Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
22/12 Thiên Chúa ở cùng chúng ta
- Viết bởi Mt 1, 18-24
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng năm A.
"Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Ðavít".
Lời Chúa: Mt 1, 18-24
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A 2019
Lời Chúa: Is 7,10-14; Rm 1,1-7; Mt 1,18-24
1. Khuôn mặt Giuse: Đấng Công Chính - Huệ Minh
Trước ngày lễ Giáng Sinh, ta được nghe ba cuộc truyền tin: một cho thánh Giuse, một cho ông Dacaria và một cho Đức Maria. Thánh Giuse, người công chính, đã nhanh chóng “đọc” được ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa và cũng mau mắn vâng lời. Đặt tên cho em bé là nói lên quyền làm cha của em. Con Trẻ tên là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ; và Ngài còn được gọi là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Để cứu chuộc con người, Con Thiên Chúa đã đến trần gian, mặc lấy thân xác và sống giữa, sống với con người. Thiên Chúa đã đích thân đến với con người bằng một cung cách thật gần gũi và bình thường.
Chúa Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trần gian do quyền năng Chúa Thánh Thần. Cha mẹ của Người: Đức Maria một cô thôn nữ đơn sơ, nhỏ bé, bình dị đã thành hôn với ông Giuse thuộc dòng tộc Đavít (18.20b). Ông là người công chính, luôn mau mắn vâng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa (c. 19.24).
Sứ vụ của Ngôi Lời nhập thể là để “cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (c. 21b). Con Thiên Chúa làm người, đi vào lịch sử loài người, Ngài không chọn một gia đình cao sang quyền quí làm nơi xuất thân nhưng là một mái ấm gia đình đơn nghèo đạm bạc để làm nên trang sử gia đình thánh và viết lên trang sử đời Người. Ngài là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Với sứ mạng Thiên sai, Ngài đến để rao giảng Tin mừng tình thương cứu độ. Ngài gần gũi, quan tâm, săn sóc những người nghèo khổ, lầm than vất vưởng, bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Và điều quan trọng là Người đến để cứu vớt, giải phóng con người khỏi nô lệ, xích xiềng tội lỗi, cho họ được tự do và làm con Thiên Chúa, được chung hưởng hạnh phúc nước trời.
Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi Đavid, hậu duệ của vua Đavid. Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: "Này đây đã tới ngày Ta gây cho Đavid một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ tạo lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của Người sẽ vững bền mãi mãi".
Trước sự kiện Maria tuy đã thành hôn nhưng chưa về chung sông mà đã có thai nên chắc không phải con của mình, Giuse đã suy đi nghĩ lại trong lòng và đã bình tĩnh chọn lối ứng xử công bình ngay chính như sau: Ông “không tố cáo bà” tội ngoại tình vì không dám xét đoán ý trái cho Maria, một người mà ông biết rõ rất mực thánh thiện. Nhưng đàng khác, ông cũng không thể tổ chức lễ rước dâu để đón Maria về nhà làm vợ và nhắm mắt thừa nhận bào thai Maria đang cưu mang là con mình vì không đúng sự thật và cũng vì chưa nhận được chỉ thị nào từ nơi Thiên Chúa. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp “âm thầm lìa bỏ” bà để vừa tôn trọng sự thật lại vừa bào toàn danh dự cho Maria, tránh cho bà khỏi bị kết tội cách oan ức trước mặt người đời.
Giuse còn thể hiền đức công chính qua thái độ luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Khi được sứ thần hiện ra báo mộng và cho biết ý Chúa muốn, Giuse đã thức dậy và làm theo ý Chúa như sau: Một là tổ chức lễ rước dâu để “đón vợ về nhà”: Để làm được điều này, ông phải làm chủ tính tự ái và can đảm bỏ ngoài tai các dư luận bất lợi chung quanh. Hai là “Ông không ăn ở với bà”: Điều này cho thấy bản lãnh và sức mạnh tinh thần cao cả của ông, để có thể tôn trọng lời khấn hứa trọn đời đồng trinh của Đức Maria. Ba là “Cho đến khi bà sinh một con trai, ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”: Đặt tên là xác nhận tư cách làm cha của Hài nhi Cứu Thế về mặt luật pháp.
Tuy nhiên, hậu duệ của Đavid không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do Thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.
Cách ứng xử của thánh Giuse nói trên cho thấy ngài là một người công chính vì đã dành cho Đức Maria một tình yêu chân thành, có lòng khoan dung nhân hậu, tự chủ mực thước, bản lĩnh và có lập trường vững chắc… Qua đó cho thấy Giuse là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi của Hài nhi Cứu Thế Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria, đồng thời nêu gương thánh thiện cho các tín hữu chúng ta hôm nay.
Ðang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang.
Cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần tránh thái độ hồ đồ, hay xét đoán ý trái cho tha nhân theo thiên kiến chủ quan “suy bụng ta ra bụng người”. Chúng ta cũng cần ứng xử bình tĩnh tự chủ trước mọi tinh huống bất ngờ, luôn phản ứng theo cách khôn ngoan vị tha và trung thực, luôn tìm kiêm thánh ý Thiên Chúa bằng cách tự hỏi: “Nếu Chúa Giêsu ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ thì Người sẽ làm gì?” rồi làm theo lời Chúa dạy để ngày một trở nên công chính thánh thiện noi gương thánh Giuse.
Mạc khải ơn cứu độ là công việc của Thiên Chúa, nhưng để thực hiện ơn cứu độ ấy thì cần đến sự cộng tác của con người. Chỉ khi ta sẵn sàng dẹp bỏ chương trình, sở thích cá nhân, để mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, ta mới có thể cộng tác với chương trình của Ngài. Như Đức Maria khiêm tốn đón nhận lời truyền tin hay tựa như thánh Giuse lập tức thi hành điều được báo mộng, ta cũng hãy tìm mọi cách giúp cho Chúa Giêsu nhập thể và sống giữa môi trường của ta.
2. Đừng ngại... thực thi ý Chúa - Dã Quỳ
Tám ngày trước Đại Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm chân dung của Thánh Giuse và Mẹ Maria. Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vai trò của Thánh Giuse và Mẹ Maria rất quan trọng. Chính nhờ lòng vâng phục của Thánh Giuse và Mẹ, mà Đấng Emmanuel đã nhập thể, nhập thế và hiện hữu trong một dòng tộc giữa trần thế để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa trong sứ mạng cứu độ nhân loại.
Vai trò của Mẹ Maria thật lớn lao. Mẹ luôn hiện diện trong những tường thuật của Tin Mừng mà chúng ta sẽ đọc cho tới ngày Noel "Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người..." Những lời kể về Mẹ thật giản dị nhưng lại mang nặng chiều sâu nhân loại và mầu nhiệm. Chúng ta chiêm nghiệm hình ảnh của Mẹ Maria, một thôn nữ đang ở độ tuổi mười lăm đôi mươi.
Mẹ Maria theo tập tục của Phương Đông thời ấy, đính hôn và thành hôn với một người nam "Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse." Với kinh nghiệm của nhiều người, chắc hẳn chúng ta biết trong thời gian sau khi đính hôn, người ta rất hạnh phúc để chờ đợi ngày được ở bên nhau. Thế nhưng, với Mẹ Maria, một biến cố mầu nhiệm khác đã diễn ra trong cuộc hôn nhân của Mẹ "Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần." Người con Mẹ đang cưu mang là do quyền năng Thiên Chúa thực hiện sau lời xin vâng và niềm xác tín của Mẹ vào chương trình của Ngài. Con trẻ này không là một trẻ thơ như bao đứa trẻ khác. Người là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Người sẽ được gọi là "con người và Thiên Chúa". Nhưng làm sao Giuse, hôn phu của Mẹ hiểu được và đón nhận?
Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể. Thiên Chúa đã quan phòng chuẩn bị cho Ngôi Hai một người cha trần thế. Người cha ấy chắc chắn cũng được đầy tràn ân sủng "Ông Giuse, chồng bà là người công chính." Vì công chính nên khi gặp điều trái ý, đối diện với những biến cố khó khăn hay sai phạm của người, Giuse chỉ âm thầm suy nghĩ và tìm cách cư xử tốt nhất cho người khác, nhất là người mà mình yêu thương "không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo." Làm sao có thể hiểu được ý Chúa nhiệm mầu? Làm thế nào để thực hiện được chương trình của Thiên Chúa, nếu không lắng nghe và mở lòng vâng phục tín thác?
Có thể nói giấc mộng và lời báo mộng của Thiên Thần Chúa cho Thánh Giuse được gọi là một biến cố "Truyền Tin", một loan báo về cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu Kitô- Đấng Cứu Độ "Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại ...Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Lời sứ thần mà Giuse lắng nghe đã thay đổi mọi suy nghĩ và quyết định của ngài. Giờ đây thực thi ý Chúa và cộng tác với chương trình cứu độ của Chúa là chọn lựa hàng đầu của thánh Giuse. Từ đây, ngài đã đón nhận Đấng Cứu Thế và Mẹ Người bằng hành động cụ thể và cuộc sống hy sinh tận tụy trong suốt cuộc đời.
Tạ ơn Thiên Chúa về lời hứa kỳ diệu Ngài đã thực hiện "Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta.’” Một Đấng Cứu Độ mặc lấy xác phàm để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa. Một Giao Ước mới với nhân loại được thực thi "Emmanuel-Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Thật hạnh phúc cho chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương khi sai Ngôi Hai Thiên Chúa đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Vậy chúng ta có ước muốn Thiên Chúa ở cùng và sẵn lòng đón Người không? Mẹ Maria và Thánh Giuse đã là mẫu gương cho chúng ta về việc rộng mở tâm lòng và cuộc đời để Chúa đến, ở cùng và cứu độ.
Ta hãy chiêm ngắm sự dâng hiến trọn vẹn cuộc đời và chương trình riêng của Mẹ Maria để xin vâng và cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cung lòng Mẹ đã trở nên đền thờ cho Chúa ngự. Mẹ đã cưu mang, dưỡng nuôi Con Thiên Chúa trong chính lòng dạ mình và Mẹ được gọi là "Thân Mẫu Chúa Giêsu". Chúng ta cũng hãy học nơi Thánh Giuse sự khéo léo tế nhị khi đối xử với anh chị em và lòng vâng phục tín thác vào thánh ý Thiên Chúa qua mọi biến cố, qua tiếng nói lương tâm chân chính và trong sáng. Sự công chính đã giúp ngài có khả năng tham dự vào mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng dấn thân cộng tác thực thi chương trình của Chúa dẫu cho khó khăn vất vả.
Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta, từng Kitô hữu hay những đôi bạn trẻ sắp, đang và đã bước vào đời hôn nhân. Hôm nay, mỗi chúng ta cũng có một trách nhiệm: lắng nghe, thực thi thánh ý Chúa, làm cho Chúa sinh ra trong tâm lòng mình, trong anh chị em và nhất là để Chúa ở cùng, lớn lên và cứu độ chúng ta. Ước gì trong thời gian cuối của Mùa Vọng này, chúng ta biết noi gương Mẹ Maria và Thánh Giuse, biết hăng hái thưa xin vâng và sẵn sàng chọn lựa theo ý Chúa để dâng trọn cuộc đời thực hiện những phương cách cứu độ trong thế giới hôm nay qua đời sống yêu thương, công bằng, bác ái, sẻ chia cụ thể. Có như thế, cuộc đời chúng ta mới thực sự có Thiên Chúa ở cùng và chính chúng ta là cánh tay nối dài của Chúa vươn đến anh chị em.
Lạy Đấng Emmanuel, xin đến và ở cùng chúng con. Xin dạy chúng con biết mở rộng tấm lòng chờ đón Chúa và dấn thân thực thi thánh ý Chúa. Amen.
3. Thiên thần báo tin cho Giuse - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Vua Akhab, người làm chủ một đất nước, không tin Chúa nên đã đưa cả dân tộc đến chỗ diệt vong. Một gia trưởng, hết lòng tin vào Chúa, đã đưa muôn dân đến ơn cứu độ. Gia trưởng đó là ai? Thưa là Giuse, một người chồng lý tưởng trầm tĩnh sáng suốt, luôn luôn biết cầu nguyện bàn hỏi Chúa về mọi vấn đề, để hành động hợp với đức mến Chúa yêu người và luật lệ xã hội. Trước vấn đề gay cấn nhất của bậc vợ chồng là Maria đã mang thai ngoài ý của mình, Giuse đã cư xử thế nào?
1- Giuse đã rất tế nhị hiền lành: theo luật, Giuse được tố cáo Maria để ném đá. Nhưng Giuse đã không nói một lời nào làm phiền Maria, không một cử chỉ nhỏ nào làm Maria phải ngượng ngùng, e ngại, không một cái nhìn nhỏ nào làm cho Maria phải khó chịu. Giuse đã tỏ lòng trọng kính chân thành hết sức mình đối với Maria. Nếu chỉ tỏ một tí nghi ngờ, mặt nặng mặt nhẹ thôi, đủ gây đau khổ dai dẳng ngậm ngùi cho giới liễu yếu đào tơ đến chừng nào! Gia đình sẽ bị đổ vỡ lập tức.
2- Giuse đã cư xử rất thánh thiện và công chính: cứ theo nhận xét bề ngoài thì không thể biết được ơn phúc mang thai của Maria, nên Giuse không thể tự cho phép mình chung sống bất chính với Maria. Ông đã quyết định xa bà cách âm thầm. Quyết định đó rất công chính vì hôn phối của Giue và Maria chưa thành sự, mới đính hôn, chưa về chung sống với nhau, bỏ là rất hợp pháp và hợp lý cho đời sống trong sạch thanh tịnh của ông. Quyết định đó chứng tỏ Giuse rất nhân từ và thánh thiện. Thánh thiện vì Giuse thấy cái gì có dáng vẻ tội lỗi thì ông cương quyết tránh xa. Nhân từ vì ông đã hành động thật êm ái, kín đáo, không để lộ việc gì làm bà sợ hãi trong lúc mang thai. Ông còn hết sức giữ gìn danh thơm tiếng tốt của bà. Sự công chính của Chúa là biểu lộ lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân. Giuse đã biểu lộ được lòng thương xót của Chúa, nên Kinh thánh đã đặc biệt gọi thánh Giuse là Đấng công chính. Nhờ đó, Chúa giải quyết những vấn đề gây cấn nhất cho gia đình nhân loại để nhân loại được tràn đầy vinh phúc lãnh nhận ơn cứu độ.
“Hãy đến cùng Giuse” - Xin cho hết mọi gia trưởng biết đến cùng Giuse thấm nhuần được lòng từ bi nhân hậu, thực thi đức mến Chúa yêu người như Thánh Cả để làm cho gia đình được sống trong tình thương hạnh phúc và chúc lành muôn thuở của Chúa Giáng Sinh.
4. Trời can thiệp
Maria biết rằng mình đang mang thai khi chưa về chung sống với chồng sẽ đem lại nhiều hậu quả không hay: Cha mẹ sẽ buồn, người chồng sẽ nghi ngờ, thiên hạ sẽ dị nghị, bản thân sẽ bị chê cười, nhưng Maria luôn tin vào Chúa và mọi sự đều do sự an bài của Ngài, vì thế Maria luôn bình tĩnh, âm thầm để mặc cho Chúa tự do hành động.
Còn Giuse cũng vậy, thấy người bạn của mình như thế, Giuse không vội vã tức giận, hành động mù quáng và buộc tội gắt gao. Vì không được Maria giải thích, Giuse không hiểu ra làm sao, mặc dù thế Giuse vẫn trao phó mọi sự trong tay Chúa, còn mình thì sẽ trở lại cuộc sống độc thân cao đẹp thuở trước. Nhưng Chúa đã can thiệp, khiến cho Giuse và Maria đều hài lòng, trở lại đời sống vợ chồng và không còn thắc mắc chi nữa.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội chúng ta thấy, nhiều khi Giáo Hội cũng lâm vào những hoàn cảnh đen tối, những trường hợp khó khăn, nhưng rồi bàn tay Chúa cũng đã can thiệp, để Giáo Hội thoát khỏi những hiểm nguy mà phát triển, mà vươn lên. Tôi xin đưa ra những thí dụ điển hình.
Giáo Hội thuở ban đầu rất cần người lãnh đạo và Phêrô đã là người lãnh đạo, đã là vị Giáo hoàng đầu tiên, thế nhưng ngay từ khi bắt tay vào sứ mạng, Phêrô đã bị gông cùm, xiềng xích và tù đày. Ai cũng nghĩ rằng, làm sao Phêrô có thể thoát nổi. Nhưng rồi Chúa đã can thiệp, sai thiên thần xuống tháo rời xiềng xích, dẫn qua đám lính canh và Phêrô được giải thoát.
Tiếp đến là những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã phải trải qua những cơn bách hại khủng khiếp dưới thời những bạo vương Lamã. Ai cũng tưởng con thuyền Giáo Hội sẽ bị vùi dập dưới những trận cuồng phong dữ dội nhất của lịch sử. Nhưng rồi kết cuộc ra sao? Hoàng đế Constantinople đã hoán cải, bóng cờ thánh giá đã tung bay và Giáo Hội bước vào một thời đại hoàng kim. Còn những bạo vương Lamã đã phải rơi vào một số kiếp bẽ bàng: Valerio thì thua trận, bị bắt làm tù binh và bị nhục nhã cho đến chết. Diocletiano thì bị bắt giam và bị nhịn đói cho chết. Maxilino thì thắt cổ tự tử, còn Galerio thì bị chứng lở lói đau đớn, không một vị lang y nào chữa nổi.
Qua những chứng tích kể trên, chúng ta hãy thêm tin tưởng vào quyền năng của Chúa, như tục ngữ ca dao vốn diễn tả: Thiên bất dung gian, ác giả ác báo, Trời xanh con mắt là gương, người ghét ít ngó người thương ngó hoài.
Hãy tin tưởng và phó thác cho Chúa vì mọi sự đều do sự an bài đầy quyền năng và tình thương của Chúa.
5. Emmanuel
Đối với người Do Thái, thì có con là một sự chúc lành của Thiên Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ bị Thiên Chúa bỏ rơi. Hơn thế nữa, son sẻ còn là một tình trạng tương đương với sự chết chóc. Thực vậy, chết là hết sống. Son sẻ là hết dòng sự sống. Tên tuổi sẽ bị dứt khỏi trần gian.
Quan niệm về đời sau của người Do Thái lúc bấy giờ còn rất mù mờ. Mọi hy vọng của họ là cuộc sống trần gian. Phần thưởng chính là dòng dõi nối tiếp mãi trên mặt đất này. Bởi đó việc tiếp tục có dòng dõi sau tai ương khốn quẫn đã được diễn tả bằng sức sống lại.
Thế nhưng, như lời Kinh Thánh đã xác quyết về Thiên Chúa: Tư tưởng của Ta không giống với tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không giống với đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo các ngươi bấy nhiêu.
Chính vì thế, Thiên Chúa thường ghé mắt nhìn đến sự yếu hèn và bất lực, bởi đó mới nảy sinh những điều đáng ngạc nhiên trong hành động của Thiên Chúa. Ngài đã tỏ lộ quyền năng của Ngài trong sự bất lực. Đúng thế, sự đồng trinh của Đức Mẹ cũng là một cái chết, nhưng cái chết đó đã được Thánh Thần Chúa đem lại một sự sống mới. Đó cũng là điều diễn ra nơi thập giá với cái chết của Chúa Giêsu. Bởi vì sự phục sinh và sự sống mới, một sự sống dồi dào đã nẩy sinh từ cái chết đau thương của Ngài trên thập giá.
Đã từ lâu, Thánh Thần vẫn được giới thiệu như là nguyên nhân của sự sống. Khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, thì thần khí đã bay lượn trên nước và làm cho mọi sự được thành hình. Adong được nặn từ bùn đất, nhưng nhờ Thần Khí của Thiên Chúa mà có sự sống. Thần Khí cũng trở thành sự sống của Adong mới. Một trinh nữ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần đã nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
Phụng vụ ngày Chúa nhật hôm nay cho chúng ta cải cảm tưởng rằng Chúa Giêsu đang đi vào lịch sử nhân loại. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở giữa chúng ta để cứu chuộc, để giải phóng, để dẫn chúng ta ra khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Giáo Hội hôm nay chính là sự nối tiếp sự hiện diện hữu hình của Chúa giữa con người trong thế giới, một sự hiện diện cứu chuộc và giải thoát không phải chỉ về mặt thiêng liêng bằng cách trao ban các bí tích, mà hơn nữa một sự giải thoát toàn diện, khỏi tất cả những gì cản trở sự phát triển của con người và xã hội bằng sự dấn thân và liên đới với mọi nỗ lực xây dựng tình thương và công lý.
6. Chúa ở cùng chúng ta
Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng cho con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác phẩm “Vượt khỏi Đông và Tây”, tác giả John Wu đã mô tả như sau: “Trước đám cưới, vợ tôi và tôi chả bao giờ thấy mặt nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo dục theo đường lối cổ xưa của người Trung Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với nhau khi chúng tôi mới lên sáu. Đến năm mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà nàng ở đâu. Tôi khao khát được thoáng nhìn nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc tan học về, tôi cố tình đi ngang qua nhà nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được may mắn nhìn thấy nàng”.
Từ đoạn văn trên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa thánh Giuse và Mẹ Maria trước lúc Chúa chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ thường chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.
Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau... Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng, nên chỉ có sự ly dị mới xoá bỏ được nó.
Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai người ở trong giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.
Tuy nhiên tôi muốn chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó là việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc trích dẫn lời tiên tri Isaia: Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đồng thời thánh Matthêu cũng đã kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng chúng ta như thế nào?
Trước hết, Ngài hiện diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng mà còn gìn giữ nó được tồn tại trong một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.
Tiếp đến, Ngài còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.
Cuối cùng Ngài hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng máu thịt của Đức Kitô.
7. Ơn Cứu Độ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Đốt lên cây nến thứ tư của Vòng Hoa, chúng ta sắp kết thúc 4 tuần Mùa Vọng. Theo truyền thống lâu đời từ Bắc Âu, trong khí lạnh của mùa Đông, người ta đã đốt lên những cây nến trên những cành cây xanh uốn vòng. Khung vòng tròn và cành cây xanh là biểu tượng của sự sống tiếp diễn. Người ta đã đốt nến trong những đêm tối nhất trong năm, khi mọi người trông chờ những ngày dài hơn của mùa Xuân sẽ xuất hiện. Theo truyền thống, trên Vòng Hoa Mùa Vọng bao gồm có 4 cây nến. Ba cây nến mầu tím và một cây màu hồng. Bốn cây nến của Vòng Hoa biểu tượng ánh sáng dần dần được dọi chiếu vào thế gian. Ba cây nến mầu tím là biểu tượng của hy vọng, bình an và tình yêu. Ba cây nến tím này được đốt vào các Chúa Nhật thứ nhất, thứ nhì và thứ bốn của Mùa Vọng. Cây nến mầu hồng biểu trưng sự vui mừng được đốt vào Chúa Nhật thứ ba. Đôi khi có cây nến thứ năm mầu trắng được đặt ở giữa Vòng Hoa. Cây nến trắng này được đốt lên vào Lễ Giáng Sinh. Mầu trắng biểu trưng sự tinh trắng như các thiên thần và ngày sinh nhật của Chúa Giêsu. Giáo Hội Công Giáo thường dùng các mầu đặc biệt theo từng mùa, như Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Quanh Năm, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh để tôn vinh danh Chúa Giêsu.
Tiên tri Isaia đã xuất hiện rao giảng tại Giêrusalem khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên. Trong sự mong đời mịt mù giữa bao thử thách, Isaia đã loan báo một tin vui cho dòng dõi Dân Do-thái: Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Is 7, 14). Đọc lịch sử ơn Cứu Độ, chúng ta nhận biết Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu chuộc qua cả ngàn năm. Một diễn tiến rất chậm rãi qua biết bao nhiêu thế hệ và trải qua nhiều biến cố. Thiên Chúa đã sai tiên tri loan tin mừng cứu độ qua một nhóm nhỏ trung tín còn sót lại. Biết rằng xưa kia, người ta không có in ấn sách vở, truyền thanh, truyền hình hay một phương tiện kỹ thuật văn minh nào để phổ biến. Các sứ điệp chỉ được truyền miệng và ghi chép vào các cuốn sách (papyrus) lưu giữ qua nhiều đời.
Dấu chỉ: Một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai là một sứ điệp cao trọng. Sứ điệp này đã từ từ khai mở về ý nghĩa mầu nhiệm Con Chúa giáng trần. Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa với tổ tiên loài người sau khi đã phạm lỗi. Thiên Chúa phán với con rắn là ma quỉ: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó (Stk 3, 15). Chúng ta là hậu sinh được học biết nhiều về qúa trình lịch sử bốn, năm ngàn năm. Đã có biết bao dòng dõi và thế hệ con người liên đới trong công cuộc cứu rỗi này, đặc biệt là Dân Do-thái, dân được tuyển chọn. Dân sống giữa một thế giới đa dân tộc từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, từ khắp các vùng văn hóa. Đọc lịch sử tôn giáo, chúng ta nhận biết có rất nhiều các tôn giáo cổ đã xuất hiện từ rất sớm trong thời kỳ này như các đạo Hindu, Balamôn, Do-thái Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và vô số đạo thờ các Thần ngoại. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 4, 200 tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.
Trong cuộc lữ hành của người Do-thái, họ đã va chạm với rất nhiều nhóm người với truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau. Sứ điệp loan báo về Đấng Cứu Thế cũng dễ bị lu mờ qua thời gian năm tháng. Chỉ có một dòng dõi rất nhỏ đã cưu mang sứ mệnh đón chờ con Chúa giáng trần. Thánh Matthêô đã ghi lại gia phả Đức Kitô, con cháu của Đavít và con cháu tổ phụ Abraham. Matthêo tóm gọn lich sử: từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời; từ vua Đavít dến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời và từ thời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời (Mt 1, 17). Chúng ta suy tư về sứ điệp tin mừng đã được thực hiện nơi dòng dõi Dân tộc đã được Thiên Chúa tuyển chọn.
Trong thơ gởi cho tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô đã viết: Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người (Rm 1, 2). Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa thực hiện ý định nhiệm mầu của Người để cứu độ trần gian. Đây là biến cố nhiệm mầu duy nhất xảy ra trong thời gian và không gian. Sự linh thiêng kết hợp giữa thần thánh và con người. Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ: Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần (Mt 1, 18). Sự kiện cao siêu nhiệm mầu vượt trên mọi trí hiểu của loài người. Cho dù đã được các tiên tri loan báo, được các thế hệ truyền rao chuẩn bị cả ngàn năm nhưng cho tới ngày hôm nay, nhiều người vẫn chưa thể chấp nhận sự kiện lạ lùng này. Họ không thể tin và chấp nhận Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần làm người như chúng ta.
Nhiều người không tin vào Đấng Cứu Thế giáng trần nhưng họ vui mừng vì dịp Giáng Sinh sắp đến. Cứ mùa Giáng Sinh về, chúng ta thấy phố xá rộn rã, thiệp chúc mừng trao đổi, chuẩn bị qùa cáp, ánh sáng nhấp nháy mọi nơi và chăng hoa kết đèn mọi góc phố. Cho dù con người có niềm tin hay không, đều mừng vui và hớn hở. Ít ra đây cũng là một tin vui cho mọi người trần thế. Một cơ hội tốt để mọi người giao lưu trao đổi tâm tình. Chúa Giêsu vẫn âm thầm đi vào lòng người qua nhiều cách thế. Có biết bao nhiêu nhà hảo tâm chia sẻ món qùa nho nhỏ cho những người kém may mắn. Ánh sáng của niềm hy vọng chiếu tỏa cùng khắp khiến lòng người nao nức mừng vui. Một điều rất lạ là ai cũng muốn sự bình an, giải thoát và được hưởng nhờ ơn cứu độ nhưng lại không muốn chấp nhận Đấng ban ơn cứu độ.
Chúa Giáng Sinh mang lại niềm vui lớn cho nhân loại vì Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta. Thánh Matthêo diễn tả: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt 1, 22-23). Chúa sẽ đến với từng tâm hồn. Chúng ta có can đảm mở rộng tâm hồn đón Chúa hay không? Chúa có thể sẽ đến với chúng ta qua hình dáng của một trẻ thơ bọc trong khăn hay một trẻ mồ côi đầu đường xó chợ và không nơi nương tựa. Chúa sẽ đến như một người vô gia cư không có nơi gối đầu hoặc một người bị đánh dầm bập tả tơi ngoài phố chợ. Vì khi đón nhận một người cùng khổ là chúng ta đang đón nhận chính Chúa trong đời sống của chúng ta.
Suy tới đây, dừng lại đôi phút để suy nghĩ và cầu nguyện xem chúng ta đang chọn thái độ nào. Đôi khi chúng ta chỉ mong muốn có một lễ Giáng Sinh hoành tráng bên ngoài, một hang đá tuyệt đẹp và một món qùa đáng giá. Chúng ta tìm mua tượng Chúa Hài Nhi thật dễ thương đặt nằm trong máng cỏ với các mục đồng và súc vật bao quanh. Nếu chúng ta chỉ chú ý chuẩn bị những hình thức tổ chức trang trí bên ngoài mà không dọn tâm hồn thật sự để đón Chúa, thì chúng ta cũng đâu khác gì những người ngoại không tin vào Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở rộng trái tim yêu thương để đón Chúa. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ. Xin tẩy sạch tâm hồn chúng con khỏi những sự hoen ố, ích kỷ, tham lam và thơ ơ nguội lạnh. Xin Chúa sưởi ấm tâm hồn với ngọn lửa yêu thương để chúng con biết chia sẻ cuộc sống với tha nhân.
8. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy
NGƯỜI HẠNH PHÚC LÀ NGƯỜI BIẾT TIN TƯỞNG VÀO SỰ AN BÀI CỦA THIÊN CHÚA!
Những lời cầu chúc cho nhau được may mắn hạnh phúc là câu điệp khúc luôn được lặp đi lặp lại trên môi miệng mỗi người chúng ta trong mọi dịp thuận tiện của cuộc sống: Các đại lễ tôn giáo, dịp đầu năm, dịp cưới hỏi, dịp sinh nhật mỗi người, dịp thi cử, tốt nghiệp, hành nghề, mở công ty, khai trương tiệm buôn bán, v.v…! Trong dịp đại lễ Giáng Sinh, từ các đường phố cho đến các ngõ hẻm, người ta dù vội vã đến đâu đi nữa cũng vẫn chúc mừng nhau mỗi khi gặp mặt: “chúc mừng lễ Giáng Sinh vui vẻ!”
Vâng, ai nấy đều chúc cho nhau hạnh phúc! Và những lời cầu chúc may mắn hạnh phúc thường trở thành một thứ ngôn ngữ không thể thiếu trong các dịch vụ thương mại, buôn bán hay giao lưu nghề nghiệp. Nhưng trong những dịp như thế, lời cầu chúc may mắn hạnh phúc thường chỉ là những lời nói xã giao đầu môi chóp lưỡi, chứ ít khi có chủ ý hay thành tâm thực sự. Vì thế, chúng không đưa lại niềm vui dài lâu bền vững. Trong khi đó, tất cả mọi người chúng ta - từ cụ già đến em bé, từ đàn ông đến đàn bà - ai nấy đều mong muốn được hạnh phúc, được sống một cuộc sống thực sự có hạnh phúc. Nhưng nhiều người đã ngã lòng buông xuôi, không dám nghĩ tới hay đeo đuổi chạy theo ước muốn được hạnh phúc nữa, hoặc cho mình hoặc cho người khác. Sau bao nhiêu chán nản và thất vọng ê chề, mọi ước muốn và mọi tìm kiếm hạnh phúc đã biến thành những tang tóc, những khổ đau đầy cay đắng!
Thật ra, những thất vọng hay những mơ ước hạnh phúc bất thành, chắc chắn mỗi người trong chúng ta ít hay nhiều đều đã hơn một lần trải qua. Nhưng bất hạnh nhất là những người bất đắc dĩ phải đối mặt với cái số phận quá nghiệt ngã cay đắng, phải gánh chịu những thách đố hầu như quá sức. Ở đây, tôi nghĩ tới những gia đình mà vì một chút sơ suất của một ai đó, đã để xảy ra tai nạn và cướp đi cuộc sống đang bất đầu chớm nở của những đứa con thân yêu. Tôi cũng nghĩ tới người bạn trẻ, sau một cuộc tình đầu đời sâu đậm bị tan vỡ, và nay một mình phải vật lộn với nỗi cô đơn trống trải trong một cuộc sống đầy hoang vắng. Tôi nghĩ tới đôi vợ chồng trẻ đã từng lạc quan và tin tưởng nhìn về tương lai, nên đã đi vay nợ ngân hàng và bạn bè thân quen để hiện thực những hoài vọng và dự định về kế hoạch kinh tế của mình. Nhưng bỗng nhiên người chồng bị trọng bệnh. Ðời sống gia đình rơi vào cảnh chật vật, thêm vào đó nợ nần chồng chất, bất khả thanh toán. Hay tôi nghĩ tới những người giáo dân, vì nỗi trăn trở lo lắng cho miếng cơm manh áo hằng ngày, đã bỏ quên kinh nguyện sớm tối và cả đến thánh lễ ngày Chúa Nhật. Sau cùng, tôi nghĩ tới hàng triệu đứa trẻ khắp nơi trên thế giới, chỉ một vài ngày sau khi được mở mắt chào đời, đã bị chết đói, hay nghĩ tới hàng triệu đứa bé khác đang khi còn êm đềm nằm trong dạ mẹ đã bị giết chết một cách đầy dã man: Chúng bị những chiếc kềm sắt cắt ra từng mảnh trước khi bị lôi ra khỏi bụng mẹ chúng.
Vâng, có biết bao nhiêu người thật quá bất hạnh, cả đời không hề biết hạnh phúc là gì, dù một chút bé tẻo teo và chỉ trong giây lát cũng không! Thực tại đau buồn và phũ phàng đó chụp xuống trên đời con người trong suốt năm, ngay cả trong mùa Giáng Sinh, một thực tại đã làm cho nhiều người luôn cảm thấy mình hoàn toàn vô phúc và chỉ muốn tìm kiếm một sự kết liễu!
Chính số phận chàng thanh niên Giuse thành Na-da-rét, một người thợ mộc trẻ, cũng không may mắn hơn. Chàng không có may mắn và hạnh phúc như bao người khác. Chưa lâu, chàng đã đính hôn với Maria, một người con gái cùng xóm, nết na, trẻ trung và xinh đẹp. Cả hai cùng mơ ước một tương lai hạnh phúc. Nhưng bỗng chốc, giấc mơ đó đã như chiếc bong bóng nổ tan tành trước mắt Giuse khi chàng phải đối mặt với một sự thật quá phũ phàng: Maria, người hôn thê yêu dấu của chàng đã mang thai trước khi hai người cùng chung chăn gối! Trong thất vọng và đau khổ tột độ, chàng tự mỉa mai chính mình: Người con gái mà mầy yêu thương đã ăn nằm và mang thai với người đàn ông khác!
Thật vậy, khi một người đã một lần thực sự yêu, yêu thật lòng, sẽ hiểu rõ được nỗi lòng của Giuse tan nát như thế nào! Sự thách đố đối với chàng to lớn và nặng nề biết bao! Hơn nữa, chàng cũng chỉ là một con người và là một con người thanh niên, mới lớn lên! Thêm vào đó còn một nỗi đau khổ phụ khác là Giuse chỉ muốn âm thầm ôm bụng chịu đựng một mình, chứ chàng không muốn “hở môi răng lạnh”, không muốn cho bất cứ ai biết nỗi lòng của chàng để được chia sẻ và ủi an, vì lòng chàng vẫn luôn yêu quí và kính trọng Maria trước sau như một. Nhưng cũng chỉ vì không muốn bộc lộ câu chuyện ra cho ai khác biết, một chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng một mình và không được ai góp ý kiến cả, nên chàng càng cảm thấy mình bị chạm tự ái, bị hạ nhục và trở thành trò cười cho thiên hạ. Giuse hoàn toàn mất hết can đảm để bắt đầu lại từ đầu. Do đó, chàng đã quyết định âm thầm chia tay Maria. Chàng không muốn mình hoặc Maria phải mang lấy tiếng xấu suốt đời, bị miệng đời xì xèo dèm pha. Cuộc tình duyên hạnh phúc giữa chàng và Maria kể là chấp dứt. Theo ngôn ngữ ngày nay, người ta có thể nói rằng Giuse là người thanh niên đáng nể, chàng đã dàn xếp sự việc thật khôn ngoan khéo léo. Mặc dù cảm thấy bị người hôn thê phản bội, chàng vẫn bình tĩnh, sáng suốt và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định một cách hợp lý. Dĩ nhiên sự quyết định đó không hề làm chàng hạnh phúc. Toàn bộ sự cố còn tiếp tục dằn vặt trái tim chàng.
Thật ra, qua Phúc Âm chúng ta đã không hề biết được Giuse trong thực tế đã xử trí ra sao. Phúc Âm cũng không kể lại là đã xảy ra những cuộc cãi cọ hay đã nói những lời phàn nàn, như thường tình vẫn xảy ra trong các cuộc tình đổ vỡ khác! Cũng vậy, chúng ta cũng biết được rất ít về những giọt nước mắt và nỗi đau buồn của Giuse. Thánh sử chỉ tường thuật lại giấc mộng của Giuse mà thôi. Vâng, thánh Giuse luôn là con người khiêm tốn âm thầm, âm thầm như những giọt nước mắt và nỗi khổ đau của mình, và âm thầm như sứ mệnh làm người đứng sau hậu trường của “màn kịch cứu độ” mà Thiên Chúa đã giao phó cho ngài.
Còn nói về các giấc mộng hay chiêm bao. Tại sao thánh sử lại tường thuật giấc chiêm bao của Giuse?
Trong thời đại khoa học tân tiến ngày nay, những giấc mộng không còn mang mấy giá trị nữa. Và những người mộng mị chiêm bao thường bị thiên hạ mỉa mai trêu chọc! Có nhiều câu phương ngôn đã nói lến thái độ coi khinh những người hay mơ mộng, như: “Mơ màng chỉ đàng chết đói” hay: “ngồi mơ mộng khi bụng rỗng mới hay”, ý muốn nói những người thích mơ mộng là những người thiếu thực tế, xa lạ với cuộc sống cụ thể; “Cứ ngồi đó mà mơ mộng”, ý muốn nói đến những người mà người ta cho là loại người khờ, dại dột!
Giáo sư Carl Gustav Jung (1875-1961), một nhà tâm lý học người Thụy Sỹ nổi danh trên khắp thế giới, đã khám phá được ý nghĩa của thế giới chiêm bao. Ông gọi giấc mơ là ngôn ngữ của vô thức. Ngày nay các nhà chuyên môn về phân tâm học đều đồng ý cho rằng các giấc mơ rất cần thiết cho cuộc sống con người. Ai không mơ, ít là thỉnh thoảng, người đó sẽ chết, không thể sống được. Nếu một người luôn luôn bị quấy phá giấc mơ trong khi đang ngủ, người đó từ từ sẽ sinh bệnh và chết. Giấc mơ rất quan trọng cho cuộc sống.
Chính giấc mơ của Giuse đã cứu được cuộc đời anh. Giấc mơ đã mang lại cho anh niềm vui và sự hạnh phúc. Vâng, nhờ giấc mơ anh đã giải quyết được cơn khủng hoảng tình cảm và gia đình của mình. Nhờ giấc mơ anh đã tìm lại được nghị lực và sự can đảm cần thiết để vượt qua được cơn thử thách đầy nguy hiểm của đời mình. Nhờ giấc mơ anh đã được giải thoát khỏi mọi nỗi lo sợ hằng dằn vặt tâm hồn anh từ bao tháng ngày qua: lo sợ mình bị cắm sừng, bị cười chê, lo sợ Maria không còn yêu mình nữa, lo sợ thiếu vắng ơn Chúa trong cuộc sống. Thật vậy, giấc mơ đã chữa lành tâm hồn Giuse, đã hàn gắn và nối kết chàng lại với Maria trong tình yêu thương thủa đầu. Nhờ giấc mơ hạnh phúc của Giuse đã được cứu vãn. Trong cơn cùng khổ của tâm hồn Giuse, “Thiên-Chúa-ở-với-chúng-tôi” đã trở nên sống động và lớn mạnh trong cung lòng Maria. Và trong chính “Thiên-Chúa-ở-với-chúng-tôi” chứa ẩn trọn hạnh phúc của Giuse.
Ai không hề mơ, người đó sẽ chết! Ai được hạnh phúc trào dâng, người đó chẳng cần đến những lời cầu chúc may mắn hạnh phúc nữa. “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi” sẽ trở nên sống động cho những ai đói khát hạnh phúc. Ai hằng mơ ước một thế giới tươi đẹp hơn, thì người đó sẽ tìm gặp nơi “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi “ như là Ðấng Cứu Giúp quyền năng. Nhưng không một ai có thể chứng minh và hiểu thấu được Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Người hiện diện cụ thể và gần gũi trong những ai đang phải trải qua cảnh khốn cùng và sự đau khổ cùng quẫn mà vẫn có thể mơ ước. Người ở với những ai còn luôn biết hy vọng và chờ đợi một điều gì đó. Giuse đã tìm lại được hạnh phúc hằng mơ ước của mình. Tôi xin cầu chúc cho tất cả các bạn những giấc mơ có khả năng cứu vớt, thăng tiến và làm tốt được cuộc đời, tình yêu và sinh kế làm ăn của các bạn. Tôi cầu chúc cho tất cả chúng ta sự hạnh phúc chân thật của “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi.”
9. Dòng tộc – Radio Veritas Asia
(Trích từ ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - RVA)
Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Động lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”
Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xết về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầu giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.
Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc cho nàng tự phận xử.
Đang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người con đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
10. Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
Anh chị em thân mến.
Thời gian gần đây có một bộ phim đã đi vào trong lòng người, đó là phim Hoàng Châu Công Chúa. Khi xem qua bộ phim, mọi người đều có cảm tình với nhân vật chính, một người có lòng nhân ái, nhưng vì thẳng thắng nên thường gặp những đều trắc trở. Mọi người càng thỏa mản hơn khi những trở ngại đó dần dần cũng bị phá vở và an bình lại đến. Đó là vì cô công chúa nhờ có bùa hộ mệnh. Vị thần hộ mệnh rất đắc lực, ngài là một vị vua công minh, một người cha nhân hậu. Khi nào có Ngài ở bên cạnh thì vị công chúa và những người thân không còn phải lo sợ gì hết. Chỉ khi vắng bóng ngài, mọi thế lực thù nghịch mới tìm cách hảm hại. Nhưng tất cả đều được hóa giải khi có ngài ở cùng, khi đó những nguy hiểm, những khổ đau không còn tồn tại được nữa.
Giuse lo sợ vì chưa hiểu được Thánh Ý Chúa. Ông đã có những toan tính riêng tư của mình, những toan tính của sự sợ hãi, những toan tính của con người không có Thiên Chúa Ở Cùng. Ông lo âu bối rối không biết giải quyết như thế nào. Nhưng khi ông tỉnh dậy, ông hành động không do dự nữa, hành động cách can đảm, hành động trong sự bình an và vui mừng. Vì ông đã được biết Thánh Ý Chúa, ông biết có Thiên Chúa Ở Cùng ông, ông biết ông không còn hoạt động cách cô đơn nữa. Khi đó mọi thắc mắc đã được tháo cởi, mọi lo âu đã được cất đi, mọi nguy hiểm mà ông nghĩ tới không còn tồn tại nữa. Ông chỉ còn biết vâng phục trong vui mừng, trong hân hoan, vì Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Trong cuộc sống đời người không thiếu những lo âu sợ hãi. Có những điều do hoàn cảnh khách quan đưa đến, cũng có những cái do chủ quan từ bên trong con người. Nếu xét từ nguyên nhân, thì tất cả mọi lo âu sợ hãi trong đời sống đều phát xuất từ cảm giác cô đơn, từ lòng ích kỷ, từ những việc chỉ nghĩ đến bản thân mà quên đi người khác. Quan trọng hơn, đó là vì không thấy Chúa hiện diện ở trong con người của mình, cùng hành động với mình, mà chỉ hành động cách đơn lẻ.
Mỗi người trong chúng ta cũng đã từng trải qua cảm giác cô đơn sợ hãi. Chúng ta cũng đã từng giải quyết nhiều vấn để khúc mắc. Nhưng đã giải quyết như thế nào? Chúng ta đã vượt qua cách khổ sở như lần từng bước đi trong đêm tối, để rồi niếm mùi chua cay thất bại và trải qua nỗi thất vọng ê chề. Chúng ta đã trải qua với sự lo âu thắp thỏm, cùng với những toan tính hại người, nên sợ sẽ bị trả thù. Hay chúng ta đã vượt qua với những bực tức và khó chịu vì không được như ý muốn. Đó là vì chúng ta đã hành động cách cô đơn, hành động mà không Có Chúa Ở Cùng, hành động trong cơn mê, hành động trong đêm tối.
Nếu khi nào chúng cảm thấy bình an thư thái, cho dù bao tai vạ ập đến, những khổ đau cứ dồn vào, những bất hạnh cứ tiếp diễn, mà chúng ta vượt qua cách an toàn, không để lại chút vương vấn trong lòng. Đó là vì chúng ta đang Có Chúa Ở Cùng. Đó là vì chúng ta đã được bừng tỉnh dậy. Nếu chúng ta nhìn thấy được ích lợi chung, nhìn thấy được nhu cầu của bao nhiêu người chung quanh, để sẵn sàng hành động theo tiếng gọi của con tim chân chính, hành động không còn ỷ lại vào con người riêng tư của mình nữa, mà hành động với Chúa Ở Cùng. Nếu được như thế, chúng ta mang được tâm trạng của Hoàng Châu Công Chúa khi có Vua Cha ở Cùng. Quang trọng hơn nữa chúng đang đi trên con đường mà Thánh Giuse đã đi vì vâng nghe Lời Chúa, bởi Ngài đã nhận ra được Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người được sáng suốt, để nhận ra Chúa Ở Cùng Chúng Ta trong hoàn cảnh sống, trong những người chúng ta gặp hằng ngày, trong những công việc chúng ta đã và đang làm, để biết sống và hành động theo Thánh Ý Chúa.
11. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Chúng ta sắp cử hành một mầu nhiệm lớn lao, mầu nhiệm Thiên Chúa đến làm người trong trần gian, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Đấng là Chủ lịch sử đã đi vào lịch cử con người, và để thực hiện điều đó, Thiên Chúa đã tạo nên cho Người một gia đình thuộc dòng tộc Đa-vít.
Thiên Chúa không làm gì mà không có một chương trình hẳn hoi.
Trước khi tạo nên con người, Ngài quyết định rõ ràng: “Ta sẽ tạo nên con người giống hình ảnh Ta.”
Trước khi thực hiện ý định cứu chuộc con người, Ngài đã chuẩn bị suốt gần 2.000 năm, một dân tộc – dân tộc của lời hứa – là dân Do Thái, để đón tiếp Ngôi Hai ra đời.
Trước khi cho Ngôi Hai ra đời, để hoàn tất chương trình cứu chuộc đó, Ngài đã chọn một trinh nữ và trinh nữ nầy đã được đính hôn với một thanh niên tên là Giu-se. Nhờ đó, Đấng sẽ sinh ra “không do ý muốn loài người, cũng không do ýmuốn của nam nhân” sẽ có cha có mẹ hợp pháp trong xã hội loài người. “Kỳ diệu thay ý định của Chúa!”
Và Giu-se, người đã được chọn cũng sẵn sàng đón nhận Con Thiên Chúa làm con mình: “Ông sẽ đặt tên con trẻ là Giêsu”, nghĩa là chính thức làm cha của Chúa Cứu Thế.
“Không có gì mà Thiên Chúa không làm được.”
Thiên Chúa, Đấng điều khiển lịch sử loài người đã xuất hiện trong trần gian đúng theo quy luật mà Ngài đã ấn định. Thánh Phao-lô thốt lên lời ca tụng: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!” (Rm 11,33).
Còn về Maria thì thánh sử nói: “Ngài thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm chúng ta cử hành hôm nay là mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần. Ngài là nguồn suối mọi sự từ đầu khi vũ trụ chưa thành hình…
Ngài vẫn tiếp tục hoạt động trong chương trình cứu độ suốt bao nhiêu thế kỷ…
Ngài sẽ tiếp tục hoạt động cho đến cuối cùng…
Maria đã thay mặt cho nhân loại đón nhận hồng ân của Thánh Thần và cộng tác vào chương trình của Chúa: “Nầy con là tôi tớ của Chúa, xin cứ thực hiện nơi con những gì Chúa muốn.”
Thánh Mat-thêu nhắc lại lời tiên tri I-sa-i-a: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là EMMANUEN” nghĩa là “Thiên Chúa ở với loài người .” Mat-thêu muốn chứng minh rằng mọi sự đều nằm trong chương trình kỳ diệu của Chúa.
“Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”, phải chăng đây là hồng ân tuyệt hảo Chúa trao ban cho chúng ta? Đáng lý chúng ta phải “nhảy mừng” và tạ ơn với tất cả tâm hồn chúng ta. Đây không chỉ là một ân huệ trong muôn vàn ân huệ mà là nguồn suối mọi hồng ân, vì nơi Ngôi Hai chúng ta được “ơn nầy đến ơnkhác”.Thánh Phao-lô nói: “Một khi (Thiên Chúa ) đã ban Người Con đó, lẽnào Thiên Chúa không ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8, 32).
Maria là dụng cụ tuyệt hảo, là người cộng tác khiêm nhu và đắc lực của Thiên Chúa. Giuse cũng là người tôi trung âm thầm nhưng rất hữu hiệu trong chương trình yêu thương của Chúa.
Để thực hiện chương trình nầy, Maria và Giuse phải đi ngang qua một thử thách hết sức lớn lao.
“Maria đã mang thai trước khi về chung sống với Giuse.” Đây có thể nói là một thảm kịch xét theo thường tình.
Chắc chắn, Giuse đã yêu Maria (các thánh sử không nói rõ, nhưng chúng ta có thể hiểu như thế), và Maria lại là một cô thiếu nữ đoan trang đạo đức (“đầy ơn phước”). Thế nhưng sau ba tháng đi thăm người chị họ về, đã mang thai.
Giuse đã đến thăm sau bao tháng ngày chờ đợi và khám phá ra thực trạng.
Giuse nghĩ gì ? Chúng ta không thể biết.
Thánh Mat-thêu chỉ nói ngắn gọn: “Giuse là người công chính không nỡ lòng tố cáo Maria (theo luật thời bấy giờ). Nhưng chắc chắn Giuse đã đau khổ đến tột cùng và có lẽ thất vọng não nề. Là người công chính, tức là một người đạo đức giữ luật Chúa nghiêm chỉnh, không bị trách cứ điều gì, con người ngay thẳng hiền lành. Ông đã chọn một giải pháp êm đẹp nhất là bỏ xứ.
Chính lúc đó, vào giờ phút chót, Chúa can thiệp.
Chúng ta nhớ câu chuyện của Ap-ra-ham và Sara. Vào phút chót Chúa đã can thiệp để cứu hai người khỏi bàn tay vua Ai Cập.
Sau khi biết rõ ý Chúa Giuse đã thi hành như lời đã truyền cho ông…
Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai thành tâm theo Chúa, và những ai thành tâm cũng không bao giờ thất vọng.
Mỗi người chúng ta, trong thân phận nhỏ hèn của mình, cũng có thể là những cộng tác viên của Thiên Chúa. Chúa không chê bỏ một người nào, dù nhỏ hèn đến đâu, cũng có thể cộng tác vào chương trình của Chúa.
Dù “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”, dù “Chúa có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu Ap-ra-ham”, Ngài cũng không tự mình làm mọi sự, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới đang gãy đổ vì tội ác và hận thù bất công… cần có những bàn tay xây dựng… Hãy rót vào trần gian ô nhiễm vì tội lỗi của chúng ta một giọt yêu thương.
Chúa đến trong trần gian, trong thân phận một người nghèo hèn, bị bỏ rơi bị hất hủi, phải nương thân nơi một hang đá. Hãy như Maria, đón nhận Ngài với tất cả tình yêu… Hãy như Giuse, dẫn dắc Maria về hang đá, nghèo nàn nhưng đầy yêu thương .
Chúa cần những người cộng tác đơn thật, không giả dối, những người dám buông bỏ tất cả để trở nên những bàn tay xây dựng tương lai huy hoàng cho thế giới hôm nay: tương lai của tình yêu.
Maria và Giuse nghèo nàn, nhỏ bé, đã mang lại cho thế gian một kho tàng là EMMANUEN.
Chúng ta cũng có thể làm như thế khi chúng ta “ăn lấy tấmbánh tình yêu”, tấm bánh nơi bàn thờ hiến tế và biến tấm bánh ấy thành những tâm tình yêu thương chân thật, qua trái tim nhỏ bé của chúng ta.
12. Trong kế hoạch của Thiên Chúa – R.St.G
Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt. 1, 20-21)
Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giuse như chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giuse công chính vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi thánh Giuse chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đavít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đavít.
Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính như thánh Giuse không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?
13. Giuse, người công chính
(Suy niệm của Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)
Mở đầu sách Tin Mừng bằng bản gia phả (Mt 1,1-17), thánh sử Mátthêu muốn giới thiệu nguồn gốc lai lịch của Chúa Giêsu: Người là người con của nhân loại, thuộc dòng tộc vua Đavít, được sinh ra bởi Đức Maria. Nhưng do đâu mà Chúa Giêsu thuộc dòng tộc Đavít, vì theo phong tục Do Thái, người ta không kể phụ nữ để xác định gia phả. Vậy Maria thụ thai bởi đâu và đâu là vai trò của Giuse. Trình thuật truyền tin cho Giuse nhằm minh tỏ Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần và Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, con vua Đavít, ứng nghiệm sấm ngôn Isaia (Is 7,14). Giuse có nhiệm vụ nhận Đức Giêsu vào tông tộc của mình, nhờ đó Chúa Giêsu thuộc dòng vua Đavít. Qua trình thuật này, Mt cũng giới thiệu cho ta một mẫu gương sống tinh thần vâng phục trong đức tin: Giuse, người công chính.
1. Giuse, người công chính
Giuse đính hôn với Maria như các thanh nam nữ từ thời bấy giờ. Theo phong tục Do Thái, khi hai người nam nữ đính hôn, thì đã thành vợ chồng trước luật pháp, nhưng chưa sống chung; một năm sau đính hôn, chồng rước vợ về chung sống. Thời gian đính hôn, muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.
Sự kiện xảy ra là trước khi về sống chung, Maria đã có thai. Giuse thật khó xử. Tin Mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Giuse được Tin Mừng gọi là “người công chính” theo nghĩa nào? Trước hết, công chính có nghĩa là vâng phục lề luật (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Theo luật, Giuse phải tố cáo Maria. Nhưng Giuse lại là người nhân hậu, có lòng thương xót, không muốn làm nhục người phụ nữ mà ông rất tin tưởng, mến yêu và kính trọng; ông không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi.
Thứ đến, công chính là hành động phù hợp với ý Thiên Chúa. Giuse không hề hồ nghi Maria, nhưng không thể nhận bào thai. Một mặt, giả như ông chưa biết là Maria thụ thai do quyền năng Thánh Thần, thì cũng nghĩ rằng đây là một mầu nhiệm. Do đó lời sứ thần nhằm thông tin sự thật về bào thai và trao phó cho ông trách nhiệm đặt tên và làm cha đứa trẻ trước pháp luật. Mặt khác, giả như ông đã biết là Maria thụ thai do Thánh Thần, ông cảm thấy mình bất xứng để đón nhận hài nhi, nên muốn âm thầm rút lui. Và như thế, lời sứ thần nhằm xác nhận là thật điều ông đã biết (dĩ nhiên qua tâm sự của Maria) và trao cho ông trách nhiệm đón nhận hài nhi vào dòng tộc của mình.
Dù giải thích cách nào thì lời truyền tin của sứ thần cũng nhắm mục đích giải thích cho biết Chúa Giêsu được thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần; Giuse được trao sứ mệnh đón nhận Người vào dòng tộc vua Đavít; và Người là Đấng Thiên Sai con vua Đavít, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã từng loan báo: “ Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23).
Trước lời truyền của sứ thần, Giuse chỉ biết vâng phục. Ông không nói lời nào mà chỉ tuân theo cách triệt để. Tin là vâng phục và dấn thân hành động. Giuse, cũng như Maria với lời xin vâng, đã hành động theo mẫu gương của tổ phụ Abraham: vâng phục trong đức tin.
2. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai cứu độ
Sứ thần trao cho Giuse quyền đặt tên cho hài nhi là Giêsu. Quyền đặt tên đồng nghĩa với việc đón nhận Giêsu vào dòng tộc của mình và trở nên cha của đứa trẻ trước pháp luật. Giuse trở nên bạn trăm năm của Maria và dưỡng phụ của Chúa Giêsu.
Tên “Giêsu” có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Danh xưng này bao hàm căn tính và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trong thế gian như là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, để thi hành chương trình cứu độ nhân loại. Đây chính là sợi chỉ đỏ chạy dài suốt Tin Mừng Mátthêu. Cuối cùng, Mt tuyên xưng Người đã chết và sống lại để chu toàn sứ mệnh cứu thế, và Người hằng hiện diện mỗi ngày với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28,20).
Các nhà chú giải Kinh Thánh còn nhận thấy một tương đồng trong cấu trúc giữa trình thuật về nguồn gốc lai lịch Chúa Giêsu với hai chương đầu Sáng thế (St 1,1-2,4a // Mt 1,1-17; St 2,4b-25 // Mt 1,18-24). Sự tương đồng ấy nhằm cho thấy việc xuất hiện của Chúa Giêsu như một Ađam mới, khởi đầu một sáng tạo mới.
Kết luận
Hãy đến với thánh Giuse với tất cả niềm tôn kính mến yêu và học tập dưới mái trường của ngài tinh thần vâng phục ý Chúa, lòng khiêm tốn, tính tự chủ và tâm hồn nhiệt thành quảng đại phục vụ.
Tin Mừng nói rất ít về Giuse. Tuy nhiên, qua ít đoạn vắn vỏi ấy, ta cũng cảm nhận được một tương đồng giữa Giuse và Đức Maria. Nếu Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, Ngai cũng đã tuyển chọn Giuse làm dưỡng phụ để chăm nom săn sóc. Trước đề nghị của Thiên Chúa, Giuse và Maria đã sẵn sàng vâng phục ý Chúa. Cũng như Maria, Giuse sống thánh thiện, khiêm tốn, yêu thương và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
14. Sự công chính của Thánh Giuse
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Chúa nhật hôm nay, trước lễ Giáng Sinh, Giáo hội đề nghị chúng ta nghe "loan báo việc sinh Đức Giêsu cho Giuse".
Mátthêu viết: "Mẹ Người là bà Maria đã đính hôn với Giuse" Đính hôn hay thành hôn có nghĩa là "đến với, phối hợp với một người nào đó," chỉ việc chung sống vợ chồng. Cô thiếu nữ Dothái được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi. Theo phong tục và hôn nhân của người Dothái, đính hôn đã là thành vợ chồng trước pháp luật, nhưng việc rước dâu thường cách xa lễ đính hôn, có khi cả năm trời. Thường thì hai người không chung sống trước khi rước dâu, nhưng giả thiết có con với nhau trong giai đoạn này, đứa con vẫn là con hợp pháp.
Maria đã đính hôn với Giuse, nghĩa là cả hai như các cặp hôn nhân khác, có dự tính thành vợ chồng. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Người ta đặt câu hỏi: Ông Giuse có biết việc Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, trước khi Thiên thần báo tin không? Sự công chính của Giuse ở chỗ nào?
Theo nhiều nhà chú giải, Giuse công chính không theo nghĩa vâng lời lề luật. Vì chẳng có luật nào buộc phải ly dị người mới đính hôn (Đnl 22,13-21; 23-27), luật chỉ dạy ly dị khi hôn nhân đã hoàn hợp (Đnl 24,1). Đàng khác âm thầm ly dị, Giuse lại càng bất tuân lề luật. Vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý, khi mang tính cách chính thức công khai. Vả lại, ly dị âm thầm như thế không thể giữ bí mật được lâu, trong một ngôi làng nhỏ bé như Nadarét. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, ta không thể hiểu được tại sao ông lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép. Xét như là hôn phu, ông có bổn phận bảo vệ hôn thê vô tội, chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác.
Hơn nữa, trong Tin mừng của Mátthêu, chỉ duy nhất Giuse được gọi là công chính, tựa như Abel người công chính. Abel công chính không phải theo luật, vì lề luật chỉ được công bố với Maisen, nhưng vì kính sợ Thiên Chúa. Vì thế, không thể cắt nghĩa đức công chính của Giuse " theo luật" được, nhưng công chính vì kính sợ Thiên Chúa.
Nhiều nhà chú giải cho rằng: Trước khi Thiên sứ loan báo, Giuse đã biết Maria có thai bởi quyền năng Thánh Thần, có thể do chính Maria tiết lộ, tâm sự với người mình đính hôn, hay đúng hơn mẹ của Maria, theo tập quán Đông phương. Vì thế, điều làm cho Giuse băn khoăn, không phải vì tiết hạnh của Maria, song là sự thụ thai huyền nhiệm của nàng. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse nghĩ: Ông không có quyền đem về nhà một kẻ, Đức Giavê đã dành riêng cho Người, ông không có quyền làm cha đứa con không phải là của ông. Ông nhận ra quyền làm Cha của Trẻ này là chính Thiên Chúa, còn ông, không được coi như cha của đứa con đó.
Thật thiêng thánh! Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui và cẩn thận không muốn tiết lộ mầu nhiệm thiên linh ấy nơi Maria (Theo Origène và Eusèbe, từ "deigmatisai" = tiết lộ, không bao hàm ý nghĩa xấu: tố giác, bêu nhục như từ Paradeigmatisai; Touon cũng dịch là tiết lộ, bầy tỏ). Giuse phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Kinh thánh, trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Maisen cởi giầy trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm trước việc xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh (Is 6,3-4), như Êlisabét hỏi tại sao mình được Mẹ Thiên Chúa đến thăm (Lc 1,39-45), như Phêrô cúi mình thưa: "Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi." Tuy nhiên, "đang khi Giuse toan tính lìa bỏ Maria, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về." Giuse kính sợ Thiên Chúa, không phải vì lề luật.
15. Đấng Emmanuel
Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên giới mà không cần quan hệ giới tình.
Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân loại xoá bỏ những chia rẽ, đố kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu nhân loại còn đầy những ích kỷ, oán hận, tranh chấp.
Nhưng trên tất cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài có thể mãi mãi là Đấng Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.
16. Tâm tình của Giuse với biến cố nhập thể – Anmai
Con người, dù quyền cao chức trọng đến mức nào đi chăng nữa vẫn mang trong mình những giới hạn của phận người. Cảm thức trước giới hạn đó con người thường tìm đến vị thần linh, vị cứu tinh của đời mình để kêu cứu.
Thiên Chúa là Chúa, là vị cứu tinh của dân tộc Do Thái để rồi Ngài luôn dõi mắt theo nhìn hành trình đời người của đám dân Ngài chọn. Lúc ẩn, lúc hiện, lúc đồng hành, lúc khuất bóng nhưng mà hình như lúc nào Thiên Chúa cũng ở bên cạnh dân riêng của mình. Thiên Chúa luôn can thiệp trong hành trình cứu độ, hành trình đi trong sa mạc của dân Do Thái để cứu họ thoát khỏi sự dữ, sự chết.
Hôm nay, chúng ta được nghe Isaia thuật lại câu chuyện hết sức hấp dẫn. Thời ấy, người ta báo cho nhà Đavít rằng quân Aram đã đóng quân ở Épraim. Với cái tin rùng rợn ấy, Akhát rúng động như cây rừng rung rinh trước gió như sách ngôn sứ Isaia diễn tả. Akhát rúng động và không hề biết rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu ông cũng như cứu dân. Qua Isaia, Thiên Chúa hứa rằng sẽ làm cho dân Giuđa phải khiếp sợ. Khi nghe Isaia nói như vậy, nhà vua cảm thấy bình an vì có Thiên Chúa ở bên ông, ở bên dân của ông.
Thiên Chúa thương dân Do Thái, Thiên Chúa thương Akhát đến độ còn hỏi vua: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Đứng trước tình yêu bao la, sự chở che, sự quan phòng của Thiên Chúa Vua Akhát trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa."
Nếu tiếp tục theo dõi những trang sách Isaia tiếp theo, chúng ta sẽ thấy một cách hết sức thiết thực về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho vua Akhát cũng như cho dân. Thiên Chúa đã cho dân chiến thắng và qua miệng của Isaia còn hứa ban Đấng Cứu Độ như chúng ta vừa nghe: Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen.
Tâm tình của vua Akhát quả là một tâm tình dễ thương. Được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa cho đòi hỏi nhưng ông lặng lẽ trước ân huệ, trước ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Người. Giữa dòng người ồn ào và náo nhiệt, rúng động trước những biến cố của cuộc đời thì lại có những người bình tâm để nghe tiếng Chúa nói, nghe lời Chúa hứa trên cuộc đời của mình.
Giữa mùa Vọng này, hình ảnh hết sức đẹp của một người trông chờ Chúa đã hiện lên một cách hết sức dễ thương. Hình ảnh ấy đó chính là hình ảnh của Thánh Cả Giuse. Nhà nhà náo động, người người náo động thì Giuse hoàn toàn lặng lẽ. Thái độ lặng lẽ trước ơn cứu độ của Thiên Chúa của Thánh Cả Giuse chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại. Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta “gốc tích” của Đấng Cứu Độ trần gian.
“Đây là gốc tích của Đức Giêsu...”. Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Chúa Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Chúa Giêsu sinh ra... Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp một cách xác tín, một cách âm thầm và lặng lẽ. Từ ngày báo mộng, Thánh Giuse bước vào, nhập cuộc vào chương trình cứu độ mà Thiên Chúa mời gọi Ngài.
Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Chúa Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).
Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng Ngài không làm như vậy. Giuse muốn trốn đi vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.
Thực tế, Hài Nhi Giêsu đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Vai trò là cha nuôi của Chúa Giêsu với Thánh Cả Giuse không phải là chuyện đơn giản. Phải hết sức trầm lắng mới có thể hiểu được ý muốn của Thiên Chúa trên cuộc đời của Ngài. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho Hài Nhi: bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết Hài Nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người: bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời ngôn sứ nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Chúa Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.
Khi đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian rồi, Giuse vẫn giữ một thái độ sống hết sức mẫu mực và lặng lẽ để làm gương sáng cho đứa con yêu của Ngài bởi lẽ Ngài hiểu được tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Chúa Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi Giuse, Chúa Giêsu nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn?” (7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. Qua bài học lặng thầm của Thánh Giuse để lại, Chúa Chúa Giêsu như được củng cố thêm tình thương của Cha để Ngài bước vào cuộc khổ hình thập giá một cách hiên ngang hơn, một cách quyết liệt hơn.
Đối diện với những thử thách cam go của cuộc đời, thánh Giuse vẫn luôn giữ thái độ im lặng. Một thái độ thầm lặng để vâng theo ý Chúa. Người không lên tiếng, ăn to nói lớn, Người không bào chữa cho những hành động của Người, nhưng tất cả đều theo ý Thiên Chúa. Thánh Giuse đã im lặng, chấp nhận dù rằng người cũng rất trăn trở, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc đời của thánh Giuse đều được Người chấp nhận với lòng tin thâm sâu: Người hy sinh lợi ích riêng cho kế hoạch, cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sự thinh lặng thánh, sự ngụp lặn âm thầm theo Thánh ý Chúa của thánh Giuse gợi lên cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta bài học hết sức ý nghĩa. Vì chỉ có sự phó thác thẩm sâu nơi bàn tay nhân từ của Thiên Chúa với tất cả đức tin sâu xa, con người mới nhận ra đôi mắt nhân hiền, trái tim quảng đại và tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với từng người. Thánh Giuse đã có mặt trong mọi lúc nguy biến mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ cần đến, nhưng tới thời Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì cuộc đời của thánh Giuse cũng bắt đầu chấm dứt nơi trần gian này. Sự thinh lặng kéo dài suốt cuộc đời của thánh Giuse từ lúc Người được sinh ra cho đến ngày Người nhắm mắt xuôi tay. Sự thinh lặng thánh của thánh Giuse diễn tả cuộc đời của một con người hoàn toàn thuộc về Chúa, cho Chúa và vì Chúa và như thế, thánh Giuse là mẫu gương tuyệt vời cho mọi người noi theo.
Những ngày chờ đón Đấng Cứu Độ đến trần gian ắt hẳn mở ra nhiều tâm tình, nhiều thái độ, nhiều tình cảm nhưng chắc có lẽ tâm tình âm thầm và trầm lắng của Thánh Giuse là tâm tình, là thái độ hết sức dễ thương mà Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Chỉ trong âm thầm, chỉ trong chịu đựng những đau khổ chúng ta mới có thể hiểu được Thánh ý tuyệt vời mà Thiên Chúa tô vẽ trên cuộc đời mỗi người chúng ta.
17. Hạnh phúc khi có Thiên Chúa ở cùng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lộ trình phụng vụ mùa Vọng đã mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng tiếp đón, đồng thời tỉnh thức để nhận ra và chiêm ngưỡng biến cố Chúa Cứu Thế bước vào trần gian. Nên thời gian trước lễ Giáng sinh mang tính đặc thù của nó là chờ đợi với niềm vui, mong muốn gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên chúa làm người sống giữa chúng ta. Chúng ta thấy ông Dacaria và bà Êlisabét, đặc biệt là Mẹ Maria và thánh Giuse, là những người đầu tiên đã cảm thấy vui mừng khi đối với mầu nhiệm Giáng sinh. Toàn bộ lời hứa trong Cựu Ước được thực hiện với biến cố Con Thiên Chúa, Vị Cứu Tinh giáng trần. Như thế bên cạnh sự chờ mong của các nhân vật trong Thánh Kinh cũng có sự chờ mong của chúng ta nữa...
Isaia loan báo: "Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi". Đó là các lời chúng ta thường lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV và cũng là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng hôm nay.
Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa "sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai..." ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai ..." Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.
Chân trời ơn cứu độ phổ quát hôm nay nhằm vào đối tượng cụ thể trong lịch sử và thời gian là: Gia Đình Thánh Gia Nazarét, trong đó Đức Maria là đối tượng của lời ngôn sứ, thánh Giuse, người công chính được sứ thần hiện đến trong giấc mơ, và Đức Giêsu Đấng phải đến đã nhận được hai tên: Giêsu, nghĩa là "Thiên Chúa cứu độ"; và "Em-ma-nu-el", theo Thánh Kinh nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, người ta có cảm thấy bầu khí nhẹ nhàng và thân thiện của Giáng sinh; máng cỏ được trưng ra với bò, lừa, tất cả sẽ được trang trí ở đó, đưa chúng ta đến gần với máng cỏ đã dọn sẵn.
Bằng cách giới thiệu bản văn Tân Ước, Isaia (7,14) chứng tỏ lời hứa đã được thực hiện, hoàn tất lời Thiên Chúa phán qua miệng các tiên tri: 'Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai' (Mt 1,22-23). Vì niềm tin của dân Israel mà lời Thiên Chúa hứa được thi hành. Đó là ý nghĩa đích thực của sự mong chờ trong Mùa Vọng. Thiên Chúa không từ trời xuống, như một giải pháp kỳ bí cho sự tuyệt vọng của con người, Ngài đến để lấp đầy khát vọng từ con tim của Abraham, Isaac, Giacob, và của toàn dân Israel, vì ước muốn này "tin vui mà Thiên Chúa đã hứa qua các ngôn sứ trong Thánh Kinh" (Rm 1,2). Cần phải đón nhận Thiên Chúa đến trong "Thần Khí", nghĩa là như một hồn ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải "theo xác thịt" (Rm 1,3-4).
Kết quả là những lời hứa cứu độ phổ quát dành cho dân Do thái do miệng các ngôn sứ loan báo nay hoàn tất trong biết cố Giáng sinh. Không có gì là chiến thắng hết: còn qui chiếu nào đơn giản hơn là một người nam và một thiếu nữ đang sẵn sàng sinh em bé không? Nhưng con trẻ là đối tượng của lời hứa: Thiên Chúa cứu độ nay đến ở cùng chúng ta.
"Emmanuel" nghĩa là, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Vâng, Người là Thiên Chúa ở trên chúng ta, nhưng hôm nay Người đến ở cùng chúng ta! Người là Thiên Chúa ở với chúng ta trong nhân tính và trong ân sủng của Người, Người ở với chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta và tốt lành của Người, Ngài ở với chúng ta trong đau khổ của chúng ta với tình thương của Người để đưa chúng ta vào trong tình yêu dịu dàng và từ bi của Người đối với chúng ta.
Thiên Chúa ở với chúng ta! Tác giả thư Do thái viết: Anh em là con cái Adam đã không thể lên trời ở với Thiên Chúa "Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?" (x. Dt 30,12) Thiên Chúa từ trời xuống là "Emmanuel", Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến nhà chúng ta, chúng ta đến với Chúa để được ở với Người! "Phàm nhân hỡi, cho đến bao giờ lòng vẫn còn chai đá ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối? "(Tv 4:3) Ở đây có sự thật: "Sao lại yêu mến sự hư vô? " Và đây lời chân thật và bền vững: "Tại sao tìm kiếm sự dối trá?"
Đây là Thiên Chúa ở với chúng ta. Nhỏ bé như ta, yếu đuối như ta, trần truồng như ta, nghèo khó như ta, trong mọi sự, Người đã trở nên giống tôi, mặc lấy tôi và hiến mình cho tôi. Tôi nằm chết, không có tiếng nói, không có ý nghĩa, thậm trí ánh sáng cũng không còn trong mắt tôi. Hôm nay Thiên Chúa đã hạ mình xuống làm người như ta vậy. Ôi! còn sung sướng và hạnh phúc nào hơn nữa. Thiên Chúa đến cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết, sau khi Adam và Eva phạm tội, Người đã tái ôm hôn chúng ta và mở toang cửa dẫn chúng ta tới sự sống đời đời.
Thánh Ireneo giải thích rằng "Chính Con Thiên Chúa đã xuống trong một xác phàm giống xác phàm của tội lỗi" (Rm 8,3) để lên án tội lỗi và sau khi đã lên án nó, Ngài hoàn toàn loại trừ nó khỏi loài người. Ngài kêu gọi con người giống chính mình, Ngài làm cho nó bắt chước Thiên Chúa, và dẫn nó đi trên con đường Thiên Chúa Cha đã chỉ, để nó có thể trông thấy Thiên Chúa và ban tặng chính Thiên Chúa Cha cho nó" III, 20,2-3). Ireneo khẳng định rằng: với Chúa Giêsu Hài Nhi, Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên giống Người. Chúng ta thấy Thiên Chúa như Người là. Và như thế Người nhắc nhở cho chúng ta biết chúng ta phải giống Thiên Chúa, và phải bắt chước Người. Thiên Chúa đã tự hiến cho chúng ta, trong tay chúng ta.
Thánh Ireneo còn khẳng định như sau: "Ngôi Lời của Thiên Chúa đến ở giữa loài người và làm Con của loài người, để tập cho con người nhận biết Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa quen sống trong con người theo ý Thiên Chúa Cha. Vì thế, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như "dấu chỉ" ơn cứu rỗi của chúng ta, Đấng được sinh ra từ Đức Trinh Nữ, là Emmanuel". Xin Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse giúp chúng ta sống Mầu Nhiệm Giáng Sinh với lòng biết ơn được canh tân. Amen.
18. Ôi thật diễm phúc vì có Thiên Chúa ở cùng!
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Trái đất này đang nóng dần lên, các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến -60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ mấy ngày.
Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh bất thường và thay đổi đột ngột một cách bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm trong chưa đầy 100 năm, khoảng thời gian ngắn nhất trong lịch sử.
Hôm 2/5, các nhà khoa học sử dụng kính thiên văn TRAPPIST tại Chile để theo dõi và phát hiện ra ba hành tinh có kích thước giống Trái Đất quay quanh một ngôi sao lùn ở khoảng cách thích hợp, tạo điều kiện cho sự sống phát triển với hy vọng con người có thể sống được ở đó.
Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.
Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất là Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ... Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.
Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như "Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện" gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 4 người con của bà có mặt tại viện (trong số tất cả 8 người con) tranh cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết (Vnexpress,Thứ ba, 27/8/2013). Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay khó sống và khó yêu quá.
Trái đất và con người đang như thế, nhưng Đức Giêsu con Thiên Chúa đã đến sống cùng chúng ta, như Isaia loan báo: "Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi". Những lời trên đây được lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV, để khẳng định rằng Trái đất vẫn rất đáng yêu và con người vẫn còn đáng mến. Thiên Chúa đến vì mến địa cầu, Thiên Chúa thương vì tình thương vấn vương khi tạo dựng.
Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa: "Sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai…" ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai …" Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.
Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta, vì Ngài vẫn còn tin tưởng chúng ta!... Ngài đến để sống với con người, Ngài chọn cư ngụ trên trái đất để ở lại với con người, để sống tại nơi con người vẫn sống trong niềm vui hay nỗi buồn. Vì thế, Trái đất không còn là ‘thung lũng đầy nước mắt’ nữa mà là nơi Thiên Chúa đến cắm lều, gặp gỡ con người, là nơi Thiên Chúa liên đới với con người.
Thiên Chúa xuống thế làm người vì chúng ta, tất cả chúng ta đều cảm thấy mình được yêu thương và được đón nhận; chúng ta khám phá mình có phẩm vị quý giá và duy nhất trước nhan Ðấng Tạo Hoá.
Ðấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi sinh ra trong cảnh khó nghèo tại Bêlem, Chúa Giêsu đã muốn trở thành bạn đồng hành với mỗi người chúng ta. Trên mặt đất này, kể từ khi Người muốn "dựng lều" để cư ngụ, thì không còn ai là kẻ xa lạ nữa. Thật vậy, tất cả chúng ta là những khách lữ hành sống tạm qua trên trần gian này, chính Chúa Giêsu là Ðấng làm cho chúng ta có cảm nghiệm dường như mình đang sống tại nhà mình, trên mặt đất này, nơi được thánh hoá do bởi sự hiện diện của Chúa. Và Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biến trái đất này trở thành căn nhà đón tiếp tất cả mọi người.
"Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Các Giáo Phụ đã giải thích. Con Thiên Chúa đã trở nên nhỏ bé, đến độ vào được trong máng cỏ. Ngài trở nên trẻ thơ để dạy chúng ta yêu thương những trẻ thơ và những kẻ yếu đuối. Bằng cách thế như vậy, Ngài dạy chúng ta tôn trọng trẻ thơ, những em đang đau khổ và bị lạm dụng trên thế giới, những em đã được sinh ra cũng như những trẻ không được sinh ra. Ngài dạy chúng ta nhìn đến những trẻ bị đưa vào trong thế giới của bạo lực, như làm lính, phải đi ăn xin, phải khổ vì nghèo vì đói, những trẻ em không được hưởng chút tình thương. Chính Thiên Chúa, Ðấng đã trở nên trẻ thơ, mời gọi chúng ta dấn thân, ngõ hầu sức mạnh của tình yêu Chúa chăm sóc cho tất cả các trẻ em này; để phẩm giá của các em được tôn trọng.
Nhưng khi Thiên Chúa chia sẻ thân phận con người của chúng ta, Ngài không hiện diện giữa nhân loại ở một nơi an nhàn lý tưởng, nhưng ở trong thế giới thực này, với bao điều tốt đẹp và xấu xa, với những chia rẽ, sự dữ, nghèo đói, lạm dụng quyền lực và chiến tranh. Ngài chọn tham gia vào lịch sử của chúng ta như lịch sử ấy vốn thế, với tất cả gánh nặng của những giới hạn và bi kịch của nó.... Ngài là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta... trong mọi nỗi khổ đau của lịch sử. Chúa Giêsu được sinh ra là minh chứng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía con người, một lần và mãi mãi, để cứu chúng ta và nâng chúng ta lên khỏi bụi bặm của khổ đau, của khó khăn và tội lỗi chúng ta”.
Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa ở cùng, ấy là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền... Chúa Giêsu được sinh ra mang đến cho chúng ta tin vui rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và yêu thương mọi người và từng người trong chúng ta. Amen.
19. Vâng theo Ý Chúa – R. Veritas
(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ bằng một lời quyền năng của Ngài, thì Ngài cũng có thể cứu chuộc con người một cách dễ dàng bằng một lời tha thứ. Nhưng Thiên Chúa đã không làm thế. Ngài tôn trọng tự do của con người và muốn chính con người sử dụng tự do của mình để cộng tác vào công trình cứu độ. Nhưng bằng cách nào? Thưa, đó là luôn vâng theo ý Chúa như Đức Maria và thánh Giuse đã sống.
Thật vậy, Đức Maria chỉ là một thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác, sống trong một làng quê nhỏ bé, âm thầm; chỉ có một điều khác biệt là người đã luôn vâng theo ý Chúa trong mọi sự. Người đã thưa xin vâng, dù chưa biết rõ chương trình lạ lùng của Thiên Chúa. Cũng thế, thánh Giuse chỉ là bác thợ mộc nhà quê, nghèo hèn, nhưng có điều khác biệt là ngài đã luôn tuân theo ý Chúa, điển hình là ngài đã rước Đức Maria về nhà mình sau khi được sứ thần cho biết là Đức Maria thụ thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Mỗi kitô hữu chúng ta cũng có thể là một Giuse hay một Maria khác. Mặc dù chỉ là những con người bé nhỏ, tầm thường, tội lỗi, chúng ta cũng có thể góp phần vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa nếu chúng ta biết thể hiện cuộc sống hàng ngày của chúng ta trong sự tuân phục thánh ý Chúa, được biểu lộ qua luật Phúc âm, qua giáo huấn của Giáo Hội và của các vị Bề trên… Cuộc sống tốt đẹp của chúng ta sẽ trở thành một dấu hỏi cho người chung quanh: Tại sao người Công giáo lại vui tươi, bình an như thế; gương sống đạo của chúng ta sẽ tác động những người khô khan và là một khuyến khích nâng đỡ cần thiết cho những anh em đồng đạo của chúng ta.
Ước gì chúng ta ý thức được phần đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng hữu hiệu của chúng ta, trong việc làm cho mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu được mọi người nhận biết, và làm cho nhiều tâm hồn trở thành nơi an bình cho Chúa giáng sinh.
20. Hãy làm sáng danh Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một em bé về kể với mẹ: Mẹ ơi, hôm nay khi một chiếc xe chở bia bị lật, con thấy nhiều người ra hôi bia về uống.
Mẹ nói: Vì họ là người tham lam. Họ phạm tội ăn cắp một cách công khai đáng bị lên án.
Đứa bé: Nhưng con thấy có cả chú tư, cô ba gần nhà mình cũng vui vẻ bưng một thùng bia về nhà.
Mẹ: Vì chú tư, cô bà đã bán sĩ diện mình bằng vài lon bia.
Đứa bé: Con thấy không một ai nhặt giúp bia cho người bị nạn mà ai cũng tranh thủ chộp một vài lon hay vài thùng rồi lên xe chạy hết.
Mẹ: Vì họ sống theo bản năng đói thì ăn, khát thì uống mà không còn xét về luân lý được ăn hay không?
Đứa bé: Vậy nếu xã hội mà con người chỉ biết sống theo bản năng thì xã hội sẽ ra sao?
Mẹ: Thì xã hội sẽ chẳng còn luật lệ, người ta sẽ mạnh ai người ấy sống, hay “cá lớn nuốt cá bé”. Xã hội sẽ loạn lạc, chẳng còn ai tin vào ai.
Đứa bé: Vậy sống trong một xã hội mà con người không còn thân thiện, giúp đỡ nhau thì mình phải làm sao?
Mẹ: Mình phải là một ánh sáng cho thế gian bớt u tối bằng việc làm tốt, không hùa theo đám đông làm chuyện xấu. Dù chỉ là ánh sáng lẻ loi nhưng vẫn phá tan những đêm tối của lòng người. Nhất là mình là người Công giáo phải sống chứng nhân cho Chúa qua dấu chỉ yêu thương để người ta nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, và đừng bao giờ vì một vài lon bia mà làm ô danh đạo thánh của chúng ta.
Cách đây hơn hai ngàn năm giữa một khung trời đầy những bóng tối của tội lỗi, của sự ích kỷ lòng người Ngôi Hai Thiên Chúa đã ngự xuống trần gian. Ngài là Emanuel ở cùng chúng ta. Ngài đến để thắp sáng trên trần gian ánh sáng của tình bác ái, của sự hiệp thông. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Ngài soi chiếu ánh sáng chân lý để đầy lùi bóng tối gian tà. Ngài thắp sáng ánh sáng tình yêu để xua tan bóng đêm của ích kỷ, lạnh lùng. Ngài đi vào trần đời để ném ngọn lửa yêu thương, lửa bác ái, lửa tin yêu cho trần gian.
Thế nhưng, vẫn có những con người khước từ ánh sáng. Họ thích sống trong tăm tối. Họ thích sống theo bản năng, nuông chiều tính xác thịt. Họ ngồi trong u tối nhưng không muốn ra ánh sáng. Vì theo ánh sáng phải bỏ bóng tối. Bóng tối của ích kỷ, của dửng dưng, của gian tà. Nhưng tiếc thay, con người lại thích sống theo bản năng nên họ khước từ ánh sáng.
Ngày nay cũng có nhiều người không muốn theo một đạo nào. Không phải là họ không tin mà điều quan yếu là họ sợ phải sống đạo, phải giữ đạo. Họ thà không theo đạo để sống theo bản năng của mình. Thế nhưng, bản năng thường ích kỷ, thường lầm lỗi và hẹp hòi nên vẫn còn đó những việc làm thiếu tình liên đới, hiệp thông yêu thương trong tình người.
Ngày nay Thiên Chúa vẫn đang cần chúng ta hãy trở thành ánh sáng cho trần gian. Hãy chiếu sáng cho thế gian ánh sáng của yêu thương, của tình liên đới và hiệp thông. Hãy dẫn dắt con người đến cùng ánh sáng đích thực là chính Chúa Giêsu là nguồn mạch ánh sáng.
Thánh Giu-se và Đức Maria năm xưa đã cộng tác với Chúa để mang ánh sáng vào trần gian. Mẹ đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để đón nhận hài nhi ngự trong cung lòng Mẹ. Thánh Giuse đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để trở thành cha nuôi của Chúa Giêsu. Cả hai cùng thưa xin vâng như lời dâng hiến cuộc đời để trở thành khí cụ của Chúa mang ánh sáng vào trần gian. Ngôi Hai Thiên Chúa đã có thể cư ngụ giữa chúng ta là nhờ tấm lòng hy sinh của hai thánh nhân. Chính các ngài đã từ bỏ ý riêng, từ bỏ nếp sống của mình để hành xử theo ý Thiên Chúa.
Nếu cuộc đời mà ai cũng biết từ bỏ ý riêng của mình để làm theo ý Chúa thì cuộc đời tốt đẹp biết bao. Nếu dòng đời ai cũng biết chế ngự bản thân để sống cho tha nhân thì dòng đời sẽ không còn vẫn đục bởi hôi của, bởi dưng dưng trước khốn khó của đồng loại mà ai cũng sẵn sàng giúp đỡ nhau.
Mùa Noel nữa lại đến như mời gọi chúng ta hãy là ánh sáng cho trần gian. Xin đừng vì những quyến luyến trần tục, những tham lam bất chính mà bản rẻ lương tâm, nhân phẩm của mình. Nhưng mỗi người hãy là những vì sao sáng trên bầu trời loan báo tin vui Chúa giáng sinh cho nhân trần. Xin Đấng Emaul mãi ở lại trong tâm hồn chúng ta ban niềm vui và hạnh phúc để chúng ta cũng ra đi xây dựng tình yêu và hạnh phúc cho nhân trần. Amen.
21. Gia đình cần niềm tin nơi nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống chung cần niềm tin nơi nhau. Niềm tin sẽ cho nhau hạnh phúc, và sự bình an. Niềm tin sẽ khích lệ nhau vượt qua khó khăn, vì ở giữa những phong ba bão táp vẫn có người tin tưởng ở bên chúng ta. Nhất là trong đời sống vợ chồng càng cần niềm tin nơi nhau hơn. Vợ chồng không tin nhau sẽ đầy đọa nhau suốt đời. Lấy phải một người đa nghi thì suốt ngày được nghe những bản án vô cớ nơi người bạn của mình.
Có một bà vợ hay ghen một cách vô cớ. Mỗi lần ông chồng đi đâu về là bà đều khám xét kỹ lưỡng trên áo xem có gì lạ không. Ngày thứ nhất bà thấy có 1 sợi tóc quăn trên áo, bà liền phán: hôm nay lại ôm cái con tóc quăn phải không? Ông chồng ậm ừ cho qua. Ngày thứ hai bà khám xét lại thấy một sợi tóc bạc. Ông chồng liền phán đừng nói tôi ôm bà lão nhé, nhưng bà vợ liền phán: Hôm nay tôi đoán chắc ông ôm con tóc bạch kim phải không?. Ông chồng đành chịu thua. Lần thứ ba, bà khám kỹ lưỡng nhưng không có sợi tóc nào dính trên áo ông. Tưởng cho qua, ai dè bà phán một câu xanh rờn: Hôm nay, lại ôm cái con trọc đầu rồi!
Ghen tương là biểu lộ tình yêu, nhưng ghen tương vô cớ sẽ đánh mất tình yêu, đánh mất tự do của người mình yêu. Hai người cần phải biết tin tưởng lẫn nhau, biết cảm thông cho nhau, nhất là biết tôn trọng nhau mới có thể cùng nhau đi qua kiếp người với lòng trung thủy khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Nếu không tin nơi nhau sẽ đầy đọa và làm khổ nhau suốt đời.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Tình yêu của Ngài đôi lúc cũng có những ghen tương. Ngài đòi con người chỉ được yêu một mình Ngài và không có được thờ một thần linh nào khác. Nhưng tình yêu của Ngài không ghen tương mù quáng. Người luôn tin tưởng con người. Ngài luôn tôn trọng con người. Điều Ngài có thể làm để níu kéo con người về với Ngài chính là tình yêu. Ngài đã dùng tình yêu hy sinh, tận hiến cho người mình yêu được sống và sống hạnh phúc. Tình yêu của Ngài luôn bao dung có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi con người, tha thứ và nhẫn nại chờ đợi con người.
Phúc âm hôm nay cho ta thấy tình yêu đầy tin tưởng nơi thánh Giuse. Ngài từng khó hiểu tại sao người bạn đính hôn của mình lại mang thai. Ngài cũng có những giao động đến nỗi định tâm bỏ đi cách kín đáo. Nhưng niềm tin vào Mẹ Maria đã giữ ngài ở lại. Ngài tin Mẹ Maria là người đoan trang thanh khiết. Ngài tin rằng với tính cách của Mẹ Maria sẽ không làm gì trái với lương tâm hay trái với luân thường đạo lý. Trên hết mọi sự chính là niềm tin nơi Thiên Chúa. Thánh Giuse đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Ngài để cho Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài. Ngài tin vào đường lối của Thiên Chúa luôn tốt nhất cho từng người. Ngài đã để thánh ý Chúa thực hiện theo như chương trình đã định.
Chính niềm tin vào Thiên Chúa và sự tin tưởng nơi người bạn đính hôn, thánh Giuse đã đón nhận Mẹ về nhà mình. Không có niềm tin tuyệt đối thì làm sao có một mái ấm gia đình Nagiaret? Không có niềm tin nơi nhau làm sao thánh Giuse có thể có thể nhận làm cha nuôi của Chúa Giêsu?
Cuộc sống sẽ tốt hơn nếu con người dám tin nơi nhau. Niềm tin sẽ giúp nhau bỏ qua những nghi kỵ, hiểu lầm, những toan tính để sống chia sẻ với nhau. Niềm tin cũng có nghĩa là phó thác trọn vẹn. Khi vợ chồng tin cậy nhau sẽ phó thác cả cuộc đời mình cho nhau. Vui buồn, sướng khổ cùng chia sẻ ngọt bùi với nhau. Lòng tin cũng được bày tỏ bằng sự cảm thông và chấp nhận nhau. Cuộc sống nếu tin nhau sẽ không còn phê phán hay lên án nhau. Cuộc sống nếu tin nhau sẽ giúp gia đình hòa hợp, yên vui và hạnh phúc bên nhau.
Ước gì các đôi hôn phối biết tìm được niềm vui hạnh phúc bên nhau khi biết tin tưởng nơi nhau, khi biết sống bao dung đón nhận nhau hầu xâu dựng một mái nhà rộn ràng niềm vui và hạnh phúc. Amen.
22. Đừng ngại
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng Mátthêu lại nói đến việc truyền tin cho Giuse. Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của ông, khi báo cho ông hay thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.
Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.
Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc mình.
Cả cuộc đời Giuse là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên ông. Và chính cuộc đời của ông cũng là một mầu nhiệm.
Giuse chấp nhận ý định của Thiên Chúa dù nó phá vỡ ước mơ ông ấp ủ từ lâu. Ông muốn làm chồng cô Maria, người ông yêu mến, nhưng Thiên Chúa lại muốn ông làm bạn của cô thôi. Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng ông chỉ là cha nuôi của Đức Giêsu.
Bề ngoài, Giuse vẫn gánh trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhưng căn tính sâu xa của ông, ít ai biết.
Ông sống một mình mầu nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.
Giuse đã mau mắn nói tiếng Xin Vâng.
Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ông chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm về những kho báu Chúa giao.
Vâng phục một cách đơn sơ: đó là thái độ của Giuse.
Hôm nay có thể Chúa không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao con đường khác, rất riêng tư, mà chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn nói tiếng Xin Vâng như Giuse, tôi sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới.
Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Đức Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).
Cùng với Giuse, xin được gọi tên Con Thiên Chúa là GIÊSU.
Cùng với cả vũ hoàn, xin gọi tên Ngài là EMMANUEL. GIÊSU là Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa thường nói với bạn bằng những cách thức nào? Có khi nào bạn xin vâng khi dự tính của bạn bị tan vỡ không?
Con Thiên Chúa được gọi bằng nhiều tên: Giêsu, Kitô, Con vua Đavít, Emmanuel. Bạn thích tên nào hơn cả? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
23. Được mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ
Dường như theo cách nghĩ thông thường của con người thì ai càng yếu đuối thì càng cần nhiều đến sự giúp đỡ của người khác. Thiên Chúa chúng ta là Đấng Toàn Năng quyền phép vô cùng nhưng Người vẫn cần nhờ đến sự cộng tác của con người là thụ tạo của mình. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy Thiên Chúa mời gọi hai con người cộng tác đặc biệt vào chương trình cứu độ loài người.
"Này đây một thiếu nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en" (Is 7, 14) Đây là lời loan báo của tiên tri Isaia ở cuối Bài đọc I cho biết Thiên Chúa đã có dự định từ lâu về chương trình cứu độ loài người. Đến giờ đã định Người đã sai thiên sứ Gapriel đến mời gọi Đức Maria cộng tác bằng cách cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế Giêsu.
Cũng vậy, trong đoạn Tin mừng hôm nay Thiên Chúa tiếp tục cho thiên sứ đến mời gọi Giuse: "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần". (Mt 1, 20b). Thiên Chúa mời gọi Giuse làm cha Đấng Cứu Thế Giêsu cho hợp với luật pháp dân sự.
Với lời thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền" (Lc 1, 38) Đức Maria đã thật sự đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa. Còn Giuse thì: "Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà." (Mt 1, 24). Cả hai Đấng đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa một cách vui vẻ. Với sự đón nhận ấy trước mắt họ chẳng có ích lợi gì cho bản thân mình. Một trinh nữ mà phải mang thai khi chưa hề biết đến chuyện vợ chồng. Một thanh niên phải đón nhận Maria về để chăm sóc và phụ với nàng nuôi dưỡng đứa con không phải của mình.
Dầu vậy, nhờ đó Đấng Cứu Thế được sinh ra đến trong thế gian này . Người được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có đầy đủ cha mẹ như bao trẻ thơ khác.
Thánh Augustinô đã có lần nói: "Để sinh ra con Nguời không hỏi ý kiến con nhưng để cứu chuộc con Nguời phải hỏi ý kiến con". Như vậy, Thiên Chúa đã hoàn tất chương trình cứu độ của Người nơi Đấng Cứu Thế Giêsu. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta tùy theo cương vị và bậc sống cộng tác với Người trong việc cứu độ chính mình và anh chị em. Chúng ta hãy noi gương Đức Maria và Thánh Giuse đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời mình. Khi có Chúa Giêsu ở cùng thì dù có khó khăn mấy chúng ta vẫn có thể cộng tác tốt với Chúa.
24. Ngài từ đâu đến? – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Bắt đầu bài trích Phúc Âm hôm nay, Thánh Mátthêu đã giới thiệu: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô...”. (Đức Giêsu Kitô sinh ra thế này - Et voici comment Jésus Christ fut engendré...bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem) (Mt 1,18).
Khi thánh sử Mátthêu mở đầu Phúc Âm của ngài, ngài đã trang trọng viết: “Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông Áp-ra-ham”. (Gia phả Đức Giêsu Kitô, con Đa-vít, con Abraham. – Généalogie de Jésus Christ, fils de David, fils d’Abraham. Bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem). (Mt.1,1-17).
Người xưa có câu: “vô tri bất mộ”. Không biết không yêu.Trong cuộc sống, cũng không ai đặt niềm tin vào người mà mình không hề biết “gốc tích” người đó. Làm sao ta có thể an lòng đặt niềm Tin Yêu vào một người mà ta không biết gì về “lý lịch”?
Nên, không phải vô tình mà thánh Mátthêu mở đầu sách Tin Mừng, ngài đề cập đến hai lần “gốc tích” của Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì, để dọn đường cho Đức Tin độc giả, thánh Mátthêu muốn độc giả hiểu rõ về Chúa Giêsu. - Đức Giêsu, Ngài từ đâu đến?
Đức Giêsu: nhân vật lịch sử.
Không một sử gia nào ngày hôm nay còn nghi ngờ tính chất lịch sử của Chúa Giêsu, khái niệm Ngài không phải là một nhân vật đã sống thực sự trong lịch sử không còn giá trị gì trên phương diện sử học.
Ngay cả những tranh luận thời xưa, Celse ở thế kỷ thứ hai, Porphyre ở thế kỷ thứ ba đã qui tụ nhiều lập luận chống lại Kitô giáo, dựa trên sự nghiên cứu sâu rộng về kinh Thánh, về truyền thống truyền miệng; nhưng các ông không hề nghi ngờ gì về thực tại của những lời chứng do các môn đệ đã biết Chúa Giêsu tuyên xưng, hay những lời của Phao-lô, chứng nhân và văn sĩ Kitô hữu đầu tiên. Sự sống lịch sử của Chúa Giêsu cũng không bị đặt nghi vấn bởi truyền thống Do Thái, và ngay cả kinh Coran cũng coi Ngài như một vị tiên tri loan báo đấng Mahomet của Hồi Giáo.
Trong những văn kiện ngoài Kitô giáo, chiến tranh Do Thái (la guerre Juive) và những Cổ truyền Do Thái (les antiquités Judaiques), được soạn thảo bởi sử gia Do Thái Flavius Josèphe, có nói hai lần đến sự hiện hữu của Chúa Giêsu.
Trong những cổ truyền Do Thái (XX & 200), Flavius nhắc đến cuộc tử đạo của Jacques năm 62: Vị giáo quyền Anan triệu họp đại hội những thẩm phán để xử án jacques, anh em của Giêsu còn gọi là Kitô, và một phạm nhân khác. Họ bị kết tội đã vi phạm Luật Thánh và bị kết án tử hình bằng ném đá. Bản văn này cần hai chú thích sau: thứ nhất là chữ dịch anh em phải được hiểu theo nghĩa của ngôn ngữ nguyên văn (acception sémitique), nó được dùng để chỉ những người cùng gia đình, họ hàng, bạn bè; thứ hai là chữ Kitô, dưới ngòi bút của tác giả ngoại giáo và thân Roma này, được dùng theo nghĩa xấu để chỉ những người hay gây rối loạn ở vùng Judée thời đấy.
Trong chiến tranh Do thái (Flavius Josèphe XVIII, &63-64), ông có viết: Trong thời đó có Giêsu, một người khôn ngoan, nhưng có nên gọi như thế hay không, bởi vì đó là một người làm nhiều điều phi thường, một bậc thầy đối với nhiều người muốn tìm chân lý. Nhiều người Do Thái và Hy lạp theo ông. Đó là Đức Kitô. Khi ông bị tố cáo và bị Philatô kết án đóng đinh trên thập giá, những người theo ông vẫn không từ bỏ. Bởi vì ông sống lại trong ngày thứ ba; nhiều vị tiên tri thần linh đã nói về những điều này và muôn vàn những điều kỳ diệu khác về ông. Cho tới bây giờ, nhóm người Kitô vẫn còn tồn tại. (Theo Le Figaro Magazine, 01.10.1999, Nguyễn Văn Thành chuyển ngữ).
Còn rất nhiều bằng chứng, để có thể tin chắc một người mang tên Giêsu như Tân Ước ghi lại, đã từng có mặt trong lịch sử nhân loại. Đó không phải là một nhân vật huyền thoại, được tưởng tượng ra để phục vụ cho những lý do trần tục của nhân loại.
Vì Giêsu, Ngài là một nhân vật từng có mặt trong lịch sử nhân loại, nên Ngài phải có “gia phả”, có “gốc tích” rõ ràng, Ngài là con ai, cha mẹ là ai, sinh ra ở đâu, quê hương, cuộc đời và sự nghiệp Ngài như thế nào. Đó là “nhân tính” của Đức Giêsu.
Nhưng, Chúa Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử bình thường. Ngài không phải chỉ là một vĩ nhân. Ngài còn là: Thiên-Chúa-làm-người.
Đức Giêsu: “Thiên-Chúa-làm-người”.
“Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” (Mt.1,18).
Lý lịch của Chúa Giêsu rất hợp lệ theo thủ tục của con người, nhưng không tự nhiên theo kiểu con người, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngôi Hai xuống thế làm người, Ngài là Thần Linh Sự Sống, là nguồn sống, Ngài là Đấng ban phát sự sống, Ngài đến để tái tạo sự sống cho con người, Ngài không thể được hình thành từ máu huyết phàm nhân.
Thánh Giuse là “người công chính”, chắc chắn đã được Thiên Chúa mạc khải chương trình huyền nhiệm về Chúa Cứu Thế Giáng Sinh mà ngài có bổn phận nuôi dưỡng, nhưng, trong sự hiểu biết hạn hẹp của một phàm nhân, hẳn ngài luôn cần Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn thêm, qua việc Thiên Thần đến với ngài trong giấc mơ, để ngài an tâm thực thi sứ mạng cao cả của ngài, là cha nuôi của Đấng Cứu Thế.
“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” (Mt.1,23-24).
Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, đây mới đích thực là “gốc tích” của Giêsu. Giêsu, không phải chỉ là một “vĩ-nhân-ở-cùng-chúng-ta”, nhưng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Và nhân loại phải nhận ra “gốc tích” đích thực này của một con người lịch sử mang tên Giêsu.
Con người mang tên Giêsu ấy, có “gia phả” từ ngọn nguồn của mọi sự sống. Con người ấy là Thiên Chúa đã lặng lẽ đến với nhân loại để “ở với nhân loại”, “đồng hành với nhân loại”, mà nhân loại đã không nhận ra “gốc tích” thật sự của Ngài. Đó là “Thiên Tính” của Đức Giêsu.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga.1,12).
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14).
Đón tiếp Thiên Chúa Giáng Sinh.
Lễ Giáng Sinh ngày nay tưng bừng đèn hoa ngày hội và gần như cả cộng đồng nhân loại biết đến. Nhưng phần lớn nhân loại mừng Sinh Nhật Chúa Giêsu khi chỉ được biết Chúa Giêsu như một nhân vật lịch sử và dừng lại ở sự kính trọng Ngài như một vĩ nhân. Nhưng, ngày lễ Giáng Sinh chỉ thật sự đúng ý nghĩa khi con người chào đón Ngài là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Niềm Tin ấy chỉ có được khi con người nhận ra “gốc tích Đức Giêsu là Thiên Chúa”.
Và, như thế, đón mừng Giáng Sinh, là đón mừng Tình Yêu Thiên Chúa dành trọn vẹn cho con người với Mầu Nhiệm Nhập Thể.
“Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt.1,23); hay “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14), đó là hồng ân lớn lao vô bờ bến mà không một ai trong kiếp nhân sinh đầy khổ ải này lại không mong mỏi đợi chờ.
Yêu nhau trăm sự chẳng nề. Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Cao vời nào cao vời như Thiên Chúa, thấp hèn nào như thấp hèn kiếp bụi tro, nhưng “một trăm chỗ lệch” ấy đã được “kê bằng” để Thiên Chúa đến với con người, ở giữa con người, sống như con người, chỉ trừ tội lỗi. Chỉ có Đức Giêsu Kitô với hai bản tính Thiên Chúa và con người, Ngài mới thật sự là nhịp cầu nối trời và đất. Thiên Chúa cúi xuống với con người để con người được vươn lên tới Thiên Chúa.
Không có Tình Yêu nào không đòi hỏi sự đồng hành, và sự đồng hành của Thiên Chúa dành cho con người gần gũi và chia sẻ đến mức không thể hơn thế được.
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. (Pl.2,6-7).
Quả thực, chỉ có Tình Yêu ngự trị vũ hoàn này, sức sống mới thật sự hồi sinh, và hạnh phúc mới tìm lại được trong mọi con tim nhân thế.
Vì Chúa đến, không phải đem lại cho con người những cuộc vui chóng tàn hay những lợi lộc chóng qua, nhưng Ngài đến để đem lại cho con người những giá trị vĩnh cửu mà nếu không có Ngài, tất cả chỉ là khát vọng.
Lòng chúng ta sẽ trống rỗng nếu chúng ta không tiếp đón Ngài là Thiên Chúa Nhập Thể trong chính tâm hồn chúng ta. Ngài đến để đi vào mọi ngõ ngách tâm hồn chúng ta, nơi mà chúng ta chưa bao giờ dám chia sẻ cùng ai, đồng hành cùng ai. Và điều kỳ diệu sẽ đến với chúng ta khi mỗi bước đi của chúng ta là mỗi bước an bình và đầy hoan lạc trong ánh sáng Tình Yêu của Ngài. Vì như thế mới đúng với danh xưng của Ngài: Em-ma-nu-el: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hiểu được Đức Giêsu Kitô là ai, Ngài từ đâu đến, con người mới biết cách tiếp đón Ngài và đón tiếp Ngài với trọn vẹn niềm Tin Yêu và hạnh phúc.
Lạy Chúa,
Này đây Máng Cỏ lòng con,
xin Ngài ngự đến.
Nghèo hèn và bé nhỏ,
không xứng với Vua Trời Đất,
nhưng con tin rất vừa
với Chúa Tình Thương. Amen.
25. Truyền tin cho ông Giuse
(Trích ‘Sống Lời Chúa’ – Damiano)
Việc Chúa Ngôi Hai đến trong thế gian là một khởi đầu cho một kỷ nguyên mới. Tuy nhiên cái mới nối tiếp cái cũ chứ không hủy bỏ. Vì Cựu Ước đã chuẩn bị cho Tân Ước. Sự hiện diện của Giuse là bản lề cho sự nối kết này. Nhờ Giuse mà Chúa Giêsu được thuộc dòng dõi Đavít: “Đây là gốc tích của Chúa Giêsu... Đức Kitô con vua Đa-vít, con của Abraham... Giacob sinh Giuse, chồng Maria, từ nơi bà sinh ra Đức Giêsu, cũng gọi là Đức Kitô...”
Để cắt nghĩa vai trò tế nhị của Giuse: Sở dĩ thánh Giuse nhận là chồng của bà Maria và cha của Chúa Giêsu cách hợp pháp mà không phải là bất đắc dĩ là vì ông là người công chính. Công chính là người sống theo thánh ý Thiên Chúa. Giai đoạn này được coi như một màn kịch: một hoàn cảnh bế tắc: sinh ra mà không có cha (người mẹ sẽ bị ném đá chết, chương trình Thiên Chúa sẽ bị bế tắc hay sao?). Việc Giuse nhận làm cha nuôi theo lời Thiên Thần truyền tin cho ông , đã gỡ rối cho sự bế tắc nầy (thế là Chúa Giêsu ra đời một cách hợp pháp). Bây giờ chỉ còn việc thực hiện sứ mạng nữa thôi: Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền: ông rước vợ về nhà mình. Vì thế, trong chương trình của Thiên Chúa, Giuse có một chỗ đứng rất quan trọng: vừa làm vai trò bản lề giữa Cựu và Tân Ước, vừa là công tác viên tích cực không thể thiếu được trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Nhưng trọng tâm bài Tin Mừng hôm nay không phải là ông Giuse mà chính Chúa Giêsu gọi là Emmanuel (Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-tôi). Ngài có hai nguồn gốc: nhờ Giuse và Maria mà Ngài là con Đa-vít cách hợp pháp, nhưng đồng thời Ngài cũng ra đời bởi phép Chúa Thánh Thần. Qua câu: Đây là nguồn gốc... Thánh sử Mátthêu muốn cho thấy nơi Đức Giêsu có hai bản tính rõ ràng. Trong Ngài đất trời đã được nối lại với nhau; Thiên Chúa và con người lại được giao hòa. Vì thế Chúa Giêsu gọi ông Giuse là cha đồng thời Ngài cũng là con Đấng tối cao.
Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu, điều đó nói gì với chúng ta hôm nay? nếu Giuse đã săn sóc giữ gìn Chúa Giêsu, thì ngày nay ngài cũng đóng vai trò trước mặt Thiên Chúa cho chúng ta, vì chúng ta là Kitô hữu, thuộc Nhiệm Thể Chúa Kitô. Ngài tiếp tục là cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi chúng ta. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Giáo Hội, thánh Giuse đã tỏ ra thật sự là cha tinh thần của rất nhiều con cái, khi họ kêu cầu người.
Thánh Giuse đưa người lầm lạc trở về.
Một cha xứ ở Pháp kể rằng: Từ 17 năm rồi, có một người lạc đạo đến cư ngụ trong giáo xứ của ngài, và ngài đã lui tới khuyên nhủ, nhưng vô hiệu.
Sau đó một thời gian anh ấy lâm trọng bệnh. Nghe tin, cha lại đến khuyên bảo, nhưng cũng vô hiệu. Đến giờ dâng lễ, cha phải trở về. Trước khi mặc áo lễ, cha ra quỳ trước bàn thờ thánh Giuse, cầu nguyện cho kẻ lầm lạc. Lễ xong, cha lại trở lại thăm anh ta. Và kỳ lạ thay, lần này, anh ta đã thay đổi rõ ràng. Cha vừa lên tiếng chào thì anh đã vui vẻ đáp lại và tỏ dấu sám hối ăn năn thật lòng. Anh đã xin chịu các bí tích cần thiết và sau nửa ngày thì anh ta qua đời cách bình an.
26. Thánh Giuse, mẫu gương Mùa Vọng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Luca kể chuyện truyền tin cho Đức Mẹ.Tin Mừng Matthêu tường thuật câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse. Thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Ngài được mời gọi tích cực tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giuse đã sống lời "Xin Vâng" trọn cuộc đời.
Ngày Sứ thần Gabriel truyền tin, sau khi Đức Maria nói lời "Xin Vâng", Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng của Mẹ. Biết tin chị họ Êlisabeth có thai, Mẹ đã mau mắn lên đường đến viếng thăm và giúp đỡ suốt 3 tháng.
Trong thời gian này, Giuse ở nhà lo lắng chuẩn bị cho ngày thành hôn sắp tới. Thật bất ngờ, khi trở về Maria có dấu hiệu mang thai. Tâm hồn Giuse hoang mang bối rối khi bà con lối xóm xầm xì to nhỏ: Maria có thai. Làm sao tin nổi đó là sự thật? Maria một thiếu nữ nết na đức hạnh kia mà! Dù cố biện minh cho Maria, nhưng Giuse không khỏi xao xuyến. Làm sao đây, khi mà Maria cũng không thể tự biện hộ cho mình là bào thai này do quyền phép của Thiên Chúa chứ không phải người phàm! Giuse có thể tin được không? Phần Maria vẫn thinh lặng suy niệm trong lòng.
Về phần Giuse, chiếu theo luật có thể truy tố Maria trước pháp luật.Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, Giuse cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. "Đào vi thượng sách" là giải pháp an toàn nhất. "Trong lúc định tâm như thế, thì Thiên Thần hiện đến với ông trong giấc mơ" và nói rõ về ý định của Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Thần trấn an Giuse: " Chớ ngại nhận Maria làm bạn, vì Con bà đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội" (Mt 1,20-21). Sứ thần nhắc cho Giuse lời tiên tri Isaia (bài đọc 1). Là người Công Chính, Giuse đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về sấm ngôn này. Lời Thiên Thần khai mở đã trút được gánh nặng đang đè trên tâm hồn Giuse bấy lâu. Chính lúc này, được tỏ nguồn cơn, Giuse đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong sáng, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).
Thánh Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương công chính
Tổ phụ Abraham nài xin với Thiên Chúa: "Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong thành có 50 người công chính thì với 50 người chính chính ấy Chúa có tha cho cả thành không?". Giavê Thiên Chúa đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ kèo bớt dần bớt dần xuống con số 10 người công chính, Giavê cũng chấp nhận (x.St 18,16-33). Chờ đợi đến giai đoạn sau này, Abraham mới vui mừng vì hiểu được rằng chỉ với một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa cũng ban ơn tha thứ cho cả nhân loại (x.Ga 8,56). Người công chính là người lôi kéo ân lộc trời cao cho nhân trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là người thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và là người nối kết mối dây giao hòa giữa nhân loại với Đấng tác thành mọi sự mọi loài.
"Giuse là người công chính". Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được hưởng lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse luôn mở lòng lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết: "Người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời, Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa được Sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận "Maria mang thai do Chúa Thánh Thần" và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria "có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần", vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì "ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà", cần phải dịch là "ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ 'mầu nhiệm', quyết định rời bỏ bà cách kín đáo". Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là "tố cáo, tố giác" (điều xấu), "bày tỏ, tiết lộ" (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x. Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa "chọn mặt gởi vàng", chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
- Ở Bêlem: "Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi!' Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập." (Mt 2,13-14) .
- Ở Aicập: "Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. "Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen" (Mt 2,19-21).
- Ở Giuđê: "Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét" (Mt 2, 22-23) .
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.
27. Chúa ở trong tôi.
Lễ Giáng sinh đã gần đến, hẳn là chúng ta đã bắt đầu những trang trí bên ngoài như làm hang đá, làm máng cò, làm đèn ngôi sao. Thế nhưng chúng ta đã thực sự chuẩn bị tâm hồn hay chưa? Chúng ta đã lo liệu để lễ Giáng sinh không còn là một lễ trần tục, nhưng là một dịp để chúng ta và những người thân yêu tìm gặp Chúa, lớn lên về phương diện đạo đức để nhờ đó phục vụ Chúa một cách quảng đại hơn, như chính Chúa đã trở nên một hài nhi bé nhỏ để cứu độ chúng ta và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Chúa Giêsu luôn muốn chúng ta được hưởng một niềm hạnh phúc chân thật ngay từ cuộc sống trần gian này. Niềm hạnh phúc ấy lệ thuộc nơi mỗi người chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải sống trong tình thương của Chúa. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu Ta thì giữ lời ta. Cha ta sẽ yêu thương nó và Chúng Ta sẽ đến và ở trong nó. Hai chữ “Chúng Ta” ở đây có ý muốn nói đến Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ biến tâm hồn những người sống trong tình thương và ơn sủng của Chúa trở nên như một đền thờ sống động.
Dostoievsky, một văn hào người Nga, đã viết: Cuộc sống là một thiên đàng, bởi vì tôi có thiên đàng ngay trong chính tâm hồn tôi. Cùng một chiều hướng ấy, thánh nữ Elisabeth đã quả quyết: Tôi tìm thấy nước trời ngay trên mặt đất này. Bởi vì nước trời là gì nếu không phải là chính Thiên Chúa. Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó có nước trời . Mà Thiên Chúa thì đang ngự trong tâm hồn tôi, cho nên chính tâm hồn tôi cũng là thiên đàng, cũng là nước trời. Ý tưởng Thiên Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta là một ý tưởng vừa đơn sơ, nhưng lại vừa thâm sâu mà đôi khi cả những người ngoại đạo cũng cảm nghiệm được. Tôi xin đưa ra trường hợp của Gandhi, một vị thánh sống, một đấng anh hùng của dân tộc Ấn độ. Ông nói: Một người chỉ là người, không phải vì đã có hai tay và hai chânm nhưng vì đã trở nên một nhà tạm cho Thiên Chúa.
Thế nhưng Chúa Giêsu, con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để đem lại cho chúng ta sự vui mừng và bình an nếu như chúng ta là những người thiện chí. Hàng trăm năm về trước, các tiên tri đã loan báo điều đó. Isaia đã long trọng công bố cho vua Achaz để củng cố niềm tin vào Chúa nơi ông như sau: Này đây, một trinh nữ sẹ thụ thai, sinh hạmột con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Trong cơn bối rối, Thánh Giuse có ý định lìa bỏ Mẹ Maria một cách kín đáo, nhưng thiên thần đã hiện ra cùng ông trong giấc mơ và bảo: Maria mang thai là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, bà sẽ sinh hạ một contrai và ông sẽ đặt tên cho là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội. Rồi thánh Matthêu đã kết luận: Tất cả những sự kiện này được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng tiên tri mà phán, như chúng ta đã thấy ở trên.
Thánh Gioan cũng xác quyết: Không phải chúng ta đã yêu thương Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và đã phái Con Một Ngài đến với chúng ta. Màu nhiệm tình yêu này có thể chúng ta đã được nghe nói đến qúa nhiều, nên chúng ta tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt.
Bởi đó, chúng ta hãyxin Chúa hâm nóng lại tình yêu của chúng ta, để chúng ta không còn là những kẻ vô ơn tệ bạc. Tình yêu của Thiên Chúa đòi chúng ta phải đáp trả băng chính tình yêu. Một tình yêu chân thanh và mạnh mẽ. Một tình yêu biết khử trừ tội lỗi, để biến tâm hồn minh trở thành một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự trị.
Vậy chúng ta đã lam được những gì để đón mừng Chúa đến? Chúng ta đã làm được những gì để thực sự trở nên những Kitô hữu, nghĩa là những người thực sự có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô đến cho những người chung quanh.
Lạy Chúa, lễ Giáng sinh một lần nữa sắp trở lai, xin cho mỗi người chúng con biết khử trừ tội lỗi để biến tâm hồn trở thành một máng cỏ cho Chúa, cũng như biết chấp nhận những vất vả, khổ đau, buồn phiền vì lòng yêu mến Chúa vì mỗi hy sinh sẽ là một cọng cỏ khô để sưởi ấm cho Chúa.
28. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
Bản văn này khơi lên nhiều câu hỏi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thắc mắc tại sao Matthêu, ngược lại với Luca, đã trình bày khuôn mặt của Giuse chứ không phải của Maria như là người đón nhận tin báo của Thiên Chúa về cuộc sinh hạ Đấng Cứu Độ Israel. Chúng ta có thể tự hỏi đâu là những động lực thúc đẩy Giuse muốn lìa bỏ hôn thê của mình (vì bản văn không nêu rõ những động lực này). Chúng ta một lần nữa có thể đặt vấn đề (rất phổ biến gần đây) về sự trình bày các chi tiết lịch sử ở đây nhằm mô tả cuộc sinh hạ đồng trinh và về ý nghĩa của cuộc sinh hạ đó đối với niềm tin của chúng ta. Chúng ta có thể xem xét ý nghĩa của việc đặt tên và ý nghĩa của cái tên Giêsu -”Chúa Cứu Thế”- chúng ta cũng có thể đặt vấn đề đâu là ý định ban đầu của vị ngôn sứ qua trích dẫn Isaia 7,14 -một câu trích dẫn mang ý nghĩa rất gây tranh luận ở đây.
Song đó là những vấn đề không thuộc phạm vi mà bài suy niệm ngắn này muốn đề cập đến.
Ở đây chúng ta dành quan tâm đến cái tên “Emmanuel” -cái tên công bố rằng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nơi con người Giêsu này.
Rất đáng đề cập một hàm nghĩa khác nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một hàm nghĩa không hề vu vơ hay vô căn cứ. Khi chúng ta nói rằng con người –trong tư cách là một tạo vật- chắc chắn có mối quan hệ với Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa là Chúa và là cùng đích của con người -và nếu gạt Ngài ra thì cuộc sống của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, rằng Ngài là Đấng phù trợ và là Đấng Cứu Độ của chúng ta- chúng ta ở trong sự quan phòng hồng phúc của Ngài, rằng Ngài với lòng nhân hậu sẽ thứ tha tội lụy chúng ta, rằng chúng ta phải trả lời về trách nhiệm của mình trước toà phán xét của Ngài, rằng đối với những ai tin vào Ngài, trông cậy vào Ngài và yêu mến Ngài, Ngài dọn sẵn cho họ cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… Khi nói như thế là chúng ta đã giải thích “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” theo đúng chiều hướng và đã vận dụng sự thực ấy vào các chiều kích khác nhau. Thật hồng phúc tuyệt vời biết bao nếu tất cả mọi người có thể nhận ra ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” ấy trong cuộc sống của họ. Tất cả những giải thích ấy cuối cùng đều được quy hướng –trong niềm hy vọng- về một mầu nhiệm thâm sâu hơn nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Nhưng không một giải thích nào trong những giải thích nói trên lột tả được cảm thức tuyệt đối Kitô giáo về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong những ân huệ hữu hạn của Ngài, chỉ trong việc Ngài đặt chúng ta –là những hữu thể có năng lực sáng tạo- vào trong thực tại riêng của mình và trong việc Ngài hướng dẫn thực tại ấy tới sự hoàn thành định mệnh của nó xuyên qua sự thứ tha tội lụy chúng ta và sự chuẩn nhận chung cuộc tình trạng hiện hữu trưởng thành của chúng ta; nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong mức độ bởi vì tất cả những thực tại thụ tạo của con người đều xuất phát từ Ngài và quy chiếu về Ngài đồng thời nhắc nhở chúng ta quy hướng về Ngài trong thái độ nhận hiểu và biết ơn, trong thái độ cầu nguyện chan hoà cảm mến… nếu chỉ thế thì quả chúng ta đã sai lầm về bản chất nền tảng của nhận thức Kitô giáo về “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Chính Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở cùng chúng ta bằng chính bản thân Ngài chứ không chỉ bằng trung gian của những ân sủng hữu hạn ban cho một tạo vật hữu hạn. Thánh Kinh và Truyền Thống làm chứng cho bản chất rất độc đáo của huyền nhiệm chung cục của cuộc hiện sinh chúng ta, đó là, Thiên Chúa thông ban chính bản thân Ngài cho chúng ta trong chính thực tại vô hạn và bất khả thấu hiểu của Ngài. Ngài trao ban cho ta Thánh Thần của Ngài, Đấng thể hiện tư tưởng của Thiên Chúa, Đấng chính là sự sống nội tại của Thiên Chúa. Vì thế Chúa Cha và Chúa Con đến cư ngụ trong chúng ta, như Chúa Con là một với Chúa Cha từ đời đời. Chúng ta tham dự vào thiên tính, chúng ta không còn chỉ là tôi tớ nhưng đích thực là con ruột của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhìn thấy và yêu mến Thiên Chúa –không phải lờ mờ trong gương kiểu như một trung gian tạo vật- nhưng là một cách trực tiếp diện đối diện. Vì thế, thần học truyền thống –nhằm bảo vệ cho bản chất nền tảng của giáo huấn Thánh Kinh này khỏi bị giảm trừ dần về sau- đã nói về “ơn phi tạo” của việc cảm nhận trực tiếp Thiên Chúa không thông qua trung gian một thực tại thụ tạo. Thần học cổ điển nói về sự cư ngụ trực tiếp của Thiên Chúa Ba Ngôi trong con người nhân loại và về sự tự thông truyền của Ngài.
Tất cả những điều này thoạt nghe có vẻ trừu tượng. Song đó là sự thật cuối cùng về con người chúng ta, dù chúng ta đã đạt đến nó và nhận ra nó trong cuộc hiện sinh bình dị hằng ngày của mình hay chưa. Là những hữu thể hữu hạn, khi chúng ta sống đóng kín nơi mình mà thôi, chúng ta dễ hàng phục một xu hướng bất khả kháng để suy nghĩ một cách thuần tuý hữu hạn về chính mình và về sự hoàn thành của mình. Chúng ta có khuynh hướng đánh giá sai lầm về tiềm năng nơi mình và từ đó thoả mãn với những gì mà mình trông thấy và sờ thấy được. Nếu đây chỉ là vấn đề quan điểm riêng của mình mà thôi thì hẳn chúng ta không có gì sai trái khi cảm thấy hài lòng với một hạnh phúc hữu hạn. Nhưng mọi tội lỗi trên trần gian đều có chung một đặc tính là tuyệt đối hoá cái tương đối –do đó cho thấy sự hài lòng nói trên của chúng ta là một thái độ sai lầm, một sai lầm ta không dễ gì bứt ra.
Chúng ta không được phép dễ dãi hài lòng như thế, đây không chỉ bởi một quy luật ngoại giới nào đó không cho phép ta (luật này còn khá xa lạ với chúng ta), mà còn bởi sự kiện rằng Thiên Chúa –trong bản tính vô hạn của Ngài và với lòng khoan dung nhân hậu siêu việt của Ngài, đã tự làm cho chính Ngài trở thành luật nội tại khắc ghi trong bản tính chúng ta, trước khi ta ý thức về chính mình và sợ hãi không dám gieo mình vào cõi vô hạn bất khả thấu hiểu ấy- cái vô hạn vốn lấp đầy chúng ta tận trong cốt lõi thâm sâu của hữu thể mình, rồi chúng ta đi tìm náu ẩn trong những vành đai hữu hạn của cuộc hiện sinh và cố tìm kiếm hạnh phúc của mình ở đó. Tuyên bố rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta (như các Kitô hữu nhận thức một cách đầy đủ) là nói rằng chúng ta khao khát mấy cũng không vừa trong nỗi khát khao mà chính Thiên Chúa đã ban tặng cho ta, trong khát vọng tự do, hạnh phúc, trong khát vọng gần gũi thân tình, khát vọng hiểu biết, an bình và khát vọng thành toàn ở chung cuộc. Ngẫm cho kỹ, mọi sự thái quá mang dấu ấn tội luỵ trong đời ta chung quy chỉ là một tình trạng thiếu kiểm soát dẫn ta đến chỗ coi một thực tại hữu hạn nào đó là cái không thể thiếu cho hạnh phúc của mình. Một người như vậy là một người ở trong tội, bởi vì người ấy không dám thực hiện bước nhảy –bước nhảy của niềm tin, của lòng trông cậy và của tình yêu- vào trong cõi hạnh phúc đích thực khôn cùng và bất khả thấu hiểu, là chính Thiên Chúa và chỉ là Ngài mà thôi.
Sự diễn giải có tính trừu tượng như thế về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” của bản văn Tin Mừng hôm nay thật ra không xa xăm như ấn tượng có thể có lúc ban đầu. Sở dĩ ta cảm thấy xa xăm bởi vì ta vốn xa xăm với “siêu nhiên tính” của chính mình, tức xa xăm với chính Thiên Chúa. Bất cứ khi nào chúng ta nghe trong chính mình tiếng gào réo bất tận đòi tồn sinh, ta cảm thấy không chấp nhận điều kiện hay giới hạn nào nữa ngoài một điều rằng ta là cái vô hạn đang ở chặng khởi đầu chứ chưa phải ở mức hoàn thành; bất cứ khi nào ta khắc khoải muốn yêu thương vô điều kiện bằng một tình yêu rộng mở hướng về người khác đến độ dám liều bỏ mình; bất cứ khi nào đứng trước thật gần bóng tối mịt mù của sự chết và ta vẫn tin rằng chính cái chết cũng chỉ là một cái gì hữu hạn –còn niềm hy vọng sống vĩnh cửu mới là vô cùng… Trong những cảm nghiệm như thế về cuộc nhân sinh, ta cảm nghiệm niềm hy vọng và niềm tin rằng chỉ có Thiên Chúa –chứ không phải bất cứ một thực tại hữu hạn nào- mới là sự lấp đầy cho một kiếp người hữu hạn.
Đó là ý nghĩa của “ơn phi tạo”. Ân sủng này được thông ban nơi Đức Giêsu Kitô, tuy nhiên nó vẫn hoạt động xuyên suốt giòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại –biểu hiện nơi tiềm năng hiện thực hoá thâm sâu nhất của chính ân sủng này. Vì thế, nó là cốt lõi nền tảng của mọi cuộc hiện sinh.
Nhưng giáo thuyết về “ơn phi tạo” không đóng khung ở chỗ chỉ nói lên một niềm phấn khích khôn tả về tương lai loài người. Với ơn sủng này, chúng ta đạt đến chiều sâu nhất của nhận thức Kitô giáo về con người. Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không còn chỉ là một mầu nhiệm mông lung, một mầu nhiệm cứ mãi còn là mầu nhiệm tuyệt đối ngay cả trong nỗ lực trực tiếp nắm bắt Ngài; và con người chỉ có thể cảm nhận được điều ấy khi chính nhận thức của họ được đổ tràn tình yêu. Vâng, chỉ tình yêu mới có thể làm cho chúng ta hiểu ra rằng Thiên Chúa (Đấng là tình yêu) vĩ đại hơn cả cõi lòng mình, một cõi lòng luôn luôn bỏng cháy niềm khát khao giác ngộ.
Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” này không phải chỉ là Thiên Chúa của sự tự do tuyệt đối (của những quyết định không còn có thể bị phủ định, và của những sự sắp đặt tất yếu phải được nhận chịu trong sự hàng phục vô điều kiện của tình yêu –một tình yêu biết cảm mến sự tự do thần linh này đến mức đó). Đúng hơn, chính sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là nhân tố đặt nền tảng căn bản cho nền “luân lý” Kitô giáo. Với số cuộc đổi thay diễn ra trong lịch sử loài người và trong cuộc đời riêng mỗi người được thấy như là không thích đáng nếu lấy bản tính của con người và của thế giới hữu hạn này làm thước đo –vì thế, những đổi thay ấy bị tẩy chay một cách khách quan bởi những nguyên tắc đạo đức của con người, nhưng chúng không thực sự phá đổ mối tương quan tích cực cuối cùng với Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính Ngài và –do đó, gần gũi chúng ta đến mức không ngờ. (Có nhiều tội “khách quan” không bao hàm chút “sai quấy chủ quan” nào và do đó không gây cản ngại cho ơn cứu độ –thần học kinh viện đã khẳng định như thế).
Tuy nhiên, sự tự do của con người (là cái tác động đến cơ cấu những nguyên tắc đạo đức thế trần) không ngừng chống cưỡng lại Thiên Chúa là Đấng vô cùng gần gũi, cho dù nó không tự đặc tả nó như vậy. Thế là chúng ta có tội (“tội trọng”) theo nghĩa Kitô giáo. Tội không chỉ là đi ngược lại cơ cấu khách quan của con người và thế giới và qua đó đi ngược lại các lệnh truyền của Thiên Chúa là Đấng muốn có những cơ cấu ấy (dĩ nhiên ý muốn của Thiên Chúa không mâu thuẫn với bản tính hữu hạn và có điều kiện của những cơ cấu này); tội còn là nói “không” với chính Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi chúng ta. Đó là lời nói “không” của sự tự do của con người, qua đó nó chối từ cuộc phiêu lưu liều lĩnh của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của chính mình.
Sống trong sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là một cái gì vừa rất khủng khiếp vừa đầy sức ủi an. Được chính Thiên Chúa yêu thương cũng thế –đến nỗi quà tặng đầu tiên và cuối cùng mà ta nhận được chính là cái vô cùng vượt ngoài khả năng thấu hiểu của ta. Nhưng ta đâu còn có sự chọn lựa nào khác. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta đây rồi!.
29. Emmanuel: Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Nói thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia và cả những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố tìm một chỗ nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chỗ. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.
Chú bé quá sửng sốt: Làm sao bà này biết tên mình? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con kể như đã đến đích. Đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ của tình yêu” – “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài” (Ga 3,16).
Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quỳ gối xuống trước Hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. Và thế là Emmanuel ở lại đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người Tin Mừng về ngôn ngữ Chúa dùng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu”.
Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kẻ cho mọi người biết Thiên Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức là ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng nói duy nhất mà mọi người trên thế giới đều hiểu được”.
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Chính vì thế mà Ngài đã mang tên gọi là EMMNUEL, nghĩa là “Thiên -Chúa - ở –cùng – chúng - ta”, tên gọi được báo trước qua lời Ngôn sứ Isaia cũng như qua lời Thiên Sứ báo tin cho ông Giuse: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên- Chúa – ở – cùng – chúng - ta”. Ngài đến ở cùng chúng ta để làm gì, nếu không phải là để nói cho chúng ta về tình yêu vô biên của Thiên Chúa bằng cả cuộc sống yêu thương đến tột cùng của Ngài, từ lúc sinh ra trong hang đá Bêlem đến cái chết treo trên thập giá. Đó là tất cả tiếng nói của tình yêu Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên đã làm người như chúng ta. Ngài đã đến tận nơi chúng ta sinh sống, trong nhà, trong làng mạc, trong xứ sở, trên trái đất của chúng ta, để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân loại để đưa cả loài người chúng ta lên với Thiên Chúa.
Hơn nữa, Ngài còn muốn làm người nghèo giữa những người nghèo khổ, bị áp bức và bỏ rơi. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày trời đất giao hoà, để cho Thiên Chúa và loài người gặp gỡ yêu thương, cho hoà bình chớm nở trên trái đất. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu của loài người, để kêu gọi loài người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng giàu sang khôn sánh trở thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết yêu thương và tôn trọng người nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên Chúa.
Vì vậy, thưa anh chị em, vấn đề quan trọng không phải là ăn lễ Giáng Sinh hay là mừng lễ Giáng Sinh, cho dù là sốt sắng đến đâu đi nữa, mà là hiểu sống và thực hiện bài học Giáng Sinh: đó là cùng với Chúa nhập cuộc liên đới với những anh em nghèo hèn trong nhân loại. Và một khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón tiếp và yêu thương những ai bé nhỏ, khó hèn, coi họ ngang hàng với Con Một Thiên Chúa, thì khi ấy, chính tâm hồn chúng ta sẽ trở thành hang đá Bêlem, và ánh sao Noel sẽ bừng lên trong ánh mắt chúng ta.
Anh chị em thân mến, EMMNUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đã nói với loài người chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và Ngài muốn dạy cho mọi người nói chung một ngôn ngữ của tình yêu này. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi: các quốc gia sẽ chia sẻ nguồn lợi và tài nguyên cho nhau, mọi chủng tộc sẽ tôn trọng nhau, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ xiết chặt tay nhau trong tình thân hữu. Và như thế, “vinh quang Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa yêu”.
30. E sợ
Chuyện xưa kể lại rằng: Đức Khổng Tử thấy người giăng lưới chim sẻ, chỉ đánh được các chim sẻ con, còn non, vàng mép. Ngài liền hỏi rằng: "Không đánh được chim sẻ già là làm sao?". Chim sẻ già bíết sợ nên khó được, sẻ non ham ăn cho nên dễ bắt. nếu sẽ non mà theo sẻ già thì bắt sẻ non cũng khó. Nhưng nếu sẽ già mà theo sẽ non thì bắt sẽ già cũng dễ. Đức Khổng Tử nghe vậy hỏi học trò rằng biết sợ để tránh tai hại tham ăn mà quên nguy vong . Điều đó là tính tự nhiên vậy.
Qua câu chuyện trên ta thấy những con chim sẻ già biết sợ nên sống, đó là một cái sợ khôn ngoan, cái sợ của một con chim có nhiều năm kinh nghiệm, nên nó biết chọn chỗ nào nguy hiểm chỗ nào không nguy hiểm, có thể nói con chim sẽ già biết sợ để được sống chứ không phải là bị sợ vì nó hoàn toàn chủ động chứ không phải vào thế bị động.
Trong tâm lý học cho thấy, có rất nhiều cái làm cho người ta sợ. Sợ có thể là do bị mặc cảm tự ti, sợ không bằng người khác, sợ không thể làm được trước một công việc mà họ cho là quá lớn lao. Cái sợ thứ hai gần giống như sự xao xuyếnbăn khoăn thổn thức, nội tâm cảm thấy bất an sâu xa mà không có nguyên do khách quan nào. Họ sợ bị bất hạnh ập đến, một tai nạn gần kề trí tưởng tượng sẽ xảy ra cho họ rằng có những biến động bất ngờ đôi khi rất kinh sợ mà họ không tài nào xua đuổi được.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một cái sợ mới, rất độc đáo. Nó không giống cái sợ từng trải của con chim sẻ già, cũng không giống một cái sợ mặc cảm tự ti, cũng không xao xuyến bất an, một cái sợ thật dễ thương biết mình là thụ tạo được tuyển chọn, biết mình để mà sợ sống phó thác, sống vâng lời. Đó chính là cái sợ của Đức mẹ Maria cô trinh nữ làng Nazareth và anh chàng thợ mộc Giuse nghèo nàn, ít nói và luôn sống âm thầm.
Không phải tự nhiên ta có thể khẳng định Đức Meria sợ hãi. Điều đó đã được chứng minh qua việc khi sứ thần truyền tin. "Maria đừng sợ, Bà đã được Thiên Chúa sủng ái" Chắc Maria lại càng sợ hơn khi nghe nói mình sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu . Không phải chỉ có Đức Mẹ khi nghe lời đó sợ hãi mà hầu hết tất cả các thiếu nữ Do Thái khi nghe đều sợ. Vì theo lật Do Thái người phụ nữ nào có chồng mà có con trong khi Đức Mẹ lại là người phụ nữ đẹp nết đẹp người, Hơn nữa Đức Maria lại là con ông Gioan Kim và Anna sống tốt lành thánh thiện thì lại càng sợ hơn nữa. Nhưng cái sợ của Đức Maria khi nghe truyền tin không giống như cái sợ của những người phụ nữ Do thái khác. Sợ vì có một chút bất ngờ một chút bỡ ngỡ, vì không ngờ một thụ tạo hèn kém như mình lại được Chúa chọn, được Chúa ban cho hồng ân to lớn đến thế. Có thể nói cái sợ của Mẹ Maria như lời tạ ơn đơn sơ đẹp lòng Chúa nó cũng chứng tỏ nơi Mẹ một tâm hồn phó thác vì biết sợ trong Chúa vì biết tin tưởng nới Thiên Chúa mà Mẹ đã biến nỗi sợ hãi bằng lời thưa trong sự can đảm và vâng phục thánh ý Thiên Chúa
Khi nói đến Thánh Giuse, người ta nghĩ ngay đến một người công chính, ngay thẳng sống âm thầm, ít nói. Suốt cuộc đời trong Kinh Thánh không ghi lại một lời nào của ông nhưng ta biết được ông cảm thấy e ngại khi biết Đức Maria có thai, ông không hề nói cho ai biết điều làm ông e ngại đó, nhưng Thiên Chúa đã thấy và biết được sự lo lắng trong lòng ông. Do đó Thiên Thần đã đến với ông trong giấc mơ và nói với ông hỡi Giuse đừng sợ đón nhận Maria về nhà làm vợ vì nàng đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. sau khi tỉnh giấc Giuse đã tin tưởng vào Thiên Chúa và đường lối hành động của người. Do đó ông cũng vượt qua được nỗi sợ hãi và làm theo ý Chúa. Tất cả chúng ta đều đã đụng chạm đến nỗi sợ hãi và chắc chắc cũng còn gặp nhiều nỗi sợ hãi nhưng đường để nỗi sợ hãi đó làm ta không thể đến được với Chúa nhưng hãy biết chuyển đổi nỗi sợ hãi để thành niềm tin.
Trong mùa giáng sinh này hãy biến nỗi sợ hãi thành lòng khao khát đợi Chúa đến, và chỉ có Chúa ta mới nhận được niềm vui lớn lao như Đức Mẹ và thánh Cả Giuse đã nhận hơn 2000 năm trước.
31. Chúa Cứu Thế giáng sinh – R. Veritas
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
Chúa nhật IV Mùa vọng hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mầu nhiệm mà mỗi người con của Giáo Hội được mời gọi đón nhận với tâm hồn được chuẩn bị kỹ lưỡng trong suốt bốn tuần Mùa vọng. Tất cả ba bài đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều hướng về sự kiện căn bản này: “Con Thiên Chúa Nhập Thể và sinh ra bởi Người Nữ Đồng Trinh, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần”, theo như lời hứa của Thiên Chúa trong lịch sử dân Chúa.
Bài tường thuật biến cố Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi Phúc Âm thánh Luca sẽ được dùng trong Thánh Lễ Giáng Sinh vào Chúa nhật IV Mùa vọng, Giáo Hội nhắc đến biến cố căn bản qua bài tường thuật của Phúc Âm thánh Mátthêu (x. Mt 1,18-24). Dĩ nhiên, tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu không tường thuật biến cố Nhập Thể và Giáng Sinh của Con Thiên Chúa trong cùng một cách thức như Phúc Âm thánh Luca. Tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc đến biến cố trong vai trò của thánh Giuse, thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức Con Thiên Chúa được sinh ra trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse được mạc khải cho biết và đồng thời mời gọi Ngài tích cực tham dự vào chương trình đó, là người cha nuôi của Con Thiên Chúa, là Đấng bảo vệ cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Qua đó, Thánh Giuse được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh của Đấng được Mẹ Maria cưu mang. Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại cho biết lời tiên tri được loan báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong sách Isaia nơi chương VII mà bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là lời tiên tri được loan báo gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra. Là một người Công Chính như thánh Giuse, chắc chắn Ngài đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về lời tiên tri này như bao thành phần tốt của dân Israel thời đó. Tuy nhiên, khi biến cố thực sự xảy đến trước mắt mình và có liên quan đến chính mình, thì thánh Giuse có phản ứng đầu tiên là không chấp nhận, như Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại như sau: “Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo”. Luật Do Thái phạt nặng nề một người phụ nữ đã đính hôn mà đi ngoại tình với kẻ khác. Giuse có thể đi tố cáo Mẹ Maria, vì khi thấy Bạn mình chưa về chung sống mà đã mang thai. Phúc Âm không nói gì, nhưng người ta có thể hiểu là Maria có thể đã kể cho Giuse biết biến cố thiên thần truyền tin và việc mang thai là do quyền phép Chúa Thánh Thần như lời thiên thần loan báo, nhưng có thể thánh Giuse không hiểu, không tin hoặc tin lời Maria nói nhưng lại cảm thấy mình không xứng đáng, không muốn tham dự vào chương trình cao cả của Thiên Chúa, vì thế mà Ngài định tâm rút lui.
Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy, Ông muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.
Mùa Giáng Sinh sắp đến, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người được người đồ đệ suy niệm bắt chước, nhưng không dừng lại hưởng niềm vui cứu rỗi nơi mình, nhưng cần để cho ơn Chúa chiếm lấy nơi mình và dấn thân mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta cầu chúc cho mọi người được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha. Amen.
32. Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA
Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?
Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.
Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.
1) Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.
Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.
Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
2) Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.
Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.
Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.
Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.
Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.
Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Ngày càng có nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?
2) Sống khiêm nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?
3) Bạn nghĩ gì về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia đình?
33. Emmanuel - Br. B.M. Thiện Mỹ, CRM
Có ba thanh niên leo núi Manhull bên Hoa Kỳ. Bỗng một cơn bão tuyết đổ xuống vùng ba người đang ở. Họ bắt buộc phải ẩn trú trong một hang đá!
Cơn bão kéo dài đến ngày thứ 11. lương khô đã cạn,mỗi người chỉ còn được một muỗm mạch nha mỗi ngày. Trong cơn nguy ngập như thế, họ chỉ còn một nguồn hy vọng là cuốn Thánh Kinh của một người trong nhóm mang theo. Mỗi người đọc Kinh Thánh 8 tiếng đồng hồ rồi trao cho người khác. Cứ như thế họ đọc lời Chúa suốt đêm ngày. Bên ngoài là tiếng gió rít của bão tố, bên trong hang họ nhờ Kinh Thánh mà duy trì niềm tin cho đến ngày thứ 16, bão tuyết chấm dứt và có nhóm người tiếp cứu tìm gặp họ …
Cuộc đời chúng ta cũng tràn đầy những cơn phong ba bão táp, bao trùm khắp cả địa cầu. Đối với thời tiết cơn bão cũng chỉ có từng lúc rồi lại tan biến nhường chỗ cho thời tiết điều hoà, riêng mùa xuân cảnh vật trời đất còn được vui tươi, thanh bình, ấm áp, cùng với muôn chim ca hót trong những vườn hoa nở rộ, những bông hoa thật xinh tươi thơm tho …. Nhưng cơn bão tâm hồn nó hoành hành con người triền miên, lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác. Cơn bão nội tâm đầu tiên mà ma quỷ tạo ra ngay từ lúc nguyên tổ còn ở trong vườn địa đàng, con người đã bị ngã gục trước cơn bão khổng lồ của Satan. Cũng như mưa sa bão táp ở thiên nhiên, cơn bão tâm hồn cũng xô đẩy con người dưới nhiều hình thức và cường độ mạnh yếu khác nhau mà chúng ta quen gọi là 7 quỷ hay 7 mối tội đầu. Một cơn bão cụ thể hiển nhiên và nổi bật trong các thời đại hiện tại là cơn “bão sex”, nó bao vây thế giới trẻ hiện nay và đã có rất nhiều thanh niên thanh nữ, kể cả những anh chị mới lớn cũng bị gục ngã trước cảnh bầy hầy trong sinh hoạt hằng ngày.
Dưới sức tấn công của tà thần trong muôn mặt của cuộc đời, chúng ta cũng có quyển Kinh Thánh ở ngay trong tâm hồn người Kitô hữu. Quyển Kinh Thánh này ghi khắc vào linh hồn ta khi rửa tội, bắt đầu gia nhập hàng ngũ Hội Thánh và được chính thức làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Quyển Kinh Thánh đó, với ơn thánh trợ giúp, chúng ta đọc thấy những trang sách ở mọi nơi: Ở trong giòng suối nước róc rách chảy ngang qua các cánh đồng cỏ xanh tươi, ở trên những dãy núi hùng vĩ trùng trùng điệp điệp, ở tận bầu trời cao thẳm hay ở dưới đại dương mênh mông … vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và lời Chúa sống động nhất trong lúc ban bố ở Thánh Lễ Misa hằng ngày. Lời Chúa chính là của ăn bổ dưỡng cho tâm hồn để chúng ta chiếm hữu được Đấng EMMANUEL nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta cũng như lời thánh Phaolô nói: “cho đến khi Chúa Kitô thành hình trong anh em”.
Ngày Chúa Nhật hôm nay, Phúc Âm cũng thuật lại câu chuyện của gia đình Thánh Gia vào thời kỳ đính hôn. Hồi ấy giữa lúc mối tình đẹp đẽ đang dâng cao để tiến lễ thành hôn, thì cơn bão thánh thiện ập đến túp lều lý tưởng đề hứa hẹn. Suy đi nghĩ lại nhiều ngày trời về sự kiện Mẹ Maria, thánh Giuse rất áy náy ưu tư khi thấy bạn đồng trinh của mình ngày càng khác lạ rõ ràng. Còn đối với người ngoài cuộc, bà con trong họ hay hàng xóm láng giềng, lại không có vấn đề gì phải thắc mắc. Vì theo phong tục người Do Thái, việc thụ thai trong thời kỳ đính hôn được coi như con chính thức. Riêng thánh Giuse lại không hiểu đơn giản như thế, Ngài thấy đây là công trình tác tạo của Thiên Chúa, thánh Giuse ái ngại như thánh Phêrô khi thấy quyền năng của Thiên Chúa liền cúi mình thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội” (Lc.5,8). Lại nữa, thánh Giuse là người công chính, Ngài không muốn đảm nhận tư cách làm cha mà không phải là tác phẩm của Ngài. Để tôn trọng chương trình của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Mẹ Maria, thánh Giuse đã muốn âm thầm rút lui ….
“Nhưng đang khi định tâm như vậy …” thì Thiên Chúa đã sai sứ thần đến để trấn an, báo tin và trao ban sứ mệnh cho Ngài. Như vậy thánh Giuse là nhân chứng sống động cho việc Mẹ Maria sinh hạ Chúa Giêsu mà vẫn còn trinh khiết. Việc thánh Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu nói lên vai trò làm Cha trước pháp luật. Vì theo phong tục bấy giờ, chỉ có cha mẹ mới có quyền đặt tên cho con mình. Và vì thánh Giuse là con vua Davit, nên Con Trẻ Giêsu cũng thuộc dòng tộc Davit, đúng như lời Kinh thánh đã báo trước qua các ngôn sứ. Đó là một chiến thắng rất vĩ đại của Cha thánh Giuse, Ngài đã vượt qua mọi giông tố để chiếm được Đấng EMMANUEL cho nhân loại.
Như vậy bài suy niệm hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm hoàn cảnh gia đình thánh Nazaret, để chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh, để nhận ra công trình phi thường của Thiên Chúa, và để chúng ta noi gương các Đấng đã rất mềm mỏng tinh tế với ý muốn của trời cao.
Gương sáng chói của Chúa Giêsu, Ngài là Đấng rất cao cả vô cùng, Ngài có thể cứu chuộc thế gian bằng nhiều cách, nhưng Chúa đã trở nên con của Mẹ và con của thánh Giuse là Cha Đồng Trinh Ngôi Lời Nhập thể và nhờ Giáo hội cộng tác vào chương trình cứu thế của Ngài. Được Thiên Chúa xử dụng trong việc tông đồ, được Ngài kêu gọi chúng ta vào hàng ngũ tuyển chọn trong đời dâng hiến … Chúng ta hãy thưa lời xin vâng như thánh Giuse khi được báo tin trong giấc mơ, như lời Fiat của Đức Mẹ trong ngày truyền tin, như thánh Phêrô thưa cùng Chúa rằng: “Vâng lời Thầy con xin thả lưới…”.
Tuy nhiên cuộc đời không thuần đơn giản như thế, thánh ý Chúa dễ bị những mây mù bão tuyết của trần gian che khuất. Che khuất bởi quỉ thần Satan, bởi dục vọng nặng nề của lòng người , bởi hào nhoáng của thế gian, đấy là chưa kể ý chí bị ru ngủ, không muốn vươn cao lên khỏi tầng mây mù để bay về trước Thánh Nhan Chúa, tìm gặp Đấng EMMANUEL. Ước gì gia đình Thánh Nazret là mẫu gương sáng chói cho chúng ta noi theo sống đời theo chân Chúa.
34. Hãy sẵn sàng - Lm. Thu Băng, CRM
Vài tuần trước đây, tạp chí "This week" có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé người Hòa Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã, nhưng đã bị bắt lại và đã bị kết án tử hình. Ngày trước khi bị hành hình, cậu đã gửi cho cha ruột cậu lá thư sau đây. "Cha thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho cha lá thư này, nhưng con vẫn phải cho cha hay rằng con đã bị tòa án quân sự kết án tử hình. Xin cha đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, lúc đúng 5 giờ sáng, chỉ một lát nữa thôi, thế là con sẽ về cùng Chúa. Nói cho cùng, đấy có phải là sự chuyển tiếp đáng kinh hãi không? Không, con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵng sàng chờ đón giờ Chúa gọi con. Con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn cha nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng tội, đã sống công chính và hiện tâm hồn con hoàn toàn bình an thanh than. Ký tên "John Kless". Phúc cho ai vào giờ Chúa gọi có thể nói được như cậu ta.
Chúng ta có thể nói được rằng, Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn, sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Giáo Hội khuyên chúng ta nên chuẩn bị tâm trí, chuẩn bị tâm hồn, chuẩn bị thể xác, để đón tiếp Chúa Kitô. Đây phải chăng chỉ là sự đón tiếp liên quan đến cuộc giáng thế có tính cách lịch sử của Ngài, thường được chúng ta tưởng niệm vào dịp Giáng Sinh, cũng không phải chỉ liên quan đến cuộc ẩn thân mầu nhiệm của Ngài nơi bí tích Thánh Thể, mà đặc biệt là việc Chúa đến với mỗi người chúng ta trong giờ chết.
Để đón tiếp Chúa Giêsu đến, chúng ta đã chuẩn bị thế nào? Chúng ta nên vâng theo lời thánh Gioan tầy giả khi ông chuẩn bị cho dân Do Thái thời ông đón chờ Đức Giêsu đến với thế gian lần đầu tiên. Ông dạy bảo họ ăn năn thống hối từ bỏ tội lỗi, tin vào Phúc Âm. “Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ lòng ăn năn thống hối của các ngươi” (Lc.3:8). Đây là điều Giáo Hội mời gọi thực hiện trong ngày đón chờ Chúa đến. Chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những tính mê nết xấu, những gian tham, những hờn oán và bắt đầu sống đúng như lời Chúa Giêsu từng khuyên dạy chúng ta. Hãy tập tành các nhân đức. Hãy dục lòng yêu mến Chúa gấp trăm lần bù lại những giây phút quên lãng. Hãy hy sinh, hãm mình và làm việc lành phúc đức nhiều hơn mọi khi. Hãy để giờ làm việc thiêng liêng, đọc kinh nguyện ngắm, để tâm thần thêm sốt sáng. Hãy nghiêm chỉnh tự vấn xem "liệu chúng ta có thể trình diện trước mặt Chúa ngay lúc này không?
Mùa Vọng là thời gian tốt nhất để chúng ta hồi tỉnh tâm trí và chuẩn bị tinh thần. Đây là thời gian tự vấn chính mình xem chúng ta đã sẵn sàng đón tiếp Chúa chưa? Chúng ta có nói được như cậu bé John Kless trước giờ hành quyết: "Con cảm thấy rõ ràng con đang ở gần Chúa. Con chuẩn bị sẵn sàng chờ đón cái chết... Con đã xưng tội và tâm hồn con hoàn toàn thanh thản, bình an và hạnh phúc".
Chúng ta hãy qùi xuống trước tôn nhan Chúa, hãy dùng giây phút này để thầm lặng, gẫm suy đến việc chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa đến.
Lạy Chúa, xin giúp con sẵn sàng đón Chúa đến trong mọi lúc. Xin canh tân trí lòng chúng con, đổi mới ý chí. Xin giúp chúng con quyết tâm trong lời nói, trong việc làm, trong hành động, để sống đạo đức thánh thiện hơn trong những ngày đón chờ Chúa đến. Lạy Chúa, con đây xin sẵn sàng thực thi ý Chúa. Amen.
35. Vâng phục trong trách nhiệm
Học cùng buổi, là anh lớn, tôi được cha mẹ giao cho trách nhiệm quản lý chiếc xe và đưa rước em út học ở trường mầm non gần trường tôi. Tôi chẳng thích tí nào, vì như thế tôi chẳng bao giờ được đi chơi cùng đám bạn mỗi khi tan học. Nhưng tôi chẳng còn cách nào khác vì cha mẹ phải đi làm, em út thì chưa thể tự đi được.
Lần nọ, cô giáo bị bệnh đột ngột. Chúng tôi được nghỉ tiết cuối. Tôi theo đám bạn ra sân vận động chơi đá banh. Mãi chơi quên cả giờ giấc phải đón em. Chờ mãi không thấy tôi đến rước, cô giáo nhà trẻ đưa luôn em tôi về nhà cô và điện qua nhà tôi bảo mẹ tôi qua rước em. Còn tôi, khi chơi chán thì đã trễ giờ, đến trường của em thì được biết em đã được cô đưa về. Tôi đành lững thững về nhà chịu tội. Về đến nhà, đứa em út nhìn tôi khóc tức tưởi: "Anh hai đi đâu không đón em!".
Phúc Âm ngày hôm nay giới thiệu cho chúng ta một khuôn mặt - một người thầm lặng, thầm lặng nhưng rất vâng phục; ít nói nhưng đầy trách nhiệm. Thánh sử gọi ngài là người công chính. Đó là thánh Giuse.
Trình thuật bài Phúc Âm cho biết Giuse đã đính hôn với Maria, nhưng trước khi về chung sống thì Maria đã mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse thì lòng bối rối như tơ vò, "bỏ thì thương vương thì tội". Tố cáo thì Maria sẽ chết, bởi luật lệ Do thái thời ấy rất khắt khe với những phụ nữ chửa hoang. Rước nàng về chung sống thì sao quá bất công cho mình. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp âm thầm ra đi. Đành chấp nhận dang dở một cuộc tình đẹp... Nhưng có phải vì sự âm thầm đó mà Giuse được gọi là người công chính? Hay là vì lòng nghĩa hiệp không muốn phanh phui ra ánh sáng một bào thai đang lớn lên từng ngày trong bụng Maria?
Nếu chỉ đơn giản như thế thì cần gì phải nêu ra cho mọi người học hỏi làm gì! Vì thực tế mẫu anh hùng như thế không phải làm hiếm.
Mặc dù Phúc Âm không nói gì về cuộc đời thánh Giuse, nhưng chắc rằng ngài là một người tốt lành, có đạo đức, có học thức. Sự công chính của Giuse được các nhà chú giải cho rằng: Giuse đã biết được thai nhi trong bụng Maria là ai, ngài cũng hiểu được rằng Thiên Chúa đã chọn Maria cho công trình cứu rỗi của Người. Giuse tự thấy mình không có quyền giành Maria với Thiên Chúa, càng không xứng đáng tham dự vào công trình quá cao vời của Thiên Chúa. Giuse chấp nhận hy sinh tình yêu của mình để ý định của Thiên Chúa được thành sự. Giuse công chính là vì ngài đã nhận ra được điều Chúa muốn ngài phải hy sinh và vâng theo điều đó với cả ý thức và trách nhiệm.
Cho tới khi suy nghĩ của Giuse được xác nhận bởi lời của sứ thần, thì sự vâng phục của Gisue được chuyển sang hướng khác và nâng lên cao hơn. Giuse không là kẻ đứng ngoài công trình cứu rỗi. Rối rắm trong lòng Giuse được hoá giải. Trách nhiệm của Giuse giờ đây là công nhận người con Giêsu trong tư cách pháp lý cũng như cho Giêsu được đứng vào hàng con cháu Đavit. Giuse không hề đắn đo hối tiếc trong vai trò cha nuôi của mình. Ngược lại, ngài còn vui mừng vì đã được cộng tác, vì đã được mời gọi. Việc nầy xem ra quan trọng hơn so với việc chấp nhận người khác đứng vào dòng tộc mình. Giuse đã hoàn toàn để ý Chúa "được như lời sứ thần truyền".
Là người Công giáo, chắc hẳn phải hơn một lần bạn nghe nói về sự vâng phục của thánh Giuse, hay của Đức Maria, hay của một vị thánh nào đó. Thế bạn nghĩ gì về điều nầy? Các ngài không phải vâng phục lề thói xã hội không đâu, mà là vâng phục ý Chúa. Và khi đã chấp nhận xin vâng như vậy, các ngài cũng phải đảm đương một trách nhiệm đi cùng.
Như câu chuyện tôi đã kể ở phần đầu, tôi đã miễn cưỡng vâng phục. Tôi không phản ứng nhưng tôi không làm tròn trách nhiệm. May là hôm ấy em tôi không xảy ra sự cố gì rắc rối. Nếu không chắc tôi phải ân hận suốt đời.
Cuộc sống đòi buộc bạn phải dấn thân, đòi buộc bạn phải đáp trả lời mời gọi cộng tác. Bạn không thể ăn bám gia đình mãi. Bạn không thể ngồi đó oán trách số phận đen đũi. Bạn càng không thể trốn chạy trước tương lai của chính đời bạn. Khi bạn chưa bắt tay vào làm bất cứ điều tốt nào thì bạn không được quyền nói bạn không có khả năng. Bạn đã thấy thánh Giuse cũng nghĩ rằng ngài không thể, nhưng với lòng tin vào Chúa và vào chính mình, ngài đã làm được.
Hãy đến chiêm ngắm sự vâng phục của Giêsu - Maria - Giuse nơi hang đá trong đêm Giáng Sinh và nguyện cầu để được các Ngài hướng dẫn cuộc đời bạn. Chúc bạn Giáng Sinh an lành.
36. Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Nếu đây không phải là một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút ra từ bài tường thuật của thánh Matthêu những yếu tố của một thảm kịch lạ lùng. Song ở Thiên Chúa gọi ta suy nghĩ sâu xa, một suy tư vượt quá óc phân tích, vượt quá nghệ thuật. Những cõi lòng đơn sơ, nghĩa là những ai không vướng mắc vào một hệ thống tư tưởng phiền phức, nhận ra trong biến cố tường thuật lại đây một ‘phát minh’ của tình yêu Thiên Chúa. Một trong những hậu quả lớn lao nhất của mọi mối tình, và dấu hiệu của nó, là làm cho trí khôn phải sửng sốt. Ở đây là tình yêu của Thiên Chúa; nó còn làm trí khôn sửng sốt gấp bội. Nó làm cho trí khôn chưng hửng không phải để hạ thấp trí khôn, song là để nâng cao nó lên nếu nó biết khiêm tốn.
Tác giả Phúc Âm báo trước Chúa Giêsu sẽ sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh. Sự kiện đó không phải là không gây ra vấn đề cho hai người trong cuộc, là Maria và Giuse. Thánh Giuse bị đặt ở điểm then chốt của một hoàn cảnh bi đát. Trước hết, cũng như Maria, Người được Chúa mời giải quyết vấn đề của mình, từ ‘trên cao’ nghĩa là bởi một hành vi đức tin. Điều đã nói về Maria: bà có phúc vì đã tin, cũng áp dụng cho Giuse.
Thử rút ra từ đoạn Phúc Âm này hai ý tưởng:
1) Maria đã để cho Thiên Chúa làm việc báo tin cho Giuse biết tình trạng của Người.
Có những kinh nghiệm tinh thần liên quan tới kẻ khác mà người ta vẫn không thể nói tới, bởi vì chúng xảy ra ở một bình diện quá sâu xa. Chúng tôi không nói: Maria và Giuse không hề nói với nhau về việc thụ thai lạ lùng, chẳng hạn sau khi Thiên Chúa can thiệp với Giuse, nhưng Đức Trinh Nữ phó thác cho Chúa việc khai triển ‘cái lý’ của biến cố và các phương tiện của biến cố. Ở những trình độ khiêm tốn hơn nhiều, cũng xảy ra như vậy trong đời sống, nhất là đời sống giữa vợ chồng Kitô hữu. Mọi Kitô hữu ý thức, đều có những ơn sủng riêng tư, nhưng không ơn nào chỉ dành cho mình mà thôi; ơn sủng của Chúa, dù riêng tư nhất, vẫn có một chiều kích hiệp thông huynh đệ. Tuy thế loại ơn này cần phải được giữ gìn kín đáo. Vừa phải đón nhận nó trọn vẹn, vừa phải phó thác cho Chúa công việc làm cho kẻ khác hiểu biết, nhìn nhận nó. Người ta có thể mang trong mình một ơn Chúa làm cho người khác thắc mắc: nếu đó là ơn đích thực, phải để mặc cho Chúa phương tiện giải đáp thắc mắc ấy, hay nói đúng hơn: hãy giao cho Chúa trước đã; phần việc ta có thể sẽ tới sau.
2) Ta nên lưu ý tới tình hình rất cao đẹp của thánh Giuse.
Người đã có thể chiều theo luật lệ sơ đẳng của xã hội đương thời mà tố giác Maria. Một sự ngay thẳng căn bản khiến người hành động cách khác. Qua hành động này ta thấy một giá trị nhân bản sâu xa, vượt xa mặt chữ của lề luật. Lúc đó Thiên Chúa can thiệp. Sự kiện này gợi cho ta một câu hỏi: ta có xác tín rằng các hồng ân cao cả nhất Chúa ban, cái mà ta gọi là các ơn siêu nhiên, cần được dựa trên nền móng các nhân đức tự nhiên như: tính ngay thẳng, lương thiện, can đảm, tinh thần phục vụ, tấm lòng cởi mở… hay không? Sau Đức Mẹ, thánh Giuse nêu cho ta tấm gương đầu tiên trong Hội Thánh về sự thánh thiện được phát triển từ những nền tảng nhân bản rất cao quý.
37. Mùa Vọng: Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống
Trên chuyến xe xuôi miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi một cuốn truyện cũ đã mất bìa để đọc cho quên đường dài. Truyện kể lại mối tình giữa một chàng trai là con sĩ quan học tập và một cô gái là con cán bộ chức quyền. Họ thương nhau và muốn kết hôn với nhau, nhưng khi công khai ý định ấy, họ đã gặp phải những lực cản từ hai phía gia đình. Đã có nhiều nghi ngờ từ phía cha chàng trai và cũng có lắm nghi ngại từ phía cha cô gái. Giải pháp phải chọn là chia xa đôi lứa.
Đành lòng làm thế, nhưng họ vẫn âm thầm chờ đợi nhau, cho đến khi cha chàng trai mãn hạn học tập về nhà và cha cô gái đã đến tuổi về hưu. Hai người cha có dịp gần gũi cảm thông làm chất keo thân ái cho tình yêu đôi trẻ có điều kiện gắn hàn. Kết truyện là đám cưới.
Truyện có hậu và có nét hấp dẫn riêng của thể loại, nhưng điều hấp dẫn hơn hết đối với tôi không phải là cốt truyện cho bằng chính tựa đề “Tình yêu trong veo”: trong veo giữa hai người cha biết xoá tan ngờ vực để thêm gần gũi; trong veo giữa hai bạn trẻ biết vượt qua thử thách để giữ vững tình yêu. Xin mượn tựa đề “Tình yêu trong veo” ấy để gọi tên Mùa Vọng là mùa trong veo một tình yêu.
1) Bằng tình yêu trong veo, Thiên Chúa trao thân cho con người.
Trong khi người Do Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên cao và dường như say sưa về một Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện cầu, thay vì xin những biểu tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin một dấu lạ điềm thiêng mãi tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong chờ Đấng Cứu Thế, vốn là mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ rằng Người sẽ đến, nhưng là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm liệt, cho muôn dân nếu không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ.
Người đến thật gần: trong thân phận của một con người để làm người giữa muôn người trần thế. Người đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình cách sống của một người cùng khổ dưới đáy xã hội. Người yêu thương con người để sẵn sàng trao thân cho họ, chấp nhận phải điều đình, chấp nhận được cưu mang, chấp nhận được sinh hạ, chấp nhận được làm người: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)
Phải chăng khi trao thân cho con người như thế, Thiên Chúa sẽ được thêm vinh quang? Phải chăng nếu không trao thân cho nhân loại, Thiên Chúa vẫn là Chúa, nhưng là một vị Chúa không được ai biết đến hay là một vị Chúa bị kết án phải cô đơn? Thưa không phải thế. Chính khi trao thân cho con người trong mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa không còn úp mở như trong thời Cựu Ước nữa, Người đã dứt khoát cho thấy mình là Đấng giải cứu con người và sẵn sàng làm hết cách để thực hiện bằng được chương trình của Người mà không đợi chờ mảy may vinh quang nào ngoài lợi ích cứu độ cho người trần gian. Để độ thế, Thiên Chúa đã nhập thể; để cứu người, Thiên Chúa đã làm người.
Chính hai Danh xưng được nêu lên trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã nói lên tất cả. Danh xưng Emmanuel khẳng định “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Danh xưng Giêsu bộc lộ “Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ” (Mt 1,23-25). Nối kết hai Danh xưng ấy nơi Đấng Cứu Thế, ta sẽ thấy một tình yêu trong veo Thiên Chúa dành cho con người: Người là Thiên Chúa ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và Người là Thiên Chúa cứu độ ta bằng cách ở cùng ta.
2) Bằng tình yêu trong veo, con người gửi phận cho Thiên Chúa.
Nếu bằng tình yêu trong veo cứu độ, Thiên Chúa trao thân cho con người, thì Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng cho thấy những nhân vật gần gũi với mầu nhiệm Giáng Sinh nhất là Đức Maria và thánh Giuse đã bằng tình yêu trong veo tự nhiên gửi phận mình cho Thiên Chúa.
Đối với Đức Maria, tình yêu trong veo đã rõ qua tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà Phụng Vụ hữu ý mừng kính ở đầu Mùa Vọng. Tình yêu ấy đã rõ trong việc Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, nhưng tình yêu ấy còn rõ ràng hơn khi tiếp cận với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ngày Truyền Tin, mới gặp sứ thần, Đức Maria đã bối rối, thứ bối rối của một tình yêu trong sạch buổi đầu gặp gỡ. Rồi, lúc được đề xuất làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã băn khoăn, thứ băn khoăn của một tình yêu trong sáng muốn được giải thích đôi câu. Và chính lúc thưa “Xin vâng” (Lc 1,38) là cả một tình yêu trong veo như chưa bao giờ trong đến thế, Đức Maria đã gửi trọn phận mình vào tay Thiên Chúa, bất chấp đó là một mạo hiểm chết người: trinh nữ mà lại mang thai, phải ăn nói ra sao với thánh Giuse? Mới đính hôn thôi mà sắp thành mẹ, phải dàn xếp thế nào cho hợp luật pháp?
Còn thánh Giuse, con người lặng thầm nhất của Mùa Vọng, đã được đặt vào một tình huống khó xử đến độ ray rứt, nhất là trong những ngày trước lúc Đấng Cứu Thế giáng sinh như Phúc Âm hôm nay mô tả. Nhưng chính ở đây ông đã chứng minh bằng những nét đẹp kín đáo hào hùng về một tình yêu trong veo từ lâu đã dệt nên đời sống qua những lựa chọn xé lòng. Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, ông cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. Nhưng chính lúc ấy, được tỏ nguồn cơn, ông đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong veo, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).
Nhìn như thế, tình yêu trong veo đã liên kết Đức Maria và thánh Giuse, để mái nhà chung sống không chỉ là nơi che nắng trú mưa cho qua ngày đoạn tháng, mà đã trở thành một mái ấm của những tấm lòng biết mở ra cưu mang Con Thiên Chúa và sẵn sàng để sinh Người ra cho dương thế, cho dẫu tình yêu trong veo ấy trên đường cứu độ như một bản trường ca sẽ không thiếu những quãng nghịch, mà việc khó xử hôm nay trong Phúc Âm mới chỉ là những nốt nhạc mở đầu.
3) Cũng bằng tình yêu trong veo, ta đón mừng lễ Giáng Sinh.
Hiểu như trên, Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng rõ ràng là một tình yêu hai chiều trao gửi: Thiên Chúa trao thân cho con người để con người biết gửi phận mình cho Thiên Chúa. Đồng thời cũng là Chúa Nhật trong veo của những tấm lòng biết gửi trao tấm lòng trong ơn cứu độ.
Trên nền tảng ấy, tình yêu trong veo đã trở nên tinh thần phải có để đón Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày này, đi ra phố xá, đã nghe vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc; ngang qua nhà thờ, đã thấy trưng bày những bộ Noel với hang đá, cây thông, đèn sao đẹp mắt; và đi tới chỗ nào cũng thấy thấp thoáng Giáng Sinh với muôn màu lấp lánh. Nhưng có một màu được xem là không thể quên hay không bao giờ quên đối với mọi tín hữu mừng lễ Giáng Sinh, màu đó không ở trên áo quần giầy dép, môi mép tóc tai, hoa cài áo khoác, mà là ở trong tấm lòng kìa! Đó là màu trong veo của những tâm hồn trinh trong biết cưu mang ý Chúa và biết sinh hoa kết trái trong cuộc sống công minh chính trực của mình.
Nếu ngày xưa trong khúc hát quan họ Sion, câu xướng “Ai được lên Núi Chúa?” đã nhận được lời đáp “Chỉ những người thật thà ngay chính tay sạch lòng thanh mới được bước tới Thánh Cung” (Tv 23,3-4), thì hôm nay cũng thế, trong bài ca cuộc sống ai cũng nôn nao xôn xao ồn ào huyên náo tiếp cận lễ Giáng Sinh cả, kẻ tiếp thị, người tiếp tân; nhưng chỉ có những tấm lòng trinh trong mới xứng đáng trở nên Hang đá tiếp đón Chúa sinh vào. Chúa chỉ một lần đến sinh ra trên trần thế là đủ để cứu chuộc muôn người, nhưng giả như Người có đến sinh ra nhiều lần hơn nữa cũng vẫn thiếu, nếu lòng người chưa sẵn sàng một tình yêu trong veo mở ra đón nhận. Liệu ta hôm nay đã sẵn có một tâm hồn như thế trước lễ Giáng Sinh?
Hơn nữa, tình yêu trong veo cũng là tiếng nói cuối cùng của Mùa Vọng thúc đẩy ta đến với những người xung quanh. Không thể có Mùa Vọng đầy đủ nếu bỏ quên chiều kích tha nhân trong tình yêu của mình, và cũng chẳng tiếp đón Chúa cho đủ nếu từ chối tiếp nhận anh chị em gần gũi với mình trong những sinh hoạt hằng ngày.
Trong Phúc Âm, Giuse biết tiếp nhận ý Chúa “qua giấc mơ”, để rồi sau đó “tỉnh dậy” ông mau mắn đón Đức Maria nên bạn đường bạn đời của mình, cho dẫu hậu thế có kẻ điều ong tiếng ve xem ông như kẻ “vô tư”. Nhưng đó lại là bước đột phá của một tình yêu trong veo biết nhận ra rằng: Thiên Chúa đã ân cần trao thân cho mình qua mầu nhiệm Nhập Thể, thì mình cũng tín thác gửi phận mình trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Đó là hai chiều gặp gỡ của tình yêu Giáng Sinh.
Tóm lại, tình yêu trong veo là động lực khiến Chúa đến với con người và là nguồn lực thúc đẩy con người tiếp đón Chúa, để trong cuộc sống cụ thể trở thành nỗ lực của mọi tín hữu đón lễ Giáng Sinh. Trong khi còn chuẩn bị và chưa thực sự được tiếp đón Chúa, hãy bắt đầu bằng cách thực tập tiếp đón những hình ảnh sống động của Chúa là những người ta gặp hoặc những người gặp ta bằng một tình yêu trong veo luôn thăng tiến. “Nếu không gặp Ngài trong nghèo khổ, sẽ chẳng gặp Ngài giữa cao sang. Nếu không gặp Ngài ở dưới đất, sẽ chẳng gặp Ngài chốn Thiên Đàng” (thơ Xuân Ly Băng).
Đến đây, xin được khép lại những chia sẻ Mùa Vọng năm nay. Xin cám ơn Mùa Vọng đã đem đến những ý nghĩ đẹp màu. Xin cám ơn cộng đoàn đã vui lòng lắng nghe. Hy vọng những tâm tình chia sẻ cũng cung cấp chút ý tưởng giúp mỗi người hình thành được Máng Cỏ tâm hồn. Và cám ơn đứa cháu nhỏ đã tình cờ viết lộn chữ Mùa Vọng thành chữ “Màu Vọng” để có được bốn sắc màu chia sẻ nơi đây. Qua xanh đến tím gặp hồng, dìu ta đón Chúa với lòng trong veo.
38. Giuse im lặng
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về bài học thinh lặng và đợi chờ trong đức tin của thánh Giuse.
Thông thường khi bản thân hay gia đình gặp phải những tai ương hoạn nạn, bị người khác hiểu lầm và chà đạp lên danh dự, chúng ta có khuynh hướng trả đũa, bằng cách bêu xấu đối phương và phân trần với người khác về nỗi bực tức của mình. Thậm chí, chúng ta còn tức giận và tìm đủ mọi cách thức để phản pháo theo kiểu mắt đền mắt, răng đền răng.
Thế nhưng, những người tin Chúa thì phản ứng một cách khác. Thay vì rêu rao phân trần với những người chung quanh, họ sẽ thưa lên với Chúa, tha thiết xin Chúa giải oan cho mình khỏi những chước mốc thiên hạ. Khi chúng ta kêu lên với Chúa, chúng ta hãy ghi nhớ một điều mà chúng ta thường hay quên đó là sự thinh lặng.
Phải, thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện rất hữu hiệu. Kinh thánh nói rằng:
- Khi cõi lòng chất nặng nỗi ưu tư, khi ngôn ngữ không nói lên được nỗi sầu buồn của mình, thì chính Chúa Thánh Thần sẽ lấy những điều đang đè nặng tâm hồn chúng ta mà trình lên cùng Chúa Cha, cầu khấn thay cho chúng ta.
Bởi đó sự thinh lặng là điều rất cần thiết. Đúng thế, trước hết sự thinh lặng sẽ giúp chúng ta bình tĩnh lại để có thể lắng nghe được tiếng nói của Chúa và giúp chúng ta tập trung niềm tin tưởng vào Ngài.
Thứ đến, sự thinh lặng sẽ làm rung động Chúa Thánh Thần, khiến Ngài sẽ cầu nguyện thay cho chúng ta. Liệu có lời cầu nguyện nào linh ứng hơn lời van xin của Chúa Thánh Thần? Ngài hiểu rõ ý muốn của Chúa Cha và biết rõ nhu cầu của chúng ta.
Thánh vịnh 37 đã khuyên chúng ta:
- Hãy thinh lặng và đợi chờ, chớ buồn lòng.
Vậy những lý do ấy đã đủ làm cho chúng ta thinh lặng và đợi chờ hay chưa? Nhiều khi chúng ta thêm buồn vì thấy kẻ làm khổ chúng ta lại được nhiều may mắn.
Dưới con mắt trần gian, một người dù làm điều xấu mà vẫn thu hoạch được những kết quả tốt đẹp thì đó là thành công. Nhưng dưới con mắt đức tin, thì đó không phải là thành công thật. Thành công hay không là tùy vào kết quả sau này. Khi kẻ làm điều xấu mà được may mắn thì nên biết rằng Thiên Chúa muốn tỏ lòng tốt đối với họ, trước khi trừng phạt họ một cách xứng đáng.
Trên đời này không thiếu gì những trường hợp ác giả ác báo nhãn tiền. Thiên bất dung gian. Trời xanh con mắt là gương, người ghét nó ít, người thương nó nhiều.
Nhưng cũng có những trường hợp Thiên Chúa chưa làm ngay mà lại để dành đời sau hay dòng dõi của kẻ ác. Dù sao những hình phạt chúng ta nghe được vẫn là nhẹ lắm, nếu đem so với án phạt của ngày phán xét. Thiên Chúa có luật công bình và thánh thiện của Ngài. Ngài không bao giờ quên người công chính bị oan khiên. Hãy xác tín Ngài luôn can thiệp thật đúng lúc. Hãy ghi nhớ trường hợp của thánh Giuse hôm nay để thấy được bàn tay Thiên Chúa quan phòng luôn sẵn sàng thi ơn giáng phúc.
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải biết yên lặng chờ đợi và trao phó mọi khó khăn oan trái cho Ngài phân xử, chứ đừng nóng lòng khi thấy kẻ dữ được sống thảnh thơi. Nhưng vấn đề là chung cuộc ai mới là người chiến thắng thật sự. Hãy can đảm yên lặng và chờ đợi ý Chúa và thời giờ của Chúa. Ý Chúa thì cao vời và Ngài có một chương trình tốt đẹp.
Tin rằng khi Thiên Chúa giải quyết thì sẽ không trí óc nào suy tưởng nổi. Cho nên nếu giờ đây gia đình chúng ta còn đang hoạn nạn hoặc người ngoài làm nhục thì bí quyết để thành công, đó là yên lặng trong đức tin, hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa. Đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta sống vui, sống mạnh giữa những đổ vỡ của đời mình.
Lạy thánh Giuse, là gương sự nhịn nhục, xin giúp đỡ chúng con.
39. Mộng báo
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng: có một cô gái hàng ngày cầu nguyện đã nhiều năm qua, xin thánh Giuse tìm cho được tấm chồng tốt, nhưng chẳng kết quả gì. Cô bắt đầu cảm thấy thất vọng.
Một sáng Chúa nhật, sau khi đi lễ về, cô quì trước tượng thánh Giuse nài xin ngài ban cho điều cô khấn nguyện. Nhưng mười phút sau cô bỗng phát cáu vì thánh nhân không chịu đáp lời. Cô liền cầm tượng thánh Giuse ném ra ngoài cửa sổ. Tượng rơi trúng đầu anh thanh niên vừa đi ngang qua đó làm cho anh bị thương. Anh vội chạy đến gõ cửa xin cô giúp đỡ.
Cô gái rất ân hận thành thật xin lỗi anh và ao ước được chăm sóc vết thương cho anh. Họ trở nên đôi bạn thân thiết và sáu tháng sau đám cưới được tổ chức rất trọng thể.
Qua câu chuyện vui hi hữu trên đây, thánh Giuse đã giải quyết khá là ngoạn mục cho đôi tân hôn tưởng như không may lại hóa ra may mắn. Còn hôm nay, chuyện trăm năm của Ngài với Đức Mẹ phải tính sao đây? Thánh Kinh viết: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18). Đính hôn là thời kỳ hạnh phúc nhất, là lúc đôi bạn yêu nhau dệt nên bao giấc mộng vàng. Thế mà, giờ đây giấc mơ ấy, bỗng tan thành mây khói. Maria thục nữ 15 tuổi, đạo hạnh, kiều diễm lại có thai trước khi về nhà chồng. Thật là bối rối, khó xử.
Để rồi cuối cùng, Giuse cũng phải đi tới một quyết định “Đào vi thượng sách”: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Bỏ mặc cho số phận một người vợ đang mang thai mà Thánh Kinh gọi là “người công chính” được sao? Có lẽ Đức Maria, hay nói đúng hơn là bà thánh Anna mẹ của Đức Maria đã tiết lộ nguồn gốc của thai nhi, chính là bởi tác động của Chúa Thánh Thần. Biết được ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa nơi Đức Maria nên Giuse rất mực tôn trọng chương trình của Người. Vì thế, ông đã quyết định âm thầm rút lui, không dám nhận “quyền làm cha” đứa trẻ. Giuse quả thật là “người công chính”.
Nhưng chính lúc Giuse khước từ “Đứa con theo xác thịt” thì ông lại nhận được “đứa con của lời hứa”. Cũng như tổ phụ Abraham hy sinh Isaac con trai mình, thì ông xem đứa con ấy như “của lễ” dâng cho Thiên Chúa. Chính vì dòng dõi vua Đavid mà Thiên Chúa đã muốn Giuse đổi ý để “đón Maria vợ ông về”, và “đặt tên cho con trẻ là Giêsu”. Theo ngôn ngữ Sêmit trong Kinh Thánh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” cho đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con vua Đavid, để hoàn tất mọi lời hứa của Thiên Chúa”. Kết thúc Tin Mừng hôm nay, Matthêu viết: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Khép lại những giấc mơ của Giuse, là mở ra một thế giới tình yêu mới. Dù biết tình yêu rồi cũng không thoát khỏi những gian nan vất vả.
Như Maria, Giuse cũng phải mò mẫn trong đêm tối của đức tin, đến miền ánh sáng của thiên ý. Và khi nhận ra chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, mặc dù chưa hiểu hết sự việc, các ngài vẫn mau mắn đáp lời xin vâng, với trọn niềm kính tin và phó thác. Các ngài nhìn tất cả chỗ nào cũng là hồng ân.
Thật đáng mừng là trong thế giới thực dụng và hưởng thụ của chúng ta ngày nay, vẫn còn hàng trăm ngàn các bạn trẻ nam nữ, tuổi 16 – 30 từ Mỹ và Pháp tình nguyện gia nhập hội Ava với bản hợp đồng “không sinh hoạt tình dục trước ngày cưới”. Đó là một lối sống mới tích cực trong hiểm họa AIDS hiện nay.
Sau khi “cam kết”, các thành viên Ava sẽ đến các trường học, các nơi công cộng… để nói với các thanh niên khác về hậu quả tai hại từ việc quan hệ tình dục bừa bãi, tuyên truyền chống lại loại phim ảnh khiêu dâm, bạo lực và cả những nhóm nhạc có phong cách quá khích.
40. Đức Trinh Nữ Maria
Một khuôn mặt nổi bật trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, đó là khuôn mặt của Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta có thể nói được rằng Mẹ là người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa. Tại sao thế? Vì tâm hồn Mẹ vô cùng trong trắng, không vướng mắc tội lỗi, đã trở thành chiếc nôi hồng ấm áp và tuyệt vời nhất cho Chúa ngự trị. Từ đó, chúng ta đi tới một kết luận: tội lỗi chính là chướng ngại vật ngăn cản không cho Chúa đến với chúng ta, cũng như không chúng chúng ta đến cùng Chúa.
Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, còn tội lỗi thì xấu xa, nên không thể đội trời chung với nhau, trái lại luôn đối kháng nhau như trắng với đen, như lửa với nước, như ánh sáng với đêm tối. Giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa là cả một vực thẳm ngàn trùng ngăn cách, không thể có được một nhịp cầu cảm thông. Nơi nào có Thiên Chúa ngự trị, thì nơi đó phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi. Trái lại, nơi nào tội lỗi ngập tràn, thì chắc chắn sẽ không có được sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính vì thế, tâm hồn tội lỗi sẽ không thể nào đón nhận Chúa mỗi khi Ngài viếng thăm, bởi vì Ngài luôn ghét bỏ tội lỗi, dù rất mực yêu thương các tội nhân.
Thực vậy, tội lỗi là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, người cha toàn năng và giàu lòng nhân ái. Từng giây và từng phút, chúng ta đã nhận được biết bao ơn lành của Ngài. Chẳng hạn nếu không có khí trời, thì chỉ trong dăm ba phút, chúng ta sẽ không thể nào sống được. Nếu không có cơm ăn và nước uống, thì chỉ trong dăm ba ngày, chúng ta cũng sẽ không thể nào tồn tại. Vì thế, tội lỗi chính là một sự vô ơn bạc nghĩa đối với Chúa. Khi phạm tội, chúng ta giống như chàng trai phung phá trong Phúc Âm, đã bỏ mặc ngoài tai những lời khuyên nhủ, những lời van xin của người cha.
Hơn thế nữa, tội lỗi còn là một sự phản bội lại tình thương của Chúa. Vì khi phạm tội, chúng ta đã dùng những ân huệ Ngài ban để chống lại Ngài. Chẳng hạn Chúa ban cho chúng ta cặp mắt là để chúng ta chiêm ngưỡng những kỳ công của Ngài mà lên tiếng ca tụng, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để nhìn vào những sự xấu xa, khả dĩ làm cho tâm hồn bị hoen ố.
Chúa ban cho chúng ta đôi bàn tay là để chúng ta lao động sản xuất, kiếm tìm chén cơm manh áo cũng như cộng tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để đánh đập người khác và thực hiện những hành động gian tham trộm cắp.
Chúa ban cho chúng ta một trái tim là để chúng ta kính mến Ngài và yêu thương anh em, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để chất chứa những hận thù ghen ghét.
Cũng vậy, chính vì tội lỗi chúng ta mà Chúa đã phải sinh ra nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem và đã phải chết một cách tủi nhục trên thập giá Canvê. Bởi đó, mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta hò hét như dân Do Thái ngày xưa:
- Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.
Mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta giết Chúa, là một lần chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá. Đồng thời, mỗi tội chúng ta phạm là một lằn roi, là một gai nhọn, là một khạc nhổ chúng ta đổ xuống trên thân xác Chúa. Như thế, sống trong tội lỗi là chúng ta đã làm cho những khổ đau Chúa phải chịu và những giọt máu Chúa đã chảy ra trở nên vô ích.
Có một tên sát nhân âm mưu giết hại hoàng tử. Rất may hoàng tử chỉ bị thương nặng và được cứu sống. Hoàng tử đã xin vua cha tha tội chết cho tên sát nhân. Cảm động trước tấm lòng khoan dung ấy,, vua cha đã dẫn tên sát nhân tới gặp hoàng tử và hỏi hắn:
- Ngươi sẽ làm gì để đền đáp tấm lòng khoan dung tha thứ của hoàng tử?
Tên sát nhân không ngần ngại trả lời:
- Tôi sẽ tìm cách để giết chết hoàng tử một lần nữa.
Đức Kitô đã xuống thế và đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta cũng nói như tên sát nhân:
- Tôi sẽ tìm cách để giết chết Ngài một lần nữa.
Sau cùng, tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ bẩn, không còn xứng đáng làm nơi cho Chúa cư ngụ. Trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục xức dầu dự tòng cho chúng ta và nói:
- Hời thần ô uế, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.
Thế nhưng, khi phạm tội, chúng ta nói ngược lại với những lời ấy:
- Hỡi Thiên Chúa, hãy ra khỏi tâm hồn tôi, để nhường chỗ cho ma quỉ và tội lỗi ngự trị.
Tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang trộm cướp, nếu Chúa có ghé thăm, chắc chắn Ngài sẽ phải nổi nóng, rút dây lưng mà xua đuổi, như ngày xưa Ngài đã từng xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem.
Vì thế, để đón mừng Chúa, để tìm gặp Chúa, cũng như để được Chúa ngự trị, điều kiện đầu tiên chúng ta phải có đó là một tâm hồn trong sạch. Muốn được như vậy, chúng ta phải ra sức chống trả những cám dỗ, xa tránh những dịp tội, là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta vấp ngã. Vì lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, chơi dao có ngày đứt tay. Sống trong dịp tội mà không vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng.
Có khử trừ tội lỗi, thì tâm hồn chúng ta mới sẽ trở nên một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự đến.
41. Công chính
Sách Điển Ngữ thần học Thánh Kinh xác định: “Theo trào lưu tư tưởng đầu tiên qua suốt toàn bộ Thánh Kinh, thì công chính là nhân đức luân lý mà chúng ta biết, được nới rộng để chỉ sự tuân giữ hoàn toàn các giới răn Thiên Chúa, nhưng đồng thời lại luôn được coi như một phẩm tính để đáng được công nghiệp trước mặt Thiên Chúa”.
Khi Matthêu gọi Giuse “là người công chính”, không chỉ vì Giuse tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhưng còn vì trái tim của Giuse tràn ngập lòng nhân từ, quảng đại và thương yêu đối với Maria: “không muốn tố giác bà”. Thánh Kinh gọi Giuse là người công chính, vì Giuse thánh thiện và vô tội nữa. Khi viên đại đội trưởng chứng kiến Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, đã nói: “Người này quả thật là công chính”. Công chính còn có nghĩa là thánh thiện và vô tội, Giuse đã có lòng kính sợ và thi hành thánh ý Thiên Chúa qua mọi hình thức mạc khải, dù là giấc mơ: “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”. Vì thế Giuse đã được chọn để đặt tên cho Đức Giêsu, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi”. Một người có tội không thể nào đặt tên cho Đấng Cứu Thế được!
Quả vậy, bản tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong Phúc âm của thánh Matthêu đã tập trung vào vai trò của thánh Giuse hơn là của Đức Maria. Bởi Phúc âm của thánh Matthêu được viết cho những người Kitô hữu gốc Do Thái, Matthêu muốn chứng tỏ cho họ thấy rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã đến qua dòng dõi vua Đavid. Đấng đã được hứa ban và loan báo bởi các tiên tri trong Thánh Kinh. Giuse thuộc dòng dõi vua Đavid. Chính Giuse đã đặt tên cho con trẻ, đã dâng hiến cuộc đời mình và làm tất cả mọi sự cho con trẻ. Con trẻ là Con Thiên Chúa và con Đức Maria, nhưng qua việc đặt tên của Giuse, con vua Đavid.
Mỗi vị thánh đều có một ơn đặc sủng và một nét độc đáo. Đặc sủng ấy, nét độc đáo ấy nơi thánh Giuse là sự công chính.
42. Tĩnh tâm cùng sống niềm hy vọng
“Lạy Chúa, con đã để cho mình bị lừa dối; bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa, ..."
“Lạy Chúa,
con đã để cho mình bị lừa dối;
bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa,
nhưng con đang ở đây một lần nữa
để lập lại giao ước của con với Chúa.
Con cần Chúa.
Xin Chúa chuộc con lại một lần nữa.
Lạy Chúa,
xin một lần nữa đón nhận con
trong vòng tay cứu độ của Chúa”
(Trích từ Niềm vui Tin Mừng số 03).
BẢY BƯỚC CẦU NGUYỆN
(15 phút mỗi buổi sáng, và 15 phút trước khi nghỉ đêm).
Buổi sáng
1. Mở đầu với Kinh Sáng Soi: Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.
2. Thinh lặng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần.
3. Đọc chậm rãi lời của Đức Thánh Cha và lời gợi ý.
4. Thinh lặng suy niệm và rút ra một lời một ý tưởng để sống trong ngày. Tâm sự với Chúa để kết thúc phần suy niệm buổi sáng.
Buổi tối.
1. Cuối ngày trước khi đi ngủ dành 10 phút để nhìn lại: Bài cầu nguyện hôm nay đã đi với tôi và đã giúp tôi như thế nào? Tôi có khó khăn gì trong cầu nguyện? Có thể tôi chưa thấy bài cầu nguyện giúp tôi trong ngày sống. Nếu vậy thì tại sao? Tôi có chú tâm và ý thức đủ để “dành một chỗ” cho bài cầu nguyện ở trong lòng tôi và trong ngày sống của tôi chưa?
2. Viết lại một vài hàng (tối đa nửa trang A4) về hoa quả mà tôi nhận được trong ngày sống cầu nguyện hôm nay.
3. Cám Ơn Chúa về những hồng ân trong ngày, và xin Chúa thứ lỗi về những yếu đuối. Xin Chúa ban thêm sức mạnh và bình an để nghỉ đêm và bắt đầu ngày sống mới.
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng năm A
Lời của Đức Thánh Cha Phanxico:
Lúc khởi đầu Mẹ Maria chưa biết con đường của Mẹ sẽ dẫn tới đâu, và Mẹ sẽ phải chịu những đau khổ nào, cũng như những nguy hiểm gì mà Mẹ sẽ đối diện. Nhưng Mẹ luôn ý thức rằng, chính Thiên Chúa là người nhìn đến Mẹ, và Mẹ thật sự tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Mẹ hiện diện hoàn toàn trong tình yêu của Thiên Chúa.
Mẹ Maria thực sự có một niềm tin mạnh mẽ. Mẹ dạy dỗ chúng ta biết nhận ra khoảnh khắc mà Chúa Giêsu đến trong lòng của chúng ta và Ngài xin chúng ta một câu trả lời thành tâm và quảng đại.
Lời gợi ý:
- Theo tâm tình của Đức Thánh Cha, Mẹ Maria bước đi trên con đường theo Chúa với niềm tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Nhìn lại bản thân, bạn thấy niềm tin của bạn mạnh mẽ như thế nào? Trong những sự kiện hay biến cố tế nhị trong cuộc đời, bạn đã tin tưởng và phó thác cho Chúa ra sao?
- “Mẹ dạy dỗ chúng ta biết nhận ra khoảnh khắc mà Chúa Giêsu đến trong lòng của chúng ta và Ngài xin chúng ta một câu trả lời thành tâm và quảng đại”. Đọc đi đọc lại lời này, suy xét xem bạn nên trả lời Chúa Giêsu như thế nào, khi Ngài nhẹ nhàng đi vào cuộc đời và tâm hồn bạn?
- “Alleluia, alleluia! – Này đây trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Người là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta. – Alleluia”. Bạn hãy để lời ca ngợi – Alleluia này đi với bạn trong ngày sống. Lâu lâu bạn dừng bước và nhủ thầm với chính bạn rằng: “Thiên Chúa ở cùng tôi – Emmanuel”.
Bài tập trong tuần (05 phút): ĐỂ TÂM LẮNG NGHE.
Ngồi lại trong thinh lặng. Chú ý đến hơi thở của bạn cách đều đặn. Từ từ bạn hãy chú ý lắng nghe. Trước hết bạn hãy để những âm thanh gần nhất đến với bạn. Hãy nghe những âm thanh đó, đừng vội xác định chúng là âm thành gì. Sau đó, lắng nghe các âm thanh xa hơn. Cuối cùng bạn để tất cả mọi âm thanh xung quạnh bạn được phép “nhảy múa” cách sống động trong đôi tai và trái tim của bạn. Mỗi ngày bạn có thể đổi một nơi chốn khác để tập bài này.
(dongten.net)
43. Phúc thay Chúa ở cùng
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Ngôi nhà thờ đương đầu rất giỏi và gió chỉ làm bung một mảng tường nhỏ mới vá sau bàn thờ chính. Bất tiện quá! Lễ Giáng Sinh gần kề làm sao bít kịp cái lỗ hổng đó? Không khéo nó lại lôi cuốn sự chú ý của người dự lễ hơn là cái hang đá. Cha xứ nảy ra sáng kiến đi ra cửa hàng tạp hóa của một hội đoàn giới trẻ. Người bán hàng đưa ra một bức thảm dệt tay kim tuyến, lấp lánh chen với ngà, chung quanh viền ren Bỉ. Chiếc thảm này trước kia được phủ trên một cái bàn trong cung điện cao sang, nhưng ở cái xó vùng sâu xa này, có ai thưởng thức được cái nghệ thuật quí giá đó? Vì thế giá rẻ mạt. Ừ, sao lại không mua bức thảm này che vào cái lổ hổng đó? Ngài mua liền.
Ý kiến thế mà hay: Bức thảm làm nhà thờ nổi bật lên! Sáng sớm ngày áp lễ, cha xứ đến nhà thờ, ở chỗ chờ xe bus, ngài gặp một bà đang đứng đợi xe trong gió lạnh, ngài bảo:
- Bà vào nhà thờ ngồi cho đỡ lạnh, còn 45 phút nữa xe mới qua đây.
Bà ta vào nhà thờ quì gối đọc kinh, mắt bà bỗng mở to ra, bà chạy lên gần ngắm nhìn, sờ sờ tấm thảm và thốt lên:
- Thưa cha, bức thảm này đúng là của chúng con. Chồng con mua nó ở thủ đô nước Bỉ. Cha coi, đây chính là ký hiệu của chúng con.
Bà kể cho cha nghe tấm thảm kịch của gia đình. Vợ chồng bà sống tại nước Áo, khi quốc xã Đức tràn tới, họ bỏ chạy. Họ định trốn sang Thụy Sỹ, là phụ nữ, bà quá cảnh dễ dàng, còn chồng bà bị bắt lại, bà cho rằng ông đã chết trong trại tập trung rồi. Cha xứ ngỏ ý muốn trao lại tấm thảm nhưng bà từ chối:
- Thưa cha bức thảm để ở đây tốt hơn trong túp lều của con. Con vui lòng chịu đựng cảnh khốn quẫn. Con đi xin việc coi sóc nhà cửa, nhưng người ta từ chối vì lý do con đã già!
Thánh lễ đêm Giáng Sinh, mọi người dự lễ đều ngắm nhìn gian cung thánh được trang trí lộng lẫy, những ánh nến càng tôn vẻ lấp lánh của bức thảm. Lễ xong một ông đến xin gặp cha xứ, ông là chủ một hiệu kim hoàn. Ông nói:
- Thưa cha, thực là lạ quá! Bức thảm này đúng là của chúng con trước kia. Khi chúng con sống ở Viên, thủ đô Áo Quốc, cứ mỗi lần mời Đức Cha đến dùng bữa, nhà con lại đem tấm thảm này ra trải bàn. Cha xứ kể lại cho ông sự việc xảy ra sáng nay. Ông hồi hộp xin cha:
- Cha có thể tả cho con vóc dáng của bà ấy được không? Có lẽ nào lại chính là nàng? Không lẽ nàng còn sống?
Ông xin cha hướng dẫn để theo dõi vết tích người đàn bà nghèo khổ đó. Quả đúng là bà vợ của ông ta. Chiều ngày lễ Giáng Sinh hai vợ chồng được đoàn tụ sau bao năm dài xa cách. Một phép lạ của Tình Yêu Con Thiên Chúa. (Internet)
Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đem đến nhân loại tình yêu, giao hoà và bình an sáng ngời trong đêm đen chia rẽ, hãi hùng, hận thù. Tin Mừng Chúa nhật 4 Mùa Vọng hôm nay trình thuật sứ thần truyền tin cho Giuse rằng, Mẹ Maria đã thụ thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, như ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 8 thế kỷ:"Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."(Is 7, 14)
Tình yêu
“Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 16) Thánh Giuse từng phân vân, lúng túng, nghĩ ngợi, trước sự kiện Mẹ Maria mang thai, đã kiên quyết vượt lên chính mình, khi nghe sứ thần báo mộng. Một cách diễn tả sự bén nhạy thấu hiểu Thánh Ý Chúa qua các dấu chỉ. Đấng Emmanuel đã ban tràn đầy cho Giuse tình yêu dâng hiến, lòng khoan dung và hy sinh, để ngài sẵn sàng chấp nhận sứ vụ cao cả, làm cha nuôi nhiều chông gai, đau khổ.
Chỉ có Tình Yêu thật sự mới có thể mạnh mẽ hậu thuẫn cho Giuse quyết định, dấn thân phục vụ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ có Tình Yêu mới có thể hoá giải Luật lệ, cũng như xung đột ý riêng với Thánh Ý, để Giuse hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa và kiên trì hoàn hành. Chỉ có Tình Yêu mới giúp Giuse thấu hiểu kỳ công của Thiên Chúa, cũng như dẫn dắt đến niềm tin vững mạnh.
Giao hoà
“Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” Qua lời sứ thần truyền tin, Đấng Emmanuel đến xua tan nghi ngờ, xoá sạch ngộ nhận, kết hiệp thánh cả Giuse với Mẹ Maria, trở thành Thánh Gia Thất ấm áp, yên vui, hạnh phúc, gương mẫu, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.” (Is 11, 1)
Trời đất giao hoà. Đấng Emmanuel nhập thể, bày tỏ Tình Yêu vĩ đại, gánh lấy tội lỗi nhân loại, san phẳng, lấp hố sâu tội lỗi ngăn cách, hầu giao hoà Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau, vốn thường mâu thuẫn, mê muội, đắm chìm trong bùn nhơ dục vọng. Người tìm kiếm từng con chiên lạc trở về với đàn.
Bình an
“Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình.” Đấng Emmanuel an ủi, khích lệ Giuse an tâm, vâng theo Thánh Ý, tích cực dấn thân, cộng tác và phục vụ công trình cứu độ, cũng như làm rạng danh Thiên Chúa Tình Yêu.
Liên tiếp bốn lần, sứ thần đều trấn an mọi người “đừng sợ.” Với Thầy Tư Tế: “Giacaria, đừng sợ! Vì Thiên Chúa đã nhậm lời ông cầu xin.” (Lc 1, 13) Với Mẹ: “Maria, đừng sợ! Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” (Lc 1, 30). Với mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại.” (Lc 2, 10) Và hôm nay với Giuse: "Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng sợ nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” (Mt 1, 20)
Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đã giao hoà trời đất, và con người, đem bình an đến nhân loại, như thiên thần hân hoan đàn hát vang lừng bên hang đá Bê lem: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2, 14) Còn niềm vui nào cao sang, tuyệt vời, vĩ đại, hơn mầu nhiệm Đấng Chúa Ở Cùng giáng trần.
“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Chúa là Cha, ở bên con, với tất cả quyền năng và tình yêu. Cha năn nỉ, Cha khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương.” (Đường Hy Vọng, số 234)
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Chúa Ở Cùng, xin giải thoát chúng con khỏi chốn ngục tù tăm tối tội lỗi, khỏi cám dỗ thế gian phù vân, để chúng con được sống trong Tình Yêu viên mãn, hiệp nhất và bình an.
Kính xin Mẹ dẫn dắt chúng con theo Mẹ, cầu bầu chúng con năng ăn năn, sám hối, đổi mới, trở về Gia Đình Thánh, tràn đầy hạnh phúc cùng Chúa, với Chúa và trong Chúa. Amen.
44. Tiếng gọi tình yêu
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Câu chuyện kỳ lạ của sĩ quan Onoda tại các rừng rậm Philippines bắt đầu ngày 17.12.1944, khi mà chỉ huy của anh ta là thiếu tá Taniguchi, hạ lệnh cho người thuộc cấp 22 tuổi Onoda, cùng một số chiến binh khác, tiến hành chiến tranh du kích chống lại quân Mỹ tại Lubang. Taniguchi nói: “Chúng ta chỉ tạm thời rút lui. Các anh hãy vào rừng, làm lều, chuẩn bị kho vũ khí… Tôi cấm các anh tự tử hoặc đầu hàng. Có thể phải ẩn náu 3 năm, 4 năm hay 5 năm, nhưng tôi sẽ quay lại với các anh. Lệnh này chỉ có tôi mới được quyền thay đổi”.
Năm này nối tiếp năm khác. Onoda chiến đấu trong rừng rậm. Onoda lấy nước suối đun sôi để dùng, ăn hoa qủa và trong suốt ngần ấy năm trời chiến binh“Samurai cuối cùng” chỉ một lần duy nhất bị viêm họng. Ngay cả sau này, có những lúc Onoda hoang mang khi nghĩ rằng quân đội Nhật đã bỏ rơi họ, thì anh ta cũng không có ý định đầu hàng. Có một lần Onoda định tự tử, nhưng ngay lập tức từ bỏ ý nghĩ này vì thiếu tá Taniguchi đã ra lệnh không được làm như thế.
Vào tháng 10.1972, Onoda và người đồng đội đặt trái mìn cuối cùng trên đường gần làng Imora để phục kích quân Philippines. Trái mìn không nổ, nên họ giao tranh với quân Philippines. Người bạn bị bắn chết, còn Onoda thì bỏ chạy vào rừng sâu. Cái chết của một lính Nhật sau 27 năm khi nước này đầu hàng, đã gây chấn động cả xứ sở Phù Tang. Gần 30 năm các đội biệt động thiện chiến không phát hiện ra Hiro Onoda. Thế nhưng cuối cùng một khách du lịch Nhật tên là Suzuki, khi đi sưu tập bướm trong rừng, đã tình cờ “đụng” Onoda. Người này khẳng định với “samurai cuối cùng” là nước Nhật đã đầu hàng, chiến tranh đã kết thúc từ lâu. Onoda ngẫm nghĩ, trả lời: “Tôi không tin. Thiếu tá Taniguchi chưa thay đổi mệnh lệnh thì tôi vẫn tiếp tục chiến đấu”.
Quay trở về Nhật Bản, Suzuki tìm mọi cách để tìm thiếu tá Taniguchi, và rất khó khăn mới tìm được ông ta. Người lãnh đạo của “Samurai cuối cùng” thay tên đổi họ và trở thành nhà kinh doanh điện ảnh. Họ cùng nhau đến khu rừng Lubang, tìm đến nơi Onoda ẩn náu. Khi ấy Taniguchi mặc quân phục và ra mệnh lệnh Onoda phải ra đầu hàng. “Samurai cuối cùng” vác súng trường trên vai và đến đồn cảnh sát đầu hàng vào buổi sáng ngày 10.3.1974.
Tương tự như chuyện Onanda, Samurai cuối cùng, trung kiên, một lòng một dạ, chấp hành duy nhất mệnh lệnh của thiếu tá Taniguchi mà thôi, trích thuật Tin Mừng hôm nay giới thiệu Thánh Giuse, vị cha nuôi đáng kính của Đức Giêsu. Ngài đã toàn tâm vâng phục Thánh Ý Chúa chấp nhận vai trò nghĩa phụ của Chúa Cứu Thế, vâng theo Tiếng Gọi Tình Yêu.
Tiếng gọi
Thánh Giuse thật thầm lặng trong Tin Mừng, cũng như sống trong đời thực. Ngài thật hào hiệp, khoan dung quảng đại, và vô cùng khiêm nhường. Hơn nữa, Thánh sử Mat thêu còn vinh danh ngài “là người công chính.” Ngàiđã thực sự tỏ ra bối rối trước việc Đức Mẹ thụ thai. Nhưng vì chân thật tin yêu Mẹ Maria, rất đoan trang và đạo hạnh, ngài không mảy may nghi ngờ, chẳng phản ứng bộp chộp, nông cạn, cũng không một lời than thở, trách móc. Ngài chọn phương án thầm kín bỏ đi, để êm thắm cho cả hai.
Nhưng sứ thần Thiên Chúa đã đến báo cho ngài trong giấc ngủ: “Này ông Giuse, con cháu Đa vít, đừng ngại đón bà Maria, vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”(Mt 1, 20-21)
Thánh nhân dạt dào lòng tin, cậy, mến, đã nhận được Thánh Ý Chúa tỏ tường, chính xác, minh bạch. Bây giờ, tôi cũng mong được sứ thần trực tiếp loan báo sứ vụ, nhưng tôi lại chểnh mảng, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và tha nhân, lại kiêu căng, tự cao tự đại, nhất là non kém, thờ ơ, thiếu sót các nhân đức. Thì làm sao tôi lắng nghe được tiếng Chúa, hiểu được Thánh ý Chúa? May mắn thay, ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã khẳng định:“Bổn phận là ý Chúa trong giây phút hiện tại.” (Đường Hy Vọng, số 17)
Xin Vâng
“Khi tỉnh giấc, ông Giuse đã làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.” (Mt 1, 24) Lắng nghe được Lời Chúa phán bảo, Thánh Giuse liền vui vẻ “Xin Vâng”, quyết tâm thực hành Thánh Ý, tương tự như Mẹ Maria, ngay sau khi được sứ thần truyền tin. Không chần chừ, chậm trễ, suy tính, cân nhắc hơn thiệt, ngài dấn thân ngay vào sứ vụ nghĩa phụ của Đấng Cứu Thế.
Chẳng ngần ngại vất vả, gian khó, ngài hồi hương cùng Mẹ Maria từ Nazaret về Bêlem, sinh hạ Hài Nhi Giêsu trong cảnh bần cùng. Cấp tốc đem Hài Nhi và Mẹ Maria chạy trốn, lánh nạn sang Ai Cập, khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê. Rồi lại khăn gói quả mướp tái định cư về Nazaret, khi nhà vua đã băng hà. Ngài luôn lắng nghe và vâng theo hướng dẫn của sứ thần đường đi nẻo bước, để tận tụy, nâng niu chăm sóc và bảo vệ Thánh Gia.
Ngoài bổn phận hằng ngày, tôi còn nhận được bao dấu chỉ Thánh Ý Chúa qua sự kiện, tin tức, xã hội, nhất là qua Lời Chúa. Nhưng tôi lại hay bịt tai, nhắm mắt, đóng kín cả tâm hồn, hoặc u mê, mải miết bươn chải mưu sinh, hay hưởng lạc bê tha, làm sao tôi nghe thấy, nhìn thấy, tìm và hiểu được Thánh Ý Chúa trong cuộc sống?
Hơn nữa, tôi có can đảm “Xin Vâng,“ hay lặng lẽ, âm thầm từ chối sứ vụ khó khăn, vất vả, cay cực, đau khổ như Thánh Gia đã trung kiên đón nhận.
“Vâng lời trọng hơn của lễ,” vì của lễ là hoa quả, hương trầm, súc vật, tiền bạc,…Khi vâng lời, con lấy chính mình con làm của lễ, giết chết ý riêng con, tự ái của con làm của lễ toàn thiêu. (Đường Hy Vọng, số 406)
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con Niềm Tin vững vàng, dạy chúng con cầu nguyện sốt sắng, luôn sống mật thiết với Chúa, để có thể lắng nghe tiếng gọi tình yêu của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin luôn giúp đỡ, nhắc nhủ, khuyến khích chúng con thưa lời “Xin Vâng” trước tất cả biến cố Chúa gửi đến trong đời, để lãnh nhận hồng phước ngay đời này lẫn đời sau. Amen.
45. Ý Chúa
Tiên tri Isaia, thánh Gioan tẩy giả, Mẹ Maria và thánh Giuse là những người có một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng nếu ông Isaia là vị tiên tri hùng hồn nhất của mùa vọng, nếu ông Gioan là vị tiền hô anh dũng nhất của mùa vọng, nếu Đức Maria là một thiếu nữ có lòng tin vững chắc và mạo hiểm nhất của mùa vọng thì thánh Giuse lại là một thanh niên thầm lặng nhất của mùa vọng. Người bạn gái của thánh Giuse đã quả cảm thưa lên lời Xin Vâng khi nhận ra thánh ý của Thiên Chúa. Thánh Giuse, dù không thưa lời nào, nhưng đã thi hành triệt để và tức khắc những điều Chúa truyền, dù những lệnh truyền ấy chỉ được ban trong giấc mơ, dù những lệnh truyền ấy trái ngược với những tính toán của người. Người đã cúi đầu vâng phục, không một lời căn vặn, không thắc mắc, không đặt điều kiện. Người hoàn toàn chấp nhận ý Chúa, chấp nhận cả những hệ lụy đắng cay mà ý Chúa đem lại.
. Người chấp nhận đón cô bạn Maria về nhà làm bạn mình, dù người đang định tâm lìa bỏ cô bạn ấy một cách kín đáo.
. Người đã chấp nhận rời bỏ quê hương ra đi lánh nạn để bảo vệ Hài nhi con của cô bạn Maria.
. Rồi cũng vì Hài nhi ấy, người lại lặn lội đường xa vạn dặm để đưa cô bạn và Hài nhi trở về quê hương…
Biết bao là nhọc nhằn. Biết bao nhiêu truân chuyên mà anh gia trưởng trẻ này phải chịu đựng để thánh ý Chúa được nên tròn và để kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện như lời Tin mừng đã viết :”Tất cả những sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ”.
Thiên Chúa vẫn luôn bày tỏ thánh ý Người qua những biến cố trong đời sống của chúng ta. Và thánh ý đó nhiều khi cũng phá vỡ những dự tính, những chương trình của chúng ta để đưa chúng ta vào kế hoạch của Người, kế hoạch mà chẳng ai hiểu được nó sẽ dẫn mình đi đến đâu. Muốn đón nhận thánh ý và kế hoạch của Thiên Chúa, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ ý riêng mình, phải vượt qua những tính toán nhân loại của mình để bước vào một tương lai mà chúng ta chẳng biết sẽ ra sao. Cũng có những lúc chúng ta nghĩ rằng mình sẵn sàng đón nhận ý Chúa, nhưng khi Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta qua những biến cố mang hình thức của một tai ương thì chúng ta lại tìm cách né tránh.
Thánh Giuse không khi nào phản ứng như chúng ta. Người đã chấp nhận để cho Thiên Chúa đảo lộn kế hoạch của người và người sẵn sàng buông mình theo sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Chính như thế đó mà người trở thành một gương sáng cho chúng ta. Thái độ tín thác và vâng phục của người cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng sinh một cách có ý nghĩa hơn. Chúng ta không chỉ vui mừng vì con Thiên Chúa giáng sinh làm người và ở giữa chúng ta. Nhưng chúng ta cũng cần phải vui mừng vì chính con Thiên Chúa đã và đang can thiệp vào cuộc đời của từng người. Người ngỏ lời và mời gọi mỗi người qua từng biến cố của đời sống dù đó là biến cố vui mừng hay đó là một tai họa đè bẹp cuộc đời ta.
Quả thực, chúng ta rất dễ dàng thưa xin vâng trước thánh ý Thiên Chúa, nếu như thánh ý đó mang lại lợi lộc và niềm vui cho chúng ta. Trái lại, quả là điều khó khi phải chấp nhận thánh ý Thiên Chúa, nếu thánh ý đó gây ra những phiền lụy và thua thiệt cho cuộc đời. Nhưng nếu vâng phục ý Chúa mà đòi phải được vinh quang và lợi lộc thì đó không phải là sự vâng phục chân thành.
46. Công chính
Qua phần chia sẻ hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh cả Giuse.
Trước hết thánh cả là người tin tưởng nơi cha mẹ và truyền thống. Tin mừng giúp chúng ta hiểu sự liên hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria trước khi Chúa Giêsu sinh ra. Theo phong tục Do Thái, đám cưới gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là sự cam kết. Sự cam kết được thực hiện bởi cha mẹ hai bên hay bởi ông bà mai mối. Thường thường cả hai người bạn trẻ đã không biết nhau trước khi cam kết. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Thời gian này kéo dài cả năm để cho đôi trai gái có cơ hội quen biết nhau. Sau khi hứa hôn họ được coi như vợ chồng, mặc dù không được sống chung với nhau. Nhưng nếu không muốn tiến tới hôn nhân nữa, họ phải xin ly dị. Giai đoạn thứ ba là đám cưới: xảy ra vào cuối năm của giai đoạn hứa hôn. Chính trong giai đoạn thứ hai của đám cưới Do Thái, Giuse biết Maria đã có thai như bài Phúc âm hôm nay tường thuật.
Tiếp đến, thánh cả Giuse là người tin tưởng bạn mình, Maria. Trong thời gian hứa hôn, nếu người vợ ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria đã có thai làm Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử lắm! Nhưng với tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse “không muốn tố giác bà”, nhưng chỉ “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Trong hoàn cảnh khó khăn này, chính tình yêu đã hòa giải sự đối nghịch giữa luật lệ và con người để khám phá ra sự quan phòng của Thiên Chúa. Tình yêu đã dẫn tới niềm tin.
Maria đã xác tín rằng, mặc dù nàng đồng trinh, nàng “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” như lời thiên thần đã loan báo. Khi được sứ thần báo trong giấc mơ phù hợp với điều bạn mình đã nói, Giuse liền tin tưởng vào tấm lòng thành thật của Maria và “nhận Maria về nhà làm vợ mình”. Họ đã thành thật tin tưởng nhau.
Một trong những điều sợ hãi và kinh khủng nhất của con người là phải sống trong nghi ngờ và đố kỵ. Đó là hỏa ngục trần gian. Và một trong những khó khăn nhất của cuộc sống ở mọi thời đại là sự tin tưởng lẫn nhau.
Sau cùng, thánh cả Giuse là người tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người Do Thái quan niệm Chúa Thánh Thần là người mang sự thật đến cho con người. Chúa Thánh Thần đã dạy cho các tiên tri trong Cựu Ước phải nói gì và làm gì. Và cũng chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn con người nhìn nhận ra sự thật khi gặp thấy. Bởi Giuse là người công chính, nên đã được Chúa Thánh Thần mang sự thật đến. Ông đã nhận ra sự thật và tin tưởng vào sự thật được mạc khải đó, cho dù cách thức mạc khải chỉ là trong giấc mơ.
Một câu ngạn ngữ của người Nigeria nói rằng, “Hãy lắng nghe, và bạn sẽ nghe được những bước chân của các con kiến”. Chúng ta cũng được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa đến trong cuộc đời qua những cách thức không ngờ tới. Chính ở nơi Chúa Thánh Thần, chúng ta đón nhận được sự thật: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu”.
Chúng ta ca tụng thánh Giuse là “Đấng công chính” đã nêu cao tấm gương nhân từ, thánh thiện và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Giuse là tôi tớ trung tín. Vì thế trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài được chọn làm bạn của Đức Trinh Nữ Maria, và dưới dòng họ của ngài, Con Thiên Chúa đã làm người thuộc dòng tộc Đavid, đã âu yếm gọi ngài là “Cha”.
Với lòng nhân hậu, thánh Giuse luôn phù trợ cho các con cái của ngài như thánh Têrêsa Avila đã nói với chúng ta: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”.
47. Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emanuel
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta quả là một niềm mơ ước bất tận của con người có niềm tin vào Thiên Chúa. Trong cuộc sống, nhất là trong cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, không biết bao lần ta chúc nhau đuợc Thiên Chúa ở cùng: "Chúa ở cùng anh chị em - Và ở cùng cha". Xin được chia sẻ đôi nét về sự biểu hiện của tình trạng được có Thiên Chúa ở cùng và một vài điều kiện để được Thiên Chúa ở cùng.
I. Sự biểu hiện của tình trạng có Chúa ở cùng: "Kính chào bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà" (Lc 1,28).
Dựa trên lời chào chúc của sứ thần Gabriel với mẹ Maria ta có thể chắc chắn rằng Mẹ chính là người được Chúa ở cùng. Tình trạng được Chúa ở cùng này được trình bày như là tình trạng "đầy ân sủng". Một tâm hồn đầy ân sủng Chúa là tâm hồn được "rợp bóng" Thánh Thần, là Tình Yêu bản vị giữa Chúa Cha và Chúa Con, một Tình yêu hoàn toàn "hướng tha". Chính vì thế người đầy ân sủng luôn lấy lợi ích của tha nhân làm mục đích của lẽ sống, của mọi hành vi của mình.
Tương tự một số nam nhân thời bấy giờ, chẳng hạn nhóm "tu trì" ở Qumrân, khi tự nguyện sống đời trinh khiết, Mẹ Maria đã tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến. Sự cao cả của tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Người Do Thái xưa và thời bấy giờ vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Đã đính hôn với thánh Giuse, nghĩa là vẫn lập gia đình, thế mà Mẹ tự nguyện sẽ không có con thì quả là một quyết định anh dũng trong tình yêu vị tha. Không sinh con trong đời độc thân tự hiến đã là một hành vi cao cả, còn lập gia đình mà quyết định sẽ không có con thì có thể nói rằng đó là trường hợp ngoại thường. Căn cứ vào quy định của Giáo Luật về hôn nhân Công giáo thì đây là trường hợp kết hôn không thành sự vì loại bỏ một trong hai mục đích của hôn nhân.
Khi Sứ Thần truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh một con trai thì tiếng thưa "xin vâng" của Mẹ bày tỏ rõ nét tâm hồn tràn đầy tình yêu vị tha cách hoàn hảo. Các nhà chú giải Thánh kinh cho ta hay nội hàm của hai từ xin vâng không phải là thái độ thụ động mà ngược lại đó chính là tâm tình tích cực trong hân hoan. Vì tha nhân, vì hạnh phúc của nhân loại, Mẹ Maria đã chọn con đường Thiên Chúa vạch ra. Rất có thể bị Giuse hiểu lầm, rất có thể chuốc lấy nhuốc nhơ cho danh giá giá của mình và số phận Mẹ có thể bị kết liễu dưới những viên đá vô tâm vô tình theo luật pháp thời bấy giờ. Mẹ hân hoan đón nhận tất cả chỉ vì hạnh phúc của đồng loại. Đúng là một trái tim tràn đầy ân sủng Chúa.
II. Một vài điều kiện để có Chúa ở cùng:
1. "Đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình... người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel (Mt 1,20-23).
Đón nhận nhau là một trong những nghĩa cử yêu thương. Đã yêu thì không chỉ đón nhận những gì dễ yêu, những gì đáng thương hay thích hợp với mình mà còn đón nhận cả những gì khó yêu, những điều mình chẳng muốn. "Thương cả đuờng đi" thì mới là thương yêu thật sự. Đón nhận cả những gì mà lòng mình không mong và nhiều khi chưa hiểu rõ thì mới là tình yêu không tính toán, không tham vọng cách ích kỷ.
Dù chỉ được Sứ Thần tỏ bày qua một giấc mơ thế mà Giuse đã mau mắn "tiếp nhận bạn mình". Động thái tiếp nhận nhau như là bạn hữu đòi hỏi ta từ bỏ mình và tự hủy mình một cách nào đó. Khi đón nhận các môn đồ thành bạn hữu của mình Đức Kitô đã từ bỏ tước vị là Thầy, đã tự hủy thân phận là Chúa của mình (x.Ga 13). Khi đón nhận Maria và Con trẻ trong dạ về nhà, Giuse đã tự nguyện từ bỏ vị thế làm cha của Ngài. Nét cao cả của Giuse còn thể hiện qua việc Ngài đón nhận cả sự hiểu lầm của họ hàng, dòng tộc, xóm giềng khi họ nghĩ rằng Ngài chính cha ruột của con trẻ.
Việc thánh Giuse đón nhận Maria về nhà làm bạn cũng chính là việc Ngài đón nhận chương trình của Thiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chương trình ngoài dự kiến, ngoài ý định của Ngài. Tin mừng tường thuật "khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ Thần truyền" (Mt 1,24). Sự mau mắn, không đắn đo này nói lên thái độ tin tưởng trong an bình của chính Ngài. Đón nhận tha nhân với toàn bộ hiện trạng tha nhân đang có, đang là trong sự tin tưởng và an bình đó là một trong những điều kiện tuyệt hảo để được Thiên Chúa ở cùng.
2. "Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu"(Mt 1,21).
Theo Thánh kinh, việc đặt tên có ý nghĩa rất quan trọng. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Vì thế người đặt tên là người có trách vụ hướng dẫn, đào tạo. Khi dẫn các con vật đến với Ađam để Ađam đặt tên cho chúng, Thiên Chúa đã trao phó trách nhiệm cai quản, huớng dẫn muôn loài cho con người (x.St 2,19). Khi đặt tên cho Abram thành Abraham, Thiên Chúa đã huấn luyện một người bán du mục cao niên, son sẻ đang chăn nuôi súc vật trong tư thế tìm sự bảo đảm, an toàn thành một người cha của đoàn lũ con cái đông đúc trong niềm tin phó thác (x.St 17,5). Khi đặt tên cho Giacop thành Israel, Thiên Chúa cũng đã huấn luyện một người láu cá "hất cẳng anh" thành một người đã "gặp gỡ, chiến đấu với Thiên Chúa" và dĩ nhiên sau đó tuân phục Thiên Chúa (x.St 32,23-30)
Thánh Giuse đã dùng gương sáng, lời nói, hành vi của mình để dạy dỗ, hướng dẫn con trẻ thành một Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Quả thật các áng văn Tin Mừng minh chứng cho ta thấy nhân cách và lối hành xử của Chúa Giêsu mang đượm dấu ấn của thánh Giuse. "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng vậy" (x.Ga 5,17). "Lương thực của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta trên trời" (x.Ga 4,34). "Ta không làm điều gì mà không nhìn việc Cha Ta làm" (x.Ga 5,19). Các thái độ, hành vi, cung cách ứng xử của Đấng Cứu Thế chắc hẳn có sự góp phần không nhỏ của thánh Giuse, đặc biệt trong thời thơ ấu và ẩn dật của Người.
Có Emmanuel, có Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là hạnh phúc đích thật. Dù rằng ở trần gian này hạnh phúc ấy chưa vĩnh viễn nhưng nó có thể là hoàn toàn một đôi lúc nào đó. Và những thời điểm có được hạnh phúc này chính là bảo chứng cho hạnh phúc đích thực cách hoàn hảo vĩnh viễn mai sau. Hạnh phúc ấy chính là tình trạng khi ta hết lòng vì lợi ích của tha nhân trong sự quên mình. Để có được điều này tiên vàn hãy biết tiếp nhận nhau với toàn vẹn con người của nhau, cả nhưng ưu điểm lẫn những hạn chế, cả những sự tốt lành lẫn những điều tồi tệ. Và đồng thời cần nỗ lực giáo dục dệt xây cho đời những Giêsu. Trước tòa án phong thánh cho Cha Gioan Maria Vianey, một cụ già đã thề trên Thánh Kinh rằng: "Con đã nhìn thấy Thiên Chúa nơi một con người". Mong sao không phải đợi đến những dịp phong thánh mà ngay trong cuộc sống thường nhật người ta, bà con tín hữu lẫn anh em lương dân hay khác đạo có thể thốt lên rằng: "Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta".
48. Chúa bước vào đời tôi
Người ta thường nói "nhập gia tuỳ tục", nghĩa là khi một vị khách vào nhà của ai đó thì người khách đó phải làm theo những lề thói mà gia chủ đang có, chứ không khi nào đòi hỏi người chủ phải làm theo ý mình. Điều đó nói lên thái độ lịch sự và tôn trọng của người khách đối với chủ nhà. Đó cũng là điều thường tình mà con người vẫn đã và đang làm trong cuộc sống.
Có một người bước vào căn nhà cuộc đời của Đức Maria,Thánh Giuse và tất cả chúng ta nhưng lại không làm theo những gì chúng ta đã sắp xếp, mà lại làm "xáo trộn" mọi sự của chúng ta. Người đó chính là Thiên Chúa.
Thiên Chúa bước vào cuộc đời của ai thì Ngài không để yên những gì con người đã định liệu sẵn. Ngài không muốn để cho con người "bình yên", một thứ bình yên của xác chết, của nghĩa trang lạnh lùng và đầy dẫy xác chết. Ngài đổi mới mọi sự. Vì thế, có rất nhiều người sợ Thiên Chúa bước vào cuộc đời của mình lắm. Nói điều này xem ra có vẻ nghịch lý, nhưng thực tế là như thế đó. Chúng ta còn nhớ câu chuyện Chúa Giêsu chữa một người bị quỷ ám, sống ở mồ mả và rất hung hung dữ. Kết quả là Ngài để cho "bầy quỷ" xuất khỏi người ấy và cho phép chúng nhập vào một đàn heo khoảng 2000 con, lao xuống biển chết hết. Dân chúng trong làng run sợ và thán phục trước phép lạ lớn lao ấy, nhưng họ lại nài xin Ngài rời khỏi họ. Nhự vậy là rõ ràng họ sợ Chúa đến với họ rồi. Họ chỉ thấy sự hiện diện của Chúa là quấy rối cuộc sống bình thường của họ, làm họ thua thiệt. Hay chúng ta còn nhớ câu chuyện các tông đồ chèo thuyền đi trên biển, gặp sóng to bão lớn. Vậy mà họ không sợ. Nhưng khi Chúa hiện ra, đi trên mặt biển mà đến với họ thì họ hoảng sợ. Hay câu chuyện Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, Ngài đánh đuổi các người buôn bán ra khỏi đền thờ, lật tung bàn ghế của những người đổi tiền . . . Cho nên, chúng ta thường là sợ Chúa đến với mình lắm, nếu chúng ta không chuẩn bị một tâm thế đón nhận và có một đức tin vững vàng vào tình thương của Thiên Chúa.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý tưởng mà chúng ta vừa nói ở trên. Chúa bước vào cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse và Ngài làm thay đổi hết những dự tính của các ngài. Chúa dắt các ngài bước đi theo một con đường hoàn toàn mới mẻ và xa lạ, nằm ngoài những dự tính ban đầu của các ngài. Có thể nói, Chúa đã làm xáo trộn kế hoạch vốn cũng rất tốt đẹp và thánh thiện nơi cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy rõ là Đức Maria đã đính hôn với Giuse. Một kế hoạch xem ra rất bình an và hạnh phúc đối với những con người bình thường sống trong xã hội rồi. Nhưng rồi Thiên Chúa "không để yên" cho các ngài. Chúa giao cho các ngài một sứ mạng xem ra kỳ cục và nghịch lý lắm; xem ra Chúa muốn phá vỡ hạnh phúc của các ngài. Nhưng đó là cách thức Chúa hành động trên những kẻ Ngài yêu thương cách riêng.
Dù Chúa làm chủ cuộc đời của chúng ta, có có quyền bước vào căn nhà cuộc đời của chúng ta và hành động cách "nhập gia không tuỳ tục", nhưng Chúa vẫn chờ đợi thái độ đáp trả của con người vốn chỉ là những người quản lý cuộc đời của mình trong tự do và trách nhiệm mà Thiên Chúa ban cho mà thôi. Một tiếng "xin vâng" tự nguyện của Đức Maria, một thái độ sẵn sàng của thánh Giuse đã làm cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn và tốt đẹp. Có được thái độ đó là nhờ các ngài hết lòng tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa của mình, không chút nghi ngờ hay tính toán hơn thua. Các ngài đã để cho Thiên Chúa tự do hành động trên cuộc đời của mình, dù có những lúc các ngài cảm thấy mình đang bước đi trên những nẻo đường không chút hy vọng và khó hiểu nhìn theo phương diện con người. Dù các ngài là những con người được Chúa chọn cách riêng để làm theo chương trình của Chúa, nhưng các ngài đã chấp nhận biết bao khổ cực và cay đắng, chịu đựng biết bao những hy sinh và mất mát. Và nhờ thái độ tin tưởng và phó thác đến cùng đã làm cho các ngài trở thành những con người được "muôn đời ca tụng".
Thiên Chúa không thể chịu thua con người về sự quảng đại và lòng thương xót. Những ai không hoài nghi vào tình thương của Ngài thì chắc chắn sẽ đạt được hạnh phúc viên mãn và tròn đầy cách tuyệt đối.
Chúa đã đến và đang đến với mỗi người chúng ta. Chúa đang bước vào cuộc đời của mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta có đón tiếp Chúa không hay chúng ta muốn tự mình lãnh đạo cuộc đời của mình vì sợ Chúa đến "quấy rối" chương trình của mình, hoặc chúng ta nghi ngờ lòng thương xót của Chúa, sợ Chúa dẫn mình đi trên con đường xem ra không giống ai. Chúa nói: "Ta đứng ngoài của và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa với người ấy" (Kh 3, 12).
Chúng ta nên biết là, nếu chúng ta tự định liệu số phận cho mình thì cuộc đời của chúng ta sẽ là những con người đáng thương nhất trên hành tinh này. Bởi lẽ, chúng ta có khó nhọc, có tất bật chạy ngược, chạy xuôi thì cũng hoài công vô ích mà thôi, vì chúng ta đang xây dựng đời mình trên cát và thiếu viên đá gốc tường. Lời của Thánh Vịnh đã nói: "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công". Hãy để Chúa giúp ta xây dựng cuộc đời của chúng ta, và chúng ta hãy tích cực cộng tác với Chúa và ngoan ngoãn bước theo Chúa, làm theo những gì Chúa đang thiết kế cho đời ta. Đó là thái độ của những con người khôn ngoan và đó cũng chính là thái độ của Đức Maria và Thánh Giuse ngày xưa, nhờ thái độ đó mà Thiên Chúa đã làm cho các ngài thành những con người diễm phúc muôn đời trên thiên quốc.
49. Thiên Chúa làm gì cho chúng ta?
Trong Thánh Lễ sáng Chúa Nhật, vị linh mục bước lên tòa giảng và đọc một đoạn trong sách Cựu Ước. Cuốn sách này đã cũ kỹ, nhưng được cha dùng keo để gián lại. Vì vô tình khi dùng keo để dán, cha đã để lại một chút keo ở trang đàng sau, và như thế khi cha lật từ trang cha đang đọc sang trang sau, nó dính vô trang kế tiếp đó, bởi thế nên cha đã đọc đoạn sách thánh đó như sau: “Vậy khi loài người bắt đầu thêm đông trên mặt đất, và sinh ra những con gái, thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ... (chỗ này nhà giảng thuyết lật trang sau để đọc tiếp thì) chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều cao mười lăm thước...” (Gn 6:1-2,15). Sau một phút bối rối, nhà vị linh mục nói: “Tôi xin cáo lỗi cùng Quí Vị. Tuy nhiên, theo một khía cạnh, tôi thấy rằng đoạn Thánh Kinh trên diễn tả vẻ tuyệt diệu về con người chúng ta đã được Chúa tạo dựng.”
Mỗi một người là một món quà đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng và tình yêu vô hạn. Ngài không chỉ ban cho chúng ta món quà sự sống nhưng còn ban tặng chúng ta sự toàn năng và tình yêu vô hạn của Ngài để giúp chúng ta có một cuộc sống sung mãn. Đó là điểm mà đạo Công Giáo của chúng ta bắt nguồn. Căn bản của đạo chúng ta không phải là điều chúng ta có thể làm cho Chúa, nhưng là Thiên Chúa làm gì cho chúng ta.
Đó là tất cả ý nghĩa của Kitô giáo. Đó là Tin Mừng của đức tin chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã sinh ra tại hang Bêlem. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã được nuôi dưỡng trong gia đình thợ mộc nghèo khổ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đi từ làng này sang làng khác rao giảng về sự siêu việt của Nước Chúa, chữa lành, và bài trừ những người giả hình của phái Pharisiêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã kiên nhẫn chịu đựng những khổ hình và chịu đóng đinh vào thánh giá. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã ra khỏi mồ và phán: “Bình an cho các con.” Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã thổi Thánh Thần vào thế giới qua các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa Giêsu đã sống, đã chết, và đã sống lại để làm tất cả mọi sự đổi mới bằng ngọn lửa thanh tẩy của tình yêu Thiên Chúa. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là chỉ cho chúng ta con đường biết hàng phục một cách vô điều kiện với sự mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa.
Đối với tình yêu bao la của Chúa, chúng ta chỉ có thể đón nhận, chứ không phải là kiếm được. Đó là món quà của Chúa ban cho một cách nhưng không mà không bao giờ chấm dứt; trước sau như một, bền bỉ, mãi mãi. Chúng ta không thể nào dứt bỏ được. Chúng ta không thể nào làm cho Chúa ngừng yêu thương chúng ta. Chúng ta không thể nào làm cho tình yêu ấy nhạt đi, biến mất, hoặc bắt buộc nó phải đi chỗ khác. Tình yêu ấy không câu nệ gì đến việc chúng ta là ai, đang ở đâu, và là cái gì. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta có là cái gì đi chăng nữa. Câu hỏi được đặt ra là “Ngay trong giây phút này, các bạn có trong sạch như Thánh Gioan Tông Đồ hoặc Maria Mađalêna không? Các bạn có sẵn sàng để đón nhận món quà của lòng từ bi vô biên của Chúa ở tận thâm tâm của các bạn chưa? Các bạn có sẵn sàng để chấp nhận sự thật đó như là một điều khẩn thiết cho cuộc lữ hành tiến tới sự sung mãn chưa?”
Không có một tội nào ngăn cản Thiên Chúa không ban cho các bạn bất cứ điều gì, cả những điều các bạn không tưởng tượng nổi. Không có một phản nghịch nào có thể làm cho Thiên Chúa thất vọng với các bạn. Không có một buồn phiền nào có thể ngăn cản Thiên Chúa không tiếp tục dẫn dắt các bạn. Ngài tiếp tục, trước sau như một, để đi vào cuộc sống của bạn bằng cả ngàn cách thức. Ngài kiên cố và bền vững trong cách thế đó, từ tình yêu vô bờ cho các bạn và lòng ao ước mạnh mẽ để đem các bạn tới chỗ sung mãn.
Bài Phúc Âm hôm nay bắt đầu cuộc truyền tin mà thiên thần loan báo cho Mẹ rằng Mẹ sẽ sinh ra Đấng Cứu Thế. “Này tôi là nữ tỳ của Chúa,” Mẹ đáp, “Xin hãy thành sự nơi tôi theo như lời ngài truyền.” Chúng ta sẽ không có Lễ Giáng Sinh nếu Mẹ không mở rộng bàn tay để đón nhận món quà từ tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Sự ưng thuận của Mẹ là trung tâm điểm của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sau khi thiên thần từ giã, Mẹ liền vội vã đi thăm bà dì Elisabét. Như là muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự nhậm lời của Mẹ, bà dì Elisabét đã chào Mẹ rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lk 1:45).
Trong Sách ngôn sứ Isaiah, Thiên Chúa phán: “Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49:16). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả thật đúng cách thức Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài nhìn chúng ta trên bàn tay của Ngài đã dùng để tạo dựng và ghi khắc. Chúng ta là một phần không thể tẩy xóa được trong sự sống của Thiên Chúa bởi vì chúng ta được dựng nên bằng hình ảnh của Ngài. Thánh Kinh cho chúng ta biết Thiên Chúa gần chúng ta như thế đó. Ngài không ghi khắc chúng ta ở trong bàn tay Ngài như là một phần thưởng. Chúng ta không giành được cái chỗ vinh dự như thế ở trong sự sống của Thiên Chúa. Thêm nữa, chúng ta không thể nào thay đổi được. Chúng ta có thể xa cách Ngài nhưng đối với Ngài thì luôn luôn trao ban cho chúng ta tất cả để chúng ta có thể đạt được sự sống sung mãn trong tình yêu Ngài.
Thiên Chúa mong muốn chúng ta cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Ngài trong lúc này. Sự hưởng nếm ngọt ngào nhất về tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta bằng yêu và được yêu. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con,” Chúa Giêsu đã ra lệnh như thế.
50. “Ông Giuse là người chính trực”
Thường thì trong suốt mùa Vọng cũng như mùa Giáng Sinh, và ngay cả trong suốt năm phụng vụ, chúng ta ít nói đến ông Giuse, “người đã đính hôn cùng Maria, là người chính trực, không muốn gây khó khăn cho Maria theo luật pháp [vì Maria đã thụ thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần trước khi hai ông bà về ở với nhau] nên đã quyết định âm thầm từ bỏ vị hôn thê” (Mt. 1:19-20).
Trong bài suy niệm Lời Chúa ngày lễ mừng kính Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, chúng ta thấy ông Adong, nguyên tổ loài người, đã vấp phải “trái cấm”, thì ông Giuse cũng phải đương đầu với “trái cấm”: ông Giuse ít nhiều bị chạm tự ái vì người vợ chưa cưới mà đã mang thai, nên “tìm cách âm thầm từ bỏ Maria vì không muốn gây khó khăn cho Maria theo luật pháp”. Phản ứng trước “trái cấm” của Adong và Giuse hoàn toàn trái ngược nhau.
* Phản ứng của Adong: “... người đàn bà mà Chúa đặt để ở đây với tôi – bà ấy đã cho tôi trái cây, và tôi đã ăn.” (Kn. 3:13)
* Phản ứng của Giuse: “... Khi Giuse thức giấc, ông đã làm theo lời thiên sứ truyền bảo và đã đón nhận Maria về nhà mình làm vợ” (Mt. 1:24).
Trong cơn buồn sầu và nghi ngờ, Giuse đã không phản ứng hành động theo tính tự nhiên của con người - không vội lên án đổ lỗi cho nhau, không vội trút cơn tức giận chua cay vì tưởng rằng bị phản bội - trái lại Giuse chỉ biết LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng Chúa thì thầm chỉ bảo trong mọi hoàn cảnh.
Chúng ta không tìm được một câu nói nào của Giuse trong tất cả các sách Tin Mừng, chúng ta chỉ học biết phương thức hành động - phương thức SỐNG của Giuse trong suốt cuộc hành trình và đồng hành của Người với Maria và Giêsu ở trần gian này.
Trong cuộc sống thực tế của mỗi một người chúng ta, không ai trong chúng ta mà không gặp phải những nghịch cảnh, những “trái cấm” hầu như từng phút từng giây, từ những nghịch cảnh nhỏ nhất đến những chuyện “tày trời” tưởng như thế giới sắp sụp đổ:
+ anh/chị/em tôi “chơi gác” tôi
+ bạn bè tôi ích kỷ, khó tính
+ học trò tôi ngang ngược, lười biếng, láo xược
+ con tôi ngỗ nghịch, hỗn láo
+ người tôi yêu lừa gạt tôi, không thành thật với tôi, hình như không còn yêu thương tôi nữa
+ vợ/chồng tôi mọi ngày rất tốt, nhưng hôm nay làm sao ấy
+ đồng nghiệp của tôi “ma giáo”
+ vân vân và vân vân...
Chúng ta quên bẵng đi rằng chúng ta thường đặt căn bản cho mối nghi ngờ hay giận dữ trên một hiện tượng nhất thời nào đó, rồi phản ứng theo tính tự nhiên ngay tức khắc, mà chưa hay không muốn LẮNG NGHE tiếng thì thầm chỉ bảo của lương tâm, của chính Thánh Thần Thiên Chúa đã được ban cho mỗi một chúng ta.
Tâm tình LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng Chúa thì thầm chỉ bảo của thánh cả Giuse - và cũng là của Đức Maria và Đức Giêsu - là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống của mỗi một chúng ta. Muốn cho chính bản thân mình, cho gia đình mình được an vui hạnh phúc, thiết tưởng chỉ có một phương cách duy nhất là theo gương thánh cả Giuse, và ráp theo khuôn mẫu của thánh gia Giuse-Maria-Giêsu vậy.
Thánh Lasan xin thánh cả Giuse làm quan thầy cho Dòng, để các Frères, các thầy cô cũng như tất cả những ai được trao phó sứ mạng và nhiệm vụ giáo dục trẻ em, noi gương thánh cả Giuse yêu thương dìu dắt Đức Giêsu Hài Nhi như thế nào thì cũng yêu thương dìu dắt con em và học sinh mình như vậy. Mỗi ngày thứ tư trong tuần, cả nhà Dòng đọc kinh sau đây để tôn kính thánh cả Giuse và cầu xin Người cho chúng ta được noi theo gương Người, SỐNG như Người. Xin mời mọi người chúng ta cùng hợp tiếng với Dòng LaSan, đọc kinh này mỗi ngày thứ tư.
Lạy thánh Giuse rất trung tín, là Đấng được Chúa chọn làm cha nuôi Người, là Đấng nâng đỡ Thánh Mẫu, là người cộng tác và trung thành trong công cuộc trọng đại của Chúa.
Xin thánh cả cầu cho chúng con được ơn thi hành thánh ý Đức Chúa Cha, được âu yếm suy niệm những sự đã thực hiện nơi Đức Chúa Con, và nhờ ơn phong phú Đức Chúa Thánh Thần, chúng con giữ xác hồn thanh sạch, để xứng đáng phụng sự Chúa luôn – AMEN
51. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu gặp hoàn cảnh của Giuse, tâm trạng của bạn sẽ thế nào? Bạn sẽ đối xử thế nào với người yêu mà bạn ngỡ là đã phản bội bạn?
2. Trong trường hợp này Giuse đã hành xử thế nào? Tình yêu của Giuse đối với Maria là thứ tình yêu nào? vị kỷ hay vị tha? chiếm đoạt hay dâng hiến?
3. Tại sao Thiên Chúa lại chủ trương Đức Giêsu phải được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh, nghĩa là không do sự kết hợp với một người nam?
4. Giới răn yêu thương của Đức Giêsu phải được áp dụng ưu tiên hàng đầu cho những ai? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Tâm trạng của Giuse khi thấy Maria có thai
Theo tục lệ Do Thái, để trở nên vợ chồng thực thụ, đôi nam nữ phải trải qua ba giai đoạn: (1) Hai gia đình tiếp xúc với nhau, đồng ý cho đôi nam nữ tiến tới hôn nhân. (2) Đính hôn hay hứa hôn: đôi nam nữ hứa hôn với nhau trước mặt hai gia đình, bà con, bạn bè và mọi người. Kể từ đây, đôi nam nữ được coi như vợ chồng, nhưng chưa được sống chung hoặc có quan hệ tính dục với nhau. Mối liên hệ này chỉ được hủy bỏ khi một trong hai người qua đời, hoặc khi tuyên bố ly dị. (3) Lễ cưới: đôi nam nữ chính thức là vợ chồng và bắt đầu sống chung với nhau. Khi Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần và Giuse được sứ thần báo mộng, thì hai người đang ở giai đoạn thứ hai: đính hôn.
Trước khi được sứ thần báo mộng, Giuse thấy Maria – người bạn đã đính hôn với mình – có thai. Cứ theo cách cắt nghĩa tự nhiên cũng là duy nhất, thì rõ ràng Maria đã ngoại tình. Chắc chắn Giuse rất bối rối, buồn phiền, thậm chí thấy mình bị xúc phạm mãnh liệt. Theo luật dân sự, trong trường hợp này, Giuse có quyền từ hôn. Chàng có thể tố cáo Maria về vụ việc này, và nhà cầm quyền Do Thái có thể xử tử nàng bằng cách ném đá cho đến chết, chiếu theo luật trong Đnl 22,23-24. Nhưng chàng không làm như thế. Mặc dù cảm thấy như bị xúc phạm và phản bội, chàng chỉ định tâm bỏ nàng cách kín đáo, cho đến khi được sứ thần báo mộng.
Mặc dù chỉ biết qua giấc mộng – nghĩa là không chắc chắn và rõ ràng – rằng Maria thụ thai bởi Thánh Thần, Giuse đã chấp nhận đem Maria về nhà mình, bất chấp dư luận không hay về mình. Vì Giuse làm như thế, dư luận sẽ cho rằng: hoặc hai người đã quan hệ vợ chồng một cách bất chính trước khi được phép, điều này chứng tỏ hai người thiếu đạo đức; hoặc Giuse đã chấp nhận cái nhục “người ta ăn ốc, mình đổ vỏ”. Do đó, việc chàng chấp nhận Maria phải nói là can đảm, hy sinh, và tình yêu của chàng đối với Maria quả là chân thật và mãnh liệt. Chàng đúng là một người công chính, cao thượng, biết tuân phục thánh ý Thiên Chúa.
2. Đức Giêsu sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh
Việc Đức Giêsu được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh, không do ý muốn của người nam, là do ý định khôn ngoan của Thiên Chúa. Điều này rất quan trọng trong Kitô giáo. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, với sứ mạng giải phóng con người khỏi tội lỗi, Ngài phải hoàn toàn không bị vướng vào tội lỗi. Nếu chính Ngài mà còn có tội, còn sống dưới ách tội lỗi, thì Ngài có thể giải phóng tội lỗi cho ai? Mà mọi người sinh ra bởi người nam, đều vướng tội tổ tông do Ađam truyền lại. Vì theo quan điểm của xã hội phụ hệ Do Thái, sự kế thừa từ thế hệ trước sang thế hệ sau hoàn toàn qua người nam. Do đó, nếu Đức Giêsu sinh ra từ một người nam, Ngài không khỏi kế thừa tội tội tổ tông từ cha mình. Để Ngài không chịu ảnh hưởng tội tổ tông, Thiên Chúa đã dùng quyền năng Thánh Thần của mình để Đức Giêsu chỉ được sinh ra duy nhất từ một người nữ – vốn là điều cần thiết để trở nên một người trần – mà không do sự kết hợp với người nam. Nhờ thế, Ngài không bị ảnh hưởng của tội tổ tông, lại hoàn toàn và duy nhất là Con của Thiên Chúa, đồng thời vẫn là một con người trọn vẹn.
3. Tình yêu đích thực trong đời sống vợ chồng
Trong sứ mạng cứu chuộc nhân loại, thì một trong những mục đích quan trọng của Đức Giêsu là dạy con người sống yêu thương nhau. Ngài đã lập nên luật mới cho kỷ nguyên của Ngài là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Ngài đã làm gương cho cả nhân loại bằng cách yêu thương đến tận cùng (x. Ga 13,1), hy sinh cả mạng sống cho nhân loại mà mình thương yêu (x. Ga 15,13). Nhưng Ngài không sống đời hôn nhân, nên Ngài không thể có một tấm gương cụ thể của một người chồng yêu thương vợ mình. Nhưng bù lại, cha nuôi của Ngài là thánh Giuse đã cho nhân loại gương sáng ấy. Bài Tin Mừng cho thấy Giuse đã yêu Maria bằng một tình yêu đầy tính vị tha và dâng hiến.
Tình yêu trong đời sống vợ chồng có thể phân thành hai loại:
– tình yêu vị kỷ hay chiếm đoạt: Trong thứ tình yêu này, người ta coi người mình yêu như một phương tiện để thỏa mãn nhu cầu tình cảm của mình, hay như một đối tượng mà mình phải chiếm đoạt làm của mình. Với tình yêu vị kỷ, người ta coi người mình yêu phải phục vụ cho hạnh phúc của mình. Và người ta đặt hạnh phúc của mình lên trên hạnh phúc của người mình yêu. Khi có sự xung đột giữa hạnh phúc của mình và của người yêu, thì họ sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của người yêu cho hạnh phúc của mình, sẵn sàng chấp nhận để người mình yêu đau khổ miễn mình được hạnh phúc. Và họ không thể chấp nhận bị người yêu phản bội. Họ sẵn sàng đày đọa người mình yêu vì sự phản bội ấy. Họ không thể chấp nhận cho người mình yêu được hạnh phúc với một ai khác ngoài mình. Thực ra, đây không phải là tình yêu đích thực. Người ta chỉ yêu chính bản thân mình một cách gián tiếp qua người yêu của mình, chứ không phải yêu thương người ấy thật sự.
– tình yêu vị tha hay dâng hiến: Với tình yêu này, người ta cảm thấy có nhu cầu ra khỏi chính mình để hướng về người mình yêu, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Người ta sẵn sàng chấp nhận mình thiệt thòi để người mình yêu được lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Với tình yêu này, người ta sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi người này lầm lỗi. Đây mới chính là tình yêu đích thực mà Thiên Chúa muốn mọi cặp vợ chồng phải có đối với nhau. Giuse đã yêu Maria bằng thứ tình yêu này.
Người yêu bằng tình yêu vị tha hay dâng hiến, gặp trường hợp tương tự như Giuse – thấy người sắp kết hôn với mình có vẻ như phản bội – thì chỉ biết đau khổ cho mình, chứ không hề muốn làm một điều gì có hại cho người mình yêu. Người ấy sẽ nghĩ: nếu người mình yêu cảm thấy sống với người khác sẽ hạnh phúc hơn sống với mình, thì mình cũng sẽ an tâm và sẵn sàng chấp nhận đau khổ, hy sinh để người mình yêu được hạnh phúc.
4. Đối tượng phải yêu thương hàng đầu là người trong gia đình
Giới răn yêu thương của Đức Giêsu cần được áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả kẻ thù hay người làm hại mình (x. Mt 5,44; Rm 12,20). Nhưng trước hết, nó phải được áp dụng ưu tiên cho những người gần mình nhất, có quan hệ ruột thịt với mình, cùng sống trong một gia đình hay một nhà với mình: cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt… Trong số đó không ai gần gũi mình cho bằng vợ hay chồng mình, vì là vợ chồng thì “không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt 19,5; x. St 2,24; Ep 5,31). Vì thế, giới răn yêu thương của Đức Giêsu phải được áp dụng ưu tiên hàng đầu cho vợ hay chồng mình, rồi tới cha mẹ, con cái mình. Nếu những người ruột thịt này mà ta không yêu thương được bằng một tình yêu chân thật, vị tha, dâng hiến, thì ta không thể yêu ai khác bằng tình yêu này được. Mọi thứ tình yêu ta có đối với người khác đều chỉ là tình yêu vị kỷ, hoặc tệ hơn nữa, tình yêu môi miệng, tình yêu đóng kịch, tình yêu xây dựng trên sự đổi chác quyền lợi… Đó không phải là tình yêu đích thực.
Thiết tưởng trong việc chuẩn bị đón Chúa đến, không gì thích hợp và đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng canh tân, đổi mới lại tình yêu trong chính gia đình của mình. Hãy yêu mọi người trong gia đình mình bằng một tình yêu chân thật, mãnh liệt, đầy tính vị tha và dâng hiến. Tình yêu đối với gia đình sẽ là mẫu mực và là căn bản để từ đó ta áp dụng đối với tất cả mọi người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con có được một tình yêu đích thực, thứ tình yêu vị tha, dâng hiến, chứ không phải thứ tình yêu mang tính vị kỷ, chiếm đoạt, hay tình yêu giả hiệu, ngoài môi miệng. Xin cho con biết áp dụng tình yêu đích thực ấy ngay trong gia đình của con, để từ đó lan tỏa ra với tất cả mọi người.
52. Emmanuel
Đọc lại Cựu Ước, chúng ta thấy được hình ảnh nào của Thiên Chúa? Theo tôi nghĩ, điều Cựu ước nhấn mạnh cho dân Do thái, đó là một Thiên Chúa duy nhất đầy quyền uy.
Thực vậy, ngay những trang đầu của sách Sáng thế ký, sau khi Adong Evà phạm tội, thì buổi chiều Thiên Chúa đã tản bộ đi trong vườn địa đàng với làn gió nhẹ. Adong Evà đã hoảng sợ và tìm kiếm chỗ ẩn núp, nhưng cũng không thể nào thoát khỏi cái nhìn của Thiên Chúa, để rồi cuối cùng đã lãnh nhận bản án của đau khổ, của chết chóc cho hành vi phản bội đầu tiên ấy.
Tiếp theo là việc Thiên Chúa hiện ra và kêu gọi Maisen lên đường giải phóng dân tộc Do thái, đang sống dưới ách nô lệ, dưới sự kìm kẹp của vương quốc Ai cập. Lúc bấy giờ Maisen nhìn thấy một bụi gai bừng cháy, ông mon men tiến tới, thì được Giavê đã phán:
- Chớ lại gần, hãy cởi dép vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh.
Maisen đã phải che mặt vì ông sợ không dám nhìn Thiên Chúa.
Và sau cùng trong cuộc xuất hành trở về miền đất hứa, Đức Giavê đã tàn sát các con trai đầu lòng Ai cập, đã vùi dập binh đội của Pharaon nơi lòng biển cả. Và tại đỉnh núi Sinai, Đức Giavê đã trao ban lề luật cho Maisen trong một cảnh tượng hùng vĩ. Kinh thánh ghi lại rằng: Bấy giờ ngọn núi cuồn cuộn như bốc khói. Ngay cả sau khi Maisen xuống núi, khuôn mặt ông vẫn còn chói lọi, đến nỗi dân chúng sợ hãi không dám tiến lại với ông.
Bằng đó những sự kiện chỉ có ý muốn nói lên rằng: Thiên Chúa trong Cựu ước là Thiên Chúa của uy quyền. Ngài hiện ra trong sấm chớp hãi hùng, để truyền khiến, để sửa phạt. Đứng trước vị Thiên Chúa toàn năng ấy, con người nhỏ bé của chúng ta chỉ có một thái độ, đó là run sợ và khiếp hãi.
Thế nhưng, Cựu ước chỉ nắm giữ vai trò chuẩn bị, vai trò sửa soạn cho Đức kitô xuất hiện. Tất cả Cựu ước đều qui hướng về Đức Kitô và cùng với Đức Kitô, chúng ta có được một hình ảnh đầy yêu thương của Thiên Chúa. Hình ảnh này đã được tiên tri Isaia loan báo gần 700 năm về trước:
- Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Lời loan báo này đã trở thành một sự thật trong Tân ước. Phải, đúng thế, Tân ước đã làm tròn những hình ảnh được nói đến trong Cựu ước, nhờ đó chúng ta thấy rõ Đức kitô chính là Thiên Chúa.
Qua bài Phúc âm hôm nay, sứ thần đã nhắc lại cho Giuse trong một giấc mộng lời nói tiên tri Isaia, để rồi một vài ngày nữa, trong đêm Giáng sinh, lời hứa về đấng Emmanuel sẽ được thực hiện. Thiên Chúa đã đến ở giữa chúng ta, không phải trong uy quyền với áng mây cột lửa, nhưng trong yêu thương với quang cảnh ngèo nàn và đơn sơ của máng cỏ Bêlem.
Từ một Thiên Chúa uy quyền và công bằng, Ngài đã trở nên một Thiên Chúa yêu thương và tha thứ. Ngài đó, một hài nhi bé bỏng như muôn ngàn vạn hài nhi khác. Ngài không đến trong sấm chớp, nhưng trong yên lặng của đêm khuya, trong rét mướt của mùa đông và trong nghèo hèn của chuồng bò. Ngài không làm cho bụi cây trong sa mạc bốc cháy, nhưng khi trông thấy Ngài các vì sao như rực sáng long lanh. Ngài không đòi phải có đền thánh huy hoàng, nhưng một nắm cỏ khô đã đủ cho ngài. Không phải là những biểu ngữ, những cổng chào của đám đông cuồng nhiệt đã tiếp đón Ngài như một ngày hội lớn, nhưng là nụ cười hiền dịu của Đức Maria và tấm lòng chân thành của thánh Giuse và các mục đồng, đúng như lời tiên tri Isaia đã loan báo:
- Ngài sẽ không la to, không nói lớn và người ta sẽ chẳng nghe thấy tiếng Ngài ngoài phố. Ngài đã không bẻ gẫy cây sậy đã dập và không thổi tắt ngọn đèn còn leo loét.
Thiên Chúa của chúng ta là như thế đó. Vậy đâu là nguyên nhân, là động lực thúc đẩy Ngài trở thành một Emmanuel, một Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Tôi xin thưa:
- Đó chính là vì tình yêu.
Thực vậy, người ta thường nói:
- Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Nhìn vào kinh nghiệm thường ngày chúng ta cũng thấy được như vậy. Chẳng hạn hai anh chị yêu thương nhau, họ luôn mong muốn và làm mọi cách để có thể gặp nhau, để có thể ngồi tâm sự vui với nhau giờ này qua giờ khác.
Chẳng hạn người chồng phải đi học tập cải tạo tại, nhưng vì yêu thương, người vợ không bao giờ quản ngại đường sá xa xôi. Mỗi tháng lếch thếch với đứa con nhỏ và những đồ tiếp tế để đi thăm chồng.
Nếu quả thực là như vậy, thì hẳn tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta phải lớn lao, phải vĩ đại biết bao nhiêu. Bởi vì Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời xuống đất, từ Thiên Chúa toàn năng đến một hài nhi yếu ớt. Khoảng cách ngàn trùng ấy đã được Chúa Giêsu vượt qua cho đến đời đời, bởi vì Ngài đã ở lại với chúng ta luôn mãi. Chúng ta có thể nói được rằng:
- Ngài đã kết hôn với bản tính nhân loại chúng ta để ăn mày đến vô biên.
Điểm đặc sắc của kitô giáo là ở chỗ đó: Thiên Chúa của chúng ta không phải là một ý niệm trừu tượng, một nhân vật hoang đường, nhưng là một con người cụ thể đã, đang và sẽ còn sống mãi bên chúng ta suốt những chặng đường đời, để yêu thương và tha thứ. Một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thiên Chúa đã đi quãng đường dài nhất để đến với chúng ta, còn bây giờ chúng ta sẽ phải đi nốt những bước chân còn lại. Ngài đến ở giữa chúng ta, nhưng có yêu thương và gắn bó với Ngài hay là chúng ta đã lạnh nhạt và xua đuổi Ngài như hánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà đã chẳng đón nhận.
Nếu như bây giờ Chúa trở lại, liệu Ngài có tìm thấy một nơi trú ngụ trong tâm hồn chúng ta hay không?
53. Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
John P., một linh mục Ái Nhĩ Lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá môn.”
Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.
Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào: “Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội.”
- “Chuyện gì xảy ra cho anh vậy?” Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.
Nhưng anh ta trả lời: “Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều.”
Vị linh mục ngạc nhiên: “Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh?”
- “Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: “Chúa ở với các con.”
Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa: “Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?”
Anh thanh niên chậm rãi giải thích: “Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình.”
Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Trong một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: “Chúa ở cùng anh chị em,” nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn?
Nếu thấu hiểu được thế nào là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.
Ngày xưa, khi Môisen đang chạy trốn người Aicập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Moisen can đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12).
Rồi khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: “Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con.” Nhưng Chúa nói: “Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi” (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.
Trong Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ là một lời hứa: “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.
Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa “ở cùng người yêu,” và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được “sống chung với người yêu.” Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: “Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này...,” nhưng nếu không có lời hứa “ở cùng em” thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa “ở cùng nhau suốt đời.”
Một linh mục đã nhận xét: “ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến “ở cùng.”
Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.
Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.
Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người.
Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên--giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình--chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi “ở cùng” tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
54. Ngăn trở - Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc sống luôn có những ngăn trở. Ngăn trở do chính mình gây nên cũng lắm mà do hoàn cảnh dẫn đến cùng nhiều. Ngăn trở rõ ràng nhất là những giấc mơ trong đời. Người nào cũng có những giấc mơ ước mong hoàn thành và những giấc mơ cho tương lai dài. Có những giấc mơ đến rồi qua đi rồi lại thêu dệt giấc mơ khác rồi lại để chúng qua đi rồi lại thêu dệt giấc mơ mới đến nỗi thân hữu cho là người sống tron mơ. Lí do không thực hiện được giấc mơ vì họ không thực hành điều mơ ước. Lại cũng có người thực hiện giấc mơ nửa chừng rồi chán nản, thất vọng để giấc mơ tan vào dĩ vãng. Một ít thực hiện giấc mơ cách tốt đẹp và hưởng thành quả tốt đẹp của điều hằng mơ ước.
Lịch sử Ơn Cứu Độ cũng có một số ít nhân tuyển vui lòng chấp nhận thay đổi giấc mơ cá nhân mình để thực hiện ý định chung của Thiên Chúa. Họ chấp nhận từ bỏ giấc mơ cá nhân và thay vào đó là thực hiện sứ vụ thiên quốc với mục đích rõ ràng. Mục đích đó là cộng tác vào công trình cứu độ của Đấng Cứu Thế. Người đầu tiên chúng ta biết đến đó là Đức Trinh Nữ Maria, Đấng khấn sống trọn đời khiết trinh nhưng theo ý Chúa qua ngôn sứ Đức Trinh Nữ chấp nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sau khi thưa hai tiến xin vâng cuộc sống trinh nữ của Mẹ hoàn toàn thay đổi. Người khác nữa là hai mẹ con là thánh nữ Elizbeth và thánh Gioan Tẩy Giả. Như bao nhiêu người mẹ khác luôn có những ước mơ riêng cho con mình nhưng thánh nữ vui lòng chấp nhận để con mình trở thành người mở đường cho Chúa Cứu Thế, sống trong hoang địa, mặc áo da thú và ăn châu chấu trộn mật ong. Người nữa cũng hoàn toàn thay đổi giấc mơ riêng để làm theo lời sứ thần là thánh Giuse. Phúc âm không ghi lại thánh Giuse có giấc mơ riêng gì nhưng qua trao đổi giữa thánh nhân và sứ thần thánh Giuse đã chấp nhận cưới cô Maria làm người bạn đường. Dù chấp nhận làm công việc đó nhưng thánh nhân trong hoàn cảnh sống cũng cảm thấy khó có thể thực hiện điều đã hứa. Sau nhiềm đêm mất ngủ, suy nghĩ chín chắn thánh Giuse đã định li dị cô Maria một cách kín đáo. Ý riêng đã quyết nhưng thánh nhân cảm thấy tâm hồn mất bình an. Âm thầm liên tục cầu nguyện tìm rõ ý Chúa và sứ thần Chúa đến với thánh nhân qua những giấc mơ hướng dẫn đừng ngại tiếp tục lời đã hứa. Là người khôn ngoan tin vào lời cầu nguyện cộng thêm tính cẩn trọng không vội thi hành ý riêng, thánh nhân thực hành lời sứ thần hướng dẫn trong giấc mơ và tìm lại bình an nội tâm. Chính bình an nội tâm là dấu chỉ rõ ràng giúp thánh nhân giữ trọn điều thề hứa thi hành thánh ý Chúa đến cùng.
Nhiều người trong chúng ta cũng thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Thánh ý Chúa một cách chung cho tất cả mọi người là sống làm chứng nhân cho Chúa giũa đời và loan báo Tin Mừng cho toàn thể nhân loại. Ngoài thánh ý chung ra mỗi cá nhân thường gặp khó khăn khi phải tìm hiểu thánh ý riêng cho cá nhân mình. Điều rõ ràng là hầu như ai cũng có kinh nghiệm khi sống đời sống đạo chúng ta luôn có những lúc tự tin, cảm thấy con đường mình đang đi là con đường Chúa mời gọi chúng ta đi; khi khó khăn đến chúng ta lại cảm thấy con đường mình đang đi là con đường sai, con đường dẫn đến ngõ cụt. Đây chính là kinh nghiệm của Thánh Giuse khi chấp nhận là cha nuôi Đấng Cứu Thế. Khi gặp hoàn cảnh khó khăn, ơn gọi trong đời sống bị ngăn trở hãy học hỏi từ thánh Giuse, đừng vội vã, hấp tấp đi đến quyết định dứt khoát nhưng khôn ngoan, cẩn trọng và tin vào những kinh nguyện âm thầm trong đêm, tìm bình an cho tâm hồn nhất là bình an sau khi đã có giải đáp cho vấn đề. Lắng nghe tiếng nói nhẹ nhành trong đêm tối sẽ nhận ra ánh sáng của Lời Chúa.
Trong nhiều trường hợp bệnh tật và điều kiện xã hội ngăn cản ta thi hành ý Chúa trong đời. Nhiều người muốn theo đời sống ơn gọi tu trì nhưng nếu sống trong xã hội người lãnh đạo không có thiện cảm với Thiên Chúa giáo thì ơn gọi đó thường bị ngăn cản. Sức ép của bạn bè và thiếu khuyến khích từ gia đình cũng là những cản trở cho việc thực hiện ơn gọi tu trì. Điều quan trọng cần nhớ là một khi con đường ta đang đi gặp ngõ cụt đừng quá chán nản, đầu hàng bởi nếu con dường này cụt sẽ có một con đường gần đó là con đường dẫn đến nơi tốt lành, có thể là nơi ta không muốn đến nhưng ý Chúa nhiệm mầu, hiểu sao thấu. Tỉnh táo, cẩn trọng và kiên nhẫn tìm kiếm sẽ gặp được con đường mới dẫn đến đích Chúa mời gọi. Kẻ thất bại là kẻ đầu hàng. Học từ thánh Giuse, kiên tâm bền chí dẫn đến thành công.
55. Chối bỏ - Lm. Vũ Đình Tường
Khi lớn lên nhận biết trước khi mình được sinh ra thì cha mẹ đã không muốn thấy mặt mình là một nỗi sầu lớn trong đời. Cha mẹ có thể vì áp lực xã hội, phong tục địa phương không dám nhận em bé sinh ra ngoài hôn nhân. Dù lí luận thế nào đi nữa cũng không thể thay đổi được thực tế phũ phàng của việc từ bỏ đứa con chưa ra đời. Đứa nhỏ là một bào thai, vô tội, chưa từng gây điều trái trở thành nạn nhân của xã hội đương thời hoặc nạn nhân của ý riêng. Đức Kitô là đứa trẻ bị chối bỏ trước khi sinh ra nhưng Ngài lớn lên mà không hề mang mặc cảm, không hằn thù, tự ti, mặc cảm, cũng chẳn hề nửa lời trách cha mẹ mình.
Phúc Âm tường thuật trước khi về chung sống với nhau cậu Giuse biết cô Maria đã có thai nên cậu âm thầm định từ hôn một cách kín đáo. ý định từ hôn vì sợ tiếng đời và sợ liên luỵ đến an nguy của cô Maria và bào thai trong cô Mat 1,19.
Về phần cô Maria cũng không hơn gì. Sứ thần đến báo tin cho biết cô sẽ mang thai và sẽ sanh một bé trai. Để chuẩn bị đưa tin sứ thần đã chuẩn bị tâm tình cô thông báo
‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở củng bà’ Lc 1,28
Sau đó sứ thần loan tin. Bằng đó câu khuyến khích chúc mừng giúp cô Maria bớt lo lắng bồn chồn khi nhận tin cô sẽ thụ thai. Cô Maria bối rối, lo lắng nhưng vẫn muốn hỏi cho rõ: việc đó xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng Lc 1,34.
Mặc dù không hề có chữ nào nói là cô Maria không muốn có con nhưng thái độ của cô Maria cho thấy cô không sẵn sàng đón nhận em bé đó.
Từ chối đón nhận tin vui Đấng Cứu Thế sinh ra cách đây hai ngàn năm dường như được lập đi, lập lại nhiều lần trong lịch sử cứu độ. Mỗi một thế hệ người sinh ra lại có người chấp nhận tin vui và cũng có người từ chối tin vui. Người ta mong đợi Đấng Cứu Thế đến nhưng khi Ngài đến người ta từ chối đón nhận. Người ta đi tìm ánh sáng chân lí nhưng khi ánh sáng đó lan tràn người ta lại chạy núp trong bóng tôi, ưa bóng tối hơn ánh sáng chân lí. Người ta khát khao tình yêu chân thật từ Thượng đế nhưng khi tình yêu đó đến người ta làm ngơ tình yêu từ thiên giới và chờn vờn với tình yêu tạo vật. Người ta đi tìm sự sống nhưng khi sự sống trường sinh đến người ta lại đóng đinh sự sống đó.
Thiên Chúa đến trong thế gian một cách bình thường đến độ con người làm ngơ, coi việc Ngài đến như là sự sống bình thường của một con người bình thường. Có lẽ còn đơn sơ, hèn mọn hơn cuộc sống của một con người bình thường. Sinh ra nơi đồng hoang, trong cảnh nghèo, giữa kẻ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Ngài đến rao giảng tin vui nhưng kẻ đón nhận, người từ chối, chê bai. Ngài đến không kèn, trống. Có tiền hô, hộ ủng đấy. Tiền hô là một chàng trai trẻ, mặc áo lạc đà, ăn châu chấu, uống nước sông. Hậu ủng là nhóm mươi người lang thang, thất thế, không nhà cửa. Đường lối Thiên Chúa khác hẳn đường lối xã hội. Con đường Ngài đi là con đường tình yêu mà tình yêu chân chính gắn liền với khiêm nhu, đơn sơ và khó nghèo. Ba đặc điểm trên thể hiện ngày Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Ba đặc điểm trên cũng thể hiện ngày Ngài tử nạn trên thập tự. Trên đồi Calvê có bạo động, có tiếng búa chói tai, có hò hét, la ó. Ai gây ra tiếng đó thưa là những nhà lãnh đạo trong dân. Thưa là đám lí hình hành hung người tù và cuối cùng là tiếng của đám đông chứng kiến. Đấng Cứu Thế im lìm đón nhận tất cả vì tình yêu Ngài dành cho nhân loại.
Cậu Giuse và cô Maria đón nhận Đấng Cứu Thế do sự can thiệp kì diệu của Thiên Chúa. Mùa Giáng Sinh chúng ta xin ơn bình an và ơn cam đảm đón Chúa tái sinh trong cõi lòng mỗi người.
56. “Giuse đón vợ về nhà mình”
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Theo tiến trình phụng vụ của Giáo Hội, trước Đại Lễ Giáng Sinh, bao giờ Giáo Hội cũng cử hành một tuần lễ áp, từ ngày 17 đến ngày 24, để nhắc lại tất cả những gì xẩy ra trước Biến Cố Giáng Sinh và trực tiếp liên quan đến Biến Cố Giáng Sinh. Đầu tiên là hai bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu, một cho ngày 17, về nguồn gốc loài người của Chúa Kitô theo gia phả của Người, và một cho ngày 18, về nguồn gốc Biến Cố Nhập Thể của Người, sau đó, Phúc Âm Thánh Luca thứ tự cho thấy chi tiết hơn, ở ngày 19, về việc thiên thần báo tin Gioan Tẩy Giả ra đời, ở ngày 20, về việc truyền tin Lời Nhập Thể, ở ngày 21, về việc Mẹ Maria thăm viếng bà Isave, ở ngày 22, về ca vịnh Mẹ Maria ngợi khen Thiên Chúa là Đấng chẳng những “đã thương đến phận thấp hèn tì nữ của Ngài” là Mẹ mà còn “săn sóc Yếu Duyên tôi tớ của Ngài theo lòng Ngài xót thương, như Ngài đã phán hứa với các vị tổ phụ”, ở ngày 23, về việc đặt tên cho Gioan Tẩy Giả, và ở ngày 24, về ca vịnh Giacaria, thân phụ của hài nhi Gioan, báo trước việc “Chúa là Thiên Chúa của Yến Duyên đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài”. Theo chiều hướng ấy, các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Bốn, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng này, cũng cho thấy, ở chu kỳ phụng vụ Năm A theo Phúc Âm Thánh Mathêu, về việc thiên thần báo mộng cho Thánh Giuse liên quan đến Lời Nhập Thể, ở Năm B theo Phúc Âm Thánh Luca, về biến cố Truyền Tin theo Phúc Âm Thánh Luca, (vì Phúc Âm Thánh Marcô cho chu kỳ Năm B không có một chi tiết nào về sự kiện Nhập Thể), và ở Năm C cũng theo Phúc Âm Thánh Luca, về việc Mẹ Maria thăm viếng và được bà Isave nhận biết Đấng cưu mang trong lòng Người. Riêng bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu hôm nay cho chúng ta thấy nguồn gốc của việc “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32) nhập thể, một biến cố trực tiếp liên quan đến cha mẹ của Người, nhất là liên quan đến vị cha nuôi của Người.
Thật vậy, hai tuần Mùa Vọng trước đây chúng ta đã thấy nhân vật Gioan Tiền Hô nổi bật trong các bài Phúc Âm Thánh Mathêu, hôm nay, cũng theo Phúc Âm Thánh Mathêu, đến phiên nhân vật Giuse, nhân vật chính được Thánh Ký Mathêu ghi nhận, “Maria đã đính hôn” và “là một con người chính trực”. Và cũng chính vì “là một con người chính trực” mà Thánh Giuse, như Phúc Âm kể tiếp, “không muốn tố cáo (Mẹ) nên “định tâm bỏ (Mẹ) cách kín đáo”. Tuy Phúc Âm không thuật lại cho biết “con người chính trực” này tại sao lại đi đến quyết tâm như vậy, chúng ta cũng hiểu là thánh nhân đã nhìn thấy tận mắt Mẹ Maria đang mang thai, trong khi hai người mới đính hôn với nhau, chưa về chung sống vợ chồng với nhau. Sự kiện Chúa Giêsu được thụ thai trong thời gian Mẹ Người đính hôn này cho thấy, theo pháp lý Do Thái bấy giờ, một khi đã đính hôn, hai người nam nữ có thể ăn ở với nhau như vợ chồng. Bằng không, Chúa Giêsu có thể bị coi là đứa con tiền hôn, thậm chí có thể trở thành một đứa con ngoại hôn hay một đứa con hoang, nếu hôn nhân không thành theo kiểu đính hôn thời nay, hay sau khi Thánh Giuse âm thầm bỏ đi. Phúc Âm cũng không thuật lại cho chúng ta biết “con người chính trực” này đã thấy được sự kiện phũ phàng oái oăm này lúc nào, (chắc chắn là sau thời gian Mẹ Maria đi thăm mẹ con Thánh Gioan Tẩy Giả về), và cuộc chiến đấu nội tâm đã xẩy ra như thế nào nơi Thánh Giuse sau khi chứng kiến thấy sự lạ xẩy ra trên thân xác của người vợ đính hôn của mình. Thế nhưng, căn cứ vào những chi tiết hết sức quan trọng, dù ngắn ngủi của Phúc Âm hôm nay, (cũng là bài Phúc Âm cho Lễ Kính Thánh Giuse 19/3 hằng năm, và cho cả lễ ngày 18/12 trong tuần trước Đại Lễ Giáng Sinh), chúng ta có thể cảm thấy được tâm trạng đau khổ quằn quại của Thánh Giuse, và cũng mới có thể thông cảm được việc ngài quyết định “bỏ (Mẹ) cách kín đáo”, một quyết định mà đối với ngài bấy giờ hết sức sáng suốt và khôn ngoan của “một con người chính trực”.
Trước hết, Thánh Giuse đã quằn quại với một tâm trạng đau khổ, đến nỗi, đã quyết định âm thầm bỏ đi. Phải chăng quyết định âm thầm bỏ đi của thánh nhân là một quyết định khôn ngoan sáng suốt, hay chỉ là một quyết định bối rối quá không biết phải làm sao hơn? Chúng ta có thể nghĩ rằng, sau khi chợt thấy người vợ đính hôn của mình rõ ràng là có bầu, với cái bụng phồng lên trông thấy, có thể nào về phương diện nhân loại, thánh nhân lại không bật ngửa ra, vô cùng lạ lùng bỡ ngỡ. Chắc chắc ngài đã không lên tiếng hỏi Mẹ Maria cho rõ ràng minh bạch về vấn đề này. Bởi thế, chúng ta cũng có thể suy ra rằng ngài đã bất chợt trông thấy Mẹ có bầu chứ không trực diện với Mẹ. Cho dù như thế, dù không trực diện với Thánh Giuse, Mẹ Maria chắc cũng linh cảm thấy, nếu không muốn nói là biết được rằng vị phu quân của Mẹ đã thấy chuyện lạ nơi thân xác của Mẹ. Cho dù có linh cảm thấy hay biết được điều này đi nữa, Mẹ Maria cũng đã chấp nhận nó ngay từ khi thưa lời “xin vâng” (Lk 1:38). Cả hai đều khó mở lời với nhau đối với vấn đề này. Về phần Thánh Giuse, nếu Mẹ Maria không tự động nói ra, chẳng lẽ ngài lại đi vặn hỏi, như thể ngờ vực và ghen tương, trong khi thánh nhân “là một con người chính trực”, cao thượng. Phần Mẹ Maria, chẳng lẽ phu quân của mình không hỏi mà lại tự động nói ra, như thể sợ bị ngài hiểu lầm, trong khi đó Mẹ lại là một con người “có phúc vì đã tin những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lk 145), nghĩa là, Mẹ không lo gì cả, hoàn toàn phó thác cho Chúa tất cả mọi sự, để Ngài tự giải quyết vấn đề theo ý định và đường lối của Ngài, không phải vì Mẹ muốn thách đố Chúa, ở chỗ, nếu Mẹ bị ném đá chết thì Chúa Kitô cũng sẽ chết, như thế những gì Chúa phán sẽ bất thành.
Chúng ta không biết khi quyết định âm thầm bỏ Mẹ Maria mà đi như thế, Thánh Giuse có nghĩ ra rằng, nếu làm vậy, cho dù thánh nhân không trực tiếp ra mặt khiến cho Mẹ bị ném đá chết, thì ngài cũng gián tiếp gây ra sự việc đáng tiếc ấy nếu chẳng may xẩy ra thực sự. Bởi vì, sau khi ngài đi rồi, mà Mẹ Maria lại bị khám phá ra không chồng mà có chửa thì cuối cùng Mẹ cũng bị ném đá chết thôi. Như thế, phải chăng Thánh Giuse chỉ nghĩ đến mình, đến danh thơm tiếng tốt của mình, hơn là dám liều mình che chở cho người khác, kể cả kẻ làm ô danh mình đi nữa, nếu quả thực là như vậy? Thế nhưng, khách quan mà nói, có một điều không thể tránh được là “chính trực” bao giờ cũng ngược với bất chính và không thể nào chấp nhận gian tà, như dâm ô, trộm cướp, giết người v.v. Bởi thế, sự kiện Mẹ Maria mang thai ngoại hôn khách quan là một chuyện không thể chối cãi, một chuyện tự bản chất thật là bất chính và gian tà, không thể chấp nhận được. Thánh Giuse có nghĩ rằng Mẹ Maria đã phạm tội ngoại tình hay chăng, không ai dám khẳng định và quả quyết. Tuy nhiên, việc mang thai ngoại hôn của Mẹ Maria trước mắt thánh nhân bấy giờ quả thực là một việc ngoại tình, và việc ngoại tình này không phải chỉ phạm đến thánh nhân mà nhất là phạm đến chính lề luật, tức đến chính Thiên Chúa. Việc ngài quyết định âm thầm bỏ đi không tố cáo Mẹ nghĩa là ngài hoàn toàn không dám phán đoán Mẹ, trái lại, trao phó những gì ngoài thẩm quyền phán quyết của ngài cho lề luật, cho Thiên Chúa Tối Cao là Đấng duy nhất có quyền phán xét Mẹ.
Như thế, quyết định âm thầm bỏ vị hôn thê của mình mà đi chứ không muốn ra mặt tố cáo người của Thánh Giuse cho thấy thánh nhân chẳng những “là một con người chính trực” theo luật cũ, mà còn là một con người nhân hậu theo luật mới nữa, một thứ luật mới được “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32), “quả phúc nơi lòng” (Lk 1:42) vị hôn thê của ngài bấy giờ mà ngài không biết, sau này sẽ khuyên dạy trong Bài Giảng Trên Núi, được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 7 câu 1, như sau: “Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét”. Phải, nếu Thiên Chúa đã làm sáng tỏ những mầu nhiệm của Ngài cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn nhất (xem Mt 11:25), thì Ngài quả thực đã thực hiện điều này nơi trường hợp điển hình của “con người chính trực” Giuse. Ở chỗ, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, “đột nhiên thiên thần Chúa hiện ra trong giấc mộng của ông mà nói: ‘Hỡi Giuse, con Đavít, đừng sợ nhận Maria làm vợ. Chính bởi Thánh Thần mà người đã thụ thai con trẻ ấy. Người sẽ sinh ra một bé trai và ông sẽ đặt tên cho bé là Giêsu, vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội’”. Chính vì “là một con người chính trực”, nhưng không phải kiểu công minh chính trực của nhóm Pharisiêu đầy những tự cao, tự đại, xét nét, khinh người, mà là một thứ công chính nhân hậu của Tân Ước, với một tinh thần hết sức đơn sơ bé mọn, nên thánh nhân đã chấp nhận ngay mạc khải của Thiên Chúa, cho dù mạc khải của Ngài không tỏ ra cho thánh nhân thấy giữa thanh thiên bạch nhật mà chỉ qua một giấc mộng. Thánh nhân đã mau mắn chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa ở chỗ, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: “Khi Giuse thức giấc ông đã làm như lời thiên thần chỉ dẫn và đã đón vợ về nhà mình”.
Trong câu chuyện của bài Phúc Âm hôm nay, câu chuyện Thánh Giuse định tâm âm thầm bỏ Mẹ Maria mà đi rồi sau đó đã đón Mẹ về nhà mình khi nhận được mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta chẳng những thấy được hình ảnh của một Đấng Thiên Sai khổ nạn và tử giá, một cuộc khổ nạn và tử giá đã rọi chiếu nơi cha mẹ của Ngài ngay trước khi Người xuất hiện, mà còn thấy được cả ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta thấy trong biến cố này nữa. Ý định đó là, muốn chấp nhận Vị Thiên Chúa Nhập Thể, tức chấp nhận Đấng Thiên Sai khổ nạn và tử giá, dù có nhận ra Người hay không, con người chẳng những phải chấp nhận thập giá khổ đau bởi Người và với Người, mà còn phải chấp nhận cả Mẹ của Người là Trinh Nữ Maria nữa. Khi Thánh Giuse “đón vợ về nhà mình” cũng chính là lúc thánh nhân đón cả “Giêsu quả phúc” trong lòng vị hôn thê “đầy ơn phúc” của thánh nhân về nhà của thánh nhân vậy.
Vấn đề thực hành sống đạo: Không một tạo vật nào trên trời dưới đất gần gũi Mầu Nhiệm Nhập Thể bằng Mẹ Maria, vì Mẹ là Mẹ của Lời Nhập Thể. Nếu con khổng long và bọn ngụy thần của hắn bị hất nhào xuống đất mất chỗ đứng của mình trên trời (xem Rev 12:8) là vì chúng không chấp nhận Lời Nhập Thể, tức không chấp nhận loài người được làm Mẹ Thiên Chúa (xem Rev 12:4), và nếu tinh thần phản kitô hay thành phần phản kitô là tinh thần và là thành phần “không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt” (2Jn 7; xem 1Jn 4:3), thì quả thực muốn chấp nhận hay muốn cảm nghiệm thần linh về Lời Nhập Thể, nhất là trong Mùa Vọng, phải chăng con người cần “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3), ở chỗ, trước hết, chấp nhận Mẹ Maria, tức đến với Mẹ để Mẹ dẫn họ đến với Chúa, vì Chúa đã thực sự nhờ Mẹ đến với loài người: Mẹ chính là Điểm Hẹn Thần Linh, nơi Thiên Chúa hẹn gặp gỡ loài người và là nơi loài người chắc chắn sẽ gặp được Ngài là Vị Thiên Chúa Làm Người trong lòng Mẹ và được hạ sinh bởi Mẹ?
57. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây hại hơn là tác lợi hay sao?
Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa bao gồm 2 Bài Đọc 1 và 2 cùng với bài Đáp Ca và bài Phúc Âm như mọi Chúa Nhật khác trong phụng niên. Tuy nhiên, vì Chúa Nhật IV Mùa Vọng thường rơi vào một ngày trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh, từ ngày 17 đến đêm vọng Giáng Sinh 24/12, nên Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm 2016 là ngày 18/12, tức ngày thứ hai trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh. Ngoài ra, chu kỳ phụng niên từ Mùa Vọng năm 2016 thuộc về chu kỳ phụng niên Năm A, năm theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, bởi thế, bài Phúc Âm theo Thánh mathêu cũng chính là bài Phúc Âm cho ngày 18/12, chỉ có Bài Đọc 1 và 2 cùng bài Đáp Ca là khác.
Đúng thế, bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm A cũng chính là bài cho ngày 18/12 trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm cho ngày 17/12. Vì bài Phúc Âm 17/12 ghi lại gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế, từ tổ phụ Abraham tới dưỡng phụ Giuse của Người, và hôm nay về chính vị dưỡng phụ Giuse này.
"Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: 'Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội'".
Theo gia phả của Đấng Thiên Sai, như chúng ta đã thấy, trong 5 người phụ nữ được liệt kê, có đến 3 người không trong sạch liên quan đến chuyện xác thịt: 1 con điếm dân ngoại và 2 người vợ ngoại tình, còn 1 người nữa là dân ngoại cũng kể như không trong sạch trước mắt dân Do Thái. Trường hợp của người đàn bà thứ năm là Maria, theo con mắt tự nhiên nói chung, nhất là trước con mắt của người chồng đã đính hôn của nàng là Giuse vốn là một "con người công chính" thì kể như nàng thậm chí còn tệ hơn nữa, vì nàng là người vợ chưa cưới nhưng đã "chửa hoang"!
Chính trong trường hợp này, trường hợp thật sự là bất khả chấp trước con mắt thế gian nói chung và những ai "công chính" nói riêng, như người chồng chưa cưới Giuse của nàng Maria, một con người luôn hết mình coi trọng và hết sức tuân giữ lề luật của Chúa với lương tâm chân chính, thì nàng Maria, đáng lẽ theo luật, cần phải bị tố cáo và bị ném đá chết, như trường hợp của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình ở Phúc Âm Thánh Gioan (xem 8:1-11).
Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan thượng trí đã cố ý muốn, (chứ không phải làm ngơ để xẩy ra như vậy), câu chuyện tình duyên của hai con người phải nói là thánh thiện nhất loài người được Ngài liên kết trong tình nghĩa vợ chồng đây xẩy ra một cách vô cùng oái oăm oan nghiệt như vậy. Để làm gì? Phải chăng chỉ để khách quan cho thấy rằng: Đấy nhé, Đấng Thiên Sai là Con của Ngài được Ngài sai xuống trần gian hoàn toàn được "thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần", chứ "không phải bởi huyết nhục, bởi ý muốn nhục dục, hay bởi ý muốn của nam nhân" (Gioan 1:13).
Ở đây, ngay trong trường hợp này, chúng ta đã thấy được bóng thánh giá của Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, ở chỗ, vừa mới được thụ thai được ít lâu, khoảng hơn 3 tháng, tức sau biến cố thai mẫu của Người đi thăm viếng người chị họ Isave về (xem Luca 1:56), đã bị coi như là một đứa "con hoang" trước mắt trần gian, cùng với người mẹ đồng công của Người, cũng bị coi như là một người vợ chưa cưới "chửa hoang" theo cảm nghĩ của người đời.
Thế nhưng, chính vì là việc của Thiên Chúa, mà cho dù nàng Maria có linh cảm được cái nguy hiểm gây ra bởi những bất hạnh theo luật có thể xẩy ra cho nàng, vì trong thời gian đính hôn, có những lúc nàng không thể nào tránh né được chuyện gặp mặt vị hôn phu chưa cưới của nàng, nàng vẫn nhất định không hề đính chính hay tự vệ tí nào, trái lại vẫn tiếp tục hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, như nàng đã tin tưởng đến độ vô cùng liều lĩnh khi đáp lời truyền tin của thiên sứ Gabiên trong việc chấp nhận thụ thai "Con Đấng Tối Cao... Con Thiên Chúa" (Luca 1:32,35).
Quả thật, vì là việc của Thiên Chúa, nên chính Ngài đã ra tay can thiệp cho Con của Ngài cũng là cho người nữ đã được Ngài tuyển chọn từ đời đời làm người mẹ trinh nguyên thụ thai, cưu mang và hạ sinh Con của Ngài trên trần gian, như được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại.
Việc Thiên Chúa can thiệp đây đồng thời cũng là việc Thiên Chúa muốn cứu cả vị hôn phu chưa cưới của người mẹ đồng công và là vị dưỡng phụ tương lai của người con cứu chuộc này, một con người công chính đã có một quyết định, theo chủ quan, thật là bác ái yêu thương, mặc dù, theo khách quan, vẫn có thể nguy hại cho người vợ chưa cưới của ngài, ở chỗ, khi nàng sinh con mà lại không thấy chồng nàng đâu, nàng cũng bị ném đá chết thôi.
Và như thế, tất cả những gì được tiên báo về hai mẹ con được Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã tiền định cùng nhau mang lại Ơn Cứu Độ cho trần gian (xem Khởi Nguyên 3:15) hoàn toàn được ứng nghiệm, chẳng những nhờ lòng tin của người mẹ mà còn nhờ đức công chính theo tinh thần bác ái yêu thương hơn là duy luật của vị dưỡng phụ nữa, một cặp vợ chồng thật lý tưởng của Con Thiên Chúa làm người, như được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
"Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: 'Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta'. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu".
Biến cố và sự kiện Đấng Thiên Sai Cứu Thế xuất hiện trên trần gian này không thể nào không xẩy ra, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15). Bởi thế, không có gì có thể gây trở ngại hay làm hỏng chuyện này, như trường hợp được Phúc Âm hôm nay ghi lại ở phần đầu.
"Lời tiên tri phán xưa", được Thánh ký Mathêu là tác giả Phúc Âm thứ nhất viết cho dân Do Thái nên bao giờ ngài cũng dẫn chứng Cựu Ước để cho dân Do Thái thấy rằng Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Đức Kitô Thiên Sai của họ, chính là lời tiên tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: 'Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!' Nhưng vua Achaz thưa: 'Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử thách Chúa'. Và Isaia nói: 'Vậy hãy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta'".
Trong Bài Đọc 2 chính vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cũng xác tín và loan báo cho Kitô hữu Roma về xuất xứ của một Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế là Đấng đã được tiên báo trước trong Cựu Ước qua "các vị tiên tri", vì Người được hạ sinh theo huyết nhục Do Thái "bởi dòng dõi Đavít", đúng như gia phả của Người được Phúc Âm Thánh ký Mathêu ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay, Đấng "chính là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, chúng tôi đã nhận ân sủng và chức vụ tông đồ, để nhân danh Người, chúng tôi quy phục mọi dân tộc về Ðức Tin, trong đó có cả anh em là những người mà Chúa Giêsu đã kêu gọi".
Vì "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24) nên con người không thể nào biết Ngài nếu chính Ngài không tỏ mình ra cho họ. Mầu nhiệm Nhập Thể là tác động thần linh tỏ mình ra của Thiên Chúa "vào lúc thời gian viên mãn" (Galata 4:4), "vào thời sau hết" (Do Thái 1:2), sau khi "chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh... ngự qua", như câu thưa của Bài Đáp Ca hôm nay, "ngự qua" bằng những cách thức khác nhau cho các vị cha ông trong Cựu Ước (xem Do Thái 1:1). Nếu Ngài không nhập thể thì loài người thấp hèn hữu hình hữu hạn tự mình không thể nào biết được Ngài là ai và như thế nào.
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có "hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) chăng nữa, nơi Đức Giêsu Kitô Con của Ngài, chung loài người và riêng dân Do Thái của Ngài, có thể nói, lại càng khó có thể nhận biết Ngài, nhận ra Ngài nơi một con người thấp hèn như họ: "Ngài đã ở trong thế gian và nhờ Ngài mà thế gian đã đưọc tạo thành nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài là ai. Ngài đã đến với dân riêng của Ngài nhưng dân riêng của Ngài không chấp nhận Ngài" (Gioan 1:10-11).
Vậy thì chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây hại hơn là tác lợi hay sao? Câu trả lời cho vấn nạn nạn giải này có thể tìm thấy ngay trong Bài Đáp Ca hôm nay, trong đó, Thánh Vịnh gia trước hết đã xác tín và tuyên ngôn về đức khôn ngoan và quyền toàn năng của Vị Thiên Chúa Hóa Công tối cao rằng: "Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả (ám chỉ quyền năng), và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn (ám chỉ khôn ngoan)" (câu 1).
Vì Nhập Thể cho dù bề ngoài có là một biến cố lịch sử có thật, với những nhân vật lịch sử, như được liệt kê trong gia phả của Chúa Giêsu Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua 17/12 chăng nữa, nhất là đối với riêng cha mẹ trần gian của Người, nhưng tự bản chất là một mầu nhiệm, được Bài Đáp Ca ám chỉ như là một "cao sơn của Chúa", là "nơi thánh của Ngài" (câu 2), chỉ có thể nhận biết bằng "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) mà thôi: "Ai chấp nhận Ngài thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).
Chính vì Nhập Thể là một mầu nhiệm vô cùng cao siêu, vượt tầm mức kiến thức hạn hẹp của con người vốn hướng hạ và gian ác mà, theo Thánh Vịnh gia của Bài Đáp Ca hôm nay, muốn cảm nhận và chấp nhận mầu nhiệm nhập thể này, tức là muốn "trèo lên cao sơn của Chúa" và muốn "đứng trong nơi thánh của Ngài", hay nói đúng hơn, muốn "tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp" (câu 3), họ cần phải là những con "người có bàn tay (ám chỉ việc làm) vô tội và tấm lòng (ám chỉ ý hướng) thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa", những con người được tiêu biểu nhất trong thành phần này đó là Mẹ Maria trinh nguyên và Bõ Giuse công chính, cha mẹ trần gian của Con Trẻ Giêsu.
58. Đừng sợ – Lm. Nguyễn Minh Hùng
Lần giở lại những trang Tin Mừng, bạn và tôi sẽ bắt gặp ở đó đến bốn cuộc truyền tin của Thiên Chúa nói với loài người, liên quan đến mầu nhiệm Con Chúa giáng sinh. Ba cuộc truyền tin được ghi trong Tin mừng theo thánh Luca và một trong Tin mừng theo thánh Mathêu. Cả bốn cuộc truyền tin đều do thiên thần mang sứ điệp của Thiên Chúa đến cho con người. Quan trọng hơn, cả bốn cuộc truyền tin, thiên thần đều có chung một lời trấn an: “Đừng sợ!”
Đối với ông Giacaria: “Giacaria, đừng sợ! Vì lời cầu của ngươi đã được chấp nhận”. Sau đó, thiên thần cho biết ông sẽ có một con trai như lòng mong ước. Người con này sẽ nên cao trọng vì “nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1, 5- 20).
Đối với Đức Maria: “Maria, đừng sợ! Vì Người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”. Qua lời thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế (Lc 1, 26- 38).
Đối với các mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại”. Qua lời thiên thần, các mục đồng là những người được Thiên Chúa báo tin mừng giáng sinh trước tiên (Lc 2, 8- 15).
Đối với thánh Giuse: “Giuse, đừng sợ! Vì thai nơi bà là do Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18- 24).
Hôm nay Chúa nhật áp lễ Giáng sinh, Giáo Hội muốn ta suy niệm cuộc truyền tin cho thánh Giuse. Để rút ra cho mình bài học Thánh Kinh từ câu chuyện truyền tin này, tôi lại rút ra bài học từ lời của thiên thần: “Đừng sợ”.
Lần giở tiếp những trang Tin Mừng, ta sẽ phát hiện rất nhiều lần Chúa bảo các môn đệ “đừng sợ”. Khi căn dặn các ông làm chứng cho Người, Chúa nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 28). Trong bữa tiệc ly, ngay trước giờ tử nạn của mình, Chúa căn dặn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Sau khi sống lại, ban bình an hoặc trấn an môn đệ “Đừng sợ! Hãy đi báo tin cho anh em của Thầy” (Mt 28, 10).
“Đừng sợ”! Lời Chúa ngày xưa nói với Giacaria, Đức maria, các mục đồng, thánh Giuse, và các môn đệ. Ngày nay lời này của Thiên Chúa cũng đang là lời nhắn gởi bạn và tôi. Bạn có sợ không? Riêng tôi, tôi thấy bạn và tôi sống trong cuộc đời này mà như chìm trong nỗi sợ. Tôi không bi quan đâu, sự thật đấy. Ngày nhỏ chúng ta sợ ma, sợ đòn. Lớn hơn một chút: sợ học tập thua sút bạn bè. Lớn hơn một chút nữa: sợ người yêu bội phản. Ngày ta lập gia đình, cũng là ngày ta sợ mình không tròn trách nhiệm của một người sống đời gia đình. Và cả cuộc đời ta, nỗi sợ lớn nhất, có lẽ là sợ chết.
“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Nếu tôi nhớ không lầm, thì ngay sau khi làm giáo hoàng, đức Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại của mìn bằng một sứ điệp với những lời lẽ như thế. Trải dài trên 20 năm làm giáo hoàng của mình, Đức thánh cha không ngừng nhắc đi nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”. Xoay quanh hai tiếng “đừng sợ”, Đức thánh cha mở ra cho ta thấy có những cái sợ rất nghịch lý. Lẽ ra ta không được sợ, lẽ ra ta phải xây dựng nó, thì ta lại sợ. Bằng chứng là hai sứ điệp ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 và lần thứ 16, Đức thánh cha nhắc tới nỗi sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6). Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ? Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ bản thân, là sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng lời… Suy nghĩ như thế, cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời của Đức thánh cha: “Các con đừng sợ nen thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”. Đức thánh cha chắc phải có một cảm nghiệm thiêng liêng sâu đậm lắm, người mới vượt lên trên sự sợ hãi, tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan báo.
Nhưng chắc chắn, khi nói tới sợ hãi, thì cái sợ của chúng ta không chỉ là sợ ma, sợ học thua sút, sợ mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… mà nỗi sợ còn lớn hơn nhiều. Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị của Tin Mừng bị xem nhẹ. Một thế giới màvật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang được ưa chuộng, quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Có khi chính những người cha, người mẹ lại tước mất quyền sống của con mình. Một thế giới mà ngòi nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa. Ngay trên quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà ngày xưa Chúa sinh ra, lại không có được một thánh lễ trong đêm sinh nhật Chúa, vì người ta đang gieo rắc bạo lực và chiến tranh…
Trước viễn cảnh của thế giới như thế, người Kitô hữu lại được mời gọi hãy sống các giá trị của Tin Mừng. Nghĩa là phải ngay thẳng trong một thế giới nhiều gian dối, yêu thương trong những hận thù, có tinh thần nghèo khó trong một xã hội đề cao tiền của, sống tha thứ giữa những chống đối và bạo lực… Sống như thế chỉ toàn là thiệt thòi thôi. Bởi đó ai mà không sợ. Tôi cũng sợ lắm bạn ạ! Nhưng chính trong lúc này đây, chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, bạn và tôi được mời gọi “đừng sợ”, để có thể sống trong bình an của ngày Giáng sinh. Để có bình an, bạn và tôi hãy đặt hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý mà Người muốn. Và xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn cảnh của thế giới, của nhân loại, của Giáo Hội, và của mỗi người. Tin nơi Thiên Chúa là gói trọn cuộc đời mình trong tay Người, để mặc Ý Chúa được thể hiện, chắc chắn ta sẽ có bình an. Tôi xin mượn lời thiên thần lặp lại một lần nữa: “Bạn và tôi, đừng sợ!”.
59. Điều xảy đến bất ngờ - Lm Nguyễn Ngọc Long
Khi sống trong trông mong chờ đợi, mà bỗng dưng xảy đến điều gì bất ngờ mang lại sự may lành thích thú hơn điều mong đợi. Lúc đó lòng ta tràn đầy niềm vui hạnh phúc.
Nhưng trái lại, khi điều xảy đến bất ngờ, không những không như mong đợi mà còn đưa đến điều lo âu suy nghĩ. Lúc đó, ta mang tâm trạng buồn lo thất vọng. Thánh Giuse sau khi kết hôn với Đức Mẹ Maria, cũng đã trải qua điều xảy bất ngờ mang lại nhiều suy nghĩ bối rối.
Ông Giuse kết hôn với cô Maria, nhưng ông liền khám phá ra: Cô Maria đã có thai. Điều này xảy đến thật bất ngờ ngoài điều ông trông chờ... Bao nhiêu câu hỏi diễn ra trong tâm trí ông và ông không tìm ra câu giải đáp: Tại sao cô Maria lại mang thai trước khi cưới hỏi, với ai vậy? Phải chăng cô không trung tín với người chồng của cô, là ta đây? Bây giờ phải làm sao? Cô đã bất trung với ta, thì ta bỏ cô vậy, mặc cô muốn sống sao như ý cô?
Ông âm thầm suy nghĩ ngày đêm về chuyện này, thì lại một bất ngờ xảy đến nữa. Thiên thần Chúa hiện đến với ông trong một giấc mơ và báo cho ông biết: con trẻ trong bào thai cô Maria là Con Thiên Chúa. Cô Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần tác động. Con đừng sợ. Đó là chương trình của Thiên Chúa xuống trần gian làm người!
Ông Giuse tuy là người đạo đức, có lòng yêu mến kính sợ Thiên Chúa, nhưng làm sao ông có thể hiểu nổi điều xảy đến bất ngờ vượt quá sức tưởng tượng của một bác thợ mộc chất phác nơi miền thôn quê! Dẫu vậy, lần này thì ông không hồ nghi. Ông âm thầm chấp nhận cô Maria và những lời Thiên Thần nói cho ông về Con Thiên Chúa và để bụng suy nghĩ tiếp về chương trình dự định của Thiên Chúa. Ông tin vào sự quan phòng của Người.
Điều xảy đến bất ngờ lần này mang lại cho ông sự bình an trong tâm hồn.
Không chỉ Đức Mẹ Maria và ông thánh Giuse sống trải qua những điều bất ngờ về chương trình của Thiên Chúa, nhưng còn có những người khác nữa: các mục đồng. Họ là những người quê mùa thất học, suốt đời chỉ sống với súc vật ngoài cánh đồng cỏ. Bỗng dưng họ cũng nhận được điều xảy đết bất ngờ. Thiên thần Chúa hiện đến báo tin cho họ: “Các Bạn đừng sợ! Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh hạ trong chuồng súc vật của các Bạn. Các Bạn hãy đến mà xem!”
Họ ngạc nhiên nhưng trong tâm trạng vui mừng. Vì điều bất ngờ xảy đến mang lại cho họ nhiều thích thú lạ lùng. Họ đâu có thể ngờ bỗng dưng có khách cao trọng từ trời cao đến thăm và sống trong nhà mình. Và từ đó làm biến đổi cuộc sống của họ: từ người chăm sóc thú vật thành người được nhìn thấy Thiên Thần của Chúa, được đến thăm viếng trò truyện với Con Trẻ Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không chỉ với biến cố Thiên Chúa xuống thế làm người mới có những điều xảy bất ngờ, nhưng điều xảy ra bất ngờ thường có ngay trong cuộc đời mỗi người. Điều đó có thể là điều may lành an vui, nhưng cũng có thể là điều gây ngạc nhiên bỡ ngỡ xa lạ đến độ lo âu suy nghĩ bối rối mất bình an.
Thông thường ai cũng mong điều xảy đến bất ngờ mang lại niềm vui hạnh phúc hơn điều mang đến sự bất an trong cuộc sống. Như cuộc đời thánh Giuse đã trải qua, đôi khi những điều xảy ra bất ngờ làm lo âu suy nghĩ bối rối, không mấy ai muốn chấp nhận, lại là tín hiệu quan trọng mang tin lành bình an cho con người.
Những đau khổ, bệnh tật, điều gây bối rối, điều trái ý gây khó chịu là những điều xảy đến bất ngờ và chẳng ai muốn có. Nhưng nếu như thánh Giuse với một tâm hồn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, mà vui lòng chấp nhận, điều đó có thể trở nên giá trị tốt đẹp cho đời sống chính mình và người khác nữa.
Đức Mẹ Maria cũng đã vui lòng chấp nhận sứ điệp Thiên Thần Chúa mang đến bất ngờ ngoài điều mong muốn cho đời mình, nên Chúa mới giáng sinh xuống trần gian. Ngài mang ánh sáng tình yêu từ trời cao xuống cho con người. Và qua biến cố đó, nhân loại mới có ngày lễ mừng trọng đại: Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa.
60. "Giuse, con Vua Đavit" – Lm. Nguyễn Hùng
Theo C.G.Jung, một nhà tâm lý nổi tiếng của Tây phương, giấc mơ bày tỏ chiều kích vô thức của tâm trí con người, hướng về biến cố tương lai, và bộc lộ lãnh vực bị quên lãng nơi cá tính đương sự. Giấc ngủ là nhu cầu của thân xác hơn là của linh hồn. Do đó có thể nói rằng khi ngủ linh hồn vẫn tiếp tục sinh hoạt qua tiềm thúc, tức là giấc mơ. Tuy nhiên vì linh hồn không được nối kết chặt chẽ với thế giới linh thiêng, giấc mơ chỉ là sự ráp nối hỗn tạp những gì hình ảnh tồn đọng trong trí nhớ, hầu hết không có ý nghĩa gì.
Trong Thánh Kinh, giấc mơ đóng vai trò khá quan trọng. Tổ phụ Giuse đã bị anh em chế nhạo là “kẻ mơ màng” vì ông đã kể ra mình nằm mơ thấy bó lúa của các anh em cúi xuống thần phục bó lúa của mình; và trong một giấc mơ khác ông thấy mặt trời, mặt trăng, và 11 ngôi sao cúi mình trước mặt ông (Gn 37:5-9). Đây là điềm báo trước ông sẽ lên chức tể tướng của nước Ai cập. Ở đây giấc mơ làmạc khải bí nhiệm của Thiên Chúa về tương lai của đương sự. Thiên Chúa hé mở một phần chương trình của Ngài cho con người biết. Tổ phụ Giuse là người được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu nước Ai cập và gia đình khỏi nạn đói. Ông là người công chính, biết kính sợ Chúa, nên tâm hồn nhạy cảm dễ đón nhận mạc khải của Thiên Chúa.
Vào Chúa nhật 4 mùa Vọng, Giáo hội muốn giới thiệu một nhân vật có vai trò quan trọng trong mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng sinh; đó là thánh Giuse. Ngài được Phúc âm giới thiệu là người công chính, người sống gần Thiên Chúa. Thánh Giuse đã đính hôn Đức Mẹ, nhưng không hề biết Mẹ thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Nên khi thấy có dấu hiệu khác thường nơi Đức Mẹ, thánh Giuse bị bối rối không biết làm sao, nên định âm thầm rút lui có trật tự. Thiên Chúa đã dùng giấc mơ để mạc khải cho thánh Giuse vai trò của thánh nhân trong chương trình cứu chuộc nhân loại. Khi hiện ra trong giấc mơ, thiên thần đã gọi: “Hỡi Giuse, con vua Đavít”. Tuy thánh Giuse chỉ là cha nuôi, nhưng theo truyền thống của Do thái, người cha xác định dòng dõi của con cái. Chúa Kitô được tiên báo sinh ra trong dòng dõi vua Đavít. Ngài là Vua theo dòng dõi vương giả chính tông của Do thái. Sứ mệnh cứu thế của Ngài gắn liền với uy quyền của một Vị vua trên hết các vua.
Thánh Giuse là nhân vật quan trọng trong biến cố Chúa Giáng sinh, nhưng Phúc âm không ghi lại lời nói nào của Ngài. Thánh Giuse tỏ ra là người quản gia trung tín săn sóc hai kho tàng quí giá nhất trần gian đó là Chúa Giêsu hài nhi và Mẹ Maria. Tinh thần âm thầm phục vụ như người tôi tớ của Thiên Chúa là tiếng nói sâu xa mà thánh Giuse để lại cho nhân loại.
Trong mùa Vọng, Giáo hội kêu gọi các tín hữu chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến với tâm tình chờ đợi như người đầy tớ gọi chủ đến bất ngờ, như những trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể. Thánh Giuse chính là gương mẩu để chúng ta học hỏi. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình khiêm tốn, âm thầm, tận tụy, và nhất là sống liên kết với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Bầu khí ồn ào của những ngày lễ Giáng sinh khiến chúng ta xa rời ý nghĩa chân thực của Ngày Lễ. Chúng ta vui mừng nhưng không phải bằng cách say sưa, chè chén, nhậu nhoẹt linh đình. Chúng ta vui mừng bằng sự chia sẻ của ăn, áo mặc, với những người nghèo khổ; bằng những nụ cười với người không quen biết, không ưa thích; bằng lời nói tốt cho người súc phạm đến mình; bằng lòng rộng rãi bao dung với con cái; bằng những lời nói, cử chỉ yêu thương, biết ơn đối với cha mẹ; và hơn hết bằng lời cầu nguyện cho thế giới được hòa bình, cho những tấm lòng hận thù bị tan biến, thay vào đó là những trái tim đầy ắp tình người.
61. Khởi đầu mới phát xuất từ Thiên Chúa
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn thứ hai thuộc nửa đầu của Phần Mở.
Bảng gia phả đã nói rằng Đức Giêsu xuất thân từ nhà Đavít và Abraham cũng như Người bén rễ sâu vào trong lịch sử Israel. Đồng thời bảng gia phả cũng khẳng định hoàn cảnh huyền bí của cuộc chào đời của Người (1,16). Với cách bố trí cũng như những con số, bảng gia phả cho thấy rằng Đức Giêsu là cùng đích và sự hoàn tất của lịch sử này. Nhưng bảng gia phả lại không nói cho biết sự hoàn tất này hệ tại điều gì. Điều này bây giờ được nói rõ qua sứ điệp Thiên Chúa ban cho Giuse và được xác nhận qua cách xử sự của Giuse.
Trong c. 16 của ch. 1, tác giả bảo chúng ta rằng Giuse là chồng của Maria và Maria là mẹ của Đức Giêsu, nhưng Giêsu lại không phải là con của Giuse. Trong đoạn văn đọc hôm nay (1,18.20), tác giả liên tiếp nhắc lại rằng Chúa Thánh Thần ở tại nguồn của cuộc đời Đức Giêsu đến cuối đoạn văn, tác giả nhắc lại lần thứ ba rằng Giuse không can dự gì vào cuộc chào đời của con trẻ này (1,25). Nếu ở 1,25, tác giả viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”, ông muốn nói rằng cho đến khi Đức Giêsu chào đời, Giuse không hề có mộtquan hệ phu phụ nào với Maria, nhưng cũng không khẳng định rằng sau đó Giuse đã bắt đầu có quan hệ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm năm phần:
1) Đầu đề của đoạn (1,18a);
2) Hoàn cảnh của Giuse và Maria (1,18b-19);
3) Thiên Chúa can thiệp (1,20-21);
4) Lời bình của tác giả (1,22-23);
5) Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (1,24-25).
3.- Chú giải
- chung sống (18): Synelthein, “đến với, tham gia với”, có thể có nghĩa là quan hệ vợ chồng hoặc sống với nhau. Văn cảnh trực tiếp dường như hợp với nghĩa thứ nhất hơn. Người thiếu nữ Do Thái được đính hôn vào khoảng năm 12 tuổi, từ giã cha mẹ để về sống dưới sự bảo trợ của chồng vào khoảng năm 13-14 tuổi. Sự chuyển đi này mở đầu cho cuộc sống chung và cũng là việc kết hôn.
- người công chính (19): Giuse không công chính theo nghĩa vâng phục lề luật, bởi vì không có khoản luật nào buộc phải bỏ vị hôn thê bị coi là ngoại tình (Đnl 22,13-21.23-27 liên hệ đến hôn nhân hoàn hợp; x. Đnl 24,1). Vả lại, khi bỏ Maria một cách kín đáo (lathra), ngài cũng chẳng vâng phục lề luật, bởi vì hành vi rẫy vợ chỉ có giá trị pháp lý nếu làm công khai (x. Đnl 22,15: tại cửa thành). Một đàng, nếu hiểu đây là “sự công chính theo luật pháp”, chúng ta đứng trước một thế lưỡng nan. Quả vậy, nếu dưới mắt Giuse, Maria đã ngoại tình, ngài bỏ bà là chuyện dễ hiểu, nhưng ta không hiểu vì sao ngài lại tính bỏ bà “cách kín đáo”, bởi vì khi đó việc này sẽ không có hiệu quả pháp lý và thật ra bí mật cũng chẳng giữ được lâu. Còn nếu Giuse cho rằng Maria vô tội, ta không hiểu được là vì sao ngài lại nghĩ đến việc bỏ bà, vì luật không buộc như thế; đã thế, trong tư cách là hôn phu, ngài còn có nghĩa vụ bảo vệ hôn thê vô tội chống lại những ngờ vực vô căn cứ của kẻ khác. Vậy không thể hiểu sự công chính của ngài theo nghĩa pháp lý.
Đây là sự công chính tôn giáo. Chính sự công chính này buộc Giuse phải tôn trọng việc Thiên Chúa làm nơi Maria và ngăn cản ngài nhận lấy những công trạng từ một hành động của Thiên Chúa: tự mình, ngài nghĩ ngài không được phép đưa về nhà một người đã được Thiên Chúa dành riêng cho Ngài. Nếu làm như thế, ngài có vẻ chiếm đoạt mộtvai trò mà Thiên Chúa không trao cho ngài. Đứng trước mầu nhiệm này, ngài muốn rút lui, và vì tế nhị do đức công chính đối với Thiên Chúa, ngài đã để ý không “phổ biến” mầu nhiệm Thiên Chúa đang bao trùm Maria. Vấn đề nằm ở động từ deigmatisai: theo Origiênê và Êusêbiô, động từ này không hề hàm chứa một ý niệm ô nhục nào; cha Joušon dịch là “vén mở, tiết lộ”. Động từ paradeigmatisai mới là “trừng phạt để nêu gương; làm cho ô nhục, mất danh giá”. Giuse đã phản ứng như tất cả mọi người công chính trong Kinh Thánh khi nhận ra Thiên Chúa đang can thiệp vào trong lịch sử của họ: như Môsê cởi dép khi đứng trước bụi gai cháy, như ngôn sứ Isaia kinh hoàng khi thấy vị Thiên Chúa ba lần thánh xuất hiện, như bà Êlisabét tự hỏi vì sao mẹ Đức Chúa của bà lại đến thăm bà, như viên đại đội trưởng trên đồi Sọ, như Phêrô khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng. Như “Aben người công chính” (23,36: người “công chính” duy nhất được Mt nêu tên trong Tin Mừng. Chắc chắn Aben “công chính” không do lề luật, bởi vì lề luật chỉ được ban bố với Môsê!), Giuse cũng tỏ ra là người trung thành thờ phượng Thiên Chúa.
Cách giải thích này được hỗ trợ bởi ngữ cảnh tổng quát của toàn ch. 1 của Mt. Trong bài đầu tiên (1,1-17), Mt đã trình bày gia phả của Đức Giêsu khởi đi từ tổ phụ Abraham và từ vua Đavít ngang qua Giuse. Nhưng bảng gia phả này lại gặp ngay nơi Giuse một vấn đề hóc búa. Đó là vì Đức Giêsu không phải là con Giuse theo xác thịt. Vậy mục tiêu của đoạn văn này là để giải thích làm thế nào Đức Giêsu có thể thuộc về dòng dõi vua Đavít, nếu Người không phải là con của Giuse. Lời giải thích nằm ở việc Giuse nhìn nhận Đức Giêsu làm con về pháp lý. Mục tiêu của bản văn Tin Mừng này, thay vì bảo vệ việc thụ thai đồng trinh, thì tìm các xác định do đâu Đức Giêsu có thể trở thành hậu duệ vua Đavít và Đấng Mêsia thuộc dòng tộc vua Đavít cho dù có việc trinh thai. Vậy hai phần của ch. 1 của Mt làm thành hai cánh của cùng một việc chứng minh.
Một hỗ trợ khác nữa đến từ chính những lời của thiên thần (cc. 20-21): “Này ông Giuse là con cháu vua Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì quả thật (HL. gar: car certes; for, indeed, certainly) điều được sinh thành (to gennêthen = đứa con) nơi bà là việc của Thánh Thần, nhưng (HL. de) bà sẽ sinh một con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu; vì (gar) chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Dịch gar là “quả thật” (chắc chắn) là chuyện thông thường vào thời ấy (x. 1 Cr 9,10; 2 Tx 2,20; Mt 18,7; 22,14; 24,6…). Vậy khi nói như thế, thiên thần giả thiết Giuse đã biết chuyện thụ thai đồng trinh và chính chuyện này đã thúc đẩy ngài rút lui, vì thấy Thiên Chúa can thiệp vào cuộc đời Maria. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã truyền cho ngài “dù sao” (“nhưng”) cũng cứ chấp nhận và đặt tên cho con, và khi đó, ngài đưa con tháp nhập vào trong dòng dõi vua Đavít.
- thiên thần Chúa (20): Như trong Cựu Ước, thuật ngữ này được dùng để nói tới sự can thiệp của Thiên Chúa (x. St 16,7.13; Xh 3,2), chứ không có nghĩa là một trong các “thiên thần".
- Giêsu (21): Trong Kinh Thánh, tên người còn chỉ chức năng Thiên Chúa quy định cho một người trong Lịch sử cứu độ. Iêsous là dạng Hy Lạp của tên Híp-ri Yehôshua (x. Xh 24,13) hoặc Yeshua (Nkm 7,7), có nghĩa là “Yhwh là sự cứu độ”, “Yhwh ban ơn cứu độ”, “Yhwh cứu độ”, “Ơn cứu độ của Yhwh”.
- Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai (23): Tác giả trích Is 7,14 theo Bản LXX, bởi vì trong bản này có từ parthenos, “trinh nữ”, chứ trong bản Híp-ri, ta đọc là almah, “thiếu nữ”, có thể là một thiếu nữ hoặc một người vợ trẻ. Cũng vì dựa trên Is 7,14, Do Thái giáo Paléttina không chờ đợi Đấng Mêsia được sinh ra bởi một trinh nữ, nhưng chờ đợi Người là một con đầu lòng (x. Lc 2,7).
- Emmanuel (Hp. Immanuel): Tác giả không nêu ra một tên mới của Đấng Mêsia, mà nêu lên ý nghĩa của bản thân và công trình của Người. Is 7,14 và 8,8 cũng không nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa, vì điều này được giả thiết có trong Kinh Thánh, nhưng nhấn mạnh đến sự diện diện năng động của Ngài để cứu giúp. Như thế, nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài để trợ giúp và cứu độ họ. Lời hứa long trọng của Đức Kitô vinh hiển (“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) cho thấy lời loan báo ấy đã được thực hiện hoàn hảo. TM Mt mở ra và kết thúc với ý tưởng này: nơi bản thân Đức Giêsu, Thiên Chúa sẵn sàng đến hiện diện năng động, tích cực, với loài người.
- ông không … cho đến khi… (25): Câu này hoàn toàn đúng với c. 23 cho thấy rằng Maria là trinh nữ khi sinh con. Câu “ông không biết (= ăn ở với) bà, cho đến khi bà sinh một con trai” không chống lại việc sau đó Maria vẫn đồng trinh, cũng không ám chỉ điều này, mà cũng không cho phép kết luận rằng sau đó bà đã có những quan hệ vợ chồng với Giuse. Đàng khác, chúng ta ghi nhớ rằng mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có nghĩa sinh học, mà diễn tả niềm tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đầu đề của đoạn (18a)
Với đầu đề (18a), tác giả Mt ngỏ lời với độc giả để xác định hoặc điều chỉnh cách thức họ hình dung cuộc chào đời của Đức Giêsu.
Đức Giêsu không phải là con của Giuse, nhưng là tạo thành của Chúa Thánh Thần. Nơi Người, lịch sử Israel đi đến chỗ hoàn tất, nhưng Người không phải là hoa trái tự nhiên hoặc kết quả thiết yếu của lịch sử này. Người không lệ thuộc vào và không chỉ xuất thân từ mộtchuỗi các thế hệ và những cuộc sinh hạ con người. Người là sự hoàn tất, nhưng là như mộtkhởi đầu hoàn toàn mới. Khởi đầu cuộc sống của Người là do Chúa Thánh Thần, khởi đầu này trực tiếp gắn với hoạt động của quyền lực sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa gồm tóm nơi Người toàn thể lịch sử Israel, đồng thời thiết lập mộtkhởi đầu mới mang tính sáng tạo. Không phải là loài người đã ban tặng Đức Giêsu cho nhau; Người là khởi đầu và là quà tặng hoàn toàn đến từ Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc của Đức Giêsu (1,18), và nguồn gốc này cho thấy bản tính và ý nghĩa của đời Người.
* Hoàn cảnh của Giuse và Maria (18b-19)
Tuy thuộc nguồn gốc thần linh, Đức Giêsu lại được liên kết với lịch sử Israel. Mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse, nhưng chưa về sống trong nhà Giuse. Theo luật lệ Do Thái, với lễ đính hôn, hai người nam nữ đã được coi là vợ chồng rồi. Vì thế, Giuse được gọi là chồng của Maria (1,16.19), còn Maria thì được gọi là vợ của Giuse (1,20.24). Chỉ mộtnăm hay mộtnăm rưỡi sau lễ đính hôn, vị hôn thê mới được đưa về nhà vị hôn phu và bắt đầu cuộc sống vợ chồng. Ở đây, tác giả Mt cũng không cung cấp một thông tin nào đặc biệt về Giuse và Maria, ngài nói về hai đấng như những nhân vật rất quen thuộc với độc giả. Vậy mục tiêu của ngài không phải là cung cấp tài liệu, mà là huấn giáo. Trong thời gian giữa lễ đính hôn và cuộc chuyển về nhà chồng, Giuse nhận ra rằng Maria đã có thai. Đọc c. 18b cách bình thản, ta thấy dường như tác giả gợi ý rằng Giuse có biết việc Maria mang thai là do sự can thiệp của Chúa Thánh Thần. Giuse quyết định bỏ Maria kín đáo vì tế nhị đối với sự can thiệp của Thiên Chúa nơi Maria.
* Thiên Chúa can thiệp (20-21)
Giuse đang toan tính như thế trong lòng, thì được Thiên Chúa can thiệp qua việc mộtthiên sứ đến báo mộng để khẳng định với ngài là quả thật con trẻ sắp chào đời thuộc nguồn gốc thần linh; nhưng ngài có nhiệm vụ đón Maria về và đặt tên cho con trẻ. Ngài phải duy trì dây liên hệ với Maria và như thế, nhìn nhận trước luật pháp rằng con trẻ ấy là con của ngài. Do nhiệm vụ Thiên Chúa giao, Giuse trở thành cha của hài nhi về mặt luật pháp và cũng trước luật pháp, Giêsu trở thành con và đương nhiên là người thừa kế của ngài. Hệ quả là Đức Giêsu được tháp nhập hợp pháp vào gia phả của Giuse. Như thế, Đức Giêsu đi vào trong dòng dõi xuất thân từ các vị tiền nhân ấy và trở thành đích điểm và sự hoàn tất của dòng dõi ấy. Như vậy, tác giả Mt không nhắm thỏa mãn óc tò mò của chúng ta. Tất cả những gì ngài muốn chúng ta hiểu là: con của bà Maria là người được Thiên Chúa hứa cho thừa kế ngai vàng vua Đavít, như các ngôn sứ đã từng loan báo.
Còn Đức Giêsu thực hiện vị trí và nhiệm vụ ấy như thế nào, thì chính tên của Người cho thấy, tên mà Thiên Chúa đã chọn cho Người và Giuse phải đặt cho Người. Thiên Chúa đã đổi tên cho người trước đây được gọi là Abram và ban cho ông tên mới là Abraham, “vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc” (x. St 17,5). Sự tuyển chọn của Thiên Chúa được diễn tả ra và xác nhận bằng việc đổi tên. Vì trao mộtnhiệm vụ mới và với nhiệm vụ này là mộtđời sống mới, Ngài ban cho mộttên mới. Điều đó càng đúng hơn nữa với Đức Giêsu, con cháu tổ phụ Abraham. Cùng với cuộc đời, Người đã được Thiên Chúa ban cho ngay từ đầu tên và nhiệm vụ. Tên của Người là Yeshua hay là Yehoshua, có nghĩa là “Thiên Chúa là sự cứu độ”; Người giải thoát khỏi tội lỗi (1,21; x. Tv 130,8). Với nhiệm vụ này, Đức Giêsu có quyền năng Thiên Chúa và ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho ta nhờ trung gian Người. TM Mt sẽ cho thấy Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Đức Vua và Vị Mục tử, Người săn sóc dân Người và đưa họ đến sự sống viên mãn.
* Lời bình của tác giả (22-23)
Đến đây tác giả viết lời bình. Với biến cố này, đã thực hiện điều mà Thiên Chúa đã loan báo qua miệng các ngôn sứ. Trong dự phóng của Ngài, chính Thiên Chúa muốn có cuộc chào đời và hài nhi này. Khi khẳng định rằng lời Thiên Chúa được ứng nghiệm, mộtlần nữa tác giả muốn nói rằng đàng sau biến cố này, có Thiên Chúa như là Đấng quy định và hướng dẫn mọi sự. Khi cho biết Đức Giêsu cũng chính là “Emmanuel”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, tác giả cho biết đặc tính của biến cố Người đến, cũng như đặc điểm của sự hiện diện và công trình của Người: nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Đức Giêsu là sự hiện diện năng động của Thiên Chúa gần kề chúng ta; nơi Người, vị Thiên Chúa từ bi thương xót tỏ mình ra, vị Thiên Chúa trợ giúp và cứu độ, cũng như tỏ hiện dự phóng của Ngài đối với loài người. Nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta và chúng ta đến được với Thiên Chúa (x. 28,20).
* Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (24-25)
Khi đã biết rõ ý Thiên Chúa, Giuse thi hành ngay: ngài “đón vợ về nhà”. Câu văn tiếp theo cho biết là ngài không có quan hệ phu thê với Maria, và như thế hài nhi Giêsu không phải là con của ngài. Nhưng câu văn này cũng không hề ám chỉ là sau đó Giuse có quan hệ vợ chồng với Maria. Với lại tác giả không quan tâm đến vấn đề này. Ông còn đang cho thấy là Giuse thi hành chính xác lệnh Thiên Chúa truyền: “ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”.
+ Kết luận
Tại hai cực của lịch sử Lời Hứa, có hai ơn gọi hướng về nhau và hoàn tất lẫn nhau: ơn gọi của Abraham, tổ phụ đón nhận Lời Hứa, và ơn gọi của Giuse, người đã vâng lệnh Chúa truyền nên đã tạo điều kiện cho Lời Hứa được thực hiện, đó là biến cố Đấng Emmanuel ngự đến. Kể từ nay, nhờ đã được Giuse đưa tháp nhập vào trong dòng dõi vua Đavít, Đức Kitô có quan hệ trực tiếp với mỗi người con người cháu của tổ phụ Abraham, dù họ có đông như sao trên trời không thể đếm nổi (x. St 15,5). Công trình của Người không liên hệ đến mộtlãnh vực nào của cuộc sống loài người, nhưng đi đến tận gốc rễ và thay đổi tương quan với Thiên Chúa. Người sẽ chiến thắng sự bất phục tùng và thái độ nổi loạn, sẽ tha thứ tội lỗi và tái lập sự hiệp thông vào đời sống với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu là cùng đích và sự hoàn tất của lịch sử Israel, là như mộtkhởi đầu mới phát xuất từ Thiên Chúa. Như thế, Thiên Chúa không bỏ mặc dân Ngài xoay xở bằng sức lực riêng, phó mặc con người cho sức mạnh của lịch sử. Đức Giêsu là quà tặng chân thật Thiên Chúa ban cho dân Ngài. Nơi Người, công trình cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất và sự hiệp thông mật thiết nhất giữa Thiên Chúa và loài người được thiết lập: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
2. Đức Giêsu là con cháu vua Đavít, nhưng không theo nghĩa là Người có mộtquyền lực chính trị hoặc quân sự, hoặc Người là một nhà giải phóng chính trị theo nghĩa trần thế. Người sẽ giải thoát loài người khỏi tội lỗi, sẽ đưa con người thoát khỏi tình trạng xa cách với Thiên Chúa và đưa họ về hiệp thông trọn vẹn với Ngài.
3. Bởi vì biết là Thiên Chúa đang can thiệp vào cuộc đời Maria cách đặc biệt mà lại không thấy Ngài giao phó cho mình sứ mạng gì đặc biệt, Giuse tìm cách âm thầm rút lui. Ngài chứng tỏ ngài có mộtcảm thức sắc bén về Thiên Chúa, mộtlòng tôn trọng thẳm sâu đối với mầu nhiệm của Thiên Chúa và mầu nhiệm thánh ý Ngài. Người Kitô hữu được mời gọi học nơi Giuse bài học này: tôn trọng đối với các dự phóng của Thiên Chúa nơi mình và nơi kẻ khác, nhạy bén đối với sự cao cả thẳm sâu và sự hiện diện gần gũi của Ngài trong những biến cố lớn nhỏ thuộc cuộc sống hằng ngày.
4. Đức Giêsu chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi đọc TM Mt cho đến hết (Mt 28,20). Hôm nay Người là Emmanuel để tiếp tục hỗ trợ chúng ta trong hành trình trần thế, trong nỗ lực loan báo Tin Mừng “cho muôn dân” và cứu độ chúng ta bằng quyền năng của Đấng “đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”.
62. Chú giải của Noel Quesson
Những “Tin Mừng về tuổi thơ” là những trang Tin Mừng kỳ diệu, rất khác với các Tin Mừng khác: Matthêu và Luca là những người duy nhất nói cho chúng ta hay, lại không phải là những chứng nhân trực tiếp. Các ông đã sưu tập lại những kỷ niệm được lưu giữ trong các môi trường “Do Thái – Kitô” và nhất là trong gia đinh Đức Giêsu. Và với dữ kiện cơ bản” này, các ông đã xây dựng một Dẫn nhập thần học, có phần giống như một nhạc sĩ soạn một “Khúc dạo đầu” mà ở đó nhạc sĩ làm cho người ta nghe thấy những chủ đề chính mà ông muốn khai triển tiếp theo. Dưới vẻ bề ngoài thô thiển và vụn vặ, đó là những văn bản phong phú những giáo lý sâu sắc, dĩ nhiên được viết sau khi Đức Giêsu sống lại và cần phải đọc “trong đức tin”. Điều ấy không có ý nói rằng, “tính nhân bản không có trái lại là khác”.
Matthêu, khác Luca, không tập trung tuổi thơ của Đức Giêsu và Đức Maria, nhưng vào Giuse: 1. Giả phả Đức Giêsu, theo dòng dõi Giuse; 2. Loan báo việc sinh Đức Giêsu cho Giuse, và chấp nhận vai trò của mình: chồng Đức Maria và cha pháp lý của Đức Giêsu; 3. Việc thờ phụng của các nhà chiêm tinh và vai trò chủ chốt của Giuse bảo đảm an toàn hài nhi khi trốn sang Ai Cập; 4. Trở về Na-da-rét, theo lệnh của một thiên thần luôn luôn nói với Giuse (Mt 1,1 - 2,23).
Chúa nhật này trước lễ Giáng sinh. Giáo Hội đề nghị chúng ta nghe tin loan báo cho Giuse.
Đây là gốc tích (“khởi nguyên”) của Đức Giêsu Kitô.
Nói “khởi nguyên” là nói đến “bắt đầu”. Đó là tiếng trang trọng lớn lao của khởi đầu thế giới, trong sách đầu tiên của Kinh Thánh.
Đối với người Sê-mít, quan niệm “nhân vị” như một cái toàn thể, vữa có tính thể xác và linh thiêng, khác với những người Hy Lạp, coi “nhân vị” trước hết như một linh hồn, thực tại linh thiêng, nhập thể vào trong một thân xác Đức Giêsu Kitô “bắt đầu” ở chính khoảnh khắc mà người nhập thân vào “lịh sử con người”, vào biến cố này, vào tình huống mà Đức Gìêsu sinh ra.
Bà Maria, Mẹ Đức Giêsu đã thành hôn với ông Giuse.
A, tất cả mọi người đều tin là biết lịch sử về con người của Giuse. Một con người trở thành đề tài để giễu cợt trong trại lính và trong xưởng thợ. Người ta đã đặt thành những bài hát dân gian diễu cợt con người ngây thơ và nạn nhân này; ông Giuse đáng thương! không phải thế sao? Nhất thế là chế nhạo Tin Mừng và không biết tí gì về cặp Maria và Giuse. Cặp này chắc chắn là cặp hạnh phúc nhất trong suốt lịch sử. Người mà, trong tất cả các cặp được thành hình từ khi tạo thành thế giới, được mang dấu ấn một lịch sử phổ quát! Cặp này cũng là cặp ‘phong nhiêu nhất trong các cặp’. Ban đầu, tình hình của họ thế nào: hai thanh niên ở giữa tuổi 15 và 20, đính hôn với nhau, vì cùng có một dự tính kỳ diệu là thành vợ chồng. Bạn hãy nhớ đến cuộc đính hôn của các bạn! Cái thời hạnh phúc đó. Hãy, nhìn các bạn trẻ đang lui tới với nhau và xây dựng ý định lứa đôi.
Nhưng trước khi ông bà về chung sống, Bà đã có thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần, ông Giuse, chồng bà là người công chính là không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.
Đây là chặng thứ hai: “dự tính tan vỡ”; khủng hoảng chuyện đôi lứa, khi Giuse thấy người đính hôn của mình mang thai. Tất cả mọi giấc mơ đầu bị phá tan. Có lẽ ta không thể hiểu được nỗi đau đớn tinh thần dày vò còn bị che khuất đằng sau đoạn Tin Mừng vắn tắt này? Ở giai đoạn tình huống này, Giuse quyết định không cưới Maria nữa. Và quyết định này là quyết định của người đàn ông công chính.”
Người ta đưa ra nhiều cách giải thích về sự công chính này của Giuse. Thánh Justin nghĩ rằng Giuse công chính bởi vì người muốn áp dụng Luật (Đnl 22,23). Điều kỳ lạ và có vẻ không đúng là người ta đã có thể nghĩ đến một sự nghi ngờ tội ngoại tình, mà Luật Môsê đòi phải phạt. Thánh Giêrôm, chính người lại kết luận rằng Giuse “công chính bởi vì ông muốn bỏ bà Maria một cách kín đáo”. Nhưng cũng ở chính đó, có phải là điều công chính khi bỏ mặc cho số phận một người vợ mà người ta nhìn nhận là vô tội ư? Giải pháp thỏa đáng duy nhất cho vấn đề này chính là điều mà bản văn đã gợi ra. Quả thế, ngay trước lúc diễn tả cuộc tranh chấp tâm lý của Giuse, thì Matthêu, một cách rất rõ ràng, giả định là người ta có biết việc “thụ thai mà còn trinh nguyên một con trẻ”; thụ thai bởi tác động của Thánh Thần.
Do đó có lẽ chính Đức Maria đã tiết lộ tâm sự với người mình đính hôn (hay đúng hơn, mẹ của Đức Maria theo tập quán Phương Đông). Và Giuse, sau khi suy nghĩ bằng những phương tiện nhân loại của mình, sau khi đã hiểu rằng con trẻ này do Chúa, mà đến, ông không muốn đòi hỏi về quyền hành đối với đứa con không phải là của mình; ông nhận ra ‘quyền làm cha’ của Thiên Chúa. Và ông nghĩ rằng, chính ông Giuse, không được con như cha của đứa con đó. Thế là ông quyết định từ khước ý định lứa đôi của mình. Cũng như Abraham, hy sinh cho Thiên Chúa, Giuse là “người công chính”, ông quyết định hy sinh mình.
Ông đang toan tính như vậy thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít. đừng ngại đón bà Maria vợ ông về...
Như thế chính Thiên Chúa can thiệp để thay đổi dự tính của Giuse. Để nhấn mạnh đến khía cạnh “tôn giáo”, thần linh”, của quyết định mới mà Giuse có, Matthêu để cho mạc khải” của mình chảy theo “thể loại văn chương” thoáng thấy của việc “loan báo theo ngôn ngữ quen thuộc Kinh Thánh, Chúa dựng ở đây sự can thiệp của “Thiên Thần của Chúa”, và của “giấc chiêm bao” loan tin.
Thường đó là vấn đề về các giấc chiêm bao trong Kinh Thánh và đặc biệt trong cuộc đời của Giuse (Mt 1,20; 2,13.22).
Giuse, một anh thợ tầm thường, ở đây được gọi lên một cách trang trọng là “con nhà Đavít”. Chính là với danh nghĩa “dòng dõi của hoàng gia” Do Thái, mà Thiên Chúa yêu cầu ông thay đổi ý định và nhận Maria làm vợ mình. Ông đã quyết định' “bỏ” nàng' và như thế khước từ làm cha đứa bé mà Maria mang thai... Tình hình cũng đúng như đại tổ phụ trong đức tin, Abraham tin điều đó, khi ông chấp nhận hy sinh con trai Ixaác của mình, thì ông xem con trai mình như một “của lễ của Thiên Chúa” (St 22). Với Giuse, người vừa khước từ một đứa con trai, cũng thế. “Thiên Thần của Thiên Chúa đòi ông đón nhận đứa con trai theo cách khác: Người phải nhận đứa con như một “của lễ”, trong đức tin. Đứa con mà ông đã khước từ theo xác thịt, thì ông lại nhận đứa con đó như “con của lời hứa” (Gl 4,2-28).
Chắc chắn người con bà cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên con trẻ.
Câu văn bằng tiếng Hy Lạp được xây dựng trên sự đối lập mà chúng ta đã nhấn mạnh; bộ phận đầu tiên của câu nói bắt đầu bằng “gar”, có nghĩa là “quả thế, chắc chắn”. Bộ phận thứ hai của câu nói bắt đầu “dé”, có nghĩa là “nhưng, tuy nhiên”.
Vì thế thiên thần không báo cho Giuse biết việc thụ thai đứa con còn trinh nguyên, mà ông đã biết. Nhưng thiên thần yêu cầu ông, mặc dù ông đã biết, là thay đổi quyết định của ông. Không những Giuse không biết mình đi như ông tính làm, nhưng trái lại, Thiên Chúa cần ông. Thiên Chúa giao cho Giuse hai vai trò: 1. nhận lấy Maria về nhà mình; 2. đặt tên cho con trẻ. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, theo thói quen sêmít, điều ấy có nghĩa rõ ràng là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” cho đứa con. Người ta hiểu tại sao Giuse đã được chào kính với danh hiệu: Con Đavít. Chính do dòng họ Giuse mà Đức Giêsu lại trở nên con của Đavít, để hoàn thành tất cả mọi lời hứa của Thiên Chúa” (Mt 1,1 - 9,27 - 12,28: 20,23 - 21,9).
Đối với ai hiểu văn bản này một cách sâu xa, như đa chép, Giuse không hề thuộc về thứ nhân vật xanh xao và thụ động mà người ta dã làm biến dạng một cách sai lầm Đó là một “người công chính” thực sự. Một người can đảm thực sự đã thay đổi quyết định mà mmh đã có với tất cả lòng thành. Một người tin tưởng vào người đã đòi mình một “lòng tin”, vào nhịp độ của biến cố khủng khiếp sắp xảy ra. Và ta hãy thêm, “một người chồng” hoàn toàn hiệp thông với lòng tin của người vợ mình. Ngày nay, tâm lý học hiện đại nhấn mạnh đến khái niệm “đôi lứa”, “đồng trách nhiệm”. Bất chấp tất cả những cái bề ngoài hờ hợ mà người ta có thể dừng lại, than ôi. Maria và Giuse sống, một cách vượt hẳn thường lệ, một cuộc sống đôi lứa kết hợp một cách phi thường: họ “đối thoại” ở mức độ sâu xa nhất, bằng cách mỗi người đi tìm ý của Thiên Chúa, và bằng cách chấp nhận cùng một thái độ; phải vượt qua những cái nhìn nhân loại đơn giản, để có thể tin tưởng vào một tương lai mà Thiên Chúa mở ra trước mắt họ. Và còn điều này, bất chấp “cơn khủng hoảng”, một lúc nào đó một chuyện không thể tiên liệu được đã tạo ra giữa họ. Như vậy trong cuộc sống chúng ta, có thể xảy ra một tình huống bắt buộc,bất ngờ, mà khi đó dường như Thiên Chúa đến phá vỡ những dự tính của chúng ta, tức là, trong thực tế, kêu gọi ta tiếp nhận ý chí mới của Thiên Chúa. Nhưng đó là trong đêm tối đức tin; như trong một giấc chiêm bao ban đêm.
Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Nây đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hai từ này là cả một nền thần học: Thiên Chúa cứu độ Thiên Chúa ở cùng chúng ta... Giuse, lúc này, chỉ muốn có tên thứ nhất, “Giêsu-Thiên-Chúa-cứu-độ”. Và chính Đức Giêsu Phục sinh sẽ đảm nhận tên thứ hai hàm nghĩa Sê-mít ở cuối sách Tin Mừng: “Còn tôi, tôi ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Con trẻ mà tôi sắp mừng lễ ngày Giáng sinh, con trẻ ấy có đúng là Giêsu kia không? Tôi có đón nhận người như Đấng giải thoát tôi khỏi tội lỗi của tôi không? Tôi có đón nhận dấu chỉ nhiệm tích của người không?
Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà, ông không ăn ở với bà cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.
Cuối cùng bây giờ, chúng ta tìm thấy lại cái dự tính đôi lứa muốn hình thành lúc đầu câu truyện (“Maria thuận cưới Giuse”); dự tính này, trong khoảnh khắc bị tan vỡ do tình huống đã gây ra khủng hoảng, và bây giờ thành hình (nhưng khác hẳn với dự kiến (“không có quan hệ vợ chồng”), ông ấy chẳng hề biết bà ấy”). Bản văn có một sự sáng tỏ làm lóa mắt, giống như tất cả những gì thuộc về thần linh: Giuse. nhờ quyết định của Thiên Chúa được đồng thuận tự do trong đức tin, đón nhận một chức năng làm cha đích thực mà không có quan hệ xác thịt. Tôi tưởng tượng thấy điều đó, sung sướng, hồ hởi. Tất cả chuyện đó là huyền nhiệm, như Thiên Chúa là huyền nhiệm, cũng như “Phục sinh”, như “Thánh Thể” đều là huyền nhiệm.
63. Chú giải của Fiches Dominicales
BÁO TIN CHO GIUSE
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một gia phả kỳ dị:
Chúa nhật thứ IV này, bài đọc năm A tích trong đoạn mở đầu Phúc âm thánh Matthêu (1,1-4,16). Claude Tassin giải thích: Một đoạn mở đầu như một cái sàng, cho phép đi từ Cựu ước đến Tân ước. Bởi vì, đối với Matthêu, Đức Giêsu không đến cắt đứt những quỹ đạo lịch sử Kinh Thánh thời trước, nhưng nối kết chúng lại trong một chiều hướng bất ngờ (“L'evangile de Matthieu”, Centurion, 1991, trang 19). Đó rõ ràng là điều nỗi bật của đoạn văn dùng cho ngày 24 tháng 12 này.
Khác với thánh Luca đã gom lại các mẩu chuyện về thời ấu của Đức Giêsu, nhưng tập trung vào Đức Maria, thánh sử Matthêu đưa Giuse ra trước; như thế, ngài cống hiến cho các độc giả của ngài một con đường đi đến mầu nhiệm Đức Giêsu. Gia phả của ông: “Đây là gốc gác Đức Giêsu Kitô...” (1, 1-17) trước hết muốn tỏ cho biết Đức Giêsu Kitô là Ai: “Đức Kitô, con vua David, con của Abraham”. Tuy nhiên, việc giới thiệu ấy bất ngờ chuyển hướng; một khâu cuối cùng bị trục trặc, sự liên tục của các thế hệ bị đứt đoạn, bởi vì, ông nói rõ ràng là, Giuse không phải là cha ruột của Đức Giêsu: “Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà Đức Giêsu sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (câu 16). Mặc dầu vậy, Matthêu sẽ chỉ cho biết, làm thế nào Đức Giêsu là con của David được các tiên tri báo trước, và làm thế nào, Giuse, không hề cắt đứt sự liên tục, lại là người nối kết lại. Ông nhấn mạnh ở câu 18: “Đây là gốc tích (nguồn gốc) của Đức Giêsu.
“Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã đính hôn với Giuse...”. Vào thời đó, đôi vợ chồng đính hôn khi còn là thanh niên, sau một thời gian mới đi đến hôn nhân và vợ về nhà chồng. Chính trong khoảng thời gian này, “trước khi hai ông bà về chung sống với nhau Maria có thai do tác động của Chúa Thánh Thần”, Matthêu thêm vào ngay lập tức nhìn nhận đây là sự khởi đầu thánh thiêng, thay thế một hành động tạo dựng, cho tiến trình sinh vật học.
“Giuse, người công chính...”. Chúng ta đừng tìm cách đi vào tâm lý của Giuse, đang phải đương đầu với một hoàn cảnh tế nhị. Tuyệt nhiên, bản văn không nói với chúng ta điều gì cả. Chúng ta chỉ có thể đọc được ở đây quan điểm của thánh sử. C.Tassin chú giải: “đối với ông Giuse là người công chính, bởi vì ngài đã từ chối đảm nhận tư cách làm cha không phải là của ngài, và bởi vì ngài đã vâng lời Thiên Chúa mà chịu nhận vai trò làm cha này” (O.C. trang 26).
“Thiên thần Chúa hiện ra với ông trong giấc mơ...”. Rõ ràng là chúng ta đang gặp thể loại văn chương chuyên loan báo việc hạ sinh trong Kinh Thánh mà Matthêu đi theo sơ đồ truyền thống: 1- một hoàn cảnh bế tắc. 2- Thiên thần hiện ra và uỷ thác sứ mạng. 3- Việc thực hiện sứ mạng này. Giữa hoàn cảnh bế tắc, Giuse được uỷ nhiệm một sứ mạng: với tư cách là “Con vua David”, ngài được giao phó sứ mạng “đặt tên cho con trẻ”, dành riêng cho ngài. Mà, theo H.Vulliez giải thích: “Theo luật Do Thái lúc bấy giờ, đứa bé hiện hữu hợp pháp bằng tên mà người ta gọi nó, và nó thuộc dòng dõi người cha, dù đó là người cha. (sinh vật học) ruột thịt hay không” (“Dieu si proche”, Desclée de Brouwer, trang 16). Như vậy, tư cách con vua Daviđ thực sự của hài nhi và sự thực hiện trọn vẹn các lời tiên tri cứu thế tuỳ thuộc ở sự vâng lời của Giuse. Chẳng những ngài không phải mờ nhạt đi, mà Thiên Chúa muốn cần đến ngài để thực hiện ý định cứu độ của Thiên Chúa.
“Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền...” Với sự mau mắn của người công chính, hoàn toàn sẵn sàng trước sự mới lạ của Thiên Chúa, Giuse đón nhận về nhà mình mầu nhiệm của Giao ước mới: ông rước vợ về nhà mình, như thế, cho phép các lời tiên tri được thực hiện trọn vẹn: Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ đặt tên là Emmanuel, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (xem Is. 7). Nhờ Giuse, Đấng Cứu Thế, thụ thai trong lòng Đức Maria, bởi Thánh Thần của sự sáng tạo mới, được đưa nhập vào dòng dõi David. Với đoạn các Nhà Đạo kế tiếp Ngài sẽ tỏ mình ra cho Israel và dân ngoại.
2. Một tên gọi khai mào và kết thúc Phúc Âm:
Thế nhưng, hơn cả vai trò của Giuse trong ý định cứu độ chính sứ mạng của Đức Giêsu mới làm cho Matthêu quan tâm. Một sứ mạng mà hai tên gọi loan báo được trao phó cho Ngài: Tên mà Giuse được uỷ thác trao phó cho Ngài: “Giêsu”, và có nghĩa là: “Thiên Chúa cứu chuộc”, bởi vì, chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. - Tên gọi mà sau này sẽ dùng để chỉ định Ngài, khi mà, trong ánh sáng phục sinh, các môn đệ sẽ hiểu là đã thực hiện lời sấm của Isaia: Người ta gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là: “Thiên Chúa ờ cùng chúng tôi”. Thực ra, vào cuối Phúc âm, khi gặp nhau tại điểm hẹn, đấng Phục Sinh sẽ sai họ ra di với sứ mạng không biên giới, Ngài tuyên bố với họ: Và Ta, Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, thì họ sẽ hiểu rõ tầm mức quan trọng cuối cùng của lời tiên tri về Emmanuel, “lời loan báo cho Giuse đã vẽ lên quĩ đạo sứ mạng của Đức Kitô” (C.Tassin, O.C. trang 28).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Nguồn gốc khác”
“Đây là gốc tích của Đức Giêsu...”. Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Đức Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Đức Giêsu sinh ra... Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp; nhưng hài nhi này lại đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho hài nhi: bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết hài nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người: Bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời tiên tri nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Đức Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta. Tuy nhiên, vai trò của Giuse không phải là tầm thường. Khoa tâm lý hiện đại đã tỏ cho chúng ta biết tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của hài nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Đức Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi ông, mà Ngài sẽ nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn (7,9- 10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. chúng ta đừng quên rằng, những đoạn văn đến “sau”; sau một sự khám phá lâu dài về con người Gìêsu, con của bác thợ mộc, sau những lời nói và những dấu chỉ đã làm nảy sinh đức tin trong tâm hồn các môn đệ, sau những hồ nghi và sau cùng, sau một sự chắc chắn về sự phục sinh: phải nhìn nhân rằng, Đức Giêsu đã là một Đấng khác, để chúng ta có thể hiểu rằng ngài đã từ nơi khác mà đến: Trong lịch sử nhân loại, nguồn gốc thần thiêng của Đức Giêsu là một sự kiện không ai để ý đến, không ngừng được tranh cãi và chối bỏ: Đó không phải là con bác thợ mộc sao? Nhờ Thánh Thần Thiên Chúa dẫn nhập cái mới vào trong thế giới chúng ta. Ngài đã trở thành Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Cả nguyên việc đón nhận cái mới là chính Đức Giêsu, cái mới mà Ngài đem đến cho cuộc đời chúng ta, có thể dẫn ta đến chấp nhận điều bất ngờ trong việc Ngài sinh ra. Chính kết quả của việc khám phá này mà Matthêu muốn gởi gấm cho chúng ta. Chúng ta không thể chấp nhận nguồn gốc của Đức Giêsu bởi tác động của Chúa Thánh Thần mà không nhìn nhận là Ngài đến từ Thiên Chúa. Chính khi đã nhìn biết Ngài, chính khi đã hiểu rằng, Ngài là Đấng khác, thì chúng ta mới có thể đón nhận mầu nhiệm giáng sinh của Ngài”.
2. Tính cách làm cha của Giuse đối với Đức Giêsu chắc chắn quan trọng hơn như người ta vẫn thường nghĩ”.
“Tính cách làm cha của Giuse đón với Đức Giêsu quan trọng hơn ta vẫn thường nghĩ. Để gọi tên Đấng mà tất cả mọi người xưng là Thiên Chúa, để chỉ định sự hiện diện rất gần gũi mà từ đó Ngài lãnh nhận tất cả mọi sự, hữu thể mà Ngài luôn luôn ý thức chỉ là một với Ngài, Đức Giêsu tự động dùng lại danh xưng mà ngài âu yếm gọi Giuse; ‘Cha, Ba, Bố’. Và khi phải giải thích sự thật gây kinh ngạc này với Thiên Chúa của Israel, Thiên Chúa mà Ngài đòi tiếp tục công trình sáng tạo, Đức Giêsu lại dùng những từ ngữ đơn giản nhất khi còn tập tành ở Nagiarét, trong xưởng của bác thợ mộc Giuse: “Cho đến bấy giờ vẫn làm việc, và Ta cũng vậy, Ta cũng làm việc. Điều mà Cha làm, thì Con cũng làm giống như vậy. Chính Cha yêu mến Con, và Cha cho Con tất cả những gì Ngài làm” (Jn 5,17-20). Chính nơi những từ ngữ thường ngày, những từ ngữ mà Ngài dùng để diễn tả cuộc đời Ngài, những mối liên hệ của Ngài, những tình cảm của Ngài, mà Đức Giêsu muốn nói đối với Ngài, Thiên Chúa là ai. Làm sao không tình thấy trong tình cảm của cha mẹ Ngài những từ ngữ đúng đắn nhất để nói cho chúng ta biết mối liên hệ tuyệt đối duy nhất vốn vẫn hiện diện trong con tim Ngài: “Cha và Ta, Chúng Ta là một” (Jn 10,30).
64. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THIÊN SỨ BÁO TIN CHO GIUSE
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Ai là nhân vật chính của trình thuật: Chúa Giêsu? Đức Maria? Thánh Giuse? Ai là chủ từ các câu xét về văn phạm? Tại sao nơi câu 18, tác giả lại dùng kiểu nói thụ động (“bà đã chịu thai”)?
2. Bí ẩn của trình thuật: thánh Giuse tỏ ra công chính ở chỗ nào? phải chăng là công chính theo luật? Như vậy thì tại sao ngài hành động cách bí mật? Phải chăng là lòng từ tâm? Vậy thì tại sao ngài định ly dị Đức Maria nếu nghĩ rằng bà vô tội? Muốn trả lời, phải giải quyết bí ẩn khác sau đây: thánh Giuse cho rằng Maria có tội hay vô tội? hay ngài tôn kính bà như hòm bia Thiên Chúa? Có nền tảng văn chương nào cho những lập trường ấy không? hay chỉ có những khó khăn không vượt qua được?
3. Việc hiện ra cho Giuse được tường thuật với thể văn của các cuộc truyền tin, loại biến cố trong đó luôn có vấn đề một dấu chỉ được mặc khải và một sứ mệnh được trao phó: so sánh với St 16,11; 17, 19; Tl 13, 3- 5; Is 7, 14; Lc 1, 26- 28. Trong trình thuật Mt, ta có gặp lại những yếu tố của lược đồ chung ấy không?
4. Trong các lần hiện ra của thiên sứ sau đó, Giuse có còn được gọi là “con Đavít” nữa không? Nơi Mt 1,1 phải chăng Chúa Giêsu đã không được gọi là Con Đavít? Đối chiếu hai trường hợp.
5. So sánh câu trích dẫn Is 7,14 trong Mt và trong nguyên bản: đâu là chi giết thay đổi chính? Chi tiết này có ám chỉ điều gì về ý nghĩa của trình thuật không?
6. Phải chăng không có đồng nhất cơ cấu giữa sứ điệp (cc.20- 21), câu trích dẫn sấm ngôn (c. 23) và trình thuật (c.25)? Hãy nhấn mạnh đến những hạn từ được lấy lại trong mỗi phần cửa ba phần câu chuyện.
7. So sánh viễn tượng của Mt và của Lc trong các trình thuật thời thơ ấu. Lc muốn dạy về việc thụ thai đồng trinh và cho thấy Thiên Chúa làm được mọi sự. Mt có mục đích khác không? (x. 1, 1- 17).
8. Hãy thử tái lập lại cách dịch cc.20- 21: chữ “vì” mở đầu câu nói đến việc thụ thai đồng trinh có ý nghĩa gì?
9. Nên gán cho đoạn văn tiêu đề nào: “Việc thụ thai Chúa Giêsu cách đồng trinh” hay “Giuse đứng trước mầu nhiệm”? Có thể tìm được một tiêu đề hay hơn không? Hãy tra cứu các ấn bản sách Tin Mừng.
10. Có thể so sánh Giuse với Gioan tiền hô theo nghĩa nào? Đâu là vai trò của Giuse trong nhiệm cục cứu rỗi?
*******
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Qua tiêu đề bản văn (c.18a), Mt muốn ngỏ lời với các tín hữu để xác định hoặc sửa sai quan niệm của họ về việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra. Mt không đưa ra một chỉ dẫn nào về Maria và Giuse; ông nói đến các ngài như những người mà độc giả đều biết rõ. Chủ ý của ông chẳng phải là trưng tài liệu song là dạy giáo lý.
Câu 18b gợi ý (song không minh nhiên quả quyết) rằng Giuse đã biết việc thụ thai con trẻ là do Chúa Thánh Thần.
Động từ sunelthein, theo tự nghĩa là “đến với, phối hợp với một người nào đó”, có thể chỉ việc giao hợp hoặc việc sống chung. Văn mạch gần phù hợp với nghĩa đầu hơn. Cô thiếu nữ Do thái, được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi (việc chuyển tiếp này, khai mạc việc sống chung, làm nên lễ hôn phối).
“Do tự Thánh Thần”: giới từ “ek” ở đây nói đến một nguyên nhân lịch sử: do một hành động độc nhất của Thánh Thần. Lc 1,35 thì loan báo một hoạt động tích cực hơn: Thánh Thần “sẽ đến trên” Đức Maria. Từ ngữ của Mt, vì chỉ ghi nhận sự kiện, nên có vẻ dè dặt hơn. Vả lại, Mt mỗi lần nói đến Thánh Thần, là để công bố hoạt động cao siêu của Thiên Chúa, nhưng không giải nghĩa hoặc phân tích gì thêm (3,11; 4,1; 10,20; 12,18; 12,28.31).
“Giuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà”: sự công chính của Giuse hệ tại chỗ nào? Giai thoại ta đang nghiên cứu đã làm các nhà chú giải bối rối không ít. Phần lớn cho rằng sự công chính đó chính là việc mặc khải cho Giuse biết Maria đã thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, hầu chấm dứt mối băn khoăn nghi ngờ nơi ngài. Nhưng lập trường này đẩy ta vào những vấn đề tâm lý giả tạo và khó giải quyết, những vấn đề hoàn toàn xa lạ với tinh thần của tác giả và độc giả Tin Mừng. Đúng hơn là hình như Giuse băn khoăn không phải về tiết hạnh của bạn mình, song là về mối liên hệ giữa ngài và đứa trẻ, về nhiệm vụ ngài phải gánh vác đối với đứa bé đó. Giuse không công chính theo nghĩa là ngài vâng lời Lề luật vì chả có luật nào buộc phải ly dị vị hôn thê mới bị coi như là ngoại tình cả (Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng). Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Maria, thì Giuse lại càng bất tuân Lề luật, vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý khi mang tính cách chính thức công khai (Đệ nhị luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành). (Vẫn biết pháp chế của các tiến sĩ luật có cho phép tổ chức việc ly dị riêng tư trước hai nhân chứng - x.Mishnah, Sotah 1, 5- song hình như pháp chế ấy nằm sau thời Chúa Giêsu; hơn nữa, kiểu ly dị như vậy không thể là điều Giuse nghĩ tới, vì bản văn Mt rõ ràng nói đến một việc ly dị “âm thầm, bí mật” - từ ngừ hy lạp lathra, theo Zorelle, Bauer..., chỉ có ý nghĩa ấy - với lại ly dị mà có hai nhân chứng thì sức mấy giữ được bí mật lâu trong một ngôi làng nhỏ như Nadarét...). Sau cùng, mọi lối giải thích sự công chính của Giuse như là “công chính chiếu luật” sẽ đẩy ta vào chỗ tiến thoái lưỡng nan. Thật vậy nếu theo con mắt của Giuse, Maria phạm tội ngoại tình, thì ta hiểu ngay là ngài đã nghĩ tới chuyện ly dị, song ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến việc ly dị âm thầm, vì bấy giờ việc ly dị sẽ chẳng có hiệu lực pháp lý và lại không thể giữ bí mật được lâu. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, thì ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép và vì, xét như là hôn phu, người có bổn phận bảo vệ vị hôn thê vô tội chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác. Thành ra không thể cắt nghĩa sự công chính của Giuse như là “công chính theo luật” được.
Vấn đề ở đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giuse tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Maria và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động thần linh: Giuse nghĩ rằng mình không được quyền đem về nhà một kẻ mà Giavê đã dành riêng cho Ngài. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui, và vì tế nhị đối với Thiên Chúa. Ngài cẩn thận không muốn “tiết lộ” mầu nhiệm thần linh nơi Maria (tiếng deigmatisai, theo Origène và Eusèbe, không bao hàm ý nghĩa xấu tố giác? bêu nhục) như tiếng paradeigmatisai; Jouon cũng dịch là tiết lộ, bày tỏ “). Ngài phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Thánh Kinh trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Môisen cởi giày trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm truởc sự xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh, như Elidabét tự hỏi tại sao mình được mẹ Chúa viếng thăm, như viên bách quản trong Tin Mừng, như Phêrô cúi mình tâu: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi “... Như “Abel người công chính”, Giuse đã tỏ mình ra là kẻ hết dạ tôn thờ Thiên Chúa tabel là người “công chính” duy nhất được Mt gọi tên trong Tin Mừng của ông, 23, 36, công chính không phải vì tuân hành Lề luật, vì Lề luật chỉ được công bố với Môisen!).
Lối giải thích này được văn mạch chung của chương 1 Mt xác nhận. Thật vậy, trong đoạn văn đầu tiên, Mt kể lại gia phả của Chúa Giêsu bắt đầu từ Abraham và Đavít, đi ngang qua Giuse. Nhưng chính gia phả ấy lại gặp một vấn đề hóc búa nơi Giuse. Hóc búa là vì Chúa Giêsu chẳng phải là con Giuse theo xác thịt. Thành ra bản văn chúng ta đây có mục đích giải thích làm sao Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi Đavít, mặc dù Người chẳng phải là con Giuse. Và lời giải thích nằm ngay trong việc Giuse thừa nhận Chúa Giêsu trước mặt pháp lý. Do đó ta thấy rõ trình thuật không có mục đích bênh vực việc thụ thai đồng trinh cho bằng là chứng minh làm sao Chúa Giêsu đã trở nên con cháu Đavít và là Đấng Thiên sai dòng dõi Đavít, mặc dầu Người được mang thai đồng trinh, một yếu tố đã gây nên vấn nạn lớn lao. Hai phần của chương đầu Mt như thế làm nên hai vế của cùng một chứng minh vậy.
Một luận cứ xác nhận khác là chính lời của thiên sứ (cc 20-21), nếu được hiểu đúng. Cách dịch hay nhất có lẽ như thế này: “Hỡi Giuse, con Đavít, chớ sợ đem Maria về nhà làm vợ vì quả thật (Hy ngữ: gar; pháp ngữ: can certes) thai sinh nơi bà là công thành của Thánh Thần, nhưng (Hy ngữ: dé) bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu; vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi “. Đúng vậy, lối dịch chữ gar ra vì quả thật thường được thấy trong Tân ước (1 Cr 9, 19; 2 Tx 2, 20; Mt 18, 7; 22,14; 24,6...). Thành ra qua lời mình, thiên sứ giả thiết là Giuse đã biết Maria mang thai đồng trinh rồi và chính việc thụ thai này đã thúc đẩy ngài rút lui trước sự can thiệp của Thiên Chúa; tuy nhiên thiên sứ ra lệnh cho ông dù sao (“nhưng”) cũng phải chấp nhận đặt tên cho đứa trẻ và đưa nó vào dòng dõi Đavít.
“Giêsu”: tên chỉ định con người và, đặc biệt trong Kinh Thánh, chỉ định chức vụ mà Thiên Chúa đặt định cho trong lịch sử cứu rỗi. Iêsous là phiên âm hy lạp của tiếng hy bá Yehôshua (Xh 24, 1 3) hoặc Yéthua (Nhm 7, 7), “Giavê là sự cứu độ”, một tên riêng khá phổ thông trong Cựu ước và Tân ước.
“Vì (từ ngữ mở đầu câu nói về ơn gọi, cái ơn gọi được diễn tả qua danh tánh mà Thiên Chúa truyền phải đặt cho đứa trẻ) chính Người sẽ cứu” (động từ “cứu” cũng tái xuất hiện trong ba Tin Mừng Nhất Lãm: 15- 15- 17 là n trong Mt-Mc-Lc, trong khi chỉ mình Lc gán cho Chúa Giêsu tước hiệu “Đấng Cứu Thế” nơi chương 2, 11 và dùng chữ “ơn cứu độ “) dân mình tức Giáo Hội, Israel đích thực; lao, “dân”, là một từ ngữ riêng của Mt (14 lần, trong lúc Mc chỉ dùng hai lần) dùng để chỉ dân Thiên Chúa) khỏi tội lỗi (x.Tv 130, 8; ta không được bảo toàn thể Do thái giáo đương thời Tân ước đều mong chờ một Đấng Thiên sai thuần túy có tính cách quốc gia và chính trị; Thánh vịnh Salomon 17 vẫn hy vọng rằng Con Đavít sẽ quy tụ dân Người, thanh tẩy và thánh hóa họ).
“Mọi sự này xảy ra...” (cc.22-23). Công thức quen thuộc này của Mt không muốn quả quyết rằng giữa các bản văn Cựu ước và thực tai của Tân ước có một cái gì bình đẳng. Mt cho rằng bao giờ cũng vẫn là chính Thiên Chúa điều khiển lịch sử thánh, nhưng các thực tại Tân ước mới là đích điểm và là sự viên mãn của Cựu ước.
“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai”: Mt trích Is 7,14 (x.2V 16, 5- 9) theo bản 70 với chữ parthenos, “tính nữ”, trong lúc nguyên bản dùng chữ almâ, là tiếng vừa chỉ một thiếu nữ, vừa chỉ một người vợ trẻ. Vì thế, dựa vào Is 7,14, Do thái giáo miền Palestine không mong chờ một Đấng Thiên sai sinh hạ đồng trinh, nhưng dù vậy Đấng Thiên sai cũng sẽ là một người con đầu lòng (Lc 2,7). Trong hoàn cảnh lịch sử của Is 7,14, vị ngôn sứ chỉ loan báo một biến cố sắp gây chưng hửng cho vua Achaz cũng lòng tin.
“Emmanuel”: Mt chẳng cố ý nêu ra một tên mới của Đấng Thiên sai, song chỉ muốn nói lên ý nghĩa của con người và của công cuộc Người thực hiện. Chính Is 7,14, bản văn ông trích dẫn, và 8,8 cũng đã không nhấn mạnh đến sự hiện diện đơn thuần của Thiên Chúa, điều mà cả Kinh Thánh đều giả thiết, nhưng đến sự hiện diện tích cực, hằng cứu giúp của Ngài. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu vớt họ. Lời hứa long trọng của Chúa Kitô vinh hiển “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) đánh dấu việc thể hiện hoàn toàn lời loan -báo trên. Như thế, Tin Mừng Mt mở đầu và kết thúc với ý tưởng này là: Thiên Chúa đã hiện diện tích cực với nhân loại trong con người Chúa Giêsu.
Nơi câu 24-25, Mt ghi nhận: sau khi được Thiên Chúa báo mộng, Giuse không còn thụ động nữa; ngài “tỉnh giấc” hay “chỗi dậy” tuân hành răm rắp lệnh truyền. Chi tiết các câu 24- 25 tương ứng sít sao với lời dạy của thiên sứ (cc.20-21) và với lời giải thích cùng trích dẫn sấm ngôn (cc.22-23). Như câu 23, câu 25 nhận xét rằng Maria còn đồng trinh lúc hài thi sinh ra; thành ra kiểu nói “ông đã không biết bà cho tới ngày bà sinh con” không phủ nhận cũng chẳng ám chỉ sự đồng trinh sau đó. Vả lại ta nên nhớ mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có ý nghĩa sinh vật học (mặc dầu sự kiện có thật) song là Kitô học, nghĩa là diễn tả đức tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Chúa Giêsu.
KẾT LUẬN
Ở hai đầu của lịch sử Lời hứa, có hai ơn gọi làm âm vang cho nhau và bổ túc nhau: ơn gọi Abraham, cha của Lời hứa, và ơn gọi Giuse, kẻ mà lòng vâng phục mệnh lệnh thần linh đã giúp thực hiện lời Thiên Chúa hứa là cho Đấng Emmanuel tới. Và nhờ được Giuse đưa vào dòng dõi Đavít, kẻ thụ thác Lời hứa, Chúa Kitô từ nay liên hệ trực tiếp với mỗi người con cháu Abraham, đón con cháu đông như sao trên trời chẳng ai đếm nổi (St 15, 5).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Sự công chính của thánh Giuse không nằm ở chỗ ngài muốn bí mật ly dị Đức Maria. Thật ra nó nằm ở chỗ thánh nhân từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà ngài biết là Con Thiên Chúa. Ngài sợ mang tiếng chiếm đoạt vai trò mà Chúa không ủy thác. Sở dĩ ngài muốn ly dị Đức Maria đó là vì tế nhị, vì vâng theo thánh ý Chúa, Đấng không giao cho ngài sứ mạng gì đối với Đức Maria và Hài nhi cả. Đối với Giuse, Thiên Chúa có mặt trong công chuyện này. Thiên Chúa đã sử dụng vị hôn thê của ngài, và vì thế ngài muốn rút êm để khỏi làm cản trở việc thực hiện một chương trình ngài không hiểu thấu. Nói cho đúng, sự “công chính” của thánh Giuse chính là ý thức của ngài về Thiên Chúa, là sự tôn trọng của ngài đối với mầu nhiệm và thánh ý Thiên Chúa. Người Kitô hữu cũng phải có lòng kính trọng sâu xa như vậy đối với các dự tính của Thiên Chúa về mình, phải có ý thức về sự siêu việt của Thiên Chúa mỗi khi Ngài cho ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong đời sống thường ngày: qua niềm vui, qua Thánh Thể, qua thử thách, qua lời kêu van giúp đỡ của tha nhân v.v...
2. Thánh Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu Kitô hằng sống. Chúng ta cũng phải đón nhận Người như thế, vì Chúa đang thực sự sống động trong Giáo Hội; nhờ Giáo Hội mà Người tự thông ban cho ta qua Thánh Kinh và Thánh Thể. Ngày nay, tin vào sự hiện diện sống động của Chúa trong Thánh Kinh và Thánh Thể không khó hơn việc thánh Giuse tin rằng con trẻ mà vị hôn thê của ngày chờ đợi thật là Con Đấng Tối Cao..
3. Thánh Giuse im lặng: Thánh Kinh không ghi lại một lời nào của ngài, một kẻ dù sao vẫn là con cháu Đavít và đã cho Chúa Giêsu được nên con Đavít.
4. Emmanuel: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Giêsu: Thiên-Chúa-cứu. Sở dĩ Thiên Chúa ở với chúng ta, đó là để luôn luôn cứu chúng ta. Sự hiện diện của Người trong đời ta là nguồn bình an và hoan lạc lớn lao nhất. Ngày nay, Chúa Giêsu là Emmanuel đối với chúng ta hơn bao giờ hết, vì sau khi sống lại, người đã hứa ớ với chúng ta cho đến tận thế.
65. Chú giải của William Barclay
CHÚA KITÔ BƯỚC VÀO THẾ GIAN (1,18-25)
Đối với cách suy nghĩ của người Tây phương, những mối liên hệ trong đoạn Kinh Thánh này thật rắc rối. Trước hết, Giuse được nói là hứa hôn với Maria, sau đó lại nói là Giuse định âm thầm ly dị nàng, và kế đó Maria lại được gọi là vợ Giuse. Những mối liên hệ này tiêu biểu cho thể thức hôn nhân thông thường của người Do Thái. Trong hôn nhân Do Thái có ba bước:
(i) Hứa hẹn. Khi đôi bạn còn nhỏ, chưa biết nhau, sự hứa hẹn thường do cha mẹ hoặc do người chuyên làm mai mối. Hôn nhân được xem là một bước vô cùng quan trọng nên không thể tuỳ thuộc đam mê và tình cảm con người được.
(ii) Đính hôn. Đính hôn tức là xác nhận sự hứa hẹn khi trước. Vào lúc này, sự hứa hẹn do cha mẹ đôi bên chủ xướng hoặc người mai mối thức hiện có thể bị xoá bỏ, nếu người nữ không bằng lòng. Nhưng một khi đã đính hôn thì đôi bên bị ràng buộc với nhau cách tuyệt đối. Thời gian đính hôn kéo dài chừng một năm. Trong năm đó, đôi bạn được kể là vợ chồng dù họ không có những quyền của chồng và vợ. Nếu muốn chấm dứt thì chỉ có cách duy nhất là ly dị. Trong luật Do Thái chúng ta thường thấy câu nói hơi lạ này: người con gái có vị hôn phu chết trong năm này thì được gọi là “trinh nữ goá”. Maria và Giuse đang ở giai đoạn này, họ đã đính hôn. Nếu Giuse muốn chấm dứt thì không thể làm gì khác hơn là ly dị và theo luật thì trong năm đó Maria được kể là vợ của Giuse.
(iii) Giai đoạn thứ ba là hôn nhân chính thức được cử hành vào cuối năm đính hôn. Nếu chúng ta nhớ những phong tục cưới gả thông thường của người Do Thái thì mối quan hệ trong đoạn sách này hoàn toàn là bình thường và rõ ràng.
Chính trong giai đoạn này, Giuse được báo tin là Maria đã mang thai và do bởi Thánh Thần, và ông phải đặt tên con trai đó là Giêsu. Tiếng Hy Lạp Giêsu tương đương với tên Do Thái là Joshua (Giôsuê). Giôsuê có nghĩa là “Đức Chúa là sự cứu rỗi”. Nhiều năm trước đó, tác giả Thánh Vịnh đã nghe Chúa phán “Chính Người sẽ cứu chuộc Israel khỏi các sự gian ác” (Tv 130,8) và Giuse được báo con trẻ sinh ra, lớn lên sẽ làm Chúa Cứu Thế, Đấng sẽ cứu dân Chúa khỏi tội. Chúa Giêsu được sinh ra để làm Đấng Cứu Thế hơn là để làm Vua, Ngài đã bước vào thế gian không vì Ngài nhưng vì loài người và để cứu chuộc chúng ta.
SINH BỞI THÁNH THẦN (1,18-25)
Đoạn sách này cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã sinh ra do tác động của Chúa Thánh Thần, và cho chúng ta biết về sự “sinh đồng trinh”. Đây là một điểm giáo lý. Điều chúng ta quan tâm ở đây là tìm hiểu “sinh đồng trinh” có nghĩa gì đối với chúng ta. Lần đầu tiên đọc đoạn sách này, chúng ta sẽ thấy thật ra nó không nhấn mạnh ở điểm Chúa Giêsu do một trinh nữ sinh ra cho bằng sự Giáng Sinh của Ngài là do công việc của Chúa Thánh Thần: “Maria, Mẹ Ngài đã đính hôn với Giuse, song trước khi chung sống, thì nàng đã thụ thai bởi Thánh Thần”. Những câu này được gạch dưới và in bằng chữ lớn. Đó là điều Matthêu muốn nói với chúng ta. Vậy trong sự Giáng Sinh của Chúa Giêsu, tác động đặc biệt của Thánh Thần có nghĩa gì? Chúng ta hãy gạt bỏ mọi hồ nghi, mọi biện luận mà chỉ tập trung vào chân lý lớn đó như Matthêu muốn. Theo quan niệm của người Do Thái, Thánh Thần có những chức năng nhất định. Chúng ta không thể đem vào đoạn sách này ý niệm đầy đủ của chúng ta về Thánh Thần, vì đó là những điều Giuse không hề biết. Chúng ta phải giải thích dưới ánh sáng của ý niệm Do Thái về Thánh Thần, vì đó là ý niệm mà Giuse buộc phải đem vào sứ điệp này và là tất cả điều ông biết.
1. Theo ý niệm Do Thái, Thánh Thần là ngôi vị đem chân lý đến cho loài người: Chính Thánh Thần dạy các ngôn sứ điều phải nói, chính Thánh Thần của Thiên Chúa dạy cho con người điều phải làm, chính Thánh Thần trải qua các thời đại và và thế hệ đã đem chân lý của Thiên Chúa đến với loài người. Cũng vậy, Chúa Giêsu là Đấng đem chân lý của Thiên Chúa đến với loài người. Nói cách khác, Chúa Giêsu có thể cho ta biết Thiên Chúa như thế nào? Ngài muốn chúng ta ra sao? Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa như thế nào. Trước khi Chúa Giêsu đến, người đời chỉ có ý niệm mơ hồ và thường sai lạc về Thiên Chúa, cùng lắm họ chỉ có thể đoán chừng và dò dẫm. Nhưng Chúa Giêsu đã phán: “Ai thấy Ta tức là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Trong Chúa Giêsu chúng ta thấy tình yêu, sự thương xót, tấm lòng tìm kiếm, sự thánh thiện của Thiên Chúa như chưa từng thấy ở nơi nào trong thế gian. Khi Chúa Giêsu đến thì giai đoạn đoán mò đã qua và giai đoạn biết chắc đã đến. Trước khi Chúa Giêsu đến, con người không biết sự thiện chân chính là gì, chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là con người chân chính, sự thiện chân chính và sự vâng phục chân chính ý Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đến để chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa và về loài người.
2. Người Do Thái tin rằng Thánh Thần không những đem chân lý của Thiên Chúa đến cho loài người mà cũng làm cho loài người có thể nhận ra chân lý đó.
Cũng vậy, Chúa Giêsu mở mắt cho con người thấy chân lý. Con người bị mù bởi chính sự ngu dốt của mình và họ bị thành kiến dẫn đi sai lạc. Tội lỗi và đam mê làm nhãn quan và tâm trí họ tăm tối. Chúa Giêsu có thể mở mắt cho chúng ta thấy được chân lý. Trong một tiểu thuyết của William J.Locke có kể một người đàn bà giàu có, suốt nửa đời nàng dành cho các chuyến du lịch thăm các thắng cảnh và các phòng triển lãm tranh ở khắp thế giới, nàng mệt mỏi, buồn chán, nhưng rồi nàng gặp một người Pháp tuy không giàu nhưng có một kiến thức uyên bác và lòng yêu cái đẹp tha thiết. Người ấy đến với nàng và tình bạn này đã làm mọi sự hoàn toàn đổi khác. Nàng nói với chàng “Tôi chưa bao giờ biết vạn vật như thế nào cho đến lúc anh dạy tôi cách nhìn chúng”. Đời sống cũng hoàn toàn khác hẳn khi Chúa Giêsu dạy chúng ta cách nhìn đời. Khi Chúa Giêsu ngự vào lòng, mắt chúng ta sẽ thấy sự việc hoàn toàn đổi khác, vì Ngài mở mắt để chúng ta có thể thấy chúng cách xác thực.
SÁNG TẠO VÀ TÁI TẠO (1,18-25)
3. Người Do Thái đặc biệt liên kết Thánh Thần của Thiên Chúa với công cuộc tạo dựng: Chính do Thánh Thần mà Thiên Chúa hoàn thành công cuộc sáng tạo. Ban đầu Thánh Thần của Thiên Chúa vận hành trên mặt nước và trên cảnh hỗn mang để tạo thành thế giới (St 1,2). Tác giả Thánh Vịnh nói “Các từng trời được làm nên bởi lời Đức Chúa, cả cơ bình Ngài bởi hơi thở của miệng Ngài mà có” (Tv 33,6). Cả tiếng Do Thái Ruah, lẫn tiếng Hy Lạp, pneuma đều dùng vừa chỉ “hơi thở” vừa chỉ “thần linh”. “Chúa sai thần Chúa ra, là chúng được dựng nên” (Tv 104,30), Gióp nói “Thần của Đức Chúa đã sáng tạo tôi. Hơi thở của Đấng Toàn Năng đã ban cho tôi sự sống” (G 33,4). Thánh Thần là Đấng tạo dựng thế gian và là Đấng ban sự sống.
Cũng vậy, trong Chúa Giêsu có quyền năng sáng tạo và quyền năng ban sự sống của Chúa cho thế gian. Trong Chúa Giêsu chính quyền năng đó đã khiến cảnh hỗn mang trong thuở ban sơ trở nên trật tự, và chính quyền năng đó đem lại trật tự cho cuộc sống rối loạn của chúng ta. Chính quyền năng đó hà sinh khí vào trong vật không có sự sống, cũng đến để hà sinh khí vào trong sự yếu đuối và hư hỏng của ta. Có thể nói rằng chúng ta không sống cho đến chừng nào Chúa Giêsu ngự vào đời sống ta.
4. Người Do Thái đặc biệt liên kết Thánh Thần không những với công cuộc tạo thành nhưng còn với công việc tái tạo nữa. Êdêkien vẽ bức tranh ảm đạm của trũng hài cốt khô. Ông tiếp tục mô tả hài cốt khô đã sống lại như thế nào. Kế đó ông nghe Chúa dạy “Ta sẽ đặt Thần Ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống” (Ed 37,14). Các Rápbi Do Thái có một câu nói: “Chúa dạy cùng Israel: Trong thế gian này Thần Ta đã đặt sự khôn ngoan trong các ngươi, nhưng trong tương lai Thần Ta sẽ khiến các ngươi lại sống”. Khi con người chết trong tội lỗi, trong sự mê muội thì Thần Khí Chúa có thể khiến khiến họ lại sống. Cũng vậy, trong Chúa Giêsu có quyền năng thay đổi và tái tạo sự sống. Ngài có thể khiến linh hồn chết trong tội được sống lại. Ngài có thể phục hưng những lý tưởng đã chết, Ngài có thể khiến ý hướng thiện và đã hư mất được mạnh mẽ trở lại, Ngài có thể đổi mới và tái tạo cuộc sống khi nó đã mất tất cả ý nghĩa.
Ngoài sự kiện Chúa Giêsu Kitô do một trinh nữ sinh ra, trong đoạn này còn nhiều điều khác nữa. Trọng tâm của tường thuật Matthêu là sự Giáng Sinh của Chúa Giêsu. Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động đặc biệt chưa từng có trong thế gian này. Thánh Thần đã đem chân lý Chúa đến cho nhân loại. Chính Thánh Thần đã giúp con người đón nhận chân lý khi được nghe và chính Thánh Thần là Đấng duy nhất có thể tái tạo linh hồn con người khi đã mất sự sống. Chúa Giêsu cho chúng ta biết Thiên Chúa như thế nào và con người sẽ ra sao. Chúa Giêsu mở mắt tâm linh làm cho chúng ta có thể thấy chân lý của Chúa. Chúa Giêsu là quyền năng sáng tạo đến giữa loài người, Chúa Giêsu là quyền năng tái tạo có thể giải phóng linh hồn khỏi sự chết là hậu quả của tội lỗi.
66. Mùa yêu thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quang Trung)
Càng gần ngày mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa giáng trần, các công ty chuyên sản xuất hàng những quà mừng đón Noel càng tung ra nhiều mẫu hàng trang trí bắt mắt: từ những cây thông xanh mướt bằng nhựa tới những rừng thông bạc lớn nhỏ nối đuôi nhau xuất hiện ở các gian hàng treo dọc theo dài theo phố chợ. Từ những bộ sinh nhật cổ điển tới những bộ Thánh gia được cách tân. Từ những đèn sao nhấp nháy tới những ông già Noel, thiên thần bằng vải, bằng thạch cao, bằng giấy, bằng mốp, bằng những bóng điện kết nối tạo nên những hình ảnh thật sinh động không chê được! Cả một bầu khí rộn ràng bên ngoài đang chuẩn bị đón Chúa Giáng Sinh…
Gió đông vẫn đang se lạnh! Nhưng vạn ngọn thông vẫn cứ mướt xanh! Chỉ có Hương tình yêu: lúc thật đậm đà! Lúc như pha loãng!!! Bởi đường vào tình yêu, đặc biệt khi muốn cùng nhau đi suốt đường đời bằng sợi tơ hồng se kết hôn nhân, có mấy đời không trải qua thử thách vối đủ vị chát chua cay đắng ngọt bùi?
Tâm trạng đớn đau của chàng thanh niên Giuse khi chứng kiến người yêu thay hình đổi dạng: từ một thiếu nữ duyên dáng xinh tươi đạo hạnh vẹn toàn, bỗng chốc trở thành người đàn bà bụng mang dạ chửa mà bào thai không biết tác giả là ai? Làm sao không buồn? Làm sao không giận? Làm sao không hận? Làm sao không thù? Đọc đoạn Tin Mừng của Thành sử Matthêu ghi lại hoàn cảnh bi thương này để mọi người ngẫm suy trong tuần mùa vọng cuối cùng của phụng vụ năm A (Mt 1, 18-28), thật khó có chàng thanh niên nào đứng vững trước thử thách oái oăm này! Một giấc chiêm bao mộng mị! Làm sao giải tỏa hết nỗi ưu tư? Một cảnh phủ phàng đang xảy ra hiển nhiên trước mắt! cách nào nối lại nghĩa cũ tình xưa? Khó! Quá khó! Nên nỗi đau của Thánh Giuse đã thể hiện trọn vẹn tâm trạng kiếp người!
Trong dằn xé nội tâm: “ bỏ thì thương- vương thì tội” ấy! Chắc chẳng mấy chàng thanh niên ngày nay chấp nhận cách xử lý của chàng thanh niên Giuse năm xưa. “ Không ăn thì đạp đổ” là chuyện thường tinh để hả hê trong niềm đau uất hận chắc chắn sẽ là cách lựa chọn của nhiều người. Bởi sự phản bội nào cũng phải bị trả giá, chẳng qua là sớm hay muộn thôi! Quả là một thử thách đớn đau, cay đắng…
Tôi chỉ muốn dừng lại ở nỗi đau đó đề thấy lo, thấy sợ, thấy hoảng cho những chàng thanh niên hôm nay chỉ thích sống “ Tiền dâm hậu thú”! Chỉ thích hủy hoại đời người khác bởi mình không đủ trái tim cao thượng để cảm thông, để vươn lên, để thoát vòng kềm chế của thú tình lúc nào cũng đang tìm đủ mọi cách đang siết chặt đời mình vào vòng quay, vòng xoáy cùa chúng. Đáng sợ vô cùng!
Sự trầm tĩnh nơi chàng thanh niên Giuse của làng Nazareth năm xưa đã giúp tôi hiểu ra nhiều điều: tình yêu- đặc biệt tình yêu Hôn Nhân, và nhất là hôn nhân ngày nay- không bao giờ xuôi chèo mát mái! Không bao giờ biển lặng sóng êm! Không bao giờ như ý mình muốn! Không có nền tảng đạo đức: tình yêu có nguy cơ bị hủy diệt lúc nào không hay! Không có tấm lòng quãng đại: tình yêu có nguy cơ tan tành vụn vỡ lúc nào không biết! Không có tấm lòng nhẫn nại: tình yêu có nguy cơ tan đàn xẻ nghé bất cứ lúc nào! Không có tấm lòng tin tưởng: tình yêu có nguy cơ là chiếc bong bóng vuột khỏi tầm tay bất cứ lúc nào! Bởi:
Có nền tảng đạo đức: sự trầm tĩnh giúp tôi suy xét ngọn nguồn!
Có tấm lòng quảng đại: sự yêu thương giúp tôi vượt qua nỗi khổ!
Có tấm lòng tin tưởng: sự lắng nghe giúp tôi tìm lại chính mình
Trước mọi cú sốc, mọi thử thách, mọi trắc trở trên đường đời, sự trầm tĩnh sẽ giúp ta không bị dồn vào ngõ cụt, để rồi không lường được đủ thứ hậu quả kinh khủng sẽ xảy ra do hành động không tự chủ của mình! Mẹ Maria đã được đỡ nâng rất nhiều từ sự trầm tĩnh ấy! Chúa chỉ đến với những tâm hồn lắng động! Trầm tư! Hướng nội! Bản tính tự nhiên luôn cần được cắt- tỉa- gọt để Hương tình yêu không chỉ lan tỏa trong giới tính, mà còn đượm hương nghĩa xóm tình làng! Thánh Giuse đâu để cá tính tự do phát triển, mà Ngài đã uốn nắn nó trên một nền tảng đạo đức thẳm sâu. Ơn Chúa luôn có cho ta, nhưng với điều kiện ta phải cộng tác với ơn ấy! Thánh Giuse và Mẹ Maria đã làm được điều đó. Chính vì vậy, mà hương tình yêu ban đầu tưởng mãi mãi lạt phai, nhạt nhòa nhưng qua những gian nan trắc trở, hương tình yêu ấy đã ngày một đượm nồng hơn, thắm thiết hơn, ấm áp hơn…
Mùa Giáng Sinh, mùa Noel, mùa tình yêu đang đến cho mọi người. Món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại chính là tình yêu. Nhưng giữ nó được hay không, hãy chiêm ngắm hang đá của gia đình chàng thợ mộc trầm tĩnh và nàng nội trợ dịu hiền đang trú ngụ, ta sẽ biết phải làm gì để hương tình yêu luôn đậm đà nơi mái ấm của ta.
67. Chúa ở cùng chúng ta – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, Chúa đã nhập thể làm người để con người làm con Thiên Chúa. Đây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài thụ tạo chúng ta. Ngài chính là Emanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài còn tự đồng hoá mình trong những mảnh đời bất hạnh mà chúng ta gặp gỡ bên đường.
Người ta kể rằng: có một người đạo đức thánh thiện kia, đêm ngày hằng ao ước được tiếp đón Chúa một lần trong đời. Với ước nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nói với ông qua giấc ngủ: "ngày mai Ta sẽ đến viếng thăm ông". Thế là ông đã bắt đầu một ngày mới tràn đầy niềm vui vì nỗi niềm khát khao của mình sắp được toại nguyện. Ông chuẩn bị phòng ốc sạch sẽ, chuẩn bị tiệc tùng thiết đãi Chúa và ra tận ngoài cổng để đón tiếp Chúa. Thế rồi khi ánh bình minh xuất hiện ông thấy một lão ăn xin, rách rưới tả tơi đến xin ông chút cơm bánh lót dạ, ông đã vô tình xua đuổi vì ông đang nóng lòng chờ đợi vị thượng khách. Rồi tiếp sau là một người lữ hành, nỡ đường nỡ bước đang cần sự nâng đỡ của ông, nhưng ông vẫn từ chối. Và khi bóng chiều đã ngả sau lưng đồi ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu, bệnh tật đến nương nhờ ông đã làm ngơ trước lời van xin. Cuối cùng, đêm về ông trách Chúa, tại sao không đến thăm ông như đúng lời đã hứa. Chúa đã nói với ông: "Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần nhưng đều bị ngươi khước từ".
Vâng, Chúa đã đến và ở giữa nhân loại đã được các tiên tri loan báo qua mọi thời đại, đến nỗi một nhà thơ đã từng thốt lên: "Giêsu - Giêsu không bỗng dưng mà có - Cả pho Cựu ước còn đó - Trăn trở bao đời mới sinh hạ Giêsu". Và khi thời gian đến hồi viên mãn, ngài đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong một cung điện nguy nga, tráng lệ, nhưng sinh ra giữa đám dân nghèo cùng cực, Ngài ở giữa chúng ta để chia sẻ cảnh đời tha hương khốn cùng nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư - chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi, con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng chính Ngài lại không có nơi gối đầu". Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu của mình cho những người bất hạnh vì ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là những người thu thuế và gái điếm, vì sứ mệnh của Ngài đến trần gian là để cứu vớt những gì đã mất.
Kính thưa qúy ông bà và anh chị em,
Lời báo mộng của thiên sứ với thánh Giuse dường như vẫn vang vọng nơi tâm hồn chúng ta, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, ngài đang hiện diện nơi những người nghèo đói, tật nguyện, nơi những người bất hạnh, bị ngược đãi, bị bỏ rơi, Ngài đang cần chúng ta gạt ra ngoài những toan tính trần thế, những nghi nan, khó khăn để mạnh dạn và quảng đại đón nhận những anh em hèn yếu, đói khổ đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Vâng chính Ngài đã đồng hoá mình với tất cả những người khốn khó đó, vì chính Ngài đã nói: "Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các người, vì khi xưa Ta đói, Ta khát, Ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn cho uống và tiếp rước.
Song le, Chúa Giêsu cũng đang cần chúng ta trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa giữa thế giới hôm nay. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã cần sự cộng tác của thánh Giuse để ngài có một vị trí trong xã hội, được sinh ra trong một gia đình, một dòng tộc vua Davít, thì ngày nay, Ngài cũng cần sự cộng tác của chúng ta để Ngài lại tiếp tục sinh ra giữa dòng đời hôm nay. Nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó có yêu thương, nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó có an bình hạnh phúc. Thực vậy, con người ngày nay đang cố gắng bon chen để dành cho mình có lắm của nhiều tiền, có một địa vị cao trong xã hội đến nỗi sẵn sàng chà đạp lên anh em mình, bất chấp lề luật của Chúa nên chính họ luôn mất bình an và làm cho cuộc sống chung quanh trở nên nặng nề vì nghi kỵ, ghen tương và hận thù.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta, và trong môi trường sống quanh ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa, đừng sợ những nghi nan, những khó khăn khi phải tuân theo thánh ý Chúa, vì chính Chúa sẽ tháo gỡ những nghi nan và ban ơn bình an cho những ai thành tâm thiện chí sống theo lời Ngài. Noi gương thánh Giuse, mỗi người chúng ta hãy biết đón nhận Chúa vào trong cuộc đời mình và qua đời sống tuân hành thánh ý Chúa, chúng ta gieo vãi niềm vui và sự an bình của Chúa cho anh chị em chung quanh. Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chung quanh chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanul luôn hiện diện sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui ân thánh trong ngày mừng Chúa giáng sinh. Amen.
68. Emmanuel Thiên Chúa ở cùng chúng ta
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Việc đặt tên cho con là việc quan trọng đối với các đôi vợ chồng. Khi có con sắp chào đời, hai vợ chồng bàn bạc với nhau để chọn cho con mình một cái tên thật ý nghĩa, thật đẹp, thật hay.
Qua việc đặt tên, cha mẹ gửi gắm ước vọng của mình vào đó. Tỷ như khi đặt tên cho con là Phúc, Đức, Tài, Lộc… cha mẹ cầu mong cho con mình sau nầy đạt được những điều tốt đẹp y như tên gọi của các em.
Trích đoạn Tin Mừng theo thánh Matthêu trong Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng nầy đề cập đến tên gọi mà Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Lời nhập thể trước khi Người đầu thai trong lòng Mẹ Maria. Tên gọi nầy đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo từ hơn bảy trăm năm trước: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 18,23)
Đây là một tên gọi thật ý nghĩa; tên gọi nầy nói lên ước vọng của Thiên Chúa là muốn ở mãi với loài người khắp mọi nơi, suốt mọi thời cho đến tận cùng thời gian.
Đức cha Gaillot có nhận định rất hay: “Sống rộng lượng là tốt, nhưng sống-với tốt hơn; công việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn.”
Đúng thế, dù chúng ta có rộng lượng với người nghèo khổ bao nhiêu cũng không bằng đến sống-với họ, chia sẻ buồn vui cay đắng với họ. Dù chúng ta có làm bao nhiêu việc từ thiện để giúp cho người đau khổ cũng không bằng đến hiện-diện-bên-cạnh họ trong những lúc đau thương.
Vì yêu thương loài người quá đỗi nên Thiên Chúa muốn sống-với con người, muốn hiện-diện-bên-cạnh con người mọi lúc mọi nơi. Danh hiệu Em-ma-mu-en gói trọn ước vọng của Thiên Chúa muốn ở mãi với loài người.
Ước vọng nầy cũng được Chúa Giêsu khẳng định lại khi Người sắp từ giã các môn đệ: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20)
Để thực hiện ước muốn ở với loài người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất để ở cùng chúng ta, đã mang thiên tính cao cả của Thiên Chúa hòa chung với nhân tính hèn yếu của con người, để chia sẻ thân phận đau thương của kiếp người.
Ngay cả khi Chúa Giêsu được Chúa Cha vinh thăng trên các tầng trời, chấm dứt sự hiện diện hữu hình bị giới hạn bởi không gian và thời gian ở trên mặt đất, thì Người vẫn tiếp tục hiện diện cách thiêng liêng trong tâm hồn của các tín hữu và trong Hội Thánh.
- Chúa Giêsu tiếp tục ở với chúng ta qua Lời của Người: chính Thiên Chúa ngỏ lời với ta khi Giáo Hội công bố Lời Chúa.
- Chúa Giêsu tiếp tục ở với chúng ta khi chúng ta họp nhau nhân danh Người: “Khi có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa những người đó.”
Chúa Giêsu cùng với Chúa Cha và Thánh Thần thường xuyên cư ngụ trong lòng những kẻ yêu mến và tuân giữ Lời Người: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23)
Thế nhưng bấy nhiêu cũng chưa thoả lòng yêu thương nên Chúa Giêsu còn lập nên bí tích Thánh Thể, hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu để cho chúng ta được rước Chúa vào lòng, để chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Chúa, được sống trong Chúa và Chúa sống trong chúng ta.
Nguyện vọng tha thiết nhất của Thiên Chúa là ở với loài người mọi ngày cho đến tận thế. Và điều đau lòng nhất của Thiên Chúa là bị nhân loại từ khước như thánh Gioan nhận định trong Tin Mừng thứ tư. “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 10-11)
Mỗi ngày, chúng ta đang giáp mặt với nhiều hạng người, kẻ xa, người gần, đang đến với chúng ta. Họ là hiện thân của Đức Em-ma-nu-en. Ước gì chúng ta biết mở rộng trái tim để đón tiếp Người và dành cho Người một chỗ đứng quan trọng trong lòng chúng ta.
69. Truyền tin cho ông Giuse
(Suy niệm của Lm. Giuse Dương Hữu Tình)
Chúng ta đã bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Ở Chúa nhật này, Giáo hội mong muốn chúng ta thực sự chuẩn bị tâm hồn xứng đáng cho Đại Lễ Giáng Sinh sắp tới. Bởi thế, Giáo hội đưa ra tấm gương rất tiêu biểu như là khuôn mẫu cho một tâm hồn được chuẩn bị sẵn cho Con Thiên Chúa giáng trần. Khác Chúa nhật năm B và C, Giáo hội đưa ra khuôn mẫu là Mẹ Maria. Chúa nhật IV Mùa Vọng năm A này, Giáo hội muốn chúng ta hướng lòng về một khuôn mặt đặc biệt khác, đó là Thánh Giuse với biến cố được gọi là “Truyền tin cho ông Giuse”.
Vẻn vẹn chỉ 8 câu Phúc Âm ngắn gọn mà đã toát lên gần như trọn vẹn khuôn mặt mẫu mực và rất đáng yêu của Thánh Giuse. Chuyện bắt đầu từ việc Mẹ Maria mang thai mà Thánh Giuse không hay biết gì về nguồn gốc. Thánh Giuse thấy thế thế định bỏ Mẹ Maria, nhưng Ngài được giải thích qua giấc mộng. Thế là Thánh Giuse không bỏ Đức Mẹ nữa mà đón Mẹ về nhà mình. Chuyện chỉ có thế thôi nhưng qua sự kiện này, nhân đức của Thánh Giuse được dịp tỏa sáng. Tỏa sáng như thế nào? Thánh sử Matthêu đã trả lời cho chúng ta khi ngài nói về Thánh Giuse một cách rất ngắn gọn: “Ông Giuse, chồng bà, là người công chính”. Nếu không phải là một người công chính, thì sự việc đã xảy ra khác nhiều. Nếu không phải là người công chính thì không ai có thể biết số phận con trẻ trong lòng Mẹ Maria sẽ ra sao? nếu không phải là người công chính thì chương trình cứu độ của Thiên Chúa làm sao có thể tiếp tục một cách tốt đẹp?
Thánh Giuse là người công chính, nên đã định tâm bỏ Đức Mẹ. Ông định bỏ Đức Mẹ ít là vì hai lý do này: trước hết vì là người chồng, nên ngài hiểu vợ mình: “Ông Giuse, chồng bà”. Thánh Giuse hiểu Đức Maria hơn ai hết, nên ngài tin Đức Mẹ. Ngài biết thai nhi trong lòng mẹ do một quyền năng siêu nhiên nào đấy can thiệp và dường như càng lúc ngài càng cảm thấy Quyền năng ấy choáng ngập vợ mình, dành riêng vợ mình cho một sứ mạng lớn lao khác. Là một người đạo đức, công chính, ông lặng lẽ rút lui.
Lý do thứ hai: chính vì là một người công chính, Thánh Giuse sớm nhận ra đâu là dấu vết của Thiên Chúa và đâu là dấu vết của tà thần. Đó là tâm trạng chung của những tâm hồn đạo đức thánh thiện. Càng đạo đức bao nhiêu thì càng dễ phân biệt đâu là thánh đâu là tà, càng công chính bao nhiêu thì càng bén nhậy trước thánh ý Thiên Chúa bấy nhiêu. Vì thế, Thánh Giuse sớm nhận ra bàn tay vô hình của Thiên Chúa đang can thiệp vợ mình. Phản ứng của ông cũng giống tâm trạng của những người công chính trong Cựu Ước, đó là rút lui. Ông sợ không dám tiết lộ với ai, cũng không dám nhận một người như thế làm vợ, ông âm thầm bỏ đi.
Chính lúc đó, Thiên Chúa can thiệp. Ngài cho Thánh Giuse hiểu rằng Ngài muốn dùng cả bản thân Thánh Giuse cho chương trình vĩ đại của Ngài.
Thánh Giuse quả là một con người vĩ đại. Ngài sớm nhận ra ngay chương trình của Chúa, ông “làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”.
Thiên Chúa luôn có sẵn chương trình của Ngài và chương trình nào cũng vì yêu và làm đẹp cho con người. Đáng tiếc ngày nay người công chính ít quá, nên công trình của Chúa bị hỏng nhiều.
Lạy Chúa, xin soi cho con biết ý Chúa trong cuộc đời con và xin cho con đủ sức để mau mắn thi hành.
70. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
(Suy niệm của Phanxicô Xavie)
Cô đơn là đe dọa lớn nhất đối với hạnh phúc. Người cô đơn không tìm thấy lời đáp cho các vấn nạn của đời mình. Họ trở thành người bất hạnh, tuyệt vọng, vì luôn phải đối diện với cái phi lý. Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta sẽ cứu chúng ta khỏi nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng ấy, vì Chúa đến trần gian này để chia sẻ với chúng ta thân phận làm người. Chính niềm tin ở Chúa, Đấng đến với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, sẽ cứu chúng ta khỏi cuộc sống vô nghĩa. Thiên Chúa sẵn sàng can thiệp khi chúng ta hoang mang trong tăm tối nếu chúng ta có lòng trông cậy vào Người.
Thời vua Akhaz trị vì Giu-đa cũng vậy, bị tranh chấp trong nội bộ vương quốc, bị đe dọa bởi các nước láng giềng. Vua Akhaz nghĩ đến việc nhờ ngoại binh giúp đỡ. Tiên tri Isaia khuyên ông không nên làm thế. Ông tin vào hòa ước với người Assyri hơn là tin vào Thiên Chúa. Đống thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập nhiều đền thờ tà thần. Nhưng Chúa vẫn đến như lời tiên tri Isaia đã loan báo. Để bảo đảm lời khuyên của mình, cũng như để củng cố niềm tin cho nhà vua và dân chúng, một lần nữa nhà tiên tri thúc giục vua Akhaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là dựa vào sức mạnh liên minh quân sự. Đức tin mà ngôn sứ Isaia đòi hỏi, bao hàm một sự tín nhiệm tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhưng ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại quốc xin viện binh. Vì không nghe theo lời khuyên khôn ngoan của nhà tiên tri, vua Akhaz sẽ bị trừng phạt và vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì lòng thương xót, qua Tiên tri Isaia Thiên Chúa đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý muốn của Người sẽ hiện diện giữa dân và cứu thoát họ. Đức Chúa ban cho vua Akhaz một dấu hiệu: từ dòng dõi ông, một người con sẽ chào đời, chính người con này sẽ giúp giải thoát dân. Sự long trọng của lời sấm cũng như cái tên biểu tượng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đặt cho con trẻ, làm cho người ta thấy trong cuộc sinh hạ này một điều gì khác hơn nữa. Đó là sự can thiệp của Thiên Chúa để thiết lập hẳn một triều đại Messia. Người con này là Ezêkia, một vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Chúa Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô - Đấng Emmanuel đích thực.
Trong trình thuật của bài Tin Mừng Mt 1, 18-24, Matthêu trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước nhằm minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria để thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia với vua Akhaz. Đoạn Tin Mừng cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha Chúa Giêsu theo luật pháp. Đồng thời cho chúng ta biết, Con Một Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
Sự công chính của thánh Giuse trong bài Tin Mừng không thể hiểu đơn giản là sự công chính theo lề luật, mà là sự công chính mang ý nghĩa tôn giáo, đó là vì Ngài biết tôn trọng công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và vâng nghe thánh ý Người. Mặc dù đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Chúa không ủy thác. Nhưng sau khi được Thiên sứ báo mộng, biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào chương trình của Ngài. Thánh Giuse không từ chối, mà trỗi đậy thực hiện lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho thánh Giuse trở thành người cộng tác tích cực trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, và nên người công chính. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết lắng nghe và đón Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình.
Thiên Chúa đến ở với chúng ta chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu. Nhưng để cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ dàng. Cần phải có niềm tin, phải chuyên cần cầu nguyện và nhất là cần phải gắn bó với Chúa luôn trong Bí tích Thánh Thể.
71. Tuân theo ý Chúa
(Suy niệm của Lm. An Phong)
Ngày lễ Giáng sinh đã gần kề, phụng vụ cũng nhắc nhở chúng ta thái độ quan trọng để Chúa có thể đến trong cuộc đời mình: tuân theo Thánh Ý Chúa.
Trong bài đọc 1, sách Isaia kể cho chúng ta việc vua xứ Giuđa là Achaz đang phải đối diện với các cuộc xâm lăng của các nước phương Bắc. Ông không trông cậy vào Chúa mà chỉ nghĩ đến việc cầu cạnh các nước khác. Ông lập đền thờ quấy và còn thiêu sinh cả con mình làm lễ tế. Ngôn sứ Isaia được Chúa sai đến nói với Achaz hãy tin tưởng vào Chúa và cho ông xin một dấu chỉ, dù trên trời hay dưới đất. Achaz không dám xin vì sợ nếu có dấu chỉ của Chúa thì sẽ phải bỏ hết những mưu tính của mình; nên giở giọng đạo đức để nói: “Tôi đâu dám thử Chúa.”
Dù vậy, Chúa cũng ban cho Achaz một dấu chỉ: “một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai”.
Ngược lại, Tin mừng Matthêu thuật lại cuộc “truyền tin” cho Giuse. Giuse cũng có chương trình và cách thức giải quyết cuộc đời của mình. Nhưng trước lời Thiên thần, Giuse đã sẵn sàng từ bỏ chương trình của mình để thực thi chương trình của Chúa; “Giuse làm như Thiên thần Chúa dạy”.
Chúa đến, Ngài làm đảo lộn cuộc sống và trở nên cớ vấp phạm cho những người không dám tin vào Ngài. Thánh ý của Chúa khác với chương trình của con người, nhưng cứu độ con người. Những ai tin tưởng, trông cậy và yêu mến Ngài thì mới có thể nhận ra “dấu chỉ” của Ngài, dấu chỉ của tình thương giáng thế: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”.
Chúa đã đến thật gần trong cuộc đời chúng ta. Ngài cũng đang tỏ bày những dấu chỉ nói lên Thánh Ý của Ngài qua những sự việc xung quanh ta. Ngài ước mong chúng ta nhận ra tình thương đang giáng thế và tin tưởng vào ơn cứu độ của Ngài.
Chúng ta có dám tin vào chương trình của Chúa trong cuộc đời ta không?
Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đã không quản ngại quãng đường “xa xôi” từ trời đến trần gian. Chúa đã không chịu thua sự cứng lòng của con người muốn loại Chúa khỏi cuộc sống. Chúa đã hạ mình lãnh nhận những hậu quả của tội lỗi con người đổ xuống trên đầu. Chúa đã không chê chối trần gian tầm thường tệ bạc.
Lạy Chúa Giêsu là Chúa của con! Ngài đến với con trong tình yêu thương bao la, ẩn giấu trong tấm bánh nhỏ bé này.
Lạy Chúa Giêsu, Con cũng tin rằng Chúa không ngại ngùng trước cuộc đời của con. Con cũng tin rằng Chúa không chịu thua sự cứng lòng của con. Con cũng tin rằng Chúa không chê chối tâm hồn tầm thường của con.
Xin Chúa đến và đến hàng ngày trong tâm hồn con.
72. Theo gương Mẹ Maria sống tâm tình Mùa Vọng
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Minh Chánh)
Mùa vọng là thời gian để chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Trong thời gian này, Giáo Hội đã cho chúng ta chiêm ngưỡng những mẫu gương sống động của các nhân vật trong Kinh thánh như: Tiên tri Isaia, Gioan tẩy giả, cũng như qua cách sống và những tâm tình của các ngài trao gởi lại, thì đó cũng là những bài học rất quý giá để chúng ta sống tốt đẹp hơn trong thời gian mùa vọng.
Thật thiếu sót, nếu chúng ta không kể đến Mẹ Maria trong thời gian mong đợi Con Chúa giáng trần. Bởi vì Mẹ Maria cũng đã từng sống tâm tình mùa vọng như bao người khác. Thế nhưng, hơn ai hết, kinh nghiệm sống tâm tình mùa vọng nơi Mẹ Maria vẫn luôn là tiếng gọi thúc giục lòng ta hãy thành tâm chiêm ngưỡng cách sống mùa vọng nơi Mẹ. Nhờ vậy chúng ta sẽ có những tâm tình xứng hợp trong khi chúng ta hướng về ngày Chúa đến trong trần gian.
1/ Mẹ Maria sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống thánh thiện:
Vì ý thức Đấng Thiên Sai muôn dân mong đợi là Đấng thánh, nên thời gian sống tâm tình mong đợi con Thiên Chúa nơi Mẹ Maria, đã được dệt bằng những chuỗi ngày vô tận của sự thánh thiện
Mẹ sống thánh thiện, vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn sẽ được đón nhận niềm vui ơn cứu độ cách tròn đầy.
Mẹ sống thánh thiện, vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn luôn làm đẹp lòng Chúa là Đấng Thánh. Và Ngài rất vui khi được hiện diện với những tâm hồn như thế.
Về điểm này, chúng ta hãy suy nghĩ lại những hành động của Chúa Giêsu khi Ngài tiến về Giêrusalem để thực hiện cuộc thanh tẩy Đền thờ. Vì phía sau hành động thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta phải tự thanh tẩy đền thờ tâm hồn chính mình, nhờ vậy Thiên Chúa là Đấng thánh mới vui thích ngự trong những tâm hồn trong sạch như Ngài.
Hơn ai hết, cách sống tâm tình mùa vọng của Mẹ Maria đã để lại dấu ấn không thể ngờ và không thể phai mờ.
Không thể ngờ vì qua sự chuẩn bi tích cực để mong đợi Đấng Cứu Độ nơi Đức Maria, Thiên Chúa đã đoái nhìn đến cách sống thành tâm tuyệt vời ấy. Vì thế, một điều bất ngờ xảy ra nơi Mẹ là Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ, Người Nữ Thánh Thiện được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã chọn cung lòng thanh khiết của Mẹ để trao gởi Người Con Yêu Dấu của Ngài là Đấng Thánh, và qua trung gian Mẹ Maria Thiên Chúa đã trao ban Đấng Cứu Độ cho loài người. Đó là một điều bất ngờ đối với Mẹ Maria. Thế nhưng, qua sự bất ngờ này thì Mẹ Maria đã thể hiện một dấu ấn không thể phai mờ. Vì từ giây phút bất ngờ khi được Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình, cũng từ giây phút ấy, Mẹ Maria đã khiêm tốn chỉ cho chúng ta con đường để chúng ta gặp Chúa, để Chúa đến với chúng ta. Con đường Mẹ chỉ dạy chúng ta đó là hãy trở lại kinh nghiệm của chuỗi ngày vô tận sống thánh thiện nơi Mẹ. Vì chuỗi ngày thời gian sống thánh thiện của Mẹ, đã hình thành nên bài thánh ca muôn thuở để mời gọi mọi người hãy can đảm sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống thánh thiện như Mẹ Maria, Trinh Nữ Thánh Thiện
2/ Mẹ Maria sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống khiêm nhường:
Khiêm nhường là cách sống Mẹ rất ưa thích. Mẹ thích sống khiêm nhường, bởi vì nhờ những tâm tình ấy mà Mẹ thật sự trở nên một người con bé nhỏ của Thiên Chúa, luôn phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, luôn sống theo những gì Chúa đã dạy.
Vì Mẹ thích sống khiệm nhường, nên Mẹ sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng ý Chúa trong ngày truyền tin, để từ giây phút ấy mẹ đã trở nên Thánh mẫu của Đấng Tối Cao.
Vì Mẹ thích sống khiệm nhường, nên Mẹ sẵn sàng thi hành lời Chúa dạy trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: Lúc vui, lúc buồn, lúc bối rối, lúc lo sợ, lúc an bình...... Nhờ việc hạ mình sống theo Lời Chúa mà Mẹ Maria được gọi là người có phúc. Mẹ có phúc vì Mẹ là người luôn "lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc11,28).
Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã khiêm nhường tự hạ mang lấy thân phận con người, và trong thân phận con người Ngài đã mang lấy thân phận nô lệ để phục vụ sự sống cho muôn người.
Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên qua đời sống gương mẫu tuyệt vời ấy, Mẹ muốn nhắc nhở chúng ta: Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường, Ngài rất thích những ai sống khiêm nhường. Chỉ có những tâm hồn sống khiêm nhường như Chúa mới có thể gặp được Chúa và được Chúa đến viếng thăm cư ngụ trong tâm hồn người ấy. Vì Thiên Chúa bản chất là khiêm nhường, nên Ngài không bao giờ đến với những ai kiêu căng, cậy dựa chức quyền, cậy dựa vào sức mạnh của trần thế để bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa là Đấng hiền lành và khiêm nhường. Về điềm này chính Mẹ Maria đã nhắc nhở cũng như đã cảnh cáo những ai sống ngược lại với cách sống khiêm nhường của Chúa, khi Mẹ nói: "Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường" (Lc1, 51-52).
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật cuối cùng của mùa vọng. Thiết nghĩ, muốn thay đổi cách sống để cùng với Mẹ Maria sống những tâm tình mùa vọng còn lại cũng chưa phải là muộn. Vì đối với Chúa, những cố gắng quyết tâm chân thành sống phút giây hiện tại, cũng có thể biến chuyển đời sống chúng ta trong tương lai.
Hơn nữa, sống tâm tình mùa vọng không chỉ dừng lại bời thời gian được ấn định trong năm phụng vu. Nhưng tâm tình hướng về Con Thiên Chúa đến trần gian, đến trong cõi lòng chúng ta phải được thực hiện trong từng phút giây của nhịp sống.
Như vậy, khi khám phá hình ảnh sống mùa vọng nơi Đức Maria qua đời sống thánh thiện và khiêm tốn, thì đó cũng là lúc Mẹ chỉ cho chúng ta con đường hoàn hảo nhất, đẹp lòng Chúa nhất để Chúa đến với chúng ta.
Nếu chúng ta thật lòng sống thánh thiện như Mẹ mà không bị giằng co bởi những thú vui giả tạo mau qua của thế gian, chắc chắn đó là con đường hoàn hảo nhất để Chúa là Đấng Thánh giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.
Nếu như chúng ta thật lòng sống khiêm nhường như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, mà không lo sợ phải thiệt thòi bởi những thứ ham muốn của sức mạnh trần thế, chắc chắn đó là con đường đẹp lòng Chúa nhất để Chúa giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.
Lạy Mẹ Maria! Ước gì những tâm tình sống mùa vọng nơi Mẹ sẽ là hành trang luôn đồng hành trong cách sống đức tin chúng con. Nhờ đó chúng con cũng được đón nhận nguồn ơn cứu độ như Mẹ. Lạy Mẹ Maria, xin cho niềm vui giáng sinh sắp đến được khơi dậy bằng ước muốn sống thánh thiện và khiêm nhường trong từng phút giây hiện tại của đời sống chúng con.
73. Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Mộng Thơ
Với bài Tin Mừng hôm nay cũng như bài đọc I, sách Tiên tri Isaia, Giáo Hội muốn chứng minh cho ta một điều: Chúa Cứu Thế sinh bởi một Trinh Nữ.
Ai trong chúng ta cũng biết từ khuya điều đó, nhất là đối với người tín hữu Công Giáo Việt Nam, chúng ta coi như là một điều hầu như hiển nhiên hay ít là không có gì "trục trặc" và bận tâm với niềm tin sẵn có nơi Chúa Toàn Năng ("điều gì mà Thiên Chúa cả làm được") và nhất là đối với Mẹ Maria "trọn đời đồng trinh". Nhưng thực ra với người Âu Tây vấn đề này (cũng như thiên chức của Đức Trinh Nữ Maria) đã và vẫn còn là nguồn tranh luận sôi nổi không ngừng nơi các nhà thần học và triết gia hiện tại cũng như một số giáo dân với khuynh hướng "cấp tiến"... Rồi từ đó kéo theo luôn vấn đề phụng vụ và các nghi lễ liên hệ trong việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria rất khác nhau ngay trong chính một địa phận Công Giáo Âu Châu. Đấy là chúng ta chưa dám bàn luận đến vấn đề tín lý giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Tin Lành về sứ mạng "đồng công cứu chuộc" của Đức Trinh Nữ Maria.
Cho nên người giáo dân Việt Nam thường nói với tôi: "Bên Tây Phương này lòng sùng kính Đức Mẹ không như xứ mình... có người giáo dân Tây còn cho rằng việc lần hạt là cách đọc kinh của mấy cụ già..."
Điều này không lạ. Tuy nhiên ở đây chúng ta không bàn về vấn đề mục vụ Tây phương khác với Ta thế nào nhưng là bài suy niệm về mầu nhiệm cứu chuộc.
Chúng ta có 3 bằng chứng xác định rõ về sự trinh tiết của Mẹ Maria:
1. Sách Isaia 7,14: "Chúa sẽ cho các ngươi một dấu lạ, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Điều này cũng có nghĩa là từ xưa đến nay chưa bao giờ xẩy ra điều đó, chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng đã sáng tạo nên vũ trụ mới có thể làm được, mà điều Ngài thực hiện với chỉ một mục đích là ban tặng cho nhân gian từ khi biến cố Adong và Evà.
2. Phúc Âm Mt 1,21 lập lại và xác định rõ ràng lời tiên tri trên đây qua miệng thiên thần Chúa nói với thánh Giuse trong giấc mộng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta..." Đoạn đầu bài Phúc âm còn xác định thật rõ: "Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần..."
Không còn nghi ngờ gì nữa vì có lời tiên báo từ ngàn xưa, vì có bằng chứng chính xác về sự kiện trên đây trong chính thời của Đức Mẹ và các thánh tông đồ, Giáo Hội đã xác quyết và tuyên xưng đức tin của mình mỗi Chúa nhật trong kinh Tin Kính (Credo) tín điều nhập thể của Chúa Cứu Thế.
3. Kinh Tin Kính: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người..."
Nhưng điểm quan trọng hơn cả ở đây mà Giáo Hội muốn tuyên xưng và xác quyết là "Bởi phép Đức Chúa Thánh thần" tức là bởi quyền năng của Ngài, chính Chúa Thánh Thần đã và còn đang thực hiện muôn ngàn việc lạ lùng mà trí khôn ta cũng như khoa học hiện nay dù có tân tiến đến đâu cũng không bao giờ suy cho thấu. Xác quyết và tuyên xưng rằng Đức Mẹ đồng trinh trọn đời là tuyên xưng Thiên Chúa toàn năng. Ngài đã chọn một thiếu nữ dù bình thường như chúng ta lên thiên chức Nữ Vương Mẹ Thiên Chúa và Đồng công cứu chuộc với Con Ngài.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng và ít ngày nữa chúng ta sẽ mừng Chúa ra đời trong đêm Giáng Sinh. Ngoài trời thông reo và gió tuyết cùng ngàn vạn vì sao lấp lánh hợp với muôn tiếng nhạc du dương của bản thánh ca Noel hiền hoa... ai ai chúng ta cũng rộn rã trong tim một niềm vui thánh miên man đầm ấm khó tả. Hồn chúng ta bỗng chùng hẳn lại... bâng khuâng nhớ về những mùa Giáng Sinh thật đẹp năm xưa tại quê nhà dù không có tuyết rơi gió lạnh nhưng với ngàn vạn kỷ niệm yêu dấu không bao giờ quên.
Mẹ Maria và thánh Giuse năm xưa cũng xa quê nhà như chúng ta: thiếu thốn mọi sự ngay cả nơi trú thân. Cùng quỳ gối và suy niệm trước Chúa Hài Đồng trong máng cỏ, Mẹ Maria và các thiên thần sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn trong đức tin về mầu nhiệm giáng trần của Con Một Thiên Chúa sinh bởi một trinh nữ là Mẹ Thiên Chúa và là mẹ chúng sinh.
74. Rước Đức Maria về nhà – Lm Phạm Quốc Hưng
"Tỉnh giấc, Giuse đã làm như thiên thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà."
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng trong mùa Vọng trước khi chúng ta long trọng đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Lần lượt trong ba tuần vừa qua, Giáo hội mời gọi chúng ta phải tỉnh thức sẵn sàng, phải ăn năn hối cải và phải nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ mà nhân loại hằng mong đợi. Trong Tin mừng hôm nay, Giáo hội đặt trước mắt chúng ta gương mẫu tuyệt vời của một con người đã biết sẵn sàng đón nhận Chúa Cứu thế vào cuộc đời mình. Đó là thánh Giuse - cha nuôi Chúa Giêsu và phu quân Đức Maria.
Chúng ta biết thánh Giuse không phải là người đầu tiên nhận biết việc nhập thể của Chúa Giêsu và đón tiếp Người vào đời. Người đầu tiên được diễm phúc độc nhất vô nhị ấy chính là Mẹ Maria, khi Mẹ nói tiếng "Xin vâng" để đáp lời truyền tin của Tổng lãnh Thiên thần Gabriel và trở nên Mẹ, Chúa Cứu Thế, như đã được thánh Luca thuật lại (Lc 1:26-38). Việc Mẹ Maria thụ thai Chúa Giêsu cách nhiệm lạ cũng đã được ngôn sứ Isaia báo trước, như chúng ta được nghe trong bài đọc Cựu Ước và bài Phúc âm của phụng vụ hôm nay. "Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi" (Is 7:14 & Mt 1:23)
Là người đầu tiên đón nhận Tin mừng Chúa nhập thể và cũng là người cưu mang Chúa Cứu Thế, Đức Mẹ đồng thời đã trở thành người chứa đựng chính nguồn ơn cứu độ, nguồn hy vọng cho toàn thể nhân loại qua mọi thời đại. Chúa Giêsu còn được gọi là Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Và người được Thiên Chúa ở cùng trước tiên và trên hết chính là Mẹ Maria. Chỉ qua Mẹ Maria và nhờ Mẹ Maria, nhân loại mới được đón nhận Chúa Cứu Thế.
Đây chính là thánh ý Chúa để thực hiện chương trình cứu độ Người dành cho nhân loại từ đời đời.
Và thánh Giuse đã là người được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn làm bạn trăm năm của Đức Maria và được Chúa mạc khải cho biết thánh ý nhiệm lạ này, như Chúa đã chọn Đức Maria để mạc khải cho biết việc nhập thể của Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã chú tâm lắng nghe và mau mắn thực hiện thánh ý Chúa qua lời thiên sứ nói ngài với một lòng tin yêu vâng phục tuyệt vời đối với Thiên Chúa, cũng hệt như thái độ "Xin vâng" của Mẹ Maria trong biến cố truyền tin.
Sự việc này đã được thánh Matthêô thuật lại trong Tin mừng hôm nay: "Tỉnh giấc, Giuse đã làm như thiên thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà." (Mt 1:24)
Những lời này cho thấy là liền sau Mẹ Maria, thánh Giuse đã xứng đáng được gọi là người môn đệ tuyệt hảo nhất của Chúa Giêsu. Vì cũng như Mẹ Maria, ngài là người đã mau mắn lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong mọi việc. Đồng thời, cũng như người môn đệ Chúa yêu sau này sẽ vui nhận Đức Maria làm Mẹ và hân hoan đưa Mẹ về nhà mình sau khi nghe lời trối của Chúa Giêsu lúc Người hấp hối trên thánh giá (Ga 19:27), Thánh Giuse ở đây - ngay khi Chúa Giêsu còn ngự ttong lòng đồng trinh của Mẹ Maria - đã vui nhận Đức Maria làm Bạn Trăm Năm và đưa Người về nhà sau khi được thiên thần phán bảo trong giấc mơ (Mt 1:24).
Như thế, nơi thánh Giuse cũng như nơi người môn đệ Chúa yêu - biểu tượng của tất cả những môn đệ đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại - việc nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế bao gồm việc đón nhận và tích cực thực thi thánh ý và chương trình yêu thương của Thiên Chúa được bày tỏ cho mình. Thánh ý ấy bao gồm việc bước vào liên hệ yêu thương thân mật với Đức Maria-Mẹ Chúa Giêsu-và đưa Người về nhà mình, nghĩa là đưa Mẹ Maria vào trong mọi chiều kích của cuộc sống của mình.
Vì Mẹ Maria là Người đẹp lòng Chúa hơn tất cả mọi tạo vật và đã được diễm phúc cưu mang và sinh hạ chính Ngôi Lời của Chúa, Mẹ sẽ giúp tất cả chúng ta biết cách sống đẹp lòng Chúa, biết cách đón nhận Chúa vào tâm hồn mình, nhất là biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, nếu chúng ta biết noi gương thánh Giuse trong Tin Mừng hôm nay tiếp nhận Mẹ về nhà mình.
Thánh Louis Maria Montfort và nhiều vị đại thánh khác trong Giáo hội cho rằng sở dĩ ngày nay nhiều người chưa nhận biết và yêu mến Chúa cách xứng hợp là vì họ chưa nhận biết và yêu mến Mẹ Maria đúng như ý Chúa muốn. Như Chúa đã dùng Mẹ Maria để đến với chúng ta, Người cũng muốn chúng ta nhờ Mẹ Maria để đến với Người.
Vì vậy, để dọn mình cách tốt đẹp nhất mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh cũng như để sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình, chúng ta hãy noi gương thánh Giuse mau mắn từ bỏ mọi bối rối nghi nan về sự cần thiết phải đón nhận Mẹ Maria vào cuộc sống tâm linh của mình. Rồi cùng với thánh Giuse, chúng ta hãy nỗ lực tích cực thực hiện thánh ý và chương trình tình yêu Chúa dành cho chúng ta từ đời đời bằng cách bước vào liên hệ yêu thương mật thiết với Mẹ Maria để nhờ Mẹ, với Mẹ, trong Mẹ và vì Mẹ, chúng ta sẽ đón nhận và yêu mến Chúa Giêsu.
Lạy Mẹ Maria, nay đã gần đến đại lễ Chúa Giáng Sinh. Chúng con khao khát được Chúa Giêsu ngự vào tâm hồn chúng con như xưa Chúa đã ngự vào lòng Mẹ và ngự nơi máng cỏ Bêlem. Nhưng như Mẹ biết đó, tâm hồn chúng con thật nhơ nhớp vì biết bao tội lỗi và chật hẹp vì còn chứa đựng bao sự phù vân. Chúng con không thể tự mình dọn cho Chúa một chỗ xứng đáng trong tâm hồn chúng con. Vì vậy, chúng con xin noi gương thánh Giuse rước Mẹ vào nhà linh hồn chúng con, để chính Mẹ sẽ giúp biến đổi tâm hồn chúng con nên giống tâm hồn Mẹ. Nhờ vậy, Chúa Giêsu sẽ sung sướng ngự vào lòng chúng con như Người đã sung sướng ngự vào lòng Mẹ năm xưa. Vậy giờ đây, xin Mẹ hãy đến và ở cùng chúng con trong mọi nơi mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.
75. Suy niệm của John Nguyễn
1. Giu-se là người công chính
Giu-se và Ma-ri-a đã đính hôn với nhau, dự tính sẽ tiến tới một cuộc hôn nhân để có thể sống bên nhau trọn đời. Chắc chắn hai người rất thương yêu nhau. Mọi sự đang diễn biến tốt đẹp thì Giu-se bỗng thấy Ma-ri-a có thai mà không phải do mình. Ta thử đặt mình trong hoàn cảnh của Giu-se để cảm thông nỗi thắc mắc và buồn khổ vô hạn của Giu-se. Trước tình huống này, là con người, chắc chắn Giu-se phải có lúc nghĩ rằng mình đã bị người yêu phản bội. Càng yêu Ma-ri-a, ông càng cảm thấy bị xúc phạm, ghen tức và đau khổ. Những chàng trai khác mà gặp hoàn cảnh này có thể sẽ phản ứng bằng cách trả thù và rửa nhục. Cách trả thù hợp pháp nhất là đi tố cáo, vì sách Đệ nhị luật đã qui định: “Khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông, mà một người đàn ông khác gặp cô và nằm với cô, thì cả hai phải bị lôi ra cửa thành để chịu ném đá, và chúng sẽ phải chết” (Đnl 22,23-24).
Nhưng cách hành xử của Giu-se là “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Chàng không muốn để người yêu của mình phải đau khổ và chết trong nhục nhã. Cho dù không được sống gần người mình yêu, cho dù nàng có phản bội mình và thuộc về người khác, Giu-se vẫn luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đó mới là tình yêu đích thực. Vì thật ra, có hai thứ tình yêu:
• Tình yêu vị kỷ: tức yêu người khác vì hạnh phúc của chính mình. Do đó, luôn luôn coi hạnh phúc của mình quan trọng hơn hạnh phúc của người mình yêu. Đây chỉ là một tình yêu giả hiệu, vì xét cho cùng thì hóa ra mình đã yêu chính mình qua người kia, chứ không phải là yêu người ấy thật sự. Người kia chỉ là một phương tiện đem hạnh phúc đến cho mình. Giu-se đã không yêu Ma-ri-a bằng thứ tình yêu này. Người Ki-tô hữu cũng không nên yêu bằng thứ tình yêu vị kỷ này.
• Tình yêu vị tha hay tình yêu dâng hiến: yêu người khác vì chính người mình yêu, coi hạnh phúc của người yêu quan trọng hơn hạnh phúc của mình, nên sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc hy sinh hạnh phúc của mình cho người mình yêu. Đây mới là tình yêu đích thực mà Giu-se đã dành cho Ma-ri-a. Đúng ra, mọi cặp vợ chồng Ki-tô hữu đều phải yêu thương nhau bằng thứ tình yêu này thì họ mới đúng là Ki-tô hữu đích thực, nhờ đó gia đình họ sẽ luôn luôn hạnh phúc.
Thế rồi Giu-se nằm mơ thấy sứ thần cho biết sự thật về Ma-ri-a, và sứ thần khuyên ông: “đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về”. Chỉ có lòng khoan dung và tình yêu mạnh mẽ chân thật đối với Ma-ri-a, cộng với tinh thần nhạy cảm với thánh ý Thiên Chúa, Giu-se mới có thể làm theo lời sứ thần bảo trong giấc mơ. Vì bình thường những người có đầu óc thực tế mấy ai lại tin vào giấc mơ. Do đó, ta thấy có một sự dằng co mãnh liệt trong tâm hồn Giu-se. Và để đưa Ma-ri-a về nhà mình, ông đã phải thắng được tính tự ái cá nhân, đã can đảm bất chấp dư luận bất lợi của những người ngoài cuộc, và chấp nhận sự nhục nhã có thể xảy ra (khi nhận ra giấc mơ chỉ là ảo ảnh). Tin Mừng còn cho biết: sau đó, “ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai”; điều đó nói lên khả năng tự chủ, bản lĩnh và sức mạnh tinh thần cao độ của Giu-se.
Như vậy, cách hành xử của Giu-se trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người có tình yêu chân thực, khoan dung, nhân hậu, kín đáo, tự chủ, có bản lĩnh, có lập trường vững chắc, nhẫn nhục và rất nhạy cảm với thánh ý Thiên Chúa. Những đức tính ấy chứng tỏ ông đúng là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi Đức Giêsu, là bạn trăm năm của Đức Maria, và là mẫu gương thánh thiện rất thực tế cho chúng ta.
2. Đức Giêsu sinh ra bởi mẹ đồng trinh
Chủ ý của bài Tin Mừng hôm nay không nhắm vào sự công chính của Giu-se cho bằng sự thụ thai kỳ diệu của Đức Giêsu nơi cung lòng đồng trinh của Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Đức Ma-ri-a, người ta thường nghĩ tới sự đồng trinh thể chất, ít ai nghĩ tới sự đồng trinh về mặt tinh thần của Ngài. Cả hai mặt của sự đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nhưng nếu chỉ đồng trinh về mặt thể chất mà không có mặt tinh thần thì đồng trinh ấy chẳng còn ý nghĩa! Sự đồng trinh về tinh thần nơi Đức Ma-ri-a quan trọng hơn rất nhiều.
Trước mặt Thiên Chúa, đồng trinh về mặt tinh thần có nghĩa là có tâm hồn trọn vẹn hướng về Ngài, hoàn toàn dâng hiến bản thân cho Ngài để hoàn toàn thuộc về Ngài, không còn thuộc về chính mình nữa. Trong chiều hướng đó, Đức Ma-ri-a đã sống tinh thần “tự hủy”, để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Biểu hiện quan trọng và rõ rệt nhất là không còn coi ý riêng của mình là quan trọng, thậm chí không còn ý riêng nữa, để chỉ biết có thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Đức Ma-ri-a cũng có thể nói như Đức Giêsu: “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30; x. 6,38), hay như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Thiên Chúa sống trong tôi” (Gl 2,20). Trọn cuộc đời của Ngài đã chứng tỏ sự đồng trinh tinh thần ấy, được biểu hiện qua mọi hành vi của Ngài, cụ thể nhất qua hai chữ “Xin vâng” khi sứ thần truyền tin cho Ngài.
Mọi người Ki-tô hữu, kể cả người sống bậc vợ chồng, nhất là những kẻ quyết tâm theo Chúa, quyết tâm nên thánh, đều có thể và cần phải sống “đồng trinh” hiểu theo nghĩa tinh thần, nghĩa là sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, một người đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại không đồng trinh về mặt tinh thần, chắc chắn không có giá trị bằng những người tuy không đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại đồng trinh về mặt tinh thần. Vì đồng trinh thể chất chỉ là phương tiện đồng thời là một dấu chỉ hay hình thức cụ thể nhất của sự đồng trinh tinh thần vốn phải là bản chất và nội dung của đồng trinh thể chất. Quá nhấn mạnh và đề cao sự đồng trinh thể chất mà quên lãng hay không đề cao sự đồng trinh tinh thần là một thứ tu đức què quặt và bị lạc hướng. Sự đồng trinh tinh thần bao giờ cũng có giá trị hơn rất nhiều, cho dù đồng trinh thể chất vẫn có giá trị riêng của nó.
3. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, cũng làm người giống y như ta
Qua bài Tin Mừng, ta thấy: để là một con người, Đức Giêsu đã sống trong một gia đình, có cha có mẹ, trong một xã hội có vua có quan, có phép có tắc, trong một tôn giáo có phẩm có trật, là luật có lệ, y trang như mọi người. Ngài đã hoàn toàn “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,7), cũng “sinh làm con của một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (Gl 4,4) như chúng ta, cũng “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8-9). Vì thế, Ngài “không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15-16). Chắc chắn Ngài có thể nói như một triết gia nào đó: “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.
Ngài cũng từng kinh nghiệm những yếu đuối của con người khi bị ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11). Vì thế, khi tôi yếu đuối, sa ngã, tội lỗi, tôi cảm thấy Ngài có thể thông cảm với tôi một cách sâu xa, và tôi biết Ngài sẵn sàng tha thứ chính vì Ngài đã từng cảm nhận được sự yếu đuối của con người như tôi.
Những điều của con người mà Ngài cảm nghiệm được nhiều nhất chính là đau khổ và sự chết. Dường như mọi hình thức quan trọng của đau khổ Ngài đều đã cảm nghiệm: phản bội, oan ức, bị đàn áp, bóc lột, mất mát, roi vọt, nhục nhã... Điều này làm tôi cảm thấy rất được an ủi khi gặp đau khổ. Tôi nhận ra Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của tôi. Ngài đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của tôi (x. l Pr 2,24b). Nghĩ như thế, tôi không cảm thấy cô đơn trong đau khổ, vì tôi cảm thấy như Ngài đang cùng đau khổ với tôi, để biến những đau khổ của tôi thành một giá trị cao cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con học được tình yêu chân thật, vị tha nơi Đức Giêsu, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Cho con biết yêu Cha vì Cha, yêu mọi người vì mọi người. Như vậy để yêu chân thực, con phải có tinh thần tự hủy, quên mình. Xin cho con thực hiện được thứ tình yêu chân thực ấy trong đời sống thường ngày của con. Amen.
21/12 Thăm viếng
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Thăm viếng.
Thứ Bảy tuần 3 mùa vọng.
"Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi".
LỜI CHÚA: Lc 1, 39-45
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi
Suy niệm :
Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
vì chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Cầu nguyện :
Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại.
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Bởi Ðâu Tôi Ðược Mẹ Chúa Viếng Thăm
Với cuộc sống con người, ai ai trong chúng ta cũng mang lấy tâm trạng muốn cho mình tích trữ được nhiều thứ của cải: của cải vật chất và của cải tinh thần. Của cải vật chất như được giàu sang, được uy quyền. Ai lại chẳng muốn được như câu nói mà người ta thường đùa với nhau: "Ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật" và cuối cùng là "đám tang Việt Nam".
Ở nhà Tây, vì tiện nghi đầy đủ. Ai lại không khen các món ăn của Tàu nổi tiếng là ngon. Người đàn bà Nhật chiều chuộng chồng mình không ai lại không cảm thấy không kính phục. Và đám tang Việt Nam chúng ta với bao nhiêu nghi thức đầy cảm động gợi lên tâm tình của người còn sống đối với người thân yêu đã khuất. Ai trong chúng ta lại chẳng muốn được quyền uy, đi đâu có tiền hô hậu ủng, đưa đón rước sách, mọi người nhìn bằng cặp mắt kính nể, thán phục.
Về của cải tinh thần, ai lại không mơ ước trên phương diện nghệ thuật mình sáng tác, những bản nhạc thời danh như Bach, Bethoven, Mozart, hoặc thành những khoa học gia nổi tiếng về không gian chế ra bom B1-B2 và hỏa tiễn lên cung trăng đầu tiên như Volgra người Ðức gốc Do Thái. Và biết bao nhiêu mơ ước, biết bao nhiêu tham vọng khác nữa ở trong mỗi một con người nhỏ bé của chúng ta.
Ðó là tâm trạng tâm lý thường tình của con người mà thôi. Nó không tốt mà cũng không xấu, khi chủ ý đặt mục đích và phương tiện tốt thì nó tốt, còn khi chúng ta dùng để tự kiêu, ngạo mạn và làm hại người khác thì nó xấu. Có một điều quan trọng nhất của người Kitô hữu chúng ta đó là khi chúng ta xin đức tin cùng Hội Thánh trong ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, được rước Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta khư khư giữ lấy Chúa ích kỷ riêng cho mình, không mang Thiên Chúa đến cho người khác.
Thiên Chúa chúng ta là một kho tàng vô giá, một kho tàng tích chứa tình yêu vô bờ bến, một kho tàng tích chứa bình an thực sự, và là một kho tàng tích chứa sự khôn ngoan tuyệt đối. Một kho tàng quí giá vô cùng như vậy thế mà chúng ta đã không biết lợi dụng để mang đến cho mọi người, để rồi tha nhân không nhìn ra khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương qua cuộc sống của chúng ta. Vì thế, những người vấp ngã, những người gặp hiểm nguy khó khăn trong cuộc sống, họ không gặp được Thiên Chúa bình an, Thiên Chúa hy vọng và Thiên Chúa hạnh phúc. Những người hoang mang lạc lối trên đường đời chúng ta đã không chỉ cho họ đến với Thiên Chúa là Ðấng thông minh, khôn ngoan tuyệt vời. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi chúng ta đã không mang Chúa đến cho tha nhân.
Và hôm nay Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua gương mẫu Mẹ Maria, chính Mẹ đã nhận được diễm phúc mang Con Chúa trong lòng, để rồi Mẹ đã vội vã lên đường mang Chúa đến cho người chị họ là bà Isave. Nhờ đó, thánh Gioan Tẩy Giả nằm trong bụng mẹ cũng được chia sẻ niềm vui ấy. Ðó là bài học quí hóa nhất cho cuộc sống chúng ta, người con cái của Thiên Chúa đã nhận biết Chúa, đã mang Chúa trong tâm hồn, không ích kỷ giữ riêng Chúa cho mình nhưng cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu rỗi đó cho mọi người xung quanh.
Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con tâm tình sốt sắng đón nhận Chúa đến để sự bình an của Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng con. Lạy Chúa, như xưa Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho bà chị họ là bà Isave, thì nay xin Chúa cho chúng con luôn biết hăng say đem Chúa đến cho mọi người qua cuộc sống hiền hòa, yêu thương, tha thứ trong niềm tin yêu hy vọng và lạc quan, vì Chúa đến và vui thích ở giữa dân Người. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Đi thăm bà Isave
Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng là một thứ cưu mang: mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, sống trong tự do, xây dựng nhiều hăm hở.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền sơn cước. Đức Maria đã chỗi dậy, vì cưu mang con trong lòng. Cưu mang con trong lòng cũng có nghĩa là nuôi dưỡng một niềm vui bất tận: đứa con càng lớn, niềm vui càng tăng.
Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng Người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.
Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.
Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Maria và người chị họ Isave là kết thúc của cuộc ra đi. Không ai đi để tiến về cô đơn, để giam mình trong cõi chết, nhưng ra đi là để gặp gỡ, chia sẻ.
Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích rửa tội.
Cưu mang sự sống mới, người Kitô hữu cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin. Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi…
Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ Thiên Chúa trong cuộc sống này. Điểm đến ấy sẽ không bao giờ hiện ra đối với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.
Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hay ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.
Suy Niệm 4: Chia sẻ đức tin
Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. (Lc. 1, 40-42)
Ngay sau khi Đức Maria biết bà Ê-li-sa-bét đã quá già mà sắp sinh cậu ấm, Mẹ đã đến thăm viếng bà, không phải để xác minh lời thiên sứ có thật không, nhưng để thực thi thánh ý Thiên Chúa và thăm viếng bà chị cùng đồng cảnh với mình. Hơn thế nữa, Đức Maria thấy cần chia sẻ niềm vui và lòng tin của mình với người khác.
Cả hai đều luôn dễ vâng lời và hiểu biết thánh ý Chúa. Cả hai đều được Thiên Chúa đã làm những sự lạ lùng.
Tin mừng tường thuật cho chúng ta biết một cách vắn gọn về việc đã xảy ra giữa hai người nữ diễm phúc. Người ta tưởng tượng khá tốt rằng: Cả hai đã cống hiến một thời gian dài để giúp nhau khám phá ra ý nghĩa về việc sẽ xảy đến với hai bà. Và như tất cả các bà mẹ, hai bà mơ ước về hai đứa con sẽ trở nên thế nào …
Phần chúng ta, họa hiếm lắm chúng ta mới biết chia sẻ niềm tin của mình cho người khác, vì thực sự chúng ta không quen. Khi những người tín hữu chúng ta gặp nhau, hầu hết là để tổ chức hoạt động, để thảo luận vấn đề khác. Chúng ta rất ít khi tụ họp để bày tỏ cho nhau những tâm tình tận đáy con tim, những điều chúng ta tin tưởng, những điều chúng ta trông cậy. Chúng ta không dám cởi mở cho nhau hết tấm lòng mình về Đức Kitô. Chúng ta không dám nói cho người khác những điều Thiên Chúa đối với mình, đã làm cho mình, với vợ con mình, và cả với các bạn tri kỷ của mình. Chúng ta hầu như không bao giờ nói về Đức Kitô.
Chính vì thế, chúng ta hình như đã quên, hay hình như đã không còn hiểu gì về Đức Kitô, đến nỗi chúng ta thực sự rất cô đơn trong niềm tin. Thực thế, chúng ta còn nhiều điều phải học biết.
Chúng ta cần thiết phải biết lòng tin của người khác để củng cố lòng tin của chúng ta. Và người khác cũng cần biết lòng tin của chúng ta để củng cố niềm tin của họ.
Khi Mẹ Maria và bà Ê-li-sa-bét gặp nhau, các ngài nói cho nhau biết thông cảm những điều lạ lùng mà Thiên Chúa đã làm cho mình để tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Nếu chúng ta biết chia sẻ lòng tin của chúng ta với nhau, có lẽ chúng ta sẽ thấy được những sự lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.
J.Y.G
Suy Niệm 5: CUỘC VIẾNG THĂM ĐẦY ÂN SỦNG (Lc 1, 39-45)
Trong cuộc sống, nơi các mối tương quan, hẳn sự cảm thông, liên đới là điều quan trọng. Có sự cảm thông, chúng ta dễ dàng tôn trọng, hiểu biết, và đón nhận nhau hơn. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau để giúp nhau thăng tiến...
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.
Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt phục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét... Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.
Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.
Mong sao trong Mùa Vọng này, mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.
Ngọc Biển SSP
20/12 Truyền tin cho Đức Maria
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Truyền tin cho Đức Maria.
Thứ Sáu tuần 3 mùa vọng.
"Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai".
LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38
Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với Thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên thần cáo biệt Bà.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa
Suy niệm :
Cách đây gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này
vào lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin cho Đức Mẹ.
Hôm nay chúng ta nghe đọc lại bài này trong bầu khí rộn ràng
của những ngày gần đại lễ Giáng Sinh.
Các sách Tin Mừng không nói nhiều về thời gian Đức Mẹ mang thai.
Luca chỉ nói về chuyện Mẹ đi thăm bà chị họ hiếm muộn (Lc 1, 39-45).
Còn Mátthêu nói về chuyện thánh Giuse nằm mộng và được sứ thần mời
đón nhận Maria làm vợ và thai nhi Giêsu làm con của mình (Mt 1, 18-24).
Nhưng thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng,
nhất là đối với người mẹ trẻ sinh con so.
Các bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm,
mầu nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình.
Dần dần mỗi chuyển động của thai nhi
và cả nhịp tim cũng được người mẹ cảm nhận.
Thai nhi trở thành người trọn vẹn
nhờ được dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ.
Con Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế.
Ngài không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng,
nhưng Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ.
“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể…
Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7).
Con Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha.
Tiếng Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không,
để “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7).
Khi trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ,
Con Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính.
Ngài vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất
để Ngài thực sự là anh em của họ.
“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa.
Xin xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38).
Ngay sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống,
và Con Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35).
Ngài từ từ có trái tim, khuôn mặt, vân tay riêng…
Đấng Cứu Độ sung sướng trở nên một sinh linh nhỏ bé,
để nói cho nhân loại biết về sự cao quý của một thai nhi.
Đức Maria trở thành Hòm Bia Thiên Chúa, nơi Ngôi Hai hiện diện.
Chúng ta ít khi nghĩ đến thời gian Mẹ Maria mang thai.
Thời gian cưu mang chẳng bao giờ nhẹ nhàng hay dễ dàng.
Để có thể sinh ra Đức Giêsu cho môi trường ta đang sống,
cũng cần thời gian thai nghén lâu dài và vất vả.
Chúng ta phải mang Ngài trong lòng mình,
kiên nhẫn và chăm chút để Ngài lớn lên, trước khi sinh Ngài cho thế giới.
“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ tôi” (Mc 3, 35).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con gặp được ánh mắt của Chúa
ít là một lần trong đời.
Khi tương lai con đang vững vàng ổn định,
xin hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lêvi
và mời gọi con đứng lên theo Chúa,
bỏ lại tất cả những gì con cậy dựa.
Khi con chẳng còn là mình, vấp ngã như Simon,
xin hãy quay lại nhìn con
bằng ánh mắt xót thương, tha thứ,
để con òa khóc như trẻ thơ.
Khi con khao khát sống cuộc đời hoàn thiện,
xin hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương
như Chúa đã trìu mến
nhìn người thanh niên giàu có.
Khi con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,
xin Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,
như Chúa đã ngước lên nhìn Dakêu
và cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay
bằng ánh mắt của Chúa.
Chúa động lòng thương
khi thấy bao người yếu đau,
thấy đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.
Ánh mắt Chúa thấu suốt lòng người.
Chúa buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,
nhưng Chúa cũng vui
khi thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.
Đôi mắt Chúa đã từng nhòa lệ
trước cái chết của người bạn thân là Ladarô,
và trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.
Lạy Chúa, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
Xin cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Ngôi Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể
Gabriel trong tiếng Do Thái có nghĩa là: "Thiên Chúa là sức mạnh". Bởi thế, khi lãnh sứ mạng truyền tin cho Mẹ Maria, hình ảnh sức mạnh nổi bật nơi người mang sứ điệp và chính tại nội dung của sứ điệp. Mẹ Maria phân vân thắc mắc bằng những suy nghĩ thường tình của con người: "Việc ấy thành sự sao được? Vì tôi không biết đến người Nam". Tuy nhiên, thắc mắc này không làm nao núng vị sứ giả biểu tượng cho sức mạnh Thiên Chúa. Sứ giả đã trấn an Mẹ với lời khẳng định: Chẳng có gì mà Thiên Chúa không làm được". Dù cho tuổi già như Elisabeth thì Ngài vẫn cho sinh hạ một con trai để góp phần gia truyền ơn cứu độ. Ngài đã tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài đã gầy dựng một dân tộc từ một đôi vợ chồng son sẻ mà tuổi đã xế chiều, thế mà tại sao Ngài lại không thể tạo cho mình một thân xác từ trong cung lòng người Nữ được?
Thiên Chúa Quyền Năng làm được mọi sự, nhưng dù cho quyền năng thế nào đi nữa thì khi đứng trước tự do của con người Ngài cũng phải đành bó tay, vì Ngài tôn trọng sự tự do của con người. Quả thật tự do là một món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Với lý trí và tự do con người đã vẽ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân phận thụ tạo của mình. Có tự do mới có tình yêu, vắng bóng tự do thì chỉ còn là những áp đặt, trói buộc hoặc lợi dụng. Không gì làm đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng khi con người biết dùng tự do để đáp lại tình yêu của Ngài, và cũng không gì làm đau lòng Ngài cho bằng khi con người sử dụng tự do để phản bội Ngài. Dù Ngài Quyền Năng tuyệt đối thì Ngài vẫn không dùng Quyền Năng để ngăn cản sự tự do của con người. Vì thế mà thảm cảnh đã đến với nhân loại khi nguyên tổ đã cản ngăn chương trình tốt lành của Thiên Chúa dành cho mọi thụ tạo.
Thế nhưng, Thiên Chúa lại không bỏ mặc con người nhưng Ngài đã hứa ban ơn cứu độ ấy được thể hiện qua dòng lịch sử. Khung cảnh được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay là điểm cuối của hằng bao thế kỷ chuẩn bị ấy. Và dù phải bỏ công chuẩn bị suốt một thời gian dài như vậy, Thiên Chúa cũng không dùng quyền năng của mình để ép buộc Mẹ Maria chấp nhận chương trình của Ngài. Ngài đợi chờ hai tiếng "Xin Vâng" thốt ra từ môi miệng của Mẹ, Ngài tôn trong tự do nơi Mẹ. Về phần Mẹ Maria, Mẹ cũng dùng lý trí của Mẹ để tìm hiểu, thắc mắc. Tuy nhiên, khi dùng lý trí thì Mẹ vẫn không bước ra ngoài sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Câu hỏi của Mẹ là một thắc mắc chính đáng trong cái suy nghĩ thường tình của con người: "Làm sao một người nữ lại có thể sinh con khi không có sự tiếp tay của người nam". Sứ thần đã hướng dẫn lý trí của Mẹ suy nghĩ đến quyền năng của Thiên Chúa. Lúc này tâm trí của Mẹ không chỉ qui về sự việc bà chị họ mang thai nhưng bao gồm tất cả chiều dài của chương trình lịch sử cứu độ.
Nhờ thế mà hôm nay Giáo Hội mới có được lời kinh Magnificat để chúc tụng trong giờ kinh Phụng Vụ. Và rồi chẳng ngần ngại Mẹ đã thưa "Xin Vâng". Hai tiếng "Xin Vâng" tuy vắn gọn nhưng không mất tính chất quan trọng của một chiếc chìa khóa mở cửa cho nguồn ơn cứu độ đến với nhân loại. Chẳng gì là quá đáng khi chúng ta lập lại lời thơ của Hàn Mặc Tử:
"Lạy Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel!
Khi người xuống trần gian truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao muôn vị tinh tú?
Người có nghe náo động cả phương trời?"
Vì do sự sử dụng tự do của nguyên tổ mà chương trình tốt lành của Thiên Chúa bị cản ngăn, thì lúc này với sự sử dụng tự do của Mẹ Maria chương trình cứu độ tình thương của Ngài được thiết lập.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta bắt chước ở nơi Mẹ Maria thái độ lắng nghe, tìm hiểu và rồi sẽ đáp trả trong tự do và tin tưởng. Vì mỗi ngày Thiên Chúa vẫn hằng chờ đợi chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể và trong các biến cố của cuộc sống. Ngài chờ đợi một lời đáp trả trong "tin yêu", vì Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do của ta. Nếu chúng ta biết thưa hai tiếng "Xin Vâng" như Mẹ Maria đã thưa thì chắc chắn Ngài sẽ đến và sẽ hành động trong chúng ta. Nhưng nếu một khi đã có Thiên Chúa đến ở với thì tôi tớ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Cũng vậy, là tạo vật hèn kém, bất xứng nhưng một khi được Thiên Chúa ở cùng chúng ta sẽ chỉ là chi thể, là bạn hữu và là anh em của Ngài.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Truyền tin cho Đức Maria
Người ta kể lại rằng: một hôm có người tìm đến thánh Don Bosco vấn kế về phương pháp xây dựng hoà bình thế giới. Nhằm lúc thánh nhân đang bận việc, con người thao thức về hoà bình ấy gõ cửa mỗi lúc một mạnh hơn. Mãi một lúc sau, thánh nhân ra mở cửa và niềm nở mời khách vào phòng, Ngài kiên nhẫn lắng nghe, chờ cho người đó trình bày hết ý kiến, rồi mỉm cười nói: “Ông không nghĩ rằng một trong những phương pháp hữu hiệu để xây dựng hoà bình là gõ cửa phòng người khác nhẹ hơn sao?”.
Giai thoại trên minh hoạ phần nào thái độ đứng núi này trông núi nọ của rất nhiều người. Nhiều người chưa làm nổi những việc nhỏ đã nghĩ đến những việc lớn: nhiều người không đủ kiên nhẫn chịu đựng những việc thường ngày đã nghĩ đến việc tử đạo cho đại cuộc.
Trong lãnh vực đức tin cũng thế, nhiều người tưởng có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong bốn bức tường nhà thờ, trong những giờ phút thinh lặng, trong những giờ cầu nguyện liên tục. Thiên Chúa dường như không chấp nhận bị giam trong những giờ phút giờ phút hay khung cảnh giới hạn nào đó. Ngài đến trong từng giây phút và biến cố cuộc sống, trong những cái nhỏ nhặt thường ngày của cuộc sống.
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta lặp lại xác tín đó. Sứ thần được sai đến với một Trinh nữ khiêm hạ, thuộc một ngôi làng nhỏ bé Nazarét, xứ Galile. Nhưng chính từ khung cảnh âm thầm ấy, thánh Luca đã làm nổi bật những tước hiệu cuả Đấng Cứu Thế: “Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối cao. Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp”.
Một Thiên Chúa Toàn năng đã đến gặp con người, trong thân phận con người, trong khung cảnh bình thường, trong những bất ý nhất của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta mỗi khi tuyên xưng: “Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chuá, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria”.
Nét độc đáo của niềm tin Kitô là tuyên xưng Thiên Chúa đã mặc xác phàm. Và tin nhận Thiên Chúa làm người cũng có nghĩa là luôn sẵn sàng đón nhận Ngài trong từng phút giây cuộc sống, là biến mỗi phút giây cuộc sống thành cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
Suy Niệm 4: Hỏi hay chiêm niệm
Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu.
Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xãy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
Sứ thần đáp: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (Lc. 1, 30-31. 34-35)
Nhiều câu hỏi được đặt ra:
Khi thiên thần Gáp-ri-en báo tin cho Maria sẽ là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ không thể không hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào? Vì tôi khấn giữ đồng trinh”. Mẹ hài lòng vì câu trả lời của thiên thần nên nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Chúng ta tò mò hơn Đức Maria, không chỉ hỏi một câu mà nhiều câu thắc mắc liên quan đến sự sinh con đồng trinh của Đức Mẹ.
Người duy lý hỏi: “Làm sao Thiên Chúa có thể làm một việc nghịch với bản tính tự nhiên?”. Kẻ đa nghi hỏi: “Có thể xảy ra như thế không? hay thánh sử Tin mừng tô điểm thêm cho đẹp”. Tín hữu yếu đức tin cũng hỏi: “Tại sao chúng ta buộc phải tin điều như thế?”.
Câu trả lời chân chính: Chúng ta không chấm dứt được những câu hỏi đặt ra cho chúng ta về vấn đề sinh hạ Đức Giêsu cách lạ lùng. Những câu đó là vô ích. Trong khi tìm cách trả lời, chúng ta cố gắng chiêm niệm sâu xa hơn về mầu nhiệm của Thiên Chúa và nắm bắt lấy thánh ý Ngài một chút.
Nhưng câu hỏi chân chính nên đặt ra chính là câu hỏi: Chúng ta có nên hỏi hay nên chiêm niệm mầu nhiệm cưu mang đồng trinh? Điều nào là quan trọng hơn? Đức Maria nhất thiết chọn việc chiêm niệm mầu nhiệm hơn. Ngài đã đón nhận và suy niệm mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ngài không thử thách Thiên Chúa, không tìm cách thọc mạch những điều bí ẩn. Ngài đã hoàn toàn tin cậy Chúa. Mẹ đã nhận thấy điều căn yếu này: Thiên Chúa sẽ làm nơi Mẹ những điều lạ lùng.
Nếu chúng ta chăm chú chiêm niệm hơn về mầu nhiệm sinh ra Đức Giêsu, có thể chúng ta sẽ dễ dàng tìm được những câu đáp tốt lành cho những thắc mắc của chúng ta. Có thể chúng ta sẽ được chìm vào sâu thẳm của mầu nhiệm khi chiêm niệm, và lúc đó những thắc mắc sẽ biến tan.
J.Y.G
Suy Niệm 5: “XIN VÂNG” (Lc 1,26-38)
Vào thời Đức Maria, luật lệ Dothái rất gắt gao đối với những phụ nữ bị phạm tội ngoại tình. Nếu bị mắc phải, tức là có thai trước hôn nhân hay trong thời kỳ đính hôn là bị án tử hình. Hình phạt chính là ném đá cho đến chết.
Trong hoàn cảnh như thế, Đức Maria cũng thuộc về thành phần trong dân tộc này, hẳn Mẹ không thể thoát khỏi tội chết khi tự nhiên trong bụng mình có một Thai Nhi ngày càng lớn dần theo theo năm tháng...
Ai là người hiểu được Mẹ ngoài Thiên Chúa là chủ thể của Thai Nhi trong bụng Mẹ! Như thế, khi không chồng mà chửa là chắc chắn chết. Mẹ biết rõ điều đó. Tuy nhiên, khi Mẹ nhận được lời giải thích của Sứ Thần, Mẹ đã chấp nhận đi vào cuộc phưu lưu với Thiên Chúa trong niềm tin tưởng và phó thác. Quyết định này là một hành vi can đảm, bởi vì khi quyết định như vậy, Mẹ sẽ gặp phải muôn vàn khó khăn đến từ gia đình, xã hội và nhất là với Giuse, bạn trăm năm của mình. Nhưng, vì tin vào Thiên Chúa tuyệt đối, nên Mẹ đã buông theo ân sủng để Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời của Mẹ.
Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, đức tin nhiều khi bị lung lay vì những thử thách đến với chúng ta từ nhiều phía...
Đôi khi chính chúng ta cũng thử thách ngược lại Thiên Chúa để thỏa mãn sự hiếu tri của mình trước khi tin, và như thế, hẳn khó có thể chấp nhận nghịch lý ân sủng của Thiên Chúa.
Nguyên nhân sâu xa chính là việc chúng ta không nhạy bén với ơn Chúa, còn nghi ngờ quyền năng của Ngài, và cũng có thể do sự kiêu ngạo phủ lấp tâm trí chúng ta, nên Lời Chúa khó biến đổi tâm hồn trai đá của mình. Vì thế, nhiều khi còn uốn nắn Lời Chúa theo thiển ý của ta nữa.
Sở dĩ Đức Mẹ trở thành Nữ Tỳ Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận lời “xin vâng” với Thiên Chúa là vì Mẹ nhạy bén với ơn Chúa đã được loan báo từ trong thời Cựu Ước. Mẹ cũng khiêm tốn khi thấy điều này là kế hoạch đến từ Thiên Chúa chứ không phải do con người, nên Mẹ đã “xin vâng” để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng, phó thác cuộc đời cho Chúa như Đức Mẹ. Khiêm tốn để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn và sinh hoa trái trong cuộc sống của chúng ta. Sống trung thành với Chúa dù có phải gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Can đảm đón nhận thánh ý Chúa và trung thành với Thiên Ý.
Lạy Mẹ Maria, xin phù trợ chúng con để chúng con khiêm tốn, can đảm, nhạy bén và trung thành với Chúa như Mẹ. Amen.
Ngọc Biển SSP
19/12 Truyền tin cho ông Gia-ca-ri-a
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Truyền tin cho ông Gia-ca-ri-a.
Thứ Năm tuần 3 mùa vọng.
"Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra".
LỜI CHÚA: Lc 1, 5-25
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabeth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabeth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương. Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: "Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị.
Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: "Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?" Thiên Thần liền đáp: "Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy. Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng".
Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh. Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh. Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm. Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà. Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: "Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nỗi khổ nhục tôi khỏi người đời.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chuẩn bị sẵn sàng
Suy niệm :
Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi
là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa.
Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét
đã sống với nhau bao lâu mà không có con.
Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7).
Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm.
Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ,
dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6).
Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?
Chính khi ta thất vọng, thì Chúa đến loan báo Tin Vui (c. 19).
Tư tế Dacaria may mắn trúng thăm, nên ông được vào Nơi Thánh
để lau hương án và dâng hương mới.
Tại nơi thâm nghiêm này, khi ông lo việc tế tự,
ông được sứ thần Chúa báo tin về đứa con sắp chào đời của mình.
Gioan, nghĩa là Đức-Chúa-thi-ân, sẽ là món quà ông được tặng.
Nhưng Gioan sẽ còn là món quà cho nhiều người Ítraen,
vì Gioan có sứ mạng giải hòa dân tộc ông với nhau và với Chúa.
Một con người chưa được mang thai và chào đời,
nhưng về người ấy, Thiên Chúa đã có bao ước mơ và dự tính.
Ngài cho Gioan được đầy Thánh Thần từ trong lòng mẹ (c. 15).
“Làm cho kẻ ngỗ nghịch trở về nẻo chính đường ngay,
và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (c. 17).
Đó là những việc Gioan sẽ làm sau này trong tư cách là Êlia mới.
Dacaria có vẻ không tin vào lời sứ thần,
Có vẻ ông không còn nuôi hy vọng có một đứa con (c. 18).
Ông quên mất chuyện Ápraham đã sinh con trong lúc tuổi già.
Là một tư tế hẳn ông phải biết có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn
đã sinh con làm thủ lãnh đất Ítraen (Tl 13, 2; 1Sm 1-2; St 16, 1).
Việc ông bị câm là một hình phạt, nhưng ông không bị loại trừ.
Thinh lặng chín tháng là thời gian ông chờ đợi để lời hứa nên trọn.
Từ khi bà Êlisabét có thai, bà ẩn mình một thời gian.
Bà chưa muốn cho ai hay biết chuyện này.
Niềm vui bất ngờ đến với bà, người được hưởng hạnh phúc làm mẹ.
“Chúa đã làm cho tôi như thế đó,
khi Ngài đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”
Mỗi một trẻ thơ chào đời đều có nét của Gioan.
Chẳng người nào thấy ánh mặt trời mà lại nằm ngoài ý Thiên Chúa.
Như Gioan, ngay từ khi tôi chưa hiện hữu trong lòng mẹ,
Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi, và biết tên tôi.
Tôi có chỗ rất riêng trong chương trình của Chúa.
Chúa có một sứ mạng rất riêng cho tôi hôm nay.
Thời nào cũng cần Gioan, cần những người kêu gọi hoán cải.
Nhân loại thời nay cần những người dọn đường sáng tạo,
có khả năng mở những con đường mới đi vào lòng thế nhân.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con ?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Gioan Tẩy Giả Sinh Ra
Trong bài đọc I hôm nay, sách Thẩm Phán cũng kể lại việc thiên thần Chúa hiện ra với bà có chồng là Manuel thuộc chi họ Dan, và nói với bà rằng: "Ngươi son sẻ không có con, nhưng sẽ được thụ thai và sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch vì ngươi sẽ thụ thai hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó, nó sẽ được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Philitinh. Bà hạ sinh một con trai và con trẻ sinh ra tên là Samson".
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên hai ý tưởng:
- "Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được". Hai người đàn bà son sẻ vợ của Zacharia và Manuel, tuổi đã già vậy mà sinh được hai người con là Gioan Tẩy Giả và Samson. Theo tục lệ Á Ðông xưa của chúng ta có nói: "Nữ thập tam, nam thập lục". Nghĩa là người nữ khoảng mười ba đến bốn mươi tuổi là cơ thể bắt đầu biến đổi để có thể chuẩn bị trở thành một người mẹ. Luật Giáo Hội xác định mười sáu tuổi, mà đa số các quốc gia chấp nhận mười tám tuổi là tuổi trưởng thành cho nữ giới để có thể kết hôn. Khả năng sinh con của người đàn bà có thể kéo dài từ đó đến quãng đời từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi. Qua khỏi tuổi năm mươi thì hầu như không thể thụ thai được nữa. Lẽ dĩ nhiên phải năm mươi đến sáu mươi tuổi thì mới gọi là đã già, lại càng không thể có hy vọng sinh con cái được nữa. Hơn nữa khi nhìn vào trường hợp của Abraham, ông được mệnh danh là cha của kẻ tin. Mặc dầu Sara vợ ông đã già nhưng được thiên thần báo tin sẽ sinh một con trai trong lúc tuổi già. Abraham đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng mà ông tôn thờ: "Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được".
- Muốn hiến thánh cho Thiên Chúa để lo việc phụng sự Ngài, Thiên Chúa đòi hỏi con người phải cộng tác với Người: "Ngươi hãy cẩn thận, không uống rượu và thức ăn có men, cũng đừng ăn những món gì không thanh sạch". Tất nhiên chúng ta cũng không hoàn toàn hiểu theo nghĩa đen nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng nữa.
Mùa Vọng là mùa chuẩn bị mừng Chúa Cứu Thế đến, chúng ta không chỉ sửa soạn sạch sẽ, tô vôi, sơn quét lại ngôi thánh đường thân yêu trong Giáo Xứ, làm hang đá thật đẹp, thật lộng lẫy để Chúa Hài Nhi nằm nhưng chúng ta còn phải lo quét dọn tâm hồn, trang hoàng hang đá và làm cho ngôi thánh đường nhỏ bé xinh xinh ở trong tâm hồn chúng ta luôn sạch sẽ để như chiên bò ngày xưa thở hơi ấm áp cho Chúa nơi hang đá giá lạnh trần gian. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm tình đón Chúa như lời thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng: "Núi đồi hãy san cho bằng, hố sâu hãy lấp cho đầy, đùng quanh queo hãy uốn cho ngay thẳng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Lạy Chúa, không có gì mà Chúa không làm được. Xin cho chúng con nhận biết Quyền Năng của Chúa để chúng con luôn sống trong tin yêu và hy vọng trong cuộc đời. Lạy Chúa, để dấn thân phục vụ Nước Chúa cho rộng lớn, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết dùng tự do, thời giờ, tâm trí và tài năng riêng của mỗi người mà Chúa đã ban cho để tham dự vào việc mở mang nước Chúa mà không một đắn đo suy tính thua thiệt theo kiểu nhân loại. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Truyền tin cho Zacaria
Bài tin mừng hôm nay làm nổi bật tác động cứu độ của Thiên Chúa: Thiên Chúa không bỏ rơi ý định cứu độ của Ngài, nhưng Ngài chuẩn bị và thực hiện bằng những bước vững chắc suốt chiều dài lịch sử- cho đến Gioan, vị sứ giả sống sát thời Đấng Mêsia.
Việc Thiên Chúa can thiệp tích cực trong mầu nhiệm cứu độ chính là biểu hiện của tình thương hải hà. Thiên Chúa can thiệp và cứu độ chỉ có nghĩa là Ngài quá xót thương con người mà thôi. Bởi đó, càng nhìn lại những sự kiện, những hoàn cảnh hay những con người đã giúp thực hiện việc cứu độ, chúng ta càng nhận thấy vai trò sự cứu độ viên mãn. Đây là một điểm quan trọng, bởi vì đứng trước hoạt động lớn lao của Thiên Chúa, con người thời này thường có thái độ phản kháng khi cho rằng Thiên Chúa xử sự bằng cách giữ phần chủ chốt tức là đã coi thường con người, trong khi lẽ ra họ phải bày tỏ tâm tình khiêm tốn, thán phục và biết ơn Thiên Chúa. Đấng đã yêu thương, đã dấn thân và làm mọi sự chỉ vì hạnh phúc cho con cái mình.
Sống mùa vọng, ước gì chúng ta biết nhận ra tác động của Thiên Chúa trong đời mình và trong lịch sử nhân loại, đồng thời biết hướng theo lời mời gọi hoán cải tâm hồn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Suy Niệm 4: Một Thiên Chúa đột xuất
Vậy một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Da-ca-ri-a đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan…”. (Lc. 1,11-13)
Ở tuổi già và với người vợ son sẻ, ông già Gia-ca-ri-a không còn hy vọng gì có con nữa. Đứa con trong ước mơ đã được ông liên lỉ cầu nguyện. Nhưng bây giờ về cuối đời rồi, ông không còn cầu nguyện xin sinh cậu ấm như trước nữa. Không còn trông cậy kêu xin một điều hão huyền đó với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, với Thiên Chúa, không có gì hão huyền, không có gì bất lực. Điều không thể đó sẽ xảy ra. Ê-li-gia-bét, vợ ông, sẽ sinh Gioan tẩy giả.
Ông Gia-ca-ri-a đã suy ngắm Kinh thánh suốt đời ông, tuy vậy, ông vẫn nghi ngờ một chút rằng Thiên Chúa đã luôn luôn hài lòng nắm giữ trong tay mọi sự và thực hiện những kỳ công trong lúc bất ngờ. Ông đã biết rõ rằng trong quá khứ, nhiều lần hình như tuyệt vọng, như mất hết, Thiên Chúa đã can thiệp giải thoát cho dân khốn cùng. Ông đã biết thế, nhưng ông không thể tưởng tượng được Thiên Chúa lại làm như thế cho ông.
Chúng ta nhiều lần có những nghi ngờ như ông Gia-ca-ri-a. Đọc Kinh thánh, chúng ta thấy lạ lùng trước những sự kiện cao cả đã được Thiên Chúa thực hiện trong suốt dòng lịch sử, nhưng ý nghĩ như thế không còn xảy đến nên không còn làm cho chúng ta ngạc nhiên nữa. Chúng ta tin nhiều kỳ công Thiên Chúa đã làm cách đột xuất lạ lùng xưa kia hơn là ngày nay. Chúng ta phải tự hỏi mình xem mình còn tin thật rằng Thiên Chúa luôn luôn sống động không?
Hiện thời Giáo hội đang trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng. Giáo hội đang đi trong đen tối, không còn ảnh hưởng như xưa. Nhiều con cái đã bỏ Giáo hội. Nhiều con cái khác lại phản đối Giáo hội trầm trọng. Hầu như chạy tán loạn! Sau cùng … nhiều kẻ nghĩ và nói rằng: “Tương lai không còn Giáo hội nữa”.
Nhưng chính những lúc đó, khi tất cả đều đen tối và như tuyệt vọng, thì Thiên Chúa lại hiện ra mạnh mẽ hơn xưa. Chúng ta có còn đủ niềm tin rằng Ngài sẽ lại hiện đến không? Chúng ta còn đủ lòng hy vọng cậy trông rằng khủng hoảng hiện thời sẽ là một khủng hoảng trưởng thành, khủng hoảng thăng tiến không?
Thiên Chúa mà chúng ta cử hành lễ tạ ơn Ngài là một Thiên Chúa đột xuất và sống động hàng ngày.
G.F
Suy Niệm 5: THIÊN CHÚA BAN ƠN CHO NGƯỜI CÔNG CHÍNH (Lc 1, 5-25)
Trong cuộc sống luôn có những điều kỳ diệu làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Đây là tâm trạng của ông Giacaria và bà Êlisabét. Hai ông bà là người cao niên. Qua nhiều năm, họ đã tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa ban cho mình một mụn con. Tuy nhiên, càng mong càng mất. Vì thế, đã có lúc, ông bà thất vọng và không còn dám mơ ước một điều mà ông bà cho là viển vông.
Tuy nhiên, giờ của Thiên Chúa đã đến, Người đã đoái thương đến người công chính, vì thế, Ngài đã ban cho ông bà một điều kỳ diệu, đó là cho bà Êlisabét mang thai một người con trai, mà sau này chính là Gioan Tẩy Giả.
Đây là một phép lạ cả thể, đến nỗi chính bản thân ông Giacaria cũng ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng vì không phải do ông không tin Thiên Chúa, bởi vì trong suốt lịch sử dân Israel, nhiều lúc Thiên Chúa đã can thiệp cách phi thường cho dân. Tuy vậy, vì sự chờ mong quá lâu, và hai ông bà đã về già, nên những chuyện mà hai ông bà đang cầu xin là điều khó có thể xảy ra! Nhưng Chúa có cách của Ngài.
Trong cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay cũng vậy. Nhiều khi niềm tin của chúng ta bị thử thách bằng thời gian, đôi khi trong sự chờ mong của chúng ta bị đánh đổi bằng đau khổ và nước mắt. Thiên Chúa để chúng ta chờ mong như vậy, không có nghĩa Ngài là vị Thiên Chúa vô cảm, nhưng ngang qua đó, Thiên Chúa muốn biểu lộ quyền năng mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, trong lịch sử cho thấy, đã có biết bao người thua cuộc. Đã có nhiều người phải đầu hàng vì thiếu niềm tin mạnh mẽ, can trường.
Thật vậy, muốn chứng minh niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, đôi khi chúng ta phải có đủ độ lỳ trong hy vọng vào quyền năng của Người.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con thêm niềm hy vọng. Amen.
Ngọc Biển SSP
18/12 Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Thứ Tư tuần 3 mùa vọng.
"Chúa Giêsu sẽ sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse, thuộc dòng dõi Ðavít".
LỜI CHÚA: Mt 1, 18-24
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
Suy niệm:
Thiên Chúa bất ngờ và mãi mãi bất ngờ.
Ngài muốn cứu độ nhân loại bằng cách sai Con Một làm người.
Cách trở thành người của Con Thiên Chúa
vừa bình thường, lại vừa tuyệt đối khác thường.
Bình thường vì Ngài được một phụ nữ sinh ra (x. Gl 4, 4).
Khác thường vì Ngài được sinh ra không do một người cha ruột,
nhưng do quyền năng của Thánh Thần (cc. 18. 20).
Đây là niềm tin ngay từ thuở ban đầu của các Kitô hữu.
Giáo Hội sung sướng đến với máng cỏ
để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu và Mẹ đồng trinh của Ngài.
Nhưng chúng ta không được quên thánh Giuse.
Giuse đã bối rối, đau khổ khi thấy vị hôn thê của ông mang thai,
dù Maria chưa về chung sống với ông, dù chưa làm đám cưới.
Ông không muốn tố cáo Maria vì tội ngoại tình,
nhưng ông cũng không thể lấy Maria làm vợ,
với thai nhi trong bụng không phải của ông.
Cuối cùng ông chọn giải pháp là chia tay bà một cách kín đáo (c. 19).
Như thế ông hy vọng sẽ bảo vệ được danh dự và an toàn cho Maria.
Nhưng Thiên Chúa Cha cần Giuse,
cần một người cha nhân loại cho Con mình.
Con Thiên Chúa không thể sinh ra trong một gia đình không cha.
Người cha cần biết bao cho sự phát triển quân bình của đứa trẻ.
Maria cũng cần chỗ dựa và không thể một mình nuôi con.
Qua sứ thần, Thiên Chúa mong Giuse đón Maria về làm vợ (c. 20),
nghĩa là làm đám cưới chính thức với Maria.
Việc này đi kèm với việc đặt tên cho người con trai của Maria,
nghĩa là nhận người con ấy là con của mình trước pháp luật (c. 21).
Một lời mời quan trọng chờ nơi Giuse một tiếng Xin Vâng.
Đâu phải Thiên Chúa chỉ cần tiếng Xin Vâng của Maria là đủ.
Giuse có thể từ khước vì thấy mầu nhiệm khó hiểu và khó tin.
Làm sao quyền năng Thánh Thần lại có thể làm cho Maria mang thai?
Giuse có thể sợ vì thấy mình phải chịu trách nhiệm làm chồng làm cha,
dù thực sự mình chẳng hề là thế.
Thiên Chúa đã mời Giuse trong giấc ngủ đêm khuya.
Và ông đã làm y như lời sứ thần truyền khi thức dậy (c. 24).
Tiếng Xin Vâng của Giuse quá quan trọng cho kế hoạch cứu độ,
nhờ đó Con Thiên Chúa đàng hoàng bước vào cuộc đời,
có một mái nhà, có mẹ, có cha, có tên, có tuổi.
Nếu không có những tiếng Xin Vâng của Maria và Giuse,
thì điều gì sẽ xảy ra cho nhân loại đang cần ơn cứu độ?
Thiên Chúa chỉ ở-với-chúng ta nếu có những tấm lòng xin vâng.
Ngài vẫn cần tấm lòng của người mẹ biết cưu mang như Maria,
và tấm lòng của người cha dám chịu trách nhiệm
để Giêsu có chỗ đứng hợp pháp trong thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Dòng Tộc Của Chúa Kitô
Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Ðiều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quần nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Ðến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Ðộng lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt của mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: "Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con".
Anh chị em thân mến!
Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuật việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: "Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ tạo lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của Người sẽ vững bền mãi mãi".
Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do Thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.
Ðang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Đấng Emmanuel
Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên giới mà không cần quan hệ giới tình.
Đấng Emmaanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân loại xoá bỏ những chia rẽ, đố kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu nhân loại còn đầy những ích kỷ, oán hận, tranh chấp.
Nhưng trên tất cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài có thể mãi mãi là Đấng Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.
Suy Niệm 4: Trong kế hoạch của Thiên Chúa
Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt. 1, 20-21)
Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giu-se như chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Giu-se bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giu-se công chính vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi thánh Giu-se chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đa-vít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đa-vít.
Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính như thánh Giu-se không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?
R.St.G
Suy Niệm 5: THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA (Mt 1, 18-24)
Giữa lúc dân Israel đang quằn quại trong cảnh lưu đầy tại Babylon. Dân mong ngóng được Thiên Chúa giải thoát khỏi cảnh sầu thương tang tóc. Sự mong đợi của dân đã được Thiên Chúa nhìn đến khi cho xuất hiện tiên tri Giêrêmia đến để loan báo tin vui cho dân, ngài loan báo: một vị Vua Công Chính, Khôn Ngoan sẽ ngự trị để lãnh đạo dân, và Ngài sẽ được gọi là: “Chúa công bình của chúng ta”. Sứ vụ của vị vua này chính là đưa dân trở về quê hương để lập lại một dân mới.
Sang bài Tin Mừng, thánh Mátthêu giới thiệu cho chúng ta biết vị vua đó chính là Đấng Emmanuel, nghĩa là Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ngự giữa dân cách cụ thể và cứu dân bằng con đường tự hủy. Ngài vốn là một Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã tự hủy mình đi, nhận lấy thân phận người phàm, trở nên giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi để cứu chuộc chúng ta.
Thật vậy, Đức Giêsu, Đấng là Emmanuel đó đã xóa đi mọi ngăn cách để ở giữa loài người và không ngừng thi ân giáng phúc cho mọi người.
Trong những ngày này, nhiều nơi đang chuẩn bị làm hang đá, tập những bài thánh ca... để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Tuy nhiên, những việc làm đó sẽ trở nên vô ích khi chính đời sống nội tâm chúng ta không chuẩn bị thanh lọc những thứ như đố kỵ, giận hờn, ghen ghét... Vẫn còn bộn bề với lối sống hình thức bên ngoài...!
Nếu không chừng, Đấng Emmmanuel, đã ở cùng nhân loại nhưng vô phúc cho chúng ta vì Ngài lại không có một chỗ để ở trong cung lòng của ta!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy yêu thương nhau, đón nhận nhau trong tình huynh đệ. Hãy mở rộng cánh cửa tâm hồn để trong sâu thẳm nội tâm, chúng ta có một chỗ cho Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta.
Lạy Đấng Emmanuel, xin cho tâm hồn chúng con xứng đáng là máng cỏ cho Ngài ngự trị. Amen.
Ngọc Biển SSP
17/12 Gia Phả Của Chúa Giêsu Kitô
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Gia Phả Của Chúa Giêsu Kitô.
Thứ ba tuần 3 mùa vọng.
"Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".
LỜI CHÚA: Mt 1, 1-17
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.
Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Từ Bà, Đức Giêsu được sinh ra
Suy niệm:
Chúng ta bước vào một giai đoạn mới để mừng lễ Giáng Sinh,
mừng Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người cách trọn vẹn.
Làm người là có một gia phả.
Thánh Matthêu đã muốn viết một gia phả dài của Đức Giêsu Kitô,
không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử,
nhưng mang nặng ý nghĩa thần học.
Matthêu muốn cho thấy Đức Giêsu là con của cụ tổ Abraham,
và cuộc đời Ngài gắn kết với Ítraen, dân được tuyển chọn.
Ngài cũng là Con của vua Đavít, nên Ngài có cơ sở để là Đấng Kitô.
Làm người là sống trong dòng lịch sử một dân tộc
với tất cả những thăng trầm và biến động của nó.
Matthêu chia lịch sử dân Do-thái làm ba thời kỳ.
Thời kỳ chuẩn bị cho bước đầu của vương triều vua Đavít (cc. 2-6a),
thời kỳ trị vì của các vua thuộc dòng Đavít (cc. 6b-11),
và thời kỳ sau lưu đầy, khi vương quyền Đavít đã mai một (cc. 12-16).
Mỗi thời kỳ mười bốn đời, nghĩa là hai lần bẩy, một con số linh thánh.
Đức Kitô đã đằm mình trong dòng lịch sử này.
Ngài là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (c.16-17).
Tất cả lịch sử của dân tộc Ítraen cũng là lịch sử cứu độ.
Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô.
Nơi Ngài, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.
Trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ.
Đó là chuyện lạ, vì người Do-thái thường chỉ để tên người cha.
Trừ Đức Maria, bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại.
Ta-ma và Ra-kháp gốc Canaan, Rút gốc Mô-áp, vợ Urigia người Hít-tít.
Các phụ nữ này đều có hoàn cảnh khác thường.
Ta-ma giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giu-đa,
hầu sinh con cho nhà chồng (St 38).
Ra-kháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2).
Bét-sa-bê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (2Sm 11-12).
Rút đã lấy ông Bô-át là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (R 1-4).
Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này.
Ngài cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại.
Cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.
Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau:
“Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria,
từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16).
Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người.
Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít.
Làm người cần được sống trong bầu khí gia đình để lớn lên.
Gia phả của Đức Giêsu nhắc tôi về gia phả của chính mình.
Cũng với những bóng tối của lưu đày, với bao bất thường và vấp ngã.
Chỉ mong trong cuộc đời tôi, gia đình tôi, dân tộc tôi, có mặt Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Gia Phả Của Chúa Giêsu Kitô
Ðể ứng nghiệm Lời Chúa hứa ban ơn cứu chuộc sau khi Adam và Eva tổ tiên con người phạm tội, Kinh Thánh đã có câu: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu đã kể lại gia phả của Chúa Giêsu để gợi lên cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi của Ngài trải qua dòng thời gian rất lâu dài, chu đáo và kỹ lưỡng. Thiên Chúa đã chọn tổ phụ Abraham là mẫu gương cho những ai tin Ngài và Abraham được gọi là cha các kẻ tin. Ðức tin là điều kiện tiên quyết khi chúng ta gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo. Chính khi bắt đầu gia nhập vào Giáo Hội, Linh Mục hỏi: "Con xin gì cùng Hội Thánh". Chúng ta thưa: "Thưa, con xin đức tin".
Khi Thiên Chúa gọi Abraham ra đi để làm cha các dân tộc dù ông đang ở tuổi già. Thường ở lứa tuổi này ít ai dám mạo hiểm xông pha để khám phá những nơi rừng núi nguy hiểm đang đón chờ mà trí óc già cả lẩm cẩm không thể dễ dàng suy tính nhanh nhẹn, xoay sở, ứng biến y như hồi còn trẻ được. Thiên thần với hình dáng của một người qua đường đến báo với ông rằng bà Sara, vợ ông mặc dù đã già nhưng vào thời kỳ này qua năm bà sẽ sinh con, và Sara cười có vẻ mỉa mai vì không tin, nhưng ông, ông vẫn tin tưởng việc Chúa làm.
Rồi khi sinh được đứa con trai duy nhất là Isaac, Thiên Chúa lại muốn thử thách lòng tin của ông một lần nữa, Ngài truyền đem Isaac lên núi để hiến tế. Dù rất đau lòng vì tình phụ tử dạt dào nhất trong cảnh cha già con muộn, Abraham vẫn lẳng lặng cúi đầu, cặm cụi mò mẫm lê tấm thân già nua cùng với đứa con leo lên núi cao để sát tế con độc nhất của mình dâng cho Thiên Chúa. Từ lòng tin kiên vững và sâu xa đó, Abraham đã được hưởng lời Chúa hứa: "Abraham là cha các dân tộc đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển". Dòng họ này kế tiếp dòng họ kia, từ Abraham đến vua David có mười bốn đời, từ vua David đến thời kỳ lưu đày ở Babylon gồm có mười bốn đời. Tổng cộng từ Abraham đến Chúa Giêsu là đời thứ bốn mươi hai.
Ðiểm thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay gợi lên một cái nhìn chân xác: "Xem quả thì biết cây". Cây tốt sinh trái tốt. Không thể tìm hoa hồng nơi bụi cỏ gai rậm rạp được. Chúng ta cũng thường nghe nói: "Hổ Phụ Sinh Hổ Tử", cha mẹ hiền lành chắc hẳn con cái không hung dữ được, hoặc "con nhà tông không giống lông cũng giống cánh".
Là người Kitô hữu thì tất cả mọi người đều là anh em với nhau, có Thiên Chúa là Cha, Ngài là Ðấng nhân từ, khoan dung, yêu thương và đầy lòng tha thứ. Chúng ta học theo tính tình người Cha, bắt chước Cha để trở nên khoan dung độ lượng, yêu thương và tha thứ. Không một lý do gì mà chúng ta không ăn ở thuận hòa với nhau trong cuộc sống, không một lý do gì mà chúng ta không yêu thương hiệp nhất nối kết chúng ta lại với nhau trong tình yêu của một Cha chung. Những thiếu sót, khuyết điểm lầm lỗi của nhau không còn cản trở tình thương đang đổ chan hòa trên chúng ta là con cái yêu thương của một người Cha nhân từ. Yêu nhau không phải là nhìn nhau nhưng là cùng nhìn về một hướng, hướng đó là hướng đích điểm nhắm về Cha là Thiên Chúa. Ðừng để những gai nhọn hai bên đường làm chúng ta mất thì giờ dừng lại trên con đường dài thăm thẳm tiến về Nước Trời để rồi chúng ta không tiến bước được về nhà Cha là nơi Cha vĩnh cửu luôn yêu thương và chờ đón chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức được Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi yêu thương của Thiên Chúa như thế nào đối với nhân loại, trong đó có chúng con để chúng con cố gắng sống xứng đáng với lòng yêu thương mà Chúa đã dành cho chúng con.
Lạy Chúa, Chúa đã chọn Abraham làm cha các kẻ tin. Xin ban cho chúng con có một niềm tin kiên vững và mạnh mẽ để chúng con tìm thấy thánh ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày trên con đường tiến về quê trời. Không phải chúng con tìm thấy hoa nở hai bên đường nhưng xin Chúa ban thêm nghị lực, kiên nhẫn, bình an và lạc quan để chúng con vững bước về với người Cha đầy thân yêu nhân ái đang chờ đón chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Gia phả Chúa Giêsu.
Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến ba danh hiệu trọng đại: Abraham, Davít, Giêsu. Abraham là người đã lãnh nhận lời hứa và đức tin để trở thành cha của những kẻ tin. Davít là người đã nhân danh Chúa các đạo binh chiến đấu cho Đấng Tối cao và biến Yêrusalem nên thành trì Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Đấng đã đích thân thực hiện mọi lời hứa, hình thành một dân tộc ưu tú gồm những kẻ tin vào Ngài, chiến thắng quân thù thiêng liêng của Thiên Chúa, xây đắp Yêrusalem mới và vương quốc thiêng liêng.
Qua việc Ngôi Lời Nhập thể làm người, Thiên Chúa đã hạ mình xuống giữa nhân loại, mang lấy giòng lịch sử và quá khứ của nhân loại cũng như thừa kế gia tài qua các thế hệ. Đó là bản lý lịch chính thức. Xét theo máu mủ, Ngài sinh ra từ dòng dõi Davít, thuộc về một dân tộc, trong đó không thiếu những bậc tổ tiên là người tội lỗi và người ngoại giáo, như Davít, Salomon, Tamar, Rahab, Bethsabê, Ruth. Đó là những yếu tố rất tầm thường, nhưng đã được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài, vì Thiên Chúa đã hứa và trung thành hoàn tất lời hứa.
Như thế, bên trong bản gia phả khô khan, đã hàm ngụ một Tin mừng “Thiên Chúa đã nhập thể trong Đức Kitô” bất chấp những khiếm khuyết và tội lỗi của nhân loại. Bài mở đầu Tin mừng Mathêu còn gây cho ta một xác tín: Thiên Chúa có thể nhìn đến và sử dụng chúng ta, không gì có thể cưỡng lại được ý định của Ngài, dù đó là quá khứ đen tối hay sự bất toàn của chúng ta. Bởi vì trong Đức Kitô, Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, những gì hèn hạ đã trở nên cao trọng, những gì xấu xa được thanh tẩy, những gì vô nghĩa mặc một giá trị, và những gì trần tục sẽ được thần linh hoá.
Suy Niệm 4: Gia phả Đức Giêsu
Bạn tự hỏi chắc có ý nghĩa gì đó khi kể một chuỗi tên như vậy. Tại sao phụng vụ không in bài khác đơn giản và hay hơn bài này? Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kỹ hơn, bài này có thể giúp chúng ta hiểu hơn về mầu nhiệm Giáng sinh.
Bạn thấy có một sự sắp xếp khá rõ của thánh Mát-thêu: Trong gia phả của Đức Giêsu được chia làm sáu chuỗi, mỗi chuỗi có bảy tên. Đức Giêsu Kitô đứng đầu chuỗi thứ bảy mà chưa có tên ai, nghĩa là Người đứng đầu một chuỗi mới của một thời đại mới có vô số vô cùng tên chưa thể kể hết được.
Thật quá rõ, ngôn ngữ Kinh thánh là tiếng nói biểu tượng, là một thứ tượng từ: Những tên nơi chốn, tên người có một ý nghĩa nào đó. Những con số và vị trí của số đều có ngụ ý. Số bảy ngụ ý toàn hảo, toàn bích, toàn vẹn.
Thánh Mát-thêu đã sắp xếp gia phả của Đức Giêsu cho chúng ta tìm thấy ý nghĩa của con số bảy. Mỗi một chuỗi tên đầu toàn hảo, hoàn toàn: Chuỗi của Áp-ra-ham, chuỗi các thẩm phán, chuỗi các vua. Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bảy là chuỗi hoàn hảo trọn vẹn, Người đến làm hoàn hảo lịch sử tôn giáo của dân tộc được tuyển chọn, Người đến khởi đầu một thời đại mới đầy hứa hẹn tốt hơn, hoàn toàn hoàn hảo.
Nhờ Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bảy, chúng ta được ghi tên vào chuỗi của Người. Chúng ta được cưu mang bởi Đức Giêsu để sinh ra làm con Thiên Chúa. Chúng ta được đồng phận với Người trong sự chết và sống lại. Chúng ta là dòng dõi của Đức Kitô.
Nhờ Đức Kitô, chúng ta là thừa tự của những người tin đầu tiên là Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Nhờ Đức Kitô, chúng ta được hưởng gia nghiệp tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện giữa lòng lịch sử như thời Đa-vít, Sa-lo-môn, thời toàn thể dân tộc Do thái. Chúng ta được hưởng toàn vẹn gia nghiệp đó, nhưng với cái nhìn của một dòng dõi khác, dòng dõi được đổi mới, được nên chi thể của Thánh thể toàn vẹn của Đức Kitô.
Gia phả của Đức Giêsu hướng chúng ta trở về nguồn gốc của Kitô giáo, đó là: chúng ta là dòng dõi của Đức Kitô, chúng ta chuẩn bị thời đại cuối cùng, thời đại biểu lộ toàn vẹn, chúng ta sửa soạn một lễ Noel cuối cùng: Đấng sẽ là tất cả trong mọi sự, hiện diện ở mọi tạo vật.
C.G
Suy Niệm 5: GIA PHẢ CỦA ĐẤNG CỨU ĐỘ TRẦN GIAN (Mt 1, 1-17)
Ngày nay, nhiều dòng họ đã lưu lại gia phả của họ tộc mình, nhằm lưu truyền cho hậu thế và để cho con cháu biết đến tổ tiên của dòng tộc mình.
Đức Giêsu khi mang lấy bản tính nhân loại, Ngài cũng có một dòng tộc trong lịch sử loài người, vì thế, hôm nay, bài Tin Mừng ghi lại gia phả của Đức Giêsu để xác minh tính chất kỳ diệu của mầu nhiệm cứu chuộc.
Thánh sử Mátthêu trình bày gia phả của Đức Giêsu thành 3 nhóm kép, mỗi nhóm kép chia làm hai nhóm đơn, mỗi nhóm đơn có tên của bẩy người. Kết thúc nhóm kép ba và cũng là khởi đầu một nhóm khác chính là tên Đức Giêsu.
Như vậy, đầu nhóm thứ bẩy này chính là tên của Đức Giêsu, điều này cho thấy: Đức Giêsu chính là Đấng đứng đầu của một chuỗi lịch sử mới, một thời đại mới được mở ra và con số không giới hạn.
Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bẩy trong tư cách là Trưởng Tử, đồng thời cũng nói lên một sự trọn vẹn, vì theo nghĩa ngôn ngữ của Kinh Thánh, con số bẩy được hiểu là con số hoàn hảo. Vì thế, khi chúng ta đứng trong hàng ngũ những người được chọn, chúng ta sẽ được lãnh nhận dồi dào ân sủng trong Đức Giêsu. Bởi vì, Đức Giêsu đến để kiện toàn lịch sử cũ và khai sinh một thời đại mới, thời đại của Ngôi Lời, ân sủng và tha thứ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta hồng ân đặc biệt này là: nhờ Đức Giêsu là Trưởng Tử của chuỗi thứ bẩy, mà mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được sáp nhập vào chuỗi của Đức Giêsu, tức là chuỗi của những người được giải thoát, tha thứ và cứu chuộc. Cũng chính từ đây, dòng máu của Đấng là Đầu được được lưu truyền trong con người của những ai tin và sáp nhập vào đoàn dân mới của Đấng Cứu Thế , tức là dân Kitô giáo.
Như vậy, qua gia phả của Đức Giêsu, một mặt hướng chúng ta về nguồn cội một dân tộc thánh được ân sủng của Thiên Chúa gội rửa mọi tội lỗi, để từ nơi đó, xuất hiện Đấng Xóa Tội Trần Gian; mặt khác, từ nơi nguồn cội đó, xuất hiện Đấng Cứu Tinh là Đức Giêsu, Ngài đến nhằm thiết lập một dân tộc mới để đồng hành và giải thoát chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con mỗi khi mừng đại lễ Giáng Sinh, luôn biết nhìn về nguồn cội của lịch sử cứu độ để tạ ơn, chúc tụng vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi lịch sử nhân loại, đồng thời luôn ý thức mình thuộc về Chúa, để hãnh diện và sống xứng đáng hồng ân cao quý này. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: MẦU NHIỆM ÂN SỦNG VÀ TỘI LỖI (Mt 1, 1-17)
Hôm nay, Phụng vụ Giáo Hội chuyển sang phần hai của Mùa Vọng. Tức là thời gian chuẩn bị cho việc đón Chúa trở nên gần hơn trước. Tuy nhiên, Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta biết về gia phả của Đức Giêsu, không chỉ nhằm mục đích cung cấp cho chúng ta thông tin về lai lịch dòng tộc của Đức Giêsu, mà còn mặc khải cho chúng ta biết về tình thương và ân sủng của Thiên Chúa ngang qua mầu nhiệm về tội lỗi của dòng tộc này. Mặt khác, cũng cho chúng ta thấy lối nhìn và cách hành xử của Thiên Chúa khác xa lối nhìn và suy nghĩ của con người.
Toàn bộ gia phả cho thấy: lòng từ bi của Thiên Chúa trải dài qua muôn thế hệ. Vì thế, cách thế Người gọi và chọn những người cộng tác trong chương trình này cũng rất đặc biệt. Không nằm trong lý luận của con người. Chẳng hạn như việc tổ phụ Abraham, thay vì ông chọn trưởng tử Ismael, con của bà Aggar, thì lại chọn Isaac là đứa con của lời hứa, con của bà Sara, vợ của ông. Rồi, đến lượt Isaac muốn chúc lành cho trưởng nam Esau, nhưng rốt cuộc đành chúc lành cho Giacóp, theo một ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Hay như Giacóp, đã không chọn Ruben, con trưởng, hoặc chọn Giuse, người được ông yêu thương nhất, hơn nữa Giuse cũng là người tài giỏi, có tình thương và đại lượng hơn mọi anh em khác, nhưng Giacóp lại chọn Giuđa là người đã bày binh bố trận bắt cóc Giuse và bán sang Aicập!
Sang thời quân chủ, chúng ta thấy các vua trước lưu đầy nằm trong gia phả đa số là những người tội lỗi, bất nhân, thất trung, chỉ có hai vị trung thành với Thiên Chúa mà thôi, đó là: Ezechiel và Geroboam. Sau thời lưu đầy cũng chỉ có hai là vua: Salathiel và Zorobabel.
Ngay cả vua thánh Đavít, người được nhắc đến nhiều cũng là người mang trong mình tội lỗi!
Rồi đến các phụ nữ, chúng ta thấy các bà cũng đại đa số là những người bất hợp luật như: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mại dâm, Rut là một người ngoại bang và người đàn bà cuối cùng được nhắc đến trong gia phả chính là Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.
Như vậy, trong gia phả của Đức Giêsu, chúng ta có thể ví như là một dòng suối ô nhiễm, nó chỉ được trở nên trong sạch, tinh tuyền khi có sự xuất hiện của Đức Maria, thánh cả Giuse, Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu xuất hiện, chúng ta thấy dòng suối cứu độ được chảy ngược dòng và xuôi dòng để gội sạch tội lỗi của tổ tiên trong quá khứ cũng như hậu sinh sau này.
Khi đọc lại gia phả của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc bày tỏ tình thương của Người ngay trong lịch sử gồm nhiều người tội lỗi, và như thế, chúng ta có quyền hy vọng vào tình thương của Ngài, mặc dù chúng ta đều là những người bất xứng... Hơn nữa, chúng ta được nhập đoàn không phải với những người tội lỗi, nhưng với đoàn dân, những người mang trong mình niềm hy vọng cứu chuộc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cất cao lời tạ ơn Chúa vì Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu trong lịch sử cứu độ, mà chúng ta là những thành phần trong lịch sử mầu nhiệm này.
Mặt khác, mời gọi chúng ta có lòng cảm thông với những người tội lỗi và giúp họ vươn lên trong ân sủng của Thiên Chúa vì: ở đâu tội lỗi tràn đầy, thì ở đó ân sủng của Thiên Chúa chứa chan gấp bội. Bởi lẽ, thánh nhân nào cũng có quá khứ và tội nhân nào cũng có tương lai.
Như vậy, chúng ta nhận thấy rõ rằng: không ai và không có gì có thể ngăn cản được tình yêu của Thiên Chúa.
Hơn nữa, qua trình thuật về gia phả của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ hoàn toàn không phải do công trạng của người này hay người kia mà Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng chính yếu là do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Tình thương Chúa thật bao la và lòng từ bi Chúa vô tận. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức mình bất xứng nhưng lại được Thiên Chúa yêu thương. Từ đó chúng con luôn mang trong mình niềm hy vọng được Chúa cứu độ. Amen.
Ngọc Biển SSP
16/12 Quyền phép nào?
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Quyền phép nào?.
Thứ Hai tuần 3 mùa vọng.
"Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?"
LỜI CHÚA: Mt 21, 23-27
Khi ấy Chúa Giêsu vào Đền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: "Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?"
Chúa Giêsu trả lời: "Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?"
Họ bàn tính với nhau rằng: "Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri".
Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không được biết". Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Gioan là một ngôn sứ
Suy niệm:
“Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?
Ai đã cho ông quyền ấy” (c. 23).
Hai câu hỏi của giới lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem đặt cho Đức Giêsu.
Làm các điều ấy là vào thành thánh giữa đoàn dân tung hô vang dội,
là đuổi những người buôn bán trong Đền thờ,
là chữa bệnh và giảng dạy ở đó (Mt 21, 12-15).
Ai là Đấng đã cho ông Giêsu quyền ấy?
Đây không phải là câu hỏi để thượng tế và kỳ mục tìm thông tin.
Đây là câu hỏi để họ tìm thêm lý lẽ nhằm bắt bẻ Đức Giêsu khi có dịp.
Đức Giêsu đã không trực tiếp trả lời câu hỏi này.
Hay đúng hơn Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi khác (c. 24).
Ngài chỉ hỏi họ đúng một điều thôi, về nguồn gốc phép rửa của Gioan.
“Do trời hay do người phàm”, do Thiên Chúa hay do loài người (c. 25).
Câu hỏi này lập tức đưa họ vào thế bị động, lưỡng nan.
Nếu do Thiên Chúa, tại sao họ lại không tin Gioan? (c. 25).
Nhưng họ lại không dám bảo phép rửa của Gioan là do người phàm,
vì dân chúng tin Gioan là một ngôn sứ (c. 26),
nghĩa là người của Thiên Chúa, người được sai để nói lời của Ngài.
Các thượng tế và kỳ mục đã không dám trả lời câu hỏi của Đức Giêsu.
Nếu nhìn nhận phép rửa của Gioan là đến từ Thiên Chúa,
thì họ cũng phải nhìn nhận Đức Giêsu,
vì Gioan làm chứng Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
Điều này thì họ không hề muốn, vì nó đòi họ phải thay đổi cuộc sống,
thay đổi mọi lối suy nghĩ và mọi niềm tin xưa nay.
Ngược lại nếu coi thường phép rửa của Gioan, họ lại sợ dân chúng.
Họ không dám đi ngược với cái nhìn của dân, vì muốn được lòng dân.
Rõ ràng họ không có tự do để chọn một trong hai.
Đức Giêsu đã bắt họ phải công khai quan điểm của mình.
Nhưng họ đã chọn thái độ né tránh: “Chúng tôi không biết.” (c. 27).
Nói câu này trước mặt dân chúng thì quả là khó nghe và khó tin.
Làm sao họ lại không biết chuyện quan trọng đó?
Vì họ không thỏa mãn điều kiện Đức Giêsu đưa ra (c. 24),
nên Ngài sẽ không trả lời cho họ biết Ngài dùng quyền nào (c. 27).
Thành thật với chính mình thật khó biết bao!
Đón nhận sự thật với trọn cả tâm hồn đòi phải trả giá.
Sự thật bao giờ cũng đòi ta đổi đời, không để ta yên.
Chính vì thế ta thích quanh co và dễ né tránh sự thật.
Nhưng dù ta có né tránh sự thật, thì sự thật vẫn cứ theo đuổi ta luôn.
Chẳng ai làm át được tiếng nói của sự thật.
Mùa Vọng là thời gian ra khỏi bóng tối của dối trá, để đón lấy sự thật.
Chỉ cần bớt một chút cứng cỏi của tự mãn về cái tôi,
thêm một chút mềm mại của tình yêu khiêm hạ,
là ta có cơ may gặp được chân lý như đám đông dân chúng.
Và chân lý sẽ cho ta được tự do (Ga 8, 32).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin dẫn con vào nhà của con,
căn nhà của trái tim,
căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy
những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co,
những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy
những nhỏ mọn, ích kỷ,
những yếu đuối, khô khan,
những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức
những lo âu, sợ hãi
đang đè nặng làm con ngột ngạt,
những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,
những vết thương không biết bao giờ lành,
những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có
Trong tập sách "Án Tử Xuân Thu" có câu chuyện kể lại tài ứng xử của Án Tử như sau:
Khi Án Tử sắp sang nước Sở, vua Sở nghe thấy bảo với cận thần rằng: - Án Tử là người có tài ăn nói của nước Tề, nay muốn sang đây, ta muốn làm nhục, có cách gì không?
Cận thần thưa: - Ðể bao giờ Án Tử sang, cận thần sẽ tìm một người, cho trói lại và dẫn người ấy đến trước mặt vua để giả làm một người nước Tề bị bắt vì tội ăn trộm.
Lúc Án Tử đến nơi, vua Sở làm tiệc thiết đãi tử tế. Ðang giữa cuộc rượu, bỗng thấy hai tên lính điệu một người bị trói vào. Vua hỏi: - Tên kia tội gì mà phải trói thế?
Lính thưa: - Tên ấy là một người nước Tề mắc phải tội ăn trộm.
Vua đưa mắt nhìn Án Tử hỏi rằng: - Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ?
Án Tử đứng dậy thưa rằng:
- Chúng tôi trộm nghe thấy rằng: cây quất mọc ở đất Hoài Nam thì là quất ngọt, đem sang cấy ở đất Hoài Bắc thì quất chua, cành lá giống nhau mà quả lại chua ngọt khác nhau là tại làm sao? Tại vì thủy thổ khác nhau vậy. Nay thân sinh ở nước Tề thì không ăn trộm, sang ở nước Sở lại sinh ra trộm cắp, có lẽ vì lý do khác nhau về thủy thổ mà nó sinh ra như vậy chăng?
Sở Vương muốn làm nhục, làm hại Án Tử nhưng rồi trước bằng chứng về sự thực mà Án Tử đưa ra để biện minh, Sở Vương đành thúc thủ chịu cái nhục. Nhờ vào sự thật mà hậu quả đã đột ngột xoay chuyển dự liệu trù tính của kẻ bày mưu. Hoàn cảnh của Sở Vương lúc này cũng phần nào giống như tâm trạng của các thượng tế và kỳ lão khi họ lên tiếng muốn bắt bẻ Chúa Giêsu.
Bài trích sách Dân Số của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã tường thuật cho chúng ta về hành vi của Balaam, một thầy pháp của dân Moab. Ông được trao nhiệm vụ chúc dữ cho dân Israel dân Chúa. Thế nhưng, khi được đưa lên đỉnh núi Peor, ông lập đàn tế thần chuẩn bị lời chúc dữ. Nhìn xuống doanh trại của dân Israel, được thúc đẩy bởi Thần Khí của Giavê Thiên Chúa, một sự thật không thể cưỡng lại khiến cho từ miệng ông lời chúc dữ đã trở thành lời chúc lành.
Trong bài Tin Mừng, một cách nào đó câu trả lời của các thượng tế và kỳ lão đặt ra cũng mang hình thức tìm kiếm sự thật. Tuy nhiên, mục đích của họ lại khác hẳn, họ muốn bắt bẻ Chúa Giêsu, muốn tìm cớ hại Ngài. Tuy thế, Chúa Giêsu vẫn khoan dung trước thái độ cố chấp của họ. Ngài đặt ra cho họ một câu hỏi của Ngài không phải là một sự bắt bẻ hoặc gài bẫy họ để họ có dịp trở lại nhưng Ngài muốn đặt họ trước một sự thật, đó là Gioan Tẩy Giả kẻ dọn đường Chúa đến với phép rửa thống hối.
Quay ngược thời gian trở về với Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu cũng muốn khơi dậy nơi họ khởi động niềm tin vào Ngài, vì Gioan Tẩy Giả một vị tiên tri lớn của người Do Thái, cuộc đời và lời giảng của ông không một điểm nào đáng trách, bao người đã đến nghe ông giảng và họ lãnh nhận phép rửa thống hối. Thế mà chính bản thân ông, Gioan Tẩy Giả chỉ coi mình là tiếng kêu trong sa mạc, dọn đường cho một Ðấng đến sau ông. Trước Ðấng ấy, ông không đáng cởi dây giầy cho Ngài.
Lời của Gioan Tẩy Giả không phải là một câu nói hàm ý tâng bốc nhưng là một chứng từ cho sự thật. Về sau Chúa Giêsu đã nói rõ: "Trong những con cái do người nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn ông".
Tìm về Gioan Tẩy Giả và phép rửa của ông, các trưởng tế và các kỳ lão cũng được gọi để chấp nhận sự thật, thế mà họ vẫn cố chấp và ác ý. Sự cố chấp và ác ý đã khiến họ không thể trở thành môn đệ của Ngài, không được dạy bảo về Ngài.
Balaam là một người ngoại giáo nhưng ông đã thành thật, đã khuất phục trước Quyền Năng của Thiên Chúa, nên ông đã được Thiên Chúa dùng. Còn thượng tế và kỳ lão tuy thuộc dòng dõi được chọn nhưng vì cứng lòng cố chấp mà đã bị loại ra ngoài.
Trong thế giới hôm nay Thiên Chúa cũng vẫn đang đối thoại, đang mời gọi con người tìm về sự thật. Lời Ngài đã được nói qua Ðức Kitô một lần thay cho tất cả, mỗi biến cố chỉ là một nhắc nhở tìm về Lời và đối chiếu với Lời. Thái độ đứng trước Người, Lời đã khiến cho con người được thưởng hay là bị luận phạt.
Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đến đemsự thật giải phóng chúng con, hôm nay trong tâm tình mong đợi ngày Chúa đến, xin cho chúng con biết tìm về cội nguồn sự thật để rồi sự thật sẽ soi sáng hướng dẫn hành động của chúng con và sẽ biến chúng con nên dụng cụ của Chúa dù cho thân con bất xứng chẳng đáng gì.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Chất vấn về quyền
Sách Lã thị xuân thu có kể câu chuyện về tài ứng đối của Án Tử như sau:
Nghe tin Tử sắp sang nước Sở, vua Sở báo với quân thần rằng: “Án Tử là người có tài ăn nói của nước Tề sắp sang đây. Ta muốn làm cho hắn bị nhục, các ngươi có kế gì không?”. Cận thần xin thưa: “Để bao giờ Án Tử sang, chúng tôi sẽ trói một người giải đến trước mặt vua, để giả làm người nước Tề và cho là phạm tội ăn trộm”.
Khi Án Tử đến nơi, vua Sở cho thiết tiệc khoản đãi. Đang giữa bữa tiệc, bỗng có hai tên lính điều một người bị trói vào, vua Sở hỏi: “Tên này tội gì mà bị trói thế?. Họ đáp: “Đó là một người nước Tề, phạm tội ăn trộm”. Vua đưa mắt nhì Án Tử và nói: “ Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ?. Án Tử đứng dậy thưa: “Chúng tôi có nghe, cây quất mọc ở đất Hoài nam thì là thành quất chua. Cành lá giống nhau, mà quả lại chua, ngọt khác nhau là tại làm sao? Thưa là tại thuỷ thổ khác nhau. Nay người dân ở bên Tề thì lương thiện, mà sang nước Sở lại sinh ra trộm đạo, có lẽ cũng bởi thuỷ thổ nên sinh ra đổi khác chăng.
Sở Vương muốn làm nhục Án Tử, nhưng rồi trước bằng chứng về sự thật mà Án Tử đưa ra để biện minh, Sở Vương lại đành nuốt nhục. Chính bằng chứng về sự thật mà Án Tử nêu ra, đã đột ngột làm xoay chuyển dự mưu của những kẻ muốn bày trò làm nhục người khác.
Hoàn cảnh của Sở Vương phần nào giống như tâm trạng của giới thượng tế, Biệt phái và thời Chúa Giêsu, khi họ lên tiếng bắt bẻ Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Một cách nào đó, câu hỏi của nhóm Thượng tế và kỳ lão đặt ra cũng mang hình thức tìm kiếm sự thật, nhưng mục đích của họ là bắt bẻ và tìm cớ hại Ngài. Chúa Giêsu vẫn tỏ ra khoan dung trước thái độ cố chấp của họ. Ngài đặt ra cho họ một câu hỏi, không phải để bắt bẻ hay gài bẫy họ, mà là để mời gọi họ nhận chân sự thật.
Khi quay ngược lại thời Gioan Tẩy Giả Chúa Giêsu muốn khơi dậy nơi họ khởi đầu của niềm tin là: Hãy tin vào Ngài. Cuộc đời và lời giảng dạy của Gioan không những thu hút nhiều người đến nghe giảng, mà còn chịu phép rửa thống hối. Vậy mà chính bản thân ông, Gioan chỉ coi mình là tiếng kêu trong sa mạc, dọn đường cho Đấng đến sau ông. Lời của Gioan Tẩy giả chính là một chứng từ về sự thật: “Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi và tôi không đáng cởi giây giầy cho Ngài”.
Nhắc lại Gioan Tẩy Giả và phép rửa của ông là Chúa Giêsu muốn các Thượng tế và kỳ lão chấp nhận sự thật. Nhưng họ vẫn cố chấp và ác ý, khiến họ không thể trở thành môn đệ của Ngài.
Trong thế giới hôm nay; Thiên Chúa vẫn đang đối thoại, mời gọi con người tìm hiểu sự thật. Con người được cứu rỗi hay bị luận phạt tuỳ thuộc thái độ đón nhận hay khước từ lời mời gọi đó.
Suy Niệm 4: Quyền ủy nhiệm (Mt. 21, 23-27)
Đức Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” (Mt. 21, 23)
Những căng thẳng giữa Đức Giêsu và các thủ lãnh tư tế đã xảy ra. Họ khiển trách Người về những công việc Người làm mà không có quyền của ai ban cho.
Để giảng dạy trong đền thờ, phải là hàng thầy cả hay kỳ lão, phải học hành nghiên cứu và đậu bằng cấp tốt nghiệp sau thời kỳ đã được thử nghiệm. Thế mà Đức Giêsu không học trường lớn nào. Người không có bằng tốt nghiệp sư phạm hay tiến sĩ gì. Trước mặt các thầy thượng phẩm, Người không có khả năng giảng dạy trong nơi thánh. Họ kết án Người vô tài bất lực.
Họ hỏi Người: “Ông lấy quyền nào mà làm điều đó, và ai đã cho ông quyền này?”. Nói cách khác: bằng cấp ông đâu? Ủy nhiệm thư cho ông đâu? Đức Giêsu từ chối trả lời họ. Người hỏi lại họ. Câu hỏi làm họ bối rối.
Giả như Đức Giêsu cư xử cách khác, như Người nói cho họ biết Người là Con Thiên Chúa và lấy quyền Chúa Cha mà giảng dạy, thì họ có tin Người không? Chắc là không. Người xét thấy không thuận tiện để mặc khải lúc này. Vì, đối với Người, không phải có những ủy nhiệm thư hay quyền thế làm cho việc rao giảng chân lý được thích hợp thuận lợi, mà chính điều chân thật làm sáng tỏ sự thật, còn kẻ nói thì ít quan trọng.
Thiên Chúa không nhất thiết cần đến những kẻ học rộng, biết nhiều mới nói được cho chúng ta. Ngài tự nói với chúng ta qua những kẻ tin Ngài. Lời của một em bé, một cụ già, một bà mẹ có thể có giá trị quan trọng hơn lời của linh mục hay giáo sư đại học.
Lời Chúa không bị trói buộc. Lời Chúa tràn lan khắp nơi và vọt ra từ con tim tốt lành hồn nhiên hơn là từ một đầu óc nhồi sọ.
J.G
Suy Niệm 5: HÃY KHIÊM TỐN ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ (Mt 21, 23-27)
Có những câu hỏi được đưa ra để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó! Cũng có những vấn nạn đặt ra với mong muốn được hiểu thêm kiến thức, tuy nhiên, cũng có những thắc mắc được đưa ra không phải vì ý ngay lành, nhưng mục đích để hạ gục, bắt lỗi và kết án đối phương.
Hôm nay, Đức Giêsu bị rơi vào tình cảnh thứ ba khi các Kỳ mục và Thượng tế hỏi Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?". Đức Giêsu biết rõ sự thâm độc của họ, vì nếu Ngài nhận rằng quyền năng của Ngài do được ủy nhiệm, thì hẳn Ngài là một kẻ ly giáo và chính quyền sẽ lên tiếng vì họ sẽ gán Ngài vào cái tội gọi là phủ nhận quyền của những nhà lãnh đạo! Còn nếu Đức Giêsu nói rõ rằng: quyền đó là do Thiên Chúa trao cho Ngài, và Ngài có quyền năng như Thiên Chúa, thì Ngài sẽ rơi vào tội lộng ngôn, phạm thượng!
Khi lường trước được những hệ lụy như vậy, và “giờ” của Ngài chưa đến, nên Đức Giêsu đã hỏi ngược lại họ: “Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?". Nếu cái bẫy mà họ đưa ra cho Đức Giêsu để dồn Ngài vào chân tường, thì giờ đây, họ lại thay thế chỗ của Đức Giêsu khi bị Ngài hỏi ngược lại! Tuy nhiên, mục đích của Đức Giêsu thì khác họ, Ngài không muốn đẩy họ vào đường cùng, nhưng mục đích của Ngài là muốn cho họ nhận ra vai trò của Đấng Cứu Thế và giá trị đích thực của cuộc đời, hầu sám hối để được ơn tha tội.
Tuy nhiên, vẫn lòng trai dạ đá, với những mánh khóe bẩn thỉu, họ đã trả lời cách vu vơ: "Chúng tôi không biết". Nhưng khi trả lời như thế, họ đã lãnh nhận hậu quả nặng nề, vì: họ thuộc về thành phần lãnh đạo tinh thần, nên sự xuất hiện của Gioan, họ phải biết rằng ông là ai? Đằng này không biết, chứng tỏ họ vô trách nhiệm và hèn nhát vì không dám chân nhận sự thật.
Trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó những hạng người hèn nhát không dám đứng ra để bảo vệ chân lý, công bằng. Họ biết đó là sai, nhưng vẫn nhắm mắt làm ngơ, chỉ vì chúa của họ là cái bụng, nên sẵn sàng bất chấp mọi sự, miễn sao đạt được mục đích rẻ tiền...
Tuy nhiên, điều những nhà lãnh đạo Dothái khi xưa không chừng lại là chính những chọn lựa của chúng ta hiện nay khi chúng ta tìm mọi lý lẽ để biện minh, bóp méo Lời Chúa để uốn nắn Lời của Ngài theo thiển ý của ta hầu phục vụ cho những việc làm xấu xa, đê tiện của mình!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy thành tâm sống khiêm tốn, bén nhạy với Lời của Chúa. Luôn tin tưởng vào quyền năng của Ngài. Tránh thái độ kiêu căng, tự mãn, ích kỷ mà vu khống, đẩy đưa người anh chị em chúng ta vào chỗ chết.
Mùa Vọng là mùa chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Nhưng, để sự chờ mong của chúng ta thực sự có ý nghĩa, thì ngay trong giây phút này, mỗi người phải khiêm tốn, sẵn sàng đón nhận Lời Chúa, thay đổi lối sống không phù hợp với Tin Mừng để xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có được tâm tình của người môn đệ là khao khát sự hoàn thiện trong việc trung thành, ngoan ngoãn vâng theo Lời Thiên Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
15/12 Chúa Giêsu-Đấng phải đến
- Viết bởi Mt 11, 2-11
Chúa Giêsu-Đấng phải đến.
Chúa Nhật 3 Mùa Vọng năm A.
"Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"
Lời Chúa: Mt 11, 2-11
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?"
Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".
Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: "Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: "Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con".
Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG A 2016
Lời Chúa: Is 35,1-6a.10; Gc 5,7-10; Mt 11,2-11
MỤC LỤC
1. Bác ái
Trong một cuộc hội thảo dành cho các sinh viên tại Hoa Kỳ, người ta đã đưa ra một đề tài như sau: Lòng bác ái trên thế giới. Có một sinh viên không phải là công giáo đã hỏi một vị tuyên uý để xin ngài cho biết Giáo Hội Công giáo đã làm được những gì cho các người nghèo trên thế giới? Vị tuyên uý lúc đầu đã tỏ ra bỡ ngỡ, rồi ngài cho anh biết về những hoạt động bác ái của Giáo Hội trên toàn thế giới: hàng trăm ngàn linh mục, tu sĩ và giáo dân đang làm việc cho mọi tầng lớp dân chúng. Thế rồi anh sinh viên buột miệng kêu lên: tại sao người Công giáo không nói cho chúng tôi hay về lòng bác ái này trên trái đất? Sự thật đáng buồn là nhiều người Công giáo không có ý tưởng gì về những công cuộc bác ái vĩ đại mà gia đình con cái Chúa đã thực hiện.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay nói với chúng ta rằng: Gioan tiền hô sai một số môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay là chúng ta còn phải đợi chờ một Đấng nào khác? Chúa đáp lại: hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông đã nghe và đã thấy: Người mù được thấy, người què được đi, người chết được sống lại và người nghèo khó được đón nhận Tin Mừng. Đó là những dấu chỉ cho biết Chúa Giêsu là Đấng thiên sai. Đó cũng là những dấu chỉ đích thực của một Giáo Hội do Ngài thiết lập. Đồng thời đó cũng là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Đức Kitô ngày hôm nay vẫn còn thực hiện những phép lạ, đó là những phép lạ của lòng bác ái nơi những người tin theo Ngài. Người Công giáo chúng ta cần biết hơn về những gì Giáo Hội đang làm cho người nghèo trên toàn thế giới. Không phải để khoe khoang, nhưng để nhận thức rằng lòng bác ái là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Chẳng hạn ở Hoa Kỳ có hơn 700 bệnh viện công giáo với hơn 160.000 giường bệnh. Có hơn 100 cô nhi viện chăm sóc cho hơn 16.000 trẻ em. Có 432 viện dưỡng lão chăm sóc 43.000 người già cả. Cơ quan bác ái còn cung cấp cho 19.000 trẻ em có chỗ nuôi nấng. Đó mới chỉ ở Hoa Kỳ, nhưng công cuộc bác ái của Giáo Hội trên toàn thế giới thì rất bao la và rộng lớn. Đồng thời chúng ta cũng nên nhớ rằng đó chỉ là những việc bác ái công khai của Giáo Hội và chỉ có Chúa mới biết được tất cả những gì mỗi cá nhân người Công giáo chúng ta đang làm để xoa dịu sự nghèo đói túng khổ. Còn chúng ta, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc bác ái của Giáo Hội?
2. Vở kịch dang dở
Có một văn sĩ, khi chết đi, còn để lại trên bàn tập bản thảo của một vở kịch. Tất cả mới chỉ là khởi đầu, chuẩn bị cho nhân vật chính xuất hiện, còn nhân vật chính ấy như thế nào thì chưa một ai được biết.
Toàn bộ Cựu Ước cũng giống như một vở kịch còn dang dở kể trên, trong đó nhân vật chính chưa hề xuất hiện. Mọi người đều bàn tán, đều mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng tất cả mới chỉ là sự chuẩn bị mà thôi. Còn Đấng Cứu Thế như thế nào, thì chưa một ai được biết.
Từ bối cảnh này, chúng ta hãy nhìn ngắm khuôn mặt của Gioan Tiền Hô. Trên dòng sông Giođan có một khúc nước cạn, cách biển Chết không xa. Đây là chỗ dân chúng thường qua lại để buôn bán và trao đổi tin tức. Chính tại chỗ này, Gioan Tiền Hô đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Dân chúng thắc mắc và tự hỏi: Ông là ai? Ông có phải là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi hay không?
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã trả lời cho những câu hỏi này. Ngài nói với dân chúng: Gioan là người mà Kinh thánh đã đề cập đến: Ta sai sứ giả Ta đi trước Con để dọn đường cho Con. Ngài cũng trả lời một câu hỏi khác được các môn đệ cua Gioan đặt ra cho Ngài: Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn pải đợi một Đấng nào khác?
Để trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu đã mượn lời tiên tri Isaia. Thực vậy, khi nói về Đấng Cứu Thế, Isaia đã đưa ra những dấu chỉ để mọi người nhận biết Ngài: Đó là người mù được thấy, kẻ què được đi, người điếc được nghe và kẻ câm sẽ reo vui. Chủ đích của Chúa Giêsu thực rõ ràng. Chính những phép lạ Ngài làm sẽ xác quyết Ngài là ai? Là Đấng Cứu Thế tiên tri Isaia đã loan báo. Ngài đến để thiết lập vương quốc của Ngài ở trần gian.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết: Vương quốc ấy đã được thiết lập rồi nhưng chưa hoàn tất. Ngài trao phó cho chúng ta tiếp nối công trình của Ngài, xây dựng và hoàn tất vương quốc của Ngài trên trần gian này. Vào ngày sau hết, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét chúng ta về công việc này.
Hiện giờ chúng ta đang sống giữa hai biến cố: Việc Ngài giáng sinh và việc Ngài trở lại. Nhiệm vụ chúng ta không phải là ngồi chơi xơi nước mà phải xắn tay áo lên, dấn thân vào công việc Chúa đã trao phó, khi Ngài đến lần đầu trong lịch sử.
Nói một cách cụ thể hơn, đó là chúng ta phải xây dựng Nước Chúa trên trần gian, phải đem tình thương để xoá bỏ hận thù, phải đem chân lý thay cho sự giả dối, phải xây dựng cái thế giới hôm nay theo tinh thần của Chúa.
3. Đấng sẽ đến
Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay không?
Như chúng ta đã biết, Gioan Tiền Hô vì lên tiếng chỉ trích Hêrôđê nên đã bị tống vào ngục. Từ thế giới tù đày, ông đã sai hai môn đệ thân tín đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra câu hỏi: Thầy có phải là Đấng sẽ đến, hay là chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?
Câu hỏi này thoạt xem ra thì có vẻ vô lý và mâu thuẫn với sứ mạng tiền hô, với sứ mạng dọn đường của Gioan. Phải chăng ông đã chẳng long trọng giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian đó sao? Phải chăng bên bờ sông Giođan ông đã chẳng xác quyết: Ngài phải rửa cho tôi chứ không phải là tôi rửa cho Ngài. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài? Rồi với những sự kiện lạ lùng sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, với sự tỏ lộ đặc biệt của Chúa Thánh Thần, ông đã tin chắc Chúa Giêsu người Nadarét chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ những thế kỷ về trước. Vậy thì tại sao bây giờ ông lại nghi ngờ và phản lại những lời đã xác quyết? Theo tôi nghĩ vấn đề được đặt ra thật quan trọng. Quan trọng không phải cho bản thân của Gioan vì ông không hề nghi ngờ chi nữa, nhưng quan trọng cho các môn đệ của ông, bởi vì họ còn đang phân vân, lưỡng lự và chưa dứt khoát được lập lập trường đối với Chúa Giêsu. Ông tin chắc câu trả lời và những lý chứng của Chúa Giêsu sẽ là một thứ ánh sáng phán tan mọi thứ nghi ngờ còn đọng lại trong cõi lòng của họ. Thực vậy, những phép lạ Ngài làm là một lý chứng hùng hồn nhất về sứ mạng cứu thế của Ngài: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người chết sống lại và những kẻ nghèo túng được loan báo Tin Mừng. Và sau đó Chúa Giêsu đã lên tiếng ca tụng Gioan Tiền hô.
Người Do Thái luôn trông chờ một Đấng Cứu thế. Còn chúng ta thì khác, chúng ta đã tin tưởng chắc chắn Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ muôn ngàn thuở trước và chúng ta là những người đã Ngài được cứu chuộc. Ngài là Đấng chúng ta đặt trọn vẹn niềm cậy trông. Hãy kiên nhẫn trông đợi ngày Ngài trở lại. Không vội vàng, không hấp tấp. Hãy tin tưởng vào thời gian và sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa trên những nẻo đường chúng ta đi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII thường nói: Chúng ta hãy tin tưởng vào thời gian bởi vì thời gian sẽ sắp đặt mọi sự. Nó sẽ giúp chúng ta nhìn rõ bàn tay yêu thương của Chúa, cũng như giúp chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chân lý này đã được thực hiện trong chính cuộc đời của ngài. Với tính tình hiền hoà và đôn hậu người ta tưởng rằng ngài sẽ chẳng làm được những việc phi thường trên ngôi giáo hoàng. Thế nhưng Chúa đã dùng ngài để hướng dẫn Giáo Hội. Chính ngài đã quyết định triệu tập Công đồng Vatican II và đã thổi vào Giáo Hội một tinh thần, một luồng sinh khí mới.
Thánh Giacôbê tông đồ cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy kiên nhẫn trông chờ ngày Chúa đến. Như người nông phu kiên nhẫn trông chờ những giọt nước mưa, và hoa màu của đồng ruộng. Anh em cũng hãy bền chí và vững tâm vì Chúa đã gần đến.
Thánh Vincentê luôn cảnh giác chúng ta: Đừng hấp tấp vội vã vì đó là mưu mô của ma quỷ, lừa dối những người thiện chí để rồi cuối cùng chẳng làm được gì cả. Để kết luận chúng ta hãy nhớ tới lời Chúa: Ai kiên tâm và bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát.
4. Dung mạo Đức Kitô
(TGM. Jos Ngô Quang Kiệt)
Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”.
Thật lạ lùng đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.
Sự hoang mang của thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:
1) Nguyên nhân thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo.
Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.
2) Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù.
Ông bị ngược đãi, tất nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia còn rành rành: “Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân”. Thế mà sao chờ đợi hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.
Trước câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan những việc Ngài làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.
Đấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.
Đấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.
Đấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.
Đấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.
Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.
Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đức Thánh Cha đã khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của Đức Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không?
2) Bạn muốn một Giáo Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy?
3) Bạn nghĩ gì về những lầm lỗi trong Giáo Hội?
4) Bạn phải làm gì để làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé hằng ngày?
5. Mùa Vọng: mùa màu hồng
(‘Nút Vòng Xoay’, trg. 19 – GM. Giuse Vũ Duy Thống)
Nếu khởi đầu Mùa Vọng là một màu xanh của những tâm hồn biết rằng Thiên Chúa hằng hy vọng vào mình và hành trình Mùa Vọng là một màu tím của những cuộc đời sám hối, thì ở giữa lòng Mùa Vọng, đời người đã được đặt vào một vận hành mới với một năng lực mới cho một cuộc đời mới. Những cái mới ấy Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay diễn tả bằng một niềm vui và lễ phục minh họa bằng một tông màu bất ngờ tươi sáng để cùng với Giáo Hội, Chúa Nhật hôm nay xin được gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng.
Vâng! Màu hồng. Nhưng không phải là một thứ ửng hồng e lệ của tình yêu buổi đầu gặp gỡ, cũng không phải là thứ bột hồng điểm trang của hương phấn trong ngày lễ hội, mà chính là màu hồng của niềm vui chan hòa và những chí bền chiến đấu đã làm nên sức sống và sức mạnh không ngừng gieo hưng phấn trên hành trình đức tin.
Qua cách gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng, xin được gợi ý về hiệu quả của niềm hy vọng.
1) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một niềm vui chan hòa.
Không phải vô cớ mà thánh Phaolô năm xưa đã kêu gọi các tín hữu của mình “Hãy vui lên!” cũng chẳng phải tình cờ khi Phụng Vụ gọi Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật của niềm vui, mà tất cả đã là một hữu ý dàn dựng để làm nổi bật lên nỗi vui mừng và niềm hy vọng không phải như hai nỗi niềm đặt cận kề nhau, mà như hai yếu tố tương tại vào nhau của cùng một nỗi niềm duy nhất kết nên đời sống Kitô hữu. Có hy vọng là có niềm vui.
Bởi có hy vọng nên đời tín hữu cũng có một vũ trụ quan tươi vui: Họ không chấp nhận cuộc đời theo kiểu “cũng liều nhắm mắt đưa chân” trôi nổi vật vờ theo dòng nước cuốn, mà là đón nhận cuộc đời bằng một phong thái thanh thản vui tươi. Họ không chấp nhận nhìn môi trường mình đang sống như những sự kiện bên lề mà biết nhận ra đó chính là nơi mình được kêu gọi đến để thể hiện ơn gọi làm người và làm con Chúa. Cho dẫu cuộc đời có thế nào cũng vẫn có đó niềm hy vọng vươn cao. “Trong khi chưa có được điều mình thích, hãy bắt đầu bằng cách thích những điều mình đang có”. Tôi muốn một cuộc đời rộng đẹp nhưng trước mắt tôi vẫn chỉ là những mảnh đời chật hẹp thì trong niềm hy vọng, tôi phải bắt đầu bằng cách nới rộng đời mình ra.
Bởi có niềm hy vọng nên đời tín hữu cũng có một nhân sinh quan chan hòa. Trong đại dương không ai là một hòn đảo. Trong chuyến đi cuộc đời chẳng ai là người lữ khách cô đơn. Thế nên, trong tinh thần liên đới, tín hữu là những kẻ đồng hành và đồng hành cũng có nghĩa là biết cho đi và nhận về. Cũng giống như tình yêu, hy vọng là rộng mở, là biết cho đi. Trong đổi chác, không ai có thể cho cái mình không có, nhưng trong niềm hy vọng, không ai có thể có được điều mà mình không biết cho đi. Bởi lẽ bạc tiền cho đi sẽ có lúc vơi cạn, nhưng niềm hy vọng biết cho đi thì ngược lại, bỗng trở nên phong phú lạ thường. Nỗi vui cho đi sẽ thành nỗi vui lớn hơn của kẻ cho và người nhận gộp lại, và niềm hy vọng biết cho đi sẽ nên niềm hy vọng vĩ đại của một sự sống triển nở sinh sôi.
Rõ ràng là với niềm hy vọng, cuộc sống đã biến thành niềm vui, cho dẫu niềm vui ấy chưa ở độ tinh ròng mà vẫn còn đan xen với những nỗi niềm riêng tư hay nỗi lo đại cuộc, nhưng đã hồng hào lên một sức sống tươi trẻ vì đó chính là thành quả của niềm hy vọng.
Chắc cộng đoàn còn nhớ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I. Triều đại Giáo Hoàng của ngài chỉ có ba mươi ba ngày nhưng hình ảnh của ngài thì thế giới khó mà quên. Đó là hình ảnh của một Giáo Hoàng với nụ cười thật tươi, nụ cười trong hồn và nụ cười ngoài miệng. Chính ngài là người đã lập lại quan điểm của thánh Tôma để chủ trương: vui vẻ là một nhân đức. Và Mẹ Têrêsa Calcutta, một trong mười phụ nữ được xếp vào hàng vĩ nhân hiện đại, khi người ta hỏi Mẹ xem phải làm gì cho cuộc sống tốt hơn, Mẹ bảo: “Hãy mỉm cười. Cười là thông điệp hòa bình. Cười là nếm cảm thực tại Thiên Chúa”.
2) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một chí bền chiến đấu.
Những lúc an bình, niềm hy vọng mở ra một cuộc sống tươi vui nhưng khi gặp phải thử thách, niềm hy vọng lại trở nên sức mạnh kiên cường. Chính vì thế, hy vọng không chỉ được xem là nhân đức của nụ cười mà còn được khẳng định là nhân đức của sự chiến đấu trước những thách đố không thiếu trong đời.
Có những thách đố đến từ những nghịch lý trong đời sống đức tin thể hiện qua những câu hỏi “tại sao?” khó mà trả lời nếu không có niềm hy vọng. Như câu hỏi tại sao của Cựu Ước: “Tại sao kẻ lành thường gặp hoạn nạn còn kẻ dữ lại cứ phây phây?”. Như câu hỏi của thánh Phaolô: “Tại sao điều tốt muốn làm tôi lại chẳng làm, còn điều xấu muốn tránh tôi lại hay vấp phải?”. Như câu hỏi về Giáo Hội: “Tại sao Giáo Hội bản chất là duy nhất mà trong lịch sử vẫn cứ mãi ghi dấu bằng những cuộc phân ly?”. Như câu hỏi của các bạn trẻ Tây Ban Nha đặt ra cho Đức Gioan Phaolô II năm 1982: “Tại sao Thiên Chúa tốt lành mà trong tạo thành của Ngài lại có quá nhiều tội ác?”. Như câu hỏi của báo chí: “Tại sao người ta cứ phải lo đề phòng đối phó mà không biết yêu thương nhau?”. Hay như câu hỏi mỗi người thường đặt ra với lòng mình: “Tại sao nhân đức như lúa tốt chăm hoài vẫn khó mọc còn nết xấu như cỏ dại nhổ mãi vẫn cứ còn?” Những câu hỏi ấy được đặt ra và còn được đặt ra mãi mãi. Sẽ là hoang mang chao đảo nếu không tìm được giải đáp; nhưng sẽ không có câu trả lời đích thực nếu không nại đến niềm hy vọng vào điều toàn bích vốn chỉ có nơi Thiên Chúa và trong cuộc sống mai sau.
Có những thách đố đến từ những nghịch biến trong lối sống đạo như sự ly thân giữa giáo lý tốt lành của đạo với đời sống kèn cựa của người tín hữu, như cách sống thực dụng của một số thành phần có đạo, như xu hướng tục hóa đang có nguy cơ tràn lan, và phổ biến nhất vẫn là thái độ “mackeno” dửng dưng với đạo của một số kẻ tự nhận là có đạo mà thực tế chẳng tốt hơn ai. Sẽ là dị ứng co cụm nếu chỉ thở dài thất vọng, nhưng sẽ là bản lĩnh hy vọng nếu biết vươn lên khẳng định niềm tin.
Và cũng có những thách đố đến từ những nghịch cảnh trong cuộc đời như tai nạn bất ưng, như sức khỏe yếu kém, như hoàn cảnh không thuận lợi cho ngành nghề, như những thất bại nhiều mặt. Sẽ là thất vọng nếu cúi gập trên nỗi đau của mình, nhưng sẽ là hy vọng nếu biết vươn lên, cho dẫu hoàn cảnh có tuyệt vọng đi nữa thì ở đó vẫn cứ sáng rỡ một niềm cậy trông.
Trọn trang Tin Mừng hôm nay là một thách đố không nhỏ mà Gioan Tẩy Giả đã gặp phải: rao giảng về một sự trừng phạt đến cận kề nhưng lại gặp phải sự chậm trễ; loan báo về Đấng Cứu Thế như một vị Chúa oai phong đáng sợ nhưng lại thấy Chúa Giêsu chan hòa nhân ái; công bố về thời mở cửa cứu độ nhưng chính mình lại bị cầm tù vào giữa lúc mọi người xôn xao hạnh phúc. Đã có lúc nóng lòng chờ đợi như việc gửi môn đệ đến chất vấn Chúa Giêsu qua đoạn Phúc Âm hôm nay, nhưng từ những thách đố ấy, nơi Gioan Tẩy Giả đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường: ông không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẽ cậy trông.
Niềm hy vọng chính là sức mạnh hồng hào giúp Gioan Tẩy Giả và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.
Tóm lại, với hiệu quả của niềm hy vọng là niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu, đời sống của tín hữu đã được đặt vào một vận hành mới vươn tới một điều còn lớn lao hơn cả chính nỗi niềm của mình. Đó không chỉ là chân lý cho trí ta đong đầy, không chỉ là thiện hảo cho lòng ta mê thích, cũng không chỉ là nét đẹp cho mắt nhìn no thỏa mà chính là một Đấng, Đấng ấy là Thiên Chúa hằng hy vọng vào ta.
Và như thế, thiết tưởng đã đến lúc đặt ra vấn đề: liệu ta có niềm hy vọng ấy chưa?
Bài đọc thứ nhất nhắc nhở “Đừng sợ”. Đừng sợ không có niềm hy vọng vì trước khi ta có thể hy vọng thì Chúa đã hy vọng vào ta. Đó là một hồng ân. Cũng đừng sợ mình mất niềm hy vọng như thể ta sống có một mình. Có một Đấng cùng sống với ta và Đấng ấy không dễ gì để mất ta đâu. Cũng đừng sợ niềm hy vọng của ta sao quá nhạt nhòa, bởi hy vọng là một công trình cả đời. Điều đáng sợ đáng ngại và đáng đau khổ nhất là “thấy Thiên Chúa bị bóp chết trong một đời người”, nghĩa là người ta khước từ hy vọng, bóp nghẹt hy vọng nhân danh sự tự do hoặc danh lợi thú.
Bài đọc thứ hai khuyến khích “Hãy vui lên!” Vui vì ta là niềm hy vọng trong mắt nhìn cứu độ của Thiên Chúa và đồng thời cũng là niềm hy vọng thắp sáng cho anh em mình nữa, để không chỉ gây thắc mắc “nghĩ gì vui thế mà cười một mình” như Trần Tiến trong ca khúc “Thành phố trẻ”, mà còn để chuyển tải đến môi trường xung quanh một niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu.
Ai đã coi cuốn phim “Cuộc đời Chúa Cứu Thế” chắc còn nhớ lúc kết, sau khi đã có biến cố lên trời và lời trao sứ vụ đến với muôn dân, người ta cho xuất hiện trên màn ảnh một chân dung của Chúa Giêsu thật lớn tươi cười với chiếc răng khểnh đàng hoàng. Không biết dụng ý của đạo diễn thế nào, nhưng phải nói là có tác dụng phấn khích, vừa đem lại nét tươi tắn cho cuốn phim, vừa đem đến niềm vui chan hòa hy vọng.
Mong rằng nụ cười thật lạ ấy cũng trở thành niềm vui cho ta trên nẻo sống đức tin và thể hiện niềm hy vọng. Được như thế, Chúa Nhật hôm nay đích thực là Chúa Nhật của niềm vui, và Mùa Vọng cũng thêm sáng nghĩa là mùa màu hồng hy vọng thật đẹp thật tươi thật nhiều nụ cười cho người người hạnh phúc.
6. Mạnh sức để đạt được Nước Trời
(Anmai)
Ai trong chúng ta cũng hơn một lần cảm được cái nóng của thời tiết. Khi ấy, chỉ mong có một cơn mưa làm dịu đi khí trời nóng bức. Khi nóng bức như vậy, ai cũng mong và thậm chí cầu khẩn "ơn trên" để cho có mưa móc. Và, khi có mưa rồi thì niềm vui khôn tả được bày tỏ.
Trong tâm tình chờ đợi mưa móc đó, Isaia cho ta thấy niềm vui của những đồng cỏ cháy gặp được mưa: Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.
Niềm vui mà Isaia nói đây không chỉ dừng lại ở ơn mưa móc mà còn hơn thế nữa, đó là Đấng Công Chính - Đấng Cứu Độ trần gian đến. Khi Đấng Cứu Độ trần gian đến thì muôn dân sẽ thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa.
Isaia nói tiếp: Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta. Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
Cũng dễ hiểu niềm vui mà Isaia nói vì không phải là mưa móc tự nhiên mà là Đấng Cứu Độ. Và vì thế, niềm vui này là niềm vui khôn tả bởi lẽ khi Đấng Cứu Độ trần gian đến rồi thì sẽ cứu muôn dân thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và, khi đó, họ vui cười hớn hở vì đau khổ và khóc lóc không còn nữa.
Và, như Gioan đã loan báo, Đấng Cứu Độ trần gian đã đến trần gian.
Đấng Cứu Độ trần gian đã đến không chỉ dọn lòng mà còn phải đương đầu với những thế lực đen tối mới có thể gặp và đoạt được. Chúa Giêsu nói rõ trong Tin Mừng hôm nay: "Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được".
Trong chờ đợi, có những người đã mất kiên nhẫn để rồi nản chí và khi nản chí rồi không đủ sức mạnh để chiếm lấy Nước Trời. Thánh Giacôbê mời gọi ta sống tâm tình kiên nhẫn trong thư của Ngài: "Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa".
Phận con người mỏng dòn non yếu nên đôi khi đánh mất kiên nhẫn, đánh mất sự chờ đợi.
Thật sự thì Chúa đã đến giữa cuộc đời ta rồi nhưng lòng ta không hân hoan để đón Chúa bởi lẽ đón Chúa vào lòng ta thì làm sao ta sống như Chúa muốn được. Ta đã buông lòng ta theo những cám dỗ của trần gian, của xác thịt để rồi chúng ta không đủ "công lực" để đón Chúa nữa.
Cuộc sống, nhất là ngày hôm nay giữa sóng xô của cuộc đời và ngày mỗi ngày con người tăng thêm lòng ích kỷ, hờn ghen, chụp giật thì lại càng căng thẳng cho sự chiến thắng của ta với những cám dỗ cứ bày ra trước mặt của ta. Phần con người, chúng ta dễ ngã để đi tìm nhưng giá trị trần gian mau qua chóng tàn mà quên đi rằng quê hương chúng ta ở trên Trời và chúng ta ngày mỗi ngày vẫn trông mong và chờ đợi.
Gioan Tẩy Giả cũng là người mỏng dòn xác thịt và như Chúa Giêsu nói Gioan là người nhỏ nhất nhưng vì Gioan biết tìm ai và chọn ai. Dĩ nhiên Gioan cũng phải đấu tranh với lòng mình để khỏi phải thiệt thân, thiệt mạng của mình. Cũng chỉ vì sự thật, chân lý mà Gioan đã bị chém đầu. Không giản đơn để chấp nhận cuộc xử trảm như Gioan. Chỉ vì niềm tin vào Thiên Chúa đặc biệt qua Chúa Giêsu mà Gioan đã chấp nhận chém đầu.
Cuộc chiến đấu mà Gioan chiến đấu không phải là cuộc chiến đấu đơn giản nhưng là cuộc giằng co kinh khủng trong cuộc đời. Gioan chiến thắng bởi vì Gioan từ ngày lọt lòng mẹ cho đến ngày chết luôn luôn gắn kết với Chúa, kết hiệp với Chúa và đặc biệt sống tâm tình khiêm hạ nhỏ bé.
Ngày mỗi ngày, chúng ta đã vẫn phải chiến đấu giữa những phong ba bão táp của cuộc đời với Nước Thiên Chúa. Tự sức người của ta chắc chắn ta sẽ không làm được nhưng nhờ ơn Chúa giúp ta sẽ chiến thắng để đạt được Nước Trời như lòng Chúa mong muốn và lời Chúa mời gọi.
7. Còn phải đợi ai?
(‘Manna’)
“Anh em ra xem gì trong hoang địa?" Đức Giêsu đã ba lần đặt câu hỏi như thế. Hẳn không phải để xem một cây sậy bị gió lay, vì Gioan chẳng phải là người dễ lung lay, khuất phục. Cũng không phải để xem người mặc lụa là gấm vóc, vì Gioan chỉ có áo lông lạc đà và dây lưng da. Nhưng để gặp một vị ngôn sứ cao trọng hơn cả, vì ông ở đỉnh cao kết thúc Cựu Ước, đồng thời ông là người giới thiệu Đức Kitô cho dân Israel.
Đối với ông, Đức Kitô là Đấng mạnh mẽ. Ngài đến sau ông, nhưng mạnh hơn ông (x. Mt 3,11). Ngài như người cầm rìu chặt mọi cây không sinh trái và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Ngài còn như người cầm nia sàng sảy (x. Mt 3,12), thóc lép thì cho vào lửa, thóc mẩy thì thu vào kho. Ngài sẽ thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa (x. Mt 3,11).
Quả thực Ngài là vị thẩm phán đáng sợ. Ngài trừng phạt tội nhân bằng ngọn lửa không hề tắt.
Khi ở tù, Gioan vẫn nghe biết các việc Đức Giêsu làm. Thật chẳng có gì giống với những điều ông đã loan báo. Ngỡ ngàng, hoang mang, ông sai môn đệ đến gặp Ngài.
Đức Giêsu kín đáo cho thấy Ngài thật là Đức Kitô, vì Ngài làm ứng nghiệm những lời ngôn sứ Isaia loan báo. Ngài không phải là một Mêsia đoán phạt, báo thù, nhưng là một Mêsia xót thương cúi xuống người đau khổ.
Gioan đứng trước một thách đố. Ông có chịu đổi quan niệm của mình về Đấng Mêsia không? Nếu không đổi, ông chẳng thể nào đón nhận Đức Giêsu, Đấng mà ông đã giới thiệu là Kitô, là Mêsia. "Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
Phêrô cũng đã vấp ngã sau khi tuyên xưng đức tin. Ông không thể nào chấp nhận một Đấng Mêsia chịu đau khổ. Giona cũng nổi giận, vì Thiên Chúa không phạt dân Ninivê như lời ông loan báo (x. Ga 3,4; 4,1). Như thế cả Giona, Gioan hay Phêrô đều phải mở ra để đón lấy Thiên Chúa bất ngờ.
Ngài không như điều ta tưởng, thậm chí có khi Ngài ngược với điều ta rao giảng.
Gioan đã vượt qua chính mình khi nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30). Ông đã giới thiệu môn đệ và dân chúng đến với Đức Giêsu. Nhưng ông còn phải vượt qua chính mình một lần nữa, khi chấp nhận thanh lọc cái nhìn của mình về Đấng Mêsia.
Mùa vọng là thời gian chờ đợi Chúa đến.
Ta nghĩ Chúa đến một cách ồn ào, oai phong lẫm liệt, thì Ngài lại đến cách âm thầm lặng lẽ.
Ta tưởng Chúa đến qua những đại lộ thênh thang, thì Ngài lại đến qua ngõ hẹp tăm tối.
Ta chờ Ngài những câu trả lời, còn Ngài lại đặt câu hỏi!
Xin cho chúng ta đừng đi tìm Ngài, khi Ngài đang ở kề bên.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa thích chơi ú tim với con người. Ta tưởng Ngài ở đây, thì Ngài lại ở kia. Ngài luôn vượt quá điều ta nghĩ về Ngài. Vậy theo ý bạn, làm sao gặp được Ngài?
Đức Giêsu đã kể ra những việc Ngài làm để cho thấy Ngài thật là Đức Kitô (x. Mt 11,5). Theo ý bạn, đâu là những việc bạn phải làm để cho thấy bạn là Kitô hữu thật sự?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Nguời là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
8. Lộ tẩy
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong lễ kỷ niệm tròn 30 năm ngày cha xứ nọ về với xứ đạo, một chính khách hàng đầu của địa phương được mời tới để đọc diễn văn.
Thế nhưng, vì ông ta đến muộn nên linh mục quyết định nói đôi lời với các giáo dân để kéo dài thời gian.
- Các con sẽ hiểu - cha nói - ta có ấn tượng đầu tiên về xứ đạo này kể từ khi ta nghe lần thú tội đầu tiên ở đây. Khi ta tới đây vào 30 năm trước, ta đã nghĩ rằng mình được bổ nhiệm đến một nơi cực kỳ tệ hại. Người đầu tiên tới phòng xưng tội kể cho ta nghe anh ta đã lấy cắp một cái tivi và khi cảnh sát tới anh ta đã giết người cảnh sát. Hơn thế nữa, anh ta thụt két từ nơi làm của mình và chim chuột với vợ của ông chủ. Các con có thể tưởng tượng là ta cảm thấy thế nào. Nhưng ngày tháng trôi qua, ta dần hiểu rằng không phải tất cả mọi người đều như vậy, và ta có một giáo xứ tốt với toàn những người đáng yêu và dễ thông cảm.
Ngay khi linh mục vừa dứt lời thì chính trị gia tới, xin lỗi vì đã đến muộn. Ông ta ngay lập tức thực hiện bài nói chuyện của mình.
- Tôi sẽ không bao giờ quên ngày đầu tiên vị linh mục đã tới giáo xứ này. - Chính trị gia nói. - Bởi vì, tôi có vinh dự là người đầu tiên đến xưng tội với ngài...
Thật xấu hổ khi tội của mình bị phanh phui trước toàn dân thiên hạ. Thế nhưng, xét cho cùng ai mà không có những lầm lỗi. Ai cũng có những yếu đuối. Ai cũng có những lầm lỡ. Ai cũng từng sống trong tâm trạng hối tiếc về những việc mình đã làm. Có điều chúng ta ít xấu hổ vì người ngoài không biết. Chúng ta thường rất khôn khéo trong việc che đậy tội lỗi mình. Chúng ta tự an tâm trong vẻ giả tạo bề ngoài của mình. Nhưng, dù sao nếu không sống thật với bản thân, con người cũng không bao giờ bình an hạnh phúc, chỉ có sám hối chân thành mới mang lại niềm vui tâm hồn.
Chúa nhật III mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng. Đây là Chúa nhật của niềm vui vì giờ cứu độ đã gần tới. Giờ của hân hoan, của hy vọng vì đã tới ngày Thiên Chúa viếng thăm dân Người. Ngài đến không phải để kết án. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài là Thiên Chúa của yêu thương vì khi Người đến mắt người mù sẽ nhìn thấy, tai người điếc được nghe, người câm nói được và người què nhảy nhót như nai. Ngài là hoàng tử của bình an và hoan lạc. Ngài đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Ngài giúp con người khống chế những thói hư tật xấu để sống tràn đầy niềm vui và bình an.
Gioan đã làm chứng về Ngài khi mời gọi dân Người sửa lại lối sống cho phù hợp với tin mừng. Gioan mời gọi dân người sám hối và canh tân đời sống. Chính Gioan đã sống một đời chứng nhân khi ông rời xa chốn đô hội thị thành để sống trong hoang địa ăn chay nhiệm nhặt. Gioan trở thành mẫu gương cho những người công dân Nước trời khi ông để Chúa lớn lên còn mình thì nhỏ bé lại.
Xin Chúa cho chúng ta luôn hưởng trọn niềm vui khi dám nói không với tội lỗi. Xin giúp chúng ta biết sám hối ăn năn về những lầm lỗi của mình và quyết tâm canh tân đời sống cho phù hợp với tin mừng. Chớ gì chúng ta luôn tràn ngập niềm vui khi để Chúa lớn lên trong ta và loại bỏ những thói hư tật xấu ra khỏi cuộc đời chúng ta. Amen.
9. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến
(Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)
1. Gioan dọn đường
Bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy Giả xuất hiện, rao giảng và làm phép rửa sám hối để dọn đường cho Đấng Thiên Sai sắp đến, như lời ông tự giới thiệu :“Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối; Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”(Mt 3,11). Sứ điệp của ông về sự hoán cải thật đanh thép và minh bạch: “Lưỡi rìu đặt sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10); “Người sẽ cam nia rê lúa, thóc tốt sẽ thu vào kho và lúa lép sẽ quăng vào lửa” (Mt 3,12). Theo ông, Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường sẽ xuất hiện như vị thẩm phán chí công: tiêu diệt sự dữ, trả lại công bình cho những kẻ bị ức hiếp, cứu thoát những ai khốn khổ và khai mở thời cánh chung tràn trề hoan lạc, như Isaia đã từng loan báo (Is 35, 1-6.10). Ông nhiệt thành rao giảng và sung sướng chờ đón ngày ấy chóng đến ! Và này, Chúa Giêsu xuất hiện. Ông đã làm chứng về Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34), là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,36) và chỉ cho mọi người biết đó chính là Đấng mà ông đã loan báo (Ga 1,29). Sau đó, ông bị bỏ tù (Mt 11,2) vì đã can đảm làm chứng cho sự thật khi can ngăn nhà vua Hêrôđê Agrippa không được lấy vợ của anh mình là Philippê (Mt 14,3-12). Sứ vụ dọn đường của Gioan chấm dứt với việc ông vào tù, để bắt đầu sứ vụ của Chúa Giêsu với việc Người chịu phép rửa và được tấn phong Mêsia ngôn sứ và vương đế (x. Lc 3,19.21). Giai đoạn chuẩn bị kết thúc với Gioan Tẩy Giả, mở ra giai đoạn mới: Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng và rao giảng Nước Thiên Chúa.
2. Chúa đã đến
Thật khác xa với những gì mà Gioan đã quan niệm vì Chúa Giêsu đến không phải để đoán phạt nhưng để cứu chữa những gì hư mất; Người không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt 9,13). Người chính thật là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã từng loan báo, như chính Người, trong buổi khai mạc sứ vụ tại Hội đường Nadarét, đã áp dụng cho mình sấm ngôn Isaia chỉ về Đấng Thiên Sai(Lc 4,16-21). Người quan tâm và yêu thương hết mọi người, đặc biệt những người khó nghèo và tội lỗi là những hạng người bị xã hội ruồng rẫy và bỏ rơi. Người chữa lành các bệnh nhân; và mỗi khi chữa lành bệnh phần xác, Người quan tâm hơn đến việc chữa trị tâm hồn, nghĩa là giải thoát họ khỏi sự thống trị tội lỗi và đưa vào đời sống ân tình với Thiên Chúa và tha nhân. Người hiền lành, khiêm tốn và hết tình phục vụ: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình”. Mọi người từ khắp nơi tuôn đến để nghe Người giảng dạy và để được Người chữa lành các thứ bệnh tật.
3. “Ông có phải là Đấng phải đến...?”
Ngồi trong tù, Gioan vẫn hướng lòng về Đấng Thiên Sai và chờ đợi thời mới. Khi được nghe biết về những hoạt động của Chúa Giêsu, ông cảm thấy băn khoăn và hoang mang. Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường phải là Đấng đến để tiêu diệt sự dữ, tái lập trật tự công lý và khai mở thời cánh chung. Đàng này Chúa Giêsu mà ông đã từng làm chứng và chỉ cho mọi người biết lại cư xử hiền hoà, khiêm tốn, yêu thương và tha thứ. Ông sai các đồ đệ đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng phải đến, hay còn phải đợi một Đấng khác.
Gioan nóng lòng chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng lại là một Mêsia theo quan niệm của các ngôn sứ thời chuẩn bị, đồng thời cũng là quan niệm của người đương thời về một Mêsia chính trị, đến để phục hưng dân tộc. Còn Chúa Giêsu, Người xác nhận mình là một Mêsia mà các ngôn sứ đã từng loan báo: rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành các bệnh tật, xua trừ ma quỷ ...., nhưng không phải là một Mêsia theo quan niệm chính trị, mà là một Mêsia đến thiết lập vương quốc sự thật và yêu thương bằng năng lực tình yêu và phục vụ, một Mêsia cứu độ nhân loại bằng con đường đau khổ của người Tôi trung. Và đó chính là điều gây cớ vấp phạm cho nhiều người như ông Simêon đã từng loan báo ngày Đức Maria dâng trẻ Giêsu vào Đền Thờ (Lc 2,34). Cách trả lời gián tiếp của Chúa Giêsu vừa là một trấn an Gioan, đồng thời xác định cho ông biết Chúa Giêsu thực hiện công cuộc cứu độ nhân loại không phải bằng con đường vinh quang, nhưng bằng con đường thương khó và tử nạn như Isaia đã loan báo về người Tôi trung (Is 52,13-53,12). Cần nhìn vào các việc Người đang làm mà coi đó như là những dấu chỉ để có thể nhận ra Người là Đấng Mêsia.
4. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến
Trong một thời đại mà xem ra sự dữ đang lấn lướt, công lý không được tôn trọng, người công chính thường bị ghét bỏ và thua thiệt. Người tín hữu mong chờ Chúa đến để tiêu diệt sự xấu và kẻ gian ác, thiết lập lại trật tự công bình, và khai trương thời đại mới. Đó cũng chính là điều mà Gioan hằng nóng lòng chờ đợi. Thế nhưng, Thiên Chúa đã mạc khải Ngai là Thiên Chúa hay thương xót, chậm giận và không chấp tội (Xh 34,6-7). Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng yêu thương và tha thứ. Người thiết lập vương quốc tình yêu bằng sự phục vụ và tình yêu tự hiến. Vì thế, Người nhẫn nại chờ mong con người hoán cải để ban ơn tha thứ (Lc 13,6-9). Thánh Phaolô coi sự nhẫn nại là hoa trái của Thần Khí (Gl 5,20). Thánh Giacôbê khuyên dạy tín hữu hãy kiên nhẫn đón chờ ngày Chúa đến, như người nông dân mong chờ mùa gặt (Gc 5,7-10). Sự kiên nhẫn giúp thanh luyện và biểu lộ lòng trung thành, đồng thời tạo điều kiện và thời gian cho kẻ tội lỗi biết hồi tâm sám hối.
5. Người nhỏ nhất trong Nước Trời
Chúa Giêsu khen ngợi Gioan: “Trong số những người nam đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”(Mt 11,11). Gioan cao trọng vì ông là vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị cho Đấng Cứu thế, như sấm ngôn Malaki đã loan báo: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1). Không những dọn đường, Gioan còn nhìn thấy, làm chứng và chỉ cho người khác khi Đấng Cứu thế xuất hiện. Gioan đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, chấp nhận cuộc sống khắc khổ trong hoang địa, để chuẩn bị cho sứ vụ và để có thể toàn tâm toàn ý thực hiện sứ mệnh. Gioan đã can đảm làm chứng và sẵn sàng chết để bảo vệ sự thật.
Gioan cao trọng thế đó, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Dù cao trọng, Gioan vẫn còn là người đang đứng bên ngưỡng cửa Nước Trời, như Môsê xưa đứng ở ngưỡng cửa Đất Hứa. Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời cao trọng hơn ông vì được diễm phúc tham dự vào vương quốc do Chúa Giêsu thiết lập. Chỉ nhờ lòng tin mà người ta mới có thể gia nhập Nước Trời và cũng chính đức tin mới làm nên sự cao trọng đó, như bà Elisabeth đã từng khen ngợi Đức Maria: “Bà thật có phúc vì đã tin... ” (Lc 1,45).
10. Kiên nhẫn đợi chờ!
(‘Bước Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa quý vị, Mùa Vọng đã đi hơn nửa chặng đường, tâm tình Mùa Vọng cũng làm cho conngười trĩu nặng, bởi đặc tính của nó. Chúng ta thấy ngay tâm tình đó của Gioan Tiền Hô, người mang trọng trách loan báo Đấng Cứu Thế. Ông Gioan đang ngồi tù, chúng ta biết: “nhất nhật tù....”, chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh hiện tại của Gioan. Vâng, chính ông cũng nghĩ rằng: Đấng Cứu Thế sẽ đến trong uy quyền mạnh mẽ, một dũng lực siêu phàm, đánh tan những thế lực chống đối. Nhưng, ông thấy Đấng Cứu Thế, sao mà có vẻ yếu đuối thế, như vậy sứ mạng Tiền Hô của ông có lẽ sẽ mai một chăng? Thật vậy, Gioan đang mang tâm trạng của những ai chưa biết về Chúa Giêsu mà làm chứng về Người. Thật vậy, không ai có thể nói về Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần của Người. Thật vậy, đoạn Tin Mừng (Mt 11,2-11) hôm nay có thể chia làm 3 phần:
- Ông Gioan Tiền Hô muốn biết về Đấng Cứu thế (c 3)
- Chúa Giêsu khen Gioan (c 9- 11a)
- Chúa Giêsu mặc khải vể Nước Trời (11b -12).
Vâng, nhưng thật ra,điểm chính của đoạn Tin Mừng hôm nay là sự so sánh giữa hai nhân vật, chính là Gioan Tiền Hô và Đấng Cứu Thế.
Dù là rất thành công trong sứ mạng Tiền Hô của mình, nhưng Gioan là một phàm nhân do lòng mẹ sinh ra. Tuy nhiên, nhân vật Gioan hết sức khiêm tốn, ông luôn giữ đúng vị trí của mình, không mạo nhận là Đấng Cứu Thế. Bản thân ông không làm được những điều kỳ diệu. Vì vậy, khi nghe Chúa Giêsu làm những việc lạ thường, thì ông muốn xác định cho rõ ràng, để khỏi nhầm lẫn.Chính ông cũng như bao nhiều người khác, nghĩ rằng Đấng Cứu Thế xuất thân từ dòng dõi Vua Đavit, nghĩa là phải có binh hùng, tướng mạnh. Chứ không lặng lẽ, âm thầm đến độ “tầm thường” như vậy. Nên cho người đến hỏi thẳng Chúa Giêsu.Nhưng Chúa Giêsu không vỗ ngực xưng tên, mà là trả lời một cách: “cứ nhìn quả thì biết cây”. Vâng, và Chuá Giêsu đã trả lời cho môn đệ của Gioan bằng cánh nhắc lại lời của Isaia xưa: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” (c5).
Vâng! Đây chính là sự khác nhau giữa Đấng Cứu Thế và Gioan Tiền Hô. Và cũng chính vì vậy, mà Chúa Giêu đã khen Gioan, vì ông là người công chính, sự công chính của ông vượt trên mọi sự công chính của phàm nhân. Điều nầy không phải do công trạng của Gioan, mà là do chân lý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khen Gioan không phải vì Gioan,mà là do bởi chương trình Cứu Chuộc của Thiên Chúa. Vì chính Gioan muốn xác định Đấng Cứu Thế do chính bởi Đấng Cứu Thế.
Lại thêm một lần nữa, Chúa Giêsu mặc khải về Nước Trời, theo đó, Chúa nói: “kẻ nhỏ bé trên Nước Trời, thì còn cao trọng hơn Gioan...” (c 11b). Câu nầy không phải Chúa Giêsu muốn hạ bệ Gioan, mà là Chúa muốn xác định sự thật. Câu nầy có hai ý quan trọng:
1/ Cho muôn thế hệ hiểu về Nước Trời. Nước Trời là một điều gì đó mạnh mẽ hơn, cố gắng hơn và cam go hơn. Có nghĩa là Nước Trời là một sự phấn đấu không dừng. Vì thực sự Gioan không phải là siêu phàm, mà cũng chỉ là một phàm nhân. Nhưng “phàm nhân ấy” trổi vược trên thảy phàm nhân, phàm nhân trên hết phàm nhân. Những kẻ nhỏ bé trên Nước Trời là sự siêu phàm. Mặc nhiên siêu phàm thì hơn phàm nhân.
2/ Theo đó, Nước Trời dành cho những ai “mạnh sức”, vì phải chiến đấu cam go. Nhưng như thế, liệu có mâu thuẫn với sự nhỏ bé không? Thưa không, vì sao? Thưa vì, sự nhỏ bé về hình thể cũng như kích thước trên Nước Trời không giống như trần thế. Như gương Thánh nữ Teresa Hài Đồng chẳng hạn.
Và như vậy, vấn đề mà Gioan thắc mắc về Đấng Cứu Thế, đã được giải đáp qua câu Lời Chúa nầy.
Như vậy, ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay trình bày ý nghĩa của tâm tình Mùa Vọng tuần thứ III đó là:
Mong đợi Thiên Chúa, hay là mong đợi ơn Cứu Chuộc là một hành trình tiệm tiến. Tiến một cách dần dần theo Thiên định chứ không theo ý muốn của loài người.
Thiên Chúa đã hiện diện trong thế gian bằng mầu nhiệm Nhập Thể Hữu Hình, để thu về những linh hồn nhỏ bé trong Nước Trời. Theo đó, ngày quang lâm chung cũng như riêng của từng cá nhân sẽ đến, hoặc ngay hôm nay, hoặc ngày mai. Ngày mà Đấng Cứu Độ sẽ không đến như lần thứ I, mà là sẽ đến trong vinh quang của Thiên Chúa. Sự đợi chờ kiên nhẫn, là sự bình an của Thiên Chúa.
Tâm trạng của Gioan cũng là tâm trạng của người Dothai mang đợi ĐẤNG Cứu Chuộc đến. Lời giáo huấn của thánh Giacobe Tông Đồ (Gc 5, 7 -10) hôm nay, nhắc nhở cho chúng ta về sự kiên nhẫn đó. Sự kiên nhẫn đón chờ Chúa đến lần thứ II trong cuộc đời mỗi người, là một sự mong chờ đích thực vậy. Đây là một Mùa Vọng duy nhất.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến lần thứ I, mang lấy sự yếu hèn của nhân loại, đó là mặc lấy kiếp phàm nhân, để cứu chuộc phàm nhân. Từ hang đá Bethlehem, đến hành trình Nhập Thế ba mươi ba năm, và sau cùng chịu tử nạn trên Thập Gía. Ôi! Tất cả Hành Trình đó là để giải thoát con người khỏi tội lỗi. Xin Chúa thương ban cho con người biết nhận ra tình Chúa cao vời, mà đáp đền muôn một, bằng cách nhận ra tình Chúa đối với nhân loiại, để họ được sống và sống dồi dào. Amen
11. Hãy để việc làm minh chứng về Ta
(Lm. Ignatio Trần Ngà)
Chỉ có nếp sống yêu thương, phục vụ, hy sinh của các Kitô hữu mới chứng tỏ cho mọi người thấy họ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu.
Qua lời rao giảng của mình, ông Gioan đã từng loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ đến như là vị thẩm phán uy nghi đáng sợ; Ngài đến để xét xử và trừng trị nghiêm khắc những lỗi phạm của con người. Ông gióng lên những lời răn đe nẩy lửa: “Chiếc rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa… Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Ngài, lúa tốt thì cho vào kho, còn lúa lép thì đốt đi trong lửa không hề tắt” (Mt 3, 10.12).
Vậy mà từ bấy lâu nay, Gioan chưa từng thấy Chúa Giêsu trừng phạt bất cứ tội nhân nào; chưa thấy Ngài kê “rìu” để đốn hạ những “cây không sinh trái”; chưa từng thấy Ngài loại trừ phường gian ác như những thứ “lúa lép” và “thiêu đốt họ trong lửa không hề tắt”…
Ngoài ra, theo như mong đợi của dân Do-thái, khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ tiêu diệt quân thù, giải thoát những ai bị giam cầm tù tội… Vậy mà Chúa Giêsu đâu có đánh đuổi quân xâm lược Rô-ma, chưa thấy Ngài giải thoát kẻ bị xiềng xích tù đày…
Thế là trong tâm tư của ông Gioan phát sinh một nghi vấn. Vì vậy, ông phái các môn đệ đến gặp và hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Trước câu hỏi của Gioan, Chúa Giêsu không dùng lời nói nhưng dùng chính việc làm để minh chứng về mình, như có lần Ngài đã nói: “Công việc tôi làm nhân danh Cha tôi làm chứng về tôi (Gioan 5, 36).
Vì thế, Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ của Gioan thấy những việc Ngài đang làm và bảo họ: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng…”
Từ ngàn xưa, Ngôn Sứ I-sa-i-a đã tiên báo rằng khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ cho “người mù được thấy, người điếc được nghe, người què sẽ nhảy như nai…” (Is 35, 10…).
Gioan là người am hiểu lời các lời ngôn sứ tiên báo về Đấng Thiên Sai và thấy rằng Chúa Giêsu đã thực hiện đúng như lời ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên báo như trích dẫn trên đây, tất nhiên Gioan biết rằng Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai mà ngôn sứ I-sa-i-a đã loan báo.
Như vậy, chính việc làm của Chúa Giêsu minh chứng cho biết Ngài là Đấng cứu thế.
Hôm nay, người đời cũng thường chất vấn chúng ta như xưa kia, môn đệ của Gioan đã từng chất vấn Chúa Giêsu. Họ hỏi chúng ta: “Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giêsu không?”
Trước câu hỏi nầy, chúng ta không thể đáp gọn: “Phải, tôi chính là môn đệ của Thầy Giêsu”, vì một câu trả lời suông mà chẳng dựa trên cơ sở nào cả thì chẳng thuyết phục được ai.
Người khôn ngoan và thận trọng không dễ tin vào lời tự khẳng định của người khác nhưng căn cứ vào việc làm. Chính việc làm của từng người sẽ chứng tỏ cho người khác biết bản chất của người đó.
Thế thì, trước câu hỏi: “Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giêsu không”, chúng ta cần dựa vào câu đáp của Chúa Giêsu trước thắc mắc của các môn đệ Gioan, (Ngài nói: “Hãy về thuật lại cho ông Gioan những gì tôi đã làm…”) để đáp lại như sau: “Các bạn hãy xem công việc tôi làm… Các bạn cứ nhìn vào lối sống của tôi thì biết…
Đúng vậy, chỉ có nếp sống yêu thương, phục vụ, hy sinh của các Kitô hữu mới chứng tỏ cho mọi người thấy họ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu, như Lời Ngài dạy: “Người ta cứ dấu nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Gioan 13, 35).
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết sống thế nào để cho việc làm của chúng con không tố cáo chúng con là người môn đệ giả, nhưng luôn minh chứng cách thuyết phục rằng chúng con đích thực là môn đệ chân chính của Chúa. Amen.
12. Anh em hãy vui lên
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta: «Hãy tỉnh thức» (Mt 24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chúa nhật thứ III hôm nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay, đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng được đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), Giáo hội mời gọi con cái mình «Gaudete» Hãy vui lên.
Vui lên, vì theo tiên tri Ôsê loan báo: "Với Ít-ra-en Đức Giêsu sẽ như làn sương mai làm nó vươn lên như bông huệ" (Os 14, 6). Chúng ta tỉnh thức, làm việc lành chứng tỏ lòng thống hối nhưng không buồn rầu, trái lại vui tươi "anh em hãy vui luôn trong Chúa...vì Chúa đã gần đến" (Ph 4,4-5). Với những lời trên của Thánh Phaolô Tông Đồ làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Niềm vui này nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với con người sinh động là Chúa Giêsu.
"Gaudete" là chủ đề của Chúa nhật này; " Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên!" (Ph 4,4-5). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: "Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề".
Chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ: "Các tầng trời, hãy trổ hoa công chính, và ngàn mây hãy mưa ơn cứu độ! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng! Hãy cất tiếng cao đừng sợ, hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực" (Is 40, 9).
Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: "Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." (Is 35, 4) Và làm sao không thể không mừng khi "nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nẩy chồi non và hoan hỉ vui mừng" (Is 35, 1). Lại nữa: "Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa" (Is 35, 6).
Đọc Trang Tin Mừng, chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Ngài được các tiên tri báo trước: "Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho con đi" (Mt 11, 10). Chúng ta đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa đã trở thành hiện thực. Việc ngài sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng phải đến không cho chúng ta câu trả lời đầy niềm vui vì Chúa đã đến thật rồi.
"Gaudete" Hãy vui lên, chúng ta lặp lại lời thánh Phaolô lần nữa: "Anh em hãy vui lên!" (Ph 4,4). Niềm vui chân thực không phải là kết quả sự vui chơi giải trí, nhưng gắn liền với một cái gì sâu xa hơn, đó là quan hệ với Thiên Chúa. Ai đã gặp được Chúa Kitô trong cuộc đời, người ấy sẽ cảm nghiệm sự thanh thản và niềm vui trong tâm hồn mà không một ai hoặc hoàn cảnh nào có thể tước mất. Thánh Augustinô đã hiểu điều đó rất rõ. Trong cuộc tìm kiếm của ngài đối với chân lý, an bình và mừng vui, sau khi đã kiếm tìm trong nhiều sự mà không có kết quả, thánh nhân đã kết luận với câu thời danh rằng: "Tâm hồn bất an của con người chỉ tìm được thanh thản và an bình cho đến khi được an nghỉ trong Chúa" ( Le Confessioni, I,1,1). Niềm vui đích thực không phải chỉ là một tâm trạng chóng qua, cũng chẳng phải là điều ta đạt tới bằng sức riêng của mình, nhưng là một hồng ân, nảy sinh từ sự kiện ta dành chỗ cho Chúa trong chúng ta, Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và tiếp tục đổi mới sự hiện diện an ủi, yêu thương và vui mừng của Ngài. Chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài: "Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình" (Le Confessioni, III, 6,11).
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Đức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Đấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
13. Vững tâm
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Vào một ngày đẹp trời, có một ông cụ ngồi trên ghế xích đu vẻ đăm chiêu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ một bé gái tung banh rơi vào sân nhà ông. Cô bé chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen: “Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên ghế này, ông đang chờ đợi ai vậy?” Ông nói: “Cháu còn quá nhỏ làm sao hiểu được điều ông mong đợi.” “Ông à, mẹ cháu nói rằng nếu có điều gì trong lòng, thì hãy nói ra mới hiểu rõ hơn.” Nghe cô bé nói thế, ông liền thổ lộ tâm tình: “Ông đang chờ đợi Chúa đến.” Cô bé kinh ngạc, ông già giải thích: “Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa hiện hữu. Ông cần một dấu hiệu, cháu à.” Bấy giờ cô bé lên tiếng: “Ông chờ một dấu hiệu hả? Thưa ông, Chúa đã cho ông dấu hiệu rồi: Mỗi khi ông hít thở không khí, nghe tiếng chim hót, nhìn hạt mưa rơi… Chúa cho ông dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ và trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu. Chúa luôn hiện diện nơi đây.”
Thiên Chúa vô hình hiện diện mọi nơi và trong mọi lúc. Thiên Chúa luôn đồng hành với dân Ngài đã chọn để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Mầu nhiệm về Thiên Chúa Ngôi Hai được hé mở từng bước. Trải qua lịch sử cứu độ, dân chúng luôn khao khát mong chờ một chung cục được tự do giải thoát. Qua từng giai đọan, Thiên Chúa đã sai các tiên tri đến kêu gọi lòng trung tín, sự phấn chấn và khuyến khích hướng dẫn dân chúng. Tiên tri Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan.” (Is 35,1). Hình ảnh cảnh hoang địa trơ trọi, khô cằn và cạn nguồn mong đợi suối nguồn sự sống. Isaia khơi lên tia hy vọng của sự vui mừng và hân hoan. Dân Chúa phải trải nghiệm nhiều thăng trầm khổ ải qua các thế hệ để mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Isaia loan báo: “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.” (Is 35,4).
Trong bất cứ một dự kiến nào muốn đạt kết quả tốt, chúng ta đều phải kiên nhẫn đợi chờ mọi sự diễn tiến. Vấn đề niềm tin sống đạo cũng thế, chúng ta không thể cắt bớt thời gian. Sự gì đến ắt sẽ đến. Thánh Giacôbê nhắc nhở các tín hữu: “Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu.” (Gc 5,7). Hình ảnh của bác nông phu nơi ruộng rãy cày bừa và trồng trọt là hình ảnh rất đẹp và chính xác. Chính xác cả về phẩm lẫn lượng, cả về thời gian và không gian. Kiên nhẫn đợi chờ là một đức tính tốt trong đời sống đạo. Mọi sinh họat của đời sống Giáo Hội trên trần thế cần phải được thử thách, tôi luyện để phát triển và trưởng thành. Thời gian là của Chúa. Mầu nhiệm ơn cứu độ được lồng vào đời sống của con người theo sự phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Chúng ta không thể đi những bước nhảy vọt trong cuộc sống đạo nhưng phải kiên trì phấn đấu từng bước.
Sự kiên tâm sống đạo đòi hỏi mỗi tín hữu phải cố gắng không ngừng. Mời gọi tu tâm luyện tính và tập tành các nhân đức trong đời sống hằng ngày. Đời sống đạo, nếu chúng ta không gieo, lấy gì mà gặt. Trong Giáo Hội có biết bao nhiêu dòng tu, tu hội và hội đoàn, các tu sĩ nam nữ miệt mài thanh luyện đời sống trong cầu nguyện và tu thân để nên trọn lành. Là người tín hữu cũng thế, chúng ta cần trải nghiệm những thử thách, phấn đấu, kiên trì sống đạo và hành đạo. Không hy sinh khổ luyện, làm sao có thể vững bước trên đường nhân đức. Chúng ta đừng nhẹ dạ để rơi vào những hình thức kéo lôi phù phiếm và cảm xúc nhất thời. Muốn được lãnh nhận ân sủng của Chúa, chúng ta cần chuẩn bị tâm hồn thanh sạch, sống đời ngay thẳng và thực hành tin yêu. Nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào những nghi thức bề ngoài thì không thể sinh hiệu quả biến đổi nội tâm. Trong hiện tại có nhiều khuynh hướng hành đạo giống như kiểu ‘mì ăn liền’. Họ nghĩ rằng cứ thực hành đủ các thủ tục nghi thức là đương nhiên sẽ nhận ân sủng nhãn tiền. Sự kiên trì tin đạo, sống đạo và hành đạo trưởng thành đòi hỏi niềm tin và cam kết nhiệt thành. Chúng ta cần vun xới và củng cố lòng tin qua mọi biến cố cuộc đời.
Ông Gioan Tẩy Giả đang bị giam giữ cũng nóng lòng muốn biết Chúa Giêsu có chính thật là Đấng Cứu Thế hay không. Ông sai môn đệ đến thưa Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” (Mt 11,2). Ông Gioan muốn các môn đệ của mình nhận biết Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa không chỉ cho riêng ông Gioan, nhưng cho các môn đệ của ông. Các ông đã an tâm nhận diện ra sứ mệnh và vai trò của Chúa Giêsu trong công cuộc cứu độ qua các dấu chỉ: Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.” (Mt 11,4-5). Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời mà các tiên tri đã loan báo về Ngài.
Các dấu hiệu từ trời cao với quyền năng của Chúa đã đem lại hiệu qủa thực sự biến đổi môi trường và chữa lành toàn diện con người. Suốt dọc lịch sử nhân loại, từ tạo thiên lập địa, ngoài Chúa Giêsu Kitô, không có vị nào có thể trực tiếp thực hiện các phép lạ từ chính sức mạnh nội tâm của mình. Biết rằng đôi khi Thiên Chúa cũng trao ban các đặc sủng cho một số vị tổ phụ và các thánh như Thánh Gioan Vianney, Piô Năm Dấu quê ở Pietrelcina, Antôn Pađua, Vinh Sơn Ferrier…, các ngài có thể thực hiện một số việc lạ lùng trong giới hạn. Các thánh sống là những người có đời sống kết hợp sâu xa, chuyên tâm ăn chay, cầu nguyện và chìm đắm trong ân sủng của Chúa. Những trường hợp có sự lạ ngoại thường này cũng rất hiếm xảy ra trong đời sống Giáo Hội. Các phép lạ của Chúa Giêsu là dấu chỉ của Tin Mừng cứu độ. Tuy nhiên, qua mọi thời, đều có những người tự thần thánh hoá chính mình để chiêu hồn người khác. Họ cũng không khác gì các tiên tri giả và những nhà làm ảo thuật đại tài dùng kỹ xảo để dễ dàng qua mắt mọi người. Chúng ta phải luôn cảnh giác và tỉnh thức học hỏi kỹ lưỡng những hình thức mị dân này. Họ không phải là Chúa có uy quyền biến đổi chữa lành thân xác và linh hồn, mà chỉ có thể tạo gây cảm giác thân, sinh, lý và xúc động tâm linh nhất thời chóng qua.
Chúa Giêsu xác nhận Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô dọn đường: “Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: ‘Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con.’” (Mt 11,10). Gioan được vinh dự giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Biết bao người đã nghe Chúa giảng, gặp gỡ và nhận lãnh các dấu lạ nhưng có mấy người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Trong đám đông theo Chúa, có người chỉ tò mò nhìn xem cho biết, có người chỉ muốn được nhận lãnh ân huệ và có người ùa theo đám đông vì hiếu kỳ. Đâu có mấy người thực sự muốn đi theo Chúa để thực sự đổi đời và canh tân cuộc sống. Xưa cũng như nay, tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì dân Dothái xưa. Chúng ta nghe, đọc, viết và suy gẫm thật nhiều lời của Chúa, các giáo huấn của Giáo Hội và chứng kiến biết bao sự lạ lùng trong cuộc sống nhưng mấy ai tin theo Chúa cho trọn.
Lạy Chúa, đời sống đạo của chúng con hầu như vẫn cứ dậm chân tại chỗ. Tinh thần thì nguội lạnh và mệt mỏi, còn thân xác nặng nề và yếu đuối kéo lôi chúng con lùi bước. Chúng con chỉ tìm kiếm sự hơn thua ở đời trọc này mà quên đi sứ mệnh cao cả là mong tìm ơn cứu độ. Thánh Giacôbê nhắc nhở: “Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa.” (Gc 5,9).
14. Bạn đang vui hay đang buồn?
(“Tin Vui Xuân Lộc”)
Thưa quý OBACE
Cuộc sống xã hội ngày hôm nay đang quá ồn ào náo nhiệt, mọi hình thức vui chơi được bày ra để lôi kéo các tầng lớp trong xã hội, từ những trò chơi game show dành cho mọi lứa tuổi, đến các hình thức tụ điểm vui chơi thu hút giới trẻ, các khu du lịch, các câu lạc bộ… tất cả đểu muốn đem lại niềm vui cho con người. Nhưng điều đó lại chứng tỏ rằng cuộc sống ngày nay có quá đầy đủ vật chất, nhưng dường như con người vẫn cảm thấy buồn sầu, lo âu. Vì cuộc sống quá buồn tẻ trống rỗng nên dẫn đến tình trạng đánh bài cho vui, uống rượu cho vui và nhiều cách chơi bời tìm vui khác, thế nhưng sau những cuộc vui ấy, người ta lại càng cảm thấy mình trống rỗng và buồn chán hơn.
Hôm nay bước vào tuần lễ thứ ba Mùa Vọng Lời Chúa mời gọi mọi người: Hãy vui lên anh em, tôi nhắc lại một lần nữa anh em em hãy vui lên. Lời mời gọi này có dư thừa hay không?
Những niềm vui mà ngày nay xã hội đang tạo ra, nó chỉ là những thứ niềm vui ồn ào ở bên ngoài, đôi khi có một chút ảnh hưởng đến cảm giác và cảm xúc của con người, những niềm vui này sẽ mau chóng tan biến khi cuộc vui đã tàn. Còn niềm vui của của Chúa đem đến là niềm vui sâu xa phát xuất từ bên trong tâm hồn được lan tỏa ra bên ngoài và có ảnh hưởng trên hành động của con người. Với niềm vui phát xuất từ trong tâm hổn, nó sẽ làm cho con người được hạnh phúc và bình an, cho dù bên ngoài có đang gặp nghịch cảnh.
Tiên tri Isai giới thiệu cho chúng ta một niềm vui, đó là niềm vui được giải thóat, được cứu độ. Bằng rất nhiều hình ảnh, tiên tri Isai đã gợi lên cho chúng ta thấy, ngày Thiên Chúa đến, Ngài sẽ giải thoát và biến đổi chúng ta khỏi sư khô cằn chết chóc, như hoang địa đón được mưa trời, như cây cối vũ trụ mong chờ mùa xuân sau một mùa đông băng giá và nhanh chóng sẽ trổ sinh hoa lá mới và đem lại hương sắc và hồi sinh cho trái đất, thì ngày Thiên Chúa đến, Ngài cũng sẽ biến những tâm hồn khô cằn thành mảnh đất màu mỡ, biến cuộc đời héo tàn trổ sinh hoa lá mới.
Tiên tri còn cho thấy niềm vui sâu xa mà Thiên Chúa mang đến, đó chính là niềm vui vì có sự hiện diện của Chúa trong mỗi tâm hồn, có Ngài, Ngài sẽ ban sức mạnh để chúng ta không còn sợ hãi, Ngài sẽ giải cứu con người khỏi sự ràng buộc của đau khổ bệnh tật và chết chóc, là những thứ vốn gây lo âu buồn sầu cho con người. Thiên Chúa cũng sẽ tái lập lại sự công bình cho xứ sở, Ngài sẽ mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc, chân người què sẽ được chữa lành, và mọi người sẽ sung sướng hò reo, đó là niềm vì Thiên Chúa sẽ đổi mới mọi sự.
Bài Tin Mừng chỉ cho chúng ta một khía cạnh khác của niềm vui sâu xa trong tâm hồn đó là chúng sẽ cảm nhận niềm vui vì đã sống đúng với ơn gọi và hoàn tất sứ mạng của mình. Câu chuyện xảy ra là khi Gioan đang bị cầm tù, ông nghe nói về Đức Giêsu, ông sai các môn đệ đến hỏi Chúa: Thày có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi phải đợi ai khác? Có lẽ không phải Gioan nghi ngờ về vai trò Chiên Thiên Chúa của Đức Giêsu, nhưng vì có lẽ vì ông sốt ruột muốn sớm nhìn thấy ngày Đức Giêsu tỏ vinh quang là một vị Thiên Chúa, và hơn nữa, ông cũng muốn cho các môn đệ của ông được gặp gỡ tiếp xúc với chính Đức Giêsu, để nhờ cuộc gặp gỡ này họ sẽ có kinh nghiệm và niềm vui gặp gỡ với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ của Gioan: Các anh hãy về và nói với Gioan những gì đã xem thấy: người què được đi người mù được sáng. Khi nói như thế, thì chắc chắn Gioan sẽ hiểu được lời tiên tri Isai nói về thời đại của Đấng Mêsia nay đã đến. Như thế, dù thân xác có bị cầm tù thì Gioan vẫn vui vì sứ mạng dọn đường của ông đã hoàn tất.
Nói về Gioan Tẩy giả, Chúa Giêsu đã ca ngợi ông và còn cho thấy nơi Gioan như một con người có một tâm hồn thật đẹp, một tâm hồn thanh thoát không bị dính bén lệ thuộc vào của cải vật chất và danh vọng. Gioan đã chọn một cuộc sống nhiệm nhặt nghèo khó, thay vì tìm kiếm sự xa hoa thì ông lai lui vào sống nơi hoang địa, Vì thế Gioan vui với nhiệm vụ của mình, với sứ mạng của mình. Ông vui vì ông biết điểm dừng của mình, cho dù có lúc dân chúng tuốn đến với ông rất đông, có lúc người ta đã coi ông như là đấng Mêsia, thế nhưng Gioan không ảo tưởng về mình, nên ông chấp nhận rút lui để nhường chỗ cho Ngài phải lớn lên còn tôi thì nhỏ lại. Gioan đã biết lui vào hậu trường và vui vì mình đã cống hiến, đã hoàn thành nhiệm vụ thay vì tìm kiếm danh vọng quyền lực; kể cả những môn đệ cuối cùng của mình Gioan cũng không muốn giữ lại để họ phục vụ ông, mà hôm nay ông đã giới thiệu họ đến gặp Đức Giêsu, và để họ có những kinh nghiệm về Đức Giêsu và nên môn đệ Đức Giêsu.
Thưa quý OBACE, như thế, giữa một cuộc sống buồn chán tẻ nhạt hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta vui, không chỉ vì những vẻ từng bửng bên ngoài, cũng không chỉ là những cảm xúc vì bầu khí lễ Giáng sinh đang tới, mà Giáo Hội muốn chúng ta vui với niềm vui phát xuất từ trong tâm hồn, niềm vui vì nhận ra sự hiện diện và đồng hành của Chúa, niềm vui vì chúng ta là những người được Chúa cứu độ, và vui vì chúng ta chu toàn nhiệm vụ Chúa trao. Đó mới là niềm vui đích thật và chỉ có niềm vui đích thật này mới làm cho cuộc sống chúng ta tươi vui, hạnh phúc.
Trong bầu khí của năm Gia đình sống và Loan báo tin Mừng, trước hết các bậc làm cha mẹ được mời gọi hãy sống vui trong bổn phận là vợ chồng, là cha mẹ của mình. Nhiều gia đình ngày nay đã trở nên nhàm chán buồn bã, để có thể tìm lại niềm vui thì cha mẹ sẽ phải là những người sống niềm vui mà hôm nay Lời Chúa đã chỉ cho chúng ta, và làm cho niềm vui này lan tỏa trong gia đình. Hãy vui vì chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, hãy đem Chúa vào trong đời sống của gia đình qua các giờ kình sớm tối, qua những phút cầu nguyện trước bữa ăn mỗi ngày hãy làm việc hằng ngày trong sự hiện diện của Chúa, vì có Chúa luôn ở bên chúng ta. Rượu chè, cờ bạc, cá độ không thể giải sầu, không thể đem lại niềm vui, vì thế đừng tìm vui trong rựou, đừng giải sầu trong bài bạc, vì những thứ đó chỉ đem đến bất hòa và đổ vỡ, chứ không thể đem đến niềm vui và bình an. Hãy đem đến cho vợ chồng con cái những nụ cười thay những chửi bời, các người vợ hãy dùng sự hiền hòa khả ái của một người nữ mà đem lại hơi ấm niềm vui cho gia đình.
Cũng vậy nhiều bạn trẻ ngày nay đang lao vào những cuộc vui của xã hội bày ra, nhưng càng lao vào càng thấy mình trống rỗng, và mất phương hướng. Các tụ điểm vui chơi sẽ không bao giờ đem lại niềm vui đích thực trong tâm hồn, mà nó chỉ đem đến sự bất an và chán nản, nó sẽ làm cho các bạn mất phương hướng nếu cứ cắm đầu chạy theo nó. Các bạn hãy tìm kiếm niềm vui đích thật nơi Đấng Cứu thế là Đức Giêsu, hãy chọn Ngài và để Ngài lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn trẻ của chúng ta. Hãy sống cho có ý nghĩa, đừng bỏ phí thời giờ và tuổi trẻ, các bạn chỉ có thể vui khi biết dùng tuổi trẻ của mình để phục vụ Chúa và giáo Hội, và mọi người, tức là sống chu toàn nhiệm vụ Chúa đang trao cho mỗi người.
Nhưng quan trọng hơn nữa chúng ta chỉ có thể vui và bình an khi tâm hồn chúng ta sạch tội, không bị sự ràng buộc của đam mê dục vọng, không bị cắn xé dày vò của lương tâm, hãy đến với lòng thương xót chúa qua Bí tích Giải tội, và hãy đón rước Chúa vào tâm hồn qua việc rước lễ thì tâm hồn chúng ta sẽ có một niềm vui đích thực dù bề mặt cuộc sống có nhiều phong ba thì tận đáy tâm hồn chúng ta vẫn vui và bình an.
Có người nói rằng tại sao bây giờ con người hay gây gỗ với nhau? Thưa vì tâm họ hồn họ bất an. Như thế chỉ khi tâm hồn chúng ta vui và bình an, thì chúng ta mới có thể trở thành người đem Tin Mừng Bình an đến cho người bên cạnh được, bằng không chúng ta chỉ có thể đem bất an và xung đột mà thôi. Amen.
15. Đấng phải đến
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Gioan Tẩy Giả là một nhân vật quan trọng của Mùa Vọng. Trong Tin Mừng Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe Gioan Tẩy Giả loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến là một Thẩm Phán chí công, thưởng phạt nghiêm minh. Ngày Đấng Cứu Thế đến sẽ là một ngày kinh hoàng đối với những người gian ác, tội lỗi, không chịu hối cải.
Nhưng rồi, khi Chúa Giêsu đến, Gioan Tẩy Giả đã thất vọng, vì ông chẳng thấy có gì là kinh hoàng như ông đã loan báo trước. Đang lúc đó chính Gioan Tẩy Giả lại phải ngồi tù, vì đã ăn ngay nói thẳng. Thật là trớ trêu!
- Gioan Tẩy Giả đã loan báo sai chăng?
- Hay là Chúa Giêsu chưa phải là Đấng Cứu Thế thực sự phải đến mà còn phải chờ đợi ai khác nữa?
Gioan sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một lần cho rõ: Xin Thầy nói thật cho chúng tôi: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác nữa?”. Để trả lời Gioan và các môn đệ, Chúa Giêsu đã mượn lời Ngôn sứ Isaia loan báo về Đấng Cứu Thế: “Người mù được thấy, người què được đi, người phong hủi được sạch, người điếc được nghe, người chết sống lại…”.
Thì ra Chúa Cứu Thế đến “không phải để xét xử luận phạt, nhưng để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư hỏng”. “Ngài đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi sinh hoạt ăn năn”. “Ngài đến để cho con người được sống và được sống dồi dào”. “Và Ngài còn đến không phải để được người ta hầu hạ phục vụ, nhưng để phục vụ và thí mạng sống cứu chuộc loài người”.
Bao lâu còn quan niệm như Gioan Tẩy Giả, còn chờ mong Chúa đến can thiệp kiểu vua chúa trần gian để áp đặt một quyền lực, chúng ta sẽ mãi mãi ảo vọng. Trong khi Gioan Tẩy Giả và dân Do Thái mong một Đấng Cứu Thế đến tái lập uy quyền và vinh quang Thiên Chúa, thì Thiên Chúa lại chỉ mãi lo cho vinh quang của con người, ưu tiên cho những con người bị coi rẻ nhất: người mù, người què, người điếc, là những hạng người phải ăn mày để sống, ăn mày sự sống với những người quyền thế giàu có vẫn coi thường khinh bỉ họ, và nắm quyền sinh tử trên họ. Ngài coi đó là trả lại sự sống cho hạng người sống mà như chết dở, những người cùi hủi, những người bị khinh tởm, bị xua đuổi khỏi xã hội, chỉ được sống trong những nấm mồ hoang giữa người chết.
Ngày xưa, khi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, các luật sĩ và cả vua Hêrôđê và dân thành Giêrusalem đã không nhận ra Chúa Cứu Thế, vì họ quan niệm Chúa Cứu Thế phải đến trong oai phong lẫm liệt, phải sinh ra ở lầu son gác tía, chứ không phải ở chuồng bò.
Chúa Cứu Thế phải xuất hiện trong cung cách như thế đó. Chúng ta ngày nay phải hết sức tỉnh táo mới khỏi đón hụt mất Chúa Cứu Thế. Bởi vì, vẫn như ngày nào, Chúa đang hiện diện ở giữa chúng ta; không ồn ào giữa hàng lũ người tuỳ tùng hầu hạ kiểu vua chúa phong kiến, mà ẩn mình trong thân phận những con người nghèo đói, ốm đau, bệnh tật… Vẫn như ngày nào và sẽ mãi mãi cho đến tận thế. Ngài không dạy chúng ta đón nhận Ngài bằng bất cứ một hình thức nào khác hơn là đón nhận chính con người anh em, những người bé nhỏ, đói khát, mình trần thân trụi, không nhà không cửa, ốm đau bệnh tật, tù đày… Vì vậy, nếu không hết sức tỉnh táo, chúng ta sẽ đón hụt mất Ngài.
Anh chị em thân mến, Hai ngàn năm rồi, Chúa đã đến, nhưng cũng còn những người vãn đang mong chờ một Chúa Cứu Thế khác sẽ đến, chứ Ông Giêsu này không phải là Chúa Cứu Thế. Thậm chí có cả những người Công Giáo cũng nghi ngờ Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế của họ. Bởi vì, tại sao Chúa cứ bắt tôi phải đói khổ, bệnh tật? Tại sao Chúa không trừng trị địch thù, những bọn gian ác? Chúng tôi phải chờ một Đấng Cứu Thế khác. Ngài sẽ đến thanh trừng với bạo lực, thống trị với quyền năng hiển hách như lời các ngôn sứ loan báo.
Chúa Giêsu Kitô chính là “Đấng phải đến”. Ngài đã đến rồi. Đó là niềm tin của chúng ta hôm nay như đã là niềm tin của Thánh Phêrô. Ngài nói: “Ngoài Đức Giêsu ra, dưới bầu trời này, ơn cứu độ chúng ta không có ở một người nào khác, không có một ai khác có khả năng cứu độ chúng ta” (Cv 4,12).
Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đã đến, đã chết để cứu chuộc chúng ta, đã sống lại và đang sống ở giữa chúng ta. Ng đã giải phóng chúng ta và bao nhiêu con người khác đang bị giam cầm trong tội lỗi. Chúng ta hãy vui mừng vì chúng ta đã được Ngài cứu độ và được sống trong Ngài. Chúng ta không phải chờ đợi một ai khác nữa.
16. Vở kịch còn dang dở
(Lm. Mark Link)
Chủ đề: Thánh Gioan tiền hô là sứ giả, còn Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Mêsia). Chúng ta phải hoàn tất công việc của hai Đấng.
Nathaniel hawthorne là một văn sĩ người Mỹ, vào năm 1864 ông mất đi mà trên bàn viết vẫn còn bản phác thảo của một vở kịch mà không may ông chưa hoàn tất được. Vở kịch này tập trung vào một nhân vật chưa hề xuất hiện trên sân khấu. Mọi người đều nói, đều mơ, đều chờ đợi nhân vật này đến nhưng vị ấy chẳng hề đến. Tất cả các nhân vật phụ đều đồng loạt mô tả nhân vật chính ấy. Họ kể cho mọi người nhân vật chính ấy sẽ như thế nào, sẽ làm những gì. Tuy nhiên nhân vật chính ấy đã chẳng xuất hiện.
Toàn bộ Cựu ước cũng giống như vở kịch của Nathaniel Hawthorne bỏi vì Cựu ước chấm dứt mà không có đoạn kết.
Trên dòng sông Giôđan có một khúc cạn nước, cách Biển Chết không xa. Như người ta còn ghi nhớ, đây là chỗ băng qua sống thuận tiện cho các đoàn tuần hành có xe ngựa kéo, các thương buôn và các du khách từ khắp nơi trên thế giới. Đây cũng là chỗ đại chúng thường gặp gỡ nhau để trao đổi đủ thứ tin tức từ khắp mọi nơi. Chính tại chỗ này, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Ông cũng bận áo da thú giống như các tiên tri thuở xưa. Và đám dân bắt đầu thắc mắc: “Ông này là ai vậy? Ông ta có phải là Đấng Mesia được Chúa hứa không? Hay ông là vị sứ giả dọn đừơng cho Đấng Mesia?”
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu sẽ trả lời cho những câu hỏi này.
Ngài nói với dân chúng: “Gioan là kẻ mà Thánh Kinh đã nói: “Ta sẽ sai sứ giả Ta đi trước con để mở đường cho con”. Chúa Giêsu cũng trả lời câu hỏi khác mà đám môn đệ của Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Ngài: “Có phải Ngài là Đấng mà Gioan bảo sẽ phải đến, hay chúng tôi còn phải mong chờ Đấng khác?” Để trả lời câu hỏi này, Chúa Giêsu liền trưng ra những lời của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Khi nói về Đấng Mesia, Isaia bảo rằng những dấu hiệu sau đây sẽ là bằng cứ xác nhận lai lịch vị ấy: “Người mù sẽ thấy được và người điếc sẽ nghe được. Kẻ què sẽ nhảy múa và người câm sẽ reo vui”.
Chủ ý của Giêsu thực là rõ ràng. Ngài trình bày ra những phép lạ Ngài đã làm – cho người mù thấy, kẻ điếc nghe, người què bước, kẻ câm nói được. Đây là những dấu hịêu mà các lời tiên tri báo trước rằng sẽ phải ứng nghiệm khi Đấng Mesia đến.
Như vậy, bài Phúc Âm hôm nay muốn nói gì cho anh chị em cũng như cho tôi? Xin thưa đó là sứ điệp sau: Chúa Giêsu là Đấng Mesia đã được các vị ngôn sứ tiên báo và Ngài đã thiết lập vương quốc Thiên Chúa trên trần gian đúng như các tiên tri báo trước. Tuy nhiên Chúa Giêsu uỷ thác cho chúng ta nhiệm vụ hoàn tất vương quốc ấy. Ngài giao phó cho chúng ta việc xây dựng nước Chúa trên trần gian này. Vào lúc thế mạt, Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét chúng ta về công việc này.
Người Roma xưa có thời một vị thần tên là Janus. Từ đó chúng ta có danh từ January (tháng giêng). Vị thần này được các hoạ sĩ mô tả bằng hình đầu người có hai mặt: một mặt nhìn về đằng sau, mặt kia nhìn về đằng trước. Mùa vọng cũng tương tự như thế. Nó nhìn về hai phía: một đàng nhìn lại lần giáng sinh đầu tiên của Chúa Giêsu trong lịch sử, đằng khác là hướng đến cuộc tái giáng của Ngài vào cuối lịch sử.
Anh chị em cũng như tôi đang đứng ở giữa hai biến cố lịch sử trọng đại này. Phận vụ chúng ta không phải là cứ lè phè ngồi chơi trên đỉnh đồi ngoái cổ về đằng sau và ngóng trông về đằng trước, mà phải xăn tay áo lên dấn thân vào công việc Chúa Giêsu đã trao phó cho chúng ta khi Ngài đến lần đầu tiên trong lịch sử.
Nói một cách cụ thể, điều này có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta phải xây dựng nước Chúa trên trần gian, phải đem yêu thương lắp đầy ganh ghét, đem thứ tha che phủ hận thù, đem chân lý thay cho giả trá, đem sự cảm thông Kitô giáo thay cho sự vô cảm lạnh lùng. Tóm lại, chúng ta phải xây dựng một kiểu thế giới mà chính Chúa Giêsu sẽ dụng xây nếu Ngài ở vào vị trí chúng ta.
Đó chính là sứ điệp trong các bài đọc hôm nay. Sứ điệp ấy minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Mesia, Ngài sẽ trở lại vào chung cục lịch sử và sẽ phán xét chúng ta về việc chúng ta đã xây dựng nước Chúa trên trần gian này như thế nào.
Vậy chúng ta hãy kết thúc với lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, là Đấng Mêsia cũng là Đấng Cứu Độ chúng ta:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin Chúa đã đến trần gian đầy ganh ghét này để giúp chúng con xây dựng nó thành thế giới của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin rằng Chúa đã đến với chúng con để giúp chúng con cũng biết đến kẻ khác.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin rằng Chúa hiểu chúng con, ngay cả khi chúng con không hiểu được chính mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin rằng Chúa luôn luôn ở với chúng con cho dù chúng con không luôn luôn sống với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng con, bởi vì chính Chúa đã đối xử với chúng con như anh chị em của Chúa.
17. Đấng phải đến
Ngài có phải là Đấng sẽ đến. Câu hỏi của Gioan làm cho chúng ta ngạc nhiên và phân vân hay là chính Gioan cũng nghi ngờ không biết Đức Kitô có phải là Đấng Thiên sai hay không? Chắc hẳn không phải là như vậy, chúng ta hãy nhìn vào con người và cuộc đời của Gioan sẽ rõ.
Ngày sinh của ngài đầy những việc lạ lùng nói lên sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Cuộc sống nơi hoang địa đầy những khắc khổ mặc áo da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Người ta đến để nghe Gioan, thì ông đã không đem lại một sự khen ngợi ủi an, lời lẽ của ông thì ngăn đe và cảnh cáo: Hỡi nòi rắn độc. Cái rìu đã đặt dưới gốc, cây nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Ông đã miễn cưỡng ban phép rửa cho Chúa Giêsu vì ông nghĩ rằng mình không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài. Ông đã giới thiệu Đức Kitô là con chiên Thiên Chúa sẽ xóa bỏ tội lỗi trần gian.
Qua những sự kiện ấy, nếu ông nghi ngờ Đức Kitô thì đó là điều không thể nào chấp nhận được. Ông đã được Chúa Giêsu khen ngợi là người cao trọng nhất trong số những con cái của người nữ sinh ra. Chẳng lẽ ông lại là một kẻ đa nghi và thiếu lòng tin tưởng? Sự thật là như thế này: Gioan có một lòng tin tưởng mạnh mẽ vào Chúa Giêsu, nhưng còn các môn đệ của ông thì chưa được xác tín cho lắm, vì thế ông muốn soi dẫn và tạo hoàn cảnh để họ nhìn rõ, nghe kỹ và tự nhận ra Ngài là Đấng Thiên sai đã được tiên báo từ hàng trăm năm về trước.
Đức Kitô đã hiểu được ý nghĩ thâm sâu của Gioan và Ngài muốn tế nhị chứng thực điều đó. Tiên vàn Ngài đã chữa lành các bệnh tật trước sự quan sát của những người được sai đến, rồi Ngài nói với họ: Các ngươi hãy đi thuật lại cho Gioan biết những điều đã nghe và đã thấy: người mù được xem, kẻ què được đi, người phong hủi được lành sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và Tin Mừng được rao giảng cho những người nghèo khó.
Đó chính là dấu chỉ của vị Thiên Sai mà các tiên tri, nhất là Isaia đã đề cập đến. Thực vậy, Ngài đã làm các phép lạ, để biểu lộ quyền năng và sứ mạng của Ngài xuất phát từ Thiên Chúa. Từ trước đến nay chưa một ai có thể chữa lành bệnh cùi và cho người chết sống lại. Hơn thế nữa, tiên tri Isaia cũng bảo Tin Mừng được rao giảng cho người nghèo khó, Đức Kitô đã giảng dạy cho mọi người không trừ một ai, từ những người giàu sang quyền thế, đến những kẻ túng cực và bất hạnh, Ngài đã đặc biệt lưu ý tới hạng người thứ hai này, vì nhiều lần Ngài đã phán: Tất cả những gì các con làm cho một trong số những kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho Ta.
Ngài đã hướng dẫn dân chúng tới những chân lý cao siêu bằng những ngôn từ đơn sơ, rõ ràng, bằng những hình ảnh sống động và cụ thể… Chính nhờ đó mà các môn đệ của Chúa không còn nghi ngờ gì nữa. Con người này, Đức Kitô thành Nagiarét chính là Đấng Cứu Thế thiên hạ đợi trông. Khi các người được Gioan sai đến đã trở về. Chúa Giêsu nói với dân chúng: Các ngươi vào sa mạc để làm gì? Để tìm gặp một vị tiên tri.
Vị tiên tri ấy chính là Gioan, ông đã can đảm nói lên sự thật, đã trình bày cho mỗi người biết bổn phận của mình, và bây giờ ông đang bị tù tội. Ông còn cao trọng hơn một vị tiên tri nữa vì Kinh Thánh đã nói về ông. Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con để dọn đường cho con. Gioan chính là người đã được Chúa sai đi dọn đường trực tiếp cho Đấng Cứu Thế. Ông được đặc ân chiêm ngưỡng Chúa và giới thiệu Chúa cho mọi người. Hãy lắng nghe và thi hành sứ điệp mà Gioan gửi đến, để nhờ đó chúng ta cũng nhận biết Chúa trong mùa Giáng Sinh này.
18. Phi thường
(“Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Tể tướng lưng gù là một câu chuyện huyền thoại về một vị tể tướng có hình thể dị dạng bị gù lưng, nhưng rất anh minh trong việc trị nước.
Chuyện xảy ra vào đời nhà Thanh: Lưu Dung là con của một thầy giáo, sở học và thú đánh cờ đều giỏi như nhau. Tiểu thư Hà là con gái của vị tể tướng trong triều vừa xinh đẹp, vừa cao thủ cờ tướng, được rất nhiều người yêu mến, trong đó có cả nhà vua. Tiểu thư lá ngọc cành vàng ấy chỉ lấy làm chồng người nào vô địch trong cuộc tỉ thí cờ do cô mở ra. Đúng lúc Lưu Dung về kinh thi trạng nguyên và chàng đã lấy được người đẹp. Sau đó lại thi đỗ trạng nguyên, được làm tể tướng.
Tuy hình thù dị dạng nhưng tể tướng họ Lưu là một người coi trọng công bằng và chính nghĩa. Ông đã lật tẩy nhiều thói hư tật xấu của bọn tham quan, hương lý. Ông trở thành vị cứu tinh của dân nghèo, những người bị hà hiếp và bị đàn áp. Tuy ở địa vị tể tướng nhưng ông lại dùng mưu lược nhiều hơn là vũ lực để đối nhân xử thế, nên ông được dân chúng đặt trọn niềm tin.
Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta một Gioan Tẩy giả có cuộc sống rất dị thường nhưng lại làm được những việc phi thường: Ông chỉ mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng. Con người khổ hạnh ấy lại kiên quyết ngăn cản vua Hêrôđê không được lấy chị dâu là nàng Hêrôđia làm vợ. Chính vì lòng can đảm thi hành vai trò ngôn sứ ấy, mà ông đã bị bạo chúa Hêrôđê bắt giam trong tù.
Hôm nay, từ chốn lao tù ông đã sai các môn đệ của mình còn ngờ vực về sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu, để hỏi Người rằng: “Thầy có đúng là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” (Mt 11,3). Đức Giêsu không muốn chứng minh sứ mạng của mình bằng lời nói, nhưng Người đã trả lời bằng việc làm, mà chính việc làm này đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về Đấng Thiên Sai: “Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được loan báo Tin Mừng”.
Đây chính là một cuộc hành trình đức tin của Gioan, của các môn đệ ông, và cũng là của mỗi người chúng ta. Con đường đến với đức tin không phải là con đường tơ lụa, mà là con đường đau khổ. Con đường ấy đi từ vùng tối tăm tới miền ánh sáng, từ dấu chỉ hữu hình đến thực tại vô hình, từ các phép lạ đến quyền năng siêu việt của Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu. Con đường không dẫn người ta đến Rôma vinh hiển, Athêna thông thái, Babylon kiều diễm, hay Giêrusalem thành thánh… Nhưng đưa họ đến một góc nhỏ của thôn nghèo Nadarét, để thấy một con người khiêm hạ, một cuộc đời ẩn dật, một trái tim yêu thương, và một cái chết ô nhục trên thập giá: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Trước dáng vẻ bề ngoài xem ra tầm thường đó, có một con người không những chẳng hề vấp phạm; trái lại, can đảm bất khuất đóng xuất sắc vai trò tiền hô cho Người: “Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” (Mt 11,10). Đó chính là Gioan Tẩy Giả, người được Đức Giêsu khen ngợi: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ chưa từng có ai cao trọng hơn ông” (Mt 11,11a).
Ông cao trọng vì ông là ngôn sứ chuẩn bị gần nhất cho Tân Ước, vì ông đã được nhìn thấy Đấng Cứu Thế và tin vào các việc Người làm, và nhất là vì ông mang một sứ mạng cao cả. Tuy nhiên, Gioan vẫn còn ở bên bờ của Cựu Ước, nên Đức Giêsu mới nói tiếp: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11b). Đây chính là một niềm vinh hạnh cho chúng ta, những người sống trong thời Tân Ước, vì Cựu ước chỉ là thời chuẩn bị, còn Tân Ước mới là lúc ban ơn cứu độ.
Được may mắn sống trong thời cứu độ của Tân Ước cũng có nghĩa là chúng ta đang mang trên vai sứ mạng cứu rỗi.
Nếu Đấng Cứu Thế đã đến với chúng ta trước để cứu độ chúng ta, lẽ nào chúng ta lại không tận tình cứu giúp anh em.
Nếu Đấng Cứu Thế đã muốn xây dựng thế giới này thành một cộng đoàn yêu thương, lẽ nào chúng ta lại sống trong hận thù ganh ghét.
Nếu Đấng Cứu Thế đã luôn ở với chúng ta mặc dù chúng ta không luôn luôn sống với Người, lẽ nào chúng ta lại không sống thuận hòa với nhau.
Sống Mùa Vọng có nghĩa là trong trí ta phải thấy một rừng lửa rực cháy yêu thương, và trong tim ta phải vang lên một tiếng gọi lên đường.
19. Một đức tin luôn luôn đứng vững
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Gioan Tẩy Giả biết mình là sứ giả đi trước Đấng Cứu Thế và vào thời ngài còn làm phép rửa tự do trong giòng sông Giorđanô, ngài đã tuyên bố Đức Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa. Nay ở trong tù dường như ngài có một thoáng hồ nghi. Ngài biết số phận mình lệ thuộc ở lòng thù hiềm của một người đàn bà muốn ngài phải chết. Có thể là ngài bị cám dỗ ngã lòng, trong đêm lâm nạn. Điều đó càng dễ hiểu, vì các môn đệ ngài còn bối rối hơn ngài nữa. Những giờ phút trong sáng khi ngài và Chúa Giêsu gặp nhau bên giòng sông Giorđanô, bây giờ dường như đã chìm sâu trong đêm đen của cơn thử thách. Cần phải hỏi Chúa Giêsu. Chúa trả lời bằng cách trích dẫn tiên tri Isaia về những người bệnh tật được chữa lành. Chúa Giêsu biết ý nghĩa mà Gioan sẽ gán cho dấu hiệu đó; và Chúa chắc vị Tiền Hô sẽ được an ủi. Nhưng rồi Chúa Giêsu nói lên hai câu khiến ta phải suy nghĩ:
1) “Phúc cho người không phải vấp ngã vì Ta!”
Người ta có thể vì Đức Kitô mà vấp ngã được không? Đức Kitô có thể làm cớ cho ai vấp ngã chăng? Vấp ngã nói đây là thứ nào? Đối với Gioan Tẩy Giả, hiểm họa vấp ngã là hiểm họa hết tin vào Chúa Giêsu. Sự vấp ngã trước cơn thử thách của đức tin, trước những khó khăn làm sao kiên trì được trong đức tin khi mà ta sống trong một hoàn cảnh đau đớn cùng cực dường như bị Chúa bỏ quên, sự vấp ngã đó chính là một mối nguy mà Chúa nhắc tới. Và Chúa nói rằng hạnh phúc cho kẻ nào vượt qua khỏi mối nguy ấy. Thánh Gioan ở trong một hoàn cảnh nhục nhã và phi lý khiến mạng sống ngài bị đe dọa. Vì thế con người tự nhiên trong Gioan thắc mắc. Câu nói của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là: Phúc cho Gioan vì đã không hết tin. Nhưng lời của Người cũng nhắn nhủ chính chúng ta nữa. Hạnh phúc cho ta nếu trên đường thử thách gian truân, đức tin ta luôn vẫn đứng vững. Như Gioan, chúng ta cần chạy tới Chúa Giêsu, truy vấn Người. Ở đâu? Thưa trong Hội Thánh Người, trong cuộc gặp gỡ thân mật của lời cầu nguyện và các bí tích, nhất là Thánh Thể.
2) “Người nhỏ hơn trong Nước Trời lại lớn hơn ông”
Chúa nói như thế về Gioan sau khi tuyên bố rằng trong những kẻ bởi người nữ sinh ra chẳng ai lớn hơn Gioan. Câu nói của Đức Kitô cho biết rằng vai trò của Gioan nằm ở bình diện của lời hứa và công cuộc chuẩn bị. Trên bình diện ấy không ai hơn Gioan. Nhưng khi Nước Trời bắt đầu được thực hiện, sau công cuộc cứu độ, thì kẻ nhỏ nhất giữa đám tín dân cũng vượt quá vị tiên tri lớn nhất, xét về lợi lộc ân sủng. Ta có thể rút ra bài học cho hoạt động tông đồ của ta. Hoạt động tông đồ bao gồm khía cạnh chuẩn bị con người gặp gỡ Đức Kitô. Trên bình diện chuẩn bị này, người ta có thể hoạt động một cách hết sức đắc lực, nhưng hoạt động cần phải tổ chức thế nào để kết thúc nơi Đức Kitô. Hành vi đức tin vào Đức Kitô, dù nhỏ nhất, miễn là đích thật, vẫn đem lại giá trị thật cho tất cả những gì đã chuẩn bị nó.
20. Mùa Vọng của đức tin
Gioan Tẩy Giả là nhân vật nổi bật của Mùa Vọng. Ông thể hiện tính cách rất khớp với Mùa Vọng của chúng ta. Đời sống chúng ta há không phải là một Mùa Vọng đó sao – Mùa Vọng của đức tin, của niềm mong đợi, của lòng kiên nhẫn và của nỗi khắc khoải về điều mình chưa nhìn thấy? Đời Kitô hữu dựa trên cái gì nếu không phải là dựa trên cái mà mình tin và hy vọng? Làm Kitô hữu đích thực là chấp nhận sự điên rồ của Thiên Chúa để dám liều mất con chim trong tay mình hôm nay nhằm có thể bắt được hai con chim khác trong bụi rậm trên trời. Làm Kitô hữu đích thực là dám hy sinh những mối lợi tiền bạc, những khoái lạc thân xác; là không khư khư cố bám các quyền lợi của mình, vì Nước Trời. Nước Trời ấy, hỡi ôi, chưa từng mắt nào nhìn thấy được.
Gioan Tẩy Giả của bài Tin Mừng hôm nay thuộc về một Mùa Vọng như thế: Mùa Vọng của nỗi mong chờ điều vẫn còn đang đến. Ông quả là mẫu người mà chúng ta phải trở nên trong Mùa Vọng suốt đời người. Con người ấy đã bị bỏ tù. Con người ấy đã điên rồ đến nỗi dám nói lên “sự thật mất lòng” ngay cả với nhà vua. Có ai hành động khờ khạo về chính trị như thế không? Ông ngồi đó, trong bóng tối ngục tù. Thật đáng đời ông. Không ai cứu ông ra. Các bạn hữu ông không phát động một cuộc cách mạng. Họ làm gì có khả năng đó. Họ chỉ thao thức với thần học và hoàn toàn ngu ngơ trong đời sống thực tiễn - hay ít ra là có vẻ như thế.
Và cả Thiên Chúa nữa, cũng bỏ mặc vị ngôn sứ rao giảng sám hối của Người. Cả Thiên Chúa cũng dường như đứng về phía thế lực hùng mạnh của nhà vua. Thiên Chúa đang thực hiện các phép lạ nơi Con của Người. Nhưng, bi kịch hay hài kịch đây, khi mà những phép lạ ấy chỉ cứu chữa có vài kẻ bất hạnh xem ra chẳng giữ tầm quan trọng nào đối với Nước Thiên Chúa. Những phép lạ ấy đã không giải thoát vị ngôn sứ thánh – là người có liên hệ máu huyết và là vị sứ giả mở đường chính thức cho Đấng đang thực hiện các phép lạ ấy. Gioan vẫn bị giam cầm trong ngục tối cho đến ngày bị chém đầu!
Đối với một ngôn sứ, thật không gì khó chịu cho bằng phải ngồi trong tù chờ chết, bị xem là hết thời, song lại phải quan tâm đến những phép lạ chẳng chút ích lợi gì cho mình.
Nhưng Gioan không phải là một cây sậy ngả nghiêng trước gió. Ông vẫn tin, bất chấp mọi sự. Ông là sứ giả dọn đường cho Chúa, trước hết bằng chính đời sống và tâm hồn ông. Ông dọn đường cho Chúa, Đấng chần chừ mãi một cách bất nhẫn trước khi đến, và Người thậm chí chẳng tỏ vẻ hối hả gì khi vị ngôn sứ của Người đang lâm nạn: Vị Thiên Chúa dường như bao giờ cũng chỉ nghĩ đến khi đã quá muộn màng! Song Gioan Tẩy Giả biết rằng Thiên Chúa luôn luôn có lý của Người, rằng Người chiến thắng bằng cách nhận chịu thất bại, rằng Người sống và thông ban sự sống bằng cách trao nộp mình chịu chết, rằng Người là tương lai đích thực cuối cùng của mọi thứ tương lai.
Tắt một lời, Gioan Tẩy Giả chỉ biết tin và tin. Và điều đó đối với ông thật không dễ. Lòng ông đắng cay và bầu trời thì mù mịt. Nỗi khắc khoải cào cứa trong ông: “Có phải Người là Đấng phải đến?”. Có phải là chuyện tình cờ, khi câu hỏi ấy được đặt ra với đúng đối tượng – tức vị Thiên Chúa làm người. Trong cầu nguyện, người ta có thể trang trải ngay cả một cõi lòng đầy xao động với Thiên Chúa, một cõi lòng mà trong thực tiễn chẳng còn điểm tựa và cũng không biết nghị lực mình sẽ còn cầm cự được bao lâu. Bao lâu một tâm hồn còn là một tâm hồn cầu nguyện, bấy lâu tâm hồn ấy vẫn còn đức tin và sẽ nhận được một câu trả lời thỏa đáng: “Hãy đi và nói với Gioan những gì các anh xem thấy… và phúc cho kẻ không đối đầu với Ta”. Gioan đã nhận được tiếng trả lời của Chúa dẫu là ông đang ngồi trong ngục tối!
Cả cuộc đời chúng ta là một Mùa Vọng, vì Kitô hữu là những người mong đợi một Đấng sẽ đến. Và chỉ khi Đấng ấy đến, chúng ta mới được chứng minh là đúng đắn. Bao lâu còn phải đợi trông, bấy lâu ta còn thấy dường như thế gian mới đúng. Thế gian sẽ vui cười, còn anh em sẽ khóc lóc. Thầy Chí Thánh đã từng nói thế. Chúng ta cũng đang ngồi trong một ngục tù, ngục tù của sự chết, của những câu hỏi còn bỏ ngỏ, của sự yếu đuối nơi mình, của tính ích kỷ hẹp hòi của mình, của những cam go và những bi kịch trong cuộc sống.
Nhưng mỗi ngày, bằng đức tin và lời cầu nguyện của mình, chúng ta sẽ gửi các sứ giả của chúng ta đến với Đấng sẽ đến xét xử người sống và kẻ chết. Và các sứ giả Mùa Vọng này sẽ trở lại với câu trả lời: “Ta đang đến đây, phúc cho kẻ không đối đầu với Ta”.
21. Thiên Chúa có làm việc hay không?
Gioan Tẩy Giả dám phê bình thủ hiến Hêrôđê Antipas. Để làm cho con người cố chấp này im lặng, vị thủ hiến đã nhốt Gioan vào ngục Macheronte. Dù sao thì tại đây, Gioan vẫn có nhiều người đến thăm viếng. Ông nóng lòng đặt câu hỏi và điều ông biết được làm cho ông thất vọng. Tiếng nói của Gioan mạnh mẽ vang lên đầy đe dọa. Ông đã nói: “Đấng đến sau tôi thì quyền phép hơn tôi!”. Ông loan báo một vị quan tòa sẽ ném vào lửa tất cả những gì xấu xa và không sinh hoa kết trái, và người ta nói với ông về một người hiền lành, một người có tài chữa bệnh! Ông không kiềm chế được và sai người đến hỏi: “Ngài có phải là Đấng-phải-đến hay không?”
Có ai mà không đặt những câu hỏi như thế? Giêsu, Ngài là tất cả những gì người ta nói về Ngài phải không? Câu trả lời cho Gioan làm cho chúng ta chưa thỏa mãn: “Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được chữa lành, kẻ điếc được nghe, người chết được sống lại, Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó”. Đó là điều người ta chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế, đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã làm ở đó, hồi xưa. Nhưng bây giờ thì sao? Từ hơn hai ngàn năm nay thế giới đã đi đến đâu rồi? Biết nói thế nào với những người hỏi chúng ta: “Chúa Kitô của bạn mang lại điều gì? Điều đó có thay đổi gì không?”.
Từ ngục tù của chúng ta, chúng ta cũng đặt câu hỏi cho Chúa Giêsu. Chúng ta bị giam hãm trong những chân trời rất hạn hẹp, và có thể trong sự thiếu nhạy bén để hiểu rằng Chúa Kitô đang hành động: “Phúc thay kẻ nào không vì Ta mà nghi ngờ”.
Học biết Nước Trời đang đến như thế nào! Trong thế giới có nhiều người nổi danh của chúng ta chỉ có một số tên tuổi được nhắc đi nhắc lại: Mẹ Têrêsa, Đức cha Camara, Đức cha Romeo, cha Guy Gilbert và những thanh niên bụi đời của cha, sư huynh Roger ở Taizé và không quên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Nhưng còn có hàng ngàn người nghèo mà các linh mục, các nữ tu và các giáo dân, bản thân họ cũng nghèo, đang rao giảng Tin Mừng và thực hành Tin Mừng đó.
Chính nhờ các tín hữu này mà Chúa Kitô tác động trên thế giới. Người cũng nói với chúng ta như đã nói với những người được Gioan phái đến: “Các ngươi hãy thuật lại điều mà các ngươi đã nghe và đã thấy”. Nhưng những “công việc của Chúa Kitô” ít ồn ào hơn tiền bạc và chiến tranh. Phải chú ý mới thấy được tất cả tình yêu được làm “nhân danh Chúa Giêsu”. Cũng như nói rằng chúng ta đối diện với một Chúa Kitô vô danh mà chúng ta chỉ biết vào thời cánh chung, khi đó chúng ta sẽ biết Người không ngừng hoạt động như thế nào.
Chúa Kitô vô danh sao? Phải, nếu chúng ta dừng lại ở những tư tưởng và những câu hỏi về Người. Nhưng khi chúng ta tác động với Người, chúng ta thấy những kẻ què bước đi ra sao và những kẻ chết sống lại như thế nào. Người tín hữu anh hùng ở Liên Xô hoặc người Kitô hữu Braxin dấn thân hoạt động cho công bằng và giải phóng, chắc chắn không tự hỏi Chúa Giêsu có phải đúng là Đấng mà người ta chờ đợi hay không?
Có lẽ đôi khi chúng ta tự đặt cho mình một câu hỏi khác: “Có phải Giáo Hội đúng là dấu chỉ Chúa Giêsu đã đến hay không?” Đây là một câu hỏi hay nếu nó không phải là một cái mẹo đối với những khiếm khuyết riêng của chúng ta. Giáo Hội là chính tôi, kẻ loan báo hay không loan báo Tin Mừng. Giáo Hội là nơi tôi sống, là nơi có lẽ do lỗi lầm của tôi mà người ta không thấy được tác động của Thiên Chúa.
22. Đấng sẽ đến
Vui tươi và ôn hòa là hai đặc điểm quan trọng biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi một cộng đoàn và nơi chính người đồ đệ của Ngài. Ai sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa, hay cộng đoàn nào có Chúa hiện diện thì người đó hay cộng đoàn đó sẽ sống vui tươi và ôn hòa.
Mở đầu bài suy niệm Chúa nhật 3 Mùa Vọng hôm nay, Giáo Hội nhắc lại sự thật này qua lời dạy của thánh Phaolô: “Hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại cho anh chị em là hãy vui lên, đức ôn hòa của anh chị em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã đến gần…”.
Hai tuần Mùa vọng đã qua rồi, ngày Đại Lễ Giáng Sinh sắp đến, khắp nơi nhất là tại các thành phố, ngày Đại Lễ Giáng Sinh đã xuất hiện qua những trang hoàng, những đèn điện được xếp theo hình các ngôi sao, Giáo Hội lên tiếng nhắc lại cho các con cái mình lý do sâu xa nhất của niềm vui Kitô vui không phải vì những lợi lộc hay vì được chiếm hữu của cải vật chất, mà vui vì được Thiên Chúa đến hiện diện với con người và ở giữa cộng đoàn con người.
Dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa tình thương được thực hiện và sự an lành được ban cho con người. “Mù được thấy, què được đi, kẻ chết sống lại”, những lời loan báo này được thực hiện nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người trong Israel, dân Do Thái.
Thực vậy, chính Ngài đã khẳng định: “Hãy về thuật lại cho Gioan điều các ông nghe và thấy, người mù được thấy, què được đi, phong hủi được thấy, điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó, phúc cho ai không bị vấp ngã vì Ta”.
Chúa Giêsu đã thực hiện các dấu chỉ đó qua các phép lạ công khai mà dân chúng được chứng kiến, giờ đây Ngài nhắc lại các dấu chỉ đó cho Gioan để củng cố niềm tin của ông đang gặp thử thách và mang lại cho ông niềm vui thuở ban đầu khi ông tuyên xưng niềm tin: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng, Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
23. Vui mừng
Chủ đề chính của phụng vụ Chúa nhật hôm nay là niềm vui mừng và hy vọng. Thực vậy, tiên tri Sophonia luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và tha thứ. Chính trong niềm tin tưởng ấy mà tiên tri đã kêu gọi: hãy vui lên, hỡi thiếu nữ Sion. Hãy mừng lên, hỡi Israel, vì Thiên Chúa đang ở giữa ngươi. Người là Đấng Cứu tinh oai hùng, sẽ lấy tình thương mà đổi mới các ngươi.
Cũng trong chiều hướng ấy, thánh Phaolô cũng đã kêu gọi: hãy vui lên anh em, tôi nhắc lại: hãy vui lên trong Chúa.
Và đoạn Tin mừng diễn tả: chínhtrg niềm hy vọng ơn Cứu độ mà những người Do thái thiện chí đã phấn khởi đến với Gioan Tiền hô xin ông cho biết phải làm gì để đón nhận Đấng Cứu thế sắp đến.
Như vậy qua các bản văn Kinh thánh, chúng ta thấy: Thiên Chúa chính là niềm vui mừng và hy vọng của con người. Bởi chính mình Ngài mới có thể giải thoát nhân loại khỏi mọi nỗi cơ cùng, khỏi kiếp sống nô lệ. Chỉ mình Ngài mới có thể ban cho nhân loại niếm vui, bình an và hạnh phúc. Do đó, lời kêu gọi: hãy vui lên, hãy vui lên trong Chúa là điều rất hợp lý.
Ngày hôm nay chúng ta không còn phải đón chờ Chúa đến như dân Do thái ngày xưa, bởi vì Chúa đã đến rồi. Ngài đang hiện diện bên chúng ta như Ngài đã nói: Này đây, Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Ngài vẫn tiếp tục thi ân cho chúng ta như Ngài đã thi ân cho dân Do thái ngày xưa.
Nhưng có thật là chúng ta vui mừng vì sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời mình? Có thật chúng ta vui mừng vì được Chúa viếng thăm? Có thật chúng ta vui mừng vì được làm con Chúa, được làm người có đạo? Phải chăng đã chẳng có những lúc chúng ta nghĩ rằng: làm con Chúa vui đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy những phiền lụy cho cuộc đời? Những người không tin có Thiên Chúa, họ có thể an tâm ăn chơi xả láng, có thể mánh mung, lường gạt để kiếm cho được lắm bạc nhiều tiền với hy vọng một cuộc sống thỏa mái ung dung. Còn làm con Chúa ư? Có cả một mạng lưới lề luật vây bọc quanh chúng, đến nỗi chúng ta cỉam thấy mình như bị ngộp thở bởi những trói buộc và cấm đoán…
Nếu Thiên Chúa của chúng ta là một hung thần luôn đàn áp con người, nếu lề luật của Ngài như là những thứ giết chết tự do của chúng ta, thì quả thật chúng ta chẳng nên vui mừng vì được làm con Thiên Chúa như vậy. Nhưng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa của tình yêu thương. Một Thiên Chúa luôn nhẫn nhục trước sự bất tín, bất trung của dân Ngài. Một Thiên Chúa luôn biết nhỏ lệ trước những nỗi đớn đau của kiếp người. Một Thiên Chúa cảm thông và tha thứ cho những yếu đuối của con cái mình. Chính trong tình yêu thương vô biên ấy mà Thiên Chúa có đặt ra những lệ luật, thì đó chỉ là những lời diễn tả tình yêu, là hàng rào gìn giữ chúng ta trong tình yêu và là con đường dẫn chúng ta tới sự sống. Chúng ta phải vui mừng vì được tôn thờ một Thiên Chúa như thế trong đời mình.
Nếu ngày hôm nay chúng ta hỏi thánh Gioan tiền hô: Chúng tôi phải làm gì? Có thể ông sẽ bảo chúng ta rằng: hãy thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Hãy nhìn Ngài như một người cha, như một người ban thân hay như một người tình để thấy được tình yêu vô bờ của Ngài. Thấy được tình yêu vô bờ của Ngài, chúng ta cũng sẽ thấy được điều mình phải làm để đáp trả lại tình yêu tuyệt đối ấy.
24. Gioan Tiền Hô
Một khuôn mặt không thể thiếu vắng trong mùa Vọng, đó là khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Vậy Gioan Tiền hô là ai?
Ông là con của Giacaria và Isave, mở mắt chào đời khoảng sáu tháng trước Chúa Giêsu, tại làng Ain Karim, gần Giêrusalem. Ông có họ hàng với Chúa Giêsu, bởi vì mẹ ông, bà Isave, là chị họ của Đức Maria. Khi đã khôn lớn, ông vào trong hoang địa sống một cuộc sống khắc khổ, mặc áo da lạc đà, ăn châu chấu với mật ong rừng. Sau đó, vâng lệnh Chúa, ông rảo khắp vùng sông Gióc đan, rao giảng sự ăn năn và trao ban phép rửa sám hối, dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lời giảng của ông thật đơn sơ: với người thu thuế, ông đòi hỏi sự công bằng, với binh lính, ông đòi hỏi sự ngay thẳng. Tùy theo từng lớp người, ông đưa ra những lời khuyên cụ thể. Ông loan báo cho mọi người được biết Đấng Cứu đã gần đến, Đấng ấy sẽ tẩy rửa trong Thánh Thần và trong Chân Lý, Đấng ấy sẽ rê sân lúa, nghĩa là sẽ làm một cuộc thẩm phán để thanh lọc. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện, ông không ngần ngại giới thiệu Ngài với dân chúng: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian. Sau cùng, vì can đảm dám lên tiếng can ngăn Hêrôđê, ông đã bị tống ngục và bị chém đầu.
Nhìn vào cuộc đời của ông, chúng ta thấy nổi bật một mẫu gương khiêm nhường. Chính nhờ thái độ khiêm nhường này mà ông đã gặp được Chúa.
Thực vậy, sứ điệp ông loan truyền bên bờ sông Giócđan là gì, nếu không phải là sứ điệp sám hối. Thế nhưng, muốn sám hối thì điều kiện đầu tiên cần phải có, đó là sự khiêm nhường. Thái độ khiêm nhường của Gioan Tiền hô còn được biểu lộ qua những lời ông nói với dân chúng.
Khi được hỏi ông là ai, thì Gioan Tiền hô đã trả lời một cách khiêm tốn:
- Tôi chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến.
Khi nhận ra Đức Kitô, ông đã xác quyết:
- Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Sau khi đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng, ông đã để cho các môn đệ thân tín của mình bước theo Ngài. Chính vì thế, ông xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi:
- Trong số những người nam được sinh ra, không có ai cao trọng hơn Gioan.
Sự khiêm nhường cũng chính là điều chúng ta cần phải thực hiện trong mùa Vọng, bởi vì chỉ những người khiêm nhường mới gặp được Chúa mà thôi.
Đúng thế, Kinh Thánh đã nhiều lần nói về sự thật này. Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người phận nhỏ. Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, thì sẽ được nâng lên. Chính trong chiều hướng ấy, thánh Grêgoriô đã xác quyết:
- Kiêu ngạo là dấu chỉ chắc chắn nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Đúng thế, một Lucifer vì không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa, nên đã bị đày đọa trong hỏa ngục. Một Adong Evà, vì muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên phải lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Trong khi đó, một Maria khiêm nhường, chấp nhận thân phận tôi tá, nên đã được Thiên Chúa cất nhắc và đặt làm mẹ Đấng Cứu Thế.
Kinh nghiệm cũng cho hay: một người khô khan mà kiêu căng tự mãn khó trở lại hơn một trăm người sa ngã về xác thịt., bởi vì người sa ngã do yếu đuối dễ nhận ra mình tội lỗi và trống vắng, nên cũng dễ khiêm nhường trở về cùng Chúa.
Hơn thế nữa, muốn bỏ một vật gì vào túi, thì tiên vàn chiếc túi phải rỗng, phải có chỗ. Nếu đã chặt rồi, thì làm sao nhét vào được nữa. Cũng vậy, linh hồn muốn được Chúa ngự trị, cần phải rỗng, nghĩa là cần phải nhận mình nghèo nàn và thiếu thốn. Trong khi đó, kẻ kiêu ngạo tâm hồn chất đầy cái tôi với những tự cao, tự đại, tự mãn thì còn chỗ đâu mà dành cho Chúa nữa.
Ngày kia, một du khách đang đứng chiêm ngắm tượng Chúa chịu nạn của Thorwaldsen. Và hình như ông ta chẳng khám phá ra được một vẻ đẹp nào cả trên bức tượng thời danh này. Bỗng ông ta nghe thấy như có tiếng thì thầm bên tai:
- Xin ông hãy quì xuống và nhìn ngắm khuôn mặt của Chúa.
Ông ta đã quì xuống và khám phá ra vẻ đẹp tuyệt vời của bức tượng.
Chúng ta cũng vậy. Hãy quì xuống, có nghĩa là hãy sống khiêm nhường và rồi chúng ta sẽ gặp được Chúa.
25. Vui lên
Alpua Robil là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng nhất trong các thiên tài dương cầm trên thế giới hiện nay. Tuy tự xưng mình là người vô thần, nhưng đã nói về Chúa Giêsu như sau: “Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô đã và luôn luôn là một nhân vật siêu việt cao vời và lí tưởng nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại”. Sự kiện Ngài là người Do thái khiến cho tôi kiêu hãnh lây, vì tôi cũng thuộc dòng giống Do thái. Cuộc sống của Ngài, các lời Ngài giảng dạy, sự hy sinh và lòng tin của Ngài đã trao ban cho thế giới món quà quí báu cao trọng nhất mà thế giới chưa bao giờ nhận được. Đó là món quà của “tình yêu thương”, tình yêu thương đối với tha nhân, tình yêu thương đối với người nghèo khó, tình thương xót, tình nhân loại và sau cùng là tất cả các tâm tình khiến cho con người trở thành cao thượng.
Phải! Nhận xét trên đây của nhạc sĩ Alqua Robil thật sâu sắc và chí lý. Đúng thế! Ở đâu có tình yêu thương, thì ở đó có hạnh phúc tươi vui và an bình đích thực. Bởi vì, tình yêu thương là phương thế duy nhất hữu hiệu giúp con người xây dựng một thế giới tốt lành hơn mà không gây đổ máu, chết chóc và tàn phá thương đau cho con người.
Là người có nếp sống chay tịnh khắc khổ, khi nghe ngài giảng, người ta tưởng đâu là thán Gioan cũng nghiêm ngặt đòi buộc mọi người sống khổ hạnh tiết chế như ngài. Nhưng không, thánh nhân không đòi buộc họ làm những việc lạ thường khó khăn, mà chỉ khuyên mọi người thay đổi kiểu cách sống và thái độ hành sử đối với người khác. Thánh nhân đề nghị với một thái độ sống quân bình, biết thực thi công lý và yêu thương, chia sẻ cụ thể với tha nhân chẳng hạn như:
- Ai thuộc lớp người giàu có, dư tiền dư của và phương tiện vật chất thì từ nay đừng sống ích kỷ, bo bo vơ vét tích trữ cho chính mình như trước nữa, mà hãy biết chia sẻ cơm áo, quảng đại trợ giúp cho họ có công ăn việc làm, tạo điều kiện sinh sống cho các anh chị em nghèo khó thiếu thốn hơn mình, cốt sao để họ có cuộc sống hạnh phúc sung sướng và đầy đủ, xứng đáng với phẩm giá con người.
Qua Bí tích Rửa tội, Ngài đã giải thoát họ khỏi xích xiềng nô lệ tội lỗi, trả lại cho họ sự tự do, ơn làm con cái Thiên Chúa. Tin vui cứu độ ấy không cho phép Kitô hữu buồn sầu thất vọng như những người không có niềm tin. Có Chúa trong lòng, có Chúa trong đời, có Chúa kề bên thì người Kitô hữu có được tất cả. Vì thế, họ phải sống tin yêu phó thác và an bình, tươi vui, không âu lo, không sợ hãi. Kết hợp với Chúa qua lời cầu nguyện, qua cuộc sống đối thoại thân tình với Ngài. Họ phó thác mọi sự cho Chúa, và noi gương Chúa Giêsu sống nhân hậu, sống tốt với mọi người, yêu thương thông cảm và quảng đại với mọi người. Nếu Giáo hội đánh mất đi sự tươi vui của mình, thì điều đó có nghĩa là Giáo hội đã đánh mất đi tất cả. Khi đó Giáo hội không làm chứng cho niềm hạnh phúc là hôn thê của Chúa Kitô nữa, và điều đó cũng có nghĩa là tình yêu đã chết hay đang hấp hối. Tuy nhiên, khi đó Giáo hội sẽ không còn khả năng yêu thương con người hay yêu thương với một tình yêu buồn sầu, mà tình yêu buồn sầu thì không phải là tình yêu.
Cũng thế, một tín hữu không còn khả năng sống tươi vui là dấu chỉ họ chưa gặp gỡ Thiên Chúa đích thực. Khi người Kitô hữu đánh mất đi niềm vui, thì họ phải tự vấn lương tâm mình xem nó có phải là ấu trĩ hay không? Và nếu quả thật có như vậy, thì đây là lúc chúng ta phải nghe lời thánh Phaolô kêu mời: “Anh chị em hãy tìm lại Chúa Kitô, nghĩa là hãy nhìn lại niềm vui của Chúa Kitô”. Đó chẳng phải là món quà và ơn thánh quí báu nhất trong Mùa Vọng hay sao?
26. Việc Ngài làm
Càng gần lễ Giáng sinh niềm hy vọng càng dâng cao trong lòng chúng ta. Dù muốn dù không chúng ta cũng hy vọng một điều gì đó, người thì nghĩ đến những ngày nghỉ sắp tới, kẻ khác nghĩ đến những cuộc hội họp gia đình quy tụ anh chị em ở xa về. Cha mẹ mong sao con cái sẽ thỏa thích khi chúng mở những món quà được chọn lựa kỹ càng, và con cái thì ấp ủ những giấc mơ đủ loại.
Đồng thời với những hy vọng này đã chớm nở một hy vọng khác trong lòng toàn thể nhân loại. Một hy vọng sâu xa hơn, cao cả hơn: “Ước mong lễ Giáng sinh năm nay sẽ mang tới cho mọi người nhiều điều tốt lành hơn những Giáng sinh trước đây… Ước mong hòa bình lan rộng thêm một chút nữa… Ước mong tình huynh đệ được kéo dài… Ước mong sự nghèo nàn khổ sở biến hẳn đi”.
Một người ngồi trong nhà tù vẫn mơ ước những điều họ hy vọng. Họ đã hiến dâng toàn bộ cuộc đời của mình vì một điều gì đó: Họ hy vọng Đấng Mêsia đến. Họ cảm thấy rằng Ngài sắp tới rồi. Họ vội vã và chuẩn bị cho biến cố này.
Hôm nay, Gioan Tẩy Giả đang ở tù. Ông có mơ ước hão huyền không? Ông có khơi dậy trong xứ sở những niềm hy vọng trống rỗng không? Có phải vô ích mà ông mất sự tự do của mình không? Tóm lại, Chúa Giêsu có phải là câu đáp cho sự chờ mong của ông không? Ông có phải chờ đợi ai khác nữa không?
Gioan Tẩy Giả đã thừa hưởng niềm hy vọng của Israel. Người ta chờ đợi một Môisê mới sẽ cầm đầu và vạch ra con đường trở về từ chốn lưu đày. Người ta chờ đợi một ngôn sứ mới, một Êlia, đến mặc khải Thiên Chúa. Ông chờ đợi Con người từ nơi Thiên Chúa mà đến. Người Do Thái không hy vọng gì khác ngoài Thiên Chúa và việc tỏ hiện quyền năng của Ngài. Đây là câu trả lời: Những hành động, những việc chữa lành. Một quyền năng đang hoạt động: Những người mù được sáng mắt, người điếc được nghe, những người bệnh được chữa lành. Tim Mừng gồm những hành động cứu độ.
Ít lâu sau, thánh Gioan tông đồ sẽ trình bày việc thể hiện niềm hy vọng của Israel như sau: Ngôi Lời đã nhập thể. trong đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trả lời: Đây là những hành động, đây là những sự kiện. Không thể nào lầm về căn tính của Ngài được, Đấng phải đến đã có mặt ở đó rồi: Ngài hoạt động. Giấy căn cước của Ngài chính là những gì Ngài làm. Chữ ký của Ngài chính là những hành động của Ngài.
Với những gì được ghi chép trong Tin Mừng hôm nay, giờ đây ta hãy tìm cách xem xét lại cuộc sống của chúng ta. Chúng ta tràn đầy hy vọng vào những thời gian lễ hội. Chúng ta cũng biết rằng những thời gian đều chóng qua. Nhưng có những thời gian khác bền bị hơn, sâu sắc hơn, và vì chúng, mà ta đã dám đánh đổi toàn bộ cuộc đời ta!
Vì ước muốn hạnh phúc, một người nam và một người nữ đã kết hợp cùng nhau và thề hứa trung thành với nhau. Vì ước muốn sự sống họ đã sinh con cái. Vì hy vọng có nhiều công bằng hơn, nhiều người đã dấn thân vào đời sống xã hội và Giáo Hội. Những người khác đã chọn nghề nghiệp với hy vọng giúp cho trần thế tốt đẹp hơn nhờ công việc họ làm. Tất cả những sự dấn thân này, cho thấy chiều sâu của những niềm hy vọng.
Khi mong chờ lễ Giáng sinh chúng ta có thể nêu câu hỏi này: Những cuộc dấn thân như thế có được đáp ứng không? Chúa Giêsu có thể thỏa mãn những niềm hy vọng của chúng ta không?
Chúng ta cũng có thể biết chắc câu trả lời rồi. Nó đến từ Chúa Giêsu: “Hãy nhìn xem những gì đang xảy ra!”. Những sự kiện nào, những cuộc chữa lành nào, những hạnh phúc nào xung quanh chúng ta có thể là câu trả lời ấy?
27. Đấng phải đến
Chúng ta thường cầu nguyện: “Lạy Chúa, con rất vui vẻ thi hành thánh ý Ngài. Con chỉ xin Ngài tỏ cho con biết thật rõ ràng Chúa muốn con phải làm gì?”.
Khi còn nhỏ, tôi nghĩ rằng các đấng thánh là những người biết chính xác điều Thiên Chúa muốn. Khi Ngài muốn các thánh làm điều gì, Ngài gửi sứ giả đến. Sứ giả là các thiên thần thường mặc áo dài trắng và đàng sau lưng có khoét hai cái lỗ lớn để đeo cánh. Nhưng khi lớn lên, đọc hạnh các thánh, tôi biết thêm về đời sống của các ngài cũng rất giống tôi. Họ cũng thường gặp khủng hoảng rắc rối để tìm ra điều Thiên Chúa muốn. Đôi khi còn tệ hơn nữa, có những vị lúc đầu nghĩ rằng mình đã biết chính xác ý muốn của Thiên Chúa, nhưng sau nhiều năm, các ngài lại không còn chắc chắn nữa. Có những vị lại khám phá thấy mình đã đi sai đường, và phải quay trở về để hoàn toàn bắt đầu lại một đường hướng mới.
Trường hợp của Thánh Gioan tẩy giả ngồi trong tù, trong bài Phúc âm hôm nay, đặt vấn đề hoài nghi về Chúa Giêsu là một điển hình: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”. Gioan nghi ngờ về những điều Thiên Chúa muốn ông đã rao giảng trước đây rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để các anh giục lòng sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người”.
Gioan Tẩy giả đang bị ngồi tù. Nhà tù là nơi thử thách, gây thất vọng và nghi ngờ. Đành rằng trước đây, Gioan đã biết rõ Đức Giêsu là ai rồi, nhưng trong tù niềm tin đó có thể gặp thử thách. Trong tù Gioan mong đợi ngày giờ giải phóng của Đấng Cứu Thế.
Dân Do Thái cũng không khác gì Gioan, đang bị giam cầm bởi đế quốc Rôma. Gioan đặt vấn đề chắc chắn không phải vì ích lợi của cá nhân ông, nhưng của những người môn đệ theo ông và của toàn dân Do thái. Phúc âm ghi rõ lời của Gioan: “Chúng tôi còn phải đợi…”. Trong cách hỏi này, đã ẩn ý Gioan là đại diện cho toàn thể dân Do Thái đang mong đợi Đấng Cứu Thế.
Nhà tù mang hình ảnh của mùa vọng. Một người chỉ ngồi chờ đợi, hy vọng, làm những việc không cần thiết và hoàn toàn tùy thuộc vào nỗi ước mong rằng cánh cửa tự do sẽ được mở ra “từ phía bên ngoài” (Bonhoeffer).
Con người hôm nay cũng đang ngồi trong những nhà tù của riêng mình. Chúng ta đang mong chờ một người nào đó sẽ đến để giải thoát. Khi phải đối diện với những giới hạn của cuộc sống và của thân phận con người, chúng ta cũng đặt vấn đề như Gioan. Nhà tù là những thử thách của đau khổ, thất bại và đổ vỡ trong gia đình như vợ chồng ly dị, con cái xung khắc nhau, thất nghiệp, bệnh tật lâu ngày, ung thư, những người thân yêu phải chết, con cái sinh ra mang tật nguyền v.v… Thỉnh thoảng qua bạn bè chúng ta cũng sai người đi dò hỏi xem: “Có người nào có thể giúp tôi thay đổi được tình trạng này không?”.
28. Đấng phải đến
Tác giả sách “Gương Chúa Giêsu” viết như sau: “Bao lâu chúng ta sống trong thế giới này, chúng ta không thể tránh được đau khổ và cám dỗ”. “Tại sao lại đi tìm kiếm sự nghỉ ngơi trong khi chúng ta đã được sinh vào nỗi khốn khổ”. Tác giả biết không ai có thể tránh được đau khổ vì con người đã bị mất ơn sủng. Đau khổ nhắc nhở chúng ta rằng thế giới này không phải là nơi ở vĩnh viễn của con người. Trong đau khổ chúng ta học cách tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa, những lời hứa cho tương lai, không phải ở hiện tại. Những lời hứa chỉ được hoàn thành trong Chúa Giêsu Kitô.
“Chúa Giêsu, dù là Con, nhưng đã nhờ sự chịu đau khổ mà học được đức vâng lời”, phương chi chúng ta, những tạo vật và những tội nhân, đã được nhận làm những nghĩa tử ở trong Ngài”.
Trong đau khổ, thử thách và gian nan, Chúa Giêsu Kitô chính là niềm hy vọng, là những dấu hiệu chứng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa mà Gioan tẩy giả đã mong đợi. Chính Ngài sẽ giúp chúng ta định hướng cho cuộc đời: “Người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, màu của phụng vụ là màu hồng. Mầu hồng biểu tượng cho niềm vui và hy vọng. Giáo Hội gọi Chúa nhật này là “Chúa nhật gaudete”, Chúa nhật Vui mừng”. Vui mừng vì Đấng Cứu Thế đã đến gần. Tôi biết sẽ có người nói rằng: “Tôi chẳng cảm thấy vui chút nào!” “Đúng, ngay cả Gioan Tẩy giả ở trong tù cũng không cảm thấy vui!” Niềm vui tôn giáo, nhất là sự vui mừng của Tin Mừng không phải là một cảm giác, hay một cảm xúc, nhưng là một niềm xác tín của đức tin, đức cậy và đức mến nơi Chúa Giêsu Kitô. Sách Giáo lý Công giáo dạy: “Đức tin cho ta nếm trước niềm vui và ánh sáng của sự hưởng kiến diễm phúc trên trời…”
Vị thầy vĩ đại đã cảm nghiệm được niềm vui đích thật chính là thánh Phanxicô thành Assisi. Khi còn là một thanh niên trẻ, ngài đến viếng thăm Rôma, quì gối cầu nguyện trước mộ thánh Phêrô, và trong sự biết ơn đối với thánh cả, Phanxicô đã quăng vài đồng tiền kẽm vào, qua những chắn song sắt. Nhưng khi vừa bước ra ngoài đường ngài liền gặp một người ăn xin. Trong giây phút xúc cảm, Phanxicô đã yêu cầu người ăn xin đổi chiếc áo choàng của anh cho ngài. Phanxicô đang làm việc cho cha là một thương gia giàu có, chiếc áo choàng của ngài rất đắt tiền và quí phái. Người ăn xin rất sung sướng, và còn sướng hơn nữa vì có những đồng tiền cắc sót lại trong túi áo. Rồi sau đó, Phanxicô đã ngồi ở góc đường, làm công việc rất nhục nhã: xin ăn những người qua lại bên đường. Nhưng ngày hôm đó ngài đã cảm nghiệm được một niềm vui không tả xiết. Nguồn vui ấy đã hình thành nền tảng cho một trong những dòng tu lớn nhất của lịch sử Kitô giáo.
Chỉ nhờ vào niềm tin cậy mến nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa sẽ ngự đến trong tâm hồn chúng ta trong suốt mùa vọng và Giáng sinh để ban cho ta khả năng chịu đựng những đau khổ, gian truân, thử thách và cảm nghiệm được niềm vui cũng giống như thánh Phaolô và thánh Gioan tẩy giả khi xưa ngồi trong tù.
29. Sứ giả của Thiên Chúa
Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại rực rỡ nhất với uy quyền bành trướng khắp nơi. Vi hoàng đế không phải chỉ cai trị một cách tuyệt đối tại kinh thành La mã, mà còn ở tất cả những quốc gia, những dân tộc nằm trong lãnh địa của mình.
Nếu vị hoàng đế quyết định ghé thăm thủ đô của một thuộc địa xa xôi nào đó, ông ta sẽ sai sứ giả đi trước, có nhiệm vụ báo tin cho dân chúng biết cuộc viếng thăm và đốc thúc họ chuẩn bị cuộc đón rước sao cho linh đình và trọng thể. Trong khi chờ đợi, chính vị sứ giả cũng sẽ được tiếp nhận với tất cả vinh dự của mình.
Đúng thế, vào lúc vị vua tối cao của trời và đất sắp đến thăm hành tinh nhỏ bé này để ở giữa chúng ta, Ngài cũng đã chọn lựa cho mình một vị tiên tri, một vị sứ giả, như lời tiên tri Malachia đã loan báo:
- Này đây, ta sai sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con.
Lời nói này ám chỉ về Gioan tẩy giả. Bởi vì ở bờ sông Giócđan, Gioan tẩy giả đã rao giảng và trao ban phép rửa thống hối cho người Do thái để họ chuẩn bị đón mừng đấng cứu thế:
- Có tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Gioan tẩy giả không bảo họ treo cờ, giăng biểu ngữ hay làm cổng chào, nhưng bảo họ hãy sống tinh thần sám hối, xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi chính là những chướng ngại vật ngăn chặn không cho Chúa đến với chúng ta.
Nếu không hoán cải, nếu không quay trở về với Chúa, thì này đây, cái dìu đã được đặt dưới gốc cây và cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Gioan tẩy giả cũng tụ tập chung quanh mình một số môn đệ. Nhưng rồi một ngày kia, khi Chúa Giêsu xuất hiện và đi ngang qua. Gioan tẩy giả đã vội vã giới thiệu Chúa Giêsu cho họ:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian.
Và lập tức các môn đệ ấy đã rời bỏ Gioan tẩy giả để theo Chúa Giêsu. Đó chính là điều Gioan đã mong ước.
Chúng ta có thể nói được rằng:
- Khát vọng duy nhất của Gioan tẩy giả là dẫn đưa các linh hồn về với Chúa Giêsu.
Phải chăng ông đã chẳng công bố:
- Đức Kitô phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Một sự từ bỏ dứt khoát đáng cho chúng ta ca tụng và bắt chước, vì chúng ta không có quyền tìm kiếm cho mình những vinh dự đã được dành cho Chúa Giêsu.
Hơn nữa, chính Chúa Giêsu còn nói rõ qua đoạn Phúc âm vừa nghe: Gioan đã hoàn tất sứ mạng của mình mà không lo lắng gì đến dư luận, Gioan đã mặc cho người nói ngược nói xuôi, còn mình vẫn vững như kiềng ba chân. Phải chăng người ta đã trách cứ ông chỉ là một cây sậy bé bỏng, một cái đạp nhẹ cũng sẽ làm cho nó bị dập nát? Hay chỉ là một ngọn cờ bị cuốn theo chiều gió. Không, Gioan có con đường của mình, Gioan có sứ mạng phải theo đuổi.
Sau khi đã tìm hiểu một vài nét chính yếu về Gioan tẩy giả, mỗi người kitô hữu chúng ta cũng phải trở nên một vị tiền hô, một vị sứ giả của Thiên Chúa. Mỗi người kitô hữu chúng ta cũng có bổn phận phải đem Chúa, phải giới thiệu Chúa cho những người chung quanh.
Chúng ta phải làm chứng về Chúa bằng lời nói và nhất là bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bái ái và yêu thương của chúng ta. Tất cả những người đã lãnh nhận bí tích rửa tội đều được mời gọi để chuẩn bị con đường cho chúa đến trong tâm hồn mình và trong tâm hồn người khác, tùy theo cách thức và hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Có một em bé mới lên bốn đã cảm hóa được người cha, để ông làm dấu và đọc kinh trước bữa ăn. Câu chuyện rất đơn sơ. Trưa hôm đó, em đang chơi đồ hàng ngoài sân, thì người chị kêu về ăn cơm. Ngồi vào bàn, em lén lút nhìn người cha, và khẽ nói:
- Ba à, Ma-sơ bảo phải đọc kinh trước khi ăn cơm.
Lúc đó người cha chỉ còn cách làm dấu và đọc Kinh Lạy Cha, một thói quen mà ông đã bỏ từ lâu.
Có một bác sĩ giải phẫu đã ăn năn trở lại chỉ vì một em bé đau yếu, em vừa mới được bảy tuổi và bị giải phẫu. Ông bác sĩ ấy đã kể lại như sau:
Hôm đó, em được đưa vào phòng mổ và trước khi gây mê cho em, tôi đã nói với em:
- Chúng tôi sắp sửa chữa cho cháu được khỏi, nhưng trước hết cháu cần phải ngủ.
Nhưng em bé đã trả lời với tôi:
- Vậy hãy để cho cháu cầu nguyện một chút.
Nói đoạn em quỳ xuống bên cạnh bàn mổ, hai tay chắp lại, đôi mắt ngước lên cao, em khẽ đọc một kinh lạy cha. Lúc bấy giờ vị bác sĩ và những cô y tá đều cảm động đến nỗi rưng rưng như muốn khóc. Vị bác sĩ đã kể tiếp: Sau đó, tôi cảm thấy lương tâm cắn rứt, tôi đã đi xưng tội, và mỗi buổi tối, tôi không bao giờ đi ngủ mà không đọc kinh, mà không cầu nguyện.
Này ta sai sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con. Những lời nói này làm cho chúng ta liên tưởng tới Gioan tiền hô, nhưng cũng được áp dụng cho mỗi người chúng ta. Phải, mỗi người chúng ta đều được mời gọi để trở nên một vị tiền hô, một vị sứ giả của Chúa.
Trong mùa vọng này chúng ta hãy suy nghĩ và sống cái sứ mạng đó, bởi vì chúng ta chỉ có một nỗi băn khoăn và bận tâm, đó là phải sống thế nào để Chúa đến trong tâm hồn anh em của chúng ta?
30. Vui lây
Người đàn ông đã sáng chế ra lại "Cái Ôm Hôn Thánh Thiện" ở thời đại chúng ta là ông Leo Busaglia. Ông đã viết một bài trong cuốn báo "Women's Day" với tựa đề là "Cuộc Giáng Sinh theo Matthêu Mập." Buscaglia lúc đó mới tốt nghiệp đại học là một thầy giáo và được bổ nhiệm để tổ chức một hoạt cảnh Giáng Sinh. Các vai trong hoạt cảnh đã được các em trong lớp sắp đặt. Riêng vai Thánh Giuse thì do em "Matthêu Mập" phụ trách. Các học sinh đều cho rằng Matthêu Mập đóng vai Thánh Giuse là đúng nhất, tuy nhiên Buscaglia thì lưỡng lự bởi vì em là một học sinh cao nhất trong lớp và đồng thời cũng là một đứa trẻ hiếu động nhất. Sau những tuần tập dợt, ngày trình diễn đã đến. Sau khi bài thánh ca hát đến câu cuối, "Chúa Kitô, Đấng Cứu Tinh đã sinh ra... Chúa Kitô Đấng Cứu Tinh đã giáng trần," thì tấm màn sân khấu mở ra. Trên sân khấu, Đức Mẹ và Thánh Giuse đang nằm ngủ trên những bao bột, và xung quanh là các con vật đang kêu ra những tiếng của chúng. Cynthia đã quên vai của cô là con chiên, và cô đã rống "mu mu", tiếng của con bò. Còn Paul thì chỉ quay xuống nhìn khán giả và chạy vô trong. Sau đó, thiên thần thứ nhất xuất hiện. Trên tay của thiên thần là Chúa Hài Đồng. Một cách cẩn thận, thiên thần đặt em bé trên đống rơm ở phía chân của Đức Mẹ và đọc bài Phúc Âm Giáng Sinh của Chúa Giêsu theo Thánh Luca. Sau đó, Matthêu Mập, trong vai Thánh Giuse, thức dậy, ngáp, và giựt mình khi nhìn xuống phía chân của Đức Mẹ. "Cho đến ngày hôm nay", Tiến Sĩ Buscaglia viết, "tôi vẫn không thể tưởng nổi điều gì đã ám ảnh nó. Matthêu Mập đánh thức Đức Mẹ và hét lên, "Maria, Maria, thức dậy và nhìn xem em bé bà đã có trong đêm qua!"
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả đã khuyến khích đám đông đang vây quanh ông hãy mở mắt và tâm hồn mình ra mà nhìn vào Chúa Giêsu, Đấng đến sau ông, nhưng có trước ông, và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài.
Chúa Giêsu là Người độc nhất trong lịch sử của loài người. Sự giáng trần của Ngài là một sự kiện độc nhất, mà Ngài đã hiện hữu từ muôn đời và bây giờ đến trong thế gian với thân phận con người. Ngài độc nhất trong lời giảng dạy và việc làm. Ngài độc nhất trong sự hiền lành và quyền năng. Ngài độc nhất trong cái chết và sự phục sinh. Ngài độc nhất vô tội. Điều mà Thánh Gioan Tẩy Giả tuyên bố cũng giống như lời thiên thần báo tin Giáng Sinh của Chúa Giêsu cho các mục đồng"...này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa" (Lc 2:10-11).
Dân Chúa là đoàn dân của sự vui mừng, bởi vì trong và qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa ban chính Ngài cho chúng ta cho dù trong cảnh tối tăm nhất của cuộc đời chúng ta. Toàn bộ Tân Ước là những cuốn sách vui mừng từ đầu cho tới cuối. Sự vui mừng này được diễn tả một cách đặc biệt trong thư của Thánh Phaolô. Ngài đã phải trải qua bao nhiêu đánh đập, sỉ nhục, gian nan, tù tội. Hơn nữa, ngài còn phải đương đầu với biết bao nhiêu vấn đề trong xã hội cùng với biết bao nhiêu người khác: cả triệu người trong cảnh nô lệ; cả triệu người đói khổ, và hàng ngàn người chết oanh liệt chỉ vì họ là Kitô hữu. Và trong những lúc như thế, Thánh Phaolô đã không ngừng khuyến khích các cộng đoàn: "Anh em hãy vui mừng luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!... Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu" (Phil 4:4-7).
Thánh Tông Đồ Phaolô đã biết rằng cuộc sống vui mừng có động lực thu hút sự sống vào chính nó. Điều đó có nghĩa là sự chan chứa niềm vui thì tự đặt mình vào chỗ đón nhận thêm sự sống, niềm vui, và hy vọng. Ngược lại, người chối bỏ cuộc sống là người luôn than thở và thất vọng. Họ hướng về sự tiêu cực, tối tăm, bệnh tật, và sự chết. Chúng ta nhìn thấy rõ sự đó. Đó là một định luật của cuộc sống. Đó là một phần mà Chúa Giêsu đã có ý nói tới khi Ngài phán: "Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất" (Mt 13:12). Đó là cách xoay tròn của cuộc sống. Khi mà tâm hồn của bạn tràn ngập niềm vui, thì bạn sẽ lãnh nhận nhiều hơn nữa; ngược lại, khi tâm hồn bạn không có chút niềm vui nào, thì bạn sẽ mất tất cả. Thánh Phaolô cũng biết rằng cuộc sống vui tươi thì có chiều hướng lan truyền cho người khác.
Bạn hãy nghĩ đến một người nào đó mà đã gây ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống của bạn. Người đó không phải là người sống tiêu cực hoặc thất vọng, nhưng là một người biết vui sống. Chúng ta nhìn thấy một điều gì đó ở trong họ mà chúng ta cũng muốn ôm ấp. Trong công cuộc truyền giáo của chúng ta, đó là cách thức mà chúng ta có thể kéo người khác đến với Chúa Kitô.
Các Kitô hữu thời sơ khai đã có thể lôi kéo thế giới tin theo Chúa Kitô là bởi vì họ đã biết lan tràn sự vui mừng của họ ra cho thế giới. Đánh mất niềm vui đó là dấu hiệu chúng ta đã đánh mất Thiên Chúa. Và thế giới không còn trông mong điều gì ở chúng ta.
Thiên Chúa ban cho dân Ngài sự vui mừng, và qua đó, Ngài ban sự vui mừng cho thế giới!
31. Đức Kitô, Ngài là ai?
Gioan ở trong tù đã nghe nói về những việc làm của Đức Kitô, và đã sai môn đệ đến hỏi Ngài: "Ngài có phải là 'Đấng sẽ phải đến' hay chúng tôi còn phải chờ đợi người khác?" - Chúng ta biết câu trả lời của Đức Kitô (Mat. 11:2-5). Và sau khi tán dương ông "Gioan người-làm-phép-rửa", Ngài thêm: "... Hơn nữa, người bé mọn nhất sinh vào Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông" (Mat. 11:11).
Câu hỏi của Gioan và câu trả lời của Đức Kitô làm chúng ta liên nghĩ đến rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng, rải rác trong các bài giảng hoặc dụ ngôn hoặc động tác của Đức Kitô đối với "người bé mọn nhất sinh vào Nước Thiên Chúa". Chúng ta chỉ cùng nhau suy niệm câu của chính Đức Kitô nêu lên hỏi các môn đệ Ngài, và hỏi mỗi một chúng ta, hôm nay, bây giờ: "... Còn anh em, anh em bảo tôi là ai?" (Mat. 16:15)
Thánh Phêrô hăng hái trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mat. 16:16), nhưng sau đó chối từ Thầy kính yêu, "Con Thiên Chúa hằng sống". Chẳng những một lần mà đến ba lần! Chẳng những chối "không hề biết", mà còn thề "...tôi thề là không biết người đó!" (Mat. 26:69-75; Mc.14:66-71; Lc. 22:54-60; Ga.18:25-27).
Thánh Phaolô, trái lại, hùng hổ lên đường tìm bắt những người tin theo Đức Kitô, "bất luận đàn ông hay đàn bà, đều trói giải về Giêrusalem". Trên đường tới gần Damas, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe tiếng nói: "Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ tôi?". Ông hỏi lại: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Tiếng từ trời đáp: "Tôi là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ." (Cv. 9:1-5).
Thánh La San bị người nhà chê bai và khinh thị vì bán hết gia tài phân phát cho người nghèo đói, bị giáo quyền đương thời "treo chén" vì cùng một số thầy giáo quê mùa dấn thân trọn vẹn dạy dỗ và giáo dục "con em gia đình nghèo hèn giới thợ thuyền không ai chăm lo", để rồi cuối cùng trước khi tắt thở đã thốt lên: "Tôi thờ lạy thánh ý Chúa qua mọi biến cố xảy ra trong đời tôi".
Phần chúng ta, hôm nay, bây giờ, chúng ta trả lời làm sao cho Gioan Tẩy giả? Chúng ta trả lời làm sao cho câu hỏi của chính Đức Kitô?
Phải chăng
* mỗi lần chúng ta "thật tình yêu thương hướng dẫn một em bé lớn lên trong lối sống đạo dức, lành mạnh" (thánh La San);
* mỗi lần chúng ta đưa tay giúp đỡ một người già yếu;
* mỗi lần chúng ta mĩm cười thông cảm, ủi an một người đang buồn sầu;
* mỗi lần chúng ta thật tình chung vui chia sẻ với một người gặp điều may mắn và cùng họ cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa;
* mỗi lần chúng ta tự dè xẻn chi tiêu hằng ngày để chia sẻ và thông phần giúp đỡ một người đang gặp tai ương;
* mỗi lần v.v....
là câu trả lời thích đáng nhất cho câu hỏi của chính Đức Kitô: "Còn anh em, anh em bảo tôi là ai?"?
32. Còn đợi chờ ai?
(Lm. Phạm Quốc Hưng)
“Có phải Ngài là Đấng sẽ đến, hay chúng tôi phải đợi người khác?”
Bà Terry có một cô con gái tên là Cathy đến tuổi kết hôn. Bà bắt đầu để ý giúp con chọn bạn trăm năm. Cathy rất thân mẹ và tâm sự với mẹ về mẫu người lý tưởng của cô: “Anh ấy phải là người hơn con ít là hai tuổi, phải cùng là Công giáo, tương đối dễ coi, phải bằng con hay hơn con ít nhiều về trình độ học thức nghĩa là phải có bằng BA hay BS, chưa bao giờ kết hôn, không bồ bịch lăng nhăng, biết đàn ca và nhảy đầm chút ít, không hút thuốc hay rượu chè cờ bạc, có công ăn việc làm đàng hoàng, biết cách đối xử với gia đình của anh ấy, và nhất là phải được mẹ bằng lòng.”
Nghe con tâm sự như thế, bà Terry rất đỗi vui mừng vì bà cũng có cùng ý nghĩ như Cathy. Bà sung sướng khi được Cathy kể cho bà nghe các liên hệ tình cảm của nàng để bà góp ý. Có rất nhiều chàng trai để ý Cathy, nhưng không ai hội đủ những điều kiện hợp với mẫu người lý tưởng mà nàng đã đưa ra.
Đến một ngày nọ, bà nghe Cathy kể về một chàng trai đang để ý nàng tên là Tony với tất cả những phẩm chất mà Cathy hằng mong mỏi. Chỉ còn một điều kiện duy nhất Tony chưa có là phải được bà bằng lòng. Thế là bà Terry nói Cathy mời Tony về nhà chơi để bà góp ý. Chỉ sau ít lần gặp gỡ Tony, bà đã nhận ra đây đúng là mẫu người chồng lý tưởng cho con mình và đúng là mẫu rể quý bà hằng mong đợi. Bà nói với Cathy: “Đây chính là người rất xứng hợp với con, mẹ hoàn toàn bằng lòng và sẽ tận tình lo chuyện thành hôn cho hai đứa.”
Nhưng bà ngạc nhiên khi nghe Cathy nói: “Nhưng con sẽ không lấy Tony đâu vì con không có cảm tình với anh ấy.” Bà Terry buồn bực nói với con: “Già kén kẹn hom. Con còn đợi chờ ai?”
Cũng như Cathy đang kiếm tìm một người bạn trăm năm lý tưởng, mỗi người trong nhân loại qua bao thế hệ cũng chờ mong một Đấng Cứu Thế, một mẫu người lý tưởng có thể làm thỏa mãn mọi khao khát chân thiện mỹ của lòng người.
Chúa Giêsu Kitô chính là mẫu người lý tưởng mà con tim nhân loại qua mọi thời đại hằng khao khát mong chờ. Ngài là người duy nhất có thể làm thỏa mãn mọi ước mơ sâu thẳm nhất của lòng người – ước mơ được thóat khỏi ách nô lệ của tội lỗi và nết xấu, ước mơ được sự sống đời đời, ước mơ được biết chân lỳ toàn vẹn, ước mơ được chiếm hữu sự thiện tuyệt đối, ước mơ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp vô cùng. Vì Ngài chính là Đấng Cứu Chuộc nhân thế, là nguồn Chân-Thiện-Mỹ, là Thiên Chúa làm người để đưa con người lên hàng Thiên Chúa, nghĩa là cho con người được chia sẻ chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Nhưng làm sao có thể biết được Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người và là Đấng Cứu Thế mà nhân loại hằng mong đợi, khi có quá nhiều bậc vĩ nhân từng xuất hiện trong lịch sử nhân loại, những vĩ nhân đã có hàng triệu người sùng bái như Socrates, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca, Mohammed?
Đức Cha Fulton Sheen đã đưa ra ba tiêu chuẩn để giúp ta nhận biết ai là Đấng Cứu Thế đích thực được Thiên Chúa sai đến cho nhân loại.
Thứ nhất: Người ta phải được thông báo trước về sự xuất hiện của người ấy.
Thứ hai: Người ấy phải làm được những phép lạ để mọi người thấy rõ quyền năng của Thiên Chúa ở nơi người ấy.
Thứ ba: Những lời nói và việc làm của người không được đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của con người.
Tất cả những nhân vật vĩ đại nói trên đã không thỏa mãn tiêu chuẩn đầu tiên, chưa nói đến hai tiêu chuẩn sau.
Chỉ một mình Chúa Giêsu Kitô đủ cả ba tiêu chuẩn trên.
Sự ra đời, nơi sinh, hoàn cảnh tị nạn, các hoạt động, cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu đều đã được các ngôn sứ nói đến trước đó cả ngàn năm trong thời Cựu Ước.
Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều phép lạ để chứng minh Ngài thực sự là Đấng Thiên Sai. Phép lạ cả thể và lớn lao nhất mà Ngài đã thực hiện chính là phép lạ phục sinh của chính Ngài.
Tất cả các giáo huấn của Ngài không đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của con người, nhưng đã hướng lòng trí con người đến những gì cao trọng nhất và đáng yêu nhất là chính Thiên Chúa. Chính Ngài đã thực hiện hoàn hảo tất cả những gì Ngài hướng dẫn kẻ khác.
Như vậy, Chúa Giêsu Kitô chính là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất đáng chiếm hữu trọn vẹn tình yêu của trái tim nhân loại.
Đó chính là điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nói với chúng ta.
Các môn đệ của Gioan được sai đến với Chúa Giêsu đã thay mặt toàn thể nhân loại qua mọi thời đại để hỏi Ngài câu hỏi quyết định sau: “Có phải Ngài là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn phải đợi người khác?” (Mt 11:3)
Chúa Giêsu đã tự xác nhận Ngài là Đấng Thiên Sai vì chính Ngài đã thực hiện những phép lạ và hoàn tất những lời tiên tri về Ngài như sau: “Các ông hãy tin lại cho Gioan mọi điều tai nghe mắt thấy: Mù được sáng mắt và què được đi, phung hủi được sạch, và điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại, và ngườ nghèo khó được nghe báo Tin Mừng; và phúc cho người không bị vấp ngã vì Ta.”(Mt 11:4-6)
Đấng Thiên Sai mà nhân loại mong mỏi đợi chờ qua bao thế hệ đã đến với nhân loại và đã hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chua dành cho chúng ta.
Đó là niềm vui của Hội Thánh suốt hơn hai ngàn năm nay, và Hội Thánh không ngừng mời gọi mọi người chia sẻ niềm vui ấy, nhất là trong mùa vọng.
Thật thích hợp khi Giáo Hội biểu lộ niềm vui lớn lao ấy qua việc gọi Chúa nhật tuần này là “Chúa Nhật Mừng Vui” với việc xử dụng màu hồng trong phụng vụ. Nhưng chúng ta chỉ cảm nhận niềm vui này cách trọn vẹn khi chúng ta có cùng một niềm tin của Hội Thánh nơi Chúa Kitô và chấp nhận bước vào liên hệ tình yêu thiết thân với Chúa Kitô, qua việc lắng nghe và thực hành tất cả những lời Chúa Kitô và Hội Thánh truyền dạy. Đó chính là điều các thánh đã chọn để thực hiện trong cuộc đời các ngài.
Nếu không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai, thì chúng ta còn đợi chờ ai?
Lạy Mẹ Maria là Đấng “làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy”, xin Mẹ hãy cầu cùng Chúa cho chúng con ngày thêm xác tín rằng chỉ một mình Chúa Giêsu Con Mẹ là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất có thể đem lại niềm vui viên mãn và ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống của chúng con. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con luôn gắn bó với Người trong mọi nơi mọi lúc, và hân hoan làm chứng về Người cho những ai chưa nhận biết Người để niềm vui cứu độ được lan rộng nơi tất cả những tâm hồn thiện chí. Amen.
33. Bạn có phải là Đức Giêsu không?
(Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Trong một lớp học giáo lý dành cho các em lớp Sáu mới chuyển cấp, một thầy giáo muốn dạy về Chúa Giêsu nên khai mào bằng những lời sau đây: “Hôm nay thầy muốn giới thiệu với các em về một nhân vật mà tất cả chúng ta đều phải gặp mặt. Nhân vật đó là một người rất yêu thương và quan tâm đến các em còn hơn cả cha mẹ, anh chị, hay bạn bè của các em. Ngài là người rất nhân từ và sẵn sàng tha thứ cho dù lầm lỗi của các em có khủng khiếp đến đâu đi chăng nữa. Dù các em có xấu xa thế nào thì ngài vẫn đón nhận, cảm thông và yêu mến.”
Đang khi nói, thầy giáo để ý thấy một đứa bé chăm chú lắng nghe và tỏ vẻ thích thú lắm. Thế rồi, dường như không cầm lòng được, cậu ta buộc miệng thốt lên: “Ồ, em biết thầy đang nói về ai rồi. Có phải là cha quản nhiệm của chúng ta không?"
Chẳng biết thầy giáo trả lời với em bé thế nào, nhưng câu nói của em đã khiến tôi giật mình. Em đã nhìn thấy nơi vị linh mục quản nhiệm hình ảnh của Đức Giêsu mà thầy giáo đang muốn trình bày. Không biết các hành vi, thái độ, lối sống nơi con người tôi có làm toát lên dung mạo của Đấng Cứu Thế không? Người ta sẽ thấy và nghĩ tôi là ai, một người có Chúa Giêsu hay một kẻ vô đạo?
Ngày xưa, khi Gioan sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”, Ngài đã không trả lời bằng những câu rất dễ như: “Đúng vậy” hay “Ta là Đấng các ngươi mong chờ.” Trái lại, Đức Giêsu đã hướng hai ông đến với các việc Ngài làm. Những gì mà xưa kia Isaia tiên báo về Đấng Cứu Thế thì nay đang thành sự. Ấy là: “Mù được sáng mắt, què được đi, phong hủi được sạch, điếc được nghe, kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được loan báo tin vui.”
Đúng là trăm nghe không bằng mắt thấy. Lời nói dễ hơn việc làm, nhưng hành động mới chinh phục mạnh hơn ngôn từ. Đức Giêsu đã khẳng định Ngài là Đấng phải đến không phải chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động. Và Ngài mời gọi hai môn đệ hãy nhìn vào bao sự lạ lùng đang xảy ra để thuật lại cho Gioan, hầu củng cố niềm tin của ông vào Đức Mesiah.
Chắc hẳn niềm tin này không mang ông ra khỏi bao tù của vua độc gài và gian dâm Hêrôđê, người đã loạn luân khi lấy vợ của anh mình; niềm tin đó cũng chẳng giúp ông thoát được cái chết đớn đau cô độc, nhưng nó lại có sức trợ lực ông vững bước đến cùng trên hành trình rao giảng và bênh vực cho Chân lý. Đây là phúc lộc lớn lao mà Đức Giêsu muốn trao tặng cho vị tiền hô của mình: “Phúc cho người không vấp ngã vì Ta.” (Mt 11:6)
Có thể nhiều khi trong đời, tôi phải trải qua những bế tắc của chốn “lao tù” thế gian, chung quanh chỉ là bóng tối của khốn khổ lao đao. Nào là tai ương ập xuống, vợ chồng mất việc, tài sản hư hao, con cái bệnh tật... rồi bao cảnh trái tai gai mắt dường như muốn đánh gục niềm tin của chính mình. Và có lẽ đã không ít lần tôi hỏi Chúa: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không, hay tôi phải tìm đến người nào khác? Có lẽ thầy này, bà kia, hay chiêm tinh gia này, tử vi bói toán nọ còn có thể cứu tôi, chứ theo Đức Giêsu... sao chẵng thấy được gì.” Phải chăng không ít lần tôi cũng đã đặt vấn đề như thế?
Trước bao tăm tối và nghi nan nơi ngục tù, lời nói của Chúa Giêsu - “Phúc cho người không vấp ngã vì Ta” đã trở thành lời an ủi khích lệ lớn lao cho Gioan. Cuối cùng, ông đã đóng trọn vẹn vai trò tiền hô cho Đấng Cứu Thế bằng những giọt máu hành anh của mình.
Không mong được giải thoát bằng phép lạ, nhưng chỉ khát khao được đỡ nâng để đi đến cùng hành trình đức tin của mình chính là mẫu gương cho tôi nhắm tới. Khi nền luân lý bị nhiễu nhương, khi đam mê xác thịt quật ngã bao lớp người, khi tình trạng rối vợ rối chồng xảy ra như cơm bữa, tôi phải có can đảm lội ngược dòng đời, dù như thế sẽ bị cô độc lẻ loi, dù như thế sẽ bị giam hãm đọa đày, nhưng chỉ có sống như thế, tôi mới làm sáng tỏ dung nhan Đức Kito, Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống.
Nói tôi có đạo, dễ quá. Chứng minh tôi có niềm tin vào Thiên Chúa bằng lối sống ngay chính và bằng hành vi yêu thương quả là một thách đố không nhỏ bé gì.
Song, “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi,” ngôn sứ Isaiah đã nói như thế, bởi vì rồi đây “Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy (ánh quang chân lý), tai người điếc sẽ được nghe (Tin mừng cứu độ), người què sẽ nhảy như nai (trên lối đường công chính)...người ta sẽ hoan hỉ triền miên và vui mừng khoái trá. Họ sẽ không còn đau buồn nữa, và rên siết sẽ trốn xa.” (Is 35)
Sự đỡ nâng lớn lao nhất cho người Kitô hữu chính là Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ai siêng năng rước Chúa sẽ nhận được sức mạnh vượt thắng bao giông tố của dòng đời. Ai thường xuyên tiếp đón Ngài sẽ được trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”, và lúc ấy, “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nhưng Đức Kitô sống trong tôi.” (Ga 3:20)
34. Thầy có thật là đấng phải đến không?
(Lm FX Vũ Phan Long)
Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người.
1- Ngữ cảnh
Với các chương 11–12 này, chúng ta đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong mười chương trước, Nước Trời đến gần, dường như không hề gặp trở ngại nào; ở đây, có điều mới xuất hiện: các câu hỏi chính xác được đặt ra cho Đức Giêsu.
Gioan Tẩy Giả phái các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (11,3). Phía họ, những người Pharisêu cùng với các kinh sư (x. 12,38) đã ngỏ lời lần đầu tiên trực tiếp với Đức Giêsu với giọng trách móc và phê phán: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát” (12,2). Đó là những câu hỏi quan trọng vừa xuất hiện. Đứng trước bản thân và hoạt động của Đức Giêsu, người ta phải lấy lập trường. Dường như Đức Giêsu có thể là “đối tượng gây vấp phạm” (11,6), còn “thế hệ này” không sẵn sàng đón tiếp Nước Trời đang đến gần, các thành ở bờ hồ không hoán cải (x. 11,20), phong thái của Đức Giêsu thực sự bị tranh luận (x. cả ch.12), và người ta đã “bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu” (12,14).
Bầu khí ngờ vực và đặt vấn đề này là bầu khí mới so với những gì xảy ra trước đây. Quả thật, cho tới nay, chúng ta đã thấy Đức Giêsu tỏ mình ra dần dần như là Đấng Mêsia; các chặng chính được Đức Giêsu trình bày với một nội dung huấn giáo phong phú:
1. Như một đoạn văn tổng quát báo trước, các ch. 1–2 đã giới thiệu xuất xứ của Đức Giêsu, con cháu vua Đavít và tổ phụ Abraham; ngay vào thời thơ ấu, Người đã tỏ ra là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia, hoàn tất lịch sử thánh của Israel nơi bản thân và bằng số phận của Người.
2. Ở ch. 3–4, Vị Tiền Hô mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, đã ban phép rửa cho Đức Giêsu: dịp này, Đức Giêsu đã đăng quang làm Đấng Mêsia; sau khi đã được Chúa Cha ban chứng từ thánh hiến, đã chịu quỉ thử thách, Người đã đi loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.
3. Trong các ch. 5–7, qua huấn giáo của Đức Giêsu, người ta đã nhận ra quyền lực của Nước Thiên Chúa và đòi hỏi phải dấn thân; Bài Giảng trên núi đã khiến cho các đám đông phải kinh ngạc và thán phục.
4. Xuyên qua các phép lạ chữa bệnh mà Đức Giêsu đã thực hiện cũng như lời nói đầy hiệu năng của Người, các ch. 8–9 giúp khám phá ra uy quyền được ban cho Người cũng như quyền lực đầy năng động của Nước Thiên Chúa.
5. Ở ch. 10, qua bài sai ban cho Mười Hai Tông đồ và bài diễn từ truyền giáo, ta khám phá ra rằng các sứ giả của Nước Thiên Chúa được thực sự chia sẻ uy quyền của Đức Giêsu, do các ông được liên kết mật thiết với bản thân Người.
Xuyên qua tất cả các chương này, ta thấy danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, bay sang cả các miền chung quanh (x. 4,24; 9,26.31). Sự chống đối chưa lộ rõ bao nhiêu, chỉ có một vài lời chỉ trích phát xuất từ nhóm Pharisêu (x. 9,11) hoặc các môn đệ của ông Gioan (x. 9,14), dưới dạng những câu hỏi lịch sự, chỉ có một phản ứng quyết liệt hơn lộ ra ở 9,34, nhưng cũng còn ngắn ngủi, để rồi chỉ được nhắc lại và triển khai ở 12,24. Nói đúng ra, trong tất cả những chuyện này, chưa có tranh luận, và ngôn ngữ ẩn dụ của các dụ ngôn chưa được sử dụng, ngoại trừ câu truyện về hai loại nhà kết luận Bài Giảng trên núi (x. 7,24-27).
Tuy nhiên, nên ghi nhận phương diện đe doạ và xung đột đã được mười chương đầu này của Tin Mừng nêu lên: ý định nham hiểm của vua Hêrôđê (x. 2,16), cuộc chiến đấu chống các cám dỗ (x. 4,1-11), lời loan báo những bách hại (x. 5,10-12.44; và nhất là 10,16-23.38). Nhưng đấy là một sự đối kháng mà Đức Giêsu luôn chiến thắng, hoặc là một lời Đức Giêsu kêu gọi đừng sợ hãi, mà hãy nhận ra mối phúc của Nước Thiên Chúa ngay giữa cuộc đối đầu gian khổ. Dù sao, dường như ơn cứu độ đã được đảm bảo cho người nào đứng vững tới cùng (x. 10,22). Do giọng điệu tha thiết của Đức Giêsu nhằm giúp các môn đệ đối phó với những khó khăn và trở ngại họ sẽ gặp, Bài diễn từ truyền giáo đã mở ra một viễn tượng mới: đó là cuộc thử thách đức tin sẽ phải trải qua.
Đã đến lúc phải tự hỏi về ý nghĩa của hoạt động của Đức Giêsu, như Mt đã trình bày khá dài: phải nghĩ gì về những “việc Đức Giêsu làm” (11,2.19)? Phải hiểu thế nào về những “cử chỉ quyền lực” ấy (11,20.21.23)? Thật ra đây là câu hỏi về tư cách Mêsia của Đức Giêsu: từ ngữ “Kitô” mà Mt đã sử dụng trong ch. 1–2, đến đây mới xuất hiện lại (x. 11,2). Dường như bây giờ chúng ta đã rơi vào tình trạng lưỡng lự: ơn cứu độ vẫn còn được trình bày như có thể đạt được mà thôi, trong khi đó rõ ràng các lần từ khước, các chống đối, các tranh luận lại nối tiếp nhau đặt Đức Giêsu thành vấn đề. Tác giả sẽ trình bày phần Tin Mừng còn lại như câu truyện về một sự từ khước. Chính là theo chiều hướng này mà chúng ta có thể nói đến một khúc quanh trong diễn tiến của Tin Mừng Mátthêu.
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (11,2-3);
2) Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (11,4-6);
3) Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (11,7-11; ở trong TM, thì đọc tới c. 15).
3- Vài điểm chú giải
- Đấng phải đến (3): dịch sát ho erchomenos là “Đấng đang đến”. Chúng ta nhớ đến lời rao giảng trước đây của Gioan: “Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho opisô mou erchomenos)” (3,11). Lời này đưa chúng ta trở lại với sấm ngôn Isaia 40: “Kìa Đức Chúa đến với sứ mạnh [quang lâm hùng dũng], tay nắm trọn chủ quyền” (Is 40,10). Do đó, Đấng Mêsia cũng được gọi là “Đấng được chờ đợi”, “Đấng sẽ đến”, “Đấng Thẩm phán” (x. Dcr 9,9; Tv 118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh của Đấng Mêsia với việc người tiều phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với người nông dân sàng sảy sân lúa (3,12). Ông mời gọi người tội lỗi hoán cải và ban một phép rửa giúp bày tỏ lòng sám hối, trước khi Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa để tiêu diệt (3,11). Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng lửa không hề tắt mà tiêu diệt tất cả những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml 3,2-3).
- phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (6): “Cớ vấp phạm”, skandalon, là “cái bẫy đặt trên đường; chướng ngại vật làm cho người ta té ngã”; và nghĩa bóng là tất cả những gì làm cho người ta rơi xuống về mặt luân lý hay tôn giáo. Đức Giêsu tiên liệu rằng câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan thất vọng, bởi vì quan niệm của ông về Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang thực hiện hình ảnh Đấng Mêsia của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng của Phêrô khi nghe loan báo Thương Khó (Mt 16,22-23) hoặc Giôna sau khi thấy Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
4- Ý nghĩa của bản văn
Gioan Tẩy Giả đã loan báo là đến sau ông, sẽ có một người mạnh hơn ông và vượt xa ông về phẩm cách. Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và sẽ tách lúa với vỏ trấu ra (3,11t; x. Is 40,10).
Bây giờ Vị Tẩy Giả đang ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và những lời nói đanh thép của ông, vua Hêrôđê Antipa đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông nổi tiếng là đạo đức, ông được đối xử đặc biệt; các bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết những tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan tâm đến Đức Giêsu Nadarét.
* Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (2-3)
Gioan nghe nói đến những hành động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về Đức Giêsu như thế nào? Người có thật là Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng? Quyền bính và năng lực của Người đang đang được biểu lộ ra ở đâu? Chẳng lẽ trong thân phận tù tội, ông không đáng được Đức Giêsu dùng quyền lực Người mà giải thoát sao? Người có thật đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu chăng? Ở đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải nói năng và hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn chứ?
Khởi đi từ hoàn cảnh cá nhân ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt động của Đức Giêsu, Gioan nêu ra câu hỏi quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn tất mọi sự? Chúng tôi có thể tín nhiệm vào Người chăng? Người là ai? Các môn đệ của Vị Tiền Hô đã đến gặp Đức Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy họ đã dặn.
* Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (4-6)
Đức Giêsu không cung cấp một câu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn đệ Gioan, Đức Giêsu đưa Vị Tiền Hô trở lại điểm xuất phát của câu hỏi của ông. Gioan phải diễn dịch ra được câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là chính những việc đã thúc đẩy Gioan đặt câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về làm chứng cho thầy về những việc Đức Giêsu đã làm (“Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe”) và Đức Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc đến các lời hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x. Is 35,4; 29,18-19; 61,1).
Đức Giêsu khẳng định rằng lời hứa ấy đang được hoàn tất nơi các hành vi của Người; qua các hành vi này, quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban ơn cứu độ. Qua các hành động của Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa tể của Thiên Chúa với quyền lực và ân sủng, đang thật sự trở nên gần gũi (4,17). Quyền chúa tể này trước tiên không được tỏ ra như là khả năng thắng vượt các quyền lực đối lập của loài người: Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10); Đức Giêsu sẽ chết trên thập giá; các môn đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25). Triều đại Thiên Chúa cũng chưa tỏ hiện rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và vỏ trấu. Việc phán xét chung kết được dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ dữ sẽ bị tách ra khỏi những người công chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ được biểu lộ nơi sự kiện những người sống trong cảnh cùng quẫn sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi sự kiện Tin Mừng được loan báo với tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt đầu công việc rao giảng bằng cách loan báo mối phúc cho người nghèo (5,3); ở tại trung tâm của lời rao giảng này, có sứ điệp về vị Thiên Chúa quyền năng và nhân ái, sứ điệp về Cha Người và Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn cho tất cả mọi người được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc với Ngài. Đức Giêsu tự giới thiệu mình như là Đấng cứu chuộc những người cùng khổ và như sứ giả làm chứng về niềm vinh phúc ấy. Trước tiên Người không đến như một người đấu tranh chống lại bạo lực và như thẩm phán nghiêm khắc.
Mỗi người phải tự nhận định và lấy lập trường đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu cũng giúp chúng ta ý thức về điểm này: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (11,6). Người không áp đặt cách hành động của Người nhờ sức thuyết phục của những sự kiện hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho người ta đón nhận hoặc từ khước, cho người ta tin hoặc không tin.
* Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (7-11)
Sau khi đã trả lời câu hỏi về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu đề cập đến công việc và bản thân của Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca ngợi lối xử sự cương nghị và lối sống không ngạo mạn tự phụ của đấng không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý như một cây sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không ăn mặc lụa là mềm mỏng. Chính sự trung tín và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng tin. Nhưng ông còn hơn là một ngôn sứ. Tất cả những vị đến trước ông đều thuộc về thời đại lời hứa, các vị ấy chỉ loan báo từ xa biến cố Đấng Mêsia đến trong quyền lực và mang theo ân sủng (11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời kỳ hoàn tất, nên cao trọng hơn tất cả các vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay trước Đức Chúa và chuẩn bị trực tiếp cho Người đến (11,10). Ông là Êlia đi trước Đức Chúa và chuẩn bị cho dân chúng đón tiếp Người (11,14; x. Ml 3,23; H c 48,10).
Với cách đánh giá Vị Tẩy Giả như thế, Đức Giêsu một lần nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của ông. Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì với Đức Giêsu, thời này đã đến. Nếu Gioan là vị sứ giả dọn đường, thì với Đức Giêsu, người ta đã đón được Đức Chúa đến: không chính xác theo kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là theo cách Thiên Chúa đã định. Sánh với những người đã đến trước, ông là người cao trọng nhất. Sánh với những người đang thuộc về Đức Giêsu và có thể trải nghiệm sự gần kề của Nước Trời trong sự hiệp thông với Người, ông là người nhỏ. Sự vĩ đại và nhỏ bé ấy không liên hệ đến ơn cứu độ hoặc giá trị luân lý của con người, nhưng liên hệ đến thời gian và biến cố trong đó người ấy được tham dự vào. Chính vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có phúc so với nhiều ngôn sứ và người công chính (13,16t). Như thế, thời đại và công trình của Đức Giêsu có một ý nghĩa duy nhất.
+ Kết luận
Qua các môn đệ của Vị Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho chúng ta: Người chính là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài hứa; chỉ có con người qua dòng thời gian, đã giải thích sai lạc lời Thiên Chúa hứa để đưa nhau đến những niềm chờ mong hão huyền, theo lòng dạ hẹp hòi của mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều chỉnh lại cách chúng ta nhìn lịch sử cứu độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của chúng ta, nhưng đúng theo chương trình của Thiên Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay, người môn đệ nhận ra rằng mình cũng được mời gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối với con người hôm nay, thì chúng ta cũng cần nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu toàn được sứ mạng nếu dựa vào phẩm cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta loan báo.
5- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, nhiều Kitô hữu vẫn đang mơ một ơn cứu độ không phù hợp với cách Thiên Chúa quan niệm. Việc Đức Giêsu chữa bệnh và nhất là việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo cho thấy rằng Người không phải là một thẩm phán nghiêm khắc nhưng là một vị Mêsia ân cần và từ bi. Thay vì trừng phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ những kẻ gian ác, Người lại ban ơn chữa lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi, Người soi chiếu, Người trợ giúp những ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài người để chỉ làm điều thiện (ch. 8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những người khó chịu? Ngay chúng ta đây, chúng ta có chấp nhận được việc Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu đuối chăng? Do đó Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây cũng chính là “cớ vấp phạm” do các Mối Phúc gây ra.
2. Con đường tất cả các môn đệ phải theo là nhìn thấy các dấu chỉ mà biết giải thích đúng đắn, biết nhận ra đó là các công trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo đường đức tin, khởi đi từ những điều thấy được và đưa tới chỗ khám phá ra Đức Giêsu là ai. Đây là con đường đưa từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ những dấu chỉ đến với thực tại được ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra đó là Cứu Chúa và Đức Chúa; nhìn Con người bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã nhất mà nhận ra đó là Đức Vua Cứu thế, đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được thực tại.
3. Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người. Trái lại, chúng ta phải thấy thực sự Người là ai và Người đang làm gì, để rồi đón tiếp Người với niềm vui và tri ân, cho dù chúng ta phải sửa chữa và bỏ đi một vài ý tưởng hoặc sự chờ đợi sai lạc nào đó.
4. Là những con người sống ở thời đại “cuối cùng”, chúng ta “có phúc” hơn là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, chúng ta có biết trân trọng những ân huệ đang nhận và dùng những ân huệ đó mà xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người khác chăng?
35. Suy niệm của Lm Ignatio Hồ Thông
Hằng năm vào Chúa Nhật III Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi người Ki tô hữu hãy vui lên vì đại lễ Giáng Sinh sắp đến gần rồi.
Is 35: 1-10
Bài đọc I, trích sách I-sai-a, mô tả trước niềm hân hoan mà những tù nhân Ba-by-lon cảm thấy giờ giải thoát của họ sắp đến. Cùng chung niềm vui với họ, thiên nhiên và sa mạc, nơi bước chân của họ đi qua, sẽ tưng bừng nở hoa.
Gc 5: 7-10
Trong Thư gởi cho các tín hữu đang phải chịu những thử thách trăm chiều, thánh Gia-cô-bê khuyên họ hãy kiên nhẫn, thậm chí hãy vui lên, “vì Chúa sắp đến rồi”.
Mt 11: 2-11
Tin Mừng thuật lại việc Gioan Tẩy Giả trong cảnh tù ngục đã sai các môn đệ của mình đến hỏi Chúa Giêsu có phải là Đấng Mê-si-a hay không. Chúa Giêsu đáp lại bằng cách nhấn mạnh rằng Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo hèn và bất hạnh: người mù được thấy, người điếc được nghe, người phong hủi được chữa lành. Chúa Giêsu khai mạc triều đại tình yêu và tha thứ.
BÀI ĐỌC I (Is 35: 1-10)
Như chúng ta đã biết, tác phẩm I-sai-a không là tác phẩm của một tác giả, nhưng công trình sưu tập ba tác phẩm của ba tác giả thuộc ba thời kỳ khác nhau: trước hết, tác phẩm thứ nhất, từ chương 1 đến chương 39, là tác phẩm của chính vị ngôn sứ I-sai-a, vị ngôn sứ tiền lưu đày vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên; tiếp đó, tác phẩm thứ hai, từ chương 40 đến chương 55, là tác phẩm của một vị ngôn sứ thời lưu đày, biệt danh là ngôn sứ I-sai đệ nhị; sau cùng, tác phẩm thứ ba, từ chương 56 đến chương 66, là tác phẩm của vị ngôn sứ hậu lưu đày, biệt danh ngôn sứ I-sai-a đệ tam.
Tuy nhiên, chương 35 thì ngoại lệ: chương này có thời biểu muộn thời hơn và qua chủ đề và cung giọng của nó gần với tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hơn, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, ông an ủi đồng bào của ông và báo trước cho họ biết cuộc giải phóng gần kề (giữa năm 550 và 540 trước Công Nguyên). Chính xác đây là chủ đề của đoạn văn mà Phụng Vụ Chúa Nhật III Mùa Vọng mời gọi chúng ta suy gẫm hôm nay. Bị giam cầm gần một nữa thế kỷ đã qua ở Ba-by-lon, những người lưu đày cứ ngở rằng mình sẽ gởi nấm xương tàn ở đất khách quê người. Ấy vậy, vị ngôn sứ loan tin rằng Đức Chúa sắp giải thoát họ và dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
1. Những viễn cảnh diệu kỳ:
Để từ Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem, những người lưu đày sẽ phải băng qua sa mạc Sy-ri. Đức Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu thuận tiện cho cuộc xuất hành mới này, vì “sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội”. Qua bài thi ca, theo văn phong phóng dụ, đầy những hình ảnh thi vị, vị ngôn sứ mô tả sa mạc không còn là vùng đất hoang vu khô cằn nắng cháy, nhưng tưng bừng nở hoa, rợp bóng mát của những cây cối tốt tươi như rừng Li-băng, và phản chiếu vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron (đồng bằng Pa-lét-tin vốn nổi tiếng là phì nhiêu và nhiều hoa hồng tuyệt đẹp). Cuộc hồi hương trở về Thành Thánh quá phấn khởi đến mức người mù sẽ thấy được, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ kêu lên trong niềm vui vỡ òa.
2. Dấu chỉ của việc Thiên Chúa thứ tha:
Trước tiên, chúng ta nhận ra chủ đề Kinh Thánh về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh con người. Mặt đất liên kết mình với niềm hoan hĩ của đoàn người hồi hương. Ngoài ra, những tật nguyền thể lý sẽ biến mất. Chúng ta biết rằng vào thời xa xưa này – thậm chí vào thời Chúa Giêsu (Ga 9: 1-3) – những tật nguyền thể lý được xem như những án phạt của tội lỗi. Nếu những người mù thấy lại ánh sáng, người điếc nghe được tiếng cười vui và người què nhảy nhót như nai, chắc chắn đây là cách diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày gặp lại quê cha đất tổ của mình, nhưng nguyên do còn sâu xa hơn: những tội lỗi của dân đã được Thiên Chúa tha thứ.
Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương: “Chính Người sẽ đến cứu chuộc anh em”. Ngài sẽ cứu chuộc dân Ngài như một người thân chuộc lại bà con họ hàng của mình lâm vào cảnh đời nô lệ vì nợ nần và đưa họ trở lại gia tộc của mình. Theo tập tục vào thời đó, ai không thể trả nợ bị người chủ nợ bắt làm nô lệ. Người thân gần nhất đứng ra chuộc lại mà ngôn ngữ Hy bá gọi là “goèl”. Chính người này cũng đảm nhận trách nhiệm báo thù cho những oan ức mà người ấy phải chịu.
Bản văn này minh họa một khái niệm căn bản của Cựu Ước: mối liên hệ giữa ý tưởng Tạo Dựng và ý tưởng Cứu Chuộc. Chính vì Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo nên Ngài cũng là Đấng Cứu Chuộc, vì sự tha thứ tội lỗi là một công trình sáng tạo mới. Ở đây, trong đoạn văn này, mối liên hệ này rất minh nhiên. Thiên Chúa sáng tạo khi biến đổi sa mạc, Thiên Chúa sáng tạo khi phục hồi những kẻ tật nguyền. Chính sự tha thứ của Ngài là nguồn mạch của cuộc sáng tạo mới này, sự tha thứ của Ngài hoàn lại sự sống.
Cảnh tù đày ở Ba-by-lon (như cảnh đời nô lệ ở bên Ai-cập) là hình ảnh về cảnh đời nô lệ của tội lỗi. Cuộc giải phóng mà vị ngôn sứ loan báo tiên trưng cuộc giải phóng triệt để hơn, vĩnh viễn hơn, đó là cuộc giải phóng mà Đức Kitô mang đến, “việc chuộc lại” này mà chúng ta gọi “Ơn Cứu Chuộc”, không có nghĩa gì khác hơn là “tái tạo chúng ta”. Vào những ngày gần đến lễ Giáng Sinh, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên qua nhiều thế kỷ: “Thiên Chúa đích thân ngự đến và sắp cứu chuộc chúng ta”.
BÀI ĐỌC II (Gc 5: 7-10)
Thánh Gia-cô-bê mời gọi các tín hữu hãy kiên nhẫn. Bản văn này có chủ ý đặt vào giữa hai thời điểm: những người lưu đày nóng lòng được trở về quê cha đất tổ (bài đọc I) và Gioan Tẩy Giả) mong chờ Đấng Mê-si-a sớm thực hiện sứ mạng “thưởng công phạt tội” của Ngài (đoạn Tin Mừng hôm nay).
1. Tác giả và tác phẩm:
Bức thư này được gán cho thánh Gia-cô-bê, anh em họ của Chúa Giêsu, vị lãnh tụ cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi, bị ném đá chết vào năm 62 sau Công Nguyên do sự xúi dục của vị thượng tế thời đó. Vì thế, thánh nhân không là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, hai con của ông An-phê, được phúc tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại ngay từ đầu thư, thánh nhân tự giới thiệu mình không là Tông Đồ mà là: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu Kitô”. Để phân biệt hai vị thánh trùng tên này, người ta gọi thánh Gia-cô-bê Tông Đồ là thánh Gia-cô-bê Tiền và thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giêsu, là thánh Gia-cô-bê Hậu. Chính thánh Gia-cô-bê Hậu này mà, theo thánh Phao-lô, Chúa Giêsu hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15: 6-7).
Thư này được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, phân tán khắp thế giới La-Hy. Sống ở giữa những anh em Do thái vẫn một mực trung thành lề luật Mô-sê. Những người Ki tô hữu gốc Do thái này gặp phải biết bao khó khăn trong việc thực hành đức tin của mình và là đối tượng của những quấy nhiễu. Vì thế, ngay từ đầu thư thánh Gia-cô-bê an ủi họ: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1: 2-4).
2. Vị Thẩm Phán đang đứng ở ngoài cửa:
Đoạn trích Thư chúng ta đọc hôm nay thuộc vào những lời khuyên bảo sau cùng của thánh nhân: thực hành đức kiên nhẫn trong thinh lặng, đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, ngay cả những người bách hại mình; có như vậy, anh em mới “khỏi bị xét xử”, hàm ý quy chiếu đến lời của Chúa Giêsu: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6: 37). Lý do được nêu lên: “Vì Chúa sắp đến gần rồi”. Thế hệ Ki tô hữu đầu tiên đã sống trong niềm hy vọng này: “Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa”. Vào thời xưa, người ta xử án ở ngoài cổng thành. Ở đây, thánh Gia-cô-bê chuyển dời hình ảnh này sang lãnh vực tinh thần và muốn nói rằng vị Thẩm Phán đang đứng ngoài ngưỡng cửa nhà chúng ta, Ngài sẵn sàng bước vào (x. Mt 24: 33; Mc 13: 29). Thậm chí sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh này, nhưng không còn trong viễn cảnh của ngày chung thẩm, mà là trong viễn cảnh của mối thân tình: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3: 20). Chúng ta có thể nói thêm mà không sợ ngược lại tư tưởng của tác giả: “Hãy kiên nhẫn, vì anh em không biết ngày nào giờ nào”. Chữ “kiên nhẫn”, theo nghĩa mạnh của từ, có nghĩa là biết chịu đựng những gian khổ như các ngôn sứ đã từng chịu.
3. Noi gương các ngôn sứ:
“Về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ, là những vị đã nói nhân danh Chúa”. Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ I-sai-a bị xử tử, ngôn sứ Mi-kha bị lăng nhục, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua A-kháp và vua Giô-a-kim, và cũng có thể dưới triều đại vua Ma-na-sê vô đạo. Lời khóc thương thành Giê-ru-sa-lem của Chúa Giêsu chứng thực sự kiện này: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được được sai đến cùng ngươi!” (Lc 13: 34). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc sau cùng kết thúc với việc nêu lên những bách hại mà các ngôn sứ phải chịu: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa…Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5: 11-12).
Rõ ràng thánh Gia-cô-bê thấm nhuần giáo huấn của các Mối Phúc Thật. Phúc thay những người nghèo và những người bị bách hại, được lập đi lập lại trong Thư của thánh nhân như một điệp khúc. Việc thánh nhân ám chỉ đến số phận của các ngôn sứ, dù rất ngắn, dẫn đưa chúng ta vào bản văn Tin Mừng: thánh Gioan Tẩy Giả bị tống giam vào ngục.
TIN MỪNG (Mt 11: 2-11)
Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị Hê-rô-đê An-ti-pát tống giam vào ngục. Vị tiểu vương cai trị miền Ga-li-lê này là một trong những con của vua Hê-rô-đê Cả. Vị Tiền Hô đã cực lực tố cáo nhân vật quyền cao chức trọng này mà không một chút e dè sợ hãi, vì vị tiểu vương này đã muốn lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh mình là tiểu vương Phi-líp-phê. Như vậy, thánh nhân đã chịu bạo lực như Chúa Giêsu đã loan báo cho các môn đệ Ngài (10: 16-25).
Trong tù, thánh Gioan nghe nói về những việc Chúa Giêsu làm và ông đâm lòng ngờ vực. Chính thánh Gioan đã loan báo rằng thời Chúa Giêsu, thời xét xử đã đến, lúa tốt thì thu vào kho lẫm, còn lúa xấu thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt. Ấy vậy, Chúa Giêsu công bố rằng mùa thu hoạch, nghĩa là ngày Thiên Chúa thưởng công báo oán, chưa đến.
1. Câu hỏi của thánh Gioan Tẩy Giả:
Thánh Gioan là một người rất nhạy bén trước tội lỗi, ông không thể chịu đựng tội lỗi, ông đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, bất chấp hậu quả mà mình phải gánh chịu. Ấy vậy, ông nghe tường thuật rằng Đức Giêsu giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà của họ, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Vì thế, thánh nhân sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.
2. Câu trả lời của Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn I-sai-a đều có hậu cảnh Mê-si-a: trước hết, Is 29: 17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; tiếp đó, Is 26: 19: người chết sống lại; sau cùng, Is 61: 1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Câu trích dẫn sau cùng là rõ ràng nhất, vì được đặt lại vào trong mạch văn của nó, đoạn văn này hình thành nên một sứ điệp mà Chúa Giêsu nhắn gởi cho thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, lời loan báo đầy đủ của I-sai-a như sau: “Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn”. Vì thế, Chúa Giêsu đồng hóa mình với Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, tức Đấng Mê-si-a. Còn đối với lời loan báo của I-sai-a tiếp theo sau: “băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân”, Chúa Giêsu có chủ ý không trích dẫn. Việc bỏ rơi này cũng có ý nghĩa. Gioan Tẩy Giả không thể không hiểu: thánh nhân phải đảm nhận sự thử thách của mình.
Những ám chỉ Kinh Thánh này nhắc nhở cho vị Tiền Hô rằng kỷ nguyên Mê-si-a phải được thiết lập, nhưng không bằng bạo lực mà bằng những ân phúc, Kinh Thánh đã thấy trước cách thức hành động này của Đấng Mê-si-a. Nhiều vị thánh đã kinh qua những giai đoạn nghi nan ngờ vực, đêm tăm tối của đức tin. Hơn nữa, cuộc đời của Gioan Tẩy Giả báo trước nhiều điểm cuộc đời của Chúa Kitô. Chúa Giêsu cũng đã cảm thấy chơ vơ cô quạnh trong viễn cảnh của cuộc khổ nạn sắp đến. Thánh Thần, Đấng đã hằng nâng đỡ Ngài, dường như đã bỏ rơi mình.
3. Chúa Giêsu ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả:
Sau khi các môn đệ của Gioan ra đi, Chúa Giêsu ngỏ lời với đám đông, Ngài hết lời ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả. Đức Giêsu ca ngợi đức công minh chính trực của thánh nhân: không khuất phục trước bạo quyền và cách sống đạm bạc của thánh nhân. Chính qua cung cách sống của mình, thánh nhân hiện thân một vị ngôn sứ, tức là người nói nhân danh Thiên Chúa, thế vì Thiên Chúa. Nhưng thánh nhân còn cao trọng hơn các ngôn sứ trước ông, bởi vì các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Mê-si-a, trong khi thánh Gioan không chỉ loan báo mà còn đích thân gặp gỡ Đấng Mê-si-a và chỉ cho người ta thấy Đấng Mê-si-a nữa.
Bất ngờ cung giọng thay đổi, Chúa Giêsu công bố những lời gây bối rối cho người nghe: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời con cao trọng hơn ông”. Ở đây, Chúa Giêsu không nhắm đến công đức cho bằng hai thời kỳ, thời Cựu Ước và thời Tân Ước, và những người được dự phần vào hai thời kỳ ấy. Thời kỳ mà Chúa Giêsu khai mạc là thời kỳ Tân Ước, tức là thời kỳ thực hiện và hoàn tất, vì thế trổi vượt hơn nhiều thời kỳ Cựu Ước, tức là thời kỳ loan báo và chuẩn bị mà thánh Gioan, một trong các ngôn sứ, vẫn còn thuộc về thời kỳ Cựu Ước ấy. Lúc đó, phản đề nhắm đến hai trật tự vĩ đại: cái vĩ đại của Gioan Tẩy Giả được xem như ngôn sứ và vị Tiền Hô trực tiếp của Đấng Mê-si-a và cái vĩ đại khôn sánh của những những người thuộc về thời đại của Đấng Mê-si-a, thời Tân Ước, như sau này Chúa Giêsu nói rõ với các môn đệ Ngài: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc, vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thạt anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13: 16-17).
Trong một bối cảnh khác, Chúa Giêsu sử dụng lập luận tương tự: trong đám đông có một phụ nữ lên tiếng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giêsu đáp lại: “Phúc thay kẻ lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Chúa Giêsu không muốn giảm thiểu sự cao cả của Mẹ Ngài một chút nào, rõ ràng Mẹ Ngài là mẫu gương của những ai lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa, nhưng nhằm mở rộng “mối phúc này” cho hết mọi người. Ở đây cũng vậy, Chúa Giêsu không tìm cách giảm thiểu Gioan Tẩy Giả, nhưng nhằm đảm bảo với thính giả của Ngài: Nước Thiên Chúa không chỉ được dành riêng cho các ngôn sứ, nhưng cho hết mọi người; ai cũng đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa mà Ngài khai mạc.
36. Đi đến cùng sứ vụ
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày 5/12, cựu tổng thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95. Ông là người lãnh đạo phong trào xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid ở Nam Phi, giúp cho người da đen được hưởng các quyền bình đẳng như thiểu số da trắng.
Bước ra ánh sáng sau 27 năm bị giam cầm vào năm 1990, việc đầu tiên Mandela làm là tìm cách hòa giải một dân tộc bị chia rẽ bởi thù hận và định kiến trong hàng thế kỷ qua.Ông hiểu rằng hòa giải không thể thiếu sự thật: nếu tội ác của chế độ Apartheid không được làm sáng tỏ và công lý không được thực thi thì người dân Nam Phi sẽ sống trong một nền hòa bình rất mong manh, chỉ cần một biến cố nhỏ là bạo lực sẽ lại bùng phát.
Ông biết rằng, nếu đi tìm công lý bằng một cuộc tắm máu khác, chắc chắn đất nước sẽ bị đẩy vào vòng nội chiến.Ông đã dùng tài ngoại giao, trí thông minh, và cả trái tim bao dung của mình để “đi trên dây” giữa hai làn ranh giới.Một mặt ông đi gặp những nhà lãnh đạo của người Afrikaner, chủng tộc da trắng nắm quyền trong chế độ apartheid để đàm phán về tương lai đất nước. Mặt khác, ông tích cực thuyết phục quần chúng giận dữ phải giữ bình tĩnh vì lợi ích chung.
Ông nói với những thành phần cực đoan muốn trả nợ máu với người da trắng ở Johannesburg vào năm 1993: “Tôi là lãnh đạo của các bạn. Nếu các bạn không cần tôi nữa, thì tôi sẽ lui về nghỉ. Nhưng chừng nào tôi còn làm lãnh đạo, tôi phải lên tiếng rằng: điều chúng ta đang làm là rất sai”. Đám đông này sau đó tự động giải tán.
Để xử lý vấn đề tội ác của chế độ Apartheid, Mandela đã lựa chọn một giải pháp mà chưa từng một lãnh đạo nào trong hoàn cảnh của ông thực hiện.Thay vì tạo ra một phiên toàn xét xử tội ác của chế độ như thông thường, ông cho thành lập “Ủy ban Sự thật và Hòa giải” với mục đích đúng như tên gọi của nó: làm lành đi những vết thương quá khứ. Nạn nhân kể về những tội ác mà họ đã chứng kiến hoặc trải qua dưới chế độ apartheid, và những kẻ cầm quyền cũ sẽ được khoan hồng nếu thừa nhận những tội ác mà họ gây ra.
Với tài năng của một chính trị gia, và hơn tất cả là một trái tim biết khoan dung, Nelson Mandela đã tạo ra sự khởi đầu cho điều kỳ diệu ở Nam Phi: từ một quốc gia bị chia rẽ sâu sắc bởi chủng tộc, Nam Phi trở thành một “đất nước cầu vồng,” nơi tất cả màu da đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng. Nam Phi vươn lên thành quốc gia giàu nhất ở lục địa Đen, có mặt trong nhóm các quốc gia “quyền lực mới” BRICS, và xây dựng lên một xã hội tự do và hiện đại (x. Khắc Giang, tuanvietnam.net).
Ông Mandela đã trải qua gần 30 năm ngục tù vì cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người da màu. Vị Tổng thống này đã được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1993.
Lên tiếng cho Sự thật và lương tri, Thánh Gioan Tiền Hô, vị Ngôn sứ công lý bị nhốt vào tù ngục. Xã hội Do Thái thời Gioan có rất nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính quyền La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo.Vua Hêrôđê có đời sống loạn luân, cướp vợ của em trai mình. Người ta cảm thấy rất khó chịu khi có ai dám sửa sai, dám nói thẳng về những lỗi lầm của mình. Người cầm quyền càng khó chịu hơn và thường dùng quyền lực để đàn áp. Vì thế quyền lực thường tạo nên sợ hãi và im lặng. Gioan rất nhạy bén trước tội lỗi nên đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hêrôđê, bất chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người đàn ông quyền lực và ham mê sắc dục, gian dìu với Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham mê quyền bính. Hai con người đó làm nên bi kịch của lịch sử. Ai cũng sợ hãi, không dám nói. Chỉ có Thánh Gioan Tiền Hô lên tiếng phản đối nên đã bị tống giam. Bênh vực công lý, nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng nhân bảo vệ công lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống.
Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ Isaia bị xử tử, ngôn sứ Mikha bị lăng nhục, ngôn sứ Giêrêmia bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua Akháp và vua Giôakim, và cũng có thể dưới triều đại vua Manasê vô đạo. Ngôn sứ Gioan thật cương nghị với lối sống không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý (x.Mt 14,3-12). Thực thi công lý nên Gioan là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa và đáng tin (x.Mt 21,26.32).
Thánh Gioan đã từng trải qua những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc, bên bờ sông Giođan xin ông làm phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại. Chỉ còn các môn đệ liều mình vào tù thăm nuôi rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan nghe.
Thánh Gioan băn khoăn lo lắng khi nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà người tội lỗi, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ Tiền Hô đang ở trong tù mà không được Đấng Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.
Trước đây, Gioan đã từng giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người” (Mt 3,11); “Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới thiệu với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).
Gioan không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời. Đối với Gioan, Đấng Cứu Thế đến giải phóng Ít-ra-en cả trong phạm vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế như kiểu một vị vua Do Thái bách chiến bách thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên tột đỉnh. Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ dội” mà ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội không?
Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương. Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ. Đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa lành chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các Rabbi. Chính vì thế, khủng hoảng niềm tin của Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu. Trong hoàn cảnh ngục tù, Gioan đã biết tìm đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho những thao thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm thấy.
Chúa Giêsu không bị giới hạn trong cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn Gioan mở rộng tầm mắt với một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn: Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Mt 11,4-5).
Như vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia đều có hậu cảnh Mêsia: Is 29,17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; Is 26, 19: người chết sống lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chúa bảo họ hãy về thuật lại những việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói, những điều đó đủ minh chứng Người là ai. Những điều đó đã được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài lịch sử rồi. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không phải là một vị cứu tinh đầy uy quyền, đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong đợi. Đồng thời Chúa trực tiếp xác nhận sứ mạng và quyền năng của Người: là con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai đem ơn cứu độ cho mọi người.
Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo: “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để chiêm niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và quan điểm của mình về Thiên Chúa. Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay, Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan hiểu rằng, Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra đi sau khi hoàn tất sứ vụ của mình.
Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã trải qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy ai giải thoát nên đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng, Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẻ cậy trông. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió. Niềm hy vọng chính là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.
Khi chúng ta gặp đau khổ thử thách, đức tin, lòng cậy trông, niềm hy vọng bị lung lay chao đảo. Hãy nhớ Thánh Gioan đã chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử cũng mang tâm trạng như vậy. Thánh Gioan không chết trong thất vọng mà chết trong đức tin, chết trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.
37. Chú giải của Noel Quesson
Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm.
Trong diễn biến của Tin Mừng của ông, Matthêu bốn lần nói về Gioan Tẩy Giả... và luôn có liên quan với Đức Giêsu.
Mt 3,1-7 Gioan Tẩy Giả rao giảng "Nước Thiên Chúa" và làm phép rửa cho Đức Giêsu …
Mt 4,12 Việc bắt giữ Gioan Tẩy Giả, người định đoạt cho Đức Giêsu “khởi đầu”…
Mt 11,2-18 Gioan từ trong ngục, đặt những câu hỏi về Đức Giêsu và Đức Giêsu đặt những câu hỏi về Gioan cho đám đông. Đó là đoạn chúng ta đọc hôm nay:
Mt 14,1-13 Cái chết của Gioan, loan báo phần thứ hai của sứ vụ của Đức Kitô.
Ông liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
Chính với lòng nhiệt thành mà Gioan trông đợi Đấng Mêsia. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy sự sôi sục của quần chúng đã được khơi dậy do tiếng "kêu' của ông, do “Tin Mừng” của ông: "Nước Trời đã gần kề!".
Thế mà này đây là Gioan, bây giờ do dự, nao núng. Có lẽ ông ta sẽ không lầm lẫn chăng? Cái "hoài nghi” này có gây xúc động như thế ư? Và chúng ta cố đặt vào địa vị của Gioan. ông đang ở trong ngục, trong cái chiến lũy Macheronte, một cái pháo đài, khiếp đảm và kiên cố của Hêrôđê xây dựng chắc chắn vào một mỏm núi đá của hoang mạc Mô-áp, phía đông Biển Chết. ông ta có giờ để suy nghĩ. Đó là một tù nhân bị giam trong bốn bức tường. Đây là cái thử thách khủng khiếp nhất: "đức tin" bị nao núng... Một thứ tiếng kêu phá hoại khơi gợi ông ta: "tất cả chuyện gì anh tin cho tôi giờ, đều sai lầm cả... Giêsu của anh đâu phải Đấng Mêsia, ông ta không có khả năng giải thoát mi ra khỏi ngục.
Vâng, Gioan Tẩy Giả, vừa nghĩ đến những dòng dõi cứu thế thời mình, vữa chờ một Mêsia chiến chúng: một Đức Ki tô của dòng Đa-vít, Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng có lẽ giải phóng Do Thái khỏi tay quân thù... một Đức Kitô siêu việt, Con người mà Đanien loan báo, đến từ đám mây trời để phán xét tất cả những kẻ dữ của hơi thở từ miệng người". Và dó chính lâ Mêsia mà Gioa đã loan báo những đám người ở hoang mạc: viên quan xét đã có sẵn chiếc rìu trong tay để chặt hết tất cả cây nào không sinh trái, người xay lúa cầm sẵn cái nia để rê trấu khỏi lúa mì.
Sự thất vọng? Đức Giêsu đang làm thất vọng. Thiên Chúa đang làm thất vọng.
Thiên Chúa cũng hay làm thất vọng chúng ta. Người không phải như chúng ta tưởng tượng. Thiên Chúa làm cho Người ta chưng bứng. Và như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục mong ước rằng Thiên Chúa làm theo "ý muốn của chúng ta" và giống như hình ảnh mà chúng ta tạo ra về Người. Bạn hãy nói cho tôi biết tại sao Thiên Chúa lại để cho vị tiên báo của Người vào tù? Tại sao Thiên Chúa không bênh vực các bạn hữu của Người? Tại sao Thiên Chúa lại, không giải thoát cho không người bị tù tội vì Người? Tại sao dường như Thiên Chúa luôn luôn bị những kẻ thù của mình chiến thắng? Tại sao, Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Thiên Chúa lại bị Hêrôđê khóa miệng lại? Tại sao Lời Chúa lại "quá lặng lẽ thế?
Tại sao Chúa ơi, Chúa yên lặng, khi có biết bao người đang cáo giác người? Tại sao có biết bao điều xấu, biết bao đau khổ, biết bao chết chóc trong vạn vật thụ tạo? Lạy Chúa, hôm nay, xin Chúa trả lời cho chúng con hay Chúa có phải là Đấng đem đến cho chúng coi mềm vui, sự sống và hạnh phúc không hay chúng con lại phải đợi một người khác?
Chúng con có phải tiếp tục tin vào Chúa không, hay chúng con phải khước từ Chúa để chúng con hiến mình cho những người khác? Khủng hoảng đức tin. Những nhà lao tối tăm ở Macheronte. Đêm tăm tối của Gioan Tây Giả.
Đức Giêsu trả lời: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi đặt ra. Người không nói "Tôi là Người phải đến". Người không cho một giải pháp có sẵn. Người gợi cho người chất vấn phải tự mình tìm câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra.
Đức Giêsu, Đấng Mêsia làm cho người ta chưng hửng, dẫn lại những đoạn Kinh Thánh, lấy trong ngôn sứ Isaia (Is 26,19; 29,18; 35,5; 61,1). Khi đắn đo kể những đoạn này, hơn là các đoạn khác, Đức Giêsu cho thấy Người đã chọn là "loại Mêsia nào": Thiên Chúa Đấng đã sai Người đến không tỏ mình ra qua những cử chỉ của quan xét và của người hiếu thắng, nhưng bằng những cử chỉ tốt lành đối với những người thất thế và người đau khổ: mù lòa, què quặt, phong cùi, điếc lác... Và ý nghĩa sâu xa của hành động chữa lành này được thấy rõ trong hai việc lành sau cùng được nói lên: ‘cái chết’ bị đánh bại... người nghèo được rao giảng Tin Mừng... Đấy chính là niềm vui mới!
Những câu hỏi mà chúng ta đặt ra về Gioan Tẩy Giả, những hoài nghi mà chúng ta có về Chúa, thì bây giờ chính chúng tại đem ta trở lại với "chính ta": bạn đã cáo giác Chúa, bạn làm gì trên thế gian này để giúp đỡ những người đau khổ, để giải phóng những người bị đè nén, để làm cho số phận của các anh chị em ta trở nên tốt hơn?
Dấu hiệu đích thực là Thiên Chúa ở đó, và Nước Người đã bắt đầu, chính khi có tình yêu! Chúng ta ‘không phải đợi một ai khác nữa’.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho Gioan Tẩy Giả phải trở nên một câu hỏi khẩn thiết đối với mỗi Ki tô hữu, và đối với Giáo Hội nói chung: Giáo Hội hôm nay, Người có là cộng đoàn tình yêu của Đức Giêsu và của "Tin Mừng của Người cho người nghèo không hay chúng tôi phải chờ đợi một Giáo Hội khác nữa? Và bạn, bạn có tự hiến thân cho những người thấy bạn sống những dấu chỉ của Đức Giêsu không? Đón tiếp, ủi an, cứu vớt, yêu thương.
Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi
Bản văn Hy Lạp nói ở đây: "Phúc cho ai không bị làm gương mù vì tôi”. Tiếng "skandalon" là hình ảnh gợi ra viên đá trên đường mà người nào cũng dẵm lên. Đức Giêsu, nhờ những dấu chỉ bất ngờ Người đưa ra, có thể trở nên một cơ hội "vấp ngã" đối với chính Gioan Tẩy Giả. Điều nghịch lý. Người rao giảng, hôm Chúa nhật trước, đã mời các đám đông người sám hối ở trên bờ sông Giođan, bây giờ được mời để tự Sám hối. Vâng, Gioan Tẩy Gỉa được mời đi tới một đức tin sâu xa hơn. Vị tiền hô được mời để tin vào Thiên Chúa, ngay trong cảnh tù đầy, bằng cách chấp nhận như một lối thoát khỏi cảnh tù đày này mà không phải là sự cứu thoát bởi một Thiên Chúa toàn năng... những cái chết của mình, hiệp thông với cái chết, chẳng bao lâu nữa, của Đấng Mêsia trên thập giá. Lòng tin của chúng ta cũng thế, không phải là một "sự vật" chiếm hữu lấy một lần thay cho tất cả. Thật là tốt cho chúng ta biết mấy khi thấy một người khổ tu, một vị thánh, "ngôn sứ vĩ đại nhất"... được mời để làm cho đức tin lớn lên, được mời để không bị "vấp phạm" vì Đức Giêsu.
Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: "Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.
Đức Giêsu bây giờ khen ngợi Gioan Tẩy Giả.
“Giêsu, ông là ai? Đức Giêsu hỏi đám đông. Đám đông không trả lời chi cả. Yên lặng. Dẫu vậy câu hỏi của Đức Giêsu trở nên sống động, tiến lên từng nấc, nhắc lại ba lần: một cây sậy? một ông hoàng? một ngôn sứ? A không! Người không phải là cây sậy bị cơn gió nào cũng làm lung lay, người đàn ông chốn hoang địa này đáng phải vào tù vì thái độ cương nghị của ông: đó là một người can đảm (Gr 1,10-17). A, không, ông không phải là người tinh tế, có khả năng sống trong sự dễ dãi, người đàn ông này mặc áo da súc vật như Êlia (2 V 1,8). Đức Giêsu nói: Đó là một ngôn sứ, và còn hơn là một ngôn sứ.
Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến
Như trong phần thứ nhất, để xác định căn tính của Đấng Mêsia ở đây Đức Giêsu dẫn một lời Kinh Thánh để xác định căn tính của Gioan. Và đó là đoạn sách Malakhi (3,1). Nhưng Đức Giêsu đã sửa nguyên văn của Cựu ước, và điều này rất có ý nghĩa Malakhi đã viết: "Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta". Trong đoạn này chỉ có hai nhân vật: Thiên Chúa và sứ giả của Người.
Đức Giêsu -khi giải thích đoạn trích dẫn, đặt vấn đề ba nhân vật: Thiên Chúa, sứ giả đi dọn đường, và Đấng sẽ đến”; tức là Đấng mà Thiên Chúa xưng là cha con: “trước mặt Con!". Khi Đức Giêsu dẫn Kinh Thánh, người cho mình như Đấng Mêsia đã được loan báo. Và vì thế, Người đi dọn chỗ dùng kỹ xảo với nguyên bản: Malakhi tập trung vào người sứ giả Đức Kitô chú trọng đến "Đấng chuẩn bị sứ giả". Như thế bằng cách bày tỏ cho đám đông hiểu căn tính sâu xa của Gioan Tẩy Giả, thì Đức Giêsu còn tỏ cả căn tính của mình.
Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Chúng ta lặn ngụp, một lần nữa, vào trong ý thứ mà Đức Giêsu có về bản thể sâu xa, và vai trò của Người trong lịch sử Đức Giêsu có ý thức khơi động một thay đổi lịch sử thật sự. Có "trước" người và "sau' người. Lịch sử thế giới đang ở một bước ngoặt. Nếu Đức Giêsu Nagiarét này chỉ là một anh dân làng nhỏ bé kiêu kỳ, thì cuộc phiêu lưu của Người sẽ không kéo dài. Điều đó có lẽ không đúng, nhưng cuộc phiêu lưu lại kéo dài liên miên. Đức Giêsu đã dứt khoát và thực sự chia cắt lịch sử làm hai. Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với Người. Và Đức Giêsu có thể nói thực sự rằng con người thánh thiện nhất, vĩ đại nhất của Cựu ước, còn là người bé nhỏ hơn người Kitô hữu hèn mọn nhất của kỷ nguyên mới bắt đầu... Một cách nghịch lý chúng ta đi vào thời đại của "những người bé mọn": tự khi Thiên Chúa nhập thể làm "đầy tớ", thì sự vĩ đại quyền lực, chính là trở nên "bé mọn". Trong khi chịu thử thách, Gioan đã học được điều đó.
38. Anh em ra xem gì?
(Lm. HK)
Trong cuốn “Thư ngỏ tuổi đôi mươi”, André Maurois cảnh báo về “những mối nguy của thời đại chúng ta”, về cái dại khờ đáng kể trong sự nhận biết. Ông viết:
Chúng ta đã thấy những cái điên khùng không tưởng tượng nổi. Nhật báo Anh đã đăng tin một nhà chơi dương cầm vô danh quảng cáo rầm rộ rằng sẽ có một buổi diễn tấu nhạc yên lặng. Đúng ngày đó, phòng chật ních thính giả. Bậc diệu thủ im lặng ngồi trước mặt đàn, làm bộ chơi đàn không gây một âm thanh nào cả. Thính giả liếc trộm các người ngồi bên xem có nên phản kháng không. Nhưng các ông ngồi bên cứ thản nhiên, cử toạ đều kiên nhẫn, ngồi yên. Sau hai giờ yên lặng buổi tấu nhạc chấm dứt. Nhạc sĩ đứng dậy chào thính giả. Cử toạ nồng nhiệt vỗ tay khen. Hôm sau, trên vô tuyến truyền hình, nhạc sĩ im lặng đó kể lại câu chuyện và kết: “Tôi muốn biết xem cái ngu xuẩn của con người tới mức nào; nó thật vô biên.”
Maurois nói: “Tôi thì tôi không nói “cái ngu xuẩn” mà nói “cái nhu nhược” của con người. Những thính giả đó biết rằng họ không nghe thấy gì cả, nhưng họ sợ rằng nếu phản kháng thì không hợp thời.”
Cái vấn đề ở đây không phải là phải gọi nó như thế nào, mà là người ta có thực sự muốn tìm kiếm sự thật hay không.
Đấng Cứu Thế đã đến, với những dấu chỉ đã được tiên tri Isaia tiên báo: “Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được …” nhưng sự cứng lòng của dân chúng mới thực sự là vấn đề phải quan tâm. Cái trở ngại đáng kể cho việc đón nhận Đấng Cứu Thế là người ta chỉ ao ước và tìm kiếm một ơn cứu độ đậm màu trần tục, mà không nhận ra và từ chối, và chống đối chính Đấng Cứu Thế: “phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
Cho một cuộc vui, thì việc không thấy được điều cần thấy cũng có thể được trả lời bằng một lý do biện minh nào đó, nhưng chẳng thể coi câu hỏi về ơn cứu độ là một trò đùa: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng?” (Mt 11,7-8)
Gioan xác tín Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, và rao giảng về Người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3,11). Thế nên khi Chúa Giêsu đến xin ông làm phép rửa cho thì “ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3,14)
Vậy thì tại sao ông lại khi sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu “Thầy có thật là Đấng phải đến không”? Khi sai môn đệ đến hỏi Chúa về điều mà ông đã xác tín, Gioan muốn gửi một sứ điệp đến chúng ta, để chúng ta ý thức rằng tin không là việc chạy theo số đông, mà là dấn thân một cách ý thức cho một chọn lựa riêng tư và quan trọng nhất của đời mình;
Cuộc dấn thân đó là hết sức quan trọng vì người ta chỉ có một cuộc đời để sống, và không có chỗ để thử: “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”
Tin theo Đấng Cứu Thế là một cú nhảy chí mạng nên đã tin là phải theo đến cùng, như thánh Giacôbê cổ vũ các tín hữu sơ khai kiên nhẫn, đón chờ kết quả phải đến của đời sống đức tin: “xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá.” (Gc 5,7)
Một người đàn bà mua vé xe lửa đi qua một vùng có nhiều phong cảnh đẹp để thưởng ngoạn. Lên tàu, bà loay hoay mãi mới để các gói hành lý lên giá cho đúng ý mình, rồi chỉnh lại màn che cửa sổ cho phù hợp với ánh nắng, rồi lại đi lên đi xuống kiếm cho được một chỗ ngồi êm ái, rồi mở ví ra kiểm tra lại xem tiền có còn đủ cho chuyến về không, và tính toán xem có thể mua những gì với túi tiền của mình.
Cuối cùng, khi vừa ngồi yên để thưởng ngoạn phong cảnh đẹp bên ngoài thì cũng là lúc tàu đến chỗ chỗ dừng tàu. Bà càu nhàu: “Xe chạy mau quá, chưa kịp xem gì thì đã đến nơi rồi!”
Cuộc du ngoạn của đã bị đánh mất, vì những việc chẳng đâu vào đâu! Thế nhưng đâu là những việc choán đầy cuộc sống của tôi hôm nay? Phải chăng cuộc đời tôi giống như những gì được ĐHY Nguyễn văn Thuận đã mô tả: “Đứng trên tầng lầu cao nhìn xuống đường, con thấy làn sóng người cuồn cuộn. Đủ loại xe, đủ hạng người, dành nhau, tông nhau, đâm đầu chạy, vội vã hấp tấp, hốt hoảng, vì tình, vì tiền, vì tham vọng, vì đua sống.” (ĐHV 82)
Tôi nói rằng tôi tin vào Chúa … nhưng nay Chúa đang ở đâu trong đời tôi?
39. Vọng và Hy Vọng
(Antôn Lương Văn Liêm)
“Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35, 1-2).
Hạnh Phúc, Bình An và Hy Vọng, luôn là điều mà ta mơ ước đạt được trong nhịp sống hằng ngày. Đặc biệt là Hy vọng.
Một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:
Trong một căn phòng nhỏ khang trang và ấm cúng. Vào một buổi tối, chủ nhân căn phòng thắp lên 3 ngọn nến. Ngọn nến thứ nhất sắc màu đỏ, mang tên Hạnh Phúc, ngọn nến thứ 2 sắc màu vàng mang tên Bình An, và Hy Vọng mang sắc màu xanh là tên của ngọn nến thứ 3.
Sau khi đã thắp sáng ba ngọn nến và đặt chúng gần nhau, chủ nhân lui ra. Điều đầu tiên là cả ba ngọn nến đều cảm thấy tự hào vì với ánh sáng tuy nhỏ bé, nhưng rọi sáng cả một gian phòng, hơn nữa hơi nóng từ ánh sáng của chúng làm ấm lên giữa tiết trời đông giá. Sau niềm tự hào đó, ba ngọn nến cùng tâm sự, kể cho nhau nghe những điểm nổi bật của bản thân.
Đầu tiên, ngọn nến Hạnh Phúc cất tiếng tâm sự với hai bạn rằng:
- Này hai bạn, đối với cuộc sống của con người, mình rất quan trọng, vì không có mình thì những nước mắt và khổ đau, luôn đi theo con người. Hơn nữa mình rất mạnh mẽ, không có gì có thể dập tắt mình được. Vì thế chủ nhân đã cho mình mang sắc màu đỏ.
Ngọn nến Hạnh Phúc vừa dứt lời, ngọn nến Bình An tiếp lời:
- Cuộc sống của con người, nếu không có mình, họ luôn cảm thấy bất an, lo lắng… đời sống của họ như chìm vào bóng tối, mình cũng như bạn rất khỏe và rất mạnh mẽ, mình có thể chịu đựng và luôn sáng tỏ dẫu có phong ba bão táp ập đến. Mình mang màu sắc vàng là vì thế.
Cả hai ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An đều cảm thấy tự hào về những gì mình bộc bạch, tâm sự. Riêng ngọn nến Hy Vọng, sau khi nghe hai bạn tâm sự. Ngọn nến Hy Vọng cất tiếng nhỏ nhẹ rằng.
- Hai bạn ơi! Hai bạn đều ngang tài ngang sức với nhau, riêng mình thì chỉ là bóng mờ mà thôi, nhưng mình nghĩ, trong nhịp sống của con người, nếu vắng bóng hai bạn, mà không có mình kề bên thì chắc có lẽ sẽ tồi tệ biết là dường nào phải không? Tuy mình yếu ớt và mờ nhạt, nhưng mình tin chắc mình sẽ chịu đựng được, khi gặp phải những làn gió nhẹ cũng như mạnh, màu sắc xanh của mình muốn nói lên điều đó.
Ngọn nến Hy Vọng vừa dứt lời, hai ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An cảm thấy đắc ý với những gì mình đang có, cùng cất lên tiếng cười sảng khoái. Bỗng một làn gió thổi ngang, đầu tiên là ngọn nến Hạnh Phúc vụt tắt chỉ còn lại làn khói mỏng manh, kế đến là ngọn nến Bình An cùng chung số phận, riêng ngọn nến Hy Vọng, tuy chao đảo nhưng ánh sáng vẫn cứ leo lét rồi bừng sáng khi cơn gió đi qua.
Sau khi được chủ nhân thắp sáng lại nhờ ánh sáng của ngọn nến Hy Vọng, ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An quay sang cám ơn ngọn nến Hy Vọng và nói: “Cám ơn bạn rất nhiều, may mà có bạn, tụi này lại được thắp sáng ”.
Vâng! Chính niềm hy vọng là động lực giúp ta vượt qua những nghịch cảnh của cuộc sống.
Trong cuộc sống thường nhật, dù là ai, lứa tuổi nào; trình độ cao, thấp, giàu hay nghèo, đời sống tận hiến, hay giữa đời thường… Đều nuôi và dưỡng niềm hy vọng như:
Nơi những bậc làm cha làm mẹ, luôn hy vọng gia đình ấm êm, hạnh phúc, con cái khôn lờn, khỏe mạnh và nên người.
Với tuổi trẻ, luôn hy vọng một tương lai rực sáng, với những thành công cả về tri thức, công việc, tình yêu.
Những bậc cao niên, sau một thời bương chải, giờ gối mỏi tay run, luôn hy vọng có sức khỏe, con cháu sum họp kề bên, để vui hưởng tuổi già trong bình an và hạnh phúc.
Với những hoàn cảnh như: Thất nghiệp, nợ nần, thiếu thốn, bệnh tật hiểm nghèo, bất hòa, chia rẽ… luôn hy vọng “sau cơn mưa trời lại sáng”.
Khi những cám dỗ của tiền, quyền, danh lợi, lạc thú… đánh gục những thành viên trong gia đình, và ngay như chính bản thân, luôn hy vọng một ngày nào đó, người ngã quỵ sẽ đứng lên để vượt thắng cám dỗ.
Đời người hữu hạn, luôn hy vọng sau khi từ giã cuộc đời trần thế, được vui hưởng phúc Thiên Đàng…
Tất cả những niềm hy vọng đó, đều được thắp sáng nhờ một Đấng mà khi xưa dân Do Thái đã ngày đêm ngóng đợi, không chỉ dân Do Thái xưa, nhưng toàn thể nhân loại qua mọi thời đại, trong đó có ta vẫn luôn khắc khoải mong chờ. Đó chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng khơi nguồn hạnh phúc, bình an và luôn thắp sáng niềm hy vọng cho những ai đón nhận Ngài là Cứu Chúa của mình. Đây chính là tâm tình sống mùa vọng.
Nhưng để thực sự nhận ra Thiên Chúa qua Đức Kitô là Cứu Chúa, Đấng thắp sáng niềm hy vọng cho ta trong cuộc sống, là điều không phải dễ, những lúc yên hàn đã khó, gặp phải những lúc đắng cay, thử thách, điều này còn khó gấp vạn lần. Hình ảnh của ông Gioan Tẩy Giả minh chứng cho ta thấy.
Là một ngôn sứ vĩ đại và cuối cùng của thời Cựu Ước, một Ngôn Sứ mà chính Đức Kitô đã nói về ông: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt11,11). Nơi dòng sông Giođan, chính ông Gioan Tẩy Giả đã hân hoan, mạnh dạn, giới thiệu một con người mang tên Giêsu, xuất thân từ làng quê Nararét, sinh trưởng trong một gia đình nghèo hèn là Đấng Kitô, là Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, đây chính là Đấng mà các Ngôn Sứ khi xưa đã tiên báo, là niềm đợi trông và hy vọng của toàn dân Do Thái.
Như ta đã biết khi ông Gioan Tẩy Giả bị cầm tù, niềm đợi trông, hy vọng, những gì ông Gioan Tẩy Giả đã từng giới thiệu như bị xáo trộn và chợt lu mờ, ông không dám chắc lời giới thiệu của mình đúng hay sai, qua việc ông sai đệ tử đến gặp và hỏi Đức Kitô như Tin Mừng đã trình thuật: “Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt.11,2-30).
Để thắp sáng lên niềm đợi trông và hy vọng nơi ông Gioan Tẩy Giả, Đức Kitô đã không trả lời đúng hay sai Ngài trả lời theo như những gì mà trước đây Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt11,4-6). Câu trả lời bao hàm sự nhắc khéo ông Gioan hãy mạnh dạn và đừng sợ, hãy làm chứng cho sự thật dù có phải hy sinh tính mạng, niềm mong đợi và hy vọng của dân Do Thái và của chính ông đã và đang thành sự nơi Đức Kitô
Tuy không giáp mặt, chỉ bằng lời nhắn gởi, Đức Kitô đã thắp sáng niềm hy vọng nơi ông Gioan Tẩy Giả, để rồi ông mạnh dạn bảo vệ sự thật, bảo vệ luân lý và tiếp tục làm chứng cho Đức Kitô. Điều này đã đưa ông đến cái chết qua việc trả thù của người phụ nữ lăng loàn Hê-rô-đi-a (Mt14,3-12).
Ta đang sống trong mùa vọng, đặc biệt trong tuần lễ thứ 3, với phẩm phục màu hồng của vị chủ tế, Thiên Chúa qua Giáo hội mời gọi ta hãy sống trong tâm tình vui lên và hy vọng Đức Kitô đã đến, sẽ đến và đang đến, chính Ngài sẽ đem lại cho ta Hạnh Phúc và Bình An, ban tặng cho ta hạnh phúc Nước Trời, Ngài sẽ thắp sáng niềm Hy Vọng cho ta, dẫu ta đang phải bị những cám dỗ bủa vây và ngã quỵ; hay ta đang sống trong cảnh màn trời chiếu đất; đang phải chống trả với những khổ đau của bệnh tật, nợ nần, đói nghèo, thất nghiệp, bất hòa chia rẽ. Chính Ngài là chất xúc tác là sức mạnh, là động lực cho ta đứng lên và tiến bước.
Ngày xưa ông Gioan Tẩy Giả tuy sống cảnh tù đày, không có cơ hội chứng kiến, giáp mặt Đức Kitô, nhưng Lời của Đức Kitô đã giúp ông lấy lại tất cả sức mạnh, niềm hy vọng tưởng chừng vụt tắt giữa quyền lực của thế gian. Đây chính là bài học cho ta trong cuộc đời Kitô hữu, đặc biệt trong bổn phận và trách nhiệm làm chứng và giới thiệu Đức Kitô cho mọi người, nhất là những người chưa có khái niệm gì về Đức Kitô. Chính Đức Kitô luôn ở bên ta, với ta nơi bí tích Thánh Thể, Lời Ngài nói với ta qua Tin Mừng, Ngài hiện diện quanh ta qua những người anh em.
Để nhận ra Đức Kitô và lời của Ngài, Như ông Gioan xưa, trước tiên là ta lui vào cõi lặng, lui vào hoang địa, sống đời sống khiêm hạ, đơn sơ. Hình ảnh của Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse là tấm gương sống động nhất cho ta noi theo, trong việc đón nhận và lắng nghe Lời của Đức Kitô trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, kế đến là ta sống trong tâm tình mà Thánh Giacôbê nhắn nhủ ta qua thư của ngài: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm... Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa. Kìa xem: chúng ta tuyên bố: phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích Chúa nhắm, vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu” (Gc.5,7-11).
Ước chi nhờ ơn Chúa giúp, ta có được đức tin sắt đá, sự tỉnh thức, lòng kiên nhẫn, niềm hy vọng. Đây chính là những điều cần thiết giúp ta hân hoan đón nhận tất cả những phúc lành của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên ta, như viễn cảnh mà Ngôn Sứ Isaia xưa đã giới thiệu: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35, 1-2).
Lạy Chúa! Con đang sống trong tuần lễ mà Giáo Hội là Mẹ mời gọi con hãy vui lên, hãy hy vọng vì Chúa đã đến gần. Xin Chúa giúp con biết dành thời gian tâm sự với Chúa nơi bí tích Thánh Thể, chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa nơi Tin Mừng. Nhờ đó mà niềm vui và niềm hy vọng của con luôn được Chúa thắp sáng bằng tình yêu của Chúa ngay bây giờ và mãi về sau. Amen.
40. Ngài là ai?
(Lm Phaolô Nguyễn Văn Đông)
Khác hẳn với các xã hội do con người thiết lập, xã hội mới của Thiên Chúa sẽ dành những chỗ nhất cho những người nghèo và khiêm tốn. Còn người lớn nhất sẽ là những người có tâm hồn rộng mở đón nhận tất cả mọi người. Đó là những người đã được thanh luyện qua những đau khổ và thử thách mà họ đã trải qua trong gần hết cuộc đời mình.
Sách Tiên tri Is 35, 1-6a.10
Trong lúc Assyri tàn phá Vương quốc Giu đa và lưu đày Vương quốc Israen, Isaia loan báo rằng một đám đông người bị bỏ rơi, bị khinh dể, bị thương tích sẽ được Thiên Chúa đến Cứu độ. Dân Thiên Chúa sẽ phải trải qua những đau khổ trong một cuộc xuất hành mới trước khi được Thiên Chúa ban cho sự sống phong phú.
Thánh Vịnh 145
Khác với những kẻ nắm quyền hành trên trần gian, Thiên Chúa là nơi nương tựa vững chắc mà tất cả những kẻ bé nhỏ có thể tin cậy
Thư Gia cô bê 5, 7-10
Trong thư, Thánh Gia cô bê mạnh mẽ nhắc lại rằng trong Giáo hội, những kẻ bé nhỏ và những người nghèo hèn không thấp kém hơn những người giàu. Ngài khuyên nhủ phải kiên trì và tin tưởng như người gieo giống.
Tin mừng: Mt 11,2-11
Ngữ cảnh
Trong tù, nghe thuật lại những gì Chúa Giê su đã làm, Gioan hoang mang tự hỏi: Phải nghĩ về Ngài như thế nào? Ngài có thật là Đấng đã được loan báo không? Những nghi vấn đặt ra về Chúa Giê su, một điều không hề có trước đây, đã khởi đầu một khúc quanh trong Tin Mừng Mát thêu. Các chương đi trước trình bày Chúa Giê su đầy quyền năng trong việc giảng dạy (cc.5-7), làm phép lạ (8-9) cũng như trong việc sai các Tông đồ truyền giáo (c.10), thật khác xa với hình ảnh một vị Thẩm phán mà người ta được loan báo (3,101-2). Bây giờ, đã đến lúc đặt vấn đề về căn tính Mê sia của Chúa Giê su. Ngài có thật là đấng Mê sia không?
Có thể đọc đoạn tin mừng nầy theo bố cục sau đây:
- Nhập đề: câu hỏi Gioan đặt ra cho Chúa Giê su (11,2-3)
- Câu trả lời của Chúa Giê su (11,4-6)
- Chúa Giê su ca ngợi Gioan Tẩy giả (11,7-11)
TÌM HIỂU
Ông Gioan đang ngồi tù: Gioan thẳng thắn chỉ trích hành vi của Hêrôđê vì ông ta đang sống bất chính với chị dâu của mình. Và hậu quả là ông đã bị Hêrôđê trả thù, và bị tống giam trong ngục.
Thầy có thật là Đấng phải đến không?: đối với Gioan, đấng phải đến là một đấng đầy quyền uy (x. 3,11: Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi). Một vị Thẩm phán đáng sợ, lấy lửa chẳng hề tắt mà tiêu diệt mọi tội nhân không ăn năn hối cải (x. 3,10-12) đúng theo truyền thống CƯ (x. Ml 3,1-3). Nhưng những gì ông biết về cách thức Chúa Giê su thi hành sứ vụ hoàn toàn không tương ứng với ý tưởng mà ông có về cuộc phán xét sẽ phải xảy ra. Do đó câu hỏi của ông khiến mọi người ngạc nhiên.
Hơn nữa có một tương quan mật thiết giữa câu hỏi của vị Tẩy giả và thân phận tù đầy của ông. Đấng Thiên sai mà người ta mong chờ sẽ đến giải cứu tù nhân, nhất là các tù nhân đức tin (Lc 4,18; Is 61,1), ông chẳng phải là người đầu tiên được cứu thoát sao?
Các anh cứ về thuật lại cho Gioan: thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su mời gọi ông hãy tự mình tìm ra câu trả lời ngang qua những gì những dấu chỉ Ngài đã làm. Đó là con đường đưa con người đến đức tin.
Không vấp ngã vì tôi: dịch sát chữ: “hòn đá hay chướng ngại làm cho ai vấp té” chỉ tất cả những gì khiến cho người ta sa ngã trên con đường luân lí hay đức tin. Chúa Giê su thấy trước rằng cách trả lời của Ngài có thể làm cho Gioan thất vọng, vì hình ảnh của ông về Đấng Mê sia quá khác biệt với những gì Chúa Giê su đã thực hiện.
Về ông Gioan: Chúa Giê su khen ngợi ông Gioan: Ngài coi ông ngang hàng với các Tiên tri lớn nhất thời Cựu Ước và ca ngợi ông đã nghiêm khắc và kiên cường rao giảng Tin mừng. Đồng thời Ngài cũng cho thấy khoảng cách giữa vị Tiền hô và Đấng mà ông chuẩn bị con đường cho Ngài.
SỨ ĐIỆP
“Ngài có phải là đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một đấng khác?”. Đó là câu hỏi đầy khó khăn mà Gioan Tẩy giả đặt ra cho Chúa Giê su sau một thời gian dài nhìn thấy những gì Chúa Giê su đã làm. Thật vậy, khi làm phép rửa cho Ngài ở bờ sông Gio đan, ông đã thực sự xác tín rằng Ngài chính là Đấng Messia. Ông đã lớn tiếng nói cho mọi người biết điều ấy, và đồng thời loan báo rằng Đấng Messia sẽ nghiêm khắc thực hiện phán quyết của Thiên Chúa.
Thế rồi tháng ngày trôi qua, Gioan Tẩy giả đã bị cầm tù. Còn Chúa Giê su rời xa gia đình để bắt đầu sứ vụ. Và không có điều gì xảy ra như ông đã báo trước. Những lời giảng dạy và hành vi của Đức Ki tô không có gì giống với cuộc phán xử chung thẩm. Trái lại, Ngài đã qui tụ một nhóm người chài lưới quê mùa, thất học làm môn đệ; Ngài thường lui tới tiếp xúc với những người tội lỗi và những kẻ tai tiếng. Điều ấy khiến Gioan Tẩy giả tự nhủ: mình có lầm về đấng Messia không? Ngài có phải là Đấng mà thiên hạ đợi trông không? Ông nghi ngờ về chính những gì mình đã loan báo.
Cách thế tốt nhất để biết rõ, là đi hỏi. Ông mong muốn được Chúa Giê su soi sáng, giúp ông thấy rõ hơn về sứ mạng của Ngài. Nên ông quyết định sai một vài môn đệ đến hỏi: “Thầy có phải là đấng phải đến không?”. Thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su mời gọi ông hãy nhìn và hãy tin: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các người đã thấy: Người mù được thấy, người què đi được, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo khổ”.
Tất cả những điều ấy dường như trái ngược hoàn toàn với bài đọc thứ nhất loan báo sự báo oán của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ, thì chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa không báo thù bằng cách tàn sát con cái của Ngài. Thiên Chúa đến là để cứu thoát và nâng con người chỗi dậy. Đó là sự chiến thắng của sự lành trên sự dữ. Đấng Thiên Chúa mà Chúa Giê su loan báo là tình yêu và lòng thương xót. Đó là một tin mừng mà chúng ta tìm thấy trong các sách tin mừng và đem lại cho chúng ta niềm vui và hi vọng.
Rõ ràng Thiên Chúa đến là để cứu độ, nhưng với điều kiện là chúng ta cần đến và tiếp nhận Ngài. Vì thế, những ai cậy dựa vào sức mạnh, quyền thế, kiến thức hay của cải thì không thể tiếp nhận ơn ban giải thoát của Người. Những ai chỉ cậy vào sức riêng mình để tự giải thoát thực sự không cần đến Thiên Chúa. Chính vì thế mà Gioan Tẩy giả đã loan báo cơn thịnh nộ dữ dội của Thiên Chúa dành cho họ. Án phạt sẽ được thi hành ngay tức khắc.Và sám hối là điều cần phải làm ngay.
Chúa Giê su không phủ nhận vai trò của ông Gioan Tẩy giả, trái lại khi đề cập đến ông, Ngài hết lời ca tụng ông. Nhưng vì ông là một tiên tri giao thời giữa Cựu và Tân ước, nên Chúa Giê su kết luận rằng người nhỏ nhất trong Nước Trời lại lớn hơn ông vì thuộc về Giao Ước mới.
Tin mừng mạc khải cho chúng ta một khuôn mặt khác của Thiên Chúa. Quả thật, Người là đấng toàn năng, nhưng đó không phải là sự toàn năng đáng sợ của một người khổng lồ, mà là sức mạnh của một tình yêu không biên giới. Ngài không đến để tiêu diệt, nhưng để ban cho chúng ta cơ hội để sám hối, vì Ngài không muốn một ai phải hư mất. Nước Thiên Chúa mà Ngài vừa loan báo dành cho tất cả mọi người. Đó là ơn ban không tốn phí và không đòi hỏi một công trạng nào về phía chúng ta.
Vì thế, Thiên Chúa báo thù bằng cách sai chính Chúa Giê su đến với chúng ta. Bằng những bước chân êm đềm, nhưng chắc chắn Ngài đến để mạc khải cho chúng ta thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Người ta chỉ có thể nhận ra Ngài nếu biết thay đổi cái nhìn về Ngài. Đó là điều quan trọng, vì Thiên Chúa của chúng ta không tương ứng với hình ảnh mà chúng ta có về Ngài. Chúng ta hình dung Ngài theo cách nghĩ của người thời nay, chỉ biết quan tâm đến những lợi ích cá nhân. Có người chờ đợi một vì Thiên Chúa kiểu ông già Nô ên, để xin ban cho mọi sự được an lành trong đời sống. Có người thì tưởng tượng một vì Thiên Chúa cảnh sát, dùng sức mạnh và áp chế lập lại trật tự trong thế giới đầy ích kỉ nầy, một vì Thiên Chúa sẽ ra tay uy quyền chận đứng mọi chiến tranh và trừng phạt những người từ chối chia sẻ.
Không, Thiên Chúa không phải là một vì Thiên Chúa tháo gỡ các khó khăn thay cho chúng ta và miễn cho chúng ta khỏi trách nhiệm. Một vì Thiên Chúa đích thật thì hoàn toàn khác: trong lễ Giáng sinh, Ngài hiện đến trong vóc dáng của một bé thơ bé bỏng, mềm yếu, một người không có gì để cho. Đôi tay nhỏ bé của Ngài không mang theo gì cả, hoàn toàn tùy thuộc và cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhưng khi giúp cho chúng ta ra khỏi chính mình để hướng về phía Ngài, Ngài sẽ biến đổi trái tim chúng ta, giúp chúng ta cảm nghiệm niềm vui và hạnh phúc khi trao ban.
Do đó, sứ điệp lớn nhất của mùa vọng chính là một lời mời gọi đặt chúng ta trong tư thế tiếp nhận: đã đến lúc chúng ta phải ra khỏi giấc ngủ mê. Thiên Chúa không ban tặng chúng ta một Vương Quốc làm sẵn nhưng đang hình thành. Chúng ta phải dọn một con đường cho Chúa đến trong chúng ta. Chúng ta đang sống trong một thế giới mang dấu ấn chiến tranh, hận thù, và thiếu hiểu biết. Và chính trong thế giới đó mà Chúa Giê su muốn gặp chúng ta, vì Ngài mang đến một tin vui: tình yêu của Ngài không ngừng ban tặng cho chúng ta. Ngài là nguồn suối đem lại bình an nội tâm. Nơi Ngài chúng ta học cách sống chung liên đới với nhau như anh chị em một nhà. Như thế mỗi người sẽ được nhìn nhận trong sự khác biệt và sự phong phú, sẽ phục vụ thiện ích cho mọi người.
Xin Chúa Ki tô mở mắt và tai chúng ta, xin Ngài đặt chúng ta trên đường đến với Ngài và đến với tha nhân; ước gì Tin mừng Ngài đã đến mang lại biến đổi thực sự đời sống chúng ta và cho thế giới.
14/12 Gioan Tẩy Giả là Elia
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Gioan Tẩy Giả là Elia.
Thứ Bảy tuần 2 mùa vọng – Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông".
* Thánh Gioan thánh giá chào đời năm 1542 ở Phontivêrốt, nước Tây ban Nha. Sau một ít năm sống trong dòng Cácmen, và được thánh nữ Têrêxa thành Avila khuyến khích, thánh Gioan đã muốn thực hiện việc cải cách trong dòng.
Điều này khiến thánh nhân phải chịu đựng muôn vàn đau khổ, thử thách. Người qua đời tại Ubêđa, nổi tiếng là một bậc khôn ngoan, thánh thiện, như chúng ta có thể nhận thấy qua các tác phẩm của người.
LỜI CHÚA: Mt 17, 10-13
Khi xuống núi, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu rằng: "Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước đã?"
Chúa Giêsu trả lời: "Thật Elia phải đến để chấn hưng mọi sự. Và Thầy bảo các con, Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ".
Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Êlia đã đến rồi
Suy niệm:
Các nhà thông luật, dựa trên ngôn sứ Malakhi,
nói rằng Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa (c. 10),
để “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu,
và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3, 1. 24).
Đức Giêsu nhất trí với họ, nhưng nhấn mạnh:
“Êlia đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông,
nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn” (c. 12a).
Theo Đức Giêsu, chẳng cần phải đợi Êlia nữa.
Gioan Tẩy giả chính là Êlia (c. 13).
Gioan đã đến để chỉnh đốn mọi sự (c. 11).
Đời ông là một tiếng kêu to trong hoang địa.
Ông mời mọi người sinh hoa trái diễn tả lòng sám hối ăn năn.
Dân chúng đã đổ xô đến với ông như đến với một ngôn sứ,
để thú tội và nhận phép rửa của ông ở sông Giođan.
Ông trở nên nổi tiếng đến độ có người tưởng ông là Đấng Mêsia.
Gioan đã không bao giờ nhận mình là Đấng Cứu thế.
Ông chỉ xin được cúi xuống cởi dây giày
cho Đấng đến sau ông, nhưng cao trọng hơn ông.
Kết cục của đời ông là bị cầm tù (Mt 11, 2),
và sau đó là một cái chết bi đát và đột ngột (Mt 14, 10-12).
Đầu ông rơi dưới tay của Hêrôđê, người vừa sợ, vừa kính nể ông.
Vào Mùa Vọng, chúng ta lại được Đức Giêsu nhắc đến cái chết
của người đã giới thiệu Ngài cho chính đồng bào của mình.
Gioan đã chu toàn nhiệm vụ của tiếng, nhưng ông không phải là lời.
Ông là ngọn đèn, nhưng không phải là ánh sáng (Ga 1, 8; 5, 35).
Bạo quyền có thể làm cho tiếng phải im, ngọn đèn phải tắt,
nhưng lời chứng của Gioan thì vẫn còn mãi trong dòng lịch sử cứu độ.
Ông đã sống một đời sống tuyệt vời, hoàn toàn xóa mình,
nên nhân loại hôm nay, qua ông, có thể tin vào Đức Giêsu.
Êlia đã chịu nhiều đau khổ.
Gioan và Đức Giêsu cũng không được nhìn nhận (c.12b).
Số phận của các ngôn sứ trong mọi thời đại đều như nhau.
Họ chịu khổ vì phải nói hay làm một điều gì đó đòi người ta thay đổi.
Họ gây khó chịu cho những người có quyền thế vững vàng.
Nhìn kết cục của đời ông Gioan và Đức Giêsu ta thấy khó tin.
Một người chết vì bị xử trảm, một người chết vì bị đóng đinh.
Khó mà tin được một vị là Êlia, vị kia là Mêsia.
Êlia phải quyền thế hơn nhiều, Mêsia thì không hề nếm mùi thất bại.
Để đón lấy một Êlia như Gioan, đón lấy một Mêsia như Giêsu,
phải bỏ những định kiến khô cứng, vì Chúa đi đường chẳng ai ngờ.
Thế giới hôm nay vẫn cần những ngôn sứ như Gioan,
làm chứng bằng lời giới thiệu và bằng đời sống.
Lời giới thiệu hấp dẫn nhờ đời sống thanh liêm.
Đời sống thu hút nhờ lời giới thiệu soi sáng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Họ không nhận ra Ngài
Lời Chúa đối với mỗi người đều có một ý nghĩa riêng áp dụng cho người đó trong cuộc sống hiện tại của mình. Chúa Thánh Thần là Ðấng soi sáng cho chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về chân lý niềm tin, cho nên Ngôi Ba được gọi là Thần Chân Lý và mỗi người đều múc lấy ý nghĩa sống cho mình qua Lời Chúa. Tuy nhiên, vì trình độ mỗi người khác nhau, vì hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác cho nên có thể hiểu Lời Chúa sai lệch đi.
Chúa Giêsu trao quyền rao giảng Lời Chúa cho Giáo Hội qua thánh Phêrô, vị đại diện tối cao của Giáo Hội tiên khởi và kế tiếp là trao cho các Tông Ðồ cho đến ngày nay. Cho nên chúng ta thấy trong Do Thái giáo, các luật sĩ là những người cắt nghĩa luật Chúa và họ đã nói với các môn đệ Chúa Giêsu: "Elia phải đến trước đã". Theo truyền thuyết, Elia là một tiên tri đại diện cho các tiên tri trong Cựu Ước, không chết nhưng được đưa về trời và sau này ông sẽ trở lại và các luật sĩ cắt nghĩa: Cần phải đợi Elia trở lại đã.
Chúa Giêsu cũng xác nhận với các môn đệ: "Thật, Elia phải đến để chấn hưng mọi sự". Elia ấy chính là Gioan Tẩy Giả đã rao giảng sự ăn năn thống hối, hãy sửa lối đi cho ngay thẳng, lối đi quanh queo hãy san cho bằng. Những nơi gồ ghề, hố sâu hãy lấp cho bằng thì mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Gioan tiền hô đã đi trước để dọn đường cho Chúa Kitô sẽ đến sau, Ngài đến để mang ơn cứu độ xuống cho trần gian và một số môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu để xem Ngài, đồng thời Gioan cũng đã xác định vị thế của mình trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Con người của Gioan Tẩy Giả thật là khiêm nhường trong vị thế của ông: "Còn tôi, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người". Gioan Tẩy Giả mang sứ mệnh như tiên tri Elia trong Cựu Ước nhưng cũng là một con người ăn chay hãm mình trong rừng vắng, khiêm nhường, đơn sơ trong công việc dọn đường cho Ðấng Cứu Thế sẽ đến.
Thật là một tấm gương cao quí đáng cho chúng ta bắt chước noi theo. Gioan Tẩy Giả không cao trọng nhờ sự lạ lúc sinh ra nhưng cao trọng do sứ mệnh dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến mà ông đã làm trong sứ mệnh của mình. Trong ngục tối, ông dám nói thẳng sự thật, dám làm chứng nhân cho Thiên Chúa ở giữa trần gian.
Chúa Kitô đến mang sứ mệnh cứu rỗi của Thiên Chúa Cha. Người ta không nhận ra Người, và người ta cũng đối xử với Ngài như các tiên tri trong Cựu Ước, đó là bắt bớ, đánh đập, hành hạ và sau cùng bị lãnh bản án tử hình treo trên thập giá một cách nhục nhã đau thương.
Bao nhiêu năm tháng chờ đợi Ðấng Cứu Thế đến, trải dài trong Cựu Ước vậy mà khi Ngài đến con người đã không nhận ra Ngài. Mỗi người chúng ta đôi lúc cũng đã không nhận ra Ngài trong cuộc sống, chúng ta vẫn nhớ Lời Chúa nhắc với chúng ta: "Ai làm cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em ấy là làm cho chính Ta".
Những kẻ bé mọn đó là ai? Thưa, họ là những người mà Chúa Giêsu đã nói::Ta đói các con cho Ta ăn, Ta khát các con cho Ta uống. Ta rách rưới các con đã cho áo mặc. Khi Ta ở tù các con đã viếng thăm". Lời nói của Chúa Giêsu làm mỗi người trong chúng ta suy nghĩ và tự nhận: Ailà anh em tôi? Không phải những ai xa lạ, không phải là những ai ở xa để rồi chúng ta không thấy được. Không phải là những bậc giàu có sang trọng trong xã hội, những người thiếu thốn, những người chạy gạo ăn bữa hôm lo bữa mai, những người không có thân nhân bà con, không mái nhà che mưa che nắng vào những trưa hè nóng oi bức, vào những cơn mưa tàn tã của thời tiết thu đông.
Mỗi người trong chúng ta tự hỏi như người luật sĩ và biệt phái trong Phúc Âm hỏi Chúa Giêsu: "Nhưng ai là anh em tôi?" Chúng ta cùng nhau xin Chúa cho chúng ta biết rõ, cảm nhận một cách sâu xa hơn câu trả lời của mình trong Mùa Vọng này để chúng ta đi đến niềm nở với người anh chị em, cùng nhau nắm chặt bàn tay thân ái đón mừng Chúa đến.
Lạy Chúa, Gioan Tẩy Giả đến để chuẩn bị cho Chúa mang ơn cứu độ đến. Xin cho mỗi người trong chúng con chuẩn bị tâm hồn trong sáng hân hoan để đón Chúa đến trong chúng con và trong gia đình thân yêu của chúng con. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết yêu thương nhau, chia sẻ cho nhau tất cả tinh thần và vật chất để trọn niềm vui mừng đón chờ Chúa đến. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Êlia sẽ đến lại.
Ngày 10/11/1948, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã long trọng công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Gia nhập Liên hiệp quốc có nghĩa là ký tên vào bản tuyên ngôn này và đương nhiên cam kết bênh vực quyền con người.
Thật ra, chỉ Thiên Chúa là Đấng có thể ban cho con người quyền và phẩm giá được làm người mà thôi. Trong tác phẩm: “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” Đức Gioan Phaolô II đã viết:
“Thật hiển nhiên là quyền con người đã được Đấng sáng tạo ghi khắc trong trật tự của công cuộc sáng tạo. Như vậy chúng ta không thể nói đến những ban nhượng từ phía các tổ chức của con người. Những tổ chức này không làm gì khác hơn là diễn tả những gì chính Thiên Chúa đã ghi khắc trong trật tự Ngài đã tạo dựng: trong lương tâm hay trong quả tim con người như Phaolô đã giải thích trong thư Rôma. Tin Mừng là sự khẳng quyết trọn vẹn nhất về mọi quyền con người. Không có Tin Mừng, chúng ta rất dễ xa lạc với chân lý về con người. Thật thế, Tin Mừng cho thấy các luật thần linh đang bảo toàn trật tự luân lý của vũ trụ và củng cố nó, nhất là qua cuộc Nhập thể. Con người là ai mà Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính con người. Con người phải là ai nếu Con Thiên Chúa đã phải trả một giá đắt nhất cho phẩm giá của nó. Mỗi năm, phụng vụ diễn tả sự thán phục sâu xa của mình khi chiêm ngắm chân lý và mầu nhiệm này trong lễ Giáng sinh cũng như trong đêm Vọng Phục Sinh. “Ôi tội hồng phúc vì ngươi đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu chuộc cao cả”. Đấng Cứu chuộc khẳng quyết quyền con người bằng cách tái lập sự toàn ven của phẩm giá mà con người đã lãnh nhận khi Thiên Chúa tạo dựng nó theo và giống hình ảnh Thiên Chúa.
Những lời trên đây giúp chúng ta hiểu được sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến Êlia, Gioan Tẩy giả và chính thân phận của Ngài. Êlia là hiện thân của một cuộc tranh đấu không ngơi nghỉ cho công bằng và quyền con người, Ngài mở ra một thế hệ các tiên tri luôn lên tiếng tố cáo những bất công và kêu gọi tôn trọng phẩm giá con người, nhất là những người cùng khổ, bị áp bức. Chúng ta cũng bắt gặp dung mạo ấy trong vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước là Gioan Tẩy giả. Lời kêu gọi sám hối của Gioan cũng là một cảnh cáo trước những bất công xã hội và vi phạm nhân quyền, nhất là những người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chúa Giêsu xuất hiện trong truyền thống tiên tri ấy. Ngài là tiên tri của các tiên tri, Ngài không những lên tiếng tố cáo bất công, mà còn đề cao quyền và phẩm giá cao trọng của con người nơi những kẻ bé mọn, bị đẩy ra bên lề xã hội. “Con Người cũng phải đau khổ như thế”. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá trước hết là một điển hình cho những vi phạm tôn giáo, nhân danh quyền lợi dân tộc và theo một hình thức tố tụng tùy tiện và độc đoán nhất, người ta đã kết án Ngài phải chết cách bỉ ổi nhất. Tuy nhiên, cũng qua cái chết ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện phẩm giá cao cả của con người.
Chân lý của con người đã được thể hiện trong cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết ấy là một lời ngỏ của Thiên Chúa với con người. Con người cao cả đến độ Thiên Chúa đã thí ban người Con Một của Ngài. Dù muốn hay không, không ai chối cãi được rằng ý niệm về nhân quyền như được đề cao trong bản Tuyên ngôn nhân quyền đã cắm rễ sâu trong mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc của Kitô giáo. Người ta không thể hiểu và chấp nhận phẩm giá cũng như các quyền con người, nếu không nhìn nhận nền tảng là con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa và được cứu chuộc bằng chính cái chết của Chúa Giêsu.
Ước gì cái nhìn ấy luôn là động lực thúc đẩy các kitô hữu nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá và quyền con người trong cuộc sống từng ngày nhất là phẩm giá và quyền của những người cùng khổ bị đẩy ra bên lề xã hội.
Suy Niệm 4: Tranh cãi của luật sĩ
Nhưng Thầy nói cho anh em biết: Ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo như ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy Giả. (Mt. 17, 12-13)
Dân Ít-ra-en cứ tưởng rằng Thiên Chúa sẽ sai Ê-li-a đến dọn đường cho Đấng Thiên sai. Ma-la-ki-a, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước đã viết: “Đây Ta sai Ê-li-a làm sứ giả đến trước ngày quang minh chính đại lạ lùng của Đức Chúa. Ông sẽ hướng con tim của cha ông về cùng con cháu, và hướng con tim của con cháu về những con tim của cha ông kẻo Ta đến chúc dữ xứ này” (3, 23-24). Điều gì sẽ xảy ra nếu lời tiên tri này không thực hiện?
Chính lối tranh luận về lời tiên tri trên mà người ta thường phi bác thái độ cứu thế của Đức Giêsu. Người đã sẵn sàng mất thời gian chịu đựng cách phi thường lối sống cuồng tín lầm lẫn đáng sợ đó.
Đối với môn đệ, Người quả quyết cho các ông biết rằng Ê-li-a đã đến và đã phục hưng tất cả, nhưng Người thêm rằng: Người ta đã không nhận biết ông và còn xử tệ với ông như đã hãm hại tất cả các tiên tri. Ông đã san phẳng những con đường, đã lấp đầy những thung lũng, đã bạt thấp những núi đồi … Ông đã loan báo Đấng đến sau ông. Ngài lớn hơn ông, cầm sàng sẵn trong tay, xẩy sạch các hạt lúa phơi trong sân, đốt sạch rơm rạ, đưa cất những lúa tốt vào kho lẫm của Thiên Chúa … Bấy giờ các môn đệ hiểu Người nói về Gioan tẩy giả.
Đức Giêsu nói về các luật sĩ rằng họ đã không nhận ra dấu chỉ của thời đại, nên họ không thể nhận ra đặc tính của Đấng Cứu thế. Cho nên Con Người sẽ phải chịu khốn khổ bởi họ.
Nếu các luật sĩ cố chấp không hiểu, thì các môn đệ đã hiểu sứ vụ của Người và các ông bắt đầu tìm hiểu lời tiên báo về thập giá.
Chúng ta dễ thấy bực mình về những rắc rối của luật sĩ, vậy chúng ta cần phải thi hành lời Chúa để đáp lại những lý luận của những kẻ mê muội đó. Đức Giêsu đã không ngừng rao giảng sự cứu độ cho cả những tối dạ không biết suy nghĩ đó. Người cũng không ngừng bị cám dỗ chỉ nói cho những kẻ đón nhận lời Người thôi. Chúng ta tuy vào số những người hiểu lời Chúa, nhưng lại nhốt lời Chúa như nhốt tù, không lo sống và rao giảng lời Chúa.
G.M
Suy Niệm 5: ĐAU KHỔ VÌ SỨ VỤ (Mt 17,10-13)
Trong Mùa Vọng, người được nhắc nhiều nhất chính là Gioan Tẩy Giả. Bởi vì Ngài vừa là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, vừa là người loan báo, chuẩn bị dọn đường trực tiếp cho Đấng Cứu Thế. Có thể nói: Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri kết thúc thời Cựu Ước, và khai mào cho thời Tân Ước.
Mặc dù ngài là người sống trong sa mạc, tuy nhiên, những lời giảng của ngài đã lay động nhiều tâm hồn, và ngày càng đông người đến để xin thụ huấn.
Sứ mạng của Gioan đến là để canh tân các tâm hồn, kêu gọi sám hối để được ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế. Sứ mạng này cũng chính là của Êlia thời Cựu Ước.
Thật vậy, Êlia đến để loan báo về tình thương của Thiên Chúa trên dân Người, ngài cũng trở thành trung gian để khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, làm nguôi cơn thịnh nộ của Người. Ngài còn đóng vai trò làm người giao hòa giữa mọi người với nhau, xây dựng sự hiệp nhất và bình an trong xã hội. Đến thời Gioan cũng vậy. Ông đến để kêu gọi dân quay trở lại đường chính nẻo ngay để chuẩn bị tâm hồn, dọn lòng thanh sạch để đón mừng Đức Giêsu đến. Hai con người nhưng cùng chung một sứ mạng. Hai thời điểm, nhưng cùng hướng về một mục đích. Vì thế, nếu Êlia đã phải chịu bách hại vì sứ vụ, thì Gioan cũng không thoát khỏi cảnh tù đầy và bị giết chết. Đặc biệt, chính Đức Giêsu, Ngài cũng đồng số phận với các tiên tri khi thực thi sứ mạng cứu chuộc nhân loại.
Điều này đã được Đức Giêsu nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài nói: “Êlia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ".
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối, ăn năn vì những lỗi lầm thiếu sót của chính mình.
Noi gương Gioan Tẩy Giả, sống cuộc sống hy sinh để làm gương cho dân chúng noi theo. Đồng thời, chia sẻ bác ái cho những người khó khăn. Sẵn sàng loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người bằng nhiều cách, nhất là bằng gương sáng.
Nếu có phải nguy hiểm đến tính mạng thì hãy nhớ rằng: đây chính là số phận của Êlia, Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu cũng như những môn đệ của Ngài trên khắp thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả mà hăng say vì sứ vụ, sẵn sàng dấn thân vì Chúa. Ước mong sao Mùa Vọng này, chúng con có được một tâm hồn mới, nhờ sự sám hối chân tình để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.
Ngọc Biển SSP
13/12 Chủ quan, phiến diện
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Chủ quan, phiến diện.
Thứ Sáu tuần 2 mùa vọng – Thánh Luxia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.
"Họ không nghe lời Gioan và lời Con Người".
* Có lẽ thánh nữ đã chịu chết ở Xyracuxa, thời hoàng đế Điôlêxianô bách hại đạo (340). Ngay từ thời xa xưa, hầu như cả Hội Thánh Rôma đã tôn kính rồi ghi tên người vào Kinh Tạ Ơn.
LỜI CHÚA: Mt 11, 16-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta sẽ so sánh thế hệ này với ai? Họ giống như bọn trẻ ngồi nơi phố chợ, gọi lũ trẻ khác mà rằng: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!" "Vì Gioan đến, không ăn không uống, thì họ nói: "Ông ta phải quỷ ám!"
Con Người đến, ăn uống giống như thường, thì họ nói: "Ðó là người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi".
Nhưng sự khôn ngoan được biện minh bằng các công việc của mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lũ trẻ ngồi ngoài chợ
Suy niệm :
Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài
với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 16-17).
Một nhóm bày trò chơi đám cưới,
thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.
Nhưng nhóm kia đã chẳng tham gia.
Nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.
Nhưng nhóm kia cũng không giả vờ than khóc.
Thế hệ của Đức Giêsu cũng có nét tương tự như lũ trẻ.
Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,
sự khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).
Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.
Lối sống của Gioan phù hợp với lời ông giảng về Nước Trời gần đến.
Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.
Người ta đã coi ông là bị quỷ ám (c. 18),
nên cuối cùng đã không tin ông (Mt 21, 32).
Ngược lại, khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,
Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.
Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.
Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,
một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải thoát.
Ngài tiếp đón những ai bị xã hội loại trừ.
Ngài ăn chung một bàn với những tội nhân cần xa tránh.
Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn,
họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa và hoán cải.
Tiếc thay, Đức Giêsu cũng bị nhiều người từ khước như Gioan.
Ngài bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 19).
Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.
Sống thế nào cũng không chiều được họ.
Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng cố tìm ra lý do để biện minh.
Để khỏi phải đối diện với chân lý, con người trở nên ngụy biện.
Đức Giêsu dám ví thế hệ của Ngài với đám con nít ngồi ngoài chợ.
Ngài sẽ ví thế hệ chúng ta với ai?
Nơi một số nước, người ta cho phép ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính.
Ở nhiều nơi vẫn còn sự kỳ thị về giới tính, màu da, tôn giáo, chủng tộc.
Bao giờ người ta cũng tìm đủ lý do để làm những điều trên.
Nguy cơ của con người thuộc mọi thời đại, là ở lại trong sự ấu trĩ,
khăng khăng với những ngang bướng ích kỷ của mình.
Cả Gioan và Đức Giêsu đều đã bị loại trừ và bị giết.
Mùa Vọng mời chúng ta dám tin vào lời chứng của Gioan và Giêsu.
Tin luôn đòi chúng ta hoán cải, không được sống như xưa.
Tiếng kêu từ hoang địa của Gioan kéo ta ra khỏi mọi dính bén trần tục.
Thái độ bao dung nơi bàn ăn của Giêsu mời tội nhân ra khỏi bóng tối.
Làm sao con người hôm nay nghe được tiếng kêu của Gioan và Giêsu?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng con
đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn,
vào những lối mòn quen thuộc,
nhưng xin canh tân
và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới,
cho chúng con khám phá ra
những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô
và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống,
thế giới hôm nay luôn bị đe dọa
bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh;
mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống,
và gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại
một lễ Hiện Xuống mới
để con người có thể hiểu nhau hơn
và đón nhận nhau trong yêu thương. Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Pharisiêu cứng lòng
Một vị quan văn nổi tiếng vào thời nhà Tống ở Trung Quốc có câu chuyện Giáp Ất tranh luận như sau:
Giáp hỏi Ất: - Nếu lấy đồng đúc thành chuông, đẽo gỗ làm cái dùi, lấy dùi đánh vào chuông, nó lêu boong boong. Vậy tiếng kêu là do gỗ hay do đồng.
Ất đáp:
- Lấy dùi gõ vào tường vách không kêu, gõ vào chuông lại kêu. Vậy tiếng kêu ở đồng.
Giáp lại hỏi: - Lấy dùi gõ vào tiền trinh bằng đồng không kêu, thế thì có chắc tiếng kêu là do ở đồng mà ra không?
Ất lại đáp:
- Ðồng tiền đặc, cái chuông rỗng. Vậy tiếng kêu là do các đồ vật rỗng mà ra.
Giáp hỏi tiếp: - Lấy gỗ, lấy đất sét làm thành chuông đánh cũng chẳng nghe tiếng kêu boong boong, thế thì chắc gì tiếng là do các vật rỗng mà ra.
Cuộc tranh luận giữa Giáp và Ất sẽ kéo dài mãi thì chẳng thể nào có một giải đáp đúng nghĩa nếu họ chỉ giải đáp một cách phiến diện và chủ quan, chỉ giải quyết vấn đề theo từng góc cạnh riêng lẻ. Tâm trạng chủ quan và cái nhìn phiến diện của họ phần nào cũng giống như cái nhìn của người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng mà thánh Matthêu ghi lại.
Thật vậy, sống trong một thế giới đầy màu sắc và ánh sáng thì chẳng ai lại không lo sợ và đề phòng về chứng tật mù lòa. Nhìn người mù không ai mà lại không cảm thấy xót thương, động lòng trắc ẩn, vì mắc phải bệnh mù con người gần như mất một phân nửa cuộc đời, và không những họ mất hết niềm vui do cái nhìn đem lại mà trước một sự việc họ cũng chẳng hiểu được tường tận nếu chỉ đón nhận bằng đôi tai, chưa nói đến những điều đòi phải được đón nhận bằng đôi mắt.
Tuy nhiên, dù cho thiệt thòi như vậy bệnh mù lòa vẫn chưa nguy hiểm bằng căn bệnh của những người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là óc phê phán chủ quan và họ cứ tưởng mình sáng hóa ra lại chẳng thấy gì. Vì nếu người mù biết mình tối thì họ sẽ cố gắng tìm hiểu sự việc trước mắt khi không nhìn được sự khác. Còn người chủ quan và phiến diện thì muôn đời sẽ tăm tối trước chân lý, vì khi chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý mà họ cứ tưởng là đã đạt được chân lý để rồi cứ thế mà cố chấp trước những vẻ đạp của chân lý. Họ chẳng khác gì năm người mù đi xem voi, người thì cho con voi là cái cột đình to tướng, kẻ lại nói con voi là chiếc quạt khổng lồ, người khác lại cho con voi là quả núi đồ sộ.
Khi thánh Gioan Tẩy Giả đến rao giảng ơn cứu độ, người không ăn uống thì được gán cho nhãn hiệu là bị quỉ ám. Ðức Kitô đến, Người ăn uống như bình thường thì bị kết án là người mê ăn uống, là bạn của quân thu thuế và tội lỗi. Họ chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ nhìn Ðấng Messia theo cái nhìn phiến diện nên người Do Thái đã khép chặt cửa lòng trước lời mời gọi của ơn cứu rỗi. Với cái nhìn phiến diện đã nảy sinh những phe phái chủ quan chẳng khác gì bọn trẻ nít ngồi nơi phố chợ: "Chúng tôi thổi sáo sao các bạn không nhảy múa. Chúng tôi than vãn sao các bạn không than khóc?" Chính vì thế mà ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng nhận ra: "Ngài đã đến trong nhà Ngài nhưng người nhà đã không nhận ra Ngài, không đón tiếp Ngài".
Trong Giáo Hội ngày nay cũng không thiếu những trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái. Ðức Kitô được trình bày trọn vẹn trong Kinh Thánh, qua Phụng Vụ và qua Giáo Hội, thế mà người ta lại giới hạn Ðức Kitô trong cái nhìn của họ. Họ cũng giới thiệu Ðức Kitô cho người khác nhưng đây chỉ là một Ðức Kitô bị bóp méo cho hợp với chủ trương của họ, có lợi cho họ. Và nếu có một ai giới thiệu Ðức Kitô khác với chủ trương và đi ngược lại với quyền lợi thì họ sẵn sàng kết án hoặc bôi nhọ làm sao để đừng mất đi quyền lợi của mình.
Lạy Chúa, khi nhìn lại bản thân chắc chắn không ít lần con đã hành động như người Do Thái, nhìn Chúa bằng một cái nhìn phiến diện. Chỉ đón nhận Thiên Chúa hợp với sở thích, quyền lợi, giới thiệu cho người khác hoặc Thiên Chúa bị uốn nắn theo những điều con nghĩ tưởng, và nếu có điều nào khác quyền lợi của con, con sẽ sẵn sàng kết án dù cho đó là chân lý, là sự thật.
Trong Mùa Vọng này, xin Chúa cho con được biết vượt qua các thành kiến hẹp hòi mà vươn lên khỏi những ràng buộc của quyền lợi để rộng mở tâm hồn đón tiếp Chúa, vì Chúa đang đến trong từng giây phút qua các biến cố cuộc đời cũng như qua người anh em bên cạnh con.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Chủ quan, phiến diện.
Âu dương tử, một học giả Trung hoa có viết câu chuyện sau:
Giáp hỏi Ất: Lấy đồng đúc thành chuông, đẽo gỗ làm cái dùi, lấy dùi đánh vào chuông, thì tiếng kêu phát ra đó do gỗ hay do đồng?
Ất đáp: Lấy dùi gõ vào tường vách thì không kêu, mà gõ vào chuông lại kêu, vậy tiếng kêu do bởi đồng.
Giáp lại hỏi: Lấy dùi gõ vào đồng tiền bằng đồng thì không kêu, vậy có chắc tiếng kêu là do đồng chăng?
Ất đáp: Đồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu phát ra là do các vật mỏng.
Giáp hỏi tiếp: Lấy gỗ, lấy đất sét khoét làm chuông, đánh lên đâu có boong boong, thế thì có chắc gì tiếng kêu phát ra là do đồ vật rỗng?
Cuộc tranh luận nếu cứ đà ấy sẽ kéo dài lẩn quẩn và chẳng có câu giải đáp nào thỏa đáng, nếu họ chỉ nhìn vấn đề một cách chủ quan, phiến diện, chỉ giải quyết vấn đề từng góc cạnh riêng rẽ.
Sống trong một thế giới đầy màu sắc và ánh sáng, thì ai cũng lo đề phòng chứng tật mù lòa. Nhìn người mù, ai lại không xót thương và trắc ẩn. Mắc phải mù lòa, con người cảm thấy như mất nửa cuộc đời. Không những mất niềm vui do cái nhìn mang lại, họ còn chịu bao thiệt thòi khi không cảm nhận được những sự việc xảy ra chung quanh.
Tuy nhiên, bệnh mù lòa vẫn chưa nguy hiểm cho bằng căn bệnh của người Do Thái như được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là tâm trạng chủ quan và cái nhìn phiến diện. Bởi vì nếu người mù biết mình tối họ sẽ cố gắng hiểu sự vật trước mắt bằng những giác quan khác; còn người chủ quan, phiến diện sẽ muôn đời tăm tối trước chân lý, chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý, họ tưởng mình đã đạt tới chân lý, để rồi cứ thế trở thành cố chấp. Gioan Tẩy giả đến rao giảng ơn cứu độ, ngài không ăn không uống thì bị gán cho là người bị quỷ ám; Chúa Giêsu đến, Ngài hòa nhập với mọi người, ăn uống bình thường, thì bị chê bai là người mê ăn uống, bạn bè với quân thu thuế và tội lỗi.
Chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ hiểu Đấng Mêsia theo cái nhìn phiến diện, người Do Thái đã khép lòng trước lời mời gọi hoán cải để đón nhận ơn cứu độ. Ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng có cơ may nhận ra và đón tiếp.
Trong Giáo Hội hôm nay cũng không thiếu trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái xưa. Chúa Kitô được phô bày trong Kinh Thánh qua phụng vụ, thế mà người ta lại giới hạn Ngài trong cái nhìn của họ, hợp với chủ trương của họ, và nếu có ai tin thờ một Chúa Kitô đi ngược với quan điểm của họ, thì họ sẵn sáng phủ nhận, kết án, bôi nhọ.
Trong Mùa vọng này, chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết vượt khỏi thiên kiến và ràng buộc của quyền lợi, để đón nhận Chúa đang đến qua từng biến cố cuộc đời và nơi mỗi người anh em.
Suy Niệm 4: Một trái tim cảm thương
Con Người đến, cũng ăn cũng uống, thì thiên hạ bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động. (Mt. 11, 19)
Một số người luôn luôn có tính ngang ngược. Tin mừng hôm nay vạch cho chúng ta thấy tính ngang ngược của chính chúng ta. Nếu có ai đi lễ nhiều, chúng ta nghĩ xấu họ là kẻ tốt thế đó, chẳng đứng đắn đâu. Nếu có ai siêng năng xưng tội rước lễ, thì bị coi là đạo đức ủy mị. Chúng ta luôn luôn bài bác người khác về bất cứ cái gì.
Gần đây, tôi gặp một gã thanh niên khổ sở vì một cô gái trẻ yêu thích bạn nó hơn nó. Nó không còn vui gì khi gặp bạn nó. Nó không còn trái tim muốn nhảy nhót nữa.
Và khi xảy đến một tai họa, một vụ giết người, hay có ai chết, có ai bệnh, có ai bị trừng phạt … chúng ta sẵn sàng nói: đó không phải là việc của tôi, tôi bận việc, tôi bị đau, kệ thây nó, nó phải tự lo lấy.
Chúng ta trở nên kẻ hoặc ghen ghét, hoặc lãnh đạm, nhưng lại không dám nói thẳng thắn. Thế là chính chúng ta đang bị Tin mừng phanh phui về chúng ta.
May thay, Tin mừng vẫn mời gọi chúng ta đi vào con đường hạnh phúc: “Phúc cho những ai biết cảm thương. Phúc cho trái tim biết thương xót”.
Đó là hiến chương nước trời, của triều đại đáng được mong chờ và đáng được loan báo trong mùa vọng này. Để được như thế, cần phải tước bỏ cái tôi, cần phải có con tim cảm thương nhạy bén: “Vui với người vui, khóc với người khóc”, sẵn sàng nâng đỡ nỗi cực khổ của người khác.
Ai trong các người lân cận của bạn, đã sống trong hoàn cảnh sung sướng hay khổ sở trong những ngày này? Họ cần bạn chia sẻ niềm vui nỗi buồn của họ. Họ cần tấm lòng thông cảm nhạy bén của bạn.
Và trong lễ tế Thánh Thể này, chúng ta có thể dự phần vui mừng của chính Thiên Chúa được không? Hãy vui mừng sung sướng vì Ngài sống trong Con yêu dấu của Ngài?
Hãy ngợi khen Thiên Chúa, đã cho phép chúng ta được vui sướng với Ngài, đã cho phép chúng ta được thông phần nguồn hoan lạc của Ngài.
J.Y.G
Suy Niệm 5: TẠI SAO...? (Mt 11,16-19)
Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng trước. Nếu hôm qua, Đức Giêsu khen ngợi sự xuất hiện và vai trò cũng như sứ mạng của thánh Gioan Tẩy Giả, thì hôm nay, Ngài khiển trách nặng nề đối với các vị lãnh đạo tôn giáo thời của Gioan. Tại sao vậy? Thưa vì Gioan đã kêu gọi dân chúng sám hối để đón chờ Đấng Cứu Tinh đến. Dân chúng đã tỏ lòng sám hối, xin chịu phép rửa thanh tẩy, còn những người lãnh đạo thì cứng lòng, ích kỷ và không chịu tin. Vì thế, Đức Giêsu đã mượn một trò chơi hát đối của trẻ em thời đó, nhằm diễn tả về thế hệ này vì sự cố chấp, kém tin của họ:
Các trẻ em thường chia làm hai phe. Bên xướng bên đáp. Nếu bên xướng hát những điệu buồn hay đưa đám thì bên đáp phải khóc lóc, than vãn..., còn nếu bên xướng hát lên những điệu nhạc vui, thì bên kia phải nhảy múa hân hoan....
Nếu đôi bên không hiểu ý nhau thì cuộc chơi mất vui. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào bọn trẻ cũng thành công trong trò chơi này, vì gặp phải những “đầu biếu” cố tình chọc ngoáy làm cho cuộc chơi mất vui. Vì vậy, bên chủ động bực tức nên mới nói: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!". Tệ hơn nữa là nhóm trẻ không chịu chơi đó lại còn trách móc đủ điều....
Sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả cũng vậy. Lời mời gọi của ngài không được giới lãnh đạo đáp ứng, mà ngược lại, họ còn coi ông như là: người bị quỷ ám. Đức Giêsu cũng chung số phận với Gioan vì Ngài cũng đã từng bị họ lên án là người “mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi".
Tin Mừng hôm nay được đọc trong bối cảnh của Mùa Vọng, hẳn sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy noi gương dân chúng thời Gioan khi xưa là: hãy hoán cải đời sống, ăn năn sám hối, trở về với Chúa trong phẩm giá người Kitô Hữu, để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Bên cạnh đó, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy thực thi tinh thần sám hối cách thiết thực hơn nữa chính là những việc hy sinh, hãm mình, khổ chế, làm việc bác ái…, để nêu gương sáng cho hối nhân sám hối trở về với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết đáp lại lời mời gọi của thánh Gioan để ăn năn sám hối, canh tân đời sống, ngõ hầu tâm hồn chúng con được xứng đáng đón tiếp chính Chúa Giáng Sinh hằng ngày qua việc đón nhận chính Mình và Máu Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
- 12/12 Gioan Tẩy giả được Chúa khen
- 12/12 Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai
- 11/12 Dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng
- 10/12 Con chiên lạc đàn
- 09/12 Nhớ lại và lắng nghe
- 08/12 Mau mau sám hối
- 07/12 Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít
- 06/12 Chữa lành 2 người mù
- 05/12 Người Khôn Ngoan thực sự
- 04/12 Hóa bánh ra nhiều lần 2