Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
29/01 Người gieo hạt đi gieo hạt giống
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Thứ Tư tuần 3 thường niên.
"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"
LỜI CHÚA: Mc 4,1-20
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.
Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng: "Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống. Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm". Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".
Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông: "Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội". Người nói với các ông: "Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?
Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hạt giống Lời Chúa
Suy niệm :
Chỉ cần một hạt giống lời Chúa rơi vào tâm hồn bạn,
như rơi vào thửa đất màu mỡ,
đời bạn có thể thay đổi hoàn toàn.
Têrêsa Hài Đồng đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Ai không nên như trẻ thơ thì chẳng được vào Nước Trời.”
Chị đã nên thánh nhờ suốt đời sống phó thác như trẻ thơ.
Têrêsa Calcutta đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Những gì ngươi làm cho một anh em nhỏ nhất, là làm cho chính Ta.”
Mẹ Têrêsa đã không bao giờ quên mình đang tiếp xúc với Giêsu
mỗi khi Mẹ gặp người nghèo khổ, bệnh tật.
Là Kitô hữu, chúng ta thường xuyên được nghe Lời Chúa,
nhưng một tiếp xúc thực sự với hạt giống Lời Chúa vẫn ít xảy ra.
Điều này đã là vấn đề của các Kitô hữu sơ khai rồi.
Tất cả bốn hạng người trong dụ ngôn Người gieo giống đều nghe.
Tuy nhiên kết quả lại rất khác nhau,
vì vấn đề không phải là nghe bằng tai, nhưng là nghe bằng cả tâm hồn.
Vẫn có thứ tâm hồn hời hợt như đất cứng ở vệ đường.
Hạt giống chưa bao giờ thâm nhập được vào đất,
mới chỉ nằm trơ vơ trên bề mặt.
Hạt giống này nhanh chóng làm mồi cho chim chóc, cho Xatan.
Vẫn có thứ tâm hồn chai đá, như mảnh đất chỉ có lớp đất mỏng bên trên.
Hạt giống mọc ngay, nhưng sau đó bị khựng lại,
không đâm rễ được vì đất nhiều sỏi đá.
Khi nắng lên, cây bị héo khô vì không có rễ hút nước.
Để cho Lời Chúa đâm rễ sâu trong đời mình và nuôi dưỡng mình,
đó là nỗ lực suốt đời của người Kitô hữu.
Vui vẻ đón nhận Lời ngay lập tức mà không chịu đào sâu, đâm rễ,
thì cũng sẽ bỏ cuộc ngay lập tức khi cơn bách hại đến từ bên ngoài.
Vẫn có thứ tâm hồn nặng nề, vì những lo lắng sự đời, đam mê giàu có.
Chính những lệch lạc từ bên trong như bụi gai đã bóp nghẹt hạt giống.
Lời Chúa đòi ta vượt lên trên những thèm muốn, khoái lạc và âu lo.
Để Lời Chúa sinh trái phải làm cỏ, dọn bụi gai cho sạch.
Nhưng vẫn có những tâm hồn mềm mại như mảnh đất tốt.
Hạt giống Lời Chúa thoải mái đâm rễ sâu, và sinh hoa trái gấp trăm.
Dù gặp bách hại vì Lời, dù bị danh lợi thế gian lôi kéo,
họ vẫn không đánh mất căn tính Kitô hữu của mình.
Tâm hồn chúng ta thuộc loại đất nào?
Đó là câu hỏi cho từng Kitô hữu xưa cũng như nay.
Thiên Chúa vẫn cứ kiên nhẫn và miệt mài gieo giống cho đến tận thế.
Ngài vẫn mời ta ra khỏi sự hời hợt, cứng cỏi, chai đá của lòng mình.
Nếu ta dám để cho Lời Chúa thực sự đi vào đời ta, dù chỉ một lần,
ta sẽ thấy được sức biến đổi kỳ diệu của Lời Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Hạt giống Lời Chúa
Phan Linh là một nhân vật nổi tiếng trong nhiều lãnh vực khoa học kỹ thuật và văn chương. Một hôm ông nhận được một món quà của một người bạn từ Ấn Ðộ, đó là một cái chổi rơm. Nhận thấy có những hạt lúa dính ở cọng rơm, ông nhặt lấy và đem đi gieo, sau đó ông cũng phân phát cho bà con cùng gieo, thu hoạch rất khả quan và dần dần lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nhập giống lúa mới và khai sinh kỹ nghệ làm chổi phục vụ cho cả nước.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống để giảng về Nước Trời. Việc gieo giống có lẽ rất quen thuộc với người Việt Nam, vì có đến 4/5 dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Người gieo giống nào cũng muốn gieo hạt trên đất đã cày bừa cẩn thận; Thiên Chúa cũng muốn tâm hồn con người được trở nên như thửa đất để hạt giống Lời Ngài có thể mọc lên, phát triển và sinh nhiều hoa trái, làm ích cho mình và cho người khác nữa.
Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Ðấy là chưa kể những biến cố xảy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón nhận hạt giống Lời Chúa. Xin làm cho những hạt giống ấy được bám rễ, mọc lên tươi tốt và trổ sinh được nhiều bông hạt, để mỗi ngày chúng ta được lớn lên trong tình yêu Chúa và góp phần xây dựng Giáo Hội Chúa ngày một lớn mạnh hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Phải chăng lỗi tại Chúa?
“Các người nghe đây! Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường. Chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết hô. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả: Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” (Mc. 4. 3-8)
Dụ ngôn Người gieo giống theo thánh Maccô này mang dấu vết của một bài biên soạn chịu ảnh hưởng đời sống Giáo hội buổi ban đầu, trước hết là vấn đề giải thích sự thất bại trong việc rao giảng Tin mừng, sau là ý nghĩa của từ “Lời Chúa”
Thất bại trong việc rao giảng
Maccô quả quyết điều này: với những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn… để họ không hiểu, kẻo họ trở lại…
Thoạt nghe ta thấy khó hiểu. Phải chăng Chúa Giêsu muốn kết án người đời? Tại sao Chúa lại không cho mọi người một cơ hội đồng đều? Chính điểm này làm ta khó chịu, và cũng đúng thôi. Nếu khi đọc ta chỉ đặt bản văn này vào trong bối cảnh của thời Chúa Giêsu.
Nhưng khi đặt nó vào khung cảnh đời sống Giáo hội buổi ban đầu, những khó khăn kia không còn nữa. Bởi vì ta thấy rõ thánh Maccô chủ tâm giải thích cho biết hoàn cảnh lúc ấy đã coi thường Tin mừng của Đức Kitô. Bằng lối hành văn khéo léo, thánh Maccô giải thích sự việc ở hiện tại, tức là sự thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng cho người Do thái, ngụ ý là điều đó Chúa Giêsu đã nhìn thấy và biết trước cả rồi.
Cuối cùng, Maccô nói thêm rằng để chương trình cứu độ nhiệm mầu của Chúa được thành công, người ta cần phải đọc và nhận được những dấu chỉ. Mạc khải không phải là một sứ điệp được che dấu và đem cất đi. Nhưng để đọc và hiểu sứ điệp, người ta cần phải có một tâm hồn sẵn sàng và cởi mở để hiểu điều Thiên Chúa muốn nói với ta qua lời của Người. Mà thường là tâm hồn người ta đã không được sửa sang và vun xới đủ.
Hiểu lời này của Chúa hôm nay
Trong Phúc âm có những cách viết, cách diễn tả khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là cách chúng ta đọc sứ điệp và có được một lựa chọn sống phù hợp với lời này của Chúa. Chúng ta đón nhận như thế nào lời nói và gương sáng cuộc đời của Đức Kitô? Chúng ta có để cho lòng mình ngổn ngang trăm mối, sống quá hời hợt, giống như những người trố mắt nhìn mà không thấy chăng?
Khi sáng suốt nhìn vào mình, căn cứ vào kinh nghiệm và lịch sử đời mình, ta có thể giải thích đưọc tại sao ta phải thất bại? Tại sao ta không luôn luôn hiểu dược Phúc âm? Có thật phải lỗi tại Chúa chăng?
Suy Niệm 4: ĐÓN NHẬN HAY KHƯỚC TỪ? (Mc 4, 1-20)
Thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa sinh ra bạn, Ngài không cần hỏi ý kiến bạn, nhưng khi muốn cứu chuộc bạn, Người phải hỏi ý kiến bạn”.
Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, đây là gia sản quý giá mà Thiên Chúa không ngần ngại ban tặng cho một loài thụ tạo. Vì thế, con người hoàn toàn có trách nhiệm khi sử dụng tự do của mình trong cuộc sống.
Hôm nay, Đức Giêsu kể cho dân chúng và các môn đệ dụ ngôn người gieo giống. Người gieo cứ gieo. Gặp đâu gieo đấy. Nào là gieo cả trên sỏi đá, bụi gai, vệ đường, và đất tốt. Tuy nhiên, duy nhất nơi đất tốt mới sinh hoa kết quả. Như vậy, chỉ có ¼ có tác dụng, còn ¾ thì uổng công vô ích.
Thiên Chúa là như vậy! Ngài quảng đại trao ban hết tất cả cho con người, ngay cả Con Một yêu dấu Người cũng ban. Nhưng mấy ai hiểu được tình yêu của Người lớn lao như thế! Mà ngược lại, những nhà lãnh đạo Dothái còn tìm cách loại trừ ngay cả Đức Giêsu là món quà cao quý mà Chúa Cha đem tặng cho con người.
Họ như những hạt giống bị gieo bên vệ đường, sỏi đá và bụi gai. Những thứ ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, tự ty làm cho tinh thần nên trai cứng và Lời Chúa bị bóp nghẹt trong lòng họ, nên không hề sinh ích lợi cho bản thân.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm trong tự do để trở nên như thửa đất tốt, ngõ hầu Lời Chúa đâm dễ sâu, lớn mạnh và sinh hoa kết trái trong cuộc sống của chúng ta.
Có thế, chúng ta mới trở nên môn đệ đích thực của Đức Giêsu nhờ biết nghe và giữ Lời Chúa trong lòng, nhất là đem ra thực hành.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con sẽ khô cằn, sỏi đá và trơ trọi nếu không được Lời Chúa là nguồn sự sống dưỡng nuôi. Xin Chúa ban cho tâm hồn chúng con trở nên thửa đất tốt tươi, để Lời Chúa trở thành nguồn hoan lạc cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
28/01 Mẹ Chúa và anh em Chúa Giêsu
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Mẹ Chúa và anh em Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 3 thường niên – Thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
* Sinh năm 1225 trong một gia đình quý tộc ở Aquinô, rồi theo học tại đan viện Montê Cátxinô, tiếp đến tại đại học Napôli, cuối cùng Tôma nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo và hoàn tất việc học tại Pari và Côlônhơ, dưới sự dẫn dắt của một bậc thánh sư là Anbêtô Cả. Thánh Tôma đã thể hiện trọn vẹn lý tưởng dòng thánh Đaminh là chiêm niệm và truyền đạt cho tha nhân điều mình đã chiêm niệm. Vừa là triết gia, vừa là thần học gia, trong vai trò giáo sư, thánh nhân đã suy nghĩ, giảng dạy và viết rất nhiều. Nhưng trước hết và trên hết, thánh nhân là người chiêm niệm, người đã cầu nguyện nhiều và đã tuân thủ một kỷ luật nghiêm khắc để có thể đạt tới ánh sáng tinh tuyền.
Thánh nhân qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại đan viện Xitô ở Phốtxanôva. Ngày 28 tháng Giêng là ngày thi hài thánh nhân được cải táng đưa về Tuludơ năm 1369.
LỜI CHÚA: Mc 3,31-35
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đây là mẹ tôi
Suy niệm :
Các thân nhân của Đức Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí,
vì họ nghe tin Ngài và các môn đệ làm việc nhiều đến nỗi không có giờ ăn.
Các kinh sư từ Giêrusalem xuống
thì kết luận rằng Ngài đã thông đồng với tướng quỷ để trừ quỷ.
Còn đám đông dân chúng lại ngồi nghe Ngài giảng trong nhà.
Hơn ai hết, họ biết Đức Giêsu là ai.
Chính lúc ấy mẹ và anh em của Ngài đến và đứng ngoài.
Họ không vào được, có thể vì đám đông ngồi chật cứng.
Nhưng họ đã nhờ người nhắn với Đức Giêsu.
” Mẹ Thầy và anh em Thầy đang ở ngoài, tìm gặp Thầy đó.”
Rốt cuộc chắc ai cũng biết là Thầy có người thân đến thăm.
Người ta tưởng Ngài sẽ bỏ dở bài giảng để ra ngay gặp họ.
Nhưng Đức Giêsu lại muốn dùng cơ hội này
để nói với đám đông đang ngồi nghe một điều quan trọng.
Ngài đặt cho họ một câu hỏi tưởng như vô nghĩa:
” Ai là mẹ tôi và là anh em tôi?”
Dĩ nhiên là những người đang đứng ngoài kia rồi.
Nhưng không, Ngài đảo mắt nhìn những người đang ngồi,
và nói với họ: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi.”
Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài.
Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia.
Có một gia đình mới đang ngồi trong này.
Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt.
Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều,
một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt,
nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau,
đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Đức Giêsu đã rời bỏ gia đình để lên đường loan báo Tin Mừng.
Và Ngài cũng đã mời gọi các môn đệ của mình như thế.
Đức Giêsu để lại người mẹ, Phêrô để lại người vợ,
Gioan và Giacôbê để lại người cha.
Tương quan gia đình ruột thịt là điều cao quý thiêng liêng.
Nhưng nó lại không được trở nên một cản trở cho sứ vụ.
Đức Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người:
” Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa
người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi.”
Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu.
Người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình này,
có người Mẹ là Đức Maria suốt đời tín trung sống ý Chúa,
có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Cha,
và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm
nay đã trở thành cây cao
cho chim trời rủ nhau trú ngụ.
Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột,
đã làm bột dậy lên,
để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới.
Sau hai mươi thế kỷ,
các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ.
Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba,
người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới.
Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian,
cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa.
Xin cho chúng con đừng mặc cảm
vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam,
nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa
trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ.
Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa,
gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng,
trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống.
Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công
vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Ai là Mẹ Ta
Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm quan cùng một thời. Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:
- Từ khi ra làm quan đến giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?
Khổng Liệt trả lời:
- Từ khi làm quan, tôi chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn thấp, lương bổng không đủ giúp người thân, công việc bề bộn nên không có giờ thăm viếng bạn bè.
Nghe thế, Khổng Tử rất buồn lòng.
Một ngày nọ, Khổng Tử cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:
- Từ khi ra làm quan, tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều: Những điều đã học nay đem ra thực hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; lương bổng tuy ít nhưng cũng có thể giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; công việc tuy nhiều, những cũng bớt chút thời giờ thăm bạn bè khiến tình bạn càng thân thiết.
Câu trả lời của Bật Thứ Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.
Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy". Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta".
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Ôi thân nhân!
Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc. 3, 31-35)
Mấy bữa trước đây, trong một trích đoạn Phúc âm, thánh Maccô đã cho ta biết thái độ của đám bà con thân thích của Chúa Giêsu: họ muốn cách ly Người, bởi cho rằng Người đã mất trí, ngộ đạo và họ bị phiền hà vì danh tiếng này. Vậy mà hình như họ đã thay đổi ý kiến, bởi lẽ hôm nay họ muốn xin được gặp Người, nhắc nhở cho Người quyền lợi gia dình, tình thân thương và lòng kính nể mà thông thường họ có quyền được hưởng. Giữ liên hệ tốt đẹp với bà con họ hàng chẳng phải là điều tự nhiên sao?
Chúa Giêsu có vẻ như không chia sẻ ý kiến này.
Một sự rạn nứt của tình bà con
Khi đọc bản văn này, ta rất mau mắn vin ngay vào những lời cuối cùng: “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta lấy làm vui sướng vì được kết nạp vào gia đình này. Nhưng chúng ta cũng vội làm mất đi ý nghĩa khác mà những lời đó gợi nên, tức là sự rạn nứt trong mối quan hệ tự nhiên của gia đình.
Nếu ta đem liên hệ thái độ này của Chúa Giêsu với lời Người phán trước đây: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, ta càng ngạc nhiên. Chúa Giêsu chống lại gia đình và những mối liên hệ gia đình chăng? Phải chăng Người muốn ta hiểu biết điều căn bản gì?
Thực ra tin mừng của Chúa không có ý xếp những liên hệ gia đình vàò hàng cuối cùng, mà muốn dạy ta kính nể mọi người cũng như ta vẫn thường kính nể anh chị em cha mẹ ta vậy.
Xét cho cùng, con người từ rất lâu đã quen với những tập tục là phải dành những ưu đãi cho gia đình ruột thịt của mình, phải yêu mến và có trách nhiệm hơn đối với những người cùng chung máu mủ, thì Tin mừng của Chúa hôm nay là một điều mới mẻ: tin mừng đó đòi hỏi ta đối xử với mọi người như nhau và hỏi ta tại sao điều ta làm được cho cha mẹ ta, mà lại không làm cho “tha nhân” được.
Suy Niệm 4: THI HÀNH LỜI CHÚA LÀ THÂN NHÂN CỦA NGÀI (Mc 3, 31-35)
Không có bà mẹ nào mà lại không tương con, nhất là những đứa con bị khiếm khuyết cách này hay cách khác!
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về, vì có tin đồn đoán rằng Đức Giêsu bị điên!
Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, và, đứt dây đương nhiên đụng đến rừng, tức là nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa không khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn khả tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên!
Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.
Tuy nhiên, khi thấy Mẹ và anh em đến tìm mình, Đức Giêsu đã thốt lên và chỉ vào những người đang ngồi quanh Ngài mà nói rằng: ai là mẹ tôi, ai là anh chị em tôi? Thưa chính là những người thực hành ý muốn của Cha tôi, người đó là mẹ tôi và anh chị em tôi.
Một câu nói nhằm mặc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc thực thi Lời Chúa hơn là những chuyện bề ngoài. Khi đã thực thi thánh ý Chúa, chúng ta không quan trọng chuyện người ta nói này hay nói kia để bêu dếu, làm mất thanh danh tiếng tốt của ta. Ngược lại, chỉ có một điều đáng làm cho chúng ta sợ, đó là khước từ Lời Chúa và chạy đua những thứ mau qua, chóng hết ở đời, làm cho chúng ta xa dời hạnh phúc đích thực là sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, dù có phải chịu khốn khổ vì Lời Chúa thì vẫn một mực trung thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
27/01 Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần
- Viết bởi 27/01 Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần
Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
Thứ Hai tuần 3 thường niên.
"Satan phải diệt vong".
LỜI CHÚA: Mc 3, 22-30
Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ".
Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y.
Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Vào nhà một người mạnh
Suy niệm:
Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21),
nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị quỷ ám,
dù trong thế giới ngày xưa, mất trí thường bị coi là do quỷ ám.
Các kinh sư đến từ thủ đô Giêrusalem có thái độ quyết liệt hơn nhiều.
Họ tố cáo Đức Giêsu là người bị quỷ ám,
không phải quỷ thường, mà là quỷ vương Bêendêbun.
Hơn nữa, họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ dựa thế của quỷ vương (c. 22).
Lời tố cáo trên đây của những kinh sư thật là nghiêm trọng,
vì ai dựa thế như vậy là thông đồng với quỷ, có thể bị xử tử.
Đức Giêsu đã trả lời tố cáo này bằng hai hình ảnh về Nước và Nhà.
Đức Giêsu nhìn nhận sự hiện diện
và hoạt động của Nước Xatan trong thế gian này.
Nước này có tôn ti trật tự, được lãnh đạo bởi quỷ vương,
đó là Xatan hay Bêendêbun, kẻ cầm đầu các quỷ nhỏ (c. 22).
Xatan muốn bành trướng Nước của mình trong thế giới loài người.
Nó sai các quỷ nhỏ đi khắp nơi lôi kéo mọi người chẳng trừ ai.
Theo thánh Inhaxiô, Xatan thường cám dỗ ta theo ba bước:
từ sự ham muốn của cải, đến hư danh thế gian, và cuối cùng là kiêu ngạo,
rồi sau đó đi đến mọi nết xấu khác (Linh Thao 142).
Như thế Xatan khôn khéo đánh bẫy và trói buộc con người.
Đức Giêsu đã không bắt tay với Xatan để đuổi các quỷ cấp dưới.
Ngài tấn công trực diện vào Nước của Xatan,
phá đổ Nước này và khai mở Nước Thiên Chúa (Lc 11, 20).
Cuộc chiến không dễ dàng và còn kéo dài đến tận thế.
Thế giới hôm qua cũng như hôm nay được ví như một ngôi nhà.
Tiếc thay ngôi nhà đó ít nhiều đã bị Xatan cưỡng đoạt.
Xatan chính là kẻ mạnh đã biến ngôi nhà đó thành của mình (c. 27).
Nhưng Đức Giêsu lại là người mạnh hơn (Mc 1, 7).
Người mạnh hơn đã trói kẻ mạnh lại và tước đoạt những gì nó đã chiếm.
Tước đoạt chính là giải thoát những ai bị Xatan cầm giữ,
và trả lại cho họ quyền làm chủ đời mình, quyền sở hữu căn nhà của họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tấn công Xatan.
Ngài không ngừng chinh phục thế giới này cho Thiên Chúa,
và mời chúng ta cộng tác để xây dựng Nước Chúa trên trần gian.
Nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trừ quỷ (Mt 12, 28),
nên ai bảo Ngài trừ quỷ nhờ quỷ vương Xatan hay Bêendêbun,
thì xúc phạm đến Thánh Thần, coi Thánh Thần như thần ô uế (c. 30).
Đức Giêsu không phải là người có thần ô uế.
Ngài có đầy ắp Thánh Thần trong mọi lời nói việc làm.
Chỉ ai cố chấp, bướng bỉnh mới không nhận ra điều đó.
Mọi tội lỗi đều có thể được thứ tha (c. 28),
trừ tội khép lòng từ chối ơn tha thứ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.
Làm sao giúp con người hôm nay mềm mại mở ra
để nhận thấy Thánh Thần vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội ?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Tội ngoan cố
Hoạt động của Chúa Giêsu ở Capharnaum, miền Bắc Galilê, đã có một tiếng vang đến Yêrusalem, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các luật sĩ từ Yêrusalem đến chẳng có gì là tốt đẹp, mà chỉ phơi bày sự ngoan cố của các kẻ thù của Chúa. Sự ngoan cố khước từ đó đạt tới cao điểm khi họ giải thích sai lạc việc Chúa Giêsu dùng quyền năng của mình xua trừ ma quỷ ra khỏi con người, mang lại sức khỏe cho con người.
Chúa Giêsu đã rao giảng một cách có uy tín trong vùng Galilê, quanh thành Capharnaum, cùng với những dấu chỉ kỳ diệu chứng tỏ lòng nhân từ của Chúa đối với con người, đồng thời chứng minh quyền năng thần linh của Ngài. Các luật sĩ từ Yêrusalem đến, lẽ ra hơn ai hết, họ phải hiểu được những dấu chỉ kỳ diệu này, vì họ là những con người tôn giáo chuyên môn về Lời Chúa. Nếu Chúa Giêsu chỉ nói suông mà thôi, thì sự ngoan cố của các kẻ chống đối Chúa có thể còn tha thứ được, nhưng đàng này, Ngài đã thực hiện những dấu lạ để chứng tỏ quyền năng thần linh của Ngài: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội; Ngài đã ra lệnh cho quỷ dữ ra khỏi nhiều người và chúng đã vâng phục.
Trước những hành động kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa, những kẻ chống đối Ngài nói rằng Ngài đã bị quỷ Beelzebul ám và đã dùng quyền của quỷ vương để trừ quỷ. Thật không có sự ngoan cố nào nặng nề hơn: một vị Thiên Chúa mà lại bị các nhà thông luật gán cho tước hiệu đầu mục của quỷ. Ðó là một sự xúc phạm không thể tha thứ được, vì là tội phạm đến Thánh Thần. Thiên Chúa quyền năng có thể tha thứ mọi tội lỗi nhưng Ngài không thể cứu con người, nếu con người cứ đóng kín tâm hồn mình trước ân sủng và sự soi sáng của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta xác tín vào chương trình cứu rỗi yêu thương của Ngài được thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô, để chúng ta đáng được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Nguyên tắc sống không mâu thuẫn
Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Sa tan làm sao trừ Sa tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền.” (Mc. 3, 20. 23-24)
Chúa Giêsu vẫn có những kẻ luôn rình mò Người, họ không ngại đẩy Người vào những cuộc tranh luận ở nơi công cộng. Hôm nay, các kinh sư từ Giêrusalem xuống đả kích chính tư cách bản thân Người: “Ông ấy bị thần ô uế ám”.
Tố cáo
Theo cái nhìn của những kinh sư, Chúa Giêsu là con người có nhiều mâu thuẫn. Người cho mình là Thiên Chúa mà lại không tôn trọng luật giữ ngày sa-bát? Người giao du quá dễ dàng với những người tội lỗi và quân thu thuế. Người giảng dạy và chữa bệnh với uy quyền như vậy mà lại không giữ được tư cách đàng hoàng. Tại sao và tại sao? Tóm lại, những kinh sư cho rằng Chúa Giêsu chẳng có gì phù hợp với quan niệm hay mô hình về một ngôn sứ hoặc người công chính theo như họ tưởng.
Bào chữa
Đáp lại những lời tố cáo của các kinh sư, Chúa Giêsu cho họ thấy nơi Người không có gì là mâu thuẫn cả, viện lẽ rằng không ai lại tự hủy diệt chính mình. Khi giao tiếp với ác thần, Người có tiêu diệt được nó không? Khi can thiệp để chữa cho một người bị qủy ám, chẳng phải vì Người có quyền trên thần ô uế đó sao?
Chúng ta có liên đới vơi Người không?
Đến lượt mình, người tín hữu cũng sẽ bị người đời chất vấn: bạn theo ai? Người tín hữu cũng như bất cứ ai hằng gắn bó với một giáo thuyết hay một mẫu gương nào đó và muốn sống trọn với điều ôm ấp ấy, sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời cho biết hành động của mình có đi đôi với giáo thuyết mình tán dương không.
Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, ngày nay chúng ta phải chịu nhiều tố cáo và phê phán, là bởi tại đời sống làm chứng của ta không thật trong sáng, vả chăng lại còn nhiều cách biệt và mâu thuẫn giữa việc ta làm và lời Chúa dạy. Ta vẫn biết cầu nguyện là cần thiết và phải dành thời giờ cho việc ấy, nhưng sự cần thiết và thời gian được dành có phù hợp với nhau không? Ta có phấn đấu và tẩy sạch những lu mờ để đời sống bác ái của ta là tấm gương sáng phản ảnh Chúa, và trở nên Thân thể Chúa Kitô không?
Tóm lại, các kinh sư là những người hay chất vấn. Những kinh sư của thời nay cũng vẫn còn dựa vào nguyên tắc “Ngôn hành tương ứng” nói sao làm vậy để đo lường giá trị con người của ta: cây tốt thì sinh quả tốt…. Cây tốt không thể sinh quả xấu. Họ không lầm để kiểm tra ta trong vấn đề này.
Suy Niệm 4: THÍCH ỨNG ĐỂ TRUYỀN GIÁO (Lc 10, 1-9)
Đọc lại lịch sử truyền giáo của các nhà thừa sai trên Miền Thượng (Tây Nguyên – Việt Nam) trong cuốn: “Dân Làng Hồ”, tác giả cho thấy rất rõ yếu tố sống còn, thành công hay thất bại, phụ thuộc rất nhiều vào việc thích ứng hay không thích ứng của các thừa sai!
Khi nói đến truyền giáo, yếu tố thích ứng là điều rất quan trọng, vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến yếu tố này khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và truyền cho họ đừng mang theo bao bị, giày dép, túi tiền... Người ta cho ăn thức ăn gì thì hãy ăn. Điều này ngược lại với quan niệm của người Pharisêu, vì mỗi khi họ đi đâu xa, thường thì họ luôn chuẩn bị cho mình những thứ căn bản như tiền, bao bị và thức ăn để đảm bảo sự thanh sạch, vì nếu không có những thứ đó, họ e sợ bị nhiễm uế nơi dân ngoại...
Người môn đệ của Đức Giêsu phải khác! Khác để hiệp nhất, hiệp thông, hòa đồng; khác để sống tình huynh đệ, bác ái; khác để thích ứng và hội nhập; khác để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa; khác để sống phó thác trong sự an bài của Thiên Chúa.
Điều quan trọng là nhà thừa sai phải là người cảm nghiệm được sự bình an sâu xa từ trong nội tâm khi phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và sống hết mình với anh chị em mình, có thế, món quà quý giá mà người thừa sai trao ban cho con người chính là sự bình an, niềm vui và hạnh phúc.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trao phó trách nhiệm làm ngôn sứ cho Chúa. Tức là chúng ta có trách nhiệm giới thiệu Chúa cho người khác. Trở nên chứng nhân trong cuộc sống đời thường của mình. Đây là sứ mạng mà Chúa tin tưởng, ủy thác cho chúng ta. Vậy, chúng ta đã ý thức và thi hành sứ vụ đó ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an của Chúa, để chúng con biết chia sẻ sự bình an đó cho người khác. Amen.
Ngọc Biển SSP
*****************************************************
MỒNG BA TẾT CANH TÝ 2020. THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM_Ga 5,16-20
Thứ Hai: Ga 5,16-20
Thứ Hai 27/01/2020 – Chúa Cha hằng làm việc luôn.
27/01 – Thứ Hai tuần 3 thường niên.
MỒNG BA TẾT CANH TÝ. THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM.
"Chúa Cha yêu Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm".
Lời Chúa: Ga 5,16-20
Khi ấy, các người Do thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã chữa bệnh trong ngày sabbat. Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy".
Bởi thế, các người Do thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Thật, Ta bảo thật cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì, nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu thương Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục".
1. Chúa thánh hoá công ăn việc làm (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Những ngày tết là những ngày vui chơi, nghỉ ngơi, giãn xả về mặt thể xác, nhưng Giáo Hội là người Mẹ luôn khôn ngoan hướng con người nhìn xa thấy rộng hơn, thể xác thảnh thơi đôi chút sau những ngày tháng làm việc vất vả, Giáo Hội hôm nay muốn nhắc nhớ mọi người phải hướng về Đấng tối cao, hướng về Thiên Chúa vì Ngài là Đấng có quyền ban phát mọi sự. Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, câu tục ngữ của Pháp quả mang một ý nghĩa thâm sâu, cao vời. Hội Thánh Việt Nam dành ngày mồng ba tết để cầu xin Chúa thánh hoá công ăn việc làm.
LAO ĐỘNG LÀ LẼ SỐNG CỦA CON NGƯỜI:
Được Thiên Chúa tạo dựng, con người sống trong cảnh địa đàng hạnh phúc, huy hoàng và êm đềm không vất vả. Tuy nhiên, khi ông bà nguyên tổ phạm tội, con người mất hạnh phúc địa đàng trần gian, Thiên Chúa đuổi ông bà tổ tiên ra khỏi vườn Éđen và bắt đầu một cuộc sống trần thế với bao truân chuyên, thử thách, vất vả vì tội lỗi ông bà tổ tiên gây ra. Tuy nhiên Chúa không bỏ rơi nhân loại, con người mà đã sai Con của Người là Đức Giêsu Kitô đến để mang lại cho cuộc đời trần thế một ý nghĩa mới, biến công ăn việc làm trở nên có ý nghĩa cứu rỗi vì nó không còn là lời nguyền rủa mà là hạnh phúc khi con người biết làm ra của cải để mang lại giầu sang, phú quí và hạnh phúc cho cuộc sống, miễn là con người biết làm theo ý Thiên Chúa. Vì thế, trong ngày mồng ba tết, thánh Matthêu đã thuật lại dụ ngôn của Chúa Giêsu về các nén bạc Chúa trao cho mỗi người tùy theo khả năng, mức độ và trí tuệ mà họ được nhận lãnh, miễn là họ biết sinh lợi theo ý của ông chủ, và không lười biếng, ngồi chờ sung rụng…Chúa muốn mỗi con người dù trí thức, lao động bình thường: chân tay, trí óc đều phải sinh lợi theo mức độ khả năng Chúa trao cho.
XIN CHÚA THÁNH HÓA VIỆC LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĂN VIỆC LÀM CỦA MỖI NGƯỜI:
Để được Chúa thánh hóa công ăn việc làm, con người phải biết tùy theo khả năng siêng năng, lanh lẹ làm cho của cải sinh hoa kết quả tốt. Con người phải hiểu rằng Chúa đến trong thế giới, nhận một gia đình để được sinh ra và để sống là vì Chúa đem lại cho lao động, cho cuộc sống một giá trị, một ý nghĩa hoàn toàn mới. Chúa nâng đời sống lao động và thánh hoá đời sống lao động, Chúa làm gương về đời sống phục vụ, mỗi giọt mồ hôi, mỗi sự mệt mỏi trong lao động của Chúa Giêsu đều mặc một giá trị cứu rỗi.Con người luôn phải ý thức lời Kinh Thánh viết, hướng dẫn và chỉ bảo:” Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt, còn vun còn trồng; bốn mùa xuân hạ thu đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên” hoặc: ” bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 64, 2).
Mồng ba tết xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta mỗi người tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta người năm nén, người hai nén, người một nén. Tất cả đều do hồng ân Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết làm lợi cho Chúa, cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Làm biếng, chơi bời lêu lổng không chịu lao động để sinh lợi theo khả năng Chúa ban là lỗi với Chúa và đáng Chúa khiển trách:” Hỡi tôi tớ lười biếng…”.
Lạy Chúa, chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hoá công ăn việc làm).
2. Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Từ lâu người Việt Nam đã biết có ông Trời. Tin ông Trời. Cầu khẩn ông Trời. ông Trời trở thành một thần linh luôn đồng hành với con người qua mọi thăng trầm. Tuy không rõ Ông Trời thế nào nhưng không ai lại không kính Trời. Ai cũng sợ Trời và cố gắng làm vui lòng Trời. Vì ông trời làm chủ vận mệnh muôn loài. Ông Trời quyền phép vô cùng. Thế nên,
Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên.
Trời cho ai nấy hưởng
Sống nhờ ơn Trời – Chết về chầu Trời.
Khi làm ăn mùa màng không được như ý thì người ta cầu trời:
“Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp”
Làn mưa từ Trời sẽ mang lại niềm vui cho công việc, cho cuộc sống con người:
“Nhờ Trời mưa thuận gió hoà
Nào cày, nào cấy trẻ già đua nhau
Người Việt cũng luôn tin vào Trời rất công bình, hoạ phúc công minh; Ông Trời như một ông chủ luôn thưởng phạt công minh:
“Trời nào có phụ ai đâu
Hay
làm thì giầu, có chí thì nên”
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài điều khiển mọi loài. Ngài là Đấng cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Ngài là Đấng ban lại cho chúng ta sự thành công trong công việc mà thánh vương Đa-vít đã từng nói: “Nếu Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.
Lịch sử nhân loại đã từng chứng minh có biết bao công trình mà không có bàn tay Thiên Chúa, hay cố tình loại trừ Thiên Chúa sẽ khó hoàn thành, đôi khi còn bị huỷ diệt.
Đó chính là sự kiện xây tháp Babel. Con người đã từng không chấp nhận thua Thiên Chúa. Họ muốn chống lại Thiên Chúa nên hợp lực với nhau để xây tháp tới Trời. Thế nhưng, lực bất tòng tâm. Công trình của họ đã bị dang dở. Họ chia rẽ nhau ngay khi công việc còn dở dang.
Gần đây nhất là sự kiện con tàu Titalic. Con tàu của sự kiêu hãnh của con người có thể chống lại phong ba bão tố. Người ta tưởng rằng với sự văn minh của nhân loại, người ta không cần ơn Trời vẫn có thể đi biển bình yên. Thế nhưng, con tàu đó đã bị chìm xuống đại dương cùng với sự ngạo nghễ của con người khi đâm vào một tảng đá ngầm mà không ai học được “chữ ngờ”.
Thế nên, việc cầu Trời, khấn trời dù ở khung trời văn minh hay chốn hồng hoang vẫn là cần thiết. Con người luôn bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên. Con người như cảm thấy mình quả nhở bé so với vạn vật được tạo thành. Sự khiêm tốn đòi hỏi con người phải cần đến Đấng Tạo Thành, cầu xin Đấng Tạo, Khấn vái Đấng Tạo Thành. Sự khiêm tốn để nhìn nhận những gì mình có không phải do tài năng của mình, không phải do mưu trí của mình mà có mà là do ân ban của Thiên Chúa.
Tất cả là hồng ân. Thiên Chúa luôn tưới gội hồng ân của Ngài xuống trên con người. Thiên Chúa luôn làm biết bao việc kỳ diệu cho con người. Con người chỉ là loài thụ tạo được thừa hưởng muôn ơn lộc Chúa ban mà thôi.
Hôm nay, ngày xin ơn thánh hoá công ăn việc làm. Chúng ta dâng lên Chúa những ưu tư hoài bão của chúng ta lên Thiên Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho một năm “mưa thuận gió hòa”, mùa màng trĩu hạt. Xin Chúa là Đấng quyền năng chúc lành cho công việc của chúng ta từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen
3. Mùng ba ra mắt (Lm Giuse Đinh lập Liễm)
I. CÔNG VIỆC BA NGÀY TẾT
Người Việt nam chúng ta rất qúi trọng ba ngày Tết. Ba ngày này được coi như là linh thiêng. Mỗi ngày được phân chia cho một công việc. Công việc ba ngày Tết là:
Mùng một tết cha,
Mùng hai tết mẹ,
Mùng ba tết thầy.
Tại sao lại chia ra như vậy? Vì muốn cho ba ngày tết có đầy đủ ý nghĩa:
Nhà cha là nhà bên nội, ngày mùng một linh thiêng nhất nên ai cũng về từ đường bên nội cúng gia tiên, viếng thăm, mừng tuổi và chúc tụng họ hàng.
Cũng vậy, ngày mùng hai, lại kéo cả nhà về bên ngoại, cố thực hiện cho bằng được ý nghĩa đoàn tụ truyền thống trong mấy ngày Tết nhất.
Ai cũng hiểu, cha mẹ là đấng sinh thành, dưỡng dục, còn việc dạy dỗ cho nên người hữu dụng chính là thầy dạy học của mình; do đó, ngày mùng Ba thì học trò đồng môn rủ nhau đi viếng thầy (dạy chữ hoặc dạy nghề). Họ mang theo lễ vật để tỏ chút lòng thành. Thầy trò làm thơ, nói chuyện văn chương hoặc trao đổi chuyện làm ăn, nghề nghiệp trong bầu khí vui tươi, bổ ích.
Do mọi việc xã giao, chúc tụng được tập trung cho kịp trong ba ngày Tết, nếu để “ra ngoài ngày” (tức từ mùng bốn trở đi) sẽ giảm mất ý nghĩa, nhất là về mặt tình cảm, tôn kính, qúi trọng, cho nên người ta cũng sắp xếp có người trực ở nhà vừa để không trống vắng lạnh lẽo, vừa cũng để tiếp khách. Do đó có qui ước truyền thống “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy”, nên bạn bè muốn đến vui chơi trong ba ngày Tết đều nhất thiết phải hẹn trước.
(Nguyễn hữu Thiệp, Dân ta ăn Tết, 1995, tr 135-136)
II. MÙNG BA RA MẮT
Do “Mùng Ba tết Thầy” nên ngày này cũng là ngày ra mắt Tổ sư, Tiên sư nghề nghiệp mình.
Sáng sớm ngày ấy, ai làm nghề gì thì đem đồ nghề ra khởi động nghề ấy. Khởi động lấy lệ, mang tính hình thức. Đại khái, nhà nông thì mang lưỡi hái ra quơ cắt một ôm cỏ đem về cho trâu ăn (nhưng chưa làm động thổ). Người buôn bán thì mở cửa hàng bán tượng trưng vài món lấy ngày. Thợ thầy cũng đem kéo, búa ra cắt đập ít cái để “gọi là”. Nói chung, mọi công việc đều có tính cách tượng trưng, gọi là ra mắt Tổ nghề, mong Tổ sư và Tiên sư hộ độ suốt năm làm ăn phấn phát. Tất nhiên, trong những ngày này, bàn thờ các ông Thần tài, Thổ địa và Tổ nghề đều rất tươm tất, hương đăng không tắt, hoa trái lúc nào cũng đầy ắp.
Sau lễ ra mắt, người ta lại tiếp tục ăn Tết. Nhà giầu ăn tết đến hết ngày mùng 7 hoặc hơn. Người lao động nghèo tranh thủ khai trương sớm (Sđd, tr 137-138).
III. THÁNH HÓA CÔNG VIỆC LÀM ĂN
Hội thánh Công giáo Việt nam luôn đồng hành cùng dân tộc cố gắng làm phát huy những gì tốt đẹp phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu “Mùng Ba ra mắt”, các người thợ trình diện với Tổ sư ngành nghề của mình về công việc làm ăn trong năm, Hội thánh Việt nam cũng muốn dành ngày mùng ba Tết để thánh hoá công việc làm ăn. Chúng ta hãy trình lên Chúa công việc làm ăn trong năm, để xin Chúa chúc lành và ban ơn phù giúp để mọi công việc của chúng ta phù hợp với thánh ý Chúa.
Đọc chương đầu của sách Sáng thế, ta thấy Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người “giống hình ảnh Ngài” (St 1,26). Các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh và tự do, giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ trên vạn vật:”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển, chim trời, muôn thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu” (St 1,26).
Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần hay vật chất đều mang ý nghĩa trọng đại:”cộng tác vào việc sáng tạo” của Thiên Chúa. Giữa ý niệm lao động và giáo thuyết về sáng tạo có một tương liên mật thiết.
E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố:
“Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối của tất cả hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào Thiên Chúa sáng tạo, Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương trình sáng tạo của Ngài có từ đời đời”(Die wertprobleme, tr 43; theo J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 350).
Mọi sự trên thế gian này là của Chúa, nhưng Ngài muốn cho con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta có thể nói Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ nhị của vũ trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày của Thiên Chúa trên vạn vật cũng là một cuộc sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị và chỉ có thể góp phần vào với nguyên nhân đệ nhất. Chính vì thế Haessle viết:
“Nguời thợ là hình ảnh đặc biệt của Thiên Chúa… sản xuất và sản xuất trong niềm vui là con người đã đem năng lực của mình ra hành dộng để thực hiện một đời sống trọn vẹn hơn và làm cho mình nên giống Thiên Chúa dầu họ có ý thức hay không. Đời sống “làm việc” tức là hành động và phản ảnh sức hoạt động tuyệt đối… Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất tuyệt đối… người thợ là nguyên nhân kết thành xét như chính họ làm cho những sự vật trở thành chính nó và hoàn hảo hơn. Con người đã truyền sức lực, tư tưởng, nhân vị mình cho chúng. Nguyên nhân tương đối là phản ảnh trung thực của nguyên nhân tuyệt đối”.
(J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 63-64)
Công đồng Vatican 2 cũng xác quyết sự làm việc là góp phần sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử:
“Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (Gaudium et Spes, bản dịch của GHHV Piô X, Đà lạt).
Nếu lao động là được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, thì đây là vinh dự lớn lao của con người, vì “nhân linh ư vạn vật”. Theo ý nghĩa đó, ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm:”LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG”.
KẾT LUẬN
Trong ngày mùng Ba Tết hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được biết thánh hoá công việc làm ăn của chúng ta, đặc biệt trong thánh lễ này.
Trước hết, như bài Tin mừng thánh lễ hôm nay, ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những nén bạc cơ bản làm vốn: sự sống, sức khỏe, trí khôn, thiên hướng, những kinh nghiệm của cộng đồng, tri thức của người đi trước, những nhu cầu phát triển của thời đại…
Sau đó, xin Chúa ban ơn nâng đỡ tinh thần và nghị lực để chu toàn mọi trách nhiệm liên quan đến công việc.
Đồng thời cũng xin luôn ý thức công việc làm ăn của bản thân và của mọi người là thước đo về công bằng và phát triển của xã hội. Ai cũng có quyền được làm việc và quyền được chuẩn bị chu đáo để có việc làm phù hợp với nguyện vọng và khả năng.
Như vậy, khi nguyện ước công ăn việc làm của mình được Thiên Chúa thánh hoá, người Kitô hữu đang khao khát diễn tả, qua thực tiễn lao động của bản thân, hình ảnh một Thiên Chúa hoạt-động-không-ngừng và đã trao cho loài người quyền được làm giầu đẹp thêm cho cuộc sống.
4. Mọi sự đều nhờ ơn Chúa (Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ngày Mồng Ba Tết, chúng ta dành để dâng lên Chúa những dự định và tương lai của chúng ta. Chúng ta xác tín rằng mọi sự đều nhờ ơn Chúa, vì “nếu Chúa không xây nhà thì thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.
Thực vậy, nhìn lại năm 2010 với biết bao thiên tai giáng xuống địa cầu, cho chúng ta thấy con người thật nhỏ bé trước bao sóng gió của thiên nhiên. Con người cần phải có ơn Chúa để gìn giữ, chúc lành cho chúng ta một năm bình an.
Vâng, có thể nói năm 2010 đã vụt qua, nhưng đã để lại nỗi hãi hùng cho con người với những trận thiên tai kinh thiên động địa nhất.
Xin được lướt qua những thiệt hại về nhân mạng cũng như vật chất:
1) Trận động đất 7 độ Richter ở Haiti xảy ra ngày 24-01, đã giết chết 230,000 người, hơn 300,000 người bị thương và hơn một triệu người màn trời chiếu đất. Đến nay, một năm sau, vẫn chưa hồi phục dù thế giới đã đổ hàng tỷ đô-la vào xứ sở nghèo đói bệnh tật này.
2) Ngày 27-2, lại một trận động đất mạnh tới 8.8 độ Richter, đã xảy ra ở vùng duyên hải Chí Lợi (Chile), rung chuyển 6 tiểu bang lớn và một phần của Á Căn Đình. Động đất kéo theo sóng thần, quét qua các thị trấn ven biển, khiến 500 người thiệt mạng, hơn 200.000 người mất nhà cửa, gây thiệt hại 30 tỷ đô.
3) Ngày 21-3, núi lửa ở Băng đảo (Iceland) bỗng nhiên thức giấc sau 200 năm, phun bụi và khói ngập trời khiến hàng ngàn người phải di tản. Thiên tai này đã ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động hàng không, làm cho 100.000 chuyến bay của các nước Âu Châu bị hủy bỏ và 8 triệu hành khách bị mắc kẹt ở các sân bay trong suốt 6 ngày, thiệt hại gần 2 tỷ đô-la.
4) Tháng Bảy, sau những trận mưa dai dẳng đã gây ra lụt lội tại Pakistan. Trận mưa lụt này được coi là thiên tai lớn nhất trong 100 năm tại Pakistan. Một phần năm (1/5) diện tích quốc gia này đã chìm trong biển nước, hơn 2.000 người bị cướp đi sinh mạng. Con số này còn tăng cao vì dịch bệnh, gây thiệt hại lên tới 10 tỷ đô-la, khiến ít nhất 9 triệu người, trong đó phần lớn là trẻ em, lâm vào cảnh đói khát.
5) Cũng vào tháng Bảy, nóng chưa từng có đã kéo theo nạn cháy rừng nhiều nơi ở Nga. Bầu trời thủ đô Moscow bị bao phủ khói đen, nhiều chuyến bay đã bị hủy bỏ. Hỏa hoạn và cháy rừng làm cho 50 người thiệt mạng và 3.000 người mất nhà cửa. Nguyên nhân của thảm họa cháy rừng là do mức nhiệt độ lên cao kỷ lục trong hơn 100 năm qua.
Đó là những trận thiên tai lớn đã xẩy ra trong năm 2010, khiến thế giới phải lo ngại sẽ tạo thêm khủng hoảng tài chánh, vì hai năm qua kinh tế thế giới đã gặp nhiều khó khăn chưa giải quyết nổi. Các nhà tiên tri cho rằng, năm 2010 chỉ là năm bắt đầu của những thiên tai, bệnh tật mà nhân loại sẽ phải gánh chịu vào những năm kế tiếp.
Người Việt thì nói rằng: mỗi năm, làm ăn càng ngày càng khó khăn hơn. Người đông của ít, khiến con người phải bon chen vật lộn với cuộc sống nhiều hơn. Thêm vào đó lại thiên tai, lũ lụt, thời tiết khắc nghiệt khiến ngành chăn nuôi, trồng cấy càng mong manh. Như dịch bệnh cùm gia gia cầm, dịch tai xanh… tràn lan suốt năm qua.
Hôm nay, Ngày Đầu Năm, chúng ta hướng về Cha trên trời, là Đấng làm chủ mọi loài, là Đấng quan phòng kỳ diệu, xin Chúa chúc lành cho chúng ta một năm bình an hạnh phúc, một năm an khang thịnh vượng.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định tương tai của chúng ta được thành toàn.
Chúng ta hãy trao vào tay Chúa những lo toan vất vả của đời người.
Chúng ta hãy bước đi trong sự tín thác vào tình thương quan phòng của Chúa.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân chúc lành cho những ước nguyện đầu xuân của chúng ta. Amen
5. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30) (Giuse Trần Công Thượng)
Kính thưa cộng đoàn,
Từ thuở khai thiên lập địa Thiên Chúa sáng tạo con người và ủy thác cho con người nhiệm vụ cai trị trái đất. “Ngài đặt con người vào vườn Eđen để cày cấy và canh giữ đất đai”. (St 15,2) Như vậy, Thiên Chúa gắn liền lao động với con người, coi lao động như một sứ vụ, một tương lai. Con người tiếp tục công cuộc tạo dựng lưu truyền đời sống và biến đổi thiên nhiên.
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, giúp con người tạo ra của cải vật chất và tinh thần, góp phần phát triển khoa học, văn hóa và đạo đức. Vì vậy, lao động mang một ý nghĩa lớn đối với đời sống con người.
Chính Đức Giêsu là một người lao động. Ngài làm nghề thợ mộc tại làng Nazaret, một nghề tầm thường trong xã hội bấy giờ, để dễ dàng gần gũi với người lao động nghèo. Tin Mừng của Ngài là “Tin Mừng của lao động”, vì người rao giảng Tin Mừng ấy chính là một người lao động. ngài thuộc về thế giới lao động, ưa chuộng lao động, tôn trọng sự lao động của con người. Trong lời giảng của Ngài ta thấy toát lên chân lý căn bản về vấn đề lao động, một chân lý đã được diễn tả trong tất cả truyền thống, ngay từ sách sáng thế. (X. Tông huấn Lao động của con người, của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II, ngày 14.9.1981). Các bài giảng của Ngài cũng thật gần gũi với người lao động.
Gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu đã ảnh hưởng tới các môn đệ theo Ngài, đặc biệt là thánh Phaolô. Thánh nhân không ngừng nêu gương và khuyên nhủ các tín hữu về giá trị của lao động. Khi ngỏ lới các kỳ mục ở Êphêsô, thánh Phaolô nói: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20, 34-35). Trong thư gửi tín hữu Thêxalônica, thánh nhân khẳng định: “Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em”(2Tx 3,8) hay ngài chỉ thị “ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx 3,10).
Tất cả chúng ta là những người lao động. Hằng ngày chúng ta vẫn bán mặt cho đất bán lưng cho trời trên đồng ruộng, vất vả trong các nhà máy, miệt mài với những trang sách, tất bật ngược xuôi ngoài chợ. Đó là vinh dự cũng là một trách nhiệm Thiên Chúa trao cho chúng ta để cộng tác với Ngài trong việc xây dựng thế giới này.
Hôm nay, mồng 3 Tết – những giây phút đầu tiên của năm mới, Mẹ Giáo Hội dành cho con cái một ngày đặc biệt cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm. Đây là dịp thuận lợi để chúng ta suy nghĩ về sứ vụ lao động của mỗi người, dâng lên Thiên Chúa thành quả lao động trong một năm qua đồng thời có những quyết tâm cho năm mới.
Năm mới, chúng ta đưa ra bao nhiêu dự tính cho công việc phải làm. Nhưng những dự tính đó có thành công hay không, chúng ta không hoàn toàn quyết định. Quả thế, cổ nhân nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Tuy nhiên, với niềm tin vào ơn Chúa giúp, chúng ta phải cố gắng hết mình để chu toàn công việc.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn các nén bạc. Ông chủ đi xa, trao cho các đầy tớ những nén bạc: người năm nén, người 2 nén, người một nén. Người thứ nhất và người thứ hai đã cố gắng và hăng say làm việc để sinh lời cho ông chủ. Đó là những người có tinh thần trách nhiệm: trách nhiệm với ông chủ và trách nhiệm với bản thân. Người thứ ba thì ngược lại: vì lười biếng, nghi ngờ ông chủ nên anh đã chôn giấu số bạc đã được giao, phụ lòng tin tưởng của ông chủ. Và kết quả, khi ông chủ về, người thứ nhất và người thứ hai được vào hưởng niềm vui của chủ vì đã trung tín, còn người thứ ba vì biếng nhác nên bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều gì trong ngày cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm hôm nay.
Thiên Chúa là chủ tể mọi loài mọi vật, con chúng ta là những tôi tớ của Ngài. Ngài trao cho mỗi người chúng ta những nén bạc là: đức tin, sức khỏe, tài năng, cơ hội, nghị lực, tiền của, ân nhân, nền giáo dục…Mỗi người được trao những nén bạc khác nhau, kẻ nhiều người ít, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta phải cố gắng hết mình để sinh lời tùy theo cuộc sống và hoàn cảnh của mỗi người. Chúng ta sử dụng tài năng, sức khỏe, tiền của, cơ hội Chúa ban để làm việc và tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho bản thân, gia đình và xã hội hầu làm vinh danh Chúa và mang lại lợi ích cho tha nhân.
Ngày đầu năm mới này, chúng ta ngẫm xem Chúa trao cho mình bao nhiêu nén bạc. Dưới cái nhìn đức tin, có lẽ cuộc đời chúng ta chìm ngập trong hồng ân của Chúa quan phòng và khôn ngoan. Ngài ban cho chúng ta đủ điều kiện để làm tốt công việc phù hợp với khả năng của mình. Năm mới này, chúng ta phải quyết tâm bắt chước người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong dụ ngôn, cố gắng làm việc tốt để sinh lời từ “nén bạc” Chúa trao. Muốn vậy, chúng ta phải sử dụng những ơn riêng như lời khuyên của thánh Phêrô: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1Pr 4,10-11). Đồng thời chúng ta cũng quyết tâm xóa bỏ tư tưởng biếng nhác, nghi ngờ của người đầy tớ thứ ba để luôn làm việc theo tinh thần Tin Mừng. “Bất cứ làm việc gì, chúng ta làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời, vì biết rằng chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người “. (x.Cl 3,23-24)
Lạy Chúa Giêsu, khi ở trần gian, Chúa là một người lao động để nêu gương nên thánh cho chúng con trong công việc lao động thường ngày. Trong năm mới này, xin cho chúng con biết học nơi Chúa, luôn cố gắng và siêng năng làm việc để những nén bạc Chúa trao không trở nên vô hiệu.
Lạy Chúa Giêsu, biết bao người khổ công trên đồng ruộng, tất bật trong các nhà máy, xuôi ngược trên thương trường mà không đủ ăn, bao người lo lắng vì thiếu việc làm – trong giây phút đầu năm mới này, xin chúc lành cho hoa màu ruộng đất, cho các phương tiện làm ăn, cho các công việc chúng con đang làm và sẽ làm, hầu mong cuộc sống chúng con luôn hòa nhịp với lời thánh vịnh:
“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân
Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi”. (Tv 65,12).
6. Cha Tôi không ngừng làm việc (Mt 25,14-30) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Ngày mồng ba tết mỗi năm, Hội Thánh luôn dành riêng một ngày đầu năm để cầu nguyện xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của mọi người giữa lúc con người đang mải mê ăn tết, có khi quên cả mặt thiêng liêng, đạo đức. Sở dĩ Hội Thánh dùng ngày mồng ba tết để cầu xin Thiên Chúa đổ muôn ơn phúc xuống trên mùa màng bởi vì Hội thánh ý thức:” Làm bởi bay, ban bởi Ta ” (L’homme propose, Dieu dispose). Hội Thánh cũng nhắc nhở tấm gương lao động của Thiên Chúa khi Ngài miệt mài sáng tạo vũ trụ, thế giới và con người. Giáo Hội cũng cho ta thấy gương lao động của Chúa Giêsu ở Nagiarét để chúng ta noi gương, bắt chước. Do đó, ngày mồng ba tết Giáo Hội dành riêng để xin ơn thánh hóa công ăn việc làm là để dạy con người:” Không làm thì đừng có ăn” như thánh Phaolô tông đồ đã viết.
THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI ĐỂ CON NGƯỜI LAO ĐỘNG LÀM RA CỦA CẢI: Tất cả ba bài đọc trong thánh lễ ngày mồng ba tết đều xoay chung quanh việc lao động. Bài sách sáng thế cho thấy Thiên Chúa đặt con người trong vườn Eden và dạy con người trồng trọt nghĩa là lao động để làm ra của cải. Thiên Chúa muốn con người xây dựng thế giới, tô đẹp thế giới và làm cho thế giới càng ngày càng trở nên phong phú, tươi xinh theo ý của Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng nói về việc ông chủ trao cho đầy tớ các nén bạc để các đầy tớ làm lợi ra những nén bạc khác, làm ra nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên lao động chắc chắn đòi hỏi sự cố gắng của con người và nhiều khi làm cho con người mệt nhọc, nhưng lao động quả thực mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống:
LAO ĐỘNG LÀ BÀI CẢM TẠ TRI ÂN: Nói đến lao động là nói đế sự làm việc mà làm việc dù trí óc hay tay chân đều làm cho con người mệt mỏi, đòi hỏi con người phải phấn đấu hy sinh, có khi phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có miếng cơm mà ăn, có cần cù lao động với óc sáng kiến, với khả năng, với kỹ thuật mới mong có của ăn của để. Mặc dù như thế, nhưng lao động vẫn là sự vinh quang bởi vì phải lao động mới tốt đẹp được, mới đem lại cho con người sức sống. Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ say sưa tối ngay, ca dao tục ngữ Việt Nam quả thực đã nói đến lý tưởng của lao động và đề cao giá trị của lao động. Đối với người công giáo lao động là bài ca tình yêu bất tận bởi vì con người làm nhưng chính Thiên Chúa định đoạt thành quả của việc làm. Do đó, lao động nói theo ngôn ngữ nhà đạo là bài ca tình yêu, là lời cảm tạ tri ân không ngừng bởi Thiên Chúa không ngừng lao động và Chúa Giêsu cũng đã lao động không ngừng.
LAO ĐỘNG NÂNG CAO PHẨM GIÁ CON NGƯỜI: Con người sẽ chẳng ra chi nếu không chịu làm việc. ” Đừng ngồi chờ sung rụng “, vâng, Thiên Chúa đã lao động không ngừng, Chúa Giêsu cũng đã noi gương Chúa cha làm việc không mệt mỏi. Do đó, con người cũng phải làm việc vì việc làm do trí óc, do bàn tay con người sẽ nâng cao giá trị của con người và làm cho việc làm có giá trị. ” Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Lao động Chúa sẽ chúc lành nếu con người luôn hướng lao động theo ý Chúa:” Bốn mùa Chúa đổ hồng ân. Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi ” (Tv 64, 12) hoặc ” Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên “.
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA GIẢI THOÁT, CỨU RỖI: Kinh tiền tụng ngày mồng ba tết viết:” Chính Cha đã dựng nên con người giống hình ảnh Cha và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Cha còn sai Con Một giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế “. Con người làm ra vật chất không chỉ để nuôi sống mình nhưng còn để chia sẻ cho những kẻ khó nghèo và như thế của bố thí với ý ngay lành sẽ có ý nghĩa cứu rỗi.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Con người được Chúa tạo dựng để góp tay với Chúa làm cho vũ trụ, thế giới đẹp hơn, ấm hơn. Bởi vì, khi làm ra của cải, con người tạo được no ấm và hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình. Nhưng còn hơn thế, con người biết nghĩ đến kẻ khác nhờ đó họ sẽ làm cho của cải có giá trị đẹp và có tính cứu rỗi. Chính vì thế, giầu quý thực nhưng nếu không biết chia sẻ cho những người nghèo thì lời của Chúa:” Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào được nước Thiên Chúa ” quả thực sẽ là lời cảnh cáo mạnh mẽ đối với những con người ích kỷ, bo bo giữ của mà không biết sẻ chia cho những người bé nhỏ, khó nghèo.
Lạy Chúa, nhân dịp đầu xuân, cộng đoàn chúng con dâng lên Chúa lễ phẩm này, cùng với mọi công việc chúng con sẽ làm trong năm mới.Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và cho chúng con được cộng tác với Con Một Chúa, để thực hiện công trình cứu độ của Người.Amen.
7. “Ơn Trời Mưa Nắng Phải Thì” (Lm Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau:
Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ để gieo xuống trần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi mê xem mà quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ. Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đày vị thần này xuống trần gian hóa thành con Trâu để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường.
Câu chuyện này phải chăng muốn dạy chúng ta: “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa thì ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người làm lụng vất vả mới có mà ăn, còn vật thì không cần làm mà trời vẫn cho ăn.
Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta xin Chúa ban cho một năm “thuận buồm xuôi gió”. Chúng ta xin Chúa chúc lành cho công việc chúng ta được mọi sự như ý, ân phước dư đầy. Chúng ta tự ý thức sự nhỏ bé, giới hạn của con người trước biết bao công việc mưu sinh hằng ngày. Chúng ta cần ơn ban của trời cao. Chúng ta xác tín như người xưa đã xác tín vào trời: “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên”. Đó là thái độ khiêm tốn cần có của con người trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng trong tay Thiên Chúa. Tổ tiên chúng ta xưa cũng từng làm như thế. Không phải vì lạc hậu. Không phải vì thiếu ý thức khoa học mới tin vào Trời, nhưng vì cảm nghiệm sự nhỏ bé của con người trước sự lớn lao của Trời:
“Đèn Trời đèn sáng bốn phương
Đèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi”.
Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:
“Trời nào có phụ ai đâu
Hay làm thì giầu, có chí thì nên”.
Biết được lòng trời rộng rãi bao la. Tổ tiên xưa còn biết lợi dụng mưa nắng phải thì của Trời mà trồng cấy:
Trời nắng tốt dưa
Trời mưa tốt lúa.
Nhất là biết cầu khẩn cùng Trời cho một năm:
“Nhờ trời mưa gió thuận hoà
Nào cầy nào cấy trẻ gia đua nhau”
Thực vậy, cuộc sống mưu sinh thật khó khăn. Nếu không có ơn trời thì công việc chúng ta cũng tựa như “dã tràng xe cát biển đông”. Nhìn lại một năm qua, chúng ta thấy thật rõ điều đó. Việc làm ăn mỗi ngày một khó. Không chì là do suy thoái kinh tế toàn cầu, mà quan yếu còn do thiên tai lũ lụt hoành hành. Ở Việt Nam ngay từ đầu năm Mậu Tý đã xảy ra rét đậm, rét hại khiến hàng ngàn trâu bò bị chết, hàng ngàn hecta hoa màu không thể đơm bông kết trái. Rồi thiên tai lũ lụt trong năm đã phá huỷ biết bao ruộng lúa, vườn rau. Nhiều người nói rằng: năm nay làm ăn không chỉ trắng tay mà con nợ nần chồng chất. Cuộc sống vốn dĩ đã khổ lại khổ thêm do không gặp thời vận của Trời ban.
Đó là lý do mà hôm nay chúng ta cùng nhau dâng lên Thiên Chúa công việc và dự định của chúng ta trong năm nay. Chúng ta trao gởi công việc chúng ta cho Thiên Chúa. Xin Chúa chúc phúc và thánh hoa công việc chúng ta được mọi sự như ý. Chúng ta xác tín rằng: “Nếu Chúa không xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”. Xin Chúa thương đón nhận những ước nguyện đầu năm chân thành của chúng ta. Amen
8. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Bao lâu trái đất này còn,
Còn gieo còn gặt còn vun còn trồng;
Bốn mùa xuân hạ thu đông,
Ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên (St 8, 22).
Hằng năm Giáo Hội không ngừng dùng ngày mồng ba tết để cầu xin cho công ăn việc làm, xin Chúa thánh hóa công việc của mỗi người,đặc biệt xin ” Chúa gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi “. Có người nghĩ rằng công việc là do bàn tay lao động của mình. Trí óc là do khả năng tích lũy của mình. Đất đai tự nó tốt, tự nó có mầu có mỡ. Không, Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn nhìn thấy những gì do mình, điều gì do Chúa. Chính vì vậy, giữa bôn ba của cuộc đời, giữa những ngày vui chơi ăn tết, con người vì vẻ bề ngoài, vì lao mình vào các thú vui, vì say xưa chè chén, họ sao nhãng việc thiêng liêng, quên đi ” Làm bởi bay, ban bởi Ta “. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày mồng ba tết để xin Chúa thánh hóa ruộng vườn, mùa màng, cây cối và xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm. Thánh Phaolô đã viết một câu mạnh mẽ nhưng hoàn toàn hợp lý:” Không làm việc thì đừng ăn “, na ná như câu:” Đừng nằm chờ sung rụng “…
THIÊN CHÚA SAI CON CỦA NGÀI ĐẾN TRẦN GIAN ĐỂ NÊU GƯƠNG LAO ĐỘNG CHO CON NGƯỜI: Khi tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người, Thiên Chúa đặt con người trong vườn địa đàng và cho con người hưởng dùng mọi vật Ngài tạo dựng nên. Tuy nhiên, khi Ông bà Ađam và Evà phạm tội, Ông bà phải lao động cực nhọc, vất vả mới có của ăn để nuôi thân và nuôi con cái. Lao động bắt đầu từ khi con người sa ngã, ngang nhiên chống lại Chúa. Lao động vất vả nhưng luôn có giá trị bởi vì không có Chúa, con người dù có làm mấy đi nữa cũng không mang lại hiệu quả bao nhiêu…
Khi Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô được sai đến trần gian qua cung lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu lớn lên ở Nagiarét, Ngài đem lại cho lao động một ý nghĩa cao vời. Chúa lao động để nêu gương cho nhân loại bởi vì lao động mang lại ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống con người. Một ngày Chúa trao ban cho mỗi người 24 tiếng đồng hồ để con người như nhau nhưng tùy khả năng, tài trí làm lợi cho Chúa, cho Giáo Hội, cho bản thân, cho tha nhân. Chúa Giêsu đã cùng thánh cả Giuse và mẹ Maria lao động để mang lại cho lao động ý nghĩa cứu rỗi.
CON NGƯỜI LUÔN PHẢI LAO ĐỘNG: Dù làm việc bằng chân tay, hay làm việc bằng trí óc, mọi người đều phải làm việc. Chúa Giêsu đã nói:” Cha Ta làm việc, Ta cũng làm việc không ngừng “. Chắc chắn, ở Nagiarét, Chúa Giêsu có lúc cũng đã phải đổ mồ hôi, mệt nhọc, vất vả vì lao động. Tuy nhiên, gia đình Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã lao động với tất cả tình yêu, với tất cả niềm tin và đem lại cho lao động một ý nghĩa tôn giáo tuyệt vời. Khi Chúa làm việc lao động, Ngài muốn chúng ta hãy luôn kết hợp với Ngài, như Ngài luôn kết hợp với chúng ta. Ai luôn kết hợp với Ngài, Chúa luôn kết hợp với người ấy, thì người ấy sinh hoa kết quả dồi dào (Ga 15, 45b). Con người noi gương Chúa luôn phải lao động không ngừng vì theo thánh Phaolô dạy:” Không làm việc thì đừng có ăn “.Câu nói xem ra mạnh mẽ đấy, nhưng quả thực không lao đ8ộng làm sao có lương thực để nuôi thân, có của cải để độ trì. Do đó, bất cứ ai đã sinh ra ở trần gian muốn tồn tại phải làm việc hoặc bằng trí óc hoặc bằng chân tay.
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA CỨU RỖI: Khi nhìn vào gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, ai cũng hiểu rất rõ dù Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài đã làm người, nên Ngài làm việc không ngừng. Thánh Giuse lao động để nuôi gia đình. Mẹ Maria làm việc nội trợ để tạo nên hạnh phúc gia đình. Cả gia dình thánh đã làm việc để nâng lao động lên tầm cao mới, nghĩa là làm cho lao động có một ý nghĩa cứu độ.Chính Thiên Chúa đã nêu gương lao động cho con người. Do đó, con người làm việc không chỉ để nuôi sống bản thân mình mà còn góp tay vào công trình cứu độ nhân loại…Thực tế, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài và giao cho con người trông coi vũ trụ, tô đẹp vũ trụ.Lao động và tín thác nơi Chúa vì chính Chúa là mục tử chăn dắt chúng ta, nên chúng ta không còn thiếu thốn gì (Tv 22, 1).
ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI, CỦA MỖI NGƯỜI: Chúa đã thánh hóa công ăn việc làm do tự lòng tin của chúng ta. Đọc Kinh Tiền Tụng chúng ta nhận ra rằng:” Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện công trình cứu độ muôn dân “. Chúa đã lao động để làm gương cho nhân loại, cho con người. Chúa giúp con người làm việc làm ra cơm áo và hơn nữa để xây dựng Nước Trời ngay tại trần thế.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm Nhâm Thìn này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự việc chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen. (Lời nguyện nhập lễ, lễ ngày Mồng Ba Tết).
9. Xin Chúa Chúc Lành (Mt 25, 14-30) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Người Pháp có câu nói thật chí lý:” Làm bởi bay, ban bởi Ta ” (L’homme propose, Dieu dispose). Giáo Hội Việt Nam luôn hướng dẫn, dạy con cái mình:” Phải cầu nguyện, phải kêu xin không ngừng “. Do đó, làm việc là do bàn tay, do trí óc sáng tạo, lao động của con người nhưng nếu người môn đệ Chúa không được Chúa ban ơn, sức khỏe không có, trí khôn không sáng, chắc chắn công ăn việc làm của mình không tốt đẹp. Giáo Hội Việt Nam dành ngày mồng ba tết âm lịch để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Có nhiều người lầm tưởng, công ăn việc làm cần gì phải được thánh hóa. Làm ăn được là do sự năng nổ, giỏi giang của mình mà. Nói thế cũng đúng một phần mà hoàn toàn không phải thế. Vì, con người luôn có phần hồn phần xác. Xác có khỏe mới lao động được, còn thân xác yếu đuối, đau lên đau xuống hoài, chắc chắn công việc cũng không đi tới đâu. Con người có giỏi, có kỹ thuật cao, nhưng mưa không thuận, gió không hòa thì mùa màng cũng không đem lại nhiều kết quả.Thánh lễ hôm nay xoay quanh việc lao động, sản xuất.Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Người và đặt con người trong vườn Eden, rồi dạy con người trồng trọt nghĩa là dạy con người lao động. Thiên Chúa muốn con người góp tay và trí tuệ để làm cho vũ trụ mà Chúa dựng xây càng ngày càng đẹp, càng ngày càng phong phú, mọi người đều có của ăn, của để. Bài Tin Mừng đề cập đến việc ông chủ trao cho mỗi người một số vốn và bắt con người phải lao động để làm lời số vốn ông chủ đã trao. Lao động phải mệt nhọc, lao động đòi hỏi phải cố gắng, phấn đấu hy sinh, nhưng lao động luôn mang ý nghĩa đẹp, ý nghĩa cao sâu, tuyệt vời do Chúa chúc lành:” Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa ” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Hoặc “Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên” và Thánh vịnh 64, 12 cũng viết:” Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi “.
Như thế, đối với người môn đệ Chúa lao động trí óc hay chân tay đều do quyền Chúa. Ngài có chúc lành, có ban ơn thì công việc mới tốt lành được. Chúa Giêsu cũng đã làm việc và làm việc không ngừng. Ngài đã làm việc để nêu gương cho nhân loại và để mang lại cho lao động ý nghĩa cao cả. Lao động đối với Ngài là lời tạ ơn, là cầu nguyện, là cứu độ, là nâng cao phẩm giá con người. Thánh Phaolô đã viết một câu thật chí lý:” Không làm thì đừng có ăn “.
Chúng ta hãy dùng lời tiền tụng thánh lễ ngày mồng ba tết để cùng nhau cầu nguyện:” Lạy Chúa, chính Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con Một giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế “. Amen.
10. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thật hạnh phúc biết bao hằng năm Giáo Hội dành ngày mồng ba tết để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm. Quả thực, con người làm lụng, Thiên Chúa trao ban. Câu nói của người Pháp rất chí lý (L’homme propose, Dieu dispose). Con người có đầu óc, có kế hoạch, có tài năng, bầy mưu hiến kế, nhưng nếu Chúa không ban ơn, không tiếp sức, không cho sức khỏe, con người cũng không thể hoàn thành công việc theo ý muốn. Hiểu rõ ràng, mọi việc là do Chúa. Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn quan tâm tới con cái của mình dành trọn ngày mồng ba để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Vâng, ngay trang Sách Sáng Thế 2,4-9.15, tác giả đã viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để con người canh tác và coi sóc đất đai “. Rõ ràng Thiên Chúa không muốn để con người ở nhưng không, năm chờ sung rụng, nhưng Ngài truyền lệnh hay nói một cách khác bắt con người phải làm việc. Bởi vì, ở nhàn rỗi, nhưng không sẽ gây ra tội lỗi. Nhàn cư vi bất thiện là thế. Sách Tông đồ Công vụ lại viết:” Bằng mọi cách tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả và như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận “. Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại, cho chúng ta về đời sống lao động. Chúa đã chọn một gia đình để sinh ra. Cha của Ngài làm nghề thợ mộc. Thánh Giuse âm thầm làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình Nadarét không quản nhọc nhằn. Mẹ Maria chăm lo việc nội trợ để phục vụ trong yêu thương Chúa Giêsu và thánh Giuse. Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với Cha mẹ của Ngài. Tại Nadarét, nhân loại tìm lại được giá trị siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong gia đình Nadarét không hề kém giá trị cứu rỗi hôn việc rao giảng, loan báo Nước Thiên Chúa hay trong cuộc thống khổ tử nạn của Ngài, vì trong tất cả mọi sự Ngài đều tìm làm đẹp lòng Thiên Chúa, Cha của Ngài.
Chúa Giêsu đã dạy nhân loại, dạy chúng ta bài học để đời:”…phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”.Dụ ngôn ông chủ đi phương xa, trao cho các đầy tớ các nén bạc, minh chứng rằng:” Cần cù lao động, chịu khó với công việc, vâng nghe lời chủ, sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp”. Lời kinh tiền tụng lễ ngày mồng ba tết dạy chúng ta nhiều điều:” …Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Chúa Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm trạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế “. Chúa Giêsu đã làm việc để cho Nước Chúa được rạng sáng vinh quang, để cho thế giới được an bình, thịnh vượng. Nên, chúng ta hãy bắt chước Chúa, làm việc và làm việc không ngừng, nhưng phải mặc cho công việc một ý nghĩa cao quý. Đã đành, mọi người làm việc là để cho gia đình, cho bản thân của mình được tồn tại.Tuy nhiên, lao động cũng có nghĩa là góp tay với mọi người thăng tiến cuộc sống và làm cho công việc, lao động có ý nghĩa cứu rỗi…
Ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn viêc làm của chúng ta: công việc lao động tay chân và việc làm trí óc vv…Xin Chúa chúc lành cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này để chúng ta hiểu rõ:” làm do chúng ta và ban do Chúa “.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen.(Lời nguyện nhập lễ, lễ Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Lao động để làm gì?
2. Làm việc tay chân và làm việc trí óc có mệt ngang nhau không?
3. Chúa Giêsu có lao động?
4. Đối với Chúa Giêsu lao động có ý nghĩa gì?
11. Làm bởi bay, ban bởi Ta (Mt 25,14-30)
Ngày mồng ba tết, Giáo Hội nhắc nhở con người về sự hiện diện của Chúa trong mọi việc, trong mọi trạng huống của cuộc đời:” Không có Ta các con không thể làm gì được”. Chúa ban cho ta sức mạnh, tài năng, trí tuệ, khả năng để lao động sản xuất. Khoa học kỹ thuật cao, văn minh tiến bộ, nhưng sức riêng con người nào đâu có thể thành công được gì! Chúa ban cho ta vốn liếng để ta sinh lợi, nhưng:” Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” (L’ homme propose, Dieu dispose). Ngày tết, người ta có tục lệ lì xì cho trẻ con để lấy hên, mỗi em tùy cách với số tiền mừng tuổi có thể làm nên việc cho bản thân mình.Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể áp dụng vào câu chuyện lì xì ngày tết.
VÍ DỤ NÉN BẠC: Mỗi người chúng ta sinh ra trong trần gian này đều được Chúa ban cho những ơn huệ đặc biệt. Có người Chúa ban cho ơn thông minh, có người được ơn ngôn sứ, được ơn phân giải những điều hay lẽ phải.Có người được Chúa ban cho tài năng làm nên danh phận. Mỗi người dù Chúa trao nhiều hay Chúa trao ít, Chúa vẫn đòi hỏi con người phải sinh lợi ra trên số vốn Chúa trao ban. Tin Mừng hôm nay ra định mức là phải làm lợi ra gấp đôi. Chúa lấy dụ ngôn này để ám chỉ tới Ngài. Ngài đã trao cho người 5 nén, 2nén và 01 nén. Tất cả phải làm ra, sinh lời ra vì làm biếng và xét nét trước lòng nhân hậu của chủ, của Thiên Chúa như người được trao một nén sẽ bị lấy lại nén bạc Chúa đã tặng ban mà còn bị luận phạt vì tính ích kỷ và làm biếng nữa. Đúng là đoạn Tin Mừng cho ta thấy tính cách nghiêm minh của Thiên Chúa, sự công bằng và lòng ngay thẳng của Ngài trước thái độ của mỗi người. Đoạn Tin Mừng này cho thấy tính hài hước, cười ra nước mắt và hạnh phúc đến tột độ của mỗi người được Thiên Chúa trao ban tài năng và kho tàng tài sản của mình. Chúa cũng giúp con người ý thức hơn về việc quản lý những gì Chúa trao ban cho mỗi người: trí khôn, khả năng, vật chất, của cải và cả vũ trụ, tài nguyên Chúa ban nhưng không cho nhân loại, cho mỗi người. Tất cả, những thứ đó đều do Chúa ban, con người phải biết phát huy những thứ đó cho tốt đẹp, để phục vụ chứ không phải để sở hữu riêng cho mình.Ý thức mọi sự là của Chúa ban và con người, loài người chỉ là quản lý những thứ đó, nên con người phải làm sao cho những của Thiên Chúa ban được phát triển tốt đẹp theo ý của Chúa.
MƯU SỰ TẠI NHÂN, THÀNH SỰ TẠI THIÊN: Vật chất, lương thực theo cái nhìn Kitô là của Chúa. Con người có dự tính, có kế hoạch nhưng mưa thuận gió hòa là do Trời, do Thiên Chúa.Chính vì thế, trung thành với ông chủ, với Thiên Chúa sẽ sinh lợi theo ý của Ngài. Đời là vốn và sự sống chính là biết phát triển những gì Chúa đã trao ban nhưng không cho mỗi người. Thánh hoá công ăn việc làm là điều cần thiết để mỗi người nhận ra sự hiện hữu của Chúa trong vũ trụ, trong đời sống, trong mỗi người. Lao động trí óc hay chân tay đều là những khả năng Thiên Chúa ban cho. Con người dù có giỏi đến đâu mà không cậy trông sức thiêng hộ phù chắc chắn khó thành đạt trên bước đường kinh doanh hay trồng cấy.
Mồng ba tết, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm là điều cần thiết nhất để nói lên sự phù trợ của Thiên Chúa và ” Không Thầy, các con không làm được gì “.
Xin Chúa chúc lành cho những công việc con người đang theo đuổi. Xin Chúa ban bình an cho những tâm hồn thành tâm thiện chí. Cuộc sống do Chúa ban. Sự sống của con người thuộc về Thiên Chúa. Xin Chúa chúc lành cho những gì Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người. Nếu con người luôn ước mong làm lợi cho cuộc đời, họ phải hiểu rằng người Kitô hữu luôn hướng về bàn tiệc nước trời, bàn tiệc của mùa xuân vĩnh cửu, bất diệt.
Lạy Chúa, xin chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con để cuộc đời của mỗi người chúng con luôn nhận ra sự có mặt của Chhúa.Amen.
12. Suy niệm Lời Chúa (Lm. Nguyễn Thể Hiện)
Lãnh vực công ăn việc làm là một trong những lãnh vực quan trọng trong đó chúng ta thể hiện mối tương quan đích thực của chúng ta với Thiên Chúa. Chính khi thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế hàng ngày, chúng ta tự diễn tả mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa; và ngang qua việc thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế hàng ngày mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa đưa vào hưởng niềm hoan lạc của chính Ngài.
1. Một dụ ngôn được nói cho chúng ta và nói về chúng ta
Với dụ ngôn những yến bạc, Đức Giêsu công bố rằng chúng ta hoàn toàn tuỳ thuộc vào Thiên Chúa như những đầy tớ phải chịu trách nhiệm trước mặt Người; rằng mọi sự chúng ta có đều là của cải Thiên Chúa ký thác cho chúng ta; rằng chúng ta không được tuỳ tiện sử dụng những thứ chúng ta có theo ý riêng mình, song là phải theo đường hướng mà Thiên Chúa muốn; rằng Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta phải tính toán sổ sách với Người về những điều thiện hảo đã được trao phó cho chúng ta; và rằng sự thành công hay thất bại của cuộc đời chúng ta tuỳ thuộc vào cách hành xử của chúng ta trong những gì Thiên Chúa trao phó cho chúng ta.
Qua cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành và trung tín, Đức Giêsu cho thấy đâu là cách hành xử đúng đắn của chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Còn qua cách hành xử và số phận của tên đầy tớ xấu xa và biếng nhác, Ngài cho thấy một kẻ xấu xa sẽ đi đến chỗ bị huỷ diệt như thế nào.
2. Điều quan trọng là mối tương quan giữa ông chủ và các đầy tớ của ông
Những người đầy tớ không được tự tại nơi mình, nhưng là ở trong một mối tương quan tuỳ thuộc và phục vụ đối với ông chủ. Chính bản thân họ thuộc về ông chủ, những điều thiện hảo được ký thác cho họ là của ông chủ và những gì họ có thể làm ra cũng xuất phát từ tài sản của ông chủ chứ không phải hoàn toàn xuất phát từ bản thân họ. Như thế là trong những phương diện khác nhau, họ đều được nối kết chặt chẽ với ông chủ. Mà nếu vậy, cách hành xử của họ sẽ vừa tuỳ thuộc vừa biểu lộ cái quan niệm mà họ có về ông chủ của mình.
Hình ảnh những người đầy tớ trong dụ ngôn này cũng là hình ảnh của chúng ta trong tương quan với Thiên Chúa. Hình ảnh này cho thấy rằng chúng ta, và cùng với chúng ta là tất cả những gì chúng ta có, đều là thụ tạo của Thiên Chúa; rằng chúng ta không thể tự tại nơi chính mình; rằng mọi khả năng của ta đều đến từ bàn tay Thiên Chúa.
Nhưng không phải là mọi người đều được đón nhận cùng những ân huệ y như nhau; ông chủ giao phó của cải của mình cho các đầy tớ nhiều hay ít là tùy khả năng của họ. Ông biết rõ từng đầy tớ của mình. Tình yêu tôn trọng tự do và điểm độc đáo riêng của mỗi người. Thật phi lý nếu chúng ta đòi Thiên Chúa phải ký thác tài sản của Ngài cho mọi người theo lối bình quân chủ nghĩa cứng nhắc và phi nhân.
3. Cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành
Hai người đầy tớ tốt lành lập tức bắt tay vào việc. Họ sử dụng những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình phù hợp với ý muốn của ông chủ. Họ đặt mình dưới những mục tiêu của ông chủ và lưu tâm đến những bận tâm của ông chủ. Hoạt động của họ hữu hiệu. Họ đến trình diện với ông chủ trong tư thế đàng hoàng của người đã thực hiện tốt những gì được trao phó cho mình.
Và họ đã nhận được niềm vui trào tràn. Ông chủ đã tuyên bố họ là những đầy tớ tốt lành và trung tín. Người đầy tớ tốt lành là người hoàn toàn đón nhận vị trí của mình trong tương quan với ông chủ và đặt mình trong tư thế phục vụ ông chủ. Anh ta không chạy theo những ý tưởng riêng của chính mình hoặc những tâm trạng riêng của mình, anh ta không giữ khoảng cách xa với ông chủ, nhưng hành động theo những mục tiêu và những mối quan tâm của ông chủ. Người đầy tớ trung tín là người phục vụ ân cần và luôn ý thức rằng những điều anh ta có trong tay là những điều được ký thác cho anh.
Sau khi hai người đầy tớ đã chứng tỏ những phẩm chất tốt lành và trung tín, ông chủ có thể tin tưởng mà trao phó cho họ những nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông cho họ vào hưởng hạnh phúc dư tràn: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (25,21.23). Nhiều lần Tin Mừng Mt nói về sự “vào Nước Trời” (thí dụ 5,20; 7,21; 18,3), về sự “vào cõi sống” (18,8.9; 19,16), còn ở đây thì là “vào niềm vui”. Nước Trời có nghĩa là cõi sống và niềm hoan lạc vô biên dành cho những ai thuộc về Nước ấy. Ông chủ không giữ khoảng cách với những người đầy tớ tốt lành, nhưng ông đón nhận họ vào cõi sống của ông, vào sự hoan lạc đầy tràn của ông. Chúng ta không thể đạt tới cùng đích đó và không thể đi vào trong sự hoàn thành phúc lạc cuộc đời chúng ta chỉ dựa trên sức lực của riêng chúng ta, cũng không phải là ngang qua một cuộc hành trình do chúng ta chọn lựa và quyết định, nhưng chỉ là trong sự phục vụ Đức Chúa. Hai người đầy tớ tốt lành, cho dù khác nhau về kết quả công việc, đã đều được hưởng cũng một niềm hạnh phúc như nhau. Điều đó cho thấy niềm hạnh phúc mà họ được hưởng không được ban phát tuỳ theo điều họ đã làm được, mà là tuỳ theo lòng tốt của ông chủ và lòng trung thành của họ.
4. Cách hành xử và số phận của anh đầy tớ xấu xa
Ngay từ đầu, anh đầy tớ này đã có một mối tương quan sai lạc đối với ông chủ của anh ta. Anh ta coi ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, và anh sợ ông chủ (25,24.25). Anh ta biết mình tuỳ thuộc ông chủ, nhưng anh ta không đặt mình dưới quyền bính của ông trong tin tưởng và chuyên cần. Anh ta sống sự tuỳ thuộc của mình vào ông chủ như một sự gì nặng nề, và anh ta bực tức với ông chủ như là với một người chuyên đi áp bức người khác, bắt người khác làm việc cho mình và bóc lột người khác. Trong mắt anh ta, ông chủ là người hà khắc xấu xa. Và anh ta từ chối dịch vụ mà ông chủ muốn anh ta thực hiện. Anh ta không thi hành ý muốn của ông chủ. Tuy anh ta không phung phí của cải đã được trao cho anh ta, anh ta cũng không dùng của cải ấy để tư lợi hay tiêu xài, nhưng anh ta lại đã để cho những của cải mà ông chủ đã ký thác cho anh ta thành ra vô dụng, rồi đem trả lại cho ông chủ đúng như anh ta đã nhận từ ông.
Kết cục, ông chủ gọi anh ta là tên đầy tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng, một người đã hoàn toàn đánh mất chính mình và đánh mất quyền lợi của mình khi không thực hiện bổn phận mình. Như anh ta đã từng cố ý giữ khoảng cách thật xa với ông chủ, thì bây giờ, ông chủ sẽ giữ khoảng cách thật xa với anh ta. Anh ta đã không đặt mình trong sự hiệp thông sâu xa và hữu hiệu với ông chủ, nên ông chủ phải để anh ta bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, nơi không có niềm vui, không có hạnh phúc, không có sự sống, mà chỉ có khóc lóc nghiến răng vì phải chịu sự huỷ diệt kinh hoàng. Chỗ tối tăm bên ngoài, nơi khóc lóc nghiến răng… chính là sự huỷ diệt dành cho những kẻ bị truất quyền hưởng Nước Trời (x. Mt 8,12). Bị loại khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa, bị loại khỏi ánh sáng, bị loại khỏi sự hiện diện đầy tình yêu của Thiên Chúa, thì không chỉ có nghĩa là không được tràn đầy hạnh phúc, không được sống viên mãn, mà còn là phải ở trong tình trạng khốn khổ, đau đớn, tuyệt vọng và tăm tối.
Chúng ta chỉ có thể đạt tới cùng đích tối hậu của mình nếu chúng ta đặt mình phục vụ Thiên Chúa, bằng cách sử dụng đúng đắn, theo ý Thiên Chúa, tất cả những gì Thiên Chúa ban tặng và trao phó cho chúng ta: sự sống, thời gian, khả năng, cơ hội, của cải… Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta những thực tại tốt lành đó, và chúng ta sẽ phải trả lời về việc sử dụng chúng.
Chúng ta thực hiện cuộc sống mình không phải là trong sự sợ hãi đối với Thiên Chúa, nhưng là trong tin tưởng, phó thác và yêu mến Người. Chính vì vậy mà chúng ta cầu xin Người thánh hoá công ăn việc làm của chúng ta. Lời cầu nguyện như thế sẽ được nhận lời, nếu trong lời cầu nguyện đó, chúng ta tuyên xưng mình chỉ là đầy tớ của Người, luôn chỉ muốn sử dụng, phù hợp với ý muốn của Người, tất cả những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình, luôn đặt mình dưới những mục tiêu của Người và luôn lưu tâm đến những bận tâm của Người.
Lời cầu nguyện đó sẽ được mang vẻ đẹp của chính lời nguyện xin của Đức Thánh Trinh Nữ, Mẹ chúng ta: “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài!” (Lc 1,38).
13. Suy niệm Lời Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
(Bài giảng chép lại từ băng ghi âm)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,
Hôm nay là ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng trong tam nhật hành hương minh niên của chúng ta kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Trong lịch phụng vụ của Hội Thánh Việt Nam, ngày Mồng 3 Tết là ngày cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Do đó, hôm nay, khi quây quần bên Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để cầu nguyện, có lẽ tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang nặng những ưu tư, những bận tâm về công ăn viêc làm và về đời sống của chúng ta trong năm mới này. Chính trong mối ưu tư về công ăn việc làm và về đời sống đó, chúng ta hiệp lời với Đức Mẹ nài xin Thiên Chúa thánh hóa tất cả công việc mà chúng ta sẽ làm trong năm mới này.
Bài Tin Mừng vừa được công bố trích trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, kể về dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu thực hiện tại tiệc cưới Cana. Đối với người Do Thái ngày xưa, rượu trong tiệc cưới là biểu tượng của tình yêu giữa cô dâu với chú rể, giữa chú rể với cô dâu, tức là biểu tượng cho thực tại quan trọng nhất làm cho mọi sự kiện, mọi biến cố, mọi thực tại trong lễ cưới trở nên có ý nghĩa. Tình yêu giữa người vợ và người chồng là yếu tố căn bản làm nên gia đình, làm nên sự thành công của gia đình. Thế mà trong đám cưới này lại xảy ra tình trạng thiếu rượu, tức là thiếu yếu tố quan trọng đem đến sự thành công. Ông quản tiệc là người chịu trách nhiệm về việc tổ chức đám cưới và xử lý những vấn đề nảy sinh ở đám cưới thì lại chẳng biết gì về tình trạng bi đát ấy. Nhưng có một người, là thân mẫu Đức Giêsu, đã nhận ra tình trạng bi đát đó. Thân mẫu Đức Giêsu đã trình bày vấn đề với Đức Giêsu, Con của Người. Mẹ đã không đến với ông quản tiệc để nói cho ông quản tiệc biết mà xử lý vấn đề của tiệc cưới. Mẹ đến với Đức Giêsu, trình bày với Đức Giêsu và chờ đợi sự can thiệp của Đức Giêsu. Và quả thật, Đức Giêsu đã can thiệp để giải quyết tình trạng hết sức cấp bách và bi đát ấy. Người đem lại cho đám cưới Cana sự thành công như lòng Thiên Chúa mong ước.
Kính thưa anh chị em,
Ngày hôm nay, khi chúng ta đến với Đức Mẹ và trình bày với Đức Mẹ về tình trạng của cuộc sống và những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, là chúng ta đến trong lòng tin rằng Mẹ sẽ can thiệp bên cạnh Chúa Giêsu để Chúa Giêsu chúc lành, thánh hóa và làm cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm nay được thành công. Chính trong cái xác tín đức tin ấy mà chúng ta quây quần bên Mẹ. Vậy đâu là những tâm sự mà chúng ta muốn thưa với Đức Mẹ bây giờ, thưa anh chị em?
(1) Trước hết, chúng ta đến đây, trong buổi chiều Mồng 3 Tết này, là để cùng với Đức Mẹ tuyên xưng rằng sự thành công của đời sống chúng ta và của công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này, hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa là Đấng quyết định. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho công ăn việc làm và đời sống của chúng ta trong năm mới này thành công. Nói như lời tác giả Thánh Vịnh: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công; thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm”. Vậy chính trong lòng tin đó mà chúng ta đặt dưới chân Đức Mẹ những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm trong năm mới này, xin Đức Mẹ can thiệp với Thiên Chúa để Thiên Chúa chúc lành cho công ăn việc làm và cho đời sống chúng ta. Vì thế, vượt xa hơn một lời cầu xin, sự quy tụ của chúng ta chiều hôm nay ở đây là một lời tuyên xưng đức tin vào quyền năng và quyền quyết định của Thiên Chúa trên vận mạng và sự thành công của chúng ta.
(2) Nhưng không chỉ như thế, thưa anh chị em. Ngày lễ hôm nay được gọi là ngày xin ơn thánh hóa công ăn việc làm. Chúng ta không chỉ xin sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng còn đi xa hơn nữa, chúng ta xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, nghĩa là làm cho những hoạt động của chúng ta trong năm mới này trở nên phương thế đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại của thế giới mai hậu. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại siêu nhiên mà thôi. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là ơn cứu độ con người toàn diện. Trong cái toàn diện và cụ thể trong đời sống chúng ta, Thiên Chúa cứu chúng ta. Và mọi thực tại thuộc về đời sống con người đều có thể trở nên phương thế để đem ơn cứu độ đến cho chúng ta. Thiên Chúa cứu chúng ta là cứu trong cái thực tại thế tạm, thực tế và cụ thể của đời sống chúng ta.
Khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa những hoạt động của chúng ta trong năm mới này, chúng ta tuyên xưng một xác tín, rằng ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho chúng ta là một thực tại toàn diện. Khi qui tụ đông đảo ở đây để xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên bố với thế giới và với mọi người rằng tôn giáo không chỉ gói gọn trong những thực tại siêu nhiên thuộc thế giới bên kia, vì mọi thực tại thế tạm đều “dính dấp” đến tôn giáo và đời sống tôn giáo của chúng ta cũng “dính dấp” đến mọi thực tại của cuộc sống này. Vậy ai nói rằng Hội Thánh Công Giáo không được quyền lên tiếng về những vấn đề xã hội, hoặc rằng Hội Thánh Công Giáo chỉ nên gói gọn hoạt động của mình trong các lễ hội bên trong nhà thờ, thì người ấy đang phản bội Tin Mừng đấy, thưa anh chị em. Bởi vì Thiên Chúa đến cứu chúng ta và Người muốn thánh hóa mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống cụ thể của chúng ta. Mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống thế tạm và cụ thể đều trở thành phương thế cứu độ.
Thành ra, với việc anh chị em qui tụ ở đây bên cạnh Đức Mẹ và xin Đức Mẹ chuyển cầu để Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên xưng một sự dấn thân làm cho những thực tại thế tạm, những thực tại của công ăn việc làm chẳng hạn, trở thành phương thế cứu độ con người. Đó là ý nghĩa và tâm tình thứ hai mà chúng ta thưa lên với Đức Mẹ và cùng với Đức Mẹ tuyên xưng đức tin trước nhan Thiên Chúa trong buổi chiều ngày Mồng 3 Tết này.
(3) Nhưng, kính thưa anh chị em, tất cả chúng ta ở đây đều không ai sống một mình. Ngay cả trong lãnh vực công ăn viêc làm, chúng ta cũng ý thức rất rõ ràng tác động của cộng đồng và của xã hội trên đời sống riêng của mỗi người chúng ta.
Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được rằng những quyết định của nhà cầm quyền sẽ ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp lên công ăn việc làm của chúng ta. Tôi lấy thí dụ: mô hình tăng trưởng nào được lựa chọn để làm mô hình tăng trưởng cho đất nước chúng ta? Điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công ăn việc làm của chúng ta. Chính sách thuế khóa sẽ trực tiếp ảnh hưởng trên công ăn việc làm của mỗi người chúng ta. Một quy hoạch nào đó của một vùng nào đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ trên cuộc sống và trên công ăn việc làm của cộng đồng cư dân trong vùng đó. Không thể phủ nhận được tác động của các chính sách của những nhà cầm quyền trên công ăn việc làm của chúng ta.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận được tác động của những hiện tượng xấu như tệ nạn xã hội, tình trạng an ninh, tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, sự suy thoái trong đời sống đạo đức, cách riêng là sự suy thoái đạo đức của những người có quyền trong các lĩnh vực khác nhau, công cũng như tư. Chúng ta không thể phủ nhận được tác động trực tiếp và tiêu cực của những chuyện đó trên công ăn việc làm của chúng ta. Sự thành công trong công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này sẽ chịu ảnh hưởng và tác động của những điều đó.
Ý thức như thế, chúng ta đến với Đức Mẹ chiều hôm nay để trình bày với Đức Mẹ cuộc sống cụ thể của chúng ta. Xã hội của chúng ta vẫn còn đầy dẫy những bất công. Chính ông Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong báo cáo tổng kết 5 năm cầm quyền vừa qua của Đảng Cộng sản tại đại hội lần thứ 11 cũng đã phải thừa nhận rằng: “Nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội, tình trạng tội phạm, sự suy thoái về đạo đức và lối sống … vẫn chưa được ngăn chặn”, có nghĩa là vẫn còn tồn tại đầy dẫy trong xã hội. Đi xa hơn ông Nông Đức Mạnh, ông Nguyễn Văn An – nguyên Chủ tịch Quốc Hội từ năm 2001 đến 2006, cách đây vài tháng, khi trả lời phỏng vấn của báo Vietnamnet, đã không chỉ đề cập đến những sự suy thoái hay những hiện tượng này khác. Ông đề cập đến một lỗi hệ thống và ông bàn đến chuyện sửa sai lỗi hệ thống ấy. Có một số đảng viên cộng sản không đồng ý với cách lý giải của ông Nguyễn Văn An, tức là không đồng ý rằng có một lỗi hệ thống trong đường lối xây dựng xã hội chúng ta. Nhưng tôi chắc rằng không ai trong các đảng viên cộng sản hiện nay và cũng chẳng ai trong chúng ta ở đây mà không đồng ý với ông Nông Đức Mạnh rằng trong xã hội chúng ta còn đầy dẫy tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, tình trạng tội phạm, tình trạng tệ nạn xã hội, tình trạng suy thoái đạo đức của nhiều người, cách riêng là rất nhiều người cầm quyền trong các lĩnh vực khách nhau. Vì đó là thực tế đập vào mắt chúng ta hàng ngày.
Và tất cả những điều đó tác động trực tiếp đến công ăn việc làm của chúng ta.
Thế mà, như lời Kinh Thánh nói: “Khi nền móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?”.
Vậy, hôm nay, khi chúng ta quây quần bên cạnh Đức Mẹ để cùng với Đức Mẹ đặt những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm và về đời sống chúng ta lên trước nhan Thiên Chúa, là chúng ta xin Đức Mẹ nhìn đến tình trạng đó của chúng ta. Chúng ta xin Đức Mẹ can thiệp trước nhan Thiên Chúa để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, ngăn chặn tệ nạn hối lộ, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức của những người có quyền. Chúng ta xin Đức Mẹ ngăn chặn và hơn nữa, triệt tiêu những tệ nạn trong việc phân chia lợi tức xã hội, những tệ nạn trong lĩnh vực giáo dục, trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực giao thông…, tức là những tệ nạn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống ảnh hưởng đến công ăn việc làm và ảnh hưởng đến hoạt động của chúng ta trong năm nay. Chúng ta xin Đức Mẹ và chúng ta biết rằng Đức Mẹ đủ quyền năng để giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiêu những tác hại của các tệ nạn đó.
Đàng khác, chúng ta biết rằng sự thành công đích thực của toàn xã hội và vì vậy là của tất cả chúng ta, chính yếu thuộc về điều này: đó là tự do và phẩm giá của con người phải được tôn trọng. Khi nào tự do và phẩm gián của con người được tôn trọng, khi ấy xã hội mới phồn vinh đích thực, mới ổn định đích thực. Còn khi nào tự do, phẩm giá và nhân quyền không được tôn trọng, thì lao động và công ăn việc làm, thay vì là phương thế làm cho chúng ta triển nở và làm cho chúng ta trở nên người hơn, thì lại trở thành gánh nặng, lại trở thành ách nô lệ, lại trở thành yếu tố làm cho con người tha hóa, vong thân. Thành ra, chúng ta đến đây với Đức Mẹ để xin Đức Mẹ phù trợ, để xin Đức Mẹ chúc lành, xin Đức Mẹ cùng với Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta trong năm này, là chúng ta xin cho sự tự do, xin cho phẩm giá của con người, xin cho các quyền căn bản của con người… ngày càng được tôn trọng, và xin cho xã hội của chúng ta trở nên một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
(4) Tất nhiên, bên cạnh những tệ nạn, chúng ta cũng biết rằng trong xã hội chúng ta vẫn còn đấy những yếu tố hết sức tích cực, đặc biệt là những yếu tố tích cực từ những phận đời nhỏ bé. Anh chị em hãy nhớ lại: năm vừa rồi, khi bão lụt tràn về miền Trung, rất nhiều người đã cùng nhau góp phần của mình giúp anh chị em miền Trung qua cơn đại nạn lũ lụt. Rất nhiều người trong cộng đồng chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình đề đem lại sự ổn định cho đời sống của anh chị em ở miền Trung. Một ví dụ khác: nhiều người trong chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình để anh chị em dân tộc thiểu số ở bên cạnh dòng sông Pôkô trên Tây Nguyên không còn phải đi học hay vận chuyển những gùi sắn, gùi lúa của mình qua sông bằng cách đu dây cáp. Một chiếc cầu dây đã được bắc qua sông Pôkô từ những tấm lòng của bạn đọc khắp nơi của báo Tuổi Trẻ. Đấy là một bằng chứng về lòng nhân ái và về sự trợ giúp của những người nghèo với nhau. Một ví dụ khác: anh Trương Xuân Thức, người lái tàu trên một chuyến tàu hỏa gặp nạn, đã làm hết cách, thậm chí là hy sinh cánh tay trái của mình, để bảo đảm an toàn cho chuyến tàu ấy. Và khi thấy anh gặp nỗi đau vì hy sinh như thế, nhiều người ở khắp nơi đã an ủi, đã nâng đỡ, đã góp phần cùng với anh xoa dịu nổi đau của sự tật nguyền mà anh phải mang do sự hy sinh cứu những người khác. Đấy là bằng chứng rằng những người nghèo trong xã hội chúng ta, những phận đời bé nhỏ trong xã hội chúng ta, vẫn đóng góp phần mình để làm cho xã hội được nhân bản hơn, văn minh hơn. Rồi chúng ta biết có nhiều luật sư đã dám dấn thân để bảo vệ người nghèo trong các vụ án, cho dù họ phải trả giá bằng sinh mạng kinh tế, sinh mạng chính trị và ngay cả sinh mạng thể lý. Có những nhà báo bất chấp nguy hiểm để phanh phui những tệ nạn, tố giác tiêu cực… để xã hội nên trong sáng hơn… Và còn nhiều lắm. thưa anh chị em, những tấm lòng nhân ái làm cho cuộc sống của chúng ta an bình hơn, làm cho cuộc sống của chúng ta nhân bản hơn và nhờ vậy sự thành công của mỗi người được đảm bảo hơn.
Vậy hôm nay, khi qui tụ về đây để xin Đức Mẹ cầu bầu với Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta xin Đức Mẹ chúc lành và nâng đỡ những tâm hồn ấy, những con người ấy, tức là chính chúng ta và là biết bao người nghèo khác. Đức Mẹ, tại tiệc cưới Cana, đã khích lệ, đã dạy dỗ, đã chỉ dẫn cho các gia nhân để họ cộng tác với Chúa Giêsu mà đem rượu mới cho đám cưới. Xin Mẹ, ngay hôm nay, trong năm này, cũng an ủi, khuyến khích, nâng đỡ chúng ta và tất cả những người thành tâm thiện chí khác, để chúng ta góp phần mình làm cho làm cho tự do, nhân quyền và phẩm giá con người được tôn trọng trong xã hội chúng ta. Và trên cái nền ấy, chúng ta sẽ thành công trong việc xây dựng cuộc sống của mình.
Tóm lại, kính thưa anh chị em, chiều hôm nay,
– thứ nhất, khi đến bên cạnh Đức Mẹ để cùng với Mẹ dâng lên Thiên Chúa những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, về hoạt động, về đời sống của chúng ta trong năm mới, chúng ta thưa lên với Đức Mẹ xác tín rằng đời sống và sự thành công của chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”.
– thứ hai, khi cùng với Đức Mẹ ra trước nhan thánh Thiên Chúa để dâng lên lời cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, chúng ta xác tín rằng những hoạt động nhỏ bé và trần thế của chúng ta có thể trở thành phương thế cứu độ chúng ta.
– thứ ba, cùng với Đức Mẹ, chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời nguyện xin tha thiết, để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiệu những tệ nạn đang tác oai tác quái trên đời sống chúng ta: “Khi nền móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?”.
– thứ tư, chúng ta nguyện góp phần mình làm cho xã hội ý thức hơn về tự do, về nhân phẩm và nhân quyền. Chúng ta nguyện góp phần vào việc làm cho xã hội ổn định hơn, làm cho xã hội phát triển một cách đích thực hơn như chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta xin Đức Mẹ khích lệ, nâng đỡ để giúp chúng ta dám dấn thân xây dựng xã hội tốt lành, trong đó mọi người có cơ hội phát triển đích thực như thánh ý Chúa muốn.
Kính thưa anh chị em,
Ngày xưa, Đức Mẹ đã nhìn thấy tình trạng tiệc cưới Cana thiếu yếu tố căn bản làm cho bữa tiệc ấy có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ cũng đang nhìn thấy những thiếu thốn căn bản để cuộc sống của chúng ta có thể phát triển.
Ngày xưa Đức Mẹ đã thưa với Chúa Giêsu để Người can thiệp tại tiệc cưới Cana và ban rượu ngon làm cho bữa tiệc cưới ấy được thành công và có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ vẫn luôn cầu nguyện với Chúa để Người ban những yếu tố căn bản, giúp cho xã hội chúng ta được vận hành và phát triển một cách đích thực như lòng Chúa muốn.
Xin Đức Mẹ gìn giữ chúng con và ban ơn cho chúng con. Xin Đức Mẹ chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này. Amen.
14. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)
VIỆC LÀM VÀ LÀM VIỆC TRONG NĂM MỚI SẼ NHƯ THẾ NÀO?
Hôm Tĩnh tâm các Linh mục của GP Xuân Lộc, ông Trưởng ban Tôn Giáo cho biết tỉnh Đồng Nai năm vừa qua cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền kinh tế thế giới suy thoái, một trong những vấn đề chính quyền tỉnh quan tâm đó là năm vừa qua có hàng trăm ngàn công nhân mất việc, nghỉ việc vì công ty làm ăn khó khăn thua lỗ. Con số hàng trăm ngàn người mất việc này sẽ còn ảnh hưởng đến các gia đình và bao nhiêu người khác nữa, chưa kể là vấn đề tội phạm xã hội sẽ tỷ lệ thuận với con số này. Nhìn vào bức tranh kinh tế và công ăn việc làm của cả nước năm qua, con số lạm phát đã lên đến mức kỷ lục, tình trạng nợ nần của Nhà nước khá trầm trọng, đồng tiền mất giá, giá cả các mặt hàng tăng mạnh… tất cả những thông tin ấy đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi người, hay nói cụ thể hơn nó ảnh hưởng đến cái túi, đến bữa cơm của các gia đình. Cuối năm vừa qua, các công ty xí nghiệp đều có thưởng, có những người được thưởng cả trăm triệu, nhưng cũng có những ngành nghề chỉ được thưởng mấy ký hạt dưa hạt bí và có những ngành nghề không được đồng nào…
Thưa quý OBACE, vấn đề việc làm ngày càng trở thành vấn đề quan tâm của nhiều người. Có việc làm, và làm việc như thế nào lại là chuyện khác, và việc làm có phù hợp có thoải mái, có đủ sống hay không lại là chuyện khác. Vấn đề chủ và thợ ngày nay cũng đã trở thành một vấn đề nan giải, chủ thì muốn thu hồi vốn nhanh lợi nhuận nhiều, thợ thì muốn lương cao và những điều kiện làm việc thật tốt. … Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về mối tương quan chủ và thợ:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông- Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài sản mình cho công nhân, ông không đắn đo tính toán, ông cho họ có cơ hội để lập nghiệp. Ông cũng rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có nghĩa là ai có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, ông không bắt ép họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ đợi và đòi ở đầy tớ của ông không phải là chuyện lời hay lỗ, vì ông có thiếu gì đâu, mà là sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn ông, ông không chấp nhận sự lười biếng, không suy nghĩ tính toán, không cố gắng. Câu chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ, người năm nén sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người này đều được ông chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín, vì người đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn. Sự tín trung với chủ và giữ chữ tín trong công việc chính là điều những người này được khen thưởng.
Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ tính toán, ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận, đó là trường hợp của người lãnh một nén. Anh này đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ đã trao, vì anh đã có cái nhìn hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình keo kiệt tham lam, hà khắc gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, và anh còn mang một thái độ khác nữa đó sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ nên đã chôn giấu nén bạc của chủ. Chính từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không quan tâm gì đến việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ, ngay việc giữ huề vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh ta cũng phải làm lời theo lãi suất ngân hàng… Ông chủ đã sa thải anh vì anh biếng nhác, không suy nghĩ không tính tóan để làm sinh lời vốn liếng chủ trao.
Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ trong câu chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy Thiên Chúa chính là ông chủ tốt lành, Ngài đang ban cho chúng ta mỗi người những khả năng và tài năng khác nhau, Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để làm phát triển các khả năng và tài năng đó, và Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết ơn và yêu mến Ngài, Ngài chờ đợi chúng ta hãy biết tận dụng thời giờ để làm sinh lời những gì chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho chúng ta hôm nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và kể cả của cải vật chất nữa, chúng ta đã nhận được gì thì chúng ta phải sinh lời gấp đôi gấp ba những cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội nhưng vì lười biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy, còn có những người khác họ đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và cho gia đình của mình.
Bài đọc một cho thấy vốn liếng Thiên Chúa trao cho con người nói chung và cho mỗi người nói riêng là phù với khả năng mỗi người. Vũ trụ này, trái đất này cùng mọi sinh vật tài nguyên khoáng sản trong đó là của Thiên Chúa, do Chúa dựng nên và làm chủ, thế mà Thiên Chúa đã trao tặng hoàn toàn cho con người, với chỉ một mong muốn là con người làm cho nó ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Không chỉ trao cho con người tài sản vật chất, Thiên Chúa còn làm nên một vườn Êden, vườn thượng uyển của Chúa, là nơi và là tình trạnh hạnh phúc, cũng được Thiên Chúa trao cho con người làm chủ và chịu trách nhiệm chăm sóc cả khu vườn ấy và cả vũ trụ này. Adam Eva tổ tông của chúng ta đã đứng ra nhận tài sản của Thiên Chúa, nhưng hai ông bà cũng không khác gì người đầy tớ lãnh một nén bạc, đã chôn dấu tài sản của Thiên Chúa, đã làm tổn hại đến tài sản là hạnh phúc, đã hủy hoại sự cân bằng trong vũ trụ và trong tâm hồn mình, làm cho vũ trụ nên gai góc và chai đá vì tội bất tuân, nghì ngờ Thiên Chúa và phản bội lại sự tín trung, nên đã để mình và con cháu bị loại ra ngoài.
Bài đọc một cũng còn cho thấy rằng thiên Chúa của chúng ta như một người thợ, Ngài cũng hăng say tận tụy làm việc để tạo dựng nên vũ trụ, đặc biệt Thánh kinh diễn tả Thiên Chúa như người nghệ sỹ làm việc đổ mồ hôi để tạo nên tác phẩm tuyệt đẹp là con người. Như thế cho thấy rằng nếu thiên chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn làm việc, thì con người cũng phải biết làm việc và làm việc giúp chúng ta nên giống Thiên Chúa, và làm việc để đem lại sư tốt đẹp cho vũ trụ và sự no cơm ấm áo hạnh phúc cho con người, đó là chúng ta đang sinh lời cho Thiên Chúa và đang cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và tô điểm cho vũ trụ này thêm tốt hơn, xin nhắc lại là làn cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn. Như thế khi chúng ta hủy hoại mội trường xung quanh, làm cho nó ra ô nhiễm bẩn thỉu là chúng ta đã không trung tín với Thiên Chúa và gây tổn hại đến tài sản của Ngài.
Không dừng lại ở đó việc làm và làm việc còn là cách thế để chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và sự tín trung của chúng ta với Chúa, và còn là để có điều kiện chúng ta thực thi đức bác ái. Thánh Phaolô còn nhắc cho chúng ta một thái độ làm việc khác quan trọng hơn là làm ăn tìm kiếm của cải vật chất để giúp tự mình nuôi sống bản thân, làm tăng phẩm giá con người và còn là để chia sẻ giúp đỡ những người thiếu thốn vì: Cho thì có phúc hơn là nhận. Mỗi người đã nhận lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa, chúng ta cũng cần phải biết rộng mở đôi tay để cho đi và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, ngày Mồng Ba Tết là ngày thánh hóa công ăn việc làm, có nghĩa là chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết thánh hóa công việc làm của mình, cho chúng ta có việc làm tốt, và giúp chúng ta sống và làm việc theo giáo huấn của chúa, làm việc trong công bình và bác ái, người chủ thì biết tôn trọng sự công bằng và quyền lợi người thợ, người thợ cũng phải biết tôn trọng quyền lợi của chủ để tất cả mọi người làm việc trong sự ý thức rằng Thiên Chúa đã tín nhiệm và trao phó tài sản của Ngài cho ta, và chúng ta chỉ là người quản lý nên phải biết tận dụng cơ hội và khả năng Chúa ban và làm việc hết mình trong tinh thần yêu mến tương thân tương ái.
Cầu chúc cho mọi người có được công việc làm như mong muốn và làm việc thật hiệu quả. Amen
15. Thánh hóa công việc làm
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng 3 Tết, Giáo Hội Việt Nam mời gọi mọi người cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn. Lời Chúa trong Tin Mừng Thánh Luca, tường thuật việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “những người đầy tớ và những yến bạc” để dạy dỗ các đồ đệ của mình nhiều điều, liên quan đến công việc làm ăn:
Thứ nhất, Chúa đưa ra dụ ngôn để nhắc nhở các đồ đệ, không phải là “số các yến bạc được trao bao nhiêu”, mà là “những người đầy tớ đã sử dụng chúng như thế nào”. Người lãnh năm nén đã đi làm lợi năm nén khác, người lãnh hai nén làm lợi hai nén khác, riêng người lãnh một nén lại đem chôn. Tất nhiên ông chủ khen hai người đầu và nổi giận vì cách thế biếng nhác của người cuối cùng kia. Ta thấy người thứ nhất và thứ hai khác nhau về số các yến bạc, nhưng giống nhau ở chỗ đã mạnh dạn đem các nén bạc được trao ra sử dụng mặc dù chưa biết thắng bại ra sao. Riêng người cuối cùng không bắt tay vào việc, không tin vào sự nâng đỡ của ông chủ, và rồi đã đem chôn đi cái mình được trao, cái mình đã lãnh nhận. Quan sát ba người đầy tớ ta thấy: người ta không bằng nhau ở “số lượng” nhưng bằng nhau ở “nỗ lực”. Nếu so “số lượng nén bạc” được trao của người thứ nhất và người thứ hai chắc chắn ta thấy khác nhau, nhưng “nỗ lực công việc” và phần thưởng danh dự dành cho hai người chắc chắn giống nhau.
Hẳn điều nhắc nhở này cho các đồ đệ, cũng là điều nhắc nhở mỗi người chúng ta, số yến bạc là các khả năng Chúa trao cho mỗi người rất khác nhau. Có lẽ Chúa chẳng đòi hỏi gì nhiều, Chúa chỉ đòi hỏi mỗi người hải nỗ lực cố gắng làm việc trong tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa.
Thứ hai, dụ ngôn ấy, Chúa cũng nhắc nhở các đồ đệ là: phần thưởng dành cho người hoàn tất công việc được giao cách tốt đẹp, là người đó được giao thêm công việc mới và được hưởng niềm vui hạnh phúc với chủ, chứ không phải là người đó sẽ nghỉ ngơi. Hình phạt dành cho người biếng nhác là ngay cả cái công việc anh ta có, bây giờ cũng bị lấy đi và trao cho người đã có.
Quà tặng cũng như phần thưởng, Chúa chỉ dành cho những người đã nỗ lực cộng tác với Chúa. Và như thế, Chúa sẽ trao thêm cho họ nhiều khả năng khác đang khi họ thi hành điều Chúa muốn.
Sau cùng, qua dụ ngôn Chúa nhắc nhở các đồ đệ là: những khả năng được đem ra sử dụng sẽ phát triển và còn mãi, khả năng cất kỹ sẽ mai một và sẽ mất đi. Ví như bạn có khả năng hội họa, khả năng đàn nhạc,… nếu bạn đem ra sử dụng chắc chắn nó sẽ được thăng hoa, nhưng nếu chôn vùi bạn sẽ đánh mất nó.
Quý vị và các bạn thân mến,
Ngày hôm nay mùng 3 Tết, ngày lễ cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn của chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Chúa đã luôn nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cám tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho mỗi người các nén bạc khác nhau. Nhưng chúng ta cũng xin ơn Chúa và cộng tác với Chúa để làm phát triển các yến bạc mà Chúa đã trao vào tay chúng ta. “Ai trung tín trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn”.
Lạy Chúa,
Đôi lúc trong cuộc sống, chúng con chưa nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, nhưng chúng con lại hay kêu trách Chúa, khi so sánh mình với người khác. Đôi lúc chúng con biếng nhác, nhưng lại ưa đòi phép lạ. Đôi lúc chúng con không xứng đáng Chúa trao những nén bạc lớn, vì thái độ thiếu nhiệt thành của chúng con.
Chúng con xin lỗi Chúa, và xin Chúa đỡ nâng chúng con.
Xin ban cho chúng con có công ăn việc làm ổn định, đời sống an bình tươi vui.
Amen.
16. Giọt mồ hôi có Chúa (Mt 25, 14-30) (Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng)
Phụng Vụ Lời Chúa và các lời nguyện trong thánh lễ hôm nay nhắc nhớ chúng ta về bản chất và ý nghĩa công ăn việc làm của con người. Thiên Chúa đặt mỗi người vào một khu vườn phù hợp với họ như ruộng đồng, nhà máy, phòng thí nghiệm, giảng đường, sân khấu, … để thực hiện nhiệm vụ cao cả là hoàn thành công trình sáng tạo của Người (BĐ1). Tuy vậy, con người không lao tác một mình và cho bản thân mình, nhưng cần dùng thành quả lao động để chia sẻ và đỡ nâng những ai túng cực (BĐ2). Muốn vậy, chắc chắn con người phải siêng năng làm việc, phải dùng hết sức lực và trí khôn Chúa ban để sinh lợi theo ý Người muốn (BĐ3).
Nói cách khác, lao động của con người được Thiên Chúa chúc phúc và mặc cho một cùng đích siêu việt: làm việc không chỉ để có phương tiện độ nhật, không chỉ để sống hạnh phúc trên trần gian này, mà còn để đạt được kho tàng vĩnh viễn và hạnh phúc viên mãn, nơi mối mọt không đục khoét và kẻ trộm không lấy đi được. Thành ra, những giọt mồ hôi con người đổ ra khi vất vả làm lụng, khi khổ sở kiếm sống, … là những giọt mồ hôi có Chúa, những giọt mồ hôi đã được Cha Nhân Lành thấu biết và đếm cả rồi. Và khi đó, chúng ta lao động, làm ăn, bán buôn, nghiên cứu, … khác với những người không nhìn biết Thiên Chúa!
Thực vậy, thiên hạ cầu trời khấn phật, coi tướng số, cúng kiếng, xin xăm, … cho công việc được thành đạt. Có người lọc lừa, dối trá, thủ đoạn để cầu lợi; nhưng cũng có người quảng đại chia tài sản mình cho người nghèo; có người dành cả đời cống hiến cho xã hội, cho cộng đồng, …
Người Công giáo chúng ta thì xin lễ, xin khấn,… để Chúa thánh hóa và chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng ta…Chúng ta chia sẻ, đỡ nâng biết bao người anh chị em nghèo khổ, bệnh tật, … bằng chính lòng bác ái và đồng tiền thu được trong lao công vất vả. Nhưng thật lòng mà nói, cũng đã có những cạnh tranh không lành mạnh, những mánh khóe, những giành giựt, những đấu khẩu, khấu thủ với nhau trên thương trường, nơi đồng ruộng hay trên nương rẫy, …. Và như thế, vô tình hay cố ý, chúng ta đã tự mâu thuẫn với chính mình, tự trở nên hợm hĩnh trước Chúa: chúng ta mời Chúa ra chỗ khác, cho con tự xoay sở, tự làm việc theo cách của con, dù trước đó chúng ta đã hết lòng cầu nguyện, xin khấn, xin lễ … để phó thác vụ việc cho Chúa.
Nói một chút về những tiêu cực trong tiết xuân tươi mới, để chúng ta kịp lắng lòng lại, kịp giật mình tự hỏi: những giọt mồ hôi tôi đổ ra đêm ngày để kiếm miếng cơm manh áo; để đem lại tương lai tươi sáng cho con cái; để tìm phồn vinh cho gia đình, cho đất nước; … có sự đồng hành của Chúa không? Có giống với giọt mồ hôi của anh thợ mộc làng Nadarét xưa không?
Ước gì trong những rộn rã của hoa quả, của lễ vật người người dâng Chúa Xuân hôm nay, chúng ta nhận ra và khao khát một điều: Xin cho những giọt mồ hôi con đổ ra là giọt mồ hôi có Chúa, hòa vào những giọt mồ hôi của Chúa, mang đậm ước muốn và phúc lành của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi lao tác cật lực với sức khỏe, với trí khôn, nhưng luôn tín thác vào Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tính toán công mua sức bán, nhưng luôn tôn trọng sự thật và luật công bằng của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tìm kiếm tiền bạc như những đầy tớ tốt, chứ không phải là những ông chủ khắc nghiệt.
Và, giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi được tích cóp từng ngày, qua năm qua tháng, … để cuối cùng, góp thành một bể yêu thương cho ta vui đùa ngụp lặn, gột rửa ta nên sạch trong, và mở ra dòng chảy vào Biển Yêu Thương của Đấng đã chấp nhận bước xuống Biển Đời lem lấm phận người để thánh hóa, để thay dòng đổi lượng cho nó đượm hương Thiên Đàng và in bóng Người Cha yêu thương đang mở rộng vòng tay đón đợi ta.
** 17. THÁNH HÓA CÔNG VIỆC
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Chính phủ đang cố gắng đưa nước Việt Nam mình từ tình trạng nông nghiệp lạc hậu để bước qua giai đoạn hiện đại, và dần dần sẽ biết đất nước thành một quốc gia công nghiệp. Ước mơ là như thế, còn khi nào thực hiện được thì chưa biết, nhưng có một thực tế là số lượng dân cư bỏ ruộng để lên thành phố làm việc ngày càng gia tăng. Vì không được chuẩn bị cho nếp sống và sự phức tạp của đô thị, nên những người này khi nhập cư đã gặp không ít khó khăn và rủi ro, ngược lại tình trạng nông dân bỏ nông thôn lên thành phố đang kéo theo việc nông thôn hóa thành phố từ đời sống văn hóa đến những vấn đề xã hội.
Trong khi đó tình hình kinh tế xã hội của chúng ta chưa có gì là khả quan lắm, năm vừa qua hàng loạt công ty đã phải đóng cửa, kéo theo hàng triệu người thất nghiệp. Tìm được việc làm vào thời điểm này thật khó khăn, và tìm được việc như ý muốn càng khó khăn hơn nữa, chưa kể vấn đề lương bổng có hợp lý hay không. Cuối năm vừa qua có những công ty thưởng tết cho công nhân bằng nửa tháng lương, bằng mấy chai nước mắm, bằng vài gói giấy vệ sinh…
Ngày nay, công ăn việc làm vẫn là một trong những lo toan hàng đầu của những người trong độ tuổi lao động, vì không ai muốn mình trở thành người vô dụng ăn bám xã hội. Ngược lại làm việc cũng đang là vấn đề gây mệt mỏi cho nhiều người, vì có nhiều người đang bị trói buộc với công việc, khiến họ cảm thấy cuộc sống gò bó, nhàm chán, cuộc sống như một cái máy đã được lập trình ngày nào cũng như ngày đó, khiến cho nhiều người cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng vì công việc.
Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta đến với Chúa, phó dâng công việc và những dự tính của năm mới cho Chúa để xin Chúa chúc lành và xin Chúa giúp chúng ta biết làm việc như thế nào cho đẹp ý Chúa. Chúng ta có thể kinh nghiệm thấy: cùng một công việc và điều kiện làm việc, nhưng công việc ấy trở nên vui tươi phấn khởi hay trở nên nhàm chán là tùy thuộc ở thái độ của người đó với công việc, hay nói khác hơn đó là tùy thuộc người đó làm việc vì mục đích gì và với ý nghĩa nào.
Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy những giá trị của công việc theo quan điểm Kitô giáo. Bài đọc một sách Sáng Thế cho thấy, làm việc không phải là một hình phạt, cũng không phải bởi hậu quả tội lỗi, mà khi làm việc chúng ta được trở nên cộng tác viên của Thiên Chúa. Thiên Chúa chúng ta tôn thờ không phải là một vị thần bất động mà là một vị Thiên Chúa làm việc liên tục. Kinh Thánh đã dùng những hình ảnh hết sức con người để diễn tả về một Thiên Chúa như một người thợ, một nghệ nhân, một người nông dân, miệt mài với công việc sáng tạo nên vũ trụ này. Ngài dựng nên mặt trời mặt trăng cùng cây cối, muôn loài động vật và thực vật, Ngài cho nước phát sinh từ lòng đất để tưới giội cho cây cối xanh tươi, Ngài làm cho vủ trũ xoay vần khiến thời tiết mùa màng thuận lợi cho con người, cho cây kết trái nảy mầm. Sau mỗi công việc tạo dựng, Thánh Kinh khẳng định: Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài đã dựng nên đều tốt đẹp. Với sự khẳng định này cho thấy rằng mọi vật, mọi loài và vũ trụ thiên nhiên đều tốt đẹp ngay từ lúc ban đầu. Trong khung cảnh tốt đẹp đó, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, đặt con người vào vườn địa đàng để con người được hưởng những kỳ công của Thiên Chúa, làm chủ mọi loài và tiếp tục canh tác, cũng như làm cho vũ trụ mỗi ngày được nên hoàn hảo hơn. Như vậy khi chúng ta làm việc, đừng làm như một kẻ nô lệ phải làm, mà hãy làm việc và bắt đầu mỗi ngày mới bằng tư thế của một một cộng tác viên của Thiên Chúa, được Thiên Chúa tín nhiệm cậy nhờ, và hãy làm vì sự hãnh diện đó và vì lòng yêu mến và biết ơn Chúa.
Làm việc vì lòng yêu mến biết ơn và cộng tác với Chúa, là thái độ Chúa Giêsu muốn nhắc cho chúng ta trong câu chuyện của bài Tin Mừng. Thiên Chúa như một ông chủ sắp đi xa đã tin tưởng trao phó tất cả gia sản cho những đầy tớ: Ông cho người này năm nén, người ka ba nén, người khác nữa một nén tùy theo khả năng mỗi người. Điều đó cho thấy Thiên Chúa trao cho ai điều gì, việc gì là theo khả năng của họ, Thiên Chúa không không bất công, và không muốn làm khổ ai khi trao cho họ những trách nhiệm vượt khả năng. Như thế có nghĩa là những hoàn cảnh điều kiện chúng ta đang có, đang được lúc này, là phù hợp với khả năng của mỗi người, khi chúng ta có khả năng hơn, Thiên Chúa lại trao cho ta nhiều hơn.
Tuy nhiên được trao vốn nhiều hay ít điều đó không quan trọng cho bằng mỗi người có thái độ nào khi đón nhận những điều kiện và những nén vàng Chúa trao. Câu chuyện cho thấy người lãnh năm nén ngay lập tức làm ăn sinh lời được năm nén khác, người lãnh ba nén cũng vậy, còn người lãnh một nén thì lại sợ hãi và lười biếng, than thân trách phận, đem chôn vùi số vốn của mình mà không làm gì cả. Đến ngày Thiên Chúa đòi mỗi người tính toán lại sổ sách cuộc đời, khi ấy, người lãnh năm nén đã sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng sinh lời ba nén khác, hai người này đã khiến ông chủ rất vui, đã khen thưởng cho hai người này: Anh là đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.
Trái lại, người lãnh một nén đã thể hiện thái độ tiêu cực của anh. Anh không hề biết ơn hoặc yêu mến chú, anh mang trả lại cho chủ với lời lẽ cay cú: Tôi biết ông là người hà khắc gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát, vì thế tôi sợ nên đem chôn giấu nén vàng của ông, đây của ông tôi trả lại ông. Ông chủ đã không chấp nhận như thế, nên đã gọi anh là tên đầy tớ xấu xa và biếng nhác. Ông chủ còn ra lệnh lấy lại những gì ông đã trao cho hắn để cho người đã có mười nén, còn tên đầy tới lười biếng đó thì bị quăng ra ngoài. Chứng tỏ rằng, vì người đầy tớ này đã không làm việc, và đã không có lòng yêu mến biết ơn chủ đã trao vốn cho mình, mà anh còn quay lại trách móc ông chủ, và vì thế anh tự biến mình thành một kẻ nô lệ thay vì là một người được yêu thương tin nhiệm.
Thưa quý OBACE, trước sự nhắc nhở của Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ dự đinh làm việc gì và làm việc như thế nào trong năm mới này?
Những ngày đầu năm cũng là ngày người ta tìm kiếm và quyết định cho công việc làm ăn trong năm mới, và khi gặp nhau, mọi người đều cầu chúc cho nhau năm mới bình an, mạnh khỏe và công ăn việc làm được thuận lợi. Chúc cho nhau như thế là cũng ngầm hiểu rằng bình an, sức khỏe và công ăn việc làm thuận lợi không phải do con người đem lại, mà là do Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người.
Như thế, chúng ta hãy làm việc trong tinh thần cậy trông tin tường nơi Chúa, biết phó thác công việc cho Chúa. Vì là cộng tác viên của Thiên Chúa, nên hãy làm việc với niềm tự hào là con Chúa, đừng kiêu căng cậy dựa vào sư tài khéo của mình mà vô ơn đối với Thiên Chúa, cũng đừng làm việc với sự chản nản oán trách Thiên Chúa, vì Thiên Chúa trao ban cho mỗi người những nén bạc tùy theo khả năng của họ. Nén bạc Chúa đang trao cho mỗi chúng ta là thời giờ, là trí tuệ, đừng phí phạm thời giờ vào những chuyện chơi bời lêu lổng buông thả, vì Chúa sẽ không thêm cho ai một phút nào trong 24 giờ một ngày, hãy sử dụng khả năng trí tuệ Chúa ban, để học hỏi, để suy nghĩ và để biết chọn lựa phân biệt điều tốt điều xấu, điều đúng điều sai. Nén bạc Chúa trao còn là sức khỏe, là tuổi trẻ, là nghị lực và tất cả những điều kiện hiện tại, hãy cố gắng để làm cho cuộc sống của mình nên tốt đẹp hơn, làm cho mình mỗi ngày nên tốt đẹp xứng đáng với phẩm giá con người và con Chúa hơn.
Đồng thời hãy làm việc với tinh thần tôn trọng thiên nhiên và môi trường sống, vì trái đất và vũ trụ này là tác phẩm của Thiên Chúa, đừng hủy hoại nó, nhưng hãy làm cho môi trường sống thêm sạch sẽ hơn, xinh đẹp hơn. Khi chúng ta sống và làm việc như thế, là chúng ta đang cộng tác với Thiên Chúa, để làm cho cuộc sống và vũ trụ thêm tươi đep hơn theo ý Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho những toan tính và công việc của mọi người và cho công việc được thành công theo ý Chúa Amen.
** 18. Suy niệm Lời Chúa Ngày Mồng 3 Tết
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Thiên Chúa ban cho mỗi người một nén bạc. Nén bạc tượng trưng cho khả năng, cho điều kiện của mỗi người khác nhau. Thế nên, phải biết “liệu cơm gắm mắm” cho phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Đừng mơ tưởng những sự viễn vông, vì điều đó vượt ngoài khả năng. Đừng làm những việc không trong tầm tay kẻo uống phí thời gian, vì uổng công vô ích.
Có một con Dê tự tách ra khỏi đàn, bị con Sói đuổi theo. Dê quay lại, nói với Sói:
- Thưa ngài, tôi biết thân phận mình phải hiến dâng cho ngài. Nhưng để ngài thưởng thức món ăn đựơc ngon, ngài hãy thổi sáo và tôi múa nhảy cho mà xem.
Sói bắt đầu thổi sáo cho Dê nhảy quay cuồng. Lũ chó nhà nghe tiếng huyên náo bèn nhảy ra đuổi Sói.
Sói vừa chạy vừa quay đầu lại nói với Dê:
- Ta chịu thua ngươi vì ta vốn anh hàng thịt lại giở trò làm nhạc công, nên bỏ lỡ mất thời cơ.
Hóa ra khi chúng ta làm những việc ngoài khả năng thì chúng ta chỉ là một anh hề mà thôi. Có khi vất vả mà chằng nên công trạng gì. Thế nên, hãy nắm bắt những gì mình có thể làm được và trong tầm tay của mình. Đừng làm những chuyện “vá trời” mà chẳng được công ích gì! Hãy làm những chuyện trước mắt, những chuyện cần làm ngay mới đem lại hiệu quả cao. Con sói đã sổng mất con mồi khi làm việc không đúng khả năng của mình. Con người cũng sẽ thất bại nếu không biết làm đúng chuyên môn, hay đúng khả năng của mình.
Hôm nay, ngày Mồng Ba Tết, chúng ta hướng lòng lên Đấng Tạo thành để cúi xin Ngài chúc phúc cho công việc một năm được thuận buồm xuôi gió. Chúng ta tin rằng “Mưu sự tại nhân, Thành sự tại Thiên”. Con người chúng ta dù mưu lược đến đâu! Dù cần cù đến đâu mà không có sự chúc phúc của Thiên Chúa thì cũng chỉ là “dã tràng xe cát biển Đông” mà thôi! Hơn nữa, sự vất vả lao nhọc của chúng ta nếu được hỗ trợ bởi ơn trên phù hộ, chắc chắn công việc của chúng ta sẽ được thành toàn, được viên mãn theo dự định.
Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khả năng, tựa như mỗi đóa hoa làm cho vườn hoa đa sắc. Cuộc đời con người nếu biết dùng khả năng của mình cũng vẽ lên bức tranh đẹp cho cuộc đời. Sự cần cù lao động cũng là dịp để chúng ta thể hiện vai trò cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người tiếp tục hoàn thiện công trình mà Ngài đã tạo dựng. Sự hoàn thiện đòi con người phải cần mẫn, phải sáng tạo. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn đòi chúng ta quy hướng về Ngài, Ngài vẫn đòi chúng ta trao phó mọi sự trong tay Ngài, tựa như người con chỉ làm theo sự xếp đặt của cha mẹ, dầu vẫn phải sáng tạo và làm tốt hơn cho công việc.
Ngày đầu năm chúng ta hãy dâng cho Chúa những công việc và dự định của chúng ta. Xin Chúa hãy làm vơi đi những gánh nặng cuộc đời bằng ân sủng của Chúa. Xin Chúa hãy chúc lành cho những dự định của chúng ta sớm được hoàn thành. Chúng ta tin vào Thiên Chúa quyền năng. Chúng ta tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ chăm sóc từng cuộc đời chúng ta theo lòng nhân ái của Ngài. Trong niềm tin đó, chúng ta hãy để cho Ngài an bài mọi sự theo thánh ý Ngài, còn chúng ta hãy làm mọi sự theo khả năng của mình. Amen.
** 19. MỒNG BA TẾT KỶ HỢI 2019: THÁNH HÓA CÔNG VIỆC
LÀM VIỆC VỚI LÒNG YÊU MẾN CHÚA--VÀ VỚI TINH THẦN TRÁCH NHIỆM
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc vẫn chưa hạ nhiệt. Việt Nam là quốc gia lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng không nhỏ trong vấn đề làm ăn với Hoa Kỳ. Cuối năm qua, tổng kết lại tình hình kinh tế cả nước, chính phủ vui mừng báo cáo tổng thu nhập quốc gia đạt được hơn 7%, vượt với chỉ tiêu đề ra. Theo con số này, có nghĩa là kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên trong thực tế, nông dân Việt Nam vẫn cứ bị tình trạng được mùa mất giá, bị ép giá. Các nhà kinh doanh đang đối diện với rất nhiều khó khăn, những người lao động lại càng khó khăn hơn vì hàng hóa tiêu dùng tăng giá. Ngày đầu năm dương lịch, ngân hàng chính thức tăng tỷ giá đola, có nghĩa là đồng tiền Việt lại bị trượt giá; nhiều ngân hàng lớn rơi vào tình trạng thiếu vốn phải trông chờ nhà nước bơm tiền để cầm cự. Chính phủ có kế hoạch tăng nhiều loại thuế phí và bán bớt tài sản công để có tiền chi tiêu… những điều đó cho thấy bức tranh kinh tế hình như không mấy lạc quan. Những ngày cuối năm, có dịp hỏi thăm các doanh nghiệp trong xứ về tình hình làm ăn, thì đều có chung một tình trạng đó là sản xuất chậm, hành hóa khó bán…
Thưa quý OBACE, sau những ngày nghỉ tết mọi người đã nghĩ ngay đến công việc làm ăn trong năm mới: Không biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào để có lợi nhuận tốt, chu cấp cho các nhu cầu của gia đình. Ngày mồng ba tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta xin Chúa thánh hóa, chúc lành, cho những toán tính, dự định và công việc làm ăn của mỗi người, mỗi gia đình trong năm mới. Lời Chúa hôm nay cũng chỉ cho chúng ta biết phải làm việc trong tinh thần nào, để qua công việc hằng ngày, chúng ta có thể sống thánh và thánh hóa gia đình mình.
Đoạn sách Sáng Thế mặc khải cho thấy: Việc làm và làm việc là một vinh dự Chúa ban, để chúng ta được cộng tác với Chúa làm cho cuộc sống và vũ trụ ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Thiên Chúa dựng nên vũ trụ thật xinh đẹp, tốt lành. Thiên Chúa vì yêu thương con người, đã trao tặng tuyệt tác của Ngài cho con người, để con người tiếp tục duy trì, bảo vệ và góp phần làm cho vũ trụ xinh đẹp thêm. Sách Sáng Thế diễn tả: Thiên Chúa trồng một vườn cây ơ Eđen về phía đông và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Qua câu Kinh Thánh này cho chúng ta thấy Thiên Chúa của chúng ta, được so sánh như một nông dân, tự tay Ngài trồng một khu vườn. Thiên Chúa phán một lời là có tất cả, nhưng đoạn Kinh Thánh này lại diễn tả Thiên Chúa như một người luôn làm việc, Ngài lấy bùn đất mà nặn nên con người. Như thế, có nghĩa là khi chúng ta làm việc, không chỉ là cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và làm cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn, mà khi làm việc, chúng ta sẽ làm cho mình trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Kinh Thánh còn kể tiếp: Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen để cầy cấy và canh giữ đất đai. Như thế có nghĩa rằng, Thiên Chúa đã tín nhiệm con người, trao cho con người quyền quản lý và canh giữ vũ trụ này. Thiên Chúa không muốn con người sống như một vị khách đi thăm quan khu vườn vũ trụ, nhưng là người làm việc và có trách nhiệm bảo vệ vũ trụ này. Với cách diễn tả bình dân như trên, Sách Sáng Thế chuyển tải những nột dung giáo lý thật sâu xa và nhấn mạnh đến phẩm giá cũng như trách nhiệm của con người đối với vũ trụ. Khi con người làm việc với hết khả năng, trách nhiệm của mình là đang thi hành ý muốn của Thiên Chúa từ khi tạo dựng vũ trụ.
Khi hiểu được những lời Kinh Thánh nói trên, chúng ta thấy rằng: lao động làm việc ngay từ ban đầu, không phải là hình phạt của Thiên Chúa, cũng không phải là cách Thiên Chúa dùng để đày ải con người. Lao động nó chỉ trở thành nỗi nhọc nhằn cho con người, từ sau khi con người phản bội Thiên Chúa. Con người muốn tự mình định đoạt tất cả, làm chủ tất cả, kể cả tương lai của mình, mà không cần Thiên Chúa, khiến cho trật tự của vũ trụ bị đảo lộn. Con người trở nên tham lam ích kỷ, vũ trụ và muôn vật trở nên thù nghịch với con người, đất đai trở nên gai góc và sỏi đá, con người phải đổ mồ hôi mới có miếng ăn.
Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thái độ làm việc theo gương của Ngài, đó là làm mọi công việc trong tình yêu mến và tín thác nơi Chúa. Khi làm việc vì lòng yêu mến Chúa thay vì sự tham lam ích kỷ, chúng ta sẽ tìm lại được niềm vui trong công việc và qua công việc Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta nên thánh.
Chúa Giêsu đã kể câu chuyện các đầy tớ và những nén bạc được trao để nói lên thái độ chúng ta phải có khi làm việc. Trước hết, Thiên Chúa như ông chủ trong câu chuyện, Ngài yêu thương và tín nhiệm mỗi người, Ngài trao gửi cho mỗi người “tài sản” của Chúa. Những nén bạc này chính là những khả năng, điều kiện, thời giớ, sức khỏe, trí tuệ và các cơ hội vv, tất cả là của Chúa. Chúa lại trao cho kẻ nhiều người ít không phải vì Chúa không tín nhiệm hoặc không công bằng, nhưng tùy theo khả năng riêng của họ: Người thì năm nén, người hai nén, người một nén. Điều này có nghĩa rằng, Thiên Chúa không đòi chúng ta làm việc quá khả năng, nhưng Ngài chỉ mong chúng ta làm việc hết mình, với hết trách nhiệm, hết khả năng vì lòng yêu mến Chúa.
Câu chuyện cho thấy thái độ của những đầy tớ khác nhau: Lập tức, người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn và sinh lời được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng làm như vậy. Điều này cho thấy, các đầy tớ này nhận thấy chủ thương mình, tin mình, nên họ cũng không muốn phụ lòng chủ, họ không để mất thời gian so đo tính toán, không đứng đó ghen tị phân bì. Nhưng ngay lập tức, họ đem số vốn Chúa cho để đi làm ăn và sinh lợi. Trái lại, người lãnh một nén thì chần chừ, đắn đo cân nhắc. Cuối cùng, vì lười biếng, để an phận, anh đã đi đào lỗ chôn giấu nén vàng Chúa trao.
Thiên Chúa là ông chủ quảng đại không quan tâm đến chuyện lời hay lỗ, nhưng ông quan tâm đến việc anh sử dụng khả năng và thái độ của anh đối với Chúa và đối với số vốn trong tay. Khi chủ trờ về, người lãnh năm nén và hai nén đến trình lại cho chủ số lời tương đương. Thiên Chúa không thu lại số vốn và số lời Chúa đã cho họ, nhưng Chúa khen họ: Anh là người tài giỏi và trung thành. Chính sự lanh lợi, biết sử dụng khả năng trí tuệ và sức lực để làm việc và trung thành với Chúa là điều được Chúa khen. Vì sự trung thành này, Thiên Chúa lại còn quảng đại, tín nhiệm trao gấp nhiều lần hơn nữa cho họ: Được trao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ trao nhiều cho anh. Thiên Chúa còn cho những kẻ trung thành được vào hưởng niềm vui với Chúa: Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.
Còn người lãnh một nén trở lại trình diện Chúa với những suy nghĩ hết sức tiêu cực. Chủ chưa hỏi anh câu nào, thì anh đã càm ràm trách móc chủ: Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế tội sợ, đem chôn dấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây. Người đầy tớ này thiếu hẳn lòng yêu mến và biết ơn ông chủ vì sự tín nhiệm của ông. Trái lại, anh mang trong mình sự sợ hãi, nhìn ông chủ như người hà khắc keo kẹt. Để biện minh cho sự lười biếng của mình, anh chôn giấu nén bạc dưới đất để trả lại cho ông nguyên vẹn. Mặc dù trả lại nguyên vẹn nén bạc, nhưng ông chủ không hài lòng về cách cư xử này. Chủ đòi anh, ít ra cũng phải động não một chút, chứ không thể thụ động lười biếng, phải sinh lời, cho dù lãi suất thấp, chứ không phải là không làm gì với nén vàng Chúa trao. Cuối cùng, không những tên đầy tớ lười biếng này bị phạt, mà còn bị lấy lại những gì chủ đã trao phó, vì hắn đã phụ lòng tin của chủ.
Qua sự chỉ dạy của Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người biết tích cực siêng năng làm việc, tận dụng hết mọi khả năng và cơ hội Chúa ban để sinh lời vốn liếng Chúa trao. Xin cho chúng ta làm việc trong tâm tình biết ơn, yêu mến đối với Thiên Chúa, làm việc với tất cả trách nhiệm, Chúa sẽ chúc phúc cho công việc và biến nó trờ thành niềm vui và đem lại hạnh phúc ơn cứu độ cho chúng ta. Amen.
** 20. MỒNG BA TẾT MẬU TUẤT 2018: THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Trong Tiếng Việt có nhiều từ ghép, nhưng có lẽ các từ được ghép với chữ “ăn” là nhiều nhất: ăn tết, ăn gian, ăn cắp, ăn trộm, ăn nói,.. công ăn – việc làm. Sở dĩ chữ ăn được dùng nhiều, có lẽ vì “ăn” là nhu cầu căn bản của con người, nó chi phối, gắn liền với đời sống của con người và cũng là mục tiêu cho nhiều hoạt động của con người. Trong năm vừa qua, tòa án Việt Nam đã xét xử nhiều vụ làm ăn bất chính, ăn gian của công, lên đến hàng ngàn tỉ đồng. Những kẻ có tội phải lãnh những mức án hết sức nặng nề. Trong số các phạm nhân, có những người từng là quan chức cao cấp đã làm ăn không minh bạch, có những kẻ vì hám lợi trước mắt mà đầu tư ồ ạt để rồi thua lỗ nên bị xử phạt. Tình trạng ăn gian, làm gian, làm dối, ăn thật làm giả, đang tràn lan trong xã hội, đến độ có người còn nói: “Ở Việt Nam, nếu cứ khui ra sòng phẳng, chẳng có ai làm giàu mà không ăn gian”.
Việc làm ăn ngày nay đã trở thành việc ăn gian làm dối, lừa đảo. Việc làm và làm việc đã trở thành mưu mô xảo trá để kiếm lợi. Người ta đã đánh mất cái đẹp ban đầu của công việc và việc công. Công việc và việc công, việc làm và làm việc đã bị nhuốm màu gian dối, bất chính. Vì thế, ngày mồng ba tết, Giáo hội mời gọi chúng ta vượt lên trên cái phàm tục thông thường, bằng cách thánh hóa các công việc của mỗi người, biến công việc thường ngày trở thành việc thánh và thành phương thế để nên thánh, đó là mục đích, ý nghĩa của ngày thánh hóa công ăn việc làm hôm nay. Như vậy, Giáo Hội không tổ chức ngày này, như ngày cầu may, hay cầu hên trong công việc, mà mời gọi mọi người biết tin tưởng vào Chúa khi làm việc và phó dâng việc làm hằng ngày cho Chúa để xin Chúa ban ơn lành.
Sách Sáng thế cho thấy, ngay từ đầu, khi tạo dựng nên con người và vũ trụ, Thiên Chúa đã tạo dựng chúng trong sự trật tự, hài hòa, xinh đẹp. Mặc dù được sống trong tình trạng hạnh phúc, vui hưởng thành quả công trình tạo dựng của Thiên Chúa, nhưng khi đặt con người vào vườn địa đàng, Chúa vẫn trao cho con người trách nhiệm phải lao động, canh tác. Việc lao động này, hoàn toàn là một lời mời gọi và là ân phúc Thiên Chúa ban cho con người, được cộng tác với Chúa trong việc bảo tồn và làm phát triển trái đất, vũ trụ, con người lúc đó làm việc với niềm vui và hạnh phúc. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, đất đai trở nên cằn cỗi, gai góc, chống lại con người, khiến cho việc lao động của con người trở thành vất vả, phải đổ mồ hôi và nước mắt để kiếm sống. Đồng thời, ma quỷ và tội lỗi đã đẩy con người đến chỗ kiêu căng, muốn chiếm trọn cả vũ trụ về tay mình và loại trừ Thiên Chúa ra khỏi vũ trụ trái đất. Chính sự kiêu ngạo đó, đã khiến việc làm của con người ngày càng trở nên nặng nề, vất vả hơn. Cũng vậy, dục vọng của con người trỗi dậy, ma quỷ xúi giục lòng tham nổi lên, khiến cho con người chỉ còn biết nghĩ đến phần lợi cho mình, chiếm hữu cho mình. Từ đó, việc lao động trở thành gáng nặng cho chính con người, vì họ làm việc mà không vui, sống mà không hạnh phúc, luôn phải đề phòng và tranh giành với người khác. Như thế, việc lao động là hợp tác với Thiên Chúa, là ân phúc cơ hội Chúa ban, đã bị con người làm hoen ố và biến nó trở thành gánh nặng cho chính mình và tổn hại đến người khác.
Ngày mồng ba tết, bắt đầu cho một năm làm việc mới, Giáo Hội mời gọi con cái mình, đừng để việc lao động trở nên phàm tục, mà cần phải thánh hóa chúng. Thánh hóa công ăn việc làm, là thánh hóa công việc lao động, làm ăn thường ngày, để trả lại cho nó ý nghĩa và mục đích thuở ban đầu Thiên Chúa đặt định, đó là những việc thánh thiện. Chúng ta thánh hóa công việc làm ăn bằng cách nào? Lời Chúa hôm nay soi rọi cho chúng ta: Làm việc trong tâm tình tạ ơn vì được cộng tác với Thiên Chúa và tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, phó thác thành quả lao động cho Chúa, cho dù kết quả đó như ý hay không như mong muốn. “Các con chớ áy náy lo lắng, mình sẽ ăn gì, uống gì hay lấy gì mà mặc”, nhắc nhở điều này, Chúa muốn chúng ta nhớ rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, đừng tưởng rằng chúng ta có nhiều khả năng, nhiều tài lực, chúng ta không cần Thiên Chúa, nghĩ như thế là tự kiêu, sai lầm. Chúa cũng không muốn chúng ta suy nghĩ theo kiểu dân ngoại, hoặc như kẻ kiêu ngạo, muốn giành tương lai của mình về cho mình quyết định, mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Ngày xưa bà Eva đã bị cám dỗ muốn mình trở nên như thần linh, muốn mình biết trước tương lai của mình và người khác, không cần Thiên Chúa. Bà đã gặp thất bại, đã rơi xuống vực sâu của ham muốn và bị chính sự ham muốn dục vọng dày vò hành hạ.
Chúa muốn ta thánh hóa công việc bằng cách vừa làm việc vừa tìm kiếm nước trời, hay đúng hơn trong khi làm việc thường ngày, vẫn dành ưu tiên cho việc tìm kiếm hạnh phúc nước trời. Vì, của cải và những nhu cầu vật chất, Thiên Chúa vẫn lo liệu cho chúng ta dùng đủ hàng ngày, như Chúa vẫn nuôi sống chim trời và cá biển, Ngài vẫn tô điểm cho cây cối, hoa cỏ muôn màu xinh tươi; chúng ta là con của Chúa không lẽ nào Chúa bỏ quên chúng ta. Nước trời và sự sống đời đời Chúa đã dành cho con người, Chúa còn ban ơn trợ giúp để mỗi người cần nỗ lực cộng tác với sự Chúa để vun đắp mỗi ngày, ngay trên trần gian này. Dạy như thế, Chúa muốn lưu ý chúng ta rằng, cho dù trong cuộc sống vất vả mưu sinh hoặc sung túc, thì cũng phải biết đặt cho mình thứ tự ưu tiên trong cuộc sống. Đặt Chúa và hạnh phúc nước trời là mục tiêu ưu tiên tìm kiếm trước hết và trên hết, còn công việc và chuyện ăn uống, dù cần nhưng cũng chỉ là thứ yếu mà thôi.
“Tiên vàn, các con hãy tim sự công chính và nước Thiên Chúa” Tìm sự công chính là “tìm” chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, “tìm” sống sao cho đẹp lòng Chúa. Như thế, thánh hóa công ăn việc làm, tức là mỗi người cần làm và ăn trong sự công chính, phù hợp với lề luật và giáo huấn của Chúa. Công việc của chúng ta sẽ trở thành việc thánh khi chúng ta loại bỏ khỏi công việc sự gian dối, bất công, gian ác và nhẫn tâm.
Hơn lúc nào hết sự gian dối đang lan tràn trong xã hội, không chỉ trong đời sống, lời nói, mà người ta gian dối trong hành động và công việc. Ngày nay, hàng giả, hàng gian, hành kém chất lượng đang tràn lan, đánh lừa người tiêu dùng, thu nhiều lợi nhuận. Những cách nói trúng mánh, trúng quả, trúng kèo thơm,… là mỹ từ che đậy cho những phi vụ làm ăn gian dối lừa lọc người khác, con người tìm lợi nhuận bằng mọi giá. Thiên nhiên là quà tặng chung của Chúa cho mọi người, vậy mà, có những nhóm vì lợi ích riêng, đã phá hủy, khai thác thiên nhiên đến kiệt quệ để thu lợi cho cá nhân. Chung quanh chúng ta, môi trường đang bị hủy hoại tàn bạo, nước sông ô nhiễm, khói bụi độc hại do con người thải ra, chính chúng ta đang phải chịu những tác động xấu từ việc làm đó.
Trong lãnh vực nông nghiệp, chăn nuôi, chế biến thực phẩm, nhiều người vì hám lợi, đang đầu độc và giết chết anh em bằng những hóa chất độc hại, gây bệnh tật, ung thư và nhiều thứ bệnh lạ khác. Hậu quả là chính chúng ta phải gánh chịu. Có người nói: "không có khi nào con đường từ bao tử đến nghĩa trang lại gần như lúc này” ăn gì cũng có chất độc, gây bệnh và chết người. Những việc làm gian ác như thế và hậu quả của nó, đều phát xuất từ lòng tham, sự ham muốn chiếm hữu thật nhiều và thống lĩnh thiên hạ, khiến cho chúng ta phải chịu hậu quả.
Trong ngày xin ơn Thánh Hóa Việc Làm hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người, mỗi gia đình có được công việc để có thể lo cho cuộc sống. Nhưng hơn hết, xin cho mỗi người biết làm việc trong tâm tình tạ ơn, cộng tác với Chúa, làm cho trái đất và cuộc sống thêm tốt đẹp hơn. Xin cho mỗi người dù làm việc gì cũng tôn trọng giới răn lề luật của Chúa, làm theo tiếng lương tâm nhắc bảo, để qua đời sống và công việc thường ngày, chúng ta góp phần làm cho Nước Trời hiện diện ngay tại trần gian này, qua một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, bác ái và yêu thuơng. Amen.
26/01 Chúa Giêsu rao giảng tin mừng nước trời
- Viết bởi Mt 4, 12-23
Chúa Giêsu rao giảng tin mừng nước trời.
Chúa Nhật 3 Thường Niên năm A. – MỒNG HAI TẾT CANH TÝ.
"Người vào Capharnaum để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã tiên báo".
Lời Chúa: Mt 4, 12-23
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!"
Nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.
Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Is 8,23b – 9,3; 1Cr 1,10-13.17; Mt 4,12-23
1. Buông theo Thần Khí - Huệ Minh
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai tại miền Galilê. Sau khi chịu Phép Rửa của ông Gioan tại sông Giođan (Mt 3,13-17), Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào sa mạc để chịu thử thách (Mt 4,1-11). Sau đó, khi nghe ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê, rồi bỏ Nadarét, đến Caphácnaum và từ đó, Người bắt đầu rao giảng Tin Mừng (Mt 4,12-17). Ngay khi vừa bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Mt 4,18-22), và dân chúng rất đông ở khắp miền Galilê đến để nghe Người rao giảng và được chữa lành (Mt 4,23-25).
Và rồi Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ vụ ở miền Galilê bằng việc “rao giảng Tin Mừng Nước Trời” và “chữa lành hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”. Hành động này của Đức Giêsu là cách hiện thực hóa lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã được Tin Mừng trích dẫn: “Hỡi Galilê, miền đất dân ngoại, đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Việc các ông lập tức từ bỏ mọi sự mà theo Người vô điều kiện là một cách đáp trả tận căn lời kêu gọi “hoán cải” trong lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu. Các ông là những người dấn thân trọn vẹn qua việc từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ, của cải vật chất, nghề nghiệp và cả những tương quan trần thế, kể cả cha mẹ và anh em ruột thịt để theo Đức Giêsu, trở thành những môn đệ “kề cận” của Người.
Ơn gọi này được khởi xướng từ Đức Giêsu, nhưng để thành sự thì hoàn toàn do thái độ đáp trả của người được gọi. Nhờ vậy, họ thiết lập với Đức Giêsu một sự hiệp thông sâu xa để có thể trải nghiệm được toàn bộ đời sống của Đức Giêsu qua các lời giáo huấn và hành động của Người, và tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời cho muôn dân để quy tụ mọi người về trong một Giáo Hội duy nhất, như quy tụ “cá vào trong lưới”.
Đức Giêsu bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.” Sự từ bỏ mọi sự này như là một đòi buộc cốt yếu đối với sứ vụ của người làm môn đệ Đức Giêsu. Nhờ đó, họ được tự do thanh thoát và có thể mở ra một tương quan mới rộng lớn hơn hướng đến mọi người và giúp mọi người được đón nhận ơn cứu độ. Tin Mừng Mátthêu đã xây dựng hình ảnh người môn đệ như một mẫu gương lý tưởng cho mọi Kitô hữu.
Sự dứt khoát của các ông cho thấy họ đã tìm được kho tàng, chân lý, lẽ sống đích thực là chính Chúa. Các ông cũng khám phá ra lý tưởng của cuộc đời. Vì thế, các ông đành mất hết và coi mọi sự là rơm rác so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa của các ông. Từ đây, các ông được sống cùng và sống với Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Thật là hạnh phúc cho bốn môn đệ đầu tiên này!
Vẫn một điều kiện tiên quyết mang tính quyết định, nên Chúa Giêsu bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa".
Qua câu nói này, Chúa Giêsu nói cho người xin theo Ngài biết rằng: thái độ dứt khoát là yếu tố căn bản để trở nên môn đệ của Ngài. Theo Chúa là cần phải bỏ mọi sự, không lưỡng lự, không thể tiến thoái lưỡng nan, không chấp nhận nhập nhằng với những ràng buộc của cải, thế gian và tình cảm. Muốn là người thợ cày tốt thì người cầm cày phải nhìn thẳng về phía trước để đi, nếu không thì đường cày sẽ cong queo, không thẳng hàng được. Như vậy, theo Chúa, phải để lại mọi sự, kể cả những gì là thân thuộc, gắn liền với cuộc sống, ngay cả những quyến luyến tình cảm của gia đình…
Để đạt được Nước Trời, người môn đệ phải ưu tiên số một cho những đòi hỏi của Nước ấy. Phải từ bỏ tất cả quá khứ, quên đi dĩ vãng (x. 1 Pr 5,8-9), và nhắm thẳng vào tương lai để ta tiến bước. Điều này quan trọng hơn cả cha mẹ, anh chị em, vợ con và ngay cả mạng sống của mình nữa.
Theo Chúa là dâng hiến cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không thể cắt ngắn hay chọn lựa chỉ giữ những giới răn, lề luật hay những huấn giáo thích hợp với sở thích của chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở về giới luật yêu thương. Giới răn căn bản làm nền tảng là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Gal 5, 14).
Yêu thương thì chân thành, cảm thông và chia sẻ. Yêu thương là xây dựng, đoàn kết và hòa bình. Những sự chia rẽ, cắn xé, tranh dành và gây thù hận đều ngược lại với giới luật yêu thương: Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau (Gal 5, 15). Muốn nên là nhân chứng đích thực của Chúa chúng ta phải ước muốn những điều thuộc về Thần Khí của sự thật, tình yêu và bình an.
Khi gọi các môn đệ, Chúa Giêsu nói: Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta. (Mt 4, 19) Lập tức họ theo Người. Thật là lạ lùng! Nghĩ về các tông đồ cũng gợi ta nhớ về mình. Ta cũng trả lời tiếng gọi theo Chúa, nhưng đã phải đắn đo suy nghĩ rất nhiều rồi mới gật đầu. Có nhiều trường hợp sau khi cuộc đời trầy trụa ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh, rồi mới thấy tu là cõi phúc tình là giây oan, nhưng vẫn chưa trọn vẹn!
Muốn theo Chúa ta phải vượt lên trên những ràng buộc về quyền, tiền và sẵn sàng bước theo Chúa Giêsu trên hành trình loan báo này. Bao lâu chúng ta còn vướng bận quá nhiều trong những chuyện như cơm áo gạo tiền; còn đi tìm những điểm tựa danh vọng, an nhàn thư thái; còn lo lắng quá nhiều đến tình cảm riêng tư, thì bấy lâu con người chúng ta nặng nề và không thanh thoát trong việc làm vinh danh Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người được.
Có được tinh thần thanh thoát và nhẹ nhàng thì chúng ta mới nhạy bén để làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo xác thịt. Khi sống và lựa chọn như thế, ta mới xác định căn tính và mục đích của chúng ta, và Chúa mới là gia nghiệp của ta thực sự.
2. Khởi điểm truyền giáo - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Chúa Giêsu khởi đầu truyền giáo bằng 3 việc: Đề tài hối cải, môi trường thích hợp và chọn nhân sự hợp tác.
+ Hối cải là đề tài quan trọng của Gioan tiền hô (Mt. 3. 2) của Chúa Giêsu và của Phêrô (Cv. 2, 28) lúc bắt đầu rao giảng Tin mừng. Hối cải là bước dứt khoát đầu tiên tiến vào nước trời, là sức mạnh nhạy bén biến đổi đời người nên mới. Nền tảng sự hối cải là khiêm tốn, nhìn nhận sự lầm lạc, tội lỗi của mình trước Thiên Chúa. Đề tài hối cải rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngoại tới cư ngụ, buôn bán ở Caphanaum.
+ Môi trường thích hợp: Caphanaum là thành phố thương mại phồn thịnh và quan trọng, nằm trên đường từ bắc qua trung đến nam nước Do Thái, là đường liên lạc giữa các nước Địa Trung hải đến các nước Trung Đông như: Libăng, Jorđanie, Irak, Iran, Ả rập, cho nên Đế quốc Roma đã đặt đồn quan thuế ở đây. Caphanaum còn là thành phố nằm trên bờ biển hồ Tibê, rất thuận tiện cho việc giao thông, chuyên chở, đi lại.
Chúa Giêsu chọn Caphanaum làm trung tâm vì ba lý do:
Thứ nhất để thực hiện đúng lời tiên Isaia đã loan báo từ 732 năm trước cho các chi họ sống chung đụng với các dân ngoại.
Thứ hai, Caphanaum là quê hương của bốn môn đệ đầu tiên, mà có lẽ nhà Phêrô là nơi thuận tiện cho việc truyền giáo.
Thứ ba, đây là lý do quan trọng nhất: để cho muôn dân được thấy “một ánh sáng huy hoàng”
+ Nhân sự hợp tác: Ánh sáng đó đã bắt đầu bừng lên trong những thanh niên chài lưới có tâm hồn cường tráng, trong một thân xác tráng kiện “mens sana in corpore sano”, nên họ vừa nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy theo Ta”, Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan liền bỏ chài lưới đi theo Người. Họ đã dứt khoát đổi đời, tiến bước theo Người. Họ đã bỏ hết của cải, thuyền bè, chài lưới, bạn bè, gia đình, cha mẹ, mọi thứ thân yêu nhất ở đời. Họ không thắc mắc tương lai sẽ ra sao? Sướng hay khổ, vinh nhục, giàu nghèo? Hoàn toàn tin tưởng vào Thầy đi theo cái một.
Lạy Chúa Giêsu, biết bao lần Chúa đã gọi con từ bỏ tham lam, danh vọng, tội lỗi, biết bao lần Chúa đã gọi con làm một việc bác ái, một hy sinh nho nhỏ, một giờ hồi tâm, một nửa giờ lễ, một phút cầu nguyện, nhưng con chẳng đáp lời. Lạy Chúa xin tha thứ, xin cho con biết hối cải, biết đổi mới cuộc đời, quyết tâm theo tiếng gọi của Chúa như Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan.
3. Vì Nước Trời... - Dã Quỳ
Trong cuộc sống, khi làm bất cứ công việc gì, người ta cần phải có mục đích. Việc càng lớn hay quan trọng thì càng cần phải lên kế hoạch và chương trình hành động rõ ràng thì mới mong có thể thành công. Trong bài Tin Mừng hôm nay, hơn ai hết, Chúa Giêsu đã có một chương trình thật rõ cho sứ vụ của Người: Chúa đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kêu gọi người ta sám hối; mời gọi và chọn một số người để huấn luyện các ông trở thành môn đệ tiếp nối sứ mệnh của Chúa; an ủi và chữa lành cho dân. Những việc Chúa làm nói lên mục đích Người đem ánh sáng cho muôn dân, cho những ai còn ngồi trong bóng tối và cứu độ nhân loại. Với mỗi người Kitô hữu hôm nay, Chúa cũng mời gọi ta lắng nghe Lời Chúa dạy, đi theo Chúa và tiếp bước sứ mạng của Chúa.
Chúa Giêsu di chuyển, thay đổi nơi chốn và rời làng quê mà Người đã từng sống và lớn lên ở đó, để đến một làng khác cần Người hơn. Người sẽ có những hàng xóm mới, những người thân quen mới và những tương quan mới. Chính ở nơi miền đất này, vùng đất dân ngoại mà Chúa đã bắt đầu sứ mạng "Này đất Dơvulun và Náptali... hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng..." Chúa đến, Người muốn gặp gỡ muôn dân còn đang ngồi trong bóng tối, những người đang mong chờ ánh sáng Chúa chiếu rọi. Chính vì thế, Chúa đã rảo bước trên đường, từ thành này sang làng khác để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Vậy đâu là chủ đề trong lời giảng đầu tiên của Chúa và Người nói về điều gì? Đâu là điều cốt yếu trong lời giảng dạy của Chúa?
"Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." Đó là tất cả sứ điệp Tin Mừng Chúa muốn nói với chúng ta lúc này. Ta hãy lắng nghe lời Chúa nhắn nhủ "Nước Trời đã đến gần". Chúa Giêsu-hiện thân của Nước Trời đã đến, Người ở đó với chúng ta, nếu ta biết và muốn đón tiếp Người. Và để đón nhận Nước Trời, sống theo tinh thần Nước Trời, Chúa mời gọi chúng ta "Anh em hãy sám hối", hãy thay con tim, đổi lối sống, quay trở về với Thiên Chúa và với lòng mình.
Tất cả có thể trở nên tốt đẹp khi ta biết hoán cải và đó là một tin vui, một điều tuyệt hảo. Nếu chúng ta không biến đổi, lời rao giảng của Chúa chỉ là lời giảng dạy đạo đức khuyên ta làm điều này, tránh điều kia. Sám hối không phải là sự bi quan sầu não của kẻ thất vọng mà là một niềm hy vọng, một sức lực mới giúp chúng ta vươn lên. Vì Nước Trời, ta ăn năn cải thiện đời sống. Thế nên, sám hối thực lòng là thay đổi cách sống của ta sao cho phù hợp với Tin Mừng, là sống yêu thương, tha thứ, nhân hậu, quảng đại, bác ái... với anh chị em; là thay đổi não trạng, lối suy nghĩ ích kỷ, độc đoán để biết đón nhận điều mới và giáo lý mà Chúa Giêsu dạy dỗ. Vì vậy, sám hối là điều kiện cần thiết để nhận ra tình thương xót thứ tha của Chúa, để đón nhận ơn cứu độ và để trở nên những môn đệ trung tín của Chúa.
Tiến trình giảng dạy của Chúa được tiếp nối bằng việc Chúa gặp và chọn gọi bốn môn đệ đầu tiên "Người đang đi..., thì thấy hai anh em kia...Người bảo các ông: 'Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá..."( x. Mt 4,18-19.21) Ở đây, thánh Matthêu cho chúng ta thấy việc chọn gọi và huấn luyện các môn đệ thật quan trọng cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúng ta sẽ không còn thấy Chúa Giêsu giảng dạy trước đám đông dân chúng nữa, nhưng các môn đệ qua mọi thời vẫn còn tiếp tục sứ vụ của Chúa.
Vì thế, ơn gọi môn đệ là sáng kiến của Chúa và là chương trình của Chúa cho chúng ta. Chúa muốn người môn đệ đến, ở lại với Chúa, lắng nghe lời Chúa dạy, thụ huấn với Chúa những bài học cuộc sống khi ở cùng, và đi theo sát kề Chúa. Đón nhận tình yêu và tất cả mọi biến cố cuộc đời của Chúa "Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn...để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng" (x. Mc 3,13-14) Như vậy, người môn đệ chỉ còn một lòng sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi và tức khắc lên đường theo Chúa "Lập tức, hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người." Chọn cuộc sống của Chúa làm của mình, thực sự trở thành thừa tác viên của Chúa, cộng tác với Chúa trong mọi sứ vụ truyền giáo, thực hiện chương trình của Chúa, làm việc cho công trình của Người và giúp Người cứu độ nhân loại.
Trong sứ vụ của Chúa, những hành động đi kèm lời giảng dạy là việc "chữa lành tất cả mọi bệnh hoạn tật nguyền của dân." Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương và bày tỏ tình xót thương của Người. Đây là dấu chỉ Thiên Chúa ở với dân Ngài, với tác phẩm Ngài tạo nên. Chúa giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời để chữa trị tâm hồn và thỏa cơn đói khát tinh thần của con người. Chúa còn chữa lành biết bao bệnh tật, an ủi và nâng đỡ những con người đau khổ, bị khinh miệt gạt ra lề tôn giáo và xã hội, là "Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần." Chúa yêu thương chúng ta, thấu hiểu chúng ta và chỉ muốn ta được hạnh phúc.
Thế nhưng, trong thế giới mà chúng ta sống hôm nay đang là một thế giới ô nhiễm về nhiều mặt, từ bầu khí ô nhiễm tinh thần qua tin, sách báo, phim ảnh... đang len lỏi vào cuộc sống, đến ô nhiễm về không khí, nước, thực phẩm và sản phẩm... Đâu đâu cũng thấy sự nhiễm độc và nguy hại sinh ra bao bệnh tật hiểm nghèo. Tình trạnh thê thảm này là trách nhiệm của chúng ta và cũng đang là thách đố của chúng ta! Hãy cầu xin Chúa dạy ta biết sám hối về chính những gì ta đã làm, đã sống không phù hợp với tinh thần của Chúa và Tin Mừng Chúa dạy. Hãy cải thiện lối sống để thực thi đức công bằng, bác ái với tha nhân và sống lương thiện trong sản xuất, buôn bán, sử dụng,...
Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng là sứ mạng của mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay. Ước gì chúng ta biết lắng nghe lời Chúa dạy, sẵn lòng theo Chúa trong việc thực thi Tin Mừng và năng ở với Chúa, gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, qua các Bí tích. Thật lòng trở về với Chúa và thành tâm sám hối những yếu đuối, lỗi lầm, sa ngã. Khi đã đón nhận, nghiệm thấy tình thương Chúa, ta cũng biết lên đường rao truyền Lời Chúa, nói về Chúa cho anh chị em, và thể hiện niềm vui được Chúa yêu thương cho những ai ta gặp gỡ. Xin cho từng Kitô hữu Việt Nam luôn biết dấn thân, hăng hái lên đường, đem ánh sáng Chúa Kitô cho anh chị em trên quê hương vẫn còn ở trong cảnh tối tăm, để tất cả cùng được ánh sáng Chúa chiếu dọi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã đến với chúng con. Xin chiếu dãi ánh sáng Tin Mừng của Chúa vào trong chúng con. Xin biến đổi số phận của tất cả nhân loại, cho chúng con được hưởng hạnh phúc và ơn cứu độ. Amen.
4. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông Giorđan, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Người là: "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian " (Ga 1, 29). Điều các ngôn sứ đã báo trước nay được thực hiện: "Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại" (Is 9, 1-4 (Hr 8, 23b - 9, 3). Ánh sáng vĩ đại ấy là ai nếu không phải là Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu xuất hiện giữa dân chúng, như ánh bình minh rạng ngời buổi sáng, xua tan bóng tối đêm đen. Dân chúng thấy Ngài như thấy ánh sáng huy hoàng… xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết (x.Mt 12, 16), ánh sáng ấy nay tỏ rạng công khai khi rao giảng: "Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến" (Mt 12, 17).
Ánh sáng ấy là Chúa Giêsu
Matthêu giải thích, Chúa Giêsu "rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali". Với địa danh chính xác như thế, nhưng mục đích của tác giả không phải là cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn du lịch. Ý tưởng thần học của Matthêu được giải thích ngay: "Để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia" (Bài đọc I).
Ứng nghiệm điều gì? Giabulon và Nepthali là hai vùng thuộc miền Bắc lúc ấy đang bị sát nhập vào vương quốc Asyri. Thật là hổ người khi nhớ lại quá thất bại và bị đuổi ra ngoài. Tuy nhiên, vị tiên tri với niềm tin vững mạnh đã tuyên bố: "Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng". Nói cách khác, Isaia muốn khơi lên niềm hy vọng nơi những người tin cậy Chúa, Đấng giải thoát họ, nên ông không ngần ngại nói về ơn cứu rỗi. Đó là sức mạnh của Lời Chúa, Lời thực hiện những gì đã tuyên bố, Isaia gợi lên niềm vui đến từ đức tin: "Dân chúng vui mừng trước nhan Chúa như nhà nông vui mừng trong mùa gặt". Thánh Vịnh một lần nữa vang lời động viên: "Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa". Niềm tin này khiến chúng ta vui mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện: "Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi". Sự sáng ấy nay cụ thể hóa nơi con người Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu xác định: Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Bước theo Chúa Giêsu cần phải hối cải
Ánh bình minh đã ló rạng, từ trên cao chiếu soi dân ngồi trong bóng tối là chính Chúa Giêsu Kitô. Ai bước vào trong ánh sáng ấy cần phải: "Hối cải" nghĩa là đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ tội lỗi sang đời sống là con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng. Và Chúa muốn ánh sáng ấy chiếu soi mọi người; nên Chúa đã chọn các môn đệ như những người phụ tá.
Khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình "Hối cải". Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, dù thuộc về Phaolô, Phêrô hay Apôlô cũng chỉ có một Đức Kitô. Mọi con mắt phải hướng về Ngài, chính Ngài cứu chuộc chúng ta. Vì thế, khi gọi các môn đệ, là để các ông trở nên những chứng nhân của Tin Mừng, nên thánh Phaolô có thể nói: "Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không". Phaolô được chọn, để loan báo một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh cho thế gian.
Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Ngài. Chúng ta hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu nguyện xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng.
Hối cải để hiệp nhất
Lời Chúa mời gọi chúng ta: "Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến", vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Sự quyết tâm hoán cải, trở về cùng Chúa Kitô là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.
Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây: "Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Ðồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ như thánh Phaolô Tông Ðồ nói đến: "Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức" (1 Cr 1,10). Thực ra Thánh Tông Đồ đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: "Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?" (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.
Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.
5. Ánh sáng trần gian - Lm. Minh Vận, CRM
Trong câu truyện tâm tình, một người bảo trợ, đúng hơn là một vị ân nhân người Mỹ, đã nói với hai vợ chồng anh chị người Việt Nam: "Không biết vì tội gì của cha ông các bạn, mà ngày nay người dân Việt Nam các bạn phải lưu lạc khắp thế giới, giống như dân Do Thái xưa vì tội giết Chúa Cứu Thế mà họ đã phải đầy ải đi khắp thế giới? Phải chăng vì tội của vua chúa các bạn đã bách hại Đạo Công Giáo, đã giết chết biết bao Tín Hữu? Điều đó không ai trong chúng ta dám quyết đoán, nhưng có một điều rất quan trọng mà tôi dám quả quyết là: Chúa dùng cách thế đó để gởi các bạn đến đất nước này, cũng như tới các dân tộc khác trên khắp thế giới, để các bạn đem Đức Tin, lòng đạo đức và lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria đến cho chúng tôi và cho các dân tộc khác. Cũng như Giáo Hội Công Giáo hồi sơ khai, các Tín Hữu bị vua chúa bắt bớ, tầm nã, cấm cách, nên đã phải trốn tránh nay đây mai đó, tản mát đi khắp nơi khắp chốn; bởi nhờ sự bắt bớ này, mà các Tín Hữu có cơ hội, đi tới đâu họ truyền bá Đức Tin, đem Tin Mừng Cứu Rỗi của Chúa tới đó, khiến các dân tộc được mau chóng nhận biết Chúa và tôn thờ phụng sự Người.
I. CHÚA KITÔ ÁNH SÁNG CỦA THIÊN CHÚA
Bài sách tiên tri Isaia hôm nay đã tiên báo: Đang lúc các dân tộc bước đi trong miền u minh và bóng tối sự chết, thì xuất hiện một luồng sáng vĩ đại chiếu soi họ. Luồng sáng vĩ đại đó là chính Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai đã nhập thể làm người, đến trần gian để chiếu soi nhân loại đang ngụp lặn trong vực thâm u của mê tín, dị đoan, tin vơ, thờ quấy, tôn thờ tà thần ngẫu tượng... Ngài ban cho nhân loại niềm hân hoan phấn khởi và vui sướng, vì Ơn Cứu Độ của Chúa đã gần đến, như lời đáp ca chúng ta vừa nhắc đi nhắc lại: "Chúa là Sự Sáng, là Đấng Cứu Độ tôi! Chúa là Đấng Phù Trợ đời tôi, tôi sợ gì ai!"
Chúa Kitô đã tuyên bố: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống"(Jn 14:6). Chúa đến để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực Satan hỏa ngục, tỏ cho chúng ta thấy con đường về với Thiên Chúa; Người cũng chỉ cho chúng ta biết những chân lý chúng ta phải tin để làm lẽ sống hướng dẫn cuộc đời, giúp chúng ta sống một cuộc sống có ý nghĩa, một cuộc sống có lý tưởng, để đạt tới một cứu cánh cao cả tuyệt đối. Người ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, sự sống siêu nhiên, sự sống ơn nghĩa thánh của con cái Thiên Chúa. Vì Chúa Kitô là Đàng chúng ta phải theo, là Sự Thật chúng ta phải tin kính, là Sự Sống chúng ta phải nương nhờ. Thánh Mathêu nhắc lại lời tiên tri Isaia để chứng minh Chúa Kitô là Ánh Sáng trần gian khi ngài viết: "Muôn dân ngồi trong bóng tối tăm đã thấy Ánh Sáng huy hoàng, Ánh Sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết". Chính Chúa Kitô cũng đã quả quyết: "Ta là Ánh Sáng trần gian, ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ được Ánh Sáng ban sự sống soi chiếu" (Jn 8:12).
II. CHÚNG CON LÀ ÁNH SÁNG TRẦN GIAN
Giáo Hội đã ý thức sứ mạng Chúa ủy thác là tiếp tục đem Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho các linh hồn, nên qua Công Đồng Vaticanô II, Giáo Hội đã tự nhận mình là Ánh Sáng các dân tộc" (Lumen Gentium). Sứ mạng đem Ơn Cứu Độ đến cho các linh hồn là bổn phận khẩn thiết của mỗi người chúng ta, vì chính Công Đồng đã quả quyết: "Ơn gọi làm Kitô Hữu tự bản chất cũng gọi là ơn gọi làm tông đồ" (Apos Act # 2). Công Đồng còn giải thích thêm: "Giáo Dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mạng Cứu Độ của Giáo Hội. Mỗi Tín Hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ qua việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy và Thêm Sức. Các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể thông ban và nuôi dưỡng trong họ Đức Ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người, nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ" (Lumen Gentium #33). Công Đồng còn nhấn mạnh hơn nữa sứ mạng Tông Đồ của chúng ta khi viết: "Mỗi Môn Đệ của Chúa Kitô tùy theo địa vị của mình đều có bổn phận góp phần truyền bá Đức Tin" (Lumen Gentium #17).
Đem Đức Tin đến cho tha nhân là mệnh lệnh Chúa truyền: "Các con hãy làm chứng nhân cho Thầy" (Lc 24: 48). Chúa cũng phán dạy chúng ta như đã phán với Thánh Pherô: "Con hãy củng cố Đức Tin cho anh em con". Và: "Các con hãy đi làm vườn nho cho Thầy" (Lc 22:31-32). Hơn nữa, Chúa còn quả quyết với chúng ta: "Các con là muối địa cầu, là ánh sáng trần gian" (xem Mt 5:13-16).
Những lời Chúa truyền trên đây như mệnh lệnh cấp bách và thôi thúc, để chúng ta ý thức sứ mạng của chúng ta là phải nỗ lực thực thi thế nào cho xứng với ơn gọi và sứ mạng cao cả Chúa ủy thác. Làm vinh danh Chúa còn là bổn phận do Đức Công Bằng và Bác Ái đòi buộc chúng ta phải có đối với anh chị em đồng loại. Như Thánh Phaolô, chúng ta hãy tự răn mình: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng của Chúa cho anh chị em tôi, bằng chính đời sống gương mẫu thánh thiện của tôi" (xem 1 Cor 9:16).
Kết Luận
Chúng ta hãy thực thi lời Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy làm việc thiện để cho nhân loại thấy các việc các con làm mà ngợi khen Cha các con trên trời" (Mt 5:16).
Cần thiết, chúng ta hãy lợi dụng mọi cơ hội, mọi hoàn cảnh thuận lợi để làm vinh danh Chúa, để xây dựng Cộng Đồng và Giáo Hội, bằng mọi phương thế Chúa ban và nhất là bằng đời sống thánh thiện gương mẫu của mỗi người chúng ta.
6. Ánh sáng
Trong một cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam, một chiến đấu cơ đã bị bắn rớt, và anh phi công bị bắt. Trong 6 tháng đầu, anh bị biệt giam trong một căn phòng hoàn toàn tối tăm. Chỉ sau 2 tuần, anh bắt đầu cảm thấy như mất trí, và hầu như không còn nghị lực để sống. Ngày kia, anh tình cơ nhìn thấy một tia sáng lờ mờ chiếu qua một lỗ rất nhỏ trên tường. Nhờ tia sáng lờ mờ đó, tâm trí anh từ từ trở lại bình thường, và anh tìm lại được sức mạnh để sống.
Ánh sáng rất cần thiết cho con người, đặc biệt cho con người ngày nay. Những ai đã từng pải chịu cảnh mất điện sau những cuộc động đất hay những trận bão mới cảm thấy khó chịu đến thế nào, nhất là phải chịu cảnh tối tăm khi màn đêm buông xuống.
Xét về mặt tự nhiên, con người đã cần ánh sáng, sự cần thiết ấy còn mãnh liệt hơn trong đời sống siêu nhiên. Từ khi con người phạm tội, nhân loại bị chìm sâu trong bóng đêm của tội lỗi và những hậu quả của tội. Họ mãi chờ mong cho đến ngày được giải thoát. Nhưng khi sự giải thoát đến trong Đức Kitô, thì con người lại chối từ ánh sáng Chúa ban, vì con người thích sống trong bóng tối tội lỗi hơn trong ánh sáng ơn nghĩa Chúa (Ga 3,19).
Ngày Adong và Evà phạm tội là khởi đầu của một lịch sử con người trốn tránh Thiên Chúa, thay vì tìm đến Ngài để được ơn tha thứ. Ma quỷ tinh khôn trong vấn đề kìm kẹp con người dưới xích xiềng của tội lỗi. Lúc đầu, hắn cám dỗ cho con người phạm tội. Sau khi phạm tội rồi, hắn gieo vào lòng tội nhân những tư tưởng thất vọng, vì cảm thấy không xứng đáng được ơn tha thứ hay không thể thoát vòng tội lỗi. Rồi từ đó, hắn làm cho tội nhân không còn cảm thấy áy náy khi phạm tội. Lần đầu đánh bạc, mất mấy chục đã cảm thấy chua xót, nhưng rồi từ từ mất xe, mất nhà cũng chẳng thấy áy náy là bao. Chính vì thế, để tiến vào ánh sáng, việc đầu tiên là phải nhận ra thực trạng tội lỗi và bất toàn của mình. Vì chỉ khi đó, con người mới được tận hưởng sự tự do của con cái Chúa, vì không những họ sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, mà còn được ánh sáng huy hoàng của Chúa đem hy vọng cho tâm hồn, đem ý nghĩa đến cho cuộc đời, và sau cùng, được dự phần vĩnh phúc quê trên trời.
Trước hết, ánh sáng Chúa Kitô giải thoát con người khỏi tội lỗi. Nhân loại từ nay đã đổi chủ. Trước kia, con người làm nô lệ cho tội lỗi; nay nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, Thiên Chúa đã bẻ gãy xiềng xích tội lỗi, để tuỳ nay con người có Thiên Chúa là Cha. Tin Mừng cứu độ của Chúa soi sáng cho con người biết đâu là thiện là ác, vì Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và Sự Sống. Trong mọi cảnh huống của cuộc đời, Chúa soi sáng cho tâm hồn biết chọn điều thiện và tránh điều ác. Chính Chúa cũng là sức mạnh giúp con người chiến thắng tội lỗi. Ánh sáng Chúa cũng đem lại niềm hy vọng cho những ai đang bị đè bẹp bởi những đau khổ của cuộc đời. Thế kỷ 21 này đem lại nhiều tiện nghi vật chất cho con người, nhưng những cảnh khổ đau, chiến tranh, hận thù, đói khát, vẫn còn xuất hiện khắp nơi. Chúa Kitô luôn kêu mời con người hãy đến với Người: “Hỡi những ai mỏi mệt và gánh nặng hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). Chúa ban niềm hy vọng cho những ai phải đón nhận số phận phải chết, vì Chúa hứa ban phúc trường sinh cho họ (Ga 6,40). Trong những giây phút khổ sầu này, chính ánh sáng Chúa sẽ đem lạ sự bình an và ý nghĩa cho cuộc đời con người.
Cũng như một tia sáng nhỏ cũng đủ đem lại hy vọng và sức sống cho một tù nhân, ước chi ánh sáng Chúa Kitô giải thoát chúng ta khỏi bỏ đàng tội lỗi, và đem lại nguồn hy vọng và sức sống cho cuộc đời của chúng ta.
7. Chúa Nhật 3 TN A
Xét về địa lý thì nước Do Thái chia làm 3 miền. Miền Nam gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc gọi là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm mọi người tuôn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, nơi đây có dinh của thầy cả Thượng phẩm, các luật sĩ, Biệt phái....Người ta coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samaria vì coi Samaria là người ngoại giáo, vì Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garizim. Dân Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch, nhưng bị dân Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Vào thời Đức Giê-su, đạo Do Thái chỉ còn là cái vỏ bên ngoài. Đa số các tín hữu chỉ còn giữ đạo một cách hình thức. Họ đặt quá nặng việc tham dự những lễ nghi tôn giáo, những vẻ thấy được bên ngoài. Vì thế, lễ nghi thì ngày càng gia tăng vẻ long trọng, luật lệ ngày càng nhiều, càng phức tạp, các cơ sở vật chất cũng gia tăng. Họ coi thường giới răn mến Chúa yêu người. Các nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ còn là những người thích ăn mâm cao cỗ đầy, hưởng thụ những quyền lợi mà luật lệ tôn giáo đã dành cho (Mt 23, 6 - 7), nhiều khi lại cấu kết với thế quyền để đàn áp bóc lột dân chúng (Mt 23, 14). Họ dạy người khác làm những điều tốt đẹp mà chính họ lại không chịu làm (Mt 23, 3). Nhiều khi họ không biết cái nào là cái chính cái nào là cái phụ trong tôn giáo (Mt 23, 16 - 22) để dạy người ta giữ: nên cái chính yếu thì bị coi nhẹ, còn cái phụ thì lại được quan trọng hóa lên. Vì thế, họ trở thành những kẻ "dẫn đường mù quáng" (Mt 23, 24).
Khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã không Giêrusalem là điểm xuất phát, bởi vì các thầy thượng tế, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa, vì nơi đây là một vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc, đã biết mở rộng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, nhưng mọi người biết đón nhận lẫn nhau, sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa, vì đây là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Đức Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp.
Ngay từ buổi ban đầu Đức Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ,... Đó là đi sứ mạng của Đức Giê-su, sứ mạng canh tân tôn giáo trên tình yêu. Thế nên, các môn đệ mà Ngài chọn để làm cộng sự viên với Ngài trong cuộc canh tân này, cũng không phải là người Giuđêa mà đều là người Galilê. Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không chọn lựa môn đệ trong đền thờ, Người lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không lựa chọn bậc trí thức, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chày đơn sơ. Ý định truyền giáo của Người rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không do dự. Người lựa chọn những người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ được đi theo Chúa.
Các ông là những ngư dân ít học, mặc dù theo đạo Do Thái, nhưng biết rất ít những kiến thức tôn giáo. Đức Giê-su đến đã làm thay đổi: tinh thần mới, quan niệm mới, lề luật mới, cơ cấu mới, v.v... Sự thay đổi này đã gây nên một sự phản kháng mạnh mẽ nơi giới trí thức, giới lãnh đạo trong Do Thái giáo. Chắc chắn họ có lý của họ, và cái lý ấy cũng dựa rất chắc chắn trên nền tảng Kinh Thánh! Điều đó cho thấy không phải cứ có lý, có nền tảng Kinh Thánh là đủ, mà còn phải có tinh thần của Thiên Chúa, có tình yêu và sự chân thật (Mt 23, 23),
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: vừa được Đức Giê-su mời gọi, thì Phê-rô và An-rê " lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người". Gia-cô-bê và Gio-an cũng vậy: "lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người". Họ mau mắn, không chần chừ tính toán ẩn tàng một chút liều lĩnh, phó thác, tin tưởng vào Đức Giê-su. Chính nhờ những đức tính này mà khi được Thánh Thần tác động, các ông trở nên có đủ mọi thứ đức tính, mọi thứ tài năng hơn người, trở nên những tông đồ can đảm, luôn luôn mạnh dạn làm chứng cho Đức Giê-su, không chút sợ hãi (Cv 4, 29. 31; 9, 27 - 28; 18, 26; 19, 8; 28, 31).
Những sự lựa chọn của Chúa Giêsu khiến cho chúng ta thấy: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hiền hoà, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Chỉ những thửa đất tốt đó cho hạt giống Tin Mừng nẩy mầm, đơm bông kết trái.
Ngày nay, Đức Giê-su vẫn tiếp tục cần rất nhiều người cộng tác với Ngài. Ngài luôn luôn mời gọi tất cả mọi Ki-tô hữu làm điều ấy. chúng ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi trong thẳm sâu tâm hồn không? Và chúng ta đáp lại thế nào? Chúng ta "lập tức" chấp nhận, hay còn phải suy nghĩ xem mình có đủ khả năng, có đủ thì giờ, có đủ đức độ không? Nếu chúng ta có đủ khả năng, đủ thì giờ, đủ đức độ như các kinh sư Do Thái xưa, thì chắc hẳn Ngài đã chẳng kêu gọi chúng ta đâu, vì chúng ta sẽ cậy vào sức riêng mình, chứ không nhờ cậy vào Ngài nữa! Chính vì biết chúng ta thiếu tất cả những thứ ấy Ngài mới kêu gọi chúng ta, như đã từng kêu gọi các tông đồ xưa. Điều quan trọng khi đi theo Ngài là chúng ta phải biết rằng mình thiếu những thứ ấy để chúng ta khiêm nhường cậy dựa vào sức của Ngài, chứ không phải sức của mình. Điều lạ lùng và hết sức nghịch lý nhưng lại là thực tế, đó là ta sẽ làm được tất cả khi thật tình nghĩ rằng "không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15, 5), nhưng "tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi" (Pl 4,13), vì "đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1, 37).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con bắt chước các tông đồ xưa, nghe Đức Giê-su kêu gọi là "lập tức" bỏ tất cả mà đi theo, không suy nghĩ, đắn đo, tính toán. Xin ban cho chúng con tinh thần tin tưởng và phó thác nơi quyền năng vô biên của Cha trong mọi sự. Amen.
8. Ánh sáng thế gian
Chiều hôm ấy, hai cậu bé rủ nhau vào rừng chơi. Thế rồi một trận mưa bất thần đổ xuống. Mưa dai dẳng suốt hai tiếng đồng hồ. Đến lúc tạnh thì trời đã tối. Hai cậu bé vừa lạnh lại vừa sợ. Nỗi sợ hãi càng gia tăng khi hai cậu bé không còn tìm thấy con đường dẫn về nhà. Nhưng rồi một ánh sáng bỗng xuất hiện từ xa. Hai cậu bé khấp khởi mừng thầm. Cả hai đều cố gắng vừa kêu vừa gọi. Thì ra người anh đang cầm chiếc đèn đi tim hai cậu bé. Và cuối cùng đã đưa hai cậu bé trở về an toàn.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta có thể xác quyết: Đức Kitô chính là người anh của chúng ta. Vâng lệnh Chúa Cha, Ngài đã xuống thế, thắp lên một ngọn lửa hầu dẫn đưa chúng ta trở về quê trời. Chính vì thế mà từ ngàn xưa, các tiên tri đã nói: Dân ngồi trong tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã xuất hiện cho những người ngồi trong bóng sự chết.
Thế giới như đang chìm trong tăm tối và nhân loại đã quên mất con đường để trở về nhà. Nhưng rồi Đức Kitô đã đến như một thứ ánh sáng chói loà, xé tan bóng tối hầu soi sáng cho tâm hồn chúng ta. Ngài chính là ánh sáng, như chúng ta đã nghe Kinh Thánh xác quyết: Dân đi trong tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng. Trong phần đáp ca, chúng ta đã thưa lên: Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi. Và cũng theo Kinh Thánh, thì ánh sáng được tựng trưng cho chính Thiên Chúa, như chúng ta vốn thường tuyên xưng: Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng. Chính Ngài cũng đã từng tuyên bố với dân chúng: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống.
Đức Kitô là ánh sáng cho mỗi người chúng ta như thế nào? Xin thưa: Tất cả những khó khăn của đời sống đều được giải quyết trong ánh sáng của Đức Kitô. Điều gì là thật và điều gì là giả. Điều gì là thiện và điều gì là ác. Làm thế nào để đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu? Thế giới này là gì? Bản thân chúng ta là ai? Chúng ta bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta tìm kiếm, Ngài soi sáng và hướng dẫn để chúng ta hiểu được những điều đã nêu lên. Với ánh sáng của Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy giải đáp thoả đáng.
Ai trong chúng ta cũng đều có những khó khăn, chẳng hạn như: sức khoẻ, kinh tế, cô đơn, tình yêu. Đưa ra vấn nạn thì dễ, nhưng giải quyết được những vấn nạn ấy mới là sự khó và đáng nói. Thế nhưng, một khi chúng ta bước theo Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy con đường phù hợp, bởi vì Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Hơn thế nữa, Ngài chính là ánh sáng soi đường dẫn lối cho chúng ta.
9. Ơn gọi.
Như chúng ta đã biết nỗi ưu tư số một trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian. Chính vì thế mà ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài đã chọn cho mình những môn đệ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi Phêrô và Andrê: Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gioan. Thái độ của những môn đệ đầu tiên này thật là mau mắn và dứt khoát. Các ông đã bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay Chúa không hiện ra để kêu gọi chúng ta hay truyền dạy chúng ta phải làm điều nọ, điều kia, nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm gởi đến với chúng ta qua các sự kiện, qua các biến cố cuộc đời. Bởi vì mỗi biến cố là một dấu chỉ của thánh ý Chúa. Mỗi sự việc là một bài toán mà đáp số là sứ điệp Chúa muốn chúng ta đón nhận. Vì thế, cần phải tỉnh thức để nhận ra ý Chúa và sứ điệp của Ngài.
Thực vậy có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa, một thứ tiếng vọng lên từ bên trong, tuy âm thầm nhưng rất rõ, mời gọi nhưng không kém phần thúc thách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh mới của đời mình và từ đó bản thân được đổi khác.
Ơn gọi của Mẹ Têrêsa Calcutta là một thí dụ. Mẹ sinh năm 1910 tại Nam Tư. Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng Đức Bà Lorettô ở Ái Nhĩ Lan. Sau đó được cử sang Ấn Độ để vào tập viện. Mẹ đã cống hiến gần 20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng dành cho các thiếu nữ thuộc những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ trôi đi êm đềm bên đám học trò giàu có. Thế rồi vào một ngày nọ, nhân đi qua một đường phố ở Calcutta, Mẹ bắt gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã kéo đến gặm nhấm con người bất hạnh đó. Mẹ liền vực người thiếu phụ tới nhà thương. Mẹ nhất định cứ đứng ở trước cổng cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết. Từ biến cố này Mẹ cảm nhận được lời mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hiến mình cho những kẻ bị bỏ rơi. Và thế là Mẹ xin ra khỏi dòng, đến sống ở một khu vực tăm tối của thành phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không ngờ mình sẽ là người sáng lập một hội dòng mới chuyên lo việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ.
Lắng nghe và tìm biết ý Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện đã đành. Điều quan trọng hơn là có dám đáp trả lời mời gọi của Ngài hay không. Nhiều khi chúng ta đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ như không hề nghe thấy tiếng Chúa, để khỏi phải đáp trả, khỏi phải từ bỏ. Bởi vì chúng có quá nhiều những sợi dây vấn vương quấn chặt lấy cuộc đời và bản thân, khiến chúng ta không dễ gì tháo gỡ được. Những sợi dây vấn vương ấy là tiền bạc, địa vị, vui thú... Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Chúa là giá trị tuyệt đối, vượt lên trên tất cả. Và như thế phải có tình yêu mãnh liệt mới có thể từ bỏ lập tực những gì chúng ta đang ôm ấp bởi vì từ bỏ là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Chúa.
10. Galilê, vùng dân ngoại.
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Khi Gioan bị bắt, Đức Giêsu đã lánh qua Galilê.
Galilê là vùng ven, ít nguy hiểm cho Ngài. Dân cư ở đây phần đông là dân ngoại. Người Do Thái ở đây bị coi là những kẻ sống bên lề Dân Chúa. Nhưng Galilê lại là nguyên quán của Ngôi Lời làm người, và là nơi Đức Giêsu chọn để bắt đầu thi hành sứ vụ.
Từ Galilê, Ngài sẽ sai môn đệ đi khắp thế gian (Mt 28,19).
Đức Giêsu rời bỏ Nadarét, để đến cư ngụ tại Caphácnaum. Caphácnaum là địa bàn hoạt động được Ngài ưa thích. Có lúc nó được gọi là thành của Ngài (9,1), dù bất xứng (11,23).
Galilê, Nadarét, Caphácnaum chẳng có chút tiếng tăm (Ga 1,46), nhưng Đức Giêsu vẫn là một ngôn sứ xuất thân từ đó (Mt 21,11).
Hãy ngắm nhìn Đức Giêsu trên những nẻo đường.
Ngài rút về Galilê, Ngài đến Caphácnaum, đi dọc theo bờ biển. Khắp miền Galilê in dấu chân của Ngài (Mt 4,23), Ngài không vào hoang địa như Gioan, rồi gọi người ta đến. Ngài đích thân đến với con người ngay giữa đời thường. Ngài cứ đi không nghỉ, không đóng đô ở một chỗ. Nhu cầu quá lớn không cho phép Ngài dừng lại (Mc 1,38). Đức Giêsu chuyển động và kéo người ta chuyển động theo Ngài.
Những người đầu tiên là các ngư phủ mà Ngài quen biết. Tuy là những người ít học, không giàu có hay địa vị, nhưng đối với Ngài, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Ngài.
Sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi. Sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung. Sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh. Khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ.
"Các anh hãy theo Tôi": một lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Tôi và chia sẻ thao thức của Tôi.
Để lên đường cần bỏ lại cái êm ấm được phép, êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới.
Theo Chúa là chấp nhận ra khơi hay đúng hơn là chấp nhận lên bờ, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, là để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người, và tận tụy cho sứ mệnh loan báo Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần bên.
Để đón lấy quà tặng đó, cần sám hối, hoán cải.
Hoán cải là để Ngài kéo vào một chuyển động, là quay lại, là bỏ con đường mình đã quen từ lâu, để đi cùng chiều với Chúa và ngược chiều với cái tôi ích kỷ.
Đức Giêsu gieo rắc niềm vui khắp nơi.
Niềm vui cho người nghe, niềm vui cho người khỏi bệnh. Bước chân không mỏi, lời nói thiết tha, trái tim gần gũi?
Hôm nay Hội Thánh vẫn sống giữa những Galilê dân ngoại.
Chúng ta có đủ niềm vui để làm Galilê bừng sáng không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Đi kèm với lời giảng, Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo ý bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần phải làm gì kèm theo, để dễ được người nghe đón nhận?
Đức Giêsu đã gọi bốn bạn trẻ khi họ đang tất bật với cuộc sống. Có khi nào Chúa gọi bạn lúc bạn đang vất vả kiếm sống không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay. Có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
11. Con người phục vụ
Anh chị em thân mến.
Trong thời buổi kinh tế thị trường, con người được phục vụ tối đa, vì người ta rất tôn trọng khách hàng, xem khách hàng như Thượng Đế, nên sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng.
Trở về quá khứ không xa lắm, mọi người rất vất vã trong việc trang trí nhà cửa, hay mua sắm những thứ hơi nặng nhọc thì cũng rất e ngại. Ngày hôm nay, tất cả mọi sự đều được phục vụ đến nơi đến chốn. Đồ đạc dù nặng nề đến đâu cũng có người mang đến tận nhà khi có nhu cầu. Việc phục vụ như thế có lợi cho cả hai. Trước tiên có lợi cho người phục vụ: họ được trả công xứng với công việc họ làm. Kế đến là khách hàng được đáp ứng đúng với những gì mình mong muốn. Mọi người biết đáp ứng nhu cầu cho nhau thì tất cả cùng có lợi.
Chúa Giêsu cũng đã nhìn thấy nhu cầu của con người, nên Ngài cũng đã đáp ứng. Không phải chỉ trong những ngày của thời đại hôm nay, mà đã từ rất lâu và rất lâu. Ngài đã đến với con người, không phải chỉ những người ưu tú nhất, nhưng đến với tất cả mọi người, kể cả những người bị khinh dể, bị chê bai và bị chà đạp. Ngài đã đến với họ, đến với những người còn trong u tối. Để như thế, Ngài từ bỏ kinh thành Jérusalem, từ bỏ noi cao sang quyền quý, từ bỏ cả nơi Ngài sinh sống để đến với tất cả mọi người. Đến để mang lợi ích đến cho người khác, đến mà không tìm lợi ích cho mình, đến để phục vụ, để mang ánh sáng chân lý, để cho con người được sống. Ngài đến vì yêu thương nên Ngài bất chấp tất cả. Đó là sứ mạng của Ngài đến trần gian. Những ai biết hối lỗi, biết lắng nghe và biết đón nhận ánh sáng chân lý thì họ sẽ được đáp ứng tất cả. Còn nếu những ai cứ ngoan cố trong pháo đài mình dựng nên, để rồi tự hào, kiêu căng không lắng nghe, không hối cải, thì Ngài đành phải rời bỏ nơi đó mà ra đi.
Là con người ai cũng đều mong ước được phục vụ theo nhu cầu. Nhưng nếu con người không có nhu cầu thì làm sao người phục vụ có thể đáp ứng được, hoặc con người không cần đến người phục vụ, mặc dù nhu cầu vẫn cần thiết nhưng con người không thấy, cũng không muốn được sự cần thiết, vì ngỡ mình đang đầy đủ, đang dư thừa, đang có tất cả nên không cần phải nhờ đến ai. Chính lúc đó, con người đang chết lần chết mòn trong sự thiếu thốn mà họ không biết. Họ bị xa rời tất cả: xa rời môi trường sống, không phải vì môi trường không đáp ứng được cho họ. Nhưng vì họ không cần đến môi trường. Xa rời những người thân, không phải vì những người thân không quan tâm đến họ, nhưng vì họ không cần đến người khác. Xa rời hạnh phúc và bình an. Không phải vì những điều đó không đến với họ, nhưng họ không nhận ra mình thiếu thốn, nên không biết đón nhận. Đó là tâm trạng của những con người mà Chúa Giêsu đã phải đau buồn mà rời xa để đến nơi khác. Họ đang ngoan cố trong sự lầm lạc của mình để không còn nhận ra điểu gì phải lẽ nữa hết.
Mỗi người trong chúng ta đang sống trong thời đại văn minh, chúng ta cũng được một môi trường tương đối thuận lợi để phát triển tài năng trí tuệ. Chúng ta cũng có những niềm tự hào về bản thân và về tất cả những gì mình đang có. Cũng chính vì những gì đang có đó mà nhiều khi chúng ta không còn nhìn thấy được những gì mình không có hoặc chưa có, nên cứ ngỡ rằng mình đang có đầy đủ và không còn thiếu gì hết, vì thế nên không cần phải thay đổi hay thêm điều gì nữa. Chính những lúc đó, chúng ta không còn biết lắng nghe, không còn nhìn thấy mình nữa, mà cứ ngỡ rằng mình đang tuyệt đối. Khi đó chúng ta đang mang tâm trạng của những người không chấp nhận Chúa Giêsu và Ngài đành buồn bã như nổi buồn đối với những người cách đây 2000 năm. Ánh sáng mang đến, nhưng không được tiếp nhận. Bình an mang đến, nhưng không có nhu cầu để cho sự bình an được phục vụ. Hạnh phúc bên cạnh, nhưng không ai biết dùng đến. Không lẽ chúng ta là những người tự hào đang sống trong thời đại mới, thời đại văn minh, mà không nhận ra được những nhu cầu cần thiết như thế sao? Như vậy lời kêu gọi: hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến; không phải là nói với chúng ta sao?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người nhận ra được nhu cầu cần thiết của mình, để biết lắng nghe Tiếng Chúa và đến gần Chúa hơn.
12. Theo như ý Chúa
Anh chị em thân mến.
Nhìn những cánh đồng lúa xanh tươi bát ngát, một cảm giác êm nhẹ như len lén đi vào tâm hồn con người, tạo nên một nét thanh bình dịu dàng mà không một khung cảnh nào có thể sánh kịp. Nhưng nếu để một chút suy tư, chúng ta cũng dể dàng nhận thấy: nét thanh bình này cũng thay đỗi, cũng biến chuyển theo thời gian; từng đợt lúa xanh rồi chín vàng, được con người thu hoạch và những màu xanh cũng lại tiếp tục như thế. Khi những cây lúa xanh tươi kia đã hết kỳ hạn, nó phải nhường chỗ cho những cây lúa khác tiếp tục sứ mạng hiến màu xanh tươi tốt cho đời, đồng thời mang lại lợi ích cho con người. Từng thế hệ cây lúa nối tiếp nhau chu toàn sứ mạng đem sức sống cho đời. Nó phải chu toàn sứ mạng khi mưa cũng như khi nắng, khi thuận lợi cũng như khi bất lợi, nó vẫn phải mang đến cho đời những gì cần thiết.
Nếu có cây lúa nào đến thời kỳ thu hoạch mà nó không chịu rời chỗ của nó, nhường cho những hạt lúa khác có điều kiện nẩy mầm, thì số phận của những người hưởng nhờ sức sống từ cây lúa sẽ ra sao ? Còn mảnh đất nơi nó ngự trị có lẽ sẽ trở nên khô cằn.
Chúng ta vừa chứng kiến một sự thay đỗi:
Gioan đến thi hành sứ mạng, ông thi hành hết sức tốt đẹp, ông đem lợi ích đến cho nhiều người, nên ông tạo được uy tín cho mình, cũng tạo được niềm tin cho nhiều người tin vào những gì ông rao giảng. Đến mùa thu hoạch, kết thúc sứ mạng, ông không thể chần chừ thêm nữa. Đoạn kết sứ mạng có vẻ đau thương; trước mắt người đời, ông như bị Thiên Chúa bỏ quên. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, sứ mạng ông kết thúc, ông nhường chỗ lại cho sứ mạng khác, tiếp tục đem sức sống cho đời, sứ mạng cao trọng hơn ông.
Chúa Giêsu thi hành sứ mạng, đem sức sống mới cho đời, đem niềm vui của Thiên Chúa đến cho con người. Ngài thi hành sứ mạng theo Thánh Ý của Thiên Chúa chứ không phải theo ý con người, nên Ngài tránh xa những gì mà con người tìm trong hư danh.
Nếu Gioan cứ để cho mọi người ngưỡng mộ mình mà không chịu rút lui, thì chương trình của Thiên Chúa sẽ trục trặc với ông, và những người trông chờ ơn cứu độ cũng vất vả với ông. Nhưng ông biết vâng phục khi sứ mạng hoàn tất, nên lợi ích ông mang đến cho đời thật mãnh liệt.
Trong cuộc sống đời thường, ai cũng muốn chứng tỏ tài năng của mình cho mọi người nhìn thấy, để rồi mong muốn được mọi người ngưỡng mộ. Con người muốn tận hưởng niềm vui đó, nên không nhìn thấy được giới hạn của chính mình, càng không nhìn thấy được tài năng của người khác. Như thế thì con người làm sao biết được sứ mạng của mình phải hoàn tất để mang niềm vui và sức sống cho đời.
Mỗi người trong chúng ta, nhìn vào chính mình xem, có nhận ra được sứ mạng mà mình đang mang để đem niềm vui và sức sống cho đời. Chúng ta có lẽ cũng biết được những trách nhiệm trong cuộc sống, cũng có lý tưởng để mà bước đi, đôi khi cũng tìm được niềm vui trong phục vụ. Cũng có những lúc, chúng ta cũng tự hào về công việc của mình, nên cố hết sức, dùng tài năng để làm cho công việc được tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn, để được mọi người ngưỡng mộ khen tặng nhiều hơn, và chúng ta đã dừng lại ở đó. Chính vì dừng lại nên không còn nhìn thấy chính mình, không nhìn thấy người khác, nên không còn biết lắng nghe, không biết chấp nhận người khác, không bằng lòng với những gì trái ý mình. Những lúc đó mảnh đất con người của chúng ta đã trở nên khô cằn, vì những hạt giống mang lợi ích cho đời không thể nẩy mầm mới để mang lại sức sống mới được nữa, mà nó chỉ biết giữ lấy kết quả của thời quá khứ.
Nếu chúng ta nhìn thấy được thánh ý Chúa, biết chấp nhận, biết lắng nghe và thi hành trọn vẹn, cho dù có những đau thương hay mất mác, cho dù dường như người đời vô ơn bạc tình, nhưng đó là sứ mạng, là nhiệm vụ đem sức sống và hạnh phúc cho đời theo thánh ý Chúa chứ không phải theo ý của riêng mình. Được như thế thì cánh đồng lúa xanh tươi của con người sẽ từng thế hệ nối tiếp nhau, không bao giờ phải khô cằn hư hoại được. Như thế chúng ta đang bước đi trên con đường sứ mạng mà Gioan và Chúa Giêsu đã đi khi xưa.
Xin Chúa dẫn dắt chúng ta trong từng bước đi của cuộc đời.
13. Hiệp nhất trong Đức Kitô - Lm Bùi Quang Tuấn
Chuyện kể một nhà buôn nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Gặp kỳ cạnh tranh gay gắt trong công việc, anh ta càng gia tăng lời khẩn cầu gấp bội.
Động lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên hiện ra với anh và nói: "Thấy nhà ngươi thành tâm cầu xin nên ta không nỡ chối từ. Thôi thì bây giờ cứ cho ta biết ngươi muốn gì, ta sẽ ban cho... và đồng thời để tỏ cho nhân gian biết lòng quảng đại của ta thì hễ ban cho ngươi điều chi, ta cũng ban cho đồng nghiệp hay hàng xóm của ngươi như thế... và có khi gấp đôi luôn".
Nghe thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ vui mừng hân hoan qua sầu buồn lo lắng. Anh tự nhủ: "Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn...chúng nó sẽ được hai chiếc. Ái dà, thế thì không được! Nhưng nếu mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm... họ sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được! Còn nếu mình xin cho có vợ đẹp con khôn thì coi chừng đồng nghiệp sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó được hai vợ, trong mình chỉ có một... Thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải làm sao cho hơn người chứ. Nhưng xin như thế thì làm sao mà hơn được".
Chàng thương gia nhíu mày đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến quì xuống và thưa với thần: "Lạy ngài, xin vui lòng cho tôi đui một con mắt".
Quả là một lời khẩn cầu quái lạ! Không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác trỗi hơn. Song lại xin cho mình rủi ro để kẻ khác sẽ bị tổn hại nhiều hơn. Xin cho mình đui một con mắt để kẻ khác mù luôn. Đây quả là tiểu nhân và quá dã tâm.
Thế nhưng, nếu thành thật rà soát lòng mình thì không chừng tính chất dã nhân và tiểu tâm kia, tức là những đố kỵ, ghen ghét, nhỏ nhen, tàn bạo lại đang ẩn nấp đâu đó trong người tôi, để rồi nếu được thành công may mắn hơn ai thì nó sẽ nằm im bất động. Thảng hoặc, nó còn tỏ ra "quảng đại" và "thương xót" kẻ không may. Nhưng nếu ai đó trổi vượt hơn mình thì cái chất tiểu tâm và dã nhân kia sẽ bùng lên khó lòng dập tắt.
Chính cái chất đố kỵ, ghen tương, so bì kia đã là mầm mống của boa chia rẽ, bè phái, tranh chấp, phân ly, giận hờn, đui chột, mù loà trong cộng đồng nhân loại. Lắm người chẳng chịu nhường bước ai; điều gì của mình cũng đúng hơn, đẹp hơn, tốt hơn, và như thế kẻ khác tất phải sai hơn, xấu hơn, và dở hơn.
Tình trạng hơn thua làm nảy sinh phe nhóm bè phái, cùng với bao tranh chấp ghét ghen, không chỉ xảy ra ngoài đời, trong các đoàn thể chính trị xã hội, nhưng phải đau lòng mà nói: có khi nó còn xuất hiện trong những tổ chức manh danh có đạo, hay thuộc về Giáo hội.
Và đâu phải chỉ có trong Giáo hội của thời đại hôm nay, nhưng từ thời sơ khai, hiện tượng tranh chấp, phe nhóm, cũng đã xảy ra: "Tôi, tôi về phe Appolo. Tôi, tôi về phe Phaolô. Còn tôi, tôi về phe Kêpha Phêrô".
Sự phân chia phe nhóm trong cộng đoàn thế kia, một phần là do các sở thích và tình cảm cá nhân quá nặng. Một số thấy Phaolô là con người cương trực, ăn thẳng nói ngay, nên phục và mến lắm. Nhưng số khác thì không chịu nổi tính khí đó, nên đã chạy theo Phêrô, vị này vừa là thủ lãnh tông đồ lại vừa "dễ dãi, sao cũng được". Thơ Galat có kể rằng khi vắng mặt các thành viên Do thái trong cộng đoàn thánh Giacôbê, Phêrô đã ngồi ăn chung, uống chung với dân ngoại, nhưng khi thấy họ đến thì ông lại tránh đi. Thế nên một lần kia Phaolô đã trách Phêrô trước mặt mọi người: "Nếu ông, một người Do thái, ông còn sống như người ngoại chứ không như người Do thái, thì làm sao ông lại thúc bách người ngoại sống như Do thái được?" (Gal 2:14).
Có lẽ vì Phêrô "dễ dãi" như thế nên nhiều người thích và đi theo ủng hộ. Trong khi đó một số người khác lại khoái Apollo. Ông này ăn nói lưu loát, có khả năng diễn thuyết hùng hồn, bao biện luận để minh chứng Chúa Giêsu là Đức Kitô thật là sắc bén và chí lý. Thế nên họ thích nghe hơn, và rồi cái gì Apollo nói cũng đúng, cũng hay; còn Phaolô thì cứng quá, và Phêrô lại mềm mỏng quá.
Những khuynh hướng lưu luyến và tình cảm nặng tính cá nhân đó đã tạo nên phân rẽ trầm trọng trong cộng đồng Dân Chúa thời sơ khai, đến nỗi Phaolô đã kêu lên: "Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng tâm hiệp ý với nhau. Đừng chia rẽ, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một thần trí và một tâm tình". (1 Cor 1:10).
Thiết tưởng, lời kêu gọi đó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay, trong mọi cơ cấu tổ chức của giáo xứ, cộng đoàn, và gia đình. Hãy đồng tâm ý hiệp với nhau. Đừng vì khuynh hướng, sở thích, quan điểm, hay tình cảm cá nhân chi phối mà ủng hộ, hợp tác với người này người nọ hoặc chống đối, chê bai, lạnh lùng với người kia.
Lời thánh Phaolô vẫn còn đó: Đức Kitô bị phân chia rồi sao? Chân lý và Tin mừng của Đức Kitô bị xé mãnh rồi sao? Và Tin mừng làm sao có được trong ghen ghét, tị hiềm, đố kỵ, phân ly, xâu xé. Có chăng chỉ là tin buồn thôi.
"Nhân danh Đức Kitô, tôi nài xin anh em hãy liên kết trong cùng một thần trí và một tâm tình". Thần trí đó là thần trí yêu thương, và tâm tình đó là tâm tình khiêm hạ. Chớ ao ước những điều bất chính, khổ đau cho kẻ khác. Đừng muốn mình chột để người ta bị mù. Nhưng hãy cầu cho nhau những sự may lành. Hãy "vui với người vui", vì điều đó đôi khi còn khó hơn "khóc với người khóc". Hãy tạ ơn Thiên Chúa cho nhau. Và điều quan yếu, hãy hiệp nhất với nhau.
Hiệp nhất chính là tinh thần và sứ mạng của Chúa Giêsu mà những ai tự xưng là môn đệ của Ngài phải tiếp nối. Bởi lẽ Chúa Giêsu đến thế gian không mục đích nào khác hơn là gieo trồng hiệp nhất: hiệp nhất con người lại với Thiên Chúa, hiệp nhất con người lại với nhau, hiệp nhất bao tan vỡ tâm hồn hầu qua đó tình thương của Thiên Chúa, bình an từ trời cao, và niềm vui ơn cứu độ được tuôn trào đến khắp trần gian.
Tình thương, bình an, và niềm vui đó cũng chính là phần thưởng muôn đời cho những ai can đảm bước trên con đường mà Đức Giêsu đã đi.
14. Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM
“Dân tộc ngồi trong bóng tối
đã thấy sự sáng” (Mt.4:12-17)
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài sau khi Gioan chấm dứt phận sự của ông. Ngài không khép kín trong một quốc gia hay trong một dân tộc nào, nhưng cho toàn cõi trái đất.
Theo sử liệu thì Ga-li-lêa là miền phong phú, nơi tụ họp các dân tộc, các sắc dân, các tôn giáo. Nơi có nhiều môn phái tôn giáo như Pharisiêu, Sađukêu, Do Thái Jawher, tóm lại, nó tượng trưng cho một thế giới lớn mà Chúa muốn trao phó cho Giáo Hội của Ngài “Dân ngồi trong bóng tối đã thấy ánh sáng huy hoàng”.
Thánh Mathêu nói về 2 dân tộc Giabulon và Neptali thuộc chi họ Israel bị xâm chiếm và bị diệt chủng, bị đô hộ và nhập hóa. Họ giống như nước ta trong thời bắc thuộc: đàn bà phải lấy Tầu, đà ông phải đi lính cho chết. Nhưng người còn trung thành, còn yêu nước tìm cơ thuận tiện quật khởi. Họ nghĩ mình bị đè bẹp, bị ngồi chờ trong bóng tối sự chết.
Ngày nay tại quê hương, bao người Công Giáo cũng nghĩ mình đang bị đè bẹp trong bóng tử thần, nhưng họ cố trung thành, cố vươn lên bao nhiêu có thể.
Chúng ta nghĩ gì về số phận người trẻ công giáo trong thế giới hôm nay? Họ có phải đang bị tối tăm và sự chết thiêng liêng không? Thế giới này khác nào như Galilêa, đủ mọi sắc dân, đủ mọi tôn giáo, mọi phong tục, mọi lối sống làm người trẻ giữa thế giới này không bị cấm đạo, không bị lối sống dân tộc, không bị bách hại công khai, nhưng nếu nghĩ đến số phận con người, nghĩ đến giá trị tinh thần, nghĩ đến gia đạo, thì chúng ta cũng bị ảnh hưởng xã hội bằng sức mạnh của điện ảnh, của đam mê, của phong trào, của phong tục ngoại quốc làm cho chúng ta bị tiêu diệt.
Làm thế nào để Chúa là ánh sáng đời tôi?
Giáo Hội có sứ mệnh khơi dậy còn chúng ta có nhiệm vụ khai sáng. Hãy phơi bầy ý nghĩ ta trước mặt Chúa. Hãy hỏi xem cái gì là thật giả, cái gì là tốt xấu, là đúng sai. Đúng nhất là câu trả lời theo ánh sáng lương tâm Chúa soi dẫn. Hãy đặt đời sống mình dưới ánh sáng của Chúa và trung thành với lương tâm ngay thẳng.
Làm thế nào để trở nên ánh sáng? Để lấy lại ánh sáng chân thực này? Câu cuối cùng của bài Phúc Âm: Hãy ăn năn, hãy đổi chiều hướng, hãy đổi lại cõi lòng. Hãy xưng tội. Khi thấy mình xa ánh sáng Chúa soi dẫn, ta cần phải đặt vấn đề, phải hỏi để sửa lại.
15. "Miền Galilê ngoại giáo"
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Địa dư Palestine có ranh giới:
- Đông giáp sa mạc Syria và Ả rập. - Tây giáp Địa Trung Hải. - Bắc giới hạn từ thung lũng núi Liban chạy đến núi Hermon. - Nam giáp ranh Iđumê, miền đất hoang vu Bersabê và Biển Chết.
Cựu ước thường dùng kiểu nói "từ Đan đến Bersabê" để chỉ miền đất Do thái cư ngụ. Chiều dài từ chân núi Liban tới Bersabê là 230 km; chiều rộng từ Địa Trung Hải đến sông Giođan là 37-150km. Diện tích phía tây Giođan là 15.643 km2, phía Đông (Transjordanie) là 9482km2. Tổng cộng là 25.124km2.
Palestina thời Chúa Giêsu chia làm bốn miền:
- Galilêa có thành Capharnaum, Nazareth.
- Samaria nằm giữa xứ Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc.
- Giuđêa là miền núi có thủ đô Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan.
- Phía Bắc là miền Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn hoá Hylạp.
Palestina có địa lý đặc biệt: Thung lũng Giođan chia Palestina làm hai miền: Palestina và Transjordanie. Thung lũng này là hiện tượng địa lý duy nhất trên địa cầu: bắt đầu từ núi Taurus, ngang qua Celesyria, đến Palestina, rồi tiếp tục theo phía Đông bán đảo Sinai tới Biển Đỏ. Phía Bắc (thành Đan) cao hơn Địa trung hải 550m; càng về phía Nam càng thấp xuống. Tibêriade thấp hơn Địa trung hải 208m; tới Biển Chết mực nước thấp hơn 392m. Sông Giođan phát nguồn từ núi Hermôn, chạy qua hồ El-Hule (dài 6000m, sâu từ 3-5m), rồi qua hồ Tibêriade, đổ vào Biển chết. Hồ Tibêriađê (gọi là Giênêzarét) dài 21km, rộng 12 km, sâu 45m, nước trong xanh và nhiều cá. Biển chết dài 85km, rộng 16km, nước biển nhiều độ mặn nên không vật nào có thể sống được. Miền Duyên hải từ núi Libanô đến núi Camêlô, rộng từ 2-6km. Từ núi Camêlô đến Gaza phía Nam, bờ biển rộng đều và thẳng với các hải cảng Akko, Haifa và Jaffa (Joppé). Giữa Haifa và Jaffa, vua Hêrôđê xây thêm hải cảng Cêsarêa. Từ núi Camêlô đến Jaffa là bình nguyên Sharon phì nhiêu. Từ Jaffa xuống phía nam là bình nguyên Sêphêla thuộc xứ Pelistin (danh xưng Palestina xuất phát từ chữ này). Bình nguyên Esdrelon từ phía Bắc núi Camêlô chạy theo hướng Đông Nam, chia phần đất phía Tây sông Giođan làm hai phần: Galilê phía Bắc, Samaria và Giuđêa phía Nam. Miền Galilê: phía bắc nhiều núi, nam là bình nguyên Esdrelon, miền duyên hải là đồng bằng, giữa là đối núi thấp dần về phía sông Giođan.
Bên kia sông Giođan(Transjordanie)là miền đồi núi, chia làm 3 phần:
- Trachonitide thuộc Đông-Bắc hồ Tiberiade.
- Miền Thập tỉnh phía đông-nam hồ.
- Pêrêa thuộc phía đông sông Giođan và Biển chết, đối diện với Samaria và Giuđêa.
Người Do thái không chiếm cứ hoàn toàn miền bên kia sông Giođan. Trước thời kỳ Hy hóa, đã xuất hiện tại mạn Bắc nhiều bộ lạc Aram. Thời Hy hóa, từ sau cuộc chinh phục của Alexandre đại đế, nhiều người Hy lạp đến đây cư ngụ. Thời Đức Giêsu, họ lập thành miền Thập tỉnh, có khoảng 10 thành liên minh với nhau. Các thành nổi tiếng hơn cả là Damascô, Hippos, Gadara, Gerasa, Pella, Philadelphia.
Thủ đô Giêrusalem là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của Dân tộc Do thái. Hàng năm, khắp mọi miền đất nước người ta đổ về Giêrusalem để dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, có dinh của Thầy Cả Thượng phẩm, có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Dân chúng ở Giuđê coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samari là dân ngoại vì dân Samari xây cất đền thờ trên núi Garizim. Dân Giuđê không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samari. Họ cũng khinh miệt dân Galiê vì đó là nơi pha tạp mọi sắc dân là đất của dân ngoại. Giuđê là vùng có đạo toàn tòng, là trung tâm của đạo Do Thái, còn Galilê là miền giáp ranh giữa ranh vùng có đạo và vùng ngoại đạo. Quả thực đây là vùng xôi đậu. Về mặt chính trị, vùng này chịu ảnh hưởng ngoại bang thật sâu đậm. Về mặt chủng tộc, ở đây người Do Thái sống lẫn lộn giữa dân ngoại. Về mặt tôn giáo, Galilê thua xa Giuđê, bị coi là ở bên lề của cộng đồng dân Chúa. Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ, nhà quê. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày...
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu không chọn rao giảng ở Giêrusalem mà chọn Galilê.
Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khoảng 60 cây số, dân cư sống đông đúc. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân. Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: "Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất".
Đặc tính bẩm sinh của người Galilê giúp việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Chúa Giêsu chọn Galilê làm trung tâm truyền giáo. Những tín đồ chính thống ở kinh đô chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc. Chúa Giêsu rao giảng tại Galilê, xa thói ngạo mạn, tính tự tôn và sự mù quáng của dân thành đô. Chúa chọn Galilê vì ở đây mọi người biết chấp nhận nhau chung sống hoà bình.
Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới. Các Tin mừng Nhất Lãm đã kết thúc thời kỳ đầu rao giảng tại Galilê của Chúa Giêsu bằng lời tuyên xưng của Phêrô "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16). Sự chọn lựa miền đất Galilê có một ý nghĩa quan trọng theo Tin mừng Matthêu. Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: "Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi". Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Chúa Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha; Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Chúa Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần. Chúa Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những lương dân và những người vô thần.
Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bốn môn đệ đầu tiên ở biển hồ Galilê.
Chúa Giêsu đã gọi và chọn các tông đồ là những người chài lưới tầm thường. Đáng lý Chúa phải chọn những người ưu tú trong đám trí thức và được coi là đàng hoàng ở Giuđê mới phải. Tại sao Chúa lại chọn những người làm nghề chài lưới? Phải chăng Người ngụ ý dạy các môn đệ phải luôn luôn sẵn sàng rời bỏ đất liền và thế giới riêng của mình, nghĩa là rời bỏ cái khung cảnh an toàn và đóng kín của mình để ra khơi, giữa đại dương mênh mông vô bờ bến và đầy gian nguy, tức là đến với thế giới rộng lớn và xa lạ để cứu vớt thế giới?
Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh... nhưng ở giữa đời sống thường ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp. Các môn đệ ngư phủ tuy là những người ít học, không giàu có, không địa vị, nhưng đối với Chúa, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Người. Chẳng hạn, sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi; sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung; sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh; khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ. Cuộc gặp gỡ này đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ này là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới. Cuộc gặp gỡ làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.
Các ngài gặp gỡ và bước theo Chúa để học nơi Chúa. Họ nhận ra rằng: Chúa Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Người là Lời Chúa. Người không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Người là Sự Sống. Người không những chỉ cho biết ý nghĩa của "Đường sự Sống", mà chính Người là Đường Sự Sống, là Ánh Sáng.
Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ. Các ngài đáp trả chân tình. Các ngài được sống thân mật với Chúa. Các ngài ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa. Đó là hành trình ơn gọi của các Tông Đồ. Đó cũng là hành trình ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc "chinh phục các linh hồn" cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm "vùng đất ngoại bang", và noi gương của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới, những "vùng Galilê, miền đất của dân ngoại" mà Chúa sai chúng ta đến. Và hơn nữa "miền Galilê ngoại giáo" của ta là chính bản thân ta vì vẫn còn những vùng tăm tối ngay trong tâm hồn và cuộc sống của ta chưa được ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu và biến đổi. Chính Người vẫn còn nói với ta hôm nay, những kẻ đã tin theo Người: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1, 15).
16. Ánh Sáng huy hoàng – Anmai
Chuyện kể rằng vào thời vua Akhát, con vua Giotham, cháu vua Útdigiahu, trị vì Giuđa, thì vua Aram là Rơxin, và vua Israel là Pecác, con ông Romangiahu, lên đánh Giêrusalem, nhưng không thể tấn công được. Tin dữ đến với nhà Đavít rằng: "Aram đã đóng quân ở Épraim." Khi nghe được tin dữ ấy lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió.
Thiên Chúa, mãi mãi yêu thương dân của Ngài nên rồi Ngài ra tay cứu dân. Ngài bảo với Isaia: "Ngươi hãy cùng với Sơa Giasúp, con ngươi, ra đón vua Akhát ở cuối kênh dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. Ngươi hãy nói với nhà vua: "Ngài hãy coi chừng, cứ bình tĩnh, đừng sợ, chớ sờn lòng trước hai cái đầu que củi chỉ còn khói đó, trước cơn giận sôi sục của Rơxin, vua Aram, và của người con Rơmangiahu. Vì Aram cùng với Épraim và người con Rơmangiahu đã mưu tính hại ngài và nói: "Ta hãy lên đánh Giuđa, làm cho nó khiếp sợ ta, và đặt con ông Tápên làm vua ở đó."
Thiên Chúa không chỉ cứu dân Israel thoát khỏi bàn tay của Aram nhưng còn làm vẻ vang dân của Ngài ở miền bên kia sông Giođan - vùng đất của dân ngoại. Lời hứa ấy chúng ta vừa nghe Isaia thuật lại: “Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơvulun và đất Náptali, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Giođan, vùng đất của dân ngoại. Ơn giải thoát.
Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian”.
Có lẽ thời vua Akhát là thời mà dân cảm thấy hạnh phúc nhất vì lẽ không chỉ sống trong cảnh anh bình thịnh vượng mà còn được niềm vui. Niềm vui ấy tăng lên khi thắng trận mà còn được chia nhau chiến lợi phẩm, ách nặng không còn đè lên cổ và không phải chịu đòn roi của kẻ hà hiếp nữa. Và, hạnh phúc lớn nhất của họ là từ nay họ đã được ơn giải thoát, ơn cứu độ.
Hạnh phúc của dân thời ấy phải chăng cũng là hạnh phúc của vua Đavít? Ở Thánh Vịnh 27 – Thánh Vịnh đáp ca mà chúng ta vừa đọc, vừa nghe lại chính là tâm tình, là nỗi niềm hạnh phúc của Đavít khi ông nhận ra Chúa chính là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của đời ông.
Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa?
Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi,
ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,
lại lảo đảo té nhào.
Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.
Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.
Một điều tôi kiếm tôi xin,
là luôn được ở trong đền Chúa tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng.
Cuối tâm tình ấy của Thánh Vịnh 27, Đavit đã thốt lên:
Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào Chúa.
Quả thật, nhìn lại cuộc đời của Đavít, chúng ta thấy hết sức hay và hết sức đặc biệt. Mang trong mình thân phận hết sức yếu đuối của con người, đã phạm trọng tội nhưng ông đã quay trở về với Thiên Chúa là Tình Yêu. Cảm nhận hay nói đúng hơn là xác tín của ông về một Thiên Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ là một xác tín mà chúng ta cần phải học hỏi, cần phải cảm nhận để nhìn nhận Chúa chính là nguồn ơn cứu độ và là nguồn ánh sáng thật của đời chúng ta chứ không phải là ai khác.
Thiên Chúa vẫn yêu thương, Thiên Chúa vẫn cứu độ con người bằng cách này cách khác. Thiên Chúa đã bày tỏ Tình Yêu của Ngài cho con người mọi lúc mọi nơi có thể được.
Một “ánh sáng” mà Thiên Chúa gửi đến cho cuộc đời đang lui vào bóng tối đó là Gioan Tẩy Giả thì một “ánh sáng” khác đó là Đấng Cứu Độ trần gian đã được gửi đến cho nhân loại.
Sau khi “ánh sáng” Gioan đến và làm chứng cho Ánh Sáng, cho Sự Thật đã bị thế gian đẩy lùi và thủ tiêu thì ánh sáng Giêsu đã đến để tiếp tục làm chứng cho Ánh Sáng thật, cho Sự Thật trên thế gian này.
Trước khi Chúa Giêsu nhập thể, thế gian ở trong tình trạng tối tăm và đáng sợ. Nhưng giữa tình trạng hãi hùng này đã vọng lên tiếng nói trấn an của Isaia, là vị tiên tri đã hứa với dân chúng rằng chẳng bao lâu nữa một ánh sáng vĩ đại sẽ xuất hiện để phá tan đêm tăm tối. Và lời hứa của tiên tri Isaia đã được thực hiện viên mãn khi Chúa Giêsu nhập thể.
Matthêu so sánh Chúa Giêsu đến và xuất hiện giữa cuộc đời như một ánh sáng huy hòang chiếu soi mọi người đang sống trong bóng đêm sâu thẳm. Matthêu thấy Chúa Giêsu là sự hòan thành lời tiên tri cao cả của Isaia: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hòang, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Chúa Giêsu đã từng vẽ nên sứ vụ của Ngài bằng những lời tương tự khi Ngài nói: “Ta là ánh sáng thế gian”.
Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống, riêng với con người thì không những ánh sáng cần cho sự sống của thân xác mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối thường làm cho con người cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc đời chúng ta: bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê. Càng giam mình trong những bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh họan. Người nào càng sống ích kỷ, và người nào càng nghiền ngẫm đắng cay hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình. Vì thế, chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người như để chữa trị những băng họai trong tâm hồn.
Lời của ngôn sứ Isaia nói xưa đã được Chúa Giêsu làm nên hiện thực. Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Ngài đến để soi sáng cho kẻ ngồi trong bóng tối, ban niềm vui, niềm hy vọng sống cho tất cả mọi người. Chúa cũng muốn chúng ta khám phá ánh sáng của Ngài. Chúa mời gọi chúng ta cũng trở nên ánh sáng cho những người mà chúng ta gặp gỡ.
Trong cuốn Justs for today người ta có kể lại: ông J. Keller, một nhà diễn thuyết nổi tiếng, đang nói truyện trước trăm ngàn thính giả tại vận động trường Los Angeles, Hoa kỳ, đang diễn thuyết, ông bỗng dừng lại và nói: “Bây giờ xin các bạn đừng sợ, tôi sắp cho tắt tất cả các đèn điện trong sân vận động này”. Ông vừa dứt lời thì cả sân vận động chìm trong bóng tối. Nhà diễn thuyết nói tiếp: “Bây giờ tôi xin đốt một que diêm, những ai nhìn thấy que diêm tôi đốt, xin kêu lên: “Đã thấy”. Cả sân vận động vang dội tiếng: “Đã thấy”. Rồi tất cả đèn điện lại được bật sáng. Diễn giả giải thích: “Ánh sáng của một nghĩa cử sẽ chiếu sáng trong đêm đen của nhân lọai như thế. Một lần nữa, tất cả đèn điện lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai ở đây có đem theo diêm quẹt hãy bật lửa, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc, cả sân vận động rực sáng. Diễn giả kết luận như sau: “Nếu tất cả chúng ta cùng hiệp lực với nhau, chúng ta có thể chiến thắng bóng tối của sự dữ, hận thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
Ánh sáng Giêsu đến trần gian để xóa tan mọi hận thù, chia rẽ, tranh giành. Ánh sáng Giêsu đến thế gian để quy tụ tất cả mọi người nên hiệp nhất, nên một trong Tình Yêu của Ngài. Hiệp nhất, yêu thương cũng chính là tâm tình mà Thánh Phaolô mời gọi cộng đoàn Côrintô mà chúng ta vừa nghe: Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơlôe cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em. Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: "Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô." Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?
Tâm tình Thánh Phaolô để lại hôm nay cũng là tâm tình hết sức dễ thương mà chúng ta phải học hỏi, phải bắt chước. Một khi đã nhận ra ánh sáng Giêsu trong đời mình thì khi ấy chúng ta cũng phải sống yêu thương, hiệp nhất, một lòng một ý với anh chị em đồng loại.
Hãy bắt đầu là ánh sáng của Giêsu ngay từ trong môi trường nhỏ bé là gia đình, là chòm xóm, là công sở, nơi xứ đạo của chúng ta.
Nguyện xin ánh sáng Giêsu đến và ở lại trên mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta cũng chiếu tỏa ánh sáng Giêsu trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
17. Chúa Giêsu là ánh sáng thật
Thời gian gần đây người dân Việt Nam liên tục sống trong cảnh bị cúp điện. Những khi bị cúp điện làm cho người dân cảm thấy như ngột ngạt và tối tăm. Vì có người cho rằng thà rằng không có điện mà đã có rồi bị cúp làm cho sinh hoạt hằng ngày trong cuộc sống như tê liệt. Nhất là nhờ có điện mà việc thắp sáng cho sinh hoạt hằng ngày trở nên nhẹ nhàng và thoải mái hơn. Mà những ngày cúp điện tới khuya làm cho sinh hoạt của người dân vào lúc đầu hôm trở nên khó khăn hơn.
Nói như vậy để cho thấy ánh sáng là một trong những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống của con người. Ánh sáng của đèn dầu, của đèn điện, của mặt trời hay của mặt trăng có giới hạn của nó. Nó sẽ tan biến theo thời gian. Vậy có ánh sáng nào tồn tại mãi để soi bước cho người tín hữu chúng ta?
Đoạn Tin mừng hôm nay nằm trong khung cảnh sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa - biến cố Người chính thức ra đi thi hành sứ mạng của mình. Theo văn mạch của Tin mừng theo Thánh Matthêu thì những vùng đất được kể hôm nay là những vùng đất đặc biệt. Dân chúng nơi đang sinh sống trong những vùng đất này đang khao khát Đấng Cứu Thế. Vì Đấng Cứu Thế đến sẽ giải thoát họ.
Đáp lại nỗi lòng khao khát đó Chúa Giêsu đã đến với họ. Như lời tiên báo của tiên tri Isaia: "Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" (Mt 4, 16). Vậy, giờ đây họ đã được chiếu sáng bởi ánh sáng thật là Chúa Giêsu. Người đi đến đâu là sự giải thoát được thực hiện nơi đó.
Tuần trước chúng ta đã được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng đến gánh tội thay cho trần gian (Ga 1, 29). Thật vậy, những ai bước theo Chúa Giêsu và chọn Người làm gia nghiệp đời sẽ được sống dồi dào và hạnh phúc. Chính Người đã tuyên bố: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga 8, 12)
"Tôi chỉ tin một Ðức Kitô, Ðấng tôi hằng yêu mến". Đó là lời tuyên tín của Thánh nữ Anê trước những lời dụ ngon dỗ ngọt và thậm chí là những lời răn đe của những người bắt bớ thánh nhân. Một thiếu nhi mới 13 tuổi ở độ tuổi mà người ta gọi là ăn chưa no lo chưa tới mà đã biết dùng chính mạng sống của mình để bảo vệ cho niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật soi dẫn chúng ta trên đường về với Chúa Cha. Hãy bảo vệ niềm tin và sống niềm tin của mình vào Người trong đời sống đạo của mình.
18. Lựa chọn của Chúa Giêsu
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.
Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.
Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?
2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?
3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?
19. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Dẫn nhập đầu lễ:
Kính thưa ông bà anh chị em,
Nếu Chúa Nhật tuần trước phụng vụ giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô là Tôi Tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, là Đấng đến để phục vụ chương trình cứu độ trong tư thế của một Người Con khiêm nhu, vâng phục, hy sinh…, thì Chúa Nhật hôm nay, Phụng vụ giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô Ngôn Sứ, một Đức Kitô loan báo Tin Mừng, một Đức kitô truyền giáo, một Vị Thừa Sai, một Nhà Giải Phóng. Vâng, Đức Kitô đến để giải phóng chúng ta, để giải phóng nhân loại khỏi vòng tăm tối của quỉ ma, tội lỗi và sự chết, để đem tất cả vào sự sáng của niềm vui ơn cứu độ. Niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu-Kitô là như thế; và đó cũng chính là niềm hy vọng, là lẽ sống, là chân lý vĩnh hằng mà chúng ta sẽ không gặp được ở bất cứ một nơi nào khác.
Giảng Lời Chúa:
1. Một thế giới luôn có bóng tối
Sau biến cố Tổ tông loài người sa ngã, cửa địa đàng đóng lại, có thiên thần cầm gươm lửa đứng canh, tổ tông loài người bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng để lầm lũi bước đi trong thương đau khổ lụy… để rồi sau đó phải chứng kiến nào bạo lực, nào sẻ chia, nào hồng thủy, nào chiến tranh loạn lạc…
Mấy lời kinh thánh đơn sơ đó đã diễn tả thân phận loài người và thế giới mà loài người sinh sống ngay từ đầu đã mang dấu vết của bất toàn, của đổ vỡ, của lầm than của bóng tối.
Và mỗi ngày, trên hành tinh nầy, chúng ta chứng kiến bao nhiêu chuyện đáng buồn cứ liên tục xảy ra, liên tục phát triển: khủng bố, chiến tranh, phá thai, ly dị, cướp bóc, hận thù, và bao nhiêu tội ác ngập tràn… Quả thật, thế giới của chúng ta hôm qua, hôm nay và ngày mai là một thế giới đã hằn sâu vết thương của tội nguyên tổ, một thế giới đang bị những thế lực của bóng tối, của tội lỗi và ma quỷ quậy phá, lũng đoạn.
2. Một thế giới được nâng lên, được cứu chuộc:
Nhưng chính trong thế giới nầy, chứ không một thế giới nào khác, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm nguời, đã cắm lều cư ngụ giữa chúng ta:
- Ngài sinh ra trong chế độ của một bạo chúa: Hêrôđê.
- Ngài lớn lên trong một đất nước đang bị ngoại bang xâm lăng: It-ra-en đang thời bị đế quốc Rôma đô hộ.
- Ngài sống trong một xã hội mà tôn giáo đang xuống cấp và phân rẽ, bạo lực gia tăng, giàu nghèo cách biệt, bệnh hoạn tật nguyền tràn ngập khắp nơi…
Chính Tin mừng Matthêô hôm nay đã ấn chứng thêm điều đó khi tường thuật việc Chúa Giêsu đến với vùng dân ngoại bên kia bờ sông Giođan, dân Náp-ta-li, dân Dơ-vu-lon, để loán báo tin Mừng cho họ. Phải chăng đó cũng chính là điều mà bài đọc 1 hôm nay, I-sa-ia đã tiên báo: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiéu rọi…”
Chính trong bối cảnh đó, Đức Giêsu thành Na-da-rét đã công bố một Tin Vui: “Nước Thiên Chúa đã đến đây rồi”, “lời ngôn sứ hứa hẹn tiên báo ngày xưa nay đã trở thành hiện thực”. Và điều kiện để gặp được, để đi vào Vương Quốc đó lại chính là một cuộc “cách mạng nội tâm”, một cuộc “đổi đời từ căn bản”, một cuộc hoán cải trở lại, metanoia dứt dạc, tận cùng từ trái tim đến hành động, từ quan niệm đến thực hành:
- Thay vì ích kỷ thủ lợi cho mình hãy biết quảng đại cho đi
- Thay vì tham lam thu vén cho đầy túi hãy biết gạt bỏ để sống siêu thoát, khó nghèo giản đơn.
- Thay vì nhầy nhụa vẫn đục dâm ô, hãy vươn cao với cõi lòng thanh tao trong sáng.
- Thay vì khao khát nắm quyền để đàn áp bóc lột, cầm quyền sinh sát, hãy biết quỳ xuống khiêm hạ rửa chân và phục vụ anh em.
- Thay vì bạo loạn, gây hấn, chuốc oán hận thù, hãy làm lành làm phúc, xây dựng hòa bình…
Cứ chấp nhận những đòi hỏi ấy đi, cứ thực hành các nguyên tắc của “Tám Mối phúc thật” đi, tức khắc một thế giới mới sẽ được khai sinh, một nhân loại mới sẽ được cứu chuộc.
Kể từ buổi chiều Thứ Sáu cách đây 2000 năm trên ngọn đồi Can-Vê ngoại thành Giê-ru-sa-lem, khi Đức Kitô công bố Tin Vui cuối cùng: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với ta”, thì mỗi giờ, mỗi ngày đều có một thế giới mới được khai sinh, một “vương quốc của sự thật, sự sống, công bình và yêu thương” dần dần ló dạng ở cuối chân trời.
- Vâng, một thế giới mới khai sinh cùng với Hội Thánh khi Hội Thánh họp nhau cử hành phụng vụ.
- Một thế giới mới được khai sinh cùng với bao tâm hồn thánh thiện đã sống trọn vẹn con đường của Phúc âm.
- Một thế giới mới sẽ tiếp tục được khai sinh với bao thế hệ chứng nhân tông đồ hăng say lên đường thực thi sứ vụ truyền giáo.
- Và một thế giới được khai sinh cùng với bao cuộc đời âm thầm khiêm hạ chắt chiu từng giọt mến Chúa, từng giây yêu người trong những tăm tối đời thường nhưng vẫn hân hoan trong niềm tin yêu hy vọng.
Vâng, bao lâu còn có những người Kitô hữu, còn có những con người biết sống xả kỷ yêu thương, biết phục vụ quên mình, biết trung thành với ơn gọi và sứ mệnh là bấy lâu bóng tối của sự dữ sẽ bị đẩy lùi để nhường chỗ cho một thế giới mới tràn ngập ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Sứ điệp phụng vụ hôm nay không cho phép chúng ta sống tiêu cực và nản lòng trước một thế giới đầy thương tích, một cuộc sống vẫn dở dang…Bởi vì Thiên Chúa không thể cứu độ con người theo kiểu “mì ăn liền”, mà Ngài gọi mời chúng ta cọng tác, dấn thân và lao mình về phía trước. Điều quan trọng cũng cần chúng ta lưu ý mà thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rinh-tô trong bài đọc hôm nay đang nhắc khéo đó chính là: phải hiệp nhất, yêu thương, nên một, phải liên kết như cành nho trong thân nho, như chi thể trong thân thể, để làm nên một sức mạnh tổng hợp, một thế đứng mạnh mẽ. Bởi vì không phải A-pô-lô hay Phaolô nhưng chính Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Ngài mới là cùng đích.
Sau hết, nếu chúng ta đã cố gắng hết mình mà sao thấy cuộc đời nầy, thế giới nầy vẫn chưa có gì chuyển biến, thì ta hãy học kinh nghiệm này của Ludovic Giraud qua mấy dòng cuối của lời kinh của ông:
Và khi trên cánh đồng truyền giáo
Con đã không ngừng gieo vãi
Thế mà không thấy gì mọc lên,
Thì xin Chúa cho con giữ trọn niềm vui,
Xác tín rằng một ngày nào đó,
Vào giờ của Chúa
Nhờ lời nói và những cố gắng của con,
Rốt cuộc thì Chúa sẽ thống trị trên vũ hoàn. Amen.
20. Ơn cứu độ cho mọi người
Phật Giáo cho rằng đời là bể khổ. Nhưng tại sao khổ? Tại dục vọng hoành hành nên con người khổ. Mà dục vọng hoành hành do đâu? Phật giáo chưa giải thích rõ nguồn gốc này. Là người Kitô giáo chúng ta biết lý do. Trước kia, khi ông bà nguyên tổ của chúng ta chưa ăn trái cấm thì đời chưa khổ. Loài người lúc đó không phải đau khổ và không phải chết. Loài người lúc đó sống trong tình nghĩa với Chúa, hạnh phúc, tràn đầy sự hiểu biết và kính mến Chúa. Lúc đó, ước muốn của loài người luôn tùng phục ý chí cao thượng, luôn theo ý Chúa muốn. Từ khi loài người bỏ Chúa(ăn Trái Cấm), muốn sống ngoài sự kiểm soát của Chúa thì lý trí con người trở nên mờ tối, ý chí yếu ớt, dục vọng nổi dậy hoành hành.
Và vì nhiều người tìm cách phủ nhận đời sau, chỉ biết đời này, nên dục vọng càng được mạnh thế. Có người để sở thích điều khiển cuộc đời mình, có người coi tiền bạc là trên hết, có người cậy dựa vào quyền lực chóng qua, có người chìm đắm trong lạc thú, vô kỷ luật, bất chấp đạo đức truyền thống. Từ khi con người bỏ Chúa, con người trở nên ích kỷ, chỉ biết có mình, chỉ biết hưởng thụ. Những người này giống như những con thiêu thân. Họ đi tìm bã phù hoa, và họ cho đó là hạnh phúc. Nhưng kỳ thực họ đang lao vào ngõ bí. Tâm hồn họ trống rỗng và họ tìm cách lấp khoảng trống đó bằng những niềm tin không đâu như coi ngày, coi giờ, coi tuổi, coi bói, tìm cái lạ hoặc bỏ tiền vào các cuộc chơi phung phí. Loài người lạc đường, không biết đâu là hạnh phúc thật, đâu là những cái bẫy của ma quỷ hay thế gian đưa ra.
Vì thế, Chúa từ trời vì lòng thương xót loài người lầm lạc đã sai Con Một mình là Đức Giêsu Kitô đến dạy cho con người biết đường lên trời, cho con người biết Phúc Thật ở đâu. Phúc thật không phải ở nơi giàu có, tranh chấp, hơn thua, ức hiếp người khác. Nhưng là biết sống tinh thần nghèo, biết thương xót, biết nhận lỗi, là hiền lành tha thứ, là giữ lòng thanh sạch, là hoà thuận thương yêu và dám làm chứng cho chân lý.
Tất cả các mối phúc này thế gian cho là thua thiệt nhưng lại là có phúc thật. Người sống theo 8 mối phúc này thì lương tâm thanh thản, được coi là hiền nhân. Tuy nhiên, đôi khi họ bị thế gian coi là ngu dại hoặc có khi bị oán ghét vô cớ vì làm cho kẻ ác phải hổ thẹn, bị cắn rứt lương tâm vì họ không thông đồng với kẻ gian ác, không ủng hộ cho những hành vi trục lợi của kẻ xấu. Còn những ai biết suy nghĩ thì ca ngợi họ như những mẫu gương đáng cho mình học hỏi.
Con đường theo Chúa Giêsu là con đường bảo đảm dẫn về quê thật. Tuy nhiên, ai muốn đi trên đường này thì trước tiên phải có lòng chân thành, khiêm tốn nhìn nhận sự yếu kém, giới hạn của mình, biết hối cải và mở lòng ra cho Chúa chiếu dọi ánh sáng của Ngài vào lòng chúng ta, giúp chúng ta thắng vượt được tính ích kỷ và những xu hướng xấu.
Chúa Giêsu đã đến trần gian hơn 2000 năm rồi, nhưng nhiều người vì thành kiến đã không muốn tìm hiểu con đường Ngài dạy. Cũng có thể do chúng ta, tuy là môn đệ Chúa nhưng lại chưa sống lời Ngài, chưa làm chứng cho sự Phục Sinh của Ngài. Thế gian này vẫn còn nhiều sai lầm. Ước chi mỗi người biết khiêm tốn nhận ra những sai sót của mình mà chỉnh đốn cuộc sống, làm cho cuộc đời mình tràn đầy ý nghĩa, tràn đầy niềm vui thánh thiện, biết cống hiến những khả năng Chúa ban mà phục vụ anh em mình. Nhờ đó, mọi người sẽ nhận ra ơn Cứu Chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
21. Được cứu độ bằng tình yêu – Lm. HK
Epictète là một triết gia - nô lệ tại xứ Syracuse. Ông vua độc tài của Syracuse đọc sách của Epictète viết, thấy hay quá nên mới ra quyết định cho Epictète không phải làm nô lệ nữa. Epictète trả lời:
- Vua hãy tự giải thoát chính mình đi.
- Nhưng ta là vua mà, ông vua độc tài ngạc nhiên.
- Một nhà độc tài là kẻ phải làm nô lệ cho các dục vọng của mình, còn một người nô lệ làm chủ được các dục vọng của mình mới là một người tự do. Hỡi Đức Vua, hãy tự giải thoát chính mình đi.
Ai cũng thấy rõ sức mạnh rất lớn của các dục vọng trong lòng mình, như cổ nhân đẽ khéo ví von: “Vũ vô kiềm toả năng lưu khách, sắc bất ba đào dị nịch nhân” (Mưa không xiềng xích vẫn lưu được khách, sắc chẳng ba đào dễ đắm lòng người).
Có dục vọng tốt nhưng cũng có dục vọng xấu lôi kéo con người và xích chặt tâm hồn họ vào tội lỗi. Trong Thánh Kinh, các dục vọng tội lỗi được diễn tả như bóng tối mịt mù ràng buộc và ngăn cản nhân loại trên đường tìm đến hạnh phúc đời đời: “Họ phải sống trong cảnh tối tăm mù mịt, kiếp lầm than xiềng xích gông cùm; vì họ chống cưỡng lời Thiên Chúa, dám khinh nhờn lệnh Đấng Tối Cao” (Tv 107,10).
Các dục vọng xấu là dư âm của cuộc sa ngã đầu tiên, khi người ta bị cám dỗ bước vào con đường vị kỷ, qui ngã, muốn trở nên Thiên Chúa.
Cái mất lớn nhất tính vị kỷ đã gây ra cho con người là làm cho họ mất khả năng nói lời yêu thương, tiếng nói của thần tính mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người. Sau khi sa ngã, Ađam và Eva đã quên đi tình liên đới, không còn biết đến niềm vui của sự cho đi: Ađam đã đổ tội cho Eva: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (St 3,12).
Để hoàn toàn loại trừ xu hướng vị kỷ, là bóng tối dẫn đến sự chết và là cái ách đè nặng lên cuộc sống con người, Đấng Cứu thế đã chiếu sáng thế gian bằng một tình yêu tuyệt đối, một tình yêu trút bỏ chính mình vì người khác: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8).
Tình yêu Đức Kitô là ánh sáng phá tan gông cùm của bóng tối sự chết luôn đè nặng lòng người. “Cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gẫy” (Is 9,1). Tình yêu đó làm thoả mãn được cái đói từ sâu thẳm trong lòng người, nên có sức lôi cuốn người ta bỏ tất cả đi theo Ngài … không hề có việc trả giá: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người… Lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,20.22).
Thế nhưng giữa người tin vào Đức Kitô vẫn còn đó những bóng tối vị kỷ ngay trong việc truyền bá tình yêu cứu độ. Thánh Phaolô đã cảnh báo về một tình yêu đã bị đánh mất vẻ đẹp, nơi những người muốn rao giảng một Tin Mừng của riêng mình: “Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ‘Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô”!
Vì thế, thánh Phaolô coi tình yêu quên mình của Đức Kitô chịu đóng đinh mới là tất cả những gì cần được rao giảng: “Đức Kitô … sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1Cr 1,12.17).
Đúng thế, thập giá Đức Kitô cũng có thể ra vô hiệu khi bị che chắn bởi bóng tối của lòng vị kỷ, tình yêu tinh tuyền của Đức Kitô bị lu mờ bởi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu. Vì thế mà thánh Phaolô tha thiết nài xin: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,2-4).
Khi làm việc trong bóng tối, điêu khắc gia đại tài Michelangelo thường gắn một cây nến nhỏ trên nón mình để cái bóng của ông không đổ lên bức tranh đang vẽ, lên pho tượng đang đắp. Điều đó làm cho F.L.McKean suy nghĩ: “chúng ta cũng phải hết sức cẩn thận, đừng để cho cái bóng của mình, những kẻ tìm kiếm tư lợi, đổ trên điều mà chúng ta đang làm cho Chúa Kitô”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết ở nhiệt thành, biết mến Chúa cho xứng đáng, biết thi ân mà không xá kể, biết chiến đấu mà không sợ đau thương, biết hoạt động mà không tìm an nghỉ. Tận tình với chức vụ mà không mong phần thưởng nào khác, một biết mình làm theo ý Chúa luôn. Amen” (thánh Ignatiô Loyôla).
22. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông Giorđan, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Ngài là: "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian " (Ga 1, 29). Điều các ngôn sứ đã báo trước nay được thực hiện: "Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại" (Is 9, 1-4 (Hr 8, 23b - 9, 3). Ánh sáng vĩ đại ấy là ai nếu không phải là Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu xuất hiện giữa dân chúng, như ánh bình minh rạng ngời buổi sáng, xua tan bóng tối đêm đen. Dân chúng thấy Ngài như thấy ánh sáng huy hoàng... xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết " (Mt 12, 16), ánh sáng ấy nay tỏ rạng công khai khi rao giảng: " Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến" (Mt 12, 17).
Ánh sáng ấy là Chúa Giêsu
Matthêu giải thích, Chúa Giêsu "rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali". Với địa danh chính xác như thế, nhưng mục đích của tác giả không phải là cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn du lịch. Ý tưởng thần học của Matthêu được giải thích ngay: " để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia " (Bài đọc I).
Ứng nghiệm điều gì? Giabulon và Nepthali là hai vùng thuộc miền Bắc lúc ấy đang bị sát nhập vào vương quốc A-sy-ri. Thật là hổ người khi nhớ lại quá thất bại và bị đuổi ra ngoài. Tuy nhiên, vị tiên tri với niềm tin vững mạnh đã tuyên bố: "Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng". Nói cách khác, Isaia muốn khơi lên niềm hy vọng nơi những người tin cậy Chúa, Đấng giải thoát họ, nên ông không ngần ngại nói về ơn cứu rỗi. Đó là sức mạnh của Lời Chúa, Lời thực hiện những gì đã tuyên bố, Isaia gợi lên niềm vui đến từ đức tin:" dân chúng vui mừng trước nhan Chúa như nhà nông vui mừng trong mùa gặt. " Thánh Vịnh một lần nữa vang lời động viên: "Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa". Niềm tin này khiến chúng ta vui mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện: "Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi ". Sự sáng ấy nay cụ thể hóa nơi con người Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu xác định: "Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Ca-pharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Bước theo Chúa Giêsu cần phải hối cải
Ánh bình minh đã ló rạng, từ trên cao chiếu soi dân ngồi trong bóng tối là chính Chúa Giêsu Kitô. Ai bước vào trong ánh sáng ấy cần phải: " Hối cải"nghĩa là đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ tội lỗi sang đời sống là con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng. Và Chúa muốn ánh sáng ấy chiếu soi mọi người; nên Chúa đã chọn các môn đệ như những người phụ tá.
Khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình "Hối cải". Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, dù thuộc về Phaolô, Phêrô hay Apôlô cũng chỉ có một Đức Kitô. Mọi con mắt phải hướng về Ngài, chính Ngài cứu chuộc chúng ta. Vì thế, khi gọi các môn đệ, là để các ông trở nên những chứng nhân của Tin Mừng, nên Thánh Phaolô có thể nói: " Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không. " Phaolô được chọn, để loan báo một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh cho thế gian.
Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Ngài. Chúng ta hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu nguyện xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng.
Hối cải để hiệp nhất
Lời Chúa mời gọi chúng ta: "Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến", vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Sự quyết tâm hoán cải, trở về cùng Chúa Kitô là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.
Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây: "Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Đồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ nhưThánh Phaolô Tông Đồ nói đến: "Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức" (1 Cr 1,10). Thực ra Thánh Tông Đồ đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: "Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?" (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.
Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.
23. Ơn cứu độ phổ quát – R. Veritas.
Đức Thánh Cha Phaolô II đã có lần mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo Hội tại Mỹ Châu, hãy tìm giải pháp cho những vấn đề trầm trọng đang tác hại tại lục địa này. Chúng ta hãy cùng lắng nghe một đoạn trong bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ cử hành tại Guadalupe, Mexico:
Giáo Hội đã có Tin Mừng sự sống và sự can đảm của tiên tri, Giáo Hội lại có các nền văn hoá của chết chóc. Ước gì đại học của hy vọng này cũng là đại học của sự sống, đấy là tiếng báo động lớn của chúng ta, hãy kiến tạo một cuộc sống mới xứng đáng cho tất cả mọi người, cho các thai nhi đã được cưu mang trong lòng mẹ, cho những trẻ em bụi đời sống ngoài đường phố, cho những người dân bản xứ, cho những người dân Phi Châu, cho những người di dân vì tị nạn, cho những người trẻ chiếm nhiều cơ hội để thăng tiến đời mình, cho những người già cả, cho tất cả những ai đang nếm trải sự nghèo khổ hay bị loại ra bên lề xã hội.
Đã đến lúc chúng ta phải nhất quyết loại trừ ra khỏi đại học Mỹ Châu này bất cứ sự tấn công nào chống lại sự sống. Xin đừng bao giờ có bạo lực, đừng bao giờ có khủng bố và buôn bán ma túy, đừng bao giờ có nạn tra tấn, hay những hình thức lạm dụng khác, cần phải chấm dứt việc kết án tử hình, đừng bao giờ có nạn khai thác bóc lột những kẻ yếu thế, đừng bao giờ có nạn kỳ thị chủng tộc, đừng bao giờ có những khu ổ chuột cùng khổ, đừng bao giờ có những tệ nạn như vậy. Đó là những tệ nạn không thể dung chấp được, những tệ nạn này kêu thấu đến tận Trời cao và mời gọi các tín hữu Kitô hãy có một nếp sống khác, hãy dấn thân vào trong xã hội, mục kích phù hợp hơn với đức tin của mình".
Những lời trên đây của vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ là một tiếng vang của chính Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã mang đến cho nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm. Hiện nay tại các nhà thờ Anh Giáo bên Anh Quốc, người ta đang thấy trưng bày những tấm bích chương có vẽ hình Chúa Giêsu giống hệt dung mạo của nhà cách mạng nổi tiếng Thêghê Bara, ông là một bác sĩ, đã từng là bạn của chủ tịch Fidel Castro, người Cuba. Ông muốn quảng bá lý tưởng cách mạng bạo động cho toàn thể Châu Mỹ Latinh, thế nhưng ông đã ngã gục vào giữa thập niên sáu mươi.
Chúa Giêsu quả thật là một nhà cách mạng nhưng Ngài không hề có chủ trương dùng bạo động để thực hiện cách mạng. Hơn nữa, cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã thực hiện càng không có tính cách chính trị, kinh tế hay xã hội. Cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu thực hiện qua chính cuộc sống của Ngài và được Giáo Hội tiếp tục giảng dạy và thể hiện thiết yếu là cuộc cách mạng bản thân. Tính cách mạng ấy được Chúa Giêsu thốt lên khi bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài: "Hãy hối cải vì Nước Trời đã đến gần".
Trong chương trình cách mạng ấy của Chúa Giêsu, chúng ta bắt gặp lẽ khôn ngoan nghìn đời của các nhà hiền triết Đông Tây: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Có tu thân nghĩa là cố sống cho ra người thì người ta mới có thể lãnh đạo gia đình, cai trị đất nước và mang lại thái bình cho thế giới.
Khi nghe lời kêu gọi hòa bình của Giáo Hội, nhà độc tài Stalin đã thách thức, thử hỏi xem Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Có thể Stalin đã quên lời nhận xét của người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản là Lênin như sau: "Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô nghèo, thì cũng đủ để cải tạo xã hội Nga".
Quả thật ở bất cứ thời đại nào, thế giới cần nhiều vị thánh hơn là những con người tài ba. Khoa học và kỹ thuật đang tiến bộ với tốc độ nhanh chóng khiến chúng ta phải chóng mặt, các tiện nghi ngày càng tối tân, con số các nhà tỷ phú trên thế giới ngày càng gia tăng, của cải do con người tạo ra ngày càng ứ đọng, vậy mà tình hình thế giới được các phương tiện truyền thông đưa lên vẫn là một bức tranh xám xịt. Chiến tranh, chết chóc và nhất là đói khổ vẫn còn bao phủ phần lớn địa cầu của chúng ta. Bên này bán cầu thừa mứa của cải vật chất, thì bên kia bán cầu còn tới không biết bao nhiêu người đang lâm cảnh chết đói. Trong một quốc gia, một thiểu số nhỏ kẻ nắm giữ trong tay phần lớn của cải, còn số đông phải quằn quại trong khốn khổ. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy giải pháp cho vấn đề nằm ngay trong chính lòng con người, bao lâu vẫn còn có những người chiếm giữ quyền hành trong tay và chối bỏ những quyền cơ bản nhất của người khác thì bấy lâu vẫn còn có một số người phải quằn quại đói khổ. Bao lâu con người chưa hối cải và sống cho ra người thì bấy lâu thế giới vẫn không bao giờ có được hòa bình thật sự.
Hãy hối cải, hãy sống cho ra người, nếu chúng ta quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này của Chúa Giêsu trong môi trường sống của chúng ta hằng ngày, thì không những chúng ta đóng góp vào cuộc cải tạo xã hội mà còn chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng, Nước Trời thực sự đang đến.
Đó là niềm xác tín, đó là niềm tin của chúng ta, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau nài xin Chúa ban cho chúng ta niềm tin này.
24. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng
(Trích Radio Veritas Asia)
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu hai việc làm quan trọng của Ðức Giêsu, đó là: rao giảng về Nước Thiên Chúa (cc.12-17) và kết nạp những môn đệ đầu tiên (cc.18-22)
Rao giảng về Nước Thiên Chúa. - Tin Mừng Matthêu cho thấy Ðức Giêsu được công khai giới thiệu là Con Thiên Chúa về cuối trình thuật Người chịu phép rửa (3,13-17). Kế đến, Người đã tỏ ra hoàn toàn gắn bó với ý của Thiên Chúa qua các cơn cám dỗ nơi sa mạc (4,1-11). Chính qua thử thách Ðức Giêsu tỏ rõ Người mật thiết với Thiên Chúa như thế nào trong tư cách là Con Thiên Chúa.
Từ Giuđê, Ðức Giêsu xuống Galilê để thi hành thừa tác vụ của mình cách công khai (4,12-17). Sự kiện ông Gioan Tẩy Giả bị tiểu vương Hêrôđê bắt bỏ tù chưa phải là lý do chính yếu để Ðức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê thay vì tại Giuđê. Lý do chính yếu là ý của Thiên Chúa, như được loan báo trong sách ngôn sứ Isaia 9,1-2.
Cốt lõi của lời Ðức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa được tóm gọn trong câu 17: "Anh em hãy sám hối vì Nước Thiên Chúa đã đến gần." Gioan Tẩy giả đã từng rao giảng nguyên văn cũng lời đó (3,2).
Sám hối (metanoia trong Hy ngữ) là thay đổi não trạng. Không chỉ dứt bỏ hành động tội lỗi nhưng dứt bỏ tâm trạng hướng ta tới hành động đó. Cần thống hối để trở về đường thiện, tức là trở lại (epistrephein trong Hy ngữ).
Nhưng tại sao cần phải sám hối? Lý do vì Nước Thiên Chúa đã đến gần. Nước Thiên Chúa chỉ về quyền lực và cuộc phán xét do Ngài, cũng như chỉ về quyền thống trị của Ngài trên mọi thọ tạo. Ta sẽ thấy cuộc chiến thắng tối hậu của Thiên Chúa được khai trương nơi tác vụ của Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chính Thầy đã chọn anh em để anh em đi và mang lại nhiều hoa trái
Kết nạp những môn đệ đầu tiên. - Trình thuật của Matthêu về cuộc kết nạp này cũng giống như trong Mc 1,16-20. Theo kế hoach tổng quát, Matthêu giới thiệu ba môn đệ trở thành bộ ba thân cận nhất trong nhóm Mười Hai, đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bộ ba này sẽ có mặt khi Ðức Giêsu cho một người đã chết sống lại (Mc 5,37), khi Người biến hình trên núi (Mt 17,1) và khi Người cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37).
Các môn đệ sẽ là những người đến gần Ðức Giêsu khi Người giảng bài giảng trên núi, bài giảng này được kể như hiến chương về Nước Thiên Chúa (Mt 5,1). Chính từ những người được gọi là môn đệ, Ðức Giêsu sẽ thiết lập nhóm Mười Hai (Mt 10,1-4). Và nhóm Mười Hai này sẽ là nhóm được giao sứ mạng đi đến với muôn dân và làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Ðức Giêsu (Mt 28,19).
Giữa nhóm Mười Hai, nổi bật nhất là ông Simon, được Ðức Giêsu gọi bằng danh xưng mới là Phêrô. Khi ông Simon tuyên xưng Ðức Giêsu là "Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Ðức Giêsu liền nói với Simon: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16,16-18).
Vậy mọi Kitô hữu đều phải trở nên môn đệ của Ðức Giêsu, môn đệ theo nghĩa họ phải tuân giữ mọi điều Ðức Giêsu đã dạy. Những điều ấy nhóm Mười Hai có nhiệm vụ truyền lại cho muôn dân (Mt 28,20). Chính nhờ gương sáng của các tông đồ, là các môn đệ đầu tiên, người Kitô hữu nhận ra mình được mời gọi để tiến triển như thế nào trong ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu.
Cựu Ước hầu như không có ý niệm về người môn đệ theo cái nhìn của Chúa Giêsu. Trước thời lưu đày Babylon (597-538 B.C), dân Ít-ra-en còn có một số ngôn sứ với đồ đệ tháp tùng, như ngôn sứ Êlia có Êlisêu là môn đệ. Sau thời lưu đày, tại Ít-ra-en, người ta thấy xuất hiện các thầy Rápbi thay thế các ngôn sứ. Các thầy này dạy người ta các luật phải giữ trong Do thái giáo dựa theo các truyền thống khác nhau. Các thầy rápbi không chọn học trò để truyền kiến thức; chính các học trò chọn đến với thầy rápbi nào họ muốn.
Chính Thầy đã chọn anh em (Ga 15,16). - Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy chính Ðức Giêsu đã chọn các moan đệ đầu tiên (cc.19.21). Sau này, Người còn gọi ông Lêvi (Mt 9,9). Người cũng gọi ông Philipphê (Ga 1,43). Tóm lại, "Người gọi đến với Người những kẻ Người muốn" (Mc 3,13). Trong Tin Mừng Gioan, điều đó được Ðức Giêsu khẳng định rất rõ: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái anh em tồn tại" (Ga 15,16).
Với xã hội Do thái, chọn học với một thầy rápbi là xây dựng cho mình một nghề, nghề đó bảo đảm cho học viên chỗ đứng đáng ước ao trong xã hội. Với Ðức Giêsu, điều hứa hẹn khác hẳn. Trở nên môn đệ của Ðức Giêsu là để ở lại với Người để chia sẻ cuộc sống và sứ mạng của Người. Cốt lõi của ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là cuộc dấn thân vào sự sống và vào sứ mạng của Người.
Bước theo Ðức Giêsu là bước trên đường Thập Giá đưa tới vinh quang
Ðó chính là điều Chúa Giêsu phục sinh nói với hai môn đệ đi Emmau: "Nào Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (Lc 24,26). Ai đến học với một thày rápbi đạo Do thái, không bao giờ chấp nhận điều kiện như vậy. Người đó không buộc phải từ bỏ điều gì thuộc về nghề nghiệp và chỗ đứng của mình trong xã hội.
Ngược lại, người môn đệ Ðức Giêsu phải nhận lấy cái nhìn của Ðức Giêsu làm cái nhìn của mình về mọi sự. Lý do vì Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa đến thiết lập Nước của Ngài trên mọi thọ tạo. Toàn thể tạo thành phải được điều khiển theo ý Ngài và ý đó chính Ðức Kitô là Con Thiên Chúa, biết rất rõ: "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho." (Mt 11,27).
Ðức Kitô mạc khải cho các môn đệ ý của Thiên Chúa không qua một bài báo hoặc một cuốn sách. Tất cả các sách Tân Ước sau này mới được viết ra. Ðó là khi trọn ý của Thiên Chúa đã được chu toàn qua lời nói và việc làm của Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Thánh Linh soi sáng, các môn đệ là những người được gọi để ở lại với Ðức Giêsu từ khi Người công khai rao giảng về Nước Thiên Chúa cho tới khi Người tắt thở và được phục sinh, khi ấy mới rõ ý Thiên Chúa đã trở nên sống động nơi cuộc đời của Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Nền giáo dục mà các môn đệ của Ðức Giêsu được hấp thụ là một nền giáo dục thiết thân với sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Ðức Giêsu. Các ông được khuyến cáo đảm nhận lấy nền giáo dục đó: "Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng nhân hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng" (Mt 11,28-29).
Luật Cựu Ước xưa trở nên ách nặng nề cho dân Thiên Chúa. Nay Ðức Giêsu là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa, đến làm cho mọi sự trở nên nhẹ nhàng nhờ sức mạnh của yêu thương. Chính Ngài hy sinh để muôn dân được hạnh phúc. Ngài mời gọi họ trở nên môn đệ Ngài và đi trên cũng một con đường yêu thương chính Ngài lãnh đạo.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn hiểu thế nào về sám hối khi nói: Sám hối đòi ta không chỉ dứt bỏ hành động tội lỗi mà còn phải dứt bỏ não trạng hướng ta tới những hành động đó?
2. Bạn hiểu thế nào khi nói: Bước theo Ðức Giêsu là bước trên đường thập giá đưa tới vinh quang?
25. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
(Để minh họa cho sứ điệp của Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử phác hoạ tâm trạng của Simon Phêrô khi được gọi làm tông đồ và được Chúa Giêsu trao trọng trách trong Giáo Hội)
Hôm ấy, tại thành Xêdarê Philípphê, sau khi Simon Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và được Chúa Giêsu long trọng tuyên bố trước mặt các môn đệ: "Simon, Anh là Tảng Đá, và trên Tảng Đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy... Thầy sẽ trao cho Anh chìa khoá Nước Trời. Những gì Anh cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, những gì Anh tháo cởi dưới đất, trên Trời cũng tháo cởi" (Mt 16, 13-19)... thì liền sau đó, Simon Phêrô đâm ra đăm chiêu nghĩ ngợi. Simon vẫn nghĩ rằng một người thuyền chài quê mùa chất phác như mình thì chẳng làm được gì khác ngoài việc quăng chài hay kéo lưới.
Đêm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những lời Thầy vừa công bố và trong thinh lặng của màn đêm, Simon hồi tưởng lại buổi sáng đẹp trời cách đó không lâu trên biển hồ Galilê, đang khi ông và An-rê đang quăng chài dưới biển thì Thầy tiến đến. Thầy giơ tay vẫy chào và cất tiếng gọi mời: "Các Anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các Anh thành những kẻ lưới người như lưới cá!"
Lời Thầy có sức cuốn hút nhiệm mầu. Thế là hai anh em bỏ thuyền bỏ lưới theo Thầy.
Đi một quãng nữa, Thầy gặp hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Thầy lại cất tiếng mời gọi, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Thầy. (Mt 4, 18-22)
Thế là bốn bạn chài quê mùa xứ Galilê bỗng nhiên trở thành những môn đệ đầu tiên của Thầy Giêsu, được gọi lên đường chinh phục thế giới...
Đang mơ màng với dòng suy tưởng, Simon chợt thấy Thầy mới trở về sau giờ cầu nguyện, Anh liền mời Thầy ra ngoài góc sân và nói:
"Thầy ơi! Tại sao sáng nay Thầy lại đề cao con quá vậy? Con đáng sá gì mà Thầy đặt con làm Đá Tảng cho Thầy xây Hội Thánh, con có là gì mà nắm giữ chìa khoá Nước Trời! Thầy không nhớ con xuất thân từ một gã thuyền chài ư? Sao Thầy không chọn những luật sĩ uyên bác? Sao Thầy không tìm người lãnh đạo nơi hàng ngũ những người biệt phái uy tín và đạo đức mà lại chọn dân chài như chúng con?
Chúa Giêsu ôn tồn vỗ vai Simon: "Simon, đừng lo! Đây không phải là việc của con người mà là việc của Thiên Chúa. Rồi đây các Anh sẽ là những người thay đổi bộ mặt thế giới".
* * *
Để chinh phục thế giới, Thiên Chúa đã chọn bốn người thuyền chài làm những môn đệ đầu tiên và lại giao cho ngư phủ Simon Phêrô thay Ngài lãnh đạo Hội Thánh.
Tại sao Chúa Giêsu lại trao cho hạng ngư phủ đảm nhận những cương vị hết sức hệ trọng nầy?
Phải chăng tiêu chí đầu tiên của Chúa Giêsu khi tuyển chọn môn đồ và những người kế vị mình trong sứ mạng cao cả và đầy gian truân là phải dạn dày sương gió, là không ngại khó, sẵn sàng đối đầu với bão tố cuồng phong? Ngư phủ là những người vốn có những tố chất như thế trong máu thịt mình.
Nếu không có những con người dạn dày sương gió như thánh Phanxicô Xavie vượt đại dương đi đến với các dân tộc xa lạ trên lục địa châu Á mênh mông, không có những người xâm mình mạo hiểm như các nhà thừa sai Paris đến rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam trong thời kỳ cấm cách và bắt bớ... thì làm gì có hạt giống đức tin triển nở dồi dào trên các vùng đất Á Châu cũng như ở Việt Nam!
Và hôm nay, Giáo Hội Việt Nam đang khựng lại trên con đường truyền giáo, số lượng những người theo Chúa không thể tăng lên trong suốt nhiều thập kỷ qua, cũng chỉ vì thiếu những con người dạn dày sương gió bất chấp nguy khó để loan báo Tin Mừng.
* * *
Lạy Chúa Giêsu, Giáo Hội Việt Nam cũng như Hội Thánh Chúa trên khắp hoàn cầu đang cần những con người nhiệt thành, mạo hiểm, cần đến những người dám lìa bỏ bờ bến an toàn để dấn bước ra khơi.
Xin Chúa tiếp tục rảo bước trên quê hương chúng con và kêu gọi thêm nhiều tâm hồn thiện chí để bổ sung vào đội ngũ các môn đệ tiên phong của Chúa ngày xưa.
Xin cho ngọn lửa của Chúa Thánh Linh trong ngày lễ Ngũ Tuần tiếp tục cháy lên trong lòng các môn đệ Chúa để cho Tin Vui, Tin cứu độ của Chúa được loan báo cho hết mọi người.
26. Đừng ngủ mê trong tội – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Tiếng bà vợ dịu ngọt nói chồng: Anh ơi đi xưng tội đi. Lâu rồi không thấy anh xưng tội.
Anh chồng đáp: Xưng xong có chừa được đâu mà xưng.
Cô vợ: Thế thì hôm nay anh đừng ăn nhé
Anh chồng: Không ăn mà chết đói à!
Cô vợ: Vì ăn xong rồi cũng đói, thế thì ăn làm gì cho mệt.
Anh chồng!
Con người thường ít muốn thay đổi. Cho dù cuộc sống của họ đang chìm ngập trong tội lỗi. Họ vẫn ngại đến với tòa giải tội. Họ sợ phải đối diện với sự thật. Vì sự thật sẽ phơi bầy toàn bộ hành vi bất chính, tội lỗi của họ. Họ vẫn sống chai lỳ trong điều gian ác mà vẫn không áy láy lương tâm. Chính vì lối sống mất ý thức về tội lại không dám đối diện với sự thật khiến họ lao mình vào cuộc sống với những đam mê hưởng thụ bất chấp luân thường đạo lý, hay lao vào tìm kiềm danh lợi thú bất chấp thủ đoạn tàn bạo. Điều này đã làm cho xã hội tội lỗi tràn lan đến mức độ chưa bao giờ tội pham nhiều như ngày nay.
Ngày 03.01.2014 một phiên tòa lưu động có số bị cáo đông nhất Việt Nam từ trước đến nay đã diễn ra tại sân trại giam của công an tỉnh Quảng Ninh tổng cộng đến 89 bị cáo dính đến 4 đường dây mua-bán, vận chuyển trên 4,400 bánh heroin hiện diện tại phiên tòa dự tính kéo dài ba tuần lễ.
Theo báo Tiền Phong, phiên tòa nói trên cũng quy tụ số luật sư biện hộ đông nhất từ trước đến nay: 41 người. An ninh phiên tòa lưu động được xiết chặt, vì người ta dự đoán có thể tới 66 bản án tử hình sẽ được tuyên.
Án tử hình rất nhiều nhưng xem ra không ý thức về tội, không có lòng sám hối nên tội phạm vẫn gia tăng. Ngay cả các tội nhân tại tòa cũng thường ít nói lời xin lỗi vì mình đã gây nên những đau khổ cho xã hội bởi hành vi bất chính của mình. Thậm chí cả người nhà tội nhân còn bênh vực cho hành vi tội lỗi của con cái mình.
Mới đây trong một phiên tòa khi tòa tuyên án kẻ cầm đầu bọn cướp chuyên nghề chặt tay cướp xe thì tiếng la hét đanh đảnh của một người mẹ đã hét lên không chấp nhận sự thật ấy. Bà quát to rằng: con tôi không giết người sao lại tử hình con tôi? Bà còn quay lại chỗ những người bị hại mà con bà chặt tay để cướp của nói rằng: Biết con tao tử hình thì tao đã cho người giết chết chúng mày! Xen lẫn tiếng bà là tiếng người chị gái bảo rằng: “ai bảo chúng này đi xe đẹp đeo nhẫn vàng làm gì?”
Hóa ra đi xe đẹp, đeo nhẫn vàng cũng có tội? Có phải tình yêu thì chẳng cần quan tâm đến đạo đức. Người ta nhân danh tình yêu để hại người, để vào hùa và bênh đỡ nhau như gia đình bị can “chặt tay cướp SH” chăng?
Là người đều có những lầm lỗi hay có những lần vấp ngã, điều quan yếu là biết nhận lỗi và đứng lên làm lại cuộc đời. Không nhận ra sai lỗi. Không cảm nhận sự vấp ngã. Con người cũng mất ý thức về tội. Con người càng mất lòng sám hối ăn năn. Thực ra, nhân vô thập toàn. Con người cần biết giới hạn của mình để sám hối từng ngày, để canh tân từng phút. Có sám hối, có canh tân con người mới thăng tiến từ tinh thần đến vật chất.
Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu không kêu gọi chống bất công hay đòi quyền lợi mà là kêu gọi sám hối canh tân. Chúa kêu gọi con người phải sám hối vì cội rễ của bất công, của sa đọa, tội lỗi là con người mất ý thức về giá trị cuộc sống. Con người không tuân theo luân thường đạo lý thì làm sao có một xã hội văn minh tình thương. Con người cần phải sám hối để nhận ra những lỗi lầm của mình đã gây nên thiệt hại tinh thần lẫn vật chất cho tha nhân. Chính hành vi tội lỗi mình đã làm cho sự dữ lan tran, xã hội loạn lạc lầm than.
Nhưng đáng tiếc nhân loại ngày hôm nay không ý thức việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân. Con người vẫn nhân danh tự do cá nhân để hành xử thiếu văn hóa, thiếu trách nhiệm với tha nhân. Con người vẫn nhân danh hạnh phúc cá nhân để loại trừ hạnh phúc cuả tập thể, của xã hội. Nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người thì sẽ không có những vụ tham nhũng lớn như Dương Chí Dũng, Bầu Kiên hay Huyền Như... Tất cả vì lợi ích cá nhân mà gây nên biết bao hậu quả tai hại cho xã hội và đất nước.
Ước gì là người ky-tô hữu chúng ta hãy biết xét mình hằng ngày, hãy ăn năn từng giờ để đừng ngủ mê trong tội lỗi, nhưng biết thay đổi đời sống cho phù hợi với tin mừng. Xin đừng vì quyền lợi cá nhân mà gây thiệt hại cho xã hội. Xin đừng đề cao tự do cá nhân để làm mất trật tự cho xã hội và cộng đồng. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân để nhờ ơn Chúa mà canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.
27. Chúa Kitô là ánh sáng – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Có lúc nào đó trong cuộc sống chúng ta tự hỏi lòng mình: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này để làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của đời người, nó quyết định phận số của một con người. Đau khổ hay bất hạnh. Lạc quan hay bi quan. Sống có trách nhiệm hay lười biếng, buông thả? Sống có ích hay trở thành gánh nặng cho xã hội đều tùy thuộc vào chọn lựa căn bản này của từng người chúng ta.
Nhìn vào xã hội hôm nay chúng ta thấy, có người chủ trương cho rằng con người là loài vật nên chẳng cần luân thường đạo lý, chẳng cần tự chủ bản thân, sống buông thả theo đam mê nhục dục như muôn loài sống theo bản năng của mình. Có người chủ trương cho rằng sống là để hưởng thụ nên luôn tranh giành lẫn nhau, luôn lấn áp với nhau theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Họ chà đạp lên nhau chỉ vì danh lợi thú trần gian. Có người chủ trương cho rằng chết là hết nên chẳng cần ăn ngay ở lành, chẳng cần tích đức đời sau nên sinh ra đạo tặc, dâm ô và biết bao tệ nạn đau buồn khác. Hằng ngày trên truyền hình, truyền thanh vẫn luôn cập nhật những thông tin đáng buồn như cướp dật, hoang dâm, xì ke, ma tuý, tham nhũng, giết người... Tại sao vậy? Tại sao xã hội có luật pháp mà vẫn còn đó những tội phạm? Tại sao bóng tối của sự dữ vẫn còn đầy rẫy trong xã hội văn minh hôm nay? Tại sao lương tâm không bằng lương thực? Tại sao nhân phẩm không bằng nhu yếu phẩm? Tại sao tình người không bằng đồng tiền? Tại sao vì tiền, vì quyền, vì tình mà nhiều người đã đánh mất nhân tính của mình? Có lẽ chỉ vì đã nhìn nhận sai về căn tính con người, về ý nghĩa cuộc đời nên dẫn đến biết bao hệ luỵ khổ đau cho con người.
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: loài người thuở xa xưa khi chưa biết soi gương trang điểm nên dường như cũng chẳng hề biết khuôn mặt mình tròn méo thế nào. Vì thế mới có chuyện đau lòng xảy ra giữa đôi vợ chồng trẻ miền quê hẻo lánh. Một lần anh chồng có việc phải lên kinh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cái đầu. Nhưng khốn nỗi anh chàng nhà quê chưa một lần nhìn thấy cái trâm cài đầu nó như thế nào? Cô vợ nhìn lên bầu trời đêm thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói: "Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên, anh cứ nhìn lên ánh trăng thì sẽ nhớ". Người chồng đã ra đi. Kinh đô quả thật khác lạ so với anh. Cái gì cũng mới. Cái gì cũng hay. Anh chồng đã say sưa, mải miết tham quan những cảnh lạ ở kinh thành cả mười ngày sau mới về. Lúc này anh mới chợt nhớ lời vợ dặn, anh liền nhìn lên bầu trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm. Anh vào cửa hàng tạp hoá và anh mua một cái gương soi mặt vì nó hình tròn giống như ánh trăng. Lòng vui rộn ràng anh quay trở về với vợ hiền. Anh vui mừng trao món quà cho cô vợ bé nhỏ của mình. Cô vợ mở quà ra xem. Ngạc nhiên tại sao lại là hình ảnh của một cô gái ở trong món quà. Bởi lẽ, cả đời cô chưa hề biết gương là gì, nên khi thấy bóng dáng một người con gái trong gương cô đã tức giận và quát tháo nên rằng: "Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh đem về cho tôi một đứa con gái nào đây?". Anh chồng lúc này mới nhìn vào gương và thấy khuôn mặt một người đàn ông trông giống như bố mình ngày xưa, nên anh cãi rằng: "Không phải, đây là bố tôi". Và anh dành lại cái gương, miệng không ngớt kêu lên: "Ơ bố ơi! Quả thực là bố hiện về với con". Cô vợ tức quá giựt lại và bảo: "Bố ông bao giờ, đây là con nào rõ ràng mà ông còn chối cãi được sao?". Anh chồng xem ra không cãi nổi vợ, bèn buồn bã bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi nàng dâu, và người con dâu đã đưa cho mẹ chồng xem bằng chứng về sự dan díu của chồng mình. Mẹ chồng xem qua rồi đi đến kết luận: "Thôi đừng ghen tương làm chi cho khổ, tao thấy con này nó cũng già quá rồi!"
Vâng, xem ra cái nhìn tiên tri của ngôn sứ Isaia vẫn đúng cho thời đại hôm nay, vì "đoàn dân đang ngồi trong bóng tối" cũng chính là hình ảnh của nhân loại hôm nay. Một thế giới đầy những bong tối của tội lỗi, của sa đoạ, của ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù quáng chạy theo những đam mê lầm lạc và dìm mình trong bong tối của danh lợi thú trần gian. Họ đã lạc mất hướng đi đời người. Họ chẳng cần biết mình là ai? Họ chỉ cần tiền. Họ không cần đạo đức hay phẩm giá con người. Điều họ cần là làm sao có tiền để hưởng thụ. Vì có "tiền mua tiên cũng được". Vì mải miết chạy theo đồng tiền họ đã đánh mất hướng đi đời người. Cuộc sống không có định hướng, không có mục đích là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn: cướp giật, tham nhũng, xì ke ma tuý và mại dâm cùa thời đại hôm nay.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy sám hối". Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ghen tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sang của yêu thương và hiệp nhất. Sám hối để bước ra khỏi vũng lầy của đam mê nhục nhục, của tha hoá đạo đức để sống cao thượng theo đúng phẩm giá con người là "nhân linh hơn vạn vật". Sám hối để nhìn nhận những sai trái của mình đã gây nên những bất công, những khổ đau cho anh em và quyết tâm thay đổi đời sống theo đúng đòi hỏi của Tin mừng mà Chúa Kitô đã loan báo. Vì Chúa Kitô chính là ánh sáng đã chiếu giãi trên thế gian. Từ nay Tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, ai bước theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.
Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của Tin mừng sẽ phơi bầy bộ mặt thật của mình nên họ luôn tìm cách che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tỗi lỗi vẫn tràn lan. Con người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính những điều gian ác, bất công của mình gây nên.
Xin Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự sống giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ của danh lợi thú trần gian để chúng ta sống trong tự do của con cái Chúa. Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn dắt chúng ta đi theo chân lý vẹn toàn ngõ hầu chúng ta luôn sống đúng với phẩm giá cao quý của con người là hình ảnh của Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở thành ánh sáng để dẫn dắt anh chị em chúng ta bước đi trong ánh sáng lề luật và phúc âm của Chúa. Amen.
28. Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An
Khủng hoảng là cơn bệnh da diết và trường kỳ của mọi người, mọi gia đình, mọi tôn giáo, mọi quốc gia và trong mối bang giao quốc tế. Khủng hoảng kinh tế khi gia đình hay cộng đồng hoặc quốc gia thiết hụt vì chi trội hơn thu và nạn thất nghiệp cao. Khủng hoảng tinh thần khi gia đình, xã hội có những cuộc tranh cãi, chia rẽ và hận thù. Khủng hoảng an ninh khi tranh chấp xẩy ra và hai nước cùng động binh chuẩn bị chinh chiến. Khủng hoảng đức tin khi tín hữu coi nhẹ luật mến Chúa và yêu tha nhân để dấn thân vào công tác chống đối, chỉ trích, xuyên tạc, tạo tị hiềm, và gây chia rẽ từ hạ tầng cơ sở là cộng đoàn và giáo xứ, lên đến giáo phận và giáo đô Rôma. Khủng hoảng tu trì khi cảnh "cá đối bằng đầu" thịnh hành theo thuyết tự do cá nhân; khi mục đích tối thượng là "nên thánh theo lời khuyên Phúc âm" bị sao nhãng và đặt nhẹ; khi tam đức như đức khó nghèo, vâng phục và trinh khiết không còn được tôn trọng và tuân giữ. Khủng hoảng mầu da hay sắc tộc khi các sắc dân đứng lên tranh đấu, bạo động, chém giết.
Mỗi năm vào ngày thứ Năm tuần thánh tại một số nhà thờ Chính toà trên nước Mỹ, đang khi Giám mục và các linh mục đồng tế bên trong thì bên ngoài, phong trào tranh đấu biểu tình và đòi quyền cho phái nữ được tham dự vào chức linh mục thừa tác như nam giới trong Giáo hội hò la và giận dữ. Cuộc khủng hoảng này đang được đội lốt dưới chiêu bài "trọng nam khinh nư "và "đòi bình đẳng" trong Giáo hội. Nhiều lần Đức Giáo hoàng đã kiên nhẫn lắng nghe, giải thích và dùng hình ảnh tuyệt vời và thế đứng đặc biệt của Đức Maria như mẫu mực và hướng đi cho phụ nữ. Maria không là linh mục, nhưng là mẹ của linh mục. Maria là phàm nhân, nhưng là Mẹ Thiên Chúa. Maria không là Cứu Chúa, nhưng là Đấng Đồng công cứu chuộc. Maria không dám tự nhận hay đòi một danh xưng cao sang nào, trái lại Maria khiêm tốn thưa "này tôi là tớ nữ Chúa, tôi xin vâng nhận Thiên ý." Khủng hoảng trong lòng Maria như thế được giải kết trong vâng phục ý Chúa và trong ý thức thân phận hèn mọn của mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai đã vạch mặt chỉ tên những người lạm dụng và thao túng tôn giáo. Họ tạo cuộc khủng hoảng bè phái và dùng tôn giáo như khí cụ đấu tranh. Họ chia thân thể mầu nhiệm Đức Kitô ra những phái nhóm khác nhau để thủ lợi. Họ dùng tên các tông đồ để gây thanh thế cá nhân và tạo mâu thuẫn, đối kháng và chia rẽ trong cộng đồng và giáo hội. Cơn khủng hoảng giáo phái từ đó tiến triển theo cấp số nhân và hôm nay trong cộng đồng Kitô hữu (Tin lành, Công giáo và Chính thống) có khoảng chừng 400 giáo phái khác nhau. Trong Giáo hội Công giáo, tuy sự hợp nhất còn duy trì được, nhưng cũng có khoảng vài trăm dòng nam nữ biệt lập. Tất cả đều vì Chúa và các linh hồn. Tất cả đều được nuôi sống nhờ lòng hảo tâm và dâng cúng của các tín hữu. Cơn khủng hoảng muôn đời sẽ không giải quyết được vì tín hữu thì cầu cho được "hằng ngày dùng đủ", và họ xử dụng cái dùng đủ ấy để cung cấp sự giầu sang và xây dựng các lâu đài, cơ sở cho các dòng. Từ đó các dòng trở nên gánh nặng cho tín hữu. Thế hệ nầy sang thế hệ khác tiếp nối nhau giúp đỡ, và dâng cúng cho Giáo hội nói chung và làm giàu cho các dòng nói riêng mà vẫn không sao dập tắt cơn khát.
Thần học cứu rỗi của Đức Kitô khai mạc bằng lời "hãy hối cải vì nước Trời đã gần" quả thật đang bị khủng hoảng do sự thiếu khả năng và thiện chí rao giảng. Đồng thời hình ảnh nước Trời đang lu mờ và mất hút trong cơn sốt vật chất miên man và vô độ của con người. Tiên tri Isaia đã phóng lên không trung ánh sáng vĩ đại của Đức Kitô (bài đọc1). Ánh sáng ấy đáng lẽ phải giải thoát nhân loại và đưa nhân loại vào cõi sống. Nhưng khủng hoảng là ách đang đè trên vai họ, là gậy của kẻ lạm thu họ chưa bị bẻ gẫy và đang thao túng nên ánh sáng chưa tỏ rạng đủ cỡ. Ánh sáng ấy sẽ chỉ thực sự tỏ soi khi những giầy trận, những áo choàng rướm máu, những ách gông nặng hay nói chung là các khủng hoảng trở thành mồi lửa. Khi ấy mọi dân và cả những ai đang ngồi trong bóng tối sự chết mới thấy một ánh sáng vĩ đại và huy hoàng. Hoa trái của ánh sáng huy hoàng sẽ là "đồng tâm hiệp nhất... "và kết đoàn trong một thần trí và một tâm tình (bài đọc 2). Thiếu đồng tâm, hiệp nhất, một thần trí và một tâm tình thì tứ phương còn đang bị thiêu đốt bởi khủng hoảng!!!
29. Nước Trời đã đến gần – Jos. Hồng Ân
Loan báo Tin Mừng Nước Trời là sứ điệp quan trọng, nên Chúa Giêsu đã quên ăn, quên ngủ, không quản chi mệt nhọc, vất vả đi khắp các làng mạc, thành thị loan báo Tin Mừng, mời gọi mọi người ăn năn sám hối, đón nhận Nước Trời để được ơn cứu độ. Chúa còn chọn gọi và sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân nước.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17). Chúa Giêsu muốn cho thấy tầm quan trọng của Nước Trời, điều kiện căn bản để đón nhận Nước Trời là phải sám hối, không sám hối thì không thể vào được Nước trời, Nước Trời chỉ dành cho những ai biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, sửa đổi đời sống để nên hoàn thiện và cầu xin Chúa tha thứ. Điệp khúc này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong các lời giáo huấn của Ngài. Có trở về, có thay đổi, có sám hối con người mới vào được Nước Thiên Chúa. Sám hối là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin Kitô giáo. Sám hối còn là chìa khoá để vào Nước Trời.
Chúa Giêsu dạy chúng ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết, còn mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau (x. Lc 12, 31). Ngài còn dạy: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12, 33). Nước Thiên Chúa là cùng đích đời người nên có giá trị tuyệt đối, phải đặt lên trên hết mọi sự, phải sẵn sàng hy sinh tất cả và bằng mọi giá để vào được Nước Trời (x. Mt 13, 44-46). Thánh Phaolô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Vì vậy, để vào được Nước Trời, chúng ta cần phải sám hối, từ bỏ những gì là xấu xa tội lỗi, từ bỏ những gì ngăn cản ta tìm kiếm Nước Trời. Từ bỏ những gì nước trần gian, nước của sa tan lôi kéo chúng ta như: tiền của vật chất, danh vọng địa vị, thú vui xác thịt. Chúng ta phải luôn chiến đấu với ba thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Sau khi kêu gọi dân chúng sám hối để đón nhận Nước Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ, để các ông đi theo Người, cộng tác với Người rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Ngài bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 18-19). Các ông không so đo tính toán, không ngần ngại lên đường đi theo Chúa: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4, 20). Chúa gọi các ông đi theo Người, không phải để thành lập một tập đoàn kinh tế hay chính trị. Nhưng là để các ông học hỏi nơi Người cách sống và làm việc, tất cả vì công cuộc loan báo Tin Mừng Thiên Chúa, tất cả vì hạnh phúc, vì phần dỗi của con người.
Chúa đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Ngài không chỉ rao giảng trên môi miệng, mà còn bằng việc làm cụ thể, “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 4, 23). Chúa rao giảng và chữa lành bệnh hoạn, tật nguyền phần hồn, phần xác, để giúp con người nhận ra giá trị đích thực của Nước Trời là được bình an hạnh phúc, không còn đau khổ, bệnh tật, không phải bom chen, cạnh tranh… Vì đó là sứ điệp quan trọng, nên trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Ngày nay, tiếng Chúa nói “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” vẫn còn vang vọng bên tai của chúng ta. Chúa vẫn kêu gọi, vẫn chữa lành để ta nhận ra chân giá trị của Nước Trời. Vậy mà ta vẫn bưng tai bịt mắt không nghe cũng chẳng nhìn, cho là Nước Trời còn xa tít trên chín tầng mây, nên không quan tâm, không để ý, không xem xét, vẫn mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, không đáp lại lời mời gọi của Chúa, không chịu sám hối, vẫn tiếp tục đi trên con đường tội lỗi, vẫn tìm kiếm khoái lạc, tìm hưởng thụ, sống bất công, điêu ngoa, gian dối, lừa lọc, giận hờn ghen ghét, mưu mô sảo quyệt, đội trên đạp dưới làm hại anh em. Nhiều khi đi làm tông đồ cũng dựng bè kéo cánh, cũng tranh giành sự ảnh hưởng, tranh giành chỗ đứng, tranh giành nơi làm việc, dèm pha, nói xấu đủ điều…
Là Kitô hữu, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa, biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, từ bỏ tất cả những gì là tội lỗi xấu xa, quay trở về với Chúa, cầu xin Người thứ tha, để ta đón nhận Tin Mừng Nước Thiên Chúa và hưởng ơn cứu độ Người ban. Chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa ra đi loan báo Tin Mừng, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để đón nhận Nước Trời.
30. Từ bỏ
Nếu phân tích việc kêu gọi của Đức Giêsu, ta thấy Thánh sử Mátthêu đã sử dụng thể văn kêu gọi đã được sử dụng trong phần Cựu Ước, chẳng hạn việc kêu gọi ngôn sứ Êlia, Êlisê. Trình thuật này không nhắc đến cũng như không hề quan tâm đến khía cạnh tâm lý nhằm làm nổi bật đến lời kêu gọi của vị tôn sư, và việc đáp trả đầy gắn bó và tin tưởng của các môn đồ. Chỉ cần một lời bảo: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành lưới người như lưới cá". Cũng thế, người môn đệ lý tưởng, kẻ từ bỏ mọi sự không chút do dự, không một lời biện bạch, mà tuyệt đối tin theo và nhanh chóng đáp trả, được thể hiện qua hai chữ "lập tức". Nhưng để trở thành một môn đệ lý tưởng, trở thành "ngư phủ bắt người", nghĩa là thành kẻ rao giảng và chứng nhân nước trời. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ tương lai trước tiên phải biết hy sinh từ bỏ.
Điều nổi bất nhất nơi các môn đệ được Chúa kêu gọi đó là sự từ bỏ, được thể hiện qua việc đáp trả của các môn đệ. Sau khi nghe Đức Giêsu kêu gọi hai môn đệ Phêrô và Anrê "đang quang chài" lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Cũng thế, ông Giacôbê và Gioan đang vá lưới với cha cũng lập tức bỏ thuyền, bỏ cha lại mà đi theo Người. Chúng ta dễ dàng thấy được các tông đồ không những chỉ từ bỏ vật chất, mà còn từ bỏ cả bản thân từ bỏ cả tình cảm.
Trong một xã hội văn minh vật chất, sống một nếp sống chỉ biết hưởng thụ, làm cho con người chỉ còn biết mình chỉ còn biết chủ nghĩa cá nhân, biết phung phí tiền bạc như nước mà không bao giờ màng đến hay quan tâm đến nhu cầu của tha nhân. Một nền văn minh hưởng thụ đó được đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là "nền văn minh sự chết". Thử hỏi nền văn minh như thế sẽ đưa con người đến đâu, bao nhiêu người dám từ bỏ để nghe theo tiếng Chúa gọi mà quảng đại hy sinh cho lý tưởng cao cả như các tông đồ xưa. Các ngài cũng có nghề nghiệp, có người thân, và có người còn có cả gia đình vợ con...nhưng sau khi nghe tiếng Đức Giêsu gọi các ngài đã "Lập tức" từ bỏ để đi theo Người, không cần một điều kiện, không cần một đòi hỏi. Một điều thật hay là khi đáp trả tiếng Chúa gọi các ngài vẫn chưa biết Đức Giêsu là ai, nhưng nếu có cái nhìn sâu xa chúng ta sẽ thấy họ bị thúc đẩy bởi mãnh lực thốt ra từ lời nói của Đức Giêsu, làm họ không thể cưỡng lại được. Đó chính là động lực Thánh Thần cùng nỗ lực bản thân đã biến đổi các ông từ " ngư phủ lưới cá" thành "ngư phủ lưới người".
Khi nói đến sự từ bỏ bản thân, thì người ta cứ nghĩ mình đã hy sinh cho một lý tưởng cao cả lắm, mình đã dâng cho Chúa nhiều lắm... Thật ra, đó chính là ảo tưởng, vì những gì chúng ta đang có là của Chúa. Thử nghĩ xem, cuộc sống này, thời gian này, vật chất này... tất cả đều do Chúa ban mà có. Nếu chúng ta có hiến thân mình là chúng cũng chỉ là trả lại cho Chúa mà thôi, hay nói đúng hơn từ bỏ là dâng hiến lại cho Chúa những gì thuộc về Ngài mà từ trước đến giờ ta cứ ngỡ là thuộc về mình, mà vô tình hay cố ý chúng ta đã giữ lại cho mình. Vì thế, chính lúc thờ ơ không đáp trả chính là lúc chúng ta đang sống bất công đối với Chúa.
Nhìn lại qua dòng lịch sử của Giáo Hội, có rất nhiều mẫu gương đã tự bỏ mình để Chúa biến đổi thành công cụ trong lòng bàn tay của Người. Đó là những vị thánh đã đi bước trước để chúng ta bước theo. Các ngài đã được biến đổi khi mau mắn đáp trả tiếng Chúa. Từ sự đáp trả này mà các ngài đã trở thành sứ giả Tin Mừng, sứ giả của Chân Lý, thành dụng cụ của tình bác ái. Nhìn vào đó chúng ta có thể khẳng định: mỗi người đều có thể trở thành dụng cụ hữu ích trong lòng bàn tay của Chúa, khi biết chấp nhận theo ý Người trong cuộc sống của mình, như thánh Biển Đức đã mang lại cho thế giới Tây phương về đời sống tiết độ, về sự khôn ngoan và công chính. Thánh Phanxicô đã giải thoát mình khỏi sự ràng buộc vật chất để lòng được thanh thoát phục vụ người nghèo và hết tình yêu mến Chúa. Còn chân phước Têrêsa Calcutta sống với đau khổ bệnh tật quên mình cho đến chết...Vì thế với khả năng Chúa ban chúng ta đừng bi quan, chỉ cần nỗ lực, cộng thêm tình yêu và lòng nhiệt thành thì tất cả chúng ta đều có thể trở thành thành nhân trong cuộc sống ngày nay.
Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta trong mọi hoàn cảnh nhưng chúng ta đã đáp trả chưa, khi Ngài mang đến cho chúng ta lời đề nghị của tình yêu, chúng ta có sẵn sàng đón nhận lời mời gọi của Người để dấn thân phục vụ Giáo Hội và cộng đoàn của Người như những người chài lưới xưa kia ở Galilê không? Hay chúng ta còn qúa cẩn thận rào đón, hoặc chúng ta còn e sợ vì tương lai mông lung khi bước theo Chúa chăng? Nếu có như thế vì chúng ta còn qúa ích kỷ chỉ biết lo cho cái tôi của mình.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thể hiện tình yêu đối với Chúa và tha nhân bằng việc làm cụ thể đó là sự hy sinh và dâng hiến, xin cho ngày càng có nhiều người dám quảng đại dâng mình trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Và nhất là cho giới trở ngày nay biết sống cho người khác và vì người khác hơn nữa. Amen.
31. Ánh sáng hiệp nhất – Lm Phạm Quốc Hưng
"Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong bóng tối sự chết, một ánh sáng đã rạng lên".
Ngày nọ, một vị linh sư gọi các đệ tử của mình lại và hỏi họ: "Khi nào thì ta biết đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?" Các đệ tử liền lần lượt trả lời: "Khi ta có thể thấy được sự khác biệt được giữa con trâu và con bò"; "Khi ta có thể phân biệt được con vịt và con ngan"; "Khi ta có thể nhận dạng được trái cam và trái táo." Vị linh sư gật gù và nói: "Các con đang nói về ánh sáng tự nhiên như yếu tố phân biệt ngày và đêm. Nhưng chúng con có biết khi nào thì chúng ta có ánh sáng tâm linh để ra khỏi bóng đêm của tâm hồn không?" Thấy họ bối rối, ngài liền nói: "Khi chúng ta nhận ra những người xung quanh thực sự là anh chị em của mình để yêu thương và giúp đỡ họ".
Trong Tin mừng hôm nay, khi thuật về việc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời truyền giáo công khai và kêu gọi các tông đồ đầu tiên, thánh Matthêô đã giới thiệu Chúa Giêsu như Đấng đã làm trọn lời ngôn sứ Isaia đã nói trước đây: " Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong vùng bóng tối sự chết, một ánh sáng đã rạng lên" (Mt 4:16 & Is 9:1).
Theo đó, Chúa Giêsu chính là ánh sáng đem lại sự sống thần linh và tình yêu hiệp nhất cho nhân loại, ánh sáng tâm linh mà vị linh sư muốn nói đến trên đây, như chính Chúa đã tuyên bó sau này: "Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống" (Jn 8:12) Thực vậy, Chúa Giêsu đã dạy mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha duy nhất và hết thảy mọi người là anh chị em của nhau nên phải thực sự yêu thương hiệp nhất với nhau.
Sứ điệp đầu tiên của Chúa Giêsu thực là ngắn ngủi vì được tóm gọn trong một câu: "Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên" (Mt 4:17)
Sự hối cải mà Chúa Giêsu muốn mói đến ở đây chính là việc chúng ta phải bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sáng ban ngày của yêu thương và hiệp nhất. Vì tội lỗi suy cho cùng chính là sự phá hủy liên hệ yêu thương hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, để từ đó dẫn đến sự chia rẽ rạn nứt nơi chính nội tâm con người và giữa con người với nhau.
Chúa Giêsu đến trần gian không có mục đích gì khác hơn là khôi phục lại sự hiệp nhất hài hòa giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa con người với nhau, và chính nơi tâm hồn mỗi người. Sự hiệp nhất trong tình yêu này chính là lý tưởng của Chúa Giêsu và là điều Ngài hằng tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha để trở nên hiện thực như lời cầu nguyện hiến tế của Ngài: "để hết thảy chúng nên một" (Jn 17:21)
Và Chúa Giêsu đã phải trả giá cho sứ mạng này bằng sự sống, sự chết và sự sống lại của chính Ngài. Ngài đã trở thành chính sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, cũng như là nguyên lý tạo thành sự hiệp nhất giữa con người với nhau và nơi chính bn thân mỗi người. Chấp nhận Chúa Giêsu có nghĩa là chấp nhận ánh sáng sự sống, ánh sáng dẫn ta bước đi trên con đường yêu thương hiệp nhất.
Các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi trong Tin mừng hôm nay là những người được mời gọi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất ấy. Thời gian các ông theo Chúa là thời gian các ông được Chúa huấn luyện để hối cải từ một lối sống chia rẽ, ghen tương, đố kỵ đến một cuộc sống yêu thương hiệp nhất. Dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô cũng không gì khác hơn là tình yêu hiệp nhất: "Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau" (Jn 13:35). Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng được đánh dấu bằng tình yêu hiệp nhất này: "Ngày ngày họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân, lòng hân hoan, dạ đơn thành" (Acts 2:46)
Theo gương Chúa Giêsu, trong bài học hai của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô - vị tông đồ dân ngoại - đã kêu gọi các tín hữu tiên khởi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất trong đời sống cộng đoàn và tỏ dấu quan tâm về sự chia rẽ bè phái đang diễn ra nơi họ. Thánh Tông đồ viết: "Hỡi anh em, nhân Danh Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng ý với nhau hết thảy, đừng để có sự chia rẽ trong anh em, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một tâm trí, cùng một quan điểm" (1 Cor 1:10).
Trong ánh sáng của Chúa Kitô, thánh Phaolô nhận ra tất cả tín hữu đã liên kết chặt chẽ với nhau và làm nên một thân thể duy nhất nơi Chúa Kitô nhờ Thần khí Người. Tất cả mọi sự chia rẽ trong cộng đoàn Hội thánh đều là những hành động chia cắt chính Chúa Kitô. Sự chia rẻ bè phái xảy ra trong Hội thánh ở Corinthô là vì các tin hữu không đặt trọn niềm tin vào Chúa Kitô nhưng lại dựa vào uy thế của các vị lãnh đạo khác nhau. Đây là dấu chỉ cho thấy đức tin của các tín hữu ở đây còn là một đức tin ấu trĩ què quặt, một đức tin chưa trưởng thành vì không dựa vào Chúa Kitô mà chỉ bám vào tình cảm cá nhân dành cho người này hay người khác.
Mới đây, một giáo dân ở một giáo xứ nọ cho tôi hay là bà và gia đình cảm thấy chán nản buồn rầu bỏ cả xưng tội chịu lễ như muốn mất đức tin chỉ vì có sự thay đổi cha xứ, vì linh mục ở giáo xứ bà không làm gương về sự yêu thương hiệp nhất như các ngài thường giảng, và vì có sự chia rẽ bè phái trong giáo xứ.
Tâm sự của bà đã cho thấy niềm tin của bà chưa phải là một niềm tin trưởng thành vì còn lệ thuộc quá nhiều vào tư cách của các chủ chăn mà chưa đặt trọn nơi Chúa Kitô. Nhưng sự kiện này cũng cho thấy sự yêu thương hiệp nhất là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của một cộng đoàn Kitô hữu. Thiếu yêu thương hiệp nhất, đời sống cộng đoàn trở nên buồn nản và có thể dẫn đến sự tan rã của cộng đoàn. Vì vậy, bổn phận của mỗi người trong cộng đoàn Kitô hữu là phải dấn thân hy sinh để xây dựng tình thương và hiệp nhất trong gia đình và cộng đoàn, phải quên mình và từ bỏ những ý riêng để gìn giữ sự hiệp nhất trong Chúa với tha nhân.
Khi thấy sự hiệp nhất yêu thương của gia đình, cộng đoàn hay giáo xứ bị suy thoái và tổn thương, mỗi người cần phải xét mình và cố gắng từ bỏ tất cả những gì có thể làm thiệt hại đến sự hiệp nhất yêu thương. Việc bỏ bê các việc đạo đức hay các sinh hoạt trong cộng đoàn và nhất là việc nói hành nói xấu nhau lúc này không giúp ích gì mà chỉ gây thêm tội trước mặt Chúa. Trái lại, đây là lúc mỗi người trong cộng đoàn càng phải khiêm nhường và khoan dung nhẫn nại hơn trong cách đối xử với nhau, phải nỗ lực tha thiết hơn trong đời sống cầu nguyện, và phải siêng năng đến với Chúa Giêsu Thánh thể là nguyên lý của sự hiệp nhất trong cộng đoàn để xin Ngài tái tạo và củng cố sự hiệp nhất nơi cộng đoàn.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng tái tạo hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người cũng như hiệp nhất giữa con người chúng con với nhau, nhờ lời Mẹ Maria chuyển cầu, xin Chúa giúp chúng con được ơn hối cải đểtừ bỏ tất cả những cảm nghĩ, lời nói và hành động nào có thể làm tổn thương sự hiệp nhất của chúng con với Chúa và với nhau. Xin Chúa giúp chúng con biết nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất trong mọi môi trường chúng con sống. Xin soi sáng cho chúng con nhận biết rằng mọi người chúng con là anh chị em với nhau vì có cùng một Cha trên trời, và cùng là chi thể của nhau, để chúng con luôn sống như những người con thảo của Chúa Cha và những chi thể đích thực của Nhiệm thể của Chúa. Amen.
32. Bóng tối và ánh sáng
Mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp những động từ diễn tả những hành động xem ra rất bi quan như: bị nộp, lui về, rời bỏ. Ai mang những hành động bi quan đó. Thưa chính là Gioan và Chúa Giêsu: Gioan thì nộp cho vua Hêrôđê, Chúa Giêsu thì phải âm thầm rút lui khỏi Galilê và rời bỏ Nazareth . Có vẻ như Gioan và Chúa Giêsu là những con người thua trận trong một trận chiến giữa bóng tối và ánh sáng.
Gioan là người công chính. Suốt cuộc đời, ông đã sống và làm chứng cho sự thật. Ông không ngừng kêu gọi con người ăn năn sám hối , từ bỏ con đường tội lỗi, kịch liệt lên án những hành động loạn luân của vua Hêrôđê . . để rồi cuối cùng ông bị nộp vào tay kẻ gian ác như những con người thua trận bị bắt làm tù bình vậy. Gioan không phải là ánh sáng nhưng không thuộc về ánh sáng và chiến đấu cho Sự Sáng. Nhưng xem ra Bóng Tối đã chiến thắng Sự Sáng và khống chế Sự Sáng. Sứ vụ làm Tiền Hô, làm người dọn đường cho Đấng Thiên sai đến của Gioan chấm dứt với việc bị bắt vào tù và chờ đến ngày bị kẻ ác giết chết. Cuộc hiến giũa bóng tối và ánh sáng vẫn tiếp diễn. Khi sứ vụ của Gioan kết thúc, thì sứ vụ của Đức Giêsu bắt đầu. Sự khởi đầu của Đức Giêsu cho sứ vụ của mình xem ra cũng chẳng sáng sủa gì. Khi ở Giuđêa, Đức Giêsu bị nhóm Sa-đốc và Biệt Phái chống đối. Họ đã bắt giam Gioan Tẩy Giả thì cũng sẽ tới lúc họ sẽ bắt giam d. Vì thế, khi Gioan bị bắt, Đức Giêsu tạm lánh mặt khỏi vùng Giuđêa và lui về Miền Bắc là Gialilê.
Sự cứng lòng và thành kiến của Dân miền Giuđêa là căn cớ cho Đức Giêsu rao giảng cho dân ngoại trong vùng Duyên hải thành Capharnaum ở Galilêa. Nhưng khi đến Galilêa, Đức Giêsu cũng không chọn Nazareth là quê hương của Ngài để rao giảng mà ngài lại chọn Capharnaum. Lý do tại sao thì Tin mừng cũng đã cho chúng ta biết trong đoạn văn tường thuật về việc Chúa Giêsu về quê hương Nazareth của mình để rao giảng. Chính Ngài đã phải mở miệng nói rằng : "Không một tiên tri nào được đón tiếp và tôn trọng tại quê hương của mình". Việc Gioan Tẩy Giả bị nộp cũng liên kết với việc Đức Giêsu bị nộp sau này, vì đó là chương trình của Thiên Chúa Cha. Thánh Mathêu cố ý dùng động từ "bị nộp" để nói về Gioan Tẩy Giả trong đoạn Tin mừng này, cũng như nói về việc Đức Giêsu "bị nộp" sau này (Mt 17, 22) cho ta thấy được Gioan và Đức Giêsu có cùng chung số phận; số phận của những con người một lòng sống cho sự thật và một lòng tuân theo Thánh ý của Chúa Cha.
Đức Giêsu khởi đầu ngay khi Thiên Chúa cho sứ vụ của Gioan Tẩy giả kết thúc. Điều này cho chúng ta thấy được là 2 sứ vụ của Gioan và của Đức Giêsu có liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một chương trình của Thiên Chúa. Việc Gioan Tẩy Giả bị nộp cũng liên kết với việc Chúa Giêsu bị nộp sau này, vì đó là chương trình của Chúa Cha. Thánh Mathêu cố ý dùng động từ "bị nộp" nói về Gioan Tẩy Giả trong đoạn Tin mừng này cũng như nói về Chúa Giêsu cũng sẽ bị nộp sau này nhằm cho chúng ta thấy được số phận của Gioan Tẩy giả cũng như của Chúa Giêsu, số phận đầy bị thương trước mặt người đời của những con người sống cho Sự thật và một lòng vâng theo thánh ý của Thiên Chúa.
Nhìn vào số phận của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giêsu, ta càng tin tưởng vào chương trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Mọi sự diễn ra trong cuộc đời này đều nằm trong sự quan phóng của Thiên Chúa. Là người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta rồi cũng sẽ đi trên con đường Đức Giêsu đi, chúng ta cũng sẽ chịu cùng chung số phận với Ngài trong những công việc nhằm minh chứng cho Sự thật hay thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha trong cuộc đời này. Sống cho Sự thật, chiến đấu cho Sư sáng, cho vinh quang của Nước Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ phải rất hy sinh và sẽ mang nhiều thương tích nơi mình, thậm chí có thể mất mạng sống của mình nữa. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào Đức Giêsu. Con đường mà Ngài đã qua chắc chắn làm cho nhiều người ngán ngại và tháo lui, nhưng vinh quang Phục sinh vô cùng vinh hiển của Ngài đang chiếu sáng khắp mọi nơi và đang mở rộng cửa để đón chờ những người con trung thành của Ngài tiến tới.
Đừng sợ bị chống đối, bị bắt bớ; nhưng hãy cầu nguyện sao cho chúng ta có đủ sức để chiến thắng trong cuộc chiến quyết liệt này. Hãy cảnh giác luôn vì ranh giới của Bóng tối và Aùnh sáng rất gần nhau. Đừng vì nhất đảm mà đầu hàng và tháo lui. Chọn lựa một con đường không có hy sinh, không có ừ bỏ, không có thập giá là chúng ta đã chọn một con đường mà Chúa Giêsu của chúng ta đã không đi qua và không có Chúa ở đó. Hãy bước trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi qua thì mới có thể đạt tới vinh quang Phục sinh và sự sống vĩnh cửu được. Hạnh phúc vĩnh cửu hay trầm luân đời đời là do quyết định của chúng ta bây giờ.
Ước gì đừng có ai trong chúng ta chọn lựa lối bước trên con đường rộng thênh thang mà Đức Giêsu đã không đi qua, nhưng hãy chọn lựa con đường mà Ngài đã đau đớn và cực lòng bước đi lên đồi Calvê ngày nào để được cùng Ngài hưởng vinh phúc Thiên đàng mãi mãi.
33. Ơn gọi đâu dành để riêng ai!
(Suy niệm của Lm Giuse Lê Quan Trung)
Có lẽ do khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai về Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã tuyền chọn bốn môn đệ đầu tiên: Simon Phêrô-Anrê-Giacôbê-Gioan, mà sau này cả bốn vị đều trở thành Đức Giám Mục với vị đứng đầu là Đức Giáo Hoàng tiên khởi Phêrô, mà từ đó rất nhiều người, hễ nghe nói tới ơn gọi, là họ nghĩ ngay đến ơn thiên triệu, ơn gọi giáo sĩ, tu sĩ, ơn gọi dâng hiến, ơn gọi “độc thân vì nước trời”!
Cũng từ đó, nhiều thảm cảnh đã xảy ra trong các gia đình, họ tộc: không chấp nhận những đứa con đã đi dự tu, đã vào chủng viện, đã vô nhà dòng, mà còn dám cả gan bỏ Chúa, dám trở lại thế gian để lấy chồng, lấy vợ!
Họ coi đó là một nỗi ô nhục, một vết chàm tím bầm mà muôn đời không cách nào tẩy xóa được. Giận cho họ mà cũng thương cho họ biết bao!
Ý Chúa nào phải chỉ tuyển một ơn gọi đóng khung! Một ơn gọi tách biệt! Một ơn gọi riêng lẻ! Chúa muốn tất cả mọi người đều trở thành người thợ trong vườn nho của Chúa tùy theo khả năng, tùy theo tấm lòng, tùy theo sự lựa chọn của tự mỗi người mà! Không hiểu đúng ơn gọi sẽ không chọn đúng ơn gọi. Không chọn đúng, không thể nào sống đúng! Và nỗi bất hạnh chắc chắn sẽ xảy ra,chỉ là sớm hay muộn thôi!
1) Hạnh phúc đâu chỉ trong đời dâng hiến:
Lựa chọn nào cũng có mất mát. Tuyển lọc nào cũng có rụng rơi. Hạnh phúc nào phải cũng trả giá. Mộng mơ một hạnh phúc vẹn tuyền, toàn hảo, không đau đớn, không đánh đổi, không hy sinh, là một ảo vọng! Ngay bước khởi đầu khi được Chúa gọi mời,với bản chất tự nhiên và nhân bản,ai dám bảo bốn môn đệ tiên khởi đều thanh thản, vui vẻ, phấn khởi lên đường liền? Cũng phải đớn đau từ giã mẹ cha. Cũng phải đắng lòng rời con xa vợ. Cũng phải bịn rịn chia tay bạn hữu. Tình người chia cắt, phải dễ đâu một sớm một chiều! Trình thuật của thánh Matthêu ngắn gọn (Mt 4, 18- 4,22), nhưng sự lựa chọn của các ngài, quyết tâm theo Chúa của các ngài, bỏ lại sau lưng tất cả thân bằng quyến thuộc của các ngài, thật không đơn giản chút nào nếu ta đọc hết cả bốn tin mừng mà bốn thánh sử Matthêu, Maccô, Luca và Gioan đã ghi lại. Không ít lần họ đã bị thử thách mà thử thách đến tận cùng: bằng chính cái chết để thể hiện, để bảo vệ, để giữ trọn và để phát triển niềm tin của mình.
Chúa gọi nhiều, chọn ít! Ai cũng biết điều đó. Nhưng “ít” đây không có nghĩa là loại trừ nhóm không được chọn! Với Chúa, mỗi người Chúa giao những nén bạc riêng, trong những hoàn cảnh riêng, môi trường riêng, khả năng riêng. Hạnh phúc nhất chính là khi ta tìm gặp niềm vui nơi chính ơn gọi, vị trí, chổ đứng của mình trong ý định của Thiên Chúa với sự cộng tác tích cực của mình. Khi mình yêu thích công việc ấy và biết chắc, dẫu lựa chọn đó sẽ có thể một lúc nào đó gây cho mình nhiều đớn đau, nhiều buồn tủi, nhiều cam go, nhưng rồi mình sẽ đủ sức vượt qua vì tình yêu và niềm vui đã đủ lớn để trợ lực cho sự lựa chọn của mình.
2) Hạnh phúc đâu chỉ nếp sống hôn nhân:
Chỉ những ai đã từng nếm trải cuộc sống hôn nhân mới cảm nghiệm rõ một điều: hôn nhân không chỉ toàn là đóa hoa hồng hạnh phúc! Mà trong đó cũng có đủ vị cay đắng ngọt bùi! Không ít người đã quyết tâm hiến dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân trong nếp sống tu trì, nhưng rồi nữa đường gãy gánh, vì không lường trước hết cái giá phải trả của nếp sống ấy. Bởi một chút nản chí sờn lòng vì nhiệt tình phục vụ của mình không được đón nhận hay đáp ứng một cách tích cực, không cậy nương vào Chúa, không đủ tình với Chúa… Bến bờ tựa nương của họ sẽ là những luật bù trừ: đặt tình yêu của mình vào một đối tượng khác! Để rồi khi cơn khủng hoảng dịu lại,qua đi, hiểu được chuyện thì đã muộn màng! Bởi họ không lường trước được: hôn nhân đâu chỉ là những đóa hồng tươi! Gặp lúc nắng, hồng tươi cũng héo!
Ngay thuở ban đầu, Chúa đã liên kết con người bằng tình yêu giới tính, bằng kết hợp âm dương, bằng tình yêu nam nữ. Chính ơn gọi đó đã dẫn dần đến ơn gọi hiến dâng. Ai sống đúng ơn gọi của mình, người đó sẽ tìm thấy hạnh phúc đích thực! Dù ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, cái nào cũng có niềm vui và nỗi buồn, đắng cay và ngọt dịu, khó khăn và dễ dàng của nó. Miễn là ta thực sự yêu chính đời sống của ơn gọi đó, thì mầm hạnh phúc không ở đâu xa.
3) Hạnh phúc còn ở nhiệm vụ Chúa trao:
Ơn gọi hiến dâng, ơn gọi gia đình, là những ơn gọi đặc biệt mà Chúa trao ban và ta tự đón nhận để tìm hạnh phúc cho đời mình. Đã chọn, đừng luyến tiếc! Đã chọn, đừng “bắt cá hai tay”! Đã chọn, đừng ngậm ngùi tủi phận, đừng ân hận dày vò, đừng đắn đo ngó lại! Hạnh phúc nhất là hiểu đúng lời Chúa dạy! Sống đúng lời Chúa trao! Làm đúng lời Chúa dặn! Không dễ, cũng không khó, nếu ta biết: hạnh phúc thật của đời ta không có điểm dừng, điểm tận cùng, điểm kết thúc ở đời này, mà là ở cuộc đời mai hậu.
Làm tròn bổn phận và tìm được niềm vui trong bổn phận, đó đã là hạnh phúc!
Chu toàn nhiệm vụ được giao,là ta đã đáp ứng thật tâm lời mời gọi của Chúa: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Bài ca sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời của một ngư phủ chuyên nghiệp, của một thợ vườn nho lành nghề chính là đời sống tỏa rạng niềm vui và hạnh phúc trong chính đời sống chứng nhân nơi ơn gọi mà mình đang sống, làm tròn những bổn phận: chủ chăn nơi cộng đoàn đức tin, cha mẹ con cái trong gia đình, ban mục vụ, ban hành giáo, ca đoàn, lễ sinh, giáo dân trong giáo xứ và thấy mình luôn bình an, luôn hạnh phúc dù gặp không ít những trắc trở khi sống khi thực hiện những nhiệm vụ đó, là mình đã không bị lệch hướng trên con đường đáp lại lời Người!
34. Mọi người là con Chúa cả!
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Những chuyến đi của con người …
Thuở ban đầu, Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ, Ngài đặt tên cho họ là Adam và Eva. Đó là cộng đồng Dân Chúa đầu tiên, là xã hội đầu tiên của nhân loại. Con người được sống trong một môi trường bình an và hạnh phúc.
Nhưng con người đã bỏ Chúa mà đi.
“Người đàn bà thấy trái cây đó: ăn thì phải ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.
Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa, là Thiên Chúa. (St.36-8).
Đó là chuyến đi đầu tiên của con người rời xa Chúa. Chuyến đi nội tâm đầy bất an và bất hạnh. Chúa vẫn ở bên con người, nhưng lòng con người đã khác, khoảng cách với Thiên Chúa đã xa. Và những ngày đầm ấm hạnh phúc bên Thiên Chúa đã lùi vào dĩ vãng.
“Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đên để cày cấy đất đai, từ đó con người được lấy ra. Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đên, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh. (St.3,23-24).
Và dòng đời cứ thế trôi đi …
Con người lại tiếp tục vương những lỗi lầm, tiếp tục có những chuyến đi lìa xa Tình Chúa. Mầm móng kiêu căng và tham vọng tiếp tục sinh sôi nẩy nở trong thế giới nội tâm con người, Máu và nước mắt, khổ đau và tuyệt vọng tiếp tục tràn lan trong kiếp sống nhân sinh!
Đức Chúa phán với Ca-in: “Aben em ngươi đâu rồi?” Ca-in thưa: “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?” Đức Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em người, do tay ngươi đổ ra” (St.4,9-11).
Con người càng lúc càng lún sâu vào những suy nghĩ và hành động đen tối, tiến dần đến thái độ chối từ và chống lại Thiên Chúa. Và cũng vì thế, con người càng chia rẻ, phân tán. Không còn một nhân loại hiệp nhất, đệ huynh, quây quần bên Thiên Chúa.
“Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh Ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất”.
Đức Chúa xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây. Đức Chúa phán “Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa”. Thế là Đức Chúa phân tán họ từ chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không xây thành phố nữa. Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Đức Chúa làm cho xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất”. (St.11,3-9).
Và, con người mất dần hình ảnh Thiên Chúa trong lòng họ. Dần dần họ là trở thành Dân Ngoại, không còn niềm tin vào Thiên Chúa.
Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng hình ảnh Thiên Chúa đã bị hiểu sai lầm, lệch lạc, mờ ảo, nhạt nhòa.
Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa với tấm lòng thành tâm, thiện chí, nhưng không biết con đường, không nhận ra hướng đi.
Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng niềm tin hòa lẫn cùng lợi lộc thế tục. Trắng đen, hư thực pha trộn, không biết đâu là chánh, đâu là tà!
Những chuyến đi của Thiên Chúa…
Ngay từ buổi ban đầu, sau khi con người sa ngã, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người, dù rằng con người đã phản bội Thiên Chúa với quyền tự do chọn lựa của mình.
“Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St.3,15).
Để thực hiện chương trình cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn cho mình một “Dân riêng” để chuẩn bị một chuyến đi viếng thăm nhân loại. “Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta”.
Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể. Hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp. (Tv.33,12).
Và, Ơn Cứu Độ đã đến với mọi nước, mọi dân, khởi đi từ Do Thái, dân riêng của Chúa.
Vì Ơn Cứu Độ là của mọi dân tộc, là của con người, Chúa Giêsu không thể chấp nhận sự tự hào đến mức kiêu căng tự phụ của Do Thái, đặc biệt là những người Pha-ri-sêu về việc họ là dân riêng của Chúa. Thái độ ấy dẫn đến hình ảnh một Thiên Chúa chỉ biết đến họ vì chỉ có họ mới xứng đáng và loại trừ tất cả mọi dân tộc khác, những dân tộc mà người Do Thái liệt vào dân ngoại và không được Thiên Chúa đoái thương.
“Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Chúa Giêsu phán:“này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng đã đến giờ - và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng người như thế. (Ga 4,19-23).
Chúa Giêsu đã đến với mọi người. Thiên-Chúa-làm-người cứu độ tất cả mọi chúng sinh tin tưởng vào Ngài. Ngài là ánh sáng muôn dân. Ngài đem đến cho nhân loại hình ảnh Thiên Chúa là Cha và rất mực yêu thương con người.
Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. (Mt.4,15-16).
Và, Chương Trình Cứu Độ được tiếp tục mãi cho đến ngày Chúa đến. Chúa Giêsu đã tuyển chọn 12 môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Tình Thương của Thiên Chúa đối với con người. Sứ mạng ấy cũng chính là sứ mạng đem mọi người về với Chúa, đem mọi người trở về địa vị cao cả nhất và nhân bản nhất, đó là được làm con Thiên Chúa.
Có một chuyến đi quyết định, đó là chuyến đi của “Thiên Chúa viếng thăm dân người”. Đó là chuyến đi khởi đầu cho những chuyến đi trên mọi miền đất nước Do Thái.
“Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. (Mt. 9,35-38).
Và, bước theo Thầy Chí Thánh, các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, nhân danh Ngài, các ông đã thực hiện những chuyến đi đến khắp cùng bờ cõi trái đất để làm chứng nhân cho Giêsu, Đấng quy tụ nhân loại về một mối.
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc.16,15).
Tất cả, là vì mục đích: “muôn dân được thuộc về Chúa”, con người được trở về thuở ban đầu: “được làm con cái Chúa”.
Cuộc hành trình niềm tin chỉ cần sám hối và tin vào Chúa Giêsu, Đấng dẫn dắt chúng ta về với Chúa Cha, bến bờ hạnh phúc trong Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa.
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 18-20).
Cuộc trở về của con người.
Vườn Địa Đàng ngày nào, sau bao nhiêu năm “lưu lạc”, con người được quay trở về, được sống trong Tình Cha - Miền Đất Hứa - sau một đời lâm lụy ở trần gian.
Không còn là Dân Ngoại, Dân Riêng, tất cả là một trong Tình Yêu Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Ki-tô, con người được quay quần trong thế giới yêu thương huynh đệ. Không có con đường nào khác ngoài con đường Tình Yêu mà Thiên Chúa đã vạch ra cho loài người.
Tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng một thần khí để trở nên một thân thể (1Cr.17,21).
Đó là ước mơ của cả nhân loại sống hòa bình, hiệp nhất trong một Chân Lý Tình Yêu. Đó là Vườn Địa Đàng tìm thấy, hạnh phúc vô biên mà con người đã đánh mất ngày nào.
Chỉ một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người. (Ep.4,5-6).
Lạy Chúa,
Xin cho niềm tin vào Giêsu được lan tràn khắp địa cầu,
Xin cho mọi người chúng con
can đảm loan truyền niềm tin vào Thiên Chúa,
Xin hiệp nhất chúng con nên một,
trong tình yêu của Ngài. Amen.
35. Được gọi – Mar. Phạm Hoàng Đăng
Bài Tin Mừng ngày hôm nay được chia làm ba phần khác nhau, nhưng đều có mối liên kết cuối mỗi phần để tạo nên một bức tranh đẹp trong sứ vụ của người mục tử đang trên hành trình tìm kiếm đàn chiên của mình.
- Chúa Giêsu rao giảng – Ngài bắt đầu sứ vụ của Ngài
- Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên – Ngài chọn những trợ tá xứng đáng cho Ngài.
- Và Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng – nhưng thêm một chi tiết nữa, đó là chữa bệnh và trừ quỷ.
Cả ba phần đều chứa đựng nhiều cảm xúc của nguời đọc về lòng nhân từ, yêu thương của Chúa. Mọi người bị cuốn vào phần đầu tiên và phần thứ ba nhiều hơn khi Chúa rao giảng, chữa bệnh và trừ quỷ. Nhưng điểm chính trong bản văn Tin Mừng hôm nay lại ở phần giữa, phần mà Chúa gọi những môn đệ đầu tiên.
Lẽ dĩ nhiên không đơn giản mà đường đột Chúa đến gọi các vị ngư phủ mà họ theo, dễ gì phải không. Chúa Giêsu, Ngài biết rõ những nguời mình sẽ gọi là ai, gia cảnh thế nào. Đơn giản là trong những thời gian rao giảng xung quanh vùng biển hồ Galilê này, Người đã quan sát, đã nhận biết đối tượng mà Người sẽ chọn lựa là ai. Và dĩ nhiên ở chiều ngược lại, các ngư phủ cũng biết rõ về cái ông tên Giêsu mà hay đi lang thang dọc bờ biển rao giảng điều tốt lành đó như thế nào, ra sao,…hai bên đã hiểu nhau và giờ chỉ còn chờ một mẫu số chung nữa mà thôi.Rồi thì một ngày đẹp trời nọ, giữa họ đã có mẫu số chung, một mẫu số hoàn hảo.
Bản văn của Matthew không chỉ được đọc và nhìn như là việc gọi đơn thuần, nhưng cần phải được mỗi người để ý và khoanh tròn những động từ có sức cuốn hút mãnh liệt dành cho chính bản thân mỗi người đọc.
“ Thấy, gọi, bỏ, theo”
Những động từ dứt khoát, không do dự từ nơi người gọi và cả người được gọi. nhữngđộng từ đọng lại những suy tư trăn trở cho bất kỳ người Kitô hữu nào, trong bất kỳ bậc sống nào khi đã hiểu những động từ này gắn liền với cuộc đời mình.
Vợ chồng được Chúa thấy và mời gọi họ vào đời sống hôn nhân, và họ cần dám từ bỏ những ích kỷ, ghen tương, mâu thuẫn gia đình mà theo lẫn nhau. Theo với lời hứa chung thuỷ mà họ từng cầm tay nhau thề hứa trước Chúa. Theo để tha thứlầm lỗi cho nhau, để yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày suốt đời nhau.
Ở ơn gọi tu trì hay đời sống độc thân thì lời mời gọi nơi những động từ ở bài đọc hôm nay càng đuợc hiểu và đáp trả mãnh liệt hơn. Chúa đã thấy và mời gọi, Ngài gọi bằng tình yêu, bằng cái nhìn êm ái…và sự đáp trả để được nên thánh cũng bằng những động từ dứt khoát “Bỏ và Theo”. Bỏ -bỏ mọi sự- như ta biết rằng Thánh Phêrô cũng có gia đình, có vợ, con. Nhưng trong bản văn hôm nay thì ta thấy được một cụm từ “ lập tức bỏ” sự từ bỏ không lưu luyến, không vấn vương mà là “ lập tức”- rất dứt khoát.
Cũng có thể là đằng sau đó là một cuộc chia tay, cuộc gặp gỡ ngắn gọn, nhẹ nhàng “ em ở lại, anh đi nhé…”của Thánh Phêrô. Nhưng thực tế cho thấy một sự quyết định dứt khoát theo Chúa của Thánh nhân. Tương tự như với anh em của Giacôbê và Gioan, lại cụm từ “ lập tức bỏ” xuất hiện. hai anh em ông này cũng dứt khoát bỏ thuyền- vật chất thế gian, bỏ cha- tình thân ruột thịt mà đi theo Chúa.
Gần như chắc chắn sẽ có nhiều người phản ánh sự dứt bỏ phũ phàng của các ông. Nhưng điều cốt yếu ở đây và sự khẳng định cụ thể là các ông đã từ bỏ, từ bỏ thật sự để bôn ba cùng Thầy Giêsu. Sự bôn ba bắt nguồn từ việc họ đã được thấy và được gọi. Ánh mắt nhìn mãnh liệt và lời gọi êm ái nhưng dứt khoát.
Ngày nay, những động từ trên cũng vẫn tiếp tục được nhắc đến trong mỗi bậc sống của mỗi người chúng ta. Mỗi người được gọi, gọi từ ngàn xưa vì tình yêu bao la của Chúa. Người được gọi không có gì- không cần phải là đại gia, quan chức, nhưng là bất kỳ ai và vì họ xứng đáng được gọi. Lời mời gọi và đáp trả là của mỗi cá nhân. Chỉ khi bỏ và theo từ khi họ được thấy và được gọi thì họ mới nhận ra rằng họ được Thiên Chúa mời gọi. Cứ như càng học, càng quên, khi theo –khi đáp trả thì mới ngộ ra rằng mình đã theo. Và sự theo được thể hiện nơi lòng trung tín, yêu thương và tha thứ cho nhau trong mỗi bậc sống của mỗi người.
36. Suy niệm của André Sève.
ĐỨC KITÔ Ở NƠI NÀO MÀ KHÔNG CÓ AI BỊ LOẠI TRỪ CẢ
Matthêu thích tạo nên những toàn thể. Trước khi cống hiến cho chúng ta Bài Giảng Trên Núi đầy ấn tượng, ngài tổng hợp công việc truyền giáo của Chúa Giêsu trong cái bước đầu nhiều sóng gió, trong đó cái nhìn khám phá ra những chân trời càng ngày càng rộng lớn hơn. (Tôi đọc đến đoạn 23 bởi vì cắt đứt một bố cục hoàn toàn như vậy là điều đáng tiếc).
Động thái thứ nhất: Chúa Giêsu lui về Galilê, rời Nagiarét để lấy Caphanaum làm cơ sở hoạt động và bắt đầu giảng dạy.
Động thái thứ hai: Chúa Giêsu đi trên bờ hồ và nói với bốn người: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những kẻ đánh lưới người. Từ bỏ tất cả, họ theo Ngài”. Thế là khai sinh một Giáo Hội có bản chất truyền giáo.
Động thái thứ ba: Ngài rảo “khắp” miền Galilê. “Khắp” là từ mấu chốt. “Danh tiếng của Chúa Giêsu đồn ra khắp miền Syri; người ta đem đến cho Ngài tất cả những ai đau ốm; rất nhiều người theo Ngài”. Tầm nhìn không ngừng mở rộng ra và lời trích dẫn tiên tri Isaia rất có ý nghĩa: “Galilê của các dân tộc!”.
Galilê là ngã ba đường nơi có nhiều người qua lại, người ngoại giáo sống lẫn lộn với người Do Thái. Trong khi xác định rằng Chúa Giêsu chọn Galilê để truyền giáo, Matthêu muốn lưu ý ngay tầm vóc của sự cứu độ của Đấng Cứu Thế. Trước tiên được dành riêng cho người Do thái, sự cứu độ sẽ lan tỏa tới tất cả mọi người.
“Ánh sáng đã xuất hiện trên những người ngồi trong bóng tối và sự chết”.
Trước khi lắng nghe chi tiết những lời nói của Chúa Giêsu trước khi xem Ngài hành động, sự suy niệm của chúng ta cần phải có tầm cỡ cần thiết để không bao giờ thu hẹp bất cứ cái gì thuộc về sự cứu độ. Tôi không biết đã đọc ở đâu: “Chúa Kitô ở nơi nào mà không có gì đóng kín, nơi mà không có người nào bị loại trừ”. Tôi vui mừng, nhưng sau đó cảm thấy nực cười: trong lịch sử, nhân danh chính Chúa Kitô, có biết bao nhiêu là bức tường và biết bao nhiêu sự loại trừ.
Những người trẻ tuổi khó mà hiểu được những chia rẽ giữa những người Kitô hữu và những hình thức loại trừ. Ít nhất trên đểm này họ là những người thầy của chúng ta do sự cảm nhận Tin Mừng tế nhị hơn của họ. Biết bao lần tôi đã nghe những người Kitô hữu ở tuổi trưởng thành tỏ ra khinh bỉ một loại người nào đó. Họ nói “Bọn họ!”. Giống như thể có những người được Chúa thương riêng, những người Công Giáo và nhất là những người hành đạo, sau đó là vô số người bị Chúa quên lãng, những người mọi rợ, những quái nhân, những kẻ vô luân, những kẻ không tin có Chúa.
Không, “không tin có Chúa” chỉ có nghĩa khi nói về những người từ chối Thiên Chúa (nhưng họ từ chối Thiên Chúa nào?). Trước mặt Chúa, chỉ có những con cái của Ngài mà thôi. Điều này có khó chấp nhận hay không? Do đâu mà có sự loại trừ cuồng nhiệt như thế?
Có thể là do quan niệm “dân tộc được chọn” ít được giải thích cho sáng tỏ. Ở đây, tôi sẽ không tránh né một câu hỏi làm tôi luôn bối rối: ‘tại sao có sự chọn lựa của Thiên Chúa’. Tôi thường gặp câu hỏi này trong những bài phỏng vấn tôi, khi thì dưới dạng một sự khắc khoải, khi thì đầy tức giận. Người ta nói với tôi: ‘Bạn được sinh ra trong một gia đình Công Giáo, còn tôi được sinh ra trong một gia đình cộng sản triệt để vô thần. Do đó bạn có đức tin, còn tôi thì không. Tại sao Chúa của bạn cho những người này tất cả còn những người khác thì không cho gì hết?’. Tôi không trả lời được. Tôi không biết tại sao thế giới được chia ra thành người Do Thái, người Kitô hữu, người Hồi Giáo, người Phật Giáo, người theo thuyết không thể biết và người vô thần.
Tôi có thể nói lên hai điều. Trước hết khẳng định rằng Chúa ban tất cả hoặc không ban gì hết là sai. Những điều Ngài cho thì khác nhau và Ngài để cho những khác biệt đó hoạt động. Tạo vật của Ngài là một thế giới những sự khác biệt. Những nơi nào có con người hiện hữu thì nơi đó Chúa để mắt nhìn đến người đó. Ngài ban cho người đó những ơn sủng phù hợp với điều người đó làm nhằm hoàn thành nhiệm vụ làm người của họ, cho dù người đó sống vào thời kỳ nào, ở đâu và có nền văn hoá nào.
Tiếp đến, tất nhiên đã có một dân tộc được chọn: dân tộc Do Thái. Và một dân tộc thứ hai được chọn, đó là những người Kitô hữu nối tiếp dân tộc Do Thái (Matthêu nhấn mạnh rất nhiều trên sự liên tục này). Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế được các sứ ngôn loan báo. Ngài là Môisê mới của một dân tộc không biên giới. Người Kitô hữu chỉ được cứu độ để trở thành những kẻ cứu độ, để trở thành những dấu chỉ của sự cứu độ của Chúa Giêsu Kitô được trao ban và được sống bằng nhiều cách mà không có kẻ nào bị loại trừ cả.
Ý tưởng Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người sẽ giúp chúng ta tránh được việc co mình lại cố thủ và loại trừ. Chúng ta chỉ có quyền gọi Chúa Giêsu là “Đấng Cứu độ chúng con” nếu điều đó muốn nói với chúng ta: Đấng Cứu độ mọi người. Trong miền Galilê của các dân tộc đã bắt đầu một sự quy tụ mà không ai có quyền giới hạn cả.
37. Nước Trời đang đến
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Không thể phủ nhận một trong những chủ đề chính của lời rao giảng của Chúa Kitô đó là “hãy ăn năn sám hối” (x.Mt 4,17; Mc 1,15). Sám hối ăn năn không chỉ là nhìn nhận sự sai lầm trong thái độ, hành vi của mình, cũng không chỉ là ân hận về những lầm lỗi mình đã phạm, nhưng còn là một sự thay đổi tận căn lối sống của mình. Các nhà chú giải Kinh Thánh thường phân tích hạn từ “Metanoia”, nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng…để khẳng định ăn năn sám hối là thay đổi cách ăn, nếp ở, thay đổi hướng đi, để trở về với Thiên Chúa, sống theo đường lối Thiên Chúa chỉ dạy.
Làm cho một người thay đổi lối sống quả là không dễ chút nào, nhất là khi lối sống ấy đã trở thành nếp do một quá trình hình thành từ lâu. Tuy nhiên, với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể. Và một phương thế Thiên Chúa đã thực thi đó là chiếu giải ánh sáng tình yêu diệu kỳ. Sứ ngôn Isaia đã loan báo xưa: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng…”(Is 9,1). Ánh sáng ấy chính là tình yêu, là ân sủng mà Thiên Chúa đổ xuống trên họ, khi cho họ thoát khỏi ách gông cùm nô lệ. Thánh sử Matthêu đã lấy lại lời của sứ ngôn Isaia để áp dụng vào trường hợp dân chúng vùng Capharnaum, những người đang hưởng phúc lành của Chúa Giêsu, Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38).
Để mời gọi các nhà lãnh đạo cũng như dân chúng sám hối ăn năn, thay đổi đời sống, thì các ngôn sứ ngày xưa thường nghiêng chiều việc cảnh báo về các tai hoạ do Thiên Chúa sẽ đoán phạt nhiều hơn là tình yêu và lòng từ nhân của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước là Gioan tẩy giả cũng như vậy. Ngài nghiêm nghị cảnh báo nhiều người thuộc phái Pharisiêu và phái Sađốc: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống…cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt 3,7-10, x.Lc 3,7-18).
Chúa Giêsu thì trái lại, Người chủ yếu mạc khải về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa để con người cảm mến, tin tưởng trở về. Các Tin Mừng Nhất lãm tường thuật lời rao giảng của Chúa Giêsu khi Người khởi đầu sứ vụ như sau: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Nước Thiên đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15); “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17); “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đó là: ‘Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Tin Mừng thứ tư thì tuờng thuật việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon tại một tiệc cưới ở Cana cho dù trước đó Người nói rằng giờ của Người chưa đến (x.Ga 2,1-12).
Trời càng sáng thì những chỗ bẩn, chỗ nhơ càng lộ rõ. Ân phúc của Thiên Chúa là ánh sáng giúp con người nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa chính là ánh sáng dẫn đưa con người quay bước trở về. Khi biết mình được yêu, được tha thứ, được đón nhận thì tội nhân sẽ can đảm chỗi dậy và đổi thay. Trên con đường chiếu giải ánh sáng thiên linh, Chúa Giêsu mời gọi một số người cộng tác là các tông đồ, các môn đệ. Người đã sai các vị đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời bằng việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ và chia sẻ ơn bình an (x.Mt 10,1-16).
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban và sai Con của Người đến thế gian không phải để luận phạt thế gian nhưng để những ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời (x.Ga 3,16-17). Đến thế gian, một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô đó là mạc khải chân dung Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng đầy quyền năng và cũng là Đấng toàn thiện, toàn hảo, Đấng không chỉ “không dập tắt tim đèn còn khói, không bẻ gảy cây lau bị giập” mà còn “cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân”, Đấng khộng chỉ sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm một con chiên lạc đàn mà còn sẵn sàng giang rộng cánh tay đón nhận đứa con đi hoang trở về, cho dù lý do nó trở về là để kiếm chút cơm canh lót dạ mà thôi (x.Mt 6,43-45; Lc 15).
Có thể nói rằng đường lối của Thiên Chúa chủ yếu là tỏ bày tình yêu để con người cảm mến, tin tưởng mà hoán cải, đổi thay. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nhận ra đây là đường lối chung của Thiên Chúa dành cho người bé mọn, kẻ yếu đuối, người tội lỗi, thấp hèn. Còn với một số ít người xem ra cố chấp, tự hào về tài năng, chức quyền hay về chút công trạng của mình mà ở lỳ trong tội, thì Chúa Kitô có vẻ nghiêm khắc cách khác thường. Nhiều người biệt phái, luật sĩ hay tư tế Do Thái thời bấy giờ ở trong trường hợp này. Và Chúa Kitô đã dùng những kiểu nói đanh thép để cảnh tỉnh họ như “khốn cho các nguơi”, hay “vô phúc cho các ngươi” (x.Lc 6,24-26; 11,37-52; Mt 23,1-36).
Cũng như các môn đệ năm xưa, chúng ta hôm nay được Chúa Kitô mời gọi làm kẻ chài “lưới người như lưới cá”. Để mời gọi tha nhân hoán cải ăn năn không gì hơn là hãy cho họ thấy Nước Trời đang ở giữa họ (x.Lc 17,21), tức là nỗ lực dệt xây một môi trường sống trong tình thương và chân lý, trong bình an và sự liên đới hiệp thông, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thần dữ. “Nếu Tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,21). Khi chúng ta tích cực gieo rắc ân tình, thì một cách nào đó, chúng ta làm cho người yếu đuối, kẻ tội lỗi nhận biết họ vẫn được yêu thương, được đón nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quên mạnh mẻ cảnh báo những ai vì quá tham danh, hám lợi hay vì cao ngạo mà cố chấp và cố tình ở lỳ trong tội, đồng thời gây cớ vấp phạm cho kẻ bé mọn, gây thiệt hại cho những người cô thân, phận bé. Nước Trời thường được Chúa Giêsu ví như bữa tiệc đầy sơn hào hải vị mà Thiên Chúa ban cách nhưng không (x.Mt 22,1-10), nhưng Nước Trời cũng được ví như tấm lưới kéo từ biển lên, cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì bị vứt ra ngoài (x.Mt 13,47-48).
38. Suy niệm của Charles E. Miller
ĐỨC KITÔ GỌI ĐÍCH DANH TÊN CỦA CHÚNG TA NƠI PHÉP RỬA TỘI
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Ngày hôm nay thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi một số tông đồ. Ngài có thể kể câu chuyện này cách chung chung, nghĩa là chỉ thông báo cho chúng ta biết Chúa Giêsu tụ họp một số môn đệ ở chung quanh Người, thay vì ngài trình bày như thế, thánh Matthêu đã cho chúng ta biết tên của các vị tông đồ được Chúa Giêsu kêu gọi. Các tông đồ đó là Simon (sau này tên là Phêrô) và Andrê em của ông. Giacôbê và Gioan em ông. Có một điều gì đó đặc biệt nơi cái tên của chúng ta.
Trên một “sô” diễn trên tivi, có một bài hát diễn tả tình cảm thật đẹp khi chúng ta đi đến một nơi mà mọi người đều biết tên của bạn. Thật hồi hộp và cảm động biết bao khi bốn người dánh cá nghe thấy Chúa Giêsu gọi tên họ, mời gọi họ đi theo Người. Họ phải bịn rịn lắm khi từ bỏ nghề nghiệp, gia đình và nhà cửa để đi theo Chúa Giêsu. Họ đã thấy nơi Chúa Giêsu có điều gì đó rất khác với những chứng nhân trước đó. Phải có ánh sáng đức tin trợ giúp họ, để họ nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa. Nhưng lúc ban đầu ánh sáng ấy không mạc khải cách kỳ diệu như tiên tri Isaia đã tiên tri khi ông viết: “Dân chúng đi trong tối tăm nay đã thấy ánh sáng lớn lao”. Nhưng đó mới chỉ là một ánh sáng mờ nhạt, một ánh sáng cho phép họ có những lúc vẫn còn nghi ngờ ở Chúa Giêsu, có lúc còn chối Chúa, hay bỏ rơi Chúa trong cuộc thương khó của Người. Nhưng ánh sáng đó không hề tắt bao giờ. Đúng hơn, nó đang dần dần lớn lên và khi Chúa Thánh Thần ngự đến vào ngày lễ Hiện Xuống, ánh sáng đó đã trở thành một ngọn lửa chiếu sáng và ấm áp. Sự tận tuỵ đã thay đổi sự nghi hoặc.
Những điều đó cũng đã xảy ra cho chúng ta như thế. Qua Giáo Hội, lúc chúng ta chịu phép rửa tội, Đức Kitô đã gọi đích danh tên của mỗi người chúng ta. Người nói qua giọng vị linh mục: “Anna (hoặc Anrê) Linh (hoặc Long) (hay bất cứ tên nào) Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Chúng ta được trao cho một ngọn nến cháy sáng, biểu hiện cho đức tin của chúng ta. Cho dù lúc đó chúng ta là những đứa bé hay những người đã trưởng thành, chúng ta lãnh nhận ánh sáng đức tin. Đầu tiên ánh sáng ấy chỉ là một đốm sáng mờ nhạt nhưng với bí tích Thêm Sức, bí tích này kiện toàn phép rửa tội, ánh sáng đó trở nên sáng rực.
Với đức tin chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai đến trong thế gian, được thụ thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi tin Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa, Tin Mừng mà chúng ta vẫn tiếp tục lắng nghe Thánh Kinh và những lời giáo huấn khác của Giáo Hội. Chúng ta biết rằng sứ vụ truyền giáo đã dẫn Người lên Giêrusalem, nơi mà Người phải chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Đức tin của chúng ta dạy rằng nhờ việc chúng ta thông dự vào tiệc Thánh Thể, chúng ta được chia sẻ sự kỳ diệu của sự chết và sự sống lại của Con Thiên Chúa.
Chúng ta theo Đức Kitô bởi chúng ta là thành phần của thân xác Người, thân thể mầu nhiệm của Người là Giáo Hội. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tâm tình của Thánh Vịnh 27: “Chúa là ánh sáng và là Đấng Cứu Độ tôi, tôi còn sợ chi ai? Chúa là nơi nương ẩn của đời sống tôi, tôi còn sợ gì ai?”
Thánh Vịnh viết tiếp: “Một điều tôi xin Chúa, một đều tôi kiếm tìm, đó là được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi”. Chúng ta phải luôn luôn trung thành với ơn gọi phép Rửa của chúng ta, để được ở lại trong nhà Chúa là Giáo Hội của Người và đừng bao giờ nghi hoặc, hoặc bỏ rơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã kêu gọi đích danh tên chúng ta để chúng ta trở nên những người tiếp bước của Người.
39. Trung tín với Chúa và trung tín với con người
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài này cho thấy Chúa Giêsu khởi sự rao giảng Tin Mừng. Người bắt đầu loan báo Tin Mừng về Nước Trời. Việc này làm nổi rõ ngay từ đầu điều mà ta có thể gọi là lòng trung tín của Đức Kitô, trung tín với Chúa Cha và trung tín với con người. Thật vậy, Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng về Nước Trời, chớ không phải một sứ điệp giới hạn về một thứ giải phóng trần gian nào. Làm như thế, Người trung tín với Chúa Cha với chính mình, với Thánh Thần. Đàng khác, Người đi khắp Galilêa, nghĩa là tìm đến với con người tại nơi họ ở và như họ là, Người khai thông những khả năng tốt nhất của họ (kể cả khả năng trở nên Tông đồ). Trong điểm này, Người đã trung tín với con người. Ở đây ta gặp một vấn đề lớn lao, vấn đề này đã được đặt ra cho Giáo Hội trong suốt lịch sử. Đó là: làm thế nào cống hiến tất cả sự phong phú nhân loại cho Phúc Âm và làm thế nào sống toàn bộ Phúc Âm trong thực tại con người? Người Kitô hữu phải hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, đồng thời trọn vẹn là con người, hay nói đúng hơn, trọn vẹn con người bởi vì trọn vẹn thuộc về Đức Kitô. Phải dùng tinh thần Phúc Âm hoàn lại tất cả đời sống con người cho chân lý của nó sự trong sáng, sự sung mãn của nó. Vì Tin Mừng về Nước Trời được loan báo cho toàn bộ đời sống con người.
Đâu là những con đường mà việc loan báo này đi theo?
1) Hãy trở lại, vì Nước Trời đã đến gần. Trở lại đi đôi với Nước Chúa điều đó có nghĩa gì? Phải chăng có nghĩa rằng Tin Mừng là lời loan báo về một cuộc thay đổi ách thống trị trên con người? Thật vậy, nếu theo bản chất con người được tự do chọn lựa ông chủ thống trị mình, thì nó luôn luôn có một ông chủ. Nếu nó không chọn Nước Chúa, nó tự buộc mình phải chịu những ách nô lệ (như bản năng, lòng ích kỷ, - tiền tài, quyền lực ma quỷ v, v…). Đức Kitô loan báo cho ta biết chọn lựa những điều giải phóng ta. Người gọi ta chọn lựa Thiên Chúa, tức là sự thống trị của Tình Yêu. Để phục hồi đời sống con người lại tình trạng nguyên vẹn của nó, phải từ bỏ ách nô lệ của sự ác và chọn lựa Chúa làm Đấng thống trị của Tình Yêu. Để phục hồi đời sống con người lại tình trạng nguyên vẹn của nó, phải từ bỏ ách nô lệ của sự ác và chọn lựa Chúa làm Đấng thống trị ta.
2) Chữa lành mọi bệnh tật. Đức Kitô dùng quyền năng của lòng nhân hậu để hỗ trợ lời rao giảng của Người. Những vụ chữa bệnh phần xác, ngoài giá trị riêng biệt nó có, còn biểu thị sự hồi phục con người tinh thần, tức là con người tự gốc rễ của nó. Hành động Đức Kitô nhằm phục hồi trọn vẹn điều mà tội lỗi đã muốn làm hư hỏng, tổn thương yếu nhược, phá huỷ. Đức Kitô trung tín với con người ở chỗ Người hành động để con người trở lại tình trạng nguyên vẹn đầu tiên như Thiên Chúa đã nghĩ tưởng, và như thế Người cũng trung tín với Thân Phụ Người, Đấng đã muốn cho tất cả mọi người khởi đầu từ đó mà trở nên con cái Người.
40. Tiếng gọi của Chúa
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu Albert Schweitzer làm “người hùng của thế kỷ”. Hai năm sau (1952). Albert Schweitzer được giải thưởng Nobel hoà bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: Ông vừa là một triết gia lừng danh, một nhà thần học nổi tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc và còn là một bác sĩ thừa sai nữa.
Nhưng điểm nổi bật nhất nơi ông là niềm tin Kitô giáo sâu sắc. Chính niềm tin này đã khiến ông thành “người hùng của thế kỷ”: Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó. Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30 của ông, nhằm ngày 13/10/1905, ông đến một hộp thư ở Paris gởi một số thư về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai để phục vụ đám dân nghèo.
Những lá thư của ông lập tức bị phản đối ngay. Bà con và bè bạn ông đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của ông. Họ bảo ông là một người đem chôn dấu tài năng đã được uỷ thác cho ông… Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những ý định của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi Châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực gọi là Phi Châu xích đạo. Tại đây, ròng rã suốt hơn bốn mươi năm trời, ông đã dùng hết tài năng và sức lực để đêm ngày tận tuỵ săn sóc những người dân bản xứ nghèo nàn bệnh tật, với tất cả tình yêu thương và lòng nhân ái. Sau cùng ông đã chết ở đó vào năm 1965, hưởng thọ 90 tuổi.
Thưa anh chị em, động lực nào đã khiến ông Albert Schweitzer quay lưng lại với danh vọng và của cải trần gian để dấn thân làm việc cho đám dân cùng khổ nhất trong đám dân nghèo ở Phi Châu như thế?
Theo lời ông, thì một trong những động cơ thôi thúc ông làm điều đó chính là do ông suy gẫm Tin Mừng của Chúa Giêsu. Ông đã lắng nghe tiếng gọi của Ngài và quyết tâm đáp lại bằng cách dấn thân phục vụ dân nghèo ở Phi Châu. Ông nói: “Tôi không thể hiểu được tại sao tôi lại được phép sống một cuộc đời hạnh phúc như thế đang khi chung quanh tôi còn biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau khổ”.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục lên tiếng kêu gọi và đòi hỏi những ai đã nghe tiếng kêu gọi của Ngài phải có một đáp trả dấn thân cụ thể: Hãy sám hối! Hãy sống Tin Mừng Nước Trời! Hãy loan báo Tin Mừng cho đồng bào, cho nhân loại! Có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa gọi. Một thứ tiếng vang lên từ bên trong, nhẹ nhàng nhưng rõ nét, mời gọi nhưng không kém phần thúc bách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh của đời mình, và tứ đó đời mình đổi khác.
Chúa Giêsu gọi tôi như xưa Ngài đã gọi các môn đệ đầu tiên bên bờ hồ Galilê. Chúa vẫn hay gọi con người một cách bất ngờ. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó. Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan, bốn vị này đã từng quen biết ít nhiều với Chúa Giêsu, nghe lời Ngài giảng và thấy Ngài làm phép lạ, nhưng họ không ngờ là một ngày nào đó, Ngài sẽ gọi họ làm Tông đồ. Đức Giêsu đi dọc theo bờ biển như một sự tình cờ. Ngài tình cờ thấy bốn anh em đang làm việc, kẻ quăng chài, người vá lưới. Tất cả ở trong một bầu khí êm đềm và huynh đệ. Đức Giêsu biết việc Ngài sắp làm. Ngài gọi những người Cha muốn. Tiếng gọi của Ngài vang lên thật bất ngờ. Tiếng gọi đưa đến những chia cắt không thể nói là không đau đớn. Các môn đệ đầu tiên đã phải từ giã nghề chài lưới, nghề đã nuôi sống gia đình họ và đã giúp họ trưởng thành, nghề đã đem lại cho họ biết bao kỷ niệm vui buồn. Chấp nhận bỏ nghề là chấp nhận bấp bênh. Các ngư phủ nay phải sống trên bờ, để đi theo một ông thợ mộc cũng đã bỏ nghề! Hơn nữa, họ còn phải từ giã gia đình và họ hàng thân thuộc. Họ đã coi Chúa Giêsu hơn cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tương lai. Thái độ của các môn đệ đầu tiên thật đáng phục. Đó là thái độ lý tưởng của người nghe Chúa gọi, và sẵn sàng theo Ngài ngay lập tức.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục gọi mỗi người chúng ta hôm nay. Không phải một người đã chết từ 20 thế kỷ gọi chúng ta, nhưng là một Đấng đang sống. Ngài gọi đúng tên từng người trong chúng ta và Ngài muốn giao cho chúng ta một công tác đặc biết. Chúa Phục Sinh hôm nay vẫn cứ mời gọi từng người chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình vĩ đại, đó là chương trình cứu độ toàn thế giới. Tôi có nghe tiếng Ngài không? Tôi có muốn nghe được tiếng của Ngài không?
Nhiều khi chúng ta giả vờ không nghe tiếng Chúa để khỏi phải đáp lại, khỏi phải từ bỏ và đoạn tuyệt. Có nhiều tạo vật đang quấn lấy đời ta, không dễ gì gỡ được: Tiền bạc, sự ổn định, sự thoải mái tiện nghi, chút tiếng tăm địa vị, chút thoả mãn nơi thân xác… Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Ngài như giá trị cao nhất vượt trên mọi giá trị. Phải có tình yêu lớn lao mới có thể từ bỏ lập tức những gì chúng ta đang ôm ấp. Từ bỏ trở thành thước đo tình yêu của ta đối với Thiên Chúa. Đời người Kitô hữu là một cuộc lắng nghe không ngừng những tiếng gọi mời của Chúa. Chỉ những ai biết yêu mới nghe thấy và dám thực hiện ý Chúa tỏ lộ qua từng ngày, từng biến cố của đời mình.
Có thể nói, một trong những hoạt động chính của Chúa Phục Sinh là cất tiếng gọi con người. Ngài không ngừng mời gọi với một sự kiên nhẫn lạ lùng. Ngài gọi con người dưới trăm ngàn hình thức. Không phải chỉ là gọi ai đó đi tu, nhưng Ngài còn gọi cả giáo dân theo Ngài, theo Ngài bằng cách ở lại gia đình và môi trường xã hội để làm chứng cho Ngài, như một Albert Schweitzer, một Kitô hữu, một triết gia, một nhà thần học, một sử gia, một nhạc công sôlô và là một bác sĩ thừa sai. Chúa Giêsu vẫn cứ gọi và lay động trái tim mọi người, kể cả những kẻ chưa biết Ngài. Đời chúng ta là một chuỗi những tiếng gọi của Chúa. Tiếng gọi nào cũng mới mẻ và cụ thể. Nếu chúng ta đáp lại, Ngài sẽ đưa chúng ta đi xa hơn trong tình bạn, qua những tiếng gọi mới.
Các môn đệ đã đáp lại tiếng gọi của Chúa, không phải bằng lời nói, nhưng bằng hành vi từ bỏ thực sự. Chúa không mời gọi mọi người từ bỏ gia đình để sống đời thánh hiến, nhưng Chúa lại mời gọi tất cả chúng ta bỏ tính ích kỷ và cứng cỏi của mình để sống yêu thương tha nhân. Bỏ cái gì ngoài mình, không phải là điều quá khó. Nhưng bỏ chính bản thân mình với những dự tính, ước mơ, điều đó khó hơn nhiều.
Thưa anh chị em, nghe tiếng Chúa, đáp lại bằng cách từ bỏ và đi theo, đó là chu trình mà người tín hữu phải sống nhiều lần trong ngày, trong đời: “Hãy theo Thầy”. Chúa cứ nói với tôi câu đó hoài trong suốt đời tôi, và tôi hiểu rằng theo Chúa là được triển nở trong tự do yêu mến.
41. Ánh sáng muôn dân
Thiên Chúa là Ánh Sáng. Đúng thế, sách Sáng Thế Ký kể lại rằng: ngày thứ tư, Thiên Chúa dựng nên các tinh tú trên bầu trời. Ngài xếp đặt chúng để chiếu tỏa ánh sáng cho địa cầu và phân chia ngày đêm. Và như vậy, ngay từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng.
Trong Cựu ước, ánh sáng vốn thường được dùng để nói lên vinh quang của Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa đã hiện ra với ông Maisen trong bụi gai bốc cháy:
- Bấy giờ ông Maisen nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: mình phải lại xem cảnh tự kỳ lạ này mới được, vì sao bụi cây lại không cháy rụi?
Thiên Chúa cũng đã hiện diện giữa dân Ngài qua áng mây và cột lửa. Sách Xuất Hành ghi lại:
- Khi ra khỏi Ai Cập, Đức Chúa đi đằng trước họ, ban ngày thì ở trong cột mây để hướng dẫn, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy.
Ngày Thiên Chúa ký kết với dân Do thái giao ước tại Sinai, lúc bấy giờ ngọn núi rực sáng như bốc cháy. Sách Xuất Hành ghi lại:
- Bấy giờ mây bao phủ núi…Vinh quang Đức Chúa xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu, trước mắt con cái Israel.
Thế nhưng, Thiên Chúa không phải chỉ là ánh sáng tự nhiên bên ngoài, con mắt chúng ta có thể trông thấy, mà hơn thế nữa, Ngài còn là ánh sáng siêu nhiên bên trong để soi dẫn bước đường chúng ta đi và ban cho chúng ta sự sống.
Thực vậy, Thiên Chúa đã dùng luật pháp và lời các tiên tri để hướng dẫn đường đi nước bước cho con người. Ngài chính là đèn soi lối cho họ. Ngài là ánh sáng và là ơn cứu độ của họ.
Khi mở mắt chào đời, chúng ta nhìn thấy ánh sáng và chúng ta chính thức bước vào cuộc sống. Cũng vậy, nếu bước đi trong ánh sáng của Chúa, nếu bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ được vào cõi sống với vinh quang bất diệt.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, Đức Kitô chính là nguồn sáng duy nhất.
Thực vậy, trong đêm Giáng Sinh, ánh sáng của Chúa đã bao phủ khi sứ thần loan báo tin vui. Thánh Luca ghi nhận:
- Kìa sứ thần Chúa đứng bên họ và vinhquang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.
Tiếp đến, ánh sáng của ngôi sao lạ cũng đã chiếu soi để dẫn đưa ba nhà đạo sĩ phương đông đến tìm gặp và thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem.
Khi Chúa biến hình trên đỉnh Tabôrê, khuôn mặt Ngài sáng ngời và y phục Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Đây phải chăng chính là một hình ảnh báo trước vinh quang phục sinh của Ngài, bởi vì Ngài chính là ánh sáng thế gian.
Sau cùng, Ngài đã dùng luồng ánh sáng chói lòa để quật ngã thánh Phaolô trên con đường Đamas, biến thánh nhân từ một kẻ thù địch trở thành một tông đồ nhiệt thành đem Tin mừng đến cho muôn dân.
Thế nhưng, điều quan trọng hơn nữa Đức Kitô chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa.
Thực vậy, ngày hôm nay khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, thánh Matthêu đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài:
- Đoàn dân ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chính Ngài cũng đã xác nhận:
- Ta là ánh sáng thế gian, ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm.
Ánh sáng ấy sẽ dẫn chúng ta tới vùng đất của sự sống vĩnh cửu, nếu chúng ta biết bước theo sự soi dẫn của Ngài, có nghĩa là nếu chúng ta biết tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Hẳn chúng ta không thể nào quên được một hình ảnh sống động vào đêm thánh vọng Phục sinh, khi cây nến cháy được rước và tiến lên từ cuối nhà thờ trong bóng tối dày đặc, vị linh mục đã xướng:
- Ánh sáng Chúa Kitô.
Phải, ánh sáng Chúa Kitô đã chiếu dọi vào tâm hồn mỗi người, thế nhưng chúng ta có tiếp nhận ánh sáng ấy hay chúng ta lại ưa thích sự tối tăm? Giống như người đau mắt ghét bỏ ánh sáng, thậm chí có kẻ còn ra sức dập tắt ánh sáng ấy.
Cuộc đời chúng ta là một tấm bi kịch, một cuộc chiến đấu giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta phải có thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt: - Chọn ánh sáng hay bóng tối? Cố gắng trở nên con cái Thiên Chúa hay con cái thế gian?
Mỗi người phải thành thực trả lời với Chúa và chính câu trả lời ấy sẽ ảnh hưởng tới tương lai và ấn định số phận đời đời của chúng ta.
42. Ánh sáng
Dân ngồi trong tăm tối đã nhìn thấy ánh sáng huy hoàng.
Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ngày xưa có những nhân vật khôn ngoan và thông thái, tuy đã chết từ lâu, nhưng vẫn còn được người đời nhắc đến, chẳng hạn như Aristote, Platon, César…Đồng thời, có những dân tộc đã trải qua những thời đại hoàng kim của mình, chẳng hạn người Hy Lạp nổi tiếng về văn hóa, người La Mã nổi tiếng về binh đội…
Còn hôm nay, chúng ta cũng có những nhà bác học với những phát mình làm đảo lộn cách thức suy nghĩ và hành động thường tình, chẳng hạn như máy hơi nước, máy vô tuyến, điện lực, nguyên tử…Đồng thời cũng có những quốc gia giàu mạnh nắm giữ vai trò của một siêu cường như Hoa Kỳ, Nga…
Thế nhưng, tất cả mới chỉ nổi tiếng, mới chỉ giỏi giang về những sự việc trước mắt và ở đời này. Còn nhụ sự việc thiêng liêng về đời sau, về linh hồn, về Thiên Chúa, thì họ lại hoàn toàn chẳng biết gì và không hề nói tới. Không nói tới, bởi vì có biết đâu mà nói.
Chevreul, một khoa học gia, đã phát biểu:
- Các bạn khoa học của tôi thật tài giỏi trong những lãnh vực chuyên môn, thế nhưng trong lãnh vực tôn giáo, họ không hơn gì những em nhỏ mới được xưng tội rước lễ lần đầu. Miệt mài vào công việc nghiên cứu trong những lãnh vực chuyên môn ấy, họ không cho tôn giáo là quan trọng, nên không chịu tìm hiểu cũng như không chịu sống theo những tiêu chuẩn của tôn giáo.
Đúng thế, lãnh vực của khoa học là lãnh vực của thực nghiệm. Khoa học khởi đi từ những hiện tượng, những sự việc cụ thể, để rồi dẫn tới những định luật và áp dụng những định luật ấy vào đời sống thực tế.
Còn quốc gia thì bận rộn với vấn đề chính trị, quân sự, ngoại giao và kinh tế, chỉ có tôn giáo mới lo đến linh hồn, đến đời sau, đến Thiên Chúa và đem lại lời giải đáp cho những vần đề đã từng làm chúng ta băn khoăn và thắt mắc.
May áo, chúng ta phải đến với thợ may. Đóng giày, chúng ta phải đến với thợ giày. Bắt điện, chúng ta phải đến với thợ điện. Về những sự đời này, chúng ta phải đến với những chính trị gia, những vị tướng lãnh, những nhà kinh tế…Còn về những sự đời sau, chúng ta phải đến với tôn giáo. Làm khác đi là đến với những nơi không có thẩm quyền, hoặc không đủ khả năng. Làm khác đi là đến lầm địa chỉ.
Một số vấn đề then chốt đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắt mắc, chẳng hạn: Tôi bởi đâu mà đến? Tôi sống ở trên đời để làm gì? Và chết rồi tôi sẽ ra làm sao? Kẻ bất lương và người lành thánh có gì khác nhau ở bên kia cái chết?
Đứng trước những vấn đề này, chỉ có tôn giáo và nhất là Kitô giáo mới đưa ra được những lời giải đáp thỏa đáng. Bởi đó, thánh Tôma tiến sĩ đã có lý khi nói:
- Một bà lão thuộc giáo lý có khi còn am hiểu hơn những nhà bác học tài giỏi.
Đạo là đường, là ánh sáng. Không có đạo và nhất là không sống đạo, thì dù có thông thái và khôn ngoan tới đâu chăng nữa cũng vẫn là những kẻ đáng thương còn ngồi trong tăm tối.
Tuy nhiên, có điều thật bẽ bàng và cay đắng, đó là ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không tiếp nhận ánh sáng. Sở dĩ như vậy vì họ không muốn bước đi trong ánh sáng. Họ giống như những người đau mắt, luôn ghét bỏ ánh sáng.
Vì thế, khôn ngoan về những sự việc ở đời này mà thôi chưa hẳn đã là khôn ngoan thực sự, trái lại nhiều khi còn dại đột và kém sáng suốt, bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:
- Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Hãy đón nhận ánh sáng của Chúa, có nghĩa là hãy lắng nghe và thực thi những điều Chúa truyền dạy, bởi vì lời Chúa chính là đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta đi.
43. Ngư phủ
Hôm nay Chúa Giêsu gọi bốn tông đồ đầu tiên trong số 12 vị: Simon Phêrô, Andrê, Giacôbê và Gioan. Đây chính là bước khởi sự thành lập Giáo Hội với sứ mạng phúc âm hóa. Một khởi điểm cho sự thành lập mầu nhiệm Vương Quốc Thiên Chúa như Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI gửi cho thế giới ngày nay: “Giáo Hội có một nhận thức sâu xa về lời của Đấng Cứu Chuộc “Ta phải công bố Tin Mừng về Vương Quốc của Thiên Chúa”.
Năm 1998, tại hội nghị có tên là “Thi Hành Công Lý” (Doing Justice), một trong những thuyết trình viên đã dùng bức tượng “Kẻ Nô Lệ Dở Dang” (Unfinished Slave) hay “Người Tù Tỉnh Thức” (Awakening Prisoner) của nhà nghệ sĩ vĩ đại Michelangelo để minh họa cho bài nói chuyện của mình. Bức tượng miêu tả một con người đang phấn đấu để được tự do thoát ra khỏi những giới hạn của một tảng đá cuội lớn mầu xám. Hình ảnh của con người được biểu lộ dần dần, qua những nhát búa đục đẽo đầy ân huệ của người nghệ sĩ. Nó bùng phá ra khỏi khối đá lao tù để đi vào sự tự do bằng việc trở nên làm con người hoàn toàn… Bình phẩm về kiệt phẩm này, thuyết trình viên đã nói:
“Hình ảnh của người nô lệ đang được giải thoát này xác định vị trí của chúng ta trong vai trò căn bản của Giáo Hội hôm nay: sứ mạng phúc âm hóa của Giáo Hội… Từ ngữ “phúc âm hóa” được rút ra từ tên gọi được ban cho một người nô lệ trong nước Hy Lạp cổ xưa. Người nô lệ được giao trọng trách mang tin mừng chiến thắng về cho dân chúng đang chờ mong ở nhà khi chiến trận xảy ra. Để đáp lại công lao loan báo tin mừng chiến thắng này của người nô lệ, dân chúng ban thưởng cho người nô lệ ân huệ được tự do”.
Người nô lệ thời Hy Lạp ngày xưa đã diễn tả cho chúng ta thấy rằng sự tự do không phải chỉ hệ tại một lời công bố, nhưng là một sự biến đổi ở chính bản thân con người. Bản thân người nô lệ được giải thoát khỏi sự lệ thuộc, được tự do chính là Tin Mừng.
Ngay từ ban đầu, các tông đồ đã không đi theo Chúa với cùng một mục đích như Chúa muốn. Họ theo Chúa Giêsu với những tư tưởng, ước mơ, và dự định riêng tư của mỗi người. Người muốn bỏ Giêrusalem để lên Rôma bằng mọi cách. Người khác muốn nhìn thấy vương quốc Israel được tái tạo theo như dòng tộc của nhà Đavid. Kẻ muốn ngồi bên hữu Chúa Giêsu trong nước Giêrusalem mới… Nhưng Ngài đã giúp họ vượt thoát ra khỏi những ý định riêng tư đó mà mang lấy sứ mạng làm “ngư phủ bắt người”, đi rao truyền Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Các tông đồ đã trung thành với sứ mạng của mình. Sách Công vụ Tông đồ đã nói với chúng ta tất cả những điều họ đã làm: “Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện… Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung… Họ đồng tâm nhất trí…”
“Giáo Hội đã gắn bó với chương trình phúc âm hóa từ trong bản chất thâm sâu”. Giáo Hội chỉ có một chương trình, một sứ mạng, và một mục đích duy nhất: “Trong Chúa Giêsu Kitô, con của Thiên Chúa làm người, đã chết, và sống lại từ cõi chết: sự cứu rỗi được trao ban cho mọi người, như là một ân sủng và lòng từ bi của Thiên Chúa”. Và ngày nay, mỗi người Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đến để tiếp tục bước theo con đường của Chúa Giêsu đã đi qua và đã dạy chúng ta.
44. Sống đức tin
Vị linh mục tuyên úy hỏi người thủy thủ trẻ tuổi: “Ai đã dẫn đưa bạn tới Chúa Giêsu Kitô?” Anh ta chần chừ suy nghĩ, vì nghĩ rằng phải sử dụng tên tuổi của những nhà giảng thuyết trứ danh, bèn hỏi lại vị tuyên úy: “Thưa cha, chắc không cần phải là người giảng thuyết chứ?” Rồi anh nói tiếp: “Đó là sự thực hành của mẹ con”. Hầu hết chúng ta đã đón nhận đức tin từ cha mẹ. Khi lớn lên không bao giờ thắc mắc rằng chúng ta đã không phải là Kitô hữu. Chúng ta giữ đức tin trong khi được dạy cách làm dấu, đọc kinh Lạy Cha, đi nhà thờ dự lễ… học cách thức chào hỏi, lễ phép bởi cha mẹ, thầy cô nơi trường học. Do đấy, tất cả mọi người trong gia đình, cộng đoàn hay xã hội đều được mời gọi đóng góp vào sứ mạng “ngư phủ bắt người”. Bạn có tin được không, ngay cả con chó cũng có thể dẫn đưa một người về với Đức Kitô.
Một ông lão không bao giờ để ý gì tới Thiên Chúa, hay đời sống tinh thần, nhưng vợ ông lại là một Kitô hữu rất đạo đức. Bà đã cầu nguyện cho chồng nhiều năm, nhưng dường như lời cầu xin của bà chưa được đáp trả vì ông không bao giờ chịu đến nhà thờ chung với bà. Người đàn bà đạo hạnh đáng thương này đi lễ hằng tuần với một con chó già. Nó đi theo bà vào nhà thờ, rồi phủ phục nằm im dưới gầm ghế ngồi. Khi người đàn bà chết, con chó có vẻ buồn bã lắm. Một vài lần, lão già chú ý thấy con chó rời nhà vào một giờ nhất định, rồi trở về đúng giờ. Một buổi sáng Chúa nhật, ông lão đi theo con chó xem nó đã đi đến đâu. Con chó dường như có vẻ hứng khởi và vui vẻ khi có người cùng đi với nó dọc theo lối bộ hành cho đến cửa nhà thờ. Ông lão ngừng lại khi thấy nó nhanh nhẹn nhẩy lên những bậc thềm rồi đứng chờ ông ở cửa nhà thờ. Sau khi đứng lại nghỉ ngơi giây lát, chưa quyết định phải làm gì, ông lão tự nhủ: “Vào nhà thờ theo con chó cũng được. Đâu có hại gì!” Ông đã vào nhà thờ, đi theo con chó đến ngay chỗ vợ ông vẫn thường ngồi. Nhớ đến vợ, ông ngồi xuống và lắng nghe. Chúa nhật kế tiếp, ông lão lại đi đến nhà thờ với con chó trung thành của ông. Dần dần, người ta đã thấy ông ở trong nhà thờ ngay chỗ vợ ông vẫn thường ngồi với con chó nằm thinh lặng dưới gầm ghế. Sau cùng ông đã tham gia cộng đoàn và cho phép Tin Mừng thấm nhập vào cuộc đời ông.
Phúc âm hóa là công trình biến đổi con người trở nên giống hình ảnh của Chúa Kitô. Đó là công việc giải thoát con người khỏi tội lỗi. Sách Giáo lý Công giáo số 900 mời gọi chúng ta trong vai trò “ngư phủ bắt người” này như sau: “Cũng như tất cả các tín hữu đều được Thiên Chúa ủy nhiệm cho việc tông đồ, vì đã lãnh nhận phép rửa tội và phép thêm sức, các giáo dân có nghĩa vụ và có quyền lợi làm việc, từng cá nhân hoặc từng nhóm lại thành các hiệp hội, để sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa được mọi người trên trái đất biết tới và đón nhận”.
45. Ðón nhận ánh sáng
Một trong những điều cần thiết để con người có thể sống được đó là ánh sáng. Ánh sáng giúp cho con người làm việc được dễ dàng và thoải mái. Chẳng hạn ánh sáng giúp cho con người gặp gỡ nhau; Ánh sáng giúp cho các học sinh, sinh viên học bài và nghiên cứu sách vở.... Tuy nhiên ánh sáng đó sẽ trở nên vô dụng đối với những ai không biết đón nhận.
Tuần trước chúng ta đã được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian". (Ga 1, 29). Hôm nay, chúng ta tiếp tục được giới thiệu một nét quan trọng của Chúa Giêsu qua lời loan báo của tiên tri Isaia. Lời loan báo ấy lại được Thánh Mathêu nói đến: "Ðoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi " (Mt 4, 16). Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật phát xuất từ Chúa Cha. Người đến trần gian để đem cho con người sự sống thật.
Trong bài ca Benedictus, ông Dacaria đã thốt lên: "...Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an". (Lc 1, 78 - 79)
Chính Chúa Giêsu cũng tự nói về mình: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống " (Ga 8, 12).
Như thế, ai biết đón nhận Chúa Giêsu thì sẽ có được sự sống và bình an đích thật. Mở đầu đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đã: "lánh qua miền Ga-li -lê. Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li " (Mt 4, 12 - 13) để rao giảng. Ðáng lẽ, Người phải rao giảng ở quê hương mình là Nagiaret trước nhưng vì họ đã không biết đón nhận. Cụ thể là họ đang bắt giam Thánh Gioan Tẩy giả - ng ười đến làm chứng cho Chúa Giêsu. Ðang khi đó những người ở những vùng đất này họ đang khao khát đón nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu mang đến.
Trong một lần cầu nguyện với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã thưa: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất , con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn" (Mt 11, 25). Chỉ những ai biết khiêm tốn và thật sự khao khát đón nhận thì ánh sáng từ Chúa Cha mang đến mới có ích lợi và giá trị cho họ. Ðón nhận ánh sáng ấy chính là làm theo những dạy của Người. Bỡi lẽ "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi ". (Tv 118, 105)
46. Sám hối
Có một vị ẩn sĩ nọ, sau bao nhiêu năm tu luyện bỗng thấy hương thơm sự thánh thiện của mình bay tỏa khắp nơi, nhiều người tiến đến vấn ký cũng như để xin ông cầu nguyện cho. Từ đó vị ẩn sĩ thường hãnh diện về tiếng tăm của mình. Một buổi sáng nọ, ông đến thăm một ngôi nhà thờ nằm bên cạnh một dòng sông. Đi dọc theo bờ sông, ông thấy có một người đàn ông đang ngồi khóc lóc thảm thiết. Đến gần, vị ẩn sĩ mới nhận ra đó là người đàn ông mà khi nghe nhắc đến tên tất cả mọi người dân trong vùng đều phải run sợ, vì hắn là một tên cướp giết người không gớm tay.
Vị ẩn sĩ định làm ngơ bỏ đi, nhưng người đàn ông tiến đến quì gối xuống trước mặt ông và xưng tội. Nghe xong một danh mục những tội mà cả đời ông không dám nghĩ tới, và khi so sánh với cuộc sống hoàn toàn trong sạch của mình, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận. Ông nghĩ đến cơn giận thánh của Chúa Giêsu khi vào Đền thờ Giêrusalem, thế là thay vì đưa tay ban phép giải tội, vị ẩn sĩ lại to tiếng quát bảo người đàn ông như sau: “Một tên đầu trộm đuôi cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật cho ngươi: cây gậy ta đang cầm trên tay đây trở thành bông còn dễ hơn là việc Chúa tha thứ cho ngươi”.
Nói xong những lời đó, vị ẩn sĩ bỏ mặc cho tội nhân chìm đắm trong thất vọng và ông tiếp tục cất bước. Thế nhưng ông chưa kịp đi được mười bước thì cây gậy của ông đang cầm trong tay bỗng bị cắm sâu xuống đất. Ông dùng tất cả sức lực của mình để kéo nó lên khỏi đat nhưng cây gậy vẫn không nhúc nhích. Và lạ lùng thay, từ thân cây gậy, lá, cành và hoa trái từ từ mọc lên. Rồi nhà ẩn sĩ lại nghe có tiếng phán bảo: “Sự tha thứ của Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông. Một người có tội biết ăn năn trở lại được tha thứ còn dễ dàng hơn là một kẻ kiêu hãnh”.
Quả thực, trọng tâm của bài Tin mừng hôm nay chính là lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Đó cũng là mệnh lệnh đầu tiên của Chúa Giêsu khi Ngài bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng. Ơn cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo và thực hiện chính là việc giải phóng con người khỏi tội lỗi. Tất cả những bệnh hoạn, tật nguyền mà Chúa Giêsu thuyên chữa khi bắt đầu sứ vụ công khai là một dấu hiệu của tội lỗi. Cứu chữa con người khỏi những tật bệnh trong thân xác, Chúa Giêsu muốn cho con người thấy Ngài đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và tất cả những hệ lụy của nó. Nhưng tất cả những phép lạ mà Chúa Giêsu thực hiện không phải là những ảo thuật, bùa chú mà là sự gặp gỡ giữa con người với quyền năng Thiên Chúa, là một sự thi thố tình yêu không giới hạn của Ngài.
Do đó, con người chỉ có thể chứng kiến được phép lạ khi tuyên xưng quyền năng của Chúa Giêsu: “Chính lòng tin của con đã chữa con”. Chúa Giêsu đã không ngừng lập đi lập lại câu đó mỗi lần thuyên chữa một bệnh nhân. Lòng tin của con người được thể hiện qua việc con người tuyên xưng niềm tin của mình nơi quyền năng của Chúa Kitô.
Thiên Chúa mời gọi chứ không áp đặt. Ngài luôn chờ đợi sự ưng thuận của con người. Do đó, bước đầu tiên mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người chính là sám hối, nghĩa là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, và đó cũng là thái độ cơ bản và thường hằng trong cuộc sống con người. Bao lâu con người còn nhận ra thân phận yếu hèn của mình thì bấy lâu con người còn nhận ra sự cần thiết của ơn cứu rỗi mà Đức Kitô đã tặng ban. Trái lại, nếu con người phủ nhận thân phận tội lỗi của mình thì con người cũng sẽ khước từ ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.
Sám hối không chỉ là một tiếng khóc của thất vọng, mà phải là một sức bật mới giúp cho con người vươn lên: “Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến”. Nước trời chính là động lực của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực là phải quyết tâm hướng về thực tại của nước trời và những thực tại đó chính là hòa bình, bác ái, yêu thương, quảng đại, cảm thông, tha thứ. Thể hiện lòng sám hối chính là thực thi những giá trị ấy. Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến, hay đúng hơn hãy sám hối để cho nước trời được đến giữa mọi người.
47. Sám hối
Khi nghe tin Gioan tẩy giả bị bắt, Chúa Giêsu biết cuộc đời công khai của Ngài bắt đầu ý định cứu rỗi của Chúa Cha muốn thực hiện qua Ngài. Ngài rời bỏ Nagiarét, nơi Ngài sinh ra và lớn lên từ thời thơ ấu, đến miền duyên hải thành Caphácnaum, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali; và Ngài khởi sự rao giảng rằng: “Anh em hãy ăn năn sám hối, vì nước trời đã đến gần”.
“Hãy ăn năn sám hối”, lời kêu mời của Chúa Giêsu nhắc lại lời mời gọi sám hối của Gioan Tẩy giả. Thiên Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường để rao giảng Tin Mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Ngài cần chia sẻ chính mình. Ngài đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần tìm về ơn cứu độ.
Nhưng để nhận ra ánh sáng đó, cần phải có lòng ước muốn. Ánh sáng cũng vô ích cho những ai không muốn thấy, bởi vì đối với người mù, ngay cả mặt trời chính ngọ cũng chẳng khác gì đêm tối. Ánh sáng chỉ thuận lợi cho những ai muốn và có thể sử dụng nó. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Ngài đến để giải thoát con người khỏi đêm tối tội lỗi, nhưng con người chỉ vui hưởng ơn cứu độ khi sẵn lòng đón nhận ánh sáng là Chúa Kitô. Ơn phúc nhưng không vẫn có đó, nhưng hiệu nghiệm hay không là tùy từng người. Điển hình là phản ứng của dân chúng thời đó: trong khi những người bình dân tin vào Tin mừng được lành bệnh thể xác và tinh thần, thì cũng có người như nhóm biệt phái, thay vì đón nhận ơn phúc, họ lại tìm cách bắt bớ Chúa.
Nguyện cho lời Chúa hôm nay hoán cải tâm hồn chúng ta, để ánh sáng Chúa lan tỏa trong chúng ta, đánh tan mọi ảnh hưởng của tội lỗi.
48. Khởi điểm
Chúng ta hết thảy đểu đã nghe những nhà bình luận thể thao la lên: Đây là một khởi điểm! Dù là một cuộc đua ngựa, trượt tuyết, chạy đường dài, người ta đều la lên: Đây là một khởi điểm! Chúng ta đã trông thấy những lực sĩ giương bắp thịt lên và mặt mày căng thẳng chờ dấu hiệu khởi hành, vì việc khởi hành là quan trọng. Khởi hành tốt tạo điều kiện cho phần còn lại của cuộc chạy đua.
Hôm nay, Tin Mừng kể lại cho chúng ta khởi điểm của Chúa Giêsu, bắt đầu sứ vụ của Ngài. Khởi điểm quan trọng vì nó cho hoạt động của Chúa Giêsu ý nghĩa của nó.
Ba nét nêu lên đặc điểm của bản văn này: chuyển động, những cuộc cắt đứt, một sứ điệp.
Việc Gioan Tẩy Giả bị bắt giam giống như một dấu hiệu khởi điểm đối với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chuyển động: Ngài rút lui về Galilê rồi từ giã Nagiarét để đến Capharnaum, rồi Ngài đi dọc theo bờ hồ và kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài kêu gọi họ bước theo Ngài.
Những cuộc di chuyển này của Chúa Giêsu gây ra những sự cắt đứt. Bước đi, bao giờ cũng để lại sau lưng mình những phong cảnh, những sự vật và những con người. Chúa Giêsu cắt đứt với ngôi làng thời thơ ấu của Ngài: Nagiarét, để đi đến một môi trường mới mẻ: thành phố Capharnaum quốc tế. Các môn đệ cũng cắt đứt với môi trường của họ để theo đuổi một cuộc mạo hiểm mới với Chúa Giêsu. Họ để lại đằng sau họ ngôi làng, nghề nghiệp, gia đình. Tất cả những chuyển động này không chỉ là di chuyển đơn thuần mà thôi. Chúng được hướng về một sứ điệp phải loan truyền. Một sứ điệp của Thiên Chúa: “Hãy sám hối vì nước trời đã đến gần”.
Nói cách khác, Thiên Chúa đến, Ngài đến gần anh em, Ngài mang đến cho anh em sự sống và hạnh phúc. Thiên Chúa mang ánh sáng đến cho những người xứ Galilê, Do thái và ngoại giáo, đến cho những người ngồi trong bóng tối. Thiên Chúa mang sự sống và hạnh phúc đến cho tất cả những ai ngồi trong bóng sự chết. Hết thảy mọi người đều được mời gọi hoán cải, đứng dậy, đón nhận hồng ân của Thiên Chúa. Đứng dậy, thay đổi cuộc sống vì Thiên Chúa làm những điều mới mẻ nơi Chúa Giêsu Kitô.
Những cuộc di chuyển này của Chúa Giêsu, những sự cắt đứt này, sứ điệp một Thiên Chúa gần gũi này có liên quan đến chúng ta hôm nay không? Dĩ nhiên rồi. Vì nếu Chúa Giêsu đã bước đi trên những nẻo đường xứ Galilê, là vì chúng ta. Nếu Ngài đã cắt đứt với ngôi làng của Ngài là vì chúng ta. Sứ điệp của Ngài liên quan đến chúng ta và không chỉ nhắm những người ở xứ Galilê mà thôi.
Bởi sự nối kết những thế hệ tín hữu, sứ điệp của Chúa Giêsu đã đến với chúng ta và chúng ta đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Trở thành môn đệ không phải là chỉ đón nhận Chúa Giêsu Kitô, mà còn trở nên trách nhiệm về sứ điệp của Ngài, tức là di chuyển để loan truyền nó. Sứ điệp này không phải là một quả bóng chúng ta giữ trong tay chúng ta, ta phải ném nó lại cho những người khác.
Làm sao di chuyển hôm nay vì Thiên Chúa và sứ điệp của Ngài? Bằng cách thực hành những giá trị của Tin mừng. Đây là ba giá trị khiến chúng ta phải di chuyển và dẫn đưa chúng ta đến những sự cắt đứt với các giá trị của thế gian này.
Thực thi tính nhưng không. Đây là một giá trị quan trọng của Tin mừng: Nếu anh em làm ơn cho những kẻ làm ơn cho anh em, nếu anh em chỉ cho những kẻ trả lại cho anh em… thì anh em bắt chước những kẻ tội lỗi. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cắt đứt với những thái độ tìm lợi nhuận, hoán cải theo tinh thần nhưng không.
Tha thứ. Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Ngài nói với chúng ta: “Hãy thương yêu kẻ thù, hãy cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con”. Có lẽ chúng ta không có kẻ thù, cũng không có những kẻ bách hại, nhưng một số người làm tổn thương chúng ta, tấn công chúng ta bởi lời nói, cử chỉ, thái độ của họ. Chúng ta phải cắt đứt với ước muốn trả thù của chúng ta, hoặc đơn giản hơn với sự khinh bỉ của chúng ta đối với kẻ khác.
Hủy bỏ những khoảng cách. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu lo lắng hủy bỏ những khoảng cách: “Ngài ngồi ăn với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, Ngài để cho những người phong cùi đến gần Ngài”, tóm lại Ngài lui tới với những kẻ bên lề xã hội, đủ loại, vì sứ điệp của Ngài nhắm tới hết thảy mọi người như các môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải vượt các rào cản ngăn cách chúng ta với tha nhân, những người nhập cư, da đen, mắc bệnh Sida, người nghèo.
Những việc thực hành Tin Mừng này làm cho chúng ta trở thành những người di chuyển. Đi đến với những kẻ mà chúng ta không trông mong họ đền đáp gì cả, đi đến với những người làm ta đau khổ, đi đến với những kẻ khác với chúng ta.
Hôm nay, ta đừng sợ xét xem chúng ta có phải là những môn đệ di chuyển vì Thiên Chúa không. Vì Thiên Chúa không có đôi chân nào khác ngoài chân của chúng ta.
49. Họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa
Vào ngày nắng hạ kia, có cậu bé ra đường tình cờ nhìn thấy một đồng xu nhấp nhoáng dưới chân mình. Cậu bé nhặt đồng xu lên nắm chặt trong tay và khuôn mặt cậu bé tỏ lộ rất là vui mừng. Đồng xu kia thuộc về chú bé mà không phải làm gì hết! Kể từ ngày đó cứ hễ ra đường là đầu chú bé cúi xuống với đôi mắt mở to liếc nhìn khắp chỗ để may ra vớ được thêm đồng tiền nào chăng. Suốt cuộc đời chú bé kiếm được 302 đồng một xu, 24 đồng năm xu, 41 đồng 10 xu, 8 đồng 25 xu, 3 đồng 50 xu, và tờ một đô-la bị rách, tổng cộng tất cả là 12 đồng 80 xu. Tất cả số tiền thuộc về chú bé mà không phải mất gì hết. Song chú bé ấy đã mất đi 35.127 lần nhìn xem hoàng hôn, 327 lần ngắm nhìn cầu vồng, những cảnh huy hoàng rực rỡ của lá phong đổi mầu vào mùa thu, những áng mây trắng trôi lang thang trên bầu trời xanh ngắt, chim bay thú chạy, ánh mặt trời cùng những nụ cười chào hỏi của những đi qua lại. Còn biết bao điều khác nữa mà chú bé đã bỏ quên. Ý câu chuyện muốn nói là trên thế giới này cũng có biết bao người như chú bé đã đi qua cuộc sống trong tâm thức bị tù đầy, bỏ qua không biết bao nhiêu chuyện lý thú có thể khám phá qua cuộc sống dương gian này.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu thuật lại rằng: Chúa Giêsu đang đi bộ dọc theo bờ biển Galilê, chợt Ngài nhìn thấy hai anh em là Simon cũng gọi là Phêrô, và em là Anrê. Cả hai anh em đều là dân thuyền chài. Chúa Giêsu gọi họ, "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ lưới cá người" (Mt 4,19). Ngài kêu mời họ vào cuộc thám hiểm kỳ bí lý thú trong chính đời sống mới, vào sự cảm nghiệm đời sống tình yêu của chính Ngài. Và ngay lập tức họ đã bỏ mọi sự, tầu bè, cha mẹ, để theo Chúa như Thánh Matthêu đã kể.
Simon Phêrô, và các tông đồ khác theo Chúa để học nơi Chúa. Chẳng bao lâu, họ nhận ra rằng Đức Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Ngài là Lời Chúa. Ngài không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Chúa Giêsu là Sự Sống. Ngài không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống", mà chính Ngài là Đường sự Sống, là Ánh Sáng.
Ông Thomas Carlyle không những là sử gia mà còn là một nhà văn nổi tiếng của Scottish, có lần ông nhận được lá thư của một sinh viên trẻ muốn trở thành thầy giáo viết cho ông như vầy: "Thưa ông Carlyle, tôi muốn trở thành một giáo viên. Ông có thể chỉ cho tôi biết cách làm sao để nên một thầy giáo thành công không?" Ông Carlyle trả lời: "Hãy nên như là một học trò, như anh muốn người khác trở nên". Còn mọi cách khác chỉ là trò đùa vô lý!" Và đó chính là cách thức Kitô hữu dạy dỗ. Điều gì Chúa Giêsu dạy chúng ta làm thì chính Ngài đã làm trước. Chỉ có một cách chắc chắn chúng ta có thể "liên kết với Ngài" là hãy sống như Ngài đã sống theo như Thánh Gioan Tông đồ đã viết (1Ga 1,5-6). Hơn nữa, chúng ta phải hối cải nếu như chúng ta muốn sống giống Chúa Giêsu vì đó là cách duy nhất.
"Để trở nên môn đệ Ta, thực hành điều Ta dạy, đón nhận Ta là gương mẫu sống, ôm ấp Đời Sống Mới mà Ta ban cho, biến đổi không chỉ đạo giáo của con nhưng là toàn bộ cuộc sống từ thói quen đến tương lai, con phải biến đổi-- đặc biệt mọi cách thức của con nếu như con muốn theo Ta".
Chúng ta đã biết Thánh Kinh, những lời giáo huấn của Chúa, và những cách thức Ngài đã làm gương...
Bạn có chúc lành cho những người chúc dữ mình không? (Lc 6,28).
Bạn có bố thí cho những ai xin bạn không? (Lc 6,30).
Bạn có làm điều tốt cho kẻ ghét bạn không? (Lc 6,27).
Bạn có thương kẻ thù bạn không? (Lc 6,27).
Bạn có từ bi với mọi người không? (Lc 6,36).
Khi thấy tha nhân cần giúp đỡ, bạn có nhìn nhận Chúa Giêsu trong họ không? (Mt 25,31-64).
Hãy để những vấn đề kể trên thành hành động và lối sống của bạn.
Chúa Giêsu đã sống giữa dân tộc Ngài, và rao truyền Tin Mừng về một Thiên Chúa Yêu Thương sẽ đem họ đến sự toàn hảo. Hình ảnh một Thiên Chúa Tình Yêu được biểu lộ qua Chúa Giêsu và những việc Ngài làm. Ngài tỏ lộ chính mình Ngài như một Gương Mẫu Tuyệt Hảo cho dân chúng noi theo để đáp trả Thiên Chúa đáng kính yêu của họ. Nhưng dân tộc Ngài lại ra án lệnh Ngài phải chết. Họ không chấp nhận giáo thuyết có một Thiên Chúa Yêu Thương ở giữa họ. Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng là nếu họ muốn theo Ngài thì phải thay đổi tất cả từ tâm linh đến cách sống của họ. Họ phải thay đổi cách đối xử với tha nhân cũng như người ngoại bang; và họ đã không thể chấp nhận những giáo huấn ấy.
Họ không muốn thay đổi những gì họ đang nắm giữ, vì thay đổi là đụng chạm đến an ninh, lòng tự ái, giáo điều và tinh thần nghiêm khắc của họ. Chúa Giêsu đến rao giảng một Thiên Chúa Yêu Thương đã ban tặng cho họ một cách thức tốt hơn. Đời sống sẽ được phong phú hơn bởi một tinh thần và một hệ thống giá trị mới hoàn toàn. Tất cả những điều ấy sẽ ban tặng cho ai thống hối và đi theo Ngài. Nhưng họ không thể chấp nhận lời kêu gọi để tiến tới sự cao siêu hơn; bởi đó họ đóng đinh Ngài và Ngài đã chết trong chính sự u mê của họ.
50. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối của tử thần - JS
Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước đã bị giao nộp. Số phận của ông Gioan cũng không hơn gì các ngôn sứ đi trước. Ông dám lên tiếng và đã trả giá cho sự thật. Ánh sáng chân lý tưởng chừng bị dập tắt để rồi mọi sự lại rơi vào bóng đêm của tử thần.
Đức Kitô chợt xuất hiện nơi miền Galilê dân ngoại. Người là ánh sáng đã bừng lên giữa những nhiễu nhương của tăm tối tội lỗi trần gian. Người đến công bố triều đại Thiên Chúa, đem đến ơn giải thoát cho những ai "đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần".
Đức Kitô đến công bố sự thật về một "Nước Trời đã gần đến". Lời Người làm vang vọng những lời của ông Gioan. Người xác định lại điều Gioan đã loan báo về Nước Trời đã gần đến. Người công bố với uy tín của Đấng "đến sau" nhưng "có trước", "trổi vượt hơn", vì Người là "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn".
Ngài mời gọi mọi người hãy có thái độ chuẩn bị tích cực nhất: "anh em phải sám hối". Tính cấp bách của lời này không thua gì của Gioan. Người ta phải trở về với Chúa sớm nhất, không trì hoãn. Những ai không dứt khoát với con đường tối tăm, thỏa hiệp với sự dữ thì chẳng bao giờ xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Do đó, lòng dạ của Biệt phái, của? Hêrôđê rất xa vắng với Nước Thiên Chúa gần bên, nhất là khi họ bắt nộp và âm mưu giết hại Gioan. Chúa Giêsu không phải ngẫu nhiên mà đến rao giảng ở miền Galilê dân ngoại. Xứ Giuđê quá cứng lòng, đã khước từ sứ điệp của Gioan. Điều đó đã buộc Đức Giêsu đến ngỏ lời với dân ngoại miền Galilê.
Dọc biển bờ hồ Galilê đã có những tâm hồn mở ra cho Nước Thiên Chúa. Họ chỉ là những anh chài lưới nghèo nàn chất phác. Nhưng con tim họ thì quảng đại mạnh mẽ khác thường. Vậy là giữa khoảng không thinh lặng không lời đáp trả đã có những con người biết lắng nghe lời mời gọi của Đức Kitô. Họ không chỉ là những công dân mới của Nước Thiên Chúa. Họ còn mang lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nuớc Thiên Chúa cho muôn dân. Từ đây, thế gian tăm tối phải mở mắt thấy rằng nó có thể bịt miệng giết Gioan, hay đóng đinh Đức Kitô, nhưng chẳng thể ngăn nổi ánh sáng Lời Chúa chiếu tỏa trên môi miệng môn đệ Người.
Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan đã bỏ lại tất cả để theo Chúa. Hẳn là Đức Kitô phải hấp dẫn lắm và sự nghiệp Nước Thiên Chúa phải cao đẹp lắm mới khiến các chàng ngư phủ mau mắn theo Người như vậy. Vậy mà Chúa Giêsu chẳng hứa hẹn điều dễ dãi. Rồi số phận của Chúa Giêsu và các môn đệ cũng chẳng khác gì Gioan. Nhưng các ông và tất cả các môn đệ thuộc về Đức Kitô sẽ nhận ra cái logic của Tin Mừng khác với trần gian: "trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm 8, 37).
Mọi người chúng ta đang mang lấy ánh sáng Đức Kitô trong mình. Ánh sáng của Người đến xua tan những ngóc ngách tăm tối để lòng ta không ngừng thuộc trọn về Người. Chúng ta hãy mở cửa tâm hồn mình cho ánh sáng chân lý Chúa chiếu soi. Phải sám hối thật lòng để xứng đáng với Nước Thiên Chúa đến.
Như các môn đệ, Chúa mời gọi ta đem ánh sáng cứu độ Chúa cho mọi người. Nếu thế gian không có ánh sáng Chúa chiếu rọi thì sẽ mãi ở trong lầm lạc, vô phương giải thoát. Và nếu ánh sáng trong lòng ta đã tắt lịm thì sẽ chẳng thể thắp sáng cho ai được. Ta hãy xin Chúa ban cho ta ánh sáng của Người và mau mắn đáp trả sứ mệnh loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
51. Suy niệm của JK
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo bài Tin Mừng hôm nay, thì Galilê là vùng đất của dân ngoại, thế nhưng Đức Giêsu lại sinh trưởng và xuất thân từ vùng này. Các môn đệ của Ngài cũng thế. Điều đó có ý nghĩa gì không? Tại sao Ngài không sinh trưởng ở vùng đất của dân có đạo như Giuđê (Giêrusalem)?
2. Tại sao để canh tân tôn giáo, Đức Giêsu không chọn các môn đệ là người có học thức, hay có nhiều hiểu biết về tôn giáo như các kinh sư, Pharisiêu, mà lại chọn những người ít học, đơn sơ, nghèo nàn, nhút nhát?
3. Các môn đệ có những đặc điểm nào mà Đức Giêsu lại thích chọn họ hơn là các kinh sư? Có thể rút ra bài học gì cho chính bạn?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu đến để canh tân lại đạo Do Thái
Vào thời Đức Giêsu, đạo Do Thái chỉ còn là cái vỏ bên ngoài, bên trong thì trống rỗng. Các tín hửu chỉ còn giữ đạo một cách hình thức. Họ đặt quá nặng việc tham dự những lễ nghi tôn giáo, những vẻ thấy được bên ngoài. Vì thế, lễ nghi thì ngày càng rườm rà, càng gia tăng vẻ long trọng, luật lệ ngày càng nhiều, càng phức tạp và gây nên lắm phiền hà, các cơ sở vật chất cũng gia tăng. Còn tinh thần bên trong tức kính sợ Thiên Chúa và yêu thương đồng loại là hai điều răn lớn nhất trong lề luật (Mt 22,35-40) thì bị coi nhẹ. Và «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23) là yếu tố cốt tủy nhất của tôn giáo thì bị xem thường.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ còn là những người thích ăn trên ngồi trốc, hưởng thụ những đặc quyền đặc lợi mà luật lệ tôn giáo đã dành cho (Mt 23,6-7), nhiều khi lại cấu kết với thế quyền để đàn áp bóc lột dân chúng (23,14). Họ dạy người khác làm những điều tốt đẹp mà chính họ lại không chịu làm (23,3). Nhiều khi họ không biết cái nào là cái chính cái nào là cái phụ trong tôn giáo (23,16-22) để dạy người ta giữ: nên cái chính yếu thì bị coi nhẹ, còn cái phụ thì lại được quan trọng hóa lên. Vì thế, họ trở thành những kẻ «dẫn đường mù quáng» (23,24), «mù lại dắt mù» (Lc 6,39).
Thế nên sứ mạng của Đức Giêsu là đến để làm một cuộc đại canh tân và cách mạng về tôn giáo. Có thể nói Ngài lập nên một đạo mới trên chính nền tảng của đạo cũ, hoặc Ngài đưa vào đạo cũ một tinh thần mới. Điều này khiến ta phải tự hỏi: tình trạng sống đạo của người Kitô hữu hiện nay có cần canh tân hay cách mạng như thế không? Và ai có nhiệm vụ ấy?
2. Nơi xuất xứ và cộng sự viên của Đức Giêsu trong việc canh tân và cách mạng của Ngài
Là một nhà cách mạng tôn giáo, nhưng Đức Giêsu lại xuất thân từ Nadarét, thuộc vùng Galilê (miền Bắc) là «miền đất của dân ngoại» (xem bài Tin Mừng), chứ Ngài không sống ở vùng Giu-đê (miền Nam) là vùng của Do thái giáo với kinh đô và đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vì thế, Đức Giêsu được gọi là «người Galilê» (x. Mt 21,10; 26,69; Lc 23,6; 26,59; Mt 21,11). Theo quan niệm của dân chúng thì Galilê chẳng phát sinh được điều gì đáng giá: «Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao?» (Ga 7,41). «Ông cứ nghiên cứu đi rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả» (Ga 7,52).
Các môn đệ mà Ngài chọn để làm cộng sự viên với Ngài trong cuộc canh tân này, cũng không phải là người Giuđê mà đều là người Galilê. Các ông là những ngư dân ít học, mặc dù theo đạo Do Thái, nhưng biết rất ít những kiến thức tôn giáo. Ngài không chọn làm môn đệ những người thuộc giới kinh sư hay luật sĩ của Do Thái giáo, là những người có rất nhiều kiến thức tôn giáo. Cách lựa chọn môn đệ của Ngài đáng cho chúng ta suy nghĩ. Tại sao Ngài không chọn các kinh sư giỏi giang làm môn đệ? (trừ Phaolô – được chọn sau này làm tông đồ thay thế Giuđa – là một kinh sư).
Để làm một cuộc canh tân, Thiên Chúa đã dùng những yếu tố hầu như hoàn toàn mới, vì «không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!» (Mc 2,22). Làm sao có thể đổi mới tôn giáo được với những con người cũ, có những quan niệm cũ, nề nếp suy tư cũ, lối sống cũ với nhiều sai lạc mà họ vẫn cố chấp cho là chân lý không thể thay đổi được? Bằng chứng: cho tới ngày nay, Đức Giêsu đến đã 20 thế kỷ rồi, nhưng đạo Do Thái vẫn còn đang trông chờ một Đấng Cứu Tinh!
Đức Giêsu đến đã làm thay đổi rất nhiều: tinh thần mới, quan niệm mới, lề luật mới, cơ cấu mới, v.v… Sự thay đổi này đã gây nên một sự phản kháng mạnh mẽ nơi giới trí thức, giới lãnh đạo trong Do Thái giáo. Chắc chắn họ có lý của họ, và cái lý ấy cũng dựa rất chắc chắn trên nền tảng Kinh Thánh! Điều đó cho thấy không phải cứ có lý, có nền tảng Kinh Thánh là đủ, mà còn phải có tinh thần của Thiên Chúa, tức «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23), và nhất là tinh thần phó thác và đổi mới theo Thánh Linh, Đấng luôn luôn đổi mới mọi sự (x. Tv 104,30; Ep 4,23; Kh 21,5).
Cuộc canh tân của Đức Giêsu phải được xây dựng trên những yếu tố mới mẻ, không thể dính líu nhiều với đạo cũ. Điều này khiến cho những ai thường tự hào mình là «đạo gốc» phải suy nghĩ. Là người «đạo gốc» mà cách sống đạo chẳng có «gốc» (=chẳng có nền tảng) là «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23) thì thật đáng xấu hổ!
3. Thiên Chúa cần những người cộng tác
Đức Giêsu không thực hiện cuộc canh tân tôn giáo một mình, Ngài cần rất nhiều người cộng tác. Người cộng tác ấy không nhất thiết phải là người có học, thông minh, nhiều tài năng, hiểu biết nhiều về Kinh Thánh, hay có quyền thế, v.v… Các môn đệ Ngài tuyển chọn chẳng phải là hạng trí thức: «Họ ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và ông Gioan mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân» (Cv 4,13). Chính Đức Giêsu cũng chẳng phải là người có học: «Người Do thái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!"» (Ga 7,15). Về đức độ, các môn đệ cũng chẳng phải là hơn người: khi Đức Giêsu bị bắt, tất cả các ông đều bỏ trốn, để mặc Ngài chịu trận một mình, Phêrô thậm chí còn chối phắt Thầy mình. So với các anh hùng của dân tộc ta (như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ…) thì các ông thua xa.
Điều mà Ngài cần nơi những người cộng tác với Ngài là: mau mắn, không chần chừ tính toán. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: vừa được Đức Giêsu mời gọi, thì Phêrô và Anrê «lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người». Gia-cô-bê và Gio-an cũng vậy: «lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người». Sự mau mắn, không chần chừ tính toán được Matthêu diễn tả bằng hai chữ «lập tức». Nó đòi hỏi phải có một chút liều lĩnh, phó thác, tin tưởng vào Đức Giêsu. Chính nhờ những đức tính này mà khi được Thánh Thần tác động, các ông trở nên có đủ mọi thứ đức tính, mọi thứ tài năng hơn người. Từ những con người chết nhát, các ông đã trở nên những tông đồ can đảm, luôn luôn mạnh dạn làm chứng cho Đức Giêsu, không chút sợ hãi (xem Cv 4,29.31; 9,27-28; 18,26; 19,8; 28,31).
Ngày nay, để canh tân Giáo Hội, Đức Giêsu vẫn tiếp tục cần rất nhiều người cộng tác với Ngài. Ngài luôn luôn mời gọi tất cả mọi Kitô hữu làm điều ấy. Bạn có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi trong thẳm sâu tâm hồn không? Bạn đáp lại thế nào? Bạn «lập tức» chấp nhận, hay còn phải suy nghĩ xem mình có đủ khả năng, có đủ thì giờ, có đủ đức độ không? Nếu bạn có đủ khả năng, đủ thì giờ, đủ đức độ như các kinh sư Do Thái xưa, thì chắc hẳn Ngài đã chẳng kêu gọi bạn đâu, vì bạn sẽ cậy vào sức riêng bạn, chứ không thèm nhờ cậy vào Ngài nữa! Chính vì biết bạn thiếu tất cả những thứ ấy Ngài mới kêu gọi bạn, như đã từng kêu gọi các tông đồ xưa. Điều quan trọng khi đi theo Ngài là bạn phải biết rằng bạn thiếu những thứ ấy để bạn khiêm nhường cậy dựa vào sức của Ngài, chứ không phải sức của mình. Bạn không nghe thấy Ngài cầu nguyện với Cha Ngài như vầy sao? «Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha» (Mt 11,25). Điều lạ lùng và hết sức nghịch lý nhưng lại là thực tế, đó là ta sẽ làm được tất cả khi thật tình nghĩ rằng «không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5), nhưng «tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13), vì «đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được» (Lc 1,37).
Vậy, nếu nghe thấy Ngài mời gọi bạn cộng tác với Ngài, bạn nên mau mắn chấp nhận. Chính nhờ sự mau mắn này, bạn – cũng như các tông đồ xưa – sẽ được biến đổi để làm được tất cả những gì Ngài mong muốn.
Cầu nguyện
Lạy Cha, nếu cần con cộng tác với Cha trong bất kỳ việc gì, thì đây con sẵn sàng, mặc dù con chẳng tài đức gì. Con chỉ muốn bắt chước các tông đồ xưa, nghe Đức Giêsu kêu gọi, là «lập tức» bỏ tất cả mà đi theo, không suy nghĩ, đắn đo, tính toán. Xin ban cho con tinh thần tin tưởng và phó thác nơi quyền năng vô biên của Cha trong mọi sự. Amen.
52. Chương trình hoạt động của Đức Giêsu
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Nói tổng quát, bốn chương đầu của Mt là Mở đầu cho toàn Tin Mừng I.
Về ngữ cảnh của đoạn văn chúng ta đọc hôm nay, chúng ta có thể xác định như sau: Trong ch. 1–2, sau khi đã dùng một thứ Diễn văn ngôn sứ rút ra từ Cựu Ước mà cho thấy làm thế nào Lời Chúa đưa lại ý nghĩa cho “xuất xứ của Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Abraham” (1,1-17) và thực hiện chương trình của Người xuyên qua lịch sử loài người (1,18-25), sang ch. 3–4, Mt cho chúng ta thấy rằng, khi đến tuổi trưởng thành, Đức Giêsu đã đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người trước nhan Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người. Những gì Kinh Thánh đã nói về Người, Người sẽ hoàn tất cách ý thức và tự do. Được đầy Thánh Thần, Người sắp được Chúa Cha bổ nhiệm làm Đấng Mêsia chân chính đi đáp ứng nỗi niềm chờ mong của dân chúng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (4,12-16);
2) Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (4,17);
3) Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (4,18-22);
4) Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (4,23).
3.- Vài điểm chú giải
- Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp (12): Trong các đoạn Mt 10,4; 17,22; 20,18-19; 26,2, tác giả cũng nói rằng Con Người “bị nộp” (paredothê); như thế, Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu có chung mộtsố phận. Dạng bị động hàm ý biến cố thuộc về ý muốn của Thiên Chúa: chương trình của Thiên Chúa đã được hoàn tất trong cuộc đời Gioan, cũng như sau này, sẽ được hoàn tất trong cuộc đời Đức Giêsu. Hơn nữa, hai sứ vụ được liên kết với nhau trong chương trình của Thiên Chúa: Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai vào lúc Thiên Chúa cho chấm dứt sứ vụ của Gioan.
- Người lánh qua (anachôreô, “lui về”) (12): Miền Giuđê là pháo đài của Do-thái giáo chính thức, với hai nhóm bảo vệ là Pharisêu và Xađốc. Đã bắt được Gioan, hẳn là họ sẽ tìm cách loại trừ cả Đức Giêsu. Vì thế, Người quyết định khởi đầu sứ vụ tại miền Galilê, nơi mà ảnh hưởng của Thượng Hội Đồng và của nhóm Pharisêu không mạnh bao nhiêu. Khi sử dụng động từ anachôreô ở đây như ở 2,12 (x. 9,24; 12,15; 15,21;…), rất có thể Mt cho hiểu rằng chính thái độ cứng tin của miền Giuđê (dưới ảnh hưởng của phái Pharisêu, tỏ ra bằng việc loại trừ Gioan) đã khiến Đức Giêsu phải ngỏ lời với “Galilê, miền đất của dân ngoại”.
- bỏ Nadarét (13): Không phải là Người bỏ rơi, nhưng là không chọn Nadarét làm khởi điểm cho sứ vụ. Đức Giêsu chọn Caphácnaum: Mt chuẩn bị đưa vào sấm ngôn Is 8,23–9,1. Caphácnaum chính là miền đất xưa kia hai chi tộc Dơvulun và Náptali đã cư ngụ (x. Gs 19,10-16.32-39). Mt trích sấm ngôn Isaia này là để trả lời vấn nạn vì sao Đức Giêsu chọn miền Galilê làm nơi sân khấu chính để khởi đầu hoạt động của Người: điều đó nằm trong chương trình của Thiên Chúa (như sấm ngôn Is đã loan báo).
- Dơvulun … Náptali (15-16): Hai chi tộc này chiếm phần lớn miền Galilê, đã bị đế quốc Átsua thôn tính vào năm 734, và sau đó bị hy-hóa vào thời các triều vua dòng họ Sêlêukhô. Từ đó họ đã bị Dân Ngoại tràn ngập. Ngôn sứ Isaia (ch. 8 và 9) đã loan báo ngày giải phóng. Mt thấy chính Đức Giêsu sẽ giải phóng họ, không phải về phương diện chính trị quân sự, mà là về tôn giáo.
- Galilê, đất của dân ngoại (15): Đối lại với Giuđê tinh tuyền về giống nòi, Galilê trở thành biểu tượng của cuộc quy tụ phổ quát: đây là Đất Hứa đang mở ra với Đức Giêsu, là Israel chân chính, sau khi Người đã ở trong hoang địa và vượt qua sông Giođan. Chúng ta gặp mộtđề tài quen thuộc của Mt: Đức Giêsu ngỏ lời trước tiên với các chiên lạc nhà Israel (x. 10,6; 15,24).
- một ánh sáng huy hoàng (16): Ánh sáng này sẽ xuất hiện ra với các môn đệ vào cuộc Hiển Dung (x. 17,2) và còn xuất hiện huy hoàng rực rỡ hơn nữa vào Ngày Phục Sinh.
- Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần (17): Công thức này tương tự với công thức ở 3,2 (Gioan Tẩy Giả) và 10,7 (các môn đệ). Bằng cách đó, tác giả Mt khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng: việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Đức Giêsu.
- Nước Trời (17): Đây là cách Mt nói quanh để tránh gọi tên Thiên Chúa, nên “Nước Trời” chính là “Nước Thiên Chúa” (nhưng cũng có bốn lần ông dùng cụm từ “Nước Thiên Chúa”: 12,28; 19,24; 21,31.43). Basileia có thể dịch ra là “triều đại, vương quyền, vương quốc”. Còn “trời” (tôn ouranôn) không có nghĩa là “Nước” này thuộc về thiên giới, nhưng có nghĩa là Đấng đang ở trên trời (5,48; 6,9; 7,21) thì đang trị vì trên thế giới. Do trung thành với truyền thống Cựu Ước, Mt biết rằng vương quyền luôn luôn thuộc về Thiên Chúa (x. Tv 22,29; 103,19; 145,11-13). Đây là sứ điệp chính của Đức Giêsu: Người loan báo “Nước” (Triều Đại) này đang/đã đến và chính Người thực hiện trong tư cách là Con Người (x. 26,64; Đn 7,13-14 [LXX]: Mt 28,18). Trong Mc và Lc, có những chỗ Đức Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa như là mộtthực tại thuộc về tương lai (x. Mc 14,25; Lc 11,2; …), và có những chỗ Người lại bảo đó là mộtthực tại đang có trong hiện tại nơi sứ vụ và nơi bản thân Người (x. Lc 7,18-23; 10,23t…). Do dựa trên loạt bản văn thứ nhất hoặc thứ hai mà có hai lý thuyết ở hai đối cực: “thời cánh chung đã đến” và “thời cánh chung đang đến”.
- đã đến gần (eggiken, 17): Eggiken là thì hoàn thành của động từ eggizô, “đến gần”. Đây là mộttừ vẫn đang gây nhiều tranh luận. Các bản dịch khá khác nhau: “est tout proche” (BJ), “s’est approché” (TOB), “is at hand” (King James 1611; NAB 1988), “is fast approaching” (để nêu bật tính cấp bách: x. Albright trong Anchor Bible), “is near, is at hand” (Zerwick). C.H. Dodd cho rằng eggiken được dịch từ mộtđộng từ a-ram có nghĩa là “đạt tới; đến”. Vì thế, ông dịch là “Nước Trời đã đến”. Nhưng eggizô (do tính từ eggys, “gần”) có nghĩa là “đến sau; tiến lại gần”; do đó, đa số các nhà chú giải chọn cách dịch là “Nước Trời đã gần (đến)”.
- Cc. 16-22: Truyện Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên được kể theo mẫu các ơn gọi ngôn sứ trong Cựu Ước (x. Êlisa: 1 V 19,19). Bài này không nói đến chiều kích tâm lý, nhằm làm nổi bật lời kêu gọi của Đức Giêsu và lời đáp gắn bó bằng đức tin hơn. Lược đồ này diễn tả tương quan tiêu biểu giữa Đức Giêsu và người môn đệ lý tưởng: Thầy vừa lên tiếng gọi, môn đệ bỏ mọi sự mà đi theo ngay, không lưỡng lự, không thắc mắc. Đức Giêsu chỉ yêu cầu các ông đi theo Người và sống với Người, và chỉ sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng sau Phục Sinh (khác với Mc 6,12-13 và Lc 9,6). Khi viết như thế, có lẽ Mt muốn ưu tiên nêu thật rõ dung mạo có một không hai của Thầy.
- những kẻ lưới người như lưới cá (19): Phải chăng đây là một ám chỉ đến sách Êdêkien (47,10)? Bản dịch TOB bảo hiểu Mt 4,19 và Lc 5,10 theo Mc 1,17 (chú thích c): hình ảnh tiêu cực và như đe dọa (x. Kb 1,15.17; Gr 16,16) để diễn tả rằng các tông đồ sẽ đi rao giảng Tin Mừng hầu quy tụ người ta lại mà chịu phán xét và được vào Nước Thiên Chúa (x. Mt 13,47-50). Nhưng nếu hiểu theo Lc 5,10, thì ý nghĩa tích cực hơn nhiều: động từ zôgreô (do zôos, “sống”, và agreô, “bắt”) có nghĩa là “bắt (mà cứu sống)” (Zerwick). Có lẽ cũng nên hiểu Mt 13,47-50 theo hướng này.
Dù sao, có thể nói rằng Nước Trời như đã được thiết lập khi Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, bởi vì Nước Trời chủ yếu là mộtcộng đoàn gồm những con người quy tụ quanh Đức Giêsu trong sự hiệp thông với Chúa Cha.
- khắp miền Galilê (23): Đức Giêsu đến nhắm ngỏ lời với toàn thể dân Người trong khắp xứ (chứ không như các kinh sư Do-Thái).
- giảng dạy … chữa … (23): “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê / các thành thị, làng mạc / giảng dạy (didaskôn, participle) trong các hội đường của họ, rao giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.) hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối từ ch. 5 đến ch. 9. Năm chương này làm thành một đơn vị về văn chương và đề tài. Nội dung của đơn vị này sẽ nhắc lại và triển khai ba phân-từ (participle) chứa trong câu tổng hợp này.
Giáo huấn của Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10 phép lạ) là hai hình thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước Trời bằng lời nói (ch. 5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi minh họa đặc biệt những điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có thể nói Bài Giảng này nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng này như là lời đáp của con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).
- chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân (23): Nền văn chương khải huyền thời Đức Giêsu (x. Các Thánh vịnh Salômôn) đầy những ý tưởng về Thiên Chúa là Đấng che chở người công chính và tránh cho họ khỏi bệnh hoạn và những nghịch cảnh. Hoạt động chữa bệnh của Đức Giêsu đáp ứng mộtniềm chờ mong nơi dân chúng, nhất là thực hiện lời sấm Is về Người Tôi Trung của Đức Chúa mang lấy bệnh tật của dân (x. Is 53,4), mà ông đã áp dụng cho Đức Giêsu (x. Mt 8,17).
Còn toàn bộ Tin Mừng cho thấy rằng Đức Giêsu không chọn nguyên tắc là chữa tất cả các bệnh nhân, y như thể Người muốn cho người ta hưởng nhờ tối đa khả năng làm phép lạ của Người. Người chỉ thực hiện mộtsố phép lạ chữa bệnh có ý nghĩa liên hệ đến Nước Trời và quyền bính của riêng Người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (12-16)
Đức Giêsu đã đến sông Giođan để được Gioan ban phép rửa cho; Người đã dừng lại ở phía nam Thánh Địa (x. 3,13–4,11). Thế rồi tại sao Người lại trở về để hoạt động tại miền Galilê, là miền không được coi là quê hương của Đấng Mêsia (x. Ga 7,41.42.52)? Tại sao Người không ở lại miền Giuđê và Giêrusalem, là trung tâm của dân Thiên Chúa? Mt cho biết là Đức Giêsu rút lui (lánh đi), Người cảm thấy bị đe dọa và nhường bước cho áp lực của những hoàn cảnh bên ngoài. Sự đe dọa đã khiến cha nuôi Người phải đổi chỗ ở vào đầu đời Người (2,13.14.22) và sẽ còn bó buộc Người liên tục rút lui cả trong thời gian hoạt động công khai (12,15; 14,13). Với các môn đệ sau này, Người dạy họ trốn sang thành khác, khi bị bách hại (10,23). Cũng như Người, họ phải bố trí đời sống dựa theo những hoàn cảnh bên ngoài. Nơi số phận của Gioan, đã bị vua Hêrôđê cho bắt và sẽ cho giết chết theo ngẫu hứng (x. 14,3-12), kết cục cuộc đời Đức Giêsu đã được loan báo: Người cũng sẽ bị giao nộp vào tay loài người (17,22), cho sự gian tà và độc ác của họ. Như thế, ngay trên bước khởi đầu hoạt động của Đức Giêsu, bóng tối của kết cục bi thảm đã được trương ra. Hoạt động của Người được triển khai dưới dầu chỉ là cuộc Khổ Nạn của Người. Tuy nhiên, tất cả những điểm này đều thuộc về chương trình của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa đã để cho Gioan và sẽ để cho Đức Giêsu “bị nộp”; sự kiện Gioan bị nộp là như tín hiệu Thiên Chúa dùng để báo cho Đức Giêsu biết đã đến lúc Người hoạt động.
Cũng như Người đã đến cư ngụ tại Nadarét (2,22t), nay Đức Giêsu đến hoạt động tại Galilê và Caphácnaum, do bị bó buộc bởi các biến cố bên ngoài. Trong cả hai trường hợp, tác giả ghi nhận là như thế, ý muốn của Thiên Chúa do các ngôn sứ loan báo được thể hiện. Cho dù nhiều lần phải điều chỉ do các bó buộc bên ngoài, hành trình của Đức Giêsu vẫn hoàn toàn ở dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Người đi về vùng ngoại biên Israel, vào “Galilê, đất của dân ngoại”, tại đó cũng có người ngoại cư ngụ và chung quanh là các miền đất Dân ngoại. Hoạt động của Người nhắm đến dân Israel (15,24), nhưng tại đây cũng lan tỏa ra các Dân ngoại và được họ nhận biết (x. 4,24t). Điều đã được loan báo bởi cuộc viếng thăm của các hiền sĩ (2,1-12) và điều sẽ được công bố trong sứ mạng cuối cùng của các môn đệ trong liên hệ với muôn dân (28,19), nay cũng được tỏ hiện tại các nơi chính mà Người hoạt động: Người cũng là ánh sáng cho Dân ngoại nữa. Tại nơi đã chỉ có bóng tối của tử thần, đã bừng lên mộtánh sáng. Đối với loài người chúng ta, mặc dù chúng ta biết nhiều, kết cục và ý nghĩa của đời sống hoàn toàn vô phương dò thấu và mờ mịt. Bằng sứ điệp của Người về Thiên Chúa, Đức Giêsu mang ánh sáng và khai mở sự sống viên mãn.
* Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (17)
Các lời “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” tóm tắt toàn thể sứ điệp của Đức Giêsu. Tiếng gọi đi trước, nhưng hoàn toàn lệ thuộc lời loan báo, vì dựa trên lời này (“vì”). Thuật ngữ “Nước Trời” chỉ có trong Mt, tương ứng với “Nước Thiên Chúa” trong phần còn lại của Tân Ước. Theo cách dùng của người Do-thái, họ tránh từ “Thiên Chúa” và thay thế bằng “trời” (x. 21,25; Lc 15,18). “Nước Trời” chính là triều đại hoặc quyền chủ tể của Thiên Chúa như là vua. Tất cả hoạt động của Đức Giêsu quy chiếu về Triều Đại. Triều Đại không có nghĩa là mộtđiều gì khác và tách biệt với Thiên Chúa, nhưng là chính Thiên Chúa trong tư cách Chúa Tể và Vua của dân Người, cùng với các hậu quả của quyền chủ tể trên dân. Dân thì luôn luôn thuộc về nhà vua; quyền chủ tể vương giả có nghĩa là dấn thân với lòng tốt và sự quan tâm mà lo lắng cho đời sống của dân, như một mục tử lo lắng cho đời sống của đàn chiên (x. Tv 23,1).
Triều Đại này đã đến gần, chứ chưa hoàn toàn hiện diện. Đức Giêsu sẽ dạy họ cầu nguyện “xin triều đại Cha ngự đến” (6,10). Tuy nhiên, Triều Đại này đã đến gần vĩnh viễn. Thiên Chúa đã quyết định giương cao Vương quyền này trước mặt tất cả các thế lực khác và thực hiện Vương quyền này cách công khai và hết sức hữu hiệu. Không còn có thể quay lui, mà chỉ có thể bước tới cho đến khi Triều Đại này được tỏ hiện trọn vẹn. Thiên Chúa sẽ không trì hoãn và cứ ẩn mình mãi. Người sẽ không bỏ rơi loài người cho các thế lực của thiên nhiên và lịch sử, cũng như cho hoàn cảnh trong đó họ phải quy phục lẫn nhau. Người sẽ chấm dứt tất cả các thế lực này và chính Người sẽ trực tiếp là Vua và Chúa. Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ bản chất của Triều Đại này đặc biệt trong sứ điệp của Người về Thiên Chúa như là Cha và trong hoạt động bác ái của Người để chữa lành và giúp đỡ.
Trước lời công bố là lời mời gọi: “Hãy hối cải!”. Đức Giêsu mời các thính giả quay về với Thiên Chúa. Họ phải quay mặt về Người, chăm chú lắng nghe, với lòng tin tưởng và hy vọng. Con người chỉ có thể hoán cải nếu Thiên Chúa quay về cách nhưng-không với con người. Tuy nhiên, lời kêu gọi hoán cải được đặt ở đầu, bởi vì lời đáp của chúng ta với Thiên Chúa là điều tuyệt đối cần thiết, và có thể thất bại nếu không được nói ra. Hành động của Thiên Chúa thì đã chắc chắn; vì thế, Đức Giêsu đã nhấn mạnh nhiều trên sự cần thiết phải hoán cải.
* Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (18-22)
Một trong những điều kiện căn bản đề Đức Giêsu có thể hoạt động là Người có quanh mình mộtsố người để họ đi đường với Người thường xuyên, thiết lập với Người mộtsự hiệp thông đời sống và có thể trải nghiệm trọn vẹn hoạt động của Người. Đức Giêsu không hoạt động tùy hứng hay theo ngẫu nhiên, cũng không bắt hoạt động của Người lệ thuộc những cuộc gặp gỡ tình cờ và chóng qua. Người có mộtcộng đoàn môn đệ bao quanh. Lời kêu gọi “Hãy hối cải!” được nhắc lại và được làm sáng tỏ bởi tiếng gọi “Hãy đi theo tôi!”. Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ đầu tiên là Simôn và Anrê, Giacôbê và Gioan đi theo Người. Ta sống sự hoán cải trong khi đi theo Đức Giêsu. Ai theo Người thì tin tưởng vào Người, bởi vì Người biết kết cuộc và biết con đường phải theo. Ai đi theo Người thì gắn bó với Người và chấp nhận được Người hướng dẫn. Khi đi theo Người, các môn đệ được đưa vào trong sứ điệp về Nước Trời và vào trong việc hoán cải như là câu trả lời đúng đắn với sứ điệp này.
Những ai đi theo Đức Giêsu thì phải ra khỏi hoàn cảnh sống trước đó và gắn bó với Người. Tuy nhiên, dây liên kết này không tách họ khỏi những người khác, trái lại phải chuẩn bị họ cho mộtnhiệm vụ mới nơi loài người. Đức Giêsu gọi đi theo Người, đồng thời cho biết ý định của Người: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”(4,19). Xuyên qua cuộc cộng đồng sinh tử với Người, Đức Giêsu chuẩn bị họ tiếp nối sứ mạng của Người, trong tư cách là những sứ giả của Người (x. 9,36–10,42; 28,16-20).
* Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (23)
Hoạt động của Đức Giêsu được triển khai khắp miền Galilê và được thực hiện qua giáo huấn, lời giảng và các phép lạ chữa bệnh (4,23). Lời dạy về sự hoán cải đúng đắn, lời loan báo và giải thích Tin Mừng về Nước Trời, và sự xác nhận các điều đó nhờ các cuộc chữa bệnh là những điểm chìa khóa của hoạt động của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Là vị Tiền Hô của Đấng Mêsia, Gioan đã dừng chân tại hoang địa và ở tại sông Giođan mà làm phép rửa cho những ai đến với ông. Còn Đức Giêsu, Đấng Mêsia, đã sống đời “du thuyết”; Người rảo khắp miền Galilê mà công bố rằng Nước Trời đang đến. Ngay từ đầu, Người đã tỏ ra là vị Mục Tử tốt lành đi tìm “các chiên lạc của nhà Israel”. Và vì quan tâm bảo đảm cho hoạt động của Người được hữu hiệu lâu dài, Người đã quy tụ các “ngư phủ lưới người” đầu tiên, để họ sống với Người và với nhau. Sau này, các ông sẽ nối tiếp Người, đi loan báo Nước Trời khắp nơi, không phải chỉ cho dân Israel, mà cho mọi người thuộc mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vào ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn công bố sứ điệp về Nước Trời giữa lòng cộng đoàn cử hành Phụng vụ. Lời Người vẫn cấp bách như thuở nào: “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Thiên Chúa vẫn đang tìm cách hiển trị trong đời sống chúng ta mộtcách rõ nét hơn; Người có thể áp đảo chúng ta, nhưng Người không muốn, vì Người tôn trọng tự do của chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi xét lại tâm hồn mình, bỏ đi những trở ngại khiến trái tim chúng ta không mở rộng ra được với các viễn tượng phổ quát của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không loại bỏ được những trở ngại đó, là chúng ta như đang bị bệnh tật. Khi đó, chúng ta có thể xin với Đức Giêsu và Người sẽ chữa chúng ta lành.
2. Các hoàn cảnh bên ngoài không phải chỉ là những bó buộc, nhưng thường cũng là những chỉ dẫn Thiên Chúa ban để chúng ta đi đúng đường lối của Người. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế. Các thánh cũng đã hiểu như thế, qua các cuộc mò mẫm tìm kiếm ý Chúa. Hôm nay, chúng ta được mời gọi lưu ý đến các hình thái này mà Thiên Chúa đang dùng để hướng dẫn chúng ta.
3. “Hãy hối cải!”. Loài người không được quay lưng lại với Thiên Chúa, rời xa Người và tìm hạnh phúc và ơn cứu độ ở chỗ khác. Hành động Thiên Chúa đến với loài người đòi buộc họ đáp trả bằng cách di chuyển về phía Thiên Chúa. Họ không thể được Người đến gặp và nhận được các phúc lành của Triều Đại Người, nếu họ quay về với những người khác. Ngay từ đầu, lời rao giảng của Đức Giêsu đã nêu bật hai đề tài chính này: Người nói rõ là chúng ta có thể chờ đợi gì nơi Nước Thiên Chúa và đồng thời, Người trình bày cho thấy đâu là các hình thái của sự hối cải chân thật. Cả hai yếu tố này được trình bày rõ ràng trong các Mối Phúc (5,3-12).
4. Đức Giêsu xuất hiện là đưa lại ánh sáng và niềm vui. Hôm nay, chúng ta có nhận ra Người vẫn đang hiện diện trong thế giới, giữa lòng cuộc sống chúng ta, để chúng ta tiếp tục đón nhận được niềm vui và ánh sáng? Đàng khác, chúng ta đã được chọn để nối tiếp sứ mạng của Người. Chúng ta đang chu toàn sứ mạng đó thế nào? Đức Kitô vẫn đang đến gặp chúng ta ngay giữa những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi phiền sầu của chúng ta, để mời gọi chúng ta đi theo Người. Có lẽ Người không lôi kéo chúng ta theo Người về mặt thể lý cho bằng về mặt thiêng liêng: chúng ta được thúc bách rời bỏ chính mình, bỏ tính ích kỷ, bỏ đi sự cứng cỏi, để sống với Người mỗi ngày trong sự từ bỏ và trong tình yêu.
5. “Hãy theo tôi”. Tiếng gọi của Đức Giêsu nhằm mời gọi các môn đệ đầu tiên cũng là mộtlời mời hoán cải liên tục. Chúng ta được mời gọi lấy mộtquyết định cương quyết đầu tiên, đôi khi là mộtđoạn tuyệt đau đớn nào đó, rồi ngày qua ngày, kiên trì bước theo giáo huấn của Người, chúng ta sẽ thực hiện những bước hối cải mới để càng trở nên môn đệ hơn.
53. Suy niệm của Noel Quession
Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đi bị nộp...
Chúng ta luôn nghĩ rằng thời đại của chúng ta là một thời đại xáo trộn nhất với những vụ bạo lực, bắt cóc tin, giết người tấn công có vũ trang. Vả lại, Tin Mừng của Matthêu giới thiệu với chúng ta thời đại của Đức Giêsu như một thời đại bi đát. Đúng vào lúc mà chính quyền bắt giam người anh họ của Người, không cho ông giảng dạy nữa, Đức Giêsu quyết định tiếp lục sự giảng dạy đó! Phải có lòng can đảm, Đức Giêsu mới dám lao vào một cuộc phiêu lưu cũng sẽ đưa Người đến cùng một số phận bi thảm. Ở đây Matthêu sử dụng cùng một từ ngữ như trong cuôc khổ nạn: "Nghe tin ông Gioan đã bị nộp". Trong vài tuần lễ nữa, Đức Giêsu sẽ nói: "Này chúng ta lên Giêrusalem. Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư; họ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại" (Mt 20,18 - 26,2).
Đời sống của tôi cũng thế, có lẽ khó sống. Những cuộc xung đột mà tôi phải sống chẳng phải là cơ hội để tôi hiệp thông với Đức Giêsu sao?
Người lánh qua miền Galilê...
Từ "lánh qua” lui về, là từ đặc biệt của Tin Mừng Matthêu. Thánh sử nhấn mạnh rằng Đức Giêsu (vốn là Thiên Chúa!) là một hạng người bị cấm cách, lưu đày lúc nào cũng phải chạy trốn, và bị những kẻ thù ghét truy nã (Matthêu 12,15 - 14,13 - 15,21). Cũng với những công thức ấy Matthêu đã cho thấy Giuse chạy trốn khỏi miền Giuđê lui về miền Galilê vì Áckêlao nguy hiểm đã kế vị vua cha (Mt 2, 22-23).
Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum. Một thành ven biển hồ Galilê. thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali.
Đức Giêsu dời chỗ. Người rời bỏ ngôi làng nhỏ nơi Người đã sống thời thơ ấu. Nói đến ở một "thành phố trong thế kỷ cơ động của chúng ta, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu cũng đã phải làm quen với những láng giềng mới, tạo ra các mối quen hệ mới, thay đổi môi trường! Vậy, Đức Giêsu đã chọn thành phố nào để ở như sau này người ta sẽ nói "thành phố của Người” (Matthêu 9,1). Caphácnaum! Đó là thành phố của Simon Phêrô. Nhưng sự khai quật gần đây đã khám phá ra ngôi nhà khiêm tốn của người ngư dân đó, rất gần cảng... Đức Giêsu đã đến cư ngụ trong ngôi nhà đó. Caphácnaum là một thành phố biên giới, nằm trên đường biên giới của hai quốc gia của Hêrôđê và của Philípphê. Thành phố này có một trạm thu thuế, rnột đội quân La mã đồn trú. Khác với Nadarét là một thị trấn nhỏ, nằm ẩn khuất sau những đồi núi, Caphácnaum là nơi qua lại và tụ tập nhiều dân là địa điểm quan trọng trên con đường ven biển nối liền Đamát, cửa vào sa mạc, đến Xêsarê cửa ra biển Địa Trung Hải. Đức Giêsu không dời chỗ mà không có lý do. Sự chọn lựa này có một ý nghĩa.
“Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: "Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi".
Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Đức Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha: Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Đức Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người: vì thế có sáu mươi sáu lời trích dẫn của Cựu Ước trong Tin Mừng của Matthêu. Nhưng chúng ta có thể thấy ở đây một ý chí có cân nhắc Đức Giêsu: Người đi đến với những người xa Thiên Chúa nhất.
Miền đất Galilê là một tỉnh pha trộn nhiều sắc dân, một sứ sở mở rộng cho các đoàn thương nhân. Đức Giêsu đến ở đó! Người không định rao giảng trước tiên cho thành Giêrusalem, và miền đất thánh Giuđê... nhưng trong miền đất phía Bắc, mở ra cho các ảnh hưởng ngoại giáo và do đó bị giới lãnh đạo Do Thái nghi ngờ và khinh bỉ như miền đất lạc giáo không nhiều thì ít. Giáo Hội ngày nay có mang tính chất truyền giáo như Đức Giêsu không?
Phần tôi thì sao? Những phản ứng sâu xa của tôi là gì? Có phải tôi chỉ lui tới thân mật với những người suy nghĩ giống tôi? Có phải tôi tránh tiếp xúc với những người ngoại giáo và vô thần? Có phải theo bước Đức Giêsu. Tôi đến chỗ ngã tư đường chỗ giao lưu với dân ngoại? Có phải tôi sẽ mạnh dạn đến xứ sở của “bóng tối và sự chết", để đưa vào đó một chút “ánh sáng"?
Tôi chiêm ngắm Đức Giêsu rời bỏ ngôi làng nhỏ của người... đến cư ngụ ở Caphácnaum...
Từ lúc đó Đức Giêsu bắt đầu rao giảng, và nói rằng: "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần".
Đức Giêsu tiếp tục việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả không thay đổi một lời (Mt 3,2) Và Đức Giêsu đến lượt mình bị giết chết, Phêrô sẽ lặp lại cùng một sứ điệp (Cv 2,38). "Anh em hãy sám hối, hãy thay đổi!”. Chúng ta có xác tín rằng chúng ta một sự đổi hướng phải thực hiện không? Chúng ta không tự phát quay hướng Thiên Chúa, Tha Thể tuyệt đối cũng như về người khác… Theo tính tự nhiên, chúng ta lấy mình làm trung tâm. Nếu chúng ta sáng suốt, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta có một sự đổi hướng hoàn toàn phải thực hiện… để Thiên Chúa thật sự ngự trị trong lòng chúng ta... để Nước Thiên Chúa được ở đây trong đời tôi.
Một cách cụ thể, sự sám hối, hoán cải nào mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi trong lúc này?
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, chúng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá".
Cảnh nầy lầ một cảnh tầm thường và hoàn toàn đơn giản theo thể cách của Matthêu. Không có gì là phi thường, đặc biệt. Theo Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một phép lạ nhưng là một lời kêu gọi. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội, cuộc cách mạng đã thay đổi bộ mặt của trời đất, đã bắt đầu như thế... trong hoàn cảnh tầm thường của các ngư dân làm công việc mỗi ngày của họ. Chúng ta hãy lưu ý tầm quan trọng đó: Đức Giêsu “kêu gọi" các tông đồ của Người không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh... nhưng ở giữa đời sống mỗi ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp!
Quả Đức Giêsu có sự táo bạo? Chính Người đã khởi xướng, chính Người đã kêu gọi. Xem ra Người hoàn toàn biết rõ Người muốn đi đến đâu! Người lôi kéo người ta đi theo Người. Người điềm nhiên nói rằng mọi người được dựng nên cho Người, phải đi đánh lưới họ, như người ta đi lưới cá.
Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Ngày nay, có sự thiếu ơn gọi. Tin Mừng ngày hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Chắc chắn, Chúa vẫn tiếp tục gọi. Ai sẽ chấp nhạn sống cuộc phiêu lưu trong hoạt đọng tông đồ như trong thời kỳ đó? Lúc đó, những người được gọi đã đáp lại vô điều kiện... Còn tôi?
Đi một quãng nữa: Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với Cha lã ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
Sự đáp lại ơn gọi quả mau lẹ đối với chúng ta xem ra như không có thật. Chúng ta chớ nên quên rằng những người như Gioan và Giacôbê đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị về mặt tâm lý và lịch sử. Vả lại đây không phải là lần đầu tiên họ gặp Đức Giêsu. Họ đã gặp Người ở bờ sông Giođan (Ga 1,35-50). Tuy nhiên, chúng ta không nên giảm nhẹ những yêu sách triệt để của Đức Giêsu: Câu chuyện được xây dựng trên sơ đồ ngôn sứ Êlisa cũng đã đốt cày của ông, nướng bò của ông "để không bao giờ còn quay lại đàng sau. Chúng ta không đơn thuần trong một quan hệ “bình thường" của môn đệ với rápbi hay giáo trưởng của họ. Không phải Giacobê và Gioan, cũng không phải Phêrô và Anrê đã tìm kiếm Đức Giêsu mà chính Đức Giêsu với sự cao cả của Người đã có sáng kiến mời gọi họ.
Và nếu đó là Thiên Chúa mời gọi tôi? Tôi sẽ làm gì?
Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.
Matthêu tóm lược ở đây mọi hoạt động của Đức Giêsu. Thánh sử nói lại nguyên văn câu này trước lúc Nhóm Mười Hai bắt tay vào việc truyền giáo (Mt 9,35). Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm trong thinh lặng và kéo dài về Đức Giêsu. Tôi tưởng tượng Người, đang bước đi trên mọi nẻo đường, từ làng này sang làng khác.
Người rao giảng Tin Mừng. Ở đây có từ ngữ "kêrussôn" mà nghĩa theo mặt chữ là cao rao (kêu gào) Tin Mừng. Từ này gợi ý một anh mõ làng (một người rao tin) đến gần để công bố một tin: Nước Thiên Chúa đã đến! Người cũng giáo huấn dạy dỗ. Từ dùng ở đây là "didaskôn" gợi ý một hoạt động được triển khai nhiều hơn và mang tính sư phạm nhiều hơn. Giờ đây chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu được vây quanh bởi những kẻ mà người kể cho nghe những dụ ngôn, ví dụ là như thế. Một số nhà chú giải Kinh Thánh nghĩ rằng Đức Giêsu đã sử dụng các phương pháp giảng dạy của các giáo trưởng thời đại Người... tức là bắt họ học thuộc lòng những bản văn mà họ không được quên. Sau cùng, Người chữa lành. Và chúng ta còn ghi nhận từ ngữ Hy Lạp mà người nào biết tiếp Pháp sẽ nhận biết dễ dàng: "thérapeuôn". Đức Giêsu là một người đầy lòng nhân hậu, Người luôn chạnh lòng thương vì tất cả những đau khổ mà Người gặp trên con đường Người đi qua.
Lạy Chúa, xin chữa lành chúng con! Xin cứu chúng con! và làm cho chúng con thành những người cứu độ với Chúa.
54. Chú giải của Fiches Dominicales
TỨC KHẮC HỌ BỎ THUYỀN MÀ THEO NGÀI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Từ một thời đại đã chấm dứt đến một thời đại đang bắt đầu.
Phần đầu bài Phúc âm Chúa nhật thứ III hôm nay (câu 12-16) được coi như đoạn kết chương nhập đề của Matthêu. Một đoạn kết đã phác hoạ những đề tài sắp khai triển.
Bắt đầu là một cuộc tĩnh tâm. Đức Giêsu rời bỏ sông Giođan, lui về ẩn ở miền Galilêa. Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, Matthêu đã giúp ta làm quen với lối "ẩn dật” chiến thuật này khi gặp đe doạ, bắt bớ. Hãy nhớ lại cuộc chạy trốn sang Ai Cập khi Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ vô tội, và khi trở về không về Giuđêa nơi bạo chúa Arkêlaô thống trị, nhưng, để được an toàn, đã về Nadarét, xứ Galilêa. Trong khi Đức Giêsu thi hành sứ vụ, ta sẽ thấy Người "ẩn mình" khi sức ép của địch thù quá căng thẳng, cho đến khi từ nơi ẩn dật Xêsarê Philipphê, Người bắt đầu chuyến đi lên Giêrusalem để đương đầu với đau đớn, khổ nạn.
Nguyên nhân của việc rút vào bóng tối này đã được thánh sử nói rõ: đó là việc Gioan Tẩy Giả bị bắt giữ.
Đó là dấu hiệu kết thúc một thời đại. Thời của Lề Luật và các tiên tri - Gioan Tẩy Giả qua đi có nghĩa là bắt đầu một thời đại mới, thời đại hoàn tất trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng cách kết thúc tác vụ của Người Tiền hô đã tiên báo chung cuộc dành cho Đấng mà Ngài có trách nhiệm loan báo việc ngự đến!
Trốn tránh sự thù địch của Hêrôđê Antipas, môi trường hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu sẽ là Galilêa. Tên Galilêa có nghĩa là: nơi hội tụ các dân tộc đã phiên dịch chính xác tính chất của miền đất biên giới nơi đủ mọi sắc dân chung sống, tràn ngập ảnh hưởng ngoại lai, vùng đất mà Giuđêa và Giêrusalem nghi kỵ nếu không nói là khinh bỉ.
Matthêu nhìn thấy ở đó cả một biểu tượng. Có chỗ tên gọi đó là miền đất thuộc Zabulon và Nephtali. Thực vậy; từ lâu không còn ai hài tên này ra nữa. Cl. Tassin giải thích: vì đối với các đôc giả của Matthêu cũng như đối với ta, tên ấy đã lỗi thời, không còn ghi trong sử sách. Việc hài tên chỉ cho thấy rằng: cùng với sự khai mạc tác vụ Đức Giêsu tại Galilêa, lời sấm Isaia loan báo từ thời 2 chi họ ấy bị sát nhập vào Assyrie, 734-732 trước Công nguyên, đã được thực hiện; "Dân đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng huy hoàng" (bài đọc I Chúa nhật này). Tin Mừng mà Đức Giêsu khởi sự rao giảng tại Galilêa, "nơi hội tụ dân ngoại không phải chỉ dành cho 1 dân tộc, nhưng cho tất cả mọi người, không phân chia, không loại trừ. Như một biểu tượng, Người đã hướng về dân ngoại và những kẻ bị loại trừ.
Cl. Tassin kết luận: "Ta có thế tóm tắt tư tưởng của Matthêu như sau: Đức Giêsu đã chọn Galilêa vì Galilêa tượng trưng cho thế giới dân ngoại. Quả vậy, trung thành với sứ mệnh clta Emanuel được sai đến với nhà Israel, Ngài vẫn ngỏ lời với dân Do Thái. Nhưng biểu tượng vẫn còn đó. Vào thời của tác giả Phác âm, các tên "Zabulon và Nephtali" nhắc lại cảnh lưu đầy, phân tán, vết thương mở ra niềm hy vọng mãnh liệt về một cuộc tập họp toàn thể dân Thiên Chúa. Ta thấy núi Galilêa nơi tất cả mọi người được mời đến tập họp: dựa trên cơ sở nào, bằng cách nào thì bài giảng trên núi sẽ cho ta biết".
2. Một lời làm nổi lên một dân tộc mới.
Câu 17 mở ra một khía cạnh mới của Phúc âm Matthêu, dành cho việc Đức Giêsu khai mạc nước Trời. Một công thức đặc sắc được dùng để dẫn nhập: "Bắt đầu từ đó Đức Giêsu khởi sự..., một công thức mà ta sẽ gặp lại ở 16,21 khi Đức Giêsu khởi hành lên Giêrusalem "Bắt đầu từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giêrusalem, chịu đau khổ rất nhiều vì những bậc trưởng lão, các thầy cả và các luật sĩ sẽ bị giết, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Có thể nói rằng, ngay từ khi khai mạc, việc loan báo Tin Mừng đã di vào một lộ trình đau khổ. Trước hết Matthêu trình bày một bản đúc kết các lời giảng của Đức Giêsu, lời giảng này đôi khi nhắc lại lời giảng của Gioan Tẩy Giả: "Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.
+ “Nước Trời": Một kiểu nói của người Do Thái, vì kính trọng, nên tránh hài tên Thiên Chúa ra. Riêng Marco đã dứt khoát nói về Triều đại của Thiên Chúa. Triều đại này không ở xa khuất trên mây xanh, nhưng ở "rất gần".
+"Hãy hoán cải ": hiệu quả của Triều đại Thiên Chúa tuỳ thuộc vào sự đón nhận của loài người.
Kế đó, tác giả Phúc âm cho độc giả một cái nhìn bao quát về những hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ Galilêa. Di chuyển không ngừng nghỉ (l3, 21, 23, 24) Đức Giêsu tự đưa mình vào hoạt động Người mời gọi đến với Người, bước theo Người, trở nên môn đệ của Người.
+ Trước tiên, "Khi người đi trên bờ hồ Galilêa”. Người kêu gọi các anh em: "Simon còn gọi là Phêrô và Mátthêu hữu ý đặt lên hàng đầu những người được gọi và Matthêu trình bày như khuôn mẫu của những người theo Đức Giêsu "và André em ông", "Jacobê, con Zebede và Gioan em ông”.
Ta có 2 tường thuật ngắn về ơn kêu gọi xây trên cùng một_ kiểu mẫu và hiển nhiên cảm hứng từ 1 Các vua 19,19: Êlia kêu gọi Êlisêô.
Đức Giêsu thấy có người. Đó là những ngư phủ đánh cá trong hồ.
Người bảo họ: Hãy theo Ta. Lập tức họ bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Người.
Cấu trúc 2 vế này có ưu điểm là làm nổi bật vừa sáng kiến của Đức Giêsu, Người kêu gọi, vừa câu trả lời nhanh nhẹn không ngần ngại của những người được gọi.
Đức Giêsu không chỉ muốn biến những người mà Người gọi đã bỏ nghề nghiệp mà theo Người thành những người ngưỡng mộ đơn sơ hoặc những thính giả thăm chú nghe giáo huấn của Người. Nhưng Người muốn họ trở thành những người cộng tác với người trong việc chinh phục con người: hãy theo Ta, Ta sẽ biến các người thành những kẻ chinh phục con người.
Claude Tassin giải thích: "Kiểu nói "chài lưới người ta đã ngầm loan báo sứ mạng Kitô hữu, thánh sử đã nhấn mạnh một điểm: Làm môn đệ chính là làm nhà truyền giáo. Ở đây, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, những người sẽ nghe lời Thầy Chí Thành và sẽ chứng kiến việc Người làm. Phêrô, Anrê, Gioan, Giacôbê quả là những tên gọi cao cả đối với Kitô hữu thuộc thế hệ thứ hai. Nhưng, Matthêu, ta kính trọng ký ức của họ ủi họ đã từng là môn đệ, đã được kêu gọi vô điều kiện bởi Đấng khai mạc Nước Trời".
+ Sau đó, toàn miền Galilêa trở thành diễn trường cho Đức Giêsu rao giảng. Được cải hoá nhờ Tin Mừng, được chữa lành khỏi bệnh tật, những người trước kia không thể bước đi nay bắt đầu đi lại và tạo thành một "dân tộc ": tại miền "Galilêa, nơi hội lụ dân ngoại', đã manh nha một dân mới của Thiên Chúa thuộc mọi chủng tộc mọi ngôn ngữ, mọi nước và mọi dân phát sinh nhờ lời rao giảng Tin Mừng.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Bình minh của hy vọng
(Mgr. L. Daloz, Le Régne de cieux s’est approché).
Đức Giêsu vào cuộc có nghĩa là ánh sáng đến với nhân loại. Trích dẫn Isaia không đơn thuần đem lại một chỉ dẫn về địa lý. Đó là một biểu tượng: là lối thoát của dân tộc Do Thái, sinh ở Bêlem, vì là dòng dõi David, trở thành người Galilêa ở Nazareth, Đức Giêsu đến đón rước các dân tộc. Tức thì sứ mệnh của Người mang lấy dáng vóc phổ quát. Tự bản thân chúng ta cũng phải cúi chào tia sáng đầu tiên này loé lên soi cho các dân đang sống trong bóng tối: Đức Giêsu đến gặp gỡ ta, đó là khởi đầu ơn cứu độ của ta, là bình minh của niềm hy vọng. Ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ánh bình minh này với lòng biết ơn rồi làm sống lại trong ta cảm giác kỳ diệu khám phá ra Đức Kitô, ánh sáng bừng lên soi chiếu vào mắt ta. Vâng, đối với ta vì cả mọi dân tộc, ánh sáng chính là Lời nói lạ lùng mà Phúc âm không cho ta biết đối tượng: Từ lúc ấy, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng: hãy năn sám hối, vì Nước Trời đã gần đến. Lời của Giêsu trên vũ trụ, vượt qua những biên cương của vùng đất hứa cho dân của Giao ước cũ, biến cả thế giới thành vùng đất hứa của Nước trời. Những nỗ lực và lực và toan tính của các vị truyền giáo đều phát xuất từ một lời duy nhất này. Bây giờ đến phiên chúng ta phải chuyển nhữngg từ Phúc âm tạo âm vang cho lời kêu gọi đầu tiên của Đức Giêsu khi Người đứng trước miền Galilê của các dân tộc, trên bờ sông thế giới.
2. Cuộc phiên lưu vĩ đại khởi đi từ một vùng đất bị khinh khi.
Đối với dân thủ đô, Galilêa chỉ là tỉnh lẻ. Đối với ai mộ đạo sùng tín, miền Bắc thực đáng ngờ vực. Đó là rniền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng phịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện giễu cợt hằng ngày.
Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Đức Messia Cứu Chúa, ánh sáng muôn dân, "tới cư ngự' tại Capharnaum, bên bờ hồ". Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ. Gioan Tiền hô, vị ngôn sứ của lòng thống hối, đã trở thành kẻ sách nhiễu, gây rối. Ông bị chém đầu. Từ đó Tin Mừng bị nghi ngờ và sứ giả Tin Mừng bị theo dõi gắt gao...Nhưng Đức Giêsu đã gặp những tâm hồn cởi mở đón tiếp nơi những người hiếu động và bé nhỏ nhất của dân Người.
Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn công việc chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Đức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Đúng là một nước cờ ngược lại mọi lôgic. Chính những người ít khả năng nhất, ít được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Đấng là "Đường, và Sự Thật và là Sự Sống”.
Ngay tức khắc, thành phần lao động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ, người rao giảng chẳng có danh nghĩa chính thức, người chạy trốn chính quyền hợp pháp câu nệ thói tục và lối giải thích của họ. Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ... và họ đã đi theo Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới đổi mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế, nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa...
Hôm nay cũng thế, Đấng Phục Sinh vẫn tiếp tục sứ mệnh của Người không theo cách người ta nghĩ. Người tỏ mình ra dạy dỗ, và kêu gọi không theo những chuẩn mực hay lý luận của người phàm chúng ta. Không khác gì vào thời của Đền Thở, Đức Giêsu không chỉ giam mình trong các truyền thống nhân loại, trong các tính toán của các chuyên gia, trong phán quyết của các quyến lực Người không bị giam hãm trong Giáo Hội của Người, Giáo Hội đang bị chia rẽ, nơi người thì tự cho mình là thuộc phe Phaolô và Giacôbê, Anrê, Matthêu như thể kitô đã bị chia cắt và như thể là giáo huấn của người không quan trọng bằng giáo huấn của môn đệ Người. Trong khi con cái trong nhà cãi cọ, xâu xé thân thể mầu nhiệm Đức Kitô và đóng đinh Người, Người chạy đến nơi "hội tụ dân ngoại và tìm được sự tiếp đón nồng hậu, tìm được môn đệ trong đám người bị khai trừ và những người sống ngoài lề xã hội.
55. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TRỞ VỀ GALILÊ VÀ KÊU GỌI CÁC MÔN ĐỒ ĐẦU TIÊN
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Thành ngữ “Galilê các dân ngoại (4,15) gợi lên điều gì đối với người đương thời của Chúa Giêsu và Matthêu? Phải chăng đó là một sự khai mở có tính cách phổ cập, theo viễn tượng đã được phác họa ở chương 2?
2) Matthêu muốn diễn tả gì khi đặt ngay đầu sứ vụ Chúa Giêsu trình thuật quá giản lược về việc gọi bốn môn đồ đầu tiên (4, 18-22)? Đặc biệt đâu là mối liên lạc giữa nó với bản toát lược hoạt động của Chúa Giêsu (4, 23-25) và với diễn từ kế tiếp (ch. 5-7)?
Xét về phương diện văn chương, đây là một bản toát lược trước hoạt động của Chúa Giêsu suốt cả giai đoạn tương ứng với phần đầu Tin Mừng Matthêu (4, 18-16, 20) Matthêu trình bày cho thấy Người khai mạc sứ vụ tại Galilê, sau biến cố quyết định là việc tống giam Gioan Tẩy giả. Chính trong giai đoạn sứ vụ tại Galilê này mà các tác giả Nhất Lãm đã thu gộp lại điểm chính yếu của những gì các ông tường thuật về ngôn hành của Chúa Giêsu.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
* "Nghe tin Gioan bị tống giam", dịch sát chữ: "Nghe nói Gioan đã bị nộp" (so sánh với Mt 10, 4; 17,22; 20, 18-19; 26, 2: trong tất cả các đoạn vừa kể, Matthêu dùng chữ "bị nộp", parêdothê để nói về Con Người như ở đây, điều đó ngụ ý Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu có chung một số phận): Thể thụ động ngầm bảo rằng biến cố xảy ra do ý muốn Thiên Chúa; chương trình của Thiên Chúa hoàn tất nơi Gioan, như nơi Chúa Giêsu sau này. Hơn nữa, cả hai sứ vụ đều liên kết làm một trong chương trình Thiên Chúa: Chúa Giêsu khởi đầu hoạt động công khai của Người vào lúc Thiên Chúa chấm dứt hoạt động Gioan.
* "Người trở lại", dịch sát chữ: "Người lui về" (anachoreô): Tại Giuđê, Chúa Giêsu như ở trong pháo đài của Do thái giáo chính thức, mà đại diện là nhóm Saducêo và Biệt phái. Hạng người sau, tích cực hơn dịch thủ họ nhiều, hằng quan tâm gây ảnh hường tôn giáo trên dân và tỏ ra nghi ngại những ai không xuất thân từ trường của họ. Để chống lại Chúa Giêsu, họ đã vạch trần gốc tích Galilê của Người (x. Ga 7,52: "Không một ngôn sứ nào đến từ Galilê cả"). Việc tống giam Gioan Tẩy giả có thể đã khuyến khích họ loại trừ Người nữa luôn. Thấy mình ở trong một vùng bất an, Chúa Giêsu có lẽ đã quyết định khai mạc thực sự sứ vụ Người tại Galilê. Trong vùng này, là vùng cách biệt Giuđê về phương diện địa dư và chính trị, ảnh hưởng của Hội đồng Công tọa và của Biệt phái khá yếu ớt. Khi lại sử dụng ở đây động từ anachoreô (rút lui, lui về) có lẽ Matthêu muốn ngụ ý (như ở 2,12; 9,24; 12,15; 15,21 v.v) rằng sự cứng lòng của miền Giuđê (do ảnh hưởng Biệt phái), biểu lộ qua việc khước từ Gioan Tẩy giả, đã bắt buộc Chúa Giêsu phải ngỏ lời với "Galilê của dân ngoại”.
* "Rời Nadarét", dịch sát chữ: "Bỏ Nadarét", không có nghĩa là Chúa Giêsu, khi trở về Galilê, viếng Nadarét trước rồi sau đó bỏ quê hương. Matthêu chỉ nhấn mạnh Người “không" muốn chọn quê hương mình như khởi điểm xuất phát sứ vụ, nhưng là Capharnaum. Chi tiết này chắc hẳn không phải chỉ là một chú thích địa dư. Nó nhắm chuẩn bị cho sấm ngôn Isaia nơi các 13-14, y như chi tiết “ven bờ biển" vậy.
* "Trong địa hạt Dabulôn và Nepthali": Capharnaum ngày xưa nằm trong vùng định cư của hai bộ lạc Dabulôn và Nepthali (Gs 19, 10-16. 32-39). Vào thời Chúa Giêsu, không còn lối phân chia lãnh thổ như thế nữa; do đó sẽ chẳng hiểu được lời quy chiếu này nếu không có câu trích dẫn Isaia đi liền theo sau đề cập tới đất Dabulôn và đất Nepthali.
Sở dĩ Matthêu muốn móc nối với Isaia ở câu 14 như vậy, là vì muốn trả lời cho một vấn nạn về Galilê, khởi điểm và sân khấu chính của hoạt động Chúa Giêsu. Tại sao Chúa Kitô đã dành phần lớn thời gian Người cho cái vùng heo hút này, nơi đã chẳng có một ngôn sứ nào của Thiên Chúa xuất thân? Thưa vì theo kế đồ Thiên Chúa (được công bố qua sấm ngôn Isaia), Đấng Messia phải thi hành sứ vụ Người tại Galilê.
Các câu 15-16 trích dẫn Is 8,23 - 9,1 là đoạn trực tiếp liên hệ đến hay bộ lạc cổ Israel dã chiếm giữ phần lớn miền Galilê và đã bị quân Assyri sáp nhập năm 734. Dưới ách Hy-Lạp vào thời các vua nhà Séleucos, họ bị dân ngoại bao vây tứ bề. Công cuộc giải phóng mà ngôn sứ loan báo cho họ, Matthêu thấy được thực hiện trong sứ vụ Chúa Giêsu; Thật vậy, trong Isaia 8 và 9, không chỉ có vấn đề giải phóng quân sự và chính trị, nhưng còn giải phóng khỏi "tối tăm" và “sầu khổ" do việc các bộ lạc cổ ấy hoàn toàn bị lương dân xâm nhập. "Galilê các dân ngoại" là tên biểu thị đám dân hỗn tạp của vùng Galilê này, đối nghịch với chủng tộc tinh tuyền của miền Giuđê. Ở đây "Galilê các dân ngoại" xuất hiện như biểu tượng của việc triệu tập phổ quát: đó là đất hứa được phô bày cho Chúa Giêsu, Israel đích thực, sau thời gian Người cư trú ở hoang địa và vượt qua sông Giođan. Ta gặp nơi đây một trong các chủ đề ưa thích của Matthêu: sứ vụ của Chúa Giêsu trước tiên được dành cho "các chiên lạc nhà Israel" (10,6; 15,24) nhưng vẫn liên hệ sâu xa với dân ngoại. Câu "Dân ngồi trong tối tăm" tóm tắt một cách tượng trưng tình trạng ngoại giáo hóa ấy của vùng Galilê, tức tình trạng thiêng liêng của những người Do thái trong vùng. Một ánh sáng lớn lao": "ánh sáng" xuất hiện ở đây tại Galilê và tỏ lộ cho các môn đồ trong cuộc Biến Hình (17,2) là ánh sáng tiên báo cuộc Phục sinh của Chúa Kitô.
* "Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu...": câu này đánh dấu khởi điểm chính thức của sứ vụ Chúa Giêsu và sự viên mãn của thời gian. Thành ngữ sẽ chỉ trở lại nơi 16,21 để loan báo cuộc khởi hành của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn. Do đó, đối với Matthêu, việc loan báo Nước Trời đã nằm vào trong lộ trình đau khổ.
* "Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên": Kiểu nói tổng hợp này của Matthêu giống y kiểu nói ở 3,2 (Gioan Tẩy giả) và ở 10,7 (huấn thị cho môn đồ sắp đi truyền giáo). Nó khẳng định tính cách liên tục giữa việc rao giảng của Gioan, là bước chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu rao giảng, với việc rao giảng của các môn đồ, là sự tiếp nối sứ điệp của Thầy họ.
Thành ngữ lạ lùng "Nước Trời" (hầu hết như vậy trong Matthêu) phản ảnh não trạng Do thái đương thời, cái não trạng tránh đọc tên Thiên Chúa vì tôn kính Ngài. Như thế có lẽ nó sao lại thành ngữ Chúa Giêsu đã dùng. Còn "Nước Thiên Chúa " (Mc và Lc) hình như phát xuất từ việc sửa đổi thành ngữ nguyên thủy để thích ứng với thế giới Hy lạp. Chủ đề này có nét nổi bật là quyền cai trị của Thiên Chúa và do đấy đương nhiên bao hàm ý tưởng một cộng đoàn được Thiên Chúa điều khiển. Chúa Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa ấy sẽ đến (Mc 14,25; Lc 11,2..) nhưng cũng đã tới rồi trong sứ vụ và trong bản thân của Người (Lc 7, 18-23; 10,23tt...). Hai lý thuyết cực đoan hiện thời, cánh chung luận tương lai (hậu kết) vây cánh chung luận hiện tại, đều đưa vào loạt bản văn đầu hay loạt bản văn sau (về ý niệm nước Trời" này, xin xem chú thích dài của BJ).
Eggiken, thì quá khứ của động từ eggizô, là một trong những tiếng của Tân Ước được tranh luận nhiều nhất hiện nay. Phải dịch nó là "đã gần bên” hay "đã tới rồi”? Eggizô (do egguạ, "gần ") tự nó có nghĩa là "đến sau, tới gần", nghĩa tán trợ cho lối dịch thứ nhất. Song C.H.Dodd lại quả quyết eggiken là tiếng phiên dịch. từ một động từ Aram có nghĩa "đến, đạt thấu". Lối giải thích của Dodd, "Nước trời đã tới", cũng có thể đúng, nhưng phần lớn các nhà chú giải thích kiểu dịch "Nước Trời đã gần" hơn.
* "Hãy hối cải": Việc Chúa Giêsu khai mạc Nước Trời tạo thành giây phút tột đỉnh của lịch sử cứu rỗi. Trước lời mời gọi ấy của Thiên Chúa, mỗi người đều bị bó buộc phải dứt khoát chọn lựa. Việc đáp lại lời Ngài phải biểu lộ ra bằng lòng thống hối và đức tin.
Việc kêu gọi các môn đồ đầu tiên (cc.18-22) được tường thuật lại với thể văn "kêu gọi ngôn sứ" của Cựu Ước, chẳng hạn việc Elia kêu gọi Elidê (IV 19, 19): Trình thuật này hoàn toàn loại trừ khía cạnh tâm lý (như cảm xúc của những kẻ được gọi, việc nhấn mạnh đến tính cách nghiêm trọng của giờ v.v...) để làm nổi bật lời kêu gọi của vị Tôn sư và câu đáp trả đầy gắn bó tin tưởng của các môn đồ. Do đấy có thể bảo bản phác họa này vẽ ra mối tương quan kiểu mẫu giữa Chúa Giêsu và người môn đồ lý tưởng, kẻ từ bỏ mọi sự không chút do dự hay biện bạch để theo Người ngay từ lời mời gọi đầu tiên. Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi các môn đồ tương lai trước hết hãy sống với Người và theo Người. Công việc tông đồ của họ sẽ bắt đầu sau này, lúc họ đã chứng kiến cuộc Tử Nạn-Phục Sinh của Người (trái lại Mc 6, 12-13 và Lc 9,6 thì có tường thuật một chuyến truyền giáo của các môn đồ trước Tử Nạn-Phục Sinh; Matthêu im lặng có lẽ vì muốn nhấn mạnh tính cách độc nhất của con người vị Tôn sư) Các sứ đồ sẽ thành "ngư phủ bắt người", nghĩa là thành kẻ rao giảng và chứng nhân Nước Trời. Thành ngữ này có lẽ ám chỉ tới một sấm ngôn của Edêkien (Ed 47,10). Dầu sao, có thể bảo rằng, theo một ý nghĩa nào đó, Nước Trời đã như được thiết lập qua việc gọi các môn đồ đầu tiên ấy, vì Nước Trời tự bản chất là một cộng đoàn gồm những người quy tụ quanh Chúa Giêsu trong mối thông hiệp với Chúa Cha.
* "Khắp xứ Galilê": Việc du hành thuyết giáo này của Chúa Giêsu tương ứng với một khía cạnh quan trọng trong sứ vụ của Người; Người không nhắm mục đích xây dựng một nguyện đường khép kín với một nhóm môn đồ như các giáo sĩ, cũng chẳng phải là quy tụ các kẻ tinh tuyền vào sa mạc như ông Thầy phái Essêni, song là rao giảng cho toàn dân trong khắp xứ.
* "Giảng dạy... chữa lành": Lối tiếp liên này, được dùng lại với cùng những hạn từ trong 9,35, cho thấy phải hiểu cơ cấu toàn bộ của Tin Mừng Matthêu ra sao. Trái với quan niệm của nhiều nhà chú giải thừa nhận kiểu tiếp liên trình thuật-diễn từ vì muốn lấy các chương 5 - 7 soi sáng 3 - 4, và chương 10 soi sáng 8-9), hình như ta có thể bảo: qua thành ngữ "giảng dạy... chữa lành”, Matthêu muốn gợi ý rằng lối tiếp liên diễn từ-trình thuật là cơ cấu của Tin Mừng của ông, nên phải lấy các chương 8- 8, thay vì 3- 4, để soi sáng 5- 7, và lấy 11- 12 soi sáng chương 10 v.v.. Thật vây việc giải thích toàn bộ Matthêu theo cách thứ hai này xem ra thỏa đáng hơn nhờ ánh sáng của các cuộc nghiên cứu gần đây theo chiều hướng đó (Krentz, Rolland, Radennakers v.v...).
* "Chữa lành mọi tật nguyền bệnh hoạn": ý tưởng "Thiên Chúa bảo vệ kẻ công chính và cho họ khỏi bệnh tật rủi ro" đầy dẫy trong văn chương khải huyền thời Chúa Giêsu (x. Thánh vịnh Salomon). Thành thử hoạt động chữa bệnh của Người đáp lại một nỗi mong chờ nào đó của dân chúng, và đặc biệt thực hiện lời tiên báo của Isaia mà Matthêu áp dụng cho Chúa Giêsu (8,17) về Người Tôi Tớ mang lấy bệnh tật dân mình (53,4): Chính vì sấm ngôn ấy, mà quyền lực chữa bệnh của Chúa Giêsu làm cho địch thù Người khó chịu: bị bắt buộc phải thừa nhận sự kiện, họ không còn cách gì hơn là gán việc đó cho Bêelzêbul (12,24). Đừng tổng quát hóa lời minh xác Chúa Giêsu chữa lành mọi bệnh nhân; toàn bộ trình thuật Tin Mừng cho thấy Người không nhắm mục đích chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, như thể muốn cho thiên hạ hưởng nhờ quyền năng làm phép lạ của mình nhiều ngần nào có thể; đúng ra Người chỉ chữa trị một vài bệnh nhân để mặc khải ý nghĩa Nước Trời và uy quyền riêng của Người.
KẾT LUẬN
Trái với Gioan Tẩy Giả chuyên đứng bên bờ sông Giođan để làm phép rửa cho những kẻ đến với ông, Chúa Giêsu, ngay từ đầu sứ vụ, đã tỏ ra là một diễn giả lưu động, rảo khắp miền Galilê và đâu đâu cũng tuyên bố Nước Trời đến gần. Người muốn mình tức khắc là Mục Tử tốt nao nức đi tìm "chiên lạc nhà Israel". Và vì ưu tư đảm bảo hiệu lực lâu bền cho công việc mình, Người đã quy tụ ngay các "ngư phủ bắt người". Đầu tiên để họ tiếp tục việc loan báo Nước Trời khắp nơi, cho mọi người thuộc mọi thời đại.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ngày nay Chúa vẫn còn loan báo Nước Người cho ta qua việc công bố Lời Người giữa lòng cộng đoàn phụng vụ. Ta biết rằng cách thức nghe lời đó là "hối cải", là tiêu trừ những gì đê tiện, của lòng mình, là mở rộng con tim theo những viễn tượng, phổ quát của Người. Bấy giờ, việc loan báo ấy sẽ chữa lành tâm hồn ta và đổ vào đó một niềm hân hoan vĩ đại. Ta sẽ vượt lên khỏi chính mình và khám phá được ánh sáng rạng ngời của Thiên Chúa.
2) Chẳng phải các môn đồ đã chọn Chúa Giêsu, song chính Người đã chọn gọi họ, đã bắt lấy họ nơi họ đang làm lụng, nơi họ bận rộn với công việc trần thế. Ngày nay cũng vậy Chúa Kitô đến tìm ta giữa công việc, niềm vui, nỗi nhọc của ta. Người muốn lôi ta theo Người không phải bằng cách đòi ta bỏ mọi sự để rao giảng Nước Trời (điều ấy, Người chỉ xin một vài kẻ thôi) nhưng một cách thiêng liêng bằng cách yêu cầu ta từ bỏ chính mình, bỏ lòng ích kỷ và chai đá, để sống với Người cuộc sống hằng ngày của ta trong siêu thoát và tình yêu.
3) Việc hối cải Chúa Giêsu yêu cầu không phải là một cái gì có thể hoàn thành trong giây lát, trong một ngày và một lần thay cho tất cả. Chắc chắn ngay lúc đầu nó đòi hỏi một sự kiên định lập trường và đôi lúc một sự cắt đứt đau đớn. Nhưng nhất là nó đòi hỏi một cuộc lấy lại không ngừng chính mình để kiên nhẫn và khiêm tốn đi theo Chúa Giêsu, cho dù yếu đuối đến đâu. Vì tiếng nói của Chúa Giêsu vẫn luôn vang vọng trong cuộc đời chúng ta: "Hãy theo Thầy".
56. Tích cực giãi ánh sáng tin yêu cho tha nhân
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Nghe tin Gio-an Tẩy Giả bị nộp, Đức Giêsu từ Giê-ru-sa-lem lui về Ga-li-lê để tránh bị theo dõi, và hoạt động trong môi trường có nhiều dân ngoại như Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Người chọn thành Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo và từ đây Người đi các nơi rao gảng Tin Mừng Nước Trời. Nội dung các bài giảng được tóm lại như sau: "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến". Đức Giêsu cũng chọn 4 môn đệ đầu tiên gồm 2 đôi anh em. Một là Si-mon Phê-rô và An-rê đang thả lưới trên biển hồ. Hai là Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trong thuyền cùng với cha và các người làm công. Vừa nghe Đức Giêsu kêu gọi, các ông đã lập tức bỏ nghề lưới cá và từ giã người thân để cộng tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.
CHÚ THÍCH:
- C 12-13: + Nghe tin ông Gio-an đã bị nộp: Thánh Mát-thêu dùng từ "bị nộp" thay vì "bị bắt" khi nói về Gio-an, giống như khi nói về Đức Giêsu (x. Mt 10,4; 17,22; 26,2). Qua đó cho thấy số phận của Gio-an giống như Đức Giêsu. Dùng từ "bị nộp" ở thể thụ động là có ý nói biến cố xảy ra là do ý của Thiên Chúa. Đức Giêsu bắt đầu rao giảng khi Gio-an chấm dứt sứ mạng tiền hô dọn đường. + Người lánh qua miền Ga-li-lê: Khác với Gio-an Tẩy Giả, Đức Giêsu lui về Ga-li-lê là vùng đất có nhiều dân ngoại sinh sống, để khởi sự rao giảng Tin Mừng. Cũng tại Ga-li-lê, Người sẽ quy tụ các môn đệ lần cuối cùng để sai đi khắp thế gian, tiếp tục sứ mạng mà Người khởi sự hôm nay. + Người bỏ Na-da-rét đến ở Ca-phác-na-um: Đức Giêsu đã không chọn quê hương Na-da-rét, nhưng chọn Ca-phác-na-um để bắt đầu sứ mạng rao giảng. + Một thành ven biển hồ Ga-li-lê: Thành Ca-phác-na-um nằm trong vùng đất định cư của hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li (x. Gs 19,10.32-39).
- C 14-16: + Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói: I-sai-a tiên báo vùng Ga-li-lê thuộc hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, không những được thoát ách thống trị của quân Át-sy-ri về chính trị quân sự, mà còn được giải phóng khỏi cảnh "tối tăm sầu khổ" do bị dân ngoại chiếm cứ. + Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại: Ga-li-lê là nơi bị khinh dể vì là vùng đất có nhiều dân ngoại sống chung với dân Do thái, và chưa có vị ngôn sứ nào xuất thân ở đó (x. Ga 1,46). Điều này nằm trong chương trình hành động của Đấng Thiên Sai đã được Ngôn sứ I-sai-a báo trước. + Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm: Mát-thêu ứng dụng việc Đức Giêsu đến làm cho miền đất này khỏi bóng tối sự chết bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời. "Ánh sáng huy hoàng" là chính Đức Giêsu biểu lộ khi Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,2), và tiếp tục chiếu rọi khi Chúa Phục Sinh hẹn gặp các môn đệ để sai họ đi truyền giáo (x Mt 28,16-20).
- C 17-18: + Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: Đối với Mát-thêu thì đây là thời điểm Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng cứu thế tại Ga-li-lê. Lời giảng được Mát-thêu tóm gọn trong câu: "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần". Đây cũng là nội dung mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo (x. Mt 10,7). + "Anh em hãy sám hối": Câu này giống như lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trước đó (x. Mt 3,2). + Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời, hay cũng gọi là Nước Thiên Chúa. Vì Mát-thêu viết Tin Mừng cho người Do thái, nên tránh gọi tên Thiên Chúa để biểu lộ lòng kính trọng Thánh Danh của Người như điều răn thứ hai dạy: "Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ". Nước Thiên Chúa là một cộng đoàn do Thiên Chúa cai quản. Nước này đã tới gần trong con người và sứ vụ của Đức Giêsu. + Biển hồ Ga-li-lê: Là một biển hồ hình quả trám dài 21 cây số, rộng 12 cây số, cũng có tên là hồ Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-a. + Si-mon cũng gọi là Phê-rô: Si-mon là tên của ông Phê-rô trước khi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đổi tên Si-mon thành Phê-rô nghĩa là "Tảng Đá" (x. Mt 16,18).
- C 19-20: + Kẻ lưới người như lưới cá: Đức Giêsu sẽ trao sứ mạng đánh lưới các linh hồn của người ta, giống như việc chài lưới bắt cá trên biển. + Lập tức bỏ chài lưới: Đây là thái độ dứt khoát và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: bỏ nghề cũ để theo nghề mới.
- C 21-23: + Gia-cô-bê: Có hai Tông đồ tên Gia-cô-bê. Đây là Gia-cô-bê theo Chúa trước nên được người ta gọi là Gia-cô-bê Tiền, phân biệt với Gia-cô-bê Hậu theo Chúa sau. Gia-cô-bê và em là Gio-an cùng Si-mon Phê-rô làm thành nhóm ba người thân tín của Đức Giêsu. Nhóm này được luôn theo sát Đức Giêsu và được chứng kiến Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,1). Trong cuộc khổ nạn, ba người này cũng được đi theo Người vào vườn Ghết-sê-ma-ni chứng kiến Người cầu nguyện trước khi bị bắt đang khi các ông khác phải ở ngoài vườn (x. Mt 26,37-46). + Lập tức các ông bỏ thuyền bỏ cha...: Cũng như Si-mon và An-rê đã bỏ ngay nghề cũ, Gia-cô-bê và Gio-an cũng dứt khoát từ bỏ tài sản là thuyền, và từ giã người thân là cha già mà đi theo làm môn đệ Đức Giêsu. + Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê: Việc truyền giáo cần phải năng động. Đức Giêsu và các môn đệ phải đi khắp miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân: Viêc chữa bệnh kèm theo việc rao giảng Tin Mừng vì là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Mt 10,8; 11,4-5).
CÂU HỎI:
1) Tại sao Mát-thêu dùng kiểu nói "Sau khi Gio-an bị nộp" thay vì "bị bắt"? 2) Gio-an Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối tại miền nào, và Đức Giêsu khởi sự rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại miền nào? 3) Đức Giêsu đã làm gì để chiếu soi ánh sáng huy hoàng của Người vào miền Ga-li-lê đang ở trong bóng tối sự chết? 4) Lời giảng của Đức Giêsu được tóm lại trong câu nào? 5) Tại sao Mát-thêu dùng từ "Nước Trời đã đến gần" thay vì "Nước Thiên Chúa đã đến gần" như Lu-ca? 6) Bạn biết gì về biển hồ Ga-li-lê? 7) Phê-rô là ai? Tên Phê-rô nghĩa là gì và ông được Đức Giêsu đổi tên khi nào? 8) Trong Nhóm 12 có mấy ông tên Gia-cô-bê? Hai ông Gia-cô-bê được phân biệt theo Chúa trước và sau thế nào? 9) Noi gương bốn môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta nên làm gì khi được Chúa mời gọi đi theo Chúa? 10) Đức Giêsu nêu gương nhiệt tình đi loan báo Tin Mừng ra sao? Người thi hành sứ mạng bằng những công việc gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).
2. CÂU CHUYỆN: ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ ''NHÂN VẬT CỦA NĂM'' 2013
Gần đây vào ngày 11 tháng 12 năm 2013, tạp chí Time, một tờ tuần báo Mỹ có uy tín hàng đầu thế giới, đã bình chọn Đức giáo hoàng Phan-xi-cô là nhân vật của năm 2013 với lời ca ngợi rằng chỉ trong 9 tháng đứng đầu Giáo hội Công giáo, ngài đã đem đến một tiếng nói và một nhận thức mới. Nhờ lối sống khiêm tốn giản dị và tầm ảnh hưởng tinh thần lớn lao ngài đã làm bừng lên một mùa xuân mới trong Giáo Hội Công giáo hoàn cầu, đặc biệt tại các nước Âu Mỹ. Giới truyền thông thế giới đã đặt cho ngài những danh hiệu cao quý như: "Giáo Hoàng của Người Nghèo"; "Giáo Hoàng của Quần Chúng"...
Theo Telegraph, Đức giáo hoàng Phan-xi-cô đã đánh bại các nhà lãnh đạo thế giới và người làm rò rỉ các bí mật động trời là Edward Snowden, để giành giải "Nhân vật của Năm" do tờ tạp chí danh tiếng Time bình chọn. Dù mới chỉ đảm nhiệm vai trò năm đầu tiên, cựu hồng y người Ác-hen-ti-na đã được ban biên tập của tạp chí Time chọn là người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2013.
Bà Nacy Gibbs, thư ký tòa soạn của tờ Time giải thích: "Hiếm khi nào một người mới xuất hiện trên thế giới đã lập tức thu hút được sự chú ý từ người già lẫn người trẻ, người sùng đạo lẫn người ngoại đạo, như Giáo hoàng Phan-xi-cô", Giáo hoàng năm nay 76 tuổi, tên thật là Jorge Mario Bergoglio, sinh tại Bunenos Aires nước Ác-hen-ti-na. Ngài được tấn phong làm Tổng giám mục vào năm 1998, rồi trở thành Hồng y năm 2001 và đắc cử chức vụ Giáo hoàng trong cuộc mật nghị tại Vatican vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, thay cho Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô 16 xin về hưu. Giáo hoàng Phan-xi-cô nổi tiếng vì sự khiêm nhường và cam kết vì người nghèo từ rất lâu trước khi trở thành nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo.
Đầu tháng này, tạp chí Time đã thu hẹp danh sách chung kết gồm 5 người, trong đó có Tổng thống Syria Bashar Assad, Thượng nghị sĩ bang Texas Hoa Kỳ Ted Cruz và Nhà hoạt động vì quyền của người đồng tính Edith Windsor. Người thứ hai trong danh sách Nhân vật của Năm là Edward Snowden, cựu nhân viên Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA), người tiết lộ chương trình theo dõi bí mật của chính phủ Mỹ, hiện đang xin tị nạn chính trị tại Nga. Tạp chí Time bắt đầu bình chọn "Nhân vật của Năm" lần đầu vào năm 1927. Các biên tập viên tạp chí đã chọn ra người mà họ cho là có ảnh hưởng nhiều nhất đến tin tức trong một năm, bất kể xấu hay tốt. Năm ngoái, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã được Time bình chọn là nhân vật của năm 2012.
Những tin tức hình ảnh về Đức giáo hoàng đã thể hiện tình thương đối với người nghèo, người khuyết tật và tỏ ra gần gũi với người lớn trẻ em đều được báo chí và các hãng thông tấn quốc tế loan truyền rộng rãi. Đây cũng là niềm vinh dự cho Giáo hội Công giáo trong bối cảnh Giáo hội gần đây đang là tâm điểm cho những lời phê phán chỉ trích của giới truyền thông trên thế giới liên quan đến các vụ tai tiếng về các vấn đề ấu dâm, vấn đề tài chánh của ngân hàng Vatican hay sự rò rỉ thông tin mật của Tòa thánh...
Sự quyết tâm canh tân bằng lối sống đơn sơ nghèo khó và đổi mới nhân sự của Đức Phan-xi-cô bước đầu đã đem lại những thành quả nhất định cho Hội thánh Công giáo. Sự thành công này trở thành động lực thúc đẩy các tín hữu chúng ta cũng phải biết thanh luyện bản thân, đổi mới đời sống và cung cách phục vụ tha nhân, hầu loan báo tin mừng hữu hiệu hơn cho đồng bào Việt Nam thân yêu hôm nay.
3. SUY NIỆM:
1. Đức Giêsu hoàn thiện Luật Mô-sê:
Đạo Do Thái thời Đức Giêsu đã xuống cấp trầm trọng: Các đầu mục Do thái là các kinh sư và người pha-ri-sêu quá câu nệ hình thức đạo đức, coi trọng kinh kệ lễ nghi bề ngoài mà coi thường tâm tình mến Chúa bên trong nên đã bị Đức Giêsu nặng lời khiển trách là bọn đạo đức giả như sau: "Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình". Vì họ đã tỏ ra cố chấp không những không gia nhập vào Nước Trời do Người rao giảng, mà còn ngăn cản người khác không cho họ vào (x. Mt 23,13); Vì họ tìm cách thu gom tiền bạc bằng các lễ nghi kinh kệ dài dòng (x. Mt 23,14); Vì đã không lo dạy dỗ dân chúng (x. Mt 23,15), coi trọng những điều tùy phụ như nộp thuế thập phân hoa màu mà coi nhẹ điều cốt yếu là sự công bình, lòng nhân và thành tín (Mt 23,23-24)...
Đức Giêsu đến không hủy bỏ Lề Luật Mô-sê nhưng để kiện toàn, để canh tân bằng việc đưa vào Luật một tinh thần mới, tóm lại trong hai giới răn quan trọng là "mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu chính mình" (x. Mt 22,35-40); Người cũng bãi bỏ hy lễ và hiến lễ toàn thiêu bằng chiên cừu của đạo cũ bằng việc thiết lập một lễ tế mới là Người dâng mình là Con Chiên Thiên Chúa chịu sát tế trên bàn thờ thập giá để đền tội cho nhân loại (x. Dt 10,8-10).
2. Đức Giêsu tuyển chọn các cộng tác viên:
Đức Giêsu không thi hành sứ mạng cứu thế cách đơn độc, nhưng đã kêu gọi nhiều người theo làm môn đệ để cộng tác với Người loan báo Tin Mừng Nước Trời. Người không chọn những người có học vị cao, có tài ăn nói lưu loát, có kiến thức sâu rộng... như các kinh sư và biệt phái làm môn đệ của Người, nhưng đã chọn những người thuyền chài ít học (x. Cv 4,13). Ngay chính Người cũng không xuất thân từ một trường danh tiếng như người Do-thái đã phải ngạc nhiên nói rằng: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!" (Ga 7,15). Các môn đệ của Đức Giêsu cũng không mấy trổi vượt về đức độ biểu hiện qua thái độ ganh tị nhỏ nhen, ham mê địa vị quyền hành đòi ngồi hai bên tả hữu của Thầy (x. Mt 20,23-24), tính tình nóng nẩy đòi tiêu diệt làng Sa-ma-ri không đón nhận Thầy trò (x. Lc 9,53-56) và hèn nhát chối Thầy ba lần (x. Ga 18,25-27) hoắc bỏ Thầy thoát thân khi Thầy gặp nạn (x. Mt 26,56). Nhưng ưu điểm của các ông là mau mắn dứt khoát đi theo Thầy, sẵn sàng bỏ nghề chài lưới bắt cá để học nghề chài lưới đánh bắt các linh hồn (x. Mt 4,19-20), lập tức bỏ thuyền bỏ cha mà đi theo Người (x. Mt 4,21-22), sẵn sàng đi con đường hẹp leo dốc là từ bỏ bản thân và vác thập giá mình mà theo chân Chúa (x. Mt 16,24), sẵn sàng từ bỏ vợ con, ruộng nương, nhà cửa... Sự mau mắn dứt khoát này đòi các ông phải liều lĩnh, tin cậy phó thác tương lai cuộc đời trong tay Đức Giêsu. Chính nhờ những đức tính này mà khi được ơn Thánh Thần tác động, các ông đã được biến đổi nên tốt với đủ các đức tính, tài năng ăn nói (x. Cv 2,4) và trở nên khôn ngoan mạnh dạn nói lời Thiên Chúa (x. Cv 4,31).
3. Mau mắn đáp lại tiêng Chúa mời gọi:
Ngày nay Đức Giêsu tiếp tục mời gọi mọi tín hữu cộng tác với Người loan báo Tin Mừng. Vậy chúng ta đã đáp lại ơn gọi của Chúa thế nào? Chúng ta có lập tức và dứt khoát đi theo Người hay nại đủ lý do đê trì hoãn như sợ không có đủ khả năng, không có thời giờ, thiếu tài đức... Nên nhớ rằng: Nếu chúng ta mà có đủ mọi điều kiện như các kinh sư Do Thái khi xưa, thì chắc Đức Giêsu cũng không gọi chúng ta đi theo Người, vì khi ấy chúng ta sẽ cậy dựa vào sức riêng của mình hơn cậy nhờ vào sức mạnh và ơn Chúa trợ giúp. Chính vì biết rõ chúng ta thiếu khôn ngoan thông thái nên Đức Giêsu mới kêu gọi chúng ta như Người đã cầu nguyện ngợi khen Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha" (Mt 11,25-26). Vì không có Chúa, chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15,5b), như Tông đồ Phao-lô đã nói: "Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết!" (Pl 4,13). "Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10), và như sứ thần Gáp-ri-en nói với Đức Ma-ri-a khi truyền tin: "vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37). Vậy, nếu nghe thấy tiếng Chúa mời gọi, mỗi người chúng ta cần phải mau mắn đáp lại như ngôn sứ Sa-mu-en xưa: "Lạy Chúa, xin cứ phán vì tôi tớ Chúa đang nghe" (1 Sm 3,9). Chính nhờ sự mau mắn này, mà cũng như các tông đồ xưa, chúng ta sẽ được ơn biến đổi để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.
4. Tích cực góp phần loan Tin Mừng ngay trong môi trường mình đang sống:
Mặc dù Chúa Giêsu đã về trời, nhưng Người muốn chúng ta tiếp tục sứ vụ của Người giữa trần gian hôm nay. Vậy chúng ta phải làm gì? Trước hết chúng ta ý thức Chúa gọi chúng ta như Người đã gọi những môn đệ đầu tiên. Chúa bảo chúng ta hãy tiếp tay với Người để "lưới người" như lưới cá. Chúa không đòi chúng ta phải đi đâu xa, nhưng thả lưới ngay nơi mình đang sống và làm việc. Tấm lưới chúng ta thả có thể là lời nói, việc làm phản ánh lối sống của Đức Giêsu và nói lên tình thương của Thiên Chúa. Nếu tấm lưới ấy lỡ bị rách, chúng ta cần phải vá lại. Cũng vậy, nếu đời sống chúng ta trở nên xấu xa tội lỗi, làm sao chúng ta có thể loan báo Tin Mừng và giúp chữa lành các thói hư cho tha nhân được. Vậy mỗi ngày trước khi ngủ đêm, chúng ta phải hồi tâm "vá lưới" bằng cách xét mình để nhận ra những lỗi lầm và sai sót để xin Chúa giúp canh tân noi gương Chúa làm và lời Người dạy.
Theo Chúa là chấp nhận ra khơi, chấp nhận cuộc sống nghèo khó nay đây mai đó, không nhà cửa, là phải lên đường đến với mọi nhà và gặp gỡ hết mọi người. Theo Chúa là sẵn sàng đón nhận những sự thù ghét bách hại vì danh Chúa, chấp nhận đi con đường hẹp và ít người muốn đi, nhưng lại là con đường chắc chắn dẫn đến hạnh phúc đời đời. Hôm nay các tín hữu chúng ta cũng đang sống giữa những bà con đại đa số là người lương, chúng ta sẽ làm gì để rao giảng Tin Mừng, để biến đổi vùng đất này bừng lên ánh sáng tin yêu của Đức Giêsu? (x. Mt 10,7-8). Hãy noi gương Đức Thánh Cha Phan-xi-cô sống đơn giản gần gũi người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi để chiếu ánh sáng tin yêu của Chúa như Người đã dạy: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).
4. THẢO LUẬN:
1) Kèm theo lời giảng, Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần làm gì kèm theo việc rao giảng, để được người nghe dễ dàng đón nhận? 2) Hôm nay, bạn sẽ đáp trả tiếng Chúa thế nào khi được ai đó mời bạn tham gia vào các sinh hoạt hội họp cầu nguyện và làm công tác theo linh đạo của các hội đoan tông đồ giáo dân?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay xin Chúa dạy chúng con luôn biết chiếu ánh sáng của Chúa bằng việc tươi cười, ngay cả những lúc xem ra cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến cuộc sống, dù không phải lúc nào cuộc sống cũng màu hồng đáng yêu. Thực ra, chúng con luôn có nhiều lý do để lo âu chán nản và buông xuôi giữa chừng. Nhưng xin Chúa đừng để nụ cười bị tắt trên môi chúng con. Xin cho chúng con ý thức rằng: "Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn!". Ước gì chúng con luôn thấy mình thật hạnh phúc vì được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn mang niềm vui của Chúa, để làm cho gia đình, khu xóm, xí nghiệp hay trường học của con được tràn đầy niềm vui ơn cứu độ của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
57. Sám hối để biết mình và biết Chúa
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Trong tiến trình phát triển của con người, bình thường khi đã đến tuổi trưởng thành, chúng ta sẽ lựa chọn cho mình một định hướng làm động lực để chúng ta phấn đấu. Ước mơ đó có thể là bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo... và chúng ta đều hy vọng cho ước mơ đó được thành hiện thực, để cuộc đời tương lai có ý nghĩa hơn.
Hôm nay, thánh Mátthêu thuật lại cho chúng ta biết Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai, Ngài đã kêu gọi dân chúng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 4, 17); đồng thời Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ đầu tiên để huấn luyện và sai các ông ra đi loan báo về Triều Đại đó của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa hay Triều Đại của Ngài chính là mơ ước hay mục đích của mỗi chúng ta.
1. "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần"
Khi nói đến Nước Trời hay Triều Đại của Thiên Chúa, nhiều người cứ nghĩ đó là một nơi chốn được định vị rõ ràng, nhưng không phải vậy, đây là một tình trạng. Tình trạng đó là con người được hạnh phúc, bình an và tràn ngập yêu thương. Như vậy, cũng có thể chúng ta đã đạt được hay đang trên đường đi tìm kiếm. Dấu chỉ của những người đã đạt được chính là hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Khi có Chúa là nguồn hạnh phúc thì lúc ấy, chúng ta mới có “sổ đỏ”, và “hộ khẩu thường trú” để trở thành “công dân của Nước Trời” đúng nghĩa.
Tuy nhiên, để được nhận tấm thẻ căn cước, giấy thông hành để được Nước Trời thì điều kiện cần phải có, đó là “sám hối”.
Khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng và nói: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 4, 17), lời mời gọi này như một động lực thôi thúc mạnh mẽ hơn sứ điệp mà Gioan đã mời gọi trước đó. Điều này cũng có nghĩa là Thiên Chúa chấm dứt họat động của Gioan Tẩy Giả (ông bị bắt cầm tù). Sứ vụ của Đức Giêsu được gạnh nối từ Gioan. Nếu Gioan loan báo về Đấng Mêsia, Ngài là Cứu Chúa, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài đã chứng minh cho mọi người thấy, Ngài chính là Đấng mà Gioan đã loan báo. Gioan chỉ đóng vai trò giới thiệu, còn Đức Giêsu thì chính là nội dung của lời giới thiệu đó. Vì thế khi Gioan bị bắt và bị cầm tù, nhiệm vụ của ông đã xong, vai phụ phải lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện.
Tại sao, hai con người, nhưng cùng chung một sứ vụ và đều mời gọi dân chúng sám hối vì Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần?
Thưa, vì thái độ sám hối là điều kiện cần để được cứu độ, nên tự nó cho thấy tầm quan trọng của hành vi sám hối. Quan trọng là vì: sám hối để biết Chúa là chân lý, là ánh sáng, là lẽ sống, là sự thật. Sám hối cũng chính là ý thức mình cần đến Chúa, đi theo Chúa và chọn Chúa là lý tưởng, là mục đích tối hậu của cuộc đời. Qua hành vi sám hối, con người dễ nhận biết mình yếu đuối, bất toàn, mong manh và mỏng dòn. Ý thức được điều đó, nên một triết gia lỗi lạc là Socrate đã mở đầu triết thuyết của ông bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même).
Sám hối còn là để xác định đúng hướng và đi đúng đường, nhằm trách đi lạc và không đạt được mục tiêu. Triết gia Platon, đã nói: “Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không tới đích thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”. Thánh Augustinô khen những người như vậy là những người “bene currit, sed extra viam - chạy nhanh đấy nhưng lạc đường”.
Thật vậy, người xưa thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”. Sám hối chính là để biết mà được sống.
Sám hối cũng là điều kiện cần để ta lên đường đi tìm một cái gì đó tốt hơn, ý nghĩa và đảm bảo hơn. Nếu bốn môn đệ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay, các ông không có hy vọng, không khiêm tốn thì không thể nào ngay lập tức, bỏ cha, bỏ lưới để đi theo Đức Giêsu được.
Nếu có sám hối và tin vào Đức Giêsu thì mới dứt khoát và sẵn sàng ra đi để trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Có sám hối thì mới không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc để toàn tâm toàn ý lo những việc chính yếu của sứ mạng.
Thật vậy, nếu không sám hối thì chúa tể của con người chính là cái bụng! Chỉ lo tìm kiếm những sự trần tục nhằm thỏa mãn xác thịt, cuốn theo những khuynh hướng thấp hèn, sa đọa, nhục dục mà quên đi Hạnh Phúc Vĩnh Hằng, còn sám hối và ý thức được thân phận giới hạn của con người thì mới biết:“ái mộ những sự Trên Trời”.
2. Sống sứ điệp Lời Chúa
Linh mục nhạc sĩ Ân Đức đã sáng tác bài hát “Biết Chúa, biết con”, trong đó có đoạn viết như sau:
“Biết Chúa là Thiên Chúa độc nhất là Cha là Chúa trời đất.
Biết Chúa Vua muôn loài, biết Chúa thương con người.
Biết Chúa là tạo hóa là Đấng sinh thành nên con.
Biết con là tạo vật, một đời sống kiếp con người.
Biết con không là gì, chỉ là bụi cát mà thôi.
Biết con thân phàm hèn, mỏng giòn, muôn vàn yếu đuối.
Biết con bao tội tình để lòng xao xuyến khôn nguôi”.
Khi biết Chúa là Đấng yêu thương như vậy, thì còn đâu chuyện chia rẽ, ghen ghét, còn đâu chuyện tôi nhóm nọ, anh nhóm kia... bởi vì trong những yếu đuối, lỗi lầm của anh em, thì chính mình cũng đều mắc phải hết. Vì thế, chính mình cần phải sám hối trước và xây dựng tình hiệp nhất huynh đệ trong yêu thương. Thấy được bản chất của con người là hiếu thắng, nên trong cộng đoàn của ngài có những chuyện gây chia rẽ, nên thánh Phaolô đã nói: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau” (1Cr 1,10). Khi cùng chung nhau một lý tưởng, một mục đích thì đâu còn có chuyện: “Tôi thuộc về Phaolô, tôi về phe Apôlô, còn tôi về phe Phêrô, và tôi thuộc về phe Chúa Kitô. Vậy Chúa Kitô bị phân chia rồi sao?” (1Cr 1,12-13a). Và, thánh Phaolô khuyên họ hãy hướng về Đức Giêsu để tìm ra con đường của mình mà đi tới chứ không phải nơi người này hay người kia.
Vậy, điều trước tiên, sám hối là quay trở về với Chúa, lấy Chúa làm mục đích cho cuộc đời mình mà vươn tới. Sám hối cũng là để xin ơn tha thứ và từ bỏ con đường tội lỗi, là một động tác gột rửa tâm hồn, để sống cho hợp với ý Chúa, đem lại bình an nội tâm và liên đới với mọi người.
Thứ đến, sám hối là làm mới lại tinh thần, canh tân đời sống và thay đổi não trạng cũ để đổi lấy tâm tình mới. Sám hối còn là trở nên trong sạch từ ý nghĩ đến hành động. Sám hối để xây dựng tình hiệp nhất, bác ái và yêu thương.
Cuối cùng, sám hối còn là để gắn bó với Chúa, hầu sẵn sàng ra đi loan báo Triều Đại của Thiên Chúa, trở thành những người chinh phục lưới người như lưới cá.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đáp lại lời mời gọi của Chúa để sống tinh thần sám hối thật lòng, hầu có thể đón nhận Triều Đại của Thiên Chúa đến với chúng con cách trọn vẹn và sẵn sàng ra đi loan báo sứ mạng ấy cho mọi người. Amen.
MỒNG HAI TẾT CANH TÝ 2020. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ_lC 1,67-75
Chúa Nhật: Lc 1,67-75
+ Chúa Nhật 26/01/2020 – Mừng xuân với những liên hệ.
26/01 – Chúa Nhật 3 Thường Niên năm A.
MỒNG HAI TẾT CANH TÝ. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
"Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta".
Lời Chúa: Lc 1,67-75
Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ. trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa, như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta; để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".
1. Mừng xuân với những liên hệ (TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dịp Tết, ta thường gửi thiệp chúc Tết, thăm viếng và tặng quà cho nhau. Những sinh hoạt ngày Tết như thế là những sinh hoạt của các mối quan hệ. Nếu không có nhưng liên hệ, ngày Tết sẽ mất đi ý nghĩa của nó. Tết là của người khác chứ không phải của riêng mình. Vì thế, đối với trẻ em,Tết là những ngày hội vui. Nhưng đối với người trưởng thành, Tết là một trách nhiệm:
Người ta sống được ở đời là nhờ những liên hệ. Không ai có thể sống một mình. Ta cần có cha mẹ để mặt ở đời. Ta cần có thầy cô để khai thông trí hoá. Ta cần có bạn bè để chia sẻ buồn. Ta cần người nông dân để có lúa gạo, rau trái. Ta cần có thợ may để có quần áo. Ta cần người quét đường để đường phố được sạch sẽ. Có thể tất cả những gì ta có được: từ sự sống đến kiến thức, từ cơm ăn áo mặc đến xe cộ, thuốc men, tất cả đều nhờ người khác.
Những mối liên hệ giống như những con đường chuyên chở đến cho ta những chất liệu nuôi dưỡng cuộc sống. Những mối liên hệ là những mạch máu đem máu đỏ đến tận những tế bào bé nhỏ nhất trong thân thể ta. Những mối liên hệ chính là chiếc tay vịn giúp ta leo lên những bậc thang làm người và thành đạt.
Đời ta có nhiều liên hệ. Có những liên hệ chiều rộng giúp cho cuộc đời thêm tươi đẹp phong phú. Có những liên hệ chiều sâu tạo bản chất cuộc đời. Gia đình với ông bà cha mẹ tổ tiên nằm trong mối liên hệ chiều sâu của đời ta. Không có ông bà cha mẹ tổ tiên, ta không có mặt ở đời. Ông bà cha mẹ là những hạt giống chịu vùi chôn dưới những lớp đất vất vả nhọc nhằn để cho cây đời ta được mọc lên xanh tươi. Ông bà cha mẹ đã tư nguyện quên bản thân mình, chịu mục nát như lớp phân bón cho cây đời chúng ta đơm bông kết trái. Ta là điểm tới của một quá trình phấn đấu gian nan dài đằng đẵng của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời sống ta như một bông hoa thì những bông hoa ấy đã được tưới bằng những giọt mồ hôi và cả những giọt nước mắt của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời ta như một toà nhà cao tầng thì ông bà cha mẹ chính là lớp nền móng chịu vùi chôn dưới lòng đất, còng lưng gánh chịu mọi sức nặng cho toà nhà đứng vững, phô trương vẻ đẹp với đời. Hạt mầm hiện hữu vì bông hoa sắp nở. Nền móng có mặt vì ngôi nhà sắp xây. Trọn một đời ông bà cha mẹ đều dành cho hạnh phúc của con cháu.
Đời sống mỗi người, vì thế, đều có một lịch sử rất dầy và rất sâu. Bề dầy ấy không chỉ đo bằng những trang sách của cuốn gia phả, nhưng còn đo bằng những tranh đời của bao thế hệ tổ tiên. Độ sâu ấy không chỉ đo bằng những cố gắng của bản thân, mà còn đo bằng bề sâu ân nghĩa của biết bao hi sinh vất vả của ông bà cha mẹ.
Ngày Tết là ngày của những mối liên hệ. Mùng Một Tết, chúng ta đã sống mối liên hệ với Chúa, nguồn gốc và cứu cánh của đời ta. Mùng hai Tết, Giáo hội muốn chúng ta sống mối liên hệ với ông bà cha mẹ, những người thay mặt Chúa, trực tiếp ban sự sống cho ta.
Sự sống là món quà nhất nên mối liên hệ với người ban sự sống cũng là mối liên hệ sâu nhất.
Tục lệ lập bàn thờ và kính nhớ tổ tiên trong ngày Tết là một nét văn hoá rất cao của người Việt Nam. Hình ảnh của ông bà cha mẹ trong nhà không chỉ nói lên sự sum họp của một gia đình đầm ấm, hình ảnh ấy còn nhắc ta về lòng biết ơn, cho ta nhìn thấy bề sâu bề dầy của lịch sử đời mình. Và vì thế giúp ta ý thức về trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đối với bản thân, và đối với những thế hệ kế tiếp.
Muốn xây một căn nhà thật cao thật đẹp, trước hết phải xây dựng nền móng vững chắc. Muốn xã hội tiến nhanh tiến mạnh, phải xây dựng gia đình vững chắc. Thờ kính tổ tiên, nhớ ông bà cha mẹ là nền tảng giúp xã hội tiến bộ vững mạnh.
Nếu những mối liên hệ là những con đường chuyển tải sự sống thì những liên hệ chiều sâu chính là những xa lộ huyết mạch. Nếu những mối liên hệ là những mạch máu nuôi dưỡng sự sống thì mối liên hệ chiều sâu chính là những động mạch chủ. Sửa chữa, củng cố và tăng cường những liên hệ gia đình chính là phát triển sự sống, phát triển xã hội.
Chính trong ý hướng đó mà Giáo hội, muốn ta sống tình gia đình, lòng biết ơn ông bà cha mẹ trong ngày mùng Hai Tết.
2. Lòng hiếu thảo với tiên nhân (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Sách khải huyền có viết: ”Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi” (Kh 14, 13). Lời Kinh thánh giúp ta hiểu rõ của những người đi trước đã nhắm mắt lìa đời trong ân nghĩa Chúa. Niềm tin Kitô giáo dậy nhân loại, dậy mỗi người Kitô hữu rằng bổn phận của người còn sống có bổn phận và nghĩa vụ đối với những người đã khuất, đặc biệt đối với các bậc tiền nhân, tiên tổ, ông bà, cha mẹ. Đây cũng là điều răn thứ bốn trong mười thập giới của Đạo công giáo. Riêng đối với người Việt Nam vấn đề đạo hiếu có một tầm quan trọng đối với cá nhân, gia đình và họ hàng thân tộc.
NGƯỜI VIỆT NAM MANG NẶNG CHỮ HIẾU:
Đối với người Việt Nam chữ hiếu luôn đứng đầu trong mọi đức tính sẵn có của con người. Người Việt Nam vốn lấy đạo đức làm căn ban cho cuộc sống, cho bản thân, cho gia đình và cho dòng tộc của mình. Con cái thảo hiếu với cha mẹ lúc còn sống, khi cha mẹ đã khuất, người con hiếu thảo là người con luôn tưởng nhớ tới cha mẹ bằng việc cầu nguyện, xin lễ cho những người thân đã mất. Người Việt thường có bàn thờ gia tiên để tôn kính tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời. Sự hiếu thảo của con cái được thể hiện bằng nhiều cách như khi cha mẹ còn sống, con cái kính trọng, nuôi dưỡng, vâng phục cha mẹ và khi các vị đã mất, con cái cháu chắt lại tưởng nhớ tới các bậc tiền nhân trong những ngày giỗ, ngày kỵ, này tết nơi gia đình, nơi dòng tộc của mình. Người Việt Nam cũng không chỉ đóng khung trong gia tộc, gia đình mà họ còn đi xa hơn biết ơn cả đối với những người đã hy sinh để xây dựng quê hương, bảo vệ đất nước.
Tấm lòng tốt, sự biết ơn là một nét độc đáo trong nền văn hóa và đạo đức của người Việt Nam. Chính vì thế, người Kitô hữu Việt Nam đã cảm nghiệm sâu xa giới luật thứ bốn của đạo công giáo và hài hòa với truyền thống tôn kính, tưởng nhớ, ghi ơn những người đã có công với đất nước, quê hương, dân tộc.
NIỀM TIN KITÔ GIÁO:
Người Kitô hữu thể hiện chữ hiếu Kitô giáo bằng nhiều cách:khi cha mẹ còn sống, con cái chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, khi cha mẹ đã khuất lòng hiếu thảo được thể hiện bằng việc cầu nguyện, dâng lễ, làm việc lành dành riêng cho cha mẹ đã qua đời. Việc chăm sóc mồ mả, nhớ ngày giỗ, ngày kỵ, hương nhang, nến đèn cho người chết cũng là một cách biểu tỏ lòng biết ơn đối với những kẻ đã khuất, đã chết. Xưa có quan niệm theo Chúa, theo đạo công giáo là bỏ tổ tiên, bỏ ông bà cha mẹ, quan niệm ấy đã lỗi thời vì xưa kia đã có ngộ nhận như thế. Nay, người công giáo là người nhận mọi người là anh em. Theo Chúa, theo đạo, người Kitô hữu như được dọn trước để mở rộng vòng tay đón nhận mọi người. Người Kitô hữu không chỉ đóng khung trong gia đình, gia tộc, họ hàng của mình mà họ còn có nhiều tổ tiên, ông bà, cha mẹ vì đạo Chúa bao gồm tất cả mọi người không loại trừ bất cứ ai. Trong tình yêu của Chúa mọi người đều là anh em với nhau. Đức ái Kitô giáo không phân biệt, không loại trừ bất cứ người nào.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội Việt Nam dành ngày này để kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ, đây là một việc làm thật đáng trân trọng và hữu ích vì trong những ngày tết, mọi người đều vui vẻ, hạnh phúc sum vầy, êm ấm để ăn tết, tưởng nhớ, dâng lễ và cầu nguyện cho những bậc tiền nhân là một nghĩa cử cao đẹp và là một nhắc nhớ cho mọi người hãy sống hiếu thảo, hãy thực hành giới luật thứ bốn của thập giới Kitô giáo. Sống đạo hiếu là nét son văn hóa và nét nổi bật đức tin của người Kitô hữu Việt Nam.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa dậy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay, nhân dịp đầu năm mới, chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
3. Sống thảo hiếu (Lm. Tạ Duy Tuyền)
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng sum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành.
Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.
Khi nhận ra công cha nghĩa mẹ, thì đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta:
“Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”
Thế nên,
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm
Lòng hiếu thảo quả là một tấm lòng thơm tho, đáng yêu. Lòng hiếu thảo làm cho con người thêm thanh cao, giá trị. Bởi được người đời kính trọng, yêu thương những ai có hiếu với mẹ cha.
Thế nhưng, giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn nơi các bậc cha mẹ vì thiếu tình thương của con. Ở đâu đó, trong nhiều mái gia đình, ông bà cha mẹ lại là gánh nặng cho con cái. Ở đâu đó, vẫn còn những tiếng nghẹn ngào của những bậc sinh thành bị bỏ rơi ngay giữa đàn con cháu của mình.
Thiết tưởng, ngày đầu xuân chúng ta cùng lắng đọng tâm hồn để nghe lời bộc bạch chân thành từ lá thư của một người cha viết cho con.
Lá thư ấy viết rằng:
Con thân mến,
Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu giùm cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vun vãi… Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc… Xin con hãy bao dung!
Con hãy nhớ những ngày giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.
Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ… mà hãy lắng nghe!
Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ… và bố mẹ đã làm vì con.
Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.
Con hãy nhớ… lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.
Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa… hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời.
Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng… bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.
Con đừng oán giận và buồn khổ… vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.
Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều…
Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.
Thương con thật nhiều
Là người Ki-Tô, chúng ta cũng được mời gọi sống giới răn: “hãy thảo hiếu cha mẹ”. Đây là lệnh truyền chứ không phải lời khuyên. Lời khuyên thì có thể không làm nhưng lệnh truyền thì buộc phải thi hành.
“Phải thờ cha kính mẹ” còn là lễ dâng đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại, Kinh Thánh còn ví kẻ khinh rẻ cha mẹ là chọc giận Thiên Chúa: ”Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai khinh rẻ mẹ, là chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3, 16). “Phải thờ cha kính mẹ” đó là điều răn duy nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
“Phải thờ cha kính mẹ” còn phải được thể hiện qua những lời khuyên nhủ thật chân tình trong sách Huấn Ca: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dễ người” (Hc 3, 12-16).
Người ta nói: ”Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Việc thất đức mình làm cho tiền nhân cũng có thể tái diễn ngay chính cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta không muốn con bất hiếu với mình thì chính chúng ta hôm nay cũng phài làm gương sáng về hiếu thuận với mẹ cha. Nếu chúng ta muốn con cái đối xử tốt với mình thì hôm nay chúng ta cũng phải ân cần săn sóc mẹ cha.
Nguyện xin Chúa Xuân chúc lành cho buổi họp mặt gia đình hôm nay. Xin Chúa Xuân cư ngụ đến từng gia đình, mang ơn lành đến cho muôn nhà để mọi người được hưởng nếm những giây phút bình yên nhất bên gia đình và người thân. Amen
4. Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên – Lm Đinh Lập Liễm
I. Ý NGHĨA BA NGÀY TẾT
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng xum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc tiền bối.
Giáo hội Việt nam cùng đồng hành với dân tộc cũng muốn đề cao ba ngày Tết để giúp giáo dân thánh hóa ngày Tết với ý chỉ:
* Mùng một : cầu bình an cho năm mới.
* Mùng hai: kính nhớ ông bà tổ tiên.
* Mùng ba: thánh hoá công việc làm ăn.
Hôm nay mùng hai Tết, Giáo hội muốn cho giáo dân tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên bằng cách dâng thánh lễ đặc biệt để cầu cho các ngài còn sống hay đã qua đời, tuy đã khuất nhưng còn luôn ở bên cạnh chúng ta.
II. ĐẠO HIẾU CỦA TA
1. Luật của Chúa.
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.
2. Chữ hiếu của người Á đông.
a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.
b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biết để nhớ đến ông bà tổ tiên.
c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao qúi đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.
3. Sự tử như sự sinh.
Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.
Truyện: Đôi đũa thứ năm.
Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát. Cha Piô Ngô Phúc Hậu ngạc nhiên hỏi: ”Bát đũa này dành cho ai”? Bác trả lời: ”Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.
III. Ý NGHĨA NGÀY MÙNG HAI TẾT
Giáo Hội Việt nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao qúi. Vì thế, Giáo hội Việt nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì
Người ta có cố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn. (ca dao)
Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai đuợc quên công ơn lớn lao đó:
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (ca dao)
Truyện: Con kiện mẹ.
Tại bang New Jersey bên Hoa kỳ, một bà mẹ 78 tuổi bị đứa con trai kiện vì bà không trả tiền công cho chàng đã sửa chiếc xe vận tải của bà.
Bà đã đệ đơn tố ngược lại con mình, với đề nghị là chàng phải bị đánh đòn vì lúc chàng còn nhỏ, bà đã không áp dụng câu: ”Thương con cho roi cho vọt”.
Trả lời đơn người con trai kiện mình, bà đã viết: ”Nguyên cáo mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một người mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, một nhà tâm lý để cố vấn khuyên bảo… Tất cả những dịch vụ trên nguyên cáo đã không trả tiền công cho bị cáo”.
Bà mẹ viết tiếp: ”Như một người mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh con tôi, những roi vọt cần thiết cho nó mà tôi đã không dành cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con, thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”. (R. D. Warhreit, Ánh sáng hy vọng, tr 226)
Ngược lại câu truyện cười ra nước mắt trên đây, một PHONG TRÀO vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn:”Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:
Phúc cho anh chị khi hiểu rằng tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.
Phúc cho anh chị khi nhớ rằng tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu: ”Trẻ khôn ra, già lú lại”.
Phúc cho anh chị nếu biết rằng mắt tôi không còn sáng được như xưa.
Phúc cho anh chị nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.
Phúc cho anh chị nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.
Phúc cho anh chị nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.
Phúc cho anh chị nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.
Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.
KẾT LUẬN
Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.
Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên
1. Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.
2. Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn: ”Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng. (Ca dao)
5. Hiếu kính Cha Mẹ
Có một chàng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó, anh đã nói với cha về ước muốn có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghiệp.
Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.
Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó, ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.
Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…
Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.
Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…
Trong cuộc sống của chúng ta, không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi, nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.
Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành, là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta, khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh, đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi…
Ngày Tết là dịp để chúng ta về đoàn tụ bên các đấng sinh thành để xin lỗi, để cầu chúc các đấng an khang trường thọ.
Ngày Tết là dịp để con cái nhìn nhận tình thương của cha mẹ là tình thương không thể thiếu cho con bước đi trong cuộc đời.
Dầu rằng, Tình Cha, Tình Mẹ có khác nhau nhưng nhờ Ơn Cha, nhờ Nghĩa Mẹ mà con cái mới đứng vững trước những sóng gió cuộc đời.
Thực vậy, tình cảm của người cha không bao giờ như người mẹ.
Tình thương của cha luôn giấu kín trong lòng, đôi khi còn tỏ ra nghiêm nghị, cứng rằn mỗi khi dạy con. Cha giống như một thân cây vững chắc, bám rễ thật sâu dưới lòng đất để hút nhựa nuôi dưỡng cành lá, hoa, quả.
Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ mềm lòng, cha phải giữ kỷ cương, mẹ chín bỏ làm người, cha phải cầm cân nảy mực. Cuộc sống đòi buộc cha lăn lộn với đời để kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình.
Cha thường xuyên phải xa gia đình, xa con cái, nên tình cảm đôi khi cũng lạt hơn mẹ.
Cha còn thẳng tay trừng phạt những đứa con thiếu ý chí vươn lên, lười biếng, vô dụng.
Cha luôn đòi đứa con phải tự bước đi trên đôi chân của mình, cho dù có té ngã, vẫn phải một mình đứng dậy. Đó chính là một tình thương mà chỉ có người cha mới rèn nên cho con tính đoan trang, tính mực thước và nghị lực khi bước vào đời vốn dĩ luôn ngập tràn những khó khăn.
Nhưng đáng tiếc, chỉ khi nào mất cha, người con mới cảm thấy mất núi Thái Sơn, mất đi cái nóc cột trụ gia đình.
Mất cha, người con mới ngậm ngùi nói rằng:
Còn cha, gót đỏ như son
Mất cha, gót mẹ, gót con đen sì.
Hay:
Thương cha lam lũ một đời,
Tìm trong xa vắng những lời xa xưa.
Bồng bềnh gió đẩy mây đưa,
Bơ vơ con đứng, bóng mưa ngập lòng. (Nguyễn Ánh Hồng)
Vâng, đời của những người làm con sẽ trở nên trống vắng lạc lõng vô cùng nếu như một ngày kia cha mẹ vĩnh viễn ra đi, bỏ lại thân xác trong nấm mồ cô đơn lạnh lẽo. Lúc đó, lòng con lại dâng trào một nỗi buồn mênh mông sâu lắng:
Thấy bơ vơ lạc lõng dấy trong lòng
Khi chợt nhớ mẹ già không còn nữa.
Bởi vì:
Mẹ ơi, trên vạn nẻo đường
Con đi, mới hiểu tình thương mẹ hiền.
Đời con xuôi ngược bao miền
Nhưng tình của mẹ là nguồn yêu thương.
Bởi thế, đạo làm con luôn mời gọi chúng ta hãy thờ cha kính mẹ, để mai này, chúng ta khỏi phải xót xa mà nói rằng:
Tình thương xuôi chảy một miền
Nhưng con nào biết giữ niềm kính yêu
Con nay hầu mẹ tuổi chiều
Nuôi cha dưỡng mẹ, ít nhiều kể công.
Và với lòng hiếu kính đang trào dâng trong ngày Mồng Hai Tết, có lẽ ai trong chúng ta cũng thầm mong ước cho cha mẹ mãi mãi ở cùng chúng ta:
“Ngày đêm khấn nguyện cầu Trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
Cầu cho cha mẹ sống đời với con, đó là tâm nguyện của tất cả những người con dành cho cha mẹ. Bởi lẽ không có một tình con người nào sâu đậm, gắn bó, chân thành bằng tình cha mẹ yêu con, và càng không có một tình yêu nào trên trái đất này có thể thay thể được tình phụ mẫu yêu con, mà bài cầu cho cha mẹ của Linh mục Nguyễn Duy đã lột tả.
“Này chúng con sinh vào đời nhờ có tay của mẹ cha. Là Thái Sơn cao xa cao xa, là Biển Đông bao la bao la, như một rừng hoa ngát hương cả bốn mùa. Ôi tình mẹ cha nói lên tình Chúa. Đời chúng con yên vui hân hoan, nhờ mẹ cha gian nan lo toan, trong giọt mồ hôi có chung cả máu hồng, luôn dạy lòng con biết câu mặn nồng.
Rồi lớn lên, con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương. Dù có ai hy sinh cho con. Dù được ai cho mâm cơm ngon, đi gần về xa, thấy đâu một mái nhà, như nhà mẹ cha thiết tha từ ấy. Rồi lớn lên, con xây non cao, vượt biển khơi bay lên trăng sao. Khi về nhà xưa với cha và với mẹ, vẫn là trẻ thơ bé như ngày nào”
Vâng, lời ca như muốn mời gọi chúng ta hãy sống trọn tình con thảo ngay từ hôm nay. Hãy sống ngoan hiền bên những người cha mẹ đang còn trẻ để hưởng nếm giây phút ngọt ngào mà ai đó nói rằng: là chùm khế ngọt cho con trèo hái mỗi ngày.
Hãy sống thảo hiếu, quan tâm chăm sóc các đấng sinh thành khi đã còng lưng vì một đời lam lũ cho đoàn con.
Vâng, hãy tạ ơn Chúa đi, hãy sống cho trọn vẹn đạo làm con, trọn nghĩa tình với cha mẹ mình, vì cha mẹ là món quà thiêng liêng và quí giá nhất, tình cha mẹ là cái gì rất cao siêu lành thánh, mà lại thật thân mật gần gũi, được Chúa dành cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa chúc lành và trả công cho các bậc sinh thành và ước gì những ngừơi con hôm nay đang vinh dự được chúc mừng tuổi mới của cha mẹ, thì cũng biết sống hiếu thảo để đền đáp ân nghĩa cù lao chín chữ mà cha ông ta đã từng khuyên răn rằng:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.
Amen.
+++++++++
Note: Chín chữ cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sanh dưỡng con cái.
Chín chữ cù lao gồm:
1. Sinh: Sanh đẻ.
2. Cúc: Nâng đỡ.
3. Dục: Dạy dỗ.
4. Phủ: Vuốt ve triều mến.
5. Xúc: Cho bú sữa.
6. Trưởng: Nuôi cho khôn lớn.
7. Cố: Trông nom.
8. Phục: Ôm ấp.
9. Phúc: Bảo vệ.
6. Hiếu kính cha mẹ (Lm Giuse Đinh lập Liễm)
Hôm nay Mồng Hai Tết Kỷ Sửu. Hội thánh Việt nam muốn dùng ngày này cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà cha mẹ với mục đích nhắc nhở và khuyến khích con cháu hãy tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Nhân ngày đầu năm, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về giới răn thứ bốn của Chúa và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, nhất là trong dịp đầu năm này.
I. LỜI CHÚA DẠY.
1. Điều răn thứ bốn.
Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.
Vậy hiếu kính cha mẹ là gì? Theo giáo lý Công giáo, hiếu kính cha mẹ là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (Theo cuốn Giáo lý Tân định). Hôm nay Giáo hội Việt nam muốn chúng ta hãy tỏ lòng hiếu kính đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ trong cuộc sống, nhất là trong dịp Tết nguyên đán này.
2. Sách Huấn ca dạy.
Sách Huấn ca đã đề cập đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Theo tác giả# Ben Sira, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đem lại nhiều lợi ích:
– Được đền bù tội lỗi.
– Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại.
– Sẽ được Chúa nhận lời.
3. Gương Chúa Giêsu.
Thánh Luca cho chúng ta biết Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về lòng hiếu thảo đối với thánh Giuse và Đức Maria tại Nazareth, mặc dù chỉ bằng một câu rất vắn tắt:”Rồi Ngài theo cha mẹ trở về Nazareth và vâng lời các Ngài”(Lc 2, 51)
4. Lời khuyên của thánh Phaolô.
Trong thư gửi cho tín hữu Eâphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo con cái:”Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”(Ep 6, 1-3).
II. CHỮ HIẾU NGÀY XƯA.
Theo truyền thống Đông phương, chữ Hiếu được đề cao trong đời sống gia đình và ngoài xã hội, vì xã hội này chịu ảnh hưởng sâu xa nền luân lý Khổng Mạnh. Đức Khổng Tử đã dạy môn sinh của mình phải phụng dưỡng cha mẹ, quạt nồng ấp lạnh, tối sớm chăm nom:
Tử viết:”Phụ mẫu tại bất viễn du,
Du tất hữu phương”.
Đức Khổng Tử nói: cha mẹ còn sống không nên đi chơi xa, và đi đâu thì phải cho biết có nơi có chốn.
Ngài còn đặt ra nhiều phong tục rất tỉ mỉ và phiền toái để tỏ lòng hiếu với cha me như việc ma chay, tang chế, kiêng kỵ… Ngày nay nhiều điều không còn phù hợp nữa.
Theo tục lệ ngày Tết, con cháu dù ở nơi xa xôi cũng phải về họp mặt cùng ông bà cha mẹ vì ngày này được coi là linh thiêng. Ai vắng mặt không có lý do chính đáng bị coi như là bất hiếu.
III. CHỮ HIẾU NGÀY NAY.
Xưa nay, chữ Hiếu rất quan trọng đối với người Việt nam. Theo học thuyết Khổng Mạnh, chữ Hiếu là nhân đức làm đầu của đạo con cái. Và trong các tội phạm đến cha mẹ thì bất hiếu là tội lớn nhất. Người Việt nam đã tôn phong chữ Hiếu lên thật cao, thành một đạo khi người ta nói:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ Hiếu mới là ĐẠO CON.
Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đạo làm con. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tùy tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một ĐẠO. Mà lỗi đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một sự sơ sót.
Theo điều răn thứ bốn thì con cái phải thảo hiếu cha mẹ, nhưng ngày nay người ta coi thường điều răn này, có người cho là lỗi thời trong thời đại tiến bộ, văn minh và dân chủ này. Con cái đến tuổi khôn là đã muốn sống độc lập đối với cha mẹ, không cần sự hướng dẫn bảo ban của các ngài. Người ta quên rằng:
“Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” (Tục ngữ)
Cha mẹ có tuổi thì già yếu thật, nhưng kinh nghiệm và khôn ngoan thì nhiều hơn tuổi trẻ. Vì thế người ta mới nói:
“Người 70 còn phải học người 71″(Tục ngữ)
Ngày nay, cha mẹ già trở nên gánh nặng cho con cái, không muốn nuôi dưỡng cha mẹ trong tuổi già. Để bớt gánh nặng, con cái chỉ việc gửi cha mẹ đến viện dưỡng lão, nếu tốt thì ít lâu gửi cho một số tiền, hay một món quà. Do đó, cha mẹ phải sống cô đơn. Thực ra cha mẹ cần tình thương hơn là tiền bạc, sự viếng thăm cần hơn của cải.
Công ơn cha mẹ như trời như bể,
Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.
Truyện: Tờ hóa đơn.
Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặt, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiền nhiều ít tùy theo công việc nặng nhẹ.
Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ đau liệt giường. Thế là em nhỏ phải giúp mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi những công tác chưa được nhận tiền thưởng gồm: xách nước 2 đồng, nấu cơm 3 đồng, giặt quần áo 5 đồng… Tất cả các thứ tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng. Xong, em rón rén bước vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay bà mẹ.
Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em bé 80 đồng kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau bệnh… x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán cả. !
Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội chạy vào xin lỗi mẹ.
Lại còn cách xưng hô với cha mẹ!
“Cha mẹ” hai từ ấy linh thiêng và cao quí dường nào. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta cố ý hay vô tình quên đi ý nghĩa cao quí đó. Không ít bạn đã gọi các bậc sinh thành của mình bằng từ “ông già, bà già, ổng, bả”… thậm chí còn có bạn gọi là “ông bô, bà bô”.
Phần lớn những ngôn từ này thường phát ra từ miệng của phái nam. Tuy nhiên ở nữ cũng không kém. Chúng ta hãy nghe một bạn nữ nói:”Ông già mình chịu khó lắm. Suốt đời chỉ lo cho mình ăn học không à”! Nghe xong, thấy có điều chẳng xuôi. Có cái gì đó mâu thuẫn giữa lời nói và tấm lòng của người con ấy.
Thật tội nghiệp! Nếu cha mẹ còn trẻ măng đã bị “lão hóa” bởi chính cái miệng của đứa con mình rứt ruột sinh ra.
IV. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA.
Truyền thống của cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em theo tinh thần “Hiếu đễ”. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu. (Ca dao)
Mặt khác, đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy, việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi người Kitô hữu.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã lặp lại giới răn này và khẳng định đó chính là ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa và con người không có quyền thay đổi, Ngài nói:”Thiên Chúa dạy:”Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”.
Truyện: Ý kiến của tù trưởng.
Trong quyển tiểu thuyết nhan đề “Cội rễ”, tác giả E. Heili viết như sau:
Ở một bô lạc bên Phi châu, người thanh niên khi đến tuổi trưởng thành sẽ được gọi là “chiến sĩ”. Tuy nhiên, muốn được mang danh hiệu này, anh phải trải qua một cuộc sát hạch, thường là thả vào rừng sâu một thời gian.
Năm ấy, có ba thanh niên đến tuổi trưởng thành và rất muốn được gọi là “chiến sĩ”. Ba chàng đã đến trình diện vị tù trưởng. Vị tù trưởng chúc mừng và hỏi người thứ nhất: ”Trong một tháng qua, anh đã làm được những gì”? Người thanh niên thưa: ”Tôi đã giết được một con hổ dữ”.
Tù trưởng khen “tốt” rồi bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ hai: ”Trong tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có giết được con hổ dữ nào không”? Người thanh niên đáp: ”Thưa ngài, hổ dữ thì tôi không giết được, nhưng tôi cũng đã chém được một con trăn to”.
Tù trưởng khen “tốt”, bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ ba: ”Một tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có chém được một con hổ dữ hay một con trăn nào không”? Người thanh niên đáp: ”Thưa ngài, hổ hay trăn thì tôi không chém được”. Tù trưởng hỏi tiếp: ”Thế anh làm được gì”? Anh đáp: ”Thưa tôi kiếm được một tảng mật ong to”. Tù trưởng hỏi: ”Ngươi kiếm mật ong để làm gì”? Người thanh niên đáp: ”Thưa ngài, tôi có mẹ già, mà nhà tôi lại nghèo, nên tôi kiếm mật ong để cho mẹ tôi bồi dưỡng”.
Nghe xong, vị tù trưởng rút con dao ra trao cho anh và nói: ”Ta phong anh làm chiến sĩ, bởi là người thì phải biết sống hiếu thảo với cha mẹ”.
Hôm nay Giáo hội Việt nam kính nhớ ông bà tổ tiên nhân dịp đầu năm. Kính nhớ các tiền nhân chính là thể hiện tinh thần đạo hiếu của dân tộc Việt nam “Uống nước nhớ nguồn”, “Aên quả nhớ kẻ trồng cây”. Các ngài đã tận tụy nuôi dưỡng, giáo dục chúng ta nên người, đặc biệt là giúp chúng ta biết Chúa là Đấng đáng tôn thờ và yêu mến. Công ơn của tổ tiên ông bà cha mẹ đòi hỏi chúng ta phải báo hiếu bằng cách cầu nguyện cho các ngài trong ngày đầu Xu6n này, đồng thời tiếp tục những gì các ngài đã làm: hãy tận tâm săn sóc dạy dỗ con cháu chúng ta nên người
Để khích lệ chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại một câu rất hay trong sách Huấn ca:”Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”.
7. Xuân Đẹp Ngời Đạo Hiếu (Mt 15, 1-6) (J. B. Nguyễn Quốc Tuấn)
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
“Biển cả mênh mông đong sao đầy tình mẹ
Gió trời lồng lộng ngăn không nổi công cha” (Danh ngôn đạo đức)
Đạo hiếu, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nó được thể hiện rõ nét trong mỗi dịp Tết cổ truyền. Những ngày vui tươi đầu xuân cũng là thời điểm thuận tiện để con cháu bày tỏ lòng biết ơn, hiếu kính đối với các đấng bậc đã có công sinh thành dưỡng dục mình cả về thể lý và tâm linh. Người Kitô hữu ý thức Đạo hiếu mang một chiều kích sâu xa hơn trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại và giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn chữ Hiếu cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
1. Đạo hiếu theo Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội
Tiếp sau bổn phận của con người đối với Thiên Chúa được nêu lên trong Thập giới (mười điều răn), Kinh Thánh đã coi thái độ hiếu thảo với cha mẹ là nền tảng thứ nhất và quan trọng nhất trong những tương quan giữa con người với con người (Is 49, 15; 63, 16…).
“Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
Đạo hiếu đối với bề trên được khởi đi từ việc thấu hiểu và đáp trả xứng hợp công ơn của các ngài là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa ở dưới thế, đã hy sinh, nâng đỡ ta trên đường trọn lành. “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con” (Hc 7, 27-28). “Hỡi những người con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20).
Biểu lộ của lòng hiếu thảo thể hiện qua sự chú tâm lắng nghe lời chỉ bảo của cha mẹ trong sự vâng phục, khiêm kính. “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn hụ của cha, và đừng ruồng rẫy giáo huấn của mẹ… Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm, và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con” (Cn 6, 20-22). “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách” (Cn 13, 1).
Lòng hiếu thảo là một hành vi nhân linh đặc biệt quan trọng có giá trị kiện toàn bản thân ta nên công chính thánh thiện hơn mỗi ngày. “…Vì của dâng cho cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi…” (Hc 3, 14-15).
Tân ước đề cao Đạo hiếu qua mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã chu toàn trọn hảo bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt ba mươi năm sống cùng Thánh Gia (Lc 2, 51-52). Trong thời gian thi hành sứ vụ, lòng hiếu thảo được Ngài đề cập như một trong những chuẩn mực nền tảng của luật Thiên Chúa. “Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử”.
Thư 1Tm 5, 8 xác quyết bổn phận sống đạo hiếu là đòi buộc của đức tin: “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1Tm 5, 8).
Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (MV, số 48).
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nêu lên vai trò của cha mẹ và bổn phận đáp trả của chúng ta: “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa” (GLHTCG, số 2197).
2. Niềm vui chưa trọn vẹn
Trong ngày đầu xuân, thật hạnh phúc khi chúng ta được đoàn tụ trong bầu khí yêu thương của gia tộc để bày tỏ đạo hiếu với tổ tiên. Nhưng niềm vui của chúng ta chưa thể trọn vẹn được, khi vẫn còn đó bao cụ già neo đơn, bao bậc làm cha, làm mẹ phải đau xót khốn cùng vì bị con cái hắt hủi, bỏ rơi giữa ngày đời tàn hơi, xế bóng…
Chúng ta vui sao được trước thực trạng xã hội, trong đó, một bộ phận đông đảo những người trẻ đang chạy theo lối sống tự do mất định hướng, cố tình ngoảnh mặt trước các chuẩn mực truyền thống và quan niệm sự vâng phục các đấng bậc sinh thành như một thứ bó buộc tiêu cực đối với họ.
Nếp sống đề cao tính cố kết gia tộc trong bản sắc văn hóa của các làng xã Việt Nam dường như đang bị phai nhạt dần. Các cặp vợ chồng trẻ mới thành hôn có xu hướng thích “ra riêng” (gia đình độc lập) hầu có thể thoát ra ngoài “chiếc vòng kim cô” của đại gia đình nhiều thế hệ. Điều này đang có nguy cơ dẫn tới việc các thế hệ sau ngày càng có biểu hiện xem nhẹ vai trò của những người đi trước. Và hậu quả là, họ cố tình “bỏ ngoài tai” những giáo huấn vốn được kết tinh từ kinh nghiệm sống của ông bà, cha mẹ, thầy cô.
Ngày Tết là thời điểm thật thuận tiện để những người con, người cháu cháu chúng ta tự vấn lại bổn phận và thái độ sống cần thiết đối với các bậc tiền nhân. Năm cũ qua đi, có biết bao lần ta đã làm phiền lòng những người đã phải vật lộn một nắng hai sương, lam lũ giữa dòng đời cay đắy với bao nhiêu mồ hôi nước mắt chỉ vì mong muốn, dìu dắt ta nên người. Biết bao lần ta đã vi phạm trầm trọng chuẩn mực đạo hiếu chỉ vì muốn được tự do sống theo ý riêng mình…
Năm mới, ta hãy sống sao cho đẹp Chữ Hiếu.
3. Sống đẹp Chữ Hiếu
Nhiều giáo xứ đang phát huy truyền thống tốt đẹp, đó là tổ chức long trọng thánh lễ kính nhớ tổ tiên tại nghĩa trang giáo xứ vào ngày Mồng Hai Tết. Trong ngày này, con cháu, dâu rể… dù ở phương xa phải bận bịu trăm công nghìn việc, vẫn cố gắng sắp xếp quy tụ về bên phần mộ gia tộc, cùng nhau thắp lên nén hương lòng kính hiếu và chung lời nguyện xin cho người quá cố được sớm an nghỉ trong Chúa. Thật là nghĩa cử đẹp đẽ, nói lên Đức ái Kitô giáo được biểu lộ qua đạo hiếu.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm sẽ cháy mãi và bừng lên nơi tâm hồn của những người con hiền, cháu thảo như một lời tri ân đáp trả nồng nhiệt công ơn của các đấng bậc đã sinh thành, dưỡng dục ta.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm cho tổ tiên sẽ lan tỏa trong đời bạn, đời tôi để chúng ta luôn sống xứng với truyền thống Đức tin rạng ngời của tiền nhân.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
Ước mong nén hương lòng đầu năm trước người quá cố đang và sẽ thức tỉnh những ai có biểu hiện xem thường chuẩn mực đạo hiếu.
Và nguyện ước cho nén hương lòng đầu năm trước tổ tiên là tất cả tâm thành của ta hướng về Chúa, cảm tạ Ngài đã ban cho ta có được tổ tiên ông bà cha mẹ. Nhờ sống trọn, sống đẹp Đạo Hiếu, chúng ta góp phần tôn vinh Thiên Chúa, tôn vinh Đạo Trời.
8. Thảo kính cha mẹ (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Mỗi năm vào ngày mồng hai tết, Giáo Hội luôn dành một ngày để con cái cháu chắt có dịp báo hiếu tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, Giáo Hội giúp mỗi người còn được diễm phúc sống dưới trần gian này hiểu được thế nào là công lao của ông bà tổ tiên. Có tổ tiên, có ông bà mới có cha mẹ rồi mới có chúng ta: đây là một điều hiển nhiên ai cũng phải hiểu và cảm nghiệm một cách sâu sắc công ơn trời biển của tổ tiên ông bà, của cha mẹ vv…” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra “, ca dao Việt Nam quả có lý khi đề cập tới nghĩa vụ của con cái đối với mẹ cha. Do đó, hôm nay, mọi người dâng thánh lễ này cầu nguyện cho các bậc sinh thành rất hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam chúng ta, đồng thời cũng rất thực tế với dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu.
CUỘC TRANH LUẬN GIỮA CÁC NGƯỜI PHARISÊU, CÁC KINH SƯ VÀ CHÚA GIÊSU: Trong đoạn Tin Mừng thánh Matthêu xoay quanh cuộc tranh luận của Đức Giêsu với các người Pharisêu, các Kinh sư về bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Đối với các người Pharisêu, các kinh sư họ cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là vừa đủ rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Người Pharisêu và Kinh sư giới hạn bổn phận con cái dựa trên hoàn toàn vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho nghĩa vụ đạo đức. Đối với Đức Giêsu, Ngài nhắc nhở cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi thế hệ, mọi người chúng ta rằng:” Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Ngay trong điều răn thứ bổn của thập giới cũng viết:” Thảo kính cha mẹ “. Như thế rõ ràng Thiên Chúa dạy con người phải thảo hiếu với mẹ cha không chỉ dừng ở của cải vật chất nhưng phải hiếu thảo bằng cả tấm lòng yêu thương, tôn kính, mến yêu đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ tức là đụng đến nhân phẩm, đụng đến quyền làm người của cha mẹ, thì phải bị xử tử. Chính vì thế, lập trường của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với người Pharisêu và các Kinh sư. Chúa Giêsu mở ra một giá trị mới, một đạo hoàn toàn dựa trên tình thương.
VẤN ĐỀ HIẾU THẢO BỊ LUNG LAY: Nếu lược qua các nơi, các nước chúng ta như nhận ra được cái yếu của nhiều gia đình. Bởi vì đời sống của nhiều gia đình hiện nay đang vấp phải khủng hoảng về đức tin, về đạo lý, Nhiều con cái chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Ngày nay có nhiều gia đình con cái đối với cha mẹ không ra làm sao cả. Nên, giá trị đạo đức bị đảo lộn, con cái coi vật chất là trên hết, có nhiều đứa con đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con. Ở nhiều nước văn minh có nhiều gia đình con cái sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão đầy đủ tiện nghi nhưng lại thiếu thái độ”thờ cha kính mẹ ” theo ý của Thiên Chúa là ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Các Giám mục Việt Nam trong năm 2007 và 2008 đã ra hai thư mục vụ nói về gia đình. Điều này nói lên sự quan trọng của nền tảng gia đình. Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2008 viết về gia đình Nagiarét:” Các Ngài là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nagiarét mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta”. Gia đình thánh gia là gia đình gương mẫu cho mọi gia đình bởi vì Chúa luôn hiếu thảo đối với thánh Giuse và mẹ Maria.
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG: Cha mẹ là người sinh ra chúng ta, chúng ta phải hết lòng tôn kính, yêu thương cha mẹ. Ai cũng có cha có mẹ. Cha mẹ sinh ra chúng ta, cha mẹ nuôi dưỡng chúng ta, chúng ta phải hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Chúa nói: ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, lúc qua đời phải xin lễ, cầu nguyện cho cha mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng Chúa cũng có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa đã hiếu thảo với cha mẹ, xin cho chúng con luôn biết báo đáp mẹ cha. Amen.
9. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giáo Hội Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết mỗi năm để cầu nguyện cho tổ tiên và ông bà cha mẹ đúng như đoạn Sách Cách ngôn 6, 29-23abc viết trong ca nhập lễ:
” Con ơi giữ lấy lời cha,
Chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm.
Đèn soi trong chốn tối tăm,
Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền.
Nhớ cầu cho bậc tổ tiên,
Khắc ghi công đức một niềm tri ân“.
Vâng, Giáo Hội là người Mẹ luôn âu yếm, nâng niu đoàn con và dạy dỗ con cái hãy sống điều răn Chúa phán truyền:” Hãy thảo kính cha mẹ ” (Điều răn thứ 4 của Thập Giới Đạo Công Giáo).
Từ ngàn xưa nhân loại luôn ghi nhớ công ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ. Bởi vì, nước có nguồn, sông có cội, con người phải có tổ tông. Tổ tiên sinh ra ông bà nội ngoại và rồi nội ngoại sinh ra con cái, sinh ra chúng ta. Công ơn tổ tiên, công ơn ông bà, ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ luôn luôn phải được đền đáp cho cân xứng. Chỉ cần đọc lại kinh tiền tụng lễ mồng hai tết, chúng ta sẽ thấy Giáo Hội chủ tâm tới những Đấng Bậc sinh thành, dưỡng dục như thế nào:” Quả thực, khi ngẫm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên: chim có tổ…. Nhưng phải nhờ ơn Cha mạc khải, chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng đã ban cho các ngài ơn huệ dư đầy, để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Chúa “. Do đó, con người phải có hiếu đễ, lúc cha mẹ còn sống phải thăm nom, chăm sóc, khi cha mẹ khuất bóng, phải cầu nguyện, lo ngày giỗ ngày chạp vv…Đó là ơn nghĩa con cái phải đáp trả báo đền. Thánh vịnh 111, 1-2 viết rất rõ:” Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. TRên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc “. Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Êphêxô:” Kẻ làm con, hãy vânbg lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này “. Thánh Matthêu còn nhấn mạnh hơn:” Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử “.
Vâng, đạo hiếu vẫn là đạo mà mọi nước, mọi dân tộc trên thế giới này đều khuyên nhủ con người thực hiện. Còn sống phụng dưỡng cha mẹ, không được làm phật lòng cha mẹ để cho cha mẹ buồn. Khi qua đời phải hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”. Bởi vì như Sách Khải Huyền viết: ”Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả. Giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi“.
Những ngày đầu năm mới trong khi mọi người ăn uống, sum vầy, Giáo Hội luôn khuyên dạy chúng ta hãy nhớ tới công ơn của tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Chính là các bậc tiên tổ, bậc cha ông mà chúng ta mới có ngày hôm nay…
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới … Nhâm Thìn
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen (lời nguyện nhập lễ, lễ mồng hai tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao ngày mồng hai tết, Giáo Hội lại dành để cầu cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
2. Tổ tiên là ai?
3. Ông bà là ai?
4. Tại sao chúng ta lại phải trả ơn cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
10. Kính nhớ tổ tiên (Lc 1, 67-75) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Truyền thống Dân tộc Việt Nam chúng ta luôn đề cao chữ hiếu. Bởi vì, dù có đi đạo hay không, người Việt Nam từ ngàn xưa đã biết thờ Cha kính Mẹ. Như thế, quả rất thích hợp với điều răn thứ tư trong mười điều răn của Thiên Chúa. Ngày mồng hai tết bao giờ, Giáo Hội cũng dành riêng để kính nhớ ông bà cha mẹ, tổ tiên. Đây là nét son của Giáo Hội.
Vâng, ngay từ khi khởi đầu công cuộc truyền giáo ở đất nước chúng ta, Cha Alexandre de Rhodes đã luôn quan tâm và dạy dỗ con người hãy trung thành, hiếu thảo với Thiên Chúa, với Vua và với Cha mẹ. Đây là giáo lý nói về tam phụ. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, dựng nên con người. Nên, con người phải biết ơn Thiên Chúa, trung thành với Ngài. Cha mẹ thừa lệnh Thiên Chúa sinh ra chúng ta, do đó, chúng ta phải hiếu thảo và trung thành với Cha mẹ. Con người có đất nước, có tổ quốc. Đứng đầu nước là Vua, nên con người phải trung với Vua vv…Đây là đạo lý của con người. Tuy nhiên, lúc đó vì chưa hiểu rõ các địa phương, các đất nước. Giáo Hội đã có những thông tư nghịch lại với nghi lễ Trung Hoa. Nên, một thời gian dài đã có những hiểu lầm và nghi kỵ đối với đạo Công giáo.
Ngày nay, với Công Đồng Vatỉcanô II, Giáo Hội đã có cái nhìn phù hợp với hoàn cảnh, truyền thống của các đất nước, các địa phương. Nên, mọi Kitô hữu đều cảm thấy thoải mái hơn với việc tôn kính tổ tiên vv…Giới răn bốn trong thập giới đã viết:” Hãy tháo kính Cha mẹ “. Điều này rất phù hợp với các đoạn Sách Thánh như Cn 6, 20, 23abc:” Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân “. Hoặc Sách Khải Huyền 14, 13 viết:” Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi, vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi “.
Người công giáo Việt Nam bao giờ cũng có lòng biết ơn và kính nhớ ông bà tổ tiên cha mẹ. Hầu như nhà nào cũng có bàn thờ ông bà tổ tiên với những hoa nến, nhang hương tỏa hương thơm ngát, nghi ngút khói bay…Thật đúng như lời Sách Đức Huấn Ca viết:” Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên, mả đẹp, và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài, và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen “. Thánh Augustinô cũng viết một đoạn đáng ghi nhớ:” Các ngài thấy, các thế hệ loài người trên mặt đất cũng giống như những chiếc lá trên cành cây, luôn luôn xanh tươi. Trái đất này cũng mang những con người, như cây mang những chiếc lá. Trái đất đầy dẫy những con người kế tiếp nhau, người này chào đời, trong khi người kia vẫy tay giã biệt. Cây không bao giờ cởi bỏ bộ áo màu xanh của mình, nhưng hãy nhìn xuống gốc cây: các ngài đang đạp trên một tấm thảm dầy những chiếc lá khô mục’’ . Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã khuyên nhủ:” Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ…”.
Thảo kính cha mẹ, tôn kính tổ tiên là truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Cài bông hồng đỏ trên áo để chứng tỏ cha mẹ còn sống. Đó là cách biểu lộ tình thương đối với cha mẹ, do đó, phụng dưỡng cha mẹ, an ủi cha mẹ là tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Cài bông hồng trắng trên áo để tưởng nhớ cha mẹ đã khuất. Con người nhớ để cầu nguyện, dâng lời kinh, tạ lễ cầu cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã mất là cách tỏ lòng tôn kính, thảo hiếu đối với các bậc sinh thành…
Xin Chúa cho chúng con luôn biết hiếu thảo với ông bà tổ tiên cha mẹ và quyết tâm nối tiếp sự nghiệp của các ngài, để luôn luôn làm rạng rỡ dòng họ và làm rực sáng gia phong.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới,
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu
Cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,
Và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao lại phải hiếu thảo đối với Ông bà cha mẹ và tổ tiên?
2. Chúa dạy sao về hiếu thảo?
3. Cài bông hồng đỏ trên áo có nghĩa gì?
4. Cài bông hồng trắng trên áo có ý nghĩa gì?
11. Thảo kính mẹ cha (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hôm nay Hội Thánh dành riêng ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Giáo Hội quả thực là người Mẹ rất khôn ngoan dậy con cái đủ điều. Thảo kính cha mẹ và các bậc tổ tiên là việc làm vừa phù hợp với tập tục, truyền thống hiếu thảo của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với điều răn thứ tư trong thập giới của Chúa, đồng thời thực hiện lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 hôm nay.
CUỘC TRANH LUẬN CỦA PHARISIÊU VỚI CHÚA GIÊSU: Đọc Tin Mừng hôm nay chúng ta nửa khóc nửa cười với các ông Pharisiêu và kinh sư bề ngoài xem ra đạo mạo, đạo đức nhưng bên trong lại toàn dao găm. Họ sống cái vỏ bên ngoài chứ thực ra họ chẳng sống cái lõi của Tin Mừng là bác ái yêu thương. Cuộc tranh luận của nhóm Pharisiêu và các kinh sư xoay quanh vấn đề rửa tay trước bữa ăn để rồi họ muốn tránh điều căn bản nhất là thảo kính cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Kinh sư và Pharisiêu giới hạn việc làm con trong bổn phận thuần túy thế tục, vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho ý nghĩa tôn giáo, ý nghĩa đạo đức. Đức Giêsu nhắc lại, nói lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người muôn thời:” Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15, 4). Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, nghĩa vụ đối với cha mẹ không chỉ dừng lại ở vật chất, nhưng còn đi tới cả nghĩa vụ tinh thần, thái độ đối với cha mẹ, đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử.
CUỘC SỐNG HÔM NAY VÀ MUÔN THỜI ĐỐI VỚI LỜI DẬY CỦA CHÚA GIÊSU: Ông bà cha mẹ, tổ tiên là những người có công sinh ra, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các Ngài tận tụy dậy dỗ chúng ta sống đời sống làm người, đặc biệt nhờ các Ngài mà chúng ta được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tiền nhân, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển. Ca dao Việt Nam đã viết:” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Chữ hiếu đối với chúng ta rất có giá trị hợp với đạo lý làm người. Hiếu là yêu thương. Chúa là tình yêu. Do đó, đạo công giáo chúng ta là đạo yêu thương. Chính vì thế, mà tục ngữ ca dao đã viết rất dí dỏm, nửa khóc, nửa mếu vì nếu khi cha mẹ ông bà còn sống mà chẳng cho ăn, chẳng chăm sóc: vật chất cũng như tinh thần sẽ mang cái tội tầy trời:” Khi sống mà chẳng cho ăn, đến khi thác xuống làm ma tế ruồi “. Cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi đang vấn nạn chúng ta hay đang hạch xét chúng ta về chữ hiếu, về nền tảng của gia dình. Các giá trị của đời sống gia đình hình như bị lung lay khá nhiều, nếu nói được là đang bị giao động đến tận gốc rễ, đến tận cuộc sống của nhiều người, của nhiều gia đình. Ngày nay, có nhiều người định mức cuộc sống bằng việc làm ra vật chất, làm ra của cải. Người ta định mức số tiền, của cải làm ra được bao nhiêu. Người trẻ không thích cha mẹ sống lâu, người già sống thọ. Muốn tiến thân người trẻ phải loại trừ người già vv…Nhiều nước trên thế giới, con cái đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão cho xong, vì viện dưỡng lão nhiều tiện nghi vật chất, nhưng lại thiếu thái độ cần thiết nhất là ‘ thờ cha, kính mẹ “. Chính vì thế, con người ngày nay cũng na ná như Pharisiêu và kinh sư tưởng rằng mình biện minh được cho thái độ bất hiếu của mình cũng như nhóm Pharisiêu và kinh sư xưa đã nhân danh lời của tiền nhân để lại. Lời của Đức Giêsu nhắc lại trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 không cho phép ai được biện hộ cho thái độ bất kính, bất hiếu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên, ngay cả khi họ nại ra lý do tôn giáo nữa.
Ngày đầu xuân Giáo Hội nhắc lại cho mỗi người, mọi người sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Ngày đầu xuân mới, chúng ta nhớ đến các Ngài. Chúng ta xin lễ, cầu nguyện cho các Ngài, xin Chúa là Đấng từ bi thương xót xóa hết lỗi lầm các Ngài đã trót phạm và mau đưa các Ngài về hưởng nhan thánh Chúa mãi mãi, muôn đời.
Lạy Chúa, xin thương ban thiên đàng cho tất cả những người đã nuôi nấng, lo lắng và giáo dục chúng con. Amen.
12. Từ đạo Hiếu đến đạo Chúa (Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày Tết Việt nam luôn có một ý nghĩa gia đình rất sâu đậm. Dù đi đâu xa người ta vẫn cố gắng về quê ăn Tết. Ngày xuân gia đình đoàn tụ, con cái chúc tuổi cha mẹ, học trò chúc tuổi thầy cô, kẻ dưới chúc tuổi người trên, bà con bạn bè thăm viếng nhau. Ngày Tết mọi người được liên kết trong niềm vui yêu thương chia sẻ. Ngày Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình.
Người Việt nam rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự, với cung cách ứng xử theo mỗi bậc người. Theo đó người Việt nam có nét đặc trưng trong cách thức chào hỏi, xưng hô giao tiếp mà những ngôn ngữ của các dân tộc khác dù văn minh cũng không có được. Linh mục F. Buzomi, dòng Tên, nhà truyền giáo đã đặt chân lên đất Việt nam khá sớm vào ngày 18. 1. 1615, có nhận xét chí lý: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo” (Nguyễn Hồng “Lịch sử truyền giáo ở Việt nam”, Sài gòn 1959, tr. 55).
Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên. Tôn kính tổ tiên là một cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân, ông bà cha mẹ. Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải kính mến, phụng dưỡng các ngài thì lòng phải vui, vâng lời chiều ý các ngài, ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm. Khi tam giáo (Phật, Khổng, Lão) chưa du nhập Việt Nam thì người Việt đã biết kính thờ tổ tiên, trọng kính cha mẹ, thương yêu anh, chị, em và hầu như mọi gia đình đều lập bài vị ông bà, cha mẹ để thờ cúng. Những ngày giỗ kị thì thắp nhang, dâng hoa quả, cơm nước đặt trên bàn thờ để mong ông bà, cha mẹ (những người đã khuất) về hưởng. Nhà nghèo nhất cũng có chén cơm trắng với quả trứng luộc dâng lên với tất cả lòng thành. Tuy người đã khuất không hưởng được, nhưng lễ nghi ấy lại cần thiết để giáo hóa con cái để sau này chúng cũng nhớ đến ông bà, cha mẹ như vậy. Người Việt vốn hiền hoà, tình cảm, lại chung sống cộng đồng với nhau, suốt đời quanh quẩn bên luỹ tre làng; cho nên dù sống, dù chết, họ vẫn gần gũi bên nhau, ấm áp tình người. Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt Nam giàu tình trọng nghĩa.
Mỗi người Việt nam đều có một đạo rất gần gũi, đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu. Trong mỗi gia đình người Việt, dù sang hay hèn cũng dành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng vẫn luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm, ngày tết, gia đình làm mâm cơm cúng ông bà. Tấm lòng của con cháu tỏ bày lòng hiếu kính biết ơn. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đỗ đạt… cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi việc để các ngài chứng giám. (x. Gia đình Việt nam, mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống Tin mừng, Thời sự thần học số 32 tháng 06/03).
Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Á châu trong đó có Việt nam. Hiếu là gốc của đức. Người ta có 100 nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu. Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung, cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.
Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống, thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh, bằng thờ cúng tổ tiên. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là phẩm chất tối cao của con người.
Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt nam từ nam chí bắc dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh, nhưng với ý niệm “Cây có cội, nước có nguồn” đều coi trọng gia lễ.
Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:
Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.
Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.
Người ta có gốc từ đâu.
Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn. Biết ơn trời đất, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ. Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng, vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình Việt nam. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng , của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.
Gia đình Việt nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Người Việt quan niệm “một mẹ già bằng ba hàng dậu”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng. Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông. Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một…. đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương, Đỗ trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm. Ngày Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình. Con cháu quy tụ chúc Tết với cử chỉ thành kính chắp tay chào lạy, dâng quà lễ mừng thọ.
Gia đình Việt nam là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội. Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.
Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa. Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của nó. Sách Giảng Viên dạy: “thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa, tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”. Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu đã lên án bọn người lấy cớ để tiền của dâng cúng vào đền thờ mà trốn tránh bổn phận giúp đỡ cha mẹ. Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Người, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Người. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu. Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Người chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa, yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Người. Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc.
Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt nam có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo, Tin mừng là ánh sáng các dân tộc (LG), là ánh sáng trần gian (Ga 8, 12). Tin mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau. Phụng vụ Giáo hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo;dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”;dạy sống chan hoà, bình dị “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”. Tin mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ. (Quốc Văn, OP).
Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã đề cao vai trò gia đình, lòng thảo hiếu của con cái “chủng viện thứ nhất, đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình công giáo. Không vị giám đốc tài ba, chuyên môn đến đâu có thể thay thế cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội thánh và xã hội nhân loại cũng rung rinh sụp đổ. Đức Gioan XXIII biên thư cho cha mẹ ngày ngài được ngũ tuần: “Thưa thầy mẹ, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi con được ngồi trên chân thầy mẹ” (ĐHV 505).
Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc. Tin mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.
13. Hiếu thảo với cha mẹ (Mt 15, 1-6) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Truyền thống dân tộc Việt Nam quả rất cao quí khi ông bà tổ tiên, cha mẹ luôn được mọi người kính yêu, hiếu thảo. Tuy nhiên, Hội Thánh Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết để con cái cháu chắt tưởng nhớ tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Giáo Hội luôn cho con cái hiểu rằng việc hiếu thảo có giá trị rất cao và là một trong những điều Chúa dạy. Bởi vì, trong mười điều răn của Chúa, giới răn thứ bốn:” Hãy thảo kính cha mẹ ” là một giới răn được xếp trong mười điều Chúa dạy bảo. Chính vì thế, hôm nay, con cái của Chúa dâng thánh lễ này để cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, cha mẹ là một điều thích hợp, phải lẽ đồng thời cũng rất hợp với lời dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 1-6.
Ngược lại với quan niệm, suy nghĩ của dân Do Thái, đặc biệt là các Kinh sư, Pharisêu về vấn đề báo hiếu, Chúa Giêsu luôn đề cao việc hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên, cha mẹ, các bậc sinh thành, dưỡng dục. Kinh sư và Pharisêu cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là đủ rồi, là tròn bổn phận và trách nhiệm rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Họ giới hạn bổn phận và nghĩa vụ dựa trên vật chất, và họ gán cho nó tính chất đạo đức. Đối với Chúa Giêsu, Ngài nói cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi người biết rằng:” Phải thảo kính cha mẹ…” theo đúng giới răn thứ bốn trong thập giới của Thiên Chúa đã trao cho ông Môsê:” Thảo kính cha mẹ “. Chúa nói :” Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Chúa Giêsu mở ra cho thế giới, cho con người, cho mỗi người một chân trời mới về nghĩa vụ và bổn phận đối với các bậc sinh thành. Vật chất cần thật nhưng tấm lòng, con tim, tinh thần còn có giá trị cao vời hơn. Thật vậy, xưa cũng như nay, vấn đề hiếu thảo đối với các bậc sinh thành luôn được đặt ra với nhiều quan niệm và suy nghĩ khác nhau. Ngày nay, tại nhiều đất nước, việc truyền bá tự do luôn được đề cao, nhiều nơi xem sự tự do là chính mà quên đi giá trị đạo đức. Do đó, giá trị truyền thống hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ bị coi nhẹ. Nhiều nước, luật pháp bảo vệ tự do quá đáng: cha mẹ không được nói nặng tới con cái, chứ chưa nói tới quát nạt, to tiếng hay đánh sửa dạy. Nhiều nước, con cái tới 18 tuổi được luật pháp bảo hộ theo ý của mình. Cha mẹ luôn phải dè chừng với con cái. Nên, giá trị đạo đức bị lung lay: con cái muốn làm gì thì làm. Luân lý bị coi nhẹ. Cha mẹ được xem như gánh nặng đối với con cái. Con cái thích tự lập, ở riêng. Người già đã có nhà xã hội, nhà dưỡng lão vv…Việc hiếu thảo đối với cha mẹ được xem nhẹ. Cha mẹ già thường cảm thấy cô đơn, buồn tủi. Có người đã nói cay chua, mỉa mai:” Ước gì mình được con cái chăm sóc như con chó mà con mình đang nuôi “. Đó là sự thực nhưng sự thực thật cay đắng và mỉa mai. Thiết tưởng, mọi gia đình phải nhìn vào mẫu của gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để noi gương bắt chước. Chúa là Chúa nhưng làm người, Ngài luôn vâng lời, tuân phục và sống thảo hiếu với cha mẹ của mình.
Dân tộc Việt Nam luôn còn giữ được truyền thống thảo hiếu và giáo dân Việt Nam còn biết lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa. Do đó, nghĩa vụ, bổn phận đối với các bậc sinh thành, tổ tiên luôn được trân trọng giữ gìn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng mến cho chúng con để chúng con luôn biết thảo hiếu với tổ tiên, cha mẹ: sống thì thăm hỏi, giúp đỡ, nuôi dưỡng, khi các Ngài khuất bóng thì biết xin lễ, cầu nguyện và làm những việc phúc đức dâng cho cha mẹ, tổ tiên. Amen.
14. Suy Niệm Lời Chúa (Mt 15, 1-6)
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng trên cho thấy, cuộc đụng độ giữa Chúa Giêsu và những người lãnh đạo Do Thái. Trọng tâm chính của lần này, không phải là cuộc chạm trán trực tiếp có tính cách cá nhân giữa Chúa Giêsu và các rapbi nữa, nhưng là sự đụng độ giữa hai quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa, hai hình thức giữ luật. Các luật sĩ thắc mắc: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân?…” Chúa Giêsu trả lời họ cũng bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”
Theo người Do Thái, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được ghi trong luật. Luật gồm hai phần: Luật thành văn là luật Chúa chứa đựng trong Kinh Thánh, và luật truyền khẩu được các kinh sư triển khai qua nhiều thế hệ, và được xem như là truyền thống của tổ tiên. Luật này có tính cách bắt buộc tuân giữ, nếu không muốn nói là hơn cả luật thành văn. Đối với người Do Thái, tất cả những luật truyền thống là lệnh truyền của Chúa, thực thi những điều luật truyền thống là làm vừa lòng Chúa, là trở nên một người công chính. Tuân giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như “rửa tay trước khi ăn”, “dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ”.
Đối với Chúa Giêsu, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được thể hiện lớn nhất bằng luật yêu thương. Ngài xem giữ luật là một cảm nghiệm sống ở trong lòng, một biểu hiện liên đới, nhân từ, vượt trên hình thức, là tấm lòng trong sạch và đời sống yêu thương.
Hôm nay, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Pharisêu và các kinh sư cách trực tiếp. Nhưng Ngài lấy một ví dụ về việc thực hành luật truyền khẩu để cho họ thấy, chẳng những đây không phải là luật Chúa mà còn có thể đi ngược lại Luật Chúa. Luật Thiên Chúa đã đặt ra là phải “hiếu thảo với cha mẹ của mình”. Nhưng những người Do Thái lại nói: “Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi”. Những người Do Thái này, đã dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản là hiếu kính cha mẹ. Họ đã lấy quy ước của các kinh sư để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng hai Tết, Giáo Hội Việt Nam dành để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa về lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên – ông bà – cha mẹ. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, sau ba điều dành cho Thiên Chúa thì đến điều thứ tư dành cho ông bà, cha mẹ. Thánh Phaolô đã làm cho điều răn thứ tư này mạnh mẽ hơn khi nói: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này (Ephêsô 6, 1-3)”.
Vâng, thảo kính cha mẹ không phải là chuyện gởi những món quà to, nhưng lỡi tết nặng, nhưng thảo kính cha mẹ là về bên các ngài trong những ngày nghỉ, thăm hỏi, chăm sóc, hiện diện, an ủi, đỡ đần và yêu thương. Thảo kính cha mẹ không phải là chuyện khoe thành tích, cũng chẳng là chuyện dâng cúng ít nhiều, nhưng là biết vâng nghe nhưng lời dạy dỗ bảo ban; biết kính trên nhường dưới; biết ghi lòng tạc dạ đền đáp công ơn:
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Lời Chúa hôm nay mạnh dạn nhắc nhở, không thể có một sự thỏa hiệp nào giữa hai quan niệm luật hình thức và luật yêu thương; không thể san bằng nghi thức bên ngoài với lệnh truyền của Chúa. Những kinh sư đã lẫn lộn mọi luật lệ của Chúa với những nguyên tắc bên ngoài, và họ đã biến những nguyên tắc ấy thành một thứ luật mà họ coi là điều Thiên Chúa đòi hỏi cho riêng họ.
Thảo kính cha mẹ là điều Thiên Chúa muốn, Giáo Hội nhắc nhở, đạo làm người mong khắc ghi:
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẹ thầy.
Lạy Chúa,
Xin chúc lành cho cha mẹ của chúng con.
Xin ban muôn ơn lành hồn xác cho các ngài.
Xin chúc phúc cho những người con thảo hiếu như Chúa đã hứa.
15. Suy niệm Lời Chúa (Hai Lúa)
Giáo hội dành ngày mùng hai tết để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là để nhớ đến công ơn của các ngài. Giáo hội nhớ đến và cầu nguyện cho các ngài là bởi vì, tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các ngài tận tụy dậy dỗ mình sống đời sống làm người, và đặc biệt nhờ các ngài mà mình được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển.
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Quả thật, truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Chính vì vậy mà để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ của mình như thế nào. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
“Tu đâu cho bằng tu nhà,
thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu”.
Và hơn nữa, đối với người kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng nhắc: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo”.
Và đặc biệt trong bài Tin mừng, Đức Giêsu nhắc lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người mọi thời rằng: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”. Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, việc hiếu thảo đối với cha mẹ là điều hết sức quan trọng và là bổn phận hàng đầu của mỗi người kitô hữu.
Như thế, việc thảo kính cha mẹ không còn tùy thuộc vào ý thích cá nhân, nhưng đó là thánh ý của Thiên Chúa, đó là lệnh truyền của Thiên Chúa, và đó là đòi buộc của Thiên Chúa.
Ngày đầu xuân Giáo hội nhắc lại sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Thế nhưng, ta phải có những thái độ nào, phải có những cách hành xử như thế nào, để đạo “thờ cha, kính mẹ” cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa? Đó có phải chỉ là cấp tiền nuôi dưỡng cha mẹ? Hay đó có phải chỉ là đến ngày, đến tháng vào xin một thánh lễ cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên là xong?
Trong sách xưa có một bài về đạo hiếu rất hay và cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo:
“Hiếu hữu tam:
Đại hiếu tôn thân
Kỳ thứ phất nhục
Kỳ thứ năng dưỡng”
Tạm dịch là:
Đạo hiếu có ba điều:
Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ
Hai là không làm nhục cha mẹ mình
Ba là có thể nuôi dưỡng cha mẹ mình.
Vậy, thế nào là tôn vinh cha mẹ? Thế nào là không làm nhục cha mẹ? Và thế nào là dưỡng nuôi cha mẹ mình?
1. Tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và con người
Theo quan niệm của Kitô giáo, thì sự tôn vinh cha mẹ ở cấp độ cao nhất đó là sự tôn vinh cha mẹ, làm rạng rỡ cha mẹ ở trước mặt Thiên Chúa. Niềm vinh dự lớn lao của cha mẹ đó là được tôn vinh trước mặt Thiên Chúa. Thành ra, người có hiếu lớn nhất đó là người sống ngay lành, làm điều tốt trước mặt Thiên Chúa: sống theo thánh ý Chúa, sống theo luật Chúa đó là tốt nhất. Do đó khi sống đạo tốt, đó là mình thể hiện cái hiếu lớn nhất đối với cha mẹ.
Mặt khác, tôn vinh cha mẹ không chỉ trước mặt Thiên Chúa mà còn là tôn vinh, làm rạng danh cha mẹ trước mặt người đời. Mình không thể nói là có hiếu với cha mẹ khi mà đời sống của mình bê bối đủ điều. Mình không thể nói là có hiếu nếu mình cứ sống một cuộc sống mua gian bán lận, một cuộc sống thiếu yêu thương bác ái đối với người khác, một cuộc sống muốn loại trừ những người khác. Do đó, cái hiếu đối với cha mẹ, đó còn là việc thể hiện một đời sống tốt trước mặt người đời. Bởi vì khi mình sống tốt trước mặt người đời là mình đang làm rạng danh, đang tôn vinh cha mẹ mình.
Hơn thế nữa, cái hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, không chỉ là tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và tôn vinh cha mẹ trước mặt người đời, nhưng còn là thể hiện cái hiếu qua việc tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình. Tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình đó là khi mình biết vâng lời cha mẹ, tôn kính cha mẹ. Do đó, mình không thể nói là có hiếu trong khi mình cứ luôn cãi lời cha mẹ, không biết tôn kính cha mẹ.
2. Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ
Trước hết chúng ta xét đến tương quan với Thiên Chúa, đó là đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa. Nghĩa là, khi xa lánh tội lỗi, không làm điều xấu đó là mình thể hiện cái hiếu đối với cha mẹ. Chúng ta không thể là người có hiếu nếu cứ sống trong tình trạng lầm lạc, trong những đam mê, những thú vui tội lỗi. Khi chúng ta phạm tội đó là mình đang làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, và như thế thì không thể nói là mình đang sống trọn chữ hiếu với cha mẹ được. Và chúng ta không chỉ đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa mà còn không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời. Mình đừng để cho người đời vì mình mà chửi cha mẹ mình. Con cái đi làm điều bậy bạ để rồi cha mẹ phải lãnh lấy hậu quả, bị người đời coi thường, khi đó chúng ta không thể là người sống có hiếu được.
3. Và cái hiếu thứ ba đó là có thể nuôi dưỡng cha mẹ
Nuôi dưỡng hay chu cấp cho cha mẹ ở đây không chỉ là về những nhu cầu vật chất nhưng là còn về tinh thần.
Trước mặt Thiên Chúa, mình cầu nguyện cho cha mẹ đó là nuôi dưỡng cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời, lời cầu nguyện của chúng ta cho cha mẹ thể hiện lòng hiếu thảo đối với cha mẹ.
Trước mặt người đời, người có hiếu là người có thể phụng dưỡng cho cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần, đem lại niềm vui, đem lại niềm hạnh phúc cho cha mẹ.
Như vậy, cái hiếu lớn nhất của mỗi người đó là tôn vinh cha mẹ, làm rạng danh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời và trước mặt chính mình.
Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời.
Cái hiếu thứ ba đó là nuôi dưỡng cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời.
Làm được như thế đó là mình sống trọn lòng hiếu thảo đối với cha mẹ như lòng Chúa mong muốn.
Lắng nghe lời Chúa trong ngày đầu năm này, ước gì mỗi người một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình qua ông bà cha mẹ, để hết lòng tri ân và cảm tạ các ngài. Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện để mình duyệt xét lại lòng thảo hiếu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Việc thảo kính này, không chỉ là dâng một ít quà hay một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng lòng thảo hiếu này, cần được kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi người.
Xin Chúa cho mỗi người có được lòng mến yêu, có được một tinh thần thảo hiếu, để chúng ta có thể luôn biết thể hiện lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ.
Sưu tầm
** 16. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ngày Mồng Một tết chúng ta dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn và những ước nguyện cho ngày đầu năm mới, hôm nay ngày Mồng hai, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn và thảo kình đối với ông bà tổ tiên những người còn sống cũng như đã qua đời. Tuy nhiên với thời buổi người ta đặt lợi nhuận kinh tế lên hàng đầu, thì hình như bổn phận thảo hiếu đối với tổ tiên nơi nhiều người, nhiều gia đình cũng đang bị tính toán thiệt hơn. Nhiều câu chuyện xảy ra trong năm qua đã kiến cho cộng đồng bức xúc, vì có những đứa con giàu có nhưng đùn đẩy không ai muốn đón bố về chăm sóc, nên họ đã để bố của mình năm ở vỉa hè trong lúc sắp chết, có người con thì kiện mẹ ra tòa để đòi mấy trăm triệu tiền công chăm sóc trong mấy năm trời. Đọc và nghe những mẩu tin như thế thật đau lòng khi thấy tình nghĩa đạo lý trong gia đình đã xuống cấp trầm trọng.
Những ngày cuối năm gặp nhau câu hỏi đầu tiên có lẽ là câu: Năm nay có về quê ăn tết không? Ai đã từng phải đón cái tết xa quê thì mới thấm thía thế nào là nỗi nhớ nhà trong những ngày này. Nỗi nhớ nhà của ngày tết nó thôi thúc mọi người bằng mọi giá phải trở về với cha mẹ với tổ tiên để thắp một nén nhang trước bàn thờ tổ tiên, để được ngả đầu vào bờ vai cha mẹ, để ăn một bữa cơm đầu năm, dù là bữa cơm thật đạm bạc, nhưng trong bữa cơm ấy nó chứa đựng bao nỗi vất vả của cha, bao sự chờ đợi lo lắng của mẹ, bao tình yêu thương để chia sẻ. Sau một năm bận rộn vất vả chỉ có những ngày này trở về với gia đình, người ta mới cảm thấy thư thái bình an, vì không có nơi nào an toàn cho bằng trái tim của người mẹ, và không nơi nào vững chắc cho bằng bờ vai của cha. Vì thế những người không còn cha không còn mẹ sẽ thấm thía đến tận cùng sự trống vắng thiếu thốn trong ngày tết này, sẽ cảm nhận sự đau đớn sự buồn bã, lạc lõng khi mình đi không ai nhớ, về không ai mong.
Nhớ ơn cha mẹ, ông bà trong dịp đầu năm là giúp chúng ta trở về cội nguồn, với dòng tộc, giúp mỗi người sống đúng với con người của mình và sống trọn bổn phận với cha mẹ tổ tiên. Biết ơn mẹ cha là nhớ đến công sinh thành dưỡng dục. Các ngài đã trải qua bao gian lao vất vả, mang nặng đẻ đau, bao tháng ngày bú mớm chăm sóc, kể làm sao hết những gọt mồ hôi của cha, những sư lo lắng của mẹ khi chúng ta đau ốm, bao nhiêu hy sinh vất vả nắng mưa sớm hôm để cho ta được bằng người. Kể làm sao hết sự hy sinh thầm lặng nhịn ăn nhịn mặc để cho con không thua kém bạn bè, để cho con được đến trường thì mỗi ngày cha mẹ lại phài vất vả nhiều hơn.
Việc thảo hiếu với tổ tiên ông bà không chỉ là bổn phận của đạo hiếu, đạo làm người, của lòng biết ơn, mà nó còn là giới răn và đòi buộc của đạo Chúa. Tuy nhiên người ta sẽ không thể chu toàn được đạo Chúa nếu không chu toàn đạo làm con và đạo làm người. Sách Huấn Ca dạy chúng ta sống sao để làm rạng danh cha mẹ tổ tiên, và đừng bao giờ quên công đức của các ngài, và vì các ngài chính là gia tài quý giá nhất mà người ta không thể tìm kiếm hoặc mua ở đâu được, và chính chúng ta đang được hưởng phúc đức và dòng máu các ngài để lại cho chúng ta.
Ngày xưa các thày tiến sĩ Do Thái đã đưa ra một thứ luật, mà sau này Chúa Giêsu đã cực lực phản đối sự trốn tránh trách nhiệm của luật ấy. Luật dạy rằng: Ai nguyền rủa và đối xử tệ bạc với cha mẹ thì bị xử tử. Còn các ông lại nói: Ai nói với cha mẹ rằng: của phụng dưỡng cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Các ông dựa vào truyền thống của các ông để chối bỏ luật Thiên Chúa và Thiên Chúa không chấp nhận một của lễ được dâng lên do sư bất hiếu, trốn tránh trách nhiệm như thế. Sách Khôn Ngoan còn nhấn mạnh: Của dâng cho cha sẽ không bị quên lãng, của biếu cho mẹ sẽ đền bù được tội lỗi. Như thế, có thể nói việc thảo hiếu với cha mẹ được Thiên Chúa đón nhận như việc thảo hiếu đối với Ngài vậy.
Thánh Phaolô còn khuyên rằng: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo, và ai tôn kính thảo hiếu cha mẹ thì được trường thọ trên mặt đất. Thế nhưng ngày nay đang diễn ra bao cảnh trái ngang: Con cái hất hủi coi thường, chửi mắng đánh đập cha mẹ là đấng sinh ra mình, đùn đẩy trách nhiệm báo dưỡng vì sợ phiền phức tốn kém, sợ bẩn nhà, nhiều người đối xử với cha mẹ như đầy tớ. Dịp tết này, hãy điều chỉnh lại cách sống thảo hiếu của mình với cha mẹ để còn làm gương cho con cái, vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, chúng ta bắc cầu tới đâu, con cái sẽ đi tới đó. Hôm nay chúng ta đối xử với cha mẹ thế nào, thì ngày mai con cái chúng ta cũng sẽ đối xử với chúng ta y như vậy.
Trong Năm Gia đình Sống và Loan Báo Tin Mừng, trong sư mới mẻ của đất trời mùa xuân, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm mới lại tương quan trong gia đình. Sự đổi mới phải bắt đầu từ mỗi thành viên của gia đình, nhưng trước hết vẫn là cha me. Người cha người mẹ hãy nỗ lực vươn lên, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho con cái, mọi thành viên trong gia đình cố gắng canh tân, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho cả gia đình.
Hãy bắt đầu từ nơi người cha, người chồng: các ông hãy là mùa xuân cho gia đình bằng một đời sống đạo hạnh, hãy vì vợ, vì tương lai gia đình mà đem niềm vui về cho gia đình, hãy dẹp bỏ những đám mây u ám trong gia đình là những cuộc nhậu nhẹt rượu chè, bài bạc, chửi bới đánh đập vợ con…, đừng biến gia đình thành địa ngục cho nhau. Đừng để con cái sơ hãi, mặc cảm với bạn bè về cha của mình, vì con cái không chỉ cần tình thương, mà nó còn cần danh dự phẩm giá của cha mẹ để có thể tự hào hãnh diện với bạn bè. Cuộc sống đạo đức thành thật của người cha sẽ là tia nắng ấm mùa xuân cho gia đình, hãy trở nên người chồng người cha có trách nhiệm với gia đình, nuôi sống gia đình bằng mồ hôi lương thiện, bằng nỗ lực của chính mình. Hãy là một người cha cương nghị. trở nên hàng rào bảo vệ gìn giữ con cái trên con đường lương thiện và là trụ cột vững chắc cho gia đình những khi sóng gió. Hãy biết chia sẻ trách nhiệm với vợ mình và hết lòng chăm lo cho cha mẹ khi các ngài luống tuổi.
Phúc đức tại mẫu, các bà vợ, người mẹ hãy có một cuộc sống đạo hạnh dịu hiền bao dung, hãy trở thành cành mai cành đào tô điểm cho gia đình thêm tươi thắm bằng sự dịu dàng khả ái, bằng đời sống nết na đạo đức. Người mẹ là người có trái tim nhạy bén, hãy thông cảm và chia sẻ những lo toan với chồng và hãy bao dung tận tụy với con cái. Người mẹ hãy trở nên mùa xuân cho gia đình bằng sự cần mẫn, hãy làm cho gia đình trở nên ấm cúng sạch sẽ ngăn nắp gọn gàng, làm cho những bữa cơm thêm thân mật, cho gia đình đầy ắp tiếng cười. Hãy dùng trái tim nhạy cảm của một người vợ, người mẹ để làm cho gia đình thực sự trở thành một tổ ấm, là nơi cư ngụ tốt nhất cho chồng con sau những ngày mệt mỏi với công việc, thông cảm với chồng, chia sẻ với những khó khăn của con cái bằng sự nhẫn nại dịu hiền.
Còn những người làm con hãy trở thành mùa xuân cho gia đình, cho cha mẹ, khi biết tôn kính mến yêu vâng lời các ngài, đừng để cha mẹ phải đau khổ hơn nữa vì sư lêu lổng ngỗ nghịch của mình, đừng để cho tệ nạn ăn chơi, nghiện hút cá độ làm tan nát gia đình. Hãy làm vơi đi sư nhọc nhằn của cha mẹ, đem lại sư hãnh diện cho cha mẹ, bằng việc chăm chỉ rèn luyện học hành, bằng tư cách đạo đức tốt. Hãy trở nên một thanh thiếu niên Công giáo tốt nơi gia đình nơi công ty xí nghiệp trường học, hãy thảo hiếu và biết ơn cha mẹ và làm cho tình anh em trong gia đình thêm mặn mà hạnh phúc vui tươi hơn. Nếu cha mẹ già yếu, hãy kiên nhẫn yêu thương kính trọng và chăm sóc cho các ngài, vì chúng ta sẽ không thể tìm được cha mẹ nữa một khi các ngài đã không còn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình noi gương gia đình Thánh Gia xây dựng gia đình êm ấm thuận hòa con cái thảo hiếu, chúc cho mọi người biết chu toàn bổn phận của mình như lời Chúa dạy hôm nay, và hãy dành cho nhau tình yêu thương, hãy yêu thương nhau hết lòng và hãy làm tất cả những gì tốt đẹp cho nhau, để khi cha mẹ hay người thân có mất đi, chúng ta không phải hối tiếc vì chưa làm gì cho họ. Amen.
** 17. CẦN CÓ MỘT TẤM LÒNG
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Trong tác phẩm “Để gió cuốn đi” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đặt một câu hỏi: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết không?” Nhạc sĩ đã trả lời: “Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”. Có người thắc mắc tại sao lại cần có một tấm lòng để gió cuốn đi như vậy? Có lẽ, nhạc sĩ họ Trịnh này muốn dùng hình ảnh “gió cuốn đi” không phải là một cơn bão xóa sổ một ngôi làng, nhưng đây là một cơn gió mát giữa trưa hè oi bức, một ngọn gió thu lúc buổi sớm, mang theo hương cau, mùi lúa mới, làm nhẹ lòng người, khiến lòng con người cảm thấy thanh thản và yêu cuộc sống hơn. Như thế, theo Trịnh Công Sơn, tấm lòng chân thành là điều cần thiết giúp lòng người có thể gặp nhau và làm vui lòng nhau.
Thiên Chúa khi dựng nên con người, Ngài ban cho con người có một dáng vẻ bên ngoài và một thế giới bên trong được gọi bằng ngôn ngữ bình dân đó là lòng người. Thế nhưng, không phải lúc nào dáng vẻ bên ngoài của một người cũng đồng nhất với cái lòng bên trong. Có nhiều lúc, bên ngoài có vẻ thành thật nhưng cái lòng lại gian dối, bên ngoài có vẻ tươi cười vui vẻ, nhưng lòng lại đau thắt. Ngược lại, có những lúc trong lòng rất yêu rất thương, nhưng bên ngoài lại tỏ ra giận dỗi. Thông thường, người ta thường lấy cái vẻ bên ngoài, để che đây cái lòng bên trong. Nhưng khi có một tấm lòng thành, lòng thật, thì sự thành thật sẽ thể hiện ra bên ngoài qua ánh mắt, cử chỉ lời nói. Khi có một người tấm lòng thành, người khác sẽ dễ dàng cảm nhận được điều đó qua các cử chỉ bên ngoài.
Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cả bên ngoài lẫn trong lòng của mỗi người. Ngài thấu tỏ từ ý nghĩ, lời nói và tấm lòng của con người, cho dù con người chưa tỏ lộ ra bên ngoài. Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta đến với Chúa và sống với Chúa, bằng một tấm lòng thành thật chứ không chỉ là những hình thức bên ngoài. Chúa muốn chúng ta làm việc tốt với một tấm lòng tốt, không tính toán, không gian dối, Chúa cũng muốn chúng ta đối xử với nhau bằng tấm lòng chân thành, không hình thức, không chiến thuật. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy, những người Biệt Phái đã sống và thực hành đạo chỉ có hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng bên trong, họ đến với Chúa bằng áo quần lượt thượt và nghi lễ dài dòng, nhưng lại không có tấm lòng. Những người Biệt Phái trách Chúa Giêsu và các môn đệ không rửa tay trước khi ăn theo tập tục của tiền nhân. Việc rửa tay của người Do Thái không phải là việc giữ vệ sinh như ngày nay, nhưng là một nghi lễ thanh tẩy. Tuy nhiên, do trở thành thói quen, người Do Thái không còn biết mình rửa tay trước khi ăn để làm gì. Chúa Giêsu đã trách họ, vì họ chỉ còn hình thức mà không có nội dung, giữ các tập tục, hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng. Chúa muốn đưa họ trở về với ý nghĩa đích thực của tập tục này, đó là việc thanh tẩy bên ngoài, rửa tay rửa bình, nhắc cho mỗi người phải không ngừng tẩy rửa lòng mình khỏi mọi thói quen xấu từ bên ngoài và thanh tẩy những vết nhơ tính xấu và tội lỗi từ bên trong. Chúa Giêsu đã trích lời tiên tri Isaia cảnh cáo lối sống giả dối của họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta”. Hơn nữa, Chúa còn cảnh cáo lối sống hai lòng hai dạ của họ: Thay vì những Biệt Phái và Luật Sĩ phải có bổn phận dạy cho dân chúng Lời và Ý của Chúa thì họ lại không làm như vậy. Họ đã khéo đánh tráo vào công việc và lời nói của mình, thay vì nói Lời của Chúa, họ lại nói lời của họ; thay vì làm việc làm của Chúa, họ lại làm việc theo ý riêng cá nhân và dạy người khác làm. Họ đã đánh tráo cả vị trí của Thiên Chúa để thay thế mình vào chỗ của Thiên Chúa.
Điểm thứ hai Chúa trách các Biệt Phái về lòng gian của họ. Họ đã bẻ quẹo Lời Chúa để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Luật Chúa đòi mọi người phải thờ cha kính mẹ, hết lòng thảo hiếu phụng dưỡng các Ngài nhất là khi tuổi già sức yếu. Tuy nhiên, các Luật Sĩ lại mượn Thiên Chúa để bẻ quẹo luật Chúa, khi họ dạy người khác rằng: Ai tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì không phải nuôi dưỡng phụng kính cha mẹ nữa. Như thế, có nhiều kẻ không muốn phụng dưỡng cha mẹ, kẻ ấy chỉ cần tuyên bố sẽ dâng hết tài sản cho Chúa. Chắc chắn Chúa không chấp nhận của lễ dâng cho Ngài từ một kẻ bất hiếu như thế. Chúa cũng không muốn một cái lòng gian dối, quanh co, luồn lách trách nhiệm như vậy. Chúa mong muốn, trước hết mỗi người phải có một tấm lòng thành đối với cha mẹ và lòng trung đối với Thiên Chúa, không thể bỏ qua bên nào, cũng không thể chỉ chọn một trong hai. Đồng thời, Chúa cũng không chấp nhận con người tìm cách thay thế luật Chúa bằng những tập tục gian dối của mình, hoặc chỉ chú trọng đến tập tục truyền thống mà làm lu mờ luật Chúa. (Dựa theo ý bài chia sẻ của Đức Cha Giuse ngày thường huấn 06/2/2018)
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận thảo hiếu với ông bà tổ tiên. Việc nhớ đến ông bà tổ tiên cũng phải đặt trên một tấm lòng thành. Lời Chúa hôm nay soi rọi cho Chữ Hiếu của người Việt Nam, việc hiếu thảo phải được thể hiện một cách đặc biệt qua các dịp lễ tết, bằng việc trân trọng gìn giữ nét đẹp truyền thống của gia đình. Kế đến, là việc thảo kính vâng lời và làm vui lòng các bậc sinh thành và tiền nhân.
Bài đọc một khuyên chúng ta: “Hãy ca tụng công đức của các bậc tiền nhân vì bao công lao khó nhọc và phúc ấm các ngài để lại cho con cháu”. Hãy gìn giữ và làm phát huy những giá trị tốt đẹp, là tài sản quý giá mà cha ông để lại. Gần đây, có một vài tiến sĩ đề nghị bỏ cái tết cổ truyền, với lý do là nghỉ tết nhiều, sẽ ảnh hưởng đến kinh tế. Nói như thế chứng tỏ, những nhà tiến sĩ này đã quên các giá trị đạo đức gia đình, truyền thống và văn hóa dân tộc, để chỉ nghĩ đến tiền (kinh tế). Ngày tết không đơn thuần là ngày nghỉ, vì ngày tết còn là ngày mỗi người có thể đụng chạm đến hồn dân tộc và cảm nhận được văn hóa lâu đời của một dân tộc, là dịp để mọi người sống, cảm nhận và vun đắp cho truyền thống gia đình. Vì vậy, không có ngày nào trong năm mà mỗi người cảm thấy thiêng liêng, quan trọng như đêm ba mươi và sáng mồng một tết. Cũng vì sự thiêng liêng quan trọng này, mà cha mẹ ở nhà mong con cháu về xum họp, mọi người đi xa đều mong về đến nhà, để xum họp với ông bà, mẹ cha và nhất là để thắp cho ông bà, tổ tiên một nén hương, thể hiện tấm lòng thảo hiếu biết ơn. Như thế, có bài học biết ơn nào hay hơn bài học thực tế này trong ngày tết; có tình cảm nào thiêng liêng, ấm cúng cho bằng tình cảm của gia đình xum họp trong ngày đầu năm. Chính trong dịp xum họp đầu năm này, mà các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình được lưu truyền cho con cháu. Cha mẹ, ông bà hạnh phúc vì con cháu thành đạt, xum họp đông đủ, con cháu tự hào, trân trọng, duy trì và làm phát huy truyền thống gia đình. Tuy nhiên, lòng thảo hiếu biết ơn, tình cảm gia đình, cuộc xum họp ngày xuân chỉ thực sự trở nên có ý nghĩa, khi mỗi người trở về với mẹ cha và gia đình bằng một tấm lòng thành. Thiếu tấm lòng thành, sự thảo hiếu chỉ còn là hình thức, thiếu tấm lòng, ngày xum họp gia đình, anh em chỉ còn là một màn kịch, bằng mặt mà không bằng lòng. Có nhiều gia đình ngày tết cha mẹ anh em gặp nhau mà không mừng, gần nhau mà không quý, còn có sự hiện diện của cha mẹ, anh em mà không biết trân trọng.
Thư Ephêsô dạy chúng ta duy trì bầu khí ấm cúng, truyền thống của gia đình mọi ngày trong đời sống bằng cách: “Hãy vâng lời và thảo hiếu cha mẹ, để ngươi cũng được trường thọ trêm mặt đất này”. Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho, thảo hiếu cha mẹ trước hết bằng sự tôn kính và vâng lời các ngài, vì các Ngài thay mặt Chúa, cộng tác với Chúa để sinh thành, nuôi dưỡng dạy dỗ và yêu thương chúng ta. Vì vậy, đạo làm con là phải biết vâng nghe lời dạy của mẹ cha, vì các ngài luôn muốn điều tốt và làm điều tốt cho ta. Ta yêu mến kính trọng các ngài, đừng hắt hủi khinh dể khi các ngài tuổi cao sức yếu, vì các ngài đã một đời hi sinh vất vả cho ta ngày hôm nay và vì các ngài hết mực yêu thương không tiếc gì với ta. Nay cha mẹ tuổi cao, ta có bổn phận phải làm cho tuổi già của các ngài được an vui hạnh phúc. Đừng khi nào tỏ ra bội nghĩa vong ân, hỗn láo hay cử xử tệ bạc với cha mẹ vì đó là điều đáng bị nguyền rủa và bị Thiên Chúa kết án.
Lời Chúa ngày tết hôm nay nhắc cho những người đang lơ là với cha mẹ và gia đình, cần biết điều chỉnh lại lòng mình. Gạt bỏ những gì là ấm ức tức tối, bất hòa bất đồng, những gì là bằng mặt mà không bằng lòng, để vun đắp lại tình nghĩa gia đình và tình cảm mẹ cha anh em. Vì, các thứ khác trên đời này có thể mua bằng tiền, nhưng cha mẹ, anh em và hạnh phúc gia đình không thể mua bằng tiền, mà phải đổi bằng hy sinh có khi là của cải, kể cả công danh sự nghiệp mới có được thứ hạnh phúc ấy - hạnh phúc gia đình. Amen.
** 18. Suy niệm Lời Chúa Mồng Hai Tết—Kính nhớ Tồ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ.
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày tết là dịp để chúng ta đoàn tụ với gia đình. Ai cũng mong được về cùng chung với gia đình bên mân cơm. Cùng dâng cho nhau ly rượu chúc mừng năm mới. Bữa cơm tết với gia đình thật ấm cúng, thật đáng quý biết bao. Vì ở giữa cuộc đời bon chen, không ở đâu bình yên bằng gia đình. Không ở đâu có tình yêu chân thật bằng cha mẹ con cái yêu thương nhau. Gia đình là tổ ấm, là điểm tựa của mỗi người, dù đi đâu thì gia đình vẫn luôn sẵn sàng là bến đỗ để ta trở về.
Thế nhưng, để hiểu điều này đôi khi phải chờ đến khi rời xa gia đình, lúc ấy chúng ta mới nuối tiếc về mái ấm gia đình mà chúng ta đã từng làm lơ hay hững hờ:
Khi rời xa mới biết ý nghĩa của gia đình
Mới biết niềm vui trong từng cử chỉ
Mới biết hạnh phúc phải đâu nào xa xỉ
Vì chỉ một nụ cười cũng đủ ấm con tim…(Kim Liên)
Có những người khi xa gia đình mới cảm thấy thương cha thương mẹ. Họ mới cảm nhận được “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Xa cha, nhớ mẹ, họ chỉ mong cho các ngài bình yên hạnh phúc trong lời kinh nguyện mà thôi:
Giữ mãi gia đình trong một góc riêng
Để nhớ để mong để âm thầm cầu nguyện:
- Xin nỗi buồn đừng hằn trên mặt mẹ
Và nụ cười đừng chia cách môi cha… (Kim Liên)
Khi rời xa khỏi vòng tay nồng ấm của cha mẹ, người ta mới thấy hụt hẫng, bâng khuâng. Tuy trong đời họ có tiền, có địa vị nhưng lại thiếu một tình yêu ôm ấp bảo ban. Thế nên, có những người thầm ước được trở về tuổi thơ, để nơi đó họ được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha:
Thời gian thấm thoắt trôi đi,
Tìm đâu một vé trở về tuổi thơ?
Một thời lém lỉnh ngây ngô,
Sống trong đùm bọc bến bờ yêu thương. (ST)
Tuổi thơ ai cũng hạnh phúc. Cái hạnh phúc là được ở trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Cái hạnh phúc nồng ấm khi được cha mẹ “Nâng như nâng trứng – Hứng như hứng hoa”. Cái hạnh phúc được làm nũng, được ăn vạ và được mẹ vỗ về. Đó cũng là món nợ ân tình mà những người làm con phải trả cho các bậc sinh thành đến suốt cuộc đời.
Con nợ mẹ cha những ngày vui bất tận
Rong ruổi suốt cuộc đời không định hướng tương lai
Con nợ những chiếc hôn còn nóng hổi vành môi
Trong cơn điên loạn giữa bạc tiền mến mộ
Nợ ân nghĩa mẹ cha đòi hỏi chúng ta phải trả cho suốt cuộc đời. Nếu các ngài đang trong tuổi già lầm lũi cô đơn thì hãy chăm nom, săn sóc, phụng dưỡng tuổi già. Nếu các ngài là những cha mẹ trẻ đang bươn chải một nắng hai sương thì phận làm con, hãy chia sẻ gánh nặng với các ngài trong khả năng của mình. Và nếu các ngài đã qua đời thì xin dành cho các ngài những nén hương với lời nguyện cầu tha thiết cho các ngài sớm hưởng phúc thiên đàng bên Chúa.
Một nén hương nồng nàn lặng lẽ
Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương
Dù bao năm dù có hóa vô thường
Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất.
Nhưng dù muốn dù không khi nói đến tình nghĩa mẹ cha, ai cũng cảm thấy mình còn thiếu sót, còn nhiều lỗi lầm với mẹ cha. Có những người đã từng cãi lời mẹ cha. Có những người đã từng quên lãng mẹ cha để mải miết đi tìm danh vọng. Có những người còn bất hiếu với mẹ cha qua những việc làm thất đức, đáng xấu hổ với “liệt tổ, liệt tông”. Đó là lý do khiến bao người khi nghĩ đến mẹ cha lại cảm thấy nuối tiếc về thời gian bên cha mẹ, nuối tiếc vì những việc làm đã gây đau khổ cho cha mẹ. Thế nên, có ai đó nói rằng:
Bài học đầu đời thật vất vả mẹ cha ơi!
Xin cho con im lặng để mắt con cay
Xin cho con lạnh lùng để con không bật khóc
Xin cho con góp nhặt để còn chút lương tâm
Xin cho con chuộc lỗi dù biết đã muộn màng.
Hôm nay Mồng Hai Tết, ngày cầu cho ông bà cha mẹ. Ai cũng phải nợ ân, nợ nghĩa ông bà cha mẹ. Hãy dùng thời gian hôm nay để nói lên lòng hiếu kính của chúng ta với các ngài. Hãy dâng cho các ngài lời nguyện cầu với lòng biết ơn mong sao các ngài luôn hạnh phúc bên đàn con cháu. Chúng ta hãy dành thời gian hôm nay để sum vầy bên các ngài quanh cầu chuyện đầu năm. Cùng chúc mừng các ngài vạn sự cát tường.
Xin cầu chúc cho các gia đình một ngày ngập tràn niềm vui sum vầy bên những người thân yêu nhất. Cầu chúc cho mọi nhà rộn ràng tiếng cười vui bên mâm cơm gia đình. Xin Chúa chúc lành cho ngày sum họp hôm nay được trọn niềm trong Chúa và bên nhau. Amen.
** 19. MỒNG HAI TẾT KỶ HỢI 2019: KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ngày xưa, với nền văn hóa nông nghiệp, có nhiều thời gian nông nhàn, việc nghỉ tết, ăn tết, vui xuân kéo dài cả tháng. Ngày nay xã hội công nghiệp, mọi sự đều phải rút ngắn thời gian, vì thế những ngày nghỉ tết, vui tết cũng bị rút ngắn lại. Cùng với sự rút ngắn thời gian, các giá trị văn hóa, tập tục truyền thống ngày tết cũng bị đơn giản lại hoặc bị bào mòn. Ví dụ: Trước đây ngày ba mươi và mồng một tết hầu như không ai ra khỏi nhà, mọi người dành trọn vẹn cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và gia đình. Đêm ba mươi cùng với việc tạ ơn trời, người Việt nam còn mời tổ tiên về ăn tết. Vì vậy đêm ba mươi, mọi người đều phải quy tụ trước bàn thờ tổ tiên để đón ông bà. Ngày mồng một, nén nhang, hoa trái, bánh kẹo đầu tiên được dâng lên tạ ơn trời, kế đến là cúng ông bà với lòng biết ơn để xin trời đất, ông bà phù hộ. Sau đó trọn ngày mồng một dành để chúc tuổi ông bà nội ngoại hai bên. Từ mồng hai trở đi sẽ là ngày đi chúc tuổi chú bác cô dì, họ hàng.
Ngày nay, các sự kiện được tổ chức vào đêm ba mươi để kéo mọi người ra khỏi nhà, cướp mất giờ phút linh thiêng giao thừa bên gia đình. Có nhiều người còn “trốn tết” bằng những cuộc du lịch dài ngày ngay từ ngày mồng một; những cuộc thăm viếng ông bà cha mẹ, họ hàng chỉ còn là thủ tục phải làm cho qua lần. Cứ như thế, tương quan gia đình ngày càng lỏng lẻo, liên hệ họ hàng ngày càng mờ nhạt, dẫn đến tình cảm và bổn phận thảo hiếu cũng bị vơi cạn, lâu dần các giá trị đạo đức cũng bị bào mòn. Có lẽ vì thế, thỉnh thoảng trên mạng lại loan truyền những đoạn clip con cái bạo hành cha mẹ, bất hiếu đuổi cha mẹ ra đường, đùn đẩy trách nhiệm chăm lo cho cha mẹ.
Ngày mồng một chúng ta được mời gọi hướng tâm hồn lên Chúa với tâm tình tạ ơn và phó dâng năm mới cho Chúa, cầu xin cho gia đình được an vui. Bước qua mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta bổn phận kính nhớ và bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người còn sống và những người đã qua đời.
Sách Huấn ca dạy chúng ta bày tỏ lòng biết ơn bằng việc học hỏi thực hành những điều cha ông truyền dạy và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp các ngài để lại: Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi các vị danh nhân cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ. Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Như thế, lòng biết ơn đối với tiền nhân là tiếp nối truyền thống đạo đức của cha ông mà các ngài đã dày công xây dựng, vun đắp cho gia đình và dòng họ. Là hậu sinh, chúng ta được mời gọi lưu giữ và bảo vệ thanh danh cho gia đình và dòng họ, giữ gìn nếp sống đạo hạnh mà cha ông đã tạo lập nên. Trong xã hội hiện đại, gia đình nào duy trì và vun đắp được những giá trị đạo đức truyền thống, như việc thảo hiếu, lễ phép, kính trên nhường dưới, trên thuận dười hòa, gia đình xum họp, con cháu thảo hiền, gia đình dòng họ đó sẽ êm ấm hạnh phúc. Cũng theo sách Huấn Ca: Khi các gia đình sống thư thế là chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với tiền nhân cách tốt đẹp nhất và cũng là cách chúng ta làm vẻ vang tổ tiên của gia đình hơn là xây các mồ mả cho to cho đẹp.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phản đối lối sống bất hiếu vô ơn đối với cha mẹ của những người Do Thái. Những người Biệt phái đến trách Chúa Giêsu vi phạm truyền thống của tiền nhân khi không thanh tẩy chén bát, đồ dùng trước khi dùng bữa. Chúa Giêsu chỉ cho những người này thấy giá trị truyền thống đích thực, không phải là các tập tục rửa tay, rửa bình, nhưng là phải chu toàn bổn phận thảo hiếu với ông bà cha mẹ. Chính việc thảo hiếu, tôn kính, biết ơn ông bà cha mẹ mới là giá trị truyền thống tốt đẹp và hơn nữa đó còn là giới răn lề luật của Thiên Chúa. Các luật sĩ và biệt phái đã đưa ra một điều luật thay thế bổn phận thảo hiếu là: Khi một người tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì được miễn mọi bổn phận phụng dưỡng báo hiếu, thờ cha kính mẹ. Việc dâng tặng lại cho nhà Chúa hoa trái và thành quả lao động của mình là điều tốt, đáng khuyến khích, nhưng Thiên Chúa không chấp nhận lễ dâng với sự vô ơn bất hiếu với cha mẹ như thế.
Chúa Giêsu đã phản đối điều luật này vì nó vi phạm trầm trọng đến giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Hãy thảo kính cha mẹ. Theo quan điểm của Chúa Giêsu, không có bất cứ thứ gì có thể đánh đổi hoặc thay thế được giới răn này của Thiên Chúa. Vì cha mẹ chính là những người được Thiên Chúa cho cộng tác với Chúa để sinh ra chúng ta. Cũng qua cha mẹ, Thiên Chúa tiếp tục yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ chúng ta. Vì thế, tất cả mọi người đều có bổn phận hiếu thảo, thờ cha kính mẹ, ai không chu toàn bổn phận này thì cũng là lỗi giới răn Thiên Chúa.
Qua thư Ephêsô, thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta bổn phận đối với cha mẹ: Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất kèm theo lời hứa: Để ngươi được hưởng thọ trên mặt đất này. Vâng lời cha mẹ không chỉ thể hiện sự thảo hiếu ngoan hiền đối với cha mẹ, mà vì cha mẹ là những người luôn yêu thương ta, hy sinh cả cuộc đời cho ta, chỉ dạy ta những điều tốt lành. Cha mẹ nhiều kinh nghiệm hơn ta và luôn muốn điều tốt cho ta. Nghe lời cha mẹ, chúng ta sẽ học được sự khôn ngoan và trưởng thành.
Mỗi người chúng ta mắc nợ cha mẹ về công sinh thành dưỡng dục. Kể sao hết công cha nghĩa mẹ vì chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nhiều năm dài nuôi ta khôn lớn; đong sao hết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, sức lực các ngài đã phải hao mòn vì con cái; đếm sao được biết bao đêm mất ngủ, biết bao ngày lo toan khi ta đau yếu bệnh tật vv. Phận làm con, khi khôn lớn, ta có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng gia đình với cha mẹ, chia sẻ với các ngài những lo toan của cuộc sống kinh tế gia đình, để các ngài bớt phần vất vả. Khi cha mẹ lớn tuổi, chúng ta phải chăm sóc, yêu thương, kính trọng và phục vụ các ngài. Khi các ngài yếu đau, trí nhớ giảm sút, con cái phải hết sức kiên nhẫn và lễ phép với cha mẹ, vì khi ta còn nhỏ, các ngài cũng đã hết sức kiên nhẫn và quảng đại với chúng ta. Cha mẹ đã đổ biết bao nước mắt vì chúng ta, khi cha mẹ về già, chúng ta phải đem niềm vui đến cho các ngài đừng để các ngài phải đổ thêm những giọt nước mắt khổ đau buồn tủi nữa.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày đoàn viên xum họp gia đình, ông bà, cha mẹ, con cháu quây quân bên nhau. Gia đình nào cũng mong ước có một bầu khí ngày tết xum vầy như thế. Tuy nhiên, không phải tất cả các ông bà, cha mẹ đều có được niềm vui hạnh phúc trọn vẹn bên con cháu. Thời nay, con người trọng tiền hơn trọng tình. Vì thế, nhiều người con đã rất thiết sót bổn phận với cha mẹ, bổn phận thảo hiếu phụng dưỡng cha mẹ được tính toán theo giá đất, được quy ra thành tiền. Có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ không phải vì biết ơn, mà vì ngóng trông phần hơn, khi chia tài sản của cha mẹ. Khi cha mẹ nghèo khó, hết tiền, hết của, con cái đùn đầy nhau trách nhiệm trông coi, nuôi dưỡng. Có những người con đem cha mẹ mình quăng ra đường hoặc hắt hủi cha mẹ như con ăn đầy tớ trong nhà.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc lại bổn phận kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ, để mỗi người rà soát lại xem mình đang chu toàn bổn phận thảo hiếu cách vuông tròn chưa. Chắc chắn cha mẹ sẽ không sống mãi với chúng ta, vì thế ai còn cha mẹ hãy làm cho cha mẹ cảm thấy an vui hạnh phúc trong tuổi già. Những ai đã không chu toàn hoặc đã từng đối xử tê bạc với cha mẹ, cần điều chỉnh lại thái độ của mình với cha mẹ.
Ngày hôm nay cũng nhắc cho chúng ta nhớ đến các bậc đã qua đời bằng việc chu toàn việc đọc kinh, cầu nguyện, xin lễ và nhắc cho con cháu cầu nguyện thường xuyên cho ông bà. Nhắc cho con cháu biết ơn ông bà cách riêng các dịp giỗ chạp; chăm sóc cho bàn thờ tổ tiên trong gia đình, đừng để tắt hương lạnh khói vì sự vô ơn hay vô tình của mình. Hôm nay ta chu toàn bổn phận thảo hiếu, biết kính trong cha mẹ ông bà, sau này con cái cũng theo gương đó mà kính trọng biết ơn ta.
Xin Chúa ban niềm vui và bình an xuống trên tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng con, vì các ngài dã một đời hy sinh vất vả vì chúng con. Xin Chúa ban cho các gia đình được anh phúc trên thuận dưới hòa, con cháu thảo hiền Amen.
** 20. Ngày Mồng hai Tết Giáp Ngọ: Sống Chữ Hiếu
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện.
Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: ” Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ? “. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện “.
Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.
Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: ” Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền ?”.
Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…
Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.
Con đi khắp vạn nẻo đường
Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền
Người con yêu quý nhất trên đời
Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu
Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy
Núi rất cao và biển rất tuyệt vời
Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở
Và trái tim nhân ái làm người
Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ
Phong sắc hồng hào tâm thể khang an
Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng
Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể
Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây
Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây
Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay
Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.
Xin Chúa làm chủ thời gian xin ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen.
** 21. “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ” (Mt 15, 1-6)
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Các môn đệ đã không rửa tay trước khi dùng bữa, nhưng người ta lại đi chất vấn vị Thầy của họ, là Đức Giê-su: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (c. 2)
Như thế, các môn đệ làm điều không đúng dưới mắt của những người tuân giữ và bảo vệ Truyền Thống, nhưng người nghe lời than trách, lại là vị Thầy. Điều này có nghĩa là lời giảng của Thầy, cung cách hành xử của Thầy và chính bản thân của Thầy có vấn đề!
Đối với người Do Thái, rửa tay trước bữa ăn không phải là vấn đề vệ sinh, nhưng là một nghi thức thanh tẩy. Bởi vì, lương thực là ân huệ Thiên Chúa ban, nên phải chuẩn bị mình đển đón nhận. Hiểu như thế, nghi thức thanh tẩy này thật là có ý nghĩa trên bình diện thiêng liêng và cũng là một nghi thức tôn giáo nên bảo tồn. Và thật ra, chính chúng ta cũng làm như thế: trước bữa ăn, chúng ta làm dấu Thánh Giá, đọc lời nguyện xin Chúa chúc lành; khởi đầu Thánh Lễ, chúng ta xin Chúa thanh tẩy để trở nên xứng đáng lãnh nhận Lời và Mình của Đức Ki-tô như là lương thực; và theo Phụng Vụ Thánh Lễ, linh mục phải rửa tay trước khi cử hành nghi thức truyền phép, đồng thời đọc thầm: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm xin Ngài thanh tẩy” (x. Tv 51, 4).
Như thế, những người Pha-ri-sêu và Luật Sĩ thật có lí, khi lưu ý Đức Giê-su rằng, các môn đệ của Ngài đã không rửa tay trước bữa ăn. Cũng tương tự như các nhà chuyên môn về phụng vụ của chúng ta, hay những người yêu thích phụng vụ vẫn thường lưu ý hay góp ý người này người kia đã làm sai hoặc không làm một qui định chữ đỏ nào đó trong Sách Lễ Roma. Tuy nhiên, Đức Giê-su lại bênh vực các môn đệ của mình. Vậy, đâu là vấn đề của những người Pha-ri-sêu và Luật sĩ ? Và phải chăng, vấn đề của họ cũng có thể là vấn đề của chúng ta ?
Nghi thức thanh tẩy dù có ý nghĩa và quan trọng, nhưng cũng chỉ là một cách diễn tả của con tim, là một lời mời gọi hướng tới một thái độ nội tâm. Thật vậy, giữ nghi thức và giữ thật đúng qui định nói lên điều gì hay sẽ đem lại hoa trái nào, khi mà trong lòng trống rỗng, hay có những tâm tình hay cảm nghĩ bất xứng hay không phù hợp ? Như Đức Giê-su đã nói trong Bài Giảng Trên Núi:”Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Sai lầm là ở chỗ, người ta bị xét đoán là thanh sạch hay nhơ uế tùy theo việc giữ hay không giữ nghi thức rửa tay hay những nghi thức khác ; như thế, nghi thức trở thành tiêu chuẩn xét đoán về tương quan giữa con người và Thiên Chúa, và do đó, giữa con người với nhau, bởi vì người ta sẽ cư xử đặc biệt với những “người nhơ uế”, những “người tội lỗi”.
Đối với Đức Giê-su, điều làm cho người ta trở nên thanh sạch hay nhơ uế không phải là điều ở bên ngoài, nhưng là điều trong nội tâm. Trước đó, Đức Giê-su đã trích lời Kinh Thánh này: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15, 8-9). Và trong các Mối Phúc, Đức Giê-su nói : “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (5, 8).
Ước gì chúng ta có được một con tim biết sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa; vì đó là con đường duy nhất làm cho con tim của chúng ta trở nên gần gũi với Thiên Chúa, làm cho các việc làm, các thực hành đạo đức của chúng ta trở nên đáng yêu dưới mắt Chúa. Nhưng ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất lực trong nỗ lực điều khiển con tim, trong việc làm chủ những diễn biến nội tâm, và nhất là những diễn biến ở những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn. Chỉ có Thiên Chúa, ngang qua Lời và Mình của Đức Giê-su, mới có thể làm cho con tim của chúng ta nên thanh sạch, mới có thể tái tạo và làm cho con tim của chúng ta nên mới. Xác tín này làm cho chúng ta bình an và khiêm tốn.
Truyền thống và Lời Chúa
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa được nghe công bố, Đức Giêsu nói hai lần về cùng một điều, đó là tương quan giữa truyền thống và Lời Chúa. Lần thứ nhất về chuyện rửa tay trước khi dùng bữa : “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”(c. 3)
Lần thứ hai, nghiêm trọng hơn, vì liên quan đến luật thảo kính cha mẹ của Mười Điều Răn: “Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa” (c. 6b)
Trong câu nói này, Đức Giêsu coi giới răn như là lời Thiên Chúa. Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su còn thêm: “Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa !” (Mc 7, 13) Truyền thống là một giá trị qui chiếu quan trọng, hơn nữa là một ơn huệ, bởi vì đó là một cách sống giới răn của Chúa, sống Lời Chúa của một cộng đoàn trong một thời gian và nơi chốn đặc thù. Nhưng với thời gian, các việc thực hành tốt đẹp này trở thành máy móc, nghĩa là nghi thức tự động tạo ra sự thanh sạch, trở thành quan trọng hơn so với chính Lời Thiên Chúa, trở thành ngẫu tượng.
Chúng ta cũng có rất nhiều truyền thống ở mọi cấp độ: Giáo Hội, Dòng tu, tu hội, dân tộc, cộng đoàn, nhóm… Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhận định lại toàn bộ dưới ánh sáng của Lời Chúa ban sự sống và diễn tả lòng thương xót.
Giới răn “Thờ cha kính mẹ »
Tại sao, giới răn “thờ cha kính mẹ” mang tầm mức Lời Chúa, vượt trên mọi lề luật, thói quen, tập quán phát xuất từ Truyền Thống?
Bởi vì, năng động sống « uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu », thuộc về nhân tính, vốn được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, đạo hiếu từ ngàn xưa của Dân Tộc Việt Nam đã phát xuất và chất chứa Lời Thiên Chúa. Ngoài ra, giới răn này không chỉ có nền tảng nhân bản, nhưng còn có nền tảng thiêng liêng nữa. Bởi vì:
‘‘Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn con người đến việc tin nhận Thiên Chúa. Thực vậy, tổ tiên ông bà và cha mẹ sinh ra chúng ta, nhưng các vị không phải là nguồn sự sống; hơn nữa, sự sống rất nhiệm mầu và chỉ có thể đến từ Thiên Chúa mà thôi, như chúng ta vẫn nói: cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Nhất là trong việc giáo dục đức tin ngày nay, giáo dục lòng biết ơn là con đường tốt nhất dẫn người trẻ đến kinh nghiệm tin nhận Thiên Chúa: biết ơn, biết ơn đối với cha mẹ, đối với cuộc đời, đối với Giáo Hội, và đối với chính Thiên Chúa, cội nguồn và điểm tới của mọi sự.
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn đến hiểu biết khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, một khuôn mặt rất dễ bị bóp méo bởi những hệ thống tư tưởng, khuynh hướng tuyệt đối hóa những điểm tùy phụ và bởi chính luật lệ. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và “Đấng Hay Thường Xót”; và khuôn mặt này được phản ánh tốt nhất nơi cha mẹ. Đức Giê-su cũng đã khởi đi từ tình yêu của cha mẹ, để giúp chúng ta hiểu đúng về Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11).
Và cuối cùng, một thái độ “thờ cha kính mẹ” sẽ khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới làm thỏa mãn niềm hi vọng gia đình tái đoàn tụ mãi mãi bên nhau trong tình yêu thương mà thôi.
25/01 Tông Đồ Phaolô Trở Lại
- Viết bởi Mc 16, 15-18
Tông Đồ Phaolô Trở Lại.
Thứ Bảy tuần 2 thường niên – THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI. Lễ kính.
Kết thúc tuần lễ cầu cho các Kitô hữu hợp nhất.
“Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”.
* Trên đường đi Đamát, ông Saolô quê thành Tácxô đã khám phá ra hai điều: Trước hết, Đức Giêsu Nadarét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành; thứ đến, Đấng phục sinh với các Kitô hữu là các anh em người, chỉ là một.
Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.
Lời Chúa: Mc 16, 15-18
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: ”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.
Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Con phải làm gì?
Suy niệm :
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng
giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.
Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi.
Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống,
để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh.
Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3),
Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo,
bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5).
Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã.
Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước,
thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7).
Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt,
thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11).
Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối,
thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11).
Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.
Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu:
“Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?
Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8).
Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu.
Đức Giêsu và các Kitô hữu là một.
Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10).
Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa.
Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa,
anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm.
Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì.
Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu.
Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết
anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.
Đamát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô,
là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại,
và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông.
Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải.
Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới.
Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông.
“Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8).
Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai.
“Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua,
để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13).
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô:
ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải.
Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình,
và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
Cầu nguyện :
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.
Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Tông Đồ Phaolô Trở Lại
Người ta gọi Ngài một biệt danh như thế, nhưng Ngài không được hân hạnh như nhóm 12 các ông, đã được trông thấy Người, được nghe, được đi theo sau khi được Người chọn các ông. Đối với 12 vị, Đức Ki-tô không phải là người xa lạ, đó là người cùng làng xóm. Một người cùng chi họ. Còn Phaolô, ông không bao giờ trông thấy Đức Ki-tô. Nếu ông là kẻ bắt bớ các tông đồ và các môn đệ, không phải vì các ông này tuyên xưng danh Đức Ki-tô, nhưng các ông cũng như Đức Ki-tô, đã làm rối trật tự, Phaolô là người biệt phái, công dân Rôma, môn sinh của các thầy nổi tiếng thời đó. Ong không đấu tranh chống lại một bóng ma, nhưng chống lại những kẻ theo một giáo lý mới làm điên cuồng.
Một thế hệ mới...
Phaolô đã là một người thuộc thế hệ mới của các tông đồ. Công vụ tông đồ kể lại một cách tóm tắt cho chúng ta đoán được Phaolô chắc chắn đã tiêu hao nhiều năm đi bắt bớ các tín hữu, trước khi bị té ngựa trước ánh sáng Đức Ki-tô. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã ban bố và được đón nhận khắp xứ Giuđa. Trước khi Phaolô xuất hiện. Phêrô đã làm cho nhiều người ngoài Do Thái trở lại rửa tội.
Phaolô, một người thuộc thế hệ mới, vì ông sống trong nền văn hóa Hy lạp, được giáo dục Rôma. Và cuộc trở lại của ông là nhờ ơn Chúa biến đổi ông tận gốc.
Cho tới ông, Tin Mừng còn hạn chế chỉ giảng cho người Do Thái, trừ Phêrô mới giảng một lần cho dân ngoại. Nhưng khi đến thời giảng Tin Mừng cho dân ngoại, thì Phaolô trở thành một Tarrê, một bổn đạo mới đã được trao trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Thánh Thần đổi mới.
Phải trông cậy vào Thánh Thần, Ngài đến canh tân mọi sự, Thánh Thần muôn đời tươi trẻ. Ngài không bảo chúng ta phải chiều theo những tính hay thay đổi của tuổi trẻ, bắt chước những tính đó là làm trò hề và ngu muội, Ngài bảo chúng ta phải biết lắng nghe những gì cao đẹp và tươi trẻ, và thi hành trọn vẹn những đòi hỏi của chân lý của chân thành, của ân huệ và hướng dẫn những tính tự nhiên đó sống theo Thánh Thần.
Ước mong những người đạo lâu đời trở nên những người đầu trong tình yêu và tái sinh thành trẻ trung và đổi mới theo Thánh Thần.
J.M
SUY NIỆM 3: Thánh Phaolô Trở lại
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh Phaolô.
Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái của Phaolô, là một thanh niên phong thái và đầy nhiệt huyết đối với Ðạo. Vừa thụ huấn xong với một thầy Rabbi nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những người môn đệ của Ðức Kitô mà anh cho là một bè phái đi ngược lại với Ðạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại".
Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoại Do Thái Giáo.
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quan trọng nhất trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như lề luật Maisen, Tin Mừng còn là một nối dài của Do Thái Giáo, nhưng chính là một Tôn Giáo mới cho mọi dân tộc, mọi văn hóa.
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhất. Nơi thánh Phaolô, con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của Ðạo Giáo của mình, để tuyên bố: Hãy trở thành Hy Lạp với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở lại?
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, "trở lại" nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 4: Thánh Phaolô Trở lại
Trong khi thánh Phêrô được xác định là “đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là “thầy dậy các dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2,7).
Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mêxia bị xử tử như một tội đồ.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisiêu đạo đức, đã biến đổi ngài thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gal 1,11-16).
Lễ thánh Phaolô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Galien từ thế kỷ thứ 8.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Đức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Cha và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
SUY NIỆM 5: NGƯỜI HÙNG CỦA TIN MỪNG
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Phaolô là người hùng của Luca trong sách Công vụ Tông đồ, một người hùng không phải vì những chiến công đánh đông dẹp bắc, nhưng là người hùng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Khởi điểm của người hùng ấy lại là sự kiện ngã ngựa đau đớn và rồi chịu khuất phục hoàn toàn trước vị vua vũ trụ Giêsu. Từ khi tỉnh ngộ, nhận biết Đức Giêsu, cuộc đời Phaolô chuyển sang một hướng mới: nghĩ mọi cách, làm mọi sự, đi mọi nơi, gặp mọi người, miễn là Tin Mừng của Đức Giêsu được loan báo, để mọi người cũng được nghe, biết và rồi đón nhận Tin Mừng ấy như mình. Vì yêu mến Đức Giêsu, người hùng Phaolô luôn lao mình về phía trước, bất kể thử thách, chống đối và thậm chí bách hại.
Mời Bạn: Từ người hùng bách hại đạo Chúa, Phaolô trở thành người hùng phụng thờ Ngài. Từ chỗ cậy dựa vào công trạng cá nhân, sau cú ngã ngựa, Phaolô nhận ra mọi vinh quang cá nhân phát xuất từ ơn cứu độ, sự sống mới của Đức Giêsu. Còn bạn, bạn dám hoán cải triệt để như Phaolô không, nghĩa là mạnh dạn thay đổi cái nhìn về Chúa, người khác và chính mình không?
Sống Lời Chúa: Noi gương thánh Phaolô, tôi sẽ nỗ lực vượt lên tính an phận, để trở thành “người hùng” trong việc loan báo Tin Mừng và phụng thờ Chúa, bằng cách sống những việc bình thường với lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hoán cải một người bách hại đạo Chúa trở thành người loan truyền Tin Mừng. Xin cũng biến đổi chúng con, những môn đệ yếu hèn, nhát đảm, trở thành những chứng nhân hăng say và nhiệt thành của Nước Trời. Amen.
SUY NIỆM 6: THÁNH PHAOLÔ TÔNG ÐỒ TRỞ LẠI
(http://www.simonhoadalat.com)
Thánh Phaolô đã viết: “Tôi biết tôi tin vào ai và xác tín rằng: Ðức Kitô là Vị Thẩm Phán chí công có đủ quyền năng bảo toàn Giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày Người ngự đến" (2Tm 1.12; 4, 8). Thánh Phaolô đã có một cảm nghiệm sâu xa về Chúa Kitô khi Ngài bị đánh ngã ngựa trên đường đi Ðamas.
PHAOLÔ LÀ AI ?
Phaolô là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin, tên của Ngài là Saolô, quê Tarsê xứ Xilixia. Gia đình của Phaolô đã nhập tịch làm dân Roma, nên Ngài cũng là dân Roma. Saolô ngay từ thuở thiếu thời luôn trung thành với truyền thống của cha ông mình. Saolô là một phần tử hăng say thuộc nhóm biệt phái, luôn thù ghét các Kitô hữu, thù ghét Giáo Hội của Chúa Giêsu. Saolô đã tham dự vào việc ném đá Têphanô: "Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô"(Cv 7, 58). “Phần ông Saolô, ông tán thành việc giết ông Têphanô" (Cv 8, 1). Saolê bắt đầu từ lúc đó càng hăng say bắt bớ Giáo Hội Chúa Kitô: “Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục" (Cv 8, 3). Saolô đã được các thượng tế Do Thái cho phép, đồng ý nên đã đến các hội đường ở Ðamát, để nếu thấy những người theo Ðạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem (Cv 9, 1).
CHÚA KÊU GỌI SAOLÔ
Chúa luôn có con đường của Ngài và nẻo đường của Ngài không ai biết trước, không ai hiểu rõ như thánh Phaolô đã viết: “Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Ðường lối của Người, ai theo dõi được" (Rm 11, 33). Trên đường đi Ðamát với một khí thế hung hăng, đằng đằng sát khí, Saolô muốn tiêu diệt Giáo Hội của Chúa, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với Ông: “Sa-un, Sa-un, tại sao Ngươi bắt bớ Ta" (Cv 9, 4). Saolô liền hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai ?" (Cv 9, 5)
Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ" (Cv 9, 5). Và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?". Chúa truyền cho Saolô vào thành và gặp Khanania, nơi đó Khanania đã nói với Saolô: “Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Ðức Giêsu, Ðấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần" (Cv 9, 17) và "Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Saolô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa" (Cv 9, 18). Saolô từ lúc sáng mắt đã hoàn toàn được đổi mới. Ông nhiệt thành đi rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã nong nả đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, và trở nên vị tông đồ dân ngoại rất lừng danh. Thánh nhân đã luôn tin tưởng vào Chúa, Ngài viết: “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Ðấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay, mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Ðức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng" (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phaolô trở lại).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
SUY NIỆM 7: Thánh Lễ Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại – Cú ngã ngựa lịch sử
Đọc lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Công vụ Tông đồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại qua cú ngã ngựa trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Cuộc sống bôn ba vì Nước Trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?... Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39).
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hy lạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Nhưng tại sao Giáo Hội không chọn trong số những hình ảnh đẹp ấy, mà lại lấy hình ảnh ngã ngựa để đem mừng kính trong một ngày lễ? Thưa vì đó là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời ngài ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
- Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi "tại sao?" đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là "Phaolô" đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
- Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận "tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi"
- Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
- Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
- Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: "Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi".
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa nhật, TGP Sàigòn, tháng 01. 2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì "Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó, tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô. Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ, là bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài, không có sự sông chính của riêng tôi, sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô... ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: "vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu" (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là "tất cả mọi sự và trong mọi người" ( Cl 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr 11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi"; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ có khi không khỏi nao núng:" anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai... (2 Tim 1, 8-12). Vì đức Kitô "tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích" (2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình "Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành" (2Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy "chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn; lâm bĩ nhưng không mạt lộ; bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4, 8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài " tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi"(Gal 2, 20).
3. Những cú "ngã ngựa" trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô. Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo.... Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (x. 2 Tm 4, 6-8; Rm 8, 18-19. 32. 33. 38. 39)
Nhìn vào biến cố "ngã ngựa" của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú "ngã ngựa". Có những cú "ngã ngựa" trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú "ngã ngựa" trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe...
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn "ngã ngựa" chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn "ngã ngựa" như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam - Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. "Tội hồng phúc" là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú "ngã ngựa" của Thánh Phaolô hôm nay là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu "ngã ngựa" là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
*****************************************************
MỒNG MỘT TẾT CANH TÝ 2020_Mt 6,25-34
Thứ Bảy: Mt 6,25-34
Thứ Bảy 25/02/2020 – Phó thác cho Chúa của mùa xuân.
25/02 – Thứ Bảy tuần 2 thường niên.
MỒNG MỘT TẾT CANH TÝ. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI.
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Lời Chúa: Mt 6,25-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao? Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư?
Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?"
Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó.
Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
1. Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang đến.
Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa
để thấy tất cả là hồng ân,
kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.
Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm trên đời.
Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên rồi lặn xuống.
Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu trời.
Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.
Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất đáng quý.
Con Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong dòng thời gian như ta.
Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý…
Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách Dân Số (6, 22-27).
Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành cho dân.
Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức Chúa:
“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em.
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh em.”
Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an ninh, thịnh vượng…
Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân Israel (c. 27).
Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ họ.
Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức Giêsu.
Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về tương lai.
Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có thật.
Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong manh.
Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người không yên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng ta “Đừng lo.”
Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin, giỏi giang hơn người khác.
Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu cầu của họ.
Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không bất an, lo âu.
Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua,
chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,
vì Cha vẫn cho chúng con sống,
và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha
vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến,
trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng con cũng muốn
ở lại trong quỹ đạo của Cha,
nhận Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận mọi người là anh em. Amen.
1b. Quê hương thật (Ga 14,23-27)
Trong những ngày Tết, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được khoẻ mạnh, được nhiều may mắn, được gặt hái những thành quả tốt đẹp. Thế rồi khi năm mới bắt đầu, chúng ta thường ra sức làm việc, nhưng phần lớn là để tìm lấy những vinh quang, những lợi ích cho riêng mình. Và nếu có lỡ thất bại, chúng ta cảm thấy buồn chán, và nhất là chúng ta hậm hực tức tối khi người khác trổi vượt hơn chúng ta. Chính vì thế, đây là lúc chúng ta phải đặt lại vấn đề, phải xác định phương hướng cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sống là để làm gì? Và đâu mới là quê hương thật của chúng ta? Trả lời cho những câu hỏi này chúng ta mới có thể đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta đi cũng như mới có thể tìm thấy được những giá trị trường tồn và vĩnh cửu.
Khi ông Roosevelt còn làm tổng thống nước Mỹ, có lần đã đi nghỉ hè tận Phi Châu để săn những con hươu cao cổ. Trên chuyến bay từ Phi Châu trở về Hoa Kỳ, có một nhà truyền giáo đã hy sinh phục vụ những dân Phi Châu suốt 40 năm trời. Khi phi cơ hạ cánh, nhà truyền giáo ấy chứng kiến đông đảo dân chúng cùng một phái đoàn cao cấp trong chính phủ ra đón mừng tổng thống trở về bằng yên, không ai để ý tới nhà truyền giáo đang lủi thủi một mình. Bấy giờ nhà truyền giáo than thở với Chúa trong cõi lòng của mình: Lạy Chúa, Chúa biết không, một vị tổng thống đi nghỉ hè trở về mà được nhiều người đón rước như vậy. Còn con đây, con đã hy sinh vì Chúa để phục vụ những người anh em cùng khổ tại Phi Châu suốt 40 năm thế mà giờ đây, khi trở về, lại không một ai thèm nhớ đến con. Quả là bất công và tủi hổ cho thân phận của con. Thế nhưng lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời trong tâm hồn nhà truyền giáo: Này con, đừng vội thất vọng, vì con chưa trở về quê hương thật của con cơ mà.
Có thể đôi lúc chúng ta cũng than phiền với Chúa như thế. Và câu trả lời của Chúa cho nhà truyền giáo cũng là câu trả lời cho mỗi người chúng ta: Con chưa trở về quê hương thật của con. Trần gian chỉ là nơi tạm gởi và vinh quang của nó tựa cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn. Vì thế, đừng quá bận tâm tới tiền bạc vật chất, địa vị danh vọng, cũng đừng ganh tỵ với những may mắn của kẻ khác, nhưng hãy cố gắng tạo cho mình một kho tàng thiêng liêng, có giá trị trường cửu, để nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Với những chia sẻ ngắn ngủi trên, tôi xin cầu chúc anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
2. Thời gian (Mt 6,25-34)
Một năm mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ đã qua đi trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của cuộc đời chúng ta đang sống?
Người xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi đưa. Một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần ở cùng một dòng sông. Cuộc đời chúng ta trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng. Thế nhưng 60 năm ấy, 100 năm ấy có là gì so với khoảng thời gian bao la của vũ trụ. Bởi đó, người xưa đã phải thốt lên một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời ngắn ngủi: Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Và Thánh Vịnh cũng đã sánh ví: Cuộc đời như cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn.
Bởi đó, tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã tìm mọi cách để kéo dài cuộc sống và khát vọng được sống vĩnh cửu vẫn là niềm day dứt nhất của con người. Ngày xưa, có những người đã phải vào tận rừng sâu để tìm cho được trái đào trường thọ. Có những người đã phải khổ công tu luyện để chến biến cho được những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã phải xây những ngọn tháp cao vút để hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất mà uống vì nghĩ rằng những giọt sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con người. Ngày nay y khoa luôn cố gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng thêm tuổi thọ cho con người. Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực tại ngàn đời không thể lẩn trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm tay của chúng ta, nếu không muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu chuyện dưới đây đã minh chứng:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người đó bưng thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị thuốc này có ăn được không? Người ấy đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn giật lấy vị thuốc ấy mà ăn. Nhà vua biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn truyền bắt viên quan ấy mà đem đi chém đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã hỏi người đem dâng và được biết đó là một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì sẽ không chết nữa. Thế mà thần vừa mới ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây là thuốc tử thuốc chết, chứ sao lại gọi là bất tử cho được. Nhà vua giết thần là bắt lỗi một con người vô tội, đồng thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.
Câu chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh thì phải có tử. Thuốc bất tử chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng được sống mãi, được sống đời đời vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được trường thọ khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh bình dân của mấy ngày tết là gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của con người, là Phúc Lộc Thọ. Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một cái gì quý giá cần phải bảo vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.
Chúng ta bất lực trước khát vọng được sống mãi và người khác cũng không thể thực hiện cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ mình Chúa mới là Đấng dư quyền năng và tình thương để làm cho chúng ta được sống như lời Ngài đã phán: “Ta là Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Ta đến để họ được sống và được sống dồi dào”. Thực vậy, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của niềm vui, của sự sống. Vậy muốn được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa đã chỉ vẽ. Phải tuân giữ những điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo mà Ngài đã tỏ lộ. Con đường ấy, cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng ngang.
Trước hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì đó chính là bổn phận của một kẻ nhận ơn đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối với Đấng tạo hoá, của kẻ làm con đối với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn như Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải yêu thương mọi người như chính mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như Chúa đã dạy: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai mới là đạo. Vì nếu chỉ mến Chúa mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối. Còn nếu chỉ yêu người mà không mến Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều trống rỗng và vô nghĩa như tiếng não bạt ầm vang. Người vô thần không tin thờ Chúa, chúng ta gọi họ là kẻ vô đạo. Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại không yêu thương anh em, thì chúng ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.
Hãy mến Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu chúc trường thọ của chúng ta sẽ được Chúa thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng như cho những người mà chúng ta cầu chúc.
3. Nhìn lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
Chúng ta đã bước qua ranh của năm cũ và đang đứng ở đầu ranh của năm mới. Năm cũ là một chặng đường dài và năm mới cũng sẽ là một chặng đường dài. Đứng ở giáp ranh hai chặng đường dài ấy, chúng ta thường có hai hướng nhìn. Một là nhìn lại, hai là nhìn đi. Nhưng đâu là ý nghĩa mà hai cái nhìn ấy muốn gửi đến với chúng ta trong giây phút linh thiêng này?
Trước hết khi nhìn lại, chúng ta nghe vọng lên nỗi niềm biết ơn. Đúng thế, hãy biết ơn những gì đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy trong năm qua chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu, vì chúng ta là những kẻ thiếu thốn luôn cần đến người khác. Cần để sống, cần để nên người, cần để thắng lợi. Từ đồng bạc cắc đến một sản nghiệp. Từ nụ cười đến tình thương, từ lời chào đến tiếng khuyên. Tất cả những gì chúng ta nhận lãnh đều là những viên gạch xây dựng cuộc đời chúng ta. Đừng chỉ coi những gì sung sướng hay lớn lao mới là ơn. Dù cuộc đời chúng ta có như chiếc xe đò ồn ào, đông đảo, chen lấn, nhưng sau cùng xe lại trống trơn, thì chúng ta cũng đừng cho mình là cô đơn vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều.
Dù cuộc đời chúng ta có như một cành mai báo hiệu mùa xuân, nhưng chính mình lại không có mùa xuân vì mau tàn vội héo, thì cũng đừng cho mình là phù hoa chẳng chịu ơn, vì thực sự chúng ta cũng đã lãnh nhận rất nhiều. Dù cuộc đời chúng ta có như một khúc sông, nuôi dưỡng bao nhiêu ruộng đồng, thì cũng đừng kiêu hãnh cho rằng chỉ có mình, vì khúc sông này bao giờ cũng mắc nợ những khúc sông khác, nhất là mắc nợ với nguồn mạch yêu thương. Dù cuộc đời chúng ta có như một ngôi nhà lộng lẫy, thì cũng đừng tự đắc cho rằng tất cả là do ở mình, vì ngôi nhà vẫn mắc nợ với từng hạt cát, từng viên gạch, từng giọt mồ hôi và biết bao những công lao vất vả. Dù cuộc đời chúng ta có như Saolô ngã ngựa thì cũng đừng cho rằng mình vô phước, vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều, và biết đâu chính sự ngã ngựa ấy, lại là một ơn huệ.
Tóm lại, cuộc đời của chúng ta là kết tinh của biết bao công ơn. Mà đã chịu ơn thì phải biết ơn. Còn biết ơn những ai, thì mỗi người có thể tự trả lời. Hãy biết ơn, đó là tiếng vọng chúng ta nghe được khi nhìn lại quá khứ. Còn khi nhìn đến tương lai, chúng ta ghi nhận những gì?
Tôi xin thưa, đó là hãy tiến bộ, hãy phát triển, bởi vì sống là tiến bộ, sống là phát triển. Không tiến tức lùi, không cố gắng bơi thì sẽ bị giòng nước cuốn trôi. Phát triển không phải chỉ về phần xác, to bề ngang, cao bề đứng, nhưng còn về tinh thần. Tiến bộ không phải chỉ về sản xuất mà còn về đạo đức. Cặp mắt phải biết nhìn cuộc đời một cách thực tế hơn, không để mình bị ru ngủ bởi những ảo vọng hão huyền. Con tim phải biết khử trừ những nghi kỵ hận thù, để đoàn kết và mở rộng cánh cửa thương yêu. Trí khôn phải biết tin tưởng vào Chúa và rút ra từ lòng cuộc đời những bài học bổ ích cho tâm hồn. Bản thân phải biết bấu víu vào Đấng có thể an ủi mình ở đời này và ban cho mình hạnh phúc ở đời sau, cũng như phải biết thu tích những sự thiêng liêng không bao giờ hư mất.
Dĩ vãng kêu gọi chúng ta hãy biết ơn, tương lai kêu gọi chúng ta hãy tiến bộ, đó là sứ điệp mà chúng ta ghi nhận trong dịp đầu xuân, khi chúng ta đứng giáp ranh giữa năm cũ và năm mới vậy.
4. May mắn (Mt 5,1-10)
Trong dịp đầu xuân, người ta thường gửi cho nhau những tấm thiệp với lời nguyện chúc tốt đẹp nhất. Rồi trong những ngày tết, bước chân ra đường, chúng ta sẵn sàng nở một nụ cười thật tươi và không ngần ngại cầu chúc cho nhau một năm mới nhiều may mắn. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin thành thật gửi đến cho anh chị em. Thế nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu xem sự may mắn là gì? Bởi vì năm người thì mười ý, mỗi người hiểu sự may mắn theo một quan niệm riêng.
Thực vậy, nếu tôi hỏi bác nông dân:
– Một năm mới nhiều may mắn là gì?
Bác sẽ vuốt chòm râu bạc hay lau khô những giọt mồ hôi trên trán và trả lời:
– Đó là một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, lúa thóc đầy bồ.
Nếu tôi hỏi một cô gái đi buôn:
– Thế nào là một năm mới nhiều may mắn?
Chắc hẳn cô ta sẽ trả lời:
– Đó là một năm trúng mánh, đi chuyến nào trót lọt chuyến ấy, không bao giờ bị bắt và nếu có bị bắt, thì cũng gãi đầu gãi tai, năn nỉ ỉ ôi mà xin lại được.
Nếu tôi hỏi đôi vợ chồng trẻ:
– Năm mới nhiều may mắn là gì?
Họ sẽ trả lời:
– Đó là một năm không bao giờ xảy ra cái cảnh nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách bay ra ngoài sân, hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Rồi đầu năm sinh con trai và không chừng cuối năm sinh con gái. Hay là trúng số cặp hai, đẻ sinh đôi, nuôi luôn một thể.
Cái được gọi là may mắn của nhiều người thời nay là gì, nếu không phải là những thành công, những tiến bộ. Và nhất là tiền bạc phải rủng rỉnh. Bởi vì trong mọi sinh hoạt, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng là vấn đề tiền đâu.
Dĩ nhiên chúng ta phải nghĩ đến sinh kế làm ăn và mong ước có được một cuộc sống tương đối đầy đủ. Thế nhưng thành công trong nghề nghiệp, chiếm được một địa vị khả quan ngoài xã hội, lãnh được một số lương hậu hĩnh, tạo được những thành tích sáng chói mà thôi chưa đủ để nói được rằng: đó là một năm mới nhiều may mắn. Điều quan trọng hơn hết là phải biết kết hiệp với Chúa, phải biết làm việc cho Ngài, để mỗi hành động của chúng ta có được một giá trị vĩnh cửu. Những việc còn lại sẽ không mấy quan trọng, vì tất cả rồi sẽ qua đi.
Thực vậy, Chúa đã phán:
– Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Phúc âm đã kể lại câu chuyện về ông phú nông như sau: Năm đó, mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng lớn. Ông ta thu tích không biết cơ man nào lúa thóc. Cho nên ông ta đã quyết định phá kho lẫm cũ nhỏ bé, để xây kho lẫm mới to lớn hơn nhiều. Rồi đưa mắt nhìn về tương lai giữa lúc ông cảm thấy được bảo đảm thì lời Chúa vang lên:
– Hỡi kẻ điên khùng và dại dột, nếu như đêm hôm nay người ta đến đòi linh hồn ngươi, thì ngươi sẽ ăn nói làm sao bây giờ, và những của cải ngươi chắt chiu thu tích sẽ để lại cho ai?
Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói:
– Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.
Với Chúa, chúng ta sẽ có được mọi sự. Một mình Chúa mà thôi, thì cũng đã đủ. Giữa những lao công vất vả, giữa những giọt mồ hôi và nước mắt, giữa những quyến dũ trần gian, thì đôi mắt chúng ta vẫn hướng nhìn về Chúa. Chỉ có một sự cần đó là sống cho Chúa để cứu rỗi linh hồn mình.
Ngày kia quận công Toscane đi tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính tòa. Ông ta nhìn thấy những em bé được rước lễ lần đầu đang quỳ cầu nguyện thật sốt sắng, nên sai một tên cận vệ bí mật trèo lên nóc thánh đường, rỡ một viên ngói, rồi từ đó ném xuống những đồng tiền vàng. Những đồng tiền vàng rơi trên nền gạch, tạo thành những tiếng động trong bầu khí thinh lặng, trang nghiêm và thánh thiện này, rồi lăn đi khắp mọi nơi… Tuy nhiên, không một em nhỏ nào đã cúi xuống lượm những đồng tiền vàng ấy. Không một em nhỏ nào đã chia trí và lo ra.
Chút nữa đây trong thánh lễ vị linh mục sẽ mời gọi chúng ta:
– Hãy nâng tâm hồn lên.
Và chúng ta đáp lại:
– Chúng con đang hướng về Chúa.
Đúng thế, mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi việc làm của chúng ta phải qui hướng về Chúa, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
– Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì bản thân và cuộc đời chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy. Nghĩa là chúng ta phải sống cho Chúa, bởi vì Chúa là hạnh phúc, Chúa là tất cả. Một khi mất Chúa thì cũng sẽ mất mọi sự và chẳng còn lại gì nữa.
Và như thế, một lần nữa, tôi xin cầu chúc mỗi người chúng ta một năm mới nhiều may mắn.
5. Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6, 25-34)
Ngày Tết là ngày ai nấy đều no đủ, kể cả những người nghèo nhất trong xã hội, vì theo truyền thống văn hóa của dân tộc, dù quanh năm có đói khát, túng thiếu thì ngày Tết cũng phải là ngày no say, đầy đủ nhất. Thế có nghĩa là đối với nhiều người, vấn đề cơm-áo-gạo-tiền vẫn còn là vấn đề nhức nhối và ưu phiền nhất. Sau hơn hai ngàn năm, dù khoa học tiến bộ đã đưa con người lên không gian và sống trên đó một thời gian dài, thì con người vẫn chưa giải quyết được vấn đề ăn và uống cơ bản của mình. Thế giới vẫn đang phải vật lộn với vấn đề nước sạch, lương thực tối thiếu và thuốc men cần thiết.
Tại sao vậy? Tại vì có tình trạng quá chênh lệch về sở hữu của cải trần gian trong các xã hội: một số người lòng tham không đáy, tìm hết mọi cách – kể cả những cách ô nhục và thấp hèn – để chiếm đoạt tài sản chung của xã hội và nhân loại. Còn một số người khác không làm sao có được các điều kiện tối thiểu để sống cho ra người. Ở Việt Nam chúng ta hãy nghĩ đến những số tiền thất thoát trong các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở khắp cả nước và con số chạy vào túi riêng cán bộ thuộc các sở, ban, ngành, công ty, tỉnh, huyện, xã v.v… thì chúng ta hiểu tại sao dân Việt Nam vẫn còn bị xếp vào loại các nước nghèo nhất trên thế giới dù chiến tranh đã chấm dứt gần 28 năm rồi!
Vậy thử hỏi việc tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì trong một bối cảnh xã hội và thế giới như thế? Chắc đối với những người có “của ăn của để” thì không thành vấn đề vì họ đâu có bao giờ phải lo ngày mai sẽ sống ra sao, ngày mốt sẽ lấy đâu ra tiền để mua gạo cho gia đình, để trả tiền học phí cho con hoặc trả tiền bệnh viện cho cha hay mẹ già! Nhưng đối với những người tối ngày phải vật lộn với cuộc sống (chỉ để sống, chưa nói đến làm giầu) thì quả là vô cùng khó mà tin vào lời của Đức Giêsu! Lời ấy có xa vời và viển vông không? Lời ấy có sức ru ngủ không? Lời ấy chỉ để đánh lừa những kẻ nhẹ dạ dễ tin? Hay Lời ấy là Lời hằng sống và chân thật?
Nếu đi sâu vào đời sống của giáo dân và kể cả lương dân, chúng ta sẽ thấy có không ít người nghèo xác tín rằng họ được Thiên Chúa hay Trời Phật chăm lo cho cuộc sống gia đình của họ. Họ là những người chịu thương chịu khó làm việc chứ không phải là những hạng ươn lười biếng nhác. Nhưng cứ nói theo cách bình thường thì họ không thể có đủ tiền đủ bạc để lo cho vợ chồng con cái vì hoàn cảnh eo hẹp và công ăn việc làm thu nhập chẳng là bao. Thế mà trên thực tế họ vẫn sống. Họ vừa lao động vừa cậy trông vào Chúa, vào Trời Phật. Và gia đình họ vẫn bình yên hạnh phúc, vì họ dám liều mà giao phó mọi sự cho Thiên Chúa, cho Trời Phật (trời sinh voi trời sinh cỏ) nên họ cảm nghiệm được là có một bàn tay vô hình thu xếp, giải quyết mọi khó khăn cho họ.
Ngày đầu năm mà suy nghĩ một chút về vấn đề vật chất trong cuộc sống chắc không phải là vô bổ. Nếu chúng ta không phải chạy ăn chạy uống thì chúng ta đừng quên cảm tạ Thiên Chúa Quan Phòng. Cách thể hiện lòng biết ơn tốt nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất, là chúng ta biết chia sẻ một phần của cải mà mình đã nhận được cho những người túng thiếu hơn chúng ta. Còn nếu chúng ta đang sống trong cảnh nghèo túng, thì chúng ta hãy mạnh dạn phó dâng và tin tưởng ở Lời của Thiên Chúa. Chỉ cần Đức Tin nhỏ bằng hạt cải là chúng ta sẽ chứng kiến chuyện động trời và bất ngờ thú vị: Thiên Chúa không bỏ ai phải đói, phải khổ! Bình an cho Năm Mới không phải được bảo đảm bằng của cải vật chất mà bằng sự tin tưởng phó thác vào Đấng Thiên Chúa là Cha yêu thương biết chúng ta cần gì và không bao giờ làm ngơ trước các nhu cầu đích thực của chúng ta.
6. Hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Trong giờ phút giao thừa, nghĩa là trong lúc năm cũ sắp qua đi, nhường bước cho năm mới, chúng ta hướng về Đức Kitô, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời, đồng thời trao phó cho Ngài vận mạng của chúng ta, của loài người và của cả vũ trụ. Chúng ta phó thác cho Ngài cuộc đời và những dự phóng của chúng ta: Tất cả những gì chúng ta đang thực hiện và muốn tiếp tục hoàn thành, tất cả những gì chúng ta muốn làm nhưng chưa muốn hay chưa dám kởi công, cũng như tất cả những gì mới chỉ là những mơ ước, những nguyện vọng. Chúng ta phó thác cho Ngài tất cả mọi người thân yêu, bè bạn.
Chúng ta xin Ngài bảo đảm cho những lời nguyện chúc của chúng ta được trở thành sự thật. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải biết noi gương Chúa Giêsu, nghĩa là đừng chỉ chúc suông cho nhau hạnh phúc mà phải thực sự chia sẻ hay ít ra nếu chúng ta chưa có hạnh phúc để chia sẻ, thì cũng biết cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Chúng ta đừng chỉ chúc hay hứa cho nhau hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, tuy đó là hạnh phúc thật nhưng có lẽ vẫn còn xa. Chúa không chỉ hứa cho chúng ta hạnh phúc thật đời sau, nhưng đàng khác, Ngài cũng không muốn chúng ta phải khổ cực ở đời này, hay là muốn chúng ta mua sắm hạnh phúc tương lai bằng cách trả giá quá đắt là những đau khổ hôm nay.
Thiên Chúa là Cha của chúng ta ngay từ bây giờ, ngay hôm nay, chứ không là người Cha của tương lai mà thôi. Vì thế, Ngài muốn chúng ta ngay từ hôm nay phải được hạnh phúc. Chỉ có điều là hạnh phúc đó, hạnh phúc của hôm nay, hạnh phúc tại đời này cũng chỉ có thể xây dựng bằng mồ hôi nước mắt, bằng sự nhọc nhằn, thậm chí bằng đau khổ. Thế nhưng, tình yêu sẽ làm vơi bớt đau thương và còn có thế biến đổi gánh nặng của chúng ta thành nhẹ nhàng êm ái.
Một cách cụ thể, chúc cho nhau được hạnh phúc trong ngày đầu xuân, không nên chỉ là phát biểu trên đầu môi chót lưỡi, mà là tự thâm tâm, tự đáy lòng, chúng ta cam kết đem lại hạnh phúc đó bằng cách quyết tâm sống đơn sơ, nghèo khó, hiền từ, biết xót thương, biết sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, vì anh em đồng loại.
Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống ích kỷ, để mạc anh em phải đói khổ. Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống tàn bạo, độc ác, hay sống bất chính, bất công với một tâm hồn khô cằn sỏi đá, chẳng biết xót thương. Chúng ta không thể chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu không sẵn sàng chịu gian khổ để giúp đỡ, giải thoát họ khỏi tình trạng đói nghèo, khỏi cảnh bị bóc lột, hay không tìm cách gỡ họ ra khỏi cảnh chia rẽ và thù oán.
Đừng để những lời giả dối thốt ra từ môi miệng chúng ta trong những giờ phút đầu tiên của năm mới. Trái lại hãy đem trót cả tâm tình mà cầu chúc cho nhau biết đón nhận hạnh phúc mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đem lại cho chúng ta.
Lời cầu chúc đầy ý nghĩa nhất đối với người Kitô hữu đó là cầu chúc cho nhau biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, và đó chính là chiếc chìa khoá đem lại cho mỗi người hạnh phúc đích thực.
7. Niềm vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
Không gì cần thiết cho chúng ta bằng niềm vui. Phải, niềm vui cũng cần thiết như cơm để ăn, áo để mặc và khí trời để thở. Niềm vui được biểu lộ nơi ánh mắt, nơi nụ cười, phản ảnh cho một tâm hồn trong sạch và một trái tim nhiệt thành. Vì thế mà người ta đã bảo:
– Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn vậy.
Thế nhưng đâu là chiếc chìa khóa đem lại niềm vui cho chúng ta?
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, vấn đề quan trọng đối với các tông đồ chính là niềm vui, bấy giờ tâm hồn các ông ngập tràn hạnh phúc, bởi vì Chúa Giêsu vẫn còn đó, bên cạnh các ông. Nhưng rồi các ông sẽ phải buồn phiền vì Chúa Giêsu sẽ từ giã các ông mà về cùng Chúa Cha. Điều cần thiết cho các tông đồ cũng là điều cần thiết cho chúng ta, những người tín hữu, đó là niềm vui được kết hiệp với Chúa.
Thực vậy, bao lâu xa cách Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ phải khắc khoải u sầu. Tại sao lại như thế?
Trước hết vì Chúa Giêsu là Đấng đem lại cho chúng ta niềm vui đích thực. Có một gia đình giàu sang, chuẩn bị cho cô gái út của mình trong ngày rước lễ lần đầu. Bà mẹ đã may cho cô bé những bộ quần áo lộng lẫy. Cô bé yên lặng suy nghĩ, rồi với cặp mắt long lanh, cô bé nói:
– Xin mẹ cứ mặc cho con những bộ quần áo bình thường như những nhỏ bạn nghèo khổ của con. Niềm vui của con chính là được gặp gỡ và kết hiệp với Chúa trong ngày trọng đại ấy.
Phải, một khi ngự vào tâm hồn chúng ta, Chúa sẽ đem đến niềm vui và sự bình an. Vì thế, chỉ có một nỗi buồn day dứt, đó là chúng ta bị xa cách Chúa bởi tội lỗi mà thôi.
Vua thánh Louis hồi còn nhỏ, thường ngồi dưới chân mẹ là hoàng hậu Blanche de Castille, ngước mắt nhìn mẹ và chăm chú lắng nghe những lời mẹ dạy. Ngày kia, người mẹ đặt một tay lên vai con rồi nghẹn ngào nói:
– Hẳn con biết rằng mẹ yêu con nhiều lắm, nhưng thà rằng mẹ thấy con chết dưới chân mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cậu bé yên lặng và suy nghĩ, rồi trên khuôn mặt cậu bé biểu lộ một điều dốc quyết thật can cảm:
– Thà chết chẳng thà phạm tội.
Với các tông đồ ngày xưa, hẳn rằng Chúa Giêsu đã chiếm một địa vị quan trọng. Các ông không thể sống thiếu vắng Ngài. Và Ngài đã là tất cả cho các ông. Thế nhưng ngày nay, không thiếu gì những tín hữu và ngay cả chúng ta nữa, chỉ vì một lợi lộc nhỏ mọn, chỉ vì một vui thú tầm thường, chúng ta đã bỏ Chúa như các môn đệ, đã bán Chúa như Giuđa và đã chối Chúa như Phêrô. Mặc dù trong ngày chịu phép Rửa tội và hằng năm trong đêm thánh vọng Phục sinh chúng ta đã thề hứa: Từ bỏ ma quỉ, từ bỏ những công việc và những quyến dũ của nó, để kết hiệp với Chúa mãi mãi. Nhưng rồi chúng ta lại mau quên đi những lời thề hứa ấy, bỏ mặc Chúa trong sự quên lãng.
Nếu chẳng may tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Chúa, thì hãy mau mắn chạy đến nơi tòa cáo giải với tâm tình sám hối ăn năn, để được tha thứ, để được hòa giải với Ngài hầu lấy lại sự bình an và niềm vui.
Chúng ta không biết mình sẽ sống được bao lâu: Bảy tám chục năm hay chỉ một vài bữa nữa mà thôi. Tuy nhiên, những tháng ngày hiện tại không thể nào sánh với cuộc sống vĩnh cửu, khi chúng ta được trở về nhà Chúa, được nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Lúc đó, niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy, hạnh phúc của chúng ta sẽ trọn hảo, và chẳng một ai có thể lấy mất được.
Đạo của Chúa là đạo của niềm vui. Tin mà Chúa đem đến là Tin mừng. Vì thế, xin cầu chúc cho mỗi người chúng ta luôn gắn bó mật thiết với Chúa, để hiện tại chúng ta được hưởng một năm mới ngập tràn niềm vui và mai ngày chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu trong tình thương của Chúa.
8. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
PHẤN ĐẤU TẠO MÙA XUÂN
Mùa Xuân là màu của hoa. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ đẹp đẽ vui tươi.
Tại Việt nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày Tết là mai và đào. Trong Nam, mai rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ. Ngoài Bắc, trong cái buốt giá của mùa Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm chen giữa đám lộc non xanh biếc là một cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.
Nhìn những cánh hoa tươi thắm như đang cười đùa với nắng Xuân, mấy ai nghĩ rằng những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá trình phấn đấu gian nan.
Thật vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây đào trơ trụi như những xác chết không hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá để trơ những cành khẳng khiu nom đến tội nghiệp.
Nhưng ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là càng tuốt sạch lá càng có nhiều hoa. Chính những thân cây khẳng khiu trơ trụi ấy đã góp phần làm nên những bông hoa tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem niềm vui đến cho con người, trở thành dấu hiệu của hạnh phúc, của thành công.
Mùa Xuân, ta thường chúc nhau thành công, hạnh phúc. Đã thấy những cành cây trơ trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ hôm nay, tôi hiểu rằng thành công và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua những phấn đấu như loài hoa. Để đạt được những thành công thiêng liêng và hạnh phục vĩnh cửu, ta càng phải noi gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.
Phấn đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những cây hoa không chịu tước bỏ lớp lá cũ già nua xấu xí thì làm sao có được những cánh lá non mơn mởn và nhất là làm sao có được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa xuân?
Tương tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng sinh hoa kết quả, ta cũng phải từ bỏ những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì xưa cũ là những gì không phù hợp với Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước như thói lười biếng, thói giận hờn ganh ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất hoà, thói tự kiêu tư đại.
Phấn đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mùa đông, người làm vườn tuốt lá, tỉa cành để khi mùa đến, nhựa cây phong phú không phải tốn phí nuôi dưỡng những chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi vô bổ, nhưng dồn hết sức sống cho hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi, lá càng thêm xanh.
Con người cũng thế, muốn thành công và hạnh phúc, phải loại bỏ những gì tiêu phí năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mục tiêu chính của ta là tập luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo Tám mối phúc thật. Chuyên tâm vào mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.
Sau cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ. Khi tuốt lá những cây mai, tôi thầm nghĩ: Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu lên đau đớn. Tuốt lá, tỉa cành làm cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi. Nhưng chính nhờ vượt qua được những gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt đến mùa xuân tươi đẹp đem hương sắc cho đời.
Để loại bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực vào mục tiêu chính, con người cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ mình. Không hành động theo bản năng, dục vọng. Không hành động theo ý riêng. Chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa. Những phấn đấu từ bỏ mình làm cho ta đớn đau. Nhưng chính những đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân tươi đẹp.
Năm Mới, tôi cầu chúc tất cả anh chị em được nhiều ơn chúa để có sức phấn đấu, tạo nên một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình, cho đất nước và cho nước Trời.
9. Năm mới bình an và hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Một năm cũ đã qua và một năm mới đã tới,trong giây phút linh thiêng này, chúng ta thường làm gì? Tôi xin thưa: Chúng ta thường gửi đến cho nhau những lời cầu chúc. Thế nhưng, nhiều người đã không ý thức được tập tục tốt đẹp này. Họ không hề nghĩ tới những điều họ nói, để rồi những lời cầu chúc ấy trở thành bôi bác.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cầu chúc cho nhau những gì? Và chúng ta nghĩ sao về những lời cầu chúc ấy? Tôi xin thưa: Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới hạnh phúc. Vậy thế nào là một năm mới hạnh phúc?
Khi em bé nhặt được một tờ giấy bạc trên hè phố, tụi bạn sẽ bảo em là một người hạnh phúc và may mắn. Khi chúng ta trúng số độc đắc, bà con lối xóm cũng bảo chúng ta là người hạnh phúc và may mắn. Tại sao lại như thế? Vì đối với nhiều người, hạnh phúc hệ tại giàu sang, tiền nhiều bạc lắm.
Nhưng theo tôi, đó mới chỉ là một thứ hạnh phúc giả hiệu và thời gian của nó kéo dài không quá một kiếp của con thiêu thân, như lời một câu danh ngôn đã bảo:
– Hạnh phúc của người giàu cũng dễ bể như một chiếc ly thủy tinh.
Chẳng hạn vì chiến tranh, vì bệnh tật, vì tai ương hoạn nạn…mà nhiều người đã mất đi tất cả sản nghiệp đã được chắt chiu gầy dựng: Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Điều đó chứng tỏ rằng giàu sang không đủ đảm bảo và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc.
Đối với nhiều người khác, một năm mới hạnh phúc sẽ là một năm mới khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn trong công ăn việc làm. Đúng thế, khỏe mạnh và may mắn cũng là những điều chúng ta thường cầu chúc cho nhau, nhưng vẫn chưa phải là niềm hạnh phúc đích thực.
Nếu sức khỏe là niềm hạnh phúc, thì chắc hẳn những lực sĩ sẽ là những người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người đau yếu, sức khỏe thì èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên cặp môi khô héo của họ.
Còn về sự may mắn trong công ăn việc làm, nếu quả đúng như vậy, kẻ nào càng kiếm được nhiều tiền, thì càng hạnh phúc. Thế nhưng, trong cuộc sống, những người kiếm được ít tiền chưa chắc đã là những kẻ khổ đau, vì như chúng ta thường bảo:
– Lòng tham thì vô đáy…Đứng núi này trông núi nọ…Được voi đòi tiên…
Và như thế, khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và sẽ chẳng bao giờ được thỏa mãn. Rất nhiều người đã mong ước có được một việc làm dễ dãi, khả dĩ kiếm được nhiều tiền, nhiều bạc để rồi sống một cuộc sống an nhàn và hạnh phúc, vì họ thầm nghĩ:
– Có tiền mua tiên cũng được.
– Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Có tiền là sẽ có nhà lầu xe hơi, là sẽ có Tv tủ lạnh và nhất là sẽ được mọi người kính nể. Thế nhưng, họ đã lầm. Tôi xin đưa ra một thí dụ đẻ chứng minh cho sự thật trên.
Paul Getty là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải làm việc từ ba giờ sáng. Chung quanh ông có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm bức thư hăm dọa sẽ ám sát và ông đã phải thốt lên:
– Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc.
Thí dụ trên cho chúng ta thấy: Hạnh phúc thật không hệ tại nơi tiền bạc vật chất. Vậy chúng ta phải đi tìm hạnh phúc ở đâu bây giờ?
Hẳn chúng ta đã biết: Con người không phải chỉ có thân xác, mà còn có linh hồn. Bởi đó, không phải chỉ cần có của cải vật chất bên ngoài, mà còn cần phải có những nhu cầu thiêng liêng, xuất phát tự bên trong. Và như thế, niềm hạnh phúc đích thật hệ tại sự bình an trong tâm hồn.
Nhìn vào đời sống các thánh, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Chẳng hạn thánh Giuse và Mẹ Maria. Chắc hẳn các ngài không có nhiều tiền bạc, không ở trong những tòa nhà tráng lệ và tiện nghi. Trái lại, các ngài sống rất nghèo nàn, đến nỗi không tìm được một chỗ trú chân. Dầu vậy, các ngài vẫn hạnh phúc. Tại sao lại như thế? Tôi xin thưa: Vì Chúa Giêsu luôn ở với các ngài.
Thực vậy, nơi nào có Chúa, nơi ấy có hạnh phúc. Và ai yêu mến Chúa, người ấy sẽ được hạnh phúc thực sự. Bởi vậy, muốn được hạnh phúc, chúng ta cần phải có Chúa ở cùng, nghĩa là tâm hồn chúng ta phải trong sạch, xứng đáng làm nơi cho Chúa ngự trị.
Nếu trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta hãy chạy đến với bí tích của lòng khoan dung với tâm tình sám hối, để được tha thứ, bởi vì sự bình an phải là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau.
Niềm hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Thực vậy, dù năm mới này có nhiều khổ đau và cay đắng, nhưng nếu tâm hồn chúng ta thực sự có Chúa ở cùng, chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng. Chính trong ý nghĩ ấy mà trong giây phút linh thiêng này, tôi xin cầu chúc cho anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc.
10. Tôi là người hạnh phúc nhất – Mt 6,25-34
Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.
Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí… Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn… Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.
Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Đón nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: “Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương… Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian”.
Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được… Cuối cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo… Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh… Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: “Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này”.
Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng ta… Người Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.
11. Thiên Chúa hay thần tài? (Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo)
Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp tết nguyên đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, – điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát… Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: “Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó”. Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho.” Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại “trả thù” con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng… Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa “thời mở cửa”, điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”: Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
12. Xin ơn bình an – ĐGM. J.B. Bùi Tuần
Để mừng Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa ban cho đại gia đình chúng ta một Lộc thánh.
Lộc thánh nói đây là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ mang lại cho ta nguồn ánh sáng và hy vọng. Đó là lợi lộc tốt nhất cho hành trình cuộc sống ta trong năm mới.
Vậy, Lộc thánh mà Chúa gởi chung cho chúng ta đầu năm nay là Lời nào của Chúa? Thưa là lời Chúa Giêsu đã chào chúc các môn đệ yêu dấu của Người chiều Phục sinh. Lời đó là: “Bình an cho các con” (Ga 20,20).
Theo tôi, bình an là điều mà chúng ta luôn rất cần. Bình an là món quà tặng quý nhất cho mọi hoàn cảnh đời ta.
Nhưng, để lời chào chúc bình an của Chúa trở thành một mùa Xuân thiêng liêng thực sự cho ta, ta nên đón nhận ý Chúa đi liền với ơn bình an.
Ý Chúa là thế này:
Ngay sau lời chào chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã thân mật truyền đạt rõ ràng quyết định của Người: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).
Như vậy, ơn bình an luôn gắn liền với ơn gọi sai đi. Phải sống đúng ơn gọi sai đi, mới đón nhận được ơn bình an. Xin nói ngay rằng: Mọi người chúng ta, ai cũng được Chúa sai đi. Sai vào đời. Sai vào nơi mình ở và làm việc. Sai vào lịch sử của Đất Nước và của Hội Thánh đang cưu mang mình.
Chúa sai ta đi để làm gì? Chúa phán: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Tin Mừng Chúa bảo chúng ta loan báo là “Sám hối, để được ơn tha tội” (Lc 24,53), và đi theo Người “là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6) hầu được về với “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Chúng ta loan báo Tin Mừng đó ít ra bằng cách chúng ta thực hiện Tin Mừng đó nơi bản thân ta. Nếu ta hiểu ơn gọi là như vậy, thì, ngay ngày đầu năm, ta đã có một cái nhìn đúng về hướng đi đời ta trong năm Ất Dậu này.
Năm Ất Dậu này, cho dù đang được mở đầu với những vẻ đẹp huy hoàng và với những hứa hẹn tốt, nó vẫn không che giấu được nhiều băn khoăn, nhiều lo lắng, nhiều trăn trở của biết bao người, nhất là của những người thiện tâm, thiện chí.
Thực tế cho thấy:
Có những cái mong manh bên cạnh những cái ổn định. Những mối đe doạ sát liền với những thành công. Những cái ta tự chọn có thể bị lung lay và tan vỡ bởi những gì vượt khỏi ý muốn và khả năng của ta.
Trên đây là chút nhìn xa. Không bi quan, nhưng là sự thực. Nhận thức sự thực này, để biết sống ơn gọi của mình, theo thánh ý Chúa, đó là cách ta đón nhận ơn bình an của Chúa. Một sự bình an không đồng nghĩa với nghỉ ngơi, nhưng là phấn đấu, là làm việc, là tin cậy, theo ơn gọi của mình. Chúa Giêsu phán: “Như Cha Thầy luôn làm việc, thì Thầy cũng luôn làm việc” (Ga 5,17). Chúng ta cũng làm việc và phấn đấu, trong thánh ý Chúa như vậy.
Với vài tâm tình trên đây, tôi xin cùng với Đức Cha Cố Micae và Đức Cha Giuse Giám mục giáo phận xin tha thiết cầu chúc anh chị em một năm mới đầy bình an của Chúa.
13. Bình an
(Bài đọc 1: St 1, 14-18; Bài đọc 2: Pl 4, 4-8; Tin mừng: Mt 6, 25-34)
Một trong những nét đẹp của nền văn hoá Á Đông nói chung và của Việt Nam chúng ta nói riêng, đó là phong tục đi chúc Tết trong những ngày đầu năm. Trong những ngày đầu năm này, chúng ta luôn cầu chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta ước mơ và chúc cho nhau trong năm mới này được thịnh vượng, may mắn, làm ăn phát tài…và nhiều điều may mắn khác nữa, nhưng có lẽ điều mà tất cả từng người chúng ta đây ước mơ nhiều nhất và cũng được cầu chúc nhiều nhất là sự bình an trong năm mới. Vâng, hai chữ “bình an” chính là ước vọng sâu xa nhất của từng người chúng ta. Nếu suy xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi việc chúng ta làm tựu trung cũng là để có được sự bình an. Thế nhưng, thực tế, chúng ta vẫn chưa có được sự bình an thực sự.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em dựa vào ánh sáng của Lời Chúa để tìm ra phương thế đạt được sự bình an đích thực trong năm mới này.
1. Thiên Chúa, nguồn bình an:
Trước khi nói đến sự bình an, có lẽ chúng ta cũng cần nhìn qua những lý do làm cho chúng ta mất bình an. Lý do thì nhiều, nào là làm ăn thất bại, bị hiểu lầm, gặp tai ương, bệnh tật…, nhưng xâu xa hơn, có lẽ vì mọi việc không xảy ra đúng với ý muốn, dự định của chúng ta nên chúng ta bất an. Hay nói một cách khác, chúng ta nghĩ rằng mình là chủ cuộc sống của mình và mình có thể kiểm soát được tất cả mọi việc, nên khi có một điều gì đó không đúng với chương trình của mình, chúng ta liền khó chịu bất an.
Do đó, tôi thiết nghĩ để có sự bình an thật sự, từng người chúng ta cần xác tín với nhau một điều: Thiên Chúa là Đấng quan phòng, làm chủ mọi sự. Chính Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, như trình thuật của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Phải có những vầng sáng trên vòm trời…. Liền có như vậy…. Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”. Không chỉ là Đấng Sáng Tạo, Thiên Chúa còn là người Cha đầy yêu thương sẵn sàng lo cho chúng ta mọi sự. Chính Đức Giêsu đã khẳng định với chúng ta điều này như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cũng cần tất cả những thứ đó”. Cha chúng ta thừa biết chúng ta cần gì và Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta điều chúng ta cần. Điều quan trọng là chúng ta có dám đặt mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, và để cho Ngài lo hay không mà thôi. Thật vậy, kinh nghiệm hàng ngày cho thấy: trong thân phận làm con thì điều quan trọng nhất là ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, rồi cha mẹ sẽ lo cho con tất cả mọi sự. Và lúc đó, chúng ta sẽ có bình an, vì mọi chuyện đã có cha mẹ lo cho rồi.
Như thế, để có được sự bình an, điều đầu tiên mỗi người chúng ta cần thực hiện đó là hướng tâm hồn và con người chúng ta lên Thiên Chúa, nhận Ngài là chủ mọi sự kể cả cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đây là một sự thật căn bản đầu tiên làm nền tảng cho một tâm hồn bình an.
2. Con đường bình an:
Hướng tâm hồn lên với Thiên Chúa, chính là luôn gắn bó với Chúa là nguồn bình an, lúc đó chúng ta sẽ nhận được sự bình an. Tuy nhiên, thánh Phaolô nhắc nhở mỗi người chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em”. Điều đó cho thấy, niềm tin tưởng và phó thác của chúng ta nơi Chúa không miễn trừ cho chúng ta các khó khăn, trở ngại trong cuộc sống hiện tại, nhưng sẽ giúp chúng ta có được sức mạnh nội tâm và làm cho tâm hồn chúng ta được thanh thản để vượt qua những khó khăn đó. Như vậy, cho dù ngoại cảnh bên ngoài không làm cho chúng ta vui, nhưng trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui được. Đây chính là kinh nghiệm của Đức Maria: giữa những khó khăn của cuộc sống nghèo khổ, và án tử có thể đến vì mang thai trong lúc chưa về nhà chồng. Mẹ vẫn cất tiếng ca vang: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. Mẹ đã vui vì Mẹ luôn tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ tin chắc rằng, Chúa sẽ có cách để giải quyết vấn đề của Mẹ. Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng xác tín như thế khi nói: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”. Vịnh gia còn mời gọi chúng ta: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”.
Kế đến, sự bình an thật sự chỉ có nơi những tâm hồn thanh sạch, bởi vì “cây ngay không sợ chết đứng”. Những người công chính luôn cậy trông vào Chúa có thể vẫn còn phải gặp những khó khăn bên ngoài, nhưng chắc chắn họ không cùng đường, tuyệt vọng, tâm hồn họ vẫn luôn bình an, vì họ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người; còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Thật vậy, với kinh nghiệm của mình chắc hẳn mỗi người trong chúng ta có cùng xác tín của tác giả Thánh vịnh: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ”. Do đó, để có bình an thật sự trong tâm hồn, chúng ta cần lánh xa tội lỗi và thực hành những điều công chính như lời dạy của thánh Phaolô: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và mang lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để ý”.
14. Chúng ta là người hành khất
“Chúng ta là người hành khất!” lời tâm sự này Martinô Lutherô, cha đẻ của đạo Tin lành Thệ Phản bên Đức, đã thốt lên năm 1546 vào những ngày cuối cùng cuộc sống trên trần gian của ông. Lời tâm sự này của ông biểu lộ niềm tin mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người. Người có tâm hồn niềm tin vào Thiên Chúa trông mong chờ đợi đón nhận từ nơi Ngài, những sự cần thiết cho đời sống. Và đồng thời cũng nói lên tâm tình niềm tin: Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ân đức tặng phẩm cho đời sống, con cám ơn Ngài! “Chúng ta là người hành khất!” tâm tình này cũng có thể là một suy tư gợi ý vào những giờ phút cuối cùng của năm hiện tại đang đi vào qúa khứ. Nhưng tại sao lại đem tâm tình này vào đời sống ngày cuối năm?
Khi nghe đến “hành khất” ta nghĩ ngay tới nghèo khổ, đói khát, túng thiếu, yếu đau, bơ vơ không nhà cửa… Không lẽ cuộc sống chỉ tiêu cực như thế sao? Không, chúng ta không dừng lại ở điểm tiêu cực đó. Ngày nay, nơi nhiều quốc gia tình trạng xóa đói, giảm nghèo, vệ sinh bệnh tật đang dần dà được đẩy mạnh bài trừ cải tiến. Và mức sống no cơm ấm áo dần được nâng cao, cho xứng với phẩm gía con người. Trong cuộc sống, lẽ dĩ nhiên rất nhiều người, nhất là ở trong xã hội văn minh đầy đủ hay đang mở cửa phát triển, đã đạt được những thành công rực rỡ về mặt chính trị, kinh tế, học hành, nghề nghiệp, y tế, của cải tài sản, cuộc sống gia đình hòa hợp êm ấm… Những điều đó đối với người có lòng tin vào Thiên Chúa, khi nhìn lại cũng có tâm tình gần giống như của Martinô Lutherô: Vâng, chúng con là người hành khất!
Tâm tình này muốn nói lên: Con cám ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng con cơ hội sống, cơ hội góp phần vào cuộc sống. Những gì con có hay đạt được, là những ân đức qùa tặng Thiên Chúa ban cho. Cuộc sống xã hội và đời sống từng người không chỉ có mặt sáng đẹp đó. Nhưng còn có mặt với nhiều bóng tối tiêu cực nữa: chiến tranh, thiên tai, lo âu, tai nạn, đau khổ bệnh tật, chạy loạn tỵ nạn tha hương … Trước những cảnh tượng đó, không ai muốn, nhưng chúng xảy ra đó và mọi người phải đối diện với! Trong cơn tuyệt vọng như thế, đâu đâu vào thời đại nào, hầu như bất cứ ai cũng đều cúi đầu hướng tâm hồn lên cao, thành tâm khấn vái xin Thiên Chúa, xin Thượng Đế, xin Trời phù hộ cho đời sống, cho thế giới khỏi cơn khốn khó đó.Tâm tình này càng vẽ rõ nét hơn “Chúng ta là người hành khất!” Người tin vào Thiên Chúa, khi nhận lãnh một tin lành bằng an, một tin vui, họ đều thắp sáng cây nến lòng biết ơn cho Đấng đã ban cho mình ân đức cao qúi đó và cho người nào đó đã liên đới trao tặng giúp đỡ mình. Cung cách sống đạo đức tình người này muốn nói lên: “Chúng ta là người hành khất!”
Trước ngưỡng cửa Năm Mới đang tiến dần vào hiện tại, niềm vui mừng đang khơi dậy trong lòng. Nhưng nào ai có thể biết đươc tương lai ngày mai trong năm mới sẽ đến như thế nào. Rồi trong đời sống vào nhiều hoàn cảnh giai đoạn cuộc sống, chúng ta thường lâm vào ngõ bí đường cùng, không biết nên làm sao nữa… Là người có niềm tin, ta đặt niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng biết sự gì cần thiết cho đời sống của ta. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Đức Chúa Thánh Thần: lạy Cha kẻ khó khăn bần hàn, xin đến trợ giúp ban cho chúng con ân đức gìn giữ cuộc sống hôm nay và ngày mai! Đó cũng là tâm tình: “Chúng ta là người hành khất!”
15. Lễ Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm Mới
ĐỊNH HƯỚNG
Năm hết tết đến, ai trong chúng ta mà lại chẳng cảm thấy một chút gì náo nức: trẻ em thì mong đợi những bộ quần áo mới và những đồng tiền lì xì mừng tuổi, người lớn thì tính sổ công việc làm ăn trong năm qua và hoạch định chương trình cho thời gian sắp tới. Mọi người đều tạm gác những âu lo thường ngày để thăm viếng, để gặp gỡ và chúc mừng nhau một năm mới nhiều may mắn và hạnh phúc.
Thế nhưng giờ đây, chúng ta hãy bỏ qua những náo nức ấy để suy nghĩ một chút. Năm cũ đã trôi qua như một giấc chiêm bao và năm mới lại trở về. Chúng ta sống thêm một năm, nhưng cũng mất đi một năm trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là hướng đi, đâu là ý nghĩa, đâu là trọng tâm của cuộc đời, để nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu?
Có lẽ chúng ta đã đánh mất phần nào cái trọng tâm của cuộc đời. Trọng tâm ấy chính là Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo những thần tượng giả trá, do những đam mê, những ước vọng riêng tư của mình tạo nên. Bởi đó, chúng ta bôn ba vất vưởng trên dòng thời gian, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Khi thì chúng ta tìm cái này, lúc thì chúng ta kiếm cái kia. Vì thế, cuộc đời chúng ta chất đầy như bồn chồn và lo lắng. Chúng ta lo sợ tương lai có nhiều bất trắc, vì thế mới cầu chúc cho nhau được may mắn. Có người còn cẩn thận kiêng cữ để khỏi rước cái xui vào nhà.
Tuy nhiên, những may mắn và niềm hạnh phúc chúng ta cầu chúc cho nhau lại không treo trên đỉnh cây nêu, cũng không nằm trong những tấm thiệp. Ngay cả những lời cầu chúc chân thành và nồng hậu nhất cũng không phải là những vị sứ giả mang lại hạnh phúc.
Thực vậy, hạnh phúc không do những tiện nghi vật chất đem đến, vì những tiện nghi này nay còn mai mất. Hạnh phúc không do bản thân chúng ta gầy dựng nên, vì bản thân chúng ta vốn đã chìm ngập trong khổ đau và nghèo túng. Hạnh phúc ấy cũng không do người khác tạo thành vì người khác không có đủ quyền năng và tình thương để thực hiện những mộng ước của họ và của chúng ta.
Như thế, chúng ta nhận ra rằng chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể thực hiện được những lời mừng chúc của chúng ta mà thôi. Thực vậy, thánh Augustinô đã nói:
– Linh hồn tôi chỉ được nghỉ yên khi nó nằm gọn trong lòng bàn tay của Chúa.
Bao lâu chúng ta còn chạy theo những ảo ảnh của đam mê và dục vọng, thì bấy lâu cuộc đời chúng ta vẫn còn vất vưởng và xao xuyến. Khát vọng như một thứ rượu nồng, càng uống lại càng khát. Chúng ta sẽ đi từ khát vọng này đến khát vọng khác và chẳng bao giờ được no thỏa.
Niềm hạnh phúc đích thực chính là sự bình an trong tâm hồn. Và sự bình an này chỉ có được khi chúng ta đã ở trong tình thương của Chúa, khi chúng ta đã hòa giải với Ngài. Vì thế, Thiên Chúa phải là trọng tâm của cuộc đời chúng ta, phải là cùng đích của mọi vệc chúng ta làm. Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Thiên Chúa như vậy. Có nghĩa là suốt dọc cuộc đời, chúng ta phải bước đi trong quĩ đạo của Thiên Chúa.
Ngài là Đấng nhân từ và hay thương xót. Sống trong Ngài, chúng ta sẽ không còn lo âu và sợ hãi, như một câu danh ngôn đã bảo:
– Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Dưới mắt Ngài, không có gì là may mắn hay xui xẻo. Những điều chúng ta gọi là hên hay xui, thực ra chỉ là hai tên gọi của cùng một thực tại, đó là tình yêu của Chúa. Hay nói một cách khác: tất cả đều là hồng ân của Ngài.
Hướng đi và ý nghĩa, trọng tâm và hạnh phúc của cuộc đời chúng ta là chính Thiên Chúa. Bởi vì Ngài là ơn cứu độ, là tình yêu, là sức sống của chúng ta. Ý thức được như vậy, nên các thánh bao giờ cũng bắt đầu công việc bằng thái độ cầu nguyện, kêu xin Chúa.
Một ngày sống được khởi đầu như thế, chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn nhiều so với khi chúng ta bắt đầu bằng một điếu thuốc lá, bằng một ly rượu mạnh hay bằng cách lo láng đưa mắt nhìn lên tờ lịch và nghĩ ngay đến những món nợ phải trả, những công việc phải làm hay những vui thú phải kiếm.
Giả như trong đêm giao thừa, khi chuông đồng hồ vừa đổ mười hai tiếng cuối cùng của năm cũ, mọi người chúng ta hãy tuyệt đối yên lặng trong giây lát, rồi sau đó mới mở tiệc và mừng chúc nhau. Trong khoảng khắc thinh lặng này, chúng ta sẽ nhận ra đâu là mục đích, đâu là hướng đi chúng ta cần phải thực hiện và theo đuổi cho năm mới, cũng như cho suốt cả cuộc đời chúng ta.
Chính trong ý nghĩa ấy, tôi xin thành thực cầu chúc cho mỗi người một năm mới ngập tràn hạnh phúc trong tình yêu thương của Chúa.
16. Lời hứa năm mới
Đứng trước thềm ngưỡng cửa Năm Mới, niềm vui mừng hân hoan bừng lên từ trong tâm hồn trái tim ta, lộ hiện ra nơi khuôn mặt ánh mắt. Đàng sau niềm vui mừng hân hoan đó ẩn dấu niềm trông mong chờ đợi: lời cầu chúc tốt đẹp, qùa tặng và lời hứa. Niềm tin tôn giáo nói cho ta: Thiên Chúa là Đấng làm chủ, trao tặng thời gian năm mới cho con người vũ trụ.Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, từ trời cao hạ sinh làm người là lời cầu chúc bình an tốt đẹp cho nhân loại: Bình an dưới thế cho người Chúa thương.Lời Chúa đã được loan tuyền qua Chúa Giêsu cho con người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Lời Ngài là lời hứa, là thức ăn cho cuộc sống tâm hồn niềm tin con người.
Với Bạn Trẻ lời hứa của Chúa nói với họ: Các Bạn thân yêu, thời gian Năm Mới là cơ hội tốt đẹp cho cuộc sống của tuổi trẻ đang vươn lên. Các Bạn là niềm hy vọng, là tương lai của xã hội, của Hội Thánh, của gia đình, của nhân loại, của phát triển. Các Bạn hãy cùng Thầy bước đi vào Năm Mới với những mơ ước, đích điểm mong chờ, với lòng khao khát và cả với những lo ngại áy náy hay cả với nỗi niềm lo âu sợ sệt của các Bạn. Cho dù thế nào đi chăng nữa, các Bạn không đi một mình và đó chưa phải là tất cả đâu!Thầy hằng cùng đồng hành bên cạnh trợ giúp Bạn!
Với những người lớn tuổi, lời hứa của Chúa cũng là hành trang cho họ cùng bước vào năm mới: Các Ông, các Bà là những người đã sống trải qua nhiều chặng đường đời sống từ hăng chục năm, có người gần thế kỷ với nhiều thăng trầm buồn vui, thành công thất bại, cay đắng nọt bùi, đau khổ bệnh tật khoẻ mạnh, gánh nặng lo âu và được an ủi… Nhưng các Ông Bà đã sẵn có kinh nghiệm một đời sống thản nhiên, hãy cùng con cháu, cùng mọi người và với niềm tin vào Thiên Chúa bước đi vào thời gian năm mới. Xin các Ông Bà đừng quên những gì đã xảy ra trong đời mình, cho dù là cay đắng thất bại. Vì đó là những ân đức giúp xây dựng cuộc sống qúa khứ để có ngày hôm nay và ngày mai.
Thầy đến mang sự an ủi và ơn cứu rỗi cho con người. Thầy thông cảm và luôn hằng cùng ở bên cạnh trợ giúp niềm tin tinh thần cho con người: Hỡi những ai gánh nặng mệt nhọc, hãy đến cùng Thầy, để sẽ an ủi bồi bổ sức lực cho tâm hồn. Với mọi người lời hứa của Chúa nhắn gửi: Hãy đạt niềm tin tưởng phó thác vào Thầy. Trong đời sống thời gian năm mới cũng như những năm tháng đã qua, chúng ta, mọi người sẽ sống trải qua cảnh hầu như cô đơn, nhìn xung quanh đâu có thấy gì ngoài mình, tâm hồn chán nản. Lúc đó sao chẳng thấy Thiên Chúa đồng hành Cha không để con một mình!
“Có đêm tôi nằm mơ: thấy mình cùng Chúa đi dọc bờ biển. Những hình ảnh đời tôi hiện dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi cũng thấy có những dấu chân in trên cát. Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của hai người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy dấu chân một người.Tôi phân vân, vì những lúc chỉ thấy dấu chân của một người như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại, lo âu và piền muộn. Vì thế tôi quay sang hỏi Chúa: Lạy Cha, Cha đã hứa với con là nếu con theo Cha, Cha luôn luôn ở bên con. Nhưng sao trong những lúc khó khăn nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân một người. Những khi con cần Cha như vậy, sao Cha không ở bên con? húa quay sang bảo tôi: “Con ơi! dấu chân của một người đó là dấu chân Cha. Vì trong những lúc con gặp khó khăn, chịu đau khổ, Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha đã cõng con trên vai Cha!”. Niềm tin vào lời hứa của Chúa đồng hành trong Năm mới, tất nhiên không làm ta giàu có thêm tiền bạc của cải, nhà cửa vườn tược. Nhưng lời hứa cùng đồng hành trợ giúp của Chúa trong Năm mới làm tinh thần tâm hồn ta phấn khởi, vui tươi hăng hái vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Điều này cần thiết cho cuộc sống con người với Chúa và con người với nhau.
17. Xin cho tất cả đều mới (Lm. Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Đêm giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt Nam có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”(Tv 66, 2-3). Từ cái giây phút linh thiêng của đêm giao thừa khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới.
Con người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm bay đã cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới và qua những chén trà, ly rượu chúc mừng, con người đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, con người quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Trong thánh lễ tân niên, người Kitô hữu luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác. Mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài vì thế như lời thánh vịnh viết:” Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ” và như Tin Mừng đọc trong thánh lễ này, thánh sử Matthêu đã viết:” Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Ngày mồng một và suốt cả năm mới, người Kitô hữu luôn ước nguyện làm theo ý Chúa và tin tưởng, phó thác cho Chúa vì mọi sự sự đều do Ngài, bởi Ngài. Thánh Phaolô nhấn mạnh:” Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!”. Nguyện ước cho mọi sự được mới, cho tất cả tỏa sáng trong Chúa, cho mọi người được an lành, vui khỏe. Đó là những ước nguyện chân thực của con người…
TRÊN HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
“Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”(Tv 36).Để có được lòng tin tỏa chiếu, người Kitô hữu ngoài những nguyện ước bình thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn phải có lòng tín thác tuyệt đối cho Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải đi đến chỗ tin tưởng phó thác:” …ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”. Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức khỏe, an bình và thịnh vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông và phó thác:” Vì Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó “(Mt 6, 32).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm 2004 này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào”(Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ minh niên).
18. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh vịnh 66, 2-3 có viết:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài “. Một năm mới tới: 365 ngày cứ xoay đổi vần xoay, luân chuyển không ngừng. Khắp nơi trên quê hương Việt Nam thân yêu, giờ này người ta đang hân hoan mừng năm mới Quí Mùi. Năm mới, tôi nghiệm ra xuân hay nói nôm na là Ân Huệ, là Phúc, là Lộc, là Thọ.
XUÂN LÀ MỘT ÂN HUỆ CHÚA TRAO BAN
Gọi là Ân Huệ vì con người có cơ hội nghỉ ngơi, giãn xả và sống cái tâm tình cảm tạ, biết ơn Thiên Chúa, Đấng tạo hóa vô cùng diệu vợi, vô cùng thánh thiêng, vô cùng quyền phép. Nói theo một cách nào đó, Thiên Chúa là Đấng cực kỳ quyền năng. Vậy, sống ngày đầu xuân, con người hướng trọn tâm tình và cuộc đời của mình để tạ ơn Thiên Chúa vì một năm qua đi trong tình thương che chở của Chúa. Tạ ơn, biết ơn vì những thất bại, những chua cay, đau khổ tưởng rằng sẽ vùi dập con người, cuộc đời trong bể dâu, thê lương, nhưng tạ ơn vì Chúa cho qua đi những ngày đen tối và cả những ngày hạnh phúc tràn đầy. Biết ơn Chúa để quên đi quá khứ mà lao tới tương lai mà tương lai có thể sẽ vô cùng vô tận, sẽ kéo dài mãi trong những ngày sắp tới và trong cả đời người. Nên, đời là một cuộc tri ân, biết ơn liên lỉ đối với Chúa của mùa xuân vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp, có giây phút gọi là thảnh thơi để dừng lại dẫu chỉ là một thoáng để nhìn lại quãng đường đã đi trong cuộc hành trình cuộc đời để xem những gì cần nhân lên, cần làm cho tỏa sáng hay những gì cần phải khắc phục sửa đổi và như thế cuộc đời là một cuộc quay trở về không ngừng để hoán cải, ăn năn và làm mới nội tâm để sống tốt hơn, đẹp hơn.
Gọi là Ân Huệ vì con người sẽ có cơ hội sống tình thân, tình máu mủ ruột thịt, sống cái tình đầm ấm gia đình: trở về với cội nguồn, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng để tỏ tình hiếu thảo, báo đáp nghĩa tình với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Và như thế rất thích hợp với điều 04 của 10 thập giới:” Hãy thảo kính cha mẹ”. Sống tâm tình ấy là phù hợp mãi mãi với Đạo của Chúa và làm tỏa sáng năm thánh hóa gia đình.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp sống tâm tình chia sẻ, làm quen, sống tình làng nghĩa xóm hài hòa để nâng cao tình người và sống trọn kiếp người như Chúa đã sống với các tông đồ xưa. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa trao ban cho con người để con người sống niềm vui, sự hạnh phúc và lòng quảng đại hầu con người mãi mãi sống con đường làm người của Con-Thiên-Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Sống Ân Huệ Chúa ban là con người sống cái Phúc, cái Lộc, cái Thọ mà Thiên Chúa dành riêng cho con người.
Nhân dịp năm mới, xin cho mọi người được ấm cái lòng, no cái bụng, đẹp cái mặt, mát cái dạ và như thế là con người sống mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân múc từ ngọn nguồn Tình Yêu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Mùa Xuân bất diệt.
LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới, chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Quí Mùi này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào(Lời nguyện nhập lễ, lễ Minh Niên).
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay(Tv 36,3-4.5-6.23-24.25-26).
19. Hãy tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6, 25-34) (Lm Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Lại một mùa xuân qua đi nhường chỗ cho những ngày mới khai mở một năm mới với biết bao ước vọng, với biết bao dự kiến, biết bao mơ ước và những kế hoạch, dự phóng cho một năm mới. Ngày xuân với bao lời chúc tụng cho nhau, chúc nhau an bình, thịnh vượng, may mắn. Đối với người Công giáo, ngày xuân ngoài những lời nguyện chúc bình thường mà bất cứ người nào cũng có thể chúc tụng nhau được thì người Kitô hữu còn chúc cho nhau được tràn đầy ơn Chúa, giữ vững đức tin và luôn sống đời sống của Chúa như Thầy đã yêu (Ga 15, 12).
ĐỔI MỚI VÀ MÃI MÃI ĐỔI MỚI: Năm cũ đã qua: năm con chuột đi vào quá khứ với những niềm vui, nỗi buồn. Năm con chuột có nhiều biến cố tốt đẹp nhưng cũng có những điều chưa được đối với từng người, đối với mọi người. Nhưng phải công nhận năm Mậu tý qua đi bình dị và vui tươi, hạnh phúc.Năm mới hy vọng với những ước mơ, với những dự tính xem ra sáng sủa và tốt đẹp hơn. Con người sẽ đẹp nếu họ biết quay trở về với chính mình để sửa đổi, để vươn tiến. Cuộc đời chỉ đẹp khi con người biết vươn lên, biết sửa đổi, biết làm cho cuộc đời sáng tươi, trong sáng. Năm con trâu với sự cần cù của loài vật đã có nhiều thập kỷ trở thành công cụ lao động quí hóa và mang lại nhiều lợi ích cho con người khi con người biết dùng sức lao động của con vật này trở nên bạn với người nông dân. Đã có một thời ” Con trâu đi trước, cái cầy đi sau ” luôn luôn gần gũi với người lao động Việt Nam. Bây giờ với thời đại khoa khoa, văn minh đi lên, con trâu không còn là công cụ duy nhất để cùng với người nông dân làm ra của cải. Ngày nay đã có máy móc, đã có khoa học kỹ thuật, người ta luôn đổi mới và luôn mãi mãi đổi mới để làm cho việc lao động mang lại nhiều của cải cho con người, cho loài người.
HÃY TÌM KIẾM NƯỚC TRỜI: Bài Tin Mừng của thánh Mathêu 6, 25-34 trình bầy cho mọi người một quan niệm. một tư tưởng, một lối đi chúng ta phải chọn lựa: ” chọn Chúa hay tiền của “. Đã chọn rồi, chúng ta phải sống theo điều đã chọn lựa. Nếu chúng ta chọn Chúa, chúng ta phải lo phụng sự Chúa, lo lắng làm những điều Chúa dạy, Chúa làm. Tuy nhiên, nếu đã chọn tiền của, con người sẽ làm tôi ma quỉ, làm tôi Mammôn và như thế con người sẽ xa Chúa và mất Chúa. Con người chọn Chúa sẽ được hai phần: được Chúa và Chúa ban cho con người tùy theo nhu cầu của con người. Do đó, suốt bài Tin Mừng, Chúa dạy con người đừng lo lắng thái quá về những điều phụ thuộc, không chính yếu lắm như của ăn, của mặc, nhưng phải tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Để làm nổi bật ý tưởng này, Chúa dùng hai hình ảnh rất thực tế như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Chim trời và hoa huệ ngoài đồng không lo lắng gì cả nhưng Thiên Chúa vẫn luôn chăm sóc chúng. Chúa dạy chúng ta hãy nhìn vào chim trời và hoa huệ để bắt chước, để học bài học quan phòng của Thiên Chúa. Chúa minh chứng và xác nhận con người cao quý hơn chim trời hơn hoa huệ nhiều vì con người có trí khôn, lý trí, có lương tâm, có đạo đức để phân biệt lành và dữ, biết phân biệt hạnh phúc và sự xấu số vv…Chim trời, hoa huệ vẫn làm việc vì không bay đi để kiếm ăn, không hút nước, hút tinh hoa trong lòng đất, hoa huệ sẽ chết. Chính vì thế, Chúa không khuyên chúng ta đừng làm việc, nhưng Ngài dạy chúng ta phải cần mẫn làm việc và phó thác tất cả cho Chúa để Chúa hướng dẫn và chỉ bảo.
NĂM MỚI VỚI NHỮNG ƯỚC MƠ MỚI: Năm mới mở ra cho con người, cho mỗi người hãy sống và hãy phục vụ với tình yêu, với đức tin. Chúa luôn yêu thương con người và dạy con người phải yêu thương như Ngài đã yêu. Bởi vậy, năm mới ai cũng có dự phóng, cũng có những ước mơ nhưng tất cả còn tùy thuộc nơi sự quan phòng của Chúa. Điều gì Chúa thấy cần, Ngài sẽ ban cho con người chúng ta. Chúa bảo”đừng lo ” không có nghĩa là Chúa bảo đừng làm việc, đừng lao động, đừng lo cho nhu cầu phần xác và trần gian, nhưng Ngài nói hãy cần cù lao động theo ý Chúa và phó thác thành công và thất bại nơi Chúa.Ước mơ luôn là mơ ước nhưng chính Chúa mới là người định đoạt:” Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa. Chúa, Chúa chính Chúa Ngài sẽ ra tay “.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Xuân đem lại những gì tốt đẹp cho con người nếu con người biết thánh hóa những ngày xuân và năm mới.Tuy nhiên, còn nhiều người chưa chắc đã được hưởng một ngày xuân ấm áp, đẹp tươi: những mảnh đời tang thương, những mảnh đời rách nát. Chúng ta được diễm phúc hơn những hạng người nghèo khổ.Chúng ta hãy mở lòng để giúp đỡ những mảnh đời đau thương và cố gắng sưởi ấm tâm hồn họ.Năm mới, chúng ta cầu xin Chúa ban bình an để cuộc đời mỗi người, mỗi gia đình luôn đầy ắp tình thương và ân huệ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Mùa Xuân vĩnh cửu, xin ban cho chúng con luôn biết phó thác nơi bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
20. Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân loại (Lm Ignatio Trần Ngà)
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp.
Tết đến, xuân về, ai ai cũng hân hoan đón mừng năm mới; nhà nhà rộn rã sửa soạn mừng xuân.
Bầu trời ảm đạm của mùa đông đã được Xuân về nhuộm màu thắm tươi rực rỡ.
Xuân xua tan băng giá của mùa đông và đem lại ấm áp cho con người.
Xuân tô điểm cảnh vật, cho hoa trổ hương sắc, cho cây cối đâm chồi nẩy lộc, chim chóc ríu rít vui ca.
Xuân đổi mới vạn vật, xuân làm phấn chấn lòng người nên mọi người đều tưng bừng mừng xuân, chào đón xuân và cầu mong xuân sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho bản thân, cho gia đình mình, cho đất nước mình trong năm mới.
Thế nhưng còn có một Mùa Xuân khác tuyệt vời hơn mùa xuân của thời gian. Đó là Mùa Xuân Giê-su.
Chúa Giê-su chính là Mùa Xuân tươi đẹp đã và đang đến với nhân loại. Mùa Xuân Giê-su đi đến đâu thì tô đẹp cuộc đời và thăng hoa con người đến đó.
Mùa Xuân Giê-su hôm xưa đã hồi sinh những người đã chết: cho La-da-rô đã chết bốn ngày rồi được sống lại, cho con trai bà goá thành Na-im và cô con gái ông Giai-rô được hồi sinh.
Mùa Xuân Giê-su đã làm cho những người đau bệnh được chữa lành, người mù tối được sáng mắt, cho người điếc được nghe, cho kẻ què đi được, người phong được sạch.
Mùa Xuân Giê-su đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong tội và giúp họ trở về nẻo chính đường ngay: hoán cải Gia-kêu bóc lột trở thành người quảng đại dám đem nửa gia tài bố thí cho người nghèo, đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra; biến người đàn bà tội lỗi trở thành người loan tin vui, biến người thu thuế thành tông đồ, biến Sao-lô bách hại trở nên chiến sĩ anh dũng loan Tin Mừng…
Nhưng điều đáng tiếc là mặc dù Mùa Xuân Giê-su đã đến trong cuộc đời chúng ta từ lâu nhưng chúng ta không chịu để cho Mùa Xuân Giê-su đổi mới đời mình. Vì thế, hôm nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Mùa Xuân Giê-su tô điểm cuộc đời chúng ta nên tươi đẹp hơn.
Quý trọng nét đẹp tâm hồn
Ai ai cũng quý trọng sắc đẹp phần xác. Ngược lại, người ta cảm thấy buồn tủi nếu mình không được xinh đẹp duyên dáng.
Nhưng hãy nhớ rằng vẻ đẹp của tâm hồn đáng quý hơn vẻ đẹp thân xác. Vì thế, người ta thường nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người” hoặc: “Cái nết đánh chết cái đẹp.”
Đúng vậy, nét đẹp của tâm hồn, nét đẹp phát xuất từ phẩm chất cao quý của con người đáng trân trọng và quý mến hơn vẻ đẹp thân xác.
Bằng chứng là Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, một nữ tu già nua, nghèo nàn, thấp bé và không có nhan sắc, vậy mà nhờ Mẹ có một thái độ tôn trọng mọi người như tôn kính Chúa, có một trái tim nhân ái đầy ắp yêu thương, có một tâm hồn quảng đại quên mình vì mọi người, có một tinh thần sẵn sàng phục vụ những người bần cùng khốn khổ khắp nơi trên thế giới… nên Mẹ được thế giới kính trọng và xem như là người phụ nữ cao quý nhất. Đúng là “xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.”
Trang điểm tâm hồn
Muốn trở nên xinh đẹp, cần phải tẩy xoá đi những gì làm cho đời ta hoá nên xấu xí.
Trong giao tiếp hằng ngày, phải loại trừ những lời nói thô lỗ, những ngôn từ thô bỉ, thiếu văn hoá… vì nó làm mất thanh danh phẩm giá của người thốt ra những lời đó.
Cố gắng loại trừ những hành động vũ phu, những hành vi côn đồ, thiếu văn hoá, thiếu văn minh và đạo đức… vì ai thực hiện những hành vi đó là tự làm hại chính mình, đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đồng thời chúng ta cố gắng trang điểm đời mình bằng cung cách lịch sự, bằng những hành vi cao thượng, bác ái, vị tha… Chính những hành vi cao đẹp nầy làm cho bản thân chúng ta thực sự trở nên cao cả.
Ngôi nhà chúng ta ở đã được nâng cấp (trước đây ở nhà tranh nay lên nhà ngói), phương tiện đi lại của chúng ta đã được nâng cấp (trước đi xe đạp nay lên xe máy), các mặt hàng tiêu dùng trong nhà đều đã được nâng cấp thì lẽ nào bản thân chúng ta lại không được nâng cấp sao?
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp, càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức, được Thiên Chúa và mọi người yêu mến (theo Luca 2,39).
21. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Xem ra con người chúng ta thường vất vả, bon chen để sinh sống và để kiếm cho được một chỗ đứng nào đó trong xã hội. Đó là lẽ thường tình của con người. Tuy nhiên, đường của những môn đệ của Chúa lại khác bởi vì Chúa nói:” Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho “.
Những giây phút đầu năm mới là những giây phút thật đẹp Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người. Chúa trao cho mỗi người, người năm nén, người ba nén, người một nén và Chúa đòi hỏi con người phải làm lợi ra cho Chúa. Mỗi ngày có 24 tiếng, 365 ngày một năm là món tiền Chúa trao ban cho mỗi người đồng đều để mỗi người làm lợi ra cho Chúa. Vâng, Chúa tạo dựng nên vũ trụ, con người, Chúa giao cho con người làm chủ vũ trụ, làm đẹp công trình sáng tạo của Chúa. Con người có đức tin, nên thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy vui luôn trong Chúa. Như thế, con người chẳng lo lắng gì vì Chúa luôn quan phòng. Một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng nằm trong bàn tay quan phòng của Chúa. Con chim sẻ, hoa huệ là tạo vật, Chúa vẫn an bài huống chi là con người…Do đó, mỗi người hay tín thác vào Chúa và đặt hết sinh mạng, đời sống của mình nơi bàn tay an bài của Chúa:” Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”.
Chúa là Đấng chí công, Ngài là Đấng giầu lòng nhân hậu và giầu tình thương, Ngài sẽ ban ơn phù giúp cho mỗi người chúng ta. Đầu năm mới, chúng ta tiến thêm một bước nữa trong cuộc hành trình đức tin. Chắc chắn, mỗi người cần sự an bình bởi vì sự bình an là điều rất cần thiết để con người lãnh nhận ân huệ của Chúa. Sự bình an mà các thiên thần năm xưa hát vang trên không trung ngày Chúa giáng trần:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm “. Chúng ta phải có sự an bình trong tâm hồn, mới hiểu được những nấc thang giá trị của cuộc sống. Của cải vật chất cần thật để sinh tồn nhưng xin Chúa là sự khôn ngoan, sự bình an ban cho mỗi người chúng ta biết sáng suốt khước từ những gian tà, những bất chính, những thỏa hiệp để chỉ biết làm giầu cho cá nhân, cho bản thân mình. Chúng ta phải luôn tín thác nơi Chúa vì có Chúa mới giúp chúng ta biết quảng đại, chia sẻ với những người khổ đau, đói nghèo.
Tiết Đông nay đã qua rồi, mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm. Ngàn hoa rực rỡ vươn lên, tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê. Mùa vui hát lại trở về, tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Dc 2, 11-12). Cuộc đời con người giống như Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ xoay chuyển vần xoay và rồi năm này tiếp qua năm nọ. Con người rồi cũng có lúc tàn phai. Nhưng Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, Chúa là Chúa của muôn xuân. Ngài hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời vẫn tươi xinh, tốt đẹp. Con người chỉ biết cúi đầu trước Đấng tạo hóa tối cao:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài ” (Tv 66, 2-3).
Và rồi con người chúng ta luôn hiểu lời này:” Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh. Công lý ban, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ “.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Nhâm Thìn được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào (Lời nguyện nhập lễ, lễ Mồng Một Tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ngày đầu năm có ý nghĩa gì?
2. Thánh Lễ Minh Niên để làm gì?
3. An bình có cần thiết cho con người không?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là mùa xuân vĩnh cửu?
22. “Những Dấu lặng của Mùa Xuân”!
Năm cũ đi. Năm mới đến. Người ta lại bắt tay vào những công việc quen thuộc. Người thì lo tính toán sổ sách, hoàn tất công việc. Kẻ thì đi sắm sửa quần áo, giày dép, hoa kiểng, bánh mứt, quà cáp … Người khác lại lo chuẩn bị các mặt hàng để buôn bán ở chợ Tết. Năm nào cũng vậy, Mùa Xuân nào cũng thế. Nhưng thử hỏi nếu không có Mùa Xuân? Thì…?
Chuyện kể rằng:
“Ngày kia, có vài người đến thưa với Thượng Đế rằng: Tết năm nào cũng có bấy nhiêu việc. Chán quá! Chỉ có bọn con nít vô tư ham Tết chứ người lớn như chúng con chẳng ham gì Tết vì còn vất vả, tốn kém hơn ngày thường. Xin Ngài xem xét cho”! Suy đi nghĩ lại, Thượng Đế quyết định gọi Mùa Xuân trở về Thiên Quốc.
Thế là ba trăm sáu mươi lăm ngày này trôi qua, lại đến ba trăm sáu mươi lăm ngày khác tiếp nối nhau liên tục. Trẻ con cứ vùi đầu vào sách vở. Người lớn thì miệt mài chạy theo công việc làm ăn. Nhà cửa chẳng bao giờ được trang hoàng bởi những nhánh mai vàng rực rỡ và những chậu hoa kiểng xinh xắn, dễ thương. Các ông bà cụ mỏi mòn bên song cửa ngày này qua tháng nọ mà bóng dáng con cháu vẫn biền biệt. Bạn bè không có dịp họp mặt nhau bên ly rượu, mâm cơm để gặp gỡ, chia sẻ tâm tình … Và rồi dần dần, hoa cỏ nhợt nhạt vì thiếu làn gió xuân ấm áp và những đôi tay chăm sóc. Con người cũng dần dần xa cách nhau vì thiếu sự quan tâm và tình thương nồng nàn.
Chịu hết nổi, một ngày nọ, con người lại đến van xin Thượng Đế: “Xin Ngài đem Mùa Xuân trở về với chúng tôi. Không có Mùa Xuân, có ngày chúng tôi phát điên lên mất”.
Khi Mùa Xuân trở lại, sức sống và niềm vui lại chan hòa trên cảnh vật và con người …”
Có lẽ Mùa Xuân là một quà tặng tuyệt vời mà Thượng Đế gửi đến cho vũ trụ và con người. Quà tặng đó là thời gian, là những vẻ đẹp được kết tinh từ cả một chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc, và sâu xa hơn, đó là một “món ăn” bổ ích cả thể xác lẫn tinh thần cho con người.
Có lẽ tùy vào hoàn cảnh và tâm trạng của mình mà mỗi người có những cảm xúc khác nhau trước Mùa Xuân.
Tôi rất thích Mùa xuân! Bao năm rồi vẫn vậy. Ngày xuân! Chợ và siêu thị nào cũng đầy ắp các loại bánh mứt, trái cây … được trưng bày đủ kiểu, đủ dáng thật đẹp; tấp nập kẻ bán, người mua. Bước ra hội chợ Hoa Xuân dường như … hoa cả mắt bởi các loại hoa kiểng xinh xắn, rực rỡ và mới lạ – đủ các dáng kiểu. Các Hội Xuân tưng bừng các trò chơi vui nhộn. Đường phố “dập dìu tài tử giai nhân” rạng rỡ trong những bộ quần áo thật đẹp và “model”. Trong các nhà thờ thì càng vui hơn nữa: mọi người hăng hái quét dọn, treo lộc xuân và những câu đối. Cảnh đẹp và người đẹp! Nhất là được trở về xum họp với gia đình và những người thương mến sau những tháng ngày xa cách, vì thế mà tôi vẫn cứ thích Mùa Xuân!
Đón mừng Xuân Mới. Ai cũng cũng có nhiều công việc phải làm: những chương trình vui xuân và những dự tính mới cho ba trăm sáu mươi lăm ngày sắp tới. Giữa những ồn ào náo nhiệt ấy, cần lắm một chút lắng đọng lại để lắng nghe “lời thì thầm của Mùa Xuân”!
Sau một năm dài bôn ba, mỏi mệt bởi công việc và tất bật chạy đua với thời gian, tôi cần có những giây phút dừng lại để nghỉ ngơi và “nạp năng lượng”; để đọc lại những bài học may, rủi, thành công và thất bại đã qua; để vun tưới cho những tương quan và tình cảm tốt đẹp với bao người thân yêu mà nhiều khi vì vô tình và vội vã, tôi đã đi lướt qua họ và bỏ mặc họ.
Đón Xuân không chỉ là dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa cho đẹp và mặc những bộ quần áo mới, hay có những kế hoạch vui chơi giải trí cho thật hấp dẫn, mới mẻ và thỏa thích. Điều quan trọng hơn, đón xuân là làm mới lại tất cả: tâm hồn, cách sống, công việc và đời sống gia đình, cũng như các mối tương quan xã hội. Khi đã “gạn đục khơi trong” con người mình bằng cách loại bỏ tư tưởng và những điều tiêu cực, đồng thời chắt lọc những giá trị tích cực và bổ ích, tôi sẽ có được sức mạnh và nghị lực mới để bước tiếp chặng đường mới một cách tự tin và vững vàng hơn.
Mùa Xuân mở đầu cho một năm mới. Hoa lá khoe sắc mới và gió xuân thổi vào lòng người niềm vui và hy vọng của những may mắn mới. Người người phơi phới niềm vui, hân hoan trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất: Phúc, Lộc, Thọ … và gửi biếu nhau những món quà thể hiện lòng biết ơn, sự trân trọng, quý mến và chia sẻ. Xin đừng quên nói lời cảm ơn những người bạn thân thiết đã chia sẻ cùng mình những niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại. Hãy nói lời cảm ơn người cha, người mẹ, người chồng, người vợ và những người bà con thân quyến … đã gắn bó và nâng đỡ mình trong những ngày tháng qua. Hãy cảm ơn chính mình về những nổ lực và nhiệt tâm … Và đừng quên cất lời cảm tạ Thượng Đế về bao ơn lành Ngài đã ban cho ta trong một năm qua nơi mọi biến cố vui, buồn, may, rủi …
Có thể ví cuộc đời mỗi người như một bản nhạc được dệt bởi những cung bậc trầm bổng của thời gian. Giữa những cung bậc tưng bừng và náo nhiệt của Mùa Xuân, có “những dấu lặng” thật tuyệt vời để ta nghe lại âm hưởng của đoạn nhạc phía trước và bắt đầu những giai đoạn mới ở phía sau. Khi ấy, Mùa Xuân mới thật sự là “một phần tất yếu của cuộc sống” chúng ta. Cuộc đời chúng ta sẽ là Khúc Nhạc Mùa Xuân mà Thượng Đế ban tặng để làm phong phú hơn cho vẻ đẹp của con người.
23. Vạn sự như ý… Chúa
Dịp tết tôi có nhận được lá thư của người thân ở nước ngoài, cầu chúc cho tôi “vạn sự như ý” được nhắc đi nhắc lại gần ba lần Tôi hiểu người thân của tôi rất thương mến tôi, quan tâm nhiều tới tôi, mong ước cho tôi được may mắn điều này điều kia, không muốn tôi phải khổ, không muốn tôi gặp những khó khăn… Vạn sự đây chắc không phải chỉ có mười ngàn lần mà là mọi việc xẩy ra đều tốt đẹp như ý muốn, và đó là hạnh phúc nhất của con người, rất là tự nhiên thôi. Thử hỏi trên đời này có ai lại “mát” đến cỡ muốn đau khổ, muốn phiền toái, muốn thất bại, mọi việc xẩy ra đều ngoài ý muốn bao giờ đâu. Các tôn giáo này các giáo phái kia đều muốn giúp con người cách này cách khác thoát khỏi khổ, vì không được như ý muốn là khổ, muốn giầu mà cứ nghèo mãi chẳng khổ là gì? Muốn bình yên mà cứ gặp tai nạn hoài chẳng khổ là gì?
Xưa nay người ta vẫn hiểu công khai hoặc hiểu ngầm là Ý Chúa thì luôn ngược với ý người ta nên người ta phải khổ. Khi phải khổ thì người ta chẳng còn tha thiết gì với Đấng ấy, càng xa càng tốt, càng dửng dưng càng khỏe, càng tránh được bao nhiêu càng đỡ phiền toái bấy nhiêu… Bởi vì đấng ấy có nhiều quyền hành muốn sao nên vậy, mọi vật đều phải tuân thủ. Khi nổi cơn ngông lên thì giáng họa, đánh phạt, răn đe đủ điều, có khi dùng tạo vật làm những trò tiêu khiển; Ngài như con muỗi sốt rét lâu lâu chích cho ta một phát chơi đỡ buồn. Gặp đường cùng con người quay lại chống đối, giơ nắm đấm, vênh mặt lên nghênh hoặc con người không tìm được lối thoát thì đành phải ngậm bồ hòn chịu vậy. Có người gắng công gồng mình tập chịu vậy, rồi cho đó là một nhân đức, lập công; khi chịu vậy đã quen thì cho đó là đỉnh cao của đời sống đức tin, và đi đến đâu cũng khuyên bảo người khác một cách rất sốt sắng là “Ý Chúa đấy, hãy… chịu vậy”. Gặp người chịu vậy thì họ lại chịu vậy, gặp người không chịu vậy thì họ dù không tỏ thái độ ra bên ngoài nhưng bên trong cũng giận điên lên!!!
Có điều con người muốn nhận diện rõ ràng đâu là ý Chúa, đâu là ý người ta, đâu là ý Bề trên? Hay bị lẫn lộn. Ý Chúa thì ráng cúi đầu chịu vậy, chứ còn ý người ta thì….. không thể chịu được, ăn thua đủ, sòng phẳng. Ông muốn gà bà muốn vịt, ông muốn không bà muốn có, muốn có điện lại bị cúp điện, muốn làm hòa mà nó lại chẳng cần… như thế có phải ý Chúa không?
24. Hạnh phúc đích thật
Tai nạn giao thông ở ngoại ô thành phố Paris năm nào đã cướp đi mạng sống của công nương Diana. Cái chết của bà làm hàng triệu người xúc động. Người ta thương bà vì bà xinh đẹp, bà nhân từ và vì bà phải mất đi cuộc sống này khi tuổi đời còn qúa trẻ, chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui hạnh phúc. Hạnh phúc là niềm khát khao của mọi người. Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc. Cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Vậy hạnh phúc ở đâu? Hạnh phúc là gì?
Bạn thân mến! Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh phúc của con người. Những gì Ngài làm cho ta như tạo dựng, nhập thể, cứu chuộc, thánh hóa..v..v.. Tất cả đều nhằm đem lại hạnh phúc cho ta trong cuộc đời này và cả cuộc đời mai sau nữa. Hạnh phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc của con người. Thiên Chúa vui khi thấy con người hạnh phúc.
Định nghĩa hạnh phúc là điều không dễ làm, vì mỗi người có một quan niệm khác nhau về hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian. Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc, để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn thế nào là “hạnh phúc đích thật”: Hạnh phúc đích thật không nằm nơi của cải; kiến thức hay quyền uy. Hạnh phúc đích thật không do chiếm đoạt những gì mình muốn, nhưng do trao hiến những điều quý nhất của mình. Hạnh phúc đích thật là mãn nguyện với những gì mình được ban tặng; là niềm vui nhẹ nhàng, là bình an sâu lắng. Hạnh phúc đích thật là sự an bình ổn thỏa giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em, và giữa tôi với chính tôi…
Sống ở đời, con người thấy mình không hạnh phúc trọn vẹn. Hạnh phúc bao giờ cũng được pha trộn với mồ hôi và nước mắt. Nhưng có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực sự, mới cảm thấy hạnh phúc thực sự.
Chúng ta cần nhiều thời gian để suy đi nghĩ lại, và nhất là cần nhiều ơn ban từ trời cao giúp ta thấu hiểu được các mối phúc. Cũng như trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, những điều người đời coi là bất hạnh, Đức Giêsu bảo đó là hạnh phúc đích thật: nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, bị khai trừ, bị sỉ vả..v..v.. những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét bỏ vì nói lên dự thật, bị sỉ vả vì Chúa..v..v..thì ta thật là người có phúc. Hạnh phúc đó xảy ra ngay trong hiện tại, nơi một lương tâm thanh thản. Ta thấy mình giàu lên trong cảnh nghèo khó, no thỏa khi đói khát, vui tươi khi rơi lệ, và nhảy mừng khi bị bách hại.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, có biết bao Kitô hữu đã sống các mối phúc thật trong đời mình. Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý dễ thương; cái thâm sâu cao cả của Lời Chúa đã khắc ghi trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Không phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong Tin Mừng. Phúc cho ai nghe và giữ Lời Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin… Đức Giêsu có thể kéo dài các mối phúc đến vô tận, để các mối phúc đi vào mọi ngõ ngách của đời thường. Ước gì mỗi người trong chúng ta biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, biết viết lên những mối phúc mới, cậy dựa vào những niềm vui và ơn ban Chúa dành cho ta trong cuộc sống hàng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ trên đường Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn ẩn hiện trong Tin Mừng. Nụ cười ấy hòa lẫn với niềm vui trào dâng của người được lành bệnh; của người chết sống lại và của người đàn bà tội lỗi được ơn tha thứ …
Lạy Chúa, có những niềm vui Chúa muốn trao cho con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại trong con. Xin dạy con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với con. Xin cho con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều là màu hồng. Con hay lo âu và chản nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi của con. Xin cho con luôn cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Chúa yêu thương, và được sai đi để thông truyền tình thương ấy cho anh chị em của con. Amen.
25. Ngày đầu năm – R. Veritas
Tâm tình tạ ơn và phó thác trong cuộc sống.
Một nhà tư tưởng người Đức sống vào thế kỷ thứ 14 được tôn làm bậc tôn sư đưa ra khuôn vàng thước ngọc như sau:
– Người quan trọng nhất trong lúc này là người đối diện với ta.
– Giờ phút quan trọng nhất đối với ta lúc này là giờ phút hiện tại.
– Công việc quan trọng nhất là công việc bác ái yêu thương.
Chỉ chú ý vào người đối dịện, vào giờ phút hiện tại vào công việc ta đang làm. Đó là bí quyết sống hạnh phúc.
Người Nga cũng có một châm ngôn tương tự:
– Chỗ quan trọng nhất là chỗ bạn đang đứng này đây.
– Con người quan trọng nhất là con nguời đang đứng trước mặt bạn và đang cần bạn.
Đầu năm mới, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm. Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà,v.v… Có người quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạn. Có quyết tâm và có quyết tâm, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm tâm hồn chúng ta.
– Hãy sống giây phút hiện tại với tất cả tâm tình lạc quan và phó thác. Đó phải là quyết tâm mà chúng ta có thể làm tức khắc trong giây phút này.
– Hãy hưởng nếm những niềm vui nhỏ trong cuộc sống như ân tình diệu vợi của Chúa.
– Hãy trao vào tay Ngài mọi sầu muộn lắng lo. Chúng ta hãy để cho mọi lo âu lắng đọng xuống.
Chúng ta hãy chấm dứt mọi bài ca than vãn của thất vọng để chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin: Đó là tâm tình phó thác và tri ân.
– Tạ ơn Chúa đã ban cho ta chào đón năm mới.
– Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
– Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình Yêu của Ngài.
– Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người.
– Tạ ơn Chúa chúng ta cũng không quên tạ ơn người:
– Tạ ơn ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta: Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới còn vang vọng trong tâm hồn chúng ta. Tạ ơn nhiều người mà chúng ta thù ghét. Tạ ơn những người thù ghét chúng ta. Tạ ơn tất cả bởi vì cách này hay cách khác họ vẫn luôn luôn là tiếng gọi để chúng ta sống tinh thần Kitô hữu nhiều hơn.
Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một năm mới.
Xin đâng lên Ngài tất cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta.
26. Năm mới cầu gì? – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Năm mới, mọi người thường trao tặng nhau những lời cầu chúc thật tốt đẹp. Một trong những lời chúc được ưa chuộng nhất đó là lời chúc: Phúc – Lộc – Thọ. Lời chúc này được tạo nên bởi một hình tượng khá rõ nét với bộ Tam Đa: ông Phúc bế đứa trẻ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu đội mão cánh chuồn; ông Thọ, người lùn thấp, đầu nhẵn bóng trán dô lên, một tay chống gậy, một tay cầm quả đào
. Cả ba ông đều có chòm râu dài bạc trắng, nét mặt hồng hào, cười tươi rạng rỡ.
Vậy, Phúc- Lộc- Thọ: Các ông là ai?
Ông Phúc là Quách Tử Nghi – Thừa tướng thời nhà Đường. Ông là một vị quan thanh liêm nên cũng nghèo. Đổi lại nhà ông ngũ đại đồng đường, con cháu đề huề. Lúc ông mất, con cháu năm đời đều có đủ.
Ông Lộc là Đậu Tử Quân, làm Thừa tướng thời nhà Tấn. Trái ngược với Quách, Đậu là quan tham, tiền của như núi nhưng khi trăm tuổi không có người nối dõi.
Ông Thọ là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng thời nhà Hán. Ông này giỏi xu nịnh, được lòng vua nên hưởng nhiều bổng lộc. Ông mang lộc vua ban mua nhiều gái đẹp làm thê thiếp, mục đích dưỡng sinh. Và cũng sống dai, trên trăm tuổi. Khi chết thì chỉ có đứa chút bốn đời lo tang ma, còn cháu chắt chết hết cả.
Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng, không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù hợp. Phúc –Lộc – Thọ có lối sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn cầu như Lộc Thọ là cầu cái vô phúc, liệu có ai muốn không?
Xem ra lời cầu chúc “Phúc – Lộc – Thọ” đã được hiểu sang một ý khác không còn mang ý nghĩa ban đầu của hình tượng Tam Đa. Nhưng thực tế, có lộc mà không có an bình, có Thọ mà không có niềm vui cũng là điều bất hạnh cho con người. Thế nên, không cần cầu cho có nhiều tiền, không cần cầu cho sống dai mà là cầu cho có phúc được hưởng niềm vui trong cuộc sống mới là quan yếu.
Có ai đó đã nói rằng: ” Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao. Tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao”. Có được niềm vui thanh cao là hạnh phúc. Đây mới là mục đích tìm kiếm của đời người. Con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là điều ai cũng khao khát, tìm kiếm suốt cả cuộc đời.
Tóm lại, Phúc – Lộc – Thọ là ước nguyện lớn nhất của mọi người. Thế nhưng, trong ba điều ước Phúc – Lộc – Thọ thì Phúc mới là điều chính yếu mà chúng ta cần cầu mong. Vì được đông con, có tiền, sống dai mà không có hạnh phúc thì cũng là những tháng ngày bất hạnh cho cuộc đời chúng ta.
Chúa Giê-su ngay trong bài giảng đầu tiên Ngài cũng nhắc đến cái Phúc của con người. Cái phúc của Chúa Giê-su không phải là con cháu đầy nhà. Cũng không phải là nhiều tiền nhiều của. Cũng không phải là sống lâu đến độ “bách niên giai lão”. Cái phúc mà Chúa mời gọi chúng ta ao ước, tìm kiếm là có Chúa ở cùng. Có Chúa làm gia nghiệp. Hay được Chúa xót thương….
Những mối phúc này hoàn toàn lệ thuộc vào sự tự do chọn lựa của chúng ta. Chọn Chúa để sống khó nghèo, thanh sạch, hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…; Đổi lại người ấy được nhìn xem Thiên Chúa và có Chúa làm gia nghiệp đời đời.
Nhưng ở đời hôm nay người ta ít chọn Chúa khi mà nhu cầu hưởng thụ mỗi ngày một cao hơn. Người ta cần tiền để thoả mãn nhu cầu vật chất của mình lên không chịu sống khó nghèo. Có tiền người ta rải tiền trong các cuộc truy hoan trụỵ lạc. Thế nên, người ta ít sống thanh sạch. Cuộc sống luôn tất bật, bon chen, xô đẩy con người, khiến có mấy ai hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…?
Hôm nay ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới chứa chan ơn Phúc từ Trời. Xin cho chúng ta luôn là người có Phúc khi chọn Chúa làm gia nghiệp, khi chọn Chúa hơn những của cải mau qua trần gian. Xin cho chúng ta luôn tìm được niềm vui có Chúa ở cùng khi biết sống phụng sự Chúa với hết cả tấm lòng. Amen
27. Bình An Năm Mới – Mt 6, 25-34 (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi – Tết Quý Tỵ 2013)
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.
Đó là những câu thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, đã viết lên để ca ngơi Đấng Tiên Tri muôn thuở, xin Ngài giáng phúc thi ân, ban phước lộc cho muôn người, muôn nhà trong năm mới. Bởi vì năm cũ Nhâm Thìn đã qua đi nhường chỗ cho năm Quý Tỵ.Mọi Kitô hữu hãy ngước mắt lên trời, xin Thiên Chúa chúc lành cho năm mới này, để muôn người, muôn nhà được sống trong sự an bình của Chúa…
Tiết Đông nay đã qua rồi,
Mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm.
Ngàn hoa rực rỡ vươn lên,
Tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê.
Mùa vui hát lại trở về,
Tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Tv 66,2-3).
Sự an bình, vui nhộn của đồng quê, làng mạc, thôn xóm trong những ngày xuân nói lên rằng Thiên Chúa yêu thương con người, quan tâm đến con người cả tinh thần đến vật chất. Đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay nói đến sự quan phòng của Thiên Chúa: chim trời, hoa huệ và mọi sự đều được Chúa an bài, ngay cả sợi tóc trên đầu rơi xuống đất cũng do Thiên Chúa định liệu. Con người quý trọng hơn hoa huệ, chim trời biết bao! Người Kitô hữu hãy ký thác đường đời cho Chúa, tín thác nơi Chúa:” Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng “.
Suốt một năm qua, chắc chắn mỗi người đã được Thiên Chúa ban cho những ân huệ đặc biệt tùy theo lòng thương xót của Ngài…Năm mới tới, chúng ta luôn tin như thánh Phaolô viết:” Anh em đừng lo lắng gì cả.Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu “.
Năm mới, chúng ta luôn xác tín rằng Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng chúng ta. Nên, Lời Chúa:” Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 20) an ủi, nâng đỡ và giúp chúng ta tin tưởng tiến bước vì chúng ta cảm nghiệm sâu xa Chúa ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của đời sống chúng ta.
Ngày lại ngày, chúng con ca ngợi Chúa, mãi ngàn năm, xin chúc tụng danh Ngài, lời Thánh Vịnh là động lực giúp chúng con luôn bám chặt vào Chúa và tôn vinh, ca ngợi Chúa. Kinh tiền tụng lễ Minh Niên nhắc nhở chúng ta:”…Riêng con người, Cha đã tạo nên giống hình ảnh Cha và cho điều khiển mọi công trình kỳ diệu trong hoàn vũ trụ, để họ thay quyền Cha làm chủ mọi loài, và khi chiêm ngưỡng những kỳ công Cha đã thực hiện, họ hát mừng ca tụng Cha luôn mãi, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con “. Chúng ta vững bước, tin tưởng ký thác nơi Chúa, chính Người sẽ hướng dẫn và điều khiển cuộc đời của mỗi người.
Lạy Chúa, Chúa đã trao cho loài người chúng con trách nhiệm trông coi vũ trụ. Nay chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa những lễ vật đầu xuân, chọn lựa trong tinh hoa của ruộng vườn.Xin cho chúng con không ngừng cảm tạ tri ân, và chu toàn sứ mệnh làm chủ trái đất (Lời nguyện tiến lễ, lễ Minh Niên).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tết có ý ngjĩa gì?
2. Tại sao chúng ta lại ký thác đường đời cho Chúa?
3. Bình an của Chúa có khác với hòa bình của con người?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là Mùa Xuân vĩnh cửu?
28. Tết cho mọi người – Lm Jos Nguyễn Hữu An
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa với nền văn minh lúa nước vốn có những ngày Tết truyền thống, những ngày lễ hội dân gian đầy ý vị và vui tươi. Từ Tết cơm mới cuối vụ mùa cho đến lễ mở rừng đi săn. Đến như lễ tết ra giêng để vào hè thì có Tết Thượng Nguyên, Tết Hàn Thực, Tết Đoan Ngọ. Đặc biệt để tiễn mùa đông người Việt đã ăn Tết Nguyên Đán. Bên cạnh đó còn có nhiều tết khác như Tết Trung Nguyên (rằm tháng bảy) của Phật Giáo, Tết Trung Thu (dành cho thiếu nhi), Tết Trùng Dương, Tết Ông Táo… Tất cả đều có sự tính toán dựa theo sự chuyển đổi của thời tiết trong năm và căn cứ vào nông lịch phương Đông.
Chữ “Tết” ngày nay đã được một số quốc gia sử dụng như là một “Lễ” hết sức độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ “Tết” bắt nguồn từ “Lễ Tiết” bên Trung Quốc. Tết do Tiết đọc chệch đi. Từ chữ Tết người ta còn ghép theo từ Nhứt nữa nghe thật thú vị, như ‘Tết Nhứt’ là do đọc chệch đi từ hai âm Hán Việt “Tiết Nhựt”, có nghĩa là ngày Tết. Còn Nguyên Đán, theo chữ Nôm: Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai, Nguyên Đán là sớm mai đầu năm. Nguyên Đán còn gọi là “Chính Đán” tức là “Chính Nguyệt Chi Đán” (buổi sớm mai tháng giêng), ngoài ra còn sử dụng từ tam chiêu, là ba cái sớm mai (sớm mai đầu năm, sớm mai đầu mùa, sớm mai đầu tháng).
Tự xưa nay, là người Việt Nam, dẫu ở bất cứ nơi đâu vẫn xem trọng ngày Tết Nguyên Đán. Một năm làm lụng vất vả mưu toan cho cuộc sống; một năm xa gia đình bôn ba mọi nơi, ba ngày Tết Nhứt vui vẻ, đoàn tụ, mọi chuyện buồn phiền lo toan đời thường tạm gác sang một bên để mọi người cùng hưởng niềm vui đón xuân về, tết đến.
Người Việt Nam vui hưởng Tết và luôn nhớ về Tổ tiên ông bà cha mẹ, nhưng không quên nghĩ đến người nghèo, thương đến những người đã khuất núi.
Tết cho người trần
“Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”, câu nói ấy đủ cho thấy người Việt chú trọng đến ngày Tết như thế nào. Dù khốn dù khó thì ngày Tết cũng phải có cặp bánh chưng, khoanh giò lụa, nải chuối, hộp mứt. Nhà có điều kiện thì mua sắm đủ thứ, nào là mâm ngũ quả thật đẹp, các loại bánh mứt thật hảo hạng, cây giò thật to, gà, thịt thật nhiều, bánh chưng và nhiều loại bánh khác. Cùng với những thứ ăn, là những chậu hoa, cây cảnh, chậu quất sai qủa, gốc mai cành đào đầy đủ lộc, nụ, hoa…
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” là cái Tết truyền thống của người Việt Nam. Ý nói cái Tết có cả phần vật chất lẫn tinh thần. “Câu đối đỏ” ngày nay được cải tiến rất nhiều. Bên cạnh những đôi câu đối viết bằng mực đen trên nền giấy điều, giấy lụa là những câu đối in trên loại giấy bóng tốt, nhiều nhà còn sắm về những hoành phi câu đối bằng gỗ, khảm trai hay những đôi câu đối thêu… Quan niệm của người Việt, ngày Tết tiễn cái cũ đi, đón cái mới về. Chính vì vậy, cùng với việc mua sắm, nhiều nhà có điều kiện, những tháng cuối năm thay đổi những cái cũ trong nhà như thay đổi tivi mới to hơn, đổi cái tủ lạnh, cái máy giặt hay thay xe… nhà không có điều kiện thì cũng cố gắng làm cho căn nhà mới hơn bằng việc quét vôi lại hoặc kê dọn đồ đạc trong nhà, lau chùi đánh bóng lư hương bát đèn, dọn dẹp sân vườn sạch sẽ…
Ngày Tết, còn là dịp để người người vui chơi. Bên cạnh việc “Ăn Tết”, người ta nghĩ đến việc “Chơi Tết”. Chơi Tết có thể kéo dài từ những ngày áp Tết 27, 28, 29 Tết với những cuộc đi ngắm chợ hoa, đi chợ Tết và ngày nay còn cả việc đi vào các siêu thị. Có thể mua hoặc có thể chẳng mua gì, song việc đi chợ như là niềm vui của ngày Tết, đặc biệt đối với giới nữ. Vì vậy, chợ là nơi thu hút đông người. Chợ vốn dĩ đã ồn ào, náo nhiệt thì những ngày áp Tết chợ càng thêm tưng bừng, rộn rã hơn. Nói đến “Chơi Tết” thì không thể không nói đến chuyện đi thăm hỏi, chúc Tết nhau, con cái đi chúc Tết cha mẹ, anh em, họ hàng, thân bằng cố hữu đến chúc Tết nhau. Trong nhà, ngoài đường vui như trẩy hội. Việc “Chơi Tết” không chỉ dừng lại ở ngày Mùng Một, Mùng Hai. Nó có thể kéo dài hết tháng giêng, tháng hai và cả tháng ba với những lễ hội, đình đám. Vì thế mà người ta có câu: Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai đình đám, tháng ba hội hè. Có lẽ người người chờ đón Tết, thích Tết cũng vì lẽ đó.
Tết cho người âm
Người Việt rất trọng chữ “Lễ nghĩa – trước sau”. Ngày Tết nhà ai cũng phải có mâm ngũ quả, mâm cơm thắp hương tổ tiên. Quan niệm “Trần sao, âm vậy” nên dễ thấy những ngày trước Tết, trong các chợ, quầy bán hàng mã cũng rất đông người. Người ta mua tiền, vàng, mua quần áo, có nhà chu đáo còn mua cả tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe honda hay cả xe hơi, điện thoại di động, toà nhà nhiều tầng về đốt cho người thân ở cõi âm.
Ở nhiều làng quê, người ta còn nghĩ về người âm, lo Tết cho những người âm không có nhà cửa bằng việc nấu cháo hay cơm nát đơm từng thìa cho vào lá sung hoặc lá ổi đã được cuộn tròn như cái phễu đem để bụi tre, dọc đường vào đêm ba mươi. Và cũng trong đêm ba mươi, ngày mùng một chủ nhà nào cẩn thận còn bảo con cháu ra mở cửa, mở cả cửa trước, cửa sau, ngoài ý niệm trần thế đón Xuân vào nhà còn hàm ý mở cửa mời ông bà, tổ tiên về cùng vui đón Tết.
Tết cho người âm còn thể hiện ở việc người trần đi tảo mộ. Thường người ta đi tảo mộ vào sáng sớm mùng hai hoặc mùng ba Tết với mâm cơm nhỏ để ông bà, cụ kị chứng cho con, cho cháu, hoặc với những người trẻ xấu số thì mâm cơm tảo mộ còn để cho hương hồn họ không cảm thấy cô quạnh.
Tết cho hai phần thế giới… giao thoa
Ngày Tết, đất trời giao hòa, người người gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp lạ thường của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau có lẽ cũng xuất phát từ những ước nguyện ấy.
Những ngày Tết, người ta đến với cửa chùa, cửa đền nhiều hơn. Tuỳ từng điều kiện của mỗi gia đình, tuỳ vào lòng thành của mỗi người song hầu hết đến chùa ai cũng có được lễ vật để dâng. Ở nơi này, trong bảng lảng của khói hương, người người cầu ước và hy vọng những ông quan với bộ mặt hiền từ ngồi kia cùng những linh hồn quanh đó nghe được và giúp họ thực hiện những điều ước tốt đẹp trong năm mới. Trong dân gian, người ta cũng truyền miệng nhau rằng, ngày Tết, các quan trông coi các chùa cũng rất bận rộn. Họ phải cắt cử nhau ở chùa để ghi lại những điều mong ước của người trần. Sau đó báo cáo lên thiên đình, rồi căn cứ vào những việc làm thiện, ác của từng người, của từng gia đình mà thiên triều cho người đó được hưởng hạnh phúc hay khổ đau trong năm đó. Những vong hồn cũng quanh quẩn cửa chùa thường là những vong hồn phiêu dạt không cửa nhà, họ tìm đến đây để xin được ăn. Và cửa chùa chính là nơi giúp người âm và người dương gần nhau hơn. (Tổng hợp từ các báo xuân: tuổi trẻ, phụ nữ, nhân đạo, kinh tế, công giáo dân tộc).
Tết nơi xứ đạo
Những ngày giáp Tết mọi nhà tất bật bận rộn công việc bán mua, sắm sửa cho ngày Tết. Chợ búa đông vui nhộn nhịp.
Xứ đạo tôi thuộc miền quê, rộn ràng bao lo toan đón Tết. Chuẩn bị quà Tết cho người nghèo. Năm nay mất mùa, người nghèo nhiều hơn. Quà Tết cho người nghèo là lương thực cứu đói. Huy động hết mọi đoàn thể, mọi giới trong xứ đi lạc quyên giúp người nghèo được “Ăn Tết” cùng với mọi nhà, bởi lẽ “giàu thì ngày ăn ba bữa, nghèo thì cũng đỏ lửa ba lần”. Quà cho các cụ già trên 70 tuổi như tấm lòng biết ơn cùng với lời chúc thọ của con cháu trong thánh lễ Mồng Hai Tết.
Năm nào giáo xứ cũng tổ chức hội thao cho giới trẻ, thiếu nhi, bóng đá bóng chuyền. Thêm ba đêm hội chợ, văn nghệ vui xuân. Vì thế khuôn viên Nhà thờ tấp nập mọi đoàn thể ngày đêm tập luyện, chuẩn bị cho ba ngày Tết. Vui Tết lành mạnh, ở làng quê giảm đi bao tệ nạn cờ bạc rượu chè say sưa.
Đất Thánh cũng đông người đến tảo mộ, sửa soạn cho Thánh Lễ sáng Mồng Hai Tết. Những ngày cận Tết, nghĩa trang lung linh ánh sáng đèn nến, nhập nhoà hương khói.
Chuyện Tết cho người trần, Tết cho người âm, Tết cho người nghèo chính là cuộc sống mà người người đang hối hả khi cái Tết bắt đầu gõ cửa.
29. Hạnh phúc trường sinh (Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
Người đời vẫn coi ba hạnh phúc lớn nhất của con người là Phúc – Lộc – Thọ. Phúc là công danh chức tước – Lộc là con cháu đông đảo – Và thọ là tuổi già.
Có công danh, sinh con cái là những dịp để người ta khao vọng, mừng rỡ, và khi hưởng tuổi già người ta lại càng cần phải mừng rỡ hơn để tạ ơn trời đất tiên tổ đã phù hộ cho được sống lâu. Vì đây là nỗi khao khát của con người vượt qua mọi thời đại. Dân tộc nào cũng ước mơ trường thọ, thời đại nào cũng mong được trường sinh bất tử. Dân tộc Việt Nam cũng biểu lộ sự khao khát trường sinh bất tử qua câu truyện Từ Thức lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Nỗi khao khát này còn được biểu lộ nơi chúng ta trong những dịp lễ tết đầu năm thường chúc nhau mạnh khỏe sống lâu, và trong đám cưới người ta vẫn thường cầu chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc.
Vâng, sống hạnh phúc và trường thọ là nỗi khao khát nhất của đời người. Người đời không chỉ mong sống lâu mà còn mong được sống hạnh phúc và bình an. Hôm nay ngày đầu năm, mỗi người chúng ta đều chúc nhau hạnh phúc. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm an khang thịnh vượng. Chúng ta mong ước cho nhau luôn mạnh khoẻ sống lâu và làm ăn phát đạt. Đây chính là những ước mơ rất chính đáng của con người. Là người ai cũng mong được sống trường sinh và hạnh phúc.
Chính Chúa Giê-su cũng định hướng cho chúng ta một con đường dẫn tới bến bờ hạnh phúc và trường sinh. Đó chính là con đường của tám mối phúc. Đây là con đường đòi hỏi sự dấn thân quên mình, đòi hỏi phải hy sinh những cái nhỏ để được cái lớn hơn. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình. Đây cũng là một đòi hỏi kiên quyết của người môn đệ Đức Kytô. Họ phải là những người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Chúa và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Cho dù mình có bị thiệt thòi một chút, đau khổ một chút nhưng họ lại có ích cho gia đình, cho xã hội và đồng loại. Cuộc sống của ta chỉ có niềm vui trong những gì chúng ta cho đi. Cho thì có phúc hơn nhận lãnh. Một con người không bao giờ biết cho đi, không bao giờ biết hy sinh vì người khác, hay không bao giờ sống thanh sạch lòng thanh – gìn giữ công lý và xây dựng hoà bình, họ chỉ là một ốc đảo xa xăm, tự nhốt kín đời mình trong ngục tù cô đơn. Họ là những con người vô dụng, vô tâm, sống xa rời tình Chúa – tình người nên họ chỉ là những cây xanh thiếu lá, xem ra trơ trụi, trơ trẽn giữa cuộc đời.
Năm nay được gọi là Năm Con Rồng. Con Rồng là linh vật đứng thứ 5 trong 12 con giáp, rồng được coi là là sản phẩm của truyền thuyết và các huyền thoại, biểu tượng của sự may mắn, thịnh vượng cũng như quyền lực mạnh mẽ. Rồng còn là biểu tượng của lòng bái ái bao dung. Theo truyền thuyết, khi Rồng vừa bay tới vừa nhả lửa trên bầu trời. Thượng Đế thắc mắc tại sao một con vật mạnh mẽ như Rồng lại không đến đích đầu tiên, Rồng trả lời vì nó còn phải dừng lại giữa đường, làm mưa giúp dân dưới trần thế.
Năm Rồng chúng ta cầu chúc nhau nhiều điều may mắn đến với chúng ta trong năm, đồng thời cũng cầu chúc nhau biết xây dựng hạnh phúc đời mình như con Rồng bằng việc thi ân cứu đời. Sống thanh cao như Rồng. Sống vươn lên khỏi những đam mê xác thịt thấp hèn. Sống thanh thoát khỏi những bon chen vật chất tầm thường, những danh lợi thú mau qua, và biết tìm niềm vui trong đời sống hiến dâng phục vụ cho đời.
Nguyện xin Chúa Xuân ban cho chúng ta một năm mạnh mẽ như rồng và nhiều điều may mắn đến với chúng ta. Xin Chúa Xuân chúc lành cho chúng ta một năm vạn sự như ý. Xin Chúa giúp chúng ta biết vươn lên trong nhân đức và mạnh mẽ trong đức tin đức cậy và đức mến. Amen
30. Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Mỗi năm vào ngày đầu năm mới người ta vẫn chúc tụng nhau và cầu chúc cho nhau những điều may mắn, những điều tốt đẹp nhất, những điều hạnh phúc nhất.Hôm nay ngày 01 tết Canh Dần, phụng vụ cho chúng ta đọc lại tám mối phúc thật của Chúa Giêsu để chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc thật, thế là là những người được Chúa chúc phúc.
Sống nơi cõi trần, con người ai cũng muốn mình được may mắn, được tốt đẹp, đặc biệt được hạnh phúc. Do đó, con người tranh đấu để sinh tồn, con người phấn đấu để vượt khó, vượt lên cả số phận của mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hứa ban Nước Trời là hạnh phúc đích thật cho các môn đệ Chúa. Chúa cũng đảm bảo cho những con người hiền lành, sầu khổ, có tâm hồn trong sạch, bị bách hại sẽ được” đất nước làm cơ nghiệp ” được ” Thiên Chúa xót thương” được ” nhìn thấy Thiên Chúa ” được ” gọi là con Thiên Chúa “. Và để những lời chúc phúc của Chúa trở nên hiện thực cho đời sống, cho con người, Chúa mời gọi các môn đệ Chúa phải trải qua đau khổ, vác thập giá và trải qua cái chết với Ngài trên thập giá. Đối với Chúa phải qua thập giá mới tới được vinh quang. Chính vì thế, người môn đệ Chúa sẽ không thể nhận được lời chúc phúc, sẽ không thể nào được hạnh phúc nếu không trải qua cuộc hành trình thập giá. Không có đau khổ không có vinh quang. Không có cái chết, không có sự phục sinh. Chúa muốn dạy chúng ta rằng muốn có hạnh phúc, muốn được tài lộc phải hy sinh, chịu khó, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Bởi vì, không ai nằm chờ sung rụng rồi sẽ được giầu có nếu họ không chịu khó, phấn đấu, cực nhọc. Không ai muốn sống lâu mà cứ luôn phung phí sức khỏe, không biết tập luyện, kiêng khem vv…
Ngày đầu năm mới, chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa vì Người đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Người và còn hứa ban ” Nước Trời ” cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một năm qua được lãnh nhận nơi Ngài biết bao hồng ân, Ngài yêu thương và thành tín với chúng ta dù rằng nhiều khi chúng ta phản bội Ngài.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài luôn là người Cha đầy tình thương xót, luôn tha thứ mỗi lần chúng ta xúc phạm đến ngài và chẳng trách cứ chúng ta.
Đầu năm mới chúng ta hãy sống và chúc cho nhau một năm mới đầy yêu thương, đầy ý nghĩa vì Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân không bao giờ tàn úa, nhạt phai.
Chúa là mùa xuân, chúng ta hãy mở tung cõi lòng để đón nhận những lời chúc phúc của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta phải sống yêu thương như Ngài yêu thương chúng ta và Ngài đã hy sinh mạng sống vì yêu thương chúng ta.
Tạ ơn Chúa vì lời chúc phúc của Chúa vẫn luôn hiện thực trong đời sống của mọi người.
Tạ ơn Chúa vì hạnh phúc được làm con Chúa trong tin yêu và hy vọng và như thế lời chúc đầu năm mới: an bình, tuổi mới và sống lâu vẫn là những điều quí hóa bởi vì đó là hoa quả của tình yêu của Chúa là mùa xuân vĩnh cửu.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một năm mới vui tươi và hạnh phúc. Amen.
31. Bình an và hạnh phúc (Giuse Nguyễn Hữu Duyên – Lm Quản Xứ Bảo Lộc)
Anh Chị em rất thân yêu,
Ngày đầu năm đâu đâu cũng rộn rã tiếng cầu chúc bình an và hạnh phúc. Xuyên qua những lời chúc xuân ấy, chúng ta có thể nắm bắt được những ý nghĩ căn bản của nhân thế về hạnh phúc và bình an:
Sức khoẻ và tuổi thọ, tiền tài và thịnh vượng, công danh và thành đạt, tình yêu và đại gia đình, đó là những gì làm nên an bình và hạnh phúc cho con người.
Lời Chúa chúng ta mới nghe cũng là những lời cầu chúc bình an và hạnh phúc. Nhưng Lời Chúa có một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ và dường như trái nghịch với ước mơ thường tình của con người:
Trước hết nền tảng của hạnh phúc và bình an chính là sự bảo trợ của Danh Thiên Chúa và Chúc Lành của Người. Dân Chúa khi còn ở Ai Cập cũng thường nghĩ chính công ăn việc làm, chính đất đai nhà cửa, chính những tài sản tích lũy là sự bảo trợ của hạnh phúc và an bình. Cho nên 40 năm trong sa mạc, khi phải vứt bỏ tất cả, thậm chí ngay đến những gì gồng gánh đem theo cũng phải tiêu tán trong cát bụi, không ít lần họ đã nổi loạn chống lại Môsê… nhưng Thiên Chúa không khoan nhượng… Ngài đã chôn vùi và lột trần tất cả trở thành những con người sống từng bữa bởi lòng thương xót của duy mình Thiên Chúa. Những kẻ đã ra khỏi Ai Cập phải phơi xương trên biển cát mênh mang, và còn lại chỉ là một lớp người mới sinh ra trong hoang điạ, chỉ lúc ấy Dân Chúa mới chiếm được Đất hứa và trở nên Dân Ưu Tuyển và hùng cường.
Chúa Giêsu đã rút từ lịch sử Thánh ấy điều cốt lõi khi công bố Hiến Chương Nước Trời cho Dân Mới: Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo: Phải xây dựng Hạnh Phúc của mình, của gia đình, của xã hội dựa vào hành động yêu thương của Chúa Dù sao Israel vẫn còn được cưng chiều hơn, giữa sa mạc, họ vẫn còn khí trời, vẫn còn cột mây che mát, vẫn còn cột lửa sáng soi…và vẫn còn tình huyết tộc bao bọc chở che, Hội Thánh của Đức Kitô phải chôn vùi sự sống của mình trên 300 năm trong các hang toại đạo, phải phiêu dạt tứ xứ nơi đất lạ…chịu muôn vàn bách hại và truy sát… Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa không khoan nhượng trong đòi buộc vứt bỏ tất cả để hoàn toàn chỉ sống nhờ sự bảo trợ của Người. Sau này, khi hòa bình bên ngoài được thiết lập, không thiếu thành phần con cái Hội Thánh quên đi cái nôi sự sống của mình chính là Khó Nghèo ấy, Thiên Chúa đã làm nẩy sinh phong trào ẩn tu, và Hội Thánh đã được tái sinh chung quanh những trung tâm ẩn tu ấy. Gần chúng ta hơn, khi Hội Thánh sa lầy trong nhung lụa và quyền bính thời Trung Cổ, là cái cớ của sự phân hóa của những giáo phái Tin Lành, Chúa đã một lần nữa tái sinh Giáo Hội như một Bà Chúa Nghèo của Phanxicô thành Assisie… Lịch sử Dân Chúa chính là lịch sử đầy tính hiện sinh của cái nghèo chân thực. Hạnh Phúc được neo trong sự nghèo khó ấy.
Thánh Phaolô đã không làm giảm thiểu tính quyết liệt ấy khi xác định cách chắc chắn rằng, không phải là sự khó nghèo luân lý đạo đức nào đó là nền tảng của Hạnh Phúc và bình an, nhưng chính là con người nghèo của Đức Giêsu Kitô, và vì vậy trong mọi hoàn cảnh sự nghèo khó của Người Kitô chính là được kết hiệp với Đức Giêsu Kitô. Và qủa thực, những ai thuộc về Đức Kitô thì luôn sẵn sàng đi từ hang BeLem cho tới Núi Sọ và cách riêng là trở thành Tấm Bánh bị bẻ ra cho những con người nghèo.
Anh Chị Em rất thân yêu,
Đứng trước đòi hỏi của Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời, và sự đòi hỏi phải trở nên Tấm Bánh bị bẻ ra ấy, tôi có thể nào trong lúc này không nhận ra tính nghịch thường ấy giữa một quang cảnh nhộn nhịp của ngày tết. Tuy nhiên, bên dưới lớp vỏ vui xuân, lại chỉ là những con tim khô quạnh và nhức nhối. Còn nơi bàn thờ này sự nghèo khó cô đơn đến lạnh lùng lại là con tim rộn ràng sức sống yêu thương.
Ngày đầu năm, tôi kính chúc Qúy Cha rất đáng yêu mến của tôi, kính chúc Thầy Phó Tế, Quý Tu Sỹ nam nữ, Qúy Chủng Sinh, Quý Cố Ông, Cố Bà, và toàn thể Anh chị em thân yêu được chính Thiên Chúa bằng Thánh Thần trong Đức Giêsu thánh hóa và gìn giữ vẹn toàn trong năm mới, để chúng ta tất cả trở nên nhân chứng của Hạnh Phúc đích thật cho mọi người, mọi gia đình và toàn thể xã hội.
Kính Chúc
32. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết:” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. ” Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời ” như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc thấy:” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “.Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con người, cho loài người, cho mỗi người:” Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ”.
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành tâm thiện chí ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
33. Việc gì phải lo, có Chúa an bài (Mt 6, 25-34) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Trong muôn loài được Thiên Chúa dựng nên, con người là hình ảnh Chúa. Do đó, con người có nhiều đặc ân mà không loài nào trên trần thế có thể so ví với con người.Loài người có suy tư, suy nghĩ và tư duy biết phán đoán, ưu tư, quan tâm đến người khác và quay lại với chính mình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, Ngài luôn yêu thương săn sóc, lo lắng, quan phòng. Hoa huệ ngoài đồng, chim se sẻ Chúa cũng còn quan tâm huống chi con người. Chính vì thế, Chúa nói:”…Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì?…”.
CHÚA NÓI ĐỪNG QUÁ LO LẮNG NHỮNG CÁI PHÙ PHIẾM: Nghĩ cũng nực cười khi con người hết thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có gì mới mẻ, vẫn cứ ngựa y đường cũ nghĩa là cứ đầu tắt mặt tối lo lắng cơm, gạo, bạc, tiền vv…Có người suốt đời cơm vẫn thiếu, áo vẫn không đủ mặc ấm. Tại sao lại như vậy? Nghĩ cũng buồn và cười ra nước mắt, thật là thê lương. Tuy nhiên, đọc lại Tin Mừng của thánh Matthêu 6, 25-34, Chúa nói:” Đừng lo “. Con người là loài thụ tạo cao hơn mọi loài Chúa dựng nên. Hoa huệ đẹp ngoài đồng mà vua Salomon tuy vinh sang như thế nhưng cũng không mặc đẹp như đóa hoa đó. Con chịm se sẻ, Chúa cũng nuôi. Hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin (Mt 6, 30). Loài người, con người họa lại hình ảnh vô song, toàn mỹ của Thiên Chúa. Do đó, con người được Chúa quan phòng, lo toan vì họ trọng hơn hoa, quí hơn muông thú. Ngài quan tâm đến từng nhu cầu của mỗi người theo cách thức tế nhị nhiệm mầu cao sâu của Ngài. Thánh Phaolô đã viết rất chí lý rằng:” Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!…Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời.Amen. “(Rm 11, 33-36).
CỨ TIN TƯỞNG, KÝ THÁC CHO CHÚA: Thánh vịnh 13 có câu:” Hãy ký thác đường đời cho Chúa.Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Chúa bảo” đừng lo”, không có nghĩa Chúa nói chúng ta lười biếng, ỷ lại, không chịu làm việc, đừng lo cho nhu cầu thể xác và trần thế này. Chúa không hề nương chiều con người, cũng như ủng hộ cho những con người lười biếng, liều lĩnh. Thánh Phaolô đã từng nói:” Không làm việc thì đừng ăn…”. Đúng sự đời là như thế, con người quả tuyệt vời vì có lý trí để suy luận, có đạo đức để biết phân biệt điều phải, điều ác, điều ngay, điều gian và có hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Loài chịm, loài thú, chúng ta cứ tưởng chúng không vất vả, kỳ thực ra chúng vất vả nhiều, chúng phải bay đi hoặc đi xa để kiếm mồi, kiếm thức ăn nuôi sống…Loài hoa, loài cây cũng phải nhờ rễ đâm sâu, nhờ hút nước ở dưới đất, nhờ hấp thụ sương, mặt trời vv…Con người Chúa luôn khuyên nhủ hãy phó thác, nghĩa là hãy để tâm hồn bình an, đừng bôn ba quá đáng, đừng lạc quan đến bất cần, nhưng ” Hãy lấy Chúa làm niềm vui…Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”(Tv 36). Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê 4, 4-8 cũng đã viết:” Anh em đừng lo lắng gì cả…”.
Tết là dịp để con người dừng lại, chiêm ngắm những kỳ công hết sức tuyệt vời của Thiên Chúa: chim chóc, thú rừng, cây cỏ, hoa lá vv… ngắm lại chính bản thân của mình: ” Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Giavê”. Và đã là hình ảnh của Thiên Chúa, con người sẽ sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa vĩnh cửu, trường sinh. Do đó, sự phó thác luôn là cần thiết của mọi người…
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa. Amen.
34. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Năm mới đang đến, mở ra một giai đoạn mới của cuộc sống. Và ở thời khắc linh thiêng này, có lời của Thiên Chúa nói với chúng ta qua Tin Mừng mà Hội Thánh công bố.
Vài phút suy niệm về lời được công bố ấy, tưởng cũng là điều rất cần thiết cho chúng ta lúc này. Vậy ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại mà đối diện với lời Chúa.
1. Mt 6,25-32: Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống
Những của cải trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào. Phần thứ nhất của bài tin mừng hôm nay (cc.25-32) trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng ấu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27). Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định.
Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự “không lo lắng” của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
2. Mt 6,33-34: Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó.
Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Ngày Tết, chúng ta cầu chúc cho nhau một cuộc sống bình an và hạnh phúc, bởi biết rằng tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Nhưng lời Chúa nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).
35. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34) (Lm. Trần Bình Trọng)
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó, chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch… đạch, đùng. Đạch, ĐÙNG… ĐÙNG… Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió, bão táp… như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại với những gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt 25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn (Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
36. Ơn Bình An (Mt 6,25-34)
Mùa xuân đang đến với quê hương, gia đình và mỗi tâm hồn.
Mùa xuân đến mang thêm tuổi đời, niềm vui và hy vọng.
Mùa xuân đến làm tươi nở cuộc đời với hương trời, gió xuân, hoa thắm.
Mùa xuân đến đem niềm an bình và hạnh phúc cho con người.
Vâng, tất cả chúng ta đang được tận hưởng tràn trào hương xuân trong ngày đầu năm mới với muôn ngàn lời chúc tốt đẹp. Chúng ta chúc nhau năm mới an khang hạnh phúc, an bình phúc lộc, an mạnh trường thọ, an lành thánh đức… Những lời cầu chúc thân thương ấy đã diễn tả phần nào nguyện ước sâu xa của cõi lòng con người. Hơn hẳn những nhu cầu thiết thực khác của cuộc sống, chúng ta mong ước được an bình từ nội tâm đến cuộc sống ngoại tại, từ mối tương giao thân tình giữa người với người đến sự hòa hợp thích ứng với thiên nhiên và các tạo vật.
Thế nhưng, đâu là phương thức chính đáng nhất để chúng ta có được sự bình an đích thực như lòng mình mong muốn? Câu trả lời được tìm thấy trong bài Tin Mừng mà Giáo hội đã chọn đọc trong ngày đầu năm mới hôm nay.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa quan phòng, để đừng quá bận tâm vào những nhu cầu của cuộc sống thực tại, vì chính Chúa Cha sẽ ân ban cho chúng ta tất cả. Điều quan trọng và cần thiết nhất trong lúc này là chúng ta hãy ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (x.c.33). Đó là thái độ mà chúng ta cần kiên quyết thực hiện ngay trong ngày đầu năm mới này. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người chính là trạm dừng chân lý tưởng nhất để chúng ta có được sự bình an như lòng mình mong ước. Trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô cũng xác nhận: “Một xã hội được hòa giải với Thiên Chúa thì gần gũi với hòa bình hơn… Hòa bình là kết quả của một tiến trình thanh tẩy…” (số 15).
Quả thật, sự bình an đích thực mà chúng ta đang khát khao chính là việc thiết lập được mối tương giao thuận thảo giữa chúng ta với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta cho Ngài, nên tâm hồn chúng ta còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa (thánh Augustin). Thánh nhân đã nói lên được tâm tư nguyện vọng nơi thẳm sâu tâm hồn của mỗi người chúng ta. Thật vậy, chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có được sự bình an đích thực. Chính sự an bình tràn ngập tình yêu thương này, khiến chúng ta luôn luôn muốn sống thân tình với Thiên Chúa, kết hiệp thâm sâu với Ngài trong tình yêu, chu toàn thánh ý Ngài trong cuộc sống, tận tâm giới thiệu Chúa cho người khác, mong cho Danh Ngài tỏa lan đến mọi người mọi nơi. Đây cũng chính là phần ưu tiên mà chúng ta phải chọn lựa theo giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng. Bởi lẽ, một khi có Chúa trong cuộc đời, ta sẽ được tận hưởng một sự bình an vô hạn. Với Chúa, chúng ta cùng đi gieo rắc niềm an bình đến mọi nơi. Và vì Chúa, chúng ta cũng sẽ biết trân trọng, gìn giữ và bảo vệ sự bình an mà Ngài đã ân ban.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, chúng ta cùng nguyện cầu ơn bình an được tỏa lan đến khắp mọi nhà và mọi tâm hồn. Cầu mong ơn bình an được chan hòa trên khắp miền quê hương đất nước. Chúng ta ước nguyện quê hương được thái bình thịnh vượng, nhà nhà an hòa, người người an lòng, để cùng chung tay xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp hơn. Thế nhưng, để có được sự bình an như lòng mong ước, chúng ta phải biết ngước nhìn lên Đấng là chính nguồn cội sự bình an. Xin Ngài thương ban tặng cho chúng ta niềm an bình và hạnh phúc đích thực trong năm mới này.
Tuy nhiên, sự bình an không chỉ dừng lại nơi bản thân của mỗi người, mà cần phải được chia sẻ đến mọi người và mọi nơi. Chúng ta cần trao tặng cho tha nhân sự bình an của Chúa qua thái độ biết quảng đại tha thứ để sống yêu thương hơn, biết trân trọng người khác với những khả năng và khác biệt nơi họ, biết ân cần quan tâm đến nhau nhiều hơn, biết nhiệt tâm phục vụ với tất cả lòng từ tâm và nhân ái, biết cảm thông trước những nỗi khổ đau hay giới hạn của người khác… Vâng, trong mùa xuân này, Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta, đang mong chờ một vòng tay yêu thương rộng mở của chúng ta để đón nhận, để sẻ chia cho những tâm hồn bé nhỏ là hình ảnh thân thương của Ngài. Những hiện thân ấy đang ở chung quanh chúng ta, bên lề đường, trong những túp lều ẩm thấp, trong những cơn bệnh thập tử nhất sinh, hay trong những mái nhà xiêu vẹo vắng bóng tiếng cười, vắng luôn cả miếng cơm manh áo… Chúng ta cần đáp trả thế nào trước tiếng kêu than của người anh em chúng ta? Đó chính là tiếng kêu gào của một vị Thiên Chúa đang nhập thể từng ngày trên quê hương này, ngay trong mùa xuân này.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một mùa xuân an bình hạnh phúc. Quê hương con giờ đây không còn chiến tranh, không còn bạo lực, chúng con được thoải mái vui chơi và tận hưởng mùa xuân an bình trên quê hương dấu yêu. Thế nhưng, Chúa thấy đấy, khung cảnh bên ngoài thì bình an thư thái, nhưng bên trong chiều sâu thăm thẳm của lòng người, của xã hội, thì cũng còn đầy dẫy những kiểu “chiến tranh không đổ máu”. Từ những lối sống ích kỷ, thụ hưởng với những đam mê khoái lạc, rồi những thái độ gian dối lừa lọc, cư xử bất công, hành xử đầy tính cách bạo lực… đã tạo nên những hố sâu ngăn cách giữa người với người. Để rồi còn tìm đâu ra sự bình an trong những cảnh tượng như thế? Một điều làm cho Chúa đau lòng hơn cả là từ nội tâm con người đã tự nguyện giết chết sự bình an của một lương tâm trong sáng, khi sẵn sàng ngăn cản sự ra đời của một thai nhi bé bỏng vô tội. Thật xót xa cho Chúa khi từng ngày và mỗi phút giây trên quê hương con, hàng chục thai nhi bị giết chết mà không kịp tận hưởng một chút hương vị mùa xuân cuộc đời.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, xin canh tân đổi mới tâm hồn chúng con, đặc biệt là tâm hồn các bà mẹ trẻ, để trong năm mới này, mọi người đều biết duy trì được sự bình an đích thực trong tâm hồn mà Chúa đã ban tặng.
Xin cho mùa xuân này đem lại nhiều niềm vui và sự an bình cho mọi tâm hồn, nhất là những tâm hồn đang cô đơn sầu khổ.
Xin cho mùa xuân này là lời động viên, nhắc nhở hay cảnh báo cho tất cả mọi người, để cùng với ơn thánh, chúng con luôn biết nỗ lực sống yêu thương và an bình trong tình Chúa và tình người chân thành. Amen.
37. Cầu bình an trong năm mới
Không biết có ai trong chúng ta thắc mắc “tại sao Giáo hội lại chọn đọc bài Tin Mừng này vào ngày đầu năm mới? Ngày cầu bình an?” Thiết tưởng Giáo hội là mẹ cũng muốn dạy con cái mình những điều thật hữu ích. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng nên đặt thêm một vài câu hỏi: Tại sao lại phải cầu bình an trước tiên ngay trong ngày đầu năm mới? Điều gì đem lại bình an? Điều gì làm mất bình an? Lời Chúa hôm nay có giúp gì cho việc giải quyết những vấn nạn này không?
Xin thưa câu trả lời chắc chắn là có. Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho mỗi người tìm được bình an. Vì bình an là gốc của mọi điều tốt lành khác. Có bình an con người sẽ có được những thứ khác. “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.
Lời Chúa thật là chí lý: xét đi xét lại chúng ta thường lo cho mình “của ăn, áo mặc”, mà cái lo này thường làm cho chúng ta quên đi cái chính yếu mình đang có đó là “mạng sống và thân thể”. Chúa nhắc chúng ta nhìn về điều chính yếu Chúa ban cho, Chúa đã trao cho chúng ta mạng sống, cái mà chúng ta không thể làm gì trên nó được, không kéo dài cũng không rút ngắn, không sớm cũng không muộn… mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào tay Chúa. Nhưng ngay cả điều quý giá nhất là mạng sống thì Chúa cũng đã ban cho và được đặt vào trong một thân thể rồi. Thân thể cũng vậy, một món quà quý giá không ai có thể làm cho mình cao hơn lên, hoặc đầy đủ hơn. Chúng ta không can thiệp được về thân thể của chúng ta, có chăng chúng ta chỉ có thể giúp mạng sống và thân thể an toàn và tốt đẹp thêm như nó đã được trao tặng. Vậy mà nhiều khi trong cuộc sống chúng ta lại quên, đánh mất, hoặc làm tổn hại cái chính mà mình đang có để lo tìm cái phụ. Những cái phụ thuộc ấy nếu lo lắng quá đáng chúng ta sẽ làm cho mất bình an.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều khó khăn và thử thách. Công ăn việc làm hết sức bấp bênh. Việc học hành và tương lai của con cái đáng phải lo nghĩ. An sinh xã hội không được bảo đảm. An ninh chính trị thì luôn bất ổn. Xung đột và khủng bố diễn ra khắp nơi. Những điều ấy đã làm cho cuộc sống chúng ta đôi khi mất bình an và luôn phải lo nghĩ để tìm cách ứng phó. Chúng ta vẫn có quyền lo nghĩ và sắp xếp tương lai của mình cho tốt đẹp nhất nhưng đừng để những thứ ấy làm ảnh hưởng đến sự bình an mà Chúa đã ban cho mỗi một người.
Chúng ta là những người đã dám tin vào vào quyền năng và ân sủng của Chúa, chúng ta phải có một lối sống và cách hành xử khác, dám để cho Lời Chúa hướng dẫn vì “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”. Không phải ỉ nại vào sự quan phòng của Chúa, nhưng là cộng tác với Chúa, và khi đã nỗ lực hết sức để cộng tác với Chúa, thì tin tưởng Chúa sẽ chúc lành.
Như vậy điều đem lại bình an là vui với những hồng ân mà mỗi chúng ta được nhận lãnh hằng ngày cách nhưng không: mưa thuận gió hòa, mặt trời mọc và lặn đúng thời đúng buổi, không khí trong lành và những dòng nước mát, những người thân yêu và tình bằng hữu… Và điều làm mất bình an là chúng ta lo lắng tìm kiếm những cái phụ quá đáng, đôi khi lo lắng tìm cái phụ mà chúng ta tranh giành làm tương tổn nhau, đôi khi lo tìm những cái phụ mà đánh mất cả những giây phút hạnh phúc hiện tại mà mỗi chúng ta đang có.
Cầu xin bình an trong năm mới, là cầu xin cho chúng ta cảm nghiệm những hồng ân Thiên Chúa ban cách nhưng không. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho có lòng tin vào bàn tay Chúa quan phòng. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho biết lượng giá và tìm kiếm những điều chính yếu, tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống có quá nhiều bề bộn và lo toan hôm nay, xin cho con được giữ mãi trong lòng hơi ấm bình an của Chúa. Nhiều khi cơm, áo, gạo, tiền đã làm chúng con quá mỏi mệt mà quên đi sự hiện diện nhiệm mầu của Tình Yêu Chúa.
Chúa biết đó, chúng con đang còn phải vật lộn mỗi ngày với cuộc sống nhiều cam go và thử thách hôm nay. Những khó khăn và thử thách từ ngoài tác động vào lòng chúng con và có những thử thách tự chúng con gây ra cho chính mình. Trong tất cả những vấn đề ấy, xin cho chúng con tìm ra được hướng giải quyết và tháo gỡ. Nhưng trên hết, xin cho chúng con luôn biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa và trao đời mình trong vòng tay yêu thương quan phòng của Chúa luôn.
Amen
39. Bình An – Quà Tặng Năm Mới (J.B. Nguyễn Quốc Tuấn)
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô.
Bình an, đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu chúc cho nhau mỗi dịp Tết đến xuân về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người kể cả trên bình diện xã hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đồng hành giữa nhân loại và thái độ đáp trả của con người bằng đời sống yêu thương. Vì khi sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời được tận hưởng một thế giới an bình.
1. Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ tạo thiên lập địa, chính Thiên Chúa đã khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn loài. Riêng đối với con người, Ngài đã ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng tác với Ngài trong việc tạo lập bình an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước từ tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu dẫn đến bất an, đau khổ.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân loại bị tước mất nguồn bình an vì phải xa lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại tiếp tục nâng đỡ và kêu mời chúng ta trở về nhận lại ơn bình an nơi Con Một Người là Đức Giêsu Kitô.
“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5, 23-24).
Một khi ý định của Thiên Chúa đã được thành toàn nơi Đức Kitô, nhân loại thực sự được mời gọi bước vào sống trong thế giới của nguồn bình an vô tận. Khi đã được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, chúng ta không còn phải bất an vì lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3, 15).
Cuộc lữ hành trong Đức tin của người môn đệ dù phải đối diện với muôn vàn mối hiểm nguy luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là cơ hội quý giá cho chúng ta tận hưởng bình an chân thật do chính Thập giá mang lại.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
2. Không có bình an nếu thiếu tình yêu
Như vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi tình yêu mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Điều này cho thấy bản chất của bình an được khởi đi từ tình yêu. Tình yêu vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự bình an. Bình an mà Đức Kitô đã dành trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ của Ngài, chính là nguồn bình an mà nhờ đó con người được sống trong tình yêu Thiên Chúa và anh em.
Kitô giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn toàn diện khi nghiệm xét điều mà nhân loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình An. Đích điểm mà con người bao đời vẫn kỳ vọng là được sống trong một thế giới hoà bình sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn đó những bất an khi con người chưa đáp ứng lời mời gọi của Đức Kitô: hoà giải, thứ tha.
Vẫn còn đó những bất an khi những nhóm, hay cá nhân bất chấp các nguyên tắc luân lý nền tảng của sự sống và nhân phẩm con người.
Vẫn còn đó những những bất an khi người ta nhân danh quyền lực để xâm hại quyền lợi đồng bào vô tội.
Vẫn còn đó những bất an khi đồng tiền được đặt trên tình thương…
Vẫn còn đó những bất an khi chúng ta chưa chịu xả thân hết mình để chia sẻ những mất mát, đau thương của bao người…
3. Bình an – quà tặng năm mới
BÌNH AN - Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta trao đến nhau trong ngày đầu năm mới. Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà hàm chứa một thái độ sống, một nỗ lực sống của chúng ta trên chặng đường những tháng ngày mới đang mở ra.
Món quà BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có ý nghĩa khi chúng ta gói gém vào trong đó những nguyện ước chân thành và thiện chí xây dựng một cuộc sống êm ấm tốt đẹp cho nhau.
Món quà BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an bình đích thực khi nó được khắc vào đó dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm mới bình an khi mỗi người dành cho nhau nhiều thời giờ trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp nhất.
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô. Do vậy, thực chất của ơn bình an chính là một cuộc sống luôn kết hiệp với Đức Kitô trên tinh thần tôn trọng sự thật và xây dựng một xã hội công bình, yêu thương.
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 14).
40. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
41. Một năm mới tốt đẹp
I. NĂM MỚI VỚI LỜI CHÚA
Bài đọc 1: St 1,14-18.
Thiên Chúa là Alpha và Oméga, nghĩa là Khởi Nguyên và Cùng Tận của vũ trụ muôn loài. Ngài sáng tạo thời gian và không gian, chính Ngài ấn định năm tháng ngày giờ và đặt ra các chu kỳ đại lễ.
Một năm mới bắt đầu là một khoảng thời gian nữa được ban cho chúng ta. Có thời gian là một ơn rất quí. Chúng ta có thời giờ để làm ăn sinh sống, nhưng cũng có thời giờ để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu.
Bài đọc 2: Pl 4,4-8
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Phaolô lại thêm chữ niềm vui của Chúa, vì niềm vui của Chúa thì khác với niềm vui của người ta. Niềm vui của người ta thì tùy ở nhiều yếu tố vật chất bên ngoài; còn niềm vui của Chúa thì nhẹ nhàng thanh thoát và tùy thuộc những điều kiện bên trong nhiều hơn như: tính hiền hòa, lòng quảng đại và tinh thần cầu nguyện. Có được những điều kiện đó là chúng ta có thể vui luôn trong Chúa.
Bài Tin mừng: Mt 6,25-34
Bài Tin mừng mời gọi chúng ta an tâm bước vào năm mới với niềm tin tưởng phó thác cho Chúa. Chúng ta phải biết cái gì đáng lo, đó là sống công chính, lo xây dựng Nước Trời. Xây dựng Nước Trời, có nghĩa là thực thi công bình bác ái, kiến tạo hòa bình và tạo dựng hạnh phúc cho mọi người. Có được Nước Trời như thế, thì còn gì phải lo lắng cho vấn đề cơm ăn áo mặc nữa: tất cả những cái mà chúng ta cho là thiết yếu nhất, chẳng qua chỉ là những cái được “thêm cho” mà thôi.
II. XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI, XUÂN BẤT TẬN
Người ta thường nói:
Xuân khứ xuân lai, xuân bất tận,
Nhân hòa nhân thỉnh, nhân trường sinh.
Xuân đến xuân lại đi và sang năm xuân sẽ tới vì quả đất tròn quay mãi không ngừng. Dù có ai yêu hay ghét xuân thì xuân vẫn đến, không phụ thuộc ai dù già trẻ, lớn bé, giầu nghèo, trí thức hay dốt nát, xuân đến một cách nhẹ nhàng, đều đặn.
Chúng ta hãy trở lại với sách Sáng thế. Sách cho biết Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật và Ngài đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối để làm ra ngày và đêm phân biệt. Ngày và đêm thay đổi nhau để làm nên năm tháng. Ngày đêm thay đổi nhau 365 lần làm nên một năm (x. St 1,14-18)
Sau 365 ngày lại có một năm khác mà ta gọi là “Năm Mới” mà năm nay là năm Tân Mão. Ai trong chúng ta cũng gọi năm nay là năm mới, nhưng có thật là mới không vì có người cho rằng chả có gì là mới cả, năm nào cũng vậy thôi và năm nay có thể cũ hơn năm ngoái.
Trước đây, thi sĩ Trần Tế Xương có cái nhìn khác không giống như mọi người, khi ông nói:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Thực ra, nếu xét theo xuân cảnh vật thì càng ngày càng cũ đi như 70 tuổi thì phải cũ đi hơn là 20 tuổi. Nhưng nếu xét theo xuân trong tâm hồn, tức là xuân của ơn thánh thì có thể gọi là năm mới.
Francis Bacon đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề này khi ông nói: “Con người thời nay đã già cỗi, cần phải trở lại “thời thanh xuân” của con người nguyên thủy”.
Đúng vậy, con người trẻ trung ngày xưa đã bị vật dục làm hư hỏng đã trở nên già khọm. Phải làm sao canh tân con người già cả của chúng ta để trở nên người trẻ trung tươi mát vì nó phải trở nên trẻ thơ mới được vào Nước Trời (x. Mt 19,13-15).
III. NGƯỜI TA CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Chúng ta cứ coi năm Tân Mão này là Năm Mới đi và cùng mọi người chúc nhau. Vậy người ta thường chúc nhau những gì? Người ta thường chúc nhau một : Năm Mới Tốt Đẹp, Bonne année hay Happy new year. Câu chúc cổ điển nhất của xã hội chúng ta vừa súc tích vừa vắn gọn nhất bằng 3 chữ là: PHÚC, LỘC, THỌ.
Cũng có người chúc nhau nhiều hơn bằng 5 chữ: PHÚ, QUÍ, THỌ, KHANG, NINH. Nhưng có lẽ chữ Phúc luôn đứng hàng đầu vì nếu được tất cả mà thiếu Hạnh phúc thì cuộc đời trở nên vô nghĩa. Chúng ta hãy xem thi sĩ Trần tế Xương nói chuyện với chúng ta về lời chúc Năm Mới như thế nào:
1. Chúc cho sống lâu.
Có người cho rằng năm mới tốt đẹp là ở tại chỗ sống thật lâu thật bền cho đến lúc đầu phủ tuyết, da đồi mồi. Thi sĩ nói:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Nhưng sống lâu có hạnh phúc không? Tại sao người ta thường nói:”đa thọ, đa nhục” hoặc thành ngữ có câu:”Trẻ khôn qua, già lú lại”. Đã “lú lại” sẽ bị con trẻ chê bai! Đã “lú lại” tất không thể trốn đâu được cái nhục. Không thiếu gì các ông già bà cả bị bỏ rơi, đang sống tủi sống nhục trong tuổi già. Ít có người già nào nói: mình được hạnh phúc trong tuổi già.
Ngắm nhìn ngày tháng dần trôi, người già mới thấm thía câu ca dao:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa… một mình.
Trước cảnh tượng phũ phàng ấy, người ta tự nhiên cảm thấy ù tai chóng mặt. Để cứu vãn tình thế, tranh thủ thời gian, họ đâm ra ăn chơi phóng đãng:
Ai ơi, chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xống xộc nó thì theo sau.
2. Chúc cho giầu có.
Có người cho rằng: năm mới tốt đẹp là ở chỗ làm ăn phát tài phát lộc, tiền chảy vào túi như nước như non. Người ta chúc nhau:”Nhất bản vạn lợi” hay “Một vốn bốn lời”:
Nó lại chúc nhau cái sự giầu
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?
Người ta chúc nhau giầu có, nhưng thử hỏi giầu có đến đâu là đã thỏa mãn? Chắc chẳng bao giờ ngươi ta thỏa mãn với cái lòng tham vô đáy, nên chẳng bao giờ người ta đạt được sự giầu có như lòng mong ước?. Người ta vẫn khát khao sự giầu có mà không được.
Nhiều người đã tôn vinh tiền của lên hàng thần thánh: thần MAMMON (thần Tiền Của). Vị thần này rất quyền năng, trở thành ông chủ khắc nghiệt tuyệt đối chi phối con người họ, bắt họ làm nô lệ cho mình, và có ai thấy mình được hạnh phúc khi phải sống kiếp nô lệ không?
Ngày 06/06/1976 ông Paul Getty, một người giầu có, đã qua đời. thọ 83 tuổi. Ông để lại khoảng 4 tỉ Mỹ kim. Sau 5 lần ly dị, trong một cuộc phỏng vấn, ông đã tuyên bố:”Tôi đã mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ mình không thành công. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân ấy”.
Một lần khác, ông đã phải thú nhận với một phóng viên là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình.
Một lần khác nữa, ông Paul Getty xác nhận: tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Hơn nữa, ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với nỗi bất hạnh.
3. Chúc cho vinh sang
Có người cho rằng một năm tốt đẹp là được mọi người ca tụng, tiếng tăm được vang khắp bốn bể, được thiên hạ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa:
Nó lại chúc nhau cái sự sang
Đứa thì buôn tước, đứa buôn quan.
Danh tiếng vang lừng bốn bể có làm cho người ta được hạnh phúc không? Đây là một chứng từ mà người ta đã biết: ông Anatole France là một người giầu có, được mọi người hoan nghênh, được nếm đủ các thứ khoái lạc trên đời, đã phải thú nhận rằng: “Nếu anh có thể đọc được trong tâm hồn tôi, anh sẽ rùng mình. Trong trời đất không có vật nào vô phúc bằng tôi: người ta tưởng tôi sống hạnh phúc. Thật ra, không bao giờ được sung sướng cả, dầu trong một giờ, dẫu trong một ngày”.
Còn một chứng từ khác của một người còn sang hơn quan nữa, tiếng tăm lừng lẫy khắp muôn phương, được thiên hạ học từ lời ăn tiếng nói, được theo dõi, từ chân tơ kẽ tóc như cô đào minh tinh màn bạc Brigitte Bardot mà cũng không thấy được hạnh phúc.
– ?
– Mộng tôi bây giờ không phải là thủ vai tài tử quan trọng. Mộng tôi bây giờ là làm thế nào có đủ can đảm rút lui khỏi màn bạc.
– Thế thì tất cả những công danh của cô xưa rầy là mây, là khói hay sao?
– Phải! Brigitte Bardot đáp lại những câu hỏi bồi hồi của một ký giả báo Văn Đàn. Phải! Tất cả là mây khói, là hư vô.
IV. CHÚNG TA NÊN CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Nếu chúc cho ông bà anh chị em được sống lâu, giầu có, được vinh sang… thì thấy không ổn vì tất cả những cái đó chưa làm nên hạnh phúc vì nó vẫn là mây khói. Xin được lấy lại câu chúc của thi sĩ Trần Tế Xương một lần nữa:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Câu chúc của thi sĩ “Sao được cho ra cái giống người” xem ra có vẻ hài hước và mang tính cách châm biếm. Nhưng cái nhìn của ông về con người cũng giống như cái nhìn của nhà hiền triết Diogène ngày xưa. Đang giữa trưa ông cầm đèn ra giữa thành phố Athènes để đi tìm cài gì đó. Người ta hỏi tìm gì. Ông trả lời: đi tìm người! Thiếu gì người ở giữa thành phố mà phải đi tìm? Nhưng ông cho rằng những đám người này chưa phải là người đúng nghĩa, ông đi tìm một con người chính danh, con người xứng đáng “linh ư vạn vật” kia!
Năm mới chúng ta chúc nhau hãy trở nên con người đúng nghĩa, phải “linh ư vạn vật ” mới được.
Đối với người Việt nam Công giáo chúng ta, thời gian được ban cho chúng ta trong Năm mới này là để chúng ta “làm người” và “làm con Chúa”. Chúng ta không tự nhiên là người hay là con Chúa được, có là hay không còn tùy thuộc ở chỗ chúng ta có “làm” và có “làm” được hay không. Hạt giống không tự nhiên có thể nở thành cây và sinh hoa kết quả: nó cần phải được gieo cấy trong ruộng trong vườn, và cần phải có thời gian để phát triển. Con người chúng ta cũng vậy, chúng ta là những cái “nhân” được gieo cấy trong ruộng đồng là thế gian này và thời gian được ban cho chúng ta làm nên đời mình bằng cách cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng này cũng ví như ánh sáng và sương mưa cần thiết cho sự sinh trưởng của cây.
Chúng ta sẽ trở nên người con có Thiên Chúa là Cha, để chúng ta có thể thưa với Chúa là “Abba, Cha ơi” (Mc 14,36), và chúng ta có mọi người là anh chị em, và đây là một vinh dự lớn lao đối với con người hèn mọn chúng ta, như người ta nói:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Cha chúng ta điều khiển muôn loài muôn vật, Ngài nuôi chim trời cá biển, săn sóc từng cây cỏ nơi đồng nội. Ngài lại càng săn sóc chúng ta hơn nhiều vì chúng ta là con của Ngài. Vì thế, chúng ta đừng quá bồn chồn lo lắng về đời sống vật chất cho có cơm ăn áo mặc, hãy tin vào Chúa quan phòng.
Có một điều khác biệt nơi người tin và người không tin là người tin thì một đàng ra sức xây dựng và phát triển những giá trị trần gian (trong đó có sự tích lũy tiền của), một đàng vẫn hướng mắt, hướng lòng, hướng lời cầu về với Thiên Chúa là Cha, là Nguồn Mạch mọi sự giầu có và hạnh phúc.
Nhân dịp Năm Mới, xin chúc ông bà anh chị em một năm mới tốt đẹp và một năm mới tốt đẹp như lời Chúa dạy:”Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi; còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho”(Mt (Mt 6,23). Còn ăn ở công chính đây là sống Tám mối Phúc thật như Chúa đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,3-12).
42. Mùa Xuân là Mùa của Hy Vọng (Lm Giuse Nguyễn Văn Thành)
Mùa xuân lại về trên quê hương đất nước chúng ta. Người người náo nức. Chúng ta thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất.
Theo qui luật của Tạo hóa, thời tiết thay đổi nối tiếp nhau theo một chu kỳ: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa nào mang tính độc đáo của mùa ấy, nhưng Xuân vẫn được gọi là mùa của sự đâm chồi nảy lộc, mùa hoa đua nở, cảnh khoe sắc, bởi thời tiết ấm áp hơn. Phong cảnh xinh tươi báo hiệu sức sống dồi dào. Xuân cũng báo hiệu nhiều niềm vui, nhất là các bạn trẻ.
Xuân nào xuân tuổi nhỏ
Trong trắng ấy xuân ơi.
Hầu như tất cả các nước trên thế giới đón mừng năm mới, vào ngày mồng một của tháng đầu năm. Riêng Việt Nam và những nước Châu Á đón Tết theo giờ, ngày của lịch Can Chi năm đó. Lịch Can Chi là Nhân lịch. Sự vận động của thời gian tương ứng với các vị trí không gian trong vũ trụ được thể hiện qua năm, tháng, ngày, giờ. Tết Nguyên Đán là quan trọng nhất đối với chúng ta.
Tết Nguyên Đán được tổ chức rất long trọng cả về tinh thần lẫn vật chất. Nó đã đi vào thói quen của người Việt Nam và đã trở thành nét đẹp văn hoá.
Ngay cả khi nền kinh tế của chúng ta vẫn còn eo hẹp thì ngày Tết vẫn được coi là “no ba ngày Tết, đói ba tháng hè”. Cho dù thiếu thốn đến đâu, người ta cũng sẵn sàng làm Tết trong ba ngày cho thịnh soạn. Vì thế, gia đình nào cũng phải mua sắm ngũ quả, gói mứt, chai rượu, trước hết để thắp hương kính tổ tiên, sau để tết ông bà, cha mẹ…. Ngày xưa, nhiều người còn quan niệm những thứ làm nên ngày Tết:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.
Người ta vẫn coi ngày Tết là ngày rất thiêng liêng, nên trong gia đình có điều gì khúc mắc thì cha mẹ, con cái hay vợ chồng sẽ xin lỗi nhau để hi vọng một năm mới sẽ có nhiều sự may mắn.
Đối với người Công Giáo, chúng ta hãy vui và đón Tết với tất cả tâm tình của người con Đất Việt, cùng đồng hành với dân tộc. Những hành vi thảo hiếu, tình bằng hữu cũng như tình làng nghĩa xóm cần phải được giữ cho trọn. Bởi Chúa chính là chủ của mùa xuân. Ngài đến ban sức sống dồi dào cho muôn loài thụ tạo. Mọi hoạt động của vũ trụ vạn vật đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên, Ngài là hi vọng của thế giới.
“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài cho mầu mỡ ngập tràn lối đi”.(Tv 64,12)
Vì thế, nó rất hợp với ý Chúa và Giáo Hội kêu mời. Đây là thời gian thuận tiện để chúng ta thi hành những công việc của người con cái Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa trước mặt người khác bằng đời sống vui Tết nhưng không quên bổn phận thiêng liêng và chơi Tết mà không sa vào những tệ nạn xã hội.
Hơn nữa, với người Kitô hữu, Tết cổ truyền còn được gọi là dịp biết ơn và báo hiếu, mùa của đổi mới và hi vọng nữa.
Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình trên quê hương đất nước.
Chúng ta quan tâm đến những người kém may mắn để họ cũng được hưởng một cái Tết vui vẻ, khoẻ mạnh và tràn đầy hồng ân Chúa.
**43. SUY NIỆM MỒNG MỘT TẾT Mt 6,25-34
(Lm Thaddaeus. M. Lê Văn Ý)
Một mùa xuân nữa lại về trên quê hương Việt Nam. Nói đến mùa xuân, Tết cổ truyền ai nấy cũng đều háo hức vì đó là ngày lễ hội truyền thống của dân tộc. Vào những ngày cuối năm cũ, người ta lo trang hoàng nhà cửa, sắm sửa mọi thứ đều mới để vui chơi trong những ngày đầu xuân.
Những ngày Tết là những ngày vui. Người ta vui mừng vì gia đình được đoàn tụ, được sum họp sau những ngày tháng làm lụng vất vả: con trẻ vui vì được lì xì, người già vui vì được mừng tuổi và chúc thọ. Bao người đi xa, dù Bắc hay Nam, dù tận phương trời Tây cũng tìm về với gia đình, dòng họ để chung vui.
Ngày đầu năm còn là dịp để người ta xích lại gần nhau hơn, quên đi những điều không may trong năm cũ, đến với nhau và chúc mừng năm mới cho nhau: chúc cho nhau sống lâu trăm tuổi, an khang thịnh vượng và hy vọng mọi việc sẽ được an lành mỹ mãn.
Theo truyền thống của người công giáo Việt Nam, ngày đầu năm mới ngày cầu xin Chúa ban bình an. Ai ai cũng mong được bình yên trong tình yêu quan phòng của Chúa. Khởi đầu năm mới, mọi người đều cảm thấy cần khẩn cầu cho những ngày sắp tới được bình yên thịnh vượng. Đang khi đó ai ai cũng tự hiểu tương lai không ai nắm chắc được điều gì. Người Việt Nam cho rằng “Vạn sự khởi đầu nan”. Khởi đầu năm mới, bên cạnh những niềm vui sum họp, nhưng cũng cảm thấy nỗi lo lắng dâng tràn cho một năm mới đang đến. Vì thế, những người sống niềm tin, chạy đến với Ông Trời, người công giáo tìm đến Chúa để cầu xin được bình an, mong sao được Chúa phù hộ chở che, như trong thánh vịnh 121 đã nói:
“Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,
Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?
Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa
Là Đấng dựng nên cả đất trời,
Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước,
Xin Người chớ ngủ quên.
Đấng gìn giữ Israel, lẽ chợp mắt ngủ quên cho đành!
Chính Chúa là Đấng gìn giữ bạn,
Chính Chúa là Đấng vẫn chở che,
Người luôn luôn ở gần kề.
Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa,
Đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại.
Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh,
Gìn giữ cho sinh mệnh an toàn.
Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới,
Từ giờ đây cho mãi muôn đời”.
Đông qua, xuân lại đến. Dù muốn hay không, qui luật vận hành của đất trời cứ thế mà xoay chuyển, và đó là điều người ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng làm ra và nắm giữ mọi điều, thời gian là của Chúa ban cho con người trên mặt đất này.
Thiên Chúa là Chúa của mùa xuân, là Chúa của trời đất vạn vật. Chính Người là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật ngay từ thuở ban đầu, “từ những vật sáng trên vòm trời, đến những vầng sáng lớn và các tinh tú” (St 1,14-18). Mùa xuân đầu tiên ngập tràn hạnh phúc được Thiên Chúa tạo lập trong vườn Địa Đàng năm xưa chính là mùa xuân tình yêu dành cho Ađam - Evà. Tuy nhiên, hai ông bà đã để mùa xuân yêu thương ấy kết thúc trong sự sa ngã nuối tiếc.
Ngày Tân Niên, chúng ta đến với Thiên Chúa để mừng tuổi Chúa, đến với Đấng làm chủ thời gian để xin Người chúc phúc cho chúng ta:
“Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”. (Tv 66,2-3).
Điều mà ai cũng ao ước trong những ngày đầu xuân đó là sự bình an. Một khi có sự bình an thực sự, con người sẽ có được những thứ khác. Một khi có sự bình an thực sự, chúng ta sẽ luôn vui mừng trong Chúa: “Bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4,7).
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu trong ngày Tân Niên, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta một phương thế để có được sự bình an, đó là tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, qua hai cách nói “đừng lo” và “hãy lo”:
"Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?... Tiên vàn, anh em hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,25.33).
Không lo sao được vì với những người có dư thừa vật chất thì không có vấn đề. Nhưng đối với những người mà mỗi ngày phải lo tìm kế sinh nhai cho đủ ăn đủ mặc, sống lây lất qua ngày, chứ chưa nói đến làm giàu thì rõ ràng đây lại là một vấn đề to lớn. Giữa thế giới tục hóa của thời đại cơm áo gạo tiền này, vấn đề vật chất tiền của đã chiếm chỗ rộng lớn trong tâm trí. Vì thế, nhiều người mãi mê tự mình đi tìm kiếm kinh tế, tiền tài để tiêu dùng và hưởng thụ.
Tuy nhiên, điều Chúa muốn nơi mỗi người là: chúng ta không được phép ỷ lại vào sự quan phòng của Chúa một cách quá đáng, nhưng cũng đừng lo lắng thái quá về tiền của, cái ăn cái mặc cho ngày mai, như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ra sao, sẽ ăn gì, uống gì, mặc gì? Kinh thánh khuyên bảo chúng ta sống tín thác vào tình yêu của Chúa:
“Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện
Thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.
Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn,
Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Hãy ký thác đường đời cho Chúa,
Chính người sẽ ra tay” (Tv 37; 4 – 5)
Hạnh phúc đích thực chỉ có cho những ai biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên. Chúa không muốn con cái của Chúa lo lắng quá nhiều, Chúa chỉ muốn chúng ta tin cậy vào tình yêu của Người, bởi lẽ “ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34b). Còn sự công chính của Thiên Chúa được tỏ lộ qua lời giảng dạy của Người (x.Mt 5,6.10.20).
Cùng đích của đời người không hệ tại ở vật chất, tiền bạc của cải, quyền lực,... mà là cuộc sống mai hậu. Chúa biết chúng ta cần gì muốn gì và chính Người sẽ bảo đảm cuộc sống cho chúng ta. Vì thế, chúng ta “hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Trong giờ phút linh thiêng của ngày đầu năm, thiết nghĩ tâm tình của người Kitô hữu trong Thánh Lễ Tân Niên phải là tâm tình phó thác, trông cậy cầu xin những ơn lành từ lòng thương xót của Chúa cùng với tâm tình tạ ơn. Đặc biệt chúng ta mừng đón tết trong khung cảnh của Năm thánh giáo phận Qui Nhơn mừng kỷ niệm bốn trăm năm loan báo Tin Mừng, càng làm cho mỗi người suy gẫm về sự quan phòng, yêu thương của Chúa đã ban xuống cho chúng ta biết bao hồng ân. Một năm đã qua với biết bao biến cố vui buồn trong cuộc sống, chúng ta đều cảm tạ Chúa vì muôn phúc lành mà Chúa đã thương ban. Tình yêu thương mà chúng ta có thể cảm nghiệm là ngay trong giây phút này đây mình vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện, để được cùng sum họp với gia đình, với cộng đoàn giáo xứ. Đồng tiền mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày đầu xuân tượng trưng cho lòng thành tri ân cảm tạ của chúng ta.
Đồng thời mỗi người chúng ta cũng xin lỗi Chúa vì những do dự, yếu đuối, thiếu sót, vì những phận sự mà mình chưa chu toàn với trách nhiệm làm cha mẹ, vợ chồng, con cái,... trong gia đình và bổn phận truyền giáo của người Kitô hữu.
Và sau cùng, bước sang Năm Mới, ai trong chúng ta cũng mơ ước cho mình và cho người khác mọi điều may mắn tốt đẹp. Chúng ta hy vọng một năm Mậu Tuất sẽ đầy thuận lợi hơn năm Đinh Dậu đã qua với nhiều ân sủng Chúa. Việc hái lộc lời Chúa trong ngày đầu năm sẽ giúp chúng ta suy niệm và thực hành trong một năm mới dưới sự soi sáng và nâng đỡ của Chúa quan phòng, giúp ta luôn trông cậy vào Chúa, vượt qua lo lắng thái quá cho ngày mai. “Hãy vui lên anh em!” (Pl 4,4), chính cái vui này giúp chúng ta sống đời phó thác “ngày mai, cứ để ngày mai lo” (Mt 6,34) để sống tròn đầy giây phút ân huệ hiện tại.
Chúng ta cùng cầu chúc cho nhau một mùa xuân nhiều PHÚC LỘC THỌ, một mùa xuân đầy AN BÌNH VUI TƯƠI HY VỌNG, một mùa xuân thêm lòng TIN CẬY MẾN. “Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và thêm ân nghĩa với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
**44. TIN VÀO TÌNH YÊU QUAN PHÒNG CỦA CHÚA Mt 6,25-34
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Một trong những thực hành mê tín của dân ngoại đang ảnh hưởng đến đời sống của người tín hữu, đó là sự tin kiêng mù quáng và phong thủy sai lầm. Những người này, mặc dù vẫn tin Chúa, nhưng đồng thời họ lại tin kiêng vào những lời lẽ của ông thày và những thói quen của người ngoại. Ví dụ như chọn người xông nhà, chọn ngày khởi công, khai trương, xây nhà phải đếm bậc, đếm đòn tay. Người dân ngoại, vì không biết Chúa, họ cho rằng sự may mắn trong năm là do ông thầy hướng dẫn; sự thành công của công việc là do chọn đúng ngày, gia đình hạnh phúc là do phong thủy.
Người Công giáo khi tin và thực hành như thế, có nghĩa là chối bỏ quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa, và cho rằng sự thành công hay thất bại, khỏe manh hay đau ốm, may mắn hay bắt hạnh, là do tài khéo của bản thân hoặc do một sức mạnh nào đó không phải là Thiên Chúa. Khi cố tình tin và thực hành như vậy, chúng ta xúc phạm trầm trọng đến Thiên Chúa và đức tin của mình.
Trong giây phút đầu năm hôm nay, chúng ta đến đây để dâng lên Thiên Chúa những giây phút đầu xuân, cầu xin Chúa ban cho một năm mới thuận lợi trong công việc, gia đình bằng an, mạnh khỏe, hạnh phúc, con cháu ngoan hiền. Trong ngày đầu năm này, Lời Chúa mời gọi chúng ta tái khăng định niềm tin của mình vào quyền năng, tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.
Bài đọc một cho chúng ta thấy: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi vật mọi loài, không có một thần linh nào khác ngoại trừ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa dựng nên vũ trụ trời đất, Ngài dùng lời quyền năng, chỉ phán: hãy có, mọi vật, mọi loài liền có. Ngài là Đấng quan phòng, sắp xếp thời gian, cho mặt trời soi sáng ban ngày và mặt trăng soi đường ban đêm; Ngài chi phối hướng dẫn vũ trụ và điều khiển cuộc đời của từng con người. Vì thế, tất cả những việc cúng bái tin kiêng vào các thần linh theo kiểu của dân ngoại đều là phản bội lại niềm tin vào Thiên Chúa tạo dựng.
Thánh Kinh không chỉ khẳng định cho chúng ta về một Thiên Chúa tạo dựng quyền năng, nhưng trước hết, và trên hết, Thiên Chúa thực sự là một người Cha giàu lòng thương xót. Thiên Chúa yêu thương các tạo vật Ngài đã dựng nên, nhưng Ngài vẫn dành cho con người một tình yêu thương đặc biệt. Vì yêu thương cách đặc biệt, nên đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Thiên Chúa giống như Thiên Chúa. Con người được nâng cao và trao ban một phẩm giá đặc biệt trên tất cả mọi loài. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến độ, Ngài trở nên bạn hữu với con người; mỗi buổi chiều, Thiên Chúa ngự xuống đi dạo với con người, trò chuyện với con người.
Tình thương của Thiên Chúa dành cho con người thật cao cả lớn lao, Ngài đã chấp nhận cho Con của Ngài là Chúa Giêsu xuống thế làm người, để ở với con người. Chúa Giêsu là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài đến thế gian để nói cho mọi người biết rằng: Con người được Chúa yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã quả quyết về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Ngài nói cho mọi người biết rằng, Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho con người. Vì thế, con người đừng cậy dựa vào sức lực khả năng của mình, nhưng hãy tin tưởng, cậy dựa và phó thác cuộc sống mình cho Thiên Chúa.
Đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân xác lầy gì mà mặc…hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, vậy mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Căn dặn chúng ta như thế, Chúa Giêsu không khuyến khích chúng ta lười biếng, thụ động, cũng không ù lỳ, lười suy nghĩ tính toán. Nhưng nói như thế, để nhắc chúng ta nhớ rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Chúng ta tính toán làm ăn, nhưng vẫn phải biết trông cậy và cầu xin cùng Thiên Chúa và phó thác công việc cùng toan tính của ta cho Chúa. Vì cho dù chúng ta lên kế hoạc, đầu tư làm ăn, nếu Chúa không trợ giúp, không ban, chúng ta cũng không thể thành công được.
Cũng vậy, cơm ăn áo mặc hằng ngày, chúng ta vẫn phải vất vả lào động để tìm kiếm, nhưng đừng vì quá lo chuyện ngày mai ăn gì mặc gì, mà quên Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài không ngừng chăm sóc cho chúng ta. Vì thế, đừng bao giờ mất niềm tin vào Thiên Chúa, cho dù cuốc sống có muôn vàn khó khăn, Thiên Chúa vẫn tìm cho ta một giải pháp tốt nhất. Do đó, hãy lao động làm việc trong tư cách là con của Thiên Chúa, làm với lòng tin tưởng và yêu mến. Đừng biến mình trở nên như một kẻ nô lệ, lệ thuộc vào công việc và lệ thuộc vào miếng cơm manh áo, đến độ, làm giảm phẩm giá làm người làm con Chúa. Vì là con của Thiên Chúa, nên dù có gian lao vất và, chúng ta vẫn phải ưu tiên tìm kiếm Thiên Chúa và hạnh phúc đời đời cho linh hồn của ta và của người thân trong gia đình. Vì thế, Chúa căn dặn chúng ta: Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác Người sẽ ban cho.
Một khi đã cảm nhận được tình Chúa yêu thương, quan phòng, chăm sóc cho từng người chúng ta, thánh Phaolô mời gọi: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Điều đó có nghĩa là, mỗi chúng ta đón nhận được Tin Mừng yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta không thể để mình sống trong u bồn sầu não, cũng không bi quan chán nản, nhưng trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn vui. Vui, vì dù trong đau khổ, khó khăn nhất, chúng ta vẫn thấy Chúa hiện diện bên cạnh nâng đỡ; vui vì biết mình luôn được Chúa yêu thương, Chúa chia sẻ và nâng đỡ.
Thánh Phaolô căn dặn: Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy tạ ơn Thiên Chúa và giãi bày trước Thiên Chúa mọi điều anh em khẩn nguyện. Vì vậy, trong giờ phút đầu năm quy tụ trong nhà Chúa đây, nhìn lại một năm qua, không phải tất cả mọi người đều thành công thành đạt, nhưng tất cả cùng chung một lời để tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn Chúa vì món quà thời gian, năm mới, Chúa ban tặng; tạ ơn vì bao thăng trầm cũng đã trôi qua, bao khó khăn phía trước, xin Chúa giải gỡ; tạ ơn vì Chúa luôn quan phòng chở che bênh đỡ.
Ngày nay, nhiều người không hề biết phong thủy là gì nhưng vẫn tin kiêng một cách mù quáng vào phong thủy và nhiều thứ khác nữa. Họ tin như thể rằng, mọi sự họ đang có, đang hưởng là do phong thủy, do tin kiêng, do hên, hơn là do Thiên Chúa. Điều này đang là một cám dỗ và là nguy cơ phá vỡ đức tin của chúng ta.
Phong thủy theo nghĩa của người Hoa, có nghĩa là gió và nước. Hợp phong thủy, là sự hòa hợp của đất trời, của nắng của gió, sự hòa hợp của thiên nhiên. Khi con người biết tôn trọng thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, con người sẽ mạnh khỏe. Phong thủy có nghĩa như thế.
Theo cái nhìn của Kitô giáo, khi con người sống hòa hợp với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên vũ trụ, con người sẽ đạt được hạnh phúc. Tỗi lỗi và ma quỷ, chính là kẻ gây sự bất hòa giữa con người và Thiên Chúa, cũng như với tha nhân và vũ trụ. Vì thế, chỉ khi loại trừ tội lỗi, ma quỷ trong tâm hồn, chúng loại trừ được nguyên nhân gây xáo trộn bất hòa.
Ngày tết, mọi người đều muốn có một bầu khí hòa hợp vui tươi, quảng đại, dễ dàng bỏ qua cho nhau những xích mích. Vì vậy, hãy tận dụng những ngày tết này, để giao hòa với Thiên Chúa, đem lại cho gia đình nhiều niềm vui tiếng cười. Hãy chủ động bước đến thăm nhau và thật lòng mong muốn, cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Quan trọng hơn, là hãy làm những điều tốt đẹp cho gia đình, cho nhau, không chỉ trong ngày tết, mà kéo dài tâm tình hòa thuận vui tươi của ngày tết trong suốt cả năm mới này.
Cầu chúc cho mọi người năm mới Đinh Dậu sống hòa hợp vui tươi, luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh vui buồn, xin Chúa giúp ta nhận ra sự hiện diện đồng hành của Chúa. Amen.
**45. LỄ MINH NIÊN--TIN VÀO TÌNH YÊU QUAN PHÒNG CỦA CHÚA Mt 6,25-34
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, có lẽ trong chúng ta ai cũng cảm nhận được sự thay đổi của đất trời khi bước vào năm mới. Vẫn là ánh nắng ấy, ngọn gió ấy, nhưng hôm nay dường như nó mang một hương vị khác hơn của ngày hôm qua. Ngày hôm nay đất trời chuyển mình từ mùa đông qua mùa xuân, vũ trụ dường như khoác trên mình một bộ áo mới, cây cối đâm chồi nảy lộc, ngàn hoa khoe sắc. Sự chuyển vận của đất trời cũng làm cho tâm hồn con người thêm vui tươi, phấn khởi và hy vọng. Mọi người đều mong chờ năm mới đến sẽ đem theo sự đổi mới không chỉ của vũ trụ, mà còn là sự đổi mới của con người, của gia đình và của xã hội. Chính vì sự khát khao đổi mới, mà chúng ta dành những giây phút đầu tiên của năm mới để đến với Thiên Chúa, bày tỏ lòng biết ơn và cầu xin cho một năm mới an lành.
Các bài đọc của ngày đầu năm hôm nay gợi lên nhiều điểm giáo lý quan trọng: Bài đọc một nhắc nhớ rằng, tất cả vũ trụ và trật tự lạ lùng trong đó, cùng muôn vật muôn loài là do Thiên Chúa dựng nên. Chính Chúa làm chủ thời gian không gian, và cả mọi vật mọi loài. Sách Sáng Thế chúng ta vừa nghe giới thiệu cho chúng ta một Thiên Chúa quyền năng, tạo dưng nên trời đất và tinh tú chí bằng một mệnh lệnh: Hãy có … thì mọi sư liền có. Điều này diễn tả rằng Thiên Chúa là Đấng quyền năng, làm chủ vũ trụ, các thần linh của dân ngoại không thể sánh ví được với Thiên Chúa. Chính Ngài làm chủ thời gian, phân chia ngày đêm và bốn mùa thay đổi nối tiếp nhau. Thánh kinh khẳng định: Thiên Chúa thấy mọi sự là tốt đẹp. Khẳng định như thế để cho chúng ta xác tín một cách chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn muốn điều tốt đẹp cho con người và làm mọi điều tốt đẹp cho chúng ta. Vì thế con người phải đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khẳng định như vậy, để loại trừ những tập tục của dân ngoại, tin kiêng những điều vớ vẩn, coi ngày coi giờ, hoặc là gán cho vũ trụ thiên nhiên những sức mạnh như thần thánh.
Ngày nay, nhiều người mang danh là Kitô hữu, nhưng họ không tin vào sự quan phòng xếp đặt của Thiên Chúa. Họ không tin Thiên Chúa luôn làm điều tốt cho con người, nên khi gặp khó khăn thử thách họ muốn tìm giải pháp của người đời, tìm đến sức mạnh của ma quỷ qua việc bói toán bùa ngải. Nhiều người không tin Thiên Chúa là Đấng làm chủ thời gian và không gian, nên mỗi khi làm việc gì họ tìm thầy coi ngày coi giờ, coi hướng coi tuổi, coi ngày khai trương… thay vì tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Những việc làm ấy ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống đạo, thể hiện sự yếu kém trong đức tin của người tín hữu.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy mỗi người chúng ta tin tưởng hoàn toàn vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa: Các con chớ lo lắng sẽ ăn gì uống gì, lấy gì mà mặc? Vì chưng dân ngoại cũng tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần những điều đó. Tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, không có nghĩa là lười biếng ỷ nại và không làm việc gì, nhưng biết tính toán sắp đặt công việc và làm việc với hết khả năng của mình trong sự tin tưởng và biết phó thác kết quả công việc cho Chúa.
Lời Chúa còn dạy ta phải biết xếp đặt thứ tự ưu tiên trong chọn lựa mục tiêu đời mình, biết phân biệt đâu là điều chính yếu, đâu là điều tùy phụ. Dù có bận rộn với cuộc sống thì cũng biết đặt ưu tiên tuyệt đối cho việc tìm kiếm nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì hạnh phúc nước trời mới là mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta. Không đạt được công danh, con người vẫn có thể sống, nhưng không có Thiên Chúa, và không đạt được Nước Trời đó điều thất bại và bất hạnh lớn nhất. Chúa Giêsu nhấn mạnh: Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác Thiên Chúa sẽ ban cho. Đừng để sự lo âu sợ hãi gặm nhấm cuộc đời và làm lung lạc đức tin của chúng ta; cũng đừng để đau khổ đè bẹp và làm cho chúng ta mất lòng cậy trông nơi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Vì trong mọi đau khổ, ơn Chúa vẫ đủ để chúng ta có thể vượt qua những đau khổ ấy.
Thánh Phaolô là người đã trải qua biết bao gian lao thử thách song Ngài vẫn kiên trì trong đức tin, chính từ kinh nghiệm sống đức tin ấy thánh nhân đã khuyên các tin hữu Philipphê: Anh em hãy vui luôn trong Chúa, tôi nhắc lai một lần nữa: anh em hãy vui lên. Niềm vui là một trong những nét đặc trưng của người Kitô hữu, vì chúng ta là những người đang sống tin mừng của Đức Giêsu và đang rao truyền tin mừng ấy, thì cuộc sống của mỗi người phải la cuộc sống ngập tràn niềm vui. Tuy nhiên niềm vui của chúng ta phải là niềm vui khác với những thú vui của trần gian. Thế gian vui những cái vui hời hợt bên ngoài, vui với thỏa mãn dục vọng xác thịt ăn uống say sưa, còn chúng ta vui với một niềm vui sâu xa phát xuất từ trong tâm hồn. Đó là niềm vui được hưởng ơn cứu độ, được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc đời đời, được gọi Thiên Chúa là Cha.
Khác với dân ngoại, đời sống của người tín hữu còn phải được thể hiện ra bên ngoài bằng sự ôn hòa nhẫn nại, bằng sự tin tưởng cầu nguyện và không ngừng tạ ơn Thiên Chúa. Điều này có nghĩa rằng dù khi vui cũng như khi buồn, dù thành công hay thất bại chúng ta vẫn được mời gọi nhận ra bàn tay của Thiên Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta.
Ngày nay vật chất và các lối sống hưởng thụ đang tấn công người tín hữu, đang bào mòn và có nguy cơ làm lung lạc đời sống đức tin của chúng ta. Nhiều người lấy lý do: có thực mới vực được đạo, họ đã đặt của cải vật chất ở trên Thiên Chúa, biến của cải vật chất trở thành thần linh và là mục đích cuộc đời của mình. Nhiều người chỉ còn biết tìm tiền bạc của cải và gạt Thiên Chúa qua một bên. Trong bối cảnh ấy chúng ta được mời gọi tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, Đấng quyền năng quan phòng và an bài mọi điều tốt lành cho con người. Việc làm chứng cho lòng thương xót Chúa, không chỉ là những lời kinh đọc trên môi, mà phải được thể hiện qua việc cử hành mỗi ngày, tức là cùng nhau cử hành thánh lễ và các bí tích. Vì thánh lễ và các bí tích là nơi chúng ta đón nhận lòng thương xót Chúa. Khi ý thức và tích cực siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày là chúng ta đang đón nhận lòng xót thương và cùng với mọi người chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa. Người đời sẽ không thể đụng chạm được lòng thương của chúng ta, họ chỉ có thể cảm nhận qua thái độ yêu thương của chúng ta mỗi ngày.
Trong giờ phút đầu năm xum họp nơi đây để tạ ơn Thiên Chúa và để cầu xin ơn phúc lành và sư bình an cho năm mới. Trong Năm Thánh Lòng Thương xót Chúa, xin Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống trên chúng ta và biến chúng ta trở thành hiện thân lòng thương xót của Chúa cho anh em. Amen.
**46. CHÚC NHAU MỌI ĐIỀU TỐT LÀNH
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Ngày tết của người Việt hoàn toàn với ngày tết dương lịch, và cách đón tết của người Việt cũng khác với các dân tộc khác. Ngày tết của người Việt là ngày của tình thân, ngày của gia đình và là dịp ước nguyện, vì mọi người tin rằng ngày đầu năm khi có nguyện ước tốt đẹp thì cả năm sẽ tốt đẹp. Chính vì thế, ngày tết người ta tránh nói là làm những gì mích lòng nhau, và dù rất quen tai với lời chúc xuân, nhưng khi gặp nhau ngày tết dù quen hay lạ, mọi người luôn cầu chúc cho nhau và cho gia đình những điều chúc tốt đẹp, nào là gia đình hạnh phúc, sức khỏe dồi dào, an khang thịnh vượng…đó là nét văn hóa rất tốt đẹp của người Việt chúng ta.
Tuy nhiên dầu có nhiều lời cầu chúc và những ước mơ tốt đẹp, nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận tình hình cuộc sống kinh tế xã hội được dự báo cho năm mới còn rất nhiều khó khăn đòi mỗi người mỗi gia đình phải nỗ lực hết mình. Cũng vì thế ai cũng tin rằng những điều tốt đẹp chúng ta cầu chúc cho nhau, chỉ là bày tỏ ước nguyện điều tốt lành cho nhau, còn điều quan trọng là tất cả ơn lành là do Trời ban, mà người Công Giáo gọi là ơn do Thiên Chúa ban.
Chúng ta tin rằng chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và làm chủ vũ trụ và con người, Ngài còn tiếp tục quan phòng và điều khiển vũ trụ này cho nó xoay vần thời tiết thay đổi nối tiếp nhau hết mùa hạ, đến mùa thu, mùa đông rồi sang xuân để phục vụ cho con người, và tất cả mọi sự tốt lành mà chúng ta cầu chúc cho nhau đều đến từ Thiên Chúa.
Lời Chúa của ngày Mồng Một tết nhắc lại cho chúng ta giáo lý quan trọng: Thiên Chúa là Đấng tao dựng nên vũ trụ, Ngài lại là người Cha yêu thương chúng ta và luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho chúng ta là con cái Ngài. Sách Sáng Thế đã nhắc lại “Bài ca Tạo dựng” của Thiên Chúa để khẳng định về một Thiên Chúa quyền năng vượt trội trên tất cả, không có một thần linh nào sánh kịp Ngài, Ngài đã chỉ cần phán một lời: Hãy có, thì mọi vật liền từ không nên có. Thánh Kinh còn cho thấy Thiên Chúa tạo nên vũ trụ này không phải như một vật vô hồn, mà là một tuyệt tác kỳ công của Ngài, và Ngài thấy thế là tốt đẹp. Nó tốt đẹp không chỉ vì nó thỏa mãn cái nhìn của con người, mà Ngài còn thấy tất cả công trình Ngài tạo dựng nó tốt đẹp và mang lại lợi ích cho con người là tạo vật được Chúa yêu thương và nâng niu nhất. Điều quan trọng hơn nữa, Thiên Chúa giống như một nghệ nhân đã trao tặng tác phẩm của mình cho con người để con người làm chủ.
Con người được Thiên Chúa yêu thương, Ngài trao tất cả mọi loài mọi vật và cả vũ trụ này cho con người, và Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục chăm sóc và mời gọi con người tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Ngài. Hôm nay trước những lo lắng của cuộc sống của con người Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta: Đừng lo lắng cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể lấy gì mà mặc, hãy xem chim trời nó không gieo không gặt mà Cha anh em vẫn nuôi nó… Có ai nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được một gang nữa không? Khuyên chúng ta như thế trong ngày đầu năm, không có nghĩa là Chúa muốn chúng ta lười biếng thụ động không suy nghĩ, không tính toán, ngồi chờ sung rụng, nhưng Chúa muốn chúng ta vẫn phải làm việc hết mình hết khả năng, và còn phải làm trong sự tin tưởng và phó thác cho quyền năng và tình thương của Chúa, vì mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, việc tính toán là của con người còn thành quả là do Chúa ban. Khi làm việc với tinh thần như thế, chúng ta sẽ không trở thành nô lệ cho công việc, nhưng trong tư cách là cộng tác viên của Thiên Chúa, cùng với Thiên Chúa làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp hơn.
Cái ăn và cái mặc là những nhu cầu căn bản của cuộc sống, nó khiến cho con người phải vất vả tất bật sớm hôm, mỗi ngày mở mắt ra con người đều phải nghĩ đến việc ngày hôm nay mình sẽ ăn gì mặc gì? Tuy nhiên Chúa Giêsu đã cho chúng ta những hình ảnh làm ví dụ về bông hoa ngoài đồng được Chúa tô điểm cho thật rực rỡ dù nó không phải may vá gì, cũng vậy lũ chim sẻ không gieo không cấy mà Thiên Chúa vẫn nuôi nó, để cho chúng ta thấy một ý nghĩa cao hơn nữa, đó là khi chúng ta sống và làm việc trong sự phó thác hoàn toàn cho Chúa thì Chúa sẽ lo liệu cho ta còn tốt hơn rất nhiều lần chúng ta tự lo cho mình. Thiên Chúa làm tất cả điều tốt đẹp cho con người chỉ vì Ngài là Cha yêu thương chúng ta.
Điều này làm cho chúng ta khác với những người không có đức tin, người không có đức tin làm việc trong sự lẻ loi một mình, còn người có đức tin làm việc trong sự hiện diện và trợ giúp của Thiên Chúa, và khác với người không có đức tin, vì chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương ta và trợ giúp ta. Vì thế Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: Đừng để cho công việc và những lo toan cuộc sống chiếm hết chỗ trong cuộc sống, nhưng hãy biết dành lại chỗ cho Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, là dù có bận rộn với cuộc sống và công việc thì đừng quên tim kiếm Nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì chúng ta sẽ không mãi ở trên mặt đất này, mà chúng ta sẽ phải trở về với Thiên Chúa, thì ngay hôm nay chúng ta phải làm việc trong tư thế của một người sẽ phải trở về, đừng để mình lệ thuộc vào trần gian này.
Trong niềm xác tin như thế, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa,… sao cho mọi người thấy anh em ăn ở hiền hòa rộng rãi. Trong mọi hoàn cảnh cứ cầu khẩn, vàn xin và tạ ơn mà giải bày trước mặt Thiên Chúa điều anh em thỉnh nguyện. Như thế niềm vui phải là nét đặc trưng và luôn được thể hiện trên cuộc đời và gương mặt người tín hữu. Chúng ta luôn vui vì chúng ta sống trong sự chở che của Thiên Chúa, vui vì có Chúa là bạn và là Đấng cùng chia sẻ gánh nặng cuộc đời với chúng ta và luôn tạo mọi điều tốt đẹp cho ta. Đồng thời thể hiện niềm vui qua cuộc sống tin tưởng, vui tươi, hiền hòa nhân ái, đó phải là những nét đặc trưng của người tín hữu chúng ta.
Thưa quý OBACE, trong ngày đầu năm này, chúng ta mang trong mình bao nguyện ước cho mình cho gia đình và người thân, đừng ngại ngần bày tỏ những ước nguyện ấy với Chúa, hãy nói với Chúa về toan tính của mình để xin Chúa chỉ bảo cho chúng ta biết phải làm gì và làm thế nào. Mong điều tốt lành cho nhau đã là điều tốt, song mỗi người còn phải đem đến cho nhau, cho gia đình những điều tốt lành.
Ngày tết không chỉ tránh cho nhau những điều không hay không đẹp, mà hãy tránh cho nhau tất cả những điều không hay không đẹp trong suốt cả năm. Các bậc cha mẹ chính là người tạo nên sự may lành tốt đẹp cho gia đình. Hãy mang về cho gia đình nhiều niềm vui, nhiều nụ cười thân thương, nhiều bữa cơm ấm cúng tình gia đình. Hãy làm việc và nuôi sống gia đình trong sự tin tưởng và cậy trông phó thác nơi Chúa. Hãy nuôi gia đình không chỉ bằng cơm gạo mà còn cần phải được nuôi bằng tình yêu thương, sự hy sinh và sư ân cần dành cho nhau. Các bậc làm cha mẹ đừng xả xui cho mình bằng cờ bạc rượu chè, đề đóm, tất cả những điều đó không những không xả xui, mà còn đem đến đổ vỡ cho gia đình. Trái lại hãy hiện diện nhiều hơn bên vợ chồng bên con cái, hãy dành những ngày tết này để chuyện trò để hiểu nhau và thông cảm cho nhau hơn.
Cũng vậy những người làm con không chỉ bày tỏ lòng thảo hiếu bằng tấm bánh hay một vài lời cầu chúc, mà hãy đem đến cho cha cha mẹ niềm vui bằng sự ngoan ngoãn, thảo hiếu, biết ơn và vâng lời. Con cái là mùa xuân của gia đình, hãy làm cho gia đình mình rộn rã tiếng cười vui, hãy làm cho cha mẹ vơi đi sự nhọc nhằn bằng việc chăm chỉ học hành, đem về cho cha mẹ những kết qua học tập thật tốt và những thành công nho nhỏ, đó là những món qua mà các bậc cha mẹ nào cũng cảm thấy hạnh phúc và tự hào để đón nhận.
Xin Đức Maria ở mãi với các gia đình, đem đến cho các gia đình và mọi người người một mùa xuân mới đầy tràn ơn Thánh Chúa và cho các gia đình được tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Amen
24/01 Chúa gọi Nhóm Mười Hai
- Viết bởi Mc 3, 13-19
Chúa gọi Nhóm Mười Hai.
Thứ Sáu tuần 2 thường niên – Thánh Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người".
* Thánh nhân sinh tại Xavoa năm 1567. Sau khi làm linh mục, người tận tuỵ với công việc canh tân Hội Thánh công giáo tại quê hương. Được chọn làm giám mục Geneve, người tỏ ra là một mục tử lo lắng cho giáo sĩ và giáo dân. Người là vị sáng lập dòng các nữ tu thăm viếng cùng với chị Phanxica đờ Săngtan. Suốt cuộc đời, người trở nên mọi sự cho mọi người qua lời nói và chữ viết, cũng như khi tranh luận thần học với anh em Tin Lành, khi giúp cho giáo dân biết sống đời sống thiêng liêng, lo lắng chăm nom cả kẻ bé lẫn người lớn. Thánh nhân qua đời ở Lyon ngày 28 tháng 12 năm 1622.
LỜI CHÚA: Mc 3, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ.
Mười hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đến với Người, ở với Người
Suy niệm :
Thông thường ở xã hội Do Thái, người môn đệ đi tầm sư học đạo.
Còn Thầy Giêsu lại đi “gọi” học trò.
Thầy muốn lập một nhóm học trò ruột, hết sức gần gũi với mình.
Những người Thầy muốn, Thầy đã gọi họ lại.
Và họ đã đáp lời mà đến với vị Thầy đang ở trên núi.
Như thế sáng kiến thì bắt nguồn từ Thầy,
còn đáp lại là điều con người cần thực hiện.
Thầy Giêsu muốn lập một nhóm mười hai môn đệ.
Có thể vì Thầy nhớ đến mười hai chi tộc Ítraen ngày xưa.
Mục đích của nhóm Mười Hai này là ở với Thầy và được Thầy sai đi.
Ở với là chuyện ưu tiên, và cũng là chuyện dễ bị xao lãng.
Ở với là có tương quan thân thiết và thường xuyên với Thầy.
Ở với là chia sẻ cuộc sống ăn ở, đói no, thành công, thất bại.
Khi ở với Thầy Giêsu, người môn đệ hiểu Thầy sâu xa và gắn bó với Thầy.
Khi các môn đệ đến với và ở với Thầy Giêsu,
họ như được tách ra khỏi đám đông.
Sau này, khi tìm người thay thế Giuđa phản bội,
Phêrô đòi đó phải là người đã sống với Thầy Giêsu ngay từ đầu (x.Cv 1, 22).
Ở với nằm trong định nghĩa về người môn đệ của Thầy Giêsu.
Nhưng đó không phải là điểm dừng.
Ở lại với Chúa là để được sai đến với con người.
Được tách ra khỏi đám đông chính là để được sai đến với đám đông,
trong tư cách của người đã được mắt thấy tai nghe Thầy Giêsu.
Người môn đệ được sai sẽ được phép làm những việc y hệt như Thầy:
rao giảng Tin Mừng và trừ quỷ nhằm phục vụ cho con người.
Chẳng những họ làm việc như Thầy, họ còn làm việc của Thầy và với Thầy.
Không ở với thì cũng chẳng được sai đi, và cũng không đủ sức để được sai.
Nhưng ở với là để có ngày được sai đi, mà sai đi thì vẫn luôn ở với.
Kitô hữu là người được gọi, để ở với Chúa Giêsu và được ngài sai đi.
Cuộc sống xao động hôm nay có vẻ làm ta quên ở với Chúa
và rơi vào tình trạng nghiện việc.
Chính vì thế công việc ta làm không đem lại hiệu quả thực sự và lâu bền.
Hãy ở với Giêsu mỗi ngày 15 phút, bạn sẽ thấy mọi sự thay đổi.
Cầu nguyện :
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Giáo Hội là một Mầu Nhiệm
Nếu thời Cựu Ước đã có những tiên tri cung đình, chuyên phụ họa cho vua chúa, thay vì nói lời của Chúa; thì ngày nay cũng không thiếu những tiên tri như thế: thay vì nói Lời Chúa, lên tiếng tố cáo bất công, người ta lại chỉ làm tiên tri để công kích và chỉ trích Giáo Hội của mình. Dù sao, đây cũng là dịp để các Kitô hữu suy nghĩ và đào sâu về bản chất của Giáo Hội.
Ðiều cơ bản nhất mà chúng ta cần phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo Hội, đó là Giáo Hội là một mầu nhiệm, do đó chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo Hội vào bất cứ một tổ chức trần thế nào. Giáo Hội không là một thể chế quân chủ chuyên chế hay quân chủ lập hiến. Giáo Hội cũng không hề là một chế độ tập quyền hay Bô lão trị; Giáo Hội lại càng không phải là một chế độ dân chủ. Giáo Hội thiết yếu là một mầu nhiệm, do đó mà không có một tên gọi nào diễn tả và múc cạn mầu nhiệm ấy. Giáo Hội được gọi là Hiền thê của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là Dân Chúa; mỗi kiểu nói này bày tỏ một khía cạnh, nhưng không thể nào nói hết về Giáo Hội.
Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm ấy của Giáo Hội. Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi rao giảng. Ngài trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng: chỉ có các Tông Ðồ mới có quyền trừ quỷ, mới có quyền cử hành các Bí Tích, và chỉ những ai được các ông trao quyền cho mới được cử hành các Bí Tích. Chúa Giêsu trao phó cho các Tông Ðồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả năng và có quyền giải thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa. Trong Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành mối giây hữu hình trong Giáo Hội, Ngài hứa ở với Giáo Hội mỗi ngày cho đến tận thế: như Ngài đã ở với các Tông Ðồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2,000 năm qua, Ngài vẫn tiếp tục ở với và trong Giáo Hội.
Giáo Hội chính là thân thể Chúa Kitô. Thuộc về Giáo Hội chính là chấp nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu được ủy thác cho các Tông đồ và những người mà các ông cắt đặt để thay thế và tiếp tục sứ mệnh của mình. Thuộc về Giáo Hội một cách cụ thể, là đón nhận và sống giáo huấn của chính các Tông đồ được ủy thác cho Giáo Hội và những người kế vị các ông. Giáo Hội không phải là một thể chế dân chủ, nhưng Giáo Hội chưa hề cưỡng bách ai phải gia nhập Giáo Hội; nhưng nếu đã thuộc về Giáo Hội thì không thể không chấp nhận quyền bính của Giáo Hội. Dù vậy, ngay cả khi một Kitô hữu không chấp nhận quyền giáo huấn của Giáo Hội, thì Giáo Hội cũng không phải dùng đến võ lực hoặc nhà tù để đe dọa và trừng phạt.
Hằng năm, Giáo Hội dành một tuần lễ để cầu cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu, một tuần lễ để đi sâu vào mầu nhiệm của Giáo Hội, một tuần lễ để hoán cải. Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Những kẻ Người muốn
Rồi Người lên núi và gọi những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. (Mc. 3, 13-14)
Để hiểu sâu bài Phúc âm hôm nay, một lần nữa chúng ta còn tìm ra được vài chi tiết khác thánh Maccô muốn làm nổi lên hình ảnh con người Đức Giêsu.
Vì thế, để gây ý thức về tiếng gọi mà mười hai Tông đồ đã nhận được, cũng như về ơn gọi của các ông, thánh Maccô ghi lại rằng: “Người gọi những kẻ Người muốn và Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.”
Những kẻ Người muốn
Có lẽ ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng Chúa Giêsu đã có những sự lựa chọn. Phải chăng Người không đến” kêu gọi những người tội lỗi”? Như thế, theo nguyên tắc, mọi người trong cái nhân loại ốm đau này có lẽ phải được làm tông đồ mới phải!
Người ta giải thích sự Chúa tuyển chọn như sau: lời mời gọi của Chúa diễn ra ỏ hai mức độ, và mỗi người chúng ta đều được gọi hai lần. Tiên vàn là kêu gọi đón nhận đức tin, sám hối, gia nhập Nước Tròi, hưởng ơn cứu độ. Sứ mệnh của Đức Kitô có mục đích tối hậu là làm vang lên tiếng mời gọi của Chúa Cha “Anh em hãy đến!”
Nhưng cũng có tiếng mời gọi khác gởi đến từng người giúp họ xác định vị trí hoạt động, chọn lựa phần đóng góp của mình trong Nhiệm Thể Chúa Kitô: “những người này Chúa đã cho làm tông đồ, những người kia làm tiên tri; người được ơn chữa bệnh, người khác lại được ơn diễn giải”. Chúa Giêsu muốn cho tất cả chúng ta, mỗi người giữ một vị trí nhất định.
“Để các ông ở với Người và đi rao giảng”
Nếu chúng ta muốn hiểu biết chức vụ linh mục, hiểu biết linh mục là gì, phải trở lại hai chức năng được Chúa Giêsu gán cho Nhóm Mười Hai là “ở với Người và được sai đi rao giảng”.
Nhờ bí tích truyền chúc, linh mục được đặt để ở với Chúa Giêsu. Người ta thường đòi hỏi linh mục sống hòa mình với mọi người, ngang tầm với họ, phục vụ họ. Đòi hỏi linh mục cùng tầm vóc với Chúa Giêsu, ở với Người, thiết tưởng lại không phải là điều tốt hơn và chính đáng hơn sao? Linh mục bỏ ra một chút thời giờ trong ngày dể truyện trò với Chúa Giêsu không phải là điều tốt đẹp sao? Hãy truyện trò với Chúa đã, rồi mới đi ra ngoài! Rồi mới giảng giải và hội họp!.
Suy Niệm 4: CHÚNG TA ĐƯỢC MỜI GỌI ĐẾN VÀ Ở VỚI THẦY (Mc 3,13-19)
Có nhiều người nhìn bộ dạng bên ngoài “rất cốt tu”, nhưng kỳ thực anh ta không hề nghĩ là sẽ đi tu! Hay nhìn những người trông xem ra có vẻ đơn sơ, chất phác, nông dân thì Chúa lại chọn và gọi để trở thành linh mục, tu sĩ của Ngài.
Như vậy, chỉ cần đưa ra một vài hình ảnh, chúng ta cũng nhận thấy rất rõ rằng: ơn gọi tu trì là một mầu nhiệm, vì Chúa chọn và gọi những ai Ngài muốn.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chọn nhóm 12 trở thành môn đệ của Ngài, để họ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Qua danh sách 12 môn đệ, chúng ta thấy không ai là trọn vẹn cả. Ai cũng có những khuyết điểm, thiếu xót, đôi khi những lỗi mắc phải trước, trong, và sau khi ở với Đức Giêsu là những lỗi rất nặng.
Nhưng điều quan trọng đối với các ông là: tập trung quy vào Đức Giêsu. Thầy của các ông như là cái tâm trong một vòng tròn. Nhiều khi vì yếu đuối, nên xao nhãng đi xa tâm của vòng tròn, nhưng khi tỉnh lại và ngộ ra sự yếu đuối, tội lỗi của mình, các ông lại tiếp tục nhập vào vòng tròn đó và hướng về Đức Giêsu là tâm điểm, đích đến của cuộc đời. Vì thế, tuy bất toàn, nhưng các ông ở lại với Ngài, Ngài đã huấn luyện và làm cho các ông xứng đáng là kẻ lưới người như lưới cá trên hành trình loan báo Tin Mừng.
Mỗi người chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giêsu để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi mang trong mình những tâm tư của chính Đấng mà chúng ta đi theo.
Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng thi hành những giáo huấn và lời dạy của Đức Giêsu không hay nhiều khi chúng ta chỉ có tên tuổi mà không có chất? Chỉ có phẩm mà không có lượng?
Lạy Chúa Giêsu, được trở thành môn đệ của Chúa là một hồng ân. Tuy nhiên, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết làm cho hồng ân ấy triển nở trong cuộc sống thường ngày của mình qua những hoa trái tốt lành. Amen.
Ngọc Biển SSP
**********************************************
NGÀY TẤT NIÊN. GIAO THỪA--TẠ ƠN THIÊN CHÚA.
Thứ Sáu: Lc 17,11-19
Thứ Sáu 24/01/2020 – Tạ ơn Chúa.
24/01 – Thứ Sáu tuần 2 thường niên.
NGÀY TẤT NIÊN. TẠ ƠN THIÊN CHÚA.
"Người ấy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người".
Lời Chúa: Lc 17,11-19
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi ngang qua biên giới Samaria và Galilêa.
Lúc Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.
Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này".
Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
GIAO THỪA. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".
Lời Chúa: Mt 5,1-10
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mátthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
1. Thánh Lễ Tạ Ơn tất niên (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
(Is 63,7-9; 1Co 1,3-9; Lc 1, 39-45)
Dẫn nhập đầu lễ:
Anh chị em thân mến,
Chiều hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên, ngày kết thúc một năm cũ, năm Giáp Thân 365 ngày của năm cũ sắp đi qua mang theo bao nhiêu vui buồn sướng khổ, những giọt mồ hôi lẫn nước mắt, những nụ cười hoan vui lẫn xót xa cay đắng. Chúng ta xin dâng lên Thiên Chúa tất cả để hiệp cùng của lễ cực thánh là chính hiến Tế của Chúa Kitô làm thành Lời Ca Tụng Tạ Ơn tôn vinh Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã hiến dâng của lễ Tạ Ơn Chúa Cha là cả cuộc đời trong Hy Tế Thập Giá mà chúng ta đang tái diễn qua Thánh Lễ nầy.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng Lời Chúa:
Đã lắm phen và bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy bảo loài người chúng ta phải biết sống thái độ tạ ơn. Qua bao nhiêu bài Thánh Vịnh, thánh thi trong cựu ước chúng ta gặp không biết bao nhiêu lời tạ ơn đã được cất lên: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136)
Lạy Chúa xin dâng lời cảm tạ
Ngài dã nghe lời miệng con xin (Tv 138)
Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ
Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv 147)
Ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, sứ ngôn I-sa-i-a đã thay lời Thiên Chúa nói với muôn thế hệ nhân loại rằng:
Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Chúa, dâng lời ca tụng Chúa, vì tất cả những gì Chúa thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của người đối với nhà Ít-ra-en, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy lòng thương xót và lắm nghĩa giàu ân”.
Nhưng để có một lời Tạ ơn cao cả nhất, trọn vẹn nhất phải đợi đến khi Thiên Chúa sai Con Một mình! Vâng, chỉ có người Con nhân loại và chính là Con Thiên Chúa, đã đến để dẫn dắt con người đi vào quỹ đạo của tình yêu tạ ơn, đi vào thái độ hiếu nghĩa tin yêu dành cho Thiên Chúa một cách trọn hảo qua chính cuộc đời Ngài.
1. Đức Kitô thiết lập nghĩa cử tạ ơn bằng cuộc đời vâng phục:
Nếu dân tộc của Giao ước cũ đã minh chứng niềm tin và lòng tri ân hiếu thảo đối với Thiên Chúa qua những của lễ chiên bò, hy sinh và tạ tội; thì trong trật tự của Giao Uớc Mới, của lễ tuyệt hảo nhất, lời tạ ơn trọn vẹn nhất dành cho Thiên Chúa lại chính là Con Người của Đức Kitô, là cuộc đời và toàn bộ cuộc sống của Ngài, một cuộc đời trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa Cha:
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.” (Dt 10,5)
Thật vậy, Đức Kitô đã đến giữa trần gian và đã biến cả vũ trụ trở nên một “đền thờ vĩ đại” và đã qui tụ toàn nhân loại chung quanh Ngài để làm nên một cuộc “đại thờ phượng”, một cuộc tạ ơn và phụng thờ Thiên Chúa vượt qua mọi biên giới không gian, xuyên suốt mọi thời gian. Bởi vì đó là cuộc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và Chân lý:
“Nầy chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem…..Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây – giờ những người thờ phượng đích thức sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.” (Ga 4,21-24)
Qua những chỉ dẫn của Tin Mừng, chúng ta còn biết được rằng: thái độ tạ ơn, tâm tình tri ân cảm tạ lại chính là thái độ cốt yếu của tinh thần “Tám mối Phúc thật”, tinh thần “nghèo khó, khiêm hạ, yêu thương…”, tinh thần luôn biết đưa tay hướng mắt về phía Thiên Chúa với niềm tin yêu phó thác của những con người như Bà Góa bị loạn huyết 18 năm xứ Canaan, của người phung hủi ngoại bang được chữa lành, của viên sĩ quan có người tôi tớ đau nặng, của người đàn bà tội lỗi khóc lóc ăn năn, của những người thu thuế bị loại trừ như Gia-kê, Lê-vi, của các trẻ thơ xúm quanh để chờ được chúc lành hay của người kẻ trộm sắp sửa đi về bên kia thế giới với hy vọng sẽ được cứu độ trong Vương quốc phục sinh…
Rồi cũng chúng ta cũng biết được rằng: trên môi miệng của Đức Kitô luôn vang lên lời tri ân cảm tạ: “Lạy Cha, con tạ ơn Cha, vì Cha đã dấu…”
Và còn hơn thế nữa Ngài đã tạ ơn bằng chính 1 cuộc đời vâng phục mà chỉ trọn vẹn khi Ngài nói lời “Con phó thác hồn con trong tay Cha”. Đó chính là lời tạ ơn trọn hảo nhất bằng Hy Tế Thập Giá mà hôm nay trên mọi bàn thờ chúng ta đang tái diễn mỗi ngày.
2. Đức Trinh Nữ Maria và lời Tạ Ơn Magnificat:
Cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô và với Đức Kitô chính là con đường đức tin của Dân Chúa hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Và may mắn thay, trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại suốt 2000 năm nay, đã có một “bài ca tạ ơn”, đã có một “cuộc đời tạ ơn” theo cung cách ấy. Đó chính là bài ca “Magnificat”, đó chính là “cuộc đời của Trinh nữ Maria”. Quả thật cuộc đời của Đức Mẹ được phản ảnh qua bài Magnificat mà Tin Mừng hôm nay vừa nhắc đến là mô hình sống động, là mẫu gương sáng ngời để nhân loại bước đi trong “con đường tạ ơn” Thiên Chúa, trên nẽo đường đáp trả hồng ân.
– Tạ ơn: trước hết là như Đức Maria dâng lên lời ngợi khen Thiên Chúa và hân hoan vì hồng ân cứu độ Ngài đã ân ban: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa….”
– Tạ ơn: phải chăng như Đức Maria nhận ra “những việc lạ lùng Thiên Chúa đã thực hiện nơi tôi”.
– Tạ ơn phải chăng như Đức Maria luôn biết nhận ra bàn tay Thiên Chúa đưa ra nâng đỡ thân phận yếu hèn, lòng quảng đại Chúa mở ra để ban cho dư đầy ơn phúc.
-Tạ ơn phải chăng là luôn xác tín mãnh liệt và đầy lòng trông cậy vững vàng trước lời hứa và kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa: “Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”.
Và Mẹ đã hoàn tất lời tạ ơn tuyệt diệu đó vào Chiều Thứ Sáu trên đồi Can-vê khi Mẹ thay cho nhân loại dâng hiến lễ Tạ Ơn đầu tiên cùng với Con yêu dấu trên bàn thờ Thánh Giá.
3. Sống chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời thường:
Qua lời kinh Tạ Ơn Magnificat của Đức Maria, và nhất là, qua cuộc đời đã trở nên Hy Tế TẠ Ơn của chính Đức Kitô, chúng ta cảm nhận được rằng:
– Thái độ Tạ Ơn, cuộc sống Tạ Ơn không chỉ là một hành vi mang tính “thời sự’, “cơ hội” đột xuất (như được khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, thoát qua cơn hoạn nạn, tránh được hiểm nguy, làm ăn buôn bán trúng mánh, trúng số độc đắc…), nhưng “Tạ Ơn” phải là một thái độ, một nhịp sống, một cử hành thường xuyên, từng phút giây, mọi biến cố, trên mọi nẽo đường cuộc sống. Đó chính là cách ứng xử mà mấy ngàn năm trước, ông thánh Gióp đã từng nêu gương: “Chúa cho, Chúa cất lấy, xin cảm tạ ơn Chúa!”. Dĩ nhiên, có những thời điểm, có những biến cố dễ gợi mở tâm tình chúng ta hướng về Thiên Chúa trong thái độ tạ ơn đặc biệt…Nhưng không phải, chỉ tạ ơn trong những hoàn cảnh, những thời điểm đặc biệt thôi, còn ngoài ra thì “bàn tay ta làm nên tất cả”, có nhờ vả ai đâu, có khấn xin gì nào mà phải tạ ơn cám ơn…
– Bởi vì, chính khi chúng ta cử hành cuộc sống trong thái độ tạ ơn, chúng ta sẽ thấy cuộc đời mình nhỏ lại, khiêm hạ hơn, khó nghèo hơn, trái tim kiêu căng hợm hĩnh sẽ được biến đổi để trở nên nhỏ bé hiền lành, và từ đó con mắt tâm hồn sẽ khám phá ra muôn vạn hồng ân của Cha trên trời vây bọc xung quanh. Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, cái nảo trạng ‘đương nhiên” của chủ nghĩa duy vật vô thần đang âm thầm hay mãnh liệt len lỏi vào mọi ngỏ ngách của cuộc sống. Vì đã lý luận như thế: “đương nhiên trái cấm nầy thuộc về tôi, địa đàng nầy là của tôi, tôi cóc cần Thiên Chúa với những luật lệ của Ngài…” mà A-đam và E-Va đã đẩy nhân loại vào vũng lầy nguyên tội. Cũng vì lý luận như thế: tôi khỏi phung cùi chắc là do số phận run rủi, là tới lúc phải được như thế, chứ ông Giêsu nào có can thiệp gì đâu… nên chín người phung cùi được khỏi bệnh đã không thèm trở lại tạ ơn Chúa Giêsu! Còn chúng ta hôm nay thì sao. Có thấy được “phép lạ tình yêu của Thiên Chúa” ghi dấu ấn trên đời thường cuộc sống mỗi ngày để ngước mắt tạ ơn, hay chỉ là những thở dài oán trách Chúa vì đã van xin bao điều mà sao vẫn cứ hoài vô vọng. Có thấy bàn tay quan phòng của Thiên Chúa tế nhị ấp yêu trên mọi biến cố cuộc đời để cảm tạ tri ân, hay chỉ thấy mọi sự là “đương nhiên” để cóc cần phải tính sổ với Thiên Chúa.
Trong giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp sửa giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà nhìn lại cuộc sống, mà cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban trong suốt một năm. Và điều quan trọng hơn hết, phải chăng là chúng ta được cùng với Đức Kitô dâng Hy Tế Tạ Ơn nầy như một nghĩa cử của lòng hiếu thảo mến yêu, của tâm tình tri ân cảm mến; và cũng chính qua sứ điệp của lời kinh tạ ơn Magnificat của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được gọi mời từ hôm nay, biết mở lòng đón nhận và khám phá muôn điều kỳ diệu Chúa đã làm, để từ đó biến cuộc sống trở thành “Lời ca khen cảm tạ Magnificat”:
Hồn tôi tán tụng Chúa Trời,
Lòng tôi hoan hỷ dâng lời tạ ơn,
Tạ ơn Chúa chuộc khoan nhân,
Thương người tỳ nữ, thương thân phận hèn.
Từ nay thiên hạ ca khen,
Rằng tôi có phúc, có duyên lạ lùng.
Rằng tôi bé mọn khiêm cung,
Được bàn tay Chúa oai hùng điểm trang,
Cho tôi nên trọng nên sang,
Cho Danh Thánh Chúa hiển vang muôn đời (SĐTT, NXV)
2. Thánh Lễ Giao Thừa
(Bài đọc 1: Ds 6, 22-27, Bài đọc 2: 1 Tx 5, 16-26. 28, Tin mừng: Mt 5, 1-10)
Lời tạ ơn
Vậy là chúng ta đang ở vào những giờ phút cuối cùng của năm Giáp Thân, chuẩn bị bước vào năm mới Ất Dậu. Và cũng theo lệ thường không biết đã có từ bao giờ, đây là giây phút để tất cả chúng ta cùng nhìn lại cuộc sống của chúng ta trong suốt một năm qua. Đồng thời, cũng là lúc chúng ta hướng một cái nhìn vào năm mới.
Nhìn lại những gì đã lãnh nhận trong năm cũ và hướng về những điều sẽ được ban trong Năm mới, có lẽ tâm tình thích hợp và đúng đắn nhất của mỗi người tín hữu chúng ta là tâm tình tạ ơn như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy vui mừng luôn… Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
1. Nhìn về năm cũ:
Cha ông chúng ta vẫn thường nói: “Ôn cố, tri tân”. Do đó, để có thể bước vào năm Mới một cách thành công, điều đầu tiên chúng ta cần làm là “ôn cố”, nghĩa là nhìn lại cuộc sống chúng ta trong suốt một năm qua. Trong suốt 365 ngày vừa qua, chắc hẳn đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện trong cuộc đời của mỗi người chúng ta: chuyện vui cũng có, mà chuyện buồn chắc cũng không thiếu. Một năm với nhiều thành công và chắc cũng có nhiều vấp váp lỗi lầm. Nhưng cho dù vui hay buồn, thành công hay thất bại, thì đó cũng là chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Giờ đây, khi nhìn lại cuộc sống của mình trong năm cũ, Giáo Hội mượn lời thánh Phaolô khuyên bảo con cái mình: “Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa”.
Vâng, điều gì tốt thì giữ lại và phát huy, điều gì xấu thì loại bỏ và lánh xa, đó chính là thái độ của những người khôn ngoan, thức thời, đó là thái độ cần có của mỗi người chúng ta trong giờ phút Giao thừa này.
Nhìn lại một năm, có lẽ điều mà mỗi người chúng ta có thể cảm nhận được, đó là hồng ân Thiên Chúa đang bao phủ cuộc đời của từng người và cả giáo xứ chúng ta. Vâng, khi nhìn lại một năm qua, có lẽ nhiều người chúng ta phải rùng mình vì không biết tại sao chúng ta lại đứng vững và vượt qua được nhiều thử thách gian nan đến thế. Có những biến cố chúng ta không ngờ, những tai nạn tưởng chừng như không thể tránh khỏi. Vậy mà không biết bằng cách nào, chúng ta đã vượt qua tất cả. Đối với những người không tin, đó có thể là sự may mắn, nhưng thật ra, chẳng có cái gì là vô tình. Chính vì thế, trong giờ phút cuối năm này, Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh nhắc bảo từng người chúng ta: “Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời”. Như thế, mọi sự xảy ra trong đời sống chúng ta chẳng phải là vô tình, nhưng tất cả đều nằm trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Và đó chẳng phải là hồng ân tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đó sao?
Chính vì cảm nghiệm được hồng ân Thiên Chúa trong cuộc đời mình, tác giả Thánh vịnh đã cất tiếng ca khen Thiên Chúa: “Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời”. Và nếu quả thật “ơn phù hộ của chúng ta đến từ Đức Chúa, Đấng dựng nên cả đất trời”, thì thánh Phaolô có lý khi mời gọi chúng ta: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô”.
Tóm lại, khi nhìn về năm cũ, không phải để chúng ta chán nản bởi vì đã không được như ý của chúng ta, hay tự mãn vì những điều xem ra thành công, nhưng đây là giây phút để chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời mình và hết lòng dâng lời cảm tạ Ngài, vì những gì Ngài đã làm cho chúng ta trong một năm qua.
2. Nhìn về tương lai:
Mặt khác, Giao thừa không chỉ là dịp để chúng ta suy gẫm việc đã qua, nhưng còn là thời gian để chúng ta chuẩn bị hướng tới tương lai. Có lẽ với năm tháng trôi qua, càng ngày chúng ta càng cảm nghiệm rõ hơn về giới hạn của chính bản thân và của những người chung quanh, nói chung là giới hạn của con người. Con người giới hạn phần vì “lực bất tòng tâm”, phần vì tính ích kỷ của mỗi người. Trong năm qua, đã biết bao lần chúng ta hứa hay nhận được lời hứa, nhưng rốt cuộc chẳng thực hiện được là bao. Lắm khi những người chúng ta tin tưởng nhất lại là những người làm chúng ta thất vọng nhất. Do đó, tin tưởng nơi Chúa quả thật là điều cần thiết và là một bảo đảm chắc chắn nhất cho hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Chính Đức Giêsu khi nghe người ta khen ngợi: “Phúc cho lòng dạ cưu mang ông, và vú ông đã bú!”, thì Ngài đã lập tức tuyên bố: “Hạnh phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11, 27-28).
Hướng về năm mới, chúng ta cần có một cái nhìn tươi vui và tin tưởng vào Thiên Chúa. Đây không phải là sự vui mừng hay là một niềm tin mù quáng, dễ dãi của những tâm hồn yếu đuối, nhưng là niềm vui và niềm tin của những tâm hồn mạnh mẽ. Đó là niềm vui của những người biết rõ những khó khăn, thử thách vẫn còn đó, nhưng vì tin có Chúa ở cùng, nên họ vẫn luôn vui vẻ, nhìn ra mặt tích cực của các sự kiện để bước tới trong tin tưởng. Nhìn lên bầu trời đầy mây đen u ám, họ không buồn vì mây che mất mặt trời, nhưng vẫn vui vì ánh sáng của mặt trời vẫn đủ để họ nhìn thấy được đám mây đen. Chính trong niềm tin đó, Giáo Hội đã muốn chúng ta suy niệm về các mối phúc trong Thánh lễ Giao thừa hôm nay. Thật vậy, trong năm mới sắp tới, cho dù có nghèo khổ, đói khát, hay bị bách hại đi chăng nữa, thì gia nghiệp Nước Trời đang dành sẵn đó cho những ai hết lòng tin tưởng cậy trông.
Đồng thời, không chỉ là thụ động đón nhận những thử thách, Đức Giêsu còn mời gọi chúng ta sống hiền lành, biết cảm thương và sẵn sàng chia sẻ với những nỗi bất hạnh của anh chị em mình để rồi đến lượt mình, chúng ta cũng được Thiên Chúa xót thương. Ngài còn muốn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa và được Thiên Chúa nhận làm con, khi mời gọi chúng ta sống trong sạch và kiến tạo hòa bình cho thế giới hôm nay. Và nhờ luôn ở trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hạnh phúc. Chính trong niềm tin này, thánh Phaolô đã cầu xin cho chúng ta: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta quang lâm”.
Cuối cùng nhờ “Ôn cố tri tân”, mà chúng ta nhận ra rằng: Thành quả mà giáo xứ chúng ta có được ngày hôm nay chính là kết quả của biết bao thế hệ cha ông, những người còn sống cũng như đã qua đời xây dựng nên. Do đó, giờ phút Giao Thừa cũng là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta cầu nguyện cho các ngài. Đồng thời, đây cũng là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hôm nay cần phải chung sức góp công của mình, để vun đắp cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta ngày càng trở nên một cộng đoàn sống yêu thương và hiệp nhất trong tình yêu của Thiên Chúa. Và không chỉ dừng lại ở cộng đoàn Giáo xứ, cách tốt nhất để chúng ta tỏ lòng biết ơn ông bà, cha mẹ, đó là tiếp bước các ngài, loan truyền Tin mừng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày.
Để kết thúc bài chia sẻ này, tôi xin mượn lại lời Chúa trong bài đọc một để cầu chúc cho quý OBACE: “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh chị em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em!” trong suốt Năm Mới này. Amen.
3. Giây phút linh thiêng (Lm Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ rất ý nghĩa:” Giây phút linh thiêng đã khởi đầu…”. Xuân về được bắt đầu bằng giây phút giao thừa. Người người, nhà nhà, mọi gia đình, mọi người đón chào giây phút linh thiêng khởi đầu một năm mới trước bàn thờ hương trầm nghi ngút bay. Giây phút kết nối giữa những ngày đã qua và những ngày mới bắt đầu. Người Kitô hữu tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi vì bao hồng ân Chúa ban và cầu sự an bình cho một năm mới đã ló rạng. Đây là khởi điểm của thời gian khiến con người gợi nhớ về sự sáng tạo mà Thiên Chúa trao ban cho vũ trụ, cho con người.
GIAO THỪA, ĐẤT TRỜI GIAO CẢM:
Thời gian đêm giao thừa rất linh thiêng, huyền nhiệm. Người ta nâng cốc chúc nhau sức khỏe, may mắn và bình an trong lúc đón chào Chúa xuân đến với hy vọng năm mới sẽ có những điều mới, an lành và hạnh phúc hơn. Năm mới đến có liên quan đến vận mệnh của từng con người. Riêng đối với người Kitô hữu, giây phút giao thừa, thời điểm bàn giao giữa năm cũ và năm mới còn mang ý nghĩa cao vời: con người sẽ nhớ tới Đấng là Mùa Xuân vĩnh cửu, Đấng tạo dựng đất trời, dựng nên con người. Đấng ấy là Thiên Chúa, là tình yêu. Đêm giao thừa làm cho người Kitô hữu nhớ đến Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng nhân loại, ở với con người, ở với mỗi người. Thiên Chúa đã sai Con của Người là Đức Giêsu tới trần gian cũng vào một đêm, đêm mà Con Thiên Chúa và loài người hợp nghĩa kết giao. Đêm mà các thiên thần loan báo cho các mục đồng, đại diện cho toàn nhân loại tin vui về việc Con Thiên Chúa đến với họ và ở lại với họ để ban an bình, và hứa với họ sẽ ở với họ cho tới ngày tận cùng thế giới.
VẪN LÀ GIÂY PHÚT LINH THIÊNG:
Giây phút giao thừa là thời điểm của một năm mới, là lúc trời đất giao hòa, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người. Chính trong giây phút huyền diệu của đêm giao thừa, con người chỉ có thể nói lên:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion”(Tv 133, 3) hoặc ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”. Đón xuân về, trong giây phút giao thừa uy linh và huyền nhiệm, con người vẫn nhớ tới cảnh đoàn tụ, ấm cúng của gia đình, nhưng vẫn còn những gia đình, những kẻ thiếu may mắn không có điều kiện, cơ hội để đón giao thừa. Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Người Kitô hữu được mời gọi sống tin, yêu và sứ mạng của họ là loan báo Mùa Xuân vĩnh cửu cho mọi người.
Chúa là mùa xuân vĩnh cửu. Con người biết chia sẻ, biết quảng đại, biết cảm thông và loan báo Đức Giêsu Kitô, Đấng là mùa xuân bất tận cho người khác là họ đã sống giây phút linh thiêng nhất của một năm vì họ có Chúa ở cùng, và như vậy khi một tâm hồn có Chúa ở cùng là một trời xuân bất tận (thánh Gioan Vianney).
Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh (Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ giao thừa)
4. Lời cảm tạ tri ân (Lm. Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Ngày cuối của một năm, thường con người vẫn có thói quen ngồi lại để tính sổ với Chúa, với đời xem mình đã làm được gì, chưa làm được gì và rồi con người dù thế nào đi nữa vẫn phải nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa vì do tình thương của Ngài mà con người vẫn còn tồn tại.
CUỘC ĐỜI PHẢI LÀ LỜI CẢM TẠ:
Nhìn lại một năm với bao biến cố xẩy ra trong đời: buồn có, vui có, khó khăn có, may mắn có, con người vẫn tự nhủ tại sao mình còn hiện diện? Tại sao mình còn thở, còn sinh hoạt được, còn đi dứng, ăn uống, ngủ nghỉ được? Chắc chắn với lòng tin sẵn có, người Kitô hữu luôn ý thức Thiên Chúa đang tiếp tục làm phép lạ trong cuộc đời của mình. Như vậy, tâm tình của con người là tạ ơn. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã viết:” Đàn hát lên! Nhờ Thánh Thần linh hứng, trót tâm tình, dâng Thiên Chúa là Cha. Luôn cảm ta Người, nhân danh Thánh Tử vì Người ban muôn phúc lộc chan hòa”(Eph 5, 19-20). Vâng, Thiên chúa đã ban cho nhân loại, cho mỗi người muôn vàn hồng phúc. Những ân huệ cao quí, Thiên Chúa tặng ban cho con người quả không kể xiết. Con người chỉ có thể hiểu được những điều quí hóa ấy khi họ biết hồi tỉnh, suy nghĩ và cầu nguyện. Hồi tỉnh để thấy mình đã lãnh nhận quá nhiều ân phúc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban. Suy nghĩ để con người nhận ra họ được hạnh phúc có Thiên Chúa là Cha nhân từ không nỡ cho con người con bọ cạp hoặc hòn đá khi họ xin bánh ăn. Cầu nguyện để thân mật trao đổi và cám ơn Thiên Chúa vì tình thương vô biên Chúa đã tặng ban cho con người. Chính vì thế, con người phải luôn có tâm tình như Chúa Giêsu vì cuộc đời của Ngài là bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa Cha. Chúa luôn cảm tạ Chúa Cha trong mỗi biến cố cuộc đời: khi làm phép lạ cho cá và bánh hóa nên nhiều, khi lập bí tích Thánh Thể, khi chọn các môn đệ và nhiều việc Chúa Giêsu làm trong đời của Ngài. Bao giờ, Chúa cũng nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha. Tạ ơn là điều tối hệ trọng trong đời Chúa Giêsu. Mẹ Maria cũng thế, Mẹ đã nói lên lời xin vâng và tạ ơn trong cả cuộc đời của Mẹ. Bài kinh Magnificat Mẹ cất lên hôm nay là một lời cảm tạ Thiên Chúa Cha. Mẹ mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy cùng Mẹ hát bài tạ ơn vì chính Mẹ và con cái của Mẹ đã được Thien Chúa trao ban quá nhiều hồng phúc.
NGÀY CUỐI NĂM LUÔN LÀ LỜI TẠ ƠN:
Nhìn lại một quãng đời, suy nghĩ về một chặng đường đã qua, con người chỉ biết thốt lên như Mẹ:”…Đấng toàn năng đã làm cho Tôi biết bao điều kỳ diệu”. Đời con người là một huyền nhiệm. Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, Ngài lại ban cho con người biết bao hồng phúc khiến con người không thể nào hiểu hết sự lạ lùng của Thiên Chúa. Con người chỉ có thể cùng với tác giả thánh vịnh:’ Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa”(Tv 115, 12-13)
Ngày cuối năm, người Kitô hữu luôn phải ngồi lại để suy nghĩ, điều chỉnh tâm hồn và nói lời tạ ơn Thiên Chúa. Đây là dịp rất tốt để con người hồi tỉnh xem điều gì mình đã làm được tốt, điều gì mình chưa làm tốt và điều còn thiếu xót để rồi chấn chỉnh điều chưa tốt và nhân lên càng nhiều càng tốt điều tốt lành mình đã làm được. Điều quan trọng con người cần phải xét tới xem mình đã có quan hệ thế nào đối với Thiên Chúa và có thái độ ra sao đối với tha nhân? Chúa luôn mời gọi mỗi người quay trở về với Thiên Chúa và làm hòa với anh em. Như thế, ngày cuối năm là dịp để hồi tỉnh, trở về với Chúa và thắp sáng đức tin cho anh em. Những việc làm tỏa sáng vẫn là những việc Chúa mời gọi con người thực hiện để làm vinh danh Chúa và nối kết anh em. Ngày cuối năm cũng là ngày tạ lỗi Chúa và tạ lỗi mọi người. Tạ lỗi là nói lên lòng sám hối, ăn năn và tạ ơn.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong suốt cả năm nay, Chúa đã thương ban phù trợ cho hồn xác chúng con an toàn. Giờ đây năm cũ sắp qua, chúng con cùng họp nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và xin Chúa thứ tha tội lỗi, để chúng con được thư thái bình an trước thềm năm mới (Lời nguyện nhập lễ, lễ tất niên).
5. Hạnh phúc theo Tám Mối Phúc Thật (Martin Lê Hoàng Vũ)
Giao thừa, đêm trừ tịch, đêm 30 tháng chạp âm lịch là thời khắc thiêng liêng nhất trong năm. Bởi vì đêm nay có một sự chuyển giao của thời gian: Một năm cũ ra đi và năm mới lại đến. Chính vì vậy người Việt Nam dù quanh năm đi làm ăn xa cũng cố gắng thu xếp trở về với gia đình trước đêm nay để cùng với người thân đón một năm mới lại đến. Đêm giao thừa còn là thời khắc “ngừng chiến” để con người tận hưởng bầu khí ấm áp của tình nghĩa gia đình, giữa anh chị em với nhau và giữa cha mẹ với con cái, họ tạm quên đi cuộc sống đầy dẫy điều ích kỷ, bon chen, sự vội vã, vất vả. Trong giờ phúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới ai trong chúng ta cũng hy vọng năm mới tới mọi sự sẽ tốt đẹp hơn, điều hạnh phúc sẽ đến với mình và gia đình.
Cùng hòa chung với niềm vui đón năm mới của dân tộc, đêm nay người Kitô hữu Việt Nam hướng lòng về Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự Thiện hảo, cầu xin Ngài ban mọi điều tốt lành trong năm mới. Trong niềm tin ở Chúa là chủ thể của thời gian, là Đấng điều khiển mọi vận hành của thời vũ trụ, là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là khởi đầu và tận cùng của lịch sử, thì đối với chúng ta giây phúc giao thừa là dịp của tri ân và cảm tạ. Chúng ta cảm tạ Chúa vì suốt một năm qua đã cho chúng ta được sống, đã gìn giữ chúng ta trước mọi nguy biến của cuộc đời và đã tặng ban muôn vàn ơn phúc dư đầy. Thiên Chúa luôn quảng đại ban ơn cho con người. Hạnh phúc cũng là một ân ban của Thiên Chúa.
Đặc biệt thánh lễ đêm giao thừa được cử hành theo truyền thống dân tộc là dịp đoàn tụ của một gia đình rộng lớn hơn, gia đình con cái Thiên Chúa, họ cùng tin Thiên Chúa là Cha và cùng nhận mọi người là anh chị em với nhau, họ ngồi lại bên nhau để ôn lai những việc đã qua trong năm cũ và hướng đến năm mới.
Bài Tin Mừng được đọc trong đêm hôm nay thánh sử Matthiêu ghi lại bài giảng Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã công bố trện một ngọn núi. Lắng nghe đoạn Tin Mừng này và cùng suy nghĩ trước giờ phút thiêng liêng khi bước sang một năm mới chúng ta sẽ hiểu được thế nào là hạnh phúc.
Tám mối phúc thật được công bố ở trên một ngọn núi. Điều này gợi cho chúng ta nhớ đến Thập Giới mà Thên Chúa ban cho dân Israel qua Môsê. Tám mối phúc thật là Bản Hiến Chương của Nước Trời, là lời mời gọi trong đời sống của mỗi người tín hữu phải biết vươn lên. Cho nên tất cả những ai đi theo Chúa Giêsu, và muốn vào Nước Trời thì không thể không đi qua con đường của Tám mối phúc thật.
Giờ đây cùng nhau suy niệm về hạnh phúc dưới ánh sáng của Lời Chúa chúng ta nhận ra được nhiều điều.
Ngày nay trong cuộc sống có rất nhiều thứ hạnh phúc giả tạo hay còn được gọi là thứ hạnh phúc ảo đang lôi cuốn chúng ta, Chúng có nhiều hình dạng, có vẻ đẹp, có sức quyến rũ và hứa hẹn một cuộc sống dễ dãi, luôn muốn được thỏa mãn, muốn hường thụ cuộc sống với những đam mê thấp hèn theo bản năng, sẵn sàng quên người để chỉ tìm sự sung sướng cho riêng mình. Họ nhất định phải “hạ gục nhanh tiêu diệt gọn” người khác, nhất là đối thủ của mình để có được địa vị, danh vọng, nhưng xem ra khi đạt được tất cả những điều đó hạnh phúc vẫn là điều xa với. Nhiều người cũng cho rằng một gia đình hạnh phúc là trong đó những thành viên phải có mức lương cao, quan hệ rộng, có tiếng tăm, có thế lực,nhà cửa đầy đủ tiện nghi, nhiều tiền,nhưng chưa chăc hạnh phúc lại ở trong gia đình đó. Hạnh phúc không bao giờ được xây đắp bằng vật chất.
Theo Chúa Giêsu dạy trong Tám mối phúc thì hạnh phúc chính là dám sống nghèo, sống hiền hòa, sống ngay thẳng, sống yêu thương, xây dựng hòa bình, và có thể vì Chúa mà chịu khổ đau. Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta sống theo không phải là một lý thuyết suông hay không phải là điều không thể thực hiện mà đó là việc cần làm ngay trong năm mới tới đây, là bản tự kiểm cho chúng ta trong suốt một năm qua. Chính khi sống theo những điều ấy chúng ta lại tìm được hạnh phúc đích thực.
Cuối cùng vế thứ hai của những lời chúc phúc nói về phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho những người sống theo Tám mối phúc. Hạnh phúc là được vào trong Nước Trời. Hạnh phúc là được nhìn thấy Thiên Chúa. Hạnh phúc là được thiên Chúa ủi an. Hạnh phúc là được Thiên Chúa yêu thương.Hạnh phúc là được làm con Thiên Chúa …. Tất cả những điều đó phải là mối lo lắng của chúng ta trong đêm giao thừa này.Mỗi người cần tự hỏi liệu: năm mới tới đây chúng ta có được những điều Chúa hứa ban như trong Tám mối phúc thật hay không?
Tới đây để kết bài, chúng ta cùng để tâm suy nghĩ một lời chúc của một tác giả người Pháp không rõ tên được đăng trên CG và DT những ngày gần đây như sau:
“Nhân dịp năm mới đang đến,
Tôi xin chúc bạn.
Không phải là sự thành công trong công ăn việc làm.
Nhưng là tiếp rước đón nhận.
Trong trái tim và trong cuộc sống.
Từng ngày một và từng bước một,
Tình yêu của Chúa đang mang đến ý nghĩa cho sự hiện hữu.
Tôi chúc bạn không phải là không gặp những thất bại,
Nhưng biết đón nhận như một món quà bất xứng.
Sức mạnh giúp bạn đứng vững, dù cho những gian lao nặng nề,
Tôi chúc bạn không phải những ngày êm ả, nhưng là khả năng để cho người khác quấy rầy,
Và đón nhận người khác biệt với mình như một sứ giả của Chúa.
Tôi chúc bạn không phải là có câu trả lời cho mọi vấn nạn.
Nhưng là biết đón nhận những câu hỏi của người khác,
Biết mang trong lòng bạn những khó khăn âu lo, những xung đột bế tắc của họ.
Để được gần gũi họ như một người chị, một người anh em biết liên đới.
Như một người biết chia sẻ và reo rắc an bình”.
Lạy Chúa Giêsu trong giờ phút giao thừa này chúng con xin hết lòng cảm tạ tình yêu thương của Chúa đã ban muôn ơn lành và gìn giữ chúng con trong suốt một năm qua. Xin cho chúng con trong năm mới biết hoàn toàn sống cho Chúa và vì Chúa mà sẵn sàng từ bỏ mọi thứ lợi lộc trần thế,bởi không điều gì hạnh phúc cho chúng con bằng phần thưởng Nước Trời và được ở với Chúa. Xin Chúa chúc lành cho năm mới Giáp Thân 2004. Amen
6. Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thế là 365 ngày đã qua đi. Đêm nay trời và đất như giao hòa, kết duyên. Giây phút mà thi sĩ Hàn Mạc Tử đã nói:” Giây phút thiêng liêng đã khởi đầu”. Giờ này, nhân loại, con người đối diện với Thiên Chúa, Đấng là chủ thời gian, là Chúa của vũ trụ, của nhân loại, của con người. Vào phút giây huyền diệu này, thời gian cũ như ngừng lại, bàn giao cho một thời gian mới, một năm mới. Con người chỉ còn biết dâng lên Thiên chúa, vua mùa xuân lời cảm tạ sâu xa và tha thiết xin Chúa giáng phúc lành cho năm mới được phúc lộc miên trường.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG
Con người trong đêm thiêng liêng của sự giao hòa đất trời, luôn cảm nghiệm có một cái gì đó rất đời thường nhưng cũng vô cùng linh thiêng. Cái giờ phút những ngày cũ của một năm cũ đã qua đi. Thời gian như đi mãi, đi hoài và hầu như không dừng lại. Nhưng giữa cái mốc điểm của đêm giao thừa huyền nhiệm: đêm đẩy lùi quá khứ hướng về tương lai, đêm linh thánh báo hiệu những ngày mới của một năm mới đã ló rạng. Đêm mà con người đối diện với Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân, Chúa của lịch sử, Chúa của loài người, đêm giao thừa, con người chỉ có thể khẩn cầu Thiên Chúa như thánh vịnh 133, 3 đã viết:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion” và như ca nhập lễ đêm giao thừa đã thốt lên: “trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Đêm hôm nay, trong cõi u tịch của sự bàn giao thời gian, con người chỉ có thể hiểu được: Vũ Trụ, Xuân, Hạ, Thu, Đông luôn vần xoay, xoay chuyển và con người có là gì đều do Thiên Chúa. Nên, tâm tình đầu tiên trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa là sám hối, tạ ơn. Sám hối để luôn đón nhận Chúa và tạ ơn để hiểu mọi sự đều bởi Chúa. Sách dân số 6, 22-27 đã viết:”.khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”. Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của Danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng. Đêm giao thừa trong giây phút thiêng liêng nhất: phút giây trời đất giao hòa, con người hãy hướng cả tâm hồn của mình lên Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân vĩnh cửu để tạ ơn và xin Chúa chúc lành:” Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em, gìn giữ mọi người”(Dân số 6, 22-27).
HÃY TẠ ƠN VÀ CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG
Thánh Phaolô đã viết:” Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”(1thes. 5, 16). Con người và nhân loại trong giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa hãy tạ ơn Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa bằng lời cầu nguyện liên lỉ. Những ngày tháng năm cũ, chắc chắn có lúc ta gặp những điều thuận lợi, nhưng có nhiều lúc ta gặp những sự bất trắc, thử thách khó khăn. Tất cả những điều đó là những thánh đố của mỗi người. Con người dù có thêm tuổi, dù gánh nặng chồng chất trên vai, dù có sự thay đổi của tuổi tác, của trí tuệ, của khả năng, của sức khỏe. Nhưng, tất cả đều là ân huệ của Chúa. Tất cả đều làm vinh quang cho Ngài. Và rồi, con người chỉ có thể đứng vững khi họ biết bước trên từng nấc thang của tám mối phúc thật. Và như thế, con người sẽ vĩnh viễn ở trước mặt Chúa cho dù thời gian có đi qua. Con người không chỉ sống đơn độc một mình, họ còn có một mái ấm gia đình. Giờ phút linh thiêng của một năm mới đã khởi đầu: xin Chúa thánh hóa các gia đình và để các gia đình có thể gần gũi Chúa, phương thế các gia đình phải thực hiện là lần chuỗi mân côi. Xin cho từng người và mọi người, mọi gia đình biết tạ ơn Chúa không ngừng và cầu nguyện liên lỉ để ý Chúa được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Có như thế, thời gian sẽ trở thành vĩnh cửu và xuân sẽ là cái mốc cho con người càng lúc càng gần Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Chúa xuân vĩnh cửu:” Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”(Tv 120,1.).
Xin Chúa ban cho chúng con biết biến giây phút linh thiêng đêm giao thừa này trở nên lời ca ngợi tình thương vô biên của Chúa.
Lạy Chúa, xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn, hầu suốt cả năm nay chúng con được sống trong tình thương của Chúa (lời nguyện hiệp lễ, lễ giao thừa).
7. Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
Cứ mỗi giao thừa, tôi lại có những cảm nghiệm về giây phút linh thiêng, giây phút bàn giao giữa năm cũ và năm mới. Mà sao không lạ lùng và hồi hộp khi năm cũ nhường bước cho những giây phút linh thiêng nhất, giây phút đẹp nhất cho một năm mới khởi đầu. Và Hàn Mạc Tử đã không ngần ngại viết những câu thơ thật truyền cảm, nhẹ nhàng như đưa hồn cao người vào chốn linh thiêng, tuyệt diệu:” Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu. Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ! Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt. Như đón từ xa một ý thơ “.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG CỦA MỘT ĐÊM KHAI MÀO NĂM MỚI: Sự linh thánh của đêm giao thưa như gợi trong trí của mỗi người về giây phút hết sức huyền diệu, giây phút hết sức linh thánh, giây phút đong đưa giữa cái cũ và cái mới. Lời thánh vịnh:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion ” (Tv 133, 3).
Lời thánh vịnh này là lời khẩn cầu Thiên Chúa tưới xuống muôn hồng ân để con người, mỗi người được sống trong niềm vui, hạnh phúc và sự an bình.Giây phút giao thừa vẫn là giây phút đẹp, giây phút thiêng liêng, giây phút mà mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, như có một cái gì đó níu kéo con người và làm cho con hướng tâm hồn lên cao, hướng tâm hồn lên Thiên Chúa để xin Thiên Chúa gia ân giáng phúc cho cho mọi người, mọi nhà hầu con người được sống trong hòa bình và sống trong yêu thương. Đêm giao thừa, người ta vẫn có tục lệ khấn vái cầu xin ơn trên đổ muôn ơn hồng phúc xuống cho con người. Đối với với người công giáo, đêm giao thừa sẽ là đêm người Kitô hữu ngước mặt lên Chúa và cầu khẩn nguyện xin:” Trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh “. Giây phút giao thừa là giây phút trời đất giao hòa: Năm cũ nhường cho năm mới. Một năm mới đã mở ra và mọi người sống giây phút này trong niềm tin, trong hy vọng và sống trong sự yêu thương bởi chính Thiên Chúa là tình yêu.
GIÂY PHÚT GIAO HÒA GIỮA THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI: Trong đêm giao thừa, trong giây phút linh thiêng, con người đứng trước bàn thờ, dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì muôn vàn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con người, đã ban cho từng người trong suốt một năm qua. Giây phút giao hòa trời đất là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa, con người gặp gỡ Đấng vô cùng thánh thiện. Thiên Chúa đang ở với con người, sống với con người và sống vì con người.Trong giây phút Thiên Chúa gặp con người và con người đối diện với Thiên Chúa. Con người hiệp với Hội Thánh ca tụng tình thương vô biên của Thiên Chúa:” Lạy Cha Chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết”
(Lời Tiền Tụng Chúa Nhật IV thường niên). Giây phút Thiên Chúa và con người là giây phút thánh thiêng, giây phút hạnh phúc nhất vì Thiên Chúa là Tình Yêu, là Mùa Xuân vĩnh cửu.
MUÔN ĐỜI VẪN LÀ LỜI CẢM TẠ: Cảm tạ là một hồng ân. Chính vì thế, con người, mỗi người luôn phải nói lời tri ân cảm tạ. Bởi vì, Thiên Chúa không cần lời cảm tạ của chúng ta, nhưng nói lên lời cảm tạ lại là một hồng ân Chúa ban.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa ban sự sống cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì phép lạ lớn nhất Thiên Chúa đang làm cho chúng ta là cho chúng ta còn sống tới giờ phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta thấy ngày khởi đầu của một năm mới.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta gặp gỡ mọi người.
Tình thương của Chúa đời con ca tụng (Tv 88). Lời Thánh vịnh này luôn thúc bách chúng ta hãy tạ ơn tình thương vô biên, tình thương tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa linh thiêng đêm nay, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con luôn nhìn ra tình thương tuyệt vời của Chúa và để chúng con nhận ra những giây phút mở đầu của ngày mới là giây phút quý hóa nhất cho một năm mới tốt đẹp và trong lành. Amen.
8. Cầu bình an cho năm mới – Mt 5, 1-10 (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh lễ giao thừa là những giây phút thật cảm động, linh thiêng, bởi vì đây là giờ phút năm cũ và năm mới giao thoa, là giây phút năm cũ sắp sửa bàn giao cho năm mới.Vị chủ tế dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân của Ngài và của toàn thể bà con giáo dân trong xứ đạo bởi vì suốt một năm cũ mọi người đã nhận lãnh biết bao ân huệ từ nơi Thiên Chúa. Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ thật chí lý, thật ý nghĩa:” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”.
Trong giờ phút thật linh thiêng, Chủ tế và bà con giáo dân cùng nhau dâng lời tạ ơn. Thánh vịnh đáp ca viết:” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Thessalonica:” Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh”. Thánh vịnh 133,3 lại viết:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion “. Giây phút linh thiêng nhà thơ họ Hàn viết là giây phút huyền diệu, giây phút linh thánh. Trời và đất giao hòa. Những giây phút này là giây phút cảm tạ ngợi khen. Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi. Giây phút linh thiêng như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận là giây phút Ngài muốn thưa với Chúa rằng:” Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc sống của con sẽ luôn luôn là ” một giao ước mới và giao ước vĩnh cửu ” với Chúa.
Mỗi giây phút con muốn hát lên cùng với toàn thể Giáo Hội:” Vinh danh Cha, và Con và Thánh Thần ‘. Giây phút linh thiêng, giây phút mới của những giây phút đầu tiên sẽ là khoảnh khắc đầu tiên, khoảnh khắc cuối cùng, khảnh khắc duy nhất.
Vâng, những giây phút khởi đầu của một năm mới mở ra những giây phút ân lộc. Và chúng ta hãy ký thác đường đời cho Chúa. Giây phút giao thừa là giây phút mở ra một chân trời mới, mở ra niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông bởi vì tất cả đều là hồng ân, đều là ân lộc của Chúa như lời nguyện nhập lễ diễn tả:” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh Chúa “.
Như Đức cố Hồng y Phanxicô Xavie Thuận, chúng ta hãy tín thác cho Chúa những gì thuộc về quá khứ.
” Ôi phút hiện tại, ngươi hoàn toàn tùy thuộc ở nơi ta.
Ta ước muốn sử dụng ngươi trong quyền hạn của ta.
Vì thế, con tín thác nơi lòng nhân từ Chúa,
Con tiến bước trong đời con như một trẻ em.
Và mỗi ngày con dâng cho Chúa trái tim con
Nồng cháy tình yêu để danh Chúa được cao cả hơn”
Giờ linh thiêng là những giây phút hiện tại, Giờ con mèo lui đi để con rồng hiện diện. Đó là nói theo cách thông thường của người trần. Còn xét theo mặt linh thiêng. Giây phút giao thừa là giây phút Chúa đang nhìn ngắm con người và ngược lại con người đang cầu khẩn Chúa. Kinh tiền tụng thánh lễ giao thừa viết: ” Trong Cha, chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con nghiệm hằng thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn được nhận lãnh bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng muôn đời được hưởng ơn Phục Sinh “.
Trong Đức Giêsu, chắc chắn mùa xuận Nhầm Thìn sẽ mang lại nhiều hạnh phúc bởi vì Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời (Dt 13, 8)
Lạy Chúa, trong đêm giao thừa này, Chúa đã cho cộng đoàn chúng con được tham dự tiệc thánh. Xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn hầu suốt cả năm nay, chúng con được sống trong tình thương của Chúa (Lời nguyện hiệp lễ, lễ Giao thừa, cầu bình an cho năm mới).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Thánh lễ Giao thừa nói lên gì?
2. Giây phút linh thiêng là giây phút gì?
3. Tại sao lại nói Trời Đất giao hòa?
4. Đầu năm mới người ta thường chúc cho nhau những gì?
5. Ân lộc là gì?
9. Thánh Lễ Giao Thừa
Trong những ngày này và cách riêng trong những giờ phút linh thiêng của năm cũ sắp qua đi, nhường chỗ cho thời gian năm mới đến, tự nhiên mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội đều muốn có cái nhìn tổng kết mọi mặt về một năm đã qua. Tất nhiên anh chị em cũng muốn chúng tôi trình bày một bản báo cáo tổng kết về Giáo Xứ để định hướng cho tương lai. Nhưng những báo cáo tổng kết chúng ta thường thấy dường như không phản ảnh những gì mà Lời Chúa đòi hỏi.
Trước hết Bài Sách Dân Số, chúng ta vừa nghe công bố, muốn khẳng định cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình và của cả Dân Tộc, tất cả đều tùy thuộc vào CHÚC LÀNH của Thiên Chúa. Nói cách khác thời gian là HỒNG ÂN Thiên Chúa trao ban cho con người. Và vì thế cũng là Thời Gian mà con người phải công bố Phúc Lành của Thiên Chúa cho mọi người. Hơn thế nữa, Lời Chúa còn xác định thật rõ ràng: Chúc Lành của Thiên Chúa chính là việc “Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa”, là việc “Chúa ghé mặt lại”. Nhan Thánh Chúa là Nhan Thánh của lòng thương xót, khuôn mặt Chúa là khuôn mặt của bình an. Tất nhiên, những công trình vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, công ăn việc làm, những ngày lễ, ngày hội… tất cả đều có thể là những dấu chỉ của hồng ân, nhưng không phải là chính Hồng Ân nếu chúng không vén mở cho chúng ta thấy NHAN THÁNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ KHUÔN MẶT CỦA BÌNH AN của Chúa. Với quan điểm ấy, chúng ta thấy trong năm đã qua, Chúa đã tỏ Nhan Thánh Lòng Thương Xót Chúa qua rất nhiều cơ hội cách đặc biệt dành cho Giáo Xứ chúng ta. Nhưng khi đón nhận Hồng Ân Nhan Thánh, chúng ta cách nào đó lại đã che lấp Nhan Thánh mà phô trương khuôn mặt trần tục vinh vang của xác thịt. Chúng ta đã xúc phạm Nhan Thánh.
Để thấy rõ sự sai lạc của mình, chúng ta hãy nghe Thánh Phaolô minh giải về các Hồng Ân Chúa ban. Theo thánh Tông Đồ, mọi Hồng Ân đều đã được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô. Và Hồng Ân trong Đức Giêsu chính là Thánh Thần và Lời Thiên Chúa. Hồng ân Thánh Thần và Lời Thiên Chúa nhằm thanh tẩy chúng ta, biến đổi chúng ta nên một thân thể trong Đức Kitô. Lẽ ra khi đón nhận những dấu chỉ của Hồng Ân, thánh Phaolô nói chúng ta phải tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, và giữ lại những điều gì tốt, nhưng thực tế xem ra không được như thế: khi sự dữ càng ngày càng xâm chiếm cuộc sống chúng ta.
Hồng ân Chúa nhằm đưa cuộc sống của Chúa Giêsu Kitô vào trong cuộc sống chúng ta để chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Người. Con người mà chính Người đã diễn tả trong bài Tin Mừng: đó là một người nghèo, một người hiền lành, một người than khóc, một người đói khát công chính, một người biết thương xót, một người trong sạch, một người kiến tạo hòa bình, một người chấp nhận bị bách hại vì lẽ công chính. Thế nhưng, mặc dù có thể được qúa nhiều dấu chỉ của hồng ân, nhưng chúng ta lại biến những dấu chỉ trở thành quyền lực của bản thân, để tự cao tự đại, để áp bức và khinh khi tha nhân! Và nhất là làm suy giảm sự hiệp nhất trong Giáo Xứ.
Vậy làm sao tôi có thể làm bản tổng kết của Giáo Xứ này trong năm qua. Thánh Phaolô cũng từng nói với giáo dân của mình “Anh chị em chính là triều thiên của tôi, anh chị em chính là chứng thư của tôi trước Nhan Thánh Chúa”. Nhưng triều thiên tôi có, chứng thư tôi cầm trong tay là gì đây?
Nhìn lại năm cũ thực tế là như vậy, nhưng tôi không bi quan, tôi vẫn hướng về năm sắp tới với tâm tình tri ân và đền tạ, đồng thời vẫn kiên vững trong niềm hy vọng Chúa là Đấng Trung Tín, chính Người sẽ thực hiện điều Người muốn cho Giáo Xứ.
Dẫu sao trong tư cách là chủ chăn riêng của Giáo Xứ, tôi nhận mình có phần trách nhiệm chính yếu về những yếu kém của Giáo Xứ, do những thiếu sót và tội lỗi của chính mình. Vì vậy lẽ ra như thư Do Thái đã viết, hằng ngày tôi phải dâng của lễ đền tội bản thân đã lỗi phạm và cũng đền tội cho dân chúng nữa. Nhưng có lẽ chính những lễ dâng đền tội này chưa đủ đẹp lòng Chúa, vậy tôi xin anh chị em tha thiết cầu nguyện cách riêng cho tôi ngay từ giây phút này và trong năm mới biết dâng lên những lễ tế xuất phát từ “tấm lòng tan nát giày vò” để Chúa chẳng khinh chê mà ban cho Giáo xứ rực rỡ ánh Tôn Nhan Thương Xót và Bình An của Người, để Giáo Xứ trở nên dấu chỉ và thực tại của sự hiệp nhất yêu thương của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. Amen
10. Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tết là khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan trọng và linh thiêng nhất trong một năm. Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại. Ai cũng muốn rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua để đón nhận một luồng sinh khí mới. Thế nên, mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Sống tình thân ái trong những ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Ngày tết với những giờ phút rất linh thiêng gọi là giao thừa. Một thời khắc giao thoa giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Một thời khắc con người như muốn chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao nỗi ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc sống. Một thời khắc tràn đầy niềm lạc quan hy vọng cho một năm mới an bình, hạnh phúc và thịnh vượng.
Ngày Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum họp. Dù ai đi ngược về xuôi cũng muốn trở về đoàn tụ với gia đình trong giây phút linh thiêng ấy. Quây quần bên bàn thờ, thắp lên nén hương trầm trên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ tới ông bà, cha mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành ra mình nay đã khuất. Vì cây có cội, nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về tổ tiên để tỏ lòng tri ân và cầu mong các ngài chúc phúc cho một năm mới bình an.
Trong giây phút giao thừa, mỗi thành viên trong gia đình thường lần lượt chúc tuổi nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh khoẻ sống lâu. Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo hiếu, vâng lời. … Ngày tết người lớn thường không quên lì xì cho con cháu với một ý nghĩa tượng trưng, mong sang một năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều điều tốt đẹp.
Một việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể thiếu chính là lễ hội tâm linh. Ngày tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người Công Giáo đến Nhà Thờ như muốn hoà vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự giao hoà của trời đất. Để gởi gắm vào chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên Đấng Tạo Thành. Chính nơi đây, con người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ nhàng cho tâm hồn như những làn khói nhẹ bay vào chốn không trung.
Người Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên Chúa là chủ thời gian. Thiên Chúa sắp đặt mọi vận hành của trời đất và con người. Thế nên, gửi gắm tâm tình lên Đấng Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình. Chỉ có Ngài mới làm cho “con tạo xoay vần” theo chu kỳ của nó. Chỉ có Ngài mới giúp con người đạt được ước nguyện của mình.
Thế nên, hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi người hãy để lòng mình thanh thản nương theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những ưu phiền lắng lo. Hãy đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể xoay vần cuộc đời theo như ý Ngài. Xin phó thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước thềm một năm mới, chúng ta cùng kính chúc nhau:
Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt ngào
– Vừa đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung kiên
– Vừa đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
– Vừa đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
– Vừa đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
– Vừa đủ BẠN BÈ để được an ủi
– Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
– Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
– Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại
Xin cầu chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp Tình Chúa – Tình Người. Amen
11. Bàn giao năm cũ – Mt 5, 1-10 (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút huyền nhiệm của đêm giao thừa như có một sự gì đó hết sức linh thiêng vì năm cũ chuyển giao cho năm mới. Đây là giây phút trời với đất gặp nhau, trời và đất giao hòa như lời Thánh vịnh 133,3 viết:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion “. Lời khẩn cầu ấy phải là lời nguyện xin của mỗi người, mỗi gia đình khấn van Chúa tưới đổ muôn hồng ân xuống năm mới để người người, nhà nhà được an bình, thịnh vượng và hạnh phúc.
Với truyền thống của người Việt Nam, đêm giao thừa là đêm thánh thiêng, đêm con người gặp gỡ thần linh, đêm con người gặp gỡ trời và đất. Thường người lớn trong gia đình đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông bà để khấn vái tổ tiên, khấn xin người trên ban cho gia đình được nhiều hồng phúc, ban cho gia đình được dồi dào sức khỏe, may mắn và bình an. Đối với các Kitô hữu, giây phút giao thừa là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa để nói lời cảm tạ tri ân Ngài vì muôn ân phúc Ngài đã ban cho con người, cho mỗi người, cho gia đình trong suốt một năm qua. Do đó, giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng nhất: Thiên Chúa gặp gỡ con người và con người gặp gỡ Thiên Chúa. Giây phút linh thánh trời và đất gặp nhau, Thiên Chúa đang ở với con người và con người đang đối diện với Thiên Chúa. Giây phút huyền diệu này con người không biết diễn tả sao cho hết tình Chúa thương yêu con người. Trong giây phút ấy, con người chỉ biết hợp cùng Giáo Hội ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa:” Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết ” (Lời Kinh Tiền Tụng Chúa Nhật IV Thường niên). Chúng ta có thể nói không ngoa vì giây phút này là giây phút tuyệt hảo, giây phút hạnh phúc nhất con người gặp gỡ Đấng vô cùng chí thánh, giống như giây phút trên núi Sinai, Môsê không dám nhìn vào bụi gai đang cháy khi Thiên Chúa đang ở đó. Môsê phải cúi mặt xuống, không dám nhìn vào Chúa.
Vâng, mỗi nước, mỗi dân tộc có một tập tục, một cách thể hiện để đón năm mới, nhưng dù với cách nào, với tập tục nào, truyền thống nào, người môn đệ Chúa luôn coi giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng, giây phút năm cũ sẽ nhường chỗ cho một năm mới tới. Người môn đệ Chúa luôn ước mong năm mới sẽ đẹp hơn, tốt hơn năm cũ. Người môn đệ Chúa sẽ xua đi tất cả những gì được coi như xui xẻo, coi như không được may mắn của năm cũ và đón chào những gì tốt hơn, quí hơn của năm mới mà Thiên Chúa sẽ trao ban cho họ.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa, xin cho mọi người môn đệ Chúa luôn biết nói lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì những ơn huệ đã nhận lãnh và nhận ra những hồng ân mà Ngài sẽ ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi gia đình trong năm mới bắt đầu này. Amen.
12. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10) (Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết:” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. ” Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời ” như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc thấy:” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “.Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con người, cho loài người, cho mỗi người:” Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ”.
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành tâm thiện chí ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
13. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34) (Lm. Trần Bình Trọng)
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó, chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch… đạch, đùng. Đạch, ĐÙNG… ĐÙNG… Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió, bão táp… như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại với những gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt 25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn (Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
14. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
** 15. Giao Thừa--XUÂN 2015
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Thời gian vẫn dần trôi. Như chiếc kim đồng hồ mãi vần xoay. Thời gian chẳng đợi chờ ai bao giờ. Ngày hôm qua đã thành quá khứ. Ngày mai còn chưa tới. Chỉ có ngày hôm nay đang trong tầm tay. Có thể nói món quà quý báu nhất mà Thượng Đế ban cho chúng ta hưởng thụ chính là thời gian. Thời gian lại qua đi rất nhanh nếu chúng ta không biết hưởng thụ thì thật uổng phí! Thời gian sẽ không chờ, thế nên, đừng chờ sau này mới làm những việc mà đáng lý mình phải làm. Nếu không làm ngày hôm nay thì không biết ngày mai chúng ta còn có cơ hội hay khả năng để thực hiện ước mơ của mình hay không?
Có những người con nghĩ rằng khi lớn lên sẽ phụng dưỡng cha mẹ, thế nên tuổi nhỏ thì vẫn lười biếng, sống thiếu trách nhiệm với gia đình, nhưng khi lớn lên thì cha mẹ đâu còn để mà thảo hiếu.
Có những người cha người mẹ tưởng rằng mình còn nhiều thời gian để xây mộng ước, thế nên, vẫn cứ trì trệ, không lo tương lai, đến khi già vẫn chưa có một mái nhà nương thân.
Có những bạn trẻ tưởng rằng thời gian còn dài, thế nên, vẫn vui chơi, có khi sa đọa, đến khi bệnh tật mới biết mình không còn cơ hội cho tương lai.--------Có biết bao nhiêu mộng ước, dệt thật nhiều nhưng vẫn dở dang vì chẳng đủ thời gian để hoàn thành.
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
- Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
- Không được. - Thần Chết lắc đầu.
- Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? - Anh ta tiếp tục van xin.
- Không được. - Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
- Vậy... tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
- Không được. - Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
- Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
- Xin hãy ghi nhớ: "Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày".
Thời gian thật quý hóa. Quý hóa vì nó một đi mà không quay trở lại. Thời gian cho ta làm việc, cho ta hưởng niềm vui nhưng chúng ta đã để lỡ thời gian khi lao vào những đam mê lầm lạc, khi hăng say tranh chấp bon chen với cuộc đời. Chúng ta đã đánh mất niềm vui của thời gian hiện tại. Đây mới là thời gian thực. Thời gian để sống và hưởng thụ. Vì quá khứ đã vuột qua. Tương lai còn mù tối. Hiện tại mới quan trọng với chúng ta. Hãy sống thật vui vẻ, lạc quan với hiện tại, vì đó là cách chúng ta không lãng phí thời gian.
Theo niềm tin ky-tô giáo, thời gian là ân ban của Thiên Chúa. Thời gian Chúa ban cho con người dài ngắn khác nhau. Điều đáng tiếc là ít ai bằng lòng với hiện tại. Không bằng lòng với hiện tại, nên con người thường hay lo lắng, bon chen, dùng đủ mọi khả năng, sức lực, tâm trí mong sống dài hơn, giàu có hơn, danh vọng và quyền lực hơn. Khi đã đạt đến mục tiêu rồi con người lại cảm thấy một khoảng trống vắng trong tâm hồn mà tất cả những lạc thú trần gian không thể lấp đầy. Dường như cuộc đời chẳng có gì vừa ý, toại nguyện mãi mãi với con người, vì ‘‘Được voi đòi tiên” là vậy.
Chúa Giê-su phán: “Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài thêm một khắc không? Vậy nếu đến việc rất nhỏ các ngươi cũng không có thể được sao các ngươi lo việc khác? Hãy xem hoa huệ mọc lên thể nào: nó chẳng làm khó nhọc, cũng không kéo chỉ; song ta phán cùng các ngươi, dầu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu, cũng không được mặc áo như một hoa nào trong giống ấy” (Lc 12, 25-26)
Trong giây phút giao thừa, là thời gian chuyển tiếp giữa cũ và mới. Một thời khắc chuyển sang một năm mới với nhiều âu lo, trăn trở. Chúng ta hãy gác mọi lo âu trăn trở để sống giây phút hiện tại thật bình yên và hạnh phúc. Hãy phó dâng cho Chúa như muôn chim, muôn hoa để cho Chúa thực hiện theo sự quan phòng của Ngài. Chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng, một Thiên Chúa nhân từ sẽ làm mọi sự tốt nhất cho con người, vì chúng ta là hình ảnh của Ngài, là con cái của Ngài, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Xin Chúa chúc phúc cho chúng ta một đêm giao thừa an bình. Xin cầu chúc cho quý ông bà và anh chị em được những giây phút hiện tại này tràn đầy niềm vui trong tình Chúa tình người đầy ắp hôm nay. Amen.
** 16. LỄ GIAO THỪA 2020: Tha Thứ Để Có Niềm Vui Xuân
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày 03/10/2019, một thanh niên da đen 18 tuổi đã làm rúng động nước Mỹ, và có thể còn xa hơn nữa, với thông điệp tha thứ của anh.
Trong phiên tòa xét xử cô Amber Guyger, 31 tuổi, cảnh sát viên người da trắng.
Vì mải nói chuyện điện thoại cho nên cô đã đi nhầm vào phòng của anh Botham Jean, và ngạc nhiên khi thấy anh Botham đang ngồi ăn kem trong phòng khách, cô liền rút súng ra. Cô tưởng anh tấn công mình nên cô đã bắn hai phát súng trúng vào tim anh. Botham Jean, 26 tuổi, người da đen, đã chết trong căn phòng của mình một cách bất ngờ, ngỡ ngàng không hiểu tại sao mình phải chết!
Trong bối cảnh căng thẳng vì vấn đề màu da và vì tình trạng bạo hành của cảnh sát, phiên tòa xử cô Amber Guyger đã diễn ra hết sức căng thẳng.
Kết thúc 4 ngày xét xử, bồi thẩm đoàn đã nhất trí kết tội cô là ‘sát nhân’. Và kết án 10 năm tù.
Người em trai của Botham tên là Brandt Jean, 18 tuổi, khi được cho phép nói lên lời cuối với tội nhân, đã sử dụng thời gian đó tại tòa án để đưa ra một thông điệp tha thứ:
“Tôi không muốn nói hai lần hoặc hàng trăm lần cô đã lấy đi những gì, và bao nhiêu từ chúng tôi.
Tôi nghĩ rằng cô biết điều đó. Nhưng tôi chỉ hy vọng rằng cô đến với Chúa với tất cả mọi tội lỗi và tất cả những gì tôi nghĩ là xấu xa mà cô đã từng làm trong quá khứ.
Ai trong chúng ta cũng có thể đã làm một cái gì đó chúng ta không nên làm.
Nếu cô thực sự hối hận. Tôi biết tôi có thể nói về phần tôi là tôi tha thứ cho cô.
Và tôi biết nếu cô đến với Chúa và xin Ngài tha thứ thì Ngài sẽ tha thứ cho cô. Thực tâm tôi không muốn cô phải ngồi tù. Tôi không muốn bất cứ điều gì xấu cho cô’’.
Ngập ngừng một lúc, anh quay sang phía chánh án hỏi:
‘‘Tôi không biết tôi có thể dành cho cô ấy một cái ôm không? Xin vui lòng cho phép tôi’’.
Bà chánh án Tammy Kemp rất bối rối trước đề nghị này. Sau một lúc suy nghĩ bà nói “Được”.
Chứng kiến cảnh này bà chánh án Tammy Kemp đã rơi lệ.
Đây “Thật là một tấm gương đáng kinh ngạc về tình yêu và sự tha thứ Kitô giáo, chàng trai 18 tuổi đã thay anh tha thứ cho người sát hại anh và khuyến khích cô ấy hiến dâng cuộc sống của mình cho Chúa Kitô để bù đắp tội lỗi mình.
Hôm nay đêm giao thừa, nhắc lại sự kiện này như muốn mời gọi tất cả chúng ta “điều gì tha thứ được thì hãy tha thứ”, “điều gì có thể quên đi được thì hãy quên đi”, nhất là hãy quên đi oán giận, hận thù ganh ghét để cho tâm hồn thanh thản bước vào một mùa xuân mới của đất trời. Và nếu chúng ta là người đã nhận được sự tha thứ của anh em thì hãy hiến dâng cuộc sống mình phụng sự cho Chúa để bù đắp lại tỗi lỗi của mình.
Và giây phút giao thừa đã gần tới. Giây phút “tống cưu nghinh tân” là tống bỏ đi những điều không tốt để đón điều tốt đẹp đến với chúng ta. Giây phút này chúng ta hãy can đảm bỏ đi những đố kỵ, giận hờn, ghen ghét. Hãy làm mới tình người qua tinh thần hòa giải yêu thương. Giây phút này không ai muốn ưu phiền, càng không muốn những điều bực dọc đến với mình. Hãy gác lại những bất đồng ý kiến, những thành kiến cố chấp để cùng nhau đón một mùa xuân yêu thương và hạnh phúc.
Nhưng điều mà Chúa muốn chúng ta là phải dấn than để “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Vạn vật vào xuân để thay đổi thì con người muốn thăng tiến cũng phải vươn lên để hoàn thiện hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta tống bỏ đi những điều xấu để mặc lấy con người mới. Con người đầy ân sủng của Chúa sẽ mang về cho nhân gian niềm vui và hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho đêm giao thừa chúng ta tràn ngập tiếng cười vui và muôn lời cầu chúc tốt đẹp dành cho nhau. Amen
** 17. GIAO THỪA KỶ HỢI 2019: HÃY TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Các báo đài và facebook luôn có mục điểm lại các sự kiện quan trọng nổi bật trong năm. Những thành công, thất bại, những niềm vui, nỗi buồn như những trang sách được lật qua từng ngày. Sau những ồn ào tất bật của ngày cuối năm, bước vào những giờ phút cuối cùng của năm cũ, chúng ta có dịp đến đây để nhìn lại, lật qua những biến cố xảy ra trong cuộc đời dưới cái nhìn đức tin và để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Nhìn lại ba trăm sáu mươi lăm ngày đã qua có những lúc niềm vui ngập tràn và cũng có những lúc mây mù u ám, nhưng tất cả 365 ngày là chuỗi ngày có bàn tay Thiên Chúa dắt dìu.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai mời gọi tất cả mọi người: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô muốn nhắc chúng ta rằng, chúng ta không chỉ tạ ơn Chúa những khi vui, lúc thành công, nhưng trong mọi hoàn cảnh hãy tạ ơn. Điều đó có nghĩa là chúng ta còn phải tạ ơn Chúa cả khi buồn và khi không thành công. Xét cho cùng trong những lúc đau buồn, Chúa vẫn dùng nhiều người và nhiều cách để an ủi chúng ta; Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và nghị lực để vượt qua nỗi buồn. Cũng vậy, có nhiều khi thất bại tối tắm mặt mũi, nhưng trong những thất bại ấy, Chúa vẫn trợ giúp bằng ơn soi sáng và nhiều ơn nâng đỡ khác để giúp ta vượt qua. Chúa gìn giữ chúng ta để trong cái rủi vẫn có nhiều điều may và trong những cái mất vẫn có nhiều cái được, trong thất bại, vẫn có nhiều điều tích cực và cơ hội.
Điều quan trọng mà thánh Phaolô nhắc chúng ta tạ ơn Chúa, là vì Thiên Chúa hằng ban Thánh Thần trên chúng ta. Thánh Thần hoạt động trong chúng ta qua các ơn của Ngài: Khôn ngoan, sức mạnh, can đảm, hiểu biết, soi sáng, kính mến Chúa, vv. Hơn nữa có chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con người và tâm trí chúng ta. Ơn bình an của Chúa là ơn được ban trong tâm hồn, để khi tâm hồn bình an, chúng ta sẽ được sáng suốt để xử lý và giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Ơn bình an trong tâm hồn là hoa quả của ơn tha thứ tội lỗi mà Chính Đức Giêsu đem lại cho chúng ta qua bí tích Hòa Giải. Chính Thiên Chúa là đấng gìn giữ và ban bình an cho chúng ta qua mỗi giây phút của cuộc sống. Vì thế, nhìn lại những ngày đã qua, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Anh em hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Đó là điều Thiên Chúa muốn chúng ta thể hiện trong lúc này và suốt cuộc đời.
Tụ họp nhau nơi nhà Chúa trong giờ phút giao thừa này còn là thời khắc để chúng ta tạ lỗi với Chúa và xin Chúa chúc lành cho năm mới sắp tới. Xin lỗi Chúa vì những lần chúng ta vô ơn, bất tín với Chúa. Chúng ta đón nhận được ơn Chúa, nhưng vẫn chưa bày tỏ lòng biết ơn, trái lại nhiều khi chúng ta đã coi những thành công là do khả năng và sự khéo léo của mình. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày chúng ta đón nhận được ơn bình an và sự trợ giúp của Chúa, nhưng cả ngày sống chúng ta đã không dành lại cho Chúa một khoảng thời gian thờ phượng tạ ơn cho tương xứng. Nhìn lại trong tâm hồn, mỗi người đã nhiều lần đón nhận được ơn tha thứ và chữa lành, ơn bình an và sức mạnh và nhất là ơn cứu độ của Chúa ban cho, nhưng chúng ta vẫn chưa sử dụng ơn Chúa một cách hiệu quả, vẫn để mình bị trì kéo nghiêng chiều về điều xấu. Vậy mà Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc chúng ta trong đau khổ và sự chết, Ngài vẫn luôn ghé mắt nhìn đến chúng ta.
Ngày xưa dân Do Thái đã nhiều lần bất trung với Thiên Chúa. Có những lần Thiên Chúa đã toan bỏ mặc họ cho quân thù giày xéo, nhưng Thiên Chúa đã không nỡ bỏ con người, Ngài vẫn thương nhìn đến họ. Từ kinh nghiệm được Thiên Chúa yêu thương ngoảnh mặt lại nhìn đến dân Người mà hôm nay, ông Mose đã chúc lành cho dân chúng cùng với lời cầu xin: Xin Đức chúa thương chúc lành và gìn giữ anh em. Xin Đức Chúa tươi nét mặt mà nhìn đến và dủ lòng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em. Đó là những điều Mose cầu xin cho dân Chúa và cũng là điều Giáo Hội cầu xin cho con cái mình trong giờ phút linh thiêng này, để mọi người, mọi gia đình đều được đón nhận ơn phúc lành và sự bình an của Chúa; xin Chúa tươi nét mặt nhìn đến từng người từng gia đình. Vì, Chúa ghé mắt nhìn đến ai thì người ấy sẽ được đặt dưới sự bảo trợ của chính Thiên Chúa.
Nghe lại Tám Mối Phúc trong bầu khí của đêm giao thừa hôm nay, chúng ta cảm thấy lời nhắc nhở của Chúa dành cho chính mình. Đây chính là kim chỉ nam, là định hướng mọi dự định và toan tính cho năm mới. Có thể nhiều người cũng đã có những kế hoạch và dự định riêng cho năm mới, nhưng kế hoạch nào thì cũng cần phải đặt dưới sự hướng dẫn của các mối phúc này làm ưu tiên. Có thể nói, ai cũng mong muốn một cuộc sống sung túc, giàu sang về của cải vật chất, đó là mong ước chính đáng. Tuy nhiên, Chúa muốn chúng ta, dù giàu hay nghèo về vật chất, chúng ta vẫn phải giữ được một tinh thần nghèo khó như mối phúc đã nói. Người có tinh thần nghèo khó là người có lòng khiêm nhường trước mặt Chúa và mọi người, biết đặt trọn cuộc đời nơi Thiên Chúa, lệ thuộc vào Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa hướng dẫn từ lời nói đến việc làm và những toan tính của mình. Sống như thế sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và sẽ hạnh phúc trong cuộc sống.
Mối phúc hôm nay chúc phúc cho những người hiền lành sẽ giành được đất, nhưng không phài là đất đai, mà là Đất Hứa tức là hạnh phúc Nước trời: Phúc cho những ai hiền lành vì họ sẽ Đất Hứa làm gia nghiệp. Người hiền lành là người không để cho những tình cảm, phản ứng nóng nảy chi phối, nhưng biết cư xử và giải quyết mọi vấn đề trong tình yêu thương và bác ái. Người hiền lành sẽ bộc lộ ra cuộc sống bên ngoài cách ăn nói nhẹ nhàng dễ nghe, nói những lời hay, lời tốt đẹp, mang tính xây dựng và cách cư xử từ tốn. Người hiền lành sẽ không gieo điều xấu điều ác cho người khác, lời nói luôn chân thật cho dù cuộc sống xã hội bên ngoài vẫn đầy dẫy những dối gian xảo trá, lọc lừa.
Các mối phúc không quên nhắc đến những người đang sầu khổ cả tinh thần và mệt mỏi về thể xác, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Thiên Chúa đến là để chia sẽ thân phận đau khổ của kiếp người. Đau khổ do bệnh tật nghèo đói ngày nay là do chính con người gây ra cho nhau và đau khổ tột cùng là sự chết do ma quỷ và tội lỗi gây ra cho nhân loại. Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi đau khổ đang dằn vặt trên con người, Ngài đã đến để ở với con người, nếm trải sự yếu đuối bệnh tật, giới hạn của kiếp người. Chúa Giêsu đã dùng cái chết và sự phục sinh của Ngài để giải thoát con người khỏi đau khổ của sự chết, cho con người được sống và còn được chia sẻ vinh quang với Chúa. Chúa Giêsu đã an ủi bà góa Naim: Đừng khóc nữa; Ngài nói với ông trưởng hội đường: Ông cứ an tâm, con ông không chết đâu; Ngài nói với các môn đệ trong lúc đau khổ: Bình an cho các con; lúc các ông gặp sóng gió: Thầy đây, đừng sợ. Chúa cũng sẽ an ủi chúng ta lúc chúng ta buồn chán, đau khổ hoặc thất bại khi chúng ta đến với ngài, để cho Ngài yêu thương, an ủi vỗ về.
Tất cả các mối phúc đểu nhắc cho chúng ta biết chọn lựa cách sống và làm ăn trong năm mới theo tinh thần của Tin Mừng. Chúng ta đừng lập kế hoạch làm ăn một mình, nhưng hãy bàn bạc với Chúa, lắng nghe Chúa tư vấn. Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm như thế nào tốt nhất cho phần linh hồn, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống thường ngày. Khi dám sống và làm việc theo các mối phúc, chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc ngay tại đời này và gia nghiệp Nước trời chắc chắn sẽ được dành cho chúng ta mai sau trên Nước Trời.
Thưa quý OBACE giây phút giao thừa này là dịp để mỗi người tạ ơn Chúa vì một năm đã qua, mọi biến cố vui buồn cũng đã qua. Những gì đã qua, niềm vui nỗi buồn, cả những sai lỗi và bất toàn, chúng ta phó dâng cho lòng thương xót Chúa. Chúng ta dâng những toan tính dự định của mình trong năm mới cho Chúa, xin Chúa chúc lành và giúp chúng ta dù làm việc gì, luôn biết đặt ưu tiên tìm kiếm hạnh phúc nước trời cho mình, cho gia đình. Vì giàu có của cải vật chất, nhiều nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn mà gia đình không bằng an, không hạnh phúc, thì đó là thất bại; nhất là: lời lãi cả và thế gian mà thua thiệt mất linh hồn thì chẳng có ích gì. Mất linh hồn sẽ là mất tất cả và là thất bại lớn nhất.
Xin Chúa đón nhận tâm tình tạ ơn và tạ lỗi của chúng con trong giây phút giao thừa này và chúc lành cho năm mới sắp tới của chúng con. Amen. (Nên dành một ít phút thinh lặng).
23/01 Chúa Giêsu là ai?
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Chúa Giêsu là ai??.
Thứ Năm tuần 2 thường niên.
"Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người".
LỜI CHÚA: Mc 3, 7-12
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm.
Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người. Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chữa lành nhiều bệnh nhân
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay được coi là một bản tóm lược
những hoạt động của Đức Giêsu tại vùng phía biển hồ.
Có vẻ Ngài rút lui về vùng này không phải vì sợ bị hãm hại (Mc 3, 6),
nhưng để mở rộng phạm vi hoạt động hơn.
Như trước đây không lâu, mọi người từ vùng Giuđê và Giêrusalem
kéo tới xin chịu thanh tẩy bởi ông Gioan (Mc 1, 5),
giờ đây một đám đông lớn hơn từ khắp mọi vùng đổ xô đến với Đức Giêsu.
Có thể nói cả dân Ítraen hào hứng tụ họp bên ngài (Mc 3, 7-8).
Chưa bao giờ Đức Giêsu thành công đến thế !
Nhưng nhiều người trong đám đông khổng lồ này lại là những bệnh nhân.
Họ theo Đức Giêsu vì họ đã nghe biết những phép lạ chữa bệnh ngài làm.
Đức Giêsu xin các môn đệ chuẩn bị một chiếc thuyền
để nếu bị chen lấn quá trên bờ, ngài còn có thể xuống thuyền mà tránh đám đông.
Những bệnh nhân tin rằng mình có thể được chữa lành nhờ chạm đến Ngài.
Có những người chỉ xin chạm vào tua áo choàng của Ngài (Mc 6, 56).
Họ không chờ Đức Giêsu đến với họ.
Chính họ chủ động chen lấn để chạm đến Đức Giêsu.
Họ không cần Ngài phải làm gì hay nói gì,
họ chỉ cần chạm đến trong lòng tin là mọi bệnh tật được chữa khỏi.
Dù y khoa đã đạt được những bước tiến đáng kể,
nhưng ai có thể thống kê hết số bệnh nhân trên thế giới.
Con người hôm xưa chạy đến với Đức Giêsu để xin được chữa lành
khỏi ách nặng nề của bệnh tật thân xác và tinh thần.
Con người hôm nay cũng chạy đến với Giáo Hội để xin được chữa lành.
Mọi nhà thương, phòng khám bệnh hay phát thuốc của người Công giáo,
đều là nơi các bệnh nhân gặp được Đức Giêsu.
Nơi đây họ chạm được vào con người nhân hậu của Ngài,
và nơi đây Đức Giêsu chạm đến họ qua bàn tay của những y bác sĩ Công giáo.
Con người hôm nay nhận ra Chúa Giêsu
không nhờ sự giới thiệu của quỷ: “Ông là Con Thiên Chúa”,
nhưng nhờ sự phục vụ khiêm hạ của những lương y sống như Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách :
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này :
“Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”. Amen.
(Thánh Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Hiểu biết Chúa Giêsu
Có một giai thoại về Trang Tử như sau:
Một hôm, Trang Tử cùng đệ tử đi chơi núi, một người thợ rừng hỏi: "Tại sao cây này không dùng được?", Trang tử liền nói: "Cây này vì bất tài mà được sống lâu".
Về đến nhà, nguời thợ bắt con chim không biết gáy để làm tiệc đãi khách. Hôm sau đệ tử hỏi Trang Tử: - Hôm qua, cái cây trên núi vì bất tài mà sống, con chim hồng vì bất tài mà chết; theo Thầy, Thầy xử trí thế nào?
Trang Tử cười và nói:
- Tài và bất tài đều là quấy cả. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống.
Ðông Phương đề cao sự khôn ngoan ở đời; Tây Phương chịu ảnh hưởng Hy Lạp cũng dạy: con người lý tưởng là con người biết nhiều. Nhưng biết không chỉ là biết sự vật, mà là biết con người, và biết con người không chỉ là một nhận thức suông, mà thiết yếu là đi vào tri giao mật thiết.
Trong Tin Mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu biết như thế. Thánh Marcô trình bày cho chúng ta nhiều phản ứng hay đúng hơn nhiều nhận thức khác nhau về con người Chúa Giêsu. Trước hết là đám đông từ các nơi tìm đến với Chúa Giêsu, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng trong nhận định của Marcô, đám đông chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; đám đông chỉ thấy cái trước mắt là phép lạ, mà không đọc ra được ý nghĩa của phép lạ là dấu chỉ của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo. Nói tắt, đám đông không biết gì về Chúa Giêsu, và đây là lý do tại sao Chúa Giêsu tỏ ra dè dặt đối với đám đông, Ngài thường lẩn tránh họ. Duy chỉ có ma quỷ biết Chúa Giêsu là ai, nhưng biết đối với ma quỷ không đồng nghĩa với tri giao, mà chỉ là thù hận.
Ðặt vào đúng văn mạch, thì Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta nhiều thứ hiểu biết về Chúa Giêsu: ma quỷ biết Chúa Giêsu, nhưng biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; những người Biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người Chúa Giêsu; chỉ có Nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, biết Ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà Chúa Giêsu đang chờ đợi nơi mỗi Kitô hữu. Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Ước gì tâm tình và xác tín của Thánh Phaolô cũng thấm nhập và hướng dẫn chúng ta từng giây phút của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Khi người ta quá nhiệt tình
Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì xấp mình dưới chân Người và kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa.” (Mc. 3, 10-11)
Phúc âm Maccô như ta đã biết, có nhiều chi tiết rất ý vị, tỏ ra ngài có một con mắt tinh tường khi nhìn những sự việc bình thường. Hôm nay Maccô kể lại rằng Chúa Giêsu muốn để khỏi bị đám đông chen lấn, nên đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để Người ngồi ở đó mà giảng dạy và chữa bệnh cho dân. Maccô đã tả lại cảnh huyên náo của đám đông bằng những lời giản dị mà sắc bén: “Họ đổ xô đến để sờ vào Người”. Các thánh sử khác chỉ viết nôm na rằng: dân chúng đến với Người; trái lại thánh Maccô nhấn mạnh đến việc người ta chen lấn xô đẩy nhau mà đến.
Những thái độ này có thể giúp ta phân tích lối cư xử của chúng ta. Thực ra chúng ta có nhiệt tình đến với Đức Kitô không?
Hoảng hốt và vội vã
Ta hãy thử phân tách những lúc ta sống vội vã, để biết ta đang đồng hội đồng thuyền với ai, đang chạy theo thần tượng nào.
Chúng ta vội vã để kịp mua được món có lời, để kịp chuyến xe buýt, để mua được tấm vé đi coi tuồng, để làm qua loa cho xong công chuyện của ngày. Chúng ta hối hả đi xem cho được trận đá banh, hay đi nghỉ cuối tuần.
Điều khiến Chúa Giêsu lo lắng bồn chồn ngày nay, hẳn không phải là chuyện người ta hồ hởi đổ xô đến với Người như xưa. Chắc chắn là Người sẽ không sợ bị ngộp thở vì lòng nhiệt thành sốt sắng của các tín hữu.
Cõi lòng ngổn ngang
Không, điều khiến Chúa Kitô phải lo láng buồn phiền, có lẽ vì Người thấy chúng ta đến với Người mà lòng ngổn ngang trăm mối. Vì lo hưởng thụ, mà ta xốn xang chạy khắp đó đây để thỏa mãn cơn đói khát ấy, cả ngày chỉ bận rộn về cái gọi là “những nhu cầu của đời sống hiện đại”! Nói cho cùng, chúng ta đi tới chỗ giống như một cửa tiệm sưu tầm đồ cổ, mà trên quầy đã chất đống những món đồ. Và để quên đi cảm tưởng bị ngộp thở vì cảnh bộn bề ngổn ngang này, ta vội chạy đến vớí những cuộc “săn tìm” mới lạ khác.
Nếu Chúa Giêsu không muốn để người ta chen lấn, xô đẩy Người trong những điều kiện này, thiết tưởng cũng là chuyện thông thường thôi.
Suy Niệm 4: ĐI THEO CHÚA VÌ MỤC ĐÍCH GÌ? (Mc 3, 7-12)
Có nhiều thái độ đi theo Đức Giêsu. Có người đi theo Đức Giêsu chỉ vì hiếu kỳ; có người vì trục lợi; lại có người theo vì hiệu ứng đám đông; nhưng cũng có người theo Đức Giêsu vì lòng mến. Tuy nhiên, con số này chỉ là thiểu số, đếm trên đầu ngón tay. Còn lại đa số họ theo Ngài vì thực dụng.
Hôm nay, Bài Tin Mừng thánh Máccô thuật lại việc Đức Giêsu được đám đông lũ lượt đi theo Ngài, đến nỗi Ngài phải ngồi trên một chiếc thuyền mà giảng dạy.
Họ đến với Ngài vì nghe danh tiếng và việc làm của Ngài khá nhiều. Thấy họ, Đức Giêsu lại một lần nữa chạnh lòng thương và ra tay tế độ cho họ bằng việc chữa lành nhiều thứ bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ Ma Quỷ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Chúa để được Ngài chữa lành bệnh tật thiêng liêng và nhất là kín múc được nguồn ân sủng phong phú từ tình yêu của Ngài. Đồng thời cũng biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống của cuộc đời, chứ không chỉ thực dụng trước mắt mà thôi.
Hơn nữa, ngang qua những hành động của Đức Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi chạnh lòng thương đến người anh chị em chúng ta như chính Chúa đã chạnh lòng thương đến ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống và mục đích của cuộc đời. Xin trái tim của Chúa luôn là sự cuốn hút chúng con đến say mê, để chúng con luôn biết rung động trước sự khốn cùng của anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
22/01 Cần làm việc lành
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Cần làm việc lành.
Thứ Tư tuần 2 thường niên.
"Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"
LỜI CHÚA: Mc 3, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng.
Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Anh giơ tay ra!
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay là cao điểm của năm cuộc tranh luận
giữa Đức Giêsu với các kinh sư hay người Pharisêu (Mc 2, 1-3, 6).
Đó là các cuộc tranh luận về quyền tha tội của Đức Giêsu,
về chuyện Ngài ăn uống với người thu thuế, chuyện môn đệ không ăn chay,
chuyện môn đệ bứt lúa ngày sabát, và cuối cùng là chuyện Ngài chữa bệnh.
Trong hội đường, vào một ngày sabát, một người có bàn tay bị teo đi dự lễ.
Các người Pharisêu rình xem Đức Giêsu có chữa cho anh ấy không.
để có cớ tố cáo Ngài.
Đức Giêsu chủ động đưa âm mưu của họ ra ánh sáng.
Ngài muốn công khai h óa và chính thức hóa việc làm của mình,
bởi vậy Ngài mới nói với người bị tật rằng: “Anh hãy trỗi dậy ra giữa đây!”
Như thế mọi người trong hội đường đều thấy được anh.
Rồi Ngài đặt câu hỏi với các người đang rình rập Ngài
về điều được phép làm trong ngày sabát:
được làm điều tốt hay điều xấu, cứu sống hay giết chết?
Câu trả lời tưởng như quá rõ ràng,
nhưng ta nên nhớ rằng chữa bệnh ngày sabát bị coi như lao động.
Chỉ được chữa bệnh ngày sabát khi đó là một bệnh nguy tử.
Anh bại tay không phải là người lâm cơn bệnh nguy tử.
Nếu hoãn lại đến ngày mai mới chữa anh, thì có vẻ cũng chẳng sao.
Nhưng Đức Giêsu đã không chấp nhận sự trì hoãn này.
Đối với Ngài, làm điều tốt là chữa ngay cho anh.
Ngài không đợi anh ấy gần chết mới cứu sống.
Cứu sống là cho con người được sống hạnh phúc dồi dào hơn.
Một bàn tay héo khô, teo tóp, bại liệt,
một bàn tay đàn ông chẳng còn làm việc được, chẳng còn tự phục vụ được,
một bàn tay đã chịu tật nguyền như thế từ bao giờ,
theo Đức Giêsu, bàn tay ấy phải được chữa lành ngay khi có thể.
“Hãy giơ tay ra!”
Người ấy đã giơ tay ra và tay anh trở lại bình thường.
Giơ tay ra là điều trước kia anh mong muốn mà không làm được.
Bây giờ anh có thể giơ tay để nắm lấy một bàn tay khác,
và cảm được sự ấm áp chân thành của tình bạn.
Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường
vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để nhận, để nắm và để buông.
Trước sự thinh lặng chai đá của các kẻ chống đối,
Đức Giêsu vừa giận vừa buồn (c.5).
Ngài chấp nhận trả giá cho quyết định của mình.
Ngài đã chữa bệnh chỉ bằng một lời nói, chứ không bằng đụng chạm.
Thế nên theo Luật Môsê, Ngài vẫn không bị coi là đã vi phạm ngày sabát.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Phản ứng của Chúa Giêsu
Trong diễn văn đọc trước ngoại giao đoàn bên cạnh Toà Thánh nhân dịp Năm Mới 1996, Ðức Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tố giác các đàn áp Kitô hữu; Ngài nhận định như sau: "Người ta không thể đàn áp mãi hàng triệu tín hữu, nghi ngờ hoặc chia rẽ họ, mà những hành động đó lại không đưa đến những hậu quả tiêu cực, chẳng những đối với uy tín của các quốc gia trên trường quốc tế, mà cả trong nội bộ các xã hội liên hệ; trái lại, những mối quan hệ tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần vào sự hòa hợp mọi thành phần trong xã hội".
Vừa đàn áp, vừa kêu gọi tin tưởng, chỉ có người mù quáng mới không thấy được sự mâu thuẫn trong hành động của mình. Người mù lòa ít ra còn biết mình không thấy, nhưng kẻ mù quáng vốn có mắt, nhưng lại không nhìn thấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: "Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ". Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài không bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối, con người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để không nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ yêu thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần, tội không thể tha thứ được. Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta ghi tạc Lời Chúa để tránh khỏi men giả hình và mù quáng ấy. Xin Ngài cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm để nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta và đáp lại tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng của Chúa. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim luôn biết rung động trước nỗi đau khổ của đồng loại và đôi tay luôn biết rộng mở để săn sóc chữa trị và san sẻ trao ban cho mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Làm việc lành khi nào?
Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày sa bát không, để tố cáo Người. Đức Giêsu bảo người bại tay: “Anh chỗi dậy, ra giữa đây!” Rồi Người nói với họ: “Ngày sa bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. (Mc. 3, 1-4)
Chúa Giêsu và các người Biệt phái đã nhiều lần đối đầu với nhau về vấn đề giải thích Luật. Chúa Giêsu có một cách tiếp cận Luật một cách khá thông thoáng, còn những người Biệt phái chủ trương một sự giải thích chặt chẽ khít khao. Thực ra mỗi bên đều theo đuổi những nguyên tắc và quan điểm riêng, nên không thống nhất được một thang giá trị về công lý. Một bên thì cọi trọng những luật lệ và thực hành cũ kỹ của quá khứ, bên kia lại sẵn sàng thích ứng với hiện tại.
Một vấn đề có tính thời sự
Sự phát triển về cấu trúc lao động trong các xã hội công nghiệp đã dẫn đến một sự quá chuyên biệt và phân cách trong các ngành nghề và hoạt động khác nhau, đồng thời khiến cho những luật về lao động càng rắc rối phức tạp. Kết quả là vì muốn tôn trọng người lao động mà người ta đã phạm phải những sai lầm vô lý, tỉ dụ như trên một công trường xây dựng, người thợ điện không được phép cưa một khúc gỗ cho anh mà phải đem khúc gỗ ấy đến xưởng cưa, ông thầy dạy học không thể cung ứng cho các sinh viên một sinh hoạt ngoài giờ học; những công nhân đã bị người ta rầy la khi làm việc vì đã tỏ ra quá nhiệt tình và đã bày ra thêm một lượng công việc lớn hơn mức trung bình.
Người ta lại phải tự hỏi: khi nào phải làm việc lành? Có phải tôn trọng hay bỏ qua những luật lệ tỉ mỉ này không?
Thí dụ nêu trên về tình hình lao động khiến chúng ta phải nêu lên mấy câu hỏi. Chúa Giêsu liệu có phải giận dữ rảo mắt nhìn ta khi thấy ta đôi khi vì những luật lệ tỉ mỉ này mà làm cho lòng quảng đại khó được thực hiện chăng? Chúng ta xây dựng loại thế giới nào khi chính những con người cần cù lao động lại bị coi như làm hại cho những kẻ lười biếng? Và biết bao người trong chúng ta thường ỷ vào những quy ước, văn bản đã ký, những nỗi lo toan việc chung để thoái thác một đơn thỉnh cầu và xếp lại hồ sơ hay gọi điện thoại đẩy công việc đó cho một người khác?
Phần Chúa Giêsu, Người đã trả lời những câu hỏi này và khi thấy việc lành cần làm thì Người đã làm ngay.
Suy Niệm 4: CÓ ĐƯỢC PHÉP LÀM ĐIỀU THIỆN TRONG NGÀY SA-BÁT KHÔNG?
Khi nói đến Đức Giêsu, hẳn ai ai trong chúng ta cũng đều nghĩ ngay đến một Đức Giêsu nhân từ, hiền hậu và khiêm nhường. Mà quả thật là như vậy, bởi đã có lần Ngài nói: hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường; hay trong các cử chỉ, hành động của Ngài cũng đều toát lên bản chất đó.
Tuy nhiên, chúng ta thấy có những lúc Đức Giêsu rất cương nghị. Chẳng hạn như khi Ngài loan báo cuộc khổ nạn thì Phêrô đứng ra ngăn cản Ngài, Ngài sẵn sàng mắng Phêrô là Satan và đuổi ông xéo lại đằng sau. Hay khi Ngài lên đền thờ Giêrusalem và thấy người ta buôn bán đủ thứ trong đền thờ, Ngài đã nổi nóng và lấy giây bện thành roi đánh đuổi và lật nhào bàn ghế của họ. Tại sao vậy, thưa vì nếu những gì làm cho con người xa ơn cứu chuộc, hay làm cản trở sứ vụ cứu thế của Ngài thì Ngài không khoan nhượng. Bởi nếu khoan nhượng thì họ bị mất ơn cứu chuộc.
Hôm nay cũng vậy, Ngài tỏ ra buồn bực và mạnh mẽ lên án cách nặng nề những người đang đứng đó với Ngài bởi vì lòng họ hóa ra trai đá, cứng cỏi, nên không thể có một cái nhìn tích cực về những việc làm tốt đẹp và như một điều tất yếu, họ khó có thể đón nhận được hồng ân cứu độ vì sự kiêu ngạo đã phủ lấp tâm hồn họ.
Lời Chúa hôm nay cật vấn lương tâm mỗi chúng ta. Liệu có khi nào vì ích kỷ, ghen tương và vụ luật mà chúng ta không thể có một cái nhìn tích cực hay nhìn đúng sự việc tốt lành của anh chị em mình? Hay là chúng ta chỉ tìm cơ hội để thọc gạy bánh xe, làm cho người anh chị em chúng ta khó lòng thi hành điều tốt đẹp mà họ được thúc đẩy để làm?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết nghĩ tốt cho người khác; hay khi muốn sửa lỗi cho ai thì chính mình phải nhìn nhận bản thân cũng có những lỗi đó. Có thế, chúng ta mới trở thành môn đệ thực thụ của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
21/01 Cốt lõi của Lề Luật
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Cốt lõi của Lề Luật.
Thứ Ba tuần 2 thường niên – Thánh Anê, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.
"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".
* Anê là một thiếu nữ Rôma, mới từ mười hai đến mười lăm tuổi đã tình nguyện chết vì đức tin khi cuộc bách hại của hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô tới hồi khốc liệt nhất (năm 305).
Đó là sự việc thánh Am-rô-xi-ô đã ghi lại, và là lý do khiến Hội Thánh Rôma tưởng nhớ thánh nữ với hết tình yêu mến.
LỜI CHÚA: Mc 2, 23-28
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?"
Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?"
Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Con Người làm chủ ngày sabát
Suy niệm :
Các kitô hữu gốc Do Thái của Giáo Hội sơ khai
thường bị chê trách vì đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát.
Giữ ngày sabát là điều hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo
Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.
Câu chuyện xảy ra vào một ngày sabát.
Khi thầy trò băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa.
Và hẳn họ đã vò lúa trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong.
Theo sách Đệ nhị luật (23, 26) thì hành động này được phép làm :
“Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.”
Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát,
lý do là vì bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa,
mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát.
Từ đó người Pharisêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê.
Ngày nay chúng ta có thể buồn cười về chuyện này,
nhưng nó nói lên việc các kinh sư vì sợ người ta phạm luật
nên sau này đã thêm thắt những quy định tỉ mỉ chi li.
Đức Giêsu đã trả lời người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít.
Trong truyền thống Do Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực.
Đavít đã làm điều không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6).
Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9).
Vào mỗi ngày sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng
nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh
thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó
cũng có thể được miễn giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).
Theo Đức Giêsu, ngày sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại.
Người Pharisêu có lẽ đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát.
Thiên Chúa lập nên ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi
hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15).
Ngày sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa,
nhưng nó cũng là ngày cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.
Ngày nay chúng ta không còn giữ ngày sabát nữa,
nhưng giữ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa.
Cám ơn vị nào đã lần đầu tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần.
Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở
về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.
Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy.
Cầu nguyện :
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Amen.
(R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Linh hồn của Lề Luật
Nói về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: "Luật pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.
Vào thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.
Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu; không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại, tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật lệ bất công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành năm 1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.
Là một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân, tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ, đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ lề luật, đó là tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Thiên Chúa phục vụ con người
Vào ngày sa bát Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Các môn đệ Người bắt đầu bứt lúa trong khi đi đường. Nhưng người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giêsu: “Ông coi ngày sa bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!”
Đức Giêsu nói: “Ngày sa bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa bát. Bởi đó con người làm chủ luôn ngày sa bát. (Mc. 2, 23-24. 27-28)
Điều khiến ta ngạc nhiên nhất khi đọc trích đoạn Phúc âm này không phải là việc Chúa Giêsu đặt mình ở trên luật về ngày sa-bát hay là muốn cho truyền thống mang một sắc thái khác, mà đúng hơn là việc Người tỏ cho ta biết rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người.
Ngày sa-bát, ngày của Thiên Chúa
Khi viết tường thuật về việc Chúa tạo dựng trời đất muôn vật, các tác giả theo truyền thống tư tế đã xếp đặt cho công việc tạo dựng này được hoàn tất trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy Chúa nghỉ ngơi: đó là ngàyThiên Chúa dành cho chính mình. Vì thế, “ngày-của-chúa” đó, dân chúng phải sống và làm việc vì Chúa, cho Chúa, và ngày đó vì thế đã trở thành ngày dành cho việc phụng thờ.Cho nên các linh mục là những người phải lo viêc Đền thờ, có giảng giải và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giữ ngày chúa nhật như kiêng việc xác, đi lễ đọc kinh, làm việc đạo đức và từ thiện….thì cũng là điều dễ hiểu và bình thường thôi.
Vậy mà Chúa Giêsu lại nói: “Cái ngày mà anh em coi như thuộc về Thiên Chúa, ngày ấy lại được làm ra vì anh em”. Có nghía là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã hướng cuộc sống, sự hiện hữu của mình vì con người.
Một Thiên Chúa phục vụ
Thiên Chúa phục vụ con người, đây không phải là một mạc khải mới mẻ. Tất cả lịch sử của dân được tuyển chọn đều kể lại cho ta hay Đức Giavê đã sẵn sàng phục vụ như thế nào: đem họ ra khỏi Ai cập, đưa họ từ chốn lưu đầy trở về, lập vương quốc cho Đavít… Cả khi họ hối lỗi trở về, thì Chúa vẫn sẵn sàng thứ tha. Vừa thoáng có dấu hiệu của sự hối cải, trở về là Chúa hoan hỉ, và quên đi ngay những đe dọa trừng phạt.
Và đấy chính là điều Chúa muốn khẳng dịnh lại khi nói rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người. Tất cả những gì liên quan tới Chúa, thì Người đã ràng buộc nó vào vận mệnh của chúng ta. Thiên Chúa đã hạ mình phục vụ ta, để ta cũng theo gương Người mà phục người khác như vậy.
Mạc khải này đưa chúng ta đến câu hỏi sau đây: Ta có đi đúng đường khi giữ cũng như bảo người khác giữ ngày của Chúa? Phải chăng ta chỉ nhắc lại suông bằng lời mà không thực hành bằng việc, mạc khải Chúa đã tỏ cho ta là Thiên Chúa phục vụ con người? Phục vụ tha nhân, há chẳng phải là nét cao cả, là điểm nổi bật trong đời sống Kitô hữu, và là con dường hay nhất giúp ta đến và sống với tha nhân sao?
Thiên Chúa phục vụ! Thiên-Chúa-vì-con-người!
Ai đón nhận Tin Mừng này sẽ không còn phải sợ mình không thuộc về Chúa vậy.
Suy Niệm 4: TRẢ LẠI CHO LUẬT Ý NGHĨA CỦA NÓ! (Mc 2, 23-28)
Luật ngày Sabát chính là luật quan trọng của người Dothái. Tuy nhiên, vì luật này, mà đã biết bao nhiêu lần giữa Đức Giêsu và người Pharisêu xảy ra tranh cãi, bởi lẽ với Đức Giêsu thì coi luật vì con người, còn với kẻ chống đối Ngài thì cho rằng con người nên công chính vì luật.
Thật vậy, Đức Giêsu không phải là người đến để bãi bỏ lề luật, Ngài đến để kiện toàn. Tuy nhiên, Ngài nhìn và coi luật là thứ yếu, nó chỉ nắm vai trò phục vụ con người, vì vậy, nó không phải là tất cả và mang tính sống còn! Nếu luật đưa ra mà không làm cho con người có giá trị nhân linh trước mặt Chúa và sống tốt với nhau hơn hay không đem lại bình an, hạnh phúc cho người thi hành thì luật đó phải được thay thế.
Việc trung thành giữ luật ngày Sabát mà khiến lòng con người ra trai cứng, dửng dưng trước sự đói khát, khổ sở, hay ốm đau, chết chóc thì hoàn toàn không phù hợp với tinh thần cũng như mục đích nguyên thủy của luật. Không thể hoàn toàn dựa trên luật để đánh giá đồng đều lòng đạo đức của mọi người. Cần phải áp dụng theo từng người, trong những hoàn cảnh nhất định. Vì thế: “Ngày Sabát được tạo ra vì con người, chứ không phải con người cho ngày Sabat” (Mc 2, 27).
Ngày nay, qua lối thực hành đạo của chúng ta, vẫn còn đó những người luôn coi việc giữ luật cách nghiêm ngặt, cứng ngắc là điều nên làm và họ luôn coi đây là chuẩn mực để được coi là đạo đức! Tuy nhiên, khi trở về với những lời giáo huấn và tinh thần của Đức Giêsu, nhất là những việc Ngài làm, thì hẳn chúng ta phải xem lại!
Liệu rằng khi chúng ta làm việc thiện rồi để khoe khoang; hay là nhân danh đạo đức để xử sự bất nhân với anh chị em mình; hoặc tự cho mình là người giữ luật cách trung thành, nhưng lại coi thường, khinh bỉ hay luôn cho mình là người mẫu lý tưởng bắt mọi người phải quy phục thì liệu có phù hợp với giáo huấn của Chúa và cốt lõi của Luật không??? Hay chúng ta đang bị chất tố Pharisêu chỉ đạo lối nhìn và quan điểm để rồi mình trở thành bản sao của nhóm người giả hình thời hiện đại?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết giữ luật vì lòng mến; đồng thời luôn biết yêu thương anh chị em mình bằng một tình yêu chân thành, thiết thực dựa trên đức ái. Amen.
Ngọc Biển SSP
20/01 Cốt lõi của đạo chính là tình thương
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Cốt lõi của đạo chính là tình thương.
Thứ Hai tuần 2 thường niên.
"Tân lang còn ở với họ".
LỜI CHÚA: Mc 2, 18-22
Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?"
Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay.
Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chàng rể còn ở với
Suy niệm:
Một trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu
là sự khắc khổ nhiệm nhặt.
Gioan được coi là người “không ăn bánh, không uống rượu” (Lc 7, 33).
còn Đức Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7, 34).
Chúng ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông Lêvi hay ông Dakêu.
Các người Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần,
dù ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội.
Như thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu
với môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của người Pharisêu.
Một bên có vẻ thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt.
“Tại sao môn đệ của ông lại không ăn chay ?”
Có người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế.
Ngài đã trả lời bằng một cách dùng một hình ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa.
Vào thời Đức Giêsu, tại Paléttin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay,
đám cưới là một biến cố mừng vui có tính làng xã.
Chẳng thể nào hiểu được chuyện một người đi ăn cưới
với khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay.
“Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay,
khi chàng rể còn ở với họ”
Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ thành hôn
bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi.
Đức Giêsu, Đấng Mêsia dân Ítraen mong đợi từ lâu, nay có mặt.
Ngài là chàng rể kết duyên với cô dâu là dân tộc Ítraen của ngài.
Đức Giêsu đã làm trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước
về việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is 62, 4-5).
“Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay.”
Sau khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và lên trời,
Giáo hội bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chờ đợi ngài quang lâm.
Trong giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện,
Các Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo Chúa Giêsu,
dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Cốt lõi của đạo
Trong những thập niên gần đây, mặc dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và chính trị lại càng đậm nét hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như chấm dứt, nhưng chiến tranh tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa những người khác tôn giáo với nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn vào thảm cảnh ấy, ai cũng thắc mắc tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những người có tôn giáo lại nhân danh tôn giáo của mình để gây chiến với người khác hay với chính những người đồng đạo của mình?
Câu trả lời thật đơn giản: sở dĩ người có tôn giáo có thái độ quá khích và bất khoan nhượng, là vì họ chưa sống đúng cái cốt lõi của đạo. Xét cho cùng, cái cốt lõi của tôn giáo nào cũng là tình thương.
Chúa Giêsu cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề, đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.
Suốt cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.
Chiêm ngắm thái độ của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Trong cuộc sống đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng cách? Ngày Chúa nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay không? Thật ra còn có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không thể không đặt ra để tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái chưa? Tôi có yêu thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của người xung quanh tôi có phải là một tội không?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu thương, rằng cốt lõi của Kitô giáo chính là tình thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Thời gian nghỉ lễ
“Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông không ăn chay?” Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.” (Mc. 2, 18b-19)
Trích đoạn Phúc âm này ghép hai mẩu chuyện có vẻ như không ăn ý với nhau: cuộc tranh biện về sự ăn chay và lời kêu gọi canh tân nội tâm. Nhưng thực ra lại có sự hòa hợp rất chặt chẽ. Thời đại cứu độ của Chúa Giêsu mang lại niềm vui. Thời đại này hoàn toàn mới, không thể đi đôi với trật tự cũ thuộc quá khứ. Những thực hành cũ kỹ của Đạo Do thái phải nhường bước cho Tin Mừng đi lên. Chúng ta sẽ đọc hai mẩu chuyện này từ góc độ của việc mừng ngày lễ.
Mừng lễ chính là nhìn lại quá khứ
Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, La Fête des Fous, thần học gia Harvey Cox đã phân tích mối liên hệ của con người với cuộc lễ. Trong cuộc lễ, ông nói, con người tổng hợp quá khứ và loan báo tương lai của mình. Trong một tiệc cưới, người ta làm gì, nếu không phải là gom góp lại cái quá khứ yêu đương của cặp trai gái và rọi chiếu nó vào trong tương lai? Chính bởi vì người ta đã yêu thương nhau và muốn yêu nhau nữa, nên mới dừng lại trong lúc này để nói lên câu “Ta yêu nhau”
Tác giả nói thêm: Cái quá khứ mà người ta tìm lại được trong cuộc lễ đó, đã đưọc gạn lọc, biến đổi và làm cho nên đẹp. Còn lại chỉ là những giờ phút hạnh phúc và dẽ dàng. Chính từ đó mà buôỉ lễ tiệc mới có được vẻ vui chơi nhộn nhịp để người ta ăn uống vui đùa và ca hát.
Cũng là để cho người ta sẵn sàng thăng tiến
Chiều hướng thư hai của buổi lễ là dự phóng cho một tương lai mang nhiều hy vọng. Trong mọi cuộc lễ đều có một ý hưóng làm mới lại. Trong hôn lễ, đôi uyên ương muốn làm mới lại tình yêu thuở ban đầu của họ, muốn lấy lại nghị lực. Cuộc lễ như cung cấp cho người ta một thứ rượu mới.
Rượu mới cần phải đựng trong những bầu da mới mà Chúa Giêsu nói đến trong phần hai của trích đoạn Phúc âm này, mời gọi ta phải trở nên những con người mới để sẵn sàng đi vào tương lai.
Còn những bầu da cũ ám chỉ những con người mà đối với họ ngày lễ lại rất ảm đạm, chỉ khơi lại trong lòng họ những nỗi buồn nhỏ lệ. Họ không thể thấy hạnh phúc mà không đau lòng. Họ không chịu đựng được thứ rượu mới, thứ rượu mang niềm hy vọng cho những ngày mai tốt đẹp. Đúng ra những con người này đã đánh mất ý thức về tương lai.
Tóm lại, điều Chúa đòi hỏi chúng ta hôm nay là chúng ta có còn khả năng mừng lễ không? Chúng ta có thể tìm ôn lại dĩ vãng, cái cũ để rút ra cái mới hầu thăng tiến con người ta không? Nếu có, là chúng ta đã đang đi trên con đường dẫn ta vào dự tiệc Nước Trời rồi đó.
Suy Niệm 4: BÊN TRONG THÌ GIÁ TRỊ HƠN BỀ NGOÀI (Mc 2, 18-22)
Đã rất nhiều lần người Pharisêu dùng biện pháp “nhất tiễn diệt song điêu” để gài bẫy Đức Giêsu. Hôm nay, cũng chiêu thức ấy, họ tìm cách đưa cả thầy lẫn trò vào chòng khi cất tiếng hỏi Đức Giêsu: “Tại sao môn đệ của ông Gioan và người Pharisêu ăn chay, trong khi đó muôn đệ của ông lại không ăn chay?”.
Họ hỏi Đức Giêsu về lý do tại sao các môn đệ của Ngài không ăn chay, nhưng thực ra họ đang tìm cách trách móc Đức Giêsu! Nếu Đức Giêsu trả lời các môn đệ không cần ăn chay, thì vô hình chung Ngài chống luật Môsê; còn nếu Đức Giêsu thuận theo và yêu cầu các môn đệ ăn chay theo ý của những người Pharisêu, thì quả thực, Ngài đang phủ nhận sự hiện diện của mình, bởi tất cả mọi điều mà dân Israel mong đợi, thì nay Ngài đến, Ngài đang là hiện thân của niềm hy vọng đó. Vậy ăn chay là để mong đợi, nay điều mong đợi đó đã đến, thì không có lý do gì phải ăn chay nữa!
Biết được ý đồ thâm độc của họ, nên Đức Giêsu đã lấy một ví dụ qua hình ảnh vải mới vá vào áo cũ và rượu mới đổ bầu da cũ để thấy được điều nghịch lý nơi câu hỏi của nhóm người Pharisêu. Đây cũng chính là câu trả lời gián tiếp đầy khôn khéo, khiến họ không thể bắt bẻ được Ngài điều gì!
Trong cuộc sống thực tế, có khi chúng ta cũng chẳng khác gì những người Pharisêu khi xưa!
Nhiều khi đọc kinh rất nhiều, nhưng bảo tha thứ cho người làm phiền chúng ta thì không bao giờ! Hay đi lễ thường xuyên, nhưng có khi anh chị em cần đến sự giúp đỡ thì lại là điều xa vời với ta!
Hoặc cũng có những người tham gia hội đoàn này hội đoàn kia chỉ để chỉ trích và bới bèo ra bọ mà không hề thay đổi lối sống cho tốt hơn!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy chú tâm đến nội dung bên trong hơn là những chuyện bề ngoài. Đừng vì những điều phụ thuộc mà đánh mất đi giá trị của nội dung.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con biết chú trọng đến lối sống đạo hơn là hình thức. Một trái tim biết yêu thương thực sự thay cho hình thức giả tạo trên đầu môi chóp lưỡi. Amen.
Ngọc Biển SSP
- 19/01 Chiên Thiên Chúa xoá tội trần gian
- 18/01 Thày thuốc cho người đau yếu
- 17/01 Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác
- 16/01 Chữa người phong cùi
- 15/01 Công việc của Chúa Giêsu
- 14/01 Công việc của Chúa Giêsu
- 13/01 Sám hối và tin yêu
- 12/01 Con yêu dấu -- đẹp lòng Ta
- 11/01 Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại
- 10/01 Chữa một người phung cùi