹ làm cho lịch sử cứu độ được hoàn tất: hoàn tất bao gồm hai chiều kích: liên tục nhưng mới mẻ.
Người con bà Elizabet sinh ra sẽ gắn bó đến cùng với Người Con Mẹ Maria sinh ra.
Như thế, Thiên Chúa có khả năng làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người không còn hi vọng gì và không thể làm gì được nữa, bởi vì hai ông bà vừa hiềm muốn và vừa lớn tuổi. Và tuyệt tác này lại nhắc nhớ những tuyệt tác tương tự khác trong lịch sử cứu độ, đó là trường hợp các phu nhân hiếm muộn của các tổ phụ, mà vẫn cứ sinh con được, và tiêu biểu nhất là bà Sara, vợ của tổ phụ Abraham. Với Đức Maria, đó cũng là một tuyệt tác, nhưng là một tuyệt tác còn lớn hơn và là duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi: đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, nơi biến cố truyền tin, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Chúng ta được mời gọi nhận ra hành động của Thiên Chúa trong lịch sử của Hội Dòng, của Tu Hội, của giáo xứ chúng ta, trong gia đình, trong cuộc đời và trong hành trình ơn gọi của chúng ta, để chúng ta có thể đi theo Đức Ki-tô và phục vụ cho sứ mạng của Ngài, không phải bằng sức lực và khả năng của chúng ta, nhưng quyền năng và sức mạnh của Chúa.
Và biến cố Truyền Tin cũng bày tỏ cho chúng ta yếu tính của đời tu: đó là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh của Người, theo hình ảnh của Đức Ki-tô, ở nơi không thể, là thân xác trinh nguyên của chúng ta, theo cách thức mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Maria. “Trinh nguyên”, tiên vàn theo nghĩa thiêng liêng. “Trinh nguyên”, tiên vàn theo nghĩa thiêng liêng (bởi vì trinh nguyên thể lý tuyệt đối là không thể và chỉ là vẻ bề ngoài), nghĩa là một con tim khát khao dành trọn cho một mình Chúa và tình yêu của Người.
Lắng nghe lời “Xin vâng” của Đức Maria (c. 38)
Trong bản văn Hi-lạp của trình thuật Truyền Tin, thật ra không có từ “xin vâng”, hay từ “vâng” trong bản dịch Tiếng Việt ở đây, nhưng chỉ có câu trả lời của Đức Mẹ: “Tôi đây là nữ từ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” hay dịch sát hơn: “Tôi đây là nữ tì của Chúa, hãy xảy ra cho tôi theo như lời Sứ Thần”. Ngoài ra, “Xin Vâng” còn được đọc theo tiếng La-tinh là “Fiat”; nhưng thực ra, “Fiat” có nghĩa là “ước gì xẩy ra”, hoặc “hãy xẩy ra”, cho tôi theo như lời của ngài. Vì thế, chúng ta vẫn cứ tiếp tục nói Đức Mẹ thưa “Xin Vâng”, nhưng phải hiểu tiếng “Xin Vâng” của Mẹ là cả một câu trả lời khá dài và đầy ý nghĩa.
Thật vậy, trong lời “Xin Vâng”, Mẹ tự xưng mình là “nữ tì”. Chúng ta thường nghĩ ra nhiều tước hiệu cao vời dành cho Đức Maria; nhưng Mẹ lại thích tự xưng mình, trong biến cố Truyền Tin và trong bài ca bất hủ Magnificat, là “Nữ Tì của Chúa” (Lc 1, 38), là “Phận nữ tì hèn mọn”. Chúng ta được mời gọi dõi theo một Đức Maria như thế đó. Không ở đầu ngoài lời nói này của Mẹ, chúng ta cảm thấy thật gần gũi với Mẹ. Vì chúng ta cũng như Mẹ, là nữ tì, là tôi tớ của Thiên Chúa. Sau đó, Mẹ nói “Hãy xảy ra cho tôi theo như lời của Sứ Thần nói”. Chúng ta hãy cảm nếm lòng tín thác tuyệt đối Mẹ dành cho Chúa qua lời nói này, bởi vì qua lời này, Mẹ cam kết từ bỏ quyền làm chủ đời mình; và đó chính là ý nghĩa tận cùng của mọi ơn gọi, và nhất là của ơn gọi dâng hiến.
Chúng ta được mời gọi đặt lời “xin vâng” của chúng ta, khi đón nhận Đức Ki-tô vào cuộc đời chúng ta và sống theo ơn gọi Chúa ban, trong lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Cũng giống như Đức Mẹ, tiếng xin vâng ban đầu của chúng ta cần phải làm mới lại suốt đời, nhất là ở những khúc quanh quan trọng và trong thời gian tĩnh tâm, hay ở những lúc khó khăn thử thách lớn nhỏ trong hành trình ơn gọi. Trong những giai đoạn khó khăn thử thách lớn, có khi chúng ta được mời gọi thưa “xin vâng” mỗi ngày, bằng cách nhận lời “Xin Vâng” của Mẹ làm của mình, và lời “Xin Vâng” này có nghĩa là: “Con là nữ tì của Chúa, xin xảy ra cho con theo như Lời của Ngài.”
* * *
Xin Đức Mẹ đồng hành và phù hộ chúng ta với tình yêu hiền mẫu, để chúng ta cũng sống đến cùng lời “xin vâng” của chúng ta, giống như Mẹ.
21.Sinh một con trai--Lm. Trầm Phúc
Chúng ta đã từng nghe đi nghe lại đoạn Tin Mừng này của thánh Luca không biết bao nhiêu lần trong một năm. Có người đã thuộc lòng và nhiều người xem như quen thuộc và khi nghe lại cảm thấy như không có gì mới, và không chú ý cho lắm. Biết rồi! Nhưng với cái nhìn đức tin, chúng ta sẽ không thôi khám phá nhiều vẻ đẹp và hồng ân tàng ẩn trong đó.
Thánh Luca đã phác họa ra một bức tranh sống động và tuyệt đẹp, mang nhiều nội dung phong phú, trong đó ngôn ngữ và hình ảnh Cựu Ước được sử dụng để cho chúng ta thấy chương trình kỳ diệu của Chúa trong lịch sử cứu độ.
Chúng ta không thể khám phá hết những gì tàng ẩn trong đoạn văn ngắn này, nhưng nhờ đó, trong mùa vọng này, chúng ta đón tiếp Chúa đến trong mầu nhiệm giáng sinh với những tâm tình của Mẹ Maria.
Mẹ Maria lúc ấy mới độ mười bốn tuổi. Một cô gái quê mùa, mù chữ (vì con gái thời bấy giờ không được đến trường). Nhưng biết Kinh Thánh rất rành, vì Maria luôn chăm chú nghe đọc Kinh Thánh và nhớ những gì đã nghe.
Maria vừa được đính hôn với một người tên là Giuse. Đính hôn tức là chắc chắn sẽ lập gia đình. Chỉ chờ ngày được lên xe hoa.
“Thiên thần vào nhà trinh nữ”. Chúng ta tưởng rằng thiên thần ăn mặc chỉnh tề đi vào nhà của Maria. Đây là câu chuyện do thánh Luca dàn dựng để lồng khung mầu nhiệm mà ngài muốn trình bày mà thôi. Không thể nào có vấn đề thiên thần bước vào nhà của Maria, vì theo tục lệ Do Thái, thanh niên không được phép vào nhà một trinh nữ. Vậy thiên thần vào nhà như thế nào? Theo nhiều chuyên viên, Maria có lẽ đã được thị kiến mà thôi.
Thiên thần chào Maria bằng những lời làm cho Maria bối rối: “Mừng vui lên, hỡi người đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Tại sao lại bối rối? Vì lời chào này không chỉ là một lời chào thông thường. Maria nghĩ rằng có điều gì quan trọng sắp xảy đến. Thiên thần trấn an Maria: “Xin đừng sợ”. Tại sao lại sợ?
Thiên Chúa đột nhập vào thế gian luôn gây sợ hãi. Môsê trước bụi gai giữa đám lửa hỏa hào, cũng sợ hãi. Tiên tri Isaia trong Đền thờ khi Chúa đến ngỏ lời với ông. Ông đã kinh hãi sấp mình xuống đất và tưởng mình đã chết. Ở đây Thiên Chúa đến rất âm thầm và nhẹ nhàng, thế nhưng cũng gây sợ hãi.
Maria ý thức thân phận nhỏ hèn của mình. Ngài cảm thấy như chạm phải một cái gì đó vượt xa tầm hiểu biết của mình. Làm sao không run sợ?
Lời chào của thiên thần cũng làm cho Maria ngạc nhiên: “Đầy ơn phước”. Chúng ta thường hiểu như được tràn đầy ơn Chúa, nhưng ở đây có thể hiểu là đầy duyên dáng và đẹp lòng Thiên Chúa, như trong Cựu Ước, hoàng hậu Ette đầy duyên dáng yêu kiều được vua Assuêrô sủng ái. Maria đầy ơn phước vì đã được Thiên Chúa sủng ái và đã chọn Mẹ từ muôn thuở, đã gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ nguyên tội, hoàn toàn trong sáng, xứng đáng làm Đền thờ cho Chúa Con. Thiên thần cũng nói rõ: “Bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Và đây, Chúa muốn như thế này: “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên nó là Giêsu”. Maria càng ngạc nhiên hơn vì điều này đi ngược lại với ý muốn của nàng: “Việc ấy xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”?
Maria từ chối tình yêu và hạnh phúc trần gian, vì thế, Chúa ban cho mẹ hạnh phúc làm mẹ Con Thiên Chúa. Mẹ hoàn toàn là của Chúa. Mẹ xứng đáng với vai trò Chúa muốn và Chúa đã nhờ Mẹ lãnh nhận hồng ân tuyệt hảo là Ngôi Hai, Mẹ đi vào kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ Mẹ, Chúa thực hiện chương trình cứu độ nhân loại của Ngài. Người con Mẹ sẽ sinh ra là Con Đấng Tối Cao, là người sẽ kế nghiệp tổ tiên Đavít, và triều đại Ngài sẽ vô cùng vô tận.
“Bà sẽ đặt tên là Giêsu”. Tại sao Mẹ lại đặt tên cho con? Chính người cha mới làm công việc đó, là quyền của người cha. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu không là con của một người trần thế, mà là Con Thiên Chúa. Và điều đó, chính thiên thần đã xác nhận: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc nhập thể của Chúa Giêsu là vai trò quyết định. Thánh Luca nhấn mạnh đến điều này. Chúng ta nhớ đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc sáng tạo vũ trụ. Sách Sáng thế nói: “Thánh Thần bay là trên mặt nước và ban sự sống cho mọi sinh vật. Trong việc nhập thể, Chúa Thánh Thần cũng làm nảy sinh một sự sống mới trong cung lòng Mẹ Maria. Chúa Giêsu đến trong trần gian mà không cần có sự can thiệp của người nam, là Ađam mới, thoát thai từ bàn tay sáng tạo của Chúa Thánh Thần. Vì “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Để Maria xác tín hơn, thiên thần đã đưa ra một bằng chứng cụ thể: “Bà Êlisabet… tuy đã già mà cũng đang mang thai một người con trai, và nay đã có thai được sáu tháng”. Tất cả là do quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã làm những việc kỳ diệu bằng những phương tiện thấp kém nhất. Ngài đã xuống thấp, thật thấp đến nỗi chúng ta không thấy Ngài. Thi sĩ Marie Noel đã có một ý tưởng ngộ nghĩnh: “Vì con người không thể leo lên tận trời cao, Thiên Chúa xuống thấp.
Thiên Chúa, Đấng ngự nơi ánh sáng siêu phàm đã đến trần gian, trong xác thịt. Ngài mượn lấy con đường của mọi con người và đã chọn cung lòng một người phàm để nối kết lại cuộc đối thoại với con người. Ngài là Đấng không lệ thuộc vào thời gian đã chọn lấy sự nhỏ hẹp của thời gian, chỉ vì Ngài là Tình Yêu.
Maria vừa là nguồn cội vừa là chứng nhân của sự hiển linh yêu thương của Ngôi Lời. Mẹ là điểm kết tụ của bao lời hứa được khởi đầu thực hiện. Mẹ đón nhận cho chúng ta vầng hồng của mùa cứu chuộc đang khởi đầu. Từ gốc Giêsê đã mọc lên chồi non, sẽ trở nên cho nhân loại suối nguồn hạnh phúc bất biến, lâu bền và sung mãn. Nếu không có Mẹ, chúng ta sẽ như thế nào?
Sau khi biết mình được bảo đảm trong vòng tay của Thiên Chúa toàn năng, Maria không do dự đáp trả: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”. Câu trả lời kết thúc một giai đoạn dài và mở đầu một giai đoạn mới. Dự định cứu độ của Thiên Chúa không chỉ là lời hứa nữa mà là thực hiện.
Maria chấp nhận thân phận của mình. Nàng chỉ là nữ tỳ mà thôi. Chúng ta không hiểu từ nữ tỳ theo người Do Thái thời bấy giờ. Nữ tỳ là con người thuộc trọn quyền của chủ. Sống chết trong tay chủ mình. Không còn quyền là mình nữa mà hoàn toàn lệ thuộc vào chủ. Maria nói lên tiếng nữ tỳ đó với tất cả tâm hồn ngây thơ nhưng sáng suốt của nàng. Nàng biết mình nói gì. Nàng thuộc Kinh Thánh quá nhiều. Nàng đã nghe biết về những kỳ công Thiên Chúa đã làm trong lịch sử. Nàng hoàn toàn phó thác. Nàng trao trọn tuổi xuân của nàng cho Thiên Chúa. Nàng chỉ muốn là nữ tỳ thôi. Nàng không nghĩ đến tương lai. Tương lai của nàng nằm trong tay Đấng Toàn Năng: “Xin Chúa thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói”. Tiếng “xin vâng” của chúng ta không diễn tả đủ ý nghĩa của lời trên đây. Lời nói của Maria cho thấy nàng là sự sẵn lòng vô điều kiện và hoàn toàn để cho Chúa hoạt động. Nàng chỉ biết đón nhận trong thân phận nhỏ bé của mình những gì Chúa muốn mà thôi.
Nhờ sự khiêm nhường và sẵn lòng đó, Thiên Chúa đã thực hiện kỳ công mà từ muôn thuở Chúa đã định là cho Ngôi Lời nhập thể. Chúng ta không thể hiểu được tầm quan trọng của mầu nhiệm thâm sâu này: “Ngôi Lời đã nhập thể và ở giữa chúng ta”. Ngài đã trở nên nhỏ hèn như chúng ta. Ngài có thể dễ bị thương tích. Nơi đây câu nói của thánh Gioan mang đúng ý nghĩa của nó: “Thiên Chúa là tình Yêu”. Nơi đây chúng ta mới hiểu được tình yêu là thế nào là tự hủy mình, mang thân nô lệ, là cho không và cho hết. Vô điều kiện. Chúng ta chỉ cần tin, sấp mình thờ lạy và tạ ơn.
Qua biến cố truyền tin này, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy rằng chính Chúa can thiệp vào cuộc sống chúng ta. Chính Chúa đích thân đến với chúng ta. Chúng ta hãy đón tiếp Ngài như Mẹ Maria, trong khiêm tốn, phó thác và vâng phục. Hãy đón tiếp Ngài với những tâm tình yêu thương nồng ấm. Trong những ngày này, gần ngày con sắp ra đời, Mẹ Maria đã nghĩ gì? Phải chăng Mẹ luôn tưởng nhớ đến đứa con yêu trong dạ và Mẹ yêu thương như thế nào? Chúng ta có nghĩ đến Chúa, đến tình thương khiến Ngài xuống trong xác phàm cho chúng ta không? Chúng ta có đón tiếp Ngài với tất cả tình yêu như Mẹ không?
Hãy dọn cho Ngài, không phải một máng cỏ nghèo hèn tả tơi, mà một cung điện rực rỡ tình yêu, rực rỡ những cố gắng hy sinh, rực rỡ những bông hoa bác ái chân thành.
Hôm nay, Chúa đang đến với chúng ta qua tấm bánh nhỏ, một nhập thể gần như hằng ngày. Chúng ta đón tiếp Ngài với tâm tình nào? Ngài làm thân bé nhỏ để được yêu thương hơn. Chúng ta có thực sự yêu mến Ngài không? Chúng ta có làm cho Ngài được yêu thương hơn không?
Lạy Chúa, xin hãy đến.
22.Sinh một con trai--Lm. Trầm Phúc
Một tin vui đã được loan báo âm thầm trong một làng vô danh Na-da-rét: “Bà sẽ sinh một bé trai và đặt tên là Giê-su” (nghĩa là cứu thế).
Không ai biết, không ai hay, chỉ có một cô con gái “đầy ơn phước” lãnh nhận Tin Vui này. Nhưng hôm nay, tin vui đó đã lan tràn ra khắp thế giới, hơn hai mươi thế kỷ. Hôm nay, tất cả chúng ta cùng với Maria, đón nhận tin vui đó. Chúng ta đón nhận như thế nào?
Giáo Hội đang vui mừng. Chúng ta hãy nhảy mừng vì Giê-su, Đấng Cứu Thế sẽ đến. Giáo Hội vui mừng, nhưng quanh ta, thế giới vẫn dửng dưng hững hờ xem đó như một tin rao vặt, chẳng ích lợi gì cho ai, có chăng là một dịp tốt để những người kinh doanh có thêm một nguồn lợi khi bán những sao đèn giáng sinh…
Mặc cho người đời “thương mại hóa” Tin Vui đó, chúng ta, “những người nghèo của Thiên Chúa”, những người tin vào tình yêu, sẽ thắp lên trong tâm hồn chúng ta ngọn đèn hy vọng.
Chúa đến không ai hay…
Cả một lịch sử dài, cả một đoàn ngôn sứ đã chuẩn bị và đợi trông ngày trọng đại và thánh thiện này.
Người Do thái cũng nóng lòng đợi trông, nhưng họ đợi trông một Đấng Cứu Thế theo ý họ, một Đấng Cứu Thế oai hùng, sẽ đến đánh đông dẹp bắc, đưa dân Do Thái vào vinh quang trần thế, bá chủ hoàn cầu.
Họ chạy theo một ảo ảnh. Và Thiên Chúa không thỏa mãn ước mơ trần thế đó.
Ngài đến không ai hay: “Tư tưởng của Ta không như tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không giống đường lối các ngươi”.
Đường lối của các ngươi? Là cởi đầu thiên hạ… Thiên Chúa không như thế. Ngài xuống thế làm người, Ngài đến không ai hay, vì người ta đón Chúa trước cổng đền vua với lộng cờ đầy đủ. Nhưng Chúa lại đến trong một hang đá nghèo nàn, đáng thương.
Vậy đâu là đường lối của Chúa?
Người đến để cứu vớt, và để yêu thương.
Chúng ta đang chờ đón Thiên Chúa khiêm hạ và đầy tình thương.
Đấng đang đến, Đấng chúng ta đang đợi chờ là Con của Tình Yêu: “Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Người cho thế gian”.
Bao nhiêu đó đủ cho chúng ta vui chưa?
Cuộc sống này là gì? Một cuộc chạy đua gian khổ. Nhiều người không biết mình đang đi đâu. Thời gian cứ trôi không ngừng. Mọi thành công thất bại của chúng ta tàn lụi thê thảm như những lá khô trên đường.
Chúng ta cần bám vào cái gì vững chắc.
Chỉ có Thiên Chúa thường hằng bất biến mới vững chắc. Chúng ta chỉ bám vào Ngài thôi, không có nơi nào khác. Chúng ta được yêu thương tràn đầy và tình thương này không phai nhạt theo ngày tháng. Chúa Cha diễn tả tình thương của Ngài bằng một món quà vô giá: “Một người Con đã được ban cho chúng ta”.
Hôm nay, chúng ta nhớ lại cuộc trao đổi giữa trời và đất.
“Bà sẽ sinh một bé trai và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả và được gọi là Con Đấng Tối Cao”.
Thiên Chúa cao cả phải cần đến một người để cứu mọi người!
Maria có hiểu được những lời đó không? Chúng ta có thể nghĩ rằng Maria đã hiểu đầy đủ, vì ngài đã được nuôi dưỡng từ nhỏ bằng Kinh Thánh. Con Đấng Tối Cao có nghĩa gì? Chắc Maria không thể hiểu khác được. Các thanh nữ thời bấy giờ vẫn mơ ước được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Maria đã hiểu nhưng nàng không vội nhận lời. Nàng không nuôi mộng làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nàng là một cô gái vui tươi nhưng trầm lặng. Nàng hỏi lại: “Làm sao có thể như thế được, vì tôi không có chồng?”
Nàng quí chuộng sự trinh khiết hơn làm mẹ Đấng Tối Cao?
Không, không thể như thế.
Nàng không hiểu làm sao Thiên Chúa có thể làm một việc cao cả như thế, làm sao nàng có thể sinh ra một em bé khi nàng không có chồng?
Một sự khôn ngoan lạ thường nơi một thiếu nữ quê mùa dốt nát, trong một trí óc non nớt của một thanh nữ vừa đến tuổi cặp kê!
Nàng đã được đính hôn với một thanh niên nghèo tên Giu-se, sao nàng lại có thể nói: “Tôi không có chồng?”
Thiên Chúa đã tiên liệu tất cả từng chi tiết. Đứa Con Thần Linh của Chúa sẽ đến trần gian… không lẽ là một đứa trẻ không cha? Hơn nữa Kinh Thánh từ xa xưa đã tiên báo, Đấng Cứu Thế sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít. Giuse sẽ đóng vai trò là cha của Đấng sẽ đến và thuộc dòng Đa-vít. Thật là tuyệt diệu! Tất cả đã sẵn sàng cho một Thiên Chúa nhập thể. Thánh vịnh bảo: “Hãy chiêm ngắm những kỳ công của Thiên Chúa” Đây phải chăng là một kỳ công?
Trước mặt thế gian, Giuse là chồng của Maria, trước mặt Thiên Chúa, người là tôi tớ. Người bạn hiền mà ông sẽ nhận về nhà, là “nữ tỳ khiêm hạ của Thiên Chúa” thì ngài chính là người bảo trợ trung thành. Ngài biết đứa trẻ là ai và Maria là ai. Chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nhờ sự vâng phục của con người. Thiên Chúa có thể làm mọi sự mà không cần đến ai, nhưng Chúa muốn sự tham dự tự do và chân thành của con người. Chúa tạo nên chúng ta không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng muốn cứu chuộc chúng ta, Ngài chờ chúng ta ưng thuận. Sự tôn trọng của Thiên Chúa đối với tạo vật của Ngài. Như thế, con người được mời gọi vào tạ ơn và tôn thờ.
“Làm thế nào có thể như thế được vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Bà”. Mọi sự đều được giải quyết. Thánh Thần sẽ can thiệp, Quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì con người không thể làm. Đây không phải là việc của con người mà là của Thiên Chúa toàn năng. Đứng trước quyền năng của Thiên Chúa, con người chỉ có quyền khuất phục. Sứ thần còn cho một bằng chứng: “Kìa bà Ê-li-sa-bet, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng còn cưu mang một người con trai… đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Maria không còn có thể hồ nghi hay thắc mắc gì cả: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện nơi tôi như lời sứ thần nói”.
Sự vâng phục của Maria đã khởi đầu cho một thế giới mới, thế giới của ân sủng. Trẻ nhỏ được báo tin là Con Đấng Tối Cao. Người sẽ nhận lãnh ngôi báu Đa-vít, tổ phụ Người và triều đại Người sẽ vô cùng tận. Sự vĩnh cửu đã tràn vào thời gian, ngập tràn thế giới. Sự hư vô sẽ mặc lấy vĩnh cửu. Hết rồi, những ngày u tối… Ánh sáng thần linh đã đến trong ngục tối của tội lỗi. Chúng ta có thể ngẩng đầu lên và tin cậy. Hy vọng có thể nở tràn như vườn hoa muôn sắc. Mùa xuân của nhân loại đã khởi đầu. Maria, người nữ quê mùa đã trở nên cung điện của Vua Cả trời đất. Linh thiêng biết bao giây phút “xin vâng”!
Niềm vui trào dâng từ nơi môi miệng của “nữ tỳ Thiên Chúa”! Sự Cao Cả vô song đã kết hợp với sự nhỏ hèn tro bụi của trần gian. Đấng mà trời đất không thể chứa nổi đã trở nên con cái loài người.
Ôi nhiệm mầu của yêu thương!
Hãy vui mừng lên, hỡi Giê-ru-sa-lem! Vì Thiên Chúa đã đoái nhìn đến “phận hèn tớ nữ” - tớ nữ không chỉ là Maria, mà là những tâm hồn biết xin vâng. Trong tiếng xin vâng của Maria tàng ẩn tiếng xin vâng của cả nhân loại thành tâm là chúng ta, những người đã được diễm phúc nhận lấy niềm tin.
Đấng đã đến trong lòng trinh nữ Maria, hôm nay cũng sẽ đến trong mỗi người nhờ tấm bánh thần linh, bánh từ trời xuống, bánh ban sự sống đời đời. Chúng ta hãy thưa với Ngài tiếng “xin vâng” của chúng ta, để cuộc sống đầy cơ cực lo toan này, trở thành lời ca ngợi không ngừng Đấng đã thân hành đến với chúng ta, và mang ơn cứu độ cho chúng ta. Hãy vui mừng và tạ ơn vì tình thương tuyệt vời của Chúa.
23.Nữ Tỳ của Chúa--AM Trần Bình An
Chiều mùa đông đã thắp sáng đèn các cửa hàng lộng kính. Dòng người tất bật trên đường phố lát đá chẻ, tiếng nhạc réo rắt bắt đầu trổi lên. Vang vọng giữa các tòa nhà, phố xá, dội vào người qua kẻ lại, khiến họ tự hỏi nhạc phát xuất từ đâu. Một số cặp mắt đổ dồn về người đàn ông tuổi 60, đầu hói và lún phún râu quai nón, đứng đơn độc, khoan thai giữa chốn thị tứ, với một chiếc mũ dưới đường trước mặt.
Rồi người đàn ông bắt đầu cất tiếng hát. Dần dần nhiều người dừng chân lắng nghe. Giọng opera cao vút của ông phản ánh tài năng đẳng cấp cao. Buồn thay, vẫn có những người vô cảm tiếp tục rảo bước bỏ qua, vội vã mua sắm. Nhưng đám thính giả dần tăng lên. Bị quyến rũ bởi những giai điệu mượt mà, êm ái và sang trọng, vài người bỏ tiền vào mũ. Hai cháu bé hồn nhiên dắt tay nhau cho một đồng xu. Dăm ba nụ cười tươi tắn, đồng cảm, vài kẻ kín đáo, vụng về lau những giọt nước mắt xúc động, thấm thía lời thánh ca Ngài Nâng Đỡ Con (You Raise Me Up). Hình như khán giả đều ngây ngất, xuất thần theo giọng ca điêu luyện của Martin Hurkins, người chiến thắng của "Holland’s Got Talent 2010."
Từ lâu nay, Martin Hurkins, được dân chúng Hòa Lan thân thương gọi bằng biệt danh Paparotti (danh ca Italy Luciano Paparotti). Ông vốn là thợ làm bánh. Đã từng mơ ước làm ca sĩ, nhưng vì mưu sinh và trách nhiệm gánh vác gia đình, mà ông đành kiên nhẫn chờ đợi ngày hiện thực ước mơ của mình. Sau khi về hưu được hai năm, thì gia đình ông khuyến khích đi thi "Holland‘s Got Talent 2010.” Martin Hurkins đã đoạt giải trong sự khiêm nhu. Ông xúc động, quỳ gối cảm tạ Thượng Đế. Và từ đó ông thường đi hát rong, ca ngợi Chúa ở ngoài đường phố. Thật là một cách rao giảng Phúc Âm tuyệt vời, một tông đồ âm thầm của Thầy Giêsu.
Nhìn hình ảnh lần đầu tiên Martin ra mắt khán giả với bộ quần áo nghèo nàn, với hàm răng ngả vàng, cái còn cái mất vì tuổi tác, vì vất vả mưu sinh. Rồi so sánh với hình ảnh ngày vinh quang ông đạt được, một Martin ăn mặc bảnh bao, hàm răng trắng tinh không mất cái nào. Tiếp đến, nhìn ngắm ông đứng ngoài đường phố, thành kính cất lên bài Thánh ca Ave Maria của Schubert, thì không ai không rung động, đồng cảm và mến phục. Và họ cảm tạ Chúa đã dùng người thợ về hưu này làm vườn nho cho Ngài vào giờ thứ 11. Xin Chúa tiếp tục chúc lành cho Martin. (Theo David A. Sargent & DT)
Người thợ Giờ Thứ 11 Martin Hurkins đã noi gương Mẹ Maria khiêm nhường, vâng phục, yêu thương và phục vụ. Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hôm nay Thánh Luca tường thuật Đức Mẹ Maria được Sứ thần Gabriel truyền tin.
Mẹ khiêm nhu
Cô Maria đang ngồi xe chỉ luồn kim, miệng thầm hát Thánh vịnh, thì Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel hiện đến bái lậy, cất lời chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô.” Khiến Cô giật mình, ngạc nhiên, hốt hoảng, đứng bật dậy, bẽn lẽn, dịu dàng cúi mình đáp lễ.
Sau khi nghe Sứ thần Gabriel loan báo tin vui, Cô bắt chéo tay trên ngực, cúi xuống rất sâu, kính cẩn thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời Sứ Thần truyền.”
Một Eva mới khiêm nhu, đơn sơ, hạ mình, xóa tan đi hình ảnh Eva xưa kiêu căng, ngạo mạn, tham lam, đồng lõa với con rắn gian xảo, lừa gạt, nổi loạn. Eva cũ dìm nhân loại vào cõi chết. Eva mới đồng công cứu chuộc, giải thoát con người khỏi bóng tối tử thần, dẫn vào đời sống huy hoàng, vĩnh cửu.
”Đức Maria càng khiêm tốn, thì càng trong sáng, vì càng thấy rõ những sự kỳ diệu Chúa làm trong lòng Mẹ. Như ánh sáng qua một bóng đèn thủy tinh không vướng bụi.” (Đường Hy Vọng, số 512)
Mẹ vâng phục
Mẹ Maria nhận mình là nữ tỳ hèn mọn, trở nên hư không trước mặt Thiên Chúa. Tuyệt đối xả kỷ, bỏ mình, coi mình chỉ là công cụ của Chúa, ngoan ngoãn vâng theo Thánh Ý nhiệm mầu, sẵn sàng đón nhận sứ vụ cao cả, cưu mang Đấng Cứu Thế. Hai tiếng ”Xin Vâng” đủ nói lên tấm lòng tùng phục vô điều kiện, lòng trung thành, biết ơn và hoàn toàn kính trọng. Hai chữ đó, còn bộc lộ tình yêu dâng hiến tuyệt đối của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Eva cũ bất tuân, bất trung, bất nghĩa, thì Eva mới hoàn toàn trái ngược. Mẹ trung kiên cho đến khi lìa trần về trời, dù chịu bao gian nan, đau khổ, thách đố từ khi Mẹ thưa hai chữ ”Xin Vâng.”
”Xem một tâm hồn vui vẻ và nhanh chóng vâng phục chừng nào, con đoán được tâm hồn đó thánh thiện chừng nấy.” (Đường Hy Vọng, số 392)
Mẹ yêu thương
Tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần, Mẹ không vị kỷ, giữ làm của riêng, nhưng yêu thương chia sẻ cho tha nhân. Mẹ mau mắn đi thăm bà chị họ Elisabeth già nua, cũng được đặc ân thụ thai được sáu tháng.
Trong tiệc cưới Cana, Mẹ yêu thương đôi tân hôn nghèo túng, khẩn cầu Con Mẹ ra tay cứu giúp, khỏi mất mặt, thất lễ với khách mời dự tiệc.
Được Chúa trao phó, Mẹ nhận lấy Gioan và các tông đồ làm con Mẹ. Rồi toàn thể tín hữu Kitô cũng được ưu ái, trở thành con Mẹ dấu yêu. Biết bao lần Mẹ thân thương hiện ra với những ai yêu mến Mẹ, tín thác vào Mẹ, khẩn nguyện, van xin Mẹ chở che, phù hộ.
“Mẹ có thể hiện ra nơi đô thị, trong các Vương Cung Thánh Đường, cho các nhân vật quan trọng, các nhà thần học. Nhưng Mẹ đã chọn nơi hoang vu, núi đồi, xa vắng, với những kẻ chất phác, vì Mẹ muốn đến với những người không ai thèm đến, đến những chỗ không ai muốn đến. Mẹ muốn con cùng đến với Mẹ.” (Đường Hy Vọng, số 930)
Mẹ phục vụ
Từ khi thưa hai tiếng “Xin Vâng,” Mẹ đã toàn tâm toàn ý hiến dâng trọn đời phục vụ Thiên Chúa. Âm thầm mang nặng đẻ đau, chăm sóc, dưỡng nuôi Hài Nhi Giêsu. Lo lắng bôn ba tỵ nạn xứ người. Thất thần lạc mất Con. Rồi cùng Con lận đận, rong ruổi trên đường rao giảng. Đau đớn theo Con lê bước trên đường chịu nạn. Thổn thức dưới chân thập giá với Con sinh thì. Mẹ lại tiếp tục cưu mang, đồng hành cùng những người con mới, ông Gioan, các Tông đồ và tín hữu Kitô. Mẹ xứng đáng nhận lời khen ẩn ý: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta."(Mc 3, 35)
“Không gì quý bằng món quà lòng Mẹ Maria tặng cho chúng ta: Chúa Giêsu, món quà duy nhất. Chính lòng Đức Mẹ cũng quý nhất, vì “Giêsu Con lòng Bà.” (Đường Hy Vọng, số 923)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con noi gương Mẹ, sống khiêm nhường, vâng phục, yêu thương và phục vụ, để chúng con xứng đáng trở nên anh em của Người.
Lạy Mẹ Maria, nữ tỳ trung thành của Thiên Chúa, xin Mẹ dẫn dắt chúng con tiến triển con đường nhân đức, bằng cách học theo Mẹ, tuân theo Lời Chúa, để được hội ngộ cùng Mẹ vĩnh viễn. Amen.
24.Thiên Chúa viếng thăm dân Người--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Vào một buổi tối trong một kỳ nghỉ đông lạnh lẽo, một đứa bé trai khoảng sáu bảy tuổi đang đứng phía ngoài cửa sổ của một cửa hàng. Cậu bé không có giày để mang, quần áo của cậu thì rách rưới.
Một phụ nữ trẻ đi ngang qua, cô nhìn thấy cậu bé và cô đọc được nỗi khao khát trong đôi mắt xanh của cậu bé. Cô nắm lấy tay cậu bé và dẫn cậu vào trong cửa hàng rồi cô mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.
Sau đó cô dắt cậu trở ra và nói với cậu: "Bây giờ cháu có thể trở về nhà và có một kỳ nghỉ đông thật hạnh phúc".
Cậu bé chăm chú nhìn cô rồi hỏi: "Cô có phải là Thượng đế không?".
Người phụ nữ nhìn cậu bé, mỉm cười và trả lời: "Không cháu à, cô chỉ là một trong số đứa con của Thượng đế".
Quả thực, "chúng ta đều là những người con của Thương Đế thôi". Mỗi người chúng ta đều là thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài. Hình ảnh Ngài là tha nhân, là bạn bè, là những người thân quen hay xa lạ mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống. Hình ảnh Ngài đang hiện diện qua những người yếu đuối, bất hạnh và nghèo khó đang cần chúng ta chăm sóc chở che. Có thể nói: Thiên Chúa cũng đang viếng thăm chúng ta qua những phận người đói rách lầm than, hay những phận đời bơ vơ túng quẫn trăm chiều. Thế nên, là con của Thiên Chúa chúng ta phải sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại để có thể làm điều gì đó tốt đẹp nhất cho tha nhân. Tình yêu sẽ giúp chúng ta liên đới với nhau thay vì vô cảm thiếu trách nhiệm với nhau.
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2,000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh đón tiếp Thiên Chúa viêng thăm một cách rất âm thầm nhưng đầy thân tình. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một là cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói: lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư, chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa Giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen.
25.Emmanuel--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Anh chị em thân mến!
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Đây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài thụ tạo chúng ta. Là niềm vui cho những ai biết mở lòng đón nhận Ngài. Là hạnh phúc cho những ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Ngài.
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm. Một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh là người đầu tiên đón Chúa đến viếng thăm. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không đánh mất cơ hội có thể nói ngàn năm có một. Lời thưa xin vâng lúc này là lời thưa đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa này đã vẽ lên một trang sử mới trong cuộc đời cô và lịch sử của nhân lọai cũng bước sang một trang sử mới. Thời đại công nguyên đã bắt đầu. Thời đại hồng ân mà Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Nhưng đáng tiếc là ngày Thiên Chúa đến trần gian lần thứ nhất nhiều người đã đánh mất cơ hội triều bái người. Nơi máng cỏ Belem năm xưa chỉ có Thánh Giuse, Đức Maria và các mục đồng. Những người trí thức và các thầy Lê-vi vẫn loay hoay với mớ kiến thức giáo lý của mình. Vẫn cố gắng dùng trí khôn con người để hiểu chương trình Thiên Chúa. Nhưng đường lối của Thiên Chúa vượt xa trí hiểu con người nên họ đã không thể nhận ra Con Thiên Chúa lại sinh ra trong cảnh cơ hàn.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời tới từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Ngài. Hãy quảng đại để chấp nhận Ngài. Hãy dấn thân và phục vụ Ngài nơi những anh em bất hạnh lầm than.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là “sinh vô gia cư, chết vô địa táng”. Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà còn ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen.
26.Thiên Chúa viếng thăm dân Người--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một người rất đạo đức và thánh thiện. Ông ao ước được tiếp đón Chúa một lần trong cuộc đời. Và rồi, Thiên Chúa đã nhìn đến lòng thành của ông, Ngài đã nói cùng ông qua giấc chiêm bao: "Ngày mai Ta sẽ đến viếng thăm ngươi". Ông quá đỗi vui mừng. Ông đã bắt đầu một ngày mới tràn đầy niềm vui và phấn khởi. Ông chuẩn bị phòng ốc thật sạch sẽ. Ông chuẩn bị bữa ăn thịnh soạn để tiếp đón Chúa. Sau đó, ông ra đến tận cổng để chờ đón Chúa. Và khi ánh bình minh ló rạng, ông hồi hộp chờ đón Chúa, nhưng không thấy Chúa, ông chỉ thấy một ông lão ăn xin, rách rưới, tả tơi. Người ăn xin đến van xin ông chút cơm bánh lót dạ, nhưng ông đã xua đuổi người ăn xin, vì ông đang chờ vị thượng khách. Và rồi, tiếp sau là một người lữ hành, lỡ bước đang cần sự trợ giúp của ông, nhưng ông vẫn từ chối. Cho đến khi bóng chiều đã ngả sau lưng đồi, ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu, bệnh tật đến van xin lòng tốt của ông, thế nhưng, ông vẫn từ chối giúp đỡ. Ông thất vọng, vì cả ngày chờ đợi mà không thấy Chúa đến. Ông thầm trách Chúa đã không giữ lời hứa với ông. Thế nhưng, Chúa lại nhỏ nhẹ trách ông: "Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần, nhưng đều bị ngươi khước từ".
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh là người đầu tiên đón Chúa đến viếng thăm. Người thiếu nữ ây tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói: lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời côi. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư, chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phương thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen.
27.Đũa thần nào biến Maria thành Mẹ Chúa?--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Câu chuyện được thánh Luca kể trong đoạn Tin Mừng này có phần giống chuyện cổ tích về chiếc đũa thần và Cô bé Lọ Lem. Cô Bé Lọ Lem Cinderella nghèo nàn xấu xí bỗng dưng trở thành nàng công chúa cực kỳ xinh đẹp chỉ bằng cái phất nhẹ chiếc đũa thần của một Bà tiên.
Chúng ta hãy đọc kỹ những mô tả của Thánh Luca về tình trạng "đã là", "đang là" và "sẽ là" của Maria:
- Tình trạng đã và đang là của Maria thì rất tầm thường: một thôn nữ sinh sống ở làng Nadarét vô danh rất ít người biết đến, (làng vô danh thì người cũng tiểu tốt); mang một cái tên khá phổ biến là Maria (chứ chẳng công tằng tôn nữ gì cả). Có sách vở ca tụng Mẹ, nên tôn tên Maria có nghĩa là công chúa. Thực ra nhiều người mang tên này lắm. (Nguyên trong Tin Mừng thôi đã có ít là 3 người phụ nữ khác cũng mang tên Maria như thế: Maria Cleopas, Maria Magdala, và Maria em Matta)
Lý lịch của nhân vật thứ nhất trong câu chuyện của Luca chỉ có thế, không như lý lịch của nhân vật thứ hai là Giuse dù sao cũng còn được ghi kèm là "thuộc dòng dõi vua Đavít".·
- Nhưng tình trạng sẽ là của Maria thì khác hẳn: Maria
"sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và đặt tên là "Giêsu".
Đứa con đó "sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao.
Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người.
Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời,
và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận".
Cô thôn nữ tầm thường Maria sẽ là mẹ của Đấng Cứu Tinh thiên hạ. Chiếc đũa thần chính là quyền năng của Thiên Chúa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Mà giây phút chiếc đũa thần vung lên chính là lúc Maria thốt lên lời Fiat.
Trong Kinh Truyền Tin, chúng ta vẫn đọc "Phút ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người".
Trước tiếng Fiat, Maria là Cô Bé Lọ Lem,
sau tiếng Fiat, Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế.
Tiếng Fiat nhiệm mầu giống câu thần chú "Vừng ơi mở ra" trong “Alibaba và 40 tên cướp” vậy!
Nhưng Fiat là gì? Fiat không hẳn là "Xin vâng", vì " xin vâng" hàm ý là “Maria sẽ làm” theo ý Thiên Chúa, phần chủ động vẫn là phía con người.
Mà nếu như để con người làm thì con người có làm được gì đáng kể đâu. Bàn tay yếu ớt của Cô Bé Lọ Lem làm sao nhặt lựa cho hết mấy thúng hạt đậu trắng đen lẫn lộn (giống chuyện Tấm Cám của ta). Cô thôn nữ Maria làng Nadarét làm gì được để cứu độ cả thế giới loài người.
Đúng hơn, Fiat là "Xin Chúa cứ làm nơi tôi", chính Chúa làm chứ không phải Maria làm. Phần của Maria chỉ là để cho Chúa làm, bằng chiếc đũa thần quyền năng của Ngài. Và khi chiếc đũa thần ấy vung lên, Maria cảm nghiệm "Chúa đã làm cho tôi bao điều cao cả" (Đáp ca).
Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng Maria hoàn toàn thụ động, cứ ở yên để Chúa làm, vậy thôi.
Quả thật, phần cộng tác của Mẹ không nhỏ chút nào:
- Maria muốn một tương lai êm ả, nhưng “Chúa làm” cho tương lai ấy hoàn toàn đổi hướng với biết bao xáo trộn.
Thử tưởng tượng một thiếu nữ mang thai trước khi về nhà chồng. Biết bao rắc rối và khổ tâm đối với cha mẹ mình. Biết bao khó xử đối với gia đình, với họ nhà chồng và nhất là với người chồng sắp cưới.
- Và để “Chúa làm,” có nghĩa là mình không làm chủ đời mình nữa nhưng giao trọn dòng đời cho Chúa định hướng, miễn sao mọi sự đi đúng chương trình của Ngài.
Dù sao, Maria vẫn tin rằng Chúa sẽ hướng đời Mẹ đến chỗ tốt đẹp:
"Phận nữ tì hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới.
Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc" (Đáp ca).
Chúng ta cũng là những cô bé lọ lem. Thiên Chúa có chiếc đũa thần kỳ diệu "không có gì mà Thiên Chúa không làm được". Làm thế nào để Thiên Chúa vung chiếc đũa thần ấy lên cho đời ta được biến đổi? Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ thưa lên lời Fiat: " Xin Chúa cứ làm nơi con"
Những ai đã đọc Tam Quốc Chí, hẳn phải biết Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang mà ai cũng mến chuộng. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say quá nên làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: “Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta”. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép và kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy mà chẳng một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ lại đánh rơi chiếc dép lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: “Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta”. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: “Thằng bé này dạy được đây”. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần là nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, chúng ta lại nhớ đến Đức Mẹ.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gáp-ri-en, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Maria sẽ là Mẹ Thiên Chúa.
Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Ê-li-sa-bét đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm cung. Càng khiêm cung càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm cung thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Đũa thần sẽ vảy trên chúng ta để biến ta từ cô bé lọ lem thành công chúa Nước Trời, từ chàng trai sọ dừa thành hoàng tử thiên quốc, khi chúng ta khiêm tốn xin vâng, “xin để Chúa làm” như Maria xưa.
28.Đức Chúa ở cùng chúng ta--Peter Feldmeier--Lm. Văn Hào SDB chuyển ngữ
“Quyền năng Đấng tối cao sẽ phủ bóng trên Bà” (Lc 1,35).
Hai Chúa Nhật vừa qua, các bài đọc Kinh Thánh trong phụng vụ giới thiệu cho chúng ta sứ mạng của Gioan Tiền hô. Lời Chúa hôm nay trình thuật biến cố truyền tin cho Đức Maria, khi Gioan còn trong bụng mẹ. Xét về trình tự thời gian, có vẻ như không hợp lý, nhưng các bài đọc Kinh Thánh lại ẩn chứa một ý nghĩa thần học rất sâu xa. Gioan Tiền hô tổng tóm những gì cựu ước nói tới. Ngài là hình tượng của Isaia, khi công bố kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa. Isaia từng loan báo, ngày của Chúa sẽ đến, một ngày đầy khiếp hãi. Gioan Tẩy giả vang vọng lại lời hứa ấy, trong khi Đức Giêsu đến trần gian để làm cho lời Thiên Chúa hứa được thực hiện cách tròn đầy.
Lời Chúa hứa được nhắc tới trong bài đọc thứ nhất. Vua Đavid đã đến cư ngụ tại Giêsusalem và lúc bấy giờ ông mong muốn xây một ngôi đền cho Đức Chúa Giavê. Ngôn sứ Nathan, dưới triều vua Đavid, coi đó như một ý định tốt lành, nhưng Thiên Chúa lại có một kế hoạch khác. Thay vì Đavid xây nhà cho Thiên Chúa, thì chính Chúa lại xây nhà cho ông. Từ ngữ bayit, là một cách chơi chữ, vì nó vừa có nghĩa là nhà ở, đồng thời cũng mang nghĩa là triều đại. Đavid có ý định xây một đền thờ, xây một ngôi nhà, một bayit cho Chúa, nhưng Thiên Chúa lại củng cố bayit của Đavid, cũng là xây nhà cho Đavid, hay xây dựng triều đại của ông. Thiên Chúa hứa một điều rất khác thường. “Nhà của Ngươi và triều đại Ngươi sẽ đứng vững mãi mãi trước nhan Ta. Ngôi báu của Ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”.
Lời Chúa hứa dành cho Đavid được dân Israel khắc ghi trong tâm khảm. Dân Do Thái coi đó như một giao ước rất rõ ràng và minh nhiên (Hc 45,25). Có phải Thiên Chúa đã hủy bỏ giao ước, khi vương quốc Đavid sụp đổ, và dân Chúa phải đi lưu đày? Thiên Chúa đã hứa, thế thì phải chăng Ngài đã hủy bỏ điều mà Ngài đã ký kết? Hay vì tội lỗi của dân quá lớn và quá nhiều, khiến Thiên Chúa bỏ rơi dân Ngài? Sau này Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Nếu ta không trung tín, Thiên Chúa vẫn luôn tín trung, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,13). Nhưng dường như ở đây, xem ra có vẻ như Thiên Chúa đã không tín trung, đã thất hứa với lời thề thốt của mình. Có đúng như thế không? Chắc chắn không phải vậy.
Trong bài Tin Mừng, qua biến cố truyền tin cho Đức Maria, thần sứ đã nêu ra câu trả lời trước vấn nạn trên. Chuyện thất tín không bao giờ xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ quên giao ước Ngài đã hứa. Trong phần đầu tiên, Gabriel đã chuyển tải sứ điệp để trả lời cho khúc mắc đó. “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ trao cho Người ngai vàng vua Đavid tổ tiên Người, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô tận”(Lc 1, 32-33). Tiếp theo, thần sứ nói với Đức Maria một điều vượt quá sức tưởng tượng: “Chúa Thánh Thần sẽ phủ bóng trên Bà, và hài nhi được sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Từ lời hứa trong cựu ước, đến việc thực hiện khi Đức Giêsu đến trần gian, đã được Tân ước diễn bày qua những cách nói biểu trưng. Các tác giả Tân ước, nhìn lại những biến cố của cựu ước như chìa khóa tiên báo và là những hình tượng tiên báo các thực tại sau này. Adam trong cựu ước là hình ảnh nói về Đức Giêsu (Rm 5,14). Elia là khuôn mẫu của Gioan Tẩy giả (Lc 1,17). Dân Israel là hình tượng biểu thị cho Giáo Hội (1 Ph 2,a). Chúng ta cũng có thể nói về Đức Maria với hình ảnh biểu trưng trong Cựu ước giống như thế. Đức Maria là hình mẫu tròn đầy nhất mà dân Israel đã phác vẽ. “Trinh nữ”, hoặc ý niệm về “Người Con Gái Trinh Nữ” là danh xưng ám thị Israel. Lời chào của Thần sứ “Chaire” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là kính chào, hoặc “Hãy vui lên”, phác vẽ lại hai lời công bố trong cựu ước. Một, là loan báo quyền năng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện để mang lại sự cứu thoát, và hai, là lời hoan vui “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion”(Gio 9,9; Sop 3, 14-17).Qua một hình ảnh khác, Đức Maria được loan báo cho biết “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên Bà”. Đây là thuật ngữ mà bản Kinh Thánh 70 (septuagint) đã sử dụng để diễn tả sự kiện vinh quang của Thiên Chúa phủ ngập trên lều Chứng Ước. Trong căn lều đó, ánh sáng chói lọi và vinh quang của Thiên Chúa luôn luôn ngập tràn (Xh 40,35).
Maria là dung mạo hiển thị Israel trong Cựu ước. Sự trung tín của Đức Maria cũng tương hợp với sự trung thành của dân Chúa khi thực hiện giao ước. Đức Maria là đền thờ của Thiên Chúa. Tâm hồn Mẹ luôn tràn ngập vinh quang Ngài. Thiết tưởng, Đức Maria như một tấm gương, qua Ngài chúng ta có thể nhìn ngắm và phản chiếu niềm tin của chúng ta, từng cá nhân cũng như cả cộng đoàn. Tất cả mọi người chúng ta trong lòng tin, chúng ta sẽ là những giai nhân tuyệt mỹ, là con gái Israel không tỳ vết. Chúng ta là đền thờ của Đấng Tối Cao. Và như thế, chúng ta cũng như Đức Maria, là những người mang chở Thiên Chúa trong cung lòng mình. Có thể trong Giáo hội hiện nay, đa phần là những người nam nắm quyền lãnh đạo. Nhưng hình ảnh trên mang tính đặc thù để mời gọi chúng ta, nam cũng như nữ, chúng ta hãy mặc lấy căn tính cao quý này. Chúng ta có bao giờ nghĩ đến điều đó không? Đứng trước viễn cảnh mà thần sứ đã phác dẫn, Maria thực sự bối rối. Nhưng Ngài đã quy thuận Thánh ý Thiên Chúa và thể hiện căn tính cao trọng nơi mình, để trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể thực hiện giống như thế được không?
29.Cuộc hòa đàm lý tưởng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, Hội Thánh cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng quen thuộc: “Sứ Thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Maria”.
Thiên Chúa muốn Con của Ngài xuống thế làm người, để cứu độ nhân loại. Ngài đã muốn người Con ấy là con người giữa nhân loại. Thiên Chúa đã chuần bị cho Con của Ngài một người mẹ trần thế. Người mẹ ấy là Đức Maria, người làng Nadarét, vùng Galilê, nước Paléttin.
Cô Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn vàn phụ nữ trên địa cầu. Ngài chọn Cô chẳng phải vì Cô thánh thiện hơn người khác. Ngài chọn Cô từ khi Cô còn trong lòng mẹ. Ngài tuôn đổ trên Cô tràn trề ân sủng: "Hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô" (Lc 1,28). Được tràn trề ân sủng là được Thiên Chúa mến thương, được đẹp lòng Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho Cô Maria. Ngài đã tạo dựng Cô như một thụ tạo tuyệt vời, độc nhất vô nhị, chỉ vì Ngài muốn Cô xứng đáng trở nên người mẹ cưu mang chính Con Một của Ngài. Maria là một kiệt tác của Thiên Chúa, dù bề ngoài Cô chỉ là một thôn nữ của một ngôi làng nhỏ bé vô danh.Thiên Chúa không ép buộc Cô Maria làm mẹ của Con Một Ngài, dù Ngài đã chuẩn bị cho Cô một cách đặc biệt để đón nhận trọng trách cao cả đó. Ngài tôn trọng tự do của Cô, tự do mà chính Ngài đã ban cho Cô trong tư cách là người. Ngài không đặt Cô trước một sự đã rồi. Ngài muốn hỏi ý Cô, và chờ Cô ngỏ lời ưng thuận.
Phúc Âm Chúa nhật hôm nay kể câu chuyện Truyền tin.
Truyền tin là một Tin mừng muôn thuở. Tin mừng này đã được thực hiện qua một cuộc hòa đàm chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cuộc hòa đàm diễn ra giữa hai nhân vật, đại diện Thiên Chúa và loài người. Đại diện Thiên Chúa là Sứ Thần Gabriel, đại diện loài người là trinh nữ Maria.
Khung cảnh cuộc hòa đàm, không phải trong cung điện vua chúa, lầu các sang trọng. Nơi đó, trong căn nhà thanh bạch nghèo nàn thuộc vùng sâu thôn dã vô danh Nadarét. Khung cảnh thật giản dị, quê mùa, thô sơ, nhưng Thiên Chúa đã chọn làm khởi điểm lịch sử cứu độ vĩ đại.
Maria dù là nữ tỳ nhưng Sứ Thần đến mở đầu cuộc hòa đàm, không phải với thái độ ông chủ truyền lệnh. Ở đây, Sứ Thần hết sức khiêm cung, kính cẩn, lễ phép với lời chào: “Kính mừng Đấng đầy ân phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Khác xa lời cậu thanh niên chào cô thanh nữ. Tử tế lắm, cậu chỉ nói: Chào cô, chào em.
Sứ thần rất trân trọng thôn nữ Maria: vừa chúc tụng kính phục con người thánh thiện khả ái, vừa tôn vinh chức vụ cao sang của Bà được Thiên Chúa ở cùng.
Thôn nữ Maria sợ sự tôn vinh bất thường ấy, và tự nhủ lời chào ấy có ý nghĩa gì? Quả là sự tỉnh thức thận trọng của một thục nữ trinh trong, sáng ngời, đầy khiêm nhu, thùy mị.
Sứ thần đã nhận ra ý từ đó và giải thích thật rõ ràng cặn kẽ, trong suốt: “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, Bà rất đẹp lòng Thiên Chúa, Thiên Chúa ban cho Bà sinh con, đặt tên là Giêsu, Người là Con Đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít …”.
Nhưng, đối với Maria, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” hơn cả ngai vàng vua Đavít, vì Maria đã tận hiến suốt đời đồng trinh cho Thiên Chúa, nên Maria từ tốn đáp lễ: Làm sao có chuyện ấy được, thưa Ngài, vì tôi đã khấn trọn đời đồng trinh.
Sứ thần liền minh giải: “Việc đó rất chí thánh, do Chúa Thánh Thần với quyền phép Đấng tối cao, sẽ soi bóng trên Bà, nên Hài nhi khi Bà sinh ra là Đấng thánh, là Con Thiên Chúa..”
Nhận ra đó là thánh ý Thiên Chúa, Maria đã sấp mình tôn thờ Thiên Chúa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hết lòng vâng theo thánh ý Chúa như lời sứ thần truyền dạy”.
Sứ thần đã thành công trong sứ mạng vô cùng trọng đại. Maria đã hoàn toàn làm đẹp lòng Thiên Chúa, trọn vẹn hiến dâng đồng trinh với chức vụ thiên mẫu lạ lùng.
Đây thật là một cuộc hòa đàm gương mẫu cho muôn đời. Gương mẫu vì cuộc hòa đàm đã diễn ra đúng tinh thần đối thoại và hòa giải.
Đối thoại cần thiết phải có ba tính chất đặc biệt:
- Thứ nhất, hai bên rất khiêm tốn, tôn trọng lẫn nhau.
- Thứ hai, hai bên thưa đáp trình bày ý tứ của mình rất trong sáng, rất đơn sơ và chân thành, mình nghĩ thế nào, lập trường làm sao, cần những điều gì mới đưa đến thành công.
- Thứ ba, hai bên đã nhận ra những ân huệ rất ích chung, rất thánh thiện mà Thiên Chúa muốn thực hiện.
Đây cũng là một cuộc hòa giải hoàn hảo:
- Vì đã giải quyết được những nỗi khó khăn vô cùng phức tạp, loài người không thể gỡ mối tơ vò, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới giải quyết được vấn đề: vừa đồng trinh, vừa sinh con, con Bà vừa là người, vừa là Thiên Chúa.
- Vì đã giải quyết được chương trình cứu độ nhân loại mà Thiên Chúa đã bao lần hòa giải thất bại với bao nhiêu nhân vật từ Ađam Evà cho đến nay. Nay Thiên Chúa mới thực hiện được chương trình thương yêu của Người nơi Đức Trinh nữ Maria.
Thiên Chúa đã giao ước với Ađam Evà, nhưng Nguyễn tổ đã trở mặt theo con rắn satan. Thiên Chúa đã giao ước với Noe, nhưng con cháu đã xây tháp Babel kiêu căng. Thiên Chúa đã giao ước chọn lựa Abraham làm tổ phụ dân Người, nhưng con cái Giacob hằn thù chia rẽ, bán Giuse làm nô lệ cho con buôn Ai cập. Thiên Chúa đã giao ước với Môisen đưa dân về quê cha đất tổ để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng dân Israel đã chiều theo lối sống thờ thần Babylon. Giờ đây, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất là ký kết với Đức Maria, một đầy tớ trung tín và khôn ngoan, luôn luôn làm theo ý chủ mình là Thiên Chúa, một tôi tớ dâng hiến trọn vẹn toàn diện đời mình từ trong bào thai cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã toàn quyền sử dụng Maria theo thánh ý Người. Và Con Thiên Chúa đã xuống cung lòng Maria để ở cùng loài người cho đến tận thế.
Bài Tin Mừng hôm nay thường gọi dưới tựa đề là " Sứ Thần truyền tin cho Đức Mẹ". Nhưng Sứ Thần và Đức Mẹ đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là Đức Giêsu. Trang Tin Mừng này giới thiệu căn tính của Đức Giêsu. Đó là nội dung chính của Truyền Tin. Qua lời của Sứ Thần mà chúng ta biết Giêsu là “Con Đấng Tối Cao", là “Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”.
Đức Maria sẽ nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa. Mẹ sẽ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần "Thánh Thần sẽ ngự trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà.". Vì thế Đấng Mẹ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai Gioan Tẩy Giả đòi hỏi một phép lạ, thì việc thụ thai Đức Giêsu đòi hỏi một phép lạ lớn hơn nhiều, đó là Ngài được thụ thai bởi một Trinh Nữ. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng Mêsia mà dân Do thái hằng mong đợi. Ngài còn là Đấng cao cả, thánh thiện hơn nhiều. Ngài là "Con Thiên Chúa" theo nghĩa viên mãn chưa từng có.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến. Mẹ cầu bàu cho chúng ta trước tôn nhan Chúa. Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa.
Xin Chúa cho chúng con được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng con thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng con biết sống đẹp lòng Chúa hàng ngày. Amen.
30.Yêu cuộc đời, Yêu con người--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Đức Giêsu. Đang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.
Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?
Vậy mà Giáo Hội Kitô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1, 14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người"
Đức Giêsu, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Đức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Đấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Đối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Kitô Giáo lại khẳng định: Điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 1, 23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hướng về Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26 - 38: Truyền tin cho Đức Maria để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô Giáo. Đoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Đức Maria, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong Chúa Nhật này muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Đức Maria, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xinai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng từ "bao trùm lên" không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Đức Maria với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Đức Maria, nơi Đức Giêsu cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Đức Giêsu bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Đức Maria tạo nên hình hài Đức Giêsu. Đức Giêsu mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Đức Maria và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Bài đọc 1 trong sách 2 Sm 7, 1-16: Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavít muốn xây cho Ngài; nhưng traí lại, Thiên Chúa hứa cho Đavít một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavít. Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa, nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó cũng là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong bài đọc 2, Thư Rm 16, 25 - 27.
Qua lời "Xin Vâng" của Đức Maria, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Đau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Đức Giêsu đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phaolô trong Thư Gl 4, 4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Đó là niềm tin vững chắc của người Kitô hữu hơn 20 thế kỷ qua.
Đức Giêsu đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Đức Giêsu, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết" (Ga 15, 15).
Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Đức Giêsu không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.
Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Đức Giêsu mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Đức Giêsu. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Đức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.
Xin Đấng Emmanuel giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.
31.Truyền tin cho cả tôi nữa!--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Rất hợp lý Chúa Nhật 4 mùa vọng trình bày cảnh truyền tin cho Đức Maria, một biến cố cụ thể và thiết thực nhất trong việc thể hiện mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thế nhưng khi Giáo Hội mời gọi tôi chiêm ngắm biến cố đó, có phải chỉ vì muốn kể cho tôi biết về các sự kiện liên quan tới việc Hài Nhi sắp sinh ra để giúp tôi thêm hiểu biết dọn mình mừng lễ Giáng Sinh? Nếu đúng là như thế thì khi chiêm ngắm quang cảnh này, tôi vẫn chỉ là người ngoài cuộc bàng quang, có chăng là chờ đợi để được hưởng một vài kết quả may mắn nào đó mà sự kiện này có thể mang đến cho mình?
“Trong mầu nhiệm Nhập thể Thiên Chúa làm người,” tác giả Brisson đã tóm lược như thế này khi nói về linh đạo của Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, “không phải chỉ một ‘Chúa - Người’ duy nhất có thể kết hiệp với Thiên Chúa. Trong kế hoạch thần linh, không phải Thiên Chúa chỉ kết hợp với một người để biến người đó thành ‘Chúa - Người’, nhưng Ngài còn muốn nhập thể được ứng dụng cho hết thảy mọi người. Qua nhập thể Thiên Chúa muốn đi vào trong tương quan với hết thảy nhân loại. Ngài muốn nhập thể trong mọi người, đương nhiên không phải dưới dạng hai bản tính nên một (hypostatic), nhưng không kém phần hữu hiệu và biến đổi trong tất cả những ai sẵn sàng và chuẩn bị đón nhận… Nhập Thể trên thực tế lan rộng tới mọi phần tử của Nhiệm Thể Đức Ki-tô tức là Hội Thánh.” (Louis Brisson, Cor ad Cor, trg. 143).
Nếu quả đúng là như thế thì biến cố truyền tin khởi đầu mầu nhiệm nhập thể cũng phải là biến cố dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta; chính tôi cũng được truyền tin! Có thể tạm hiểu điều này như sau: Sứ thần [đức tin] đến với tôi, một kẻ thấp hèn, và chào: “Mừng vui lên, hỡi [người] đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng [bạn]”. Tôi sẽ tự hỏi, mình mà được ‘đầy ân sủng’ sao? Chắc đi rồi, vì ân sủng chính là lòng nhân ái xót thương Thiên Chúa hằng đổ tràn trên tôi. Hội Thánh cho biết ân sủng nhân ái này được ban nhưng không (gratis), nghĩa là không do bất cứ công nghiệp nào của tôi. Hơn thế nữa Phao-lô còn muốn tôi hiểu rằng: nơi đâu càng tội lỗi thì ân sủng Chúa càng dư tràn (xin xem Thư Rô-ma chương 5 đặc biệt câu 20). Gia-kêu, đứa con hoang đàng, Ma-đa-lê-na… là một số trường hợp điển hình và tiêu biểu. Mỗi khi nhận ra mình tội lỗi, tôi tạo ra cho Chúa dịp thi thố lòng thương xót thứ tha; lúc đó Thánh Linh hầu như cũng nói với tôi: “Đừng sợ, vì [bạn] đẹp lòng Thiên Chúa… bạn đã làm cho hài nhi Giêsu được sinh hạ nơi mình, vì Hài Nhị giáng trần vốn chỉ với mục đích làm cho mọi người nhận biết tình thương cứu độ của Thiên Chúa”. Đối với Maria trong tư cách một phụ nữ Do Thái, thì sứ thần loan báo: Hài Nhi sắp hạ sinh sẽ “được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”, nhưng đối với một Ki-tô hữu như tôi, hệt như Maria tin yêu trong suy niệm Tin Mừng nơi thẳm sâu cõi lòng, tôi cũng sẽ được loan báo cho biết: Hài Nhi giáng trần chính là ‘Thiên Chúa, Đấng cứu độ…hằng đoái thương nhìn đến phận hèn… đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót… và lòng thương xót đó dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời’ (Lc 1:46-55). Có lẽ trong thâm tâm nhiều lúc tôi cũng đã thốt lên: “Việc ấy xảy ra cách nào… vì con thật không đáng được thương xót thứ tha”. Nhưng tôi nhận được lời đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bạn, và quyền năng Đấng tha thứ sẽ rợp bóng trên bạn, vì thế Đấng Thánh bạn mang nơi mình sẽ được gọi là Con Thiên Chúa cứu độ.” Phúc Âm chỉ cho tôi thấy người phụ nữ ngoại tình, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đã được tha thứ như thế nào, và lúc đó đức tin cũng sẽ chấn an tôi “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được… không có tội nào mà không tha thứ được.” Và lúc đó tôi cũng chỉ có thể khiêm tốn cùng với Maria đáp lại: “Vâng, con đây chỉ là người tội lỗi thấp hèn, Xin Chúa cứ làm cho con như lời hứa của Tin Mừng cứu độ!”
Giáng sinh đã gần lắm rồi! Nếu không thật sự coi việc truyền tin của đức Maria đang được lặp lại với mình mỗi dịp Sinh Nhật, có lẽ hệt như những năm trước, tôi sẽ lại chỉ lo dọn mừng lễ thật to, thật long trọng, nhưng vẫn chỉ như một khách bàng quang cử hành lễ hội; nội dung Giáng sinh vẫn ở xa tít tắp đâu đâu. Truyền tin là cho tôi, và Giáng sinh cũng là cho tôi, vì tôi trong tình trạng hiện sinh của mình cần phải như thế!
Lạy Mẹ Maria, trong bài ca ‘Magnificat’, chính Mẹ đã nội tâm hóa biến cố truyền tin theo suy nghĩ sâu lắng của cõi lòng. Mẹ đã thấu hiểu cưu mang Đấng Cứu Thế chỉ là một phần của điều quan trọng hơn nhiều, đó là nhận biết Chúa hằng thương xót. Xin giúp con hiểu được cuộc truyền tin của con, và cùng với Mẹ, ca ngợi lòng thương xót Chúa trong mùa Giáng Sinh này. Amen!
32.Lời "Xin Vâng" cứu độ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, trước lễ Thiên Chúa Giáng Sinh, tác giả Tin Mừng Luca đưa chúng ta về với biến cố truyền tin diễn ra nơi khung cảnh miền quê Nagiarét. Khởi đầu câu chuyện vĩ đại đã tồn tại trong lịch sử loài người bằng câu: “Khi ấy...”. “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27). Đây không phải là câu chuyện do con người tạo ra trong trí tưởng tượng, nhưng là câu chuyện được thêu dệt bởi chính Thiên Chúa và sự cộng tác của con người xảy ra trong không gian và thời gian, đã hoàn tất cách đây 2017 năm. Bằng cung kể bình dân, dễ tiếp cận, Luca giới thiệu cho chúng ta một số nhân vật theo thời gian, không gian và chủ đề, dẫn chúng ta đến đỉnh cao của câu chuyện là điểm: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai […] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người […] và triều đại Người sẽ vô tận ” (Lc 1, 31-33). Với lời loan báo trên cho chúng ta biết Noel đã gần kề.
Đức Maria, người thôn nữ khiêm hạ miền Nagiarét nghe những lời trên của Sứ Thần Gabriel đã không khỏi kinh ngạc. Maria còn đồng trinh mà nay Thiên Chúa lại muốn Maria làm mẹ, nên hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam!” (Lc 1,34). Trong sự đơn sơ, Maria không hoài nghi quyền năng của Thiên Chúa nhưng muốn hiểu ý định của Chúa hơn, hầu sống trọn ý Chúa. Băn khoăn của Maria được Sứ Thần giải thích, việc giữ mình khiết trinh với việc mang thai Đấng Cứu Thế không có gì là mâu thuẫn, lý do: “Không có việc gì mà Chúa không làm được”. Hiểu được ý Chúa, Maria đã mở lòng mình ra, sẵn sàng cộng tác vào công trình của Thiên Chúa và cất tiếng “xin vâng”. Lập tức “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Thiên Chúa trông chờ tiếng “xin vâng” từ nơi Đức Maria để thực hiện công trình của Chúa. Tiếng “xin vâng” bao hàm cả tình mẫu tử lẫn sự đồng trinh. Mẹ vừa muốn vinh quang Thiên Chúa hiện thực nơi mình vừa muốn Người Con sẽ sinh ra hoàn toàn là quà tặng ân sủng.
Câu chuyện bình dân ấy thực tế nhất đối với Thiên Chúa và nhân loại chúng ta. Chân phước Phao lô VI viết năm 1974 rằng: “Đức Maria là câu trả lời mà Thiên Chúa ban trong mầu nhiệm nhập thể làm người; đó cũng là câu hỏi mà con người tự đặt ra về Thiên Chúa và về chính mình”.
Khi thưa “xin vâng”, lời thưa của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Thánh Bernarđô kêu lên: “Ôi lạy Mẹ, Mẹ là đấng cứu chuộc chúng con. Vì khi Mẹ thưa xin vâng, lập tức chúng con được giải thoát. Toàn thể địa cầu trông đợi lời xin vâng của Mẹ. Lời ấy sinh ra Ngôi Lời Hằng Hữu. Thiên Chúa muốn nghe Mẹ tự do trả lời, Mẹ “đầy ân sủng”, khi Mẹ thưa: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền!” (Lc 1, 38). Từ ấy Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ, hôm nay vai trò Trung Gian của Mẹ khởi đầu. Kể từ đó Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28). Lời “xin vâng” của Mẹ là lời cứu độ.
Thánh Augustinô viết: “Ngài đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn” (x. Bài giảng 69, 3, 4). Thật là cơ hội để chúng ta nhìn vào Nagiaret hầu cảm nhận được sự hiện diện của một trinh nữ mà muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48).
Hôm nay chúng ta không thể quên khuôn mặt đặc biệt của thánh Giuse, vì cả Mẹ Maria và thánh Giuse đều đã sống một cách thật mãnh liệt duy nhất thời gian chờ đợi và chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh với niềm vui thiêng thánh.
Thánh sử Luca trình bày Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria như là vị hôn thê của “một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít” (Lc 1,27). Nhờ và qua thánh nhân, Trẻ Giêsu được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavít”.
Thánh Giuse là mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19); trong sự hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, thánh Giuse tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, trong những ngày trước lễ Giáng Sinh, thật là thích hợp hơn bao giờ hết, để thiết lập một cuộc đối thoại thiêng liêng với Thánh Giuse, với Mẹ Maria, xin các ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm cao cả Ðức Tin này. Nhờ lời “xin vâng ” của Mẹ lúc Truyền Tin, cánh cửa ơn cứu rỗi đã mở ra cho nhân loại.
Xin Mẹ giúp chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thưa “xin vâng ” với Chúa như Mẹ để chúng ta được cứu. Amen.
33.Vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đã ngưng nghỉ nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui “Gaudete” vì những gì đã đạt được, nay lễ Giáng sinh đã gần kề, tâm hồn chúng ta càng rạo rực hơn, nên chúng ta phải làm hết sức những gì có thể để hưởng trọn vẹn niềm vui ngày Chúa giáng sinh.
Khởi đầu Mùa Vọng, chúng ta đã nói lên đặc tính Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, đợi chờ, mùa của cầu nguyện, hoán cải nội tâm, nhưng không thể không vui, vì niềm vui là đặc tính cơ bản của mùa thánh thiêng này. Lý do rất rõ ràng, vui vì: "Chúa đã gần đến" (Phil 4,5).
Lời đầu tiên Sứ Thần Gabriel cất lên chào Đức Trinh Nữ Maria chất chứa niềm vui lớn lao khi mời Mẹ vui lên: "Mừng vui lên, vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng! "(Lc 1, 28) Lời chào trên có liện hệ mật thiết tới sự giáng lâm của Đấng Cứu Thế. Trước khi toàn dân được nhận biết tin vui, thì Đức Maria là người đầu tiên được báo trước (x. Lc 2,10); Mẹ đã tham dự vào niềm vui ấy với cách thế lạ thường. Nơi Mẹ, niềm vui của Israel được viên mãn; với Mẹ, hạnh phúc thời messia tròn đầy. Niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria là niềm vui đặc biệt của dân Israel "còn sót lại" (Is 10,20s), những người nghèo, những người đang chờ đợi ơn cứu rỗi của Thiên Chúa và những người kinh nghiệm về lòng trung thành của Israel.
Chúng ta cũng thế, để tham dự vào lễ Giáng sinh với niềm vui ngập tràn, điều cần thiết là phải khiêm nhường, đón rước Đấng Cứu Thế với trọn niềm tin như lời Chân phước Phaolô VI Giáo hoàng nói: " Tất cả các tín hữu, khi sống tinh thần Mùa Vọng theo phụng vụ, bằng việc nghĩ về tình yêu khôn tả trong việc đón chờ Con của Người Mẹ Trinh Nguyên này, được mời gọi lấy Mẹ làm mô phạm để dọn mình gặp gỡ Chúa Cứu Thế là Đấng phải đến. Họ cần phải “tỉnh thức nguyện cầu và hân hoan … ngợi khen" (Tông Huấn Việc Sùng Kính Đức Trinh Nữ Maria của Chân phước Phaolô VI, số 4).
Hân hoan vì Thiên Chúa ở giữa loài người
Khi đặt mầu nhiệm Nhập Thể vào trong Mùa Vọng, Giáo hội nhấn mạnh đến thời điểm quan trọng của mầu nhiệm Nhập Thể và cứu chuộc.
Thiên Chúa đến "Cắm lều" trong dân Israel, chở chẻ Hòm Bia Giao ước Lời Thiên Chúa, trong suốt hành trình trong sa mạc (x. Ds 9, 17). Vào năm 598 trước Chúa Giêsu giáng sinh, Giêrusalem bị thất thủ, hòm bia mất tích, hòm bia chứng tỏ sự gần gũi Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Sự gần gũi ấy nay được tỏ hiện trong mầu nhiệm Nhập Thể nơi Đức Trinh Nữ Maria, một người nữ trong chúng ta, đã được Sứ Thần cho biết "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ" (Lc 1, 35). Thật là vui khi Thiên Chúa mặc lấy xác phàm ở giữa chúng ta.
Điều mà tưởng chừng như không thể, nay được biểu lộ như lời Sứ Thần nói: "Không có việc gì mà Chúa không làm được" (Lc 1, 37). Cả Đức Maria và Thiên Thần đều đồng ý với nhau về sự hiển nhiên này của đức tin. Lời trên đã được tuyên phán trong sách Sáng Thế khi nói về sự ra đời của Isaac "Thì nào có gì quá ư huyền diệu đối với Thiên Chúa?" (St 18, 14). Nay nói về sự sinh hạ của Chúa Giêsu để mọi người nghe mà hiểu về ơn cứu độ con người là có thể (x. Lc 18, 27). Sự sinh hạ của Con Thiên Chúa giữa loài người và sự hạ sinh chúng ta, một nhân loại mới là công trình của Chúa Thánh Thần.
Đức Maria, Người Mẹ Trinh Nguyên
Trong giây phút đón nhận thánh ý Thiên Chúa, do quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria đã cưu mang Chúa Giêsu bởi Chính Thiên Chúa. Con Thiên Chúa bắt đầu sự sống trong cung lòng Mẹ. Chúa Giêsu là người thật, nói theo ngôn ngữ biểu tượng của Kinh thánh là tạo nên từ đất; nhưng Người đến từ trời cao: "Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao " (Lc 1, 35).
Bởi lẽ đó, đang khi "rất bối rối", Đức Maria đã hỏi: "Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam! (Lc 1,34). Trong sự đơn sơ của mình, Mẹ không hoài nghi quyền năng của Thiên Chúa nhưng muốn hiểu hơn ý định của Chúa hầu sống trọn ý Chúa. Thiên Chúa trông chờ tiếng "Xin vâng" từ Mẹ để thực hiện công trình của Người. Tiếng "Xin vâng" bao hàm cả tình mẫu tử lẫn sự đồng trinh. Mẹ vừa muốn vinh quang Thiên Chúa hiện thực nơi mình vừa muốn Người Con sẽ sinh ra hoàn toàn là quà tặng ân sủng.
Lúc Mẹ thưa "Xin vâng", lời thưa của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Thánh Bernarđô kêu lên: " Ôi lạy Mẹ, Mẹ là đấng cứu chuộc chúng con. Vì khi Mẹ thưa xin vâng, lập tức chúng con được giải thoát. Toàn thể địa cầu trông đợi lời xin vâng của Mẹ. Lời ấy sinh ra Ngôi Lời Hằng Hữu. Thiên Chúa muốn nghe Mẹ tự do trả lời, Mẹ "đầy ân sủng", khi Mẹ thưa: "Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền! " (Lc 1, 38). Từ ấy Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ, hôm nay vai trò Trung Gian của Mẹ khởi đầu. Kể từ đó Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28).
Hôm nay chúng ta không thể quên khuôn mặt đặc biệt của thánh Giuse, vì cả Mẹ Maria và thánh Giuse đều đã sống một cách thật mãnh liệt duy nhất thời gian chờ đợi và chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh với niềm vui thiêng thánh.
Thánh Giuse người công chính
Thánh sử Luca trình bày Đức Nữ Đồng Trinh Maria như là vị hôn thê của "một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít" (Lc 1,27). Nhờ qua thánh nhân, Trẻ Giêsu được đưa vào trong dòng dõi vua Đavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Đấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là "Con của Vua Đavít".
Thánh Giuse là mẫu gương của người "công chính" (Mt 1,19); trong sự hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, thánh Giuse tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa.
Vì thế, trong những ngày trước lễ Giáng Sinh, thật là thích hợp hơn bao giờ hết, để thiết lập một cuộc đối thoại thiêng liêng với Thánh Giuse, với Mẹ Maria, xin các ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm cao cả Đức Tin này. Amen.
34.Chấp nhận chính mình--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Cho dù từ ngàn đời con người đã phạm tội chống lại Trời, nhưng Trời vẫn thương và tìm mọi cách để cứu lấy dòng giống loài người. Trước khi chúng ta nhận biết Thiên Chúa thì chính Ngài đã biết chúng ta. Trước khi chúng ta khấn cầu Thiên Chúa thì Ngài đã tìm cách để giúp đỡ chúng ta. Điều mà Thiên Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng ta là sự nhìn nhận thân phận của mình mà chạy đến cùng Người.
Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta từ trước
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Samuel kể chuyện thánh vương Đavit. Vua Đavit thấy Hòm Bia Thiên Chúa phải để ở lều tạm thì không đành lòng. Vua lên kế hoạch xây cho Thiên Chúa một ngôi đền. Nhưng Vua đâu có ngờ, chính Thiên Chúa đang chuẩn bị cho vua một ngôi đền, một triều đại vững bền qua muôn thế hệ.
Qua miệng ngôn sứ Nathan, Thiên Chúa đã nhắc lại cho vua Đavit: Chính Thiên Chúa đã cất nhắc nhà vua lên từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng; chính Thiên Chúa hằng luôn bên cạnh để bảo vệ nhà vua; chính Thiên Chúa đang chuẩn bị triều đại vương quyền cho nhà vua. Chính Thiên Chúa đã yêu thương, nâng đỡ và chuẩn bị cho vua Đavit trước khi nhà vua biết nghĩ đến Ngài.
Qua thư gửi tín hữu Roma, thánh Phaolô nhắc lại cho chúng ta chân lý ngàn đời ấy: “mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày”. Thánh nhân đã khẳng định lại cho chúng ta rằng: việc Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người là để “thông báo cho muôn dân biết” điều đã có từ đời đời để cho chúng ta tin mà vâng phục Thiên Chúa.
Câu chuyện càng trở nên sáng tỏ hơn với nhân vật Maria trong bài Tin Mừng. Đức Trinh Nữ Maria là một con người bé nhỏ nơi miền quê hẻo lánh. Nhưng Thiên Chúa đã tuyển chọn Maria và chuẩn bị từ trước cho công cuộc cứu chuộc loài người của Ngài.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào con đường của Ngài
“Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời thiên sứ chào trinh nữ Maria đã khẳng định rõ nét tình thương yêu của Thiên Chúa dành cho Maria. Chính Thiên Chúa đã đổ tràn ân sủng trên con người Maria; chính Thiên Chúa ở cùng Maria; chính Thiên Chúa đang đồng hành cùng Maria; chính Thiên Chúa đang mời gọi Maria bước vào huyền nhiệm của ơn cứu độ.
Thiên Chúa đã mời gọi Maria đón nhận tình thương của Ngài thay cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa mời gọi Maria không phải vì Maria xứng đáng với ơn cao trọng đó, nhưng vì Thiên Chúa muốn. Và nếu phải cần một sự tương xứng thì chính ơn Chúa đến để thánh hoá Maria nên xứng đáng.
Maria đã suy xét mọi sự với tất cả sự khôn ngoan của con người có trách nhiệm. Maria đã cân nhắc điều mà thiên sứ loan tin: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam”. Thế nhưng, điều khôn ngoan vĩ đại nơi con người chỉ là trò trẻ nhỏ trước nhan Thiên Chúa. Đường lối của Thiên Chúa cao vời và vượt xa những gì con người có thể suy xét. Chính bởi thế, khi được thiên sứ cho biết đó là công trình của Thiên Chúa thì Maria đã ý thức được thân phận của mình mà thân thưa cùng Chúa:“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần truyền”.
Con người cần phải chấp nhận chính mình để biết cậy dựa vào Thiên Chúa
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”. Maria đã ý thức được thân phận của mình đầy yếu đuối, dòn mỏng và dễ sa ngã. Maria thấy mình chẳng đáng là gì trước nhan Thiên Chúa. Maria chỉ dám nhìn nhận mình là nữ tỳ của Chúa. Chính khi Maria nhìn nhận thân phận, vị thế của mình là lúc Thiên Chúa có cơ hội để thực hiện công trình cao cả của Ngài; chính khi Maria nhìn nhận sự trống rỗng của mình là lúc Thiên Chúa đổ tràn ân sủng trên Maria; chính khi Maria từ bỏ tất cả là lúc Thiên Chúa ban cho Maria mọi sự.
Nhân loại ngày nay đang gào thét đòi quyền tự do cho cái tôi của mình. Chính khi chủ nghĩa cá nhân lên ngôi là lúc con người rơi vào cô đơn và lạc lõng. Khi con người hét lên “Thiên Chúa đã chết”; hay khi con người la lên “tôi phải làm chủ chính tôi, chẳng có Chúa nào hết”; hoặc khi con người tự hào “bàn tay ta làm nên tất cả”… là lúc con người đang lặp lại sự điên khùng của nguyên tội Adong và Eva. Họ đang dám kiêu căng ngạo mạn với Trời. Thái độ kiêu ngạo ấy chỉ đẩy bản thân bạn xa dần Thiên Chúa. Còn Thiên Chúa thì vẫn ở đó kêu gào bạn hãy trở lại với Ngài. Thiên Chúa vẫn giang tay trên thập giá để đón chờ sự trở lại của bạn.
Điều Thiên Chúa mong mỏi là bạn nhìn nhận thân phận thật của kiếp người. Chỉ khi nào bạn thốt lên: sao tôi yếu đuối thế này! sao tôi dễ đổ vỡ thế này! sao tôi tội lỗi thế này! sao tôi không thể làm được điều tôi mong muốn thế này!… Lạy Chúa, xin cứu lấy con! thì lúc đó Thiên Chúa mới có thể đi vào trong tâm hồn bạn để nâng bạn lên.
Vâng, Thiên Chúa hằng ở bên chúng ta, hằng yêu thương và tìm mọi cách để cứu lấy chúng ta. Mùa Vọng là mùa mong chờ Chúa đến. Nhưng Chúa chỉ có thế đến được trong tâm hồn bạn, trong gia đình bạn khi bạn biết nhìn nhận thân phận của mình, biết trở về khi lầm lạc, biết chạy đến với Chúa xin Người kéo bạn lên.
Lạy Chúa, chúng con là kẻ yếu hèn. Xin Ngài hãy đến và thánh hoá chúng con.
35.Thiên Chúa nhớ lại lòng thương xót--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đọc Lc 1,26-38 trong văn mạch của 1,5–2,52: Những biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu và Gioan. Thiên Chúa trung tín lại có kế hoạch cứu độ con người. Người muốn tìm kiếm một người làm mẹ, vì kế hoạch ấy bắt đầu từ một hài nhi. Để thực hiện, Thiên Chúa sai sứ thần đến cùng Maria (c.26-27), để kêu gọi Maria cộng tác (c.28), Thiên Chúa trình bày kế hoạch (30-33): phần Maria sẽ làm (c.30-31) và phần của Thiên Chúa (c.32-33), Thiên Chúa trình bày cách thực hiện (35-37). Những phản ứng của Maria: không hiểu (c.29), thắc mắc (c.34) và ưng thuận (38). Hai phần c.30-33 và 35-37 là những lời giải đáp cho thắc mắc của Maria (c.29 và 34).
Đây là kế hoạch cứu độ cuối cùng của Thiên Chúa (x. Lc 20,9-19). Vì Thiên Chúa nhớ lại lời hứa với Abram (1,55.73), nên Người sẽ gởi đến Đấng cứu độ, cũng là con của Người (c.32-33.35), để con cháu Abram được hưởng ơn cứu độ: trước tiên là Maria (1,47), rồi đến những người khác (13,16.28; 16,22; 19:9) và đến muôn đời cho những ai kính sợ Người (1,50). Nên đằng sau lời của thiên sứ, Thiên Chúa là chủ của tất cả mọi hành động trong kế hoạch đó. Ngoài những lần Thiên Chúa được gọi cách rõ ràng dưới nhiều tên khác nhau như: “Thiên Chúa” (c.26.30.32.36.37), “Chúa” (c.28.32.38), “Đấng Tối Cao” (c.32.35), Người cũng là chủ ngữ của những động từ ở thể thụ động (c.26. 28. 32. 35. 38).
Vương quyền của người Con sắp được sinh ra và được đặt trên ngôi Đavít, sẽ trải rộng cách vô tận, trên cả không gian lẫn thời gian (c.31-33.35). Chính Thánh Thần sẽ khởi đầu cho vương quyền của người Con ấy (c.35), và sau nầy, cũng chính Người sẽ tiếp tục làm cho giáo hội của người Con ấy (Tđcv 1,8), bất chấp những điều không thể đối với con người (c.37).
Maria, người Nadaret miền Galilê, được chọn làm người sinh ra Con của Thiên Chúa (c.31). Cả con người lẫn xứ sở đều nhỏ bé và vô ý nghĩa trước mặt con người (c. 27-28). Tuy nhiên, khi Thiên Chúa đã chọn vào sứ mạng cao cả, thì Người cũng đổ đầy ơn. Bởi đó, thiên sứ đã chào Maria bằng tên: “Người được đấy ơn sủng” (c.28) và người “đã tìm được ân sủng nơi Thiên Chúa” (c.30). “Được đầy ân sủng” nói cách đơn giản là người được Thiên Chúa ban đầy ơn. Còn “đã tìm được ân sủng nơi Thiên Chúa” thì nhấn mạnh về phía Maria, là người đã tìm kiếm Thiên Chúa và đã tìm thấy (x. Lc 11,10). Nhưng cuối cùng, chính Thiên Chúa là đấng ban mọi ơn, và ơn cao trọng hơn hết là Con Thiên Chúa vào trong đời mình (1,31.43; x.19,5).
Phần Maria, tự nhận là “tớ nữ của Chúa” (1,38.48), là người kính sợ Thiên Chúa (1,50) và để cho Thiên Chúa toàn năng thực hiện điều Người muốn trong đời mình. Khi Maria lên tiếng chấp nhận, thì Thiên Chúa đã qua được một bước ở ngưỡng cửa của kế hoạch cứu độ tương lai.
36.Thiên Chúa đến xây nhà Ngài--Guy Morin
Thiên Chúa xây dựng cách mạnh mẽ và tự do.
Nhà, cũng như thức ăn và áo mặc, là một nhu cầu sơ đẳng của con người. Nó mang đủ mọi hình thức: nhà ở, trường học, bệnh viện. Khi có xây cất, thì có sự sống. Ngay cả những làng ma, như là Val Tal Jalbert, cũng chứng tỏ là có sự sống trong quá khứ. Để bao đảm đời sống của mình, con người đưa ra những dự tính về nhà cửa.
Thiên Chúa, Đấng hằng sống, cũng vạch ra những dự án. Thánh Kinh thường trình bày Ngài như Đấng xây cất. Nhưng lối xây cất của Ngài khác với chúng ta, những dự án của Ngài cũng vậy. Những bài đọc hôm nay nêu cho chúng ta hai thí dụ.
Dự án của Đavít.
Khoảng 1000 trước Công nguyên, Đavít đang thống trị ở Israel. Ông đã thắng kẻ thù, thống nhất đất nước, biến Giêrusalem thành thủ đô và xây cất lâu đài của ông ở đó.
Là một vị vua đạo đức, ông cảm thấy áy náy lương tâm: “Tôi ở một ngôi nhà bằng gỗ bá hương còn hòm bia Thiên Chúa lại ở trong lều”. Ông quyết định xây một đền thờ cho Thiên Chúa. Ông muốn dâng cho Thiên Chúa một nơi ở ổn định. Đây là một dự án phát xuất từ một bản tính tốt nhưng lại quá giống cách người ngoại giáo cư xử với những thần minh của họ. Đavít muốn đặt Giavê vào trong thủ đô của mình, sở hữu Ngài, nắm Ngài trong tay mình. Nhưng Giavê khác hẳn. Ngài tự do và độc lập đối với con người. Ngài không chịu bị nhốt vào một chỗ vì Ngài di động và hoạt động. Chính Ngài đã đưa Israel từ xứ Ai Cập lên.
Ngôn sứ Nathan cho Đavít biết sự từ chối của Thiên Chúa. “Có phải ngươi sẽ xây cho Ta một nhà để Ta ở chăng?”… Thiên Chúa cho ông biết rằng chính Ngài sẽ tự làm nhà cho Ngài… “Dòng dõi ngươi và vương quốc của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta”.
Thiên Chúa từ chối dự tính của Đavít nhưng trái lại, Ngài hứa với ông một điều tuyệt vời: một dòng dõi, một hậu duệ vĩnh viễn. Thiên Chúa cam kết tương lai, tương lai của Ngài với dân Ngài. Ngài nắm sáng kiến vì Ngài là Thiên Chúa tự do. Ngài đặt dự tính của Ngài bên dự tính của con người.
Dự tính của Thiên Chúa.
Một ngàn năm sau, Thiên Chúa đã tự tay thực hiện lời hứa với Đavít. Con Một Ngài sẽ mặc lấy xác phàm và sẽ làm con của dòng họ Đavít, vì Maria, mẹ của Con Ngài, đã đính hôn “với một người thuộc dòng họ Đavít tên là Giuse”. Như vậy Thiên Chúa thể hiện cách tuyệt vời dự định của Ngài là ở với loài người. Thánh Luca kể lại cho chúng ta việc này đã được thực hiện như thế nào. Cũng như trong trường hợp với Đavít, Thiên Chúa nắm tất cả sáng kiến: Ngài điều khiển, nhưng trong sự tôn trọng tự do của Đức Maria.
Trong việc thực hiện dự tính của Ngài, Thiên Chúa gạt sang một bên các cơ cấu tôn giáo của Israel. Biến cố sẽ không xảy ra tại Giêrusalem, thành thánh và có danh tiếng, nhưng tại Nadaret, một ngôi làng không ai biết đến. Cũng không phải tại Đền Thờ nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa, nhưng trong một ngôi nhà tầm thường. Ngài không ngỏ lời với một vị tư tế như trong trường hợp Gioan Tẩy Giả, nhưng với một thiếu nữ đơn sơ không chức quyền.
Thiên Chúa hành động theo phong cách của một vị vua. Ngài sai thiên thần Gabriel đến loan báo cho Đức Maria bằng những lời lẽ chính xác: “Này bà sẽ thụ thai…”. Ngài đặt tên cho con trẻ: “Bà sẽ gọi tên Người là Giêsu”. Trước câu hỏi của Đức Maria Ngài đã có sẵn câu trả lời: “Thánh Thần sẽ rợp bóng trên bà”. Đức Maria không xin dấu chỉ nhưng cũng được ban cho một dấu chỉ: Isave mang thai. “Vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được”.
Thiên Chúa hành động cách tự do và mạnh mẽ. Tuy nhiên Ngài tôn trọng tự do của Đức Maria trong việc chấp nhận hay không dự tính của Ngài. Ngài không đòi điều gì hết ngoài sự ưng thuận. Một thứ giấy phép xây cất. Vì Thiên Chúa không xây cất một tòa nhà vật chất bằng đá hoặc bằng gỗ nhưng là con người sống động. Nhà của Thiên Chúa ở giữa loài người. Đền Thờ thật sự sẽ là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và con vua Đavít. Thiên Chúa làm điều mới mẻ nhờ sự công tác của Đức Maria.
Sứ điệp.
Thiên Chúa không ngừng thực hiện việc xây cất của ngài. Hôm nay nữa, Ngài vẫn đề ra những dự án để thực hiện mục tiêu của Ngài: Qui tụ toàn thể nhân loại dưới quyền Chúa Kitô. Nếu, như Đức Maria, chúng ta lắng nghe Thiên Chúa, nếu chúng ta đón nhận lời Ngài, Ngài sẽ làm cho chúng ta trở thành những cộng tác viên của Ngài. Tuy nhiên ta đừng chờ đợi Thiên Thần hiện ra! Ta hãy tìm hỏi nơi Tin Mừng và nơi những nhu cầu của Giáo Hội. Thiên Chúa có những dự tính của Ngài nơi mỗi người chúng ta. Ta phải tìm cho ra và dấn thân thực hiện.
37.Truyền tin cho Đức Maria--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Chúng ta đang ở Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Phụng vụ công bố bài Tin Mừng thuật lại biến cố truyền tin cho Đức Maria (Lc 1,26-38) để nói với chúng ta về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp giáng sinh, đồng thời mời gọi chúng ta sống thái độ tâm linh thánh thiện đích thực như Đức Maria để đón Người.
“Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai thiên sứ Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (cc.26-27).
Thiên sứ Gabriel là sứ giả của biến cố cánh chung, mở ra thời kỳ của sự hoàn tất, thời viên mãn. Thiên sứ được Thiên Chúa sai đến (tác giả Tin Mừng không nói ngài “hiện ra”) với một trinh nữ. Tác giả Lc mô tả Đức Maria với ba chi tiết: trinh nữ, tên là Maria, và đã thành hôn (hay đính hôn, hay kết hôn, tùy cách dịch). Người ta tranh luận nhiều về việc nên dịch là đính hôn hay thành hôn hay kết hôn. Thực ra, cả ba cách dịch đều... chính xác hoàn toàn. Điều quan trọng nhất, vì thế, không phải là hạn từ tiếng Việt nào cần chọn, mà là điều tác giả sách Tin Mừng muốn trình bày.
Tiến trình lễ cưới của người Do Thái gồm hai bước. Bước thứ nhất là việc kết hôn về mặt pháp lý. Sau việc này, cô gái đã trở thành vợ về phương diện pháp luật, như vẫn còn ở nhà cha mẹ khoảng một năm nữa, và do đó, vẫn chưa có quan hệ tình dục với người chồng. Cuộc hôn nhân đã có giá trị về phương diện luật pháp. Ta tạm gọi là ‘đã kết hôn’. Bước thứ hai: việc đón cô dâu về gia đình người chồng, ở đó, lễ cưới được hoàn thành.
Khi thiên sứ đến, Đức Maria đang ở trong giai đoạn đã kết hôn với thánh Giuse về phương diện pháp luật, nhưng các ngài chưa về chung sống với nhau, và do đó, Đức Maria vẫn là một trinh nữ. Nơi sự già nua và son sẻ của bà Êlisabét, quyền năng của Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc sinh hạ lạ lùng, như từng xảy ra trong Cựu Ước nhiều lần. Với sự đồng trinh của Đức Maria, Thiên Chúa thực hiện một sự can thiệp mang bản chất sáng tạo. Cuộc chào đời lạ lùng của Gioan Tẩy Giả thuộc về chuỗi những trường hợp đặc biệt của Cựu Ước, và như thế, với Dacaria và Êlisabét, Thiên Chúa đã làm một “tổng hợp” những sự can thiệp trong Cựu Ước. Nhưng với Đức Maria đồng trinh thì hoàn toàn khác: có một khởi điểm mới, một sự can thiệp hoàn toàn chưa có tiền lệ.
Vậy “thiên sứ vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (c.28). Thiên sứ Gabriel đã không gọi Mẹ bằng tên riêng “Maria”, mà gọi là “Đầy ân sủng” (theo văn phạm tiếng Việt, chúng ta phải dịch là “Đấng đầy ân sủng”). “Đầy ân sủng” là lối nói mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa đã thực hiện điều gì nơi Đức Maria và do đó, Đức Maria đã trở nên điều gì đối với chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc; Người đã ban cho Mẹ tất cả vẻ duyên dáng nhờ những ân điển của Người; Người đã làm cho Mẹ trở thành vô cùng đáng yêu trong mắt Người; và vì vậy, ân huệ của Người và tình yêu của Người luôn hướng về Mẹ; Người bị hấp dẫn bởi vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng do chính Người tạo nên bằng các ân huệ thiêng liêng của Người. Đức Maria đã xứng đáng được Thiên Chúa lưu tâm và yêu mến. Thiên Chúa làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc, đến nỗi tình yêu và sự quan tâm của Người lại bị thu hút bởi chính vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng mà ân sủng của Người đã làm nên. Và đó thực sự là một mầu nhiệm của mối tương quan giữa Thiên Chúa với Đức Maria. Với tất cả sự ngạc nhiên, với tất cả sự thán phục, với tất cả lòng tri ân, chúng ta được mời gọi suy niệm: làm sao Thiên Chúa vĩ đại vô biên và toàn năng khôn lường, lại đã nghiêng mình một cách đặc biệt như thế trên cô thôn nữ Nadarét và đã làm cho cô thôn nữ ấy trở nên xứng đáng với tình yêu của Người như vậy? Đó vẫn thực là một mầu nhiệm vượt quá trí hiểu của con người.
“Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (c.29). Sự bối rối ở đây là một yếu tố trong cấu trúc của các trình thuật truyền tin trong Kinh Thánh. Ông Dacaria cũng bối rối (1,12). Nhưng ông Dacaria bối rối vì nhìn thấy thiên sứ (liên quan đến cái nhìn) và ông trải qua một cơn sợ hãi điển hình của những cuộc giáp mặt với một thực tại cõi trời. Trường hợp Đức Maria thì hoàn toàn khác: Đức Mẹ không hề sợ hãi, và sự bối rối xảy ra do nghe lời thiên sứ nói (liên qan đến sự nghe). Điều này cho thấy cần phải hiểu câu 29 không phải như một chi tiết tiểu sử, và do đó, không cần phải tìm cách giải thích sự bối rối này theo quan điểm tâm lý học.
Thật ra, với c.29b: “[Đức Maria] tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”, chúng ta có quyền và cần phải hiểu chi tiết Đức Maria bối rối chỉ là một chi tiết có chức năng chính yếu là văn chương, cho phép thiên sứ đào sâu diễn từ đang được trình bày. Nói cách khác, chi tiết này có vai trò chuyển tiếp từ lời tuyên bố thứ nhất sang lời tuyên bố thứ hai của thiên sứ Gabriel.
“Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu” (cc.30-31). Ơn sủng được nói ở c.28 bây giờ được diễn tả trong một cách nói khác: đẹp lòng Thiên Chúa. Và ơn sủng đó làm nên tứ cách làm mẹ của Đức Maria, hay nói cách khác, ơn sủng đó trước hết nằm ở người Con mà Mẹ sẽ sinh hạ từ cung lòng mình.
“Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (cc.32-33). Các câu này nhấn mạnh sự lớn lao của Đấng sẽ được sinh ra từ cung lòng Đức Maria.
“Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (c.34). Căn cứ vào phong cách văn chương được sử dụng để viết trình thuật truyền tin, và căn cứ vào câu trả lời của thiên sứ ở c.35 tiếp sau, có thể nói: câu 34 này là một kỹ thuật hành văn của thánh Luca, và đảm nhận một chức năng kép. Một đàng, nó có chức năng khẳng định sự thành thai đồng trinh của Đức Giêsu, và đàng khác, nó có chức năng chuẩn bị, về mặt văn chương, cho mạc khải tối hậu về Đức Giêsu ở câu 35.
“Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (c.35). Với câu này, tác giả sách Tin Mừng đặt trên miệng thiên sứ Gabriel lời trình bày một truyền thống Kitô giáo rất đậm đặc về nội dung. Ông sử dụng động từ “rợp bóng” để ám chỉ đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, dấu chỉ sự hiện diện của Đức YHWH giữa dân Người: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức YHWH đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,35.38; Ds 9,18; 10,34...). Đàng khác, chúng ta gặp ở c.35 lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh tiên khởi, cho thấy sự chờ đợi Đấng Mêsia của dân Do Thánh đã bị vượt quá. Quyền năng Đấng Tối Cao và sự rợp bóng của Thánh Thần không xảy đến trên vị vua nhà Đavít, mà là trên thân mẫu Ngài. Và Đấng sẽ được sinh ra lại chính là Con Thiên Chúa.
“Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (cc.36-37). Những gì đang xảy ra cho bà Êlisabét chính là dấu chỉ của tính cách hữu hiệu của lời thiên sứ: quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện công trình kỳ diệu nơi Đức Maria. Thiên sứ kết thúc câu chuyện với Đức Maria bằng việc khẳng định tính cách hữu hiệu của lời Thiên Chúa nơi Đức Maria.
“Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (c.38). Đức Maria diễn tả sự vâng phục tuyệt vời của Mẹ với chương trình của Thiên Chúa. “Tôi tớ của Đức Chúa” là danh hiệu rất phong phú về ý nghĩa, thường được Kinh Thánh áp dụng cho các nhân vật như Abraham, Môsê, Đavít, các ngôn sứ, Vị Tôi Trung đau khổ... Đó là những con người được Thiên Chúa chọn vì dân Người.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta những khẳng định thần học quan trọng về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp được sinh ra, đồng thời khắc họa dung mạo của Đức Maria trong tư thế người tin và người tôi tớ tuân phục. Đó cũng là hai thái độ tâm linh căn bản mà chúng ta phải có khi chuẩn bị đón Lễ Giáng Sinh.
38.Đức Chúa ở cùng chúng ta--Peter Feldmeier--Lm. Văn Hào SDB chuyển ngữ
“Quyền năng Đấng tối cao sẽ phủ bóng trên Bà” (Lc 1,35).
Hai Chúa Nhật vừa qua, các bài đọc Kinh Thánh trong phụng vụ giới thiệu cho chúng ta sứ mạng của Gioan Tiền hô. Lời Chúa hôm nay trình thuật biến cố truyền tin cho Đức Maria, khi Gioan còn trong bụng mẹ. Xét về trình tự thời gian, có vẻ như không hợp lý, nhưng các bài đọc Kinh Thánh lại ẩn chứa một ý nghĩa thần học rất sâu xa. Gioan Tiền hô tổng tóm những gì cựu ước nói tới. Ngài là hình tượng của Isaia, khi công bố kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa. Isaia từng loan báo, ngày của Chúa sẽ đến, một ngày đầy khiếp hãi. Gioan Tẩy giả vang vọng lại lời hứa ấy, trong khi Đức Giêsu đến trần gian để làm cho lời Thiên Chúa hứa được thực hiện cách tròn đầy.
Lời Chúa hứa được nhắc tới trong bài đọc thứ nhất. Vua Đavid đã đến cư ngụ tại Giêsusalem và lúc bấy giờ ông mong muốn xây một ngôi đền cho Đức Chúa Giavê. Ngôn sứ Nathan, dưới triều vua Đavid, coi đó như một ý định tốt lành, nhưng Thiên Chúa lại có một kế hoạch khác. Thay vì Đavid xây nhà cho Thiên Chúa, thì chính Chúa lại xây nhà cho ông. Từ ngữ bayit, là một cách chơi chữ, vì nó vừa có nghĩa là nhà ở, đồng thời cũng mang nghĩa là triều đại. Đavid có ý định xây một đền thờ, xây một ngôi nhà, một bayit cho Chúa, nhưng Thiên Chúa lại củng cố bayit của Đavid, cũng là xây nhà cho Đavid, hay xây dựng triều đại của ông. Thiên Chúa hứa một điều rất khác thường. “Nhà của Ngươi và triều đại Ngươi sẽ đứng vững mãi mãi trước nhan Ta. Ngôi báu của Ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”.
Lời Chúa hứa dành cho Đavid được dân Israel khắc ghi trong tâm khảm. Dân Do Thái coi đó như một giao ước rất rõ ràng và minh nhiên (Hc 45,25). Có phải Thiên Chúa đã hủy bỏ giao ước, khi vương quốc Đavid sụp đổ, và dân Chúa phải đi lưu đày? Thiên Chúa đã hứa, thế thì phải chăng Ngài đã hủy bỏ điều mà Ngài đã ký kết? Hay vì tội lỗi của dân quá lớn và quá nhiều, khiến Thiên Chúa bỏ rơi dân Ngài? Sau này Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Nếu ta không trung tín, Thiên Chúa vẫn luôn tín trung, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,13). Nhưng dường như ở đây, xem ra có vẻ như Thiên Chúa đã không tín trung, đã thất hứa với lời thề thốt của mình. Có đúng như thế không? Chắc chắn không phải vậy.
Trong bài Tin Mừng, qua biến cố truyền tin cho Đức Maria, thần sứ đã nêu ra câu trả lời trước vấn nạn trên. Chuyện thất tín không bao giờ xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ quên giao ước Ngài đã hứa. Trong phần đầu tiên, Gabriel đã chuyển tải sứ điệp để trả lời cho khúc mắc đó. “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ trao cho Người ngai vàng vua Đavid tổ tiên Người, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô tận”(Lc 1, 32-33). Tiếp theo, thần sứ nói với Đức Maria một điều vượt quá sức tưởng tượng: “Chúa Thánh Thần sẽ phủ bóng trên Bà, và hài nhi được sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Từ lời hứa trong cựu ước, đến việc thực hiện khi Đức Giêsu đến trần gian, đã được Tân ước diễn bày qua những cách nói biểu trưng. Các tác giả Tân ước, nhìn lại những biến cố của cựu ước như chìa khóa tiên báo và là những hình tượng tiên báo các thực tại sau này. Adam trong cựu ước là hình ảnh nói về Đức Giêsu (Rm 5,14). Elia là khuôn mẫu của Gioan Tẩy giả (Lc 1,17). Dân Israel là hình tượng biểu thị cho Giáo Hội (1 Ph 2,a). Chúng ta cũng có thể nói về Đức Maria với hình ảnh biểu trưng trong Cựu ước giống như thế. Đức Maria là hình mẫu tròn đầy nhất mà dân Israel đã phác vẽ. “Trinh nữ”, hoặc ý niệm về “Người Con Gái Trinh Nữ” là danh xưng ám thị Israel. Lời chào của Thần sứ “Chaire” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là kính chào, hoặc “Hãy vui lên”, phác vẽ lại hai lời công bố trong cựu ước. Một, là loan báo quyền năng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện để mang lại sự cứu thoát, và hai, là lời hoan vui “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion”(Gio 9,9; Sop 3, 14-17).Qua một hình ảnh khác, Đức Maria được loan báo cho biết “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên Bà”. Đây là thuật ngữ mà bản Kinh Thánh 70 (septuagint) đã sử dụng để diễn tả sự kiện vinh quang của Thiên Chúa phủ ngập trên lều Chứng Ước. Trong căn lều đó, ánh sáng chói lọi và vinh quang của Thiên Chúa luôn luôn ngập tràn (Xh 40,35).
Maria là dung mạo hiển thị Israel trong Cựu ước. Sự trung tín của Đức Maria cũng tương hợp với sự trung thành của dân Chúa khi thực hiện giao ước. Đức Maria là đền thờ của Thiên Chúa. Tâm hồn Mẹ luôn tràn ngập vinh quang Ngài. Thiết tưởng, Đức Maria như một tấm gương, qua Ngài chúng ta có thể nhìn ngắm và phản chiếu niềm tin của chúng ta, từng cá nhân cũng như cả cộng đoàn. Tất cả mọi người chúng ta trong lòng tin, chúng ta sẽ là những giai nhân tuyệt mỹ, là con gái Israel không tỳ vết. Chúng ta là đền thờ của Đấng Tối Cao. Và như thế, chúng ta cũng như Đức Maria, là những người mang chở Thiên Chúa trong cung lòng mình. Có thể trong Giáo hội hiện nay, đa phần là những người nam nắm quyền lãnh đạo. Nhưng hình ảnh trên mang tính đặc thù để mời gọi chúng ta, nam cũng như nữ, chúng ta hãy mặc lấy căn tính cao quý này. Chúng ta có bao giờ nghĩ đến điều đó không? Đứng trước viễn cảnh mà thần sứ đã phác dẫn, Maria thực sự bối rối. Nhưng Ngài đã quy thuận Thánh ý Thiên Chúa và thể hiện căn tính cao trọng nơi mình, để trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể thực hiện giống như thế được không?
39.Tôi tớ đáng ao ước--Lm. Minh Anh
“Này tôi là tôi tớ Chúa”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật là bất ngờ khi phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm những tôi tớ nhưng là những ‘tôi tớ đáng ao ước’. Chính miệng Thiên Chúa gọi Đavít là tôi tớ; Mẹ Maria cũng xưng mình là tôi tớ của Người, “Này tôi là tôi tớ Chúa”.
Bài đọc Samuel nói đến trăn trở của Đavít. Khi đã bằng yên tư bề, vua nghĩ đến việc xây cho Thiên Chúa một ngôi nhà vì hòm bia của Người đang ở trong lều bạt; Chúa phán với Nathan, “Hãy đi nói với Đavít tôi tớ Ta rằng, ‘Chúa phán, có phải ngươi sẽ xây cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?’”; “Chính Ta sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta”. Và Đavít, người ‘tôi tớ đáng ao ước’ ấy sẽ ngợi khen danh Chúa mãi mãi như lời Thánh Vịnh đáp ca tỏ bày, “Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời”.
Thế nhưng, trở thành “tôi tớ Chúa” nghĩa là gì? Từ ngữ ‘tôi tớ’ có nghĩa là ‘đầy tớ’, ‘giúp việc’, ‘người hầu’. Mẹ Maria tự nhận mình là một đầy tớ, người giúp việc và cụ thể là một nữ tỳ, một người hầu gái của Thiên Chúa. Trong suốt lịch sử, một số ‘hầu gái’ là nô lệ, họ không có bất kỳ một quyền nào; họ là tài sản của chủ sở hữu, và được yêu cầu làm những gì chủ họ yêu cầu; chủ có thể bán, trao đổi họ cho người khác. Trong các thời đại và các nền văn hoá khác, hầu gái là một ‘người giúp việc’ mà họ tự chọn cho mình nhiều hơn, họ được hưởng một số quyền nhất định. Và dẫu sao, tất cả các hầu gái đều thuộc hạng thấp kém, chuyên phục vụ cấp trên.
Tuy thế, Mẹ Maria là một kiểu thức hầu gái ‘hoàn toàn mới’, ‘hoàn toàn khác’ so với quan niệm về người hầu gái của mọi thời. Tại sao như thế? Vì Đấng mời gọi Mẹ phục vụ là một Đấng hoàn toàn khác, đó là Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Và như thế, chắc chắn Mẹ là một người ‘hầu gái vượt trội’, một ‘tôi tớ thượng lưu’, cao hơn mọi tôi tớ thuộc mọi tầng lớp; Đấng Mẹ phục vụ là Đấng toàn thánh, toàn năng, hoàn hảo, Vua các vua, Chúa các chúa; Đấng dành một tình yêu hoàn hảo và thánh thiện cho Mẹ; Đấng giữ gìn Mẹ trong ân sủng, dẫn dắt Mẹ theo những cách thức của Thánh Thần để tôn tạo Mẹ, nâng cao phẩm giá của Mẹ và biến đổi người nữ tỳ của Người vốn đã được bảo bọc trong ân sủng càng được chìm đắm trong đó, ngày càng sâu thẳm hơn. Vì thế, những ai khôn ngoan, sẽ không chỉ chọn cho mình làm người phục vụ Đấng bề trên này mà còn tự do, tự nguyện và xin cho được trở thành nô lệ, tôi tớ, một ‘tôi tớ đáng ao ước’ hạ mình càng sâu càng tốt trước một cấp trên như vậy. Noi gương Mẹ Maria, chúng ta không nên do dự để hạ mình trong chiều kích sâu sắc nhất của hình thức tôi tớ và nô lệ này!
Vì thế, sự phục vụ, sự tòng thuộc của Mẹ Maria vào Đấng Mẹ phó dâng đời mình thật là mới mẻ, mới ở chỗ nó là hình thức làm tôi tớ triệt để nhất, tận căn nhất; đồng thời, nó cũng được tự do chọn lựa nhất. Tác động hỗ tương đối với Mẹ từ Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh là Mẹ luôn hướng mọi suy nghĩ và hành động, mọi đam mê và ước muốn cùng những gì nhỏ nhất trong cuộc sống Mẹ đến vinh quang, viên mãn và thánh thiện của đời sống làm tôi Chúa.
Charles Simeon, nhà giảng thuyết vĩ đại người Anh ở thế kỷ 19, sống trong hy vọng cho đến phút cuối. Những ngày sau cùng, ông hớn hở thấy thời gian trôi thật nhanh; ông chia sẻ, “Tôi tìm thấy một niềm an ủi vô bờ khi sắp về bên Chúa”. Các bạn ông hỏi tại sao? Ông trả lời, “Vì thoạt đầu, Chúa đã tạo dựng trời đất”. Bạn bè ông càng thắc mắc, tại sao suy nghĩ đó có thể mang cho ông niềm vui đến thế khi ông đang đối mặt với cái chết. Với sự tự tin của một người sắp được gặp Chúa của mình, ông nói, “Tại sao ư? Nếu từ hư vô, Thiên Chúa có thể làm nên tất cả sự kỳ diệu của thế giới này, thì Ngài vẫn có thể tạo ra một điều gì đó kỳ diệu hơn từ tôi, một tôi tớ của Ngài!”.
Anh Chị em,
Charles Simeon, Đavít, những tôi tớ của Chúa, những ‘tôi tớ đáng ao ước’; và Đức Mẹ, một kiểu mẫu tôi tớ càng cho chúng ta ao ước hơn. Lời “xin vâng” của Mẹ chứa đựng tiếng “xin vâng” của toàn bộ lịch sử cứu độ; nó khởi đầu cho lời “xin vâng” của một Thiên Chúa làm người nơi hang đá Bêlem cho đến lời “xin vâng” của Ngài để cứu chuộc cả nhân loại trên Núi Sọ. Cũng thế, chính sự tùy thuộc vào Thiên Chúa, như một tôi tớ thuộc trọn về Người, những lời “xin vâng” mỗi ngày của chúng ta trong cuộc sống, như Con Thiên Chúa, cũng có thể cứu độ cả thế giới loài người.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, ‘tôi tớ đáng ao ước’, xin cầu cho con được trở nên một tôi tớ của Chúa như Mẹ, trở nên một công cụ cứu rỗi của Chúa bằng việc không chối từ “xin vâng” mỗi ngày trước Thiên Chúa; và như thế, con sẽ cưu mang và sinh hạ Chúa Giêsu trong các tâm hồn”, Amen.
40.Ắp đầy niềm vui--Lm. Minh Anh
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan”.
Kính thưa Anh Chị em,
Hôm nay, Chúa Nhật Gaudete, Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật mừng vui giữa một mùa tím chờ mong; một lần nữa, Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm Gioan Tiền Hô. Tin Mừng mở đầu thế này, “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan”, và nếu hiểu được tầm quan trọng của câu đầu tiên này, chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa cao cả của một sứ vụ gắn liền với một trọng trách nơi một con người ‘ắp đầy niềm vui’ một khi họ ý thức rằng, họ đang được Chúa sai đi.
Một mặt, Gioan Tiền Hô là một thành viên bình thường của loài người như chúng ta, Gioan có một tên gọi như mỗi người có một tên gọi; mặt khác, Gioan còn có một sứ mệnh vượt quá chính con người Gioan như mỗi chúng ta cảm nhận một sứ mệnh vượt quá chính con người mình. Thánh Kinh nhiều lần chứng thực, Thiên Chúa ‘đã sai’ những con người; Thiên Chúa mặc khải chính bản thân Người cho một ai đó và sai người ấy đi, để rao truyền cho những người khác sự thật về bản thân Người. Isaia trong bài đọc hôm nay là một điển hình, “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó”. Hơn thế nữa, ai thật sự biết Thiên Chúa, người ấy sẽ ‘ắp đầy niềm vui’, họ cảm thấy được thôi thúc phải truyền đạt Đấng mình nhận biết cho người khác, “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi”; niềm vui đó trào tràn nơi Đức Mẹ, cũng là một con người được sai đi, bộc lộ trong Magnificat, Thánh Vịnh đáp ca, “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa”.
Để luôn ‘ắp đầy niềm vui’, người được sai biết mình không phải là ai như Gioan biết mình không phải là ai, “Tôi không phải là Đấng Kitô”, “Không phải là Êlia”, cũng “Không phải là một tiên tri”. Sự hiểu biết trung thực về bản thân là bước thiết yếu trên con đường nên thánh. Mặc dầu đang thu hút sự chú ý của nhiều người nhưng Gioan không say sưa với vị thế của một người nổi tiếng, không nắm bắt quyền lực, không tìm cách trở thành một người không phải là mình; đúng hơn, Gioan đang chuẩn bị lòng người cho Đấng đến sau ông. Ma quỷ sẽ làm mọi cách để người được sai mải mê nhìn vào bản thân và tài năng mình, hầu tìm cách đánh lạc hướng đôi mắt người môn đệ khỏi Thiên Chúa và kế hoạch của Người. Gioan đã cho chúng ta một tấm gương ngời sáng của sự hiểu biết về bản thân trước mưu chước của ma quỷ. Một khi hoàn toàn tập trung vào Chúa, chúng ta cảm thấy buộc phải loại bỏ mọi sự trùng lặp phù phiếm hay lòng tự trọng được thổi phồng; từ đó, bắt đầu sống trong sự thật, đánh giá đúng tất cả quà tặng Chúa ban và sử dụng chúng cho vương quốc Người; và đó là bí quyết giữ cho lòng mình ‘ắp đầy niềm vui’.
Bí quyết thứ hai, biết mình là ai, “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hãy sửa đường Chúa đi”, thế thôi! Lòng Gioan không có một phân chia nào giữa điều Chúa muốn và điều Gioan muốn; Gioan chỉ biết, Chúa đưa Gioan vào thế giới để tạo nên một sự khác biệt; điều này cho thấy căn rễ sự nhiệt thành nơi Gioan vốn đã mang lại cho lời Gioan rao giảng một sức mạnh. Đơn giản, Gioan được trao một sứ mệnh, trái tim Gioan dành cho sứ mệnh, và lòng Gioan ‘ắp đầy niềm vui’.
Mọi học sinh đều biết câu chuyện ‘quả táo rơi’ và Isaac Newton, cha đẻ định luật hấp dẫn vốn đã tạo ra một cuộc cách mạng nghiên cứu thiên văn thế kỷ 16; nhưng mấy ai biết, nếu không có Edmund Halley, thế giới không bao giờ có các nguyên lý của Newton. Chính Halley, một người bạn, nhưng cũng là nguồn trợ lực vĩ đại không thể thiếu của Newton; các nhà sử học gọi Halley là một trong những tấm gương vị tha nhất trong biên niên sử khoa học. Khi Newton gặt hái những phần thưởng thì Halley như một bóng mờ; về sau, Halley đã sử dụng các nguyên lý để dự đoán ‘quỹ đạo và sự trở lại’ của sao chổi, sau này mang tên ông; chỉ sau khi chết, Halley mới nhận được sự thán phục. Phải chăng, bởi sao chổi chỉ quay trở lại sau mỗi 76 năm, một ‘năng diễn’ hiếm hoi ‘đủ cho một đời người’, nhưng Halley vẫn là một nhà khoa học tận tụy, một người lòng ‘ắp đầy niềm vui’, không quan tâm ai được tín nhiệm, miễn sao các nguyên lý được nhận thức.
Anh Chị em,
Gioan Tiền Hô là một Edmund Halley, một sao chổi Halley, “Cần Chúa lớn lên, còn tôi nhỏ lại”. Thế nhưng, Gioan không phải là duy nhất; trong mọi đấng bậc, Chúa cũng đã kêu gọi, đã sai mỗi người chúng ta đi hoàn thành một sứ mệnh. Nếu trái tim chúng ta gắn bó thiết tha với kế hoạch của Người, chắc chắn chúng ta cũng tạo nên một sự khác biệt, lòng chúng ta cũng ‘ắp đầy niềm vui’ một khi mỗi người luôn ý thức rằng, “Cần Chúa lớn lên, còn tôi nhỏ lại”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin giúp con nhận ra sự vĩ đại của con, cùng lúc, nhận thức sự hư vô của mình; từ đó, con sẵn sàng cởi bỏ những sân si ích kỷ và trở nên một công cụ trung thành cho tình yêu Chúa, và như vậy, lòng con cũng sẽ ‘ắp đầy niềm vui’ hôm nay và ngày sau trên trời”, Amen.
41.Truyền tin cho Đức Maria--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Maria có gì đặc biệt mà được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế và theo niềm tin Công giáo, còn là Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại? Dưới mắt người đời, Maria đâu có tài năng gì đặc biệt, làm sao Maria thành công trong công việc vĩ đại ấy?
2. Khi được Thiên Chúa chọn, ta cần có tinh thần nào để hoàn thành tốt đẹp sứ mạng mà Ngài giao cho ta? Có ai được Thiên Chúa chọn mà làm hỏng việc Ngài không? Tại sao vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Maria nhỏ bé yếu đuối nhưng được Chúa chọn...
Dưới nhãn quan Kitô giáo, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, khởi đầu một công trình hết sức lớn lao của Thiên Chúa: cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công cuộc vĩ đại này bắt đầu một cách rất âm thầm, nhỏ bé tại một làng quê, với một thôn nữ yếu đuối chẳng mấy người biết. Điều này làm ta nhớ tới dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4,31-32). Qua kinh nghiệm tâm linh của nhiều vị thánh, ta thấy Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Có như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1,27).
Thật vậy, theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét về tài năng, thông minh, học vấn, sức khỏe, sắc đẹp, v.v... chắc hẳn Maria không có gì đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc chắn còn những thiếu nữ đặc biệt hơn Maria rất nhiều. Nhưng Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình vĩ đại này. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Và Ngài đã thành công trong việc chọn Maria, đang khi có những người khác được Ngài chọn đã làm “hỏng việc” của Ngài, hay đã làm Ngài không hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Sa-un (x. 1Sm 9,17; 13,13-14); tông đồ Giu-đa (Mt 26,47-50)...
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: nhiều người được Thiên Chúa chọn cho công việc của Ngài, tại sao có những người làm nên việc, khiến Ngài thành công và hài lòng như trường hợp của Maria, và cũng có những người làm “hỏng việc”, khiến Ngài “thất bại” (từ gượng dùng) hoặc không hài lòng? Ta có thể rút ra bài học nào cho ta khi ta được Thiên Chúa chọn làm công việc của Ngài?
2. Maria xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là ta biết xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Ngài, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Ngài. Đó chính là tinh thần tự hủy mà Đức Giêsu là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Maria.
Theo tư tưởng lưu truyền trong giới Công giáo, khi được thiên sứ báo tin, Maria đang dự định sống trọn đời đồng trinh để phụng sự Thiên Chúa. Việc đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt thị phi của thiên hạ, vì người đương thời quan niệm sai lầm rằng một phụ nữ sống độc thân là một hình thức bị chúc dữ. Nhưng khi biết thánh ý Thiên Chúa muốn chọn mình làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế, thì lập tức nàng từ bỏ tất cả mọi ý muốn hay dự định riêng của mình để vâng theo ý muốn của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
3. Được Ngài chọn, hãy toàn tâm toàn ý cho việc của Ngài
Nếu Thiên Chúa chọn ta thì là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là một công cụ Ngài dùng mà thôi. Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người sử dụng công cụ. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người sử dụng. Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu, thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có thể gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của ta. Đức Giêsu có nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Vì thế, việc của ta, hãy hoàn toàn phó thác cho Ngài. Chắc chắn một Thiên Chúa quan phòng tài tình như Ngài sẽ không để việc của ta bị thất bại chỉ vì ta đã toàn tâm toàn ý lo cho việc của Ngài. Hãy tin tưởng chắc chắn như thế!
4. “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã”
Những người được chọn mà làm “hỏng việc” Ngài - như vua Sa-un, Giu-đa - có thể là những người ban đầu rất nhiệt thành, quên mình, hoạt động vì Thiên Chúa và tha nhân chứ không vì mình. Nhưng tới một lúc nào đó người ấy bị tha hóa, đã đặt mục đích hay công việc của mình lên trên mục đích hay công việc của Ngài, đặt ý mình lên trên ý Ngài, hoặc muốn lèo lái công việc của Ngài theo ý mình, v.v... Những người này lúc ban đầu nhờ nhiệt thành và quên mình nên đạt được danh vọng, quyền lực, tiền bạc... nhưng về sau họ đã bị chính những thứ đạt được ấy làm biến chất, tha hóa, khiến họ bị mất ơn Chúa và trở thành những kẻ phá hoại hay cản trở việc Chúa. Do đó, mọi Kitô hữu đang có chức vị cao, đang nắm quyền lực hay có nhiều tiền bạc trong tay cần phải lưu ý lời của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Coi chừng kẻo mình trở thành như cây chổi cùn, sau khi đã tận tâm tận lực quét đi mọi thứ rác rưởi, thì cuối cùng mình lại trở thành một thứ rác lớn nhất, khó quét đi nhất. Vậy, tinh thần tỉnh thức, luôn luôn phản tỉnh, tự xét bản thân là điều rất cần thiết. Hãy coi chừng danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền bạc là những yếu tố có khả năng tha hóa và làm biến chất rất mạnh! Vì thế, đời sống thanh đạm, tinh thần từ bỏ, siêu thoát vẫn luôn luôn cần thiết cho đến hết cuộc đời.
5. Người được chọn sẽ bị thử thách
Ai được Thiên Chúa chọn để làm những công việc lớn lao cho Thiên Chúa, thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Đức Giêsu và Đức Maria - là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi - phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ. Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8,30). Cách thức “làm cho nên công chính” của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ: “Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn” (Dt 2,10); “Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ” (1Tm 3,10); “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội” (1Pr 1,7). Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).
Chính nhờ những đau khổ và thử thách ấy nên không ai có thể ganh tị được với vinh quang vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho những ai bền đỗ với những thử thách ấy. Họ rất xứng đáng với vinh quang và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, khi được Thiên Chúa tuyển chọn, ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và thử thách Thiên Chúa gửi tới. Hãy tin tưởng: “Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22; 24,13).
Cầu nguyện
Lạy Cha, để yêu thương và cứu rỗi nhân loại, Cha cần rất nhiều người cộng tác. Cha chọn người cộng tác theo sự tự do của Cha. Con sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Cha, nếu Cha cần đến con. Một khi được kêu gọi, con quyết sẽ toàn tâm toàn ý sống và làm tất cả mọi sự theo sự hướng dẫn của Cha, bất chấp những đau khổ thử thách mà Cha dùng để rèn luyện con. Xin cho con trung thành với quyết tâm ấy.
42.Khiêm hạ để đón nhận mạc khải của Thiên Chúa--Lm. Anmai CSsR
Đa-vít - vị vua nổi tiếng trong Thánh Kinh Cựu Ước mà ít nhiều gì chúng ta đều được nghe nói về ông. Điểm son và điểm dễ nhất về hình ảnh của vị vua mà có người gán cho ông cái tên dễ thương nữa là vua thánh Đa-vít. Vì sao người ta lại gán cho ông cái tên này? Vì lẽ ông quá sức tội lỗi, ông đã muốn cưới bà Bát Sê-va bằng cách giết U-ri-gia chồng của bà nhưng sau khi ông nghe lời tuyên sấm của Nathan, ông đã thay đổi cuộc đời bằng cách ăn chay, cầu nguyện và xin Đức Chúa - Chúa của ông tha lỗi cho ông.
Bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe xong chúng ta cũng nghe Đức Chúa đã phán với Nathan vài điều để Nathan nói lại với vua Đavit "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: ĐỨC CHÚA phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao? Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, ĐỨC CHÚA báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền" (2 Sm 7, 8-11a)
Lời tuyên sấm này Đức Chúa muốn nói với Đavít rằng Ngài sẽ thiết lập cho Đavít một dòng dõi và dòng dõi ấy sẽ được vững bền với vương quyền của dòng dõi ấy. Đức Chúa còn cam kết thêm: Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi. (2 Sm 7, 8-11b)
Và chúng ta cũng nên nhìn lại thái độ, tâm tư của vị vua đặc biệt này qua trang sách Samuel: Vua Đa-vít vào ngồi chầu trước nhan ĐỨC CHÚA và thưa: "Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con người, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng? Đa-vít còn nói được gì thêm với Ngài? Ngài biết tôi tớ Ngài, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng! Vì lời Ngài đã phán và theo như lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện tất cả công trình vĩ đại này, để làm cho tôi tớ Ngài được biết. Vì thế, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài thật vĩ đại: không ai sánh được như Ngài; và không có Thiên Chúa nào khác ngoại trừ Ngài, theo như mọi điều tai chúng con đã từng được nghe. Dưới đất có một dân tộc nào được như dân Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu chuộc dân này để làm thành dân của Ngài, đặt tên cho nó, thực hiện cho nó những điều vĩ đại và khủng khiếp, hầu xua đuổi các dân tộc và các thần của chúng cho khuất mắt dân mà Ngài đã cứu chuộc từ Ai-cập về cho mình. Ngài đã lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã trở thành Thiên Chúa của chúng. Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó, xin Ngài giữ mãi mãi, và xin hành động như Ngài đã phán. Danh Ngài sẽ vĩ đại mãi mãi và người ta sẽ nói: "ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa thống trị Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Đa-vít sẽ vững bền trước nhan Ngài. Thật vậy, lạy ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy. Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy. Vậy giờ đây, cúi xin Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tại mãi trước nhan Ngài. Bởi vì, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán, và nhờ Ngài giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi." (2 Sm 7, 18-29)
Qua lời cầu nguyện đơn sơ trên đây của Đavit ta thấy Thiên Chúa quyền năng đã làm những điều kỳ diệu trên con người khiêm hạ của Đavit. Nếu Đavit không khiêm hạ, Đavit sẽ không nghe lời tuyên sấm của Nathan để quay đầu trở về với Thiên Chúa. Biết mình yếu đuối, biết mình tội lỗi nhưng Đavit đã quay đầu trở lại với Đức Chúa để rồi Đức Chúa đã tin tưởng, đã giao phó, đã thiết lập cho ông một dòng dõi mang tên ông.
Một lần kia ông đã tâm sự với Chúa:
Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi!
Đường cao vọng, chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu;
hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
(Tv 131, 1-3)
Hình ảnh của một người khiêm hạ trong Cựu Ước thật đẹp, thật dễ thương. Nhìn trẻ thơ nép mình vào lòng mẹ thật dễ thương. Mẹ như là cùng đích, như lẽ sống của cuộc đời con để rồi khi con nép mình vào lòng Mẹ con sẽ cảm thấy không còn bận tâm, không còn lo lắng điều gì nữa.
Con người, vốn mang trong mình dòng máu của kiêu ngạo nên đã đánh mất đi tình yêu, lòng mến, sự che chở, sự bao bọc, sự che chở của Thiên Chúa là Cha, là Chúa của mình. Sự kiêu ngạo ấy đã trải dài suốt lịch sử cứu độ, suốt hành trình về Đất Hứa.
Thời Tân Ước, tưởng người ta nhận thấy bài học chua xót, cay đắng từ sự kiêu ngạo để tỏ lòng khiêm hạ trước Thiên Chúa nhưng không. Chúng ta thấy người Do Thái vẫn cao ngạo, vẫn không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, tình thương xót bao la của Ngài trên cuộc đời của họ. Đức Trinh Nữ Maria, là người nữ Do Thái mới. Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ đã đến trần gian này với lòng khiêm hạ đến cực độ. Mẹ là hình ảnh đối lập với Eva xuẩn động ngày xưa. Eva đã đi tìm cho mình vị trí bằng Thiên Chúa để rồi phạm tội ăn trái cấm. Eva xưa đã cao ngạo trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Không chỉ một mình mình phạm tội mà Eva còn rủ chồng mình cùng chung số phận như vậy. Mẹ Maria hoàn toàn sống khiêm hạ, sống vâng theo Thánh Chúa trên cuộc đời Mẹ. Nếu như Mẹ cũng cao ngạo như những người Do Thái chắc có lẽ Mẹ cũng sẽ chẳng đón nhận được mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể trong lòng Mẹ.
Trang Tin mừng theo Thánh Luca mà chúng ta vừa nghe thuật lại thái độ, tâm tư, tấm lòng khiêm hạ của Mẹ. Quá choáng ngợp với ơn của Thiên Chúa qua miệng sứ thần, Mẹ với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! " Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."
Sau khi nghe sứ thần giải thích, Mẹ Maria lặng lẽ thưa "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
Mẹ Maria khiêm hạ để rồi Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm Nhập Thể vĩ đại cho Mẹ. Thiên Chúa vẫn thích hiện diện nơi những tâm hồn khiêm hạ. Chỉ có những ai khiêm hạ, những ai tin mới thấy được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các thánh tông đồ xưa là những người tạm gọi là đầu tiên tin Chúa và đã rao giảng mầu nhiệm ấy. Sau khi tin vào Chúa thì các môn ra đi loan báo Tin mừng như Đức Maria vậy. Sau khi đón nhận mầu nhiệm Nhập Thể nơi cung lòng của mình, Mẹ đã đi loan báo Tin mừng ấy, không chỉ loan báo mà Mẹ còn hành động cụ thể bằng cách chia sẻ niềm vui cho bà chị họ. Các môn đệ cũng loan báo Tin mừng bằng cách hy sinh cả mạng sống của mình. Ra di trong hân hoan, ra đi trong hạnh phúc vì có Chúa ở cùng.
Trong niềm hân hoan ấy, Thánh Phaolô tông đồ đã gửi tâm thư của mình cho cộng đoàn Rôma mà chúng ta vừa nghe: "Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa". (Rm 16, 25-27)
Hôm nay, qua các lời ngôn sứ từ Nathan loan báo cho Đavit về dòng dõi mà Thiên Chúa thiết lập trên ông đến lời sứ thần loan báo mầu nhiệm Nhập Thể nơi Đức Trinh Nữ chúng ta thấy điểm chung hay nói đúng hơn điểm son nơi hai nhân vật điển hình ấy chính là sự khiêm hạ. Biến cố Emmanuel Nhập Thể mà chúng ta sẽ mừng trong vài ngày nữa cũng chỉ tỏ lộ nơi những con người nghèo, những con người nhỏ bé như những mục đồng nghèo ở cái làng Belem năm nao.
Đứng trước một Thiên Chúa toàn năng, danh Người là Thánh, chắc có lẽ tâm tình hay nhất mà chúng ta phải có đó chính là tâm tình khiêm hạ.
Xin Chúa cho chúng ta mặc lấy tâm tình khiêm hạ của vua Thánh Đavit cũng như tấm lòng khiêm cung nơi Đức Trinh Nữ Maria để quyền năng, tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ nơi cuộc đời mỗi người chúng ta như Chúa đã từng biểu lộ nơi vua thánh Đavit và Đức Trinh Nữ Maria.
43.Mẹ Maria là cây cầu của Thiên Chúa và nhân loại--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.
Qua các phương tiện truyền thông đây đó, ta thấy nơi các bản làng ở khu vực Tây Bắc Việt Nam, xuất hiện những hình ảnh thật cảm động, đó là những gương cố gắng của các em học sinh nơi đây khi hằng ngày phải lội suối hay đu cáp treo chênh vênh để đến trường học cho được “cái chữ, cái nghĩa”.
Trước thực trạng ấy, có lẽ không gì quý giá đối với các em cho bằng có được một cây cầu nối liền đôi bờ. Tuy nhiên, cây cầu đó phải đảm bảo, vững chắc, nếu không sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng nếu chẳng may bị sập hay bị nước cuốn trôi khi mọi người đang tham gia giao thông!
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội muốn giới thiệu với chúng ta một cây cầu rất vững chắc, đẹp đẽ và an toàn, đó là Mẹ Maria.
Mẹ Maria, cây cầu của Thiên Chúa và của con người
Kể từ lúc Evà phạm tội chống lại Thiên Chúa qua hành vi bứt Trái Cấm để ăn, thì Evà cũng như dòng dõi của Bà đã đi vào ngõ cụt để lãnh hậu quả, đó là đau khổ và chết chóc. Vì thế, giữa con người và Thiên Chúa có một khoảng cách xa vời vợi!
Nhưng, Thiên Chúa là Đấng luôn luôn yêu thương, nên Người đã không bỏ mặc con người ở bên kia của sự chết, nhưng đã tìm mọi cách để đưa con người đến nguồn sự sống.
Tuy nhiên, Người không muốn đơn phương thực hiện ý định này. Vì thế, Người đã tuyển chọn Đức Maria giữa bao người phụ nữ. Khi quyết định chọn Mẹ để cộng tác, Thiên Chúa cũng đã chuẩn bị cho Mẹ những đức tính cần thiết, nhằm giúp Mẹ xứng đáng trong vị trí làm Mẹ Con Thiên Chúa, trở thành cây cầu bắc nhịp cho Đấng Cứu Thế đến với nhân loại trong thân phận con người nơi cung lòng của Mẹ, để Ngài trở nên trung gian duy nhất nối liền giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người.
Sau khi biết ý định của Thiên Chúa muốn mình trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ đã cúi mình đón nhận: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”.
Cây cầu vững chắc nhờ đức khiêm nhường nơi Mẹ
Thật là kỳ lạ đến độ khó hiểu khi Thiên Chúa luôn luôn biểu dương uy quyền ngay trong sự yếu đuối của con người! Chẳng hạn như việc quyết định cứu chuộc nhân loại, Người đã để Con của mình đến trần gian trong thân phận con người với đầy đủ những yếu tố và giới hạn của một phận người!
Rồi khi lựa chọn một người phụ nữ để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa không chọn những cô công chúa, giàu có, sang trọng, uy quyền, mà lại chọn một người nữ thôn quê bình dị với cuộc đời âm thầm gần như tuyệt đối!
Tuy nhiên, khi lựa chọn như thế, Thiên Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng: tự thân con người chẳng là gì nếu không phải do tình thương của Người. Những ơn ban của Thiên Chúa cho con người hoàn toàn nhưng không do lòng thương xót của Người. Phần con người chỉ cần biết đón nhận trong đức tin và lòng mến khi được đức khiêm nhường làm nền tảng, thì Thiên Chúa sẽ thực thi cách nhiệm mầu và phi thường để làm nên những chuyện lớn lao.
Nhìn vào toàn bộ cuộc đời của Mẹ Maria, chúng ta thấy nơi Mẹ luôn luôn tỏa sáng nhân đức khiêm nhường. Mẹ khiêm nhường khi sống ẩn dật trong một gia đình ở làng quê vô danh tiểu tốt. Khiêm nhường trong tâm thế của người nỹ tỳ khi cúi đầu đón nhận lời thiên sứ Gabriel loan báo tin Mẹ mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Khiêm nhường để thay ý mình bằng ý Chúa. Khiêm nhường để phó thác, cậy trông và trung thành với Con Chí Ái từ làng quê Nazareth đến đồi Canvê cũng như ngay trong căn phòng Tiệc Ly khi cùng cầu nguyện với các môn đệ để xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong Giáo Hội.
Như vậy, Mẹ Maria được ví như một cây cầu vững chắc, bởi vì Mẹ được chính Thiên Chúa là người đứng ra xây dựng. Mẹ là cây cầu đẹp đẽ vì những chất tố nơi Mẹ được Thiên Chúa trực tiếp tuyển lựa. Mẹ là cây cầu an toàn vì Thiên Chúa đã xây dựng bằng chính chất liệu khiêm nhường.
Mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên những cây cầu
Như Mẹ Maria, Mẹ đã đón nhận ý Thiên Chúa để trở nên cây cầu bắc nhịp cho Ngôi Hai Thiên Chúa đến với nhân loại. Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng được mời gọi trở thành những cây cầu nối liền giữa người với người, giữa người với Thiên Chúa.
Ngày nay, số người chưa tin Chúa trên thế giới chiếm đa số. Mặt khác, ngay trong lòng Giáo Hội, nhiều người tin Chúa nhưng tin nửa vời rất nhiều, tin trong giấy tờ, chứ thực ra niềm tin chưa bén rễ sâu để dẫn tới thái độ sống đạo thực thụ.…
Việc nhiều người chưa tin Chúa có nhiều lý do: có thể họ chưa được nghe nói về Chúa; có thể họ đã có một tôn giáo hay tín ngưỡng trước đó; cũng có thể họ là người chủ chương vô thần? Còn những người tin Chúa nhưng tin nửa vời, tin không sâu sắc: có thể do họ đi tìm Chúa với những ý niệm thực dụng; muốn lôi kéo Thiên Chúa phải theo ý mình dù đó là điều trái khuấy…! Khi không được như ý, họ có thể thờ ơ, dửng dưng hoặc có thể đánh đổi niềm tin…!
Trước thực trạng ấy, nhiều khi chúng ta phải đấm ngực ăn năn rằng: sự ù lỳ, đó kỵ hay ích kỷ đã làm cho chúng ta thu mình lại trong những vỏ bọc an toàn của luật lệ, của không gian xứ đạo, hay môi trường an toàn…, để lựa chọn sự an thân, nên không dám vượt ra khỏi trung tâm để đến với những anh chị em bên lề…. Mặt khác, nhiều khi chúng ta có khái niệm chỉ truyền giáo cho những ai cần và tìm đến chúng ta, còn việc đi đến với họ để giới thiệu Chúa cho những người chưa biết thì chỉ là chuyện cưỡi ngựa xem hoa, nếu không muốn nói là không có khái niệm ấy ở trong đầu! Bên cạnh đó, hình ảnh mặt mày cau có, tính tình gắt bẳn, ăn trên ngồi trước, gian dối, hai mặt, khẩu phật tâm xà…, đã làm cho hình ảnh trung thực của Đức Kitô không thể lộ hiện trong cuộc đời và hành vi của chúng ta! Hơn nữa, sự sợ hãi do sức khỏe, chất lượng cuộc sống, khí hậu hay do những kẻ chống đối…, cũng là những rào cản lớn khiến chúng ta chùn chân bước…!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy tiếp nối vai trò của Mẹ Maria, đó là: bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh chúng ta.
Những nhịp cầu mà chúng ta cần phải bắc, đó là: bước ra khỏi những gì là đảm bảo để đến với anh chị em mình bằng sự hiện diện sống động qua khuôn mặt dễ thương, lời nói chân tình cũng như cung cách sống đầy vui tươi, thân thiện và xót thương của mình.
Luôn biết noi gương Mẹ Maria để sẵn sàng từ bỏ những ý riêng, định kiến đã có từ lâu, để thay vào đó là thánh ý Chúa. Luôn vững tin vào Chúa như Mẹ để trước những thử thách đau thương do sứ vụ mang lại, chúng ta kiên tâm vì luôn luôn có Chúa đồng hành.
Muốn làm được điều đó, trên hết mọi sự, chúng ta phải có đức khiêm nhường như Mẹ Maria. Có thế, mỗi người mới thực sự xứng đáng trở thành cây đầu đẹp đẽ, bền vững và an toàn cho những ai muốn đi trên nó để gặp được Thiên Chúa là tình yêu.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ để chúng con biết làm vinh danh Chúa khi trở thành những cây cầu dẫn đưa anh chị em chúng con về với Chúa. Amen.
44.Hãy là nhịp cầu đưa Chúa đến với anh em--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Trần Ngà
Những cây cầu rất đắc dụng trong giao thông, giúp những người bị ngăn cách bởi khe suối, bởi sông sâu, biển rộng dễ dàng vượt qua trở ngại để gặp gỡ tiếp xúc với nhau.
Đơn giản nhất là những cây cầu khỉ chênh vênh vắt qua những con suối nhỏ giúp cư dân đôi bờ cách biệt có thể qua lại với nhau. Kiên cố hơn thì có những cây cầu bê tông nối liền các tuyến giao thông quan trọng, giúp người lữ hành vượt qua những con sông rộng đi đến được những phương trời xa. Đáng kể hơn phải nói đến những chiếc cầu dây văng hùng vĩ, băng qua những con sông và vùng vịnh rộng lớn, như cây cầu Golden Gate nổi tiếng, giúp cư dân hai bên bờ vịnh San Francisco có thể đến được với nhau thật nhanh chóng, dễ dàng.
Nhưng làm cách nào để xây dựng được cây cầu đặc biệt nối trời với đất, đưa Thiên Chúa đến với loài người và đưa loài người lại gần Thiên Chúa?
* * *
Từ ngày nguyên tổ phạm tội, quan hệ nồng thắm giữa Thiên Chúa và loài người bị cắt đứt. Tội lỗi khiến con người bị tách lìa và xa cách Thiên Chúa bằng một khoảng cách gần như bất tận.
Vì tự cách ly với Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc và ân sủng, con người phải héo hon và tàn lụi dần như thân phận của những chiếc lá lìa cành.
Nhưng Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương không nỡ để cho loài người phải vĩnh viễn xa lìa Ngài là cội nguồn sự sống. Ngài lên kế hoạch xây dựng một nhịp cầu vĩ đại, nối liền trời với đất, giao hoà Thiên Chúa với con người.
Để thực hiện kế hoạch nầy, Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến gặp Đức Maria, mời Mẹ cộng tác vào công trình hệ trọng nầy.
Sau khi biết ý định Thiên Chúa, với tinh thần sẵn sàng vâng phục của người tôi tớ, Đức Maria thưa với thiên thần rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền."
Từ lúc đó, Đức Maria trở thành nhịp cầu nối liền trời với đất, nhịp cầu kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Thế là qua Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống với loài người, mặc lấy xác phàm và sống giữa nhân loại, để tỏ bày cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha của mình và dẫn đưa họ về với Chúa Cha.
Một kỷ nguyên mới được khởi sự nhờ sự vâng phục và hợp tác của Mẹ Maria. Muôn người trên khắp thế giới ngót hai ngàn năm qua đã nhờ Mẹ mà được giao hoà với Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ do Đức Giêsu mang đến.
* * *
Tuy nhiên, cho tới hôm nay vẫn còn rất nhiều người chung quanh chúng ta chưa nhận biết Đấng Cứu Độ nên Thiên Chúa rất cần những nhịp cầu khác để đến với họ và đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa thiết tha mời gọi mỗi chúng ta hãy nối tiếp vai trò của Mẹ Maria, bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh.
Mẹ Maria nhận thức phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn nên đã mau mắn đáp lời Chúa mời gọi. Còn chúng ta là ai mà cứ mãi nấn ná chần chừ, chẳng muốn thi hành ý Chúa, chẳng muốn tuân lệnh Ngài truyền để trở thành nhịp cầu đưa Chúa đến với tha nhân?
* * *
Nguyện xin Chúa giúp chúng con noi gương bắt chước Mẹ Maria, nhận ra mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, mà phận làm tôi thì không được làm trái mệnh lệnh Chúa truyền.
Nguyện xin Mẹ dạy chúng con mau mắn đáp lời Chúa mời gọi và thưa cùng Ngài: "Nầy tôi là tôi tớ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền."
45.Chuyện cái lưỡi--Trầm Thiên Thu
Mùa Vọng đã bước vào giai đoạn cuối. Như vậy, nỗi mong chờ của chúng ta sắp được mãn nguyện, nhưng không vì thế mà lơ là bổn phận. Trong những ngày cuối của mùa Vọng, Giáo hội nhắc nhở chúng ta về “cái lưỡi”.
Chuyện kể rằng chủ nhân sai gia nhân ra chợ mua thứ gì ngon nhất, gia nhân đi và mua về “cái lưỡi”. Hôm sau ông lại sai gia nhân ra chợ mua món gì dở nhất, gia nhân đi và lại mua về “cái lưỡi”. Chủ nhân “mắt chữ O và miệng chữ A”, gia nhân điềm nhiên giải thích: “Tốt hay xấu cũng do cái lưỡi mà ra”. Quả thật, lưỡi không xương nhiều điều lắt léo!
Người ta nói được nhờ cái lưỡi, có người dùng cái lưỡi để nói những “lời hay, ý đẹp”, khuyến khích, khuyên bảo, cầu nguyện, hòa giải,… Nhưng có người lại dùng cái lưỡi để chỉ trích, gây chia rẽ, phỉ báng, nguyền rủa, trách móc, chê bôi, chửi rủa,… Tốt hay xấu cũng từ cái lưỡi, và chính cái lưỡi tạo nên nhiều rắc rối, do đó mà ca dao Việt Nam có câu nhắc nhở:
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Sách Huấn ca khuyên: “Hãy nghe dạy bảo về lời ăn tiếng nói, vì ai tuân giữ, không bị bắt lỗi bao giờ. Chính do môi miệng mà tội nhân bị bắt bẻ, cũng do đó, đứa lăng mạ và kẻ tự cao phải vấp phạm” (Hc 23:7-8), và dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi trụy lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:5-6).
Người khôn dùng cái lưỡi theo cách khác, người dại dùng cái lưỡi theo cách khác. Người khôn ít nói, vì:
Chim khôn chưa bắt đã bay
Người khôn chưa nói đã cay lòng rồi
Dư luận có thể tốt, cũng có thể xấu, thường thì xấu nhiều hơn, người ta thường “đổ dầu vào lửa”, cho nên đôi khi phải can đảm “đạp dư luận” mà sống. Cứ nghe và xét mình, đừng vội tin và đừng hoảng sợ. Miệng lưỡi thế gian mà:
Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Tay đâu mà bụm miệng người thế gian
Đáp ca tuần IV mùa Vọng là Tv 88: “Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời”. Ca ngợi thì phải dùng miệng, nghĩa là cũng liên quan “cái lưỡi”. Chúng ta không chỉ dùng miệng lưỡi để ăn uống, giúp duy trì sự sống, và để đối thoại với nhau hàng ngày, chúng ta còn phải dùng miệng lưỡi để xưng tụng Thiên Chúa: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” (Tv 88, 2). Vâng, “tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” (Tv 88, 3). Giao ước đó đã được thề hứa với thánh vương Đavít, và sẽ bền vững đến ngàn đời, qua muôn thế hệ” (x. Tv 88, 4-5).
Chúng ta còn phải dùng cái lưỡi để nói về Chúa, rao truyền Ơn Cứu Độ, quảng bá Lời Chúa, làm vinh danh Thiên Chúa (x. Rm 16:25-27). Trách nhiệm của chúng ta là phải khôn khéo dùng miệng lưỡi. Có những điều không nên nói hoặc không được nói, nhưng có những điều phải nói, không nói không được, không nói là có lỗi.
Về cách dùng miệng lưỡi, chúng ta hãy học tập Đức Maria: “Xin vâng”. Trình thuật Lc 1:26-38 kể rằng khi sứ thần Gáprien tuân lệnh Thiên Chúa đến truyền tin: “Mừng vui lên, hỡi người đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe vậy, thôn nữ Maria đã bối rối và chẳng hiểu “ất giáp” gì ráo trọi. Sứ thần trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu”. Đức Maria càng rối hơn, vừa hoảng hốt vừa e thẹn nói: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Nghe sứ thần giải thích đó là quyền năng Chúa Thánh Thần và chứng minh người chị họ Êlisabét, bị mang tiếng là hiếm hoi, già rồi mà cũng đang cưu mang một nam nhi được sáu tháng. Đặc biệt sứ thần nói rằng đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được. Thế là thôn nữ Maria an tâm, phấn khởi và tin tưởng nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Đức Mẹ là thôn nữ nhưng kiều diễm, nét đẹp dịu dàng ấy hẳn khiến bao chàng trai “lé mắt”. Dù là mỹ nhân nhưng thùy mị, đoan trang, sống giản dị, luôn khiêm nhường, đặc biệt là tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhờ lời “xin vâng” của Đức Mẹ, nhẹ nhàng mà quyết liệt, chúng ta mới có niềm hy vọng nhận lãnh Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa trao ban. Đức Mẹ đã sử dụng cái lưỡi thật khôn khéo! Xin cảm ơn Đức Mẹ.
Có những người trở thành vĩ nhân nhờ cái lưỡi, họ đã khôn ngoan dùng cái lưỡi để nói vì nền hòa bình thế giới. Đó là một Mohandas Gandhi (Ấn giáo), một Martin Luther King (Tin Lành), một Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta (Công giáo) và một Đức Đạt Lai Lạt Ma (Karmapa Lama, Phật giáo).
Xin mượn lời của Homer W. Grimes để tâm sự với Chúa: “Làm sao con có thể cho Ngài ít hơn những gì con có khi Ngài đã cho con tất cả? Con có thể dâng tặng cho Ngài những gì, thưa Thầy, Đấng đã ban tất cả cho con, Đấng đã từ bỏ ngai vàng trên trời để chịu chết trên đồi Canvê? Con có thể dâng tặng cho Ngài những gì, thưa Thầy, Đấng đã ban tất cả cho con, không chỉ một phần hay một nửa trái tim con? Con sẽ dâng tặng Ngài tất cả!”.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện, xin dạy chúng con biết cẩn thận từng lời nói, biết sử dụng cái lưỡi cho đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con luôn ngưỡng vọng Ngôi Hai giáng trần, chúng con khao khát Ơn Cứu Độ, xin tuôn tràn Mưa Giêsu gội mát mảnh đất tâm hồn khô cằn của chúng con. Xin giúp chúng con can đảm bạt đồi, xẻ núi, lấp sông, để tạo nên con đường thẳng tắp và phẳng phiu cho Vương Nhi Giêsu đến với chúng con. Xin ân thương tha thứ mọi tội lỗi, xin tha thứ cả những lúc chúng con không tích cực làm điều tốt. Chúng con cầu xin nhân Danh Vương Nhi Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
46.Chân dung Gioan Tiền hô--Trầm Thiên Thu
Gioan cất tiếng hô vang:
Bạt đồi, xẻ núi, lấp sông, uốn đường
Để Ngôi Hai, Chúa thiên cung
Giáng trần cứu độ, yêu thương nhân loài
Thánh Gioan Tiền hô luôn gắn liền với Mùa Vọng như một “định mệnh”. Ông là người “mở đường” cho Chúa đến, là nhân vật quan trọng trong công cuộc Cứu độ của Thiên Chúa, nhưng ông lại rất khiêm nhường, không nhận mình là ngôn sứ hoặc là gì khác, chỉ tự nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:23) và “không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu” (Ga 1:27).
Thánh Gioan Tiền hô là một thanh niên trẻ nhưng nhìn rất “bụi” trong trang phục áo da thú, hẳn là nhìn ông rất khắc khổ vì ông ăn chay trường: Hàng ngày chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Có thể coi Thánh Gioan Tiền hô là Mặt Trăng, còn Chúa Giêsu là Mặt Trời, nhưng không hề “đối kháng” theo ý câu “như mặt trời và mặt trăng” khi chúng ta nói về 2 người đối lập. Mặt trăng sáng nhờ mặt trời, “mặt trăng” Gioan Tiền hô sáng nhờ “mặt trời công chính” Giêsu. Chúng ta là những ngôi sao bé nhỏ trong vòm trời yêu thương nên chắc chắn cũng chỉ sáng nhờ Mặt Trời Giêsu.
Thánh Gioan Tiền hô có “nét” độc đáo và khác người, ước muốn của ông cũng chẳng giống ai: Ông muốn Chúa phải LỚN lên, còn ông phải NHỎ lại. Đó là “chất riêng” của ông, không lẫn với ai. Ông quá khiêm nhường. Có lẽ đây là điều rất khó đối với chúng ta, vì chúng ta thường muốn mình nổi trội hơn người khác, ngay cả khi chúng ta làm những việc mà chúng ta gọi là “làm việc tông đồ”, làm việc bác ái hoặc làm từ thiện. Dù không nói ra, nhưng động thái của chúng ta chứng tỏ chúng ta “ngụ ý rằng “trước khi sáng Danh Chúa thì phải sáng danh con”.
Có lần Lm. Vinh sơn Ngô Minh Tân (Gx Bình Lợi, hạt Gia Định) nói trong một thánh lễ chiều (mùa Vọng, 2011): “Chúng tôi vẫn được dạy rằng linh mục luôn phải coi chừng vì có thể chính mình che choán hết Thiên Chúa!”. Con người dễ ảo tưởng và kiêu sa lắm, dễ suy luận chủ quan theo ý mình, vì thế mà lúc nào cũng phải “tỉnh thức” và phải dám “luôn luôn lắng nghe” để có thể “luôn luôn thấu hiểu”. Cương vị nào cũng khả dĩ có cách kiêu ngạo đặc thù. Mặc dù “con người chỉ là cây sậy có lý trí” nhưng “cái TÔI đáng ghét” kia vẫn sẵn sàng trỗi dậy bất kỳ lúc nào!
Người ta nói: “A-xít làm cháy tiền, tiền làm cháy tim phụ nữ, phụ nữ làm cháy tim đàn ông”. Một cách nói “độc đáo” thật. Còn Thánh Phaolô nói: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Tiền bạc có hệ lụy với quyền lợi, quyền lợi có hệ lụy với con người, vì thế mà tiền bạc có ma lực khiến người ta mê muội và kiêu ngạo. Có lẽ vì vậy mà người Pháp có câu: “Tiền bạc là đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu” (L’argent est un servant bon, mais un maitre mal).
Thánh Gioan Tiền hô là người có cuộc sống thoát ly tiền bạc, vật chất. Tài sản của ông chỉ có bộ áo da thú khoác trên mình. Ông sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, không lệ thuộc vật chất. Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20).
Con người có nhiều thứ giằng co trong mình, đôi khi cảm thấy mình như bất lực với chính mình. Chua biết rõ mười mươi, vì thế Ngài đã động viên: “Đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa” (Ga 14:1), và Ngài còn hứa rõ ràng và quyết liệt: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Lạy Đấng Thiên Sai, xin cho chúng con can đảm noi gương sống của Thánh Gioan Tiền hô. Xin Ngôi Hai mau đến cứu chúng con thoát khỏi ngục-tù-tội-lỗi. Chúng con cầu xin nhân Danh Đức Kitô. Amen.
47.Sứ mạng Mẹ Maria--Lm. Minh Vận, CRM
Trong Mùa Vọng, Giáo Hội trưng lại các bài Sách Thánh liên quan trực tiếp đến chương trình Ơn Cứu Độ nói chung, và đến việc nhân loại đang trông đợi Chúa Cứu Thế xuống trần gian nói riêng. Các nhân vật quan trọng được tường thuật trong các bài Sách Thánh này là tiên tri Isaia, Thánh Gioan Tiền Hô và song thân của ngài là Joachim và Anna, Sứ Thần Gabriel, Thánh Cả Giuse, và đặc biệt Đức Trinh Nữ Maria.
I. MẸ MARIA TRONG ƠN CỨU ĐỘ
Chúa Nhật sau cùng của Mùa Vọng, trông đợi Chúa Cứu Thế, Giáo Hội đặc biệt lưu ý chúng ta đến vai trò quan trọng và khẩn thiết của Mẹ Maria trong Nhiệm Cuộc Cứu Chuộc đã được thực hiện.
Để thấy rõ địa vị và sứ mạng quan trọng của Mẹ trong Chương Trình Cứu Độ của Chúa, chúng ta hãy tìm hiểu Thánh Kinh. Các nữ nhân anh hùng trong Cựu Ước như bà Esther, Judich được coi như là hình bóng của Đức Maria, đã một phần nào nói lên sứ mạng của Mẹ trong Chương Trình Cứu Chuộc. Nhưng chính tiên tri Isaia từ ngàn xưa đã được Chúa hướng dẫn, trực tiếp nói với Dân Riêng Chúa: "Hỡi Nhà David, chính Chúa sẽ ban cho các ngươi một dấu lạ, này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một Con Trai và tên Con Trẻ sẽ được gọi à Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7:14).
Trinh Nữ được diễm phúc sinh hạ Chúa Cứu Thế mà nhà tiên tri nói tới đây, chính là Đức Thánh Trinh Nữ Maria, Ngài là Đấng đã được Thiên Chúa sủng ái và đặc tuyển từ đời đời, trong thánh ý nhiệm mầu của Người, để làm Mẹ sinh ra Con Chúa, Đấng Thiên Chúa sai đến cứu chuộc muôn dân. Như vậy, chúng ta thấy vai trò của Mẹ thực quan trọng trong Chương Trình Cứu Chuộc của Chúa; quan trọng đến nỗi nếu không có Mẹ, nếu Mẹ không thưa lời "Xin Vâng" với Thiên Sứ Gabriel, ưng nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế, Chương Trình Cứu Chuộc của Chúa đã không thực hiện. Đành rằng, Thiên Chúa toàn năng có dư phương thế để cứu chuộc chúng ta, mà không cần bất cứ một thụ tạo nào chung tay góp sức; nhưng theo sự an bài khôn ngoan và nhiệm mầu, Chúa đã đặc tuyển Mẹ làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế và cộng tác với Người để cứu chuộc chúng ta.
Thánh Gioan, vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế được thánh hóa và giải thoát khỏi nguyên tội, đã hân hoan nhảy mừng ngay lúc còn trong lòng thân mẫu, cũng là nhờ lời chào chúc và cuộc thăm viếng của Mẹ Maria, khi Mẹ đang cưu mang Chúa trong lòng, đến viếng thăm gia đình.
Vậy, để chúng ta được diễm phúc đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm Đấng Cứu Thế, để chúng ta được Ơn Cứu Rỗi, được trở nên con Chúa, được đạt tới đích thánh thiện theo thánh ý Chúa, chúng ta càng cần phải có Mẹ Maria, phải cậy nhờ Mẹ.
Mẹ đã trở nên Đấng Đồng Công với Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình Cứu Chuộc và Thánh Hóa chúng ta, không phải do bản tính đòi buộc, nhưng do ơn Thiên Chúa đặc tuyển.
II. ĂN QUẢ NHỚ KẺ TRỒNG CÂY
Chúng ta được Mẹ trao ban Chúa Giêsu, Quả Phúc bởi lòng Mẹ, Đấng là nguồn Ơn Cứu Độ và Ơn Thánh Hóa. Nếu Mẹ không tự do ưng nhận làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã không có cơ hội nhập thể làm người, mang thân xác như chúng ta, để Ngài có thể sống kiếp sống con người, gánh lấy mọi tội lỗi tật nguyền, lãnh lấy mọi khổ nhục và chịu chết, đền tạ phép công bình Thiên Chúa, cứu chuộc và thánh hóa chúng ta, thì bây giờ toàn thể nhân loại còn đang ngụp lặn trong vùng thâm u tội lỗi, bị thống trị dưới ách nô lệ Satan và quyền lực hỏa ngục.
Nếu Mẹ không ưng thuận làm Mẹ Chúa Cứu Thế và đồng công cộng tác với Người để cứu chuộc chúng ta, thì bây giờ chúng ta cũng còn đang sống mò mẫm trong bóng đêm dầy đặc của sự tin vơ thờ quấy trong thời man rợ, mang danh kẻ phản bội, kẻ chống đối Thiên Chúa, để đáng lãnh nhận án trầm đọa hỏa ngục muôn đời.
Vậy, "Uống nước nhớ nguồn" và "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Chúng ta được diễm phúc lãnh nhận Chúa Cứu Thế, được hưởng nhờ Ơn Cứu Chuộc và Ơn Thánh Hóa, được trở nên con Thiên Chúa, được Chúa hứa ban hạnh phúc vĩnh cửu trên Quê Trời, cho những con cái trung thành phụng sự và yêu mến Người, đều do công ơn của Mẹ Maria. Chúng ta hãy dâng niềm tri ân lên Mẹ, đặt hết lòng tin tưởng phó thác nơi Mẹ, sống với Mẹ như một người con ngoan thảo, luôn tha thiết phụng sự yêu mến Mẹ.
III. YÊU MẾN LÀ NÊN GIỐNG MẸ
Để thể hiện niềm tri ân chúng ta dâng lên Mẹ, để tỏ lòng con ngoan thảo luôn tha thiết phụng sự yêu nến Mẹ, chúng ta hãy trở nên giống Mẹ, hãy sống như Mẹ đã sống, hãy làm điều Mẹ đã làm, hãy muốn điều Mẹ đã muốn. Vậy Mẹ đã sống thế nào? Mẹ đã làm gì? Mẹ đã muốn gì?
Suốt cuộc đời, Mẹ đã hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Mẹ đã thánh hiến toàn thân và trót cuộc sống của Mẹ, để cộng tác với Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình cứu chuộc, để làm vinh danh Thiên Chúa Cha và cứu chuộc nhân loại. Còn chúng ta, chúng ta đã lấy thánh ý Chúa làm lẽ sống cho cuộc đời chúng ta chưa?
Mẹ đã chu toàn sứ mạng đó với một khát nguyện duy nhất là làm hài lòng Thiên Chúa, làm trọn thánh ý Ngài, Mẹ chỉ muốn điều Chúa muốn, chỉ làm điều Chúa muốn. Lời Mẹ đã thưa với Sứ Thần trong Ngày Truyền Tin: "Này tôi là Nữ Tỳ Chúa, Tôi xin vâng như lời Ngài truyền". Lời đó đã trở nên lẽ sống, luôn chỉ huy chi phối và hướng dẫn Mẹ trong trót cuộc sống.
Vậy chúng ta hãy nên giống Mẹ, chỉ muốn điều Chúa muốn, làm điều Chúa muốn và chỉ khát khao làm hài lòng Chúa như Mẹ. Dù đời sống có gặp may mắn hay nghịch cảnh, dễ dàng hay khó khăn, xuôi thuận hay bất trắc, vui sướng hay sầu khổ, hạnh phúc hay bất hạnh, chúng ta cũng hãy đón nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa và chu toàn thánh ý Ngài, rồi thưa với Chúa như Mẹ: "Này con đây là con Chúa, con xin vâng như lệnh Chúa truyền". Đó là tất cả bí quyết làm hài lòng Chúa và sống hạnh phúc trên trần gian.
Kết Luận
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến, Người Mẹ rất quyền thế trước tôn nhan Chúa, là chính Mẹ Con Một Chúa nhập thể, Đấng Cứu Độ chúng ta. Mẹ là Đường dẫn chúng ta đến với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng ta thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng ta biết sống đẹp lòng Người.
48.Xin Vâng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Lc 1: 26-38: Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình thuật truyền tin.
Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đưa Đức Trinh Nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.
Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gabrien và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời: "vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói". Tiếng "Xin Vâng" vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó, Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này.
Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta: Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức mẹ.
Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đã can đảm thưa "Xin Vâng". Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt mình vào vai trò của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do Thái Giáo. Thời đó phụ nữ bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta: "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: thì phụ nữ Do Thái còn "nhẹ giá" hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của mình là bị kết tội giao du bất chính, ngoại tình và bị ném đá cho chết.
Ngay cả thời nay, nhiều nơi vẫn còn khắt khe như thế. Câu chuyện xảy ra tại sa mạc Châu Phi: tu sĩ Caréttô nghe biết một cô gái mới 14 tuổi đời mà đã được gả bán cho một chàng trai. Trong khi chờ đợi ngày cưới, cô gái ấy vẫn tiếp tục đi kín nước và làm những công việc nội trợ bình thường. Thời gian trôi qua, hai năm sau vị tu sĩ kia sực nhớ bèn hỏi xem đám cưới đã được tổ chức như thế nào? Và ông bố đã tỏ ra bối rối không muốn trả lời. Cuối cùng, một người đầy tớ đã cho vị tu sĩ hay: cô gái ấy đã bị bóp cổ chết chỉ vì đã có thai trước khi về nhà chồng. Danh dự gia đình đòi cô phải chết như vậy.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói "Xin Vâng" trong tin và yêu. Chúng ta cũng không kém Đức Mẹ, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Qua bài Tin Mừng hôm nat, chúng ta biết theo gương Đức Mẹ, vâng theo ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu "Xin Vâng Theo Thánh Ý Chúa". Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là "Con Đến Để Làm Theo Ý Cha". Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là "Vâng Theo Thánh Ý Chúa", thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.
Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca "Xin Vâng” để Mẹ trợ giúp: "Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ dạy con hai tiếng Xin Vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời. Xin Chúa cho chúng ta, dù làm gì, chúng ta luôn biết làm theo thánh ý Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa. Amen.
49.Đấng lạ lùng--Lm. Thu Băng
Hôm nay Chúa Nhật thứ 4 Mùa Vọng, chỉ còn vài ngày nữa là đến Lễ Chúa Giáng Sinh. Giáo Hội muốn chúng ta dọn lòng bằng cách tìm hiểu Đấng sẽ sinh ra là ai? Là vị thế nào? Phải chăng Ngài cũng là người phàm như chúng ta? Hay Ngài là Đấng Lạ Lùng khác thường xuất hiện?
Ngày xưa thên người ta công nhận có 5 kỳ quan thế giới được gọi là công trình đáng kể, đó là: Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa. Kim Tự Tháp của Ai Cập. Điện Pathenon của Hy Lạp. Vườn Thượng Uyển trên không và Tường Thành Babilon.
Ngày nay đứng trước những công trình kiến trúc tối tân, đồ sộ của các tòa nhà cao chọc trời, của máy điện tử Computer tinh vi, của Phi Thuyền vượt không gian... ta không thấy ngạc nhiên về những kỳ quan ấy nữa, vì ta đã thấy tận mắt, hiểu tường tận về cách cấu tạo và kết quả tất nhiên do trí óc tìm tòi, tính toán, xếp đặt khéo léo các nguyên tắc đã có sẵn mà Chúa đã thiết lập và xếp đặt từ ngày tạo dựng vũ trụ. Vua Salomon viết:Không có gì là kỳ lạ ở dưới thế gian này (Gv 1,9).
Nhưng lại có một sự lạ lùng hết sức, mà mắt phàm trần và trí óc con người không thể hiểu thấu mà bài Sách Thánh hôm nay nói tới, đó là: Việc Thiên Chúa làm người. Ngài sinh hạn như công lệ người đời, nhưng chất chứa một sự lạ lùng loài người không thể hiểu tỏ. Bài Phúc Âm kể: Thiên Sứ Gabriel được Thiên Chúa sai đến thành Nazareth, đến với một trinh nữ tên là Maria, đã đính hôn với một người tên là Giuse, để loan một tin mừng cả thể mà cha ông chúng ta đã 4000 năm trông đợi. Trinh Nữ sẽ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, sẽ sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu, nghĩa là Đấng Cứu Chuộc muôn dân. Ngài được gọi là Đấng Thánh Tối Cao và là Con Thiên Chúa.
Tiên Tri Isaia, trước Chúa Giáng Sinh 700 năm đã nói tiên tri rằng:Sẽ có một con trẻ sinh ra giữa chúng ta. Ngài là Đấng Thánh hết sức lạ lùng. (Is 9,5). Việc Thiên Chúa giáng trần là việc đặc biệt của Thiên Chúa thực hiện, mà trí óc loài thụ tạo chúng ta không sao hiểu thấu.
Nhà đạo sĩ trứ danh C.H.Spurgeon, thế kỷ 18 khi suy về việc Chúa Giáng Sinh, ông thốt lên:Tôi tin và tôi tin thật mọi sự lạ lùng Thiên Chúa làm vượt xa tầm trí hiểu biết của ta và chỉ khi nào về trời ta mới hiểu đủ. Thực lạ lùng thay: Đấng vô hình mà thành Con Trẻ, Đấng Hằng Có đời đời mà chịu sinh ra bởi người đà bà. Đấng Toàn Năng mà cầm bú sữa. Đấng nâng đỡ vũ trụ mà làm Con ông Giuse. Đấng nên mọi sự mà giam mình trong nhà chầu. Vua Trời Đất mà thành người trên vũ trụ. Việc Ngài sinh ra đã lạ lùng trước mắt chúng ta, rồi cả cuộc sống tại thế của Ngài cũng nào hết tiếp diễn bao sự lạ lùng khác nữa:
- Khi còn là con trẻ trên nôi đã khiến một ông vua hoảng sợ mất ngôi, mà ra lệnh tru diệt hết các con trẻ đồng lứa tuổi, hầu có thể giết được Ngài.
- Còn là con nít nằm trong máng cỏ, mà các vị vua khác đến bái thờ làm minh chủ.
- Là em nhỏ 12 tuổi, mà làm các vị thông thái phải ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài.
- Suốt đời Ngài chỉ viết có một lần trên cát rồi xóa đi, mà ngày nay các sách viết về Ngài lên như núi.
- Ngài không là Ca sĩ, Nhạc sỹ, Thi sỹ, nhưng lại nên nguồn cảm hứng chi thi sỹ, Nhạc sỹ, để rồi nơi trần thế la liệt các bản Thánh Ca, Thi Ca ca tụng Ngài.
- Ngài chỉ xuất ngoại bất đắc dĩ có một lần sang Ai Cập, thế mà ngày nay chẳng nơi nào trên thế giới không biết đến tên Ngài. Ai cũng nói với Ngài bằng chính ngôn ngữ của mình.
- Ngài không xuất thân từ trường sỹ quan, nhưng lại nên nguyên soái chinh phục các linh hồn bằng tình thương.
- Ngài là lang y thật tài, không chữa bệnh bằng dược thảo, nhưng bằng lời.
- Ngài giầu có hết sức, nhưng lại hóa nên nghèo đến nỗi cái khố cũng không đủ che khi tất tưởi phơi mình trên thánh giá. Mồ chôn thì đi mượn của người ta. Thiết đãi bạn bè bằng mấy con cá đi mượn của em bé bán rong.
- Loài người vố Vô nhân thập toàn, còn Ngài thanh sạch đến quan tòa Philatô cũng phải công nhận Người vô tội (Jn 19:6).
Mai mốt đây chúng ta long trọng mừng đón ngày Giáng Sinh của một vị Thiên Chúa Làm Người, toàn vẹn, toàn tài, toàn năng, toàn bích, phép tắc vô cùng... Ngài xứng đáng được tôn làm vua cõi lòng, vua tâm hồn, làm Chúa yêu thương, làm minh chủ dẫn đàng, làm bạn đường yêu ủi lúc vui buồn trong cuộc sống...
Ngài không muốn chúng ta chỉ ngắm nhìn Ngài như ngăm nhìn một em bé nõn nà xinh xắn trong máng cỏ với chuỗi điện mầu... Nhưng Ngài muốn chúng ta đón Ngài bằng cả tâm hồn thanh sạch, tâm hồn ấm áp tình mến, tâm hồn bình an, tâm hồn tràn niềm vui, tâm hồn đầy ơn nghĩa.... Nghĩa là một tâm hồn trong sạch, không tội lỗi, không hận thù. Một tâm hồn vị tha đầy tình huynh đệ, để khi Ngài đến, Ngài lấy cái kỳ diệu của Ngài mà đồng hóa, mà biến đổi cuộc sống chúng ta, làm chúng ta nên hiện thân, nên nghĩa tử muôn đời của Ngài.
Ước mong những ngày còn lại, chúng ta hãy dọn lòng một cách xứng đáng để đón rước Ngài, tiếp nhận Chúa, suy tông Chúa là Chúa bình an của cõi lòng, cho lời Thiên Sứ ca vang nên ý nghĩa cho lòng chúng ta:
Sáng danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
50.Hai tiếng "Xin Vâng" quyết định--Lm. Phanxico Xavie Lê Văn Nhạc
Lc 1: 26-38: Trong lúc loài người chúng ta phải chịu nhận lấy số mệnh như một cái may cái rủi, tốt ai nấy nhờ, xấu ai nấy chịu, thì Thiên Chúa đã sinh ra bởi một người mẹ được tuyển chọn và điểm tô từ muôn đời, giữa muôn người phụ nữ.
Họa sĩ Whistler vẽ một bức chân dung của mẹ ông. Các bạn ông ai cũng cho là tuyệt đẹp. Họa sĩ đáp:"Các bạn đều biết rõ, ai lại không muốn cho mẹ mình được đẹp hơn hết !"
Thật vậy, nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người xinh đẹp và đạo đức như ý tôi muốn.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa toàn năng, lúc muốn giáng sinh làm người, đương nhiên Ngài sẽ tuyển chọn một người mẹ lý tưởng và điểm tô người mẹ ấy xinh đẹp và thánh thiện hơn các người phụ nữ khác, vì là Mẹ Thiên Chúa. Trong lúc loài người chúng ta phải chịu nhận lấy số mệnh như một cái may cái rủi, tốt ai nấy nhờ, xấu ai nấy chịu, thì Thiên Chúa đã sinh ra bởi một người mẹ được tuyển chọn và điểm tô từ muôn đời, giữa muôn người phụ nữ.
Đây là trường hợp duy nhất trong lịch sử: Một người con chọn một người mẹ. Mà không phải chọn như một nhà độc tài, yêu cầu kẻ khác làm theo ý mình vô điều kiện. Thiên Chúa còn chọn cả ý muốn của người mẹ ấy. Ngài còn muốn lệ thuộc quyền tự do, sự ưng thuận của người mẹ ấy nữa. Vậy sau khi đã tuyển chọn và điểm tô một Trinh Nữ xinh đẹp thánh thiện, Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến trong khuê phòng tĩnh mịch của Trinh Nữ Maria, ngỏ lời cùng Trinh Nữ: "Mừng vui lên, hỡi Người-Đầy-Ơn-Phúc ! Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ". Thiên Chúa Tình yêu chỉ muốn được đáp trả bằng tình yêu. Đức Maria đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa bằng hai tiếng "Xin Vâng" để cộng tác vào kế hoạch tình yêu của Ngài: cứu chuộc nhân loại.
Thưa anh chị em,
Hai công trình kiệt tác vĩ đại nhất Thiên Chúa đã thực hiện vì yêu thương nhân loại, đó là tạo dựng loài người và cứu chuộc loài người, hay là công trình tạo dựng thứ hai. Trước khi tạo dựng loài người, Thiên Chúa đã xây dựng và điểm tô một nơi gọi là Vườn Địa Đàng. Nhưng hai Ông Bà nguyên tổ đã đạp đổ chương trình tốt đẹp này và hạnh phúc loài người cũng tan vỡ theo. Chính trong lúc ấy, Thiên Chúa dự định một công trình tạo dựng thứ hai: cứu chuộc loài người. Để thực hiện công trình mới này, Thiên Chúa cũng muốn điểm tô một Vườn Địa Đàng mới. Trong Vườn Địa Đàng mới này sẽ không bao giờ có mụn cỏ dại, không bao giờ có vết con rắn bò qua, không bao giờ có bóng cây biết lành biết dữ. Vườn Địa Đàng mới này là cung lòng Trinh Nữ Maria, nơi Con Thiên Chúa sung sướng đến nghỉ ngơi chín tháng mười ngày. Vườn Địa Đàng mới này là công trình của Thiên Chúa Nhập Thể. Như trong Vườn Địa Đàng Ađam-Evà, trong Vườn Địa Đàng Maria cũng diễn ra một hôn lễ long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa một Thiên Chúa với nhân loại. Và từ đó tình yêu đã bắt lại nhịp cầu giữa Trời và Đất, khai mạc một Thời Đại Mới.
Và cũng từ lúc nói lên lời ưng thuận: "Xin Vâng", Đức Maria đã trở thành một Evà Mới. Evà xưa đã chối bỏ kế hoạch tình yêu của Chúa để theo kế hoạch đen tối của ma quỉ và đem tội lỗi cùng với cái chết vào trần gian cho con cái loài người. Còn Evà Mới - Đức Maria - đã luôn coi mình là nữ tỳ, là người tôi tớ, nên đã trở thành người diễm phúc, xứng đáng làm Mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người và làm Mẹ của cả loài người chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Mỗi người chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi cộng tác với Ngài trong chương trình cứu chuộc nhân loại. Như Đức Maria, chính lòng tin vào Lời Chúa và sự vâng theo ý Chúa trong cuộc đời chúng ta là sự đóng góp tích cực với Chúa trong chương trình cứu độ chúng ta và toàn thế giới. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do của chúng ta. Thánh Augustinô đã nói: "Thiên Chúa khi tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta, nhưng khi cứu độ ta, Ngài không thể thiếu ta." Ngài xin chúng ta cộng tác. Đó là lời mời gọi Sứ Thần Gabriel đã trao gởi với Đức Maria theo kế hoạch của Thiên Chúa. Mẹ phải tạo điều kiện cho Thiên Chúa làm người trong thân phận người con của Mẹ. Như thế, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi đáp trả cho Thiên Chúa, để Ngài có thể tháp nhập và thể hiện mầu nhiệm tình yêu của Ngài trong đời sống con người chúng ta.
Thiên Chúa đòi hỏi một đáp trả tự do. Ngài không áp đặt điều gì. Ngài chỉ đề nghị. Để thực hiện một công trình yêu thương, cần phải có một nhiệt tình yêu thương thuần túy. Công trình cứu độ là một công trình yêu thương tuyệt vời, không thể nào là công việc thuê mướn được. Tiếng "Xin Vâng" của Đức Maria đã bộc phát cách đơn thành từ trái tim của Mẹ. Đó có phải là cách đáp trả mà ta đang chuẩn bị để thưa lại với Thiên Chúa không ?
Từ lời thưa "Xin Vâng", Đức Thánh Trinh Nữ đã hoàn toàn tận hiến mình để thực hiện thánh ý Chúa. Lời thưa "Xin Vâng" mà Thiên Chúa chờ đợi nơi các kitô hữu chúng ta phải là lời "Xin Vâng" trọn vẹn, tuyệt đối, một lời thưa "Vâng" dứt khoát, một tiếng "Vâng" bất chấp mọi lý luận, đi ngược lại mọi thứ khôn ngoan loài người. Noi gương Đức Maria, Mẹ chúng ta, chúng ta đừng sợ hãi và hoàn toàn dấn thân vào cuộc "mạo hiểm tình yêu cao cả nhất".
Xin Đức Maria giúp chúng ta mở rộng lòng đón nhận Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa luôn hiện diện trong con người và cuộc đời chúng ta. Rồi cũng theo gương Đức Maria, xin cho chúng ta nhận ra trách nhiệm đem Chúa đến cho anh em đồng loại, mở đường cho Thiên Chúa đi vào xã hội loài người.
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối, mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mõi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng
trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng
trên thập giá Chúa đã thốt lên rằng: Sao Cha bỏ con ?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn.
Amen.
51.Xin Mẹ dạy con hai tiếng ‘Xin Vâng’
Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật, mọi loài hữu hình và vô hình. Mọi sự đều tốt đẹp và tồn tại trong tốt đẹp, chỉ với một điều kiện là: các thiên thần và loài người luôn biết thờ phượng, kính mến và vâng lời Thiên Chúa.
Ma quỷ và tổ tông loài người đã không vâng lời Thiên Chúa, không thờ phượng kính mến Chúa, nên đã gây ra một sự phản nghịch với Thiên Chúa, một sự hỗn độn giữa các loài, mất trật tự trong chính loài mình, và ngay cả trong chính bản thân mình.
Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế, để giao hoà mọi loài với nhau và giao hoà đất với trời, giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài chuộc lại sự bình an hạnh phúc ban đầu cho mọi loài.
Như vậy, để cứu chuộc nhân loại, Đấng Cứu Thế phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa cách triệt để. Cũng một thể ấy, người mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế cũng phải vâng lời Thiên Chúa cách trọn vẹn. Ngay cả người cha theo luật của Đấng Cứu Thế cũng phải vâng lời Thiên Chúa cách tuyệt đối. Chúng ta có thể thấy rõ, Chúa Giêsu vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu có thể được...". Đức Maria thưa với thiên thần: "Nầy tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền". Thánh Giuse âm thầm chỗi dậy thi hành hết những gì Chúa muốn.
Để chuẩn bị đón nhận Chúa Cứu Thế, thánh Giuse và Đức Maria đều tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Trong những ngày chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, trong ngày Chúa nhật thứ tư mùa Vọng hôm nay, mỗi người chúng ta phải tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Nếu như chúng ta có vấp phải sự bất tuân luật Chúa, chúng ta phải thật lòng sám hối, và nhất quyết không phạm tội. Hơn nữa, chúng ta còn phải trang trí cho tâm lòng chúng ta những bông hoa đẹp là các việc lành, những dầu thơm của các nhân đức, những ánh sáng màu sắc của đức tin, và những nghĩa cử của lòng bác ái.v.v...
Trên tất cả mọi sự, thì đức vâng lời là làm đẹp lòng Thiên Chúa, là hơn mọi lễ vật. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy con biết thưa xin vâng, và biết thi hành thánh ý Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng con xứng đáng đón mừng Chúa Hài Nhi giáng sinh ngự đến cứu chuộc chúng con. Amen.
52.Biến Cố Truyền Tin--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Lc 1: 26-38: Trong lúc loài người chúng ta phải chịu nhận lấy số mệnh như một cái may cái rủi, tốt ai nấy nhờ, xấu ai nấy chịu, thì Thiên Chúa đã sinh ra bởi một người mẹ được tuyển chọn và điểm tô từ muôn đời, giữa muôn người phụ nữ.
Trình thuật truyền tin là một trong những trình thuật gây xúc động nhất trong Tin mừng, một trang viết tuyệt diệu. Ngạc nhiên và sung sướng biết bao ! Một vì Thiên Chúa lại hạ mình sinh làm con một trinh nữ nhỏ bé vô danh tiểu tốt để mang ơn cứu độ cho nhân loại. Thiên Chúa thực hiện công trình cứu độ của Ngài, nhưng lại mời gọi sự cộng tác của con người. Đức Maria chính là người thay mặt cho cả nhân loại để xin vâng theo ý Chúa, cộng tác tích cực vào công trình của Chúa.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Lc 1,26-38
1. Một mạc khải về Chúa Giêsu: Mục đích đầu của bản văn này, cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là ai ? Một loạt các tước hiệu của Chúa Giêsu được đưa ra trong bản văn này: Tên con trẻ là Giêsu ; Con Đấng Tối Cao ; Kế vị Đavít tổ phụ cai trị đời đời trong nhà Giacóp ; Đấng Thánh của Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa. Có thể nói, đây là bản văn qui tụ tất cả những tước hiệu nói lên bản tính Thiên Sai, sứ vụ và cuộc đời của Chúa Giêsu. Người là Con Thiên Chúa nghĩa là Thiên Chúa thật và cũng là con Đức Maria, tức là cũng là con người thật. Người đến để thực hiện các lời tiên tri đã loan báo về lời hứa cứu độ của Thiên Chúa. Đăc biệt, lời Chúa hứa với Đavít: "Này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai" nay đã ứng nghiệm nơi Người. Đức Giêsu là con Đấng Tối Cao, Đấng trao ban cho Ngài ngai vàng Đavít (Con là con Ta). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài được sinh ra do quyền năng Thiên Chúa và tác động của Thánh Thần. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nguồn gốc của Người từ Thánh Thần. Ngài là Đấng Thánh dành riêng cho chương trình của Thiên Chúa.
2. Một trình bày về Đức Maria:
a. Lời chào của Sứ Thần: "Kính chào trinh nữ tràn đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng trinh nữ" không chỉ là lời chào mà còn là lời xác nhận có Thiên Chúa hỗ trợ Đức Maria. Không phải là một lời chào thuần tuý nhưng là lời mời gọi hãy vui mừng lên vì Đức Maria được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn vào công trình của Người. Đức Maria là đối tượng đặc biệt được Chúa ưu ái. Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn để thi hành sứ vụ: thụ thai, sinh hạ con trai, đặt tên là Giêsu. Qua đó, Thiên Chúa khởi sự thực hiện lời của Người trên nhà Đavít. Việc sinh hạ Đức Giêsu sẽ ứng nghiệm những lời Kinh thánh Is 7,14: Trinh nữ thụ thai ; 2Sm 7,14-16: triều đại Đavít vô cùng vô tận.
b. "Việc ấy xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam": Câu hỏi này của Đức Maria minh nhiên nói lên việc Ngài còn đồng trinh. Trước đó, Mẹ có khấn giữ đồng trinh hay không là điều nhiều học giả kinh thánh và thần học tranh cãi, nhưng điều đó không quan trọng. Chắc chắn một điều là từ biến cố này Đức Maria khấn giữ đồng trinh và mãi mãi là Mẹ Đồng Trinh. Đấy mới là điều quan trọng. Câu hỏi của Đức Maria sẽ dẫn tới câu trả của sứ thần là tâm điểm của sứ điệp Tin mừng.
c. "Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên trinh nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ": Câu này gợi nhớ hình ảnh Thần Khí sáng tạo của Thiên Chúa bay là trên mặt nước để ban sự sống lúc khởi đầu vũ trụ (St 1,2). Khi nói điều này, rõ ràng sứ thần muốn nói Thánh Thần đóng vai trò nguyên lý sáng tạo và phát sinh sự sống trong cung lòng Maria. Đây hoàn toàn không giống như hình ảnh của phối ngẫu của các thần minh trong các chuyện thần thoại. Điều Thánh Thần đã làm lúc khởi đầu vũ trụ, Ngài cũng làm trong cung lòng Đức Maria: thụ thai mà vẫn trinh tiết.
d. "Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền": Lời Fiat, xin vâng của Đức Maria kết thúc cuộc đối thoại. Đức Maria sẵn sàng vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tận hiến trọn vẹn cho chương trình của Thiên Chúa. Với sự ưng thuận này, Thiên Chúa thực hiện chương trình nhập thể.
II. CHIÊM NGƯỠNG CHÚA GIÊSU:
Trình thuật truyền tin giúp cho chúng ta khám phá sâu xa ý nghĩa của Mầu nhiệm Nhập thể. Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Người vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng vì yêu thương nhân loại đã vâng lời Chúa Cha, chấp nhận thân phận làm người như chúng ta chỉ trừ tội lỗi. Người đến làm người để hiện diện, đồng hành và chia sẻ kiếp người lầm than với nhân loại đang rên xiết trong khổ lụy, tội lỗi và sự chết. Người đến để nối kết đất và trời, để nối kết mọi người với nhau bằng chính công trình cứu độ ban sự sống mà Chúa Cha sai Người thực hiện. Sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa lịch sử nhân loại trong thân phận một con người nói lên tất cả sự gần gũi yêu thương mà Thiên Chúa dành cho nhân loại.
III. SỐNG VÀ CHIA SẺ TIN MỪNG
1. Đức Giêsu, Thiên Chúa ở trong lịch sử nhân loại: Ngài là Lời sáng tạo của Thiên Chúa, Ngài hiện diẹn trong muôn thụ tạo, trong con người, đỉnh cao của sáng tạo. Vì yêu, Ngài không muốn cứu độ con người từ trên cao, nhưng đã hạ mình xuống làm người ở giữa chúng ta. Vì yêu, Ngài không muốn rời xa chúng ta, nên đã lấy chính máu thịt Ngài làm lương thực để ở trong chính bản thân con người yếu đuối. Vì yêu, Ngài đã hiến mình làm giá cứu chuộc chúng ta để hiệp nhất chúng ta nên một với Ngài. Ngài nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, Ngài bắt đầu một cuộc sáng tạo mới. Một lịch sử thánh mới. Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh thể để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
2. Đức Giêsu, Thiên Chúa đang ở trong chúng ta: Ngài đang ở nơi mỗi người: Đức Maria đón Ngài vào cung lòng mình, cưu mang Ngài. Còn chúng ta hôm nay cũng đón Ngài vào trong cung lòng chúng ta khi tham dự Bí tích Thánh thể. Vậy chúng ta đã chuẩn bị đón Ngài như thế nào ? Mỗi lần tham dự thánh lễ có thực sự là đi đón Chúa không ? Ngài đang ở trong gia đình chúng ta. Ngày xưa, Đức Mẹ và Thánh Cả đã cùng Ngài lập nên Thánh gia gương mẫu cho mọi gia đình ; ngày hôm nay, gia đình chúng ta cũng là gia đình có Đức Giêsu cư ngụ. Gia đình chúng ta đã và đang sống như thế nào ? Có Thiên Chúa thực sự hiện diện không ? Ngài đang ở trong xã hội hôm nay: Đức Giêsu đã đi vào lòng nhân thế qua Đức Maria, ngày hôm nay qua chúng ta, qua giáo xứ, qua Giáo hội Ngài cũng đang đi vào lòng xã hội. Chúng ta có đưa Ngài đến với con người, với xã hội, với môi trường mình đang sống không ?…
IV. LỜI CẦU CHUNG
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Cha nhân lành luôn yêu thương chúng ta. Ngài đã sai Đức Giêsu Kitô, Con Một Ngài, đến đồng hành cùng chúng ta. Tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài, chúng ta cùng tha thiết dâng lời nguyện xin.
1. Giáo hội, nhiệm thể của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng cầu xin cho Giáo hội luôn là hiện thân thực sự của Người giữa thế giới bằng nỗ lực đem Tin mừng tình yêu đến cho muôn dân nước.
2. Ngày nay, biết bao nơi, bao người trên thế giới còn đang sống trong chiến tranh, nghèo đói và tối tăm của tội lỗi. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những nơi, những anh chị em ấy luôn được Chúa hiện diện nâng đỡ phù trì.
3. Chúng ta cùng cầu xin cho cộng đoàn, cho gia đình chúng ta luôn là nơi cư ngụ có tình bác ái của Chúa Giêsu. Xin Chúa luôn ở cùng chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.
Lời kết: Lạy Cha chí ái, chúng con cảm tạ Cha đã yêu thương hiện diện giữa chúng con nơi Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu của Cha. Xin cho chúng con luôn ý thức sự hiện diện đầy tình yêu của Người, để biết tin tưởng và hy vọng trên hành trình nên thánh luôn gắn bó mật thiết với Người. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
53.Quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm trên bạn--Lm. Mark Link
Chủ đề: “Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta dưới hình thức mới nhất- nơi con người Đức Giêsu - làm cho tất cả mọi sự đều trở nên có thể thực hiện được”.
Thánh Inhaxiô Loyola chào đời tại Tây Ban Nha một năm trước khi Kha Luân Bố tìm ra Mỹ Châu. Ngài chưa đực 16 tuổi thì cha mẹ Ngài đã mất hết. Vì thế, cho tới khi trưởng thành, Inhaxiô vẫn sống vô kỷ luật và ngông cuồng bướng bỉnh. Một ngày kia, Inhxiô cải thiện đời sống và từ bỏ tội lỗi mình. Ngài thành tâm thống hối sâu xa và trở lại với Chúa. Ngài viết nhật ký kể lại những kinh nghiệm của mình. Về sau Ngài xuất bản cuốn nhật ký đó như một cẩm nang chỉ dẫn cho người khác con đường tìm gặp Đức Giêsu của họ. Nhật ký đó gọi là tập “Linh Thao”.
Một trong những bài “linh thao” ấy dạy về cách suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay. Cách đó gồm ba bước:
Bước đầu tiên là tưởng tượng xem thế giới thời trước Đức Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan hờ hững đối với Thiên Chúa. Sự xấu tràn lan như một ung thư khổng lồ. Thế giới rơi vào một tình thế vô vọng.
Bước thứ hai là tưởng tượng Thiên sứ Gabriel từ trời xuống báo tin cho Maria rằng nàng được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đức Giêsu. Chúng ta hãy tưởng tượng rằng chính chúng ta cùng với Thiên sứ từ trời bay xuống. Chúng ta nhìn xuống trái đất xa thật xa. Nó chỉ là một chấm sáng bé tí trong vũ trụ đầy sao. Khi chúng ta bay tới gần hơn, chúng ta thấy một đốm trên mặt địa cầu gọi là Đất Thánh. Khi tới gần hơn nữa, chúng ta thấy làng Nazarét. Cuối cùng, chúng ta gặp Maria trong căn nhà. Nàng đang im lặng qùi gối cầu nguyện.
Bước thứ ba là lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới hai câu: câu thứ nhất là lời của Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên cô: vì thế Đấng Thánh con của cô sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc.1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu xh.40,34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” vốn ít được dùng tới trong Kinh Thánh ấy không phải là ngẫu nhiên. Nó có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt hòm giao ước của Thiên Chúa. Ông so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.
Chúng ta nên nhớ rằng Thiên Chúa có thể hiện diện nơi chúng ta bằng nhiều cách khác nhau, y như người ta có thể hiện diện với nhau bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn một đứa con đang trọ học ở trường vẫn có thể hiện diện đối vối mẹ nó qua bức ảnh chụp của nó trên bàn của bà, hay một cách thân mật hơn qua lá thư nó viết mà bà cầm trong tay. Khi đứa con về nhà, nó sẽ hiện diện một cách thân mật và hiện thực nhất có thể đối với mẹ nó, một sự hiện diện bằng xương bằng thịt.
Cũng tương tự như vậy, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Trước hết Ngài hiện hiện với chúng ta qua vạn vật mà Ngài sáng tạo. Nơi vạn vật Thiên Chúa có đặt một cái gì đó thuộc về bản thân Ngài cũng giống như nhạc sĩ đặt một cái gì đó thuộc về bản thân ông trong dòng nhạc của bài ca ông sáng tác. Kế đó, Thiên Chúa hiện diện đối với chúng ta qua lời của Thánh Kinh. Tư tưởng của Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong Thánh Kinh, y hệt như tư tưởng của người nhạc sĩ hiện diện với chúng ta trong bài ca của ông. Sau cùng, Thiên Chúa hiện diện với chúng ta trong Đức Giêsu. Thiên Chúa đã trở nên hiện diện với chúng ta bằng xương bằng thịt, y như nhạc sĩ có thể hiện diện có thể hiện diện đối với chúng ta bằng xương bằng thịt của ông. Điều này khiến chúng ta trở về với câu đầu tiên mà chúng ta phải đặc biệt lưu ý trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là lời của Thiên sứ nói với Đức Maria rằng quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm nên nàng. Khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì Thiên Chúa trở thành hiện diện đối với chúng ta bằng cách thức thân thiện nhất có thể tưởng tượng được. Ngài đã trở thành hiện diện đối với chúng ta qua sự hiện diện bằng xương bằng thịt của Đức Giêsu.
Điều này dẫn chúng ta trở về với câu thứ hai mà chúng ta phải lưu tâm tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu này được nói tiếp theo câu trước nói về quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Maria. Trong câu này, Thiên sứ nói: “xin báo cho cô biết rằng bà Isave, chị họ của cô, đã thụ thai một cậu con trai trong tuổi gìa. Ai cũng nghĩ bà sẽ không con, thế mà bây giờ bà đã có thai được sáu tháng, vì không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa”. Trong câu này, mệnh đề quan trọng là “đối với Thiên Chúa thì không có gì không thể làm được”. Tin Mừng hôm nay làm nổi bật môt cách tuyệt diệu biết bao ý tưởng “không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa”.
Trước khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Maria, thì thế giới đang sống trong tình trạng vô vọng. Tội lỗi và bạo lực lan tràn khắp nơi. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, không có ai hy vọng nàng sẽ sinh con cả, vì nàng là một trinh nữ. Trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Isave, bà không còn có thể hy vọng sinh con được nữa, vì bà đã gìa không còn khả năng sinh sản. Và cuối cùng, trước khi quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria, nhân loại không có hy vọng được cứu rỗi, vì nhân loại đang sống trong vòng nô lệ Satan.
Quyền năng Thiên Chúa bao trùm lên Maria đã thay đổi tất cả.
Điều đó ý nghĩa gì đối với chính chúng ta hôm nay? Điều đó có ý nghĩa là:
Thế giới chúng ta có thể đang hỗn độn. Gia đình chúng ta có thể đang xáo trộn. Cuộc sống chúng ta có thể đang hỗn loạn. Nhưng vẫn còn có hy vọng, vì quyền năng của Thiên Chúa đã nhập vào thế giới này qua con người Đức Giêsu.
Đó là những gì chúng ta đang chuẩn bị cử hành đón mừng trong những ngày cuối cùng trước Giáng Sinh. Đó là những gì đem lại cho chúng ta niềm vui ngoài sức tưởng tượng, niềm hy vọng không dám ước mơ.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện. Chúng ta hãy cầu nguyện bằng những lời mà Đức Maria đã dùng để cầu nguyện khi Ngài đến thăm chị họ Isave của Ngài. Xin anh chị em cùng cầu nguyện với tôi trong thinh lặng:
“Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa. Lòng trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa cứu chuộc tôi… Ngài đã giữ lời hứa với Tổ phụ chúng ta … Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abraham. Và với tất cả dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc.1, 46 -47. 54 -55)
54.Tâm tình…--Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế
TÂM TÌNH TRONG NHỮNG NGÀY CHUẨN BỊ MỪNG CHÚA GIÁNG SINH
1. VUI MỪNG
Tâm tình của người Kitô hữu trong những ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh phải là tâm tình mừng vui, như thánh Phaolô khuyên nhủ trong thư gửi tín hữu Phi-líp: “Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã sắp đến rồi. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bầy trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giêsu Kitô.” (Pl 4,1-7)
Ai chẳng muốn vui như thế. Nhưng xem ra khó, vì niềm vui bình thường phát xuất từ con người và sự vật bên ngoài, như vui vì được gặp lại người thân, được người ta hiểu biết thông cảm, được thành công may mắn, không phải lo ăn lo mặc, có công việc làm bảo đảm chắc chắn, có một địa vị nào đó trong xã hội v.v... Thành ra niềm vui phải dựa vào ngoại cảnh. Ngoại cảnh có thuận lợi thì lòng người mới dễ vui. Nếu vui chỉ hiểu theo nghĩa này thôi thì phạm vi khá nhỏ hẹp và cũng chẳng mấy khi chúng ta hoàn toàn được vui, vì có bao giờ chúng ta hội đủ được những điều kiện bên ngoài để vui đâu; mà dù cho có đi nữa thì niềm vui cũng không kéo dài được. Bởi vậy người ta mới phải mua vui, tìm vui. Nhưng rồi những niềm vui này cũng lại mau qua khiến người ta phải tìm những niềm vui khác. Và cứ thế, cái vui này tiếp nối cái vui kia cho đến khi chẳng cái vui nào thỏa mãn hoàn toàn được lòng người.
Nhưng tâm tình mừng vui của người tín hữu trong những ngày này vượt ra ngoài phạm vi của những niềm vui thông thường. Đó là niềm vui trong Chúa. Niềm vui trong Chúa phải chăng là quá lý tưởng không thực tế? Nghe nói thì cũng biết vậy thôi, chứ lý thú gì cho bằng những niềm vui thông thường ở đời! Quả thật, thoạt mới nghe vui trong Chúa có vẻ lý thuyết lắm, nhưng nghĩ kỹ mới thấy thấm thía và chỉ có niềm vui này mới thỏa mãn được khát vọng sâu xa của lòng người.
Vui trong Chúa là thế nào?
Vui trong Chúa là đặt niềm vui nơi Chúa, lấy Chúa làm niềm vui cho mình hay được Chúa đổ đầy Thánh Thần của Người trong chúng ta. Vui trong Chúa, bởi vì chính Chúa là nguồn hoan lạc của ta. Niềm vui này căn cứ trên ơn được Chúa ở cùng. Chúa ở trong linh hồn ta, khi ta sạch tội. Người ban cho ta được bình an trong tâm hồn, được thanh thoát nhẹ nhàng, được nếm tất cả sự ngọt ngào khi kết hợp với Người, qua những lần tiếp xúc với Người trong kinh nguyện ở nhà thờ hay ở những nơi thanh vắng yên lặng, lúc chúng ta cầu nguyện riêng một mình. Chúng ta còn vui khi được Chúa ban cho sức mạnh để đẩy lui các cơn cám dỗ, hoặc chịu đựng và thắng vượt các nghịch cảnh.
Hiệu quả của niềm vui này là chúng ta ăn ở hiền hòa, rộng rãi, tin tưởng phó thác mọi nỗi lo âu của chúng ta trong tay Chúa và thành thật giải bày với Người những điều chúng ta ước ao thỉnh nguyện.
Làm thế nào để có được niềm vui này?
Đây là niềm vui Chúa ban vào thời Đấng Mê-si-a ngự đến, nghĩa là thời Cứu thế, đặc biệt hằng năm vào dịp chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Người ban cho ai nấy được chan chứa niềm vui, vì được Người đến viếng thăm và ban ơn cứu độ.
Điều kiện để được hưởng niềm vui này, trước hết là chúng ta phải có một tâm hồn đơn sơ nghèo khó, nghĩa là tùy thuộc và trông đợi ở Chúa. Sự nghèo khó ở đây hiểu về một trạng thái tinh thần hơn là một cảnh nghèo thực sự, vì ai cũng có thể tạo cho mình một tâm hồn đơn sơ nghèo khó qui hướng và tùy thuộc vào Chúa như những người con tùy thuộc cha mẹ.
Ngoài ra là khiêm nhường. Người nghèo bên trong cũng như bên ngoài thì dễ khiêm nhường, không tự phụ vì biết mình chẳng có gì đáng tự phụ. Mà Chúa lại đặc biệt ưa thích và ban ơn cho hạng người nghèo vì họ được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm (xem Lc 2,24), chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3).
Cuối cùng là cầu nguyện. Nhưng không phải là cầu nguyện để xin những ơn vật chất mà thôi, nhưng cầu nguyện để kết hợp với Chúa, để tìm ra ý của Người và nhất là để khám phá ra tất cả ý nghĩa của cuộc đời người Kitô hữu.
2. LẮNG NGHE TỈNH THỨC
Tỉnh thức và lắng nghe là hai thái độ cần thiết của những người sống trong tình trạng chờ đợi và canh chừng. Hiện nay, trong những ngày gần kề chuẩn bị lễ Giáng sinh, chúng ta là những người đang đợi chờ và canh chừng Chúa đến.
Lý do khiến chúng ta phải tỉnh thức, canh chừng, ngoài ý nghĩa tôn giáo sâu xa, là một lý do thuộc phạm vi giao tế do phép lịch sự xui khiến.
Quả vậy, theo phép lịch sự thông thường, khi đã hẹn đón ai thì lúc người ấy đến, ta phải tỏ ra sẳn sàng đón tiếp người ấy. Ta càng quý người mình đón tiếp bao nhiêu thì lại càng tỏ ra mình bằng lòng mất thời giờ vì người ấy, và nếu có bị xáo trộn một chút trong nếp sống hàng ngày thì cũng lấy làm vui.
Đối với Chúa Cứu thế cũng vậy. Sắp đến ngày trọng đại kỷ niệm lễ Giáng sinh của Người rồi; lẽ đương nhiên là chúng ta phải tỉnh thức chờ Người đến. Chúng ta đã biết ngày và giờ Người đến, nhưng ngày và giờ ấy mới chỉ có tính cách kỷ niệm, và nếu chỉ mừng ngày Chúa Giáng sinh như mừng một ngày kỷ niệm thì mọi sự cũng sẽ mau qua lắm. Cho nên hàng năm, chúng ta mừng lễ Giáng sinh như một kỷ niệm đã đành, vì đó là một ngày rất đáng kỷ niệm, một biến cố phân chia lịch sử loài người ra làm hai giai đoạn, mà hơn nữa còn phải mừng ngày ấy như một dịp nhắc nhở và hướng lòng chúng ta về thời viễn lai như chúng ta vẫn thường xưng tụng mỗi ngày trong Thánh lễ: “Lạy Chúa Kitô phục sinh, mỗi lần ăn bánh và uống chén này chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và đợi chờ ngày Chúa quang lâm”.
Bây giờ chúng ta chuẩn bị mừng ngày Giáng sinh nhưng chính ra là đợi chờ ngày Chúa quang lâm, nghĩa là ngày Chúa đến lần thứ hai, khi lịch sử loài người kết thúc. Lần thứ nhất, Chúa đến trong hang đá máng cỏ, trong cuộc đời hàng ngày của chúng ta và lần thứ hai Người đến với đầy vẻ oai phong rực rỡ để phán xét người sống cũng như kẻ chết, rồi đưa chúng ta vào vương quốc của Người.
Ban đầu Giáo hội không mừng lễ Giáng sinh mà chỉ mừng lễ Phục sinh. Mãi đến năm 353, ĐGH Li-bê-ri-ô mới ấn định ngày 25 tháng 12 làm ngày mừng Chúa giáng sinh, để thay cho ngày đông chí của người Rô-ma mừng Thần Mặt trời cũng vào những ngày đó. Còn hình thức mừng lễ Giáng sinh như ngày nay với cây thông đèn sao hang đá, máng cỏ mới có từ thế kỷ XIII (1223) vào thời thánh Phan-xi-cô khó khăn, hai năm trước khi thánh nhân qua đời. Sau đó, thánh Clara mới đem phổ biến trong Dòng Anh em hèn mọn, rồi cuối cùng lan rộng khắp thế giới.
Phải tỉnh thức thế nào?
Phải tỉnh thức như những người hoạt động chứ không phải như những kẻ ngồi chờ mà không làm gì cả. Trước hết là tỉnh thức để chỉnh đốn lại linh hồn. Thứ hai là tỉnh thức để nghĩ và hướng về ngày Chúa đến rực rỡ trong vinh quang, bằng những việc làm biểu lộ đức tin của mình. Thứ ba là tỉnh thức để tránh rơi vào cạm bẫy của những hành vi đam mê, dục vọng bất chính.
Có như thế thì việc chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh hằng năm mới có ý nghĩa sâu xa và nhắm tới ngày Chúa lại đến là ngày quyết định cho cuộc đời Kitô hữu chúng ta.
3. LẮNG NGHE
Trong những ngày này, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta và quả thực Người đã nói nhiều qua những bài sách Thánh chúng ta đã nghe từ đầu Mùa Vọng cho đến bây giờ và đặc biệt từ đầu tuần cho đến nay. Những lời đó là những lời loan báo Chúa Cứu thế đã gần đến và chúng ta phải sửa soạn ra nghênh đón Người.
Thiên Chúa đã nói.
Người đã nói bằng nhiều kiểu nhiều cách với các bậc tổ tiên chúng ta như Áp-ra-ham, Gia-cóp, I-xa-ác và các ngôn sứ như Ê-li, Ê-li-sêu, I-sa-i-a và đến thời cuối cùng này qua chính con Một của Người là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô là chính lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói một cách đặc biệt qua chính Con Người, và cuộc đời của Đức Giêsu Kitô mà chúng ta đang chuẩn bị mừng kỷ niệm Giáng sinh.
Ngày nay Thiên Chúa vẫn còn nói:
Trong sách Thánh chúng ta đọc hay nghe hằng ngày, hoặc qua các biến cố xảy đến cho quê hương xứ sở, cho cá nhân, gia đình cũng như cho xã hội. Có thể coi đó là những thời điểm Thiên Chúa muốn dùng để nói với ta một cái gì. Bổn phận của chúng ta là phải tỉnh mắt, thính tai để nhìn thấy sự việc Thiên Chúa muốn chỉ bảo và lắng nghe điều Người muốn nói.
Thiên Chúa nói đặc biệt trong những Mùa Phụng vụ và những dịp lễ lớn.
Trong những Mùa và Lễ này có nhiều cái bên ngoài dễ đánh động chúng ta hơn, như những bài sách Thánh đặc biệt nói riêng về mầu nhiệm chúng ta sắp cử hành, những ngày tĩnh tâm dọn mừng lễ và chính những sự chuẩn bị ở bên ngoài để mừng lễ nữa. Tất cả những thứ đó đều có thể được coi như những cơ hội Thiên Chúa dùng để nói với chúng ta.
Vậy, thái độ chúng ta phải như thế nào?
Trước hết, phải như ngôn sứ Sa-mu-en, nghĩa là xin Chúa nói, vì chúng ta đang sẵn sàng đón nghe. Nghe rồi nhưng không bỏ ngoài tai, mà trái lại cố gắng noi gương Đức Mẹ giữ kỹ và suy đi nghĩ lại, để làm mẫu mực sống cho mình.
Ngoài ra là phải để cho lòng mình lắng xuống trong sự im lặng suy nghĩ, tạm bỏ qua một bên những bận tâm lo lắng của đời sống hàng ngày, vào những thời khắc thuận tiện mình dành cho Chúa, mỗi khi đọc kinh cầu nguyện hay đi lễ đi nhà thờ. Những thời khắc yên lặng đó dù chóng vánh cũng rất cần thiết, để cho Lời Chúa thấm vào lòng ta. Sau khi giảng, hay rước lễ, nếu có ngưng một vài phút cũng là vì vậy.
Bởi thế, lắng nghe là thái độ cần thiết và hợp lý để ý nghĩa của Mầu nhiệm Giáng sinh tràn ngập tâm hồn ta, hầu đem lại cho ta niềm vui và bình an thật sự như lời thần sứ loan báo: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
55.Ý định của Thiên Chúa--Lm. Phạm Ngọc Hùng
“Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng… Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2 Sm 7,9, 16).
Khoảng 700 năm trước Thiên Chúa giáng trần, sau khi Đavit được xức dầu làm vua các chi họ Do Thái và Giuđa, thì việc đầu tiên ông nhắm tới là phải đánh chiếm thành Giêrusalem từ tay người Giơ-vút để thiết lập một thành trì chính trị chung cho cả nước. Để bảo đảm được lòng trung tín của mọi chi họ, Vua Đavít cũng quyết định sẽ biến Giêrusalem thành một trung tâm tôn giáo chính. Với quyết định như vậy, Vua Đavít đã đưa Hòm Bia Thiên Chúa vào trong thành để tiến hành công việc xây dựng một đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự. Đây là một việc làm rất đáng ca ngợi, nhưng Thiên Chúa cho Đavít biết, Ngài sẽ thực hiện một công việc vĩ đại hơn, đó là làm cho dòng dõi của ông thành một triều đại vững mạnh và miêu duệ của ông sẽ trị vì ngôi báu đến muôn đời. Chúng ta thấy lời hứa này đã được Thiên Chúa hứa với Abraham, Isaac và Giacób là các tổ phụ của Đavít, và Ngài đã thực hiện lời hứa đó qua biến cố nhập thể của Đức Giêsu như lời Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria: “Này bà sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacób và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1,31-33).
Qua câu chuyện Thánh Kinh này, chúng ta thấy đường lối của Thiên Chúa không như những gì con người suy nghĩ. Trong sự hiểu biết giới hạn, nhiều lúc chúng ta thấy những dự tính của mình rất là tốt lành và cao cả, nhưng đối với Thiên Chúa, với quyền năng thấu suốt mọi sự, Ngài không cho đó là một việc đáng làm. Bằng chứng cho thấy là việc Vua Đavít xây dựng đền thờ là một việc làm thánh thiện để bày tỏ lòng biết ơn và kính yêu của ông đến Thiên Chúa, ngay cả tiên tri Nathan cũng cho đó là hợp tình hợp lý, nhưng Thiên Chúa lại muốn thực hiện một chương trình vĩ đại hơn, đó là thiết lập một triều đại vững bền để cho Ngôi Lời nhập thể và trị vì ngôi báu đến muôn đời. Vương quốc mà Thiên Chúa đã thiết lập không thuộc về thế gian này, nhưng bao gồm tất cả những ai tin vào Đức Giêsu Con Một của Ngài. Khi áp dụng chi tiết này vào trong đời sống đức tin, chúng ta thấy, rất thường xuyên có những dự tính chúng ta cho rằng tốt lành và cao cả đã không thành công như lòng mình mong muốn, mà đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận đó là thánh ý của Thiên Chúa. Chẳng hạn như có nhiều những bậc cha mẹ mong muốn cho con mình lớn lên trở thành những linh mục, nữ tu, hay những bậc vị vọng trong xã hội. Rồi từ những ước vọng đó, họ đã làm tất cả để được thành công. Nhưng đâu phải có ước vọng rồi đem ra thực hiện là thành công. Chúng ta cần phải để cho Thiên Chúa quan phòng cho chúng ta theo như ý định của Ngài. Đó chính là lý do tại sao, có nhiều lần chúng ta thấy lời cầu xin của mình rất là chính đáng mà không thấy Thiên Chúa ban cho. Không phải Ngài không nhận lời chúng ta, nhưng vì thấu hiểu mọi sự nên Ngài ban hay không ban đều nhằm mục đích mang lại lợi ích thiêng liêng cho chúng ta và cho chung tất cả mọi người.
Nhận thức rằng sự hiểu biết của mình có giới hạn và với niềm tin nơi Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương, chúng ta hãy sẵn sàng đón nhận mọi ý định của Thiên Chúa và chu toàn ơn gọi Ngài đã thương ban để danh Ngài cả sáng và triều đại Ngài vững bền muôn thuở.
56.Xin Vâng như trinh nữ Maria để chờ đón Chúa ra đời--Lm Trần Bình Trọng
Vào thời mà ngay trước Ðấng cứu thế giáng sinh, thì dân chúng đã chán ngấy phong hoá suy đồi trong xã hội Pa-lét-tin. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự sống đời buông thả. Còn trên bình diện chính trị, thì đất nước của họ bị đế quốc La mã cai trị. Vì thế mà dân chúng mong đợi Ðấng cứu thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng thời bấy giờ thì họ mong đợi vị cứu tinh đến giải thoát họ khỏi cảnh lầm than, đô hộ, chứ không hẳn là giải thoát họ khỏi tội lỗi. Còn phụ nữ Do thái nói chung thì mong được làm mẹ đấng cứu thế. Riêng trinh nữ Maria lại khác nữ giới thời bấy giờ, không nuôi tham vọng đó, mặc dầu có cơ hội vì đã đính hôn với ông Giuse.
Luật đính hôn của Do thái thời bấy giờ rất là nghiêm túc. Ðã đính hôn có nghĩa là đã cưới hỏi theo pháp lý. Tuy nhiên trinh nữ Maria qua một sự thoả thuận kín đáo với ông Giuse, như một lời khấn, quyết giữ mình đồng trinh. Chẳng thế mà khi sứ thần Gáp-ri-en đến thỉnh nguyện trinh nữ chấp nhận địa vị làm mẹ Ðấng cứu thế, thì trinh nữ tỏ mối quan tâm về lời hứa của mình: Ðiều đó xẩy đến thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:34). Ðiều đó chứng tỏ trinh nữ yêu quí đức đồng trinh như thế nào! Chỉ khi sứ thần bảo đảm với trinh nữ rằng việc trinh nữ thụ thai là do quyền phép Chúa Thánh linh thì trinh nữ mới chấp nhận địa vị làm mẹ Ðấng cứu thế. Còn việc thánh Giuse từ bỏ Ðức Maria ra đi cách kín đáo, khi nhận ra Bà đang mang thai, cũng chứng tỏ rằng hai Ông Bà không sống với nhau như vợ chồng.
Phúc âm hôm nay ghi lại trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đáp trả lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa. Trinh nữ Maria chấp nhận lời Chúa truyền, qua miệng sứ thần Gáp-ri-en để mang thai, mặc dù không hiểu sự việc xẩy ra như thế nào, vì trinh nữ đã khấn hứa giữ mình đồng trinh. Mặc dù không hiểu, nhưng trinh nữ đã tin tưởng vào quyền phép của Thiên Chúa, để chấp nhận theo thánh ý Chúa: Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Người thực hiện nơi tôi như lời sứ thần nói (Lc 1:38). Bằng việc chấp nhận thánh chỉ của Thiên Chúa, nên Con Một Thiên Chúa, đã được thụ thai cách huyền diệu trong lòng trinh nữ. Giả sử trinh nữ Maria không ưng thuận, thì điều gì sẽ xẩy ra cho nhân loại? Và đời ta sẽ ra sao bây giờ? Ôi, hồng phúc thay lời xin vâng muôn thuở!
Khi vua Ðavít đã ổn định tình thế quân sự, chính trị và xà hội trong nước, mà nhà vua thì được ở nhà gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì lại ở trong lều vải (2 Sm 7:2), nên nhà vua có ý định xây nhà để giữ Hòm Bia Thiên Chúa. Hòm Bia được coi là biểu tượng của giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và nhà Ít-ra-en vì Người đã chọn họ làm dân riêng và ban giới luật cho họ. Vì thế Hòm Bia cũng được coi là biểu tượng của sự hiện diện của Giavê. Tuy nhiên Thiên Chúa lại có chương trình khác. Chương trình của Thiên Chúa nhắm tới thời gian mà một người trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Em-ma-nu-en (Is 7:14). Chương trình đó được thực hiện khi trinh nữ Maria chấp nhận thụ thai Ðấng Em-ma-nu-en (Mt 1:23). Vì thế mà trong Kinh cầu Ðức Mẹ, Giáo hội coi trinh nữ Maria chính là Hòm Bia của Thiên Chúa như khi ta kêu cầu: Ðức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy, vì trinh nữ đã cưu mang Ngôi hai Thiên Chúa trong lòng mình. Chương trình của Thiên Chúa đã được ghi lại trong thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn La mã: Theo lệnh của Thiên Chúa, Ðấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin và vâng phục Thiên Chúa (Rm 16:26).
Thời bấy giờ, trinh nữ Maria cũng nóng lòng mong đợi Ðấng cứu thế đến như dân Do Thái nói chung, như những phụ nữ Do thái riêng. Ðặc biệt, trinh nữ mong đợi Ðấng cứu thế sinh ra từ trong dạ mình. Vậy lòng mong đợi mà người tín hữu cần có là lòng mong đợi của trinh nữ Maria mang thai. Ðàn ông và những người đàn bà không lập gia đình thì không có được kinh nghiệm mang thai. Ðể cho người ta có được ý niệm phần nào về việc mang thai, có một hãng xưởng kia chế tạo một túi bị với chiều kích theo đường cong của bụng mang thai, mà khi đeo vào bụng, thì người ta cũng đi đứng, nằm ngồi tựa hồ như người đàn bà mang thai. Mặc dù không có kinh nghiệm mang thai hay không đeo bị vào bụng, người ta cũng có thể tưởng tượng ra phần nào, trinh nữ Maria nóng lòng chờ đợi Con mình sinh ra như thế nào. Cũng đợi chờ chín tháng mười ngày như những người đàn bà mang thai khác.
Việc trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa, tin tưởng vào lời Chúa, vâng theo thánh ý Chúa và cộng tác với ơn Chúa phải giúp ta làm sao để sửa soạn đón mừng Chúa đến. Việc trinh nữ thụ thai cách kỳ diệu mà không có sự cộng tác của người nam, phải giúp ta nảy sinh ra cảm giác lạ lùng và kính sợ. Không may sống trong thời đại kỹ thuật khoa học, con người đã mất đi cảm giác đó, nghĩa là mất đi cảm giác kính sợ, ngạc nhiên và lạ lùng trước những quyền lực siêu nhiên và cao vời. Ðể bù lại cảm giác mất mát đó, ta cần tiếp xúc với những gì Chúa đã làm trong đời sống cá nhân và trong thế giới loài người.
Như Mẹ Maria, ta cần ghi nhớ và suy niệm (Lc 2:19) những sự việc Chúa đã thực hiện trong đời sống ta. Ðức tin của Ðức Maria vào lời Chúa, phải có sức linh ứng, giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và thực thi ý Chúa. Lời Chúa không phải là điều gì thuộc quá khứ, không ăn nhập gì tới nếp sống hiện tại. Lời Chúa là lời hằng sống nên phải có sức biến đổi tâm hồn và tác động đời sống ta, vì Chúa là Ðấng hằng sống và chân thật.
Lời cầu nguyện xin ơn biết mở rộng tâm hồn đón chờ Chúa đến:
Lạy Ngôi hai Thiên Chúa hằng sống.
Ðấng hiện hữu từ muôn thuở.
Chọn nhập thể trong lòng một trinh nữ.
Xin khơi dậy trong con một cảm giác ngạc nhiên lạ lùng.
Một tâm hồn mong mỏi đợi chờ ngày Chúa Giáng sinh.
Xin dạy con dọn cho Chúa một máng cỏ trong tâm hồn.
Kết bằng việc cầu nguyện, sám hối, hi sinh và bác ái.
Ðể sưởi ấm tâm hồn Chúa. Amen.
57.Tình Chúa muôn ngàn đời--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời. Qua bao nhiêu thời tình Chúa chẳng vơi…”. Bước vào tuần cuối của mùa Vọng, Hội thánh dẫn đoàn tín hữu dần đến đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa, mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, nay được biểu lộ (x. Rm 16,25-26): Ta sẽ yêu thương con người đến muôn đời và lòng thành tín của Ta được thiết lập trên cõi trời cao.
Sự thành tín là một đặc tính tất yếu của tình yêu đích thực: Trong bất cứ kiểu loại tình yêu nào dù là tình phu thê, tình mẫu tử, phụ tử, tình huynh đệ, tình quê hương, tình đồng chí, đồng bào…tất thảy đều đòi hỏi sự tín thành, thuỷ chung. Tình yêu có thể xuất hiện dưới nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau, nhưng không thể chấp nhận sự đứt gánh nửa chừng hoặc thay lòng đổi dạ kiểu đổi trắng thay đen.
Dòng lịch sử ơn cứu độ mạc khải cách rõ nét tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Dù cho con người có phản bội nhưng Thiên Chúa mãi luôn tín trung vì Người không thể chối chính Người (x.2Tm 2,12-13). Có khi, có thời, Người dìm ta xuống đáy vực sâu hoặc để ta long đong phận khổ, nhưng người lại kéo ta lên, ủi an, vổ về như mẹ hiền âu yếm con thơ. Sau khi sửa trị chúng ta vì tội lỗi chúng ta, lòng Người lại bồi hồi thổn thức, và Người lại tỏ lòng xót thương (x.Gr 31,16-20).
Lời hứa ban ơn cứu độ từ thưở tổ tiên loài người phản bội đã dần thành hiện thực theo dòng thời gian. Lịch sử ơn cứu độ đã khai mở và khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời Người đã hứa tự ngàn xưa là sai chính Con Một vào trần gian, thực thi công trình cứu độ. Hứa ban cho Đavít một triều đại vĩnh tồn thì Thiên Chúa đã giữ lời. Một chồi non từ nhà Đavít đã mọc lên và “Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33).
Thiên Chúa không hề bỏ ta: một nền tảng căn bản của niềm cậy trông. Trong phận người, đặc biệt khi đã trưởng thành thì hầu như ai cũng đã từng trải qua ít nhiều thăng trầm của của cuộc sống. Có thể nói quảng thời gian an bình, hạnh phúc thật vắn vỏi so với dòng đời gian truân, vất vả. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hiện thực này: đời người mạnh giỏi lắm là bảy, tám mươi năm mà toàn là gian lao, khốn khổ (x. Tv 90,10). Sự gian truân, vất vả của cuộc đời chắc chắn có góp phần rèn luyện nhân cách con người, đồng thời giúp con người thăng tiến và đạt đến thành công. Tuy nhiên, nó cũng có thể làm cho nhiều người chán nản, buông xuôi. Nhiều sự ở đời này vẫn thường mang tính lưỡng diện.
Dưới nhãn quan đức tin, khi ta ở trong tình trạng khó khăn, thất bại, khi ta lâm vào những nghịch cảnh, nhất là khi ta ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi thì chước cám dỗ ngã lòng, thất vọng luôn có đó. “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại làm… Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? (Rm 7,19-24).
Thiên Chúa luôn tín trung với lời Người đã hứa. Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Có được xác tín này thì niềm cậy trông sẽ có đất đâm chồi nẩy lộc. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta.” (Rm 5,5-6).
Không một ai là không có thể được cứu thoát: Với loài người thì rất nhiều trường hợp dường như là không thể, nhưng với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể (x.Lc 1,37; Mt 19,26). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi (x. 1Tm 2,3-4). Dù chỉ một con đi thất lạc, Chúa cũng bỏ chính mươi chín con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc đàn. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi phú ban Con Một, thì còn gì mà Người đã không làm cho chúng ta, cho từng người chúng ta?
Mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương nhưng không phải tất cả đều nhận được tình yêu của Người. Khi con người cố tình từ chối tình yêu của Thiên Chúa hoặc khi con người ngã lòng thất vọng, không còn tin vào tình yêu của Thiên Chúa thì Người đành chấp nhận chịu cảnh “bất lực”. Tình yêu giả thiết sự tự do đáp trả, cho dù là bé nhỏ hay chỉ là mặc nhiên. Nhà của Đavit, tức vương quyền của ông được Thiên Chúa hứa cho trường tồn là nhờ ông đã có tấm lòng muốn xây cho Thiên Chúa một “cái nhà”. Để thực thi công trình cứu độ cho loài người, Thiên Chúa cũng đã chờ đợi sự đáp trả của một cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Chúa Kitô khi sinh thời đã khẳng định chân lý này: Mọi thứ tội đều có thể được tha, ngoại trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 13,32).
Xin trích ghi ca từ của một bản thánh ca được gợi hứng bởi tâm tình của thánh Tông đồ dân ngoại: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan, hững hờ. Vì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. Một ngày nào mà ta chối Ngài, thì Ngài phải đành lòng chối ta. Cho dù ta bất tín, dù ta phản bội, thì Chúa vẫn cứ trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình.”(x.2Tm 2,12-13). Tuy nhiên không phải vì ỉ lại vào lòng tín trung của Thiên Chúa mà chúng ta trì hoản sự hoán cải. Tình Chúa thì muôn ngàn đời, nhưng cuộc đời chúng ta thì có hạn, nhất là chúng ta không biết cái hạn ấy kết thúc vào giờ nào, lúc nào. Đừng chần chờ, đừng lần lữa, hãy đáp trả tình Chúa yêu ngay hôm nay, lúc này!
58.Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Nguyễn Văn Phan
Khi hồi tưởng lại những kỷ niệm thời thơ ấu, chúng ta thường thấy hình ảnh người mẹ thân yêu hiện ra. Cho dù còn trẻ hay đã già, dù nước da trắng hay sẫm, dù thế nào đi nữa, thì người ấy vẫn là người mẹ lo toan cho cuộc sống của chúng ta. Mối liên hệ giữa mẹ và con rất là đặc biệt và luôn dựa trên một mối dây yêu thương. Bởi thế không lạ gì mà Mẹ Maria xuất hiện giữa Tin Mừng hôm nay, gởi gắm cho chúng ta một sứ điệp rất đơn giản mà lại rất xúc động chưa từng thấy. Đơn giản là một thiếu nữ đang quỳ gối đón nhận sứ điệp huyền nhiệm từ thiên sứ Gabrien, với tâm tình rất thanh thản, và nàng đã trao về Thiên Chúa trọn vẹn cuộc đời mình khi nói: “Xin Chúa làm cho tôi như lời sứ thần truyền.”
Giây phút Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Đúng là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi muốn trở thành một người giữa chúng ta. Và Thiên Chúa phải cần đến Mẹ Maria là để Ngài có thể sai Con Một Ngài đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Mẹ đã được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để làm mẹ của Đức Kitô. Thì lúc Mẹ nói: “Xin vâng” với thiên sứ chính là phút bình mình của ơn cứu độ của nhân loại. Và Mẹ sẽ sinh hạ ơn cứu độ ấy tại Bêlem vào Đêm Giáng Sinh. Mẹ Maria đã không thưa “Xin vâng” một lần với Thiên Chúa mà thôi, nhưng Mẹ luôn luôn xác nhận lại hai tiếng “Xin vâng” ấy nhiều lần trong đời. Mẹ đã không hề nghĩ tới chuyện mọi cánh cửa nhà trọ sẽ đóng lại, xua đuổi Mẹ đúng vào ngày sinh hạ Hài Nhi. Sau đó Mẹ lại phải lên đường bôn tẩu sang đất Ai cập, và 33 năm sau lại phải chứng kiến xác con treo trên khổ giá, một cái chết của kẻ tội đồ. Những lúc ấy Mẹ lại thưa với Thiên Chúa của Mẹ hai tiếng “Xin vâng”.
Hôm nay Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng, lễ Giáng Sinh sắp đến nơi rồi, tâm tự chúng ta đang hướng về Mẹ Maria. Mẹ là tấm gương cho chúng ta soi về việc phải lắng nghe lời Chúa và chờ mong Chúa đến. Mỗi khi tâm trí Mẹ hồi tưởng lại lời chào của thiên sứ năm nào, chắc chắn là Mẹ lại dần dần hiểu thêm ý nghĩa sứ điệp và mầu nhiệm Giáng Sinh. Thiên Chúa không chỉ muốn trở nên một người như chúng ta mà khi hành động như thế Ngài còn muốn chúng ta trở nên giống như Ngài.
Khi lắng nghe Lời Chúa, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy đây là một khía cạnh quan trọng nhất của đời sống Kitô hữu. Làm một Kitô hữu chính là trở nên một người ngày đêm hướng mở đôi tai tâm hồn lắng nghe tiếng Chúa gọi hầu có thể đáp lại ngay tiếng Ngài. Chúng ta có thể cầu xin Mẹ giúp đỡ mỗi một người có được cung cách thái độ lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn sẵn sàng và sẵn lòng mang Đức Kitô đến cho đời như Mẹ đã làm ngày xưa.
Mẹ Maria đã sinh hạ Đức Kitô trong máng cỏ và nay lại muốn sinh hạ Chúa trong tâm hồn chúng ta. Mẹ đã sửa sang cuộc sống của Mẹ thành một nơi xứng hợp cho Chúa đến thì nay chúng ta cũng phải làm như thế. Thiên Chúa đã không để Mẹ Maria đứng bên ngoài lễ Giáng Sinh, chúng ta cũng thế không thể để cho Mẹ đứng bên lề cuộc sống chúng ta.
59.Bối rối, thắc mắc, ưng thuận--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
Thiên ký sự tuyệt diệu về Truyền tin chắc chắn là dư âm của một trong những kỷ niệm –theo thánh chép sử Luca- được Maria ấp ủ trong lòng. Có lẽ thánh Luca được nghe lời tâm sự từ miệng Đức Maria nói ra khi ông ngụ tại Giêrusalem trong thời gian thánh Phaolô bị giam ở Rôma. Biến cố mầu nhiệm và thần kỳ được Đức Maria kể lại cho ông bằng những lời đơn sơ, nhưng chắc chắn là phong phú hơn một bản tự thuật ngắn, và được diễn tả trong một ký sự bóng bảy, đầy hình ảnh, như người đồng thời ưa chuộng. Sự kiện Truyền tin là một sự kiện chắc chắn, có thật, nhưng chính thánh chép sử không kể lại như một thiên phóng sự tuyệt đối chính xác. Vẻ đẹp, vẻ uyển chuyển của câu chuyện có giá trị ở chỗ nó mở rộng tâm trí ta để suy niệm không biết mệt mỏi về sự phong phú của sự kiện Truyền tin. Chúng ta tiến vào bối cảnh của sự thật khi chúng ta suy gẫm về thiên ký sự, từng câu một. Tuy nhiên chúng ta dễ hình dung rằng thực tại được Đức Maria trao gửi thánh Luca còn sâu sắc, phong phú và huy hoàng hơn thế nhiều. Tới đây chúng ta dừng lại để suy niệm về 3 câu:
1) Nghe những lời đó, nàng bối rối qua sức, và tự hỏi về ý nghĩa lời chào mừng của Thiên thần. Maria bối rối. Chỉ nguyên việc Thiên thần hiện ra cũng đủ làm cho nàng xúc động mãnh liệt, những lời của thiên sứ khiến cho tâm thần nàng rối loạn vì nhận thấy, xuyên qua những lời đó, một sứ điệp phi thường. Thật vậy lời chào: Kính mừng bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà, gồm những từ ngữ được các ngôn sứ chuyên dùng khi nói đến Giêrusalem. Não trạng Do Thái thời đó được nuôi dưỡng bởi một niềm hãnh diện và hy vọng: Giêrusalem được Thiên Chúa tuyển chọn, được tràn đầy ơn sủng của Người, được ban cho thiên chức vượt cao trên khắp mọi thành thị thế gian. Vậy mà Thiên thần kính chào Maria bằng những từ ngữ người ta quen dùng cho Giêrusalem. Nàng bối rối vì thế và thắc mắc. Đoạn tiếp của sứ điệp sẽ giải thích cho nàng rõ. Vào những dịp Thiên Chúa can thiệp vào đời ta –dù cho Người không đòi hỏi ta làm những việc phi thường- có thể những vụ đó có hiệu quả đầu tiên là nêu lên những câu hỏi cho chúng ta. Lúc đó ta phải tiếp tục cầu nguyện và lắng nghe –giống như Maria đã làm.
2) Maria thưa với Thiên thần: Làm sao việc đó có thể xảy đến được. Maria thắc mắc. Khi nhận ra điểm trọng yếu là vật cản tuyệt đối, Maria biết làm gì để đáp ứng yêu cầu của Chúa? Đối với nàng –trở thành mẹ một đứa con là điều không thể có được, vì ở khởi điểm có 1 sự kiện là nàng chưa kết hôn, chỉ mới đính ước với Giuse, đơn giản thế thôi. Nàng muốn gìn giữ đức đồng trinh của mình, không hiểu sao Thiên Chúa lại có thể đòi hỏi nàng hy sinh nó đi. Nàng muốn hiểu rõ. Nàng trả lời không úp mở rằng, theo thường tình nhân loại, mình không thể trở nên 1 người mẹ. Tuy nhiên nàng không chấm dứt cuộc tiếp xúc với Thiên thần, nàng tiếp tục lắng nghe thiên sứ. Cũng vậy, có thể có những vụ Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta những điều không thể hiểu được và có vẻ đầy mâu thuẫn. Chúng ta, trong lúc cầu nguyện, có thể hỏi Chúa, đặt vấn đề với Chúa, vì Chúa muốn chúng ta cân nhắc để có thể tự do ưng thuận.
3) Này tôi là tôi tớ Thiên Chúa, nguyện xin như lời Thiên thần truyền. Maria ưng thuận. Do sự ưng thuận, nàng đón lấy số mệnh thần kỳ là cho nàng trở nên một con người đích thật. Nàng ưng thuận khi hiểu rõ Thiên Chúa chờ đợi gì ở tiếng vâng của nàng. Thiên Chúa không tự mâu thuẫn trong khi ban phát ơn phúc cho loài người. Ở đây, ở trường hợp có một không hai này, đấng bậc làm mẹ không tiêu diệt đức trinh khiết. Chúa đã muốn tôn trọng tự do của Maria. Tiếng vâng do trinh nữ thốt ra là khoảnh khắc đầu trong công cuộc Thiên Chúa xuống thế làm người mà vẫn là Thiên Chúa, - con người trở nên Thiên Chúa mà không bị cưỡng bách.
60.Chú giải của Hugues Cousin
LOAN BÁO CHO ĐỨC MARIA
Lời loan báo này song song với lời loan báo trước. Tuy nhiên, không phải từ Kinh Thánh mà Luca vay mượn một trình tự như thế, nhưng từ văn chương Hy Lạp. Khi ấy, tư tưởng Hy Lạp Platarque đã xuất bản “Những cuộc đời sóng đôi” gồm hai mươi ba cặp tiểu sử; trong mỗi cặp, ông so sánh giữa một người Hy Lạp với một người Rôma để chứng minh rằng: dù người Rôma có cao cả bao nhiêu thì người Hy Lạp vẫn có cái gì vượt cao hơn. Thể loại văn chương mà Luca chọn ở đây là để cho ta tìm không phải những điều giống mà những điểm khác nhau, có mục đích để bày tỏ trong hai cậu bé ai vượt hơn ai. Sơ đồ những bài loan tin (xem phần sau) cho thấy khoảng cách giữa Chúa Giêsu và Gioan.
Hẳn nhiên là câu chuyện không diễn ra trong khung cảnh huy hoàng của đền thờ, nhưng khiêm tốn trong một thành xứ Galilê tại một tư gia. Tuy nhiên, lần này thì chính vị sứ giả từ trời phải ra đi, vào nhà Maria (c.28) và từ đó mà đi ra (c.38). Sự kiện mặc khải được trao cho bà mẹ tương lai chứ không cho người cha nữa, đánh dấu một khác biệt, tự nó không mang nhiều ý nghĩa lắm. Những mô hình của Cựu Ước thực ra cũng để cho phụ nữ xuất hiện. Có cái ý nghĩa hơn nhiều chính là sự đồng trinh của Đức Maria. Nhờ ơn Chúa, bà Êlisabét vừa thụ thai một con trai do bởi chồng bà; còn Maria mới chỉ đính hôn, cô chưa thể sống chung với Giuse và sắp thụ thai mà không có kết hợp phái tính. Việc Gioan sinh ra đã là kỳ diệu và đối với Chúa Giêsu điều đó còn kỳ diệu hơn.
Sự đồng trinh của Maria cũng lưu ý về một sự khác biệt lớn trong sơ đồ báo tin. Người thiếu nữ trẻ nêu vấn nạn trước sứ điệp từ trời cao, khi đặt một câu hỏi tương tự với câu hỏi của vị tư tế. “Việc ấy sẽ xảy ra như thế nào bởi vì tôi không có liên hệ tính dục”. Thế mà lần này, sứ thần lại không hề xem đó như một dấu hiệu thiếu niềm tin; Ngài đáp lại câu hỏi mà không phê bình, và cho Đức Maria một dấu chỉ, ngược hẳn với điều mà Giacaria đã nhận được, dấu chỉ ấy không phải là một hình phạt: người bà con của cô đã có thai. Chính là vì Đức Maria đang đứng trước một tình huống hoàn toàn mới mẻ từ căn tính trong Kinh Thánh, trong đó, không thấy nói đến chuyện thụ thai mà không có kết hợp phái tính, vị hôn phu của bà Êlisabét biết rõ lịch sử của Abraham giống trường hợp của ông. Như thế, hai việc loan báo song song khác biệt nhau ở đây, và cái thinh lặng bắt buộc của vị tư tế trái ngược với sự chấp nhận thanh thản của nữ tì Chúa, người đã suy phục Lời; và chỉ sau đó Lời đã được thực hiện. Đức Maria sẽ lại được nói tới bằng danh xưng nữ tì ở Lc 1,48, một từ ngữ mà Luca sẽ dùng ở chỗ khác để chỉ những thành viên của Hội Thánh (Cv 2,18; 4,29; 15,17)
Lời sứ thần chào Đức Maria (c.28) là một cái gì “hơn nữa” không có lời nào tương ứng khi báo tin cho ông Giacaria. “Kính chào cô! Người được ưu ái [của Thiên Chúa]. Chúa ở cùng cô!”. Thiên Chúa ưu ái cô thiếu nữ khi chọn cô làm mẹ Đấng Cứu Thế – nhưng cô chưa biết điều đó. Công thức “Thiên Chúa ở cùng cô”, đã được sứ thần của Chúa nói khi hiện ra với Ghêđêon (Tl 6,12); Thiên Chúa bảo đảm Ngài sẽ bảo vệ người mà Ngài giao một nhiệm vụ. Từ đó, ở câu sau, Đức Maria thắc mắc về ý nghĩa của lời chào. Và chỉ lúc sứ giả nói về việc Con Thiên Chúa (c.35) sẽ sinh ra, Đức Maria mới biết mình là Mẹ của Chúa (xem 1,43); như vậy công thức chào lại càng có giá trị phản hồi đặc biệt đối với độc giả.
Tên của sứ thần đã cho độc giả biết ngay từ lúc đầu: Gabriel như trong cảnh trước. Việc sai sứ thần đến nhà vị hôn thê của một người thuộc dòng tộc nhà Đavít nhắc ta nhớ tới việc hoàn tất lời hứa về Đấng Mêsia; nhưng Đức Maria không biết gì về gốc gác của sứ giả – điều này lại càng nhấn mạnh đến đức tin của Ngài vào lời sứ giả.
Sứ điệp từ trời liên quan tới em bé sắp sinh ra bị chia ra làm hai phần bởi câu hỏi của Đức Maria. Phần thứ nhất (c. 30-33) diễn tả chức vụ tương lai của Chúa Giêsu (Ngài sẽ nên cao cả và sẽ trị vì) bằng cách sử dụng những gì mà Cựu Ước nói về Đấng Mêsia thuộc dòng dõi Đavít. Cuộc đản sinh hoàn tất hai lời tiên tri quan trọng đối với Giáo Hội của Luca cũng như của Matthêu. Lời thứ nhất là của Is 7,14 (c.31) như trong bản Do Thái của câu này, chính người mẹ sẽ đặt tên cho con: Giêsu “Thiên Chúa cứu”, Luca không phiên dịch tên ấy cho độc giả biết nhưng lại gán cho tên ấy tước hiệu Đấng Cứu Thế ở 2,11. Lời hứa thứ hai là sấm ngôn của Nathan trong đó Thiên Chúa tuyên bố với Đavít: “Người sẽ con của Ta… ngai vàng của Người sẽ vững bền mãi mãi (2Sm 7,14.16): vì vậy con trẻ sắp sinh ra sẽ vừa là con vua Đavít vừa là con của Đấng Tối Cao (c.32)”. Tuy nhiên, việc thụ thai đồng trinh mang đến một sự điều chỉnh: không phải bởi Giuse, chính ông thuộc nhà Đavít (c.27), mà Chúa Giêsu là con của Đavít và vì thế được nắm vương quyền, nhưng hoàn toàn do ơn ban của Thiên Chúa.
Lúc ấy, Đức Maria thắc mắc về tình trạng hiện tại của mình, khi được báo tin và đặt câu hỏi về cách thức mà lời loan báo sẽ được thực hiện. Phần thứ hai của sứ điệp (c. 35-37) soi sáng trước tiên cho việc thụ thai đồng trinh, và cung cấp một lời đáp có tính cách Kitô học sâu xa hơn (c.35). Chúa Giêsu sẽ không chỉ là con của Đấng Tối Cao, Đấng ban cho Ngài vương quyền của Đavít, mà Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, bởi vì được sinh ra do quyền năng của Thiên Chúa qua tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài là Con Thiên Chúa bởi vì như Chúa Thánh Thần Ngài sẽ là Thánh, được dành riêng cho Chúa. Phần Kitô học này thiết lập một khác biệt chính yếu giữa hai cậu bé được thụ thai một cách kỳ diệu: Gioan sẽ là vị tiền hô và Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh thuộc dòng dõi Đavít. Còn hơn nữa: trong khi Chúa Thánh Thần tác động trên Gioan ngay từ trong lòng mẹ, làm cho ông trở thành vị ngôn sứ duy nhất vô tiền khoáng hậu (x. 7,26), thì cũng chính Thánh Thần ấy làm cho Đức Giêsu trở thành một Đấng hoàn toàn mới lạ do mối dây liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa.
Sau đó, sứ điệp từ trời nêu ra (cc. 36-37) một dấu chỉ về quyền năng Thiên Chúa: bà Êlisabét thụ thai Gioan giống như điều Kinh Thánh nói về bà Sara thụ thai Isaac (St 8,14). Và việc sứ thần nhắc đến tháng thứ sáu (cc. 26.36) cho phép nối liến chu kỳ của Gioan và của Đức Giêsu: Êlisabét là một người bà con với Đức Maria. Thông tin này là một mặc khải từ trời cho Đức Maria bởi vì Êlisabét vẫn còn ẩn mình (1,24)
61.Truyền tin cho Maria--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Đâu là ý nghĩa thần học sâu xa (thần học Thánh kinh) của lời chào thiên sứ: “Vui lên, hỡi Đầy ơn phúc, Chúa ở cùng bà”?
2. Tại sao Maria xao xuyến khi nghe lời thiên sứ?
3. Tước hiệu “con Đấng Tối Cao” tự nó có khẳng định tử hệ thần linh của Chúa Giêsu theo nghĩa một tử hệ tự bản tính không?
4. Làm sao giải thích câu 34?
5. Từ ngữ “Con Thiên Chúa” nơi c.35 có cùng ý nghĩa với từ ngữ “Con Đấng Tối Cao” của câu 32 không?
6. Đâu là giáo huấn chính yếu của trình thuật này?
1. Trình thuật này cho ta một thí dụ tuyệt hảo về cách thức Tin mừng nói với ta và về cách thức ta phải đọc Tin mừng. Người ta sẽ lầm to nếu chỉ mong tìm ở đây một bản tường thuật trung thực về cuộc đối thoại giữa Đức Maria và thiên sứ Gabriel, hay xem đây như một bài khảo cứu tâm lý về tâm hồn của Đức Trinh nữ. Không trong trang sách tuyệt diệu này, qua cuộc đối thoại ghi lại giữa mẹ Chúa Giêsu và vị sứ giả từ thiên giới, Luca muốn đưa ra cho ta một giáo huấn thần học. Trước khi tìm hiểu đâu là dữ kiện truyền thống ông đã nhận và đâu là bộ áo văn chương ông khoác lên đó, ta cần phân tích cơ cấu bản văn để tìm xem giáo thuyết ông muốn đưa ra. Như thường thấy nơi văn sĩ tế nhị này, hình thức thích ứng cách tuyệt diệu với nội dung: phân biệt cái này thì sẽ thấu triệt cái kia.
Sau một câu mào đầu ngắn xác định khung cảnh và các nhân vật (cc.6-27) là đến cuộc đối thoại; cuộc đối thoại này chiếm phần cốt yếu của trình thuật và phân làm hai giai đoạn (cc 28-33 và 35-37) với câu hỏi trung tâm ở c.34. Sau cùng một kết luận ngắn kết thúc câu chuyện (c.38).
2. Hai câu đầu tiên cung cấp ngay cho ta một chi tiết đáng lưu ý, chi tiết về thời gian liên kết khởi điểm thời thơ ấu của Chúa Giêsu với điều vừa được nói về thời thơ ấu của Gioan Tẩy giả. Êlidabét, mang thai, đã ẩn mình từ năm tháng (c. 24); chính lúc ấy, tháng thứ 6 theo cách tính này, Chúa Giêsu sắp được cưu mang; vì thế Maria, khi tới nhà Êlidabét sau ngày được truyền tin, sẽ ở lại đó “ba tháng” (c.56) cho đến lúc Gioan Tẩy Giả chào đời. Dữ kiện về nơi chốn, thành Nadarét xứ Galilê, chỉ một ngôi làng nhỏ bấy giờ hãy còn vô danh và hầu như bị khinh miệt (Ga 1,40), ngôi làng mà những cuộc đào bới gần đây cho thấy đã xuất hiện từ thời quân chủ Israel.
Sau mấy ghi chú đó, đến mục giới thiệu các nhân vật: Maria, người mà tình trạng đồng trinh được nhấn mạnh đến hai lần, và Giuse, hôn phu hơn là chồng của bà (x. Mt 1, 18.20), một kẻ thuộc nhà Đavít. Bản văn không bảo Maria thuộc dòng dõi Đavít, song cũng chẳng phủ nhận, và có cả một truyền thống giáo phụ bênh vực cho ý kiến này. Vẫn biết một vài tác giả có khuynh hướng cho rằng bà thuộc dòng dõi Lêvi vì có “họ hàng” với Êlidabét (cc.36 và 5), nhưng có thể đấy chỉ là họ hàng do giao ước giữa hai chi tộc, và người ta sẽ thấy Dt 7, 13 bảo Chúa Giêsu không thuộc dòng dõi tư tế. Ngoài ra trong Tân ước chả có chỗ nào minh nhiên quả quyết Đavít là tổ tiên Maria cả. Vả lại điều này cũng chẳng cần thiết để cho Chúa Giêsu trở thành con Đavít” đích thực: vì chỉ cần có Giuse làm cha pháp lý là Chúa Giêsu đã xứng tước vị ấy rồi (Mt 1,1.16.20).
3. Sau phần nhập đề là đến cuộc đối thoại mà chúng ta cần học cẩn thận. Màn đối thoại này mở đầu bằng lời chào của thiên sứ (c.2) Thật ra, ở đây bảo là “kính chào” thì không đúng hẳn. Vẫn biết Chaire là công thức chào hỏi thông thường của người Hy lạp, công thức mà Matthcô (26,49; 28,9) và chính Luca, khi có dịp (Cv 15,23; 23-20) vẫn dùng. Song Luca cũng biết tới cách chào của người Do thái là chúc bình an” (Lc 10,5; 24,36) và đáng lẽ ông phải dùng cách đó ở đây, trong cái văn mạch đầy tính cách sêmita của hai chương dầu
Tin mừng này. Nếu vẫn dùng chaire, chắc hẳn là vì ông hiểu chữ này theo nguyên nghĩa của nó: “Hãy vui lên”; việc suy đoán này dựa vào nhiều đoạn trong bản LXX mà chắc hẳn Luca chịu ảnh hưởng, những đoạn trong đó từ ngữ chaire xuất hiện nơi những lời kêu gọi hãy vui lên vì Đấng Messia tới. Trong Xp 3, l4; Ge 2,21; Der 9,9, “thiếu nữ Sion”, nghĩa là Giêrusalem, được mời gọi hãy hoan hỷ vì được Thiên Chúa đến thăm hay ở với: Giavê là vua Israel ở giữa người (Xp 3,15); các ngươi sẽ biết là Ta, Ta ở giữa Israel (Ge 2,27); vua ngươi đang đến cùng ngươi (Der 9,9; x. Mt 21,5). Nếu nhớ lại rằng Luca rất thích cảm hứng từ bản LXX, nhất là trong Tin mừng về thời thơ ấu, và nếu quan sát văn mạch trực tiếp của mệnh lệnh chaire ở đây, ta sẽ chẳng còn nghi ngờ gì nữa; Maria được mời gọi hãy vui nỗi vui như Giêrusalem ngày xưa. Với cùng một lý do y hệt: Chúa ở cùng bà. Trong cả hai trường hợp, đều có vấn đề Thiên Chúa viếng thăm, cuộc viếng thăm được đoan hứa lừ ngàn xưa và bây giờ đang thực hiện. Hay đúng hơn, cái xưa kia đối với Giêrusalem chỉ là một tương lai sắp đến, thì nay trở thành hiện tại tức thời cho Maria; cái tin vui đã loan báo cho tuyển dân, cho “Nhóm còn lại” trung tín, từ nay tập trung trên con người của bà. Bà có bổn phận mừng vui vì Chúa ở “với bà” để ở với dân Chúa. Bà sắp đón nhận cuộc viếng thăm thiên sai vì lợi ích của nhà Israel; chính do chỗ đó làm bà trở nên đối tượng của một lòng sùng ái đặc biệt: Kecharitômennê.
Phân từ kecharitômenê này đã được người Latinh dịch ra là “gratia plena” (đầy ơn phúc), và kiểu dịch này, cũng như lối dịch chairè ra Ave, đã đưa đến nhiều suy diễn có tính cách Thần học hơn là chú giải thuần túy. Ở đây người ta đã nghĩ tới ơn thánh hóa và lý luận rằng Maria đã được ân sủng tràn đầy hơn bất cứ thụ tạo nào khác và chỉ thua có Chúa Kitô. Những tư tưởng như vậy không hẳn sai lầm, song thuộc về suy nghĩ hơn là bản ngữ. Trong Tân ước, hạn từ charis, căn ngữ của phân từ trên, không chỉ ơn thánh hóa cho bằng chỉ lòng ưu ái của Thiên Chúa trong chính hành vi thi ân nhưng không của Ngài; nó trực tiếp diễn tả cử chỉ của cái sáng kiến đoái nhìn đến một thụ tạo với lý do duy nhất là yêu thương; cử chỉ ấy chọn lựa thụ tạo và làm cho nó thành đối tượng của lòng mình ưu ái. (Dĩ nhiên một sự ân cần như vậy của Thiên Chúa bao giờ cũng đổ tràn đầy ân huệ xuống cho kẻ được Ngài mến thương. Song đó là một hậu quả, và từ ngữ vẫn muốn nhấn mạnh đến lòng ưu ái nhưng không của Thiên Chúa hơn là đến các hiệu quả mà lòng ưu ái đó phát sinh nơi thụ tạo, đến đặc ân ban cho hơn là đến sự toàn hảo phát sinh trong tâm hồn Maria nhờ đặc ân đó). Sự thể là như vậy đối với Maria khi bà được chọn để đón nhận cuộc viếng thăm thiên sai. Bà là đối tượng của một lòng ưu ái đặc biệt, của một đặc ân trường tồn (động từ ở thì parfait), và người ta đã đề nghị dịch chữ kecharitô mcnê ra là “Người được biệt đãi” (privilégiée) (Audet).
Hãy vui lên, hỡi người được biệt đãi, Chúa ở cùng bà! Có lẽ đấy là cách dịch đúng nhất lời đầu tiên của thiên sứ. Đây không phải là một lời chào tôn kính nhằm gây chú ý đến những công trạng của Maria, song là một lời kêu gọi vui tươi nhằm loan báo tấm lòng ưu ái nhân hậu của Thiên Chúa và hé cho thấy Ngài sắp đến viếng thăm, cuộc thăm viếng đã được các ngôn sứ loan báo từ bao thuở. Một lời như vậy chẳng có vẻ gì là một câu mở đề tầm thường hay một kiểu chào hỏi lịch sự đơn sơ. Trái lại, nó sống động lạ lùng, và hàm chứa một cách phong phú những gì sẽ nói tiếp theo. Đối với người Do thái, âm vang ấy của một lời mời gọi thân mật gợi lên cả một khung trời hy vọng, một thế giới đầy mầu nhiệm. Chúa Giêsu phải đến với thuộc dân của người, ở với dân Người; Kinh Thánh há chẳng tiên báo sự xuất hiện của một con trẻ huyền bí mang tên là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Emmanuel: Is 7,14; x. Mt 1,23) đó sao? Luca hẳn phải nghĩ đến tất cả những điều này khi ghi lại lời thiên sứ và ông muốn chúng ta cũng nghĩ như vậy lúc liền đó cho thấy, qua thái độ của Maria, lời thiên sứ thật đáng suy nghĩ!
Người ta sẽ hiểu sai thái độ của Maria diễn tả trong c. 29 nếu chỉ xem đó như là một phản ứng tâm lý. Phải chăng Maria bối rối khiêm nhường vì thiên sứ thốt lên một lời khen tặng? Hay là bối rối e thẹn vì sự có mặt của một thanh niên đến trong nhà mình! hoặc bà sợ hãi vì quang cảnh sáng chói của cuộc hiện ra! tất cả chỉ là thêm thắt vào bản văn chứ chẳng phải chú giải đích thực. Vả lại theo Luca đã nói rõ: Maria xao xuyến “vì câu nói” và bà tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
“Nghĩa là ở đây có mầu nhiệm! Các lời thiên sứ thốt lên có một ý nghĩa ẩn tàng phải khám phá ra; Maria biết vậy và đến lượt độc giả cũng phải hiểu như thế. Cho nên, một khi đánh thức được chú ý, thiên sứ mới tiếp tục cất giọng để nói lại rõ ràng hơn điều mà câu đầu tiên còn che dấu.
Thật vậy, câu 30-31 trưng ứng lạ lùng với câu 28, từng vế một. Thiên sứ đã nói: Hãy vui lên. Bây giờ ngài bảo: Đừng sợ hãi. Ngài đã gán cho Maria tước hiệu “người được biệt đãi, lần này lại gọi trinh nữ bằng tên riêng, (‘Maria”, và xác nhận quyền được tước hiệu đó của bà: Bà đã đặc sủng nơi Thiên Chúa, nghĩa là bà là đối tượng của lòng ưu ái thần linh.
Sau cùng, thiên sứ đã loan báo: Chúa ở cùng bà; lần này, ngài giải thích: Thiên Chúa sẽ hiện diện qua việc bà hạ sinh một con trẻ, đấng Messia tương lai. Trước khi khai triển điểm này kỹ càng ở cc.32-33, thiên sứ loan báo việc hạ sinh hằng một công thức rập mẫu đã từng được dùng trước đó trong Kinh Thánh, chỗ nói về Israel (St 16, 11), Isaac (St 7,19), Samson (Tl 13,5-7) và nhất là về Emmanuel (Is 7,14). Đứa trẻ sẽ được gọi là Giêsu vì đấy là tên lịch sử của Người, nhưng chắc chắn thiên sứ lẫn Luca đều nghĩ đến Emmanuel, đứa con của một trinh nữ, như đoạn tiếp sẽ chứng minh.
Các tước hiệu thiên sai gán cho đứa trẻ lời hứa được phát biểu rõ ràng ở cc.32-33. hình dung từ “lớn”. Từng áp dụng cho Gioan Tẩy giả (c.15.), có vẻ hơi mơ hồ, song từ ngữ “Con Đấng Tối Cao” lại nói nhiều hơn, không phải là nó diễn tả ngay ở đây một tử hệ thần linh của Chúa Giêsu theo nghĩa mạnh của đức tin Kitô giáo. Trong Cựu ước, con Thiên Chúa” hay “Con Đấng Tối Cao” là một kiểu nói ám dụ chỉ người nào được sống thân tính đặc biệt với Thiên Chúa, như thiên thần (Tv 29, 1; G 1,6), Tuyển dân (Kn 18, 13; Hs 11, … người Do thái đạo đức (Gv 4,10; Kn 2, 13) và nhất là Đấng Messia (2 Sm 7, 14; Tv 2,7; 89,27). Cách dùng này vẫn tiếp tục trong Tân ước và chính thánh Luca sẽ viết: hãy mến yêu địch thù … và các ngươi sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Ngài nhân lành với những kẻ vô ơn, độc ác” (6,35). Ở đây, theo văn mạch, tước hiệu chỉ có tính cách thiên sai, tuy rằng nó chuẩn bị cho câu tiếp mạnh hơn (c.35) trong đó tiếng “con Thiên Chúa” sẽ mang một ý nghĩa khác. Thật vậy, nhất rằng gì kế liền cho đến hết c.33 đều rõ ràng nói lên đặc đính của tước vị thiên sai của hài nhi sắp chào đời: thừa hưởng ngai báu Đavít, cai trị mãi mãi lên nhà Giacóp, toàn là những từ ngữ cổ điển của lời hứa về Đấng thiên sai nhà Đavít, lời hứa đã được Natan loan báo cho Đavít (2Sm7,12tt) rồi được Isaia lấy lại khi nói về Emmanuel (Is 9,5-6).
Như vậy, phần đầu của màn đối thoại cho ta biết Maria sắp đích thân đón nhận cuộc thăm viếng thiên sai mà các ngôn sứ từng loan báo, đón thận thằng cách trở thành mẹ Đấng Messia. Cho đến đây, tư tưởng vẫn còn nằm trong chiều hướng các lời hứa đã được cựu ước rõ ràng phát biểu; yếu tố mới chỉ nằm ở chỗ: điều xưa kia được chờ đợi như một tương lai còn xa hoặc gần đến thì nay được thực hiện một cách tức thời và cụ thể. Nhưng phương thức thực hiện, tức thụ thai đồng trinh, một yếu tố mới nâng việc sinh hạ này lên một bình diện khác và gắn một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ cho tước hiệu Conn Thiên Chúa” của Hài nhi sắp chào đời. Đây là điều mà phần hai của màn đối thoại sắp dạy chúng ta.
4. Phần này được mở đầu bằng câu hỏi thời danh (c.34): “Điều ấy sẽ làm sao được, vì tôi không hề biết đến người nam!”. Trước khi giải thích bản văn này, cần xác định hai điểm. Một là “biết” ở đây chắc chắn phải hiểu theo nghĩa Kinh thánh: có liên hệ tính dục; nếu hiểu theo nghĩa thông thường mà cho rằng Maria muốn nói mình chẳng hề quen biết một ai, tức là bảo bà khờ khạo đến tráo trở, bởi vì bà đã đính hôn với Giuse kia mà. Điểm hai liên hệ đến sự đồng trinh của Maria. Tự nó, phân từ emnesteuménê (c.27) không đủ để chứng minh sự đồng trinh, vì nó có thể có nghĩa “đã thành hôn”; và, đàng khác, nếu hiểu theo nghĩa thông thường là “đã đính hôn”, thì nó vẫn hàm súc một tình trạng mà, theo phong tục Do thái, dĩ nhiên không khuyến khích song chẳng tuyệt đối loại trừ các tương giao phu phụ. Để đánh tan mọi nghi ngờ, Luca đã hai lần dùng chữ parthenos, “trinh nữ” trong c.27. Và dàn cảnh bắt buộc phải vậy, vì chính từ ngữ ấy sẽ đem lại ý nghĩa cho câu hỏi của Maria và lời đáp của thiên sứ.
Thời thánh Augustin, khoa chú giải công giáo thường có thói quen giải thích câu hỏi của Maria như nói lên một lời khấn hay một ý định giữ mình đồng trinh mà có thế bà đã ôm ấp từ lâu do đó bà thấy điều này xem ra không thể phù hợp được với việc sinh con mà thiên sứ loan báo. Tuy nhiên, lối giải thích như vậy không hiển nhiên lắm và gần đây bị một số lớn các nhà chú giải công giáo phủ nhận (Landersdorlèr, Haugg, Auer, Audet, Schmaus, Schmid, J.B. Bauer, Jones, Jellouschek, Gewiess v.v …) trong lúc cũng có một số khác muốn trung thành với lập trường được gọi là “cổ truyền” này (Holzmeisler, Brodmann, Craber, del Paramo, Laurentin, Galot, Villanueva, Zerwich v.v …).
Những kẻ phủ nhận có lời khấn nhận xét rằng các giáo phụ đã không hoàn toàn nhất trí với nhau vì, ngoại trừ Grêgôriô thành Nysse và Augustin, thì cho đến thế kỷ thứ V, chẳng có ai biết đến một lời khấn như thế cả, ngay cả thánh Ambrôsiô.và Hiêrônimô. Ngoài ra họ còn cho rằng từ ngữ của bản văn không tự nhiên nói lên một lời khấn hứa, vì để diễn tả tư tưởng “tôi không muốn biết” hoặc “sẽ không hề biết người nam”, thì động từ hiện tại ginôskô xem ra chẳng đủ. Động từ này chỉ diễn tả cách đơn sơ tình trạng hiện thời của Maria: bà không có những tương giao vợ chồng, theo thói tục không thường của thời kỳ đính hôn tại Israel, và do đấy ngạc nhiên vì tưởng phải mang thai lập tức. Vả lại sự phản kháng của Maria như lối giải thích cổ điển giả thiết, làm ta ngạc nhiên không ít: một lời khấn riêng tư thì có thứ gì trước ý định thần linh thiên sứ đangloan báo? Rồi ta cũng tự hỏi nếu Maria đã quyết định không hưởng dụng hôn nhân thì bà đính hôn với Giuse làm gì?
Nhưng nhất là chính nguyên tắc khấn hứa đồng trinh Maria mới đáng bàn cãi. Tại Israel, hôn nhân rất được trọng vọng, đến nỗi đó là bậc sống thông thường mọi người phải theo, nhất là nữ giới. Người ta có kể ra trường hợp một giáo sĩ Do thái sống độc thân song là để trách cứ; còn về nhóm Esseni, thì luật độc thân của họ là một ngoại lệ, thúc đẩy bởi một ảnh hưởng xa lạ với Do thái giáo, và chỉ liên hệ nam giới mà thôi. Chính Kitô giáo mới nhìn thay trong sự đồng trinh một bậc sống cao hơn hôn nhân, nhưng đó là theo giảng dạy của Chúa Giêsu (Mt 19, l2), theo gương Người cũng như gương Maria, kẻ được Thiên Chúa chọn làm mẹ mà vẫn còn đồng trinh. Tóm lại, e rằng người ta sẽ vấp phải một lỗi lầm về thời gian khi tưởng tượng Đức Trinh Nữ Maria tận hiến cho Chúa theo kiểu một trinh nữ Kitô giáo thế kỷ IV và nên nhớ chính các Ngụy thư đã làm ta quen nghĩ rằng Maria đã tận hiến cho Thiêu Chúa và sống trong đền thờ ngay còn thơ ngây, cùng hình dung Giuse như một cụ già được các tư tế chọn để hảo vệ sự đồng trinh của người vợ trẻ. Các hình ảnh ngụy tạo đó cần phải đánh đổ. Không những vì các ngụy thư đề ra hình ảnh ấy thiếu thẩm quyền chính lục, mà còn vì chúng rõ ràng mang dấu vết lạc giáo Encratisme chuyên bài bác hôn nhân. Khổ thay, bao ảnh tượng đã phổ biến rộng rãi những huyền thoại này). Thành thử nếu được đặt lại trong môi trường và thời gian, thì việc Maria nghĩ trí hôn nhân như mọi phụ nữ khác ở Israel chẳng có gì lạ lùng; sở dĩ bà đã đính hôn với Giuse, chắc hẳn là vì hy vọng có con với ông, theo như luật chung thời đó. Cho rằng một ý định như vậy làm phai mờ ít nhiều sự trong sạch và thánh thiện của Maria, thì có lẽ phải phủ nhận sự thánh thiện của hôn nhân, một công trình của Đấng Tạo hóa mà Kinh Thánh không ngừng tán dương ca tụng.
Nhóm theo quan niệm “truyền thống” cũng chẳng thiếu lý để bác bỏ lập luận trên, và phải công nhận câu trả lời của họ cũng nặng ký lắm. Cho dù là chỉ bắt nguồn từ thế kỷ thứ V song một lập trường hằng được liên tục thừa nhận trong Hội Thánh như thế vẫn đáng cho ta lưu tâm. Chắc chắc đồng trinh không phải là lý tưởng thông thường của người phụ nữ Do thái. Nhưng Maria là trường hợp đặc biệt, và Thiên Chúa cụ thể đã chuẩn bị cho chương trình của Ngài về Maria hằng cách sớm thúc đẩy bà đi theo một ơn gọi đặc biệt. Đàng khác, không nên đánh giá thấp bao tấm gương tiết dục vì lý do tôn giáo đầy dẫy trong Thánh Kinh và đạo lão thái; chúng cho thấy người ta vẫn kính trọng đức trinh khiết, và bằng chúng hùng hồn của lòng kính trọng ấy là luật độc thân của tu sĩ Esseni. Thành thật Maria đã có thể khấn giữ mình đồng trinh, và vấn nạn ở c. 34 đủ nói lên ý định đó. Đấy cũng là lời giải thích đơn giản nhất của Maria, vì theo giả thuyết đối nghịch, phải giả thiết là việc thụ thai đã gần kề, điều mà bản văn không hắc ám chỉ. Còn việc Maria cam kết thành hôn, ta có thể giải thích là vì bà ưu tư bảo vệ sự đồng trinh của mình; chắc hẳn bà đã giả thiết là việc thụ thai đã gần kề, điều mà bản văn không hề ám chỉ. Còn việc Maria cam kết thành hôn, ta có thể giải thích là vì bà ưu tư bảo vệ sự đồng trinh của mình; chắc hẳn bà đã phó thác cho Thiên Chúa lo việc thúc đẩy Giuse cũng có những tâm tình như mình vậy.
Ta thấy đó, cuộc tranh luận giữa hai lập trường vẫn còn sôi nổi và bên nào cũng ăn miếng trả miếng. Lập luận của họ đều đáng tôn trọng. Dầu sao hầu hết (ngoại trừ Munoz. Iglesias, Benoit, Gewiess v.v…) đều mắc phải khuyết điểm này là quá chú trọng đến tâm lý của Maria, trong lúc đáng lẽ phải nhớ rằng Luca đã biên soạn bản văn này với tư cách một nhà thần học. Ý hướng của ông, nếu có thể phanh phun ra, rất quan trọng cho việc chú giải. Vì thế mà, khi đứng trên quan điểm thần học, ta thấy rõ c.34, đối với Luca, đóng vai trò chuyển tiếp trong cuộc đối thoại. Thiên sứ đã loan báo việc hạ sinh Đấng Messia; bây giờ phải loan báo phương thức đồng trinh của việc sinh hạ ấy. Vấn nạn của Maria, cũng là thắc mắc của độc giả, chuẩn bị cho giai đoạn mại này. Việc Luca đã có giả thiết hay không rằng Maria khấn hứa đồng trinh trước lúc truyền tin, người ta có thể bàn cãi; nhưng điều chắc là ông đã muốn minh nhiên dạy rằng: Maria còn đồng trinh, và chính bà nói lên điều đó khi được Thiên Chúa mời gọi làm mẹ Đấng Messia. Trước đấy đã khấn hay không, chẳng thành vấn đề, nhưng chắc chắn là từ lúc này, bà khấn hứa đồng trinh. Bà sẽ mãi mãi là Mẹ Đồng trinh. Và đó mới là điều quan trọng hơn cả.
5. Lời đáp trả của thiên sứ mang lại giải pháp cho vấn đề đặt ra và vì lý do đó, câu 35 là vấn đề then chốt của tất cả màn đối thoại, là cao điểm của bản trần thuật có tính cách thần học của Luca. Vì thế cần phải cân nhắc từng hạn từ một.
Việc can thiệp của Thánh Thần được diễn tả bằng một Mệnh đề mà các vế đối xứng với nhau từng chữ: “Thánh Thần” với “Quyền năng Đấng Tối Cao”, “đến trên” với “phủ bóng trên” (hai động từ Hy lạp khởi đầu với phụ ngữ epi), sau cùng “trên cô” ở cả hai trường hợp. Thánh Thần đến trên” Trinh nữ là một kiểu nói thường gặp trong Cựu ước, y nguyên hay thay đổi đôi chút (x. 1 Sm 16. 13; Is 32, 15 …), nhưng tự nó không cho thấy rõ cách thức hành động của Thánh Thần thế nào. Chính Luca cũng dùng lại công thức nào khi nói về việc Hiện xuống mà Chúa Giêsu loan báo với những từ ngữ như sau (Cv 1,8): “Các con sẽ chịu lấy quyền lực Thánh Thần đến trên các con”.
Nhưng động từ thứ hai, episkiasei, ít dùng hơn và giầu ý nghĩa hơn nhiều. Người ta gặp nó trong nhiều bản văn Cựu ước với nhiều hình ảnh khác nhau. Trong Xuất hành 40,35(29) nó đùng để nói về Cột mây phủ bóng trên Lều tạm biểu hiệu vinh quang thần linh chiếu tỏa nơi Thiên Chúa ngự (x. Ds 9, 18-22). Trong Tv 9,4; 148,8 nó được sử dụng để diễn tả hình ảnh Thiên Chúa như chim phủ cánh trên những ai Ngài che chở (x. thêm Tv 17.8; 36,8. 57,2; 63,8). Hai đề tài ấy hòa hợp nhau trong Xh 25,20; 1 St 28,18 nơi là cử chỉ của các Kêrubim lấy cánh che phủ Hòm giao ước được diễn tả bằng động từ tương tự (stt) skiazein, chim gương cánh che phủ có thể là để bảo vệ bầy con thoát khỏi đôi mắt hay móng vuốt của kẻ thù, song cũng có thể là để ấp trứng cho sự sống nở ra, và hình ảnh nào gợi lên hình ảnh Thần khí tác tạo vật chất lúc khởi nguyên vũ trụ (St 1,2) để làm phát sinh sự sống dưới các dạng thức mà Ngôi lời đặt định cho.
Trong số các hình ảnh khác nhau đó, hình ảnh áp dụng đúng nhất nào bản văn chúng ta phải là hình ảnh được xác định theo văn mạch. Lời thiên sứ chắc chắn không chỉ loan báo cho Trinh nữ một sự giúp đỡ bảo vệ. Hình ảnh thích hợp nhất cho văn mạch là hình ảnh con chim thần linh dùng cánh bao phủ để tạo thành sự sống. Và đó là chính vấn đề đang đề cập: một hài nhi sắp được cưu mang mặc dù người mẹ vẫn còn trinh tiết. Khi nói đến Thần khí như một Quyền năng sắp phủ bóng trên Maria, thiên sứ rõ ràng muốn bảo Thần khí ấy sắp đóng vai trò nguyên lý sáng tạo và phát sinh sự sống trong cung lòng bà. Đây chẳng có vẻ gì là một hình ảnh chướng ta gai mắt hay giống với các cuộc phối ngẫu cùng thần minh trong thần thoại lương dân cả; hết thảy đều vô cùng tế nhị và hoàn toàn nằm trong chiều hướng thanh cao của Kinh Thánh. Điều Thánh Thần, hơi thở sáng tạo, đã làm từ lúc khởi nguyên vũ trụ Ngài cũng sẽ thực hiện trong cung lòng Maria, bằng cách làm cho bà thụ thai mà vẫn trinh tiết.
Bởi thế trẻ thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Nhiều nhà chú giải đã ngạc nhiên trước một kết luận như vậy, là phải cùng họ công nhận rằng câu đó không đưa lại cho tước hiệu “Con Thiên Chúa” cái định tín thường thấy về Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể trong một bản tính nhân loại. Vì lời của thiên sứ chẳng ám chỉ gì đến Ngôi Lời cả. Ta sẽ lầm lẫn nếu bảo rằng có ám chỉ trong tiếng Pneuna (Thần khí) và Dunamis (Quyền năng) như truyền thống cho tới thế kỷ thứ IV đã bảo, hoặc ít nhất trong tiếng Dunamis, như người ta vẫn nót từ thế kỷ IV cho đến thời Trung cổ. Hai hạn từ trường được Luca cặp đôi và hầu như đồng nghĩa này chắc chắn chỉ Thánh Thần chứ không chỉ Ngôi Lời. Nhưng Luca không đưa ra ở đây một phát hiệu rõ ràng về mầu nhiệm Nhập thể nhất của 1,14 (“và Ngôi Lời đã thành xác phàm”) chẳng phải là một lý do đủ để bóp méo câu kết luận và làm sai nghĩa bản văn, thế mà người ta sẽ làm như vậy khi cho tiếng “thánh” đóng vai trò thuộc từ chính (attribut pnncillal) và coi “Con Thiên Chúa” chỉ là một tiếng đồng cách (apposition) không dính dáng gì với những gì đi trước. Thật ra nếu chân thành khảo sát bản văn, ta phải nhận rằng danh xưng Con Thiên Chúa ấy được Luca coi là cốt yếu và là đích điểm của tất cả ý hướng thần học của ông. Ong đã nói trong phần đầu màn đối thoại rằng Hài nhi sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” theo nghĩa thiên sai; bây giờ trong phần hai, ông dạy: tước hiệu “Con Thiên Chúa” ấy mặc một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ và cao trổi hơn do việc thụ thai đồng trinh: được cưu mang trực tiếp do tác động của Thánh Thần chứ không do sự can thiệp của một người cha, Chúa Giêsu sẽ là Con Thiên Chúa theo một danh nghĩa đặc biệt là độc nhất. Có thể đó không phải là một lời phát biểu đầy đủ về cái mà đức tin Kitô giáo, thời Luca viết sách, đã đặt vào trong tước hiệu Con Thiên Chúa. Tuy nhiên câu ấy vẫn là lời biện minh chính đáng cho tước hiệu này.
Ngoài ra cũng được phép tự hỏi xem Luca có muốn liên kết trường hợp Chúa Giêsu và trường hợp Adam, như ông đã công khai làm khi viết gia phả (3,23-28) không. Như Adam, Chúa Giêsu chỉ có thiên Chúa là Cha, và mặc dầu cả hai hoàn toàn khác nhau về bản tính, vẫn có một sự tương đồng về tầm vóc, điểm tương đồng mà một môn đồ của Phaolô không thể không chú ý: như Adam xưa, Adam mới là Một thủ lãnh dòng tộc; với Người, chuỗi dây các thế hệ nhân loại bị cắt lìa và bắt đầu một giai đoạn mới. Được Thiên Chúa tạo dựng trực tiếp như Adam, nên Chúa Giêsu cũng xứng đáng được gọi là Con thiên Chúa theo một nghĩa đặc biệt; tuy nhiên, vì những lý do không được bày tỏ nơi đây, Người vẫn là con một cách siêu việt hơn nhiều.
6. Phần cuối của màn đối thoại, ta chỉ cần nói phớt. Một dấu hiệu được ban cho Maria (cc. 36-37), vì trước tiên đó là quy ước của văn loại Truyền tin trong Thánh Kinh (x. Tl 6,36-40 hay Is 7, 10- 16), sau nữa là để chuẩn bị cho cuộc thăm viếng và móc nối các tiết chuyện. Ta cũng đừng quên rằng, nếu đức tin của Maria không cần sự xác nhận đó, thì đức tin của độc giả vẫn rất cần, những độc giả mà Luca chằng bao giờ quên.
Tiếng “Fiat” của trinh nữ kết thúc quang cảnh. Ta không nên quá đáng lấy tiếng xin vâng này làm cao điểm của câu chuyện, như thể người ta hồi hộp đợi chờ việc ưng thuận mà trước đó không mấy bảo đảm, cũng như đừng giảm thiếu sự tự do và công trạng của Maria khi chấp nhận lời truyền. Sự cao cả của Maria là, dù chưa hiểu được tất cả sự thâm sâu của mầu nhiệm được loan báo, vẫn quảng đại chấp nhận các đòi hỏi của công trình mà Thiên Chúa vừa khởi sự nỗi mình, dù các đòi hỏi ấy ra sao chăng nữa.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bà đã đắc sủng nơi Thiên Chúa": Kiểu nói này là một đặc ngữ sêmita; x. St 6,8: "Nhưng Noê đã được nghĩa trước mắt Giavê".
"Này bà sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai...": Câu này song song với St 16,11: thiên thần của Giavê phán (với Agar): Này, ngươi có thai và ngươi sẽ sinh con ngươi sẽ gọi lên nó là Ismael, vì Giavê đã nghe thấu nỗi khốn cùng của ngươi". x. Tl 13,3-5
"Bởi thế hài nhi sẽ là thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”: Trong Hy ngữ, cấu trúc của câu này khá tối tăm; B.J đã cố gắng làm sáng tỏ bằng cách thêm vào chữ "hài nhi" không có trong nguyên bản. Theo mặt chữ thì bản văn như thế này: "bởi thế thụ thai thánh" (I’engendré saint) sẽ được gọi là Con Thiên Chúa". Tuy vậy. tĩnh từ "thánh" khó có thể làm hình dung từ (épithète) cho tiếng "thụ sinh" vì nó không có quán từ (article), như văn phạm Hy lạp đòi hỏi (le saint engendré viết theo văn phạm Hy lạp thì phải là I’engendré le saint: hai quán từ). Nên có lẽ phải coi "thánh" như một thuộc từ (attribut) và bấy giờ câu nói trở thành: "thụ sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa". Nhưng vẫn còn khó khăn là “Con Thiên Chúa" chẳng phải là sự nới rộng của ý tưởng thánh"! thật là lưỡng nan!
"Với Thiên Chúa, nào có gì lại là không có thể": Trong St 18,14, câu này giải thích việc cưu mang lạ lùng Isaac. "Tôi là tôi tá Chúa": x. R 3,9; làm 25,41. Ở đây nói đến đức tin (c.45) và tình yêu mến hơn là lòng khiêm nhượng, vì theo Thánh Kinh, được làm tôi tớ Chúa là một vinh dự lớn lao vô cùng.
KẾT LUẬN
Trong khi sự tiền hữu đời đời của Chúa Giêsu được Phaolô và Gioan long trọng giảng dạy, thì tử hệ thần linh từ lúc mới sinh của Người lại là giáo huấn đặc biệt của Luca, rõ ràng là trong bản văn hôm nay. Khi tập trung ngay từ đầu đời Chúa Kitô những đề tài liên quan tới các cuộc thần hiện sẽ đánh dấu từng chặng cuộc sống công khai và việc khải hoàn sau cùng của Người (so sánh c.35 với phép rửa Chúa Giêsu. Cuộc biến hình và việc phục sinh), ông muốn dạy ta rằng tước hiệu Con Thiên Chúa không phải Chúa Giêsu chiếm được sau này, nhưng đã đương phiên thuộc về Người ngay từ khi người
đến trong thế gian. Cùng với việc thụ thai đồng trinh là hệ luận, đó có lẽ là giáo huấn chính yếu của trình thuật truyền tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Sứ mạng của Maria nối dài và hoàn tất sứ mạng Israel. Maria là "thiếu nữ Sion" mà từ cung lòng, Đấng Thiên sai sẽ xuất hiện. Bà là nữ tỳ của Chúa", kẻ gồm tóm và làm cho đẹp hơn ơn gọi của dân Israel, tôi tớ Thiên Chúa, lẫn ơn gọi của các đại tôi tớ Ngài trong Cựu tước như Abraham. Giacóp, Môisen, Đavít, Salomon, Isaia và người Tôi tớ bí ẩn của Gioan trong Is 40-45.
2) Thiên Chúa đã có thể đặt Maria trước một sự việc đã rồi và sai thiên sứ báo tin rằng bà đã thụ thai bởi Thánh Thần. Nhưng Ngài đã muốn cần đến sự tự do đồng ý của Maria trong công trình cứu chuộc: không những vì lòng tôn trọng nhân vị của Maria, mà còn để làm cho bà trở nên kẻ hợp tác với Ngài hầu cứu lỗi nhân loại qua sự chấp thuận ý thức và tình nguyện.
3) Dacaria, khi được loan báo Gioan Tẩy giả sẽ sinh ra, đã xin một dấu chỉ để có thể tin vào tính cách xác thực của sứ điệp. Còn Maria tin ngay sứ điệp, chẳng xin dấu chỉ gì. Vấn nạn của bà không phải là một nghi ngờ nhưng là một lời xin soi sáng để tin hơn. Ta cũng thế, đức tin của ta phải hoàn toàn và tức khắc, nhưng cũng phải tìm cách soi tỏ ngần nào có thể bằng sự khiêm tốn cầu xin ánh sáng, bằng việc học hỏi hay ít nhất bằng đối thoại với linh mục. Ở dưới đất này, đức tin luôn có một phần tăm tối, đức tin của Maria cũng như đức tin của ta, nhưng càng vùng chãi và càng có tính cách nhân loại chừng nào thì nó càng sáng tỏ chứng ấy.
4) Thiên sứ cho Maria một lời giải thích. Nhưng rồi mầu nhiệm vẫn còn, "vì đường lối của thiên Chúa không phải là đường lối của ta". Tuy nhiên lời giải thích của thiên sứ sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của Maria, vì bà "ghi nhớ những điều ấy trong lòng để suy niệm" (2,19). Ta cũng vậy, những giáo huấn của Hội thánh qua bài giảng Chúa nhật và các lớp giáo lý không miễn cho ta hành vi đức tin. Song chúng sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của ta.
5) Vì lòng thương, Thiên Chúa vẫn cho Maria một dấu chỉ (việc bà Êlidabét son sẻ mà thụ thai) để xác nhận lời của thiên sứ và giúp lòng tin của bà dễ dàng hơn. Maria không cần dấu chỉ này vì bà đã tin lời thiên sứ, nhưng đây là một ân huệ thêm vào. Ta cũng vậy đôi khi Thiên Chúa gởi cho ta một dấu chỉ rất rõ về sự hiện diện hoặc ý muốn của Ngài (thí dụ ơn được an ủi thiêng liêng, hoàn cảnh quan phòng biến đổi cả hướng đi cuộc đời...). Những dấu chỉ đó chẳng phải là tối cần cho đức tin, ta không nên chờ đợi chúng trước khi tín thác vào Chúa hoàn toàn. Nếu Ngài cho dấu chỉ chỉ vì lòng thương, ta hãy cảm tạ và khiêm tốn như Maria.
6) Khi lần hạt, ta lặp lại những lời thiên sứ đã ngỏ với Maria.
7) Maria hoàn toàn sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa, như một nữ tỳ đúng nghĩa. Bà không biết ý muốn ấy sẽ dẫn đưa bà đến đâu. Nhưng bà đã thưa vâng trong tin tưởng, yêu mến. Ta cũng vậy, phải sẵn sàng mền mỏng, phó thác cho đường lối Chúa Quan phòng. Ta không rõ ý muốn ấy sẽ mượn ngõ quanh co nào, nhưng ta biết chắc rằng đích điểm sẽ là sự thân mật với Thiên Chúa ngan bây giờ và chiếm hữu Ngài hoàn toàn trong vĩnh cứu. Ta phải phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa với thái độ sẵn sàng, tin tưởng của Maria! Chừng đó ta sẽ có niềm vui thấy Thiên Chúa làm "những điều lớn lao" qua các tôi tớ hèn hạ của Ngài.
8) Thiên Chúa có thể làm cho cung lòng một trinh nữ sinh con, cũng như có sức hoán cải một tội nhân nên thánh: chẳng có gì mà Ngài không làm được.
62.Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Trọng Hương
1. Đức Maria hỏi "Việc ấy xảy ra cách nào được, vì...". Thiên sứ đáp "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
2. Mặc dù " Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được", nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: "Xin cứ làm cho tôi...".
3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến. (Góp nhặt)
4. " Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói: Mừng vui lên hỡi đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng cô. Nghe lời chào ấy, Maria rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì" (Lc 1,28-29)
Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.
Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.
Lạy Chúa. Xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ. (Epphata).
63.Đức Maria đã đón nhận quyền năng Thánh Thần--Fiches Dominicales
Và nhờ lời xin vâng của Mẹ, lời hứa với David xưa kia nay đã mặc lấy xác phàm, một biến cố vượt xa mọi trông đợi thường tình (Lc 1,26-38).
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Trong gian nhà khiêm tốn ở Nagiarét.
So sánh giữa việc truyền tin cho Dacaria và cho Đức Maria, ta thấy rõ địa vị của Đức Giêsu cao trọng hơn Gioan Tẩy giả rất nhiều.
Phải, sự việc không diễn ra trong sự huy hoàng của Đền thờ Giêrusalem, nơi sứ thần Gabriel hiện ra với Dacaria, nhưng một cách khiêm tốn "trong một thành xứ Galilê”, trong một gian nhà khiêm tốn ở Nagiarét, “khung cảnh tuyệt vời, trong đó mầu nhiệm cao siêu nhất lại sát cánh với sự nghèo khó trần trụi nhất" (J.Potin: "Đức Giêsu, chuyện có thật", Centurion, tr. 92). Sứ thần Thiên Chúa Gabriel dời gót đến gặp Đức Maria và "vào trong nhà Mẹ”.
Trái với tôn ti thứ bậc thời đó, Đức Maria được nêu tên đầu tiên như người nhận sứ điệp của Thiên Chúa. Thánh sử đã hai lần nhấn mạnh người thiếu nữ này là một trinh nữ? Còn Giuse, người đã đính hôn với Maria, được nói đến tên vì Đức Maria và được đề cập đến vì là "một người thuộc dòng tộc Đavid”. Chính nhờ ngài, Đức Giêsu mới thuộc dòng tộc Đavid một cách hợp pháp.
Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Maria bắt đầu với lời mời gọi hãy vui lên, một tên mới và một lời chào.
Lời mời gọi hãy vui lên: "Hãy vui lên, chứ không phải “ Kính chào bà" theo cách dịch trước đây. Ngày xưa, các ngôn sứ đã hô vang lời kêu gọi đó ở Giêrusalem (Soph.3,14; Joel 2,21; Zach. 9,9), mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đến hay vì Người hiện diện: "Hãy vui lên, hỡi con gái Sion vì Chúa ở vòi ngươi!”.
Tương lai loan báo cho Giêrusalem trở nên hiện tại cho Maria: Chúa ở "cùng bà" để ở cùng dân bà.
- Một tên mới: trong Kinh Thánh, những người lãnh nhận một sứ vụ thường được Chúa ban cho một tên mới. Danh hiệu này là: “Đấng đầy ơn sủng", "Đấng đẹp lòng Thiên Chúa”, tất cả có nghĩa là Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu đối với Đức Maria.
- Một lời chào: “Chúa ở cùng bà” Trong Kinh Thánh, lời chào này không chỉ được thốt lên ở đây, nhưng sứ điệp đi liền theo sẽ đem đến cho lời chào của sứ thần một ý nghĩa độc đáo. Đức Maria rất “bối rối" trước lời chào này, và Mẹ tự hỏi lời đó có nghĩa gì. Vì thế sứ thần tiếp tục nói rõ hơn điều ẩn ý trong câu đầu tiên.
2) Đấng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" hoàn tất lời đã hứa.
Tiếp sau đó là sứ điệp về con trẻ sắp sinh gồm hai phần tách biệt nhau bởi câu hỏi của Đức Maria.
Phần một lấy trong Cựu ước nói về Đấng Mêsia nhà Đavid, phần này mạc khải chức năng của Đấng Mêsia: "Ngài sẽ nên cao trọng... Ngài sẽ cai trị...”. Việc Ngài sinh ra làm trọn hai lời tiên tri quan trọng:
Lời thứ nhất của Isaia 7,14 "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và ngài sẽ đặt tên cho con trẻ là Emmanuel”. H. Cousin lưu ý: “ Câu này trong văn bản bằng tiếng Do thái hàm ý chính người mẹ đã đặt tên cho con trẻ là: "Giêsu " (" Tin Mừng Luca", Centurion tr. 28).
Lời thứ hai là sấm ngôn của Nathan (bài đọc I), Thiên Chúa tuyên bố cùng Đavid: "Đối với Ta, nó sẽ là Con... ngai vàng nó sẽ bền vững mãi mãi". Sứ thần báo cho Đức Maria biết con trẻ sắp sinh ra vừa là con vua Đavid ("Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu David tổ phụ ngài), vừa là con Đấng Tối cao”.
Câu hỏi của Đức Maria: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”: Câu hỏi này sẽ đưa đến câu trả lời tâm điểm của sứ điệp.
- Phần hai làm rõ việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh, chứng tỏ một nền Kitô học sâu xa hơn là nhũng gì đã diễn giải cho đến bây giờ. Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà ": một cách nói thường được dùng trong Cựu ước, để chỉ ý nghĩa sự khởi xướng của Thiên Chúa, và Luca lập lại trong Công Vụ Tông đồ để loan báo lễ "Ngũ Tuần" (Cv 1,8: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi người ngự xuống trên anh em").
"Quyền năng Đấng Tối cao sẽ bao trùm bà": Lời này chỉ về Thánh Thần, Đấng sáng tạo bay là trên mặt nước để ban sự sống lúc khởi đầu của vũ trụ (Gn 1,2).
Những gì Thánh Linh, Hơi Thở sáng tạo làm từ lúc khởi đầu vũ trụ, Ngài sẽ lại làm trong lòng Đức Maria: đó là sự thụ thai mà vẫn còn đồng trinh.
“Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. H.Cousin diễn giải: Đức Giêsu không chỉ là Con Đấng tối cao, Đấng ban cho người vương triều Đavid, người được tuyên bố là Con Thiên Chúa, vì Người được tạo dựng bởi quyền năng vô cùng của Thiên Chúa trong hành động của Thánh Thần. Ngài là thánh, được Thiên Chúa chọn riêng. Nền Kitô học này thiên lập một sự khác biệt căn bản giữa hai người con được thụ thai lạ lùng: Gioan, vị tiền hô và Đức Giêsu. Đấng Messia thuộc dòng Đavid. Hơn nữa, khi Thánh Thần ngự xuống trên Gioan biến ông thành ngôn sứ ngay từ lòng mẹ, một ngôn sứ đặc biệt nhất trong các ngôn sứ, cũng chính Thánh Thần ấy đã làm cho Đức Giêsu trở thành một hữu thể hoàn toàn mới nhờ dây liên kết giữa người và Thiên Chúa" (Sđd).
Cuộc đối thoại kết thúc bằng lời "xin vâng" của Đức Maria, Đấng luôn sẵn sàng vâng lời sứ thần dạy. Cha Benoit kết luận: Chính Đức Maria là người đầu tiên đã hiểu lời tiên tri xưa, nay được thể hiện cách cụ thể và lạ lùng trong lòng ngài. Từ Đức Mẹ mà cộng đoàn trên khởi, tức Hội Thánh đã nhận được mầu nhiệm này, rồi Hội Thánh đã truyền lại cho các tín hữu... ".
Bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này (2 Sam 7,1-16) cho thấy Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavid đã muốn xây dựng cho ngài, nhưng trái lại đã hứa cho ông một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavid. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên "hòm bia Thiên Chúa”, "đền vàng”, tại đây Con Thiên Chúa đến ở với loài người. Phải chăng đó là mạc khải của mầu nhiệm "được giữ kín từ muôn thuở nhưng nay được bày tỏ ra" mà bài đọc 2 hôm nay đã đề cập đến (Rm 16, 25-27)? (Xem "Assemblée du Seigneur", số 8, trang 49-50).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Đức Giêsu là ân huệ nhưng không đặc biệt của Thiên Chúa".
(L.Monloubou trong: Tin Mừng Luca, Salvator trang 57-58).
Người ta không được nhìn bài Tin Mừng này như một bài mẫu Đức Giêsu tuy cao sang, nhưng là phụ thuộc. Thực ra trang Tin Mừng này nói về chuyện khác. Nó dẫn ta đến chiêm ngường Mầu nhiệm Thiên Chúa: Thiên Chúa hiện diện như là người bạn đồng hành: Người “ở với" Maria như một người đối thoại thân tình. Người sai sứ giả người... Người nói". Đức Maria ngạc nhiên: "Làm sao chuyện ấy... Sứ giả trả lời... khi ấy Đức Maria nói... Lời người.. ". Người là Thiên Chúa bình an: "đùng sợ". Thiên Chúa của ân huệ nhưng không: " Ngài đẹp lòng... ơn cứu rỗi... đầy ơn sủng”.
Đây là một mạc khải cao trọng về mầu nhiệm Thiên Chúa mà sứ thần có sứ mạng loan báo. Bởi vậy, trang Tin Mừng này quảng diễn những suy tư của thánh sử về Thiên Chúa qua việc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Chính thánh sử nói lên đức tin của ngài qua việc tuyên xưng này: tin vào Thiên Chúa là Chúa, Chúa Trời, Đấng quyền năng...; tin vào Người Con là Đức Giêsu, Đấng vĩ đại, Con Đấng Tối Cao, Con vua Đavid, Con Thiên Chúa...; tin vào Thánh Linh: Chúa Thánh Linh, Quyền năng của Đấng Tối cao...
Trọng tâm chính là Đấng đóng vai trò then chốt trong tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại. Bởi vì Người là "Con vua David, do mẹ Người "đã đính hôn với một người thuộc nhà David" nên “Người được Đức Maria đặt tên là Giêsu, nhưng cũng chính Người còn được gọi là "Con Đấng Tối cao", thậm chí là "Con Thiên Chúa”. Hai cách xưng hô sau làm mọi người kinh ngạc, nhất là khi so sánh với những cách xưng hô trước. Những xưng hô ấy có ý nghĩa gì?
Chúng nói lên sự hiện diện: Thiên Chúa đang ở đây, Thần Khí Ngài "đến”, phù hợp "bóng" trên Maria, "bóng" nhắc lại bóng mây trong Cựu ước chỉ sự hiện diện đầy uy quyền của Thiên Chúa giữa dân Người (Xh 40,34-38, 1 R 8,10).
Chúng cũng nói lên một hồng ân cao cả vượt hơn hẳn những hồng ân xưa nay Thiên Chúa vẫn ban (...). Đức Giêsu là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại cách nhưng không. Hồng ân mà họ không hề mơ tới, đừng nói chi là ao ước.
2. "Ngày nay trình bày đức tin là đón nhận Đấng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta"
(Mgr. Cl. Dagens trong: "Trình bày đức tin trong xã hội hiện tại", Kỳ họp HĐGM Pháp tại Lộ Đức 1994, Cerf, tr. 45-46).
Trước hết, tin vào Đức Giêsu Kitô không phải là sự hiểu biết cao siêu dành riêng cho tầng lớp ưu tú những người đã được khai tâm. Niềm tin này được trình bày cho tất cả mọi người, cách riêng những người nghèo hèn, nhỏ bé thực sự, những người nghèo hèn, nhỏ bé, những người đau ốm hoặc những người bị loại trừ là những người có thể sống như Đức Kitô một cách sâu xa bằng lời cầu nguyện và bằng của lễ là chính bản thân họ.
Đàng khác, kinh nghiệm đức tin này không nhằm vươn tới Thiên Chúa để chiếm hữu hay điều khiển Ngài. Hành vi đầu tiên của đức tin là đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa và Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mặc xác phàm và ở giữa chúng ta.
Thái độ cởi mở chính yếu này đối với Mạc khải và ân sủng Chúa đánh dấu hành trình thiêng liêng thâm sâu của Kitô hữu.
Là giáo dân hay tu sĩ cũng vậy, các tín hữu đều muốn nói lên điều này, đó là làm thế nào đức tin đã giúp họ có thái độ cởi mở với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện hay lắng nghe Lời Chúa. Và ngày nay, những anh chị em nào đã trải qua thử thách về sự cô độc và cuộc sống bất định cũng thích nói đến tự do của con cái Thiên Chúa, tự do chúng ta luôn có thể đạt được một khi đã vượt qua sa mạc.
Hình ảnh của kinh nghiệm thiêng liêng trong đức tin Kitô giáo là: tiến vào giao ước, vào cuộc đối thoại, và vào mọi tương quan mà chính Thiên Chúa là người khởi xướng.
64.Chú giải của Noel Quesson
Một trong những cách chuẩn bị tốt nhất để mừng lễ Noel, đó là suy niệm trình thuật về biến cố Truyền tin. Hiển nhiên là Thánh Luca đã ti.ếp xúc các môi trường Do Thái Palestin, nơi mà truyền thống và dòng họ Đức Giêsu vẫn được bảo tồn. Cũng có thể ông đã gặp riêng Đức Maria, Đấng hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19). Luca cho mình là sử gia, nên ông đã lo lắng tập tục là người đã được chứng kiến ngay từ đầu để tra cứu vấn đề đầu đuôi mọi sự trước khi viết ra" (Lc 1,2-3). Vả lại Luca là một nghệ sĩ tế nhị là người tường thuật tinh tế nhất trong bốn Thánh sử. Hơn chúng ta ngày nay, gần cận với những biến cố mầu nhiệm đã xảy ra, hẳn là Luca đã cảm thấy vấn đề khi sử dụng ngôn ngữ: phải dùng từ nào để diễn ta kinh nghiệm huyền bí đang sống động nơi một thiếu nữ đã thực sự thụ thai mang xác thịt Ngôi Lời Thiên Chúa, được Chúa Cha dự kiến từ thuở đời đời. Rất may Luca sử dụng truyền thống văn chương và thần học lâu đời của Kinh thánh. Vì vậy, ông viết "báo cáo" của mình rất trôi chảy theo khuôn khổ ngôn ngữ đã được Thánh Thần chuẩn bị rất tinh vi trong dân Israel. Bức vải vẽ cảnh Truyền tin được dệt bằng những “sợi chỉ" Kinh thánh. Khi nhận ra những sơi chỉ đó ta sẽ càng nhận thức được rằng, mạc khởi là một về huyền diệu của những kiểu nói, những hình ảnh, những dụ ngôn, nhằm diễn ta mầu nhiệm về Thiên Chúa khó hiểu thấu bằng ngôn ngữ loài người.
Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nagiarét, đế gặp một thiếu nữ…
Luca chủ ý đặt một đối nghịch giữa việc loan báo sự sinh ra đời của Gioan Tẩy Giả với cảnh Truyền tin sinh hạ của Đức Giêsu.
Trường hợp trên: Đó là Giêrusalem... trong đền thờ…với một tư tế... ông này - không tin điều đó.
Trường hợp sau: Đó là Nagiarét... trong một ngôi nhà riêng... với một thiếu nữ... cô này hoàn toàn ưng thuận. Đúng vậy, Nagiarét là một làng nhỏ tầm thường. Theo các nhà khảo cổ, nó chỉ bao gồm khoảng 20 căn nhà, với 150 dân. cự.. Galilê cũng là một xứ bị người ta coi thường. Từ Nagiarét, thì có cái gì hay được?" (Ga l,46). Vẻ đơn sơ của căn nhà Maria ở, tương phản với vẻ trang trọng trong cuộc báo tin cho Giacaria, giữa khung cảnh hùng vĩ và thánh thiện của Đền Thờ, tại Giêrusalem, thủ đô (Lc l.,5-25).
Tôi dùng tưởng tượng chiêm ngắm Đức Maria trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn không ai biết đến, để suy niẹm sự khiêm hạ của Thiên Chúa nhập thể. Một ngày kia, thánh Phaolô sẽ nói: "Ngài đã làm cho mình hóa ra không, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2,7).
Một thiếu nữ đã kết hôn với một người tên là Giuse, con cháu nhà Đavít. Thiếu nữ ấy tên là Maria.
Trong một đoạn văn không có gì là song đối với bản văn trên, Mát-thêu quả quyết cả hai chân lý lịch sử một trật: Quan hệ dòng dõi nhà ‘Đavít của bé thơ và tình trạng tinh khiết của mẹ em (Mt 1,18-25). Tên Yosephel có nghĩa là: "Xin Chúa thêm cho". Còn tên "Miryam" có nghĩa là: "Bà sang trọng". Tôi hình dung ra cảnh, những cô bạn, những thiếu nữ hàng xóm đang gọi tên "Miryam" tại giếng làng mà họ tới kín nước. Đó là một thiếu nữ hoàn toàn giản đơn, không có gì đặc sắc phân biệt cô với các bạn hữu khác. Tôi cũng hình dung ra cảnh hai người đã đính hôn đang âu yếm gọi tên nhau: "Miryam"... "Yosephel"?
Sứ thần vào nhà cô và nói: "Kính chào bà, bà đầy ân sủng!".
Có lẽ chúng ta đã chờ đợi một lời chào như: "Kính mừng Maria!". Thế mà, thay vì Maria, sứ thần lại dùng "Đầy ân sủng" như một tên gọi. Cũng như trong nhiều trình thuật về ơn gọi, Thiên Chúa thường đổi tên cho con người. Maria trở thành "Đầy ân sủng" mà ta còn có thể là “Được Thiên Chúa sủng ái". Từ nay, trong tiếng Do Thái, gợi đến "kẻ yêu dấu”, "người được sủng ái" trong cuốn Diễm ca.
Kiểu nói Hy Lạp được sử dụng để chào nhau là "Kairé", thực sự mang ý nghĩa "Hãy vui lên". Đó là một sự ghi nhớ lại Cựu ước (Xp 3,14; Dcr 2,14 - 9,9; Is 54,1). Các ngôn sứ yêu cầu "thiếu nữ Sion" hãy reo vui lên khi ngắm nhìn Đấng cứu độ mình đang tiến đến gần: "Reo vui lên! Nữ tử Sion, hãy vui lên". Và chúng ta biết, niềm vui đã là đề tài luôn được bàn đến trong Tin Mừng Luca. Vì thế, đây là lời đầu tiên Thiên Chúa gửi cho trần gian: "Hãy vui lên!".
Thiên Chúa ở cùng bà.
Đó là kiểu nói Thiên Chúa quen dùng khi Người muốn trấn an nhưng kẻ Người mới gọi đảm nhận những trách nhiệm nặng nề (St 15,1; Xh 4,12; Tl 6,12-17). "Đừng sợ? Ta sẽ ở cùng ngươi! ". Trong phục vụ, vị chủ tế cũng thường lặp lại với ta lời cầu chúc này: "Chúa ở cùng anh chị em!". Chúng ta có tin tưởng vào lời chào chúc đó không? Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Nghe những lời ấy, cô hoảng sợ, và tự hỏi không biết lời chào như vậy có nghĩa gì.
Ở đây nếu chỉ nhận thấy một phản ứng tâm lý, thì ta mới dừng lại ở khung dạng bên ngoài. Trong Cựu ước, bất cứ cuộc đưa tin nào cũng đều gây “sợ hãi" cả. Một lần nữa, đây là kiểu nói Kinh thánh, có nghĩa là: Hãy chú ý ở đây đang bàn đến mầu nhiệm? Những lời này chứa một ý nghĩa kín ẩn, cần phải khám phá? Thiên Chúa vẫn có đó! Đây là điều quan trọng! Thiên Chúa luôn là Đấng gây bối rối, xuất hiện bất ngờ và ở trong tình trạng kín mật... Thế nên, được mời gọi đến gần Chúa, con người dễ phát sinh cảm tình muốn lùi lại, run sợ trước vẻ thiêng thánh...
Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai... và đặt tên là Giêsu.
Luca sử dụng một kiểu nói có sẵn, rất nhiều lần được dùng trong Kinh thánh (St 16,11-17-19; Tl 13,5-7; Is 7,14). Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ đặt tên con trẻ là Emmamuel". Lời sấm của Isaia từ lâu vẫn được hiểu theo nghĩa, việc hạ sinh Đấng cứu thế mà vẫn còn trinh khiết, như bản dịch Hy Lạp của 70 học giả xác nhận. Trong đó, ta thấy từ Hy Lạp "parthénos" (trinh nữ) chính xác hơn từ Do Thái "almah" (người nữ không lấy chồng).
Người sẽ nên cao cả, và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Vua Đavít, tổ tiên của Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời,và vương quyền của Người sẽ vô cùng tận.
Maria thuộc lòng "lời tiên báo của Na than" (2 Sm 7,12-17) mà sứ thần gởi lại cho cô. Đối với chúng ta, đó là một thứ ngôn ngữ hơi bí hiểm. Những mọi người Do Thái đều hiểu lời đó theo ý nghĩa: Con trẻ này sẽ là Đấng cứu thế mà thiên hạ được loan báo và chờ mong.
Làm sao có chuyện ấy được; vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng.
Ý định của Luca thật là rõ ràng: ông không muốn để người ta phải nghi ngờ gì về sự trinh khiết của Maria. Thời đó, theo tập tục Do Thái, lễ đính hôn cho phép các người nam kết ước được hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm chồng, kể cả những tương quan giao hợp... Luca loại bỏ giả thiết này. Maria đã cân nhắc suy nghĩ và chọn sống đồng trinh. Vấn đề đố khiến ta cần đi sâu vào trong tư tưởng và tâm hồn Maria. Cô đã tận hiến đời mình cho Thiên Chúa, trong một tình yêu huyền bí, tuyệt đối, chuyên nhất... như biết bao người khác vẫn làm từ lâu rồi? Điều đó không làm giảm giá trị bậc sống hôn nhân gì hết! Nhưng nó làm nổi bật một lý tưởng khác, là một số người có thể chọn lựa một cách hợp thức, như' sau này Đức Giêsu có đề cập đến (Mt. 19,12). Đàng khác, qua cuộc khám tìm nếp sống của nhóm người Essenien tại Qumraxl, giờ đây ta biết rằng, đó không phải là một lý tưởng xa lạ gì với Israel: vào lúc xảy ra các biến cố trên, lý tưởng sống độc thân tự nguyện tận hiến đã bắt đầu phổ biến rộng rãi.
Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và uy quyền Đấng tối cao sẽ che chở cho bà.
Chúng ta đừng tưởng rằng, Maria đã thấu suốt mầu nhiệm Ngôi vị của người con mình qua những định nghĩa tín lý trừu tượng. Không! Nhờ ý nghĩa của các hình ảnh và dụ ngôn Kinh thánh diễn tả, mà cô hiểu sự việc cách cơ bản thôi. Ở đây, Maria đứng trước một đề tài huyền diệu về "shekinah", hay "mây"; "bóng mát", dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thần khí bay lượn trên nước lúc khởi đầu để ban sự sống (St 1,2). Và đây là một cuộc tạo thành mới nới Đức Mària "mây" phủ kín trướng tao phùng trong bóng mát (Xh 40,35). Và giờ đây Maria trở nên nơi cư ngụ của sự hiện diện Tháp Chính dưới bóng của: mây trời" mà Thiên Chúa đã phán dạy Môsê (Xh 16,10). Khi Salômon khánh thành Đền thờ, năm 986, thì "mây xuống đầy nhà Chúa" (1 V 8,10). Đối với một nữ Do Thái, những lời của sứ thần đã gợi lên tất cả những điều đó.
Vì thế, hài nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng thánh, là con Thiên Chúa.
"Thần khí...", "Quyền năng...", "Đấng thánh...", "Đấng tối cao...". Luca muốn diễn tả cho ta hiểu, ngay từ giây phút đầu tiên, nhân tính của Đức Giêsu đã được thần khí
Thiên Chúa thấm nhập. Ngôn ngữ đượm màu sắc Kinh Thánh. Ai không chấp nhận bắt đầu từ giới mức đó – giới mức của Đức tin - thì mới chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài trình thuật. Lạy Chúa, xin giúp con,biết dừng lại, sửng sốt mà thờ lạy, trước mầu nhiệm được diễn tả qua ngôn ngữ gợi ý trên đây. Trứng thụ thai trong dạ một người nữ, đó là một mầu nhiệm tuyệt vời,: vượt qua mọi định luật tự nhiên. Thánh Gioan sẽ nói: "Ngôi lời đã nhập thể" (Ga l,14). Ngày đó, ngang qua những gì đã biết nhờ vốn liếng Kinh thánh tại sao Maria lại không có thể hiểu, những gì sẽ xảy ra? Dẫu sao, chắc chắn đó chưa phải là điều rõ ràng trong những định nghĩa tín lý.
Này tôi là nữ tỳ của Chúa.
Thiên Chúa không thể đưa dẫn Maria tới chức năng làm mẹ mà lại không thông tin và hỏi ý kiến trước. Thiên Chúa không đặt chúng ta đứng trước một sự kiện đã rồi. Ngài tôn trọng lãnh vực tự do và trách nhiệm của mỗi người. Qua ngôn ngữ Kinh thánh trên, Maria đã hiểu rõ điều cốt yếu để dấn thân với ý thức đầy đủ về sự việc.
Nhưng ta cũng đoán được đó là "trong đức tin". Lạy Chúa, xin cũng giúp chúng con biết tin tưởng.
65.Sứ điệp của Chúa cho Maria--William Barclay
Maria đã đính hôn với Giuse. Thời kỳ đính hôn thường là một năm, và sự ràng buộc cũng giống như trong hôn nhân, chỉ có thể tháo gỡ bằng ly dị. Nếu trong thời gian ấy, vị hôn phu chết thì trước mặt pháp luật cô gái đã trở thành góa phụ. Trong luật pháp có từ nghe lạ tai “… một trinh nữ góa”. Khi hai người đã đính hôn với nhau, chỉ có thể chết mới phá bỏ được sợi dây liên kết.
Xuất thân từ người ngoại, Luca hiểu hơn ai hết lối suy luận của dân ngoại, nên ông đã tìm cách giới thiệu Chúa Giêsu dưới con mắt chuyên môn của nhà viết sử như đã xác định từ đầu (1,1-3). Bức tranh tuyệt diệu về Chúa Giêsu phải được trình bày đúng thời điểm của nó và hoàn toàn khác với ba sách Phúc Âm kia. Chữ “đến tháng thứ sáu” (c.26) nhằm nối kết với phần trước, cho biết khi Êlisabét mang thai Gioan đến tháng thứ sáu, thì một thời điểm vô cùng quan trọng của lịch sử nhân loại đã tới: Thiên sứ Gabriel báo tin cho Maria về sự ra đời của Chúa Giêsu. Luca ghi lại cho chúng ta những mặc khải và bài học quan trọng của Thiên Chúa cho nhân loại.
Thứ nhất, Thiên Chúa chọn trinh nữ Maria để đưa Con Ngài vào trần gian. Cô là người vô cùng đặc biệt, được Chúa chọn để nhận hồng ân lớn lao nhất (c.28). Chính điều này làm Maria bối rối, cô không thể nào hiểu được trong bối cảnh xã hội bấy giờ, khi cô đã hứa hôn với Giuse (c.27). Hơn thế nữa, thiên sứ còn cho biết cô sẽ mang thai, sinh một con trai, và được đặt tên là Giêsu (c.31). Matthêu ghi rõ “Giuse làm theo lời thiên thần Chúa dặn bảo”, đem vợ về ở với mình, nhưng không hề ăn ở với nhau cho đến khi người sinh một con trai, thì đặt tên là Giêsu” (1,25). Sinh đồng trinh là giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô giáo và Maria được đặc ân vĩ đại này.
Thứ hai, sự thụ thai kỳ diệu. Trong khi Maria đang trải qua từ bối rối này đến ngạc nhiên nọ (c.34) thì thiên sứ cho cô biết chương trình lớn lao của Thiên Chúa. Cô vẫn đồng trinh, nhưng nhận được ân sủng và thụ thai siêu nhiên bởi Chúa Thánh Thần, nên hài nhi sinh ra rất cao trọng, được gọi là con thánh, con Thiên Chúa (c.35). Thông báo này là một mặc khải đặc biệt cho nhân loại. Thiên Chúa vào đời, mang hình hài loài người có cả thần tính lẫn nhân tính. Với mục đích giới thiệu Chúa Kitô cho người ngoại nên Luca hoàn toàn không trích dẫn những lời tiên tri trong Cựu Ước về sự ra đời của Chúa Kitô.
Thứ ba, chương trình chắc chắn thành tựu. Những điều Gabriel trình bày vượt quá trí tưởng tượng và khả năng hiểu biết của trinh nữ Maria, nàng tưởng như nằm mơ. Thiên sứ đã nhanh chóng dẫn chứng biến cố hy hữu xảy ra cho Êlisabét (c.36), người bà con gần gũi của Maria, người đàn bà son sẻ, già nua đã có thai sáu tháng rồi, “nên chẳng có gì Thiên Chúa không làm được” (c.37).
Thứ tư, sự vâng phục trọn vẹn. Sự vâng phục của Maria là một thái độ hết sức đẹp đẽ: “Bất cứ điều gì Chúa nói, tôi xin vâng theo cả”. Maria biết quên lời cầu nguyện phổ thông nhất của thế gian “Xin ý Cha được đổi lại”, nàng học biết để cầu nguyện lời cầu nguyện lớn nhất trần gian “Xin ý Cha được thực hiện”.
66.Truyền tin--R. Gutzwiller.
1) Khung cảnh bên ngoài
Đây cũng là một cuộc loan tin, cũng nói tới chuyện báo trước về việc thụ thai hoàn toàn bất ngờ, mà cũng chính do thiên thần Gabriel chuyển lời; hơn thế cũng là chương trình Thiên Chúa đưa ra, sẽ được thực hiện từng điểm một. Tuy vậy tất cả đều khác hẳn. Cả khung cảnh bên ngoài, lẫn thái độ bên trong. Đây ta hãy xem:
Trên kia, Lời Thiên Chúa được loan báo trong miền Giuđa, giữa thủ đô Giêrusalem. Ở đây sứ thần nói trong một tỉnh biên giới của miền Galilê, một miền có lẫn dân ngoại. Và không được trong tỉnh lỵ Sepphoris hay ít là trong một thành nhỏ, hoặc một thị trấn bên bờ hồ, nhưng trong một làng miền sơn cước hoàn toàn vô danh.
Ở kia, sự loan tin xảy ra nơi đền thờ trong giờ lễ long trọng; ở đây, trong một căn lều quê mùa vào lúc mà chẳng ai định nổi thời gian. Ở kia, người đón nhận là một trong hàng tư tế Israel; đang khi dân chúng hội họp nhau đợi chờ, cầu nguyện; ở đây lời của thiên thần đến với một thiếu nữ bình dị mang tên là Maria, một cái tên thông thường có quá nhiều người đặt; không một ai hiện diện. Một bên với vẻ bên ngoài thật là hùng vĩ, long trọng, đầy xúc động; một bên thì bé nhỏ, bình thường và vô nghĩa.
Tuy nhiên, dù cả bên ngoài đi nữa, ở đây xét về chính yếu vẫn có những điểm lớn lao cao đẹp. Vì đang khi thiên thần chờ sẵn thì Giacaria mới bước vào. Thiên thần là kẻ chờ đón, còn Giacaria là người tiến đến gặp. Thiên thần nhập truyện luôn mà không chào hỏi gì cả. Đang khi đó, Đức Maria ở nơi phòng của ngài, ngài là người tiếp đón, trái lại thiên thần đi đến, đi vào. Như được yết kiến một nhân vật quan trọng với lời chào đầy vẻ kính trọng: “Xin kính chào bà”.
Tìm lại văn bản ba yếu tố: chào thăm, vui vẻ, và ơn phúc; tiếng cuối cùng đã đặc biệt được nhấn mạnh: “Bà đầy ơn phúc”. Maria luôn đầy ơn và giờ này lại càng đặc biệt hơn nữa “Chúa ở cùng Bà”. Thiên Chúa luôn ở với Maria, bây giờ thì sự hiện diện đó lại càng đặc biệt và vững bền hơn.
Giacaria phản ứng lại bằng sợ sệt và rối loạn. Nơi Maria –theo nguồn gốc của trình thuật Kinh Thánh- sự rung động còn hơn nữa, nghĩa là nó ăn sâu vào tận thâm tâm và cả hiện hữu của ngài. Việc chào thăm cùng sự việc lời Thiên Chúa đến với ngài hoàn toàn là bất ngờ. Mẹ vẫn chỉ thầm mong được sống một cuộc sống bình thường với một tâm tình đạo đức bình dị, nên Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse. Như bất cứ một phụ nữ nào khác, Mẹ không nghĩ gì ngoài con đường của những người xung quanh trong dân Israel. Vậy thì Thiên Chúa muốn Mẹ làm gì đây? Lời mời gọi đã đến, đột ngột quá. Đó hẳn không phải là một hậu quả của một tình trạng tâm lý dễ giải thích, mà cũng chẳng phải là một dự phóng của một niềm hy vọng thầm kín hay một đáp ứng cho một niềm ao ước thiêng liêng. Trái lại đều do Thiên Chúa và chỉ vì một mình Ngài thôi.
Đối với Giacaria và Êlisabét, sự liên kết son sẻ biểu hiện sự đau khổ, mối buồn lặng lẽ; có thể luôn mang một tia hy vọng ghê gớm; chẳng thế mà Giacaria sợ khó xảy ra nên mới xin một dấu. Còn Maria, chẳng đợi chờ gì hết, lời của Thiên Chúa làm Mẹ hoảng hốt, sửng sốt. Như vậy hai cảnh tượng diễn ra song song với nhau, nhưng lại hoàn toàn khác biệt nhau. Điều đó còn rõ ràng hơn trong cuộc đàm thoại.
2. Đàm thoại.
Hai sứ điệp của Thiên thần mang theo hai câu trả lời của Đức Maria.
Sứ điệp thứ nhất: Lời nói dịu dàng: ‘Maria xin đừng sợ’ dựa trên sự kiện: ‘vì chị đã đắc sủng nơi Thiên Chúa’. Người ta không thể chiếm hữu ơn huệ hay tự cung cấp được cho mình. Người ta chỉ có thể tìm kiếm và nhận lãnh. Và bản chất của ơn này được mặc khải ở đây: ‘Này đây, chị sẽ thụ thai và sinh một con trai’. Để nhận hồng ân, ở đây phải có sự thụ thai Ngôi Lời Thiên Chúa, một thực tại thể xác chứ không phải chỉ là thiêng liêng. Maria khi chấp nhận lời Thiên thần thì đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa, và như thế Ngôi Lời mang xác phàm trong lòng Mẹ. Đứa trẻ mà Mẹ sinh ra cho thế trần là Thiên Chúa, như vậy mới đúng với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa: ‘Chị sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một con trai’. Con Thiên Chúa trở nên con loài người vì đó người ‘mẹ phàm trần sẽ trở nên Mẹ Thiên Chúa.
‘Và chị sẽ gọi tên Ngài là Giêsu’. Nếu tên của vị tiền hô đã giầu ý nghĩa, thì danh hiệu này còn hơn biết bao. Vì ‘Thiên Chúa là Ơn Cứu Độ’. Chúa Giêsu hẳn là Đấng mang lại ơn cứu độ. Do đó, sứ điệp của Thiên thần là sứ điệp của ơn cứu độ. Và chính ơn cứu độ đã xảy ra ở đây, đó là biến cố quyết định cho tất cả thời gian cứu độ.
Lời Thiên thần diễn tả một sự quả quyết, nhưng cũng là một lệnh truyền: ‘chị sẽ sinh con’. Người đang nghe nói, hẳn sẽ cộng tác bằng sự nhất trí của mình.
Như đối với vị tiền hô, thiên thần cũng tuyên bố về cá nhân và nhiệm vụ liên hệ.
Cá nhân: ‘Ngài sẽ làm lớn’, Ngài là Đấng vĩ đại tuyệt đối. ‘Chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao’. Và Ngài sẽ được gọi là ‘Con Đấng Tối Cao’. Không phải chỉ nhân loại mới gọi Ngài là Con, mà cả Cha trên trời, cũng gọi như thế.
Với tư cách là Lơì nội tại của Thiên Chúa, Ngôi Lời đúng thực là ‘Đấng được phán’. Chính bởi sự hiện hữu của việc ‘được phán’ mà Ngài là Con, và bởi sự hiện hữu của việc làm Con, mà Ngài ‘được đặt tên’ với ý nghĩa đầy đủ và dồi dào nhất.
Nhiệm vụ: ‘và Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu của Đavít, tổ tiên Ngài’. Làm con Đức Maria, và làm Con Cha trên trời kèm thêm quan hệ phụ tử với Đavít. Triều đại của Đavít tìm lại được vẻ huy hoàng đầy mới mẻ nhưng không phải vẻ hào nhoáng bên ngoài của một quyền hành thế trần. Đó là vẻ rực rỡ bên trong của vinh quang Thiên Chúa.
‘Ngài sẽ làm Vua nhà Giacóp cho đến đời đời: sự quả quyết này mạnh mẽ hơn và có trường độ lớn hơn vì thêm hai chữ ‘ đời đời’. Đó là vì nói tới hình thức của một vương quốc và một triều đại khác. Cái vòng khép kín của thời gian với sự trở lại chắc chắn của những biến cố cũ đã bị phá rồi: vì Thiên Chúa, Đấng điều khiển thời gian, đã can thiệp vào thời gian và kéo dài cho tới đời đời. Vương quốc được thiết lập, triều đại được tu chỉnh, sẽ là vương quốc và triều đại vĩnh cửu.
Một vương quốc thế trần bị thời gian giới hạn xem ra không sao có được ý tưởng gì để so sánh. Vua dân Do thái đấy, không cần ngai vàng vật chất, mà cũng chẳng cần triều thiên óng ánh, nếu Ngài vác trên vai cây thập tự, mang trên đầu mão gai, thì đó đâu phải là ngày tàn của vương quốc và triều đại Ngài, mà trái lại, đó là dấu hiệu ngày khai mạc đã đến, nền tảng đã vững.
‘Vương quyền của Ngài sẽ vô cùng tận’: vương quyền đó không hoàn tất trong không gian và thời gian. Hãy cố có một hình ảnh về Vĩnh cửu, ta biết ngay nó vượt ngoài tầm tay con người và vật thụ tạo. Như vậy, những lời nói của Thiên thần biểu hiện một lời quả quyết mạnh mẽ và long trọng, ý nghĩ mỗi lúc mỗi tiến hơn theo từng tiếng một, sâu như biển gầm, hùng vĩ như những rặng núi cao và những tiếng sấm vang.
Mới chợt nhìn, trong vẻ đơn sơ, câu trả lời của Đức Maria thật lạ lùng, hầu như là ngã lòng, của một chủ thuyết duy thực, nhưng laị bộc lộ một tâm hồn đáng thán phục ‘việc ấy xảy ra làm sao được, vì tôi không nghĩ tơí người nam’. Thái độ tinh thần này không còn là một sự sẵn sàng vui vẻ biểu lộ hẳn ra bên ngoài, và chấp nhận với tất cả hân hoan, mà chỉ là một sự chối từ vì quá kinh hãi hay một sự rút lui vì khiêm nhường không đúng chỗ.
Nó cũng giống thái độ của Giacaria. Đối với Maria, đương nhiên là mong muốn xảy ra chuyện mà Thiên Chúa đã loan báo và yêu cầu qua Thiên thần, chỉ có vấn đề là ‘cách thế’. Mẹ muốn và phải biết Mẹ phải làm gì, con đường Thiên Chúa chọn là con đường nào, khi thêm vào câu “không biết tới người nam’, đó chẳng qua là Mẹ muốn biết xem, theo Thánh ý Thiên Chúa, thì Mẹ phải lập gia đình thực sự với Giuse sao? Phải chăng Thiên Chúa đòi sự thụ thai và sinh con trong hôn nhân? Đức Maria thực sự đã đính hôn, Thiên Chúa muốn hôn nhân cử hành ngay và thụ thai Đức Giêsu bởi Mẹ liền sao? Hay Ngài muốn xảy ra cách khác? Đức Maria không đặt những điêù kiện, Ngài chỉ hỏi thôi, Ngài muốn nhận rõ Thánh Ý Thiên Chúa. Việc hoàn tất đối với Mẹ hẳn sẽ xảy ra theo sau.
Lần truyền tin thứ hai này của Thiên thần đã đi quá xa lần loan báo cho Giacaria: ‘Thánh Thần sẽ đến trên Người và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ chị’. Như vậy có sự tham dự của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: quyền năng Đấng Tối Cao, Ngôi Con và Thánh Thần, Thánh Thần đã bay xà trên mặt đất trong buổi đầu của thế giới, như nguyên lý tạo dựng. Cũng thế, Ngài sẽ bao phủ trinh nữ, để tạo dựng và sinh Đấng Cứu Thế. Con của Đức Maria là Con Thiên Chúa. Việc quyền năng Đấng Tối Cao bao phủ trong viễn tượng Kinh thánh nói tới việc Thiên Chúa hiện diện lạ lùng nhưng rất đặc biệt.
‘Bởi đó, trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’: Ngài không được gọi là ĐẤNG THÁNH, mà là Thánh.
Vì bản tính sinh ra cách trực tiếp Ngôi vị mà bản tính này thuộc về là chính Thiên Chúa. Trẻ này được gọi là Thánh, vì Ngài là Thánh trong tất cả ý nghĩa đầy đủ của hạn từ: ‘Chỉ có Chúa là Thánh’. Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng mà tất cả dân được chọn sẽ tái sinh trong Ngài, Đấng đã nhận nơi Giavê danh hiệu thân ái của Người Con. Ngài là Con Thiên Chúa vì Người Con từ nội tâm là Thiên Chúa sẽ có bản tính này của loài người như bản tính riêng của mình.
Maria không đòi một dấu chứng như Giacaria. Nhưng chính Thiên thần đã cho Ngài một dấu chứng: bà Êlisabét son sẻ đã sinh con trong tuổi già. Một việc thụ thai kỳ lạ sẽ là dấu chứng lạ lùng cho sự thụ thai ở đây, nhưng hoàn toàn khác nhau. Ở trên, tự bản chất là son sẻ, còn ở đây, son sẻ bên ngoài là do sự giữ đồng trinh: ‘tôi không biết đến người nam’. Làm bằng chứng cho lời của Thiên thần là một động lực sâu xa: ‘vì không có gì là không thể đối với Thiên Chúa’. Lời này dựa theo sách Sáng Thế (18,14): tiên báo cho Abraham rằng người vợ già cả Sara của ông sẽ thụ thai và sinh con. Đó là một điềm báo, một sự sửa soạn vho phép lạ đang thực hiện, ở đây, của việc thụ thai và sinh ra của Con thực Thiên Chúa đến để dẫn dắt dân Thiên Chúa. Gốc của bản văn cứ từng chữ phải nói là: ‘Vì Thiên Chúa có thể làm được tất cả những gì Ngài nói’. Tiếng ‘Thiên Chúa’ được Thiên thần thốt lên ở đây là một hạn từ diễn tả quyền năng, truyền khiến, động lực của ý chí Thiên Chúa. Không chỉ là lời mời gọi, nhưng còn là sự đòi hỏi và hơn nữa còn là hành động tác tạo của Thiên Chúa.
Vì thế, câu trả lời thứ hai và cũng là cuối cùng của Đức Maria mặc một vẻ vĩ đại hoà lộn với sự đơn sơ: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo như lời Ngài’.
Một sự tương phản cứng cỏi và thô sơ đã làm cho gần gũi giữa đầy tớ và chủ nhân, Thiên Chúa là người chủ không hơn không kém, và Người trở nên cao cả vào giờ phút này, đã chỉ nhận cho mình là đầy tớ. Đó chính là sự nhận thức khiêm hạ về một thực tại, một khoảng cách giữa Đấng Tạo hoá và tạo vật, giữa ý chí quyết định, tuyệt đối tự do, có quyền đòi hỏi và tạo dựng với ý chí được thỉnh nguyện, mà sự tự do hệ tại ở việc đặt mình vào ý muốn của Thiên Chúa để được chìm vào giòng nước bao la của Ngài.
‘Xin hãy thành sự cho tôi như lời Ngài’. Sự thực hiện có tính cách quyết định nhất của lịch sử này đã mở màn… ‘Xin hãy thành sự cho tôi’ vừa diễn tả sự sẵn sàng thụ động và sự chấp thuận chủ động. Thiên Chúa, khi ban cách thế thực hiện và hình thức tạo lịch sử, đã đặt vào đây yếu tố nhân loại. Cùng với câu hỏi: ‘điều ấy sẽ làm sao được?’. Là câu trả lời của Đức Maria: ‘Xin hãy thành sự cho tôi!’. Đây hẳn không phải do một sự vui mừng quá đỗi mà cũng chẳng do một lời cầu khiêm hạ, nhưng hoàn toàn là do bởi sự chấp thuận tự nhiên Thánh Ý Thiên Chúa, một khi đã nhận thức rõ ràng. Nhưng chính trong sự tự nhiên này, người ta thấy được vẻ lớn lao vĩ đại. Đối với Maria chẳng phải là ý riêng, cũng không phải vì ý chí cá nhân hay do tài lợi khẩu nào đưa đến mà chỉ do ý muốn và lời của Chúa.
‘Và Thiên thần cáo biệt’. Trong câu chuyện trên về Giacaria, chính ông rời đền thờ, còn ở đây Thiên thần biến đi. Từ đây phòng ở Nagiarét đã trở nên đền thờ. Sự ẩn dật im lặng của Êlisabét chỉ là một dấu chứng của sự im lặng sâu xa mà ở nơi đó trong cung lòng Đức Nữ Trinh, mầu nhiệm của Thiên Chúa được hoàn thành. Một sự tinh tế lạ kỳ, một vẻ cao sang trang trọng liên kết với vẻ đơn sơ trinh khiết làm chứng một vẻ đơn sơ tinh khiết làm chứng một vẻ vĩ đại thực sự của tạo vật cởi mở hoàn toàn cho Thiên Chúa.
67.Chúa Nhật 4 Mùa Vọng--Lm. Anthony Trung Thành
Thánh Augustinô đã khẳng định: Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Thật vậy, để thực hiện chương trình cứu độ, suốt dọc theo chiều dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn mời gọi sự cộng tác của con người: Ngài mời gọi sự cộng tác của các tổ phụ; Ngài mời gọi sự cộng tác của các thủ lĩnh; Ngài mời gọi sự cộng tác của các ngôn sứ…Ngài mời gọi sự cộng tác chung của cả dân tộc Do Thái; Ngài mời gọi sự cộng tác riêng của từng người…Đặc biệt, để thực hiện lời hứa ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại, Ngài đã sai sứ thần đến để mời gọi sự cộng tác của một Trinh nữ tại làng quê Nazarét. Trinh Nữ ấy tên là Maria. Cuộc đối thoại giữa Sứ thần và Trinh nữ được Thánh Luca tường thuật lại trong đoạn Tin mừng hôm nay (x. Lc 1, 26-38).
Cuộc đối thoại bắt đầu bằng lời chào của sứ thần Gabriel: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”(Lc 1, 28). Đây là một lời chào đặc biệt, bởi vì sứ thần đã không chào bằng tên thật của Maria, nhưng bằng một tên mới đó là tên: “Đấng đầy ân sủng”. Sứ thần còn thêm rằng:“Đức Chúa ở cùng bà”. Chính vì lời chào đặc biệt nầy mà Trinh Nữ cảm thấy “bối rối”. Hiểu được sự bối rối của Trinh nữ, sứ thần giải thích rằng: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” (Lc 1,30-33). Trinh nữ hiểu rõ lời giải thích của sứ thần, nhưng vì Trinh nữ đã khấn giữ mình đồng trinh, Ngài quý trọng đức Đồng trinh hơn chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Vì thế, Trinh nữ mới hỏi sứ thần rằng: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1,34). Thắc mắc của Trinh nữ cũng là thắc mắc của nhiều người qua mọi thời đại. Nhưng thắc mắc đó đã được Sứ thần giải thích một cách rõ ràng rằng: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1,35-37). Như vậy, việc Đức Mẹ thụ thai và sinh con là việc của Chúa Thánh Thần chứ không phải việc của con người. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không làm được. Cho nên, Đức Mẹ sinh con mà vẫn đồng trinh. Khi hiểu được lời giải thích của sứ thần, Đức Maria đã sẵn sàng thưa xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38).
Cuộc đối thoại giữa Sứ thần và Trinh nữ chấp dứt. Sứ thần đã làm tròn sứ mạng Truyền Tin của mình. Khi thưa “xin vâng”, Đức Maria đã chấp nhận cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại. Biến cố này hết sức quan trọng vì làm thay đổi cuộc đời của Đức Maria và làm cho lịch sử cứu độ bước sang một trang sử mới. Đối với Đức Maria, từ một thiếu nữ bình thường đã trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Đi liền với thiên chức làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa còn ban cho Mẹ ơn Vô Nhiễm thai, ơn đồng trinh trọn đời và được đưa lên trời cả hồn lẫn xác. Đối với lịch sử cứu độ: tiếng thưa “Xin vâng” của Đức Maria làm cho lời hứa của Thiên Chúa ngày xưa được ứng nghiệm, Đấng Cứu Thế đã thực sự xuống thế làm người.
Nhưng tiếng “xin vâng” của Đức Maria không chỉ thể hiện qua lời nói trong chốc lát mà phải “trả giá” cả cuộc đời của Mẹ. Thật vậy, từ khi thưa tiếng “Xin vâng”, Đức Maria bắt đầu bước vào hành trình hy sinh đau khổ: mang thai, bị Giuse hiểu nhầm, sinh con trong hang đá nghèo hèn, đưa con trốn sang Aicập, lạc mất con trong đền thánh, thấy con vác thập giá, chứng kiến con bị đóng đinh, chết trên thập giá và bị người ta tháo đinh để táng trong hang đá…Những đau khổ đó là những lời thưa xin vâng của Mẹ trong cuộc sống. Những đau khổ đó cũng là sự cộng tác của Mẹ với Chúa Giêsu trong việc cứu độ nhân loại. Cho nên, Đức Maria còn được gọi là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc.
Để nuôi dưỡng Đức Giêsu và bảo vệ Đức Maria, Thiên Chúa còn mời gọi sự cộng tác của Thánh Giuse. Cho nên, Thánh Giuse trở thành bạn thanh sạch của Đức Maria và Cha nuôi của Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai, Ngài mời gọi sự cộng tác với Ngài bằng việc tuyển chọn và huấn luyện một số người mà chúng ta gọi là Tông đồ. Ngoài các tông đồ còn có các môn đệ và một số phụ nữ khác…Trước khi về trời, Ngài đã thiết lập Giáo hội để Giáo hội tiếp tục thi hành sứ vụ Cứu thế của Ngài. Trong Giáo hội có đầy đủ mọi thành phần: Giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân. Tất cả được mời gọi cộng tác với nhau và cộng tác vơi Chúa để cứu độ thế giới mãi cho đến tận thế.
Với chúng ta ngày hôm nay thì sao? Tùy vào khả năng và địa vị, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài.
Thứ nhất, là người kitô hữu, mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Thiên Chúa trong việc chu toàn bổn phận khi lãnh nhận bí tích Rửa tội là “từ bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức tin”. Từ bỏ ma quỷ là từ bỏ cuộc sống trái với luật Chúa và luật Hội thánh. Tuyên xưng đức tin không chỉ trên môi miệng mà cần phải thể hiện bằng chính cuộc sống của mình. Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gcb 2,17).
Thứ hai, là thành viên của gia đình, chúng ta cộng tác với Thiên Chúa bằng cách chu toàn bổn phận làm chồng làm vợ, làm cha làm mẹ và làm con cái. Tất cả các thành viên trong gia đình đều được mời gọi nên thánh. Người làm chồng, làm cha có thể noi gương Thánh Giuse. Người làm vợ, làm mẹ có thể noi gương Đức Maria. Người làm con có thể noi gương Đức Giêsu. Nhìn vào lịch sử Giáo hội còn biết bao gia đình đáng cho chúng ta noi gương và học tập. Chúng ta có thể noi gương đời sống thánh thiện của gia đình ông Louis Martin và bà Zélie Guérin, thân mẫu của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Hai ông bà có chín người con. Bốn người chết trong thời thơ ấu, trong khi năm cô con gái còn lại lần lượt vào Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng. Cả Louis và Zélie được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI phong chân phước ngày 19 tháng 10 năm 2008, và được Đức Thánh Cha Phanxicô phong hiển thánh vào ngày 18 tháng 10 năm 2015.
Thứ ba, là người con của giáo xứ, mỗi người chúng ta được mời gọi dùng khả năng của mình để xây dựng, bảo vệ và phát triển giáo xứ: Có những người được mời gọi làm thành viên của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ; có những người được mời gọi làm thành viên của các ban đoàn; có những người được mời gọi làm thành viên trong các Hội đoàn hay một tổ chức khác; cũng có những người chỉ làm một giáo dân bình thường nhưng luôn hoàn thành các nhiệm vụ được giao…Tùy khả năng và hoàn cảnh, tất cả được mời gọi để xây dựng, bảo vệ và phát triển giáo xứ.
Ngoài ra, nếu những ai giữ những chức vụ khác trong đạo ngoài đời đều được mời gọi cộng tác với nhau và cộng tác với ơn Chúa để chu toàn nhiệm vụ của mình để làm sáng danh Chúa. Khi chúng ta thực hiện tốt bổn phận người kitô hữu và bổn phận của đấng bậc mình là chúng ta đang cộng tác với Chúa để cứu độ chúng ta và cứu độ thế giới.
Lạy Chúa, nhờ tiếng xin vâng của Mẹ, nhân loại được đón nhận Đấng Cứu Thế. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin cho mọi người chúng con luôn biết thưa xin vâng trong cuộc sống đức tin để Chúa cũng đến với chúng con và qua chúng con Chúa đến với mọi người. Amen.
68.Xin Mẹ dạy con hai tiếng XIN VÂNG--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Trong bài hát “Xin Vâng”, Linh mục nhạc sĩ Mi Trầm viết rằng: “Mẹ ơi! Ðời con dõi bước theo Mẹ, lòng con quyết noi gương Mẹ, xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Mẹ ơi! Ðường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Xin vâng. Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Hôm qua hôm nay và ngày mai. Xin vâng, Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Hôm nay tương lai và suốt đời”. Tại sao phải chúng ta phải xin Mẹ dạy cho mình hai tiếng xin vâng? Chúng ta cũng thường thưa xin vâng hằng ngày đối với cha, mẹ, thầy cô, với Linh mục và với Chúa với Đức Mẹ mà. Thế thì lời thưa xin vâng của Đức Mẹ thưa với Chúa hôm nay có khác với lời thưa xin vâng của chúng ta không, khác nhau chỗ nào?
Nếu hôm nay Chúa hiện ra và bảo mỗi người trong quí ông bà anh chị em đây rằng: “Này con, con làm kỹ sư nhé!”. Anh chị em liền thưa: “Xin vâng”. Và “Này con, con hãy làm linh mục!” Anh em liền thưa: “Xin vâng.” Rồi, “Này con, con làm bà Soeur nhé!”, Chị em không một chút do dự thưa: “Xin vâng”. Rồi, Chúa cũng bảo: “Này con, con hãy đi đến vùng đang có bệnh dịch hay có chiến tranh xảy ra để chữa trị bao vết thương cho Ta!” Anh chị em do dự trả lời: “Từ từ để con coi nghĩ lại đã!”. Như vậy, rõ ràng hai tiếng “xin vâng” ấy là vâng có điều kiện và nhất là có lợi thuộc về tôi nhiều hơn. Hai tiếng “xin vâng” của Mẹ hôm nay thì khác. Qua hai tiếng ấy, Mẹ đặt mối quan hệ của mình và Thiên Chúa trong mối quan hệ thấp cao: Mẹ chỉ là nữ tỳ, còn Thiên Chúa là Đấng Tối Cao. Vì vậy, Mẹ xin vâng không điều kiện, không mặc cả, không tìm tư lợi cho mình. Cho nên, Mẹ sẵn sàng trao toàn thân để Chúa có thể làm bất cứ điều gì nếu Chúa muốn dù có đau thương Mẹ vẫn một lòng trung tín với Chúa.
Lời thưa của Đức Mẹ: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Một lời xin vâng quyết liệt, đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đã gặp không ít khó khăn và đau khổ. Trước hết là trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Rồi trong lúc bụng mang dạ chửa, Đức Mẹ cùng với Thánh Giuse lặn lội gieo neo đi xuống Bêlem để đăng ký hộ khẩu và rồi sinh con trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông. Rồi, Mẹ phải lặn lội đem con trốn sang Ai-cập. Và rồi Mẹ theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa, nhìn Con yêu chết đau đớn. Mẹ đã đứng vững và trầm lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa trong đau khổ. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình. Từng giây từng phút và trong từng biến cố suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy ngang qua thập giá. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu bằng lời xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất. Như vậy, lời thưa xin vâng của Mẹ đồng thời cũng là hành động dâng hiến, phó thác, tin tưởng và trung tín với Chúa, cho Chúa, vì Chúa và tha nhân không một tính toán, không một vụ lợi và không một lời oán trách khi gặp khó khăn, đau khổ hay thử thách. Cho nên, Thánh Nữ Têrêsa Calcutta nói: “Nếu có gì thuộc về tôi, tôi sẽ có toàn quyền sử dụng nhưng tôi thuộc về Chúa, nên Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn”.
Lời “xin vâng” của Mẹ Maria vẫn được lặp lại trong đời sống Kitô hữu mỗi ngày. “Xin vâng” với ý thức là hiến toàn thân cho Chúa qua việc sám hối ăn năn tội và sống Lời Chúa, đồng thời hiệp thông với Ngài mọi biến cố trong cuộc sống ngang qua thập giá của Chúa Kitô. Vậy chúng ta học gương Mẹ, thưa xin vâng với Chúa qua việc sám hối, hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức trong Mùa Vọng này để được Chúa Giêsu giáng sinh nơi cung lòng chúng ta.
Vì vậy, hôm nay Mẹ dạy ta hai tiếng xin vâng cũng là dạy hãy can đảm thi hành lời mời gọi của Tin Mừng đó là: “xin vâng” thực thi ý Chúa khi gia đình hạnh thịnh vượng cũng như lúc gian nan khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ để cùng với Chúa ta xây dựng gia đình bình an hạnh phúc và tiếp tục công trình cứu độ của Thiên Chúa. Đặc biệt trong năm đời sống gia đình, nhất là các gia đình trẻ, anh chị em hãy thưa “xin vâng” trước những đòi hỏi của cuộc sống gia đình: hy sinh, tha thứ, từ bỏ những tính hư tật xấu để giữ tâm hồn trong sạch và sống công chính nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc vững bền, hoà thuận và yêu thương nhau như gia đình Đức Mẹ. Là tu sĩ, giáo sĩ hãy thưa “xin vâng” với Chúa trước những bổn phận và trách nhiệm phải cúi xuống để rửa chân cho chị anh em qua việc yêu thương chăm sóc những người tội lỗi, nghèo khổ, bệnh nhân hay người khuyết tật. Cho nên, trong Tông thư gửi tất cả Các người Tận hiến nhân dịp Năm Đời sống thánh hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Tôi yêu cầu tất cả mọi thành phần của Giáo hội: ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời. Cả một nhân loại đang chờ đợi: những người đã mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, những trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp ngõ cụt trước tương lai, những người già lão bệnh tật bị loại trừ, những người giàu của cải nhưng trống rỗng trong lòng, những người đang tìm ý nghĩa cuộc đời, khao khát đời tâm linh... Anh chị em đừng khép lại trong chính mình, đừng để mình bị ngột ngạt với những chuyện lẩm cẩn trong nhà, đừng bị giam hãm trong những vấn đề nội bộ. Những vấn đề này sẽ được giải quyết nếu anh chị em đi ra ngoài để giúp những người khác giải quyết những vấn đề của họ và loan báo Tin mừng. Anh chị em sẽ tìm thấy sự sống khi trao ban sự sống, tìm thấy hy vọng khi trao ban hy vọng, tìm thấy tình thương bằng cách yêu thương” (phần II, số 4).
Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết noi gương bắt chước Mẹ nói lời “xin vâng” trong suốt cuộc lữ hành trần thế này. Xin Mẹ cho con biết mở lòng và cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen.
69.Như Mẹ Maria, thưa Vâng trong cả cuộc đời--Antôn Nguyễn Thành Chương
Kính thưa cộng đoàn!
Trong ba Chúa nhật mùa vọng vừa qua chúng ta đã nghe Thánh Maccô và Gioan kêu gọi hãy tỉnh thức, sám hối, dọn tâm hồn và hãy vui lên để đón Chúa vào trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Hôm nay, Chúa Nhật cuối cùng trong bốn Chúa Nhật Giáo hội dành cho chúng ta để chuẩn bị đón mừng đại lễ kỷ niệm biến cố Chúa Giáng Sinh.
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, tả lại bối cảnh sứ thần Thiên Chúa truyền tin cho Đức Bà Maria. Đây là biến cố đặc biệt mà Đức Maria đã được đặt vào vị trí trung tâm, vị thế quyết định vận mệnh cho cả thế nhân: hoặc được giải thoát khỏi tội lỗi – hoặc vẫn sống đắm chìm trong đêm tối mà vẫn khắc khoải chờ mong một đấng cứu thế. Vì thế, biến cố truyền tin phải được xếp vào trong những biến cố quan trọng hàng đầu trong chương trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa. Bởi vì, nếu không có lời “Xin vâng” của Đức Maria thì Đấng Cứu Thế vẫn chưa đến, thế giới này đã không được trở nên trời mới đất mới và có thể loài người chúng ta chưa được hưởng ơn cứu độ.
Lời xin vâng ấy đã làm xoay chuyển cả cuộc đời còn lại của Đức Maria vì trước đó Mẹ đã nhận lời đính ước cùng Thánh Giuse, dòng dõi con vua Đa-vit. Vì thế, khi sứ thần Thiên Chúa Gabrien xuất hiện, chào kính cùng báo tin đã làm thiếu nữ Maria vô cùng sửng sốt và bối rối… nhưng Đức Maria đã không phụ lòng hết thảy nhân gian đang ngày ngày trông đợi, mong có một đấng đến giải thoát họ khỏi khổ cực lầm than.
Đức Maria đã đáp: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. (Lc 1,38).
Khi lời xin vâng trịnh trọng của Đức Maria cất lên không những làm cho cuộc đời Mẹ thay đổi mà cả thế giới cũng được chuyển mình. Vì thế, Đức Maria xứng đáng được làm Mẹ Con Thiên Chúa và trở nên một Eva mới của trời mới, đất mới. Khi chấp nhận để Chúa Con ngự vào lòng mình thì Mẹ đã sẵn sàng để Thiên Chúa Cha hướng dẫn cuộc đời Mẹ, dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu. Quả là một lời hứa bất chấp sự rủi ro, Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình, hành động đó của Mẹ cũng chỉ vì Tình Yêu cho nhân thế mà bất chấp mạng sống. Mẹ đã nói: Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng nhưng điều tốt đẹp sẽ xảy ra.
Do đó chúng ta có thể nói Đức Maria đã không chỉ thưa tiếng xin vâng một lần đơn giản trong ngày Sứ Thần Thiên Chúa truyền tin. Trái lại, Đức Maria đã tiếp tục thưa tiếng xin vâng mọi ngày trong suốt cuộc hành trình với Chúa Giêsu và suốt cả cuộc đời Mẹ sau này. Lời thưa: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” đã chứng tỏ Đức Maria đã thực sự là một người khiêm hạ, nhận mình nghèo hèn và đặt mình tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đấng sẽ nâng đỡ và giúp Mẹ sống trung tín suốt cả cuộc đời Mẹ.
Mẹ xin vâng để Chúa Con được làm người và thực thi sứ mệnh mà Chúa Cha giao phó.
Mẹ xin vâng trong suốt chặng đường của cuộc sống gia đình đầy khó khăn.
Cuối cùng Mẹ xin vâng khi chấp nhận để con mình ra đi thi hành sứ mệnh, kể cả khi thấy con đau đớn, kiệt sức và chết trên thập giá.
Thưa cộng đoàn, Lời Chúa trong ngày Chúa Nhật hôm nay mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy sống theo gương Đức Maria với lòng khiêm tốn và xin vâng qua những công việc tầm thường xảy ra hằng ngày trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Mẹ Maria đã vui mừng nói lời xin vâng khi Thiên Chúa ngỏ lời hỏi ý, vậy còn chúng ta những Kitô hữu đã và đang lữ hành trên đường tìm kiếm hạnh phúc đích thật, chúng ta có giám mạnh dạn nói “Này con xin vâng” khi Thiên Chúa cần để thực thi Thánh ý của Ngài?
Trong tâm tình những ngày cuối của mùa vọng chúng ta thử một lần nhìn thẳng vào chính con người thật của mình và cùng xin Mẹ Maria phù trợ để biết nói lên lời xin vâng như Mẹ trong mọi hoàn cảnh.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ Maria đã xin vâng trong suốt cả cuộc đời. Amen.
70.Dọn tâm hồn
Bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Samuel và bài Tin Mừng trích Phúc âm theo thánh Luca cho chúng ta hai hình ảnh về việc chuẩn bị một nơi cho Chúa ngự trị.
Hình ảnh thứ nhất, đó là hình ảnh vua Đavít. Thực vậy, sau những cuộc chinh chiến đầy vất vả, hòa bình đã trở lại. Nhà cửa được xây dựng bằng các thứ gỗ quí, ông mới nghĩ đến việc xây dựng một đền thờ để Hòm Giao Ước. Thế nhưng, Chúa đã phán cùng ông: Ngươi mà tính xây nhà cho Ta ở sao? Ngươi đi đâu, Ta cũng đã luôn ở với Ngươi.
Hình ảnh thứ hai, đó là hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria. Thực vậy, Đức Trinh Nữ Maria chỉ là một thiếu nữ nghèo hèn, không vàng không bạc để có thể xây dựng một đền thờ nguy nga cho Thiên Chúa, nên chỉ biết dọn lòng mình cho tốt lành trước mặt Thiên Chúa, vậy mà Thiên Chúa đã chọn Mẹ để xuống thế làm người. Chính Chúa ở trong cung lòng Mẹ, nên Mẹ đi đâu, thì cũng đem đến sự tốt lành và mừng vui tới đó.
Từ những sự việc kể trên, chúng ta nhận ra rằng: Chưa hẳn Chúa đã cần đến những đến những đền thờ, những thánh đường nguy nga tráng lệ cho bằng một cõi lòng đầy yêu thương chân thành. Do đó, để được gắn bó mật thiết với Chúa, không gì hay cho bằng chúng ta hãy dọn lòng chúng ta, mời Chúa ngự trị và chiếm lĩnh toàn bộ con người chúng ta, lúc đó chúng ta không phải chỉ kết hiệp với Chúa ở trong nhà thờ, mà ngay cả trong đời sống thường ngày, chúng ta vẫn có Chúa đi theo, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô: Tôi sông, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Và lúc đó, chúng ta sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.
Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta thường rất trang nghiêm sốt sắng ở trong nhà thờ, nhưng một khi đã ra về và cửa nhà thờ đóng lại, chúng ta bước xuống cuộc đời và để Chúa lại trong nhà tạm. Có những trường hợp vừa ra khỏi thánh đường, chúng ta đã vội vã cư xử thù hận với nhau, còn thua cả những anh em lương dân.
Nếu chúng thục sự có Chúa ở trong tâm hồn, thì cuộc đời chúng ta sẽ an vui, hạnh phúc và bản thân chúng ta mới dễ cư xử chân thành và yêu thương đối với hết mọi người.
71.Khiêm nhường
Người đời thường nói: Một người làm quan cả họ được nhờ. Nếu như chúng ta có một người anh, một người chị hay một người chú làm lớn, hẳn các em sẽ lấy làm hãnh diện lắm lắm. Còn nếu như bản thân chúng ta, một mai khôn lớn và bước xuống cuộc đời, chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp, thì người vui mừng nhất, theo tôi nghĩ, đó chính là người mẹ của chúng ta. Bởi vì người mẹ đã tốn biết bao nhiêu công sức để nuôi dưỡng và giáo dục chúng ta. Cũng chính người mẹ thường mơ ước cho chúng ta một tương lai huy hoàng nhất.
Trong trường hợp của Mẹ Maria thì khác. Với lời xác quyết của sứ thần Gabriel: Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao trọng và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời. Hẳn Mẹ cũng đã biết rằng người con mình sinh ra là ai? Là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Mẹ không bao giờ vênh vang tự đắc về tước vị của mình, trái lại Mẹ luôn khiêm tốn nhận ra rằng: Mình chỉ là một dụng cụ trong lòng bàn tay của Thiên Chúa, vì thế Mẹ đã thưa lên cùng sứ thần Gabriel: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần Gabriel truyền.
Chính thái độ khiêm nhường của Mẹ đã làm cho Chúa được hài lòng và Ngài đã cắt đặt Mẹ lên một tước vị cao trọng, tước vị làm Mẹ Thiên Chúa, bởi vì Ngài hạ bệ những kẻ quyền thế và nâng cao những người phận nhỏ.
Lịch sử đã để lại cho chúng ta nhiều mẫu gương đáng suy nghĩ về vấn đề này. Một Lucifer kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa, nên đã bị kết án hoả ngục đời đời. Một Adong Eva cũng chỉ vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên đã bị kết án đau khổ và chết chóc.
Trong khi đó những người khiêm nhường luôn luôn được Chúa yêu thương và chúc phúc. Chẳng hạn Đavit, một cậu bé chăn chiên, đã được Chúa nâng đỡ phù trì, đánh thắng Goliah. Và khi Đavit khiêm nhường thú nhận tội lỗi của mình, thì đã được Chúa tha thứ, để rồi Đấng Cứu Thế sẽ xuất thân từ dòng dõi Đavit. Và Mẹ Maria ngày hôm nay là một mẫu gương đáng cho chúng ta suy nghĩ. Đang khi Mẹ hạ mình xuống làm người tôi tớ, thì Thiên Chúa đã nâng Mẹ lên làm Mẹ của Đấng Cứu Thế như lời Ngài đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
Cũng như Ngài đã truyền dạy chúng ta: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường để nhờ đó chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, một hài nhi nhỏ bé và yết ớt nơi máng cỏ Bêlem.
72."Xin vâng" để Chúa đến
Gương "xin vâng" của Đức Maria được nêu lên làm mẫu trong phụng vụ tuần IV Vọng để kêu gọi mọi người hoàn tất việc chuẩn bị Mừng lễ Giáng Sinh. Tuỳ mức độ "xin vâng" mà đón được Chúa đến nhiều ít. Đức Maria đã xin vâng tuyệt vời, trọn vẹn, đã được Lời nhập thể ngự xuống trong lòng không những cách thiêng liêng mà xuống thai, bắt đầu đời làm người ở giửa loài nguời, làm Đấng Emmanuel, để có lễ Noel.
Vài điểm chú giải
- Mừng vui lên, hởi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà: được đấy ân sủng và có Chúa ở cùng là lý do thật sự để được mừng vui. Có Chúa thì đầy ân sủng nên được vui mừng. Đức Maria đựoc vậy là tại sao? Phần tiếp theo của đoạn Phúc Âm nầy là lời giải thích.
- Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa: Lý do thứ nhất nhưng phần tiếp theo mới nói rỏ.
- Bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu..: Giêsu nghĩa là Cứu Chúa. Ngưòi Do thái hiểu là Đấng Messia mà họ mong đợi. Ân sủng quá lớn "vô song" ngoài sự mong đợi của Đức Maria "làm bà sợ".
- Mà làm sao được vì tôi không muốn việc vợ chồng: Maria chỉ muốn hiến thân phụng sự Chúa cách đơn sơ đồng trinh trọn đời.
- Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao phủ bà...: Cách Thiên Chúa thực hiện điều sứ thần loan báo (theo tự nhiên thì không hiểu đươc). Với Thiên Chúa toàn năng thì không gì là không thể. Thiên sứ giải thích cho Maria.
- Vâng, tôi là nữ tỳ của Chúa xin Chúa cứ làm cho tôi theo lời sứ thần bảo: Đức Maria đã cho Thiên Chúa điều kiện quyết định cuối cùng như chúng ta đọc trong kinh Truyền tin "Chốc ấy Ngôi Hai đã xuống thế làm ngưòi và ở cùng chúng ta". Thiên Chúa "xin" một tiếng "xin vâng" yếu ớt của một thụ tạo nhỏ bé. Trí tự nhiên không hiểu nổi việc lạ lùng của Thiên Chúa cả khi sự việc đã xảy ra. Đức tin làm cho chúng ta xin vâng theo gương Đức Maria.
Thiên Chúa toàn năng, không gì là không làm được. Trí khôn loài người hạn hẹp, nhỏ bé làm sao hiểu nổi những việc lạ lùng của Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa, Lời quyền năng nhờ đó mà Thiên đã tạo dựng và làm mọi sự, bây giờ được thiên sứ bảo là xuống thai trong lòng Đức Maria để rồi đủ ngày giờ sẽ sinh ra làm một bé thơ, làm Thiên Chúa ở với con nguời và thực hiện ơn cúư độ đã hứa từ xưa. Lý luận không hiểu được, lớn lao quá.
Chỉ Đức Maria, người đầy ân phúc, đẹp lòng Chúa, có Chúa ở cùng và nhất là đã thưa xin vâng bằng cả cuộc đời như một nữ tỳ mới nhận được. Ân huệ lớn lao của Maria, công trình kỳ diệu của Thiên Chúa được thực hiện với những điều kiện ấy, những điều kiện rỏ ràng và rỏ rang là không có những điều kiện ấy thì Thiên Chúa dù quyền năng đến đâu cũng chịu bó tay.
Cũng vậy dù Chúa có muốn đến, dù chúng ta có muốn Chúa đến, có xin Chúa đến mà không có ít là một phần nào những điều kiện ấy thì Chúa cũng bó tay. Tuỳ theo mức độ mà chúng ta xin vâng, mà chúng ta có Chúa ở cùng, mà Chúa có thể đến và ở lại với chúng ta. Người ta cứ nói Chúa ban ơn nhưng không để cứ làm xấu, không hối cải, không vâng lời Chúa dạy, mà cứ xin Chúa đến "tội nghiệp Chúa", Chúa không làm được.
Chúa đến ở với thì có Chúa, Chúa là nguồn ân sủng. Có Chúa là có ân sủng. Đầy Chúa là đầy ân sủng. Nhưng phải đẹp lòng Chúa. Cứ nói Chúa thương con Chúa cứ đến, cứ ban ơn, cứ ở với con dù con chèm nhèm, hôi hám, "tội nghiệp Chúa", dù Chúa sinh ra trong chuồng gia súc, trong cỏ rơm hèn mạt nhưng Chúa vẩn là Thiên Chúa cao trọng vô cùng. Chúa hạ mình làm một trẻ thơ hèn mọn trong đóng cỏ rơm là để ai cũng đến và rước Chúa về ở với mình được mà không phải sợ.
Muốn Chúa đến và đem hồng ân đến cho thì phải chuẩn bị cho mình có ít thì cũng một phần nào đời sống "xin vâng" của Đức Maria. Đẹp lòng Chúa mới có Chúa, mới có ân sủng và sự vui mừng của Chúa.
73.Đức Trinh Nữ Maria
Nhân vật cuối cùng mà phụng vụ muốn trình bày với chúng ta trong mùa vọng đó là Đức Trinh Nữ Maria.
Thực vậy, điểm nổi bật của Mẹ Maria không phải là việc Mẹ được lôi kéo vào những sự kiện lạ lùng, nhưng chính là thái độ của Mẹ trước công trình cứu độ của Thiên Chúa đang diễn ra một cách khác thường. Không giống với một Giacaria ngờ vực, Mẹ Maria đã trả lời: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền. Một lời xin vâng có tính cách phó thác, dấn thân vào một công trình đầy những điều mới lạ, vượt trên mọi dự đoán. Một lời xin vâng đầy tin tưởng bởi vì Mẹ Maria đã đón nhận Con Thiên Chúa làm người trong lòng tin trước khi đón nhận Ngài nơi thân xác của mình.
Sau này khi người ta báo cho Chúa Giêsu biết có mẹ Ngài đang chờ Ngài ở ngoài, thì Ngài đã khẳng định: Những người nghe và thực hiện lời Ngài chính là mẹ và anh em của Ngài. Không phải Chúa Giêsu muốn phủ nhận địa vị người mẹ của Đức Maria mà trái lại, Ngài muốn khẳng định rằng Đức Maria đã là một người mẹ trọn vẹn của Ngài. Mối quan hệ giữa Đức Mẹ và Ngài không chỉ là quan hệ máu mủ ruột thịt mà còn là quan hệ tinh thần.
Với chúng ta cũng thế. Dọn đường Chúa, tiếp đón Chúa có nghĩa là lắng nghe và thực hiện lời của Chúa. Đó là con đường chắc chắn nhất để đi vào mối quan hệ mật thiết với Ngài. Lời của Ngài thực sự đã đưa chúng ta đi vào một con đường mới, một cuộc sống mới. Lời của Ngài đã lôi kéo chúng ta ra khỏi đền thờ, ra khỏi thành thánh để đến với những con người đang phải vật lộn giữa cuộc sống. Lời của Ngài dẫn chúng ta đến với những người nghèo khổ lao động, nhưng kẻ đau ốm, bệnh tật. Không phải chỉ để nói lên sự an ủi mà còn là để đem lại cơm áo và sự chạy chữa. Việc tiếp nhận Chúa không phải chỉ diễn ra trong mùa vọng và mùa giáng sinh, mà còn phải diễn ra trong toàn bộ cuộc sống chúng ta. Và như thế, chuẩn bị tiếp đón Chúa chính là học hỏi lời Chúa và thực thi lời Ngài trong cuộc sống của chúng ta vậy.
74.Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
Thiên Chúa đầy yêu thương. Ngài đã sáng tạo con người cách kỳ diệu và Ngài cứu chuộc còn diệu kỳ hơn nữa. Để thực hiện kế hoạch cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn một người phụ nữ thánh thiện, tốt lành, đẹp nết, đẹp lòng mến Chúa không ai sánh bằng.
Thiên Chúa quyền năng và đầy lòng yêu thương, Ngài đã có kế hoạch thực hiện công trình cứu chuộc một cách kỳ diệu. Trước khi tạo dựng loài người, Thiên Chúa đã xây dựng và điểm tô một nơi được gọi là vườn địa đàng nhưng hai ông bà nguyên tổ đã đạp đổ chương trình tốt đẹp này và hạnh phúc loài người cũng tan vỡ theo. Chính trong lúc ấy, Thiên Chúa dự định một công trình tạo dựng thứ hai đó là cứu chuộc loài người. Để thực hiện chương trình mới này, Thiên Chúa cũng muốn tô điểm cho vườn địa đàng mới này. Trong vườn địa đàng này đó là cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, nơi con Thiên Chúa chọn làm con người. Vườn địa đàng này là công trình của Thiên Chúa nhập Thể, nơi này diễn ra một hôn ước quan trọng, hôn ước giữa Thiên Chúa với nhân loại. Và từ đó, tình yêu đã bắt lại nhịp cầu giữa Trời và Đất, khai mở một kỷ nguyên mới.
Từ vườn địa đàng này, xuất hiện một sự ưng thuận mới, một sự vâng phục hoàn toàn. Đức Maria đã trở thành một Eva mới. Nếu Eva xưa đã chối bỏ kế hoạch tình yêu của Chúa mà đã làm theo kế hoạch đen tối của ma quỷ và đem tội lỗi cùng cái chết vào trần gian cho con cái loài người thì nơi Đức Maria, một Eva mới đã coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ nên đã trở thành người diễm phúc xứng đáng làm Mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người và làm mẹ của cả loài người.
Giống như Đức Maria, mỗi người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa. Lời xin vâng của Đức Maria cũng là mẫu gương của cúng ta, chúng ta hãy tin tưởng, cậy trông và phó thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, sống đức tin giữa cuộc đời. Sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, "vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được".
Thiên Chúa dựng nên chúng ta một cách tự do nhưng để cứu chuộc chúng ta thì Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do, tự do đáp trả, thậm chí Ngài hoàn toàn lệ thuộc chúng ta. Như thế, con người được dựng nên có sự cao quý chính là được tự do đáp trả lời mời gọi đầy yêu thương và nhân lành của Thiên Chúa. Nếu như sứ thần đến báo tin và mời gọi Đức Maria cộng tác với Thiên Chúa thì trong cuộc sống hằng ngày, trước bao nhiêu biến cố Thiên Chúa cũng đang mời gọi chúng ta đáp trả, thuận phục, Yes, thưa "Xin vâng" đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã tạo điều kiện cho Thiên Chúa làm người trong thân phận người Con của mẹ để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng được mời gọi đáp trả lời mời gọi sống chứng nhân cho Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta hãy để Ngài có thể tháp nhập và thể hiện Mầu nhiệm Tình yêu của Ngài trong thân phận làm người của chúng ta.
Thiên Chúa đòi hỏi một đáp trả tự do. Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do. Ngài không ép buộc ai làm điều gì. Như thế, sự đáp trả của chúng ta sẽ càng có giá trị hơn. Muốn đáp trả chúng ta cần phải có một tình yêu thuộc về Thiên Chúa, một tình yêu giống Thiên Chúa. Công trình cứu chuộc tự nó là công trình yêu thương tuyệt vời. Tiếng xin vâng của Đức Maria xuất phát từ trái tim đầy tình yêu và tín thác nơi Mẹ. Đó cũng là cách đáp trả mà mỗi người chúng ta cũng phải thưa lại với Thiên Chúa như Đức Maria xuyên suốt trong đời sống làm người của mình.
Từ lời xin vâng của Đức Maria đã hoàn toàn tận hiến mình để thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Chúa cũng đang chờ đợi lời xin vâng, đời xin vâng của chúng ta để Chúa có thể làm nên những điều kỳ diệu cho chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho họ đạo chúng ta và còn cho cả thế giới nữa. Lời Xin vâng trọn vẹn, tuyệt đối, dứt khooát, vượt lên trên những lý luận khôn ngoan của loài người. Bắt chước Đức Maria, chúng ta đừng sợ hãi và hoàn toàn dấn thân vào cuộc "mạo hiểm tình yêu cao cả nhất". Noi gương Đức Maria, chúng ta cũng có trách nhiệm đem Chúa đến với tha nhân, mở đường cho Thiên Chúa đi vào xã hội loài người.
Hôm nay Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng, chúng ta đang hướng về Mẹ Maria. Mẹ là tấm gương cho chúng ta về việc phải lắng nghe lời Chúa và chờ mong Chúa đến. Mỗi khi tâm trí Mẹ hồi tưởng lại lời chào của thiên sứ năm nào, chắc chắn là Mẹ lại dần dần hiểu thêm ý nghĩa sứ điệp và mầu nhiệm Giáng Sinh. Khi lắng nghe Lời Chúa, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy đây là một khía cạnh quan trọng nhất của đời sống Kitô hữu. Làm một Kitô hữu chính là trở nên một người ngày đêm hướng lòng mình lắng nghe tiếng Chúa và thực thi ý Ngài. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ giúp đỡ chúng ta có được cung cách thái độ lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa, ngõ hầu chúng ta luôn sẵn sàng và sẵn lòng mang Đức Kitô đến cho đời như Mẹ đã làm ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con mở rộng lòng đón nhận thánh ý Thiên Chúa và can đảm sống vâng phục, yêu thương như Thiên Chúa mời gọi. Amen.
75.Khiêm nhường
Cách đây ít lâu, khi có dịp về thăm họ đạo Phú Hiệp khi đến Cái Mơn tôi có ghé vào uống nước tại một quán cà phê gần nhà thờ. Khi mới vừa bước vào quán thì có một em bế đến hỏi "Thầy uống chi a?" Tôi thật lá bất ngờ. Vì ở một nơi rất xa, tôi vẫn chưa giới thiệu mình là thầy mà em bé đó đã biết. Tôi cứ suy tư mãi và có phần hãnh diện về mình và suy nghĩ trong đầu, mình thật là oai đến đây mà họ vẫn biết mình là thấy. Nhưng sau đó đến lúc trả tiền tôi liền mạnh dạn hỏi "Sao con biết thầy là thầy mà kêu thầy vậy?". Thì được em bé đó trả lời: "Dạ! Cô con dặn ai bỏ áo vào quần mà ghé quán này con đều phải xưng bằng thầy hết" Cuối cùng tôi mới hiểu vì quán này gần trường học nên các thầy ghé nhiều, em bé chỉ xưng hô như đã mặc định mà thôi. Thật là quê! Vì tôi cứ nghĩ là họ nhận ra mình làm cho mình huênh hoang tự đắc trong lòng. Khi đó tôi liền nhớ đến lời Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: "Kiêu ngạo sẽ biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Còn khiêm nhường sẽ làm cho con người trở nên thiên thần". Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường như sau: "Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường".
Mẹ Maria đã sống khiêm nhường để luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, bà Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu những hậu quả đau đớn của tội nguyên tổ. Trong khi đó Mẹ Maria, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên: Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ, nào là để xem lại, hỏi lại, hoặc là để cầu nguyện thêm cái đã...Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã xứng đáng được đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, Mẹ Chúa Giêsu giáng sinh.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói "xin vâng" trong tin yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù đen tối. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Lạy Chúa, xin cho con biết mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca "xin vâng" để xin Mẹ trợ giúp: "Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời". Để con cũng được giống như Mẹ, vui đón nhận tình yêu Giáng sinh trong an bình và hạnh phúc. Amen.
76.Thiên Chúa, Đấng trung tín
Anh chị em thân mến,
Trên đời này, chữ tín rất quan trọng; có chữ tín người ta mới dễ dàng thành công trong công ăn việc làm. Chúng ta thử nhìn ra giữa chợ, phố xá: vì chữ tín, người ta dám cho nhau vay, cho mượn hàng trăm triệu đồng không cần thế chấp, giấy tờ. Điều đó đủ minh chứng chữ tín vô cùng quan trọng...
Trong kho tàng văn học Pháp, có một câu chuyện ngụ ngôn: Một em nhỏ tính tình không tốt, em lại thích gạt gẫm người khác... Một hôm, em từ bìa làng chạy vào, vừa chạy vừa la thất thanh: chó sói, chó sói...cứu tôi, cứu tôi! Người trong làng nghe la chạy ra, vừa chạy tay cầm theo gậy hèo để tiếp cứu; nhưng khi đến nơi mới biết bị em bé gạt. Họ tiu nghỉu bỏ ra về. Không lâu sau đó, một hôm em bé trở về làng, cũng la thất thanh và kêu cứu như thế. Lần này dân làng vì nhớ chuyện củ, nghĩ rằng lại bị em bé ngổ nghịch gạt nữa, nên không ra tiếp. Em bé bị chó sói cắn thật, đến mất mạng... Hôm nay, Hội thánh lại nói đến việc Thiên Chúa là Đấng trung tín hết lòng, đã hứa và đã thực hiện... Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, đã hứa từ ngàn xưa trong Cựu Ước: Qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta biết Adam và Evà đã phạm tội, do đó đã đem lại hậu quả tai hại là hết mọi người đều phải chết. Dù vậy lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa không đành bỏ mặc con người phải chết đời đời, Người đã hứa sẽ tìm cách cứu vớt lại lỗi lầm đó, qua các Tổ phụ, các Tiên tri:
Trong vườn địa đàng, sau khi con rắn cám dổ Ông bà phạm tội, Chúa đã chúc dữ cho con rắn và phán: "Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người Nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người Nữ. Dòng giống đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân Người..." (Stk 3, 15).
Thiên Chúa sai Isaia nói cùng vua Achaz rằng: "chính Chúa ban cho các ngươi một dấu lạ. Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, và đặt tên là Emmanuel."(Is 7, 14).
Ở chỗ khác, trong sách Mikêa: "Chúa phán thế này: phần ngươi, hởi Bêlem Epphrata, ngươi nhỏ nhất trong phần đất Giuda, nhưng từ nơi ngươi, sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel, Người có từ đời đời..."(Mic 5, 1)
Dân tộc Israel, (Do thái) được coi là dân riêng Thiên Chúa tuyển chọn, để Người thực hiện Lời Hứa này; chính họ hiểu rõ Lời Hứa đó hơn ai hết, và họ luôn trông ngóng ngày giờ Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa, một thời gian rất dài, từ Adam Evà cho đến khi Đấng Cứu thế giáng sinh. Kinh thánh kể là lối 2000 năm, nhưng thực tế lịch sử cho ta biết còn dài hơn nhiều....
b/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, khi đến thời đến lúc, Người sẽ thực hiện lời Người đã hứa:
Bài TM hôm nay tường thuật lại biến cố giáng sinh; Lời Thiên Chúa hứa qua chính Con Một của Ngài: "Nầy đây, một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai. Bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu David, Tổ phụ Người, Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Nguời sẽ vô tận." (Lc 1, 31-32)
Chính thánh Phaolô quả quyết: "khi xưa vì một người duy nhất đã sa ngã (Adam củ trong vườn địa đàng) mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, nay nhờ một người duy nhất (Adam mới: Đức Giêsu Kitô) đã thực hiện lẻ công chính, mà mọi người được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống (Roma 5, 18).
Câu chuyện: Có một giai thoại hài kể lại: người ta nói rằng: người Mỹ là người nói trước làm sau, nghĩa là nói là làm, rất uy tín. Người Nhật còn dữ dội hơn; họ làm trước nói sau, nên không bao giờ mất uy tín. Còn người VN chúng ta, thì sao biết không? Thưa: nói một đàng làm một nẻo. Xin lỗi anh chị em, nói câu này không biết có bị chưởi bới và bị kết án như Đức Tổng Kiệt không?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta, điều này ta thật dễ hiểu. Nhưng nói Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người luôn giữ lờiNgười đã hứa, nhất là với con người chúng ta, điều này xem ra không dễ hiểu tí nào. Vì do tội nguyên tổ, con người chúng ta hay thay lòng đổi dạ, ít khi trung tín với nhau. Vậy mà qua mầu nhiệm giáng sinh, Thiên Chúa tỏ ra vô cùng trung tín. Trong mùa giáng sinh này, xin cho mọi người kitô hữu hiểu được điều đó, để sẳn sàng đáp lại tình yêu vô bờ của Thiên Chúa.
77.Mẹ Maria với chương trình của Thiên Chúa
Một vị vua biết yêu thương dân thì muốn biết đích xác về cuộc sống của thần dân mình. Những vị vua đó thỉnh thoảng vi hành để nắm rõ thực trạng của dân chúng. Còn Thiên Chúa đối chúng ta thì sao? Chúa không chỉ đi thăm dân mà còn sống thân phận của người dân, trở nên như phàm nhân ngọai trừ tội lỗi để cứu dân mình khỏi khổ đau và quyền lực của bóng tối sự chết. Để thực hiện điều đó, Chúa đã chọn dân tộc Israel và sai các tiên tri dạy dỗ, hướng dẫn họ sống đạo đức để có thể đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Ngài đã sai Tổng lãnh Thiên thần Raphae đến một làng nhỏ miền Galilê và truyền tin cho Trinh nữ Maria biết ý định của Ngài.
Đức Maria đã vui mừng về ơn cứu độ của Chúa và đã nhận lời cưu mang Đấng Cứu Thế. Dù Mẹ có thể gặp khó khăn khi mang thai nhưng mẹ hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu. Ngay lúc Thánh Giuse định bỏ đi thì Thiên Thần Chúa can thiệp: báo mộng cho Giuse về ý định của Chúa: hãy rước Maria về nhà vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse hiểu ý Chúa và đón Đức Maria về nhà mình làm bạn mình và nhận Đức Giêsu làm con về mặt pháp lý.
Đâu ai ngờ được đường lối Chúa: vì yêu thương nhân loại đã không ngại xuống trần làm trẻ thơ và chịu những đắng cay của cuộc sống trần gian như chúng ta. Còn hơn thế nữa, Ngài đã chịu những khổ đau như những người đau khổ nhất: sinh nơi chuồng bò lừa, nằm trên máng cỏ! Đức Maria tin tưởng nơi chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Khi nhận vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã không đòi biết trước chương trình của Chúa nhưng chỉ hỏi để biết rõ ý Chúa muốn mình làm. Mẹ sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ: này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. Mẹ vâng phục rất là mau mắn. Việc thụ thai bởi quyền năng Chúa mà không qua kết hợp phái tính chưa từng xảy ra trên trần gian: một người nữ có con không do sự kết hợp phái tính, nhưng mẹ không thắc mắc thêm cũng không hỏi lại xem mình có nghe lầm không! Khác với Giacaria: chuyện có con trong lúc tuổi già đã từng xảy ra cho Abraham. Tuy cũng là một việc thụ thai kỳ lạ nhưng có thể dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, Mẹ đã chấp nhận thánh ý với lòng đơn sơ phó thác nơi quyền năng trong niềm tin vào Chúa. Mẹ tin rằng: đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được(St 18,14)
Noi gương Đức Maria, chúng ta vâng theo kế hoạch kỳ diệu của Chúa đối với mọi người chúng ta. Chúa không để chúng ta phải thiệt thòi nhưng luôn muốn ban ơn thật nhiều cho chúng ta. Chúng ta có dám nhận và và phát triển ơn Chúa ban đó để cuộc đời chúng ta nên tươi sáng và giống Chúa ngày một hơn không. Chúng ta tự hỏi xem Chúa muốn chúng ta ở địa vị nào trong xã hội, với ơn gọi và những bổn phận nào là xứng hợp với chính mình. Nếu Chúa muốn sai tôi làm công việc bác ái, giúp đỡ anh em tôi có vui lòng làm mà không đòi điều kiện không? Nếu Chúa muốn tôi sống nghèo giống Chúa Giêsu, tôi sẽ có thái độ nào. Nếu Chúa đặt chúng ta ở địa vị cao hơn, chúng ta có biết phục vụ Chúa và mọi người đúng mức không?
Lạy Mẹ Maria, chúng con quyết noi gương Mẹ luôn tin tưởng phó thác vào Chúa, cho dù con gặp gian truân xin Mẹ giúp con luôn giữ lòng trung tín mến yêu, cậy trông nơi quyền năng và sự xếp đặt của Chúa.
78.Quyền năng Chúa
Trong cuốn Linh Thao, thánh Ignatio đã gợi ý cho chúng ta suy gẫm về đoạn Tin mừng hôm nay gồm ba bước.
Bước thứ nhất là hãy tưởng tượng xem thế giới thời trước Chúa Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan, hờ hững với Thiên Chúa. Sự xấu thì tràn lan như một ung bướu khổng lồ. Con người thì rơi vào một tình trạng tuyệt vọng.
Bước thứ hai là hãy tưởng tượng ra cách sứ thần Gabriel đến báo tin cho Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng cứu thế. Từ trời cao nhìn xuống, chúng ta thấy trái đất này chỉ là một đốm sáng nhỏ bé giữa muôn ngàn vì sao. Xuống gần hơn, chúng ta thấy một điểm trên địa cầu được gọi là Đất thánh. Và xuống gần hơn nữa, chúng ta thấy một ngôi làng mang tên là Nagiarét. Và sau cùng, chúng ta gặp được Mẹ Maria trong căn nhà ấy. Mẹ đang quì cầu nguyện.
Bước thứ ba là hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Mẹ Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới câu:
- Quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao trùm lên Mẹ.
Ba chữ “bao trùm lên” ít được Kinh thánh xử dụng, ngoại trừ trong sách Xuất Hành:
- “Bấy giờ có một đám mây bao trùm lên lều tạm, nơi dân Do Thái đặt hòm bia giao ước”.
Bao lâu đám mây ấy còn bao trùm lên lều tạm, thì lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng ba chữ bao trùm lên không phải là không có dụng ý, vì nó gồm tóm một ý nghĩa sâu xa. Thánh Luca so sánh thân thể Đức Maria với lều tạm, nơi đặt hòm bia giao ước của Thiên Chúa, cũng như so sánh cung lòng Đức Maria, nơi Chúa Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước, nơi đặt hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa.
Như thế, nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì chính Thiên Chúa thực sự hiện diện nơi Mẹ. Thế nhưng, sự hiện diện ấy lại vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài nơi lều tạm, bởi vì đó là sự hiện diện của một Thiên Chúa bằng xương bằng thịt.
Thực vậy, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta bằng nhiều cách, chẳng hạn như qua các tạo vật, bởi vì Ngài đặt để một cái gì đó thuộc bản thân Ngài nơi tạo vật, giống như một nhạc sĩ đã đặt để một cái gì đó thuộc bản thân ông trong dòng nhạc mà ông đã sáng tác.
Tiếp đến Ngài có thể hiện diện qua lời Ngài trong Kinh thánh giống như người nhạc sĩ hiện diện trong tiếng nhạc của ông.
Sau cùng, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta trong Đức Kitô, như người nhạc sĩ hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta trong một buổi trình diễn.
Và như thế, qua Đức Maria, chúng ta có quyền thắp lên một ánh lửa hy vọng, cho dù thế giới có hỗn độn, gia đình có xáo trộn, nhưng chúng ta vẫn vui mừng và hy vọng, bởi vì quyền năng của Thiên Chúa đã xâm nhập thế giới này qua con người Đức Kitô.
Còn chúng ta thì sao? Bước vào Chúa nhật thứ tư mùa vọng, chúng ta hãy tự hỏi xem, chúng ta đã làm được những gì để Ngài thực sự ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Ngài đã ngự xuống nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria?
79.Xin vâng
Gần kề với lễ Giáng sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ đã thưa lên lời xin vâng và đã trung thành với lời xin vâng ấy.
Chắc hẳn ngay từ những ngày tháng còn thơ ấu, bà thánh Anna và ông thánh Gioan Kim đã dạy cho Mẹ biết Thiên Chúa là một người cha nhân từ luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, cho nên hãy tin tưởng phó thác nơi Ngài, đồng thời hãy khao khát trông đợi Đấng Cứu Thế. Mẹ sẵn sàng để Chúa hướng dẫn, cho dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu.
Thực vậy, bấy giờ Mẹ đã đính hôn cùng thánh Giuse và có lẽ hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Nhưng rồi Thiên Chúa đã chọn Mẹ. Sứ thần Gabriel đã tới thăm viếng và tỏ lộ cho Mẹ biết vai trò Thiên Chúa đã dành cho Mẹ, đó là trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế. Sau những giây phút ngạc nhiên và lo lắng, Mẹ đã thưa lên:
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Một lời xin vâng quyết liệt đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đã đau khổ rất nhiều trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Thế nhưng vì đã tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, nên Mẹ đã giữ sự im lặng, bởi vì chính Thiên Chúa sẽ làm sáng tỏ vấn đề và sẽ giúp cho thánh Giuse được hiểu.
Trong lúc Mẹ và thánh Giuse chuẩn bị ngày Chúa chào đời tại Nagiarét, thì Thiên Chúa lại nhìn sự việc một cách khác. Với lệnh truyền của hoàng đế, Mẹ phải xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu và rồi Chúa Giêsu đã phải sinh ra trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông.
Mỗi biến cố là một dấu chỉ nói lên thánh ý của Thiên Chúa. Trong từng giây từng phút và trong từng sự kiện suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy. Và đỉnh cao của lời xin vâng phải là đau khổ thập giá.
Đúng thế, Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu. Cũng như các Tông đồ, hẳn Mẹ đã được Chúa báo trước về cuộc tử nạn. Mẹ đã lắng nghe và ghi nhớ trong lòng.
Rồi khi cuộc tử nạn bắt đầu. Chúa hấp hối trong vườn cây dầu và Ngài đã phải kêu lên:
- Lạy Cha xin cất chén đắng này xa con, nhưng không theo ý con, một vâng ý Cha mà thôi.
Chúa cảm thấy như gánh tội lỗi đè nặng trên mình. Còn Mẹ mặc dù lúc ấy không có mặt trong vườn cây dầu, nhưng chắc chắn Mẹ cũng đã chia sẻ gánh nặng và những khổ đau của Chúa.
Rồi đêm hôm đó Chúa đã phải chịu biết bao nhiêu cực hình, nào là bị đánh đòn, bị đội mạo gai. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa. Thân xác Chúa rách nát thì thân xác Mẹ cũng đớn đau Chúa đã kêu lên:
- Một vâng theo ý Cha mà thôi.
Mẹ cũng thưa:
- Này tôi là tôi tá Chúa.
Mẹ luôn xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất.
Và sau cùng là cây thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đã theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa. Và rồi Mẹ đã đứng lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã có thái độ nào trong những giờ phút đau khổ và cay đắng, chúng ta đã phản ứng ra làm sao trước thánh ý của Thiên Chúa.
80.Xin vâng
Có một người kia đã nói: “Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen”.
Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ ấy. Đó chính là câu chuyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gabrien; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gabrien và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.
Tiếng “Xin vâng” vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó. Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta: Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức mẹ.
Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẫu đối thoại: từ một mẫu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa con rắn và bà Eva trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẫu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa sứ thần Gabrien và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với bà Eva và cách thức sứ thần tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những gì? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. Còn sứ thần Gabrien đề nghị: một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà Eva ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa “Xin vâng” và Ngôi Lời đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học: mầu nhiệm nhập thể, con Đức mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu “Xin vâng thánh ý Chúa”. Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo ý Cha”. Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là “Vâng theo thánh ý Chúa”, thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm tình như Mẹ.
81.Xin vâng
Hôm nay, nhiều người tìm kiếm hạnh phúc và sự sung túc thông qua cách “làm theo nhu cầu riêng của mình”. Họ tin tưởng rằng hạnh phúc hệ tại ở sự không phải cam kết gì, không phải trả lời với ai, không người nào có nhu cầu hoặc vấn đề gì ràng buộc với mình.
Tất nhiên, thật tốt đẹp và cần thiết trong việc tìm kiếm và thực hiện điều gì sâu xa mà chúng ta cảm thấy rằng mình được mời gọi thực hiện. Tuy nhiên, bất chấp bản chất con người là gì, chúng ta phải luôn bảo vệ bản thân mình. Trong phương pháp “làm theo nhu cầu riêng của mình”, có thể có nhiều sự ích kỷ. Điều này thường có nghĩa là đi con đường dễ dãi nhất, trong niềm tin tưởng rằng ở đó có tự do và hạnh phúc. Nhưng chắc hẳn phương pháp này càng dẫn đến tình trạng nô lệ và mất hạnh phúc.
Ở đây có một sự thật quan trọng: chắc chắn sẽ tìm thấy tự do, hạnh phúc, và sự sung túc trong việc chấp nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, để được như vậy, một sự dứt khoát chấp nhận trách nhiệm mà thôi thì vẫn chưa đủ, mà còn phải là biết chấp nhận trách nhiệm trong lòng yêu mến nữa. Khi chúng ta hết lòng tận tụy gánh vác trách nhiệm càng khó khăn bao nhiêu, thì chúng ta càng được vui mừng bấy nhiêu.
Về việc này, Đức Maria đã nêu gương mẫu cho chúng ta. Mẹ đã không nói với sứ thần “Xin lỗi, nhưng tôi có kế hoạch của riêng tôi. Tôi muốn làm theo nhu cầu riêng của tôi”. Nhưng Mẹ đã nói “Không phải ý riêng của tôi, nhưng ý muốn của Thiên Chúa mới là quan trọng. Xin cứ làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền”.
Đức Maria đã làm cho mình trở thành một món quà đối với Thiên Chúa, và chấp nhận trách nhiệm mà Người giao phó cho Mẹ. Mặc dù Mẹ không hiểu được tất cả những điều hàm ý trong công việc của Thiên Chúa, Mẹ vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Mẹ tất cả ơn trợ giúp mà Mẹ cần đến.
Thật vậy, Mẹ nói “Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng những điều tốt đẹp sẽ xảy ra”. Mẹ quá tin tưởng một cách sâu xa vào Thiên Chúa, đến nỗi Mẹ đã mở tất cả mọi khả năng của mình ra. Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai, và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình.
Những người nào biết chấp nhận trách nhiệm giống như cách thế mà Đức Maria đã thực hiện, thì có thể không tìm thấy hạnh phúc và sự sung túc dưới con mắt của thế gian, nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ tìm thấy và nhận biết điều đó một cách sâu xa.
Ân sủng lớn lao nhất trong cuộc đời là khi chúng ta mong muốn làm điều mà chúng ta phải làm.
82.Sự tin tưởng
Bối cảnh: Một tỉnh ở phía nam nước Mỹ. Một người cha sống với đứa con trai và con gái nhỏ. Vợ của anh đã qua đời. Anh nghiêm khắc đối với các con, nhưng cư xử rất tốt và yêu thương chúng. Anh là một luật sư liêm khiết và xuất sắc. Tuy nhiên, anh đã tự làm cho mình trở nên rất xa cách đối với mọi người trong tỉnh, khi chọn một người đàn ông da đen đã từng bị tố cáo là một tên ám sát – tỉnh này đầy rẫy sự phân biệt đối xử đối với những người da đen.
Tại cuối con đường, có một người phụ nữ lớn tuổi sống ở đó, bà hay ngồi ở trước vườn của mình suốt các buổi chiều. Bà cứ gọi hai đứa con của vị luật sư, khi chúng đi ngang qua đó trên đường đi học và trở về nhà. Bọn trẻ cảm thấy rất bực mình, khi bà réo tên của cha chúng.
Vào một buổi tối, cậu con trai quyết định nhảy vào khu vườn của bà, và phá vài cây hoa, rồi chạy về nhà. Sau đó, người cha nói “Con không nên làm như vậy”.
Cậu con trai phản đối “Nhưng con làm điều đó là vì bố mà”.
Người cha bảo “Bà ấy là một người phụ nữ rất đau yếu. Bây giờ, con hãy đến xin lỗi bà ấy đi”.
Cậu bé miễn cưỡng ra đi. Người phụ nữ yêu cầu cậu bé mỗi tối đến đọc sách cho bà trong vòng một giờ. Cậu bé e sợ khi nghĩ đến công việc đó, nhưng cha cậu lại bảo rằng cậu nên đồng ý giúp bà cụ già đó trong công việc này. Thế là cứ mỗi tối, cùng với em gái mình, cậu bé đến đọc sách cho bà cụ. Khoảng một giờ sau, bà cụ bị run lên bần bật. Hai đứa trẻ ra về và một người y tá đến săn sóc bà cụ. Vài tuần sau, những cơn run đó trở nên bớt xảy ra thường xuyên hơn.
Thế rồi vào một buổi chiều, người cha nói với hai đứa trẻ là bà cụ vừa mới qua đời. Chúng nghĩ thầm “Cám ơn Chúa”, nhưng không nói ra điều đó. Sau đó, khi người cha nói với chúng rằng trước đây vài tuần, một bác sĩ ghi toa cho bà cụ uống mấy viên thuốc giảm đau, và bà cụ đã bị nghiện những thứ thuốc này. Nhưng khi bác sĩ nói rằng bà cụ không còn sống được lâu nữa, thì bà cụ quyết định là trước khi chết, bà sẽ thử bỏ thói quen uống thuốc. Những cơn run mà chúng nhìn thấy là triệu chứng do cai nghiện.
Bọn trẻ hỏi một cách sốt sắng “Thế bà cụ cai nghiện có thành công không?”.
Người cha trả lời “Có. Ngay trước khi qua đời, bà cụ nói với bố rằng bà cụ sẽ không bao giờ có thể cai nghiện thành công được, nếu chúng con không đến đọc sách cho bà. Bà cụ muốn gửi lời cảm ơn chúng con”.
Người cha bảo “Điều đó không quan trọng. Điểm chính yếu là chúng con đã làm theo lời dạy bảo của Bố. Chúng con là những đứa trẻ ngoan. Bố tự hào về chúng con”.
Hai đứa trẻ chưa nhận ra được đầy đủ ý nghĩa của công việc mà người cha yêu cầu chúng làm. Tuy nhiên, chúng vẫn làm điều đó trong tinh thần yêu mến và vâng phục.
Trong cuộc sống, chúng ta thường không nhìn thấy toàn bộ ý nghĩa của những việc mình làm. Đôi khi, ý nghĩa này còn bị che khuất đối với chúng ta, giống như hai đứa trẻ trên. Trong trường hợp đó, công việc trở nên rất khó thực hiện, đặc biệt đối với công việc nào không thoải mái, hoặc đối với những người có thái độ vô ơn trước sự giúp đỡ của chúng ta.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được thấy cách thức Đức Maria bằng lòng trở thành mẹ của Đấng Cứu độ. Nhưng khi Mẹ thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, Mẹ chưa nhận ra được đầy đủ những điều liên quan đến sự đồng ý của mình. Mẹ cho biết rằng đến ngày sinh của Đức Giêsu, mọi cánh cửa đều khép lại trước mặt Mẹ; rồi một thời gian ngắn sau ngày sinh của Đức Giêsu, Mẹ sẽ trở thành một người đi tị nạn tại một quốc gia khác; và 33 năm sau, Mẹ sẽ chứng kiến cảnh Đức Giêsu bị kết án như một tên tội phạm.
Đức Maria đã không chỉ thưa lời xin vâng một lần duy nhất, nhưng Mẹ xác quyết lời xin vâng cơ bản đó rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của Mẹ. Nếu không có sự vâng phục của Đức Maria đối với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ không có Đấng Cứu Độ.
Mỗi người chúng ta đều đã từng nói lời xin vâng, khi chúng ta đảm nhận những cam kết và trách nhiệm. Khi nói lời xin vâng cơ bản, là chúng ta thực hiện một cú nhảy vào bóng tối, bởi vì chúng ta không biết được đầy đủ những điều đó liên quan đến điều mà chúng ta đang đảm nhận. Điều này chỉ được mặc khải từ từ cho chúng ta trong khi chúng ta tiến hành. Do đó, chúng ta cũng phải xác quyết lời xin vâng cơ bản của chúng ta, không chỉ một lần, mà là nhiều lần, và cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta giữ được lòng trung thành.
Giống như những trẻ nhỏ thường thắt mắc, Đức Maria cũng hay đặt câu hỏi. Lòng tin không phải là sự mù quáng. Lòng tin vượt ra ngoài lý luận, nhưng không chống lại sự lý luận. Nhưng sau khi đặt câu hỏi, thì những câu trả lời có thể không bao giờ làm chúng ta được hoàn toàn thỏa mãn, chúng ta phải để cho Thiên Chúa được làm Thiên Chúa. Chúng ta phải qui phục mầu nhiệm thôi.
83.Vui nhận ý Chúa
Anh chị em thân mến.
Có một chàng thư sinh nghèo nhưng lại có căn bệnh sĩ diện, nên đi đến đâu anh cũng muốn chứng tỏ mình là một người phong lưu, hào phóng với mọi người. Có những lúc phải vay nợ vì sự hào phóng nầy. Mọi người đều rất ngưỡng mộ anh vì tưởng anh là một công tử nhà giàu, nên mới hào phóng như thế. Tiếng đồn đến tai một tên trộm, hắn lần mò theo dấu chân chàng thư sinh nọ và đến nhà anh ta. Tên trộm vào nhà tìm mãi không được của gì đáng giá, nó mới tìm cách khống chế gia chủ, sau một lúc dùng biện pháp mạnh tra hỏi, mới biết trong nhà không có gì, tên trộm vừa bỏ đi vừa nói: hôm nay là ngày không tốt, đến trộm nhà một người còn nghèo hơn cả mình. Chàng thư sinh nọ nghe thế, máu sỉ diện trổi dậy, anh cố tìm hết trong nhà còn được mấy đồng lẻ, chạy theo, cố nài nỉ đưa cho tên trộm và bảo: hôm nay trong nhà hết tiền, còn mấy đồng anh xài đỡ, đừng nói cho mọi người biết việc hôm nay. Thật là một căn bệnh không thuốc chữa. Chàng thư sinh không biết mình đang cần gì và mình đang thiếu những gì. Anh ta chỉ sống bằng cái vỏ bọc bên ngoài, lâu ngày quen dần nên không còn biết mình là ai và đang cần gì hoặc đang thiếu những gì. Căn bệnh sĩ diện làm cho anh chỉ biết cho mà không dám nhận, nên khi trở về với con người thật thì anh không còn gì. Làm sao cho được cái mà mình không có.
Hôm nay một lần nữa, chúng ta vừa được chứng kiến lại giây phút lịch sử của tình yêu thương, giây phút mang niềm hy vọng, mang sự sống đến cho con người.
Mẹ Maria nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, Mẹ cũng đang trông chờ ơn cứu rỗi, trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người. Mẹ cũng có những dự tính, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ biết những gì mình đang có và mình phải cho đi những gì. Đó chỉ là những giới hạn nhỏ bé của con người. Quan trọng hơn Mẹ còn biết mình đang thiếu thốn những gì và cần những gì. Trong tâm tình biết cho và nhận, Mẹ đã nhận lời đề nghị của Thiên Chúa với tâm tình của một người tôi tớ, nhận với tất cả sự vâng phục, nhận vì Mẹ nhìn thấy đây là điều thiết phải chấp nhận. Mẹ còn chấp nhận vì thấy mình còn đang thiếu và cả nhân loại cũng đang thiếu và cần đến sự chấp nhận của Mẹ. Trong khi nhận, Mẹ đã biết cho đi những gì là riêng tư của mình. Mẹ đã cho đi tuổi thanh xuân của một thiếu nữ, cho đi những ước muốn, cho đi những toan tính, cho đi cả sự bình an mà Mẹ đã chuẩn bị cho mình. Mẹ đã biết cho và nhận vì Mẹ biết mình đang cần gì và còn đang thiếu những gì. Chính vì Mẹ đã biết cho và nhận một cách quãng đại như thế, nên hồng ân cứu rỗi mới được ban xuống cho loài người.
Nhân loại ngày hôm nay đã nhận biết bao hồng ân, nhưng vì là con người: nhân vô thập toàn nên họ cũng còn thiếu thốn rất nhiều. Vậy mà rất nhiều người không biết mình đang có gì và đang cần gì, chính vì thế họ không biết mình phải cho những gì vì cần phải nhận những gì để cho đời sống mình được phong phú hơn.
Mỗi người trong chúng ta không thoát khỏi cái thường tình của con người. Hiện tại rất nhiều người mang lấy căn bệnh của chàng thư sinh nghèo; con người trống rỗng, không có gì hết, nhưng lại không muốn cho ai biết sự nghèo nàn trong cuộc sống. Chúng ta đang nghèo tình yêu thương, nghèo về sự quảng đại, nghèo về lòng tha thứ, nghèo về hồng ân Chúa. Vậy mà bao nhiêu lời khuyên và lời kêu mời quay trở về với Chúa để được đong đầy, chúng ta không thể thực hiện được. Chúng ta đang mang căn bệnh sỉ diện của tự ái, của lười biếng, của sự ích kỷ hiềm khích, nên không thể lắng nghe và hành động được.
Chúng ta nhìn lên Mẹ Maria và noi gương Mẹ để biết cho đi con người yếu hèn của mình và xin Chúa cho được ơn can đảm biết chấp nhận những gì xảy đến trong đời sống hằng ngày. Đó là chúng ta biết nhận cùng với sự vâng phục như Mẹ. Nếu chúng ta biết cho đi những định kiến, những nóng vội, những phán đoán không cần thiết, để biết bình tỉnh chấp nhận Thánh ý Chúa trong những nghịch cảnh, trong những người không làm cho mình vui, hay trong những lúc ưu sầu phiền não. Những lúc đó, chúng ta đang đi theo những bước chân của Mẹ rất thánh, là biết cho đi và biết chấp nhận. Như thế thì hồng ân Chúa đang đến với mỗi người và nhờ đó lan toả ra cho nhiều người.
Xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người, để biết đón nhận hồng ân Chúa cho xứng đáng.
84.Mẹ Maria
Tại sa mạc Phi Châu, ngày kia tu sĩ Caréttô nghe biết một cô gái mới 14 tuổi đời mà đã được gả bán cho một chàng trai. Trong khi chờ đợi ngày cưới, cô gái ấy vẫn tiếp tục đi kín nước và làm những công việc nội trợ bình thường. Thời gian trôi qua, hai năm sau vị tu sĩ kia sực nhớ bèn hỏi xem đám cưới đã được tổ chức như thế nào? Và ông bố đã tỏ ra bối rối không muốn trả lời.
Cuối cùng, một người đầy tớ đã cho vị tu sĩ hay:
- Cô gái ấy đã bị bóp cổ chết chỉ vì đã có thai trước khi về nhà chồng. Danh dự gia đình đòi cô phải chết như vậy.
Thân phận của cô gái trong câu chuyện vừa nghe, là thân phận của phụ nữ ngày xưa, cũng như của mỗi người chúng ta sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Bởi vì với tội lỗi, chúng ta sẽ phải chết. Không phải chỉ cái chết phần xác, mà còn cả cái chết phần hồn, mãi mãi xa lìa Chúa.
Thế nhưng Mẹ Maria đã khởi đầu cho một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này, người phụ nữ được phục hồi nhân phẩm và mỗi người chúng ta được trả lại địa vị làm con cái Chúa, bởi vì chúng ta có được chính sự sống của Ngài trong tâm hồn, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:
- Xưa kia bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống.
Sở dĩ như thế là vì Mẹ Maria đã sống khiêm nhường và luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay ngắt trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu hậu quả thảm khốc của tội nguyên tổ.
Trong khi đó Mẹ Maria là Eva mới, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong hoạt cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy như vậy. Sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên:
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ và cầu nguyện thêm cái đã…
Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã được xứng đáng đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, cũng như làm Mẹ của Thiên Chúa.
Sống trong Mùa Vọng, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria: luôn khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, để nhờ đó, chúng ta sẽ có Chúa trong tâm hồn, cũng như sẽ đem Chúa đến cho những người chung quanh như Mẹ Maria ngày xưa.
85.Truyền tin
Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đưa Đức Trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.
Nhân vật được Thiên Chúa sai đi là sứ thần Gabrien, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna, thuộc dòng họ vua Đavid. Sứ thần báo cho Maria một tin rất trọng đại: Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng vì đã khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có ý nghĩa thế nào: làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và làm mẹ được? Vì thế, Maria hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ cảy ra cách nào?”. Sứ thần cho biết đây không phải là trường hợp bình thường bởi loài người nhưng bởi Chúa Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn còn đồng trinh và cô sẽ sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn còn lơ lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ đã hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đã hoàn tất.
Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đã can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt mình vào vai trò của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: thì phụ nữ Do thái còn “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của mình là bị kết tội giao du bất chính, ngoại tình và bị ném đá cho chết. Đàng khác, Đức Mẹ sống trong làng Nagiarét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đã nảy sinh trong đầu Đức Mẹ: làm thế nào để giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới? Làm thế nào để giải thích cho những vị lãnh đạo tôn giáo khắt khe trong làng? Nhưng tình yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đã thắng, Đức Mẹ đã chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực vậy, vì yêu Chúa, Đức Mẹ bằng lòng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay cả cái chết nữa. Cũng thế, vì yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đình, bởi vì lúc sứ thần đến truyền tin thì Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này thì việc cưới xin làm sao thành được nữa, nhưng Đức Mẹ đã bằng lòng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó thác mọi sự cho Chúa. Chính vì thế Thiên Chúa đã lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ, đây cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng’ để Mẹ trợ giúp: “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời. Xin Chúa cho chúng ta, dù làm gì, chúng ta luôn biết làm theo thánh ý Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa.
86.Tôi tớ
Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy!” Tiếng này nghe hơi lạ tai! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?
Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ, trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên thế giới.
Phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay “Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.
Theo bài Phúc âm diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi: “Việc đó xảy đến thế nào được?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng khiêm tốn: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.
Trong Hiến Chế về Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như sau:
Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Do sự tuân phục của mình, Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường tuyên bố rằng: “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.
Theo sự giảng dạy của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.
87.Xin Vâng trong niềm tin và hy vọng
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng năm Phụng vụ. Nếu như hai Chúa nhật trước Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt nổi bật là Gioan Tẩy Giả, thì Chúa nhật thứ này chúng ta được giới thiệu một khuôn mặt nổi bật hơn. Khuôn mặt ấy chính là Đức Maria – một mẫu gương sống động về niềm tin và hy vọng.
Có lẽ, đoạn Tin mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay rất quen thuộc với từng người tín hữu chúng ta. Bởi vì, đây là một trong những biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đức Maria đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa qua lời của thiên sứ Gariel. Lời mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ con người. Lời mời gọi làm mẹ Con Thiên Chúa làm người.
Đức Maria đã đáp lời thiên sứ: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1, 38). Với lời thưa này, Mẹ không đáp trả một cách bộp chộp nhưng hoàn toàn có suy nghĩ chín chắn. Bằng chứng là Mẹ đã có đối thoại với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" (Lc 1, 34). Sau khi nhận ra đây là thánh ý Thiên Chúa, Đức Maria đã hoàn toàn xin vâng theo ý Chúa.
Mặc dù trước mắt Mẹ sẽ phải trả giá trước dư luận: "chưa chồng mà có chửa". Mẹ tin tưởng và hy vọng Thiên Chúa sẽ có cách làm cho Mẹ đủ sức vượt qua khó khăn thử thách này. Hơn thế nữa Mẹ tin tưởng và hy vọng qua người con Mẹ sinh ra sẽ đem đến cho nhân loại một bầu khí mới. Và đúng vậy, những gì Mẹ tin tưởng và hy vọng đã hoàn toàn trở nên sự thật. Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại một sức sống mới. Một sức sống không một ai ở trần gian này có thể làm được.
Chúng ta còn nhớ trong năm vừa qua Đức Thánh Cha Beneđicto 16 đã ra Thông điệp Niềm hy vọng Kitô giáo. Trong thông điệp này ngài kêu mời các con cái mình hãy sống tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Có tin tưởng và hy vọng vào Chúa đời sống hiện tại của chúng ta mới có thể thay đổi. Đời sống thay đổi theo những gì Chúa khuyên dạy.
Mỗi người chúng ta hãy tiếp tục sống những ngày còn lại của mùa vọng trong niềm tin và hy vọng vào Chúa như gương Đức Maria. Để rồi Lễ Giáng Sinh sắp tới thật sự là một Đại lễ theo đúng nghĩa của nó.
88.Tôi tớ
Trong “Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18” năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưói chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. “Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ”.
Với thái độ khiêm tốn, vâng lời và tin tưởng, Đức Maria đã đáp lại ơn gọi Thiên Chúa kêu mời, trái ngược với sự bất tuân, thiếu niềm tin và kiêu ngạo của bà Evà. Thánh Kinh đã lên án sự kiêu căng, tự cao tự đại, vì nó phát xuất ra những dối trá, lừa đảo để dành lấy cho mình cái mà tự sức mình không có hay không thể có được. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ người tín hữu thành Galat: “Ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, là lừa gạt chính mình”. Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa! Người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao”. Và Chúa Giêsu cũng khuyên: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Cách đây ít lâu, tờ St. Peterburg Times có thuật lại một câu chuyện được chia sẻ bởi Don Shula, ông bầu của đội football Miami Dolphins. Ông là một người rất danh tiếng. Trong giới thể thao nói riêng, trong nước Hoa Kỳ nói chung, ai cũng biết đến tên Don Shula. Ông giữ chức ông bầu đội Miami Dolphins từ năm 1970 và đã từng thắng ít nhất hai trận cầu ở giải Rose Bowl, Pasadena.
Hôm đó ông cùng với vợ và năm người con đang nghỉ xả hơi nơi một thành phố nhỏ tại tiểu bang Maine. Buổi sáng trời mưa buồn, ông đem cả gia đình đi xem chiếu bóng tại rạp hát duy nhất trong thành phố. Lúc ấy, trong rạp hát đã có sáu người đến trước ông. Ông Shula vừa bước chân vào thì tất cả đều đứng lên vỗ tay reo hò chào mừng. Ông Shula vẫy tay chào và mỉm cười cùng họ cách khoái trá. Ngồi xuống, ông nói với bà vợ: “Mình ở xa đây cả ngàn cây số, mà ai cũng biết đến và kính trọng, đến nỗi vừa thấy mình bước chân vào rạp hát là họ đứng dậy chào và vỗ tay hoan hô mình. Hẳn là họ đã thưởng thức những trận cầu hiển hách của đội Dolphins trên màn ảnh tivi”.
Sau đó, một người tiến đến bắt tay chào ông Shuha. Mặt mày hớn hở, ông Shuha nói: “Làm sao ông bạn có thể nhận diện được tôi?” Người kia trả lời: “Tôi đâu có biết ông là ai. Nhưng khi thấy ông và gia đình bẩy người bước váo rạp hát, chúng tôi đứng lên vỗ tay reo mừng, vì vài phút trước khi ông tới, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng sáng nay sẽ không có xuất movie nào, trừ ra có thêm bốn khán giả nữa”.
Bấy giờ, ông Shula mới tỉnh ngộ. Ông nói: “Tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Thì ra họ vừa đứng lên vỗ tay reo mừng, không phải reo mừng tôi, nhưng là reo mừng chính họ, vì họ đã có đủ điều kiện để được xem chiếu bóng”. Thật là chua chát thay! Ông Shula bây giờ mới cười nhạo mình. Ông đã hạ mình xuống, đầy lòng khiêm nhường, viết ra bài chia sẻ với chúng ta về sự thật buồn cười đã xảy ra cho ông.
Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: “Kiêu ngạo biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Khiêm nhường làm cho con người thành thiên thần”. Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường trong đường tu đức như sau: “Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường”.
Chúa Giêsu “ đang khi đến trong thế giới này” Ngài đã thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”. Ngài hoàn toàn hy sinh mạng sống để thi hành thánh ý của Đức Chúa Cha. Ngài đã mang lấy sứ mạng của Người Tôi Tớ hiền lành và khiêm nhường để cứu chuộc nhân loại. Đây là con đường linh đạo cho tất cả mọi người Kitô hữu.
Trong sứ điệp nhân ngày cầu nguyện cho ơn Thiên triệu lần thứ 40, 11/5/2003. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hướng về Đức Maria, Tôi Tớ Thiên Chúa, như một gương mẫu của các bạn nam nữ sẵn sàng đáp lời mời gọi của Chúa để phục vụ cho Tin Mừng với lời kinh nguyện:
“Lạy Mẹ Maria, nữ tì khiêm hạ của Thiên Chúa Tối Cao, Người Con mà Mẹ hạ sinh đã biến Mẹ thành người tôi tớ của nhân loại. Cuộc đời Mẹ là một sự phục vụ khiêm tốn và quảng đại. Mẹ là người tôi tớ của Lời khi thiên thần loan báo cho Mẹ biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ là người tôi tớ của Chúa Con, khi ban cho Người sự sống và luôn hướng về mầu nhiệm của Người. Mẹ là người tôi tớ của Đấng Cứu Chuộc, khi dũng cảm đứng dưới chân thánh giá, kề bên Người Tôi Tớ Đau Khổ và Con Chiên, Đấng hy sinh chính mình vì yêu thương chúng con. Mẹ là người tôi tớ của Hội Thánh vào ngày lễ Hiện Xuống và với lời chuyển cầu Mẹ tiếp tục sinh ra Người trong mọi tín hữu, cả trong thời đại khó khăn và nhiễu nhương này của chúng con.
Ước gì những người trẻ của thiên niên kỷ thứ ba hướng nhìn lên Mẹ, người thiếu nữ của Irael, Đấng biết đến sự xao động của một tâm hồn trẻ khi đối diện với kế hoạch của Thiên Chúa hằng sống. Xin làm cho họ biết chấp nhận lời mời gọi của con Mẹ là trao ban trọn vẹn đời sống mình vì vinh quang của Thiên Chúa. Xin làm cho họ hiểu rằng phục vụ Thiên Chúa làm thoả mãn tâm hồn, và chỉ trong việc phục vụ Thiên Chúa và Vương Quốc của Người mà chúng con hoàn thành cuộc đời chúng con theo kế hoạch của Thiên Chúa, và đời sống nên một bài ca tụng vinh quang dâng lên Người”. (Bản dịch của lm John Du Sinh).
89.Sự vâng phục
Hành trình chuẩn bị chờ đón Chúa đến sắp kết thúc với CN 4 MV. Thời gian chuẩn bị không còn nhiều nữa. Ân huệ Thiên Chúa vẫn ban dư đầy. Còn chúng ta chuẩn bị đón rước Chúa như thế nào? Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi mở cho chúng ta cách chuẩn bị đón rước Chúa.
Khi Vua Đavit đang yên ổn trong cửa ấm nhà êm. Ông nhớ đến Thiên Chúa. Ông muốn thể hiện lòng biết ơn của mình bằng việc xây một ngôi đền cho Thiên Chúa ngự. Ông tâm sự với tiên tri Nathan ước muốn của mình. Và ông nhận được sự tán thành của vị tiên tri. Nhưng đó không phải là điều Thiên Chúa muốn. Qua đó, Thiên Chúa nhắc Đavit về thân phận của ông, đồng thời muốn Đavit ý thức đời sống mình cần phải cậy dựa vào ai! Thiên Chúa hứa sẽ giữ gìn Đavit và dòng dõi ông cũng như vương quyền của Vua nếu Vua biết sống trong đường lối và sự tuân phục Thiên Chúa.
Và Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa ấy qua dòng thời gian mặc dầu không phải lúc nào con cháu Đavit cũng trung thành với Thiên Chúa. Chính Đấng Cứu Thế cũng được sinh ra trong chính dòng tộc Vua Đavit. Đấng Cứu Thế ấy đã xuống thế làm người, đã gặp gỡ con người nhờ sự vâng phục của một người phụ nữ.
Thời đức mẹ, ai ai cũng mong đợi Đấng Cứu Thế. Và mỗi người có một cách thế riêng của mình. Mẹ Maria cũng có chương trình riêng của Mẹ để cầu mong Đấng Cứu Thế. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ lời với Mẹ - muốn chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế - Mẹ đã sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng với một tâm hồn khiêm nhường: này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
Hai tiếng "xin vâng" Mẹ đã dễ dàng thưa, nhưng để sống với tiếng xin vâng ấy, trước mặt Mẹ là một tương lại mù tối. Luật lệ xã hội thời ấy rất khắt khe, làm sao Mẹ có thể giải thích được với mọi người. Gia đình hai bên, hàng xóm và ngay cả người bạn đính hôn sẽ nghĩ gì về mình đây? Mình có đủ sức bảo vệ mạng sống của mình hay không? Còn bào thai kia là Đấng Cứu Thế nữa thì sao?
Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra trong đầu Mẹ nhưng tình yêu Thiên Chúa đã chiến thắng tất cả. Mẹ chấp nhận mọi nguy hiểm và mọi điều xấu nhất có thể xảy đến cho mình vì Mẹ yêu Chúa. Và chính tình yêu ấy Mẹ luôn được Chúa gìn giữ.
Với một tâm hồn khiêm nhường đơn sơ, Mẹ Maria hoàn toàn phó thác trọn vẹn vận mạng của mình trong tay Thiên Chúa. Với tiếng thưa xin vâng hoàn toàn trong thái độ khiêm tốn, tin tưởng và tự do, Mẹ đã đáp lại ơn Thiên Chúa kêu mời. Và Thiên Chúa đã làm đảo lộn lại tất cả những gì con người "toan tính" và mong đợi.
Đấng Cứu Thế giờ đây là một bào thai nhỏ bé nơi cung lòng của một người phụ nữ bình thường. Đấng Cứu Độ nhân loại lại được sinh ra trong cảnh nghèo hèn, đơn sơ. Mầu nhiệm cao cả đã được giấu kín từ ngàn xưa nay được biểu lộ nơi con người đơn sơ khiêm tốn. Theo Thánh Phaolo trong thư gửi tín hữu Roma thì: mầu nhiệm ấy đã được loan báo cho muôn dân, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Nhưng muôn dân chỉ có thể tin và vâng phục khi để tâm hồn mình khiêm nhường hoàn toàn thẳm sâu như tâm hồn Mẹ Maria.
Chờ đón Chúa nhưng Mẹ Maria đã hoàn toàn để tâm hồn mình thẳm sâu hầu ân huệ Thiên Chúa tuôn đổ xuống tràn đầy trên Mẹ. Và Thiên Chúa đã lo liệu cho Mẹ tất cả dù tương lai mịt mù đang chờ đón Mẹ. Cuộc sống của chúng ta cũng không tránh khỏi những khúc quanh mịt mù đen tối. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng hãy học nơi gương Đức Mẹ hôm nay mà biết phó thác trọn vẹn cho Chúa. Càng phó thác ta càng nhận ra thánh ý Thiên Chúa. Đồng thời hãy biết vâng theo thánh ý Người như Vua Đavit xưa. Để chính sự vâng phục của chúng ta chương trình của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống hôm nay.
90.Cộng tác với Thiên Chúa
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật IV muà vọng, thời điểm gần hơn của Lễ Chúa Giáng Sinh. Thời điểm này Giáo Hội trình bày cho chúng ta một gương mặt quan trọng của biến cố Chúa Giáng Sinh. Đó chính là Đức Maria, một người nữ đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, để qua Người, Con Thiên Chúa được Nhập Thể và Nhập Thế.
Đức Maria là một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi người thiếu nữ khác nhưng là người đặc biệt hơn mọi thiếu nữ khác vì được "đầy ân sủng" và được "Thiên Chúa ở cùng" (Lc 1, 28). Hơn nữa, Đức Maria là người được chọn làm Mẹ Đấng Messia (Lc 1, 30 -33). Mặc dù được những ưu tiên như thế nhưng Mẹ Maria không tỏ ra kiêu căng, ngược lại, Đức Maria đã làm theo sáng kiến của Thiên Chúa trong tâm tình khiêm tốn, Vâng Phục Ngài cách tuyệt đối.
Con người là một tạo vật được Thiên Chúa yêu thương, và vì yêu thương mà Ngài đã dựng nên. Ngài ước ao sẻ chia tình yêu thương nên đã tạo dựng con ngưởi, một lòai thụ tạo trên mọi loài thụ tạo. Nhưng khác với mọi thụ tạo khác, con người có lý trí, ý chí và con người còn có tự do, nó có thể ước muốn, đón nhận hay chối từ món quà của Thiên Chúa, có thể nói tiếng "xin vâng" hay "không xin vâng" với lời mời gọi của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn muốn cho con người hạnh phúc và Ngài tôn trọng tự do của con ngươi. Vì được tự do và muốn làm theo ý mình nên người nữ đầu tiên tức là Bà Evà đã phạm tội, Bà đã đưa nhân lọai vào sự chết do bất tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Ngược lại, Đức Maria được coi là Bà Evà mới, dùng sự tự do của mình để hoàn toàn vâng phục và cộng tác với sáng kiến của Thiên Chúa, để Ngài thực hiện chương trình cứu độ trong cuộc đời mình.
Đọc lại bài Tin Mừng Lc 1, 26 - 38 này, ta được chứng kiến giây phút lịch sử của tình thương, giây phút tràn trề niềm hy vọng, giây phút mang lại sự sống mới, sự sống cứu độ đến cho con người.
Sống trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, như những người khác, Đức Maria đang trông chờ Đấng Cứu Thế. Mẹ nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, nỗi trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người của nhân loại của Đức Maria. Đức Maria cũng có những dự tính riêng tư, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ đã sẳn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Vì thế, khi được sứ thần đề nghị Mẹ cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa thì Mẹ chấp nhận ngay, Mẹ đã nhận lời với tâm tình của một người tôi tớ, đón nhận tất cả trong sự vâng phục.
Tiếng "Xin Vâng" của Đức Maria âm thầm lăng lẽ trong ngôi nhà nhỏ bé. Việc Chúa khởi đầu bao giờ cũng nhỏ bé, nơi những con người nhỏ bé. Tiếng "Xin Vâng" với lòng yêu mến và sự khiêm hạ của Đức Maria đã trổ sinh sự sống mới cho con người. Từ tiếng "Xin vâng" của Đức Maria mà Thiên Chúa làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ con người. Mẹ đã góp phần vào ơn cứu độ thế giới, qua việc hiến dâng bản thân mình, sẳn sàng phục vụ cho ý muốn của Thiên Chúa.
Càng nhìn về Đức Maria, càng cho ta thấy mẫu gươngvề sự cộng tác với Thiên Chúa. Cuộc sống có những điều xảy đến ngoài ý muốn của mình. Xin Chúa cho ta biết can đảm chấp nhận. Ngoài ra chúng ta biết cho đi những định kiến, nóng vội, những trái ý trong cuộc sống.... khi có những người không làm cho mình vui. Đó là lúc chúng ta đi theo bước chân của Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vui lòng cộng tác với Thánh Ý Thiên Chúa, Mẹ là Đấng đồng công Cứu chuộc, là máng chuyển thông ơn cho nhân loại. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống đạo cho nên, biết thờ phượng Chúa cho phải Đạo, và sẳn sàng yêu thương, giúp đỡ cho tha nhân,.. để nhằm làm sáng danh Chúa. Amen.
91.
92.Khiêm nhường
Cách đây ít lâu, có một tờ báo có thuật lại chuyện về ông bầu của một đội bóng. Ông là một người rất nổi tiếng. Trong giới thể thao ai cũng biết đến tên của ông. Hôm đó ông cùng với vợ đi nghỉ xả hơi nơi một thành phố nhỏ. Buổi sáng trời mưa buồn, ông đưa vợ đi xem chiếu bóng tại một rạp hát trong thành phố. Lúc ấy, trong rạp hát đã có sáu người đến trước ông. Ông vừa bước chân vào thì tất cả đều đứng lên vỗ tay reo hò chào mừng. Ông vẫy tay chào và mỉm cười cùng họ cách khoái chí. Ngồi xuống, ông nói với bà vợ: "Mình ở xa cách đây cả ngàn cây số, mà ai cũng biết đến mình và kính trọng mình, đến nỗi vừa thấy mình bước chân vào rạp hát là họ đứng dậy chào và vỗ tay hoan hô. Chắc là họ đã ngưỡng mộ mình và đã biết mình qua màn ảnh Tivi.
Sau đó, có một người tiến đến bắt tay chào ông. Mặt mày hớn hở, ông nói: "Làm sao ông bạn có thể nhận diện được tôi?" Người kia trả lời: "Tôi đâu có biết ông là ai. Nhưng khi chúng tôi thấy ông và vợ ông bước vào rạp hát, chúng tôi đứng lên vỗ tay reo mừng, vì vài phút trước khi ông tới, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng sáng nay sẽ không chiếu phim, nếu không có thêm hai khán giả nữa". Bấy giờ, ông ấy mới tỉnh ngộ. Ông nói: "Tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Thì ra họ vừa đứng lên vỗ tay reo mừng, không phải reo mừng tôi, nhưng là reo mừng chính họ, vì họ đã có đủ điều kiện để được xem chiếu bóng". Thật là chua chát!
Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: "Kiêu ngạo sẽ biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Còn khiêm nhường sẽ làm cho con người trở nên thiên thần". Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường như sau: "Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường".
Mẹ Maria đã sống khiêm nhường để luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, bà Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu những hậu quả đau đớn của tội nguyên tổ. Trong khi đó Mẹ Maria, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên: - Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ, nào là để xem lại, hỏi lại, hoặc là để cầu nguyện thêm cái đã...
Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã xứng đáng được đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, Mẹ Chúa Giêsu giáng sinh.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói "xin vâng" trong tin yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca "xin vâng" để xin Mẹ trợ giúp: "Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời". Để con cũng được giống như Mẹ, vui đón nhận tình yêu Giáng sinh trong an bình và hạnh phúc. Amen.
93.Tự do và trách nhiệm
Thánh Agustinô đã nói: "Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần hỏi ý kiến của con, nhưng để thánh hoá và cứu độ con thì Chúa cần sự góp sức của con". Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa quyền năng: "không có gì mà Thiên Chúa không làm được". Dẫu vậy, Thiên Chúa không muốn hành động lấn át tự do của con người, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Tự do chính là tặng phẩm cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người. Khi ban tặng tự do cho con người, Thiên Chúa vẫn biết rằng: con người có thể lạm dụng tự do để làm việc chuyện xấu, nhưng Ngài vẫn ban cho con người tự do vì quá yêu thương họ. Tự do đi liền với trách nhiệm. Vì có tự do nên con người phải có trách nhiệm và chịu trách nhiệm, nhất là trách nhiệm về những việc liên quan đến phần rỗi đời đời của mình.
Con người thường dùng tự do để thực hiện những chọn lựa của mình và họ phải chịu trách nhiệm trong những chọn lựa ấy. Con người có thể dùng tự do để chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của đời mình, làm hạnh phúc của đời mình; nhưng con người cũng có thể dùng tự do của mình để khước từ Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy được rất rõ điều này trong cuộc sống. Nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy được rằng: Càng biết dùng tự do của mình để chọn những điều tốt thì chúng ta càng được tự do, nhưng nếu chúng ta sử dụng tự do của mình để chọn những điều xấu thì chúng ta càng bị mất tự do.
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại cho chúng ta nghe biến cố "truyền tin". Thiên Thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến báo tin cho Đức Maria biết là Thiên Chúa muốn mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa chờ đợi sự tự do đáp trả của Đức Maria trong việc quan trọng này. Chúng ta thấy, Đức Maria cũng rất bối rối và đầy thắc mắc khi nghe lời báo tin của Sứ thần. Nhưng sau khi được nghe giải thích: Đấng Mẹ sẽ cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, là Con Thiên Chúa tối cao và sẽ trở thành Đấng Cứu độ muôn dân, Mẹ đã tự nguyện nói lên 2 tiếng "Xin vâng". Đức Maria đã đồng ý để cho Thiên Chúa hành động trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đã dùng sự tự do của mình để chọn Thiên Chúa, chọn chương trình của Thiên Chúa để làm theo và Mẹ hoàn toàn chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Mẹ đã quên đi lời cầu nguyện mà mọi người thường dùng để thưa với Chúa là: "Xin ý Chúa được đổi lại", nhưng Mẹ đã học biết và thân thưa với Chúa lời cầu nguyện lớn nhất của trần gian là: "Xin ý Chúa được thực hiện".
Chắc chúng ta cũng có suy nghĩ này là: được kêu gọi làm Mẹ Thiên Chúa thì còn gì bằng! Tội gì mà không chịu? Nhưng đó là cách nhìn trần thế và mang tính dụ lợi của con người. Quả thật là khi kết thúc cuộc đời trần thế, thì Mẹ Maria được vinh dự đón nhận triều thiên vinh quang với tước hiệu Nữ vương Thiên quốc. Nhưng để đạt được điều đó. Đức Maria đã trải qua một cuộc đời đầy những gian lao, đau khổ và nguy hiểm. Trước hết, Đức Maria đã phải hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Tin mừng cho chúng ta biết là trước khi được Sứ thần đến báo tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế, thì Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse rồi. Đính hôn nhưng chưa chung sống. Như thế, nhận cưu mang Con Thiên Chúa, Mẹ có thể bị hiểu lầm từ nhiều phía: từ thánh Giuse và từ những người quen biết Mẹ, ngay cả Mẹ có thể bị ném đá cho đến chết. Vì đối với luật Do thái, một phụ nữ chưa có chồng chính thức mà mang thai thì sẽ bị ném đá cho đến chết. Như thế, chúng ta thấy nguy hiểm đang đe doạ Mẹ, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Thiên Chúa và chịu trách nhiệm cho những gì Mẹ đã chọn lựa. Một lần xin vâng là Mẹ xin được trọn vẹn thuộc về Chúa. Chọn lựa của Mẹ Maria là sự chọn lựa cao nhất và lớn lao nhất trong lịch sử của nhân loại.
Chọn lựa của Mẹ Maria làm cho chúng ta phải suy nghĩ về chọn lựa đối nghịch lại của bà Eva ngày xưa. Eva cũng dùng tự do của mình để chọn lựa, nhưng chọn lựa của bà Eva đã làm cho mọi sự bị xáo trộn và đảo ngược theo chiều hướng xấu. Mọi sự đang tốt đẹp trở nên xấu xa và tội lỗi. Hậu quả bi thương ấy không những ảnh hưởng cho riêng bà mà còn cho biết bao nhiêu con người khác. Chọn lựa của bà Eva ngày xưa xuất phát từ sự tham lam và kiêu căng. Bà Eva đã chọn làm theo ý riêng mình mà khinh thường mệnh lệnh của Chúa, khinh thường thánh ý của Chúa và cũng là khinh thường chính Thiên Chúa nữa. Ngược lại, Đức Maria đã chọn lựa làm theo ý Chúa để làm vinh danh Chúa và mang lại nhiều ích lợi cho con người. Hạnh phúc không phải là kết quả của những chọn lựa tham lam và kiêu căng theo ý con người, nhưng là chọn lựa và làm theo thánh ý của Thiên Chúa. Con người thường lầm tưởng là tiền tài, danh vọng, sức khoẻ sẽ mang lại hạnh phúc cho con người. Những điều ấy tuy có làm cho con người bớt đi phần nào những gánh nặng trong cuộc sống trần thế, nhưng đó chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người đâu. Chúng ta đừng lầm tưởng và mê muội như thế. Chọn lựa sai lầm trong cuộc sống sẽ đưa đến hậu quả tai hại biết là dường nào, và trách nhiệm nặng nề ấy chúng ta phải mang lấy.
Chuyện kể rằng: "Có một người nông dân nghèo, suốt đời vất vả ngược xuôi nhưng cũng không có đủ cơm ăn áo mặc cho đàng hoàng. Thình lình anh nghe người ta nói là ở trên ngọn núi cao cách nhà anh khoảng 200 dặm, có một vị pháp sư tài giỏi, có thể giúp anh thoát cảnh nghèo khổ. Thế là anh khăn gói lên đường. Vất vả tìm kiếm và cuối cùng anh cũng tìm được vị pháp sư ấy. Vị Pháp sư hỏi anh muốn gì? Anh trình bày với vị Pháp sư hoàn cảnh của mình và mong muốn được giúp đỡ. Vị Pháp sư bình thản trả lời: "tưởng gì chứ chuyện đó thì dễ thôi. Nhưng tôi cũng nói cho anh biết nó nguy hiểm lắm". Anh nông dân nghèo liền trả lời: "Không sao. Chỉ có cái nghèo mới nguy hiểm chứ ngoài ra không có gì nguy hiểm cả". Thế là anh năn nỉ cho bằng được điều anh mong ước. Cuối cùng vị Pháp sự cũng chìu ý anh. Vị Pháp sư căn dặn rằng: "Tôi sẽ dạy anh thuộc lòng câu thần chú này. Bất cứ khi nào anh đọc câu thần chú lên thì có một thằng quỷ xuất hiện và đợi lệnh anh. Nhưng anh nhớ là phải có việc cho nó làm, nếu không thì nó sẽ vặn cổ anh đó". Anh nông dân hí hửng ra về. Vừa đến nhà, anh liền đọc câu thần chú lên và một thằng quỷ xuất hiện. Anh ra lệnh nó dọn cho anh một bữa ăn thịnh soạn. Tưởng cũng phải mất 1 tiếng đồng hồ. Ai ngờ chỉ 30 giây là xong ngay. Nó đứng chờ lệnh anh. Anh ra lệnh cho nó xây cho anh một căn nhà sang trọng cỡ nhà vua ở. Tưởng phải mất một vài tháng, nào ngờ chỉ 5 phút là xong. Anh ra lệnh tiếp cho nó đi tìm cho anh một người mỹ nữ về làm vợ. Tưởng mất vài ngày, nào ngờ cũng chỉ 3 phút là có ngay cho anh một cô giá tuyệt trần. Hốt hoảng anh không còn biết phải ra lệnh gì nữa. Nhưng thằng quỷ nói: "Nếu ông không có việc cho tôi làm là tôi sẽ vặn cổ ông đó". Sợ quá, anh bảo nó canh nhà cho anh đi công việc. Nó tuân lệnh và anh hối hả chạy đi tìm vị Pháp sư để xin được giúp đỡ. Gặp vị pháp sư anh liền trình bày vấn đề. Vị Pháp sư bình thả trả lời: "Tôi đã nói với anh rồi. Nó nguy hiểm lắm, thế mà anh không nghe". Anh năn nỉ vị Pháp sư thương giúp anh khỏi chết. Thế là vị Pháp sự dặên bảo anh về nhà bảo thằng quỷ ngồi đó vuốt đuôi con chó cho thẳng ra. Và thế là thằng quỷ phải làm công việc ấy cho đến thiên thu vì đuôi con chó được vuốt thẳng ra lại co vào mãi. Thế là anh thoát nạn.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: chọn lựa sai lầm trong cuộc sống này thật là nguy hiểm và chúng ta phải lãnh lấy trách nhiệm nặng nề là dường nào. Câu chuyện cũng cho chúng ta thấy: hạnh phúc không hệ tại ở việc có đầy đủ mọi thứ sang trọng ở trần gian nhưng là niềm vui được sống bình an trong những chọn lựa của mình, với những gì mình đang có trong tầm tay.
Ước gì mỗi người chúng ta biết tận dụng tự do cũng như mọi khả năng của mình để chọn và làm theo ý Chúa như Đức Maria đã làm để chúng ta được hạnh phúc ngay ở trần gian này vì mình được tâm hồn bình an và nhất là ngày sau chúng ta được chia sẻ vinh quang với Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Amen.
23/12 Gioan Tẩy Giả sinh ra
- Viết bởi Lc 1, 57-66
Gioan Tẩy Giả sinh ra.
Thứ Bảy tuần 3 mùa vọng.
"Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả".
LỜI CHÚA: Lc 1, 57-66
Khi đến ngày sinh, bà Isave hạ sinh một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà.
Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: "Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan".
Họ bảo bà rằng: "Không ai trong họ hàng bà có tên đó". Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: "Tên nó là Gioan". Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa.
Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tên cháu là Gioan
(Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Vào trước lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu,
Giáo Hội cho chúng ta suy niệm về sự chào đời của Gioan Tẩy giả.
Có vẻ bà Êlisabét là người vui hơn cả.
Bà đã mang nỗi hổ nhục từ bao năm nơi người đời (Lc 1, 25),
bây giờ bà mới thấy rõ lòng thương xót bao la của Chúa (c. 58).
Niềm vui của bà được tăng lên nhờ láng giềng, thân thích đến thăm.
Thiên Chúa bắt bà chờ quá lâu, đến mức bà chẳng còn hy vọng.
Rồi bất ngờ bà lại được tất cả những điều mình mong ước.
Có một đứa con trai lúc đã cao niên, điều đó kể như một phép lạ.
Khi bà khăng khăng đòi đặt tên cho đứa con là Gioan (c. 60),
nhiều người ngăn cản, vì không ai trong dòng tộc mang tên này,
vì cứ sự thường, con phải được đặt tên theo tên cha.
Nhưng quyết định cuối cùng nằm trong tay ông Dacaria.
Ông mới là người có quyền đặt tên cho con trai ông.
Vì ông câm và điếc, nên ông cần một cái bảng nhỏ để ghi tên con.
”Tên cháu là Gioan” (c. 63).
Tên này trùng với tên vợ ông đề nghị.
Chính lúc Dacaria vâng lời sứ thần đặt tên cho con ông là Gioan,
thì lập tức miệng ông được mở ra và lưỡi ông được tháo cởi (c. 64).
Giờ đây ông có thể chúc tụng Thiên Chúa sau hơn chín tháng bị câm.
Những người thân thích, xóm giềng đi từ ngỡ ngàng đến kinh sợ.
Quả thực có nhiều điều lạ lùng vây quanh sự chào đời của cậu bé.
Người ta đồn thổi tin này khắp miền núi Giuđê.
”Đứa trẻ này rồi sẽ ra sao?” (c. 66).
Làm sao biết tương lai của đứa trẻ mới được tám ngày tuổi.
Nhưng qua những biến cố lạ lùng xảy ra:
ông bà sinh con trong lúc tuổi già, ông bị câm rồi lại được khỏi,
ông bà cùng nhất trí về tên của đứa con dù không trao đổi trước,
người ta nhận ra bàn tay Chúa ở với em (c. 66).
Em đúng là Gioan, tiếng Híp-ri nghĩa là Thiên-Chúa-tặng-ban,
bởi em là quà tặng cho gia đình, dân tộc và cho cả nhân loại.
Cậu bé Gioan đã từ từ lớn lên và theo một lối sống khác thường.
Cậu không lập gia đình và sống khắc khổ nơi hoang địa (c. 80).
Lễ Giáng Sinh là lễ của trẻ thơ, của niềm hy vọng.
Mỗi trẻ thơ chào đời đều là một dấu hiệu của tình thương Chúa.
Ngay một cuộc sinh nở bình thường cũng là một điều lạ lùng.
Mỗi trẻ thơ được cha mẹ đặt tên,
nhưng tên của em đã được khắc ghi từ lâu trong trái tim Thiên Chúa.
Em nào cũng là một quà tặng cho thế giới, em nào cũng là một Gioan.
Mỗi em đều có chỗ đứng trong chương trình của Thiên Chúa.
Nhiệm vụ của nhà giáo dục là giúp em tìm thấy ơn gọi riêng của mình,
và trưởng thành nhờ sống trọn vẹn ơn gọi đó.
Xin được chung vui với gia đình Dacaria và mọi gia đình trên địa cầu.
Lạy Chúa,
con được no nê mà vẫn thiếu ăn,
vì bên con còn có người đói lả.
Con uống nước mát mà họng vẫn khô ran,
vì bên con còn có người đang khát.
Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi,
vì bên con còn có người phiền muộn.
Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm,
vì bên con còn có người mù tối.
Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi,
vì bên con còn có người trần trụi.
Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức,
vì bên con còn có bao người thiếu thốn. Amen. (Myrtle Householder)
Suy Niệm 2: Ê-li-a đến chấn chỉnh
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con dân tội lỗi. Phản bội Thiên Chúa. Lìa xa đường lối của cha ông. Chúa đã sai Ê-li-a đến chấn chỉnh “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông”. Ê-li-a đã đến như lửa. Cuộc đời ngài bừng bừng lửa sốt mến. Lời ngài như lửa. Làm cho xứ sở bị hạn hán. Ngài dùng lửa thanh luyện tâm hồn Ít-ra-en. Chống lại vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben. Giết chết hơn 400 sư sãi của Ba-an. Làm cho dân trở về với Chúa. Theo đường lối của cha ông. Tiên tri Ma-la-khi tiên báo sau cùng Chúa sẽ đến. Nhưng trước đó, Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa. Lời tiên báo ứng nghiệm vào Gio-an Tẩy giả. Chính Chúa Giê-su xác nhận Gio-an là Ê-li-a mới. Đến để mở đường cho Đấng Cứu Thế.
Ông mở đường bằng nghiêm chỉnh thực thi Lời Chúa. Cha mẹ ông đã làm gương về điều đó. Chúa truyền đặt tên ông là Gio-an. Nghĩa là Thiên Chúa thi ân. Bà Ê-li-sa-bét và ông Gia-ca-ri-a tuyệt đối vâng theo lệnh truyền. Đặt tên là xác nhận quyền làm cha mẹ. Khi đặt tên theo lệnh Thiên Chúa, ông bà xác nhận Gio-an là do Thiên Chúa ban tặng. Ngay khi đó Gia-ca-ri-a, trước đó bị câm, mở miệng nói được. Chỉ khi nói theo ý Chúa lời mới có ý nghĩa.
Chính Gio-an cũng nghiêm túc tuân thủ lời Chúa dạy. Nên ông xa lánh phồn hoa. Vào ở trong sa mạc. Ăn uống đạm bạc. Chỉ có châu chấu và mật ong rừng. Y phục đơn sơ. Một mảnh da thú đủ để che thân.
Ông chỉ nói lời của Chúa. Nên mạnh mẽ đe phạt những người đi vào đường tội lỗi. Kết án cả vua Hê-rô-đê. Vì đã chiếm vợ của anh vua. Ông đúng là Ê-li-a mới. Chấn chỉnh mọi sự. Dọn đường cho Chúa Cứu Thế ngự đến.
“Bàn tay Chúa phù hộ em”. Nhận biết điều đó nên dân chúng tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Không ai biết được đường đi của Chúa. Không ai biết gió từ đâu tới và sẽ đi đâu. Gio-an luôn ở trong bàn tay Chúa. Luôn luôn nói Lời Chúa. Ông trở thành loa phát thanh Lời Chúa. Ông là “tiếng kêu trong hoang địa”. Ông là người chấn chỉnh mọi sự. Sửa đường cho ngay để đón Chúa Cứu Thế ngự đến.
Xin cho con noi gương thánh Gio-an. Chấn chỉnh chính mình. Rồi thế giới sẽ trật tự đón Chúa đến.
Suy Niệm 3: Sinh Nhật Của Gioan Tẩy Giả
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Vào thời quân chủ xưa, khi các vị vua muốn viếng thăm một nơi nào ngoài kinh đô, thì đầu tiên các sứ giả của triều đình được gửi đến đó để chuẩn bị nơi chỗ cho xứng đáng, đồng thời dạy dân chúng biết cách thức và nghi lễ khi đón tiếp vua. Vì có những nghi thức thật quái lạ mà bình thường con người ít khi nghĩ tới như: để tỏ lòng kính trọng khi vua đi ngang qua thì tất cả các thần dân phải sấp mình xuống đất không được nhìn lên dù chỉ là một cái liếc mắt, nếu bị gặp đều phải lãnh phạt, hình phạt có những lúc tới mức độ phải tử hình, do đó mà không thể thiếu việc các sứ giả được sai đi.
Trong bài đọc của phần Phụng Vụ hôm nay, ngôn sứ Malakia đã tiên báo về một sứ giả có nhiệm vụ dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm Ngài. Sứ giả ấy là Elia: "Này đây, Ta sai tiên tri Elia đến cùng các ngươi trước ngày trọng đại kinh khủng của Ta, người sẽ hoán cải lòng cha ông về lại với con cháu và lòng con cháu trở về cùng cha ông". Về sau Chúa Giêsu sẽ tỏ lộ cho các môn đệ Ngài biết: "Elia chính là Gioan Tẩy Giả", và trong bài Tin Mừng thánh sử Luca đã nói gì với sứ giả Gioan này?
Chẳng khác gì người Việt Nam chúng ta, người Do Thái cũng sống tình bà con láng giềng rất thắm thiết. Nghe Elizabeth sinh hạ con trai, bà con láng giềng liền đến giúp đỡ và chia sẻ niềm vui cùng với gia đình Zacharia. Ðến ngày thứ tám, lúc làm lễ cắt bì và đặt tên cho con trẻ cũng có sự hiện diện của họ. Họ muốn lấy tên Zacharia mà đặt tên cho con trẻ chứ không phải là Gioan. Gioan hay Giokhanan tiếng Do Thái có nghĩa là "Thiên Chúa thương xót". Vì sự chào đời của Gioan là một biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa, cách riêng cho Zacharia và Elizabeth, vì Thiên Chúa đã cất đi sự tủi nhục bấy lâu đè nặng trên người đàn bà son sẻ và cách chung cho toàn thể gia đình nhân loại. Vì hôm nay đã xuất hiện vị sứ giả để dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm dân Ngài, một niềm vui mà đã mấy ngàn năm gia đình nhân loại ngóng chờ. Chắc chắn những người hiện diện đều biết chữ Gioan hay Giokhanan có nghĩa là "Thiên Chúa thương xót".
Tuy nhiên, họ lại không hiểu được lòng thương xót của Thiên Chúa nên đã từ chối không chịu nhận tên Gioan cho con trẻ. Họ không hiểu vì tâm trí của họ đang bị ràng buộc bởi những suy nghĩ của trần thế, quá lệ thuộc vào các tập quán cổ xưa. Vì thế, họ không còn cảm nhận được giá trị của lòng thương xót Thiên Chúa ban xuống cho con trẻ và gia đình: "Không ai trong họ hàng bà có tên này".
Con người cứ nhắm mắt đưa chân theo những vết xưa cũ ấy nên họ chẳng nhận ra được những thực tại trước mắt, không biểu lộ được ý nghĩa của công việc họ đang tham dự. Ðến chung vui vì Thiên Chúa đã xót thương, thế mà họ lại không chịu tuyên xưng lòng thương xót của Ngài.
Với Zacharia cũng thế, lý luận mang tính cách trần thế đã khiến ông không tin nhận lòng thương xót của Thiên Chúa đang được ban xuống cho gia đình ông. Vì thế mà ông đã phải lãnh nhận hình phạt là bị câm. Chỉ khi ông đã quyết định đặt tên cho con trẻ là Gioan, tức là khi ông tuyên xưng lòng thương xót của Thiên Chúa thì lúc đó ông mới được tha khỏi hình phạt, và cũng là lúc ông chúc tụng ngợi khen lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thật thế, trong cuộc đời có lẽ không có gì làm buồn lòng con người cho bằng đi làm ơn mà chỉ được lãnh nhận thái độ lãnh đạm, thờ ơ và cũng chẳng có gì đáng trách cho bằng thái độ vô ơn. Nếu trong dân gian có những câu nói diễn tả lòng dạ ác độc như cầm thú thì về phương diện biết ơn, thú vật đôi lúc lại được xếp hạng trên con người: "Cứu vật vật trả ơn. Cứu nhân nhân trả oán".
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng để chuẩn bị mừng kính mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, một mầu nhiệm diễn tả lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại. Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta kiểm điểm lại tâm tình biết ơn của mình. Có thể chúng ta không cố tình quên ơn nhưng trong thực tế chúng ta lại sống như những người vô ơn. Tuy nhiên, như những người láng giềng của gia đình Zacharia, thì qua cách suy nghĩ trần tục, các thành kiến hẹp hòi, các thói quen ích kỷ đã vây phủ lấy chúng ta, làm cho chúng ta bị mờ tối nên chẳng nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa hằng bao bọc chúng ta cũng như tình thương của người anh em đang tặng ban cho chúng ta. Nhưng khi nhận ra lòng thương xót ấy thì chúng ta cũng như Zacharia là thốt lên lời chúc tụng và ngợi khen.
Suy Niệm 4: Thừa hưởng thánh ý Chúa
Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em, nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. (Lc. 1, 59-60)
Phụng vụ hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chứng nhân khác theo hình ảnh Đức Maria, ông đã nhận được tin Thiên Chúa đoái thương, nhưng vì cứng lòng tin, ông đã bị câm.
Giờ đây ông tin lời thiên thần đã báo cho ông khi trước, dù phải trái với tục truyền về cách đặt tên cho con, Gia-ca-ri-a đã biết phải vâng theo thánh ý Chúa để đặt tên cho con là Gioan và chúc tụng Chúa. Trước sự kiện lạ đó, láng giềng bà con đã nhận ra bàn tay Thiên Chúa phù hộ.
Thường xuyên chúng ta cũng được mời gọi đón nhận thánh ý Chúa nhờ đức tin, mà chẳng biết tại sao xảy ra như vậy. Thí dụ: vợ được bài học qua cái chết của chồng hay tu sĩ khám phá ra một ơn gọi đặc biệt vượt quá sức mình. Có nhiều hoàn cảnh giúp chúng ta sống đức tin để trở nên người thừa hưởng thánh ý Thiên Chúa. Chính lúc đó người ta cảm thấy được can đảm cần có, được bình an nội tâm và nhận biết phải sống với Chúa bằng tình bạn chí thiết.
Đang sống giữa những tiếng ồn ào náo nhiệt chuẩn bị Noel, chúng ta có biết khám phá ra ý nghĩa của ngày đại lễ này không? Chúng ta có biết sống nhiệt tâm theo thánh ý Chúa hằng ngày để đón mừng Đấng Cứu thế đến không?
Dù những nghi nan như ông Gia-ca-ri-a, chúng ta biết chấp nhận ý Chúa trong đức tin, chúng ta sẽ được thừa hưởng ơn phúc của lời Chúa hứa ban như Chúa đã ban cho ông Gia-ca-ri-a.
A. N
Suy Niệm 5: Trẻ nhỏ này rồi sẽ ra sao?
Sau những ngày tháng cưu mang hài nhi, bà Êlisabét đã tới ngày sinh con. Gioan đã chào đời trong niềm vui mừng của mọi người. Niềm vui mà mọi người dành cho gia đình ông Giacaria không chỉ thuần túy là có một người con mới chào đời trong lúc hai ông bà tuổi đời đã xế bóng, hay sự xuất hiện của Gioan trong gia đình này còn là rửa đi nỗi nhục son sẻ cho mẹ ngài. Nhưng niềm vui sâu xa ở chỗ trẻ Gioan này sẽ trở thành vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Cứu Thế mà muôn dân ngóng đợi.
Sự xuất hiện của Gioan đã làm cho dân chúng phải ngỡ ngàng khi mọi người định lấy tên cha là Giacaria mà đặt tên cho cậu con quý tử. Tuy nhiên bà mẹ không bằng lòng và yêu cầu hỏi Giacaria xem ý ông thế nào. Ông đã làm hiệu lấy cho mình tấm bảng và ông ghi tên con trẻ sẽ là Gioan. Mọi người lại ngỡ ngàng nữa là vì trong họ hàng không có ai cùng tên như vậy. Điều lạ lùng là ông Giacaria vừa câm lại vừa điếc, thế mà ông đã không trùng ý với mọi người. Sự kiện này cho thấy Giacaria đã làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa qua sứ thần lúc truyền tin cho ông.
Ngay lập tức, miệng lưỡi ông đã bị câm điếc từ lâu, nay được mở ra và ông lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, mọi người kinh ngạc và thắc mắc không biết rồi đây con trẻ này sẽ ra thế nào vì bé luôn có bàn tay Thiên Chúa phù trợ. Tin đồn đó được lan ra các vùng phụ cận.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta vững tin vào Chúa và tin tưởng nơi Ngài, vì Ngài làm được mọi chuyện, miễn sao chúng ta tin tưởng và cậy trông nơi Ngài cách vững vàng. Mặt khác, khi chúng ta cảm nhận được tình thương của Chúa trên cuộc đời chúng ta, mỗi người hãy cất cao lời tạ ơn Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con vững tin vào Chúa mọi nơi mọi lúc, nhất là những lúc thử thách gian truân. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Bàn tay Thiên Chúa phù hộ
Sau những tháng ngày tối tăm trong lòng mẹ, Gioan tiền hô đã ra chào đời giữa niềm vui chào đón của gia đình, gia tộc và làng xóm. Có lẽ niềm vui của họ đầu tiên chỉ vỏn vẹn trong việc được một cậu con trai nối dõi tông đường, được một gậy chống cho tuổi già. Nhưng Thiên Chúa đã ban hơn lòng mong tưởng là không những được thoát khỏi điều sỉ nhục, không còn son sẻ mà con của họ trở thành “vị tiền hô của Đấng tối cao”.
Họ hàng bà con đều tới chúc mừng, không những vì Giacaria là tư tế mà còn vì cậu con sinh ra trong lúc ông bà tuổi đời muộn mằn, chắc phải có một nhiệm vụ gì hơn là nhiệm vụ đứa con của một gia đình (c. 14). Và sau khi sinh ra được tám ngày, theo luật Do thái là làm lễ cắt bì cho con trẻ (Stk 17,12. 21,4; Lev 12,3). Theo luật Maisen thì tám ngày sau khi sinh, dù là vào ngày Sabat (Gio 7,53).
Thật ra nghi lễ cắt bì không phải là việc riêng của hàng tư tế lúc ấy đâu, có thể do bất cứ một người Do thái nào có khả năng hay cả các bà cũng được phép nữa (1Xac 1,63. 2 Mac 6,10), Cũng có thể làm tại tư gia. Tuy nhiên tại mỗi thành phố cũng có một nhân viên về việc cắt bì mà người ta gọi là Mohel, là một người kinh nghiệm và có khả năng. Trường hợp con ông bà Giacaria làm tại nhà riêng. Và thường là vào giây phút lễ nghi này, người ta đặt cho con trẻ một tên gọi (Stk 17,5-15). Việc cắt bì đây là dấu chỉ làm hòa với Thiên Chúa và thuộc về dân tộc Do thái.
Khi cắt bì cho người con thì họ định lấy tên cha là Giacaria mà đặt tên cho cậu con (c. 59) nhưng mẹ đã không bằng lòng, và đó cũng là ngược lại với phong tục Do thái vì phải tránh húy cha mẹ. Còn bình thường ra người cha chọn và đặt tên cho người con. Có thể vì Giacaria cha đã già nên họ muốn ghi nhớ một hoàn cảnh đặc biệt, cho nên muốn lưu niên tên Giacaria chăng. Nhưng bà mẹ Isave đã can thiệp ngay mà bảo gọi con trẻ là “Gioan” mà không chờ lệnh người cha. Làm thế đúng như lời thiên thần truyền (Lc 1,13). Các giáo phụ Theophil, Euthymiô giả thuyết rằng bà viết được tên đó là bởi ơn Chúa Thánh Thần. Cũng có thể là Giacaria dùng cách viết chẳng hạn mà báo trước cho bà ta rồi.
Nhưng khi thấy vậy, mọi người ngạc nhiên vì tên Gioan không có ai giống như thế trong gia tộc (c. 61). Vì thế người ta đã làm hiệu cho Giacaria xem ý ông muốn ra sao. Giacaria lúc ấy vừa bị câm lại vừa có thể điếc (c. 62). Có người bảo ông bị câm điếc như thế là để khỏi phải cãi nhau xem phải đặt tên nào. Nhưng khi ông xin tấm bảng để viết thì ông viết tên “GIOAN”. Vừa già cả lại vừa câm điếc mà viết đúng tên Gioan nên ai nấy đều chấp thuận vì hai ông bà muốn như thế!
Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông được mở ra nói và nghe được như thường (c. 64), đúgnnhhư lời thei thần truyền (1,20). Ngay lúc ấy, ông dâng lời tạ ơn Chúa. Mọi người lấy làm sợ hãi (c. 65). Tự nghĩ không biết rồi mai đây bé trai này sẽ làm trò trống gì? Thế mà tin đồn về Gioan từ đây lan ra cắp vùng Giudê.
Đó là một câu chuyện mà Thiên Chúa quan phòng đã sửa soạn cho Gioan tiền hô, và là bài học cho mỗi người chúng ta nữa. Thiên Chúa đã tiền định cho đời chúng ta rồi. Vậy đừng tự ti mặc cảm cho rằng có thế giá gì, mình sinh lầm thế kỷ:
“Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.
Những người ấy hãy nhìn lên, hãy nhận ra địa vị thật của mình. Là con cái Chúa, Chúa không sinh ra để bỏ chợ đâu. Hãy tin vào bàn tay Chúa quan phòng cho đời mỗi người. Có thể chúng ta thấy ở đời mình chẳng có gì cả. Nhưng nên nhớ địa vị vĩnh cửu không hệ tại ở đời này có tiền rừng bạc biển, có sức khỏe như Samson... chú Vọi!!! Giá trị nằm trong tay Thiên Chúa, Thiên Chúa đang dành phần tốt nhất cho từng đứa con trung thành, trung tín hôm nay.
Suy niệm 7: Sinh nhật của Gioan Tẩy giả
Trong phụng vụ có ba lễ sinh nhật: sinh nhật Chúa Giêsu, sinh nhật của Đức Maria và sinh nhật của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan trong khi Thiên Chúa mở đầu thời kỳ cứu chuộc được Tân ước gọi là thời sau hết. Ngài có một tiểu sử khá rõ ràng và được Phúc âm nói đến như một vị tiền hô của Chúa Giêsu, một hình ảnh của Đức Kitô.
Vị tiền hô: Đọc lại tiểu sử của Gioan, chúng ta thấy ngài được sinh ra cho một sứ mệnh: con sẽ là tiên tri của Đấng Tối Cao. Một vị tiên tri can đảm không sợ quan quyền cũng như vua chúa, được mọi người kính nể, đến nỗi người ta lầm tưởng ngài là Đấng Cứu Thế. Tuy can đảm, nhưng ngài rất khiêm tốn: Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dâyï giầy cho Người. Và người đã chết một cách anh hùng vì sứ mệnh của mình.
Hình ảnh Chúa Kitô: như Chúa Giêsu sau nầy, ngài được sinh ra một cách lạ lùng và được thiên thần báo trước như Chúa Giêsu; ngài có một cuộc sống khắc khổ như Chúa Giêsu: ăn châu chấu với mật ong rừng; ngài rao giảng thẳng thắn không vì nể ai; ngài bị bắt và bị giết một cách nhục nhã như Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả rõ ràng là hình ảnh của Chúa Giêsu sau nầy
Người Kitô hữu chúng ta học được những gì nơi Gioan Tẩy giả?
Trước hết là phải sống đức tin, làm chứng cho Chúa cách can đảm bằng cuộc sống. Làm Kitô hữu hôm nay thật không đễ dàng gì. Khủng hoảng gia đình ngày càng tăng; cuộc sống càng ngày càng phức tạp; đạo đức suy dồi; giáo dục con cái trở thành một vấn nạn; xã hội đầy hận thù chia rẽ; đời sống đức tin và đạo đức đang giảm sút cách đáng kể; tất cả đều thay đổi một cách quá mau lẹ.
Trước những khó khăn của cuộc sống như thế, nhiều người Kitô hữu cảm thấy chới với, hoang mang. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Hãy quay về với với những lời rao giảng cũng như gương sống của Gioan Tẩy Giả. Hãy bắt đầu nơi chính mình: quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng. Hãy trở lại với một cuộc sống gương mẫu cho con cái mình cũng như cho xã hội hôm nay. Can đảm sửa mình, can đảm sống gương mẫu, đó là lời mời gọi của Thánh Gioan Tẩy giả hôm nay.
Suy Niệm 8: Thiên Chúa can thiệp dẫn đưa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mỗi người một cách, cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng như mỗi người chúng ta, từ lúc thụ thai tới khi sinh ra và qua mọi chặng đường đời, tất cả đều do bàn tay Thiên Chúa can thiệp dẫn đưa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày Thánh Gioan Tẩy Giả chào đời, mọi người vui mừng ngợi khen cảm tạ Chúa. Sự sinh hạ lạ lùng làm cho mọi người nhận ra bàn tay Chúa phù hộ trẻ này. Con tin rằng cuộc đời mỗi người chúng con, dù trong một hoàn cảnh đặc biệt hay bình thường, cũng đều do bàn tay Chúa can thiệp, do Chúa chuẩn bị và dẫn đưa. Bàn tay Chúa thường nhẹ nhàng, êm ái, âm thầm, con thường không nhận biết, nhưng thực ra, con đang bước theo bàn tay Chúa mở đường. Có những lúc con muốn trốn xa Chúa, nhưng đi đâu cho thoát khỏi bàn tay yêu thương của Chúa. Lạy Chúa, con chỉ biết dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn trìu mến.
Ngày con chào đời, cha mẹ, anh em họ hàng vui mừng vì con. Chắc chắn họ đã để tâm suy nghĩ và tự hỏi: đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây? Họ chờ đợi con sẽ lớn lên và trở thành niềm vui, niềm hy vọng và vinh dự cho họ. Nhưng rồi, lạy Chúa, đời con đã làm cho họ đau khổ, buồn sầu và thất vọng. Bàn tay Chúa vẫn ở với con, nhưng con đã vùng vẫy trốn chạy, con xin Chúa dẫn con trở về làm lại cuộc đời.
Hôm nay, con cầu xin Chúa đặc biệt cho các thiếu nhi bị bỏ rơi. Xin bàn tay Chúa dẫn đưa các em gặp được những tấm lòng quảng đại đầy yêu thương. Con cũng cầu xin Chúa cho nhân loại biết tôn trọng sự sống từ trong bào thai, vì các thai nhi cũng là con người do bàn tay Chúa tác tạo nên. Xin Chúa thương xót chúng con. Amen.
Ghi nhớ: ”Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả”.
Suy Niệm 9: Sinh nhật Gioan Tẩy giả
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Maria vừa mới về được mấy bữa, Elizabeth tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh được một con trai, bà con lối xóm nghe tin thì xúm lại chúc mừng. Và khi con trẻ đã được tám ngày thì làm phép cắt bì và định lấy tên cha là Giacaria mà đặt cho nó, nhưng bà E;izabeth bảo đặt tên nó là “Gioan”. Bà con không ai đồng ý nên hỏi ông Giacaria xem đặt tên nó là gì. Ông xin một tấm bảng và viết “Tên nó là Gioan”. Mọi người đều ngạc nhiên và nghĩ thầm rằng: con trẻ này là hồng ân Chúa ban và chắc nó sẽ làm được nhiều việc lạ. Thiên Chúa giữ đúng lời hứa với ông Giacaria. Ông cũng vâng lời Chúa dạy mà đặt tên Gioan cho con.
2. Tên Gioan có nghĩa là “Chúa thương”, là một tên gọi thật lạ, vì trong họ hàng ông bà Giacaria không ai có tên đó (vì theo phong tục phải đặt tên cha hay ít ra một người trong họ). Tên Gioan được chính Thiên Chúa đặt qua lời Sứ thần khi truyền tin cho ông Giacaria khi ông thực hiện sứ mạng tư tế trong Đền thánh (Lc 1,13).
Cái tên Gioan khiến mọi người kinh ngạc, vì khi ông Giacaria viết lên tấm bảng: đặt tên Gioan cho con trẻ, thì miệng lưỡi ông được mở ra, ông hết câm, nói được, và hơn nữa, ông cất tiếng ca tụng Thiên Chúa (Lc 167-79).
Vì thế, ở đây Luca có ý nhấn mạnh: biến cố cắt bì, đặt tên để trình bầy về thân thế và sứ vụ của Gioan, một người được Thiên Chúa thương và tuyển chọn cách kỳ lạ để dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
3. Gioan là tên không có trong gia tộc ông bà Giacaria, mà là tên Thiên Chúa đã đặt cho, ông bà đã vâng theo ý Chúa mà đặt tên cho con trẻ như vậy.
Mỗi người chúng ta sinh ra đều được cha mẹ đặt tên để phân biệt với người khác, nhưng qua bí tích Rửa tội, chúng ta được Chúa đặt tên là “Kitô hữu”, con cái của Người. Điều này gợi lên cho chúng ta niềm hạnh phúc vì được làm con cái Chúa và ý thức mình thuộc về Thiên Chúa, nên phải sống cho Chúa, vì Chúa và với Chúa cho xứng với phẩm giá của mình.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu về sứ vụ tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi các Kitô hữu nhớ lại ngày tái sinh của mình. Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
4. Niềm vui cần được chia sẻ cho mọi người.
Viết trình thuật cuộc chào đời của Gioan, Luca hữu ý đề cập đến một lớp nhân vật mà độc giả thường ít chú ý: đó là những người láng giềng của gia đình ông bà Giacaria. Niềm vui không gói kín trong gia đình ông bà. Niềm vui ấy lan tỏa sang những người láng giềng. Khi mô tả những người láng giềng “kinh sợ”, Luca không có ý nói họ bị thất thần vì một tai họa kinh hoàng nào đó. Ở đây thánh Luca dùng kiểu nói trong Cựu Ước diễn tả tâm trạng choáng ngợp trước những “điềm thiêng dấu lạ” là dấu chỉ sự hiện diện và can thiệp của Thiên Chúa. Những người láng giềng “kinh sợ” vì cảm kích trước ân phúc quá lớn lao và rõ ràng mà Thiên Chúa đang thực hiện nơi gia đình này.
Mỗi gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi chuyển trao sứ điệp yêu thương cứu độ của Thiên Chua cho người chung quanh. Chúng ta làm việc này trước hết bằng cách mỗi thành viên trong gia đình dứt khoát chọn lựa trung thành với thánh ý Chúa – như ông bà Giacaria khi đặt tên cho con là Gioan.
5. Mỗi người chúng ta sinh ra trong cuộc đời cũng có một sứ mạng để hoàn thành theo ý định của Thiên Chúa. Cách chung, sứ mạng đó nằm trong ơn gọi làm người của mình. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, có khả năng hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa. Con người phải sống theo lương tâm ngay thẳng để sống đúng phẩm giá làm người và hoàn thiện mình mỗi ngày nên tốt hơn. Ngoài ra, Thiên Chúa cũng để cho mỗi người một hoàn cảnh, một địa vị, một khả năng như phương thế để con người sống đúng ơn gọi làm người của mình. Như vậy, giá trị của đời người không hệ tại ở địa vị, hoàn cảnh, hay khả năng mà hệ tại ở việc con người biết nỗ lực hoàn thiện cuộc đời mình cho xứng với phẩm giá con người và xứng danh là con cái Chúa (R. Veritas).
6. Truyện: Một ông cụ quảng đại
Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại một câu chuyện một cụ già Ấn Độ như sau: Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc là, rượu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp đỡ chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đỗi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả.
Tuy niên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả... nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư từ với chàng mỗi lúc một nhiều... Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên tới 30 người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế đến giờ Chúa gọi”.
Suy Niệm 10: Tên Gioan = Chúa thương
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Phân tích
1. Trọng tâm của bài tường thuật là việc đặt tên cho con trẻ, một cái tên đặc biệt:
a/ Không theo tên người cha, việc lấy tên cha đặt cho con không phải là tục lệ, nhưng cũng có xảy ra khi người cha đã cao tuổi;
b/ Lấy một cái tên hoàn toàn không có trong họ hàng;
c/ Cả người cha dù câm và người mẹ đều nhất trí với tên này;
d/ Đó là tên chính Thiên Chúa đã chọn (Lc 1,13).
2. Tên Gioan nghĩa là “Chúa thương”. “Chúa thương” cũng là một ý mà Luca muốn nhấn mạnh trong bài tường thuật này. Bởi thế trong phần nhập đề ngài đã viết: “Nghe biết Chúa quá thương bà như vậy... ” (c. 57). Việc Gioan sinh ra là dấu Thiên Chúa tỏ tình thương: tình thương đối với dân Ngài, đối với vợ chồng Dacaria và đối với bản thân Gioan.
3. Tất cả những chi tiết đặc biệt ấy cho thấy Gioan là một người đặc biệt do Thiên Chúa chọn để trao cho một sứ mạng đặc biệt.
Suy gẫm
1. Con người không phải là một con số vô danh giữa đám đông loài người. Khi sinh ra, mỗi người đều được Chúa trao cho một sứ mạng, một ơn gọi, một ý nghĩa cho cuộc đời người đó sẽ sống. Ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa cuộc đời của Gioan là làm tiền hô cho Chúa Cứu thế. Còn ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa đời tôi là gì?
2. Mặc dù có thể tự mình đến với loài người, nhưng Chúa muốn có người làm tiền hô. Ngày xưa Thiên Chúa dùng Gioan làm tiền hô. Ngày nay Ngài cũng muốn chúng ta làm tiền hô, để Chúa Giêsu đến với tâm hồn từng người trong thế giới hôm nay.
3. Mỗi người chúng ta đều có thể mang tên Gioan nghĩa là “Chúa thương”, bởi vì mỗi người đều là một tác phẩm của tình thương Chúa. Kinh “Cám ơn” chúng ta thường đọc nhắc ta nhớ đến tình thương đó: Chúa đã chẳng để chúng ta là “không đời đời” mà đã sinh dựng nên ta; lại cho ta sinh ra làm người chứ không là gỗ đá hay súc vật; lại cho ta được làm Kitô hữu; có người còn được làm tu sĩ hay linh mục của Ngài...
4. “Ngay lúc ấy, miệng Dacaria lại mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 1,64)
Tôi có thói quen: trước khi làm một điều gì tôi luôn cầu nguyện. Tôi cầu xin Chúa cho mình vượt qua mọi chướng ngại và không bao giờ biết đến thất bại. Thành công, tôi hớn hở vui mừng và không ngớt lời tạ ơn Chúa. Lúc ấy, tôi rất hãnh diện với bạn bè. Nhưng khi thất bại, tôi cảm thấy buồn và cô đơn, vì nghĩ rằng Chúa bỏ rơi tôi, và bạn bè cũng xa lánh tôi. Tôi oán trách Chúa và mọi người. Sau này tôi mới hiểu ra đó là con đường tốt Chúa dẫn tôi đi ra khỏi những ảo tưởng về chính mình, về Thiên Chúa cũng như về mọi người.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con biết đường lối của Chúa và cho con theo đúng đường lối Người truyền dạy, để không ngừng chúc tụng Chúa Đấng Cứu Chuộc con.
Suy Niệm 11: Sứ mạng của Gioan
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Sau những tháng ngày tối tăm trong lòng mẹ, Gioan Tiền Hô đã chào đời giữa niềm vui chào đón của gia đình, của gia tộc và của làng xóm. Có lẽ niềm vui của họ đầu tiên chỉ vỏn vẹn trong việc có được một cậu con trai nối dõi tông đường, một cây gậy để chống lúc tuổi già. Nhưng Thiên Chúa đã ban cho họ những điều còn hơn lòng họ mong ước: không những họ được thoát khỏi những điều sỉ nhục không còn son sẻ mà con của họ còn trở thành “vị Tiền Hô của Đấng Tối Cao”.
Đọc lại tiểu sử của Gioan, chúng ta thấy Ngài đã được sinh ra cho một sứ mệnh đặc biệt: con sẽ là tiên tri của Đấng Tối Cao. Gioan đã hết lòng hết dạ với sứ mệnh của mình. Ông đã sống thật can đảm, không sợ quan quyền, vua chúa, được mọi người kính nể, đến nỗi có người đã lầm tưởng ông chính là Đấng Cứu Thế. Để chu toàn được sứ mệnh cao cả đó, Gioan đã tự nguyện sống một cuộc sống khắc khổ và hy sinh. Ngài sống khó nghèo như Chúa Giêsu. Ngài rao giảng thẳng thắn không vị nể ai; Ngài bị bắt và bị giết một cách nhục nhã như Chúa Giêsu. Gioan Tẩy Giả rõ ràng là hình ảnh của Chúa Giêsu sau này. Người Kitô hữu chúng ta học được những gì nơi Gioan Tẩy Giả?
Con người không phải là một con số vô danh giữa đám đông loài người. Khi sinh ra, mỗi người đều được Chúa trao cho một sứ mạng, một ơn gọi, một ý nghĩa cho cuộc đời. Ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa cuộc đời của Gioan là làm Tiền Hô cho Chúa Cứu Thế. Còn ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa đời tôi là gì? Sứ mạng của mỗi người chúng ta cũng là sứ mạng làm chứng. Làm chứng bằng chính cuộc sống của mình. Làm Kitô hữu hôm nay thật không dễ dàng gì. Khủng hoảng gia đình ngày càng tăng; cuộc sống càng ngày càng phức tạp; đạo đức suy đồi; giáo dục con cái trở thành một thách thức; xã hội đầy hận thù chia rẽ; đời sống đức tin và đạo đức đang giảm sút đáng lo; tất cả đều thay đổi một cách quá mau lẹ. Trước những khó khăn của cuộc sống như thế, nhiều người Kitô hữu cảm thấy chới với, hoang mang. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Hãy quay về với những lời rao giảng cũng như gương sống của Gioan Tẩy Giả. Hãy bắt đầu nơi chính mình: quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng. Hãy trở lại với một cuộc sống gương mẫu cho con cái mình cũng như cho xã hội hôm nay. Can đảm sửa mình, can đảm sống gương mẫu, đó là lời mời gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay.
Thứ đến là phải luôn ý thức về tình thương của Chúa. Mỗi người chúng ta đều có thể mang tên Gioan (nghĩa là “Chúa thương”) bởi vì mỗi người đều là một tác phẩm của tình thương Chúa. Nếu chúng ta biết nhìn, chúng ta sẽ thấy cả cuộc đời của chúng ta là một hồng ân. Tất cả là hồng ân bởi vì:
Chúng ta đã được sinh ra với đôi mắt nằm phía trước để luôn nhìn sự việc đang diễn ra thay vì cứ ngoái nhìn lại những điều đã qua. Chúng ta đã được sinh ra với đôi tai - một bên trái và một bên phải - để có thể nghe cả hai phía, để nghe đủ những lời ca tụng cũng như những lời phê bình, để phân biệt đúng sai. Chúng ta đã được sinh ra với một bộ óc nằm dưới hộp sọ, cho dù có nghèo đi chăng nữa chúng ta vẫn luôn giàu có vì chẳng ai có thể lấy cắp được bộ óc sản sinh ra nhiều suy nghĩ và ý tưởng độc đáo của ta.
Chúng ta đã được sinh ra với đôi vai nối liền đôi tay để gánh vác những nhiệm vụ trọng trách. Hơn nữa, một để giúp đỡ bản thân, một để giúp đỡ người khác. Chúng ta đã được sinh ra với một đôi chân dài và lớn để đi nhiều nơi, để mắt được quan sát, để trí não được mở mang. Nhưng chúng ta chỉ sinh ra với một cái miệng, vì miệng là vũ khí sắc bén. Nó có thể làm tổn thương, đau lòng hay giết chết kẻ khác. Hãy ghi nhớ câu nói: nói ít, nhìn thấy và lắng nghe nhiều. Chúng ta được sinh ra với chỉ một trái tim nằm sâu trong lồng ngực, nhắc nhở ta phải trân trọng và biết yêu vô điều kiện.
Cuối cùng, như Giacaria ”khi miệng được mở ra, ông nói được và ngay lập tức ông dâng lời chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 1,64)
Hãy tập cho mình có thói quen: trước khi làm một điều gì phải biết cầu nguyện, cầu xin Chúa cho mình vượt qua mọi chướng ngại và không bao giờ biết đến thất bại. Nếu có thành công, hãy vui mừng và tạ ơn Chúa. Và nhỡ có khi thất bại, chúng ta cũng đừng nản chí buồn lòng hay là nghĩ Chúa đã bỏ rơi mình. Đừng bao giờ oán trách Chúa cũng như mọi người. Hãy tin vào đường lối Chúa dẫn chúng ta đi. Lạy Chúa, xin chỉ cho con biết đường lối của Chúa và cho con theo đúng đường lối Người truyền dạy, để không ngừng chúc tụng Chúa, Đấng cứu chuộc con. (Epphata).
22/12 Bài ca tạ ơn
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Bài ca tạ ơn.
Thứ Sáu tuần 3 mùa vọng.
"Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại".
LỜI CHÚA: Lc 1, 46-56
Khi ấy, Maria nói rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nữ tỳ hèn mọn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài ca ngợi khen Đức Chúa bật ra trên môi Maria
sau khi bà Êlisabét cất tiếng ca ngợi Mẹ.
Êlisabét ca ngợi Maria là người được chúc phúc hơn mọi phụ nữ
vì Mẹ đang cưu mang trong dạ Đấng Cứu Tinh.
Bà còn ca ngợi Maria có phúc vì đã dám tin vào lời Chúa phán,
và dám liều để cho lời ấy dẫn dắt đời mình.
Nhờ được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét mới biết được Tin Vui
mà Maria tưởng rằng đó là bí mật chỉ riêng mình biết.
Khi đứng trước bà chị cao niên đang mang thai,
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần nói,
và vào mầu nhiệm đang âm thầm lớn lên nơi cung lòng mình.
Khi bà chị Êlisabét ca ngợi Mẹ, thì Mẹ hân hoan ca ngợi Thiên Chúa.
Maria nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Độ của Mẹ (c. 47).
Nếu Mẹ được đầy ân sủng, được Chúa ở cùng và được đẹp lòng Ngài,
nếu Mẹ được thụ thai Con Đấng Tối Cao nhờ Thánh Thần (Lc 1, 28-35),
thì đó không phải là do công của Mẹ, nhưng là ơn của Chúa.
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả” (c. 49).
Maria không có một sự khiêm nhường giả tạo về mình.
Khiêm nhường thực sự là nhìn nhận sự thật.
Mẹ nhìn nhận những điều độc nhất vô nhị Chúa làm cho đời mình.
Ngài đã nhìn xuống đời Mẹ, cuộc đời thấp hèn của một tỳ nữ.
Và cái nhìn cúi xuống của Ngài đã nâng Mẹ lên cao,
khiến cho muôn thế hệ phải ngợi khen, tôn kính (c. 48).
Nhưng Maria không phải là người duy nhất được Thiên Chúa thi ân.
Ngài thương xót những ai hèn mọn, đói nghèo, biết kính sợ Chúa.
Ngược lại, Ngài giơ cánh tay biểu dương sức mạnh (cc. 50-53),
để dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi đi kẻ giàu sang.
Thiên Chúa đầy thương xót, nên cũng mạnh tay để tạo lại sự công bằng,
để đem lại sự no đủ cho người nghèo và sự tự do cho người bị áp bức.
Thiên Chúa ấy cũng trung tín giữ lời hứa với Dân Ítraen (cc. 54-55).
Maria đã ở lại với bà chị họ độ ba tháng mới trở về nhà.
Ba tháng mang thai đầu tiên của một người mẹ trẻ đâu có dễ.
Maria đã ở lại để phục vụ cho bà Êlisabét gần ngày sinh.
Mẹ quên gánh nặng của mình để mang gánh nặng của người khác.
Êlisabét hẳn là vui vì được hầu hạ bởi Thân Mẫu Chúa.
Gioan trong bụng mẹ sung sướng vì được gần Đấng Thiên Sai.
Ít khi ta suy niệm chuyện Đức Maria mang thai hơn chín tháng.
Thai Nhi Giêsu lớn dần lên từng ngày trong dạ mẹ, chờ ngày chào đời.
Tình Mẹ-Con cũng lớn lên, thân thiết, gần gũi.
Mang thai và sinh con là niềm vui, nhưng đòi bao hy sinh nhọc nhằn,
nhất là vào thời xưa, khi vệ sinh và tiện nghi không có.
Để sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, vẫn cần có những Maria
chấp nhận cưu mang, chấp nhận vượt cạn,
chấp nhận kiên nhẫn chờ đợi để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con. Amen.
Suy Niệm 2: Tình thương của Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Từ khi con người tách lìa Thiên Chúa, thế giới đi vào bế tắc. Thế giới đổ vỡ. Trật tự đảo lộn. Mọi thứ đều như chống lại con người. Con người chống lại nhau và chống lại chính mình. Mạnh hiếp yếu. Giầu áp bức nghèo. Lớn chèn ép nhỏ. Nhưng chính những người làm khổ người khác cũng chẳng thấy vui. Con người đi trong đêm tối. Không thấy tia hi vọng nào.
Nhưng khi có bàn tay Chúa can thiệp mọi sự đổi khác. Bà An-na được Chúa ban cho người con trai. Bà thoát khỏi nỗi ô nhục bị người đời cười chê. Bà được đổi đời. Bà được hãnh diện. Biết rằng mình được như vậy là nhờ ơn Chúa. Bà nhận ra tất cả là của Chúa. Chính vì thế bà tạ ơn Chúa muôn ngàn lần. Không những dâng lễ vật trọng hậu mà còn dâng chính người con vào đền thờ để phục vụ Chúa. Của Chúa phải dành cho Chúa. Bà đã cảm nhận được tình thương của Chúa. Tình thương Chúa giải thoát bà, đổi đời bà.
Đức Mẹ còn cảm nhận được ơn Chúa cách thâm sâu và cao xa hơn nữa. Đức Mẹ và bà Ê-li-sa-bét được chứng kiến một sự lạ lớn lao. Thánh Gio-an được tha tội đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Cả hai nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa. Bà Ê-li-sa-bét lớn tiếng ca tụng Đức Mẹ. Lập tức Đức Mẹ cất tiếng ca tụng Chúa. Tất cả là tình thương của Chúa: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”. Tình thương đó thay đổi cuộc đời Đức Mẹ: “Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Còn hơn thế, tình thương Chúa sẽ thay đổi thế giới. Một cuộc cách mạng thay bậc đổi ngôi sẽ xảy ra. Để thế giới được sống trong công lý và hoà bình: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giầu có, lại đuổi về tay trắng”. Tất cả là do tình thương của Chúa. “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”.
Thế giới chúng ta đang sống đầy vấn đề. Cuộc đời ta đầy bế tắc. Nhất là tội lỗi không buông tha. Luôn trói buộc ta. Gần đến ngày Chúa ngự viếng thăm. Ta tràn trề hi vọng. Tình thương Chúa sẽ đổi mới bản thân ta. Chúa sẽ làm một cuộc cách mạng thay đổi thế giới. Muôn dân sẽ sống trong an lạc thái hoà. Nhưng điều cần là tôi phải noi gương bà An-na và Đức Mẹ, luôn chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa đến. Với niềm tin tưởng. Với đời sống ngay thẳng trong sạch. Và với tâm tình biết ơn tình thương bao la của Chúa.
Suy Niệm 3: Magnificat
Người đời Đức Kitô không những giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài còn là kiểu mẫu của con người đã được giao hoà. Ngài đến để mang lại Tin mừng. Tin mừng ấy chính là con người với Tin mừng cho bằng thái độ phấn khởi vui tươi trong cuộc sống.
Đức Maria là người đầu tiên đã đón nhận ơn cứu độ. Thái độ của Ngài cũng là thái độ mẫu mực cho người Kitô hữu. Người đã mau mắn ra đi đến với Isave để báo tin vui, và trong một giây phút xuất thần, Người đã để cho lời ca của cả một dân tộc được hát lên. Bài ca ấy qua muôn thế hệ được Giáo Hội lấy làm chính lời kinh của mình.
Trong Giáo hội và cùng với Giáo hội, mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca ấy. “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi”, đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong người Con Một ấy, chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng, không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà cha, có biết bao người cùng tiến bước với chúng ta.
Ước gì niềm vui ơn cứu độ luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta, ước gì cùng với Đức Maria, lời kinh muôn thủa của chúng ta luôn là lời ca tán dương Chúa trong từng phút giây cuộc sống.
Suy Niệm 4: Ngợi khen Chúa
Bấy giờ Maria nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. (Lc. 1, 46-47)
Tin mừng hôm nay là một bài ca đẹp về việc tạ ơn, có thể chia làm hai nhịp:
Trước hết là tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban ơn riêng cho Đức Maria:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Chúa đã thương đến phận hèn tớ nữ,
Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.
Thực vậy, Đức Maria đã nhận biết Thiên Chúa, đã yêu thương chính riêng mình. Ngài đã tín thác cho Mẹ một sứ mệnh cao cả. Đức Maria, trong niềm phấn khởi vô tận, đã khám phá thấy Thiên Chúa đã đổ đầy cho mình muôn ơn lành. Còn chúng ta, khi có ai tin tưởng trao cho mình nhiệm vụ lớn lao hay ban cho mình một quà tặng, chúng ta tự nhiên ca tụng họ hết lời: “Anh đã rất tốt nghĩ đến tôi, thật quá tốt, tôi còn lâu mới xứng đáng được như vậy”.
Đến lượt chúng ta, chúng ta có biết dừng những giây phút để khám phá ra trong đời mình những điều mà Thiên Chúa đã thương yêu thực hiện cho chính mình không? Khi khám phá được thế, chúng ta sẽ dễ dàng noi gương Đức Maria để cầu nguyện với con tim tự phát thành bài ca cảm tạ ngợi khen Chúa đã làm cho mình những điều lạ lùng.
Nhưng Đức Maria còn đi xa hơn nữa, trong lời cầu nguyện tạ ơn khi nhìn đến hàng loạt những cử chỉ Thiên Chúa đã tỏ ra cho dân mình trong suốt chiều dài lịch sử.
Lòng thương xót nhân ái của Chúa đã trải qua đời nọ tới đời kia cho những ai kính sợ Ngài … tức là những người đã sống liên đới với Chúa từ Áp-ra-ham xuyên suốt tới hết thảy dòng dõi ông, Thiên Chúa đã yêu thương những kẻ nghèo khó và những kẻ hèn mọn.
A. N
Suy Niệm 5: Linh hồn tôi tạ ơn Chúa
Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, cha ông ta rất đề cao chữ hiếu và lòng biết ơn sâu xa đến với những người làm ơn cho mình. Không biết nói lời cám ơn, đồng nghĩa với việc bất hiếu.
Hôm nay, Tin Mừng cho thấy việc Đức Maria đã hân hoan dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu nơi Mẹ, lời tạ ơn ấy được gói trọn trong bài ca Magnificat.
Bài ca này, Mẹ Maria muốn diễn tả:
Thứ nhất, tâm tình ngợi khen, chúc tụng vì Thiên Chúa đã làm những việc cả thể nơi Mẹ là đã thương chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đấng mà muôn dân mong đợi.
Thứ hai, Mẹ nhận thấy Mẹ được muôn đời khen ngợi vì có phúc là bởi Mẹ có Chúa ở cùng, nên lòng Mẹ sung sướng, tràn ngập trong ân sủng.
Thứ ba, Mẹ đã ca ngợi sự khôn ngoan của Thiên Chúa khi ra tay dẹp tan lòng trí người kiêu căng, nhưng lại ra tay bênh đỡ kẻ nghèo hèn.
Cuối cùng, Mẹ đã ca ngợi sự trung thành của Thiên Chúa trong việc giữ lời hứa ban Đấng Cứu Độ. Nếu trong Vườn Địa Đàng, con người phạm tội và Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế đến, thì hôm nay, Đấng mà muôn dân mong đợi đã đến trong cung lòng Mẹ, Ngài sẽ cứu chuộc Israel và muôn dân...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Chúa vì Ngài cũng làm cho chúng ta biết bao kỳ công. Ơn vĩ đại nhất chính là ơn cứu độ. Hành vi cao thượng hơn cả đó chính là sự quảng đại, tha thứ của Thiên Chúa trên mỗi người.
Cất cao lời tạ ơn Chúa còn giúp cho chúng ta nhận ra mình yếu đuối và đang được Thiên Chúa thương yêu. Đồng thời cũng bày tỏ lòng sám hối, biết ơn với Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành.
Lạy Thiên Chúa tình yêu, chúng con xin hợp cùng Mẹ Maria cất cao lời ngợi khen Chúa vì Chúa đã làm cho chúng con biết bao điều kỳ diệu. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đức Mẹ vui mừng dâng lời ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa vì Người đoái thương nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn của Mẹ. Chúa hạ bệ những kẻ cao ngạo và nâng cao kẻ khiêm nhường.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong phút cầu nguyện hôm nay, con muốn nối tiếp lời tạ ơn của Mẹ Maria để dâng lên Chúa lời ngợi khen cảm tạ của chính con. Nhìn vào bản thân con, đời sống con, những người thân yêu của con, con nhận thấy muôn vàn ân huệ Chúa đã tuôn đổ trên chúng con. Có những ơn con thấy được, nhưng cũng có rất nhiều ơn con không nhận ra. Dù con chưa nhận ra, nhưng con biết rằng toàn thân con, tất cả nhưng gì làm nên đời sống con, những gì con đang được hưởng, và lạy Chúa, ngay cả những gì con đang gánh chịu, tất cả đều do tình thương Chúa ban tặng cho con. Có gì con có mà không phải nhận lãnh đâu.
Lạy Chúa, con chỉ là tạo vật hèn mọn, đôi tay bất xứng lại luôn xòe rộng để hứng đón hồng ân. Con chẳng là gì cả, nhưng Chúa vẫn đoái nhìn đến con. Chúa vẫn cho con là quan trọng và ban tặng hồng ân. Con xin Chúa cho con mang lấy tâm tình của Mẹ Maria: càng được Chúa đoái nhìn và cho là quan trọng, thì Mẹ lại càng thấy mình chẳng là gì cả.
Phần con, con chẳng là gì, nhưng đôi khi con lại cho mình là quan trọng, con đưa mình lên cao quá, con tự mãn về mình. Con biết Chúa yêu kẻ khiêm nhường và chống lại kẻ kiêu ngạo. Xin Chúa cho con biết sống khiêm nhường để được Chúa nâng cao trong trái tim Chúa. Xin cho con sống tâm tình biết ơn để xứng đáng tiếp tục nhận lãnh tình thương của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại”.
Suy Niệm 7: Bài ca Magnificat
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nghe lời ca ngợi của bà Elizabeth, Đức Maria vô cùng xúc động vì ơn cao trọng Chúa ban, nên dâng lên Chúa lời cảm tạ ngợi khen như sau:
Chúa là đấng toàn năng cao cả đã thương Mẹ là phận hèn tớ nữ, vì muôn đời Chúa hằng thương xót kẻ khiêm nhường, nghèo khó; còn hạng kiêu căng, giầu có ỷ thế thì Chúa lật đổ xuống. Chúa luôn luôn giữ đúng lời hứa. Người đã cứu dân Người như đã phán hứa cùng các tổ phụ xưa.
Mẹ Maria muốn nói với chúng ta: Thiên Chúa làm được mọi việc trọng đại lạ lùng cho chúng ta, với điều kiện chúng ta biết nhận mình hèn mọn, kém cỏi, thiếu sót tất cả; hoàn toàn trông cậy, tin tưởng, phó thác cho Chúa.
2. Trong bài ca Magnificat (Lc 1,46-55), Đức Maria ca tụng kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện ở nơi mình, đó là mầu nhiệm Nhập Thể. Đồng thời, bài ca này tuyên dương Thiên Chúa là Đấng”Toàn Năng”, “Lân Tuất”. Người lưu tâm đến những kẻ khó nghèo khiêm tốn. Đức Maria không những chỉ cảm tạ Thiên Chúa vì những đặc ân dành cho bản thân mình, nhưng còn chúc tụng Người vì tấm lòng trung tín và quảng đại dành cho dân Israel và toàn thể nhân loại. Đối lại, bài ca này mở màn cho những lời chúc tụng mà Hội Thánh dâng lên Đức Maria, kẻ có phúc vì đã tin.
3. Bài ca Magnificat là bài ca tụng những kỳ công lạ lùng của Chúa đã làm để cứu chuộc nhân loại. Những sự lạ lùng cùa thời Cựu Ước là: việc tạo dựng, phép lạ xuất hành, việc ban hành Lề luật. Nhưng nơi Đức Maria, Chúa đã làm những điều cao cả hơn: Ngài đã cho Đấng Cứu Thế sinh ra làm người.
Chúng ta cần nhậy cảm khám phá ra những kỳ công lạ lùng của Chúa nơi vũ trụ vạn vật, nơi xã hội và con người, nơi Hội thánh và những Kitô hữu, nơi chính bản thân mình để ca tụng quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
4. Mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi”. Đó phải là bài ca trong từng giây phút cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong Người Con Một ấy chúng ta tìm được ánh sáng, chân lý, bình an và hy vọng; không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà Cha, có biết bao người tiến bước với ta (Mỗi ngày một tin vui).
5. Chúng ta hãy đón nhận lời mời gọi của thánh Ambrôsiô khi giải thích bài ca Magnificat của Mẹ Maria, như sau:
“Ước chi linh hồn của Mẹ Maria hiện diện trong mỗi tín hữu để ngợi khen Thiên Chúa; ước chi thần trí của Mẹ Maria hiện diện nơi mỗi tín hữu để nhảy mừng trong Thiên Chúa; trên bình diện thể xác, chỉ có một người là Mẹ của Chúa Kitô, nhưng trong bình diện đức tin, tất cả mọi linh hồn đều “sinh ra” Đấng Kitô. Thật vậy, mỗi tín hữu đón nhận trong tâm hồn Ngôi Lời Thiên Chúa... Linh hồn Mẹ Maria chúc tụng Thiên Chúa, và Thần trí Mẹ nhảy mừng trong Thiên Chúa, bởi vì, được tận hiến hoàn toàn linh hồn và thần trí cho Chúa Cha và Chúa Con, Mẹ Maria, với hết tấm lòng yêu mến, tôn thờ một Vị Thiên Chúa Duy Nhất, nguồn mạch của mọi sự, tôn thờ một Thiên Chúa mà từ đó mọi sự được hiện hữu”.
6. Chúng ta hãy học gương Mẹ Maria sống tâm tình biết ơn và cảm tạ.
Biết ơn là bổn phận của thụ tạo đối với Đấng Tạo Hóa, biết ơn còn là sự chân nhận mình bé nhỏ không làm được gì, không có cái gì mà tất cả luôn luôn nhận ơn ban từ Chúa. Nhưng biết ơn không chỉ dừng lại nơi nhận thức và công nhận điều mình được mà còn đòi hỏi sự đáp trả. Mẹ Maria là gương mẫu tuyệt hảo về tấm lòng biết ơn. Qua bài ca tuyệt diệu này, chúng ta thấy tâm hồn Mẹ đã tràn đầy lòng biết ơn sâu xa đối với Thiên Chúa. Chính vì lòng biết ơn đó đã làm Mẹ hướng tâm trí lên Thiên Chúa và trải rộng ra tới tha nhân.
7. Truyện: Con người phải biết cám ơn.
Có hai người bộ hành đi trong một khu rừng rậm. Đó là hai ông cháu. Trời nóng và oi bức. Họ khát nước. Cuối cùng, ông cụ và đứa cháu cũng tìm đến một con suối nhỏ. Hai người cúi xuống uống nước. Uống xong ông cụ nói: “Cảm ơn dòng suối nhỏ nhé”.
Đứa cháu thấy vậy thì cười. Ông cụ liền hỏi: “Sao cháu lại cười”? Đứa cháu trả lời: “Có gì mà ông phải cám ơn dòng suối chứ? Nó có phải là người đâu? Nó không nghe được lời ông nói, nó không hiểu được lời cám ơn của ông”.
Ông cụ tỏ vẻ suy nghĩ. Dòng suối vẫn chảy róc rách. Chim vẫn hót vang trong cánh rừng. Sau một hồi lâu im lặng, ông bảo với đứa cháu: “Thế đấy, dòng suối có nghe thấy gì đâu. Nếu như có một con sói đến uống nước, có thể nó không biết ơn dòng suối. Nhưng chúng ta không phải là chó sói, mà là con người. Đừng quên điều đó cháu ạ. Cháu có biết con người nói hai tiếng cám ơn là để làm gì không”?
Đứa bé trầm ngâm. Nó chưa bao giờ suy nghĩ về điều đó. Cụ già chậm rải bảo cháu: “Cháu ơi, con người nói lên hai tiếng cám ơn chính là để không bao giờ trở thành chó sói”.
Suy Niệm 8: Bài ca Magnificat
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Phân tích
Đây là bài ca Magnificat mà Giáo Hội vẫn thường hát và thích hát.
- Hoàn cảnh: Đức Maria vừa được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế mà muôn dân trông đợi hàng bao nhiêu thế kỷ nay. Người hay tin bà chị họ là Êlisabét cũng đã mang thai trong lúc tuổi già, nên Người vội vã lên đường đến thăm và giúp đỡ người chị họ ấy. Khi hai người gặp nhau, Bà Êlisabét chức mừng Đức Maria “Em có phúc hơn mọi người phụ nữ”; còn bà Êlisabét thì tràn ngập vui mừng “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi”; ngay cả bào thai trong bụng bà Êlisabét cũng vui mừng đến nỗi nhảy lên! Trong bầu khí tràn ngập vui mừng ấy, Đức Maria đã hát lên bài ca này để tán dương và tạ ơn Thiên Chúa vì đã thương đến những người hèn mọn khiêm nhu.
- Bối cảnh: Thực ra bài ca này không phải do Đức Mẹ đã một mình sáng tác. Nó là cô đọng cả một trào lưu suy tư của những người hèn mọn trải suốt lịch sử cứu độ. Từ xưa đến nay và mãi tới muôn đời, hễ ai hèn mọn nhưng biết khiêm tốn nương nhờ nơi Thiên Chúa thì Ngài sẽ bênh vực che chở. Còn những người “lớn” và “mạnh” mà kiêu căng ỷ sức mình hay cậy vào những thứ mình đang có thì Thiên Chúa sẽ hạ bệ. Đức Maria chỉ làm công việc đúc kết tất cả những cảm nghiệm ấy trong bài ca Magnificat này.
Suy gẫm
1. “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”: không phải chỉ một mình Đức Mẹ có thể thốt lên lời ca này, không phải chỉ có các thánh mới có thể hát như Đức Mẹ, mà bất cứ ai cũng đều có thể như thế, miễn là phải chịu khó nhìn lại đời mình và nhận ra những ơn lành Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mình.
Hãy nhìn lại dòng đời của mình, xin Chúa và Đức Mẹ mở trí mở lòng để chúng ta nhận ra những ơn của Ngài, và chúng ta hãy cùng Đức Mẹ hát lên những lời tạ ơn tán tụng.
2. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao những kẻ khiêm nhu”: Đây là một chân lý, chân lý đã được chứng minh qua hàng bao nhiêu ngàn năm. Thế thì tại sao tôi lại cứ mãi ngu dại sống kiêu căng tự phụ. Người kiêu căng tự phụ không những sẽ bị mọi người ghét bỏ, mà ngay cả chính Thiên Chúa cũng hạ bệ.
3. Mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi. ” Đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính Máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong Người Con Một ấy chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng; không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà Cha, có biết bao người cùng tiến bước với ta.
4. “Đức Maria nói: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1,46-47)
Thuở còn bé, khi tôi xoè bàn tay nhỏ xíu hứng những giọt nước mưa, những hạt nước chảy tràn ra ngoài. Tôi cảm thấy thiên nhiên thật kỳ diệu! Lớn lên, cũng với bàn tay ấy, tôi mở ra để đón nhận hồng ân Thiên Chúa, những ân huệ của Người và của Đời. Không biết vì tay tôi lớn hay vì ân huệ kia quá ít mà chưa bao gờ tôi cảm thấy đủ, để nói lên lời tạ ơn. Tôi đã không nhận ra những ân huệ đang tuôn đổ trên tôi mỗi ngày.
Đức Maria đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa và đón nhận với tâm tình ngợi khen, cảm tạ. Vì khiêm nhu nhỏ bé, Mẹ đã nhận ra ơn Người thật lớn lao.
Lạy Cha, xin ban cho con quả tim đơn sơ, luôn biết ngỡ ngàng trước tình yêu Cha dành cho con, để có thể cất lên lời tạ ơn Cha mỗi ngày trong đời con.
Suy Niệm 9: Noi gương Mẹ-biết cám ơn Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúng ta noi gương Đức Maria để biết cám ơn Chúa, vì Chúa hơn là vì những ơn ta được. Hãy tập cho mình có tâm tình cảm tạ tri ân mỗi khi chúng ta được thụ ơn.
Có hai người bộ hành đi trong một khu rừng rậm rạp. Đó là hai ông cháu. Trời nóng và oi bức. Họ khát nước. Cuối cùng, ông cụ và đứa cháu đến một con suối nhỏ. Hai người cúi xuống uống nước. Uống xong ông cụ nói:
- Cám ơn dòng suối nhỏ nhé!
Đứa cháu thấy vậy thì cười. Ông cụ hỏi:
- Sao cháu lại cười?
Đứa cháu trả lời:
- Có gì mà ông phải cám ơn dòng suối? Nó có phải là người đâu? Nó không nghe được lời ông nói, nó không hiểu được lời cám ơn của ông.
Ông cụ tỏ vẻ suy nghĩ. Giòng suối vẫn chảy róc rách. Chim vẫn hót vang trong rừng... Sau một hồi lâu im lặng, ông bảo:
- Thế đấy, giòng suối có nghe thấy gì đâu. Nếu như có một con sói đến uống nước, có thể nó không biết cám ơn giòng suối. Nhưng chúng ta không phải là chó sói, mà là con người. Đừng quên điều đó cháu ạ…Cháu có biết con người nói hai tiếng cám ơn là để làm gì không?
Đứa bé trầm ngâm. Nó chưa bao giờ suy nghĩ về điều đó. Cụ già chậm rãi bảo cháu:
- Cháu ơi, con người nói lên hai tiếng cám ơn chính là để không bao giờ trở thành... chó sói!
2. Bài ca Magnificat là những lời bộc phát tâm tình hân hoan hiếu thảo chan chứa của kẻ chịu ơn đối với Đấng ban ơn.
Mỗi lần đến với Chúa qua những việc đạo đức, chúng ta cũng cần phải nhận ra những ơn Chúa ban để khơi dậy niềm tin cậy mến và tâm tình hân hoan hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân lành và luôn yêu thương chúng ta.
Sách Gương Chúa Giêsu khuyên: "Hãy biết ơn vì những ơn nhỏ, bạn sẽ đáng được ơn lớn.
Dầu Chúa phạt, Chúa đánh, bạn cũng hãy tạ ơn Chúa; vì không có gì Chúa để xảy đến mà không cốt mưu phần rỗi cho ta. "
Bài Magnificat là bài ca tụng những kỳ công lạ lùng của Thiên Chúa đã làm để cứu chuộc nhân loại. Những sự lạ lùng của thời Cựu Ước như việc tạo dựng vũ trụ (St 5,9), phép lạ Xuất hành (Xh 3,24), việc ban hành lề luật. Đó là những kỳ công Chúa đã làm vv... (Tv 119,18), nhưng ở nơi Đức Maria, Thiên Chúa còn làm những điều cao cả hơn nữa: Người đã cho Đấng Cứu Thế sinh ra làm người.
Chúng ta cần phải biết nhạy cảm để khám phá ra những kỳ công lạ lùng của Thiên Chúa nơi vũ trụ vạn vật, nơi xã hội và con người, nơi Hội Thánh, nơi những Kitô hữu, nơi chính bản thân mình để ca tụng quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Bài ca Magnificat còn là bài ca, ca tụng sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã thương yêu những kẻ nghèo hèn khiêm nhu. Chính vì khó nghèo khiêm nhu mà người ta biết đặt tất cả lòng tín thác vào một mình Thiên Chúa và tùy thuộc Người. Chính vì thế mà lòng đạo đức được nảy nở. Sau này trong bài giảng về những mối phúc thật, Chúa Giêsu đã công khai chúc phúc cho những hạng người đó. Như vậy là từ đây những kẻ nghèo khó, dốt nát, hèn yếu trên đời này không còn là những kẻ khốn nạn phải thất vọng, từ đây họ được Thiên Chúa yêu thương, nâng đỡ, bênh vực và che chở.
Mục sư Thomas Collins kể lại rằng: Một gia đình nơi ông phục vụ có một thiếu phụ sống rất bi quan và luôn cảm thấy rằng, Chúa đã bỏ mình. Một hôm, mục sư Collins gặp thiếu phụ đang bế con, ông bảo bà:
- Bà hãy buông đứa bé xuống đất đi?
Thiếu phụ nhìn mục sư ngạc nhiên không hiểu tại sao ông lại nói như thế?
Mục sư lại bảo:
- Nếu có ai trả cho bà một số tiền lớn để buông đứa bé cho cháu rơi xuống sàn nhà, bà có chịu làm không?
Hơi tức giận, thiếu phụ nói:
- Dù cho người ta có cho tôi nhiều tiền như sao trên trời, tôi cũng không đời nào buông con tôi cho nó rơi xuống đất và phải chịu đau đớn như vậy.
Lúc ấy, mục sư ôn tồn bảo:
- Bà có nghĩ là tình thương của bà đối với đứa trẻ này lớn hơn tình thương của Thiên Chúa đối với con cái của Người chăng?
Nghe vậy thiếu phụ liền bừng tỉnh.
Hãy noi gương Đức Mẹ biết tin tưởng phó thác đời mình cho tình thương của Thiên Chúa chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy.
Amen.
21/12 Thăm viếng.
- Viết bởi Lc 1, 39-45
Thăm viếng.
Thứ Năm tuần 3 mùa vọng.
"Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi".
LỜI CHÚA: Lc 1, 39-45
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
vì chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Cầu nguyện:
Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại.
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Suy Niệm 2: Chúa là niềm vui
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tình yêu làm nên niềm vui. Tội lỗi gây nên nỗi buồn. Vì ngăn cách con người với Thiên Chúa. Biết bao đau thương, buồn tủi, xót xa. Nhưng rồi đến thời của ơn cứu độ. Chúa xuống cứu loài người. Đó là thời điểm của tình yêu.
Sách Diễm ca diễn tả sự náo nức của Thiên Chúa trên đường đến gặp con người. “Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi”. Tình yêu bừng cháy trong lòng khiến cả vũ trụ thay đổi. Chim chóc ca hát. Hoa lá nở tưng bừng. Hương thơm ngào ngạt: “Sơn hà nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp đồng quê ta. Vả kia đã kết trái non, vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào”.
Sách Xô-phô-ni-a diễn tả niềm vui của con người được gặp Chúa: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! …Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa”. Nhưng lạ lùng thay niềm vui của Chúa thật lớn lao khi được gặp con người. Đến nỗi Chúa nhảy lên vui sướng: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng”.
Tất cả những tiên báo đã ứng nghiệm khi Đức Mẹ đến viếng bà Ê-li-sa-bét. Chúa còn trong bào thai đã đem niềm vui đến cho Gio-an. Đến nỗi ông nhảy mừng trong lòng mẹ. Đó là niềm vui ơn cứu độ. Được tha hết tội khiên, Gio-an vui sướng nhảy mừng. Đó là niềm vui của cả nhân loại. Thời tình yêu đã đến. Thời ân phúc khởi đầu. Sẽ tràn lan cả địa cầu. Niềm vui của Gio-an tràn sang bà mẹ. Khiến bà cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa và ca ngợi Đức Mẹ. Đức Mẹ cùng hợp tiếng ca tụng Chúa trong bài Magnificat tuyệt diệu. Đức Mẹ cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa từ ngàn xưa. Và còn mãi đến ngàn sau. “Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham. Và cho con cháu đến muôn đời”.
Chúa là niềm vui. Vì Chúa là tình yêu. Tình yêu khiến Chúa nao nức đi gặp con người. Và vui sướng khi được ở với con người. Tình yêu của Chúa sẽ biến đổi ta. Ban cho ta ơn tha thứ. Rửa ta sạch tội lỗi. Làm biến đổi vũ trụ và con người. Khi ta được trong sạch. Ta sẽ được hưởng tình yêu của Chúa. Một mùa xuân mới sẽ bừng lên. Một thế giới mới sẽ thành hình. Ta sẽ được hạnh phúc. Vì được sống trong tình yêu.
Suy Niệm 3: Bởi Ðâu Tôi Ðược Mẹ Chúa Viếng Thăm
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Với cuộc sống con người, ai ai trong chúng ta cũng mang lấy tâm trạng muốn cho mình tích trữ được nhiều thứ của cải: của cải vật chất và của cải tinh thần. Của cải vật chất như được giàu sang, được uy quyền. Ai lại chẳng muốn được như câu nói mà người ta thường đùa với nhau: "Ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật" và cuối cùng là "đám tang Việt Nam".
Ở nhà Tây, vì tiện nghi đầy đủ. Ai lại không khen các món ăn của Tàu nổi tiếng là ngon. Người đàn bà Nhật chiều chuộng chồng mình không ai lại không cảm thấy không kính phục. Và đám tang Việt Nam chúng ta với bao nhiêu nghi thức đầy cảm động gợi lên tâm tình của người còn sống đối với người thân yêu đã khuất. Ai trong chúng ta lại chẳng muốn được quyền uy, đi đâu có tiền hô hậu ủng, đưa đón rước sách, mọi người nhìn bằng cặp mắt kính nể, thán phục.
Về của cải tinh thần, ai lại không mơ ước trên phương diện nghệ thuật mình sáng tác, những bản nhạc thời danh như Bach, Bethoven, Mozart, hoặc thành những khoa học gia nổi tiếng về không gian chế ra bom B1-B2 và hỏa tiễn lên cung trăng đầu tiên như Volgra người Ðức gốc Do Thái. Và biết bao nhiêu mơ ước, biết bao nhiêu tham vọng khác nữa ở trong mỗi một con người nhỏ bé của chúng ta.
Ðó là tâm trạng tâm lý thường tình của con người mà thôi. Nó không tốt mà cũng không xấu, khi chủ ý đặt mục đích và phương tiện tốt thì nó tốt, còn khi chúng ta dùng để tự kiêu, ngạo mạn và làm hại người khác thì nó xấu. Có một điều quan trọng nhất của người Kitô hữu chúng ta đó là khi chúng ta xin đức tin cùng Hội Thánh trong ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, được rước Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta khư khư giữ lấy Chúa ích kỷ riêng cho mình, không mang Thiên Chúa đến cho người khác.
Thiên Chúa chúng ta là một kho tàng vô giá, một kho tàng tích chứa tình yêu vô bờ bến, một kho tàng tích chứa bình an thực sự, và là một kho tàng tích chứa sự khôn ngoan tuyệt đối. Một kho tàng quí giá vô cùng như vậy thế mà chúng ta đã không biết lợi dụng để mang đến cho mọi người, để rồi tha nhân không nhìn ra khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương qua cuộc sống của chúng ta. Vì thế, những người vấp ngã, những người gặp hiểm nguy khó khăn trong cuộc sống, họ không gặp được Thiên Chúa bình an, Thiên Chúa hy vọng và Thiên Chúa hạnh phúc. Những người hoang mang lạc lối trên đường đời chúng ta đã không chỉ cho họ đến với Thiên Chúa là Ðấng thông minh, khôn ngoan tuyệt vời. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi chúng ta đã không mang Chúa đến cho tha nhân.
Và hôm nay Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua gương mẫu Mẹ Maria, chính Mẹ đã nhận được diễm phúc mang Con Chúa trong lòng, để rồi Mẹ đã vội vã lên đường mang Chúa đến cho người chị họ là bà Isave. Nhờ đó, thánh Gioan Tẩy Giả nằm trong bụng mẹ cũng được chia sẻ niềm vui ấy. Ðó là bài học quí hóa nhất cho cuộc sống chúng ta, người con cái của Thiên Chúa đã nhận biết Chúa, đã mang Chúa trong tâm hồn, không ích kỷ giữ riêng Chúa cho mình nhưng cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu rỗi đó cho mọi người xung quanh.
Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con tâm tình sốt sắng đón nhận Chúa đến để sự bình an của Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng con. Lạy Chúa, như xưa Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho bà chị họ là bà Isave, thì nay xin Chúa cho chúng con luôn biết hăng say đem Chúa đến cho mọi người qua cuộc sống hiền hòa, yêu thương, tha thứ trong niềm tin yêu hy vọng và lạc quan, vì Chúa đến và vui thích ở giữa dân Người. Amen.
Suy Niệm 4: Đi thăm bà Isave
Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng là một thứ cưu mang: mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, sống trong tự do, xây dựng nhiều hăm hở.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền sơn cước. Đức Maria đã chỗi dậy, vì cưu mang con trong lòng. Cưu mang con trong lòng cũng có nghĩa là nuôi dưỡng một niềm vui bất tận: đứa con càng lớn, niềm vui càng tăng.
Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng Người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.
Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.
Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Maria và người chị họ Isave là kết thúc của cuộc ra đi. Không ai đi để tiến về cô đơn, để giam mình trong cõi chết, nhưng ra đi là để gặp gỡ, chia sẻ.
Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích rửa tội.
Cưu mang sự sống mới, người Kitô hữu cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin. Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi…
Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ Thiên Chúa trong cuộc sống này. Điểm đến ấy sẽ không bao giờ hiện ra đối với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.
Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hay ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.
Suy Niệm 5: Chia sẻ đức tin
Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. (Lc. 1, 40-42)
Ngay sau khi Đức Maria biết bà Ê-li-sa-bét đã quá già mà sắp sinh cậu ấm, Mẹ đã đến thăm viếng bà, không phải để xác minh lời thiên sứ có thật không, nhưng để thực thi thánh ý Thiên Chúa và thăm viếng bà chị cùng đồng cảnh với mình. Hơn thế nữa, Đức Maria thấy cần chia sẻ niềm vui và lòng tin của mình với người khác.
Cả hai đều luôn dễ vâng lời và hiểu biết thánh ý Chúa. Cả hai đều được Thiên Chúa đã làm những sự lạ lùng.
Tin mừng tường thuật cho chúng ta biết một cách vắn gọn về việc đã xảy ra giữa hai người nữ diễm phúc. Người ta tưởng tượng khá tốt rằng: Cả hai đã cống hiến một thời gian dài để giúp nhau khám phá ra ý nghĩa về việc sẽ xảy đến với hai bà. Và như tất cả các bà mẹ, hai bà mơ ước về hai đứa con sẽ trở nên thế nào …
Phần chúng ta, họa hiếm lắm chúng ta mới biết chia sẻ niềm tin của mình cho người khác, vì thực sự chúng ta không quen. Khi những người tín hữu chúng ta gặp nhau, hầu hết là để tổ chức hoạt động, để thảo luận vấn đề khác. Chúng ta rất ít khi tụ họp để bày tỏ cho nhau những tâm tình tận đáy con tim, những điều chúng ta tin tưởng, những điều chúng ta trông cậy. Chúng ta không dám cởi mở cho nhau hết tấm lòng mình về Đức Kitô. Chúng ta không dám nói cho người khác những điều Thiên Chúa đối với mình, đã làm cho mình, với vợ con mình, và cả với các bạn tri kỷ của mình. Chúng ta hầu như không bao giờ nói về Đức Kitô.
Chính vì thế, chúng ta hình như đã quên, hay hình như đã không còn hiểu gì về Đức Kitô, đến nỗi chúng ta thực sự rất cô đơn trong niềm tin. Thực thế, chúng ta còn nhiều điều phải học biết.
Chúng ta cần thiết phải biết lòng tin của người khác để củng cố lòng tin của chúng ta. Và người khác cũng cần biết lòng tin của chúng ta để củng cố niềm tin của họ.
Khi Mẹ Maria và bà Ê-li-sa-bét gặp nhau, các ngài nói cho nhau biết thông cảm những điều lạ lùng mà Thiên Chúa đã làm cho mình để tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Nếu chúng ta biết chia sẻ lòng tin của chúng ta với nhau, có lẽ chúng ta sẽ thấy được những sự lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.
J. Y. G
Suy Niệm 6: Cuộc viếng thăm đầy ân sủng
Trong cuộc sống, nơi các mối tương quan, hẳn sự cảm thông, liên đới là điều quan trọng. Có sự cảm thông, chúng ta dễ dàng tôn trọng, hiểu biết, và đón nhận nhau hơn. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau để giúp nhau thăng tiến...
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.
Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt phục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét... Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.
Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.
Mong sao trong Mùa Vọng này, mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Đem Chúa đến cho người khác
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Bác ái không chỉ là giúp đỡ về phương diện vật chất, bác ái còn là biết đem Chúa đến cho người khác. Và đây chính là hình thức bác ái cao cả nhất.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, đạo của Chúa vẫn được gọi là đạo bác ái. Mở Phúc Âm ra hầu như trang nào con cũng thấy Chúa đề cao đức bác ái. Đối với Chúa, cốt lõi của đạo chính là đức bác ái. Điều răn trọng nhất đối với Chúa chính là điều răn bác ái. Tội nặng nhất đối với Chúa cũng chính là tội lỗi về đức bác ái.
Cuộc sống khó khăn, kinh tế eo hẹp nhiều lúc làm cho con ra ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ nghĩ đến gia đình, ai sống chết mặc ai. Nhiều lúc con dửng dưng, thờ ơ trước những nỗi thống khổ của anh em, nỗi khổ vật chất cũng như nỗi đau tinh thần.
Xin Chúa cho con được mặc lấy tâm tình bác ái của Mẹ Maria, cho con biết mở lòng ra với mọi người, biết chia sẻ cho người bất hạnh, biết cắt nghĩa lành cho người khác, biết tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết lên đường cùng với Mẹ Maria, biết đi bước trước đến với mọi người, không nghĩ đến lợi ích riêng mình, nhưng quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh em. Xin cho con biết ra đi với trái tim đầy yêu thương, với đôi tay luôn giang rộng và với đôi chân luôn tiến bước.
Xin Chúa cho con biết bắt chước Mẹ Maria, cưu mang Chúa nhưng không chỉ giữ cho riêng mình, trái lại, biết trao ban, chia sẻ và giới thiệu Chúa cho mọi người. Xin cho con biết sống sạch tội và kết hợp với Chúa, để nhờ có Chúa trong lòng, mọi việc con làm sẽ đem lại hoa trái cứu độ cho người khác.
Lạy Chúa, xin cho gia đình chúng con tâm hồn bác ái như thánh Phan-xi-cô thành Át-si-di. Amen.
Ghi nhớ: ”Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi”.
Suy Niệm 8: Viếng thăm bà Elizabeth
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Vừa mang thai Đức Giêsu, Đức Maria đã vội vã đi thăm bà Elizabeth. Đức Mẹ vừa vào nhà thì việc lạ đã xẩy ra: hài nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth! Được Chúa Thánh Thần soi sáng bà đã cất tiếng ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
Lãnh sứ mạng sinh Chúa Cứu Thế, Đức Maria đã nghĩ ngay đến người khác. Mẹ đem Chúa đến cho thân nhân, Mẹ thực thi bác ái trọn hảo. Và theo lời bà Elizabeth, Mẹ nêu gương lòng tin tuyệt vời vào Lời Chúa phán hứa. Chính nhờ niềm tin vững mạnh đó mà Mẹ đã được Thiên Chúa chọn sinh Đấng Cứu Thế.
2. Phải có tinh thần biết chia sẻ cho người khác.
Sau khi đón nhận tin cưu mang Đấng Cứu thế, Đức Maria đã vội vàng đi thăm gia đình Giacaria để chia sẻ niềm vui trong gia tộc. Mẹ ra đi loan truyền niềm vui cho bà chị họ và đem Đấng Cứu Thế đến cho Gioan Tẩy Giả. Vì thế, thai nhi nhảy mừng trong lòng mẹ như là lời đáp trả được đón nhận niềm vui cứu độ mà Tin Mừng đã trình bầy. Maria đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho chính Mẹ niềm vui, niềm vui chờ đón Con Mẹ khi dấn thân phục vụ mà Mẹ đã biểu lộ qua lời ca Magnificat.
Con người không những cần được cung cấp của ăn thức uống cho thân thể, nhưng còn phải được chia sẻ tâm tình trong cuộc sống. Đúng là: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Chúng ta củng phải theo gương Đức Mẹ mà biết chia sẻ cho ngưới khác vì như người ta nói: “Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, còn nỗi buồn mà được chia sẻ thì được giảm đi một nửa”.
3. Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng.
Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi cho mình nữa.
Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niềm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần: Ngài thêm xác tín về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà bây giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bầy cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài cất lên lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong kinh ngợi khen Magnificat.
4. Đức Maria, mẫu gương của bác ái.
“Đức Maria đã vội vã ra đi lên miền núi”: điều đó nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia sẻ vui buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến ba, bốn ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.
Dầu Đức Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, lại phải mất ba bốn ngày mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái dậm trường. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của bác ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Đức Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.
5. Truyện: Lòng bác ái của bác sĩ Longet.
Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Doley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.
Được hỏi tại sao ông quí mến bệnh nhân như thế?
Bá sĩ Longet đáp:
- Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.
Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ, bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm Linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.
Suy Niệm 9: Niềm vui được chia sẻ
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng là một cưu mang: mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, sống trong tự do, xây dựng đời sống, do đó cuộc hành trình nào cũng chứa đựng nhiều hăm hở.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền Sơn Cước. Đức Maria đã chỗi dậy, vì cưu mang con trong lòng. Cưu mang con trong lòng cũng có nghĩa là nuôi dưỡng một niềm vui bất tận: đứa con càng lớn, niềm vui càng tăng.
Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng Người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.
Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.
Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Maria và người chị họ Isave là kết thúc của cuộc ra đi. Không ai đi để tiến về cô đơn, để giam mình trong cõi chết, nhưng ra đi là để gặp gỡ, chia sẻ.
Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích Rửa tội.
Cưu mang sự sống mới, người Kitô cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin. Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi.
Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.
Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.
Suy Niệm 10: Đón nhận Chúa, chia sẻ người
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Sau khi đã đón nhận Chúa vào lòng, giờ đây Mẹ Maria đem Chúa đến cho người khác. Khi Chúa đến trong tâm hồn ai thì thường Chúa cũng mở rộng tâm hồn của người ấy, để họ cũng nghĩ đến những người chung quanh. Thí dụ trong Tin Mừng, chúng ta thấy khi Chúa đến với ông Giakêu thì tâm hồn của ông được mở rộng ra để hướng về những người khác ngay. “Tôi sẽ lấy một nửa gia tài tôi mà giúp kẻ nghèo và nếu tôi làm thiệt hại ai, thì tôi sẽ đền gấp bốn”. (Lc 19,8)Nghĩ đến kẻ khác, đến với kẻ khác, đó là dấu chỉ có Chúa hiện diện ở trong tâm hồn. Chính vì thế mà sau khi được thụ thai Chúa Giêsu và khi biết bà chị họ của mình đang cần một sự giúp đỡ, thì mẹ đã lên đường ngay, không một chút chần trừ do dự. Biết tìm đến với những người khác nhất là những người ở trong những hoàn cảnh khó khăn đó là dấu chỉ của một tâm hồn có Chúa. Mỗi khi lần chuỗi thứ hai của năm sự vui chúng ta ngắm “thứ hai, Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, ta hãy xin cho được lòng yêu người”.
Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, để biểu lộ lòng yêu người cho chúng ta bắt chước.
Hồi đó, - mẹ Têrêsa Calcutta kể - nhằm lúc thành phố Calcutta thiếu đường ăn thì có một em bé chừng bốn tuổi đem đến cho tôi một chén đường và bảo tôi:
- Thưa mẹ, con đã nhịn ăn đường suốt một tuần nay, xin mẹ hãy dùng ít đường này cho trẻ mồ côi của mẹ.
Một em bé mới có bốn tuổi mà có được cử chỉ như thế thì thật anh hùng biết bao! Em đã học được bài học yêu thương đến độ dám hi sinh cả những gì mình cần thiết cho các em nhỏ khác. Rồi một dịp khác, em bắt tôi đem rá gạo ra vo để nấu cơm cho cả nhà ăn. Nhưng rồi bất chợt có một người đàn ông đến gặp tôi và nói:
- Thưa mẹ, gần đây có gia đình người Hindu có tám đứa con, mà cả tuần nay họ không có gì ăn cả.
Lập tức tôi bưng rá gạo đi theo người đàn ông ấy và tìm đến nhà người Hinđu kia. Bước vào túp lều lụp xụp, tôi bắt gặp những khuôn mặt xanh xao và cơn đói lúc đó đang hành hạ họ. Không cầm lòng được, tôi trao hết rá gạo cho bà ta. Bà này cảm động đón lấy rá gạo, rồi lập tức ngồi xuống chia làm hai phần. Sau đó, bà bưng một nửa ra đi … và một lúc sau, bà trở lại, tôi ngạc nhiên hỏi bà:
- Bà đi đâu vậy? Đem gạo cho ai?
- Họ cũng đói lắm!
- Nhưng họ là ai?
- Họ là những gia đình Hồi giáo. Họ cũng có những đứa con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường, và cả tuần nay, họ cũng không có gì ăn cả.
Đọc lại câu chuyện này sao nhiều lúc tôi cảm thấy buồn cho mình. Mình là người có đạo mà nhiều khi còn thua những người không có đạo nhiều quá.
2. Có một câu châm ngôn mà người ta hay nói cho nhau nghe mỗi khi hội họp “Niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng lên gấp đôi và nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”.
Vâng! “Niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng lên gấp đôi và nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”.
Trong cuốn Tâm Hồn Cao Thượng của Edmondo De Amicis tôi đọc được một lá thư của một người mẹ gửi cho người con. Bà viết như thế này: “Mẹ viết thư này để con đọc. Sáng nay ở trường về, con đi trước mẹ mấy bước. Mẹ thấy con đã đi ngang qua một người đàn bà đáng thương đang bế trên tay một đứa bé xanh xao và ốm yếu. Người ấy xin con tiền. Con đã nhìn sừng sững vào bà ta và con đã không cho gì hết dù mẹ biết con đang có tiền trong túi.
Nghe mẹ bảo đây con! Đừng bao giờ dửng dưng đi qua trước những người nghèo khổ đang ngửa tay xin mình giúp đỡ và nhất là trước một người mẹ xin một đồng cho con của mình. Con hãy nghĩ đi: biết đâu đứa bé ấy đang đói. Hãy nghĩ đến nỗi khắc khoải của người đàn bà đáng thương ấy. Hãy nghe lời mẹ dạy con đây. Thỉnh thoảng con phải biết chia sẻ một đồng tiền từ túi của con, đặt nó vào lòng bàn tay của một cụ già không nơi nương tựa, một bà mẹ không có bánh ăn, một đứa trẻ không cha không mẹ.
Con phải biết rằng: con chẳng thiếu thốn chi hết, còn người nghèo thì thiếu thốn mọi thứ. Trong lúc con ước mong được sung sướng thì họ chỉ cần cầu xin cho khỏi chết đói. Thật là buồn khi thấy giữa bao nhiêu ngôi nhà giàu có, giữa bao nhiêu trẻ em ăn mặc đẹp, lại có những người đàn bà và trẻ em không có gì để ăn cả... Con hãy suy nghĩ đi, và đừng bao giờ con hành động như buổi sáng hôm nay nữa con nhé.. ”.
Vâng! Chúng ta hãy biết chia sẻ vì “niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng lên gấp đôi và nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”. Amen.
20/12 Truyền tin cho Đức Maria
- Viết bởi Lc 1, 26-38
Truyền tin cho Đức Maria.
Thứ Tư tuần 3 mùa vọng.
"Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai".
LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38
Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với Thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên thần cáo biệt Bà.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cách đây gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này
vào lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin cho Đức Mẹ.
Hôm nay chúng ta nghe đọc lại bài này trong bầu khí rộn ràng
của những ngày gần đại lễ Giáng Sinh.
Các sách Tin Mừng không nói nhiều về thời gian Đức Mẹ mang thai.
Luca chỉ nói về chuyện Mẹ đi thăm bà chị họ hiếm muộn (Lc 1, 39-45).
Còn Mátthêu nói về chuyện thánh Giuse nằm mộng và được sứ thần mời
đón nhận Maria làm vợ và thai nhi Giêsu làm con của mình (Mt 1, 18-24).
Nhưng thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng,
nhất là đối với người mẹ trẻ sinh con so.
Các bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm,
mầu nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình.
Dần dần mỗi chuyển động của thai nhi
và cả nhịp tim cũng được người mẹ cảm nhận.
Thai nhi trở thành người trọn vẹn
nhờ được dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ.
Con Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế.
Ngài không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng,
nhưng Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ.
“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể…
Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7).
Con Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha.
Tiếng Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không,
để “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7).
Khi trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ,
Con Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính.
Ngài vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất
để Ngài thực sự là anh em của họ.
“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa.
Xin xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38).
Ngay sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống,
và Con Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35).
Ngài từ từ có trái tim, khuôn mặt, vân tay riêng…
Đấng Cứu Độ sung sướng trở nên một sinh linh nhỏ bé,
để nói cho nhân loại biết về sự cao quý của một thai nhi.
Đức Maria trở thành Hòm Bia Thiên Chúa, nơi Ngôi Hai hiện diện.
Chúng ta ít khi nghĩ đến thời gian Mẹ Maria mang thai.
Thời gian cưu mang chẳng bao giờ nhẹ nhàng hay dễ dàng.
Để có thể sinh ra Đức Giêsu cho môi trường ta đang sống,
cũng cần thời gian thai nghén lâu dài và vất vả.
Chúng ta phải mang Ngài trong lòng mình,
kiên nhẫn và chăm chút để Ngài lớn lên, trước khi sinh Ngài cho thế giới.
“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ tôi” (Mc 3, 35).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con gặp được ánh mắt của Chúa
ít là một lần trong đời.
Khi tương lai con đang vững vàng ổn định,
xin hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lêvi
và mời gọi con đứng lên theo Chúa,
bỏ lại tất cả những gì con cậy dựa.
Khi con chẳng còn là mình, vấp ngã như Simon,
xin hãy quay lại nhìn con
bằng ánh mắt xót thương, tha thứ,
để con òa khóc như trẻ thơ.
Khi con khao khát sống cuộc đời hoàn thiện,
xin hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương
như Chúa đã trìu mến
nhìn người thanh niên giàu có.
Khi con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,
xin Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,
như Chúa đã ngước lên nhìn Dakêu
và cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay
bằng ánh mắt của Chúa.
Chúa động lòng thương
khi thấy bao người yếu đau,
thấy đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.
Ánh mắt Chúa thấu suốt lòng người.
Chúa buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,
nhưng Chúa cũng vui
khi thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.
Đôi mắt Chúa đã từng nhòa lệ
trước cái chết của người bạn thân là Ladarô,
và trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.
Lạy Chúa, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
Xin cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Đặt tên là Giêsu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong các ơn không ơn nào trọng bằng ơn cứu độ. Trong các lời hứa không lời nào trọng bằng lời hứa ban Đấng Cứu Độ. Trong các dấu lạ không có dấu lạ nào bằng lớn lao bằng Thiên Chúa sinh xuống làm người để cứu độ nhân loại. Vì thế Chúa không hứa cho A-khát điều gì khác ngoài lời hứa ban Đấng Cứu Độ sinh ra bởi người trinh nữ. Nghĩa là do quyền năng của Thiên Chúa. Để trở thành Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở giữa loài người. Thế giới nhân loại có quá nhiều đau khổ. Quá nhiều lo âu. Quá nhiều đổ vỡ. Quá nhiều vấn đề. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải quyết được hết các vấn đề của con người. Mới có thể tạo nên con người mới. Khởi đầu một lịch sử mới. Xây dựng một thế giới mới. Một thế giới tràn đầy ân sủng.
Lời hứa từ ngàn xưa được ứng nghiệm nơi Đức Mẹ và Chúa Giê-su. Chúa Giê-su chính là Đấng muôn dân trông đợi. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa cứu. Người đến cứu thế giới khỏi bế tắc. Cứu nhân loại khỏi diệt vong. Giải thoát con người khỏi ách thống trị của ma quỉ. Vì Người là Thiên Chúa. Tuy sinh ra trong trần gian nhưng “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người”. Đó là vị vua muôn dân trông đợi. Để tái lập thời huy hoàng của Đa-vít. Thời đất nước hùng mạnh. Dân được hưởng an lạc thái hoà.
Đức Mẹ chính là người trinh nữ sinh con mà tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa. Đức Mẹ chính là người đầu tiên được hưởng ơn cứu độ. Nhờ Chúa Giê-su mà Đức Mẹ được ơn vô nhiễm nguyên tội. Và được đồng trinh trọn đời. Đức Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”. Vì Đức Mẹ cưu mang Chúa Giê-su là nguồn mạch ân sủng. Thiên sứ cho biết con trẻ sẽ được “đặt tên là Giê-su”. Nghĩa là Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Đức Mẹ là người đầu tiên được cứu khỏi tội lỗi. Đức Mẹ là công dân đầu tiên của vương quốc Nước Trời, của triều đại Thiên Chúa. Nên Đức Mẹ được “đầy ân sủng”. Và từ lòng Mẹ, ân sủng tràn lan khắp thế giới.
Kế hoạch của Thiên Chúa thành công. Vì Chúa Giê-su hoàn toàn vâng phục ý Chúa Cha. Và vì Đức Mẹ dâng mình làm “nữ tỳ” ngoan ngoãn để Thiên Chúa sử dụng. Xin cho con biết noi gương Đức Mẹ. Hoàn toàn ngoan ngoãn để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Con sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi. Con sẽ được Thiên Chúa ở cùng. Con sẽ được đầy tràn ân sủng. Con sẽ được ơn cứu độ.
Suy Niệm 3: Ngôi Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Gabriel trong tiếng Do Thái có nghĩa là: "Thiên Chúa là sức mạnh". Bởi thế, khi lãnh sứ mạng truyền tin cho Mẹ Maria, hình ảnh sức mạnh nổi bật nơi người mang sứ điệp và chính tại nội dung của sứ điệp. Mẹ Maria phân vân thắc mắc bằng những suy nghĩ thường tình của con người: "Việc ấy thành sự sao được? Vì tôi không biết đến người Nam". Tuy nhiên, thắc mắc này không làm nao núng vị sứ giả biểu tượng cho sức mạnh Thiên Chúa. Sứ giả đã trấn an Mẹ với lời khẳng định: Chẳng có gì mà Thiên Chúa không làm được". Dù cho tuổi già như Elisabeth thì Ngài vẫn cho sinh hạ một con trai để góp phần gia truyền ơn cứu độ. Ngài đã tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài đã gầy dựng một dân tộc từ một đôi vợ chồng son sẻ mà tuổi đã xế chiều, thế mà tại sao Ngài lại không thể tạo cho mình một thân xác từ trong cung lòng người Nữ được?
Thiên Chúa Quyền Năng làm được mọi sự, nhưng dù cho quyền năng thế nào đi nữa thì khi đứng trước tự do của con người Ngài cũng phải đành bó tay, vì Ngài tôn trọng sự tự do của con người. Quả thật tự do là một món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Với lý trí và tự do con người đã vẽ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân phận thụ tạo của mình. Có tự do mới có tình yêu, vắng bóng tự do thì chỉ còn là những áp đặt, trói buộc hoặc lợi dụng. Không gì làm đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng khi con người biết dùng tự do để đáp lại tình yêu của Ngài, và cũng không gì làm đau lòng Ngài cho bằng khi con người sử dụng tự do để phản bội Ngài. Dù Ngài Quyền Năng tuyệt đối thì Ngài vẫn không dùng Quyền Năng để ngăn cản sự tự do của con người. Vì thế mà thảm cảnh đã đến với nhân loại khi nguyên tổ đã cản ngăn chương trình tốt lành của Thiên Chúa dành cho mọi thụ tạo.
Thế nhưng, Thiên Chúa lại không bỏ mặc con người nhưng Ngài đã hứa ban ơn cứu độ ấy được thể hiện qua dòng lịch sử. Khung cảnh được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay là điểm cuối của hằng bao thế kỷ chuẩn bị ấy. Và dù phải bỏ công chuẩn bị suốt một thời gian dài như vậy, Thiên Chúa cũng không dùng quyền năng của mình để ép buộc Mẹ Maria chấp nhận chương trình của Ngài. Ngài đợi chờ hai tiếng "Xin Vâng" thốt ra từ môi miệng của Mẹ, Ngài tôn trong tự do nơi Mẹ. Về phần Mẹ Maria, Mẹ cũng dùng lý trí của Mẹ để tìm hiểu, thắc mắc. Tuy nhiên, khi dùng lý trí thì Mẹ vẫn không bước ra ngoài sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Câu hỏi của Mẹ là một thắc mắc chính đáng trong cái suy nghĩ thường tình của con người: "Làm sao một người nữ lại có thể sinh con khi không có sự tiếp tay của người nam". Sứ thần đã hướng dẫn lý trí của Mẹ suy nghĩ đến quyền năng của Thiên Chúa. Lúc này tâm trí của Mẹ không chỉ qui về sự việc bà chị họ mang thai nhưng bao gồm tất cả chiều dài của chương trình lịch sử cứu độ.
Nhờ thế mà hôm nay Giáo Hội mới có được lời kinh Magnificat để chúc tụng trong giờ kinh Phụng Vụ. Và rồi chẳng ngần ngại Mẹ đã thưa "Xin Vâng". Hai tiếng "Xin Vâng" tuy vắn gọn nhưng không mất tính chất quan trọng của một chiếc chìa khóa mở cửa cho nguồn ơn cứu độ đến với nhân loại. Chẳng gì là quá đáng khi chúng ta lập lại lời thơ của Hàn Mặc Tử:
"Lạy Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel!
Khi người xuống trần gian truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao muôn vị tinh tú?
Người có nghe náo động cả phương trời?"
Vì do sự sử dụng tự do của nguyên tổ mà chương trình tốt lành của Thiên Chúa bị cản ngăn, thì lúc này với sự sử dụng tự do của Mẹ Maria chương trình cứu độ tình thương của Ngài được thiết lập.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta bắt chước ở nơi Mẹ Maria thái độ lắng nghe, tìm hiểu và rồi sẽ đáp trả trong tự do và tin tưởng. Vì mỗi ngày Thiên Chúa vẫn hằng chờ đợi chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể và trong các biến cố của cuộc sống. Ngài chờ đợi một lời đáp trả trong "tin yêu", vì Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do của ta. Nếu chúng ta biết thưa hai tiếng "Xin Vâng" như Mẹ Maria đã thưa thì chắc chắn Ngài sẽ đến và sẽ hành động trong chúng ta. Nhưng nếu một khi đã có Thiên Chúa đến ở với thì tôi tớ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Cũng vậy, là tạo vật hèn kém, bất xứng nhưng một khi được Thiên Chúa ở cùng chúng ta sẽ chỉ là chi thể, là bạn hữu và là anh em của Ngài.
Suy Niệm 4: Truyền tin cho Đức Maria
Người ta kể lại rằng: một hôm có người tìm đến thánh Don Bosco vấn kế về phương pháp xây dựng hoà bình thế giới. Nhằm lúc thánh nhân đang bận việc, con người thao thức về hoà bình ấy gõ cửa mỗi lúc một mạnh hơn. Mãi một lúc sau, thánh nhân ra mở cửa và niềm nở mời khách vào phòng, Ngài kiên nhẫn lắng nghe, chờ cho người đó trình bày hết ý kiến, rồi mỉm cười nói: “Ông không nghĩ rằng một trong những phương pháp hữu hiệu để xây dựng hoà bình là gõ cửa phòng người khác nhẹ hơn sao?”.
Giai thoại trên minh hoạ phần nào thái độ đứng núi này trông núi nọ của rất nhiều người. Nhiều người chưa làm nổi những việc nhỏ đã nghĩ đến những việc lớn: nhiều người không đủ kiên nhẫn chịu đựng những việc thường ngày đã nghĩ đến việc tử đạo cho đại cuộc.
Trong lãnh vực đức tin cũng thế, nhiều người tưởng có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong bốn bức tường nhà thờ, trong những giờ phút thinh lặng, trong những giờ cầu nguyện liên tục. Thiên Chúa dường như không chấp nhận bị giam trong những giờ phút giờ phút hay khung cảnh giới hạn nào đó. Ngài đến trong từng giây phút và biến cố cuộc sống, trong những cái nhỏ nhặt thường ngày của cuộc sống.
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta lặp lại xác tín đó. Sứ thần được sai đến với một Trinh nữ khiêm hạ, thuộc một ngôi làng nhỏ bé Nazarét, xứ Galile. Nhưng chính từ khung cảnh âm thầm ấy, thánh Luca đã làm nổi bật những tước hiệu cuả Đấng Cứu Thế: “Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối cao. Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp”.
Một Thiên Chúa Toàn năng đã đến gặp con người, trong thân phận con người, trong khung cảnh bình thường, trong những bất ý nhất của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta mỗi khi tuyên xưng: “Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chuá, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria”.
Nét độc đáo của niềm tin Kitô là tuyên xưng Thiên Chúa đã mặc xác phàm. Và tin nhận Thiên Chúa làm người cũng có nghĩa là luôn sẵn sàng đón nhận Ngài trong từng phút giây cuộc sống, là biến mỗi phút giây cuộc sống thành cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
Suy Niệm 5: Hỏi hay chiêm niệm
Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu.
Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xãy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
Sứ thần đáp: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (Lc. 1, 30-31. 34-35)
Nhiều câu hỏi được đặt ra:
Khi thiên thần Gáp-ri-en báo tin cho Maria sẽ là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ không thể không hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào? Vì tôi khấn giữ đồng trinh”. Mẹ hài lòng vì câu trả lời của thiên thần nên nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Chúng ta tò mò hơn Đức Maria, không chỉ hỏi một câu mà nhiều câu thắc mắc liên quan đến sự sinh con đồng trinh của Đức Mẹ.
Người duy lý hỏi: “Làm sao Thiên Chúa có thể làm một việc nghịch với bản tính tự nhiên?”. Kẻ đa nghi hỏi: “Có thể xảy ra như thế không? hay thánh sử Tin mừng tô điểm thêm cho đẹp”. Tín hữu yếu đức tin cũng hỏi: “Tại sao chúng ta buộc phải tin điều như thế?”.
Câu trả lời chân chính: Chúng ta không chấm dứt được những câu hỏi đặt ra cho chúng ta về vấn đề sinh hạ Đức Giêsu cách lạ lùng. Những câu đó là vô ích. Trong khi tìm cách trả lời, chúng ta cố gắng chiêm niệm sâu xa hơn về mầu nhiệm của Thiên Chúa và nắm bắt lấy thánh ý Ngài một chút.
Nhưng câu hỏi chân chính nên đặt ra chính là câu hỏi: Chúng ta có nên hỏi hay nên chiêm niệm mầu nhiệm cưu mang đồng trinh? Điều nào là quan trọng hơn? Đức Maria nhất thiết chọn việc chiêm niệm mầu nhiệm hơn. Ngài đã đón nhận và suy niệm mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ngài không thử thách Thiên Chúa, không tìm cách thọc mạch những điều bí ẩn. Ngài đã hoàn toàn tin cậy Chúa. Mẹ đã nhận thấy điều căn yếu này: Thiên Chúa sẽ làm nơi Mẹ những điều lạ lùng.
Nếu chúng ta chăm chú chiêm niệm hơn về mầu nhiệm sinh ra Đức Giêsu, có thể chúng ta sẽ dễ dàng tìm được những câu đáp tốt lành cho những thắc mắc của chúng ta. Có thể chúng ta sẽ được chìm vào sâu thẳm của mầu nhiệm khi chiêm niệm, và lúc đó những thắc mắc sẽ biến tan.
J. Y. G
Suy Niệm 6: “Xin Vâng”
Vào thời Đức Maria, luật lệ Dothái rất gắt gao đối với những phụ nữ bị phạm tội ngoại tình. Nếu bị mắc phải, tức là có thai trước hôn nhân hay trong thời kỳ đính hôn là bị án tử hình. Hình phạt chính là ném đá cho đến chết.
Trong hoàn cảnh như thế, Đức Maria cũng thuộc về thành phần trong dân tộc này, hẳn Mẹ không thể thoát khỏi tội chết khi tự nhiên trong bụng mình có một Thai Nhi ngày càng lớn dần theo theo năm tháng...
Ai là người hiểu được Mẹ ngoài Thiên Chúa là chủ thể của Thai Nhi trong bụng Mẹ! Như thế, khi không chồng mà chửa là chắc chắn chết. Mẹ biết rõ điều đó. Tuy nhiên, khi Mẹ nhận được lời giải thích của Sứ Thần, Mẹ đã chấp nhận đi vào cuộc phưu lưu với Thiên Chúa trong niềm tin tưởng và phó thác. Quyết định này là một hành vi can đảm, bởi vì khi quyết định như vậy, Mẹ sẽ gặp phải muôn vàn khó khăn đến từ gia đình, xã hội và nhất là với Giuse, bạn trăm năm của mình. Nhưng, vì tin vào Thiên Chúa tuyệt đối, nên Mẹ đã buông theo ân sủng để Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời của Mẹ.
Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, đức tin nhiều khi bị lung lay vì những thử thách đến với chúng ta từ nhiều phía...
Đôi khi chính chúng ta cũng thử thách ngược lại Thiên Chúa để thỏa mãn sự hiếu tri của mình trước khi tin, và như thế, hẳn khó có thể chấp nhận nghịch lý ân sủng của Thiên Chúa.
Nguyên nhân sâu xa chính là việc chúng ta không nhạy bén với ơn Chúa, còn nghi ngờ quyền năng của Ngài, và cũng có thể do sự kiêu ngạo phủ lấp tâm trí chúng ta, nên Lời Chúa khó biến đổi tâm hồn trai đá của mình. Vì thế, nhiều khi còn uốn nắn Lời Chúa theo thiển ý của ta nữa.
Sở dĩ Đức Mẹ trở thành Nữ Tỳ Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận lời “xin vâng” với Thiên Chúa là vì Mẹ nhạy bén với ơn Chúa đã được loan báo từ trong thời Cựu Ước. Mẹ cũng khiêm tốn khi thấy điều này là kế hoạch đến từ Thiên Chúa chứ không phải do con người, nên Mẹ đã “xin vâng” để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng, phó thác cuộc đời cho Chúa như Đức Mẹ. Khiêm tốn để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn và sinh hoa trái trong cuộc sống của chúng ta. Sống trung thành với Chúa dù có phải gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Can đảm đón nhận thánh ý Chúa và trung thành với Thiên Ý.
Lạy Mẹ Maria, xin phù trợ chúng con để chúng con khiêm tốn, can đảm, nhạy bén và trung thành với Chúa như Mẹ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Một trinh nữ sẽ thụ thai
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Ê-li-da-bét, một bà già son sẻ cũng mang thai được. Đức Maria thụ thai, sinh con mà vẫn đồng trinh. Vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng. Đối với Ngài không có gì là không làm được.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Chúa tể trời đất, Chúa là Chúa trên tất cả các Chúa, Chúa là vua trên tất cả các vua. Chúa cao trọng hơn tất cả. Thế mà nhiều lúc con đã thiếu lòng tin cậy nơi Chúa, để chạy theo các thần tượng khác. Con đã cậy dựa vào của cải vật chất. Con đã đặt niềm tin vào những suy tính phàm trần của trí khôn nhân loại. Con đã ỷ vào sức riêng mình. Vỗ ngực xưng danh là Kitô hữu, nhưng trong cuộc sống thường ngày con còn rất nhiều mê tín dị đoan. Con đã nhiều lần kêu trách Chúa khi gặp khó khăn thử thách. Con đã tin vào bói toán bùa ngải hơn tin vào Chúa.
Xin Chúa cho con luôn biết nhìn lên Mẹ Maria như mẫu gương đời sống đức tin. Mẹ đã đón nhận ý Chúa một cách vô điều kiện, thưa hai tiếng xin vâng. Mẹ đã hoàn toàn tín thác trong vòng tay uy quyền và đầy yêu thương của Chúa. Nói theo lời của Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI: trong đức tin, Mẹ đã bước liều trong hy vọng.
Lạy Chúa, chính đức tin là sức sống cho thời đại hôm nay. Đức tin dẫn con đi trên nẻo đường ánh sáng của Chúa. Đức tin giúp con vượt thoát được những chặng đường gian nan thử thách. Và khi sống trong niềm tin, là con đang tuyên xưng rằng: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Thiên Chúa làm được mọi sự.
Lạy Chúa, con và gia đình con tin Chúa, nhưng xin thêm đức tin cho chúng con. Trong cuộc hành trình đức tin, xin cho chúng con luôn biết dõi theo bước chân Đức Maria, Mẹ dấu yêu. Amen.
Ghi nhớ: ”Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai”.
Suy Niệm 8: Tin rằng Chúa thực hiện lời Người muốn
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?”. “Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao”. Câu hỏi của người phụ nữ giống như lời của bà Êlisabéth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
Suy niệm
Theo Kinh Thánh, trinh nữ Maria đã đính hôn cùng thánh Giuse và hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Cùng hòa chung với toàn dân, Maria cũng luôn khao khát và hằng trông đợi Đấng Cứu Thế đến với Dân Người.
Bỗng nhiên, Maria đón một vị khách lạ đến, vị khách đó chính là Sứ thần Gabriel mang một sứ điệp từ trời cao làm thay đổi cả cuộc đời Maria: Nàng được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế. Giữa những bối rối của bản thân: Quyết tâm tận hiến cho Thiên Chúa như ước mơ cuộc đời hay trở nên một người mẹ theo thánh ý của Thiên Chúa? Maria đã đặt đời mình trong niềm tin và vâng phục hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Dù chưa sáng tỏ sự việc nhưng Maria vẫn tín thác xin vâng: “…tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Sự vâng phục trọn vẹn trong đức tin của Maria là một thái độ sẵn sàng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Sự vâng phục như tỏ lộ ý chí của Maria: “Điều gì Chúa nói, tôi tin và tôi luôn xin vâng”. Tin và tuân theo thánh ý của Thiên Chúa, Maria học biết trước tinh thần của Đức Cứu Thế muốn nơi dương gian mà Ngài đã thực hiện “Xin ý Cha được thực hiện” (Mt 26,39).
Chính thái độ hoàn toàn vâng phục trong đức tin là tâm tình chờ đón Chúa đến mà Maria đã biểu lộ trong suốt cuộc đời của một người trinh nữ tận hiến gặp gỡ thiên ý và trở nên người Mẹ Đấng Cứu Thế luôn tin và vâng phục.
Tâm tình và thái độ khiêm nhu trước Thiên Chúa của Mẹ, đốt lên ngọn nến để chờ đợi sẵn sàng đón Chúa. Ngọn nến soi tỏ chúng ta sống tâm tình tin và vâng phục: Bản ngã và cuộc sống của mình tan hoàn toàn trong thánh ý Thiên Chúa. Sống tâm tình chờ đợi là sống trong ánh sáng của niềm tin. Tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Không có niềm tin cuộc đời như một đêm tối không ánh sao. Tin sẽ mang đến niềm vui. Tin là sức mạnh cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng như Maria vui tươi hy vọng vào Thiên Chúa biểu lộ qua bài ca Magnificat và tinh thần phục vụ (x. Lc 1,39-56).
Ý lực sống
“Này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,7)
Suy Niệm 9: Truyền tin cho Đức Maria
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đến ngày ấn định, Chúa sai thiên thần Gabriel đến thành Nagiarét, báo cho Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse: bà được đầy ơn phúc. Chúa đã chọn bà làm Mẹ Thiên Chúa. Bà sẽ sinh Con Đấng Tối Cao.
Maria thưa với Thiên Thần là việc đó không thể xẩy ra được vì bà giữ mình đồng trinh không biết đến việc vợ chồng thì làm sao sinh con được. Nhưng Thiên Thần cho bà biết việc đó do Chúa Thánh Thần làm, nên Đấng bà sinh ra là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa... Đồng thời Thiên Thần cũng nói cho biết việc bà Elizabeth đã có thai sáu tháng rồi, vì không có việc gì Thiên Chúa không làm được.
Bấy giờ Bà Maria thưa với Thiên Thần: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”.
2. Thiên Chúa cần con người cộng tác với Ngài.
Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng bất cứ cách nào theo sự khôn ngoan thượng trí của Ngài. Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng trong công cuộc cứu độ này, Ngài không muốn hành động một mình mà muốn có sự cộng tác của con người. Chính vì vậy mà Ngài đã sai sứ thần Gabriel đến hỏi ý kiến Đức Maria trong việc làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài không áp đặt mà chỉ đề nghị. Ngài muốn sự đáp trả sáng suốt của con người. Sau khi Đức Maria đã thưa xin vâng, Ngôi Hai Thiên Chúa lập tức đầu thai trong lòng trinh nữ Maria và Maria đã trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa.
3. Trở nên dụng cụ để Thiên Chúa dùng.
Đức Maria đã trở nên dụng cụ Thiên Chúa dùng trong công cuộc cứu chuộc loài người sau tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ.
Khi nói đến dụng cụ là nói đến một đồ vật để con người xử dụng theo ý mình. Dụng cụ chỉ biết phục tùng theo ý muốn người xử dụng. Không bao giờ dụng cụ có thể nói với người xử dụng tại sao lại dùng vào việc nọ việc kia, mà chỉ biết hoàn toàn vâng theo người xử dụng nó, có khi người xử dụng phế thải cả dụng cụ, thì chính dụng cụ ấy cũng không có quyền phản đối.
Đức Maria đã đặt mình dưới quyền xử dụng của Thiên Chúa vì Ngài nhận thấy mình chỉ là người đầy tớ vô dụng. Tuy nhiên, Chúa có thể dùng vào việc lớn lao mà mình không ngờ. Chúng ta có thể tìm được hình ảnh này trong văn chương bình dân Việt nam:
Ai làm cho cải tôi ngồng,
Cho dưa tôi khú, cho chồng tôi chê.
Chồng chê thì mặc chồng chê,
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ. (Ca dao)
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Linh mục. Ngày kia, thừa lệnh Giám mục giáo phận, một vị giáo sư Thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội ngiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn:
- Vianney, anh dốt như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:
- Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?
4. Đức Maria có một lòng tin sâu sắc.
Sau khi đã nghe sứ thần báo tin và cắt nghĩa cho Đức Maria hiểu theo quyên lực vô biên của Thiên Chúa, Ngài đã sẵn sàng thưa “Xin vâng”. Câu xin vâng đã nói lên lòng tin sâu sắc của Đức Maria vào quyền năng của Thiên Chúa.
Lịch sử cứu độ thời Cựu ước bắt đầu bằng một hành vi đức tin của Abraham. Ông được gọi là “cha của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng bắt đầu bằng hành vi đúc tin của Đức Mẹ. Đức Maria được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vi đức tin của người đó.
5. Truyện: Đức tin nhỏ mà lớn.
Có một bà nổi tiếng đạo dức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: - Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
Bà thưa:
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
Suy Niệm 10: Đức Maria: nhân vật quan trọng
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu nhân vật quan trọng nhất trong việc Chúa Cứu Thế sinh ra: Đức Maria.
1. Thánh Luca trình bày Đức Maria là “Thiếu nữ Sion” (Câu “mừng vui lên” là âm hưởng của lời ngôn sứ Xôphônia nói với thiếu nữ Sion: x. Xp 8,14). Ngày xưa qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa hứa sẽ đến ở nhà “thiếu nữ Sion” (tức là dân Chúa). Lời hứa này hôm nay được thực hiện nơi Đức Mẹ.
2. So sánh Đức Maria với ông Dacaria: khi được báo tin sẽ có con, cả Dacaria và Đức Maria đều thắc mắc hỏi lại. Nhưng câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự không tin (câu 20: Lời thiên sứ nói “Bởi vì ông không tin”). Còn câu hỏi của Đức Maria là để xin soi sáng thêm (“việc ấy xảy đến thế nào?”), và sau đó Người đã mau mắn thưa Fiat.
B.... nẩy mầm.
1. Đức Maria hỏi “Việc ấy xảy ra cách nào được, vì...”. Thiên sứ đáp “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
2. Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: “Xin cứ làm cho tôi...”.
3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.
4. Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước bắt đầu bằng một hành vi đức tin của Abraham. Ông được gọi là “cha của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng bắt đầu bằng hành vi đức tin của Đức Mẹ. Đức Maria được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vị đức tin của người đó.
5. “Sứ thần nói với cô Maria: Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Cô Maria thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,31.38)
Một biến cố như cuồng phong chợt đến trong tâm tư người thôn nữ Nadarét, làm đảo lộn mọi dự tính, mọi ước mơ. Và có nguy cơ bị hiểu lầm, ruồng rẫy… Nhưng Mẹ Maria đã dám “Xin Vâng”, tin tưởng phó thác vào tình thương và sự tín trung của Thiên Chúa. Mẹ đã dám “Xin Vâng” và nhận mình là bé nhỏ, là thuộc về. Mẹ đã dám “Xin Vâng”, và nhận được sự bình an.
Tuổi trẻ luôn có nhiều ước mơ, hoài bão, tự xây cho mình nhiều kế hoạch để khẳng định chính mình, nên rất sợ những biến cố, những tai họa, vì chúng tạo ra những thay đổi, gây nên những thất bại và làm đổ bể mọi kế hoạch. Tôi lo lắng, sợ hãi vì chưa biết chấp nhận sự nhỏ bé của mình, chưa tin tưởng phó thác vào Tình yêu của Thiên Chúa, và chưa dám Xin Vâng như Mẹ Maria.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết Xin Vâng như Mẹ. Xin Vâng mỗi ngày trong suốt cuộc sống của con, để dù cuộc sống có như thác đổ, lòng con vẫn cứ bình an vì biết rằng Chúa luôn đồng hành với con. (Epphata).
Suy Niệm 11: Biến cố Truyền Tin
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Biến cố Truyền Tin đã đưa Đức Maria vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Biến cố này xảy ra tại Nazareth, trong những hoàn cảnh rộn rã của lịch sử dân tộc Do Thái, một dân tộc đầu tiên đã được hưởng lời hứa của Thiên Chúa.
Thánh sử Luca, khi thuật lại biến cố này đã viết: “Thiên thần vào nhà Trinh nữ và chào rằng: Kính chào Đấng đầy ơn phúc” (Lc 1,28). Ở đây chúng ta có cảm tưởng rằng, “đầy ơn phúc” đã trở thành một tên riêng thật mới, mà Thiên sứ đã tặng cho Đức Maria, để thay thế cho tên Maria, tên mà ông bà Gioakim và Anna đã đặt cho Ngài.
Có Thiên Chúa ở cùng, đó là hạnh phúc tuyệt hảo. Cùng đích của mọi khát vọng của chúng ta là được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng, mà hạnh phúc Thiên Đàng hệ tại điều gì? Có phải là tiền của, giàu sang, danh vọng, chức quyền không? Không. Hạnh phúc Thiên Đàng hệ tại ở chỗ là có Chúa, là chiếm hữu được Chúa.
Nhưng có phải chờ cho đến lúc chúng ta bước sang thế giới bên kia, chúng ta mới được hưởng hạnh phúc đó không?
Thưa không. Ngay từ đời này, chúng ta đã có thể bắt đầu hưởng hạnh phúc đó rồi, nếu chúng ta biết để cho Chúa ở cùng chúng ta.
Cha Gioan Tauler, một vị linh mục rất đạo đức nhưng ngài vẫn luôn cầu xin để được gặp một người nào đó chỉ dẫn cho ngài Thiên Đàng ở đâu. Một ngày kia, như có tiếng lương tâm giục, ngài ra trước cửa nhà thờ hy vọng gặp được người đó.
Nhìn trước nhìn sau, cha chẳng thấy ai, ngoại trừ một người ăn mày, quần áo rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, hôi hám. Cha đến gần chào người hành khất:
- Chào ông, chúc ông may mắn.
Người ăn mày thản nhiên trả lời:
- Chào cha, tôi có bị rủi ro bao giờ đâu.
- Vậy thì xin Thiên Chúa ban cho ông mọi điều sung sướng.
- Ồ, thưa cha, đời tôi chưa bao giờ thấy khổ cả.
Cha Tauler rất ngạc nhiên về cách nói năng của người này. Cha hỏi tiếp:
- Nếu Chúa bắt ông xuống hỏa ngục, ông có buồn khổ không?
Người hành khất trả lời không cần suy nghĩ:
- Nếu Chúa làm như vậy thì tôi sẽ ôm ghì lấy chân Chúa và cùng Chúa xuống hỏa ngục luôn. Tôi thà ở hỏa ngục với Chúa còn hơn ở Thiên Đàng mà không có Ngài.
Vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha hạch hỏi:
- Này ông, ông có thể cho tôi biết, ông từ đâu tới đây?
- Thưa cha, tôi từ Thiên Chúa mà đến.
- Nhưng ông tìm thấy Thiên Chúa ở đâu?
- Ngay khúc quẹo, chỗ mà tôi từ bỏ mọi của cải vật chất trên đời này.
Tới đây, cha Tauler không thể chờ đợi thêm được nữa. Ngài hỏi nhanh:
- Thế thì, ông là ai?
Người ăn mày nói một cách trịnh trọng:
- Tôi là vua.
Cha Tauler quỳ xuống trước mặt người ăn mày:
- Tâu Đức vua, Ngài có thể cho con biết vương quốc ngài ở đâu không?
- Vương quốc của ta ở ngay trong tâm hồn ta.
Vâng, kính thưa anh chị em,
Nhiều lúc trên đời, chúng ta đã mất thời giờ viễn vông đi tìm bình an, hạnh phúc ở những nơi không bao giờ có.
Thì ra sự bình an, vui vẻ, hạnh phúc không phải là do ngoại cảnh tạo ra, mà lại ở ngay trong chính lòng ta. Khi lòng ta an vui thì ngoại cảnh cũng sẽ đẹp đẽ. Khi lòng ta bất ổn thì ngoại cảnh chỉ tạo nên sầu muộn ”Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”.
Chúa Giêsu đã nói thật rõ trong Tin Mừng thánh Luca chương 17 “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 14,18)
Lòng ta chính là Thiên Đàng vậy!
Chút nữa đây, chính Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu, sẽ ngự vào trong tâm hồn chúng ta. Lúc đó, chúng ta đâu có khác gì Đức Maria sau biến cố Truyền Tin, nghĩa là Mình Máu Thánh Chúa chúng ta lãnh nhận, cũng giống như bào thai Giêsu, mà Đức Maria mang trong lòng Ngài khi xưa, và cũng chính vì bào thai ấy mà Đức Maria được xưng tụng là Đấng đầy ơn phúc.
Mùa vọng của năm Phụng vụ sắp chấm dứt, nhưng tinh thần của mùa vọng không được chấm dứt, mà nó sẽ còn phải tồn tại mãi trong đời sống mỗi ngày của chúng ta, đặc biệt trước mỗi lần chúng ta rước Chúa. Chính những lúc đó là lúc chúng ta phải sống tâm tình của các tổ phụ xưa, trước khi Đấng Cứu Thế giáng trần. Và lời cầu xin của chúng ta trong lúc ấy, cũng phải là lời này: “Lạy Chúa, xin hãy đến”. Chúa đến để làm cho chúng con được đầy ơn phúc, Chúa đến để làm cho chúng con được hưởng niềm hạnh phúc Thiên Đàng.
Lạy Chúa,
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa. Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con. Amen.
19/12 Truyền tin cho ông Gia-ca-ri-a
- Viết bởi Lc 1, 5-25
Truyền tin cho ông Gia-ca-ri-a.
Thứ Ba tuần 3 mùa vọng.
"Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra".
LỜI CHÚA: Lc 1, 5-25
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabeth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabeth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương. Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: "Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị.
Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: "Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?" Thiên Thần liền đáp: "Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy. Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng".
Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh. Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh. Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm. Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà. Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: "Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nỗi khổ nhục tôi khỏi người đời.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chuẩn bị sẵn sàng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi
là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa.
Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét
đã sống với nhau bao lâu mà không có con.
Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7).
Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm.
Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ,
dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6).
Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?
Chính khi ta thất vọng, thì Chúa đến loan báo Tin Vui (c. 19).
Tư tế Dacaria may mắn trúng thăm, nên ông được vào Nơi Thánh
để lau hương án và dâng hương mới.
Tại nơi thâm nghiêm này, khi ông lo việc tế tự,
ông được sứ thần Chúa báo tin về đứa con sắp chào đời của mình.
Gioan, nghĩa là Đức-Chúa-thi-ân, sẽ là món quà ông được tặng.
Nhưng Gioan sẽ còn là món quà cho nhiều người Ítraen,
vì Gioan có sứ mạng giải hòa dân tộc ông với nhau và với Chúa.
Một con người chưa được mang thai và chào đời,
nhưng về người ấy, Thiên Chúa đã có bao ước mơ và dự tính.
Ngài cho Gioan được đầy Thánh Thần từ trong lòng mẹ (c. 15).
“Làm cho kẻ ngỗ nghịch trở về nẻo chính đường ngay,
và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (c. 17).
Đó là những việc Gioan sẽ làm sau này trong tư cách là Êlia mới.
Dacaria có vẻ không tin vào lời sứ thần,
Có vẻ ông không còn nuôi hy vọng có một đứa con (c. 18).
Ông quên mất chuyện Ápraham đã sinh con trong lúc tuổi già.
Là một tư tế hẳn ông phải biết có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn
đã sinh con làm thủ lãnh đất Ítraen (Tl 13, 2; 1Sm 1-2; St 16, 1).
Việc ông bị câm là một hình phạt, nhưng ông không bị loại trừ.
Thinh lặng chín tháng là thời gian ông chờ đợi để lời hứa nên trọn.
Từ khi bà Êlisabét có thai, bà ẩn mình một thời gian.
Bà chưa muốn cho ai hay biết chuyện này.
Niềm vui bất ngờ đến với bà, người được hưởng hạnh phúc làm mẹ.
“Chúa đã làm cho tôi như thế đó,
khi Ngài đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời. ”
Mỗi một trẻ thơ chào đời đều có nét của Gioan.
Chẳng người nào thấy ánh mặt trời mà lại nằm ngoài ý Thiên Chúa.
Như Gioan, ngay từ khi tôi chưa hiện hữu trong lòng mẹ,
Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi, và biết tên tôi.
Tôi có chỗ rất riêng trong chương trình của Chúa.
Chúa có một sứ mạng rất riêng cho tôi hôm nay.
Thời nào cũng cần Gioan, cần những người kêu gọi hoán cải.
Nhân loại thời nay cần những người dọn đường sáng tạo,
có khả năng mở những con đường mới đi vào lòng thế nhân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Suy Niệm 2: Thành đạt
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sam-son và Gio-an có nhiều điểm giống nhau. Trước hết các ngài đều là người của Thiên Chúa. Cha mẹ các ngài đều cao niên và hiếm hoi. Trước mặt người đời thì các ngài không còn khả năng sinh con. Nhưng Thiên Chúa đã ra tay. Quyền năng Thiên Chúa thật lớn lao. Có thể làm từ không ra có. Từ chết thành sống. Các ngài là ân huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên các ngài phải tuân thủ một số qui luật của Thiên Chúa. Đây chính là điều làm nên khác biệt giữa các ngài.
Sam-son và Gio-an có những khác biệt. Khi được thiên sứ báo tin thì bà Ma-nô-ác tin ngay. Còn ông Gia-ca-ri-a không tin. Nên bị câm cho đến ngày Gio-an chào đời. Nhưng khi lớn lên thì xảy ra điều ngược lại.
Sam-son thất bại. Vì không thực hành Lời Chúa. Sam-son được lệnh không được cạo đầu: “Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh”. Sam-son yếu đuối rơi vào chước cám dỗ của Đa-li-la, để bị cạo đầu. Ông không giữ được lệnh Chúa truyền. Nên không cứu được Ít-ra-en. Chính ông bị rơi vào tay người Phi-li-tinh. Ông trở nên mù tối. Và làm tôi mọi cho họ.
Gio-an thành công. Vì hoàn toàn tuân giữ Lời Chúa. Ông vào sa mạc. Chuyên tâm cầu nguyện. Ăn châu chấu và mật ong. Mặc áo da thú. Đã thành công trong việc dọn đường cho Chúa. Giới thiệu Chúa cho mọi người. Ông hoàn thành nhiệm vụ “đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. Được Chúa khen ngợi là người cao cả nhất. Là ngọn đèn chiếu sáng.
Chúng ta sinh ra không phải do quyền năng người phàm. Nhưng do quyền năng Thiên Chúa. Khi sinh ra ta, Chúa trao cho ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Ta sẽ thất bại nếu không tuân giữ Lời Chúa. Ta sẽ thành đạt nếu tuân theo chỉ thị của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con. Sự sống là một hồng ân cao cả. Chỉ có Chúa mới ban tặng được. Và khi cho con có mặt ở đời, Chúa đã dành sẵn cho con một định mệnh cao quí. Xin cho con biết chu toàn mệnh lệnh của Chúa. Để con thành đạt trong Chúa.
Suy Niệm 3: Gioan Tẩy Giả Sinh Ra
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Trong bài đọc I hôm nay, sách Thẩm Phán cũng kể lại việc thiên thần Chúa hiện ra với bà có chồng là Manuel thuộc chi họ Dan, và nói với bà rằng: "Ngươi son sẻ không có con, nhưng sẽ được thụ thai và sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch vì ngươi sẽ thụ thai hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó, nó sẽ được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Philitinh. Bà hạ sinh một con trai và con trẻ sinh ra tên là Samson".
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên hai ý tưởng:
- "Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được". Hai người đàn bà son sẻ vợ của Zacharia và Manuel, tuổi đã già vậy mà sinh được hai người con là Gioan Tẩy Giả và Samson. Theo tục lệ Á Ðông xưa của chúng ta có nói: "Nữ thập tam, nam thập lục". Nghĩa là người nữ khoảng mười ba đến bốn mươi tuổi là cơ thể bắt đầu biến đổi để có thể chuẩn bị trở thành một người mẹ. Luật Giáo Hội xác định mười sáu tuổi, mà đa số các quốc gia chấp nhận mười tám tuổi là tuổi trưởng thành cho nữ giới để có thể kết hôn. Khả năng sinh con của người đàn bà có thể kéo dài từ đó đến quãng đời từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi. Qua khỏi tuổi năm mươi thì hầu như không thể thụ thai được nữa. Lẽ dĩ nhiên phải năm mươi đến sáu mươi tuổi thì mới gọi là đã già, lại càng không thể có hy vọng sinh con cái được nữa. Hơn nữa khi nhìn vào trường hợp của Abraham, ông được mệnh danh là cha của kẻ tin. Mặc dầu Sara vợ ông đã già nhưng được thiên thần báo tin sẽ sinh một con trai trong lúc tuổi già. Abraham đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng mà ông tôn thờ: "Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được".
- Muốn hiến thánh cho Thiên Chúa để lo việc phụng sự Ngài, Thiên Chúa đòi hỏi con người phải cộng tác với Người: "Ngươi hãy cẩn thận, không uống rượu và thức ăn có men, cũng đừng ăn những món gì không thanh sạch". Tất nhiên chúng ta cũng không hoàn toàn hiểu theo nghĩa đen nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng nữa.
Mùa Vọng là mùa chuẩn bị mừng Chúa Cứu Thế đến, chúng ta không chỉ sửa soạn sạch sẽ, tô vôi, sơn quét lại ngôi thánh đường thân yêu trong Giáo Xứ, làm hang đá thật đẹp, thật lộng lẫy để Chúa Hài Nhi nằm nhưng chúng ta còn phải lo quét dọn tâm hồn, trang hoàng hang đá và làm cho ngôi thánh đường nhỏ bé xinh xinh ở trong tâm hồn chúng ta luôn sạch sẽ để như chiên bò ngày xưa thở hơi ấm áp cho Chúa nơi hang đá giá lạnh trần gian. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm tình đón Chúa như lời thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng: "Núi đồi hãy san cho bằng, hố sâu hãy lấp cho đầy, đường quanh queo hãy uốn cho ngay thẳng, và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Lạy Chúa, không có gì mà Chúa không làm được. Xin cho chúng con nhận biết Quyền Năng của Chúa để chúng con luôn sống trong tin yêu và hy vọng trong cuộc đời. Lạy Chúa, để dấn thân phục vụ Nước Chúa cho rộng lớn, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết dùng tự do, thời giờ, tâm trí và tài năng riêng của mỗi người mà Chúa đã ban cho để tham dự vào việc mở mang nước Chúa mà không một đắn đo suy tính thua thiệt theo kiểu nhân loại. Amen.
Suy Niệm 4: Truyền tin cho Zacaria
Bài tin mừng hôm nay làm nổi bật tác động cứu độ của Thiên Chúa: Thiên Chúa không bỏ rơi ý định cứu độ của Ngài, nhưng Ngài chuẩn bị và thực hiện bằng những bước vững chắc suốt chiều dài lịch sử- cho đến Gioan, vị sứ giả sống sát thời Đấng Mêsia.
Việc Thiên Chúa can thiệp tích cực trong mầu nhiệm cứu độ chính là biểu hiện của tình thương hải hà. Thiên Chúa can thiệp và cứu độ chỉ có nghĩa là Ngài quá xót thương con người mà thôi. Bởi đó, càng nhìn lại những sự kiện, những hoàn cảnh hay những con người đã giúp thực hiện việc cứu độ, chúng ta càng nhận thấy vai trò sự cứu độ viên mãn. Đây là một điểm quan trọng, bởi vì đứng trước hoạt động lớn lao của Thiên Chúa, con người thời này thường có thái độ phản kháng khi cho rằng Thiên Chúa xử sự bằng cách giữ phần chủ chốt tức là đã coi thường con người, trong khi lẽ ra họ phải bày tỏ tâm tình khiêm tốn, thán phục và biết ơn Thiên Chúa. Đấng đã yêu thương, đã dấn thân và làm mọi sự chỉ vì hạnh phúc cho con cái mình.
Sống mùa vọng, ước gì chúng ta biết nhận ra tác động của Thiên Chúa trong đời mình và trong lịch sử nhân loại, đồng thời biết hướng theo lời mời gọi hoán cải tâm hồn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Suy Niệm 5: Một Thiên Chúa đột xuất
Vậy một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Da-ca-ri-a đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan…”. (Lc. 1,11-13)
Ở tuổi già và với người vợ son sẻ, ông già Gia-ca-ri-a không còn hy vọng gì có con nữa. Đứa con trong ước mơ đã được ông liên lỉ cầu nguyện. Nhưng bây giờ về cuối đời rồi, ông không còn cầu nguyện xin sinh cậu ấm như trước nữa. Không còn trông cậy kêu xin một điều hão huyền đó với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, với Thiên Chúa, không có gì hão huyền, không có gì bất lực. Điều không thể đó sẽ xảy ra. Ê-li-gia-bét, vợ ông, sẽ sinh Gioan tẩy giả.
Ông Gia-ca-ri-a đã suy ngắm Kinh thánh suốt đời ông, tuy vậy, ông vẫn nghi ngờ một chút rằng Thiên Chúa đã luôn luôn hài lòng nắm giữ trong tay mọi sự và thực hiện những kỳ công trong lúc bất ngờ. Ông đã biết rõ rằng trong quá khứ, nhiều lần hình như tuyệt vọng, như mất hết, Thiên Chúa đã can thiệp giải thoát cho dân khốn cùng. Ông đã biết thế, nhưng ông không thể tưởng tượng được Thiên Chúa lại làm như thế cho ông.
Chúng ta nhiều lần có những nghi ngờ như ông Gia-ca-ri-a. Đọc Kinh thánh, chúng ta thấy lạ lùng trước những sự kiện cao cả đã được Thiên Chúa thực hiện trong suốt dòng lịch sử, nhưng ý nghĩ như thế không còn xảy đến nên không còn làm cho chúng ta ngạc nhiên nữa. Chúng ta tin nhiều kỳ công Thiên Chúa đã làm cách đột xuất lạ lùng xưa kia hơn là ngày nay. Chúng ta phải tự hỏi mình xem mình còn tin thật rằng Thiên Chúa luôn luôn sống động không?
Hiện thời Giáo hội đang trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng. Giáo hội đang đi trong đen tối, không còn ảnh hưởng như xưa. Nhiều con cái đã bỏ Giáo hội. Nhiều con cái khác lại phản đối Giáo hội trầm trọng. Hầu như chạy tán loạn! Sau cùng … nhiều kẻ nghĩ và nói rằng: “Tương lai không còn Giáo hội nữa”.
Nhưng chính những lúc đó, khi tất cả đều đen tối và như tuyệt vọng, thì Thiên Chúa lại hiện ra mạnh mẽ hơn xưa. Chúng ta có còn đủ niềm tin rằng Ngài sẽ lại hiện đến không? Chúng ta còn đủ lòng hy vọng cậy trông rằng khủng hoảng hiện thời sẽ là một khủng hoảng trưởng thành, khủng hoảng thăng tiến không?
Thiên Chúa mà chúng ta cử hành lễ tạ ơn Ngài là một Thiên Chúa đột xuất và sống động hàng ngày.
G. F
Suy Niệm 6: Thiên Chúa ban ơn cho người công chính
Trong cuộc sống luôn có những điều kỳ diệu làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Đây là tâm trạng của ông Giacaria và bà Êlisabét. Hai ông bà là người cao niên. Qua nhiều năm, họ đã tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa ban cho mình một mụn con. Tuy nhiên, càng mong càng mất. Vì thế, đã có lúc, ông bà thất vọng và không còn dám mơ ước một điều mà ông bà cho là viển vông.
Tuy nhiên, giờ của Thiên Chúa đã đến, Người đã đoái thương đến người công chính, vì thế, Ngài đã ban cho ông bà một điều kỳ diệu, đó là cho bà Êlisabét mang thai một người con trai, mà sau này chính là Gioan Tẩy Giả.
Đây là một phép lạ cả thể, đến nỗi chính bản thân ông Giacaria cũng ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng vì không phải do ông không tin Thiên Chúa, bởi vì trong suốt lịch sử dân Israel, nhiều lúc Thiên Chúa đã can thiệp cách phi thường cho dân. Tuy vậy, vì sự chờ mong quá lâu, và hai ông bà đã về già, nên những chuyện mà hai ông bà đang cầu xin là điều khó có thể xảy ra! Nhưng Chúa có cách của Ngài.
Trong cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay cũng vậy. Nhiều khi niềm tin của chúng ta bị thử thách bằng thời gian, đôi khi trong sự chờ mong của chúng ta bị đánh đổi bằng đau khổ và nước mắt. Thiên Chúa để chúng ta chờ mong như vậy, không có nghĩa Ngài là vị Thiên Chúa vô cảm, nhưng ngang qua đó, Thiên Chúa muốn biểu lộ quyền năng mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, trong lịch sử cho thấy, đã có biết bao người thua cuộc. Đã có nhiều người phải đầu hàng vì thiếu niềm tin mạnh mẽ, can trường.
Thật vậy, muốn chứng minh niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, đôi khi chúng ta phải có đủ độ lỳ trong hy vọng vào quyền năng của Người.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con thêm niềm hy vọng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thánh Gioan Tẩy Giả đã được sinh ra trong thời kỳ ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét đã cao niên và son sẻ. Chính Chúa đã can thiệp. Chúa cũng hằng ngày can thiệp vào cuộc sống của ta để ta sinh hoa trái trước mặt Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã can thiệp cách đặc biệt để Thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra và trở nên vị tiên tri dọn đường cho Chúa cách trung thành. Con và gia đình con được hồng ân trở thành con Chúa. Đó chính là nhờ sự can thiệp đầy tình yêu thương của Chúa. Chúa đã giáng trần, đã chịu bao nhiêu thương khó, chịu nạn và sống lại vinh quang. Chúa đã hạ mình xuống thân phận tôi đòi để chúng con được sống sự sống của chính Thiên Chúa.
Chúa lại ban các tông đồ, các vị chủ chăn, để giúp chúng con sống cuộc đời làm con Chúa. Chúa lại còn can thiệp bằng cách thánh hiến các linh mục vì chúng con. Con còn gặp biết bao anh chị em thánh thiện, làm gương sáng và dắt dìu nhau về cùng Chúa. Con quên sao được ơn sống đạo của ông bà cha mẹ trong gia đình con. Chúa đang dùng nhiều cách để giúp con sống thân tình với Chúa mỗi ngày một hơn. Con chúc tụng tạ ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang đến với con và đang muốn dùng con để Chúa đến với các linh hồn xung quanh. Ngày ngày Chúa vẫn can thiệp vào cuộc sống của con. Ngày ngày Chúa vẫn thanh tẩy con như thanh tẩy Thánh Gio-an. Còn hơn thế nữa, ngày ngày Chúa vẫn dùng Mình Máu Chúa mà nuôi dưỡng thánh hóa con. Con cũng muốn sống theo gương Thánh Gio-an. Con muốn trung thành dọn đường cho Chúa đến với mọi người. Xin Chúa giúp con. Amen.
Ghi nhớ: ”Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra”.
Suy Niệm 8: Truyền tin cho ông Giacaria
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Thời vua Hêrôdđê, có vị tư tế tên là Giacaria và vợ là Elizabeth. Cả hai là người công chính, nhưng đã già mà không có con. Một hôm ông Giacaria trúng thăm vào cung thánh dâng hương cho Chúa. Đang lúc dâng hương ông thấy Thiên thần hiện ra báo cho ông biết: Chúa đã nhận lời ông cầu nguyện, vợ ông sẽ mang thai và sinh con trai đặt tên là Gioan. Người này sẽ nên cao trọng, sống khắc khổ, sẽ dọn đường cho Chúa Cứu Thế.
Nhưng ông Giacaria không tin, nên ông bị câm. Còn vợ ông thì thật sự có thai đúng như lời Thiên thần truyền.
2. Thử thách đối với ông Giacaria và bà Elizabeth.
Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ biết dựa vào đức tin phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp.
Kinh Thánh cho biết hai ông bà là người công chính trước mặt Thiên Chúa (Lc 1,6), nhưng Chúa lại để cho hai ông bà bị hiếm muộn, son sẻ, mà theo quan niệm người Do thái là người có tội bị Thiên Chúa phạt, như người ta nói: “Cây khô không lộc, người độc không con”.
Nhưng công việc của Thiên Chúa thì chúng ta không hiểu được. Có thể đó là những điều Chúa thử thách rồi Người sẽ ban ơn cho như trường hợp hai ông bà hôm nay.
Vấn đề son sẻ được đề cập đến rất nhiều trong Cựu Ước như bà Sara, bà Rebecca, bà Rakhen, mẹ ông Samson, mẹ ông Samuel và Elizabeth đều là những phụ nữ son sẻ, nhưng đã sinh con và những người con của họ đều là những người đã được Thiên Chúa chọn và dùng vào trong công trình vĩ đại của Người. Điều đó cho chúng ta thấy sự bất lực của con người lại tỏ bày quyền năng của Thiên Chúa trong công việc của Người.
3. Theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay, một gia đình đã có một lời cầu nguyện rất sốt sắng: Lạy Chúa, qua câu chuyện trên đây, Chúa muốn cho con biết: nếu con sống đẹp lòng Chúa, thì dù con xin điều gì khó khăn cách mấy, Chúa cũng sẽ sẵn sàng ban cho con. Như trường hợp vợ chồng ông Giacaria không hy vọng gì có con, nhưng ông bà là người công chính luôn luôn sống đẹp lòng Chúa, nên chẳng những cho được sinh con mà còn chọn con ông bà làm tiền hô dọn đường cho Chúa.
Xin cho gia đình con và các gia đình luôn sống đẹp lòng Chúa, hằng ngày siêng năng sốt sắng thờ phượng Chúa, tuân giữ luật Chúa, để được Chúa ban ơn cần thiết, nhất là để được Chúa thương chọn nhiều người trong gia đình chúng con giúp việc Chúa.
4. Theo gương thánh Gioan Tẩy giả đến làm chứng cho ánh sáng cũng là làm chứng cho Chúa Cứu Thế. Chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa bằng bất cứ cách nào: ” Các con là chứng nhân của Thày” (Lc 24,48).
Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng lời nói, chữ viết hay bất cứ phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính cách thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho Linh mục Gioan Vianney, cha sớ xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: ”Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
5. Truyện: Một chứng tích hùng hồn.
Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quí phái, Sophie Beranski phải thất nghiệp.
Ngày kia, gia đình Hersten, một gia đình Do thái thuê nàng về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đã đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy hương ấy nhưng nàng nhất định không cho: bí mật của đời cô mà!
Dưới sự săn sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên nhu mì ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua, tai họa dồn dập xẩy đến: Bé Naim đau nặng. Cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng lại càng nặng thêm. Tuy nhiên Sophie vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi ba đứa nhỏ trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.
Hai năm trôi qua. Hôm nay là ngày giỗ của Sophie Beranski. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến nhà thờ Công giáo dự thánh lễ. Phải chăng là phép lạ?
Không! Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: ”Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng từ hùng hồn”.
Ông hết sức cảm phục. Cả gia đình ông cũng thế. Sau đó tất cả mọi người đều đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội.
Suy Niệm 9: Giới thiệu nhân vật dọn đường cho Chúa Cứu Thế
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Phân tích
Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu hoàn cảnh sinh ra nhân vật thứ hai, sẽ dọn đường cho Chúa Cứu Thế: Gioan Tiền Hô.
1. Ông Dacaria và bà Êlisabét được trình bày theo hình ảnh của những tổ phụ thời Cựu Ước: công chính, tuân giữ mọi đều răn và mệnh lệnh Thiên Chúa, nhưng son sẻ và cao niên cũng như Abraham, Sara; cha mẹ của Samson; cha mẹ của Samuel… Do đó có thể nói hai ông bà là đại diện cho Cựu Ước.
2. Đứa con mà họ sẽ sinh ra cũng là đại diện của Cựu Ước: Gioan được mô tả như các ngôn sứ, được Thiên Chúa gọi ngay từ lòng mẹ, chính Thiên Chúa đặt tên cho, rượu lạt rượu nồng đều không uống, đầy Thần Khí và uy quyền của ngôn sứ. Gioan sẽ thay mặt Cựu Ước để giới thiệu Đức Giêsu của Tân Ước.
3. Việc sinh con trong hoàn cảnh son sẻ tuổi già của các nhân vật Cựu Ước và của vợ chồng Dacaria chuẩn bị cho cuộc sinh ra đặc biệt của Chúa Giêsu, bởi vì “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37)
Suy gẫm
1. Theo cái nhìn đức tin, và trong chương trình cứu độ của Chúa, mỗi người sinh ra đều có một ơn gọi, một sứ mệnh. Xin Chúa cho con nhìn ra và xác tín ơn gọi, sứ mệnh của con hôm nay. Xin Chúa cho con cũng nhìn ra và quý trọng ơn gọi, sứ mệnh của anh chị em đang sống bên con, nhất là sứ mệnh dọn đường cho Chúa đến.
2. Việt Nam ta có một truyện cổ nói lên niềm tin dân gian vào sứ mệnh, vào số mệnh của từng con người trên đời. Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết. Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi. Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.
3. Giacaria bị câm nín một thời gian sau đó hát lên bài ca nổi tiếng Benedictus. Đời sống đạo của ta cũng có thể có nét gì tương tự như vậy. Sau những thử thách, sau những gian khổ nghiền ngẫm, sau mùa đông… Sẽ là niềm hân hoan an bình, sẽ là bài ca chúc tụng, sẽ là những bông hoa tươi đẹp… nếu ta biết vững niềm tin cậy phó thác vào tình thương của Chúa.
4. “Một sứ thần hiện ra với Dacaria và bảo: “Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan. ” Dacaria thưa rằng: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già mà nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (Lc 1,13. 18)
Cô Isabelle 19 tuổi, nữ sinh viên người Pháp, đã cảm thấy “Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa nữa,” vì sau những đau khổ, mất mát xảy đến với cô, Thiên Chúa đã “ngoảnh mặt làm ngơ. ” Cô không còn thiết sống nữa. Nhưng chính trong bước đường cùng ấy, theo lời khuyên của một người bạn, cô đã “đến và ở lại với Chúa,” và cô đã cảm nghiệm được lòng nhân từ của Người, đến nỗi có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Không gì có thể tách tôi ra khỏi Tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô. ”
Cuộc sống đã hơn một lần khiến tôi cảm thấy không biết phải dựa vào đâu để tin vào Thiên Chúa và chấp nhận những gì xảy đến cho tôi. Cũng như ông Dacaria và cô Isabelle, trước những thách đố của cuộc sống, tôi cũng cảm thấy bối rối, lo âu, không biết nương nhờ ai để có thể đứng vững.
Lạy Chúa, xin cho con biết đến và ở lại với Chúa, tìm và gặp nơi Ngài chỗ nương thân.
Suy Niệm 10: Mọi người, và Gioan Baotixita có sứ mệnh
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Theo cái nhìn đức tin, và trong chương trình cứu độ của Chúa, thì mỗi người sinh ra đều có một ơn gọi, một sứ mệnh. - Không phải chỉ có các tổ phụ hay các đấng bậc có chức có vị trong Giáo Hội mới là những người có sứ mệnh nhưng là tất cả mọi người.
Tháng 7-1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng, ngài viết cho cha mẹ già có những dòng như sau:
“Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống để trở về với cha mẹ nữa không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước rất nhiều. Thế nhưng, con cũng không sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng, cũng đừng buồn sầu vì con. Rồi đây, cha mẹ cũng không còn nhận được thư của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều khó khăn thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ tiếp tục rao giảng Tin Mừng và tình yêu Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả mà con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa. Các phép lạ Chúa Giêsu làm đều được minh chứng rằng, có Thiên Chúa, do đó con vẫn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Thánh Thần Chúa phán bảo con. Mười tháng sau, khi nghe con rao giảng về Chúa Kitô, một binh sĩ đã được ơn tin nhận Chúa và xin rửa tội. Điều đó giúp con rất nhiều và giúp con thêm bền lòng vững chí.
Thân ái chào cha mẹ yêu dấu, và có lẽ đây là lời chào cuối cùng, của con gửi đến cha mẹ trên trần gian này”.
2. “Sứ thần hiện ra với Giacaria và bảo: “Bà Êlisabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”. Giacaria thưa rằng: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già mà nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (Lc 1,13. 18).
Giacaria muốn xin một dấu lạ. Việc xin một dấu lạ thực ra không có gì đáng trách cả. Môisen xưa kia đã từng xin Giavê một dấu lạ. (Xh 15,28). Tướng Gêđêon cũng thế, ông cũng muốn xin một dấu lạ khi thiên thần báo cho ông hay là Chúa đã chọn ông làm tướng cứu dân Israel. Ở đây, Giacaria cũng xin một dấu lạ nhưng ông đã bị phạt vì ông không đủ lòng tin.
Giacaria bị câm nín một thời gian nhưng sau đó hát lên bài ca nổi tiếng ”Benedictus”. Đời sống đạo của mỗi người chúng ta cũng có thể có nét gì tương tự như vậy. Chính vì thế mà chúng ta phải biết luôn kiên trì trên con đường theo Chúa.
Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quí tộc, Sophie Beranska phải thất nghiệp.
Ngày kia, gia đình Hersten, một gia đình Do Thái thuê nàng về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy chương ấy nhưng nàng nhất định không cho: bí mật của đời cô mà!
Dưới sự chăm sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên nhu mì ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua thì một hôm, tai họa dồn dập xảy đến: Bé Naim đau nặng. Cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng thì càng nặng thêm trên đôi vai Sophie. Tuy nhiên, nàng vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi 3 đứa nhỏ trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.
Hai năm trôi qua. Hôm nay, là ngày giỗ của Sophie Beranska. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến một nhà thờ Công giáo dự thánh lễ. Phải chăng là phép lạ?
Không! Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương của nàng mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được một mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”.
Ông hết sức bàng hoàng cảm phục. Rồi gia đình ông cũng thế. Và sau đó tất cả mọi người đều đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội.
18/12 Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
- Viết bởi Mt 1, 18-24
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Thứ Hai tuần 3 mùa vọng.
"Chúa Giêsu sẽ sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse, thuộc dòng dõi Ðavít".
LỜI CHÚA: Mt 1, 18-24
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )
Thiên Chúa bất ngờ và mãi mãi bất ngờ.
Ngài muốn cứu độ nhân loại bằng cách sai Con Một làm người.
Cách trở thành người của Con Thiên Chúa
vừa bình thường, lại vừa tuyệt đối khác thường.
Bình thường vì Ngài được một phụ nữ sinh ra (x. Gl 4, 4).
Khác thường vì Ngài được sinh ra không do một người cha ruột,
nhưng do quyền năng của Thánh Thần (cc. 18. 20).
Đây là niềm tin ngay từ thuở ban đầu của các Kitô hữu.
Giáo Hội sung sướng đến với máng cỏ
để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu và Mẹ đồng trinh của Ngài.
Nhưng chúng ta không được quên thánh Giuse.
Giuse đã bối rối, đau khổ khi thấy vị hôn thê của ông mang thai,
dù Maria chưa về chung sống với ông, dù chưa làm đám cưới.
Ông không muốn tố cáo Maria vì tội ngoại tình,
nhưng ông cũng không thể lấy Maria làm vợ,
với thai nhi trong bụng không phải của ông.
Cuối cùng ông chọn giải pháp là chia tay bà một cách kín đáo (c. 19).
Như thế ông hy vọng sẽ bảo vệ được danh dự và an toàn cho Maria.
Nhưng Thiên Chúa Cha cần Giuse,
cần một người cha nhân loại cho Con mình.
Con Thiên Chúa không thể sinh ra trong một gia đình không cha.
Người cha cần biết bao cho sự phát triển quân bình của đứa trẻ.
Maria cũng cần chỗ dựa và không thể một mình nuôi con.
Qua sứ thần, Thiên Chúa mong Giuse đón Maria về làm vợ (c. 20),
nghĩa là làm đám cưới chính thức với Maria.
Việc này đi kèm với việc đặt tên cho người con trai của Maria,
nghĩa là nhận người con ấy là con của mình trước pháp luật (c. 21).
Một lời mời quan trọng chờ nơi Giuse một tiếng Xin Vâng.
Đâu phải Thiên Chúa chỉ cần tiếng Xin Vâng của Maria là đủ.
Giuse có thể từ khước vì thấy mầu nhiệm khó hiểu và khó tin.
Làm sao quyền năng Thánh Thần lại có thể làm cho Maria mang thai?
Giuse có thể sợ vì thấy mình phải chịu trách nhiệm làm chồng làm cha,
dù thực sự mình chẳng hề là thế.
Thiên Chúa đã mời Giuse trong giấc ngủ đêm khuya.
Và ông đã làm y như lời sứ thần truyền khi thức dậy (c. 24).
Tiếng Xin Vâng của Giuse quá quan trọng cho kế hoạch cứu độ,
nhờ đó Con Thiên Chúa đàng hoàng bước vào cuộc đời,
có một mái nhà, có mẹ, có cha, có tên, có tuổi.
Nếu không có những tiếng Xin Vâng của Maria và Giuse,
thì điều gì sẽ xảy ra cho nhân loại đang cần ơn cứu độ?
Thiên Chúa chỉ ở-với-chúng ta nếu có những tấm lòng xin vâng.
Ngài vẫn cần tấm lòng của người mẹ biết cưu mang như Maria,
và tấm lòng của người cha dám chịu trách nhiệm
để Giêsu có chỗ đứng hợp pháp trong thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Suy Niệm 2: Triều đại công chính
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Từ xưa người nghèo luôn bị bóc lột. Dân nghèo luôn bị nô lệ. Vì thế luôn mong chờ một triều đại công chính. Giê-rê-mi-a loan báo sẽ có vua công chính từ dòng dõi Đa-vit. Sẽ thi hành điều chính trực công minh. Sẽ là “sự công chính của chúng ta”.
Công bình chính trực. Công bình là của ai phải trả lại cho người ấy. Người ta bất công vì muốn chiếm đoạt của người khác. Vì thế sinh ra chiến tranh, oán hờn, bất ổn. Đặc biệt người ta chiếm đoạt quyền của Thiên Chúa. Cần phải “của Xê-da trả cho Xê-da; của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”(Mc 12,17). Chỉ khi Vua Công Chính đến ta mới được hưởng nền “thái bình thịnh trị”.
Thánh Giu-se thuộc về triều đại công chính. Nên Người sống công chính. Chỉ dám nhận những gì thuộc về mình. Không dám nhận Ma-ri-a vì Mẹ thuộc về Thiên Chúa. Không dám nhận Chúa Giê-su vì Chúa là Con Thiên Chúa. Không dám tố cáo Ma-ri-a vì quyền xét đoán thuộc về Thiên Chúa. Thánh nhân chỉ biết lặng lẽ rút lui. Để Thiên Chúa ra tay. Vì quyền thuộc về Thiên Chúa. Quả nhiên Thiên Chúa đã nói với thánh Cả: “Đừng sợ nhận Ma-ri-a”. Lại còn truyền cho ngài đặt tên cho con trẻ. Đặt tên là có quyền trên con trẻ. Con trẻ được trinh nữ sinh ra. Trinh nữ làm sao sinh con. Đó chỉ có thể là quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng Giu-se được quyền. Vì Chúa là Em-ma-nu-en. Là Thiên Chúa ở với loài người. Chỉ khi được Thiên Chúa trao quyền, Giu-se mới dám trở về lãnh nhận. Đó là người công chính.
Người công chính. Thuộc về triều đại công chính. Xứng đáng đón nhận Vua Công Chính. Đó là tấm gương cho ta. Ta cũng phải sống công chính. Để được là thần dân của Vua Công Chính. Ta phải làm chứng cho Vua Công Chính. Nên phải sống công chính. Ta phải cùng người xây dựng triều đại công chính. Nên phải sống công chính.
Lạy Vua Công Chính, xin hãy đến. Xin hãy giúp con sống công chính. Để góp phần thay đổi thế giới này. Một thế giới còn quá nhiều bất công. Nơi người mạnh ức hiếp người yếu. Người giầu chèn ép người nghèo. Người có quyền chà đạp người dân lành. Xin cho con biết xây dựng triều đại công chính. Để Chúa ngự trị trên thế giới. Để muôn dân được hưởng nền thái bình thịnh trị.
Suy Niệm 3: Dòng Tộc Của Chúa Kitô
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Ðiều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quần nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Ðến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Ðộng lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt của mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: "Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con".
Anh chị em thân mến!
Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuật việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: "Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ tạo lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của Người sẽ vững bền mãi mãi".
Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do Thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.
Ðang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
Suy Niệm 4: Đấng Emmanuel
Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên giới mà không cần quan hệ giới tình.
Đấng Emmaanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân loại xoá bỏ những chia rẽ, đố kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu nhân loại còn đầy những ích kỷ, oán hận, tranh chấp.
Nhưng trên tất cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài có thể mãi mãi là Đấng Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.
Suy Niệm 5: Trong kế hoạch của Thiên Chúa
Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt. 1, 20-21)
Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giu-se như chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Giu-se bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giu-se công chính vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi thánh Giu-se chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đa-vít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đa-vít.
Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính như thánh Giu-se không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?
R. St. G
Suy Niệm 6: Thiên Chúa ở cùng chúng ta
Giữa lúc dân Israel đang quằn quại trong cảnh lưu đầy tại Babylon. Dân mong ngóng được Thiên Chúa giải thoát khỏi cảnh sầu thương tang tóc. Sự mong đợi của dân đã được Thiên Chúa nhìn đến khi cho xuất hiện tiên tri Giêrêmia đến để loan báo tin vui cho dân, ngài loan báo: một vị Vua Công Chính, Khôn Ngoan sẽ ngự trị để lãnh đạo dân, và Ngài sẽ được gọi là: “Chúa công bình của chúng ta”. Sứ vụ của vị vua này chính là đưa dân trở về quê hương để lập lại một dân mới.
Sang bài Tin Mừng, thánh Mátthêu giới thiệu cho chúng ta biết vị vua đó chính là Đấng Emmanuel, nghĩa là Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ngự giữa dân cách cụ thể và cứu dân bằng con đường tự hủy. Ngài vốn là một Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã tự hủy mình đi, nhận lấy thân phận người phàm, trở nên giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi để cứu chuộc chúng ta.
Thật vậy, Đức Giêsu, Đấng là Emmanuel đó đã xóa đi mọi ngăn cách để ở giữa loài người và không ngừng thi ân giáng phúc cho mọi người.
Trong những ngày này, nhiều nơi đang chuẩn bị làm hang đá, tập những bài thánh ca ... để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Tuy nhiên, những việc làm đó sẽ trở nên vô ích khi chính đời sống nội tâm chúng ta không chuẩn bị thanh lọc những thứ như đố kỵ, giận hờn, ghen ghét ... Vẫn còn bộn bề với lối sống hình thức bên ngoài ... !
Nếu không chừng, Đấng Emmmanuel, đã ở cùng nhân loại nhưng vô phúc cho chúng ta vì Ngài lại không có một chỗ để ở trong cung lòng của ta!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy yêu thương nhau, đón nhận nhau trong tình huynh đệ. Hãy mở rộng cánh cửa tâm hồn để trong sâu thẳm nội tâm, chúng ta có một chỗ cho Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta.
Lạy Đấng Emmanuel, xin cho tâm hồn chúng con xứng đáng là máng cỏ cho Ngài ngự trị. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Hạnh phúc khi để Chúa thực hiện điều Chúa muốn
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở giữa loài người để yêu thương và ban ơn cứu độ. Ngài mời gọi ta cùng thực hiện kế hoạch này theo gương Đức Maria và thánh Giuse.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con phải tri ân và cảm phục biết bao vì Đức mẹ và Thánh Giuse vâng phục và cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Đứng trước việc Mẹ sẽ thụ thai và sinh con, Mẹ hoàn toàn choáng váng, ngỡ ngàng, nhưng khi hiểu ra được Thánh Ý Chúa, Mẹ hết lòng xin vâng. Đứng trước việc Đức Maria mang thai, thánh Giuse thực sự bối rối và hốt hoảng, nhưng khi hiểu ra được kế hoạch của Chúa về Đấng Em-ma-nu-en, Thánh Giuse xin hết lòng cộng tác.
Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay giúp con hiểu được rằng: con chỉ có thể có được sự bình an, sự cảm thông và hạnh phúc, khi con để cho Chúa thực hiện điều Chúa muốn. Sở dĩ bao gia đình công giáo hôm nay vẫn bất hòa chia rẽ, nghi ngờ nhau và đi đến tình cảnh bi đát là li dị nhau, phải chăng vì đã không để cho Đấng Em-ma-nu-en ngự trị trong lòng họ và họ đã chối từ Thánh Ý Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết cộng tác với kế hoạch Em-ma-nu-en của Chúa, để con nỗ lực xóa tan đi những đố kỵ ngăn cách giữa người với người. Xin Chúa hãy cắm lều và ở lại trong lòng con, để biến đổi trái tim chai lì khô cứng của con thành một trái tim yêu thương, luôn biết nhạy cảm trước những nỗi đau khổ của tha nhân. Xin cho con biết chấp nhận thánh giá, những nghịch cảnh trong cuộc đời, để Ý Chúa được nên trọn trong con. Và xin Đấng Em-ma-nu-en ở giữa gia đình con cũng như bao gia đình trên thế giới, để xua đuổi đi những hiểu lầm, tranh chấp, những ích kỷ nhỏ nhen, và ban ơn bình an hiệp nhất cho muôn người. Amen.
Ghi nhớ: ”Chúa Giêsu sẽ sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse, thuộc dòng dõi Ðavít”.
Suy Niệm 8: Khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Phân tích
Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu nét thứ hai của Chúa Cứu Thế sắp sinh ra: Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người (C. 23). Bài Tin mừng cũng giới thiệu một người đóng vai trò tích cực cho việc Ngài sinh ra: Thánh Giuse.
1. Phần đóng góp của Thánh Giuse vào công trình nhập thể của Chúa Giêsu là:
a/ Cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Đavít, nhờ thế thực hiện đúng lời Thiên Chúa đã hứa xưa từ thời Cựu Ước C. 20b: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít”; C. 21 “Ông sẽ đặt tên cho con trẻ”: Thánh Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu nghĩa là nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý.
b/ Bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu: C. 20c “Đừng ngại đón Maria về; c. 24 “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như lời sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”; c. 25 “Và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu. ”
2. Về ý định ban đầu, Thánh Giuse muốn bỏ đi cách âm thầm kín đáo, các chuyên viên Thánh Kinh còn chưa nhất trí nhau ở một số chi tiết. Nhưng mọi người đều nhất trí về động cơ hướng dẫn mọi hành động của thánh Giuse (ý định ban đầu, và quyết định ở lại sau đó), đó là vì “Giuse là người công chính. ” Một giải thích rất đáng lưu ý là: Ban đầu, Giuse biết mình không phải là cha của đứa bé nên vì công chính mà không dám nhận quyền làm cha, bởi đó định âm thầm ra đi (Công chính=không xâm phạm quyền lợi của người khác); sau đó khi biết ý Thiên Chúa muốn mình bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu thì, cũng vì công chính nên Ngài đã ở lại (Công chính=thi hành ý Thiên Chúa).
3. Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. ” Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thể sống chung với loài người, bất chấp mọi nghèo nàn, túng thiếu, hèn hạ, khổ sở ... Yêu thương là chia vui sẻ buồn, chia sẻ thân phận ...
Suy gẫm
1. Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”: Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu Kitô. Muốn cứu người, không phải chỉ đứng xa chỉ tay năm ngón, hoặc vẽ kế hoạch rồi cho người khác thực hiện. Nhưng là chia sẻ thân phận, đồng hành, và cuối cùng là chịu thiệt vào thân, leo lên cây Thập Giá. Thập Giá là bước cuối cùng của nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu Kitô. Lạy Chúa, xin dạy con biết dấn thân phục vụ như Chúa.
2. Giuse đã thay đổi kế hoạch của mình để theo ý Chúa. Những nhận định và tính toán của ta, dù đầy thiện chí, nhiều khi lại không hợp với chương trình và ý định của Thiên Chúa. Người công chính là người biết bỏ ý riêng, biết thi hành ý Chúa, biết sống lời Fiat như Mẹ Maria, biết sống câu “Xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” như Chúa Giêsu.
3. Với con mắt người đời, tình yêu của đôi nam nữ Giuse và Maria xem ra chỉ là chuyện bình thường. Nhưng với kế hoạch của Thiên Chúa, với sự quảng đại đáp trả ơn Chúa gọi, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã góp phần cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết dùng tình cảm và tình yêu của con để phục vụ Nước Chúa.
4. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như thiên thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24)
Tên thánh của tôi là Giuse. Tôi rất tự hào về điều đó và thường tự hỏi “Mình phải làm thế nào để trở nên giống thánh bổn mạng?” Thánh Giuse đã làm như thiên thần dạy là đón nhận Đức Maria. Ngài chấp nhận cuộc sống âm thầm để phục vụ Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Còn tôi thì sao? Một lần, tôi nhờ mẹ giặt hộ một bộ quần áo để đi dự tiệc. Vì bận việc, mẹ tôi đã quên. Tôi cằn nhằn và bỏ luôn buổi tiệc… Ngay cả chuyện nhỏ như vậy mà tôi chưa sẵn sàng vui vẻ đón nhận thì kể gì đến những chuyện lớn lao.
Xin Thánh Giuse dạy con biết khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa cách trọn vẹn như Ngài.
Suy Niệm 9: Truyền tin cho ông Giuse
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng cho chúng ta biết: Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse ... Vì cả hai đã khấn giữ mình đồng trinh nên không chung sống với nhau. Nhưng Maria lại có thai, nên thánh Giuse buồn sầu định lén bỏ đi. Chúa liền sai Thiên thần đến báo cho ông biết: Maria mang thai là do phép Đức Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, phải đặt tên là Giêsu. Đây là Đấng Cứu chuộc nhân loại, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo và gọi là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Thánh Giuse đã làm đúng như lời Thiên thần truyền, ông tiếp nhận Maria và khi bà sinh con thì đặt tên là Giêsu.
2. Mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse (Mt 1,18).
Chúng ta cần tìm hiểu phong tục cưới hỏi của người Do thái. Luật Do thái phân biệt rõ ràng trong hôn nhân: việc đính hôn và cưới xin. Tuy cũng có lễ hỏi và lễ cưới nhưng giá trị và ý nghĩa khác với Việt nam chúng ta.
Lễ đính hôn (cũng gọi là lễ hỏi) được diễn ra như sau:
Thời gian đính hôn kéo dài trong một năm. Trong năm đó đôi bạn được kể như vợ chồng dù họ không có những quyền của vợ chồng. Lễ hỏi Việt nam chưa làm vợ chồng, còn lễ hỏi Do thái coi như thành vợ chồng. Chứng cớ là theo luật:
- Vị hôn thê bất trung sẽ bị ném đá như vợ chính thức.
- Vị hôn phu có chết thì vị hôn thê trở thành quả phụ.
- Vị hôn thê cũng giống như người vợ chính thức chỉ có thể bỏ nhau bằng tờ ly dị.
- Đứa con cưu mang trong thời gian đính hôn được coi là con chính thức.
Như thế luật cho hai người quyền ăn ở với nhau trong thời gian này.
Giuse và Maria đang ở trong giai đoạn này.
3. Giuse được báo mộng trong giấc mơ về chương trình của Thiên Chúa được thực hiện qua cuộc hôn nhân giữa ông và Maria, việc nàng có thai không phải ý của phàm nhân nhưng dưới tác động của Chúa Thấn Thân. Vì thế ông đã đón nhận Maria về nhà mình theo sự báo mộng của Thiên Thần thay vì ý định ruồng bỏ nàng lúc phát hiện người bạn đời có thai (không phải của mình). Giấc mơ của Giuse đã thành hiện thực bởi sự trung tín vào Thiên Chúa với báo mộng về lời phán truyền của tiên tri Isaia về Đấng Thiên Sai sẽ thành hiện thực ở nơi gia đình ông (x. Is 7,14-16). Chính con trẻ này sẽ trở nên ơn cứu độ và bao bọc cho cả nhân loại.
4. Ông Giuse là người công chính.
Kinh thánh gọi Giuse là người công chính: “Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).
Chúng ta biết, nơi người Do thái, không phân biệt rõ thời kỳ đính hôn và cưới hỏi. Mặc dù chưa cưới, hai người đã đính hôn cũng có thể ăn ở như vợ chồng mà không có lỗi gì đối với lề luật. Do đó, người ta thấy vị hôn thê có thai, thì chỉ một mình vị hôn phu có thể phán đoán trong việc đó là có tội hay không. Như vậy, thánh Giuse có thể hành động bằng hai cách: hoặc là tuyên bố theo sự hiểu biết tự nhiên của mình là Maria đã phạm tội ngoại tình, và như thế Maria mất thể diện hoàn toàn; hoặc là để mặc cho người ta tin rằng ngài là cha của đứa bé sắp sinh. Giuse chọn giải pháp nào?
Đang phân vân lo nghĩ không biết xử trí ra sao thì Thiên Chúa báo mộng cho ông: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Ông Giuse được báo mộng và ông yên tâm nhận Maria làm vợ. Việc này thường xẩy ra trong Cựu ước khi Thiên Chúa muốn truyền cho ai một điều gì. Vậy hôm nay, việc báo mộng cho Giuse là cách thức Thiên Chúa dùng để tỏ ra thánh ý của Ngài về việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria.
5. Hài nhi sinh ra sẽ được gọi là Emmanuel nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thể sống chung với loài người, bất chấp con người xấu xa tội lỗi, nghèo nàn, túng thiếu, khổ sở ... Thiên Chúa làm người đã vui lòng chia sẻ thân phận với người trần thế. Ngài muốn cho ngày Giáng sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu con người để kêu gọi con người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu.
6. Truyện: Thiên Chúa nói bằng tiếng nào?
Ngày xưa có chú bé Phi châu tên là Emmanuel. Chú luôn thắc mắc: “Thiên Chúa nói bằng tiếng nào”? Chú hỏi thầy giáo thì thầy cũng không biết. Sau đó chú Emmanuel lại đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận, nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin có người biết được điều ấy.
Một đêm nọ, Emmanuel đến ngôi làng Belem. Chú cố tìm chỗ để nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả đều không còn chỗ. Vì thế, chú quyết định tìm cái hang ngoài trời để trú đêm. Quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, người mẹ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.
Chú bé quá sửng sốt, và người mẹ trẻ nói tiếp: “Đã từ lâu, con đi tìm để hỏi xem Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con đã có câu trả lời. Ngài nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài”.
Suy Niệm 10: Thánh Giuse người công chính
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay, chúng ta nói với nhau về một nhân vật mà chúng ta đã quá quen thuộc với Ngài. Đó là Thánh Giuse.
Ngay từ những giây phút đầu tiên của cuộc nhập thể, chúng ta đã thấy Thánh Giuse đã có mặt ở đó rồi.
Chúng ta thử hỏi lý do nào đã làm cho Giuse được Chúa ưu ái như thế ?
1- Đọc trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta có thể tìm ra câu trả lời. Trước hết Thánh Giuse được Kinh Thánh gọi là “người công chính”. Danh hiệu “người công chính” theo Kinh Thánh phải được hiểu như thế nào ?
a- Hình ảnh người công chính xuất hiện đầu tiên trong Kinh Thánh là hình ảnh về một con người biết chu toàn mọi giới luật của Thiên Chúa. Nói một cách khác: đó là những người sống phù hợp với Luật. Chúng ta biết là luật có một vai trò rất quan trọng trong đời sống tôn giáo. Người nào chu toàn Luật một cách trọn vẹn thì người đó sẽ được kể là người công chính. Hình như đây cũng là qui luật chung cho tất cả những ai muốn trở thành người đáng kính trọng trong xã hội loài người.
Tôi đọc trong lịch sử các vĩ nhân trên thế giới, tôi thấy có một người đã được cả thế giới biết đến và kính phục vì người ấy đã biết trung thành với những lề luật. Đó là thánh Gandhi.
Lịch sử thuật lại rằng: Hồi còn nhỏ khi ở trường về, vì sợ mẹ quở mắng cho nên ông đã nói dối mẹ một việc nhỏ thôi. Bà mẹ biết chuyện nên ngày hôm đó bà nhất định bỏ không ăn cơm. Gandhi hết lời van xin mẹ nhưng bà cũng nhất định không chịu. Ông van xin mãi thì được bà giải thích:
- Mẹ thà thấy con chết hơn là thấy con nói dối. Vì con nói dối là con tỏ ra con có một tâm hồn khiếp nhược. Có đứa con như thế là nỗi nhục cho mẹ, Mẹ không muốn sống nữa.
Thấy lòng mẹ cương quyết như thế, cậu bé Gandhi đứng lên đi thẳng xuống bếp, lấy một cục than hồng đặt vào lòng bàn tay của mình rồi trước mặt mẹ cậu hứa với mẹ như sau:
- Con thề với mẹ, suốt đời con sẽ không bao giờ nói dối nữa.
Mừng quá bà mẹ ôm chặt con vào lòng, vừa khóc vừa nói:
- Có thế mới là con của mẹ và mẹ mới có đủ can đảm mà sống với con.
Kể từ đó cho dến chết. Gandhi đã giữ lời...không bao giờ ông nói dối. Ông thường kể lại:
“Vết sẹo trên tay tôi là hình ảnh của mẹ tôi. Người không bao giờ rời khỏi tôi. Đó là vị thần phù hộ và nâng đỡ tôi để tôi luôn biết sống ngay thẳng và trọng danh dự”.
Đó là cách sống của một người công chính.
b- Thêm vào đó cũng theo Kinh Thánh thì người công chính còn là người đạo hạnh, là tôi tớ hoàn thiện và nhất nữa còn là bạn của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh về một người công chính mà chúng ta có thể tìm thấy ở trong sách St 7,1;18,23, sách Châm Ngôn 12,10, sách Ez 18,5-26.
Chúng ta hãy nhớ lại một chút câu chuyện của Ađam và bà Evà. Lúc đầu mối liên hệ giữa Thiên Chúa và hai ông bà thật tốt đẹp. Nó chỉ xấu đi sau khi hai ông bà đã phạm tội. Kinh Thánh ghi lại: Cứ chiều chiều Thiên Chúa xuống bách bộ và đàm đạo với hai ông bà. Hỏi còn cảnh nào đẹp hơn thế, thân tình hơn thế. Chỉ tiếc rằng, những cảnh như thế không kéo dài mãi mãi.
Rồi sau đó đến tổ phụ Abraham, đến Môisen, đến các ngôn sứ.
Và sau cùng không một ai ngoại trừ Đức Mẹ Maria được gần gũi với Chúa....được Chúa đối xử thân tình như thánh Giuse. Giuse không chỉ là bạn mà Chúa còn chọn làm cha nuôi của Chúa Cứu Thế.
2 - Bên cạnh hình ảnh một Giuse là người công chính tôi còn thấy ở nơi thánh Giuse một nhân đức rất đặc biệt này: Đó là lòng kính sợ Thiên Chúa cao độ.
Có thể nói tất cả các thánh đều là những người biết kính sợ Thiên Chúa. Sách Châm Ngôn gọi lòng kính sợ Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự khôn ngoan.
Và tôi cũng có thể quả quyết với anh chị em là: mọi tội ác, thảm họa ở trên cõi đời này đều do sự thiếu lòng kính sợ Thiên Chúa mà ra.
Trở lại với đề tài của chúng ta... Chúng ta mở Kinh Thánh:
Abraham sẵn sàng tế lễ Isaac.
Môisen chấp nhận trách nhiệm giải phóng dân Do Thái ra khỏi Ai Cập.
Các ngôn sứ sẵn sàng chấp nhận sứ mệnh mà Thiên Chúa muốn ủy thác.
Đặc biệt là Giuse. Đọc lại những đoạn Tin Mừng có liên hệ đến Ngài, tôi có cảm giác như Ngài không còn là Ngài tí nào nữa mà đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Giữa lúc còn băn khoăn chưa hiểu được những gì xảy đến cho Maria, Chúa bảo Giuse nhận Maria về nhà làm vợ. Giuse nhận.
Lúc Chúa Giêsu giáng sinh ở Bêlem...đang đêm, Chúa bảo đem Hài nhi và Mẹ người đi. Giuse đi.
Đang ở bên Ai Cập, Chúa bảo về... Giuse về. Hoàn toàn thuộc về Chúa.
Phải có một tâm hồn mến Chúa cao độ lắm mới có thể sống được như thế.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết sống công chính như Thánh Giuse. Amen.
- 17/12 Dọn đường chờ Chúa
- 15/12 Chủ quan, phiến diện
- 14/12 Gioan Tẩy giả được Chúa khen
- 13/12 Dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng
- 12/12 Con chiên lạc đàn
- 11/12 Chữa người bất toại và quyền tha tội
- 10/12 Dọn đường chờ Chúa
- 09/12 Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít
- 08/12 Xin Vâng
- 07/12 Người khôn ngoan thực sự