Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
08/12 Mau mau sám hối
- Viết bởi Mt 3, 1-12
Mau mau sám hối.
Chúa Nhật tuần 2 Mùa Vọng năm A.
"Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến".
Lời Chúa: Mt 3, 1-12
Ngày ấy, Gioan Tẩy Giả đến giảng trong hoang địa xứ Giuđêa rằng: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: "Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Bởi vì chính Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng.
Bấy giờ dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan.
Thấy có một số đông người biệt phái và văn nhân cũng đến xin chịu phép rửa, thì Gioan bảo rằng: "Hỡi nòi rắn độc, ai bảo các ngươi trốn lánh cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối. Chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng ta là Abraham.
Vì ta bảo cho các ngươi hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa.
Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi được lòng sám hối; còn Đấng sẽ đến sau tôi có quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách giày Người. Chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG A
Lời Chúa: Is 11,1-10; Rm 15,4-9; Mt 3,1-12
1. “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến” - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Việc rao giảng của Gioan Tẩy giả, của Chúa Giêsu và các tông đồ đều khởi đầu bằng câu: “Hãy ăn năn trở lại vì nước trời đã đến gần (Mt. 4, 17; 10, 7; Cv. 2, 38). Đây là việc khẩn trương, không thực hiện thì sẽ diệt vong. Khi nghe những lời hô hào của các nhà bác học về cứu thế giới khỏi ô nhiễm môi trường, khởi tệ nạn ma túy và dịch bệnh sida, thì ai cũng lo thực hiện những phương pháp đề phòng, trừ hạng cố chấp liều mạng lao đầu vào chốn tử thần. Lời hô hào của Gioan mang tính chất cứu nguy cho cả thế giới hôm qua, hôm nay và mãi mãi, nếu muốn sống trong nước Trời.
I- Nước Trời là gì cho con người được sống?
Nếu thế giới vật chất muốn tồn tại cần có thiên nhiên nguyên thủy trong lành như Thiên Chúa đã dựng nên nó, thì thế giới loài người muốn trường tồn bất tử còn cần hơn nữa một nước trời như Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa đã muốn một nước trời lạ lùng mà tiên tri Isaia chỉ có thể mô tả bằng những hình ảnh kỳ diệu trong bài đọc một:
1- Về Đấng cai quản nước trời: đó là Đấng thần trí Chúa, thần trí khôn ngoan, minh mẫn, thấu hiểu, anh dũng, sáng suốt, sùng tín và sủng ái của Thiên Chúa. Công việc của Ngài là xét xử công minh nhân từ cho người thấp cổ bé miệng, phán quyết vô tư, bênh kẻ nghèo. Lời Ngài như gậy đập tan bọn cường hào, hơi thở Ngài giết chết phường gian ác (Isaia). Ngài là nguồn kiên nhẫn, an ủi và đầy lòng thương xót. Ngài đến phục vụ Do-thái và các dân ngoại (Phaolô).
2- Về dân trong nước trời là ai? đó là tất cả các dân tộc: Do thái cũng như dân ngoại. Họ là những người ăn năn trở lại, được rửa bằng Thánh thần và lửa. Họ được sống trong triều đại đua nở hoa công lý và thái bình thịnh vượng trong hạnh phúc, như beo sống với dê con, bò ăn chung với sư tử và gấu.
II- Điều kiện sống trong nước trời vinh phúc là ăn năn trở lại.
Ăn năn trở lại hay sám hối trở về là từ bỏ tình trạng tội lỗi trở về sống ơn cứu độ, từ bỏ lối sống xa Chúa, về sống với Chúa (Os. 14, 2; Ger. 3, 14), như thế ăn năn trở về là biến đổi sâu xa của hai trạng thái tâm lý: đổi mới não trạng và đổi mới nội tâm do Thần trí Đức Kitô tác động.
a/ Đổi mới não trạng nhờ trí khôn nhận ra và hối tiếc về tội mình (metanoia: repentir). Đây là công việc của trí khôn luôn luôn xét mình, kiểm tra cuộc sống mình đối chiếu với lời Chúa, luật Chúa. Sự ăn năn sám hối được thể hiện qua nhân vật điển hình: người thâu thuế. Khi nhận ra lầm lỗi của mình, ông đã khiêm tốn đấm ngực ăn năn, cúi mặt xuống đất, nhận mình tội lỗi và cũng không dám xin tha. Não trạng ông đã đổi mới vì hoàn toàn nhận ra mình khốn nạn trước mặt Chúa. Trái lại, người biệt phái không thấy tội lỗi mình, chỉ thấy mình đầy công đức, đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên khen mình và chê trách người thu thuế.
b/ Đổi mới nội tâm nhờ ý chí quyết tâm trở về nguồn gốc vinh quang của mình (epistrephein: revenir), mình đã bỏ nguồn gốc ra đi, cuộc đời lang thang bơ vơ, trụy lạc, chỉ gặp những khốn cùng “cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. Đó là thứ con thiêu thân, như đứa con hoang đàng: ôm hết của cha đi ăn chơi trác táng, gặp nạn đói cùng khốn khó mới nhận ra mình xúc phạm đến cha hiền. May thay, anh đã kịp thời ăn năn khóc lóc hối cải, chỗi dậy tiến về nhà cha, nguồn gốc tổ ấm chan hòa tình thương vui mừng hạnh phúc chân thật. Phaolô cũng nhận ra tình thương vô biên đó, đã trở lại và đã mạnh mẽ tuyên bố trước vua Agripa “Tôi đi rao giảng kêu gọi chư dân sám hối và trở về cùng Thiên Chúa” (Cv. 2 6, 20). Đó là nước Trời thật.
2. Suy niệm của Huệ Minh
HÃY SÁM HỐI VÀ NHỎ BÉ NHƯ GIOAN ĐỂ ĐÓN CHÚA
Mùa vọng là mùa trông đợi. Chúng ta trông đợi Chúa đến trong đêm giáng sinh. Đó là một sự trông đợi có tính cách nghi lễ nhằm kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu tại Bêlem. Nhưng đồng thời mùa vọng còn là trông đợi Chúa lại đến vào ngày sau hết như lời Ngài đã hứa. Và lời rao giảng của Gioan được coi như là một lời kêu mời chúng ta tích cực chuẩn bị để bước vào thời đại mới ấy.
Trước hết ông đã rao giảng sự ăn năn hối cải vì Nước Trời đã gần đến. Những hình ảnh ông sử dụng gợi lên một cảnh tượng tiêu điều của sa mạc cát nóng, của hoang địa khô chồi cằn cỗi. Thế nhưng, người Do Thái và nhất là giai cấp lãnh đạo đã coi thường lời kêu gọi ấy. Họ nghĩ rằng mình là dân riêng của Chúa, nhưng thực ra họ chỉ là một loài rắn độc. Con rắn của ma quỷ, đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Gioan đòi buộc họ phải sám hối ăn năn, đừng nại vào dòng dõi xác thịt. Dân riêng của Chúa trong thời đại mới được tạo nên nhờ sám hối khi lãnh nận dòng nước thanh tẩy.
Sám hối là lo buồn về điều đã vấp phạm hay hối hận vì điều mình đã không làm. Thực vậy, tâm tình sám hối không phải chỉ là việc quay trở về dĩ vãng, bằng cách ăn năn những gì đã lỗi phạm, mà hơn thế nữa còn phải hướng tới tương lai, bằng cách dốc quyết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi vấp phạm ấy, để thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời. Và như vậy, sám hối đòi hỏi phải có một cái nhìn mới, một thái độ mới, một cuộc sống mới, và cốt lõi của nó bao gồm sự trở về cùng Chúa.
Trong cuộc sống thường ngày, rất nhiều lần chúng ta đã không thực hiện những điều làm vui lòng Chúa chẳng hạn như: cầu nguyện, học hỏi giáo lý, cảm thông và giúp đỡ những người chung quanh. Trái lại, chúng ta thường hay làm những điều Chúa không muốn, và chẳng bao giờ làm điều Chúa muốn cả.
Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…
Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.
Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm
Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”. Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua những việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình.
Trong phần thứ hai của trang Tin Mừng, Gioan giới thiệu Đấng đến sau ông nhưng lại quan trọng hơn ông gấp bội. Gioan tự nhận không xứng đáng làm một kẻ nô lệ hèn hạ nhất của Ngài.
Những câu hỏi đặt ra cho ông Gioan cho ta thấy dân Do thái đang chờ đợi Đấng Kitô đến trong tương lai rất gần. Nhưng với tất cả các câu hỏi: “ông có phải là Đấng Kitô?”, “ông có phải là Êlia?” “ông có phải là một vị ngôn sứ?”, Gioan Tẩy Giả đều trả lời bằng một phủ định: “không”. Khi được yêu cầu nói về chính mình, ông chỉ nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” (Ga 1, 23)
Gioan Tẩy Giả chính là người kêu gọi dân hãy thay đổi cách sống cũ, hãy đón nhận phép rửa thống hối và sẵn sàng đón nhận Đấng Messia đang sống một cách kín đáo giữa họ: « có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.» (Ga 1, 26-27)
Gioan Tẩy Giả chính là vị nhân chứng khiêm nhường, trung thực, không kheo khoang, khoác loác. Ông đã từ bỏ tất cả những danh hoa phú quí để trở nên tiếng kêu trong sa mạc, để trở nên người mở đường cho Con Thiên Chúa đến.
Gioan sống đẹp khi được dân chúng ngưỡng mộ, xem mình như một ngôn sứ cao cả, thì Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cởi quai dép cho (Ga 1, 27), để cho đám đông thôi ngưỡng mộ Gioan mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giê-su.
Thánh Gioan làm cho mình nhỏ bé lại, để cho Chúa lớn cao hơn. Thánh Gioan thực hiện khi nói: tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên. Nghĩa là Gioan phải bỏ mình, phải chịu thiệt thòi, để Chúa được vinh danh hơn. Gioan đã vui lòng mất hai môn đệ, để Anrê và Gioan theo Chúa.
Noi theo và sống gương của Thánh Gioan Tẩy Giả, ta hãy trở nên những ngôn sứ cho thời đại hôm nay, hãy là người dọn đường khiêm hạ cho nhiều người đến gặp Chúa. Ước mong mỗi người chúng ta biết mở rộng lòng để đón nhận niềm vui và trở nên những chứng nhân của niềm vui, của niềm hy vọng về Đấng sẽ đến trong vinh quang. Hãy vui lên vì Chúa sắp đến gần!
3. Sám hối
Tất cả các lời kinh và các bài đọc của thánh lễ hôm nay đều nói lên tâm tình chuẩn bị đón Chúa cứu thế. Chuẩn bị cách nào thì Phúc Âm trả lời rõ ràng.
Qua bài Phúc Âm ta thấy thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu với ta một cách chuẩn bị tốt nhất mà chính ngài đã rao giảng. Cách chuẩn bị đó là ăn năn sám hối. Ai cũng hiểu ăn năn sám hối là gì. Đó là vấn đề quen, nhưng thực hiện vấn đề quen chưa chắc đã là quen. Vì thế tôi xin chia sẻ vài nhận xét vắn tắt của tôi mong góp phần giúp thực hiện sự ăn năn sám hối một cách chu đáo hơn.
Nhận xét thứ nhất của tôi là khi ăn năn sám hối, ta thường rất chú trọng đến việc nhìn vào chính mình. Đó là việc làm đúng. Nhưng trong tôn giáo của ta, nếu quá nhấn mạnh đến việc nhìn vào chính mình thì sự ăn năn sám hối sẽ rất thiếu sót. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối rất cần nhìn lên Chúa, rất cần gặp gỡ Chúa. Thánh Gioan Tẩy giả chỉ vào Đức Kitô mà nói: Đây Chiên Thiên Chúa. Với lời đó, thánh Gioan Tẩy giả muốn ta nhìn vào Chúa Giêsu, lấy đức tin gặp gỡ Chúa Giêsu, xin Chúa thương xót, ban ơn giúp ta thấy được sự xấu xa độc hại của tội lỗi, giúp ta biết gớm ghét tội lỗi, giúp ta biết chọn lựa đàng lành.
Nhận xét thứ hai của tôi là khi ăn năn sám hối ta thường rất chú trọng đến những bổn phận đối với Chúa, như đi lễ, đọc kinh tin cậy mến, đó là việc làm đúng. Nhưng trong tôn giáo của ta, nếu hầu như chỉ chú trọng đến việc đó, thì ăn năn sám hối rất thiếu sót. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối, rất cần nghĩ tới những bổn phận đối với gia đình, bạn bè, đồng bào, xã hội, tổ quốc, cứ xem lại những lời thánh Gioan Tẩy giả trả lời từng giới người đến hỏi ý kiến ngài, ta sẽ thấy ngài luôn khuyên mọi người giữ đức công bằng. Đừng làm hại đồng bào, dù là của cải, dù là tính mạng, dù là thanh danh, dù là thời giờ. Hơn nữa, hãy đối xử tốt theo đức công bằng với mọi người mình có liên hệ.
Nhận xét thứ ba của tôi là khi ăn năn sám hối, ta thường rất chú trọng đến “tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”, đó là việc làm đúng nhưng trong tôn giáo của ta, nếu hầu như chỉ chú trọng đến những sự đó, thì việc ăn năn sám hối vẫn còn thiếu sót lắm. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối còn cần để ý đến những nguồn, người gốc, đã gây nên những tội tư tưởng, tội lời nói, tội việc làm, và tội do thiếu sót. Một trong những nguồn gốc đó là tính hư nết xấu. Thánh Gioan Tẩy giả đã nói tới những núi đồi cần phải bạt đi, những con đường cong queo đều phải uốn ngay lại. Tôi hiểu ngài cố ý nói về tính hư nết xấu tự nó chưa phải là tội, nhưng nó là đầu mối đưa tới tội lỗi. Tính hư nết xấu, chẳng hạn như tính tự cao tự đại, tính tham lam, tính nhỏ nhen. Đó là những cong queo, đó là những đồi núi cần phải sửa lại.
4. Hãy thống hối, vì nước trời gần đến
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion ... (Này hỡi Dân Sion…) Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy... " (Ca nhập lễ) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Khơi dậy trong ta một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn đón chờ Chúa đến.
Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: "Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống… Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở... " (x. Is 11, 1-10).
Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, từ trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân Do Thái sám hối. Lời giảng tuy nghiêm nghị nhưng thu hút nhiều người. Gioan đã xuất hiện với những người đương thời như là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Rất ít người nhận ra nhiệm vụ đích thực của ông là để " dọn đường cho Chúa", loan báo Chúa đến.
Gioan xuất hiện như Tiếng kêu trong hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Ông không kêu gọi người ta trở nên nhà khổ tu giống như ông. Ông rao giảng rằng: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến ... chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng tôi là Abraham. Vì ta bảo cho các người hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa." Kết quả là: "Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan." Lời của Gioan vẫn vang dội qua các thời đại và như một sứ điệp cấp bách gửi đến với chúng ta ngày hôm nay.
Gioan Tiền Hô lớn tiếng kêu gọi: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Mùa Vọng năm nay, chúng ta đang sống như thế nào, nếu không phải là chuẩn bị tâm hồn, giục lòng tin, cử hành Phụng vụ cho sốt sáng để lãnh nhận Ân Sũng mà Chúa Kitô đã mang đến trong thế gian cho mọi người hưởng nhờ. Trong năm vừa qua, chúng ta đã đi trọn con đường đặc biệt cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót. Giờ đây, có thể nói là bốn tuần của Mùa Vọng là như "tiền đường" để bước tiếp vào những ngày thánh. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần bằng lời cầu nguyện, ngõ hầu Mùa Giáng Sinh sắp đến gặp thấy chúng ta sẳn sàng tiếp đón Ðấng Cứu Thế ngự đến!
"Hãy ăn năn thống hối". Ðể gặp được Ðấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.
"Vì nước trời gần đến". Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.
Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Trích "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng ", § 39, 1-3.
Chúng ta hãy đặt vào tay Mẹ Maria Nữ Vương của niềm hy vọng mọi ước muốn tốt lành của chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Cầu chúc cộng đoàn chúng ta thăng tiến luôn mãi với ơn Chúa. Amen.
5. Hoa trái cuộc đời
Qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã đưa ra một tương lai tốt đẹp, ở đó chỉ có hòa bình và yêu thương, ở đó chỉ có hạnh phúc tinh ròng, không hề bị mây đen che phủ. Người ta sẽ không còn lo sợ chiến tranh và tiền bạc sẽ được dùng để xoa dịu những khổ đau và bất hạnh. Thế nhưng phải chăng đó chỉ là một giấc mơ?
Đúng, đó chỉ là một giấc mơ, nhưng giấc mơ ấy phải biến thành sự thật, nếu như mọi người đều nhận biết Đức Kitô, đều thực thi giới luật yêu thương của Ngài, đều coi nhau như anh em một nhà. Niềm hạnh phúc ấy không phải là một quà tặng được trao banm nhưng là một công trình mà mỗi người chúng ta phải ra sức góp phần, phải cố gắng xây dựng. Thiên đàng chỉ được hứa cho những người tận tâm phục vụ Chúa và anh em.
Chúng ta không phải là những cây khô héo và cằn cỗi, bởi vì như lời thánh Gioan tilền hô đã cảnh cáo: cây nào không đâm bông kết trái sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Và rồi Gioan đã kết luận bằng những lời ld thật nghiêm khắc:
- “Đấng đến sau tôi nhưng lại quyền năng hơn tôi. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Chính đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Ngài, rồi Ngài sẽ thu lúa vào kho còn rơm thì đốt trong lửa không hề tắt.
Chúng ta đã được loan báo, nên chúng ta không thể đến cùng Chúa với đôi bàn tay trống rỗng, nhung phải đến cùng Chúa với đôi bàn tay chất đầy công nghiệp. Vậy chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa hãy tôn vinh Chúa bằng chính những hành động bác ái yêu thương của mình. Hãy giúp đỡ những người có thiện cảm cũng như những kẻ đầy ác cảm với chúng ta, cùng chia sẻ những ước mơ, những sở thích với chúng ta hay không, như lời thánh Phaolô đã yêu cầu: Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chú đã tiếp rước anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.
Để kết luận, tôi xin đưa ra một vài mẫu gương, như những chứng từ sống đông giữa lòng cuộc đời, để chúng ta bắt chước. Mẫu gương thứ nhất về cha Thelliler de Poncheville. Ngài là một nhà giảng thuyết nổi tiếng, nhưng lại giàu lòng bác ái yêu thương. Ngày kia khi nghe biết có một người đàn bà tội lỗi bị đau nặng tại nhà thương, ngài liền mua một chiếc quạt, đem đến biếu và thăm hỏi. Ngài nói với bà ấy:
- Tôi tới đây thăm bà vì tôi yêu thương linh hồn bà.
Người đàn bà thực sự cảm động và nói:
- Thưa cha, nhiều người cũng đã đến thăm con và nói rằng yêu thương con, nhưng Lời Chúa và chiếc quạt này đã mang lại cho con một ý nghĩa khác.
Tình thương của cha đã làm cho tâm hồn bà tìm về cùng Chúa, trong khi đó, sự khinh bỉ đã đảy bà tới chỗ oán hận và tuyệt vọng.
Mẫu gương thứ hai về thánh Gioan Cottolengô. Ngài là một người đã hiến trọn cả cuộc đời để chăm sóc những người đau yếu, điên khùng và bất hạnh. Ngài tận tình giúp đỡ họ bằng những việc làm cụ thể. Ngài an ủi họ bằng những lời lẽ đơn sơ và chân thành, bởi vì ngài luôn ý thưc mỗi khi làm như thế là làm cho chính Chúa. Từ lời nói đến việc làm, bao giờ ngài cũng tỏ cho họ thấy một tình yêu thương trìu mến.
Noi gương các thánh, chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống để chúng ta luôn bước đi dưới sự soi dẫn của đức tin, nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa.
Cầu nguyện.
Lạy Chúa, trong mùa vọng này, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi sứ điệp của Gioan tiền hô, bằng cách sám hối ăn năn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé của chúng con những hành động bác ái yêu thương, đó là những hoa trái cuộc đời chung con đem đến cùng Chúa, nhờ đó chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
6. Đấng sẽ đến
Mùa vọng là mùa trông đợi. Chúng ta trông đợi Chúa đến trong đêm giáng sinh. Đó là một sự trông đợi có tính cách nghi lễ nhằm kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu tại Bêlem. Nhưng đồng thời mùa vọng còn là trông đợi Chúa lại đến vào ngày sau hết như lời Ngài đã hứa. Và lời rao giảng của Gioan được coi như là một lời kêu mời chúng ta tích cực chuẩn bị để bước vào thời đại mới ấy. Vậy thì đâu là sứ điệp của Gioan?
Trước hết ông đã rao giảng sự ăn năn hối cải vì Nước Trời đã gần đến. Những hình ảnh ông sử dụng gợi lên một cảnh tượng tiêu điều của sa mạc cát nóng, của hoang địa khô chồi cằn cỗi. Thế nhưng, người Do Thái và nhất là giai cấp lãnh đạo đã coi thường lời kêu gọi ấy. Họ nghĩ rằng mình là dân riêng của Chúa, nhưng thực ra họ chỉ là một loài rắn độc. Con rắn của ma quỷ, đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Gioan đòi buộc họ phải sám hối ăn năn, đừng nại vào dòng dõi xác thịt. Dân riêng của Chúa trong thời đại mới được tạo nên nhờ sám hối khi lãnh nận dòng nước thanh tẩy.
Trong phần thứ hai của đoạn Tin Mừng, Gioan giới thiệu Đấng đến sau ông nhưng lại quan trọng hơn ông gấp bội. Gioan tự nhận không xứng đáng làm một kẻ nô lệ hèn hạ nhất của Ngài.
Theo tục lệ Do Thái, thì một kẻ nô lệ không buộc phải cởi giày hay xách dép cho chủ. Người môn đệ có thể giúp việc thầy như một nô lệ, trừ việc xách dép hay cởi giày. Trong việc tế tự, trước khi tư tế hành lễ thì một trong các nô lệ phục dịch tại đền thờ, sẽ cởi giày dép để tư tế đi chân không. Hạng người này bị loại vĩnh viễn khỏi mọi đặc quyền Do Thái. Người Do Thái không bao giờ được cưới hỏi với loại người này.
Nếu có ám chỉ đến tục lệ này thì Gioan cũng vạch rõ sự khác biệt giữa ông và Đấng Cứu Thế sẽ đến. Đấng sẽ đến có quyền phán xét, thiêu huỷ kẻ dữ và thánh hoá người lành. Trong khi đó, thanh tẩy của Gioan được hiểu như là một nghi thức áp dụng cho đoàn người hối cải, trông nhờ vào thanh tẩy của thời cứu chuộc để thoát khỏi sự phán xét sắp đến.
Trông chờ Chúa đến, cũng có nghĩa là chuẩn bị đón mừng Chúa trong đêm giáng sinh cũng như trong những biến cố cuộc đời. Và lời kêu gọi của Gioan vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày hôm nay: Hãy sám hối, hãy trở nên người mới, trong cách suy nghĩ, trong cách cư xử đối với Chúa và đối với anh em. Bởi vì đón nhận Chúa là đi vào một cuộc sống mới, một thời đại mới.
Nói đến hối cải chúng ta thường chỉ dừng lại ở việc xét mình xưng tội, nhưng lại không mấy nghĩ rằng mình phải trở thành một con người mới, sống trong một thời đại mới, thời đại cứu chuộc, thời đại ân sủng và tình thương của Chúa.
7. Trở về cùng Chúa
Trong khi thực hiện bức hoạ nổi tiếng “Bữa tiệc ly” Leonard de Vinci đã cãi vã với một người bạn. Ông nhiếc mắng bạn ấy bằng những lời gay gắt và những cử chỉ doạ nạt. Khi cuộc cãi vã đã qua, ông trở lại công việc đang làm là vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu. Nhưng ông không thể phác hoạ được một nét. Cuối cùng ông nhận ra sự lo lắng phiền lòng. Ông liền bỏ bút vẽ, đi tìm người bạn mà ông đã xúc phạm và xin người bạn ấy tha thứ cho mình. Thế rồi ông trở về và bình tĩnh vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu.
Như nhà hoạ sĩ, chúng ta đang cố gắng đặt Chúa Giêsu vào tác phẩm của mình là lễ Giáng sinh. Chúng ta muốn Chúa Giêsu là trung tâm của việc chúng ta cử hành. Và chúng ta nghe tiếng Gioan Tiền hô khuyên nhủ: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Vậy đâu là sự liên kết giữa tâm tình sám hối và việc chuẩn bị đón mừng Chúa đến?
Như chúng ta đã biết trở ngại lớn nhất cho việc đón mừng Chúa đến chính là tội lỗi. Vì thế để dọn đường cho Chúa, chúng ta phải từ bỏ tội lỗi, phải sống tinh thần sám hối. Léonard de Vinci đã không thể vẽ được khuôn mặt Chúa Giêsu khi ông cảm thấy mình còn tội lỗi, mình còn xúc phạm đến người khác. Chúng ta cũng không thể đặt Chúa Giêsu vào bức hoạ giáng sinh bao lâu chúng ta chưa sám hối. Vậy sám hối là gì?
Tôi xin thưa sám hối là lo buồn về điều đã vấp phạm hay hối hận vì điều mình đã không làm. Thực vậy, tâm tình sám hối không phải chỉ là việc quay trở về dĩ vãng, bằng cách ăn năn những gì đã lỗi phạm, mà hơn thế nữa còn phải hướng tới tương lai, bằng cách dốc quyết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi vấp phạm ấy, để thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời. Và như vậy, sám hối đòi hỏi phải có một cái nhìn mới, một thái độ mới, một cuộc sống mới, và cốt lõi của nó bao gồm sự trở về cùng Chúa.
Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta đã không thực hiện những điều làm vui lòng Chúa chẳng hạn như: cầu nguyện, học hỏi giáo lý, cảm thông và giúp đỡ những người chung quanh. Trái lại, chúng ta thường hay làm những điều Chúa không muốn, và chẳng bao giờ làm điều Chúa muốn cã. Đó chính là hàng rào cản ngăn Chúa đến với chúng ta, và chúng ta đến với Chúa, nhất là trong mùa Giáng sinh này.
Chính vì thế, trong những ngày nay chúng ta hãy chạy đến nơi toà giải tội để được tha thứ. Việc xưng tội không chỉ để tẩy xoá những vết nhơ tội lỗi mà hơn thế nữa còn giúp chúng ta xa tránh tội lỗi, nhờ đó mà phục vụ Chúa một cách chân thành hơn.
Hãy ra sức khử trừ tội lỗi, Hãy cố gắng phá huỷ cho bằng được những chướng ngại vật trên con đường Chúa sẽ đến viếng thăm. Khử trừ tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhìn thấy Đức Kitô một cách rõ ràng hơn. Khử trừ tội lỗi sẽ làm cho con đường Chúa đến với chúng ta và chúng ta đến với Chúa được trở nên bằng phẳng và dễ dàng hơn. Khử trừ tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang đá, máng cỏ sống động cho Chúa. Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để dọn đường Chúa đến?
8. Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ
Các nước đang phát triển có hướng đô thị hóa rất mạnh. Dân quê bỏ đồng ruộng ra thành thị. Chính phủ lo đô thị hóa nông thôn. Càng phát triển, người ta càng có khuynh hướng tiêu thụ rất mạnh: ăn sang, mặc đẹp. Vậy mà Phúc Âm hôm nay đưa ra hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô, một người sống trong sa mạc, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo da thú. Phải chăng là Phúc Âm đã lỗi thời, đi ngược với đà tiến hóa của nhân loại?
Để trả lời cho vấn nạn này, trước hết ta hãy cùng nhau đào sâu những sứ điệp Phúc Âm được nhắn gửi qua đời sống của thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan Tiền Hô tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đây không phải là một tiếng kêu vô hồn vô nghĩa. Nhưng là tiếng kêu có nội dung, là những sứ điệp gửi đến loài người.
1) Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.
Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Thiên nhiên đang bị hủy diệt, rừng xanh đang lâm nguy, súc vật đang kêu cứu. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.
Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Vì các đô thị lớn đã hoàn toàn bị ô nhiễm: ô nhiễm vì tiếng động, ô nhiễm vì khói xăng, ô nhiễm vì rác rưởi, ô nhiễm vì bụi bặm.
Thế nhưng sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Nhịp sinh hoạt trong xã hội công nghiệp càng ngày càng tăng tốc độ. Con người luôn luôn vội vã đuổi theo công việc. Vì thế dễ rơi vào tình trạng sống hời hợt bề mặt. Không có thời giờ lắng xuống bề sâu. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.
Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành dân của Chúa. Như tiên tri Êlia chạy trốn trong sa mạc đã chẳng tìm được đường thoát thân. Nhưng đã được Chúa chỉ cho con đường hy vọng. Như Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, nên đã tìm thấy con đường của Chúa Cha là hy sinh, khiêm nhường, sống trọn tình con thảo.
Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.
2) Sứ điệp thứ hai mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sống khổ hạnh.
Ta tưởng sống khổ hạnh đã đi vào quá khứ. Thực ra các nước văn minh đang đi vào con đường của thánh Gioan Tiền Hô. Một trong các vấn đề lớn của người phương tây hiện nay là giữ sao cho khỏi lên cân, để khỏi bị cholesterol, để khỏi bị chứng bệnh xơ cứng động mạch, để ngăn chặn bệnh tiểu đường, để khỏi bị mỡ bao tim, người ta đã phải kiêng ăn, bớt uống.
Ăn uống đơn sơ đạm bạc không những có lợi cho sức khỏe mà còn giúp ta tiết kiệm để chia sớt với những vùng thiếu ăn, thiếu mặc. Nhưng vượt lên trên tất cả sức khỏe thân xác lẫn đạo đức liên đới xã hội, nếp sống khổ hạnh trước hết và trên hết nhắm phục vụ đời sống tâm linh. Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người. Nó thuộc về bản năng sinh tồn. Ăn uống đứng đầu các khoái lạc. Khi làm chủ được ăn uống, người khổ hạnh cũng dễ tiến tới làm chủ được bản thân. Chế ngự được bản năng ăn uống, ta sẽ dễ chế ngự được tham, sân, si khác trong con người. Đó là bước khởi đầu trên con đường đức hạnh dẫn ta đến gặp Chúa và trở nên thân thiết với Chúa.
3) Sứ điệp thứ ba mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sám hối.
Phải sám hối vì con người là lầm lỗi, là xa lạc. Các thánh chính là những vị không ngừng sám hối để đổi mới bản thân cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng.
Phải sám hối vì đó là điều kiện tiên quyết để đón nhận Tin Mừng, để được vào Nước Trời.
Có hai đặc tính giúp xác định một sám hối đúng nghĩa:
Đặc tính thứ nhất là triệt để. Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…
Đặc tính thứ hai là cấp bách. Không từ từ do dự vì thời giờ đã tới hồi cấp bách. Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây. Cái sàng đã đặt sẵn ở sân lúa. Cây không sinh trái sẽ bị đốn ngay. Trấu sẽ bị sàng lọc ra ngoài.
Như vậy, con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không hề lỗi thời. Những sứ điệp sa mạc, sứ điệp khổ hạnh và sứ điệp sám hối vẫn luôn hiện thực. Những sứ điệp ấy soi sáng con đường ta đi, phải tu sửa để gặp được Thiên Chúa Cứu Độ. Cuộc đời gương mẫu của thánh nhân là sức nóng vừa lôi cuốn vừa thúc giục ta. Vì thế Chúa Giêsu đã khen Ngài là “ngọn đèn chiếu sáng và tỏa nóng”. Ánh sáng của Ngài báo hiệu một bình minh chói lọi huy hoàng. Sức nóng của Ngài dẫn ta đến tận nguồn lò lửa. Lò lửa ấy sẽ chiếu sáng, sẽ đốt cháy mọi trái tim trong tình yêu và sẽ thanh luyện ta nên tinh tuyền. Bình minh ấy, lò lửa ấy chính là Mặt Trời Công Chính, là Chúa Giêsu mà chúng ta đang chờ mong trong đêm tối cuộc đời này. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Thánh Gioan Tiền Hô chuyển đến ta những sứ điệp nào?
2) Đối với bạn, sứ điệp nào cấp bách hơn cả?
3) Cấp bách và triệt để là hai đặc tính của sám hối Phúc Âm. Bạn có quyết tâm làm lại cuộc đời của mình hoàn toàn và ngay hôm nay không?
4) Bạn đã bao giờ cảm nghiệm niềm vui thiêng liêng do cầu nguyện, sám hối và tự chế chưa?
9. Thời Hoang Dã – Lm Vũ Đình Tường
Những tuần sắp tới Kinh Thánh nhắc nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả vì thế chúng ta đi tìm hiểu về con người đặc biệt này.
Là người đặc biệt với sứ vụ đặc biệt. Sứ vụ đó nghe có vẻ đơn giản nhưng là nguyên nhân dẫn đến việc đầu Gioan lìa cổ. Một là do giằng co giữa hai thế lực giữa sự công chính và sự gian ác. Hai là do quyết định hồ đồ, quyết định lúc cao hứng của người lãnh đạo trong dân chúng. Ba là do con người quan trọng hóa danh tiếng, địa vị cá nhân hơn mạng sống người khác. Điểm này cho thấy việc quí sự sống cách hẹp hòi, ích kỉ dẫn đến tình trạng sự sống cá nhân mình, thân nhân mình thì trọng còn sự sống thiên hạ thì coi thường. Bắt người khác hi sinh để mình sống hạnh phúc đồng nghĩa tội sát nhân.
Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi thay đổi quan niệm sai lầm phò sự sống một cách hẹp hòi, ích kỉ. Sự sống con người quí trọng giống nhau, dù lớn hay nhỏ, dù khôn hay khờ sự sống của họ đều quí vì đều do Thiên Chúa ban cho. Trước khi xuất hiện trước công chúng, rao giảng về thống hối và kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức, đừng ngủ mê nhưng tỉnh thức chuẩn bị tấm lòng đón mừng Chúa Cứu Thế, thánh Gioan Tẩy Giả sống một cuộc sống hoang dã thời xưa. Mình mặc áo lông lạc đà, đai lưng bằng da thú và sống nơi xa mạc. Nuôi thân bằng châu chấu và mật ong rừng nhưng ngài nuôi đời sống tâm linh bằng một tình yêu cao vời. Tình yêu cao vời đó thấm nhuần cuộc đời Gioan. Nhờ cha mẹ sống trung tín, thánh thiện của ông Zacaria và bà Elizabeth. Chính lối sống cao trọng đó thấm nhập vào tâm hồn con trẻ Gioan. Ông lớn lên trong một gia đình hết lòng yêu mến Thiên Chúa. Tình yêu chân chính uốn nắn tâm hồn Gioan biến ông thành người khiêm nhường.
Thánh Luca 3,16 thuật lại lời của Gioan
Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho người.
Ơn gọi làm nhân chứng cho Đức Kitô là kêu gọi mọi người thống hối, ăn năn, thay đổi cách sống theo xã hội để trở về với đường lối Chúa. Gioan không mang một chức vị nào trong xã hội thế nhưng lời kêu gọi của Gioan đánh động tâm não hàng nhiều ngàn người. Phúc âm thuật lại khắp mọi ngành nghề tìm đến hỏi Gioan về cách hoán cải tâm hồn. Gioan trở nên nổi tiếng giữa muôn người nhưng danh tiếng vang lừng không mê hoặc lòng ông, không rơi vào cạm bẫy của vinh quang giả tạo, không lạc vào mê hồn của phồn hoa. Gioan đứng vững, không lung lay trước cám dỗ, tán tụng, tung hô của đại chúng mong ông làm lãnh đạo họ. Ông biết rõ nhiệm vụ của mình là mở đường cho Chúa. Ông luôn vững vàng trong ơn gọi chứng nhân. Đời sống chứng nhân được an bài nơi Thiên Chúa. Kinh thánh thuật lại,
Cậu bé càng lớn thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel. Lc 1,80.
Kinh thánh không ghi chép về cuộc đời của phân phụ ông là Zacaria nhưng truyền thống thuật lại là ông bị hoàng đế Hêrôđê cha giết chết nên bà Elizabeth phải bồng con chạy trốn trong hoang địa, trở thành dân tị nạn chính tại quê hương mình.
Dù là dân tị nạn, dù bị bách hại, dù phải sống nơi hoang địa nhưng sứ mạng của Gioan là đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế vẫn được thực hiện một cách trọn hảo. Điều này cho thấy quyền hành, thế lực thế gian không đủ khả năng ngăn cản điều Thiên Chúa muốn thực hiện để cứu dân Người. Thiên Chúa có cách riêng của Ngài và cách đó thường vượt quá trí hiểu, vượt trên suy đoán, vượt qua mọi tính toán của cả ma quỉ lẫn con người. Lời Gioan rao giảng không mới lạ gì. Nếu có mới là cách rao giảng mới mẻ. Cái mới trong con người Gioan chính là ông rao giảng với tất cả tâm hồn và thực hiện điều mình rao giảng và cuối cùng là sẵn sàng đổ máu đào làm chứng điều ông tin và rao giảng. Chính lối sống chứng nhân nhiệt thành làm rung động bao tâm hồn, chuyển hoá bao con tim.
Nhiệm vụ của Gioan được tiên tri Isaiah 40,3 tiên báo trước đó bảy thế kỉ
Có tiếng hô trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chống gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.
Tiên tri Malachi cũng tiên đoán về ơn gọi của Gioan khi ông thông báo,
Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. 3,1
Sứ giả đây chính là Gioan và Ta chính là nói về Đấng Cứu Thế.
10. Anh em hãy hối cải
(Suy niệm của Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)
Suốt tuần I Mùa Vọng đã vang lên lời loan báo đầy hứa hẹn của ngôn sứ Isaia về một Đấng Thiên sai cứu độ thuộc vương triều Đavít, mang tên gọi Emmanuel (Is 7,14), sẽ xuất hiện như vị Thủ lãnh để giải cứu dân Chúa khỏi vùng bóng tối (Is 9,1-5) và phục hưng dân Chúa trong trật tự công lý và hoà bình (Is 11,1-9); bấy giờ toàn nhân loại sẽ hành hương về Giêrusalem để phụng thờ Giavê (Is 2,2-5). Vào những lúc bi thảm của lịch sử, những sấm ngôn ấy đã nung nấu nơi tâm hồn con người niềm hy vọng tha thiết: “Trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa vị Cứu tinh”. Chúa nhật II Mùa Vọng hôm nay nói cho ta vị Cứu tinh mà nhân loại ngàn năm chờ mong ấy đang đến qua sự dọn đường của Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị, đồng thời là vị Tiền hô loan báo và chỉ cho thấy khi Đấng Cứu thế xuất hiện.
1. Gioan Tẩy giả là vị Tiền hô
Gioan Tiền hô, cũng gọi là Tẩy giả, xuất hiện trên sân khấu cứu độ cách đặc biệt. Đặc biệt vì ông được cưu mang và sinh hạ cách lạ thường khi cha mẹ là Giacaria và Elisabeth đã hết thời sinh nở (Lc 1,7). Điều đó nói lên tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đúng với tên mà thiên thần đã đặt cho ông ngày truyền tin: Gioan nghĩa là “Thiên Chúa thương”. Đặc biệt vì ông đã được thánh hoá từ trong lòng thân mẫu nhờ cuộc viếng thăm của Đức Maria đang cưu mang Ngôi Lời (Lc 1,15.44). Ngày ông sinh ra, phụ thân hết câm và mở miệng tiên báo về sứ mệnh cao cả và định mạng của con mình (Lc 1,64.67), đến nỗi mọi người đều sửng sốt và tự hỏi: “Rồi đây con trẻ này sẽ thế nào?” (Lc 1,66). Ông rút vào hoang địa tĩnh lặng, sống đời khổ chế, ăn châu chấu và uống mật ong rừng (Mt 3,1-4), để trầm tư mặc tưởng về sứ vụ sắp thi hành. Ông xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng và làm phép rửa sám hối chuẩn bị cho phép Rửa của Chúa Giêsu bằng Thánh Thần để ban ơn tha tội (Mt 3,11) Ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa (Mt 3,3), là người tôi tớ không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng sắp đến, Đấng có trọn quyền phán xét (Mt 3,11), là tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên sai cứu độ đang đến là chính Chúa Giêsu (Ga 1,15). Ông đã làm chứng Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34) và chỉ cho mọi người biết Ngài là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,35). Thế mà khi ngồi trong tù vì đã thẳng thắn vạch tội nhà vua, ông đã băn khoăn sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu là đấng phải đến hay còn phải đợi một ai khác (Lc 7,18). Cái chết của ông vì chân lý cũng loan báo trước cái chết vô tội của Đấng mà ông có sứ vụ dọn đường. Cả cuộc đời của Gioan là một chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Thiên sai Giêsu xuất hiện để cứu độ.
Giáo hội tiếp tục bước đi trên con đường của Gioan để thực thi sứ vụ truyền giáo mà Giáo hội xác tín là lý do hiện hữu của mình: “Giáo hội lữ hành, tự bản chất, là truyền giáo”(AG 2). Kitô hữu luôn noi theo gương Gioan để sống ơn gọi của mình là làm chứng nhân cho Đức Kitô, giới thiệu Ngài cho mọi người và dọn đường để Ngài đến với mọi tâm hồn.
2. Hãy sám hối
Lời rao giảng của Gioan gồm tóm trong câu:Hãy sám hối. Các ngôn sứ thời Cựu ước luôn mời gọi mọi người hãy trở về với Thiên Chúa để được tha thứ. Khi bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu cũng tha thiết mời gọi hãy sám hối (Mc 1,15). Ngài truyền cho các Tông đồ hãy đi rao giảng để mọi người sám hối mà nhận lãnh ơn tha tội (Lc 24,47).
Hoán cải là sự thay đổi tận căn và toàn diện: từ não trạng, tư tưởng đến bản thân, hành động và cuộc sống. Cuộc trở lại nào cũng đòi phải chiến đấu cam go, cho đến lúc được Chúa chiếm hữu qua những thanh luyện. Chướng ngại lớn nhất của hoán cải là tính kiêu căng, sự tự mãn cho mình là công chính không cần ơn cứu độ, là mãi mê với sự đời và hưởng thụ vật chất. Gioan đã tuyên bố cách đanh thép: “Hãy làm việc lành chứng tỏ lòng sám hối. Lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây. Cây nào không sinh quả tốt, sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,7-10). Ông Giakêu đã thật sự hoán cải khi sẵn sàng đền bù gấp bốn cho những ai bị ông làm thiệt hại, bố thí phân nữa tài sản cho kẻ nghèo và từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu (Lc 19,8). Hoán cải theo sấm ngôn Isaia là lấp đầy những hố sâu của lòng ích kỷ, tham vọng và hưởng thụ, là bạt đi những đồi cao của kiêu căng tự mãn, là uốn cho ngay những quanh co lươn lẹo trong tư tưởng và hành động dối trá, để có thể đón nhận Đấng Cứu thế và sống tình liên đới huynh đệ với mọi người.
Kết luận
Hãy hoán cải. Hãy thành tâm trở về với Chúa, nổ lực tìm kiếm Người, nhiệt thành đáp ứng lời mời gọi sám hối bằng việc thực thi đức bác ái là giềng mối trọn lành (Cl 3,14) và là sự chu toàn mọi lề luật (Rm 13,10). Đó là điều kiện tiên quyết để dọn đường Chúa đến trong tâm hồn và đời sống của mình và của mọi người.
11. Nước Thiên Chúa đã đến gần
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 3,1-12) bắt đầu bằng sự kiện ông Gioan “đến”. “Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê” (c.1). Tác giả Tin Mừng không cung cấp các thông tin chính xác về thời điểm ông Gioan xuất hiện, nhưng cẩn thận cung cấp thông tin về nơi chốn: “trong hoang địa miền Giuđê”. Đây không chỉ là một ghi chú địa dư, mà chính yếu là một ghi nhận thần học. Quả thực, trong truyền thống Thánh Kinh, “hoang địa” là nơi chốn lý tưởng của những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và chính trong hoang địa, Thiên Chúa đã nói lời của Ngài với ông Môsê, với ông Êlia và với Israel (Xh 3; 1V19; Xh 19).
Vậy, trong nơi chốn đặc biệt như thế, ông Gioan rao giảng. Động từ “rao giảng” là một thuật ngữ của Tân Ước để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này là ông Gioan (3,1), Chúa Giêsu (4,17) và các tông đồ (10,7). Nội dung lời rao giảng của ông Gioan là: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần" (c.2). “Nước Trời đã đến gần” là thông tin được công bố, và điều kiện để có thể “đi vào” Nước đó chính là sự hoán cải đời sống (metanoia). “Nước Trời” là một kiểu nói sêmít để tránh đọc tên Thiên Chúa, vì thế, có ý nghĩa như kiểu nói “Nước Thiên Chúa” trong các Tin Mừng khác. Để gia nhập Nước Trời, người ta phải hoán cải (metanoeô), tức là thực hiện một sự thay đổi con người mình, từ nội tâm bên trong đến thái độ bên ngoài, hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa. Sự hoán cải đời sống hay cuộc metanoia đó có nền tảng trong lời giảng dạy ngôn sứ, như được trình bày trong Is 1,16-17: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ”.
Trong niềm trông chờ Nước Thiên Chúa, vốn rất mãnh liệt suốt lịch sử Israel, dân chúng nói chung nghĩ rằng Nước ấy sẽ được thực hiện nhờ Đấng Mêsia, vị Vua thuộc dòng dõi Đavít, Đấng sẽ chiến thắng muôn dân và đem lại vinh quang vĩ đại cho Israel. Tuy nhiên, khi rao giảng về sự hoán cải đời sống như là một điều kiện để được gia nhập Nước Thiên Chúa, ông Gioan đã cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ là kết quả can thiệp của Thiên Chúa, mà còn đòi hỏi sự cộng tác của con người.
Tác giả Mt quy chiếu lời rao giảng của ông Gioan về một bản văn ngôn sứ Isaia. Ông viết: “Ông [Gioan] chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c.3). Đây là lời trích từ Is 40,3tt theo bản LXX, khác biệt một chút với bản văn Hípri. Bản văn Hípri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa hãy dọn sẵn một con đường cho Đức YHWH; trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Lời ngôn sứ này nói đến cuộc giải thoát và hồi hương từ chốn lưu đày của dân Do Thái. Tác giả Tin Mừng áp dụng lời này vào sự kiện ông Gioan rao giảng và công cuộc Đức Giêsu sắp khởi sự. Ngoài ra, cả bản Hípri lẫn bản LXX đều không xác định ai là người cất tiếng hô, nhưng Mt gán vai trò đó cho ông Gioan, và thay thế hạn từ “Thiên Chúa” trong bản văn Is bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Chúa Giêsu. Kiểu nói “hô trong hoang địa” không có nghĩa là tiếng hô vô vọng trong nơi hoang vắng không người, mà là tiếng hô từ hoang địa, nhưng vọng vang ra bên ngoài hoang địa, vang đến tận Giêrusalem và khắp miền Giuđê (c.5).
Thần học của các rabbi Do Thái, dựa trên Ml 3,23 (“Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”), đã khai triển sâu rộng một quan điểm, theo đó, ngôn sứ Êlia sẽ đến như người tiền hô của Đấng Mêsia, để thanh luyện Israel và chuẩn bị cho dân đi vào Vương quốc Mêsia. Chính với hậu cảnh thần học đó mà ông Gioan được miêu tả trong hình dung của chính ngôn sứ Êlia: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (c.4). Quả thực, hình ảnh ông Gioan mặc áo dệt bằng lông lạc đà và nhất là thắt lưng bằng dây da, khiến người đọc nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2V 1,8; chú ý: chỉ Êlia và Gioan mới được Kinh Thánh mô tả là thắt lưng bằng dây da). Có thể nói, trong ý hướng của mình, tác giả Mt có ý khẳng định ông Gioan chính là ngôn sứ Êlia. Mà nếu như thế, thì có nghĩa là biến cố sắp xảy đến chính là “Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”, vì nhiệm vụ của ngôn sứ Êlia quy chiếu về chính Thiên Chúa, và ông không chuẩn bị cho biến cố “đến” của bất cứ ai khác.
Đáp lại lời rao giảng của ông Gioan là một sự kiện đặc biệt.“Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông Gioan” (c.5). Rõ ràng đám đông kéo đến bao gồm hai “cánh” khác nhau: một bên là những người đến từ trung tâm quyền lực tôn giáo – chính trị (Giêrusalem) và bên kia là từ khắp vùng xung quanh “hoang địa miền Giuđê”. Đám đông dân chúng, như vậy, đã tỏ rõ thái độ không hài lòng đối với các thiết chế tôn giáo – chính trị đương thời và đối với những nhà lãnh đạo thuộc về các thiết chế đó.
Đám đông đó kéo đến với ông Gioan, đoạn “họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (c.6). Đương thời, người Do Thái rất quen với những nghi thức thanh đẩy theo luật lệ và thói tục. Nhưng phép rửa của ông Gioan ở đây có những yếu tố khác thường. Thay vì cử hành nghi thức thanh tẩy cho chính mình tại một nơi do Luật ấn định và nước phải được giữ sạch theo quy định, ông Gioan lại làm phép rửa cho những người khác và là trong dòng nước sông Giođan. Đàng khác, phép rửa này được ban với dấu chỉ của một sự hoán cải luân lý, và có ý nghĩa đánh dấu sự thay đổi đã hoặc sắp xảy đến nơi người lãnh nhận.
Trong số những người kéo đến với ông Gioan, có nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc. Những người Pharisêu thường tự hào về sự trung thành của họ đối với Luật được giải thích theo các truyền thống rabbi. Họ có ảnh hưởng trên dân chúng và đại diện cho một thứ quyền bính thiêng liêng. Những người Xađốc thì thuộc về tầng lớp lãnh đạo, gồm phần đông là những nhà quý tộc hoặc giới tăng lữ quý tộc giàu có. Họ là những đại diện cho quyền lực kinh tế, chính trị và tôn giáo. Họ kéo đến với ông Gioan để chịu phép rửa, nhưng lại không ý thức đầy đủ về tình trạng bất chính của mình, trái lại, hình như còn có thể làm cho dân chúng tưởng rằng những hệ thống áp bức bất chính đó không đối nghịch với hình ảnh ngôn sứ của ông Gioan và biến cố mà ông công bố rằng sắp xảy đến.
Vậy, “thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ sắp giáng xuống? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” (cc.7-8). Ông Gioan không chấp nhận họ, trái lại, còn thẳng thắn và gay gắt khiển trách họ. Ông gọi họ là “nòi rắn độc”, tức là ông xác định bản chất gian ác của quyền bính chính trị - tôn giáo mà họ có trong tương quan với dân chúng. Sau này, chính Đức Giêsu cũng nặng lời như thế đối với những người Pharisêu và các kinh sư (12,32; 23,33). Ông khẳng định rằng điều họ cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”.
Rồi ông Gioan tiếp tục nói với họ: “Đừng tưởng có thể tự nhủ rằng: "Chúng ta có tổ phụ là ông Abraham." Quả thật, tôi bảo các anh: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (c.9). Họ tưởng rằng để được cứ, chỉ cần là con cháu ông Abraham là đủ. Ông Gioan cho họ biết rằng không phải dòng dõi mà chính hành động của người ta mới là yếu tố quan trọng. Ông chơi chữ khi cho biết có là con cháu (benayyâ’) của ông Abraham hay chỉ là những hòn đá (abenyyâ’) thì cũng chẳng khác gì. Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10).
Như thế, không phải sự tinh tuyền về di truyền (là người Do Thái chính hiệu), không phải sự thực hiện các nghi lễ phụng tự tại đền thờ (phái Xađốc), cũng chẳng phải sự trung thành giữ những quy định chi li của Luật (phái Pharisêu), mà chính thái độ sống với những người khác trong thực tế, mới là yếu tố làm cho người ta không “bị chặt đi và quăng vào lửa”.
Cuối cùng, ông Gioan so sánh mình với Đấng sắp đến. Ông nói: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh hối cải. Còn Đấng đang đến sau tôi thì quyền thế hơn (ischyroteros) tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (cc.11-12). Ông Gioan tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng đang đến, tức là không đáng làm một công việc bình thường mà người đầy tớ vẫn làm cho chủ mình. Đồng thời, ông cũng cho thấy Đấng đang đến có ba đặc điểm quan trọng: (1) có “quyền thế”, (2) “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”, và (3) là thẩm phán cánh chung rất nghiêm khắc “sẽ rê sạch lúa trong sân”.
Việc gắn tính từ “thánh” vào hạn từ “Thần Khí”, trước hết, có nghĩa là phép rửa trong Thần Khí mà Đấng đang đến sẽ thực hiện chính là thực tại thuộc về cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Thứ hai, điều đó có nghĩa là hoạt động của Đấng đang đến sẽ là hoạt động thánh hóa, tức là đưa con người vào cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Sự thông ban sự sống thần linh từ bên trong sẽ biến đổi con người, làm cho con người gắn kết với Thiên Chúa và trung thành với Người (Ed 36,26t).
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
Đọc bài Tin Mừng hôm nay trong khung cảnh Mùa Vọng, chúng ta có thể suy niệm về ba điểm quan trọng:
1. Đấng đang đến chính là Đức Chúa.
Một trong những điểm nhấn quan trọng của bài Tin Mừng hôm nay là việc giới thiệu Đấng đang đến trong dung mạo Đức Chúa. Sứ điệp của ông Gioan (“Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần”: c.2) liên quan đến chính Đức Chúa. Việc giới thiệu ông Gioan là ngôn sứ Êlia cho thấy Đấng sắp đến sau ông sẽ chính là Đức Chúa, vì ngôn sứ Êlia có nhiệm vụ chuẩn bị cho Đức Chúa ngự đến chứ không phải chuẩn bị cho một ngôn sứ khác xuất hiện. Bằng việc cử hành phép rửa, ông Gioan nhấn mạnh sự cần thiết phải thanh luyện để đến gần Đức Chúa đang đến. Khi so sánh mình với Đấng đang đến, ông Gioan nhấn mạnh quyền thế hơn hẳn của Đấng ấy, và nhất là ông khẳng định rằng Thánh Thần (vốn là sự sống và sức mạnh của chính Thiên Chúa) sẽ hiện diện với Đấng đang đến; Đấng ấy sẽ hành động trong quyền năng của Đức Chúa và sẽ ban cho người ta sự sống của Thiên Chúa. Với Đấng ấy, chính Thiên Chúa đến để ban sự sống và đồng thời để phán xét.
Đó chính là Đấng mà chúng ta đang đợi chờ trong suốt Mùa Vọng này. Mùa Vọng không phải là sự chuẩn bị và chờ đợi một lễ hội lớn lao, hoành tráng và vui tươi sẽ được cửa hành vào cuối tháng 12! Mùa Vọng là thời gian đón chờ chính Đức Chúa, Đấng đang đến.
2. Hoán cải là đòi hỏi khẩn thiết.
Nội dung căn bản trong lời rao giảng của ông Gioan là: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần" (c.2). Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10). Đấng đang đến là Thẩm Phán cánh chung, “tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”” (c.12).
3. Những nghi thức và hoạt động bề ngoài không phải là điều chính yếu trong khi chuẩn bị đón Chúa đến.
Những người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc muốn tránh cơn thịnh nộ sắp giáng xuống bằng cách đặt mình vào một nghi thức bề ngoài nhưng không thực hiện đòi hỏi nghiêm túc là phải hoán cải đời sống, tức là không thay đổi hệ thống bất chính đang kềm tỏa mình. Theo ông Gioan, những nghi thức bề ngoài không đủ để người ta được bước vào Nước Thiên Chúa; cần phải thay đổi đời sống thật sự.
Đó cũng có thể là vấn đề của chúng ta trong Mùa Vọng này. Tất nhiên những hành động bề ngoài là cần thiết: trong bài Tin Mừng hôm nay, việc hoán cải được thể hiện qua việc để cho mình được dìm trong một phép rửa tỏ lòng sám hối, tức là qua một hành động bề ngoài. Nhưng chỉ những hoạt động bề ngoài thấy được thôi, thì chưa đủ. Điều chính yếu cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”. Đó chính là điều quan trọng nhất trong Mùa Vọng này.
12. Sứ mạng Tiền Hô
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Vâng, người ta thường nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Đó là cụm từ dùng để cổ vũ một nhân vật có thế giá nào đó. Từ bậc quan đến bậc vua chúa, hoặc như quan trạng về làng, hay là “võng anh đi trước, kiệu nàng theo sau”.
Quả thật, một nhân vật trần thế được đón rước một cách trịnh trọng, thì người ta nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Nhưng hôm nay, theo lịch phụng vụ Công giáo, Giáo Hội trình bày cho chúng ta một nhân vật đảm nhận vai trò “ Tiền Hô”, đó là Gioan Tiền Hô. Vâng, Gioan Tiền Hô thực thi sứ mạng Tiền Hô của mình đối với ai? Thưa đối với “ Vua Hòa Bình”, vâng, Vị Vua Hòa Bình đến.
Vị Vua Hòa Bình, mà Thiên Chúa đã Hứa từ ngàn xưa qua các tiên tri sẽ đến. Giữa loài người, không có vị vua nào xừng đáng để thay mặt Thiên Chúa chăn dắt muôn dân, thì Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian, nhưng Vị Vua ấy rất nhân từ, xứng với tước hiệu của Người, đó là “ Vua Hòa Bình” hay là” Vua Bình An”.
Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Is 11,1-10), chúng ta thấy, Đấng Cứu Thế chính là Vị Vua nhân ái. Sự nhân từ của Người mang đến sự bình an đích thực. Sự bình an đến độ mọi thứ, mọi vật hung ác đều phải hiền hòa. Mọi sự vật phải thay đổi hoàn toàn180 độ. Vì Người là Thần khôn ngoan duệ trí, thần mưu sự can trường, thần thông minh hiếu thảo ( Is11,2).
Vì thế, sự hòa bình và an lạc sẽ ngự trị giữa chúng dân đến độ chiên con chơi đùa với sư tử và trẻ con. Vâng, ngày nay Vị Vua ấy sắp đến, tất nhiên sẽ có một người làm sứ mạng Tiền Hô cho Người, đó là Gioan Tiền Hô, mà Isaia đã nói: “ Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mt 3,3)
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, nhân vật Gioan rất thành công trong sứ vụ Tiền Hô của mình. Ông nói: “ Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” ( c 2). Và cách thức sám hối là chịu phép rửa, vì vậy Gioan Tiền Hô được gọi là Tẩy Giả. Nhưng phép rửa được thực hiện bởi Gioan là phép rửa bằng nước, chỉ có giá trị để giục lòng sám hối. ( c11). Nhưng Đấng mà Gioan rao giảng sẽ làm phép rửa trong”Thánh Thần và Lửa”. Thánh Thần và Lửa chính là Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ dùng Thánh Thần để Thánh Hóa và dùng Lửa để thiêu đốt. Có nghĩa là sự thanh tẩy trọn vẹn, chính là tình yêu của Thiên Chúa, là sự cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Thánh Thần và Lửa là một tình yêu bao la, một sự tha thứ vô cùng, vô hạn. Phép Rửa ấy chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô. Nhưng Gioan Tiền Hô cũng cho thấy sự công minh, lý đoán của Người bằng một câu nói theo nghĩa đen: “ Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. ( c 12).
Như vậy, Vị Vua Hòa Bình đồng thời cũng chính là Vị Thẩm Phán chí công, Người nhân từ nhưng không nhu nhược. Điều nầy cho thấy, từ khi Người đến lần thứ I cho đến khi Người lại đến, là một hành trình cứu chuộc duy nhất kế tiếp, không đứt quãng. Dựa vào ý tưởng nầy, Giáo Hội mong đợi Đức Kitô lại đến lần Thứ II. Đây cũng là ý nghĩa đích thực của mùa vọng, vì không phải chỉ đón mừng Người đến bằng hình thức bên ngoài là Lễ Giáng Sinh, nhưng quan trọng không kém là chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người trong bất cứ giây phút nào. Đón mừng Lễ Giáng Sinh là Đón Mừng một Mầu Nhiệm Nhập Thể của Đấng Cứu Thế, để suy tôn, thờ là, cảm tạ Người. Nhưng để đón Người đến với chính tâm hồn của từng người trong chúng ta là một điều quan trọng, đó là giờ chết, một sự thật không thể chối cải được.
Nên chi, khi Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người mà chúng ta tỉnh thức thì thật là diễm phúc.
Vậy chúng ta là dân ngoại được kêu mời bởi lòng thương xót của Người, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ mọi người, chúng ta hãy cùng với thánh Phaolô cất lên lời ca: “ Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn, ca mừng Danh Thánh Chúạ” ( c 9).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cư ngụ giữa loài người, dù phàm nhân bất xứng. Nhưng để ban ơn cứu độ, Chúa đã trở nên Hy Tế. Khởi sự là Máng Cỏ Bêlem, ôi! Mầu nhiệm thật cao vời, xin cho chúng con biết nhận ra và đền đáp muôn một tình Chúa yêu thương chúng con. Amen.
13. Hãy thống hối vì Nước Trời đã đến gần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion... (Này hỡi Dân Sion...) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực chuẩn bị đón Chúa đến. Sự kiện này đã được ghi khắc từ lâu trong lịch sử. Một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn. Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình hài một trẻ thơ, Ngài mời chúng ta đến gặp gỡ Ngài trong khiêm hạ: "Này dân Sion hỡi, Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy... " (Ca nhập lễ).
Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: "Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở... " (x. Is 11, 1-10).
Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, là nhân vật đã được tiền báo trong một lời tiên tri nổi tiếng của sách ngôn sứ Isaia (Is 42,3). Gioan Tẩy giả lui vào sa mạc của vùng Giuđêa, dùng lời rao giảng của mình kêu gọi toàn dân hoán cải để sẵn sàng đón Đấng Mesia quang lâm. Lời kêu gọi của Thánh Gioan, vị tiên tri được Thiên Chúa sai đến như là vị tiền hô của Đấng Thiên Sai, vang lên trong tuần thứ II của Mùa Vọng, vạch ra cho chúng ta thái độ cần phải có để sẵn sàng đón chờ Chúa đến: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Nếu như xưa kia Gioan rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn thống hối, kết quả là: "Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan"; thì ngày nay sứ điệp này vẫn vang dội qua các thời đại và gửi đến với chúng ta ngày nay với tính cách thật cấp bách.
Với giới biệt phái và văn nhân, Gioan Tẩy Giả bảo họ: "Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối". Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng (540 – 610) đã bình giải rằng: "Gioan Tẩy Giả rao giảng kêu gọi một Đức Tin chân thật và những việc làm tốt lành, để nhờ đó sức mạnh của ân sủng được thấm nhập, ánh sáng của chân lý được chiếu giãi, và những nẻo đường hướng về Thiên Chúa được sinh ra trong những tư tưởng thành tâm thiện chí, sau khi đã lắng nghe Lời Chúa, là Lời dẫn đến mọi sự tốt lành".
"Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.
Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn.
Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: "Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an". Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến. Trích "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng", 39, 1-3.
Có thể nói bốn tuần Mùa Vọng là như "tiền đường" dẫn chúng ta chuẩn bị tinh thần sẳn sàng tiếp đón Đấng Cứu Thế ngự đến! "Hãy ăn năn thống hối". Để gặp được Đấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.
Trước Tin Mừng của một Vị Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta đã tự hạ chính mình và mặc lấy thân phận con người, chúng ta không thể nào không mở rộng tâm hồn ăn năn hối cải. Để gặp được Hoàng Tử Bình An, chúng ta phải mở rộng lòng mình, khiêm tốn và ngay thẳng.
Đó là lý do tại sao Mùa Vọng là thời gian chờ đợi và hy vọng. Giáo Hội lấy lại vào chúa nhật II Mùa Vọng lời tiên tri đầy an ủi của ngôn sứ Isaisa như sau: "Mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu rỗi của Thiên Chúa". Chúng ta hãy đặt tay chúng ta vào tay Mẹ Maria, Nữ Vương của niềm hy vọng để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Amen.
14. Thanh lọc - Trầm Thiên Thu
Thanh lọc là làm cho trong sạch, làm cho tinh khiết, bỏ chất dơ bẩn và lấy chất tốt lành. Anh ngữ dùng chữ “purge” để chỉ hành động thanh lọc, do đó sinh ra tính từ “purgatory” (có tính chất làm trong sạch), vì thế mà sinh ra danh từ “purgatory” (nơi thanh lọc, chốn thanh luyện). Theo Công giáo, Purgatory có nghĩa là Luyện Hình hoặc Luyện Ngục.
Mùa Vọng là thời gian tẩy rửa linh hồn để đón Con Thiên Chúa giáng sinh. Thanh lọc là hành động cần thiết trong cuộc sống, nhất là thời đại ngày nay, nhiều thứ ô nhiễm. Càng phải thanh lọc kỹ hơn khi sống trong môi trường ô nhiễm nặng như Việt Nam hiện nay – mọi nguồn đều ô nhiễm, kể cả ẩm thực.
Thanh lọc là bảo vệ mình khỏi những thứ tác hại do môi trường. Đơn giản nhất là dạng “khẩu trang” được đa số sử dụng khi ra đường, có người không chỉ đeo vài lớp khẩu trang, mà còn thêm vải tấm chụp từ đầu tới cổ, đôi khi nhìn phụ nữ Việt Nam mà cứ ngỡ là phụ nữ Hồi giáo. Ai cũng bịt kín mít, thật khó có thể nhận biết ai quen hay lạ. Kỹ quá cũng… mệt!
Thể lý đã vậy, tinh thần còn cần được bảo vệ kỹ hơn nữa. Ngày nay có quá nhiều thứ rác rưởi nguy hiểm trên internet – net trắng thì ít mà net đen thì nhiều. Facebook được nhiều người “ưa dùng” nhưng lại có quá nhiều mối nguy hiểm. Có những người commen những câu chẳng đâu vào đâu, vu vơ, linh tinh, vớ vẩn. Và tất nhiên cũng không ít kẻ lợi dụng Facebook để mưu tính những chuyện khuất tất.
Có những tên nghe rất “kêu” hoặc có vẻ “đạo đức” nhưng trong đó có mối nguy tiềm ẩn khó lường trước. Ngay cả hình đại diện cũng chưa đáng tin nếu chúng ta không biết họ là ai, vì có những kẻ lấy “râu ông nọ cắm vào cằm bà kia”, không biết đâu là thật hay giả. Cũng có những trang xem chừng “nghiêm túc” nhưng biết đâu chừng phía sau là một ổ virus độc hại. Những kẻ câu LIKE (thích) là những kẻ tồi tệ. Nên block (khóa) họ để tự bảo vệ, tức là tự thanh lọc trước khi quá muộn!
Vì thế mà luôn phải cảnh giác cao độ, đúng như tiền nhân đã xác định: “Cẩn tắc vô ưu”. Thời buổi này cũng nên “di truyền” máu-đa-nghi của Tông đồ Tôma lắm đấy! Và thật chí lý với câu nói nghe như vè thế này: “Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu”. Chí lý lắm đấy chứ. Thật thà thì thẳng thắn, thẳng thắn thì thật tốt. Những kẻ nói ngọt và lấy lòng thì chẳng ra gì, người Anh gọi họ là dân “fair-weather” – tức là những người bạn phù thịnh, ưa nịnh, chỉ chấp nhận quen khi chúng ta có cái gì đó mà họ có thể lợi dụng, nhưng khi chúng ta gặp hoạn nạn thì họ không bao giờ xuất hiện.
Mùa Vọng về, năm mới Phụng Vụ tới, đó là thời điểm chúng ta cần thanh lọc kỹ lưỡng hơn, thanh lọc bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.
Trình thuật Is 11:1-10 nói về vị Minh Quân thuộc dòng dõi Đa-vít. Ngôn sứ Isaia mô tả: “Từ gốc tổ Giessê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà. Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành”.
Nông dân Việt Nam có câu: “Nó bé nhưng gié nó to”. Ý nói về những cây lúa tuy nhỏ bé nhưng trổ ra những gié lúa trĩu nặng những hạt căng mọng. Những thứ nhỏ bé thường là những thứ quan trọng và cần thiết. Chẳng hạn như DNA (deoxyribonucleic acid), dạng chuỗi xoắn đôi quá nhỏ bé, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng nó lại khả dĩ duy trì sự sống, khỏe hay yếu lệ thuộc vào nó và nó mang tính di truyền. DNA ở người có khoảng 3 ngàn tỷ cặp base – gồm 4 hóa chất: Adenine (A), Guanine (G), Cytosine (C), và Thymine (T). Thật kỳ diệu, và chỉ có Thiên Chúa mới tạo được như vậy!
Kinh Thánh cho biết về thời đại của Thiên Chúa: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Giessê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang”.
Đó là sự bình an đích thực, chỉ có ở Vương Quốc của Thiên Chúa. Hòa bình mà chúng ta hưởng ngày nay không vững bền, đôi khi chỉ là hòa-bình-ảo, nghĩa là không có chiến tranh súng đạn nhưng vẫn lo sợ đủ thứ, sợ vì nạn ô nhiễm khắp nơi, ngay cả thực phẩm cũng không an toàn thì làm sao bình an được đây? Ảo giác về hòa bình thôi!
Chưa được hưởng nền hòa bình đích thực vì chưa có công lý nghiêm minh. Có công lý mới khả dĩ có hòa bình. Có thời đại nào kỳ cục đến mức độ phải báo cáo hoặc khai báo khi đi làm từ thiện? Những người hảo tâm muốn làm từ thiện là có tội sao? Thật tồi tệ! Thảo nào tác giả Thánh Vịnh đã từng phải tha thiết cầu xin: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:1-2).
Vương Triều Thiên Chúa rất tuyệt vời, bởi vì Ngài là Quốc Vương Chân Lý, và Ngài chỉ tuyển trạch các quần thần thực sự có lòng nhân ái, vì thế “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Tv 72:7-8).
Thế lực trần gian luôn coi thường công lý và rất sợ sự thật, đám dân đen luôn bị những kẻ ăn trên ngồi trước đày đạo và áp bức, ăn chặn mọi thứ, kể cả túi mì tôm. Những người hảo tâm biếu một chút thực phẩm và ít tiền thì bị chúng cướp mất. Từ ngàn xưa, Kinh Thánh đã nói rất chính xác: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Trái ngược với nhân gian, Thiên Chúa là tình yêu, Ngài luôn chạnh lòng trắc ẩn với những kẻ thấp cổ bé miệng: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ” (Tv 72:12-13).
Lời hay thì không thật, lời thật thì không hay, thế nên người ta nói rằng “sự thật thì hay mất lòng”. Thà mất lòng trước rồi được lòng sau. Thiên Chúa luôn thẳng thắn, những người ưa lươn lẹo cảm thấy khó chịu và chói tai khi nghe Ngài giáo huấn, nhưng ai chịu nghe thì sẽ được an tâm và sống thanh thản. Quốc Vương Công Lý là Đức Giêsu Kitô, luôn nói thật và nói thẳng. Không thế cũng không được, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát con người khỏi lầm lạc (x. Ga 8:32).
Kinh Thánh xác định rạch ròi: “Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc” (Tv 72:17). Chắc chắn như thế. Sự thật mãi mãi là sự thật, người ta có cố ý bóp méo cỡ nào cũng không được. Người Việt cũng có câu: “Cây ngay không sợ chết đứng”.
Kinh Thánh cũng đã nói rõ: “Nịnh hót ai là giăng lưới dưới chân kẻ ấy” (Cn 29:5). Những kẻ bất tài vô dụng thì ưa nịnh bợ, khoái tâng hót. Chắc chắn kẻ nịnh hót là kẻ xấu, không đáng tin, vì họ là kẻ giăng bẫy hại chúng ta. Vậy mà thế gian lại “chuộng” phong cách đó. Thế nên ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã gióng lên hồi chuông cảnh báo: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4 & 6). Con đường đó chính là lòng dạ con người, là chính nếp nghĩ và các động thái khúc khuỷu đầy mưu mô thâm độc. Sửa cho thẳng con đường là một cách thanh lọc cần thiết để tâm hồn trở thành nơi xứng đáng cho Thiên Chúa ngự vào.
Dù có thế nào thì cũng đừng tự ái, đừng tuyệt vọng về tình trạng của mình. Mùa Vọng không chỉ nhắc chúng ta mong chờ Đấng Cứu Thế, mà còn dạy chúng ta duy trì niềm hy vọng. Có “lửa” hy vọng rồi sẽ có thể thắp sáng những thứ khác. Hãy lưu ý “chuỗi liên kết” này: Cuộc sống sẽ chấm dứt khi chúng ta NGỪNG mơ ước, hy vọng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn tin tưởng, tình yêu cũng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn quan tâm người khác. Thật đáng lưu ý biết bao!
Kinh Thánh là kho tàng vô giá, vì mọi thứ đều có thể tìm thấy trong đó. Càng biết Kinh Thánh càng thấy kỳ diệu. Thánh Phaolô cho biết: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15:4). Vững lòng trông cậy tức là tiếp tục hy vọng. Niềm hy vọng là cửa ngõ dẫn tới những vùng miền kỳ diệu mà con người chưa bao giờ ngờ tới.
Là con người, ai cũng rất yếu đuối, vấn đề là có cố gắng hay không. Thánh Phaolô đã kinh nghiệm như vậy, thế nên ông chân thành cầu mong: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 15:4-6).
Không ai có thể giúp mình bằng chính mình tự giúp mình. Thánh Phaolô cầu mong như vậy, nhưng chúng ta có nỗ lực thay đổi hay lại là chuyện khác. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. Thật vậy, tôi xin quả quyết: Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa” (Rm 15:7-9).
Phục vụ là điều cao cả. Chính Chúa Giêsu đã phục vụ và khuyên chúng ta phải phục vụ lẫn nhau. Phục vụ không hẳn là phục dịch như tôi tớ, mà đơn giản chỉ là yêu thương nhau, thiện cảm phải chân thành thể hiện từ ánh mắt.
Trình thuật Mt 3:1-12 nói về “con người giao thời” có tên gọi là Gioan. Ông là người-nối-kết-Tân-Cựu-Ước, là người tiền phong đi trước “mở đường” cho Chúa Giêsu.
Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đã rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Kinh Thánh cho biết rằng ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. DỌN và SỬA là hai hành động cần thiết: DỌN là làm sạch, SỬA là làm cho ngay ngắn. Phải DỌN trước rồi mới SỬA, không thể làm ngược lại.
Ông Gioan là “dị nhân” thứ thiệt, “bụi đời” chính cống, sống rất giản dị: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, thực phẩm là châu chấu và mật ong rừng. Người giản dị là người có chiều sâu nội tâm, thần kinh vững mạnh. Tất nhiên ông cũng có đặc điểm khác người: thật thà và thẳng thắn. Và chỉ vì ông nói thật, nói thẳng, muốn bảo vệ công bình xã hội, bảo vệ luân thường đạo lý nên ông bị những kẻ mưu ác ghét bỏ, toa rập với nhau lấy thủ cấp của ông (x. Mt 14:3-11).
Nghe nói có “anh chàng bụi đời” tên là Gioan ăn nói lưu loát và có phong cách lạ lùng, từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, người ta kéo đến ùn ùn để xem “người cõi trên” thế nào. Có lẽ mới đầu họ chỉ tò mò theo bản tính hiếu kỳ mà thôi, nhưng càng nghe càng thấm. Thế là họ cùng nhau thú tội và xin ông Gioan làm phép rửa cho họ ở sông Gio-đan.
Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc đến chịu phép rửa, ông biết họ giả vờ để mưu mô chuyện khuất tất, nên ông nói thẳng với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham’. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Mèn ơi, nói “xóc óc” ghê đi! Nhưng không thể không nói thẳng với những người giả hình, bề ngoài hiền như chiên ngoan mà bề trong là con cọp dự gầm gừ.
Chắc là họ cũng “chạm tự ái” lắm, nhưng họ không biết nói gì để phản đối, và lại họ thấy ông Gioan “chửi” đúng quá trời mà! Thấy họ im như thóc thối, ông Gioan nói luôn một lèo: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Cách thanh lọc của Thiên Chúa rất kỹ lưỡng!
Những lời của ông Gioan nói với nhóm Pharisêu và Sađốc cũng là lời cảnh báo dành cho mỗi chúng ta hôm nay. Có hồn thì tự liệu lấy. Thuận ngôn thì nghịch nhĩ, thuốc đắng mới đã tật. Phúc cho ai cảm thấy “ngứa tai” và “đắng lòng” khi nghe những lời thật như vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận ra Ngài qua các biến cố của cuộc đời để con kịp chấn chỉnh trong thời gian còn Giờ Thương Xót của Ngài. Xin giúp con dọn sạch và sửa lại đường đời con cho ngay ngắn để con được diễm phúc đón Đấng Emmanuel, Con Yêu Dấu Ngài, ngự vào hôm nay và mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại và luôn ở với chúng con. Amen.
15. "Thu lúa, đốt rơm" - Lm. Trọng Thưởng, CRM
Trong xã hội ngày nay, con người đề cao tự do nên rất quen thuộc với sự lựa chọn. Khi đi mua quần áo, đồ đạc, người ta lựa chọn những cái có mầu sắc hợp với thị hiếu, kiểu cách hợp với thời trang hoặc sở thích. Khi lựa chọn người để làm nơi nương tựa, các cô thích tìm những anh chàng cao ráo, đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, có bằng kỹ sư, bác sĩ, luật sư.... Và loại bỏ những cậu có chiều cao khiêm tốn, "nhan sắc" kém cỏi, nghèo lủng cả túi quần... Khi lựa chọn những cái đó người ta có quyền đặt tiêu chuẩn theo ý riêng mình. Thiên Chúa cũng lựa chọn con người để cho họ được hưởng phúc thiên đàng hay phải đoạ phạt trong hoả ngục. Hình ảnh tượng trưng mà thánh Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy về Đấng Cứu Thế lựa chọn đó là "cầm nia trong tay mà sảy lúa"; lúa được thu vào kho, còn rơm bị đốt trong lửa không hề tắt.
Thiên Chúa lựa chọn theo tiêu chuẩn nào? Thánh Gioan Tẩy Giả là bậc tiên tri được Thiên Chúa tuyển chọn, cách sống và lối ăn mặc của ngài đã nói lên điều đó. Ngài là ngôn sứ của Thiên Chúa, ánh mắt nhìn và sự xét đoán của ngài dựa vào tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Dân chúng đủ loại từ khắp miền Giuđêa, người giầu sang cũng như nghèo khó, nông dân cũng như thương gia, học giả cũng như người thất học, tuốn đến để xin Gioan làm phép rửa. Gioan không lên án một ai ngoài những người Pharisiêu và ký lục. Họ là những người tự cho mình là công chính, sau này cũng bị Chúa Giêsu lên án. Họ bày tạo ra những luật thanh tẩy rườm rà và giữ rất nghiêm nhặt, nhưng lại lơ là với những điều chính yếu trong sách luật. Chúa đã lên án họ là bọn giả hình, nối dài thẻ kinh và tua áo để nuốt chửng gia tài các bà goá. Gioan cũng thấy việc họ đến xin chịu phép rửa là một hành vi giả tạo nên đã cảnh cáo: đừng tự phụ là con cái Abraham rồi sống bừa bãi, làm điều xằng bậy. Nếu không ăn năn hối cải, sửa đổi đời sống, họ vẫn bị tiêu diệt như một cây sinh ra trái xấu là những hành động tội lỗi ngấm ngầm của họ.
Tật xấu tự phụ, cho mình là người công chính có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình không có. Nhưng xét cho kỹ thì hầu như không ai tránh khỏi. Khi chúng ta nhìn người khác làm điều sai rồi kết án họ là người xấu, chê họ thế này, chê họ thế khác, đó là lúc chúng ta ngầm cho rằng mình khá hơn những người đó, nên có quyền xét đoán, kết án họ. Đây là những hoa quả xấu mà cây đời sống của chúng ta có thể sinh ra, còn nhiều hoa quả xấu nữa như lòng ghen tỵ, hằn thù, ganh ghét, kiêu căng, chia rẽ, chống đối, bạo động... Những hoa quả xấu đó sẽ đưa chúng ta vào số cây bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy chúng ta hãy cẩn thận, cố gắng đạt được tiêu chuẩn mà Thiên Chúa muốn tìm kiếm nơi mỗi người chúng ta: đó là hoa quả yêu thương, hy sinh, quảng đại, phục vụ, đoàn kết, tha thứ.
16. Mở đường Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có câu chuyện vui kể rằng: Một lần, để phát động phong trào An Toàn Giao Thông, một tổ chức thuộc Liên hiệp quốc đã tổ chức cuộc thi xã luận quốc tế với chủ đề “Con đường với cuộc sống”. Sau đây là một số bài thi được ban giám khảo đánh giá cao:
- Nước Pháp (2 bài): “Con đường tình yêu”, “Nên tỏ tình trên đoạn đường như thế nào?”.
- Nước Mỹ: “Con đường nào có thể rút lui sau khi phát động cuộc chiến tranh?”.
- Nước ý: Những con đường trong tranh trừu tượng!
- Nước Anh: “Đường đến các trường Đại học và câu lạc bộ bóng đá”!
- Nước Đức: “Luận về con đường trong triết học”!
- Nước Singapor: “Cần phải làm gì để các con đường luôn sạch sẽ?”.
- Nước Trung Quốc: “Người ta có thể làm những con đường… giả, đường nhái được không?”.
- Và… Việt Nam (3 bài): “Tại sao cần đào lấp?”, “Khi đường trở thành dòng sông”, “Những con đường cát bụi”!
Con đường thật muôn màu muôn vẻ. Có con đường vật chất để đi và cũng có con đường là hướng đi của cả một dân tộc, một đất nước. Con đường được làm tốt sẽ phục vụ tốt cho cuộc sống. Ngược lại sẽ là bất hạnh cho những ai đi trên con đường ấy.
Việt Nam đang đi trên con đường hướng tới xã hội chủ nghĩa. Có người bảo sẽ không bao giờ tới. Có người cho rằng tới mà rất chậm. Dù ai nói ngã nói nghiêng thì dân tộc Việt Nam đã đi trên con đường này suốt mấy chục năm dù vẫn xây chưa xong hạ tầng cơ sở, vẫn là bài toán nan giải để hoàn thành.
Người ta nói đường và chân là đôi bạn. Đường không có dấu chân người, sẽ không còn là con đường, chỉ là cỏ dại hoang vu phủ kín lối đi. Người không có đường sẽ không đi về đâu cả. Có khi còn mất cả hường đi. Con người và con đường. Đôi bạn làm nên cuộc đời nhau. Con người làm thành lối mòn cho con đường và con đường thành một kỷ niệm đẹp cho con người một khi đã đi qua.
Nhà văn Lộ Tấn khi 20 tuổi được cha mẹ gửi sang du học tại Nhật. Ông theo học ngành Y. Tình cờ ông được xem một đoạn phim thời sự, trong đó có cảnh một người Trung quốc bị người Nhật hành hình, điều đáng buồn là rất nhiều người Trung quốc khỏe mạnh đứng xem với vẻ mặt đần độn, không phản ứng gì. Ông lập tức bỏ học ngành Y năm thứ 2 và chuyển sang viết văn. Bởi ông nhận thấy học chữa bệnh trong lúc này không quan trọng, bởi dân mà con ngu muội, hèn nhát, thì dù thân thể có khỏe mạnh cũng chỉ là nô lệ mà thôi. Từ đó ông muốn dùng ngòi bút để chữa bệnh tật trong tính cách dân tộc. Chính chàng trai này là tác giả của câu nói nổi tiếng để khích lệ những người mở đường: “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường, người ta đi mãi rồi thành đường mà thôi”.
Hôm nay giữa sa mạc hoang vu, Gioan mời gọi mọi người hãy làm thành một con đường. Một con đường thẳng ngay thay cho đường quanh co. Một con đường bằng phẳng thay cho đồi núi gồ ghề. Con đường vốn đã không có ở hoang địa, vì hoang địa đâu có người qua lại, nhưng Gioan mời gọi mọi người hãy đi vào hoang địa để tạo thành một con đường sám hối ăn năn cho Con Chúa Trời ngự đến. Hãy mở lối trong hoang địa bằng lối mòn của tình người liên đới và cảm thông. Hãy mở lối cho con người đến với nhau trong hòa bình và thân ái. Đường của yêu thương xóa bỏ ngăn cách hận thù. Đường của thứ tha để xây dựng tình bằng hữu của anh em bốn bể một nhà. Đường của bác ái để xây dựng hạnh phúc cho tha nhân. Con đường của Nước Trời còn hướng cho mọi người biết nhìn về trời cao để sống thanh thoát với những bon chen trần gian, sống vượt lên trên những tham sân si để sống vui tươi và hạnh phúc.
Vâng thưa anh chị em, cuộc đời rất cần những con đường, nhưng đừng bao giờ mở đường để gây đau khổ cho nhau bằng chiến tranh, bằng hận thù. Và cũng đừng mở đường để tìm tư lợi riêng, nhưng mở đường để tạo tình liên đới giữa con người với nhau được gần gũi hơn. Và mở đường phải nhắm đến phục vụ cho nhu cầu con người chứ không phải cho một nhóm người hay một giai cấp nào.
Lời ngôn sứ Gioan vẫn đang mời gọi chúng ta mở lối đường cho Chúa ngự trị. Gioan vẫn thiết tha mời gọi chúng ta hãn san bằng núi đồi của kiêu căng. Hãy lấp đầy thung lũng của đam mê tật xấu. Hãy nắn cho ngay thẳng tính gian dối hại người. Hãy sống một cuộc đời cho xứng với lòng sám hối ăn năn để cho Con Chúa Trời giáng trần nơi cung lòng mỗi người chúng ta. Amen.
17. Chúa chỉ cần tôi một tấm lòng
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quan Trung)
Một trong những điều tôi cảm thấy thấm buồn khi màu tím mùa vọng ngày càng đậm nét trong mùa Phụng vụ đón mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng trần là: “Rất nhiều người không đủ can đảm tha thứ cho chính mình vì những lầm lỗi đã vô tình hay cố ý mắc phải trong đạo làm chủ quản lý đối với tâm hồn và thân xác mình; trong đạo làm người đối với ông bà cha mẹ và tha nhân; và đặc biệt là đạo làm con đối với Đấng đã yêu thương tạo tác nên mình!”
Đâu phải mỗi lần đối diện với thử thách của cuộc sống, là ai cũng thắng được hết đâu? Không ai muốn mình xấu bao giờ! Không ai muốn mình thất bại bao giờ! Và cũng chẳng ai muốn mình sai lầm bao giờ! Nhưng không ai có thể lường trước được hết những gì sẽ sắp xảy tới cho mình! Những “biển báo giao thông tâm linh” vẫn có đó nhưng đâu phải lúc nào mình cũng chú tâm nhìn chúng để đừng vấp ngã, đừng lỡ chân, đừng trật bước trên vạn nẻo đường đời mà ngày ngày mình dấn bước đâu? Chủ quan luôn là một thói tật không hay, không tốt, không đẹp! Nhưng mấy ai trong đời không từng thất bại, không từng đau đớn, không từng cay đắng ngập lòng bởi cá tính này đâu? Và điều này đã từng được Đức Giêsu thốt lên trong đau khổ nhưng với trọn tấm lòng đầy cảm thông cùng ba môn đệ thân tín trong vườn cây dầu năm xưa: “các con hãy canh thức cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”(Mt 26,41; Mc 14,38). Một sự thương cảm đầy tình người, bởi ngoài Đấng tối cao, còn có ai hoàn hảo?
Mặc cảm lỗi lầm kéo dần ta ra xa nguồn ân phúc; né tránh mối tình tự hiến mà Con Chúa Trời đang mong mõi ban tặng cho đời, cơn cám dỗ “mình không xứng đáng vì đã xúc phạm quá nặng nề đến Đấng Cao Xanh” nên “ làm sao Chúa có thể tha cho tôi được!” đã đẩy ta vào mạng nhện của sự dữ, làm ta quên hay cố tình quên Đấng Cứu Tinh đã từng khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”(Mt 9, 13; Mc 2, 17; Lc 5, 32) bởi vì “người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”(Mc 2,17; Lc 5,32). Biết thụ tạo mạnh sức - yếu hồn, Chúa đã tự nguyện bước tới đưa tay ra trước để chờ đợi ôm ta vào lòng, để Người có cơ hội vỗ về an ủi, để Người có điều kiện thể hiện chức năng của một lương y tâm linh đầy nhiệt huyết, sao ta cứ xa tránh Người?
Khi mở quyển “Vượt Lên Nghịch Cảnh” của loạt sách Chicken Soup for the Surviving Soul” do nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn in ấn, trong câu chuyện đầu tiên “Cậu bé và nhà tỷ phú”, tôi gặp ngay câu tiêu đề cho cả cốt truyện: “Không có cái gọi là tuyệt vọng” (Henry Ford) làm tôi rộn lên trong lòng một niềm vui khó tả vì hiểu rằng, tình đồng loại không thể thiếu cho tôi, nếu tôi biết vượt lên mặc cảm của đời mình. Cậu bé Craig Shergold là niềm vui không những cho gia đình, mà còn cho cả chòm xóm, láng giềng, bạn bè và cả thầy cô nữa. Vậy mà một khối u trong não đã làm cho mọi người thân của cậu bé vùng Carohalton, ngoại ô London hốt hoảng bởi biết rằng sinh mạng của cậu khó được bảo toàn. Nhưng rồi cậu bé đã dũng cảm chấp nhận hoàn cảnh hiện tại để đi vào phòng mổ với lời khuyên của người mẹ thân yêu: “Mẹ muốn con phải thật dũng cảm!” Với khối u ác tính, một dạng ung thư não hoạt tính, mấy ai thoát chết đâu? Nhưng rồi những cánh thiệp khắp nơi đổ về động viên, khuyến khích đã làm cậu bé phấn chấn hơn. Với 1.000.266 thiệp, trong đó có cả những tấm thiệp của một số vị lãnh tụ trên thế giới như Magaret Thatcher, Thái tử Charles, George Bush, Ronald Reagan, Mikhail Gorbachev và cả hai thần tượng của Craig là Michael Jackson và Sylvester Stallone, Craig đã phá vỡ kỷ lục Guinness về người nhận được nhiều thiệp nhất mà trước đây một cậu bé người Anh khác nắm giữ (1.000.265 thiệp). Niềm vui nối tiếp niềm vui, cách đó 6000km nhà tỷ phú 77 tuổi- John Kluge ở Charlottesville, bang Virginia đã nhận được một lá thư từ những người bạn về tình trạng quá hiểm nghèo của cậu bé. Ông đã từng quyên góp hàng triệu đô la cho những người xứng đáng, nhưng chưa bao giờ ông tặng tiền trực tiếp cho một cá nhân nào. Và cũng không muốn tạo thành một tiền lệ hay khơi dậy những hy vọng hư ảo cho gia đình Craig. Nhưng rồi, khi tiếp xúc với gia đình, qua câu nói dũng cảm của cậu bé bởi gia đình không muốn cậu đau đớn nữa vì đã chịu phẫu thuật nhiều lần: “Mẹ ơi, không có thắng lợi nào mà không phải trả giá mà mẹ!” chính ý chí phấn đấu của cậu bé đã làm nhà tỷ phú quyết tâm nổ lực bằng mọi giá giành lại mạng sống cho em.Và rồi nụ cười đã tỏa rạng trên mọi khuôn mặt: Ca phẫu thuật đã thành công vượt quá mong đợi của nền y học hiện đại. Mùa xuân đã trở về trên khắp nước Anh với lời tạ ơn của Manon khi nói với chồng là Ernie lúc nhận được tin nhà tỷ phú John Kluge đã tài trợ trọn vẹn cho ca phẫu thuật của con mình: “Em nghĩ Chúa đã ban cho chúng ta một phép mầu!”.
Nhìn lại đời mình, tôi cũng đã từng chán nản, đã từng thất vọng, đã từng không ít lần mặc cảm với Chúa, tránh né Chúa, xa lìa Chúa vì phải đối diện, phải đối đầu, phải chứng kiến với quá nhiều nghịch cảnh mà sức mình không kham nỗi bởi chẳng ai đỡ nâng, chẳng ai trợ giúp, chẳng ai đồng hành! Nhưng rồi, trong thanh vắng, trong trầm lặng, trong những đêm hôm khuya khoắt, bỗng nghe như có tiếng thủ thỉ bên tai tôi những lời thánh thi trong kinh sáng ngày thường của mùa vọng vọng về:
“Đừng mê ngủ đứng lên hồn ta hỡi,
Dẫu thấy mình còn hôi hám bùn nhơ,
Vì hào quang chói lọi của kim ô
Làm tiêu tan hết những gì nguy hại.
Chiên Thiên Chúa đã từ nơi thượng giới
Xuống cõi trần đền tội vạ chúng ta.
Nào cùng nhau chạy đến lượng hãi hà,
Xin tha thứ bằng lời kinh thắm lệ"
Rồi lời thánh vịnh 26, 10 lại tiếp tục trấn tĩnh tôi:
“Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,
Thì hãy còn có Chúa đón nhận con”
Và thúc giục tôi hãy xóa đi mặc cảm: mặc cảm thật! bởi thấy mình bất xứng với tình yêu vời vợi từ Trời. Mặc cảm giả! Bởi mình chỉ muốn sống theo ý mình,đạt ý mình mà vẫn biết rõ điều mình đang muốn không phải là ý Chúa! Cũng chẳng đi đúng nền đạo đức nhân gian!
“Hãy cậy trông vào Chúa,
Mạnh bạo lên can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 26, 14)
Cậu thiếu niên Craig đã phấn đấu hết mình, cố vượt qua những giây phút chán nản, suy sụp để vươn lên tìm nguồn sống với sự trợ lực của tình người và sự can thiệp thần thiêng của Đấng Tạo Thành. Và cậu đã chiến thắng! Còn tôi? Còn chúng ta? Lời mời gọi từ vị Tiền Hô của Đấng Cứu Tinh thúc giục: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Mt 3, 3), không lẽ nào không động lòng ta? Nếu thực lòng ta quay về với NGUỒN BÌNH AN ĐÍCH THỰC, với tâm tình khiêm tốn như thánh Gioan Tiền Hô: “còn Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3, 12), chắc chắn cơn cám dỗ với mặc cảm TA KHÔNG XỨNG ĐÁNG sẽ không còn là chướng ngại, không còn là rào chắn, không còn là e dè sợ hãi cản bước ta mở rộng lòng mình, để Đấng Cứu Tinh có thể đến cư ngụ nơi mái nhà đổ nát của ta! Chúa chỉ cần nơi ta tấm lòng chân thành, còn mọi sự, Chúa sẽ tính cho! Ta có tin điều đó không?
18. Chúa đang đến - Alphonse Marie Trần Bình An
Hoang mạc là vùng đất rất khô do có lượng giáng thủy thấp (chủ yếu là mưa, còn tuyết hay sương giá thì rất thấp), thường có ít lớp phủ thực vật. Các hoang mạc còn được mô tả là những khu vực mà nước bị mất theo phương thức bốc hơi nhiều hơn so với mưa. Nhìn chung các hoang mạc có lượng mưa ít hơn 250 mm mỗi năm.
Các hoang mạc chiếm khoảng 1/3 diện tích bề mặt Trái Đất. Các hoang mạc nóng thường có sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm và theo mùa, với nhiệt độ ban ngày cao và ban đêm thấp. Ở các hoang mạc nóng, nhiệt độ ban ngày có thể lên đến 45 °C/318 F, hoặc cao hơn trong mùa hè, và xuống 0 °C/273 F, hoặc thấp hơn vào ban đêm trong mùa đông. Không khí các hoang mạc không có khả năng ngăn chặn ánh sáng mặt trời ban ngày (trời không mây) hoặc giữ nhiệt vào ban đêm. Do đó, vào ban ngày hầu hết nhiệt từ mặt trời sẽ tiếp cận đến mặt đất, và ngay sau khi mặt trời lặn, hoang mạc lạnh rất nhanh. (Wikipedia)
Ông Gioan Tiền Hô đã không khôn ngoan chọn chốn thành thị đông đúc để tiện rao giảng, nhưng lại dại dột vào hoang địa, vốn gay gắt, khắc nghiệt, cả ngày lẫn đêm, lại chẳng khoác áo tu sĩ đúng quy cách, cũng chẳng dùng lương thực đủ dinh dưỡng, thế mà thiên hạ cứ ồ ạt kéo vào hoang địa nghe ông kêu gọi sám hối.
Tịnh tâm
Ngày nay, chỉ những du khách thừa tiền lắm của, mới có thể đi đến hoang địa, để thưởng ngoạn những cảnh vật thiên nhiên kỳ vỹ, cùng thụ hưởng đầy đủ tiện nghi, với chi phí ngất ngưởng cao. Có lẽ bây giờ ông Gioan Tiền Hô sẽ chẳng kêu gọi Kitô hữu đi vào hoang địa nữa, mà chỉ yêu cầu tìm những giây phút tĩnh lặng tại tư gia, hay chốn yên tĩnh nào đó, như giáo đường, tu viện, để tịnh tâm xét mình và cầu nguyện.
Thoát ra khỏi xã hội xô bồ, ô nhiễm tiếng động, vấy bẩn bởi tiền bạc tanh tưởi, ngột ngạt tranh chức, giành quyền, bon chen hưởng lạc, sống mái danh lợi, thì con người mới có thể thư giãn, khỏi trầm cảm, mà thanh thoát, bình tĩnh nhìn lại bản thân, cùng dâng lời nguyện cầu.
Nếu mỗi ngày chỉ dành ít nhất 15 phút trong 1.440 phút, để tịnh tâm, tự vấn đã làm gì tốt và xấu trong ngày, đã kết thêm bạn, giúp đỡ phục vụ ai, hay chỉ chuốc thêm oán thù, ganh ghét, dối gian, để ăn năn, sám hối và cầu nguyện, thì chắc hẳn mai rày sẽ khấm khá hơn, thăng tiến hơn.
Sám hối
“Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng." Nếu tử tế tịnh tâm, khách quan và khiêm nhu, thì có thể dễ dàng nhận ra mình đã tà tâm, tà ý, tiểu xảo, ma mãnh, ứng xử vụ lợi, vun quén cá nhân, hay đã bỏ mình, hy sinh, dấn thân phục vụ tha nhân. Tư tưởng, lời nói, hành động của mình liệu có cảm thông, chân thành, chính đáng, hữu ích, chia sẻ, giúp đỡ, yêu thương và thương xót tha nhân, hay hoàn toàn ngược lại. Vậy chần chừ chi nữa, mà không ăn năn, sám hối?
Sám hối không dừng lại viêc thống thiết hối hận, xin chừa thói hư tật xấu, mà còn cải tiến, đổi mới, tân trang, lên đời sao cho xứng đáng là chiên ngoan của Mục Tử Nhân Lành. Người luôn đòi hỏi tấm lòng nhân ái chân tình, chứ đâu thích hình thức rềnh rang bề ngoài.“Ta muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ.” (Hs 6, 6 & Mt 12, 7)
Ông Gioan Tiền Hô còn chỉ dạy chu đáo về tâm tình sám hối, chứ không chỉ kêu gọi dân chúng đến chịu phép rửa qua loa chiếu lệ cho xong. “Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối.” Như thế, sám hối cần có hành động cụ thể tốt lành tiếp theo, chứ không thể thú tội suông là đã hoàn tất. Với mình, cần chay tịnh, hãm mình, bỏ mình, không chiều theo tánh xác thịt. Với người, cần nhân ái, khoan dung, tha thứ, tận tuỵ phục vụ, vác thập giá mà theo Chúa.
Đón Chúa
Đức Giêsu đã đến rồi, vẫn còn mãi đang đến và sẽ đến. Người đã đến hơn hai nghìn năm tại Bêlem, vẫn đang ở với con người qua Tin Mừng và Thánh Thể, qua tha nhân chung quanh mỗi người. Người đang đến qua Mùa Vọng năm nay. Người còn sẽ đến vào thời mạt thế. “Chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa.” Với ơn cứu độ, Người đến giải thoát con người khỏi kiếp vong nô, thánh hoá con người, đưa con người trở lại vị thế con Thiên Chúa, nếu con người sẵn sàng hoan hỷ chấp nhận.
Nhưng để xứng đáng đón rước Đấng Cứu Thế, mỗi người cần trở nên bé mọn, đơn sơ, nghèo khó, vâng phục, như chính Người đã làm gương sáng, trở nên hài nhi yếu đuối, bị truy sát giữa một xã hội thực dụng, bái vật, thậm chí từ khước Thiên Chúa. Chính Người đã tiết lộ rằng, những đối tượng đón nhận Chúa là những kẻ bé mọn."Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn." (Lc 10, 21-24)
Người còn nhiều lần tái khẳng định mục đích đến thế gian cứu độ những kẻ bé mọn lầm lạc, tội lỗi:"Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi." (Mc 2, 17). Những người đạo đức giả hình, kiêu căng, tự phụ, mạo nhận là công chính, thì dĩ nhiên chẳng thể nào thật lòng muốn đón Chúa.
Ông Gioan Tiền Hô, ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, tuy đã vào sống trong hoang mạc chay tịnh, đạm bạc, kham khổ, nghèo khó, thế mà ngài còn tự nhận rằng không đáng xách giày cho Đức Kitô, thì người Kitô hữu liệu còn hy vọng gì chăng? Rất hy vọng, vì Đức Giêsu vô cùng đại lượng, giầu lòng thương xót, đã mở rộng vòng tay mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng."(Mt 11, 28-30) Vấn đề là có thành tâm ước nguyện đón rước Chúa hay không?
“Người Công Giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, và là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng.” (Đường Hy Vọng, số 950)
Trời cao hãy đổ mưa xuống. Và ngàn mây hãy mưa đấng chuộc tội. Trời cao hãy đổ sương xuống. Và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời. Trong đêm u tối chúng con mong ngày mau tới. Như nai đang khát ước mong mau tìm thấy suối. Chúa ơi! Dừng con giận Chúa lại thôi. Chúa ơi! Đoàn con đã hối tội rồi…(sáng tác Duy Tân, Trời Cao)
Kính xin mẹ Maria cầu bầu cho chúng con khiêm nhu, sốt sắng sám hối, đổi mới, hoan hỷ và hy vọng đón Chúa giáng sinh trong tâm hồn chúng con. Amen.
19. Lời cảnh báo khẩn cấp nhất - AM Trần Bình An
Tự thành lập một tổ chức trẻ em vì môi trường (ECO) khi mới 10 tuổi, hai năm sau đó lại cùng bạn bè quyên tiền, trang trải mọi chi phí tham dự hội nghị thượng đỉnh Trái đất đầu tiên, ở Rio de Janeiro, Brazil, năm 1992, Severn Suzuki đã trở thành “cô gái khiến cả thế giới im lặng trong 6 phút”. Nước mắt và những gương mặt sững sờ của các nhà lãnh đạo trên thế giới còn hiện rõ trong băng ghi hình vì bài phát biểu của cô bé.
“Cháu sợ ra ngoài ánh nắng mặt trời vì những lỗ thủng trên tầng ozone. Cháu sợ hít thở không khí vì cháu không biết có những loại hóa chất gì trong đó. Mới vài năm trước cháu vẫn thường đi câu cá với bốở quê Vancouver, còn bây giờ cháu thấy lũ cá với đầy tế bào ung thư”.
“Cháu đang đấu tranh cho tương lai của bản thân. Cháu ở đây để nói thay cho những đứa trẻ đang chết đói, mà không ai nghe được tiếng khóc của chúng. Cháu ở đây để nói thay cho vô số loài động vật đang chết dần trên cả hành tinh này, vì không có nơi nào để đi.”
Không quá thể hiện cảm xúc bằng đôi mắt hay bàn tay, nhưng với giọng điệu quả quyết, có những lúc cô bé gần như cầu xin các đại biểu: “Cháu chỉ là một đứa trẻ và cháu không biết hết mọi giải pháp, nhưng cháu muốn các cô chú hiểu rằng các cô chú cũng thế. Các cô chú không biết cách xử lý những lỗ thủng ở tầng ozone, không biết cách khiến cá hồi trở lại một con suối đã ngưng chảy, không biết cách hồi sinh một loài vật đã tuyệt chủng và cũng không thể mang lại những khu rừng ở những nơi giờ đây chỉ còn là sa mạc. Nếu các cô chú không biết cách khắc phục hậu quả thì xin đừng phá hoại thêm nữa!”.
Kết thúc sáu phút trình bày của cô bé, ông Al Gore, sau này trở thành phó tổng thống Mỹ, đã chạy tới chúc mừng Severn Suzuki về một bài phát biểu mà ông thấy “hay nhất, muốn nghe nhất tại hội nghị”. (http://www.youtube.com/watch?v=D0Z3EtO0Yx4&feature=player_embedded)
Hiện nay, cô Severn Suzuki đã 34 tuổi, vẫn tiếp tục hiện thực hóa mọi lời nói trong bài phát biểu thành hành động. Cô đã bỏ ra hơn 20 năm đi khắp thế giới, diễn thuyết và cảnh báo về hiểm họa môi trường bị hủy hoại. Còn Thánh Gioan Tiền Hô hơn 2000 năm trước, đã hùng hồn, gay gắt, cảnh báo khẩn cấp và quyết liệt hơn nữa, về cuộc phán xét của Thiên Chúa: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa.”
Thời kỳ đã mãn
Con người thường hay quên một thực tế rất quan trọng. Đó là thân phận quá mong manh, mỏng dòn, dễ vỡ, có thể chết bất cứ lúc nào. Biết đâu, đây chính là những dòng chữ cuối cùng của cuộc đời tôi? Ngộ độc thực phẩm, tai nạn giao thông, tai bay vạ gió, cháy nhà, bão lụt, tất cả đều có thể xảy ra cho tôi, cũng như cho người thân, bạn bè, hay kẻ xa lạ bất cứ lúc nào, nơi nào. Thế mà tôi cứ tưởng như sống đời, sỗng mãi, sống hoài, y như vọng tưởng hão huyền của con người hằng bao đời.
Nếu Chúa gọi tôi ngay lúc này, một giờ, một ngày, hay một tháng nữa, tôi phải ứng xử ra sao? Nếu không phải là xưng tội, rước Mình Thánh Chúa? Nhưng tôi có gì đem theo, ngoài tội lỗi đen đúa, ngoài tâm hồn lấm len? Hay là đúng như lời Thánh Gioan Tiền Hô và Đức Giêsu nhận xét: “Nòi rắn độc kia!” (Mt 3,7), hay là “mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23,27)
Sám hối
Thiên Chúa thấu suốt hết mọi sự, từ bên ngoài đến tận cõi lòng, tâm tư, suy nghĩ, ước muốn, đam mê. Tôi chỉ có thể giả vờ đóng kịch với tha nhân, nhưng không thể nào qua mắt Ngài. Tôi có thể là người đàng hoàng tử tế với mọi người, nhưng là người con hoang đàng với Chúa.
Tôi theo Đạo, nhưng chưa sống đạo. Tôi chấp hành và thực hiện đủ những luật lệ, Mười Điều Răn và các điều Hội Thánh dạy, tôi mới chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc. Nào có ích gì trước mặt Chúa? Vì tôi “bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong thì toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23,28). Vì tôi chỉ mới làm những việc đạo dức bắt buộc, chứ tâm hồn tôi còn mải đi hoang, khẩu phật tâm xà.
Chừng nào tôi tự giác theo Chúa, sống đạo, sống Lời Chúa, khiêm tốn, nhìn nhận ra những tội lỗi vấp phạm đến tha nhân và Thiên Chúa, tôi mới thấy cần đến Lòng Thương xót Chúa, mới muốn trở về với Người Cha Nhân Từ, vốn đang mong mỏi chờ đón tôi trở về.
Sinh hoa kết trái
Canh tân, đổi mới tâm hồn, tôi mới sinh hoa kết trái, khi biết nhìn nhận tha nhân là anh em của tôi, thấy động lòng và giúp đỡ những người nghèo khó, hoạn nạn, tàn tật, kém may mắn. Những người lâu nay tôi hờ hững chẳng quan tâm, chẳng để ý gần gũi.
Sinh hoa kết trái là sống Tin Mừng chân thật, thực hiện đúng đắn Lời Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa, chứng nhân của Đức Giêsu trong môi trường xã hội chuộng vật chất phù phiếm.
Nhưng khó khăn hơn hết là đối phó với chính mình, là vượt qua bản thân với những ích kỷ nhỏ nhen, đố kỵ, ganh ghét, thù hằn, oán hận, với những đòi hỏi hưởng thụ, danh lợi, tà tâm tà ý. Tôi có chịu chết đi thân xác, chết đi những nhục dục, những ham hố, tham lam, thì mới xứng đáng được Chúa đoái thương, ban Ơn Cứu Độ. “Chính khi chết đi là vui sống muôn đời!” (Kinh Hòa Bình).
Lời cảnh báo gay gắt và khẩn cấp của Thánh Gioan Tiền Hô sẽ chẳng thể lay động tôi, bao lâu tôi cứ nhắm mắt theo nếp sống cũ, tham sân si. Nhưng chẳng lẽ tôi đã thấy quan tài mà chưa nhỏ lệ sao?
“Một người giữ đạo, đọc nhiều kinh, dự nhiều lễ, mà không sống đạo, chẳng khác gì người được hỏi: “Bạn có khỏe không?” Liền đáp: “Tôi ăn một ngày sáu bữa.” Chưa hẳn ăn nhiều bữa là đã khỏe.” (Đường Hy Vọng, số 101)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Thánh Gioan đã kêu gọi: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.” Xin Chúa thức tỉnh chúng con khỏi giấc ngủ u mê thế gian, để sốt sắng sám hối, canh tân đời sống, làm việc lành cho xứng với sự thống hối, hầu được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ chúng con biết kết hiệp việc đạo đức với đời sống đạo trung tín, để chúng con thực thi cụ thể và hữu hiệu Lời Hằng Sống. Amen.
20. Nước Trời đã gần bên
(Suy niệm của Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Matthêô bắt đầu nói về Chúa Giêsu từ chương 3 trong tương quan với Gioan Tẩy Giả (3,1-12). Theo sau đoạn nầy là hai biến cố quan trọng: Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,13-17), và chịu cám dỗ (4,1-11). Sau đó, sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu cách chính thức (4,12-17) với lời rao giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (4,17).
Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: - Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6); - Gioan ngỏ với nhóm Pharisêô và Sađucêô (3,7-10); - Gioan loan báo Đấng sẽ đến và sứ vụ trổi vượt của Người (3,11-12). Chủ đề chính của đoạn nầy là “sám hối”, metanoeò (3,2.8 ) và “phép rửa” baptizò (3,1.7.11[2x]). Gioan rao giảng sự sám hối vì “Nước Trời đã gần đến” (3,2), và ông thanh tẩy bằng nước cho những ai tỏ lòng sám hối (c.11). Chúa Giêsu sẽ xuất hiện ở câu 3,13. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trước khi Người đến để chuẩn bị lòng dân đón tiếp Người.
Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6): - Gioan xuất hiện và lời rao giảng của ông (3,1-2); - Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4); - Dân chúng đến với ông (3,5-7).
Trong hai câu đầu tiên Matthêô giới thiệu ngay khung cảnh, thời gian và lời rao giảng của Gioan (c.1). Gioan xuất hiện (c.1), paraginomai, “đến”, động từ nầy cũng được dùng cho Chúa Giêsu (3,13). Matthêô muốn gắn liền sứ vụ của Gioan vào sứ vụ của Chúa Giêsu (4,17). Chỉ dẫn thời gian “trong những ngày ấy” ám chỉ lúc Gioan xuất hiện Chúa Giêsu đang còn ở Giuđêa (x. 2,1). Khung cảnh “trong sa mạc xứ Giuđêa” đặt con người Gioan và lời loan báo của ông liên hệ đến Isaia người loan báo kế hoạch cứu độ mới của Thiên Chúa cho dân Israel (x. Is 40,1-11).
Lời kêu gọi của Gioan là “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (3,2; 4,17; 10,7)
Đặc điểm của Matthêô là đặt việc sám hối liên hệ với Nước Trời, chứ không trực tiếp với việc tha tội (x. Mc 1,4; Lc 3,3). Động từ metanoeò theo nguyên tự có nghĩa là “thay đổi tâm trí” “thay đổi cách hiểu/cách suy nghĩ”; trong meta-noeò có “meta” có nghĩa là “thay đổi”, “chuyển sang”, “biến đổi” (x. 21,29.32; 17,2); và “noeò” có nghĩa là nhận thức bằng tâm trí, là hiểu biết. Matthêô dùng động từ noeò nầy ở thể phủ định trong lời Chúa Giêsu khiển trách hoặc người Pharisêô hoặc các môn đệ của Người, vì họ không hiểu đúng theo cách của Chúa (x. 15,17; 16,9.11). Liên quan đến động từ metanoeò, trong 11,20-21 Chúa Giêsu trách dân thành Kôrazin và Bêthsaiđa vì họ đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện, nhưng họ không “sám hối”, vì họ đã không hiểu/nhận ra Người là ai dù đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện (x. 11,20.21; 12,41). Cũng thế, trong 12,41 Chúa Giêsu lại khiển trách “thế hệ nầy” vì họ đã không “sám hối” khi nghe lời Người rao giảng. Lý do duy nhất là vì họ không nhận Người là “cao trọng hơn Giôna”.
Cách nói “Nước Trời” là theo cách dùng của người Do thái để tránh gọi tên “Thiên Chúa”. Matthêô dùng nó đến 24 lần, trong khi “Nước Thiên Chúa” chỉ bốn lần (12,28; 19,24; 21,31.43). Ý nghĩa của hai cách nói nầy giống nhau (x. 19,23-24). Động từ “gần đến”, egizò, chỉ một sự kiện tới giai đoạn cuối cùng và sắp hoàn tất. Khi Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem là lúc Người sắp kết thúc của sứ vụ cứu chuộc (21,1; 26,45-46); cũng thế về mùa gặt (21,34). Như thế, “Nước Trời đến gần” là giai đoạn cuối cùng trong chương trình cứu chuộc và không còn một nước nào khác nữa. Nước Trời nầy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy, sám hối là thay đổi cách suy nghĩ để nhận ra Nước Trời đang đến và có điều kiện đi vào Nước Trời. Đó cũng chính là nhận ra và tin vào Chúa Giêsu.
Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4)
Câu 3,3 trích dẫn từ phần mở đầu của sách Isaia 40,1-11. Đoạn mở đầu nầy loan báo thời kỳ cứu độ mới cho dân Israel. Tiếng kêu “dọn đường cho Chúa” ngỏ đến một tập thể. Hình ảnh “bạt lối Người đi” nói đến việc tiến vào khải hoàn của một vị vua. Theo sau lời kêu gọi dọn lối sửa đường, Isaia loan báo việc Thiên Chúa đến để cứu độ dân Người (Is 40,4). Matthêô mô tả Gioan Tẩy Giả theo hình tượng của Isaia là thắt lưng bằng da thú vật (3,4; 2 V 1,8) để xác nhận ông là chính là Isaia mà các ngôn sứ loan báo là phải đến trước để dọn đường cho Đấng Kitô (x. 11,14). Như thế sự cứu độ mà Isaia đã loan báo, nay sắp được thực hiện. Như Isaia đã chỉ chuẩn bị đường cho Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả cũng thế. Đấng sắp đến không phải là một ngôn sứ, mà là Thiên Chúa. Tuy nhiên, Gioan còn hơn mọi ngôn sứ thời Cựu ước, khi ông loan báo cùng một sứ điệp Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ làm là “Nước Trời đang đến gần” (3,2; 4,17; 10,7). Làm như thế ông được thông phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu thời Tân ước, và được nhận là “còn hơn một ngôn sứ nữa!” (x. 11,9).
Dân chúng đến với ông (3,5-6)
“Tote” “bấy giờ”, mở đầu câu 5, liên kết đoạn nầy lại với câu 3,2. Nghe lời Gioan rao giảng dân chúng kéo đến với ông. Matthêô kể tên Giêrusalem, Giuđêa và vùng dọc theo sông Giorđan (c. 5); nghĩa là cả miền Giuđêa. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng, dân chúng sẽ kéo đến với Người, không chỉ từ các vùng nầy mà cả Galilêa và Đêcapolis nữa (4,25). Chú ý ở đây là Matthêô phân biệt “dân chúng từ Giêrusalem” ở đây với “tất cả Giêrusalem với vua Hêrôđê” (x. 2,3). “Tất cả” bấy giờ có cả nhóm Pharisêô và Sađucêô nữa (c. 7). Họ đến để chịu phép rửa tại sông Giorđan trong khi xưng thú tội lỗi (c. 6). Tên Gioan “Tẩy Giả” liên kết với việc thanh tẩy ông làm và sông Giorđan. Việc xưng thú tội của dân chúng được xem là kết quả của lời rao giảng “hãy sám hối” của ông (c. 2; 3,11). Trong Cựu ước sông Giorđan gợi lại giai đoạn sau cùng của thời gian 40 năm lưu lạc trong sa mạc: vượt qua sông để vào đất hứa, theo sự chỉ huy của Giôsuê (Giôsua 3-4). Giôsuê là tên bằng tiếng hipri của cùng tên Giêsu bằng tiếng aramaic. Tên nầy có nghĩa là “Chúa cứu độ” (x. 1,21). Như thế, sông Giorđan có ý nghĩa đặc biệt trong kế đồ cứu chuộc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng sẽ bước xuống sông Giorđan để dẫn đầu cuộc xuất hành mới nầy (3,13-17).
Chúa Giêsu đến để dẫn dân Người vào Nước Trời, chứ không vào bất cứ một đất nước nào. Chỉ ai biết sám hối, nghĩa là thay đổi tâm và trí theo ý Thiên Chúa, mới có thể nhập vào cuộc xuất hành nầy.
21. Lời nói thật thì khó nghe – Lm. Đam Trần Đình Nhi
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng
Ngôn sứ Isaia đã nói trước về ông Gioan Tẩy Giả, gọi ông là “tiếng người hô trong hoang địa”. Hôm nay tiếng hô ấy không lọt tai chút nào, trái lại ít ra làm cho nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xa-đốc phải khó chịu hoặc choáng váng mặt mày. Tại sao thế? Vì ông Gioan thẳng thắn sửa sai họ. Vậy chúng ta hãy xem tiếng hô đã nói gì về nhóm người ấy và có lẽ cả về chúng ta hôm nay nữa.
Chúng ta thử hình dung khung cảnh bờ sông Gio-đan, khuôn mặt ông Gioan Tẩy Giả, nhóm người Pharisêu và Xa-đốc. Nét mặt ông Gioan không dữ dằn hay đỏ gay vì nóng giận, nhưng nghiêm nghị và đượm một chút thất vọng. Ông nhìn thẳng vào họ và cất tiếng nói. Ông không nói bóng gió hay rào đón, nhưng đi thẳng vào vấn đề của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa như bao người thì đâu là vấn đề? Theo lời ông Gioan, đây là vấn đề thứ nhất của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” thôi, chứ họ đâu có thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gioan là một thứ nghi thức hay phù phép để giữ cánh tay trừng phạt của Thiên Chúa lại. Cái chứng đặt nặng hình thức bề ngoài vẫn là căn bệnh trầm kha của nhóm người tự cho mình là công chính! Nhưng thực ra phép rửa của ông Gioan chỉ là dấu hiệu mời gọi họ hãy thay đổi cuộc sống mà “sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”.
Vấn đề thứ hai của nhóm Pharisêu và Xa-đốc là tính tự tôn, dựa vào gốc gác là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Quả thực họ mang cái vỏ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng trong lòng họ đâu còn chút tinh thần nào của tổ phụ Áp-ra-ham nữa! Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của đức tin. Còn họ thì sẽ chẳng tin vào Chúa Giêsu và sứ mệnh cứu độ của Người (xem Gioan 8:31-41). Tổ phụ Áp-ra-ham “đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của [Chúa Giêsu]”. Còn họ thì “lượm đá để ném Người” (8:56-57).
Để sửa sai các “vấn đề” của họ và cũng là vấn đề của chúng ta hôm nay, ông Gioan Tẩy Giả kêu gọi tất cả hãy thực lòng sám hối và tin vào Đấng sẽ đến sau ông, tức là Chúa Giêsu, Đấng “sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa, tay cầm nia rê sạch lúa trong sân”. Nói khác đi, chúng ta phải tin vào sứ mệnh của Chúa Giêsu là làm cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa và sẽ tiếp tục thanh tẩy chúng ta thành “thóc mẩy” để được thu vào kho lẫm đời đời của Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có lẽ chúng ta tự hào mình không giống như những người nhóm Pharisêu và Xa-đốc, và những lời cảnh báo của ông Gioan Tẩy Giả không nhắm vào chúng ta. Không phải vậy đâu! Cách sống đạo của chúng ta nhiều khi không khác gì “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, làm mọi sự vừa đủ để khỏi bị xuống… hỏa ngục! Chúng ta đi lễ Chúa Nhật vì luật buộc, đọc kinh hạt theo số lượng mà không có lòng. Chúng ta cứ tưởng hễ mình mang danh Công giáo là mai sau sẽ ung dung bước vào thiên đàng. Chúng ta không cần để ý phải “sinh quả tốt” là đời sống Kitô hữu đích thực với đức tin sống động ngay ở đời này.
Sứ điệp của ông Gioan Tẩy Giả thuộc loại “sự thật mất lòng”! Nó đòi chúng ta phải can đảm nhìn thẳng vào cuộc sống mình, để nhận diện những “vấn đề” trong đời sống thiêng liêng cũng như gia đình và xã hội của chúng ta. Sứ điệp của ông Gioan không đe dọa, nhưng thành thực giới thiệu với chúng ta Đấng cứu độ là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Vậy thì mùa Vọng cũng là thời gian để chúng ta thay đổi lối sống và theo Chúa Giêsu làm môn đệ Người.
22. Mùa loan báo – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Với Chúa Nhật II, chúng ta bước vào lịch sử: những loan báo trong Cựu Ước bắt đầu thực hiện và giấc mơ của nhân loại trở thành hiện thực. Người loan báo Tin Vui này là Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Gioan mời gọi: "Hãy hối cải vì nước trời đã cận kề". Giống như các Ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3...), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Ba bài Tin Mừng từ Nhất Lãm (Mt 3, 1-12; Mc 1, 1-8; Lc 3, 1-6), thuật lại niềm hăng say rao giảng của Đấng Tiền Hô, kêu mời hối cải và loan báo sẽ có một đấng quyền năng hơn, Ngài sẽ rửa tội trong Chúa Thánh Thần.
Gioan Tiền Hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa và cũng rất gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3-12; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: "Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng" (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát... Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
23. Hãy sám hối ăn năn – Lm. Phêrô Trần Minh Đức
Thế giới đang chuẩn bị một trang sử mới. Mọi công sở đều lo tính sổ sách. Nhiều người đưa ra những dự đoán cho năm mới. Báo chí, truyền hình làm thống kê, thường đề cập tới những chuyện không may trong thời gian qua: nơi này phong ba bão tố; nơi kia hạn hán mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tai nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả đều tuỳ thuộc vào đó.
Năm xưa, Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Ông được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của ông luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng sám hối ăn năn.
Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống ‘khẩu phật tâm xà’: môi miệng đọc hết kinh này sang kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác!
Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sĩ kỹ sư thì tự cho rằng mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ rằng mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tư phụ của dân Do thái xưa: Họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.
Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng còn phải đi xa hơn một bước nữa. Sám hối phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: ‘Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối’, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: ‘Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em’.
Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.
Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.
24. Lời công bố của Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Gioan, có biệt danh là Tẩy giả. Mátthêu trích dẫn Isaia 40,3 để giới thiệu: Gioan Tẩy giả chính là tiếng kêu trong hoang địa mà ngôn sứ Isaia tiên báo, có nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sống trong hoang địa từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), Gioan xa lánh mọi tiện nghi (Mt 11,8; Lc 7,25), xa lánh những khuôn khổ đạo đức Dothái, đặc biệt của đền thờ và hội đường. Ông gần những người Esseniens ở Qumrân. Mátthêu khi phục sức cho Gioan Tẩy giả giống Êlia, mang một bộ áo da lông, ngang lưng thắt dây da (2V 1,8). Mátthêu mặc nhiên bảo, Gioan Tẩy giả chính là Êlia. Theo truyền thống, ÊLia đã được đưa lên trời, không chết, sẽ trở lại làm Tiền hô cho ngày cánh chung, ngày Đấng Messia đến (Mt 3,23).
Trong hoang địa, Gioan lấy châu chấu và mật ong làm thức ăn. Mátthêu không quả quyết Gioan chỉ sống bằng hai thức ăn đó. Châu chấu chẳng phải thức ăn lạ thường. Người Bédouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Tài liệu Damas ở Qumrân có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn. Còn mật hoặc mật ong tìm trong các hốc đá, hoặc nước rỉ của cây Tây hà liễu.
Bởi cuộc sống đơn sơ đạm bạc, Gioan không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, tiểu đường hay dư cholesterone. Gioan, một con người với thân hình khoẻ mạnh và khắc khổ, nhưng nơi ông toát ra một tâm hồn thánh thiện. Hữu xạ tự nhiên hương, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđêa, cùng khắp vùng ven sông Giođan kéo đến với ông.
Thi hành sứ vụ trong hoang địa, có lẽ Gioan muốn gắn liền với truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ Ai cập vào đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7). Vì thế, người ta tin, thời cánh chung, nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu trong hoang địa và Đấng Messia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24,26). Do đó, một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào hoang địa (Cv 21,38).
Ở hoang địa Gioan rao giảng gì? Gioan kêu gọi: "Anh em hãy sám hối, vì Nước trời đã gần đến". Sám hối hay hối cải, tiếng Latinh "conversio", tiếng hy lạp "metanoia", có nghĩa thay đổi não trạng, ăn năn trở lại, canh tân đổi mới. Trong Cựu ước, từ này có nghĩa bỏ tà thần trở về với Đức Giavê. Trong Tân ước, nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện bao hàm cả về phương diện tiêu cực bỏ đàng tội lỗi, lẫn phương diện tích cực hướng con người về Thiên Chúa.
Với Gioan, chốn hoang địa không còn là nơi cô tịch, nó đã trở thành trung tâm khơi động một phong trào sám hối, đầy nghịt những người. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến chịu phép rửa, Gioan nói với họ: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?" Tại sao Gioan gọi họ như thế? Có lẽ Gioan thấy nơi họ có sự gian dối, giống con rắn trong sách Sáng thế. Họ đến chịu phép rửa không để được tha tội, nhưng để dò xét ông (Ga 1,19-28).
Tuy gọi là "nòi rắn độc", nhưng Gioan vẫn cho họ một lời khuyên: "Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối, đừng nghĩ: Chúng ta đã có tổ phụ Abraham." Người Dothái thường tự hào là con cháu Abraham. Họ quan niệm: Ngày cánh chung, ngày Giavê sẽ biểu lộ cơn thịnh nộ của Người. Cơn thịnh nộ ấy sẽ giáng trên lương dân, những kẻ tội lỗi. Còn toàn thể con cái Israel được tham dự vào thế giới tương lai, bởi lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và các tổ phụ vẫn có giá trị cho hậu duệ. Theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy, trong Dothái có câu châm ngôn quả quyết, ai thuộc dòng máu Dothái, chắc chắn sẽ được cứu rỗi. Một châm ngôn kiểu đó dễ làm cho một số người Dothái sống phóng túng về mặt luân lý và làm cho những người Pharisiêu và Sađốc tự mãn kiêu căng. Đối với Thiên Chúa là con cháu Abraham hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là có giữ giao ước, có yêu mến và thực thi ý Người hay không. Nếu Israel không trung thành với Thiên Chúa, không tin vào Đấng Người sai đến, Người sẽ làm cho những hòn đá trở nên con cháu Abraham, nghĩa là loại trừ Israel và kêu gọi lương dân làm thành một Israel mới phát sinh hoa trái (Mt 8,11-12).
Bởi thế, Gioan đã kêu gọi họ sám hối. Nếu họ không sinh quả phúc đức để chứng tỏ lòng sám hối, họ không thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Theo Gioan điều đó cần thiết và cấp bách, không trì hoãn được, vì Nước trời đã đến: "Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa". Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn oán phạt.
Đấng sáng lập đến sau ông, quyền thế hơn ông. Sánh với Người ông chẳng là gì. Phép rửa ư? Phép rửa của Gioan là phép rửa tạm thời, phép rửa bằng nước, giục lòng sám hối. Phép rửa của Người là phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, là sự thanh tẩy tuyệt đỉnh, ban ơn tha tội và sự sống mới. Con người ư? Ông chỉ là Tiền hô, là người dọn đường không đáng xách dép cho Người. Người là Đấng Messia, là Đấng thẩm phán đầy quyền năng: tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thu vào kho lẫm, thóc lép bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.
Thật tuyệt vời, Gioan Tẩy giả đã khiêm nhường tự xóa mình đi trước Đấng mà ông đã nhận nhiệm vụ dọn đường. Đức Giêsu phải lớn lên, ông phải nhỏ đi. Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ là lúc ông vào nhà tù Macheronte, ở đó ông đã bị chém đầu. Với cái chết, Gioan đã hoàn thành sứ vụ Tiền hô dọn đường. Ông là người vĩ đại. Jean Perron viết: "Thu tóm trong chính mình tất cả những ngôn sứ từ thời Êlia, đấng Tiền hô rõ ràng là ngôn sứ sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo, kết thúc ngôn sứ và mở đầu Phúc âm, ông là bản lề nối Cựu ước và Tân ước". Đức Giêsu quả quyết: "Trong các người nam không ai trọng hơn Gioan Tiền hô".
25. Dọn cho Chúa một con đường
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
TỪ TIẾNG KÊU SA MẠC...
Thành tâm đón nhận:
Nói đến “hoang địa”, “sa mạc”, ta nghĩ ngay đến nơi vắng vẻ, hiu quạnh. Đó là những vùng đồi núi chập chùng cằn khô sỏi đá, hoặc là những vùng đất cát thênh thang trải dài như bất tận. Điều kiện sống ở đây khắc nghiệt quanh năm, nên hầu như không có ai lai vãng đến đây. Sự sống ở đây là một cuộc chiến đấu cam go. Cuộc chiến đấu thanh luyện để tồn tại.
“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắc lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt.3,4).
“Lạc đà” là biểu tượng của sa mạc. Hầu như đó là phương tiện duy nhất để di chuyển trên sa mạc. Người ta gọi con lạc đà là “con thuyền sa mạc, con thuyền trên biển cát”. “da”, “châu chấu”, “mật ong rừng” là những thứ hoang dã. Gioan đã tự nguyện thành “người sa mạc” để thanh luyện mình. Tiếng “người hô trong sa mạc” không phải là người thành phố sang trọng vào sa mạc để réo gọi, Nhưng đó chính là người thật sự đang sống với cung cách sống ở sa mạc, đã kêu lên bằng chính tiếng nói và đời sống của mình. Đời sống được thanh luyện để lời nói được trong sáng, đủ sức chuyên chở thông điệp của Thiên Chúa về ngày Thiên Chúa đến. Như hình ảnh các ngôn sứ xưa, mang sứ mạng chuyển tải Lời Chúa đến với dân riêng Ngài. (2V.1,8).
Tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa. Hãy bạt lối người đi. (Mt.3,3). (Bản dịch của Cha Thuấn).
Tiếng vọng từ sa mạc, chỉ có ai biết tìm về sa mạc mới nghe thấy được. Tìm về nơi thanh vắng, tìm về cõi tĩnh lặng để lắng nghe tiếng gọi vang vọng trong chính tâm hồn mình.
“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-dê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan”. (Mt. 3,5-6).
Đón nhận cách giả hình:
“Có tiếng người hô trong sa mạc…” (Mc.1,3).
Sao không là tiếng hô trong thành phố? Sao không là tiếng hô ở Giêrusalem? Vì con người cần phải vào sa mạc. Sa mạc ở đâu? - Sa mạc ngay tại lòng mình.
Đó là cõi nội tâm thênh thang với những buồn vui, những yếu đuối, những khát vọng của kiếp người. Trong thinh lặng nội tâm, ta dễ dàng nhận ra tiếng lòng mình. Tiếng Chúa hướng dẫn đời ta. Đó là giây phút gặp gỡ Chúa một cách thân tình. Đó là giây phút cầu nguyện, ta biết ta yếu đuối và ta biết Chúa yêu thương ta. Ta dọn đường Chúa đến với niềm tin yêu vững vàng. Ta loại trừ những chướng ngại đang vây quanh ta, làm cản bước Chúa đến với ta. Những chướng ngại mà từ lâu ta tưởng chúng bảo vệ ta, hóa ra chúng cô lập ta, chúng làm ta mất liên lạc với Chúa. Chúng ta được vây bọc bởi những tham vọng và thụ hưởng trần tục, và chính ta biết những điều ấy không phải là những điều thuộc về Thiên Chúa, trong sâu xa cõi lòng mình, ta biết mình đang ở vị trí nào trên nấc thang đạo đức, trên nấc thang vươn lên Thiên Chúa ta còn ở vị trí là đà trên mặt đất, nhưng lòng ta vẫn muốn mọi người tin rằng ta cao cả, ta đang ở trên cao, và, thế là, ta sống giả hình. Ta khoát lên mình chiếc áo đạo đức giả hình đề che dấu một tâm hồn kiêu căng và gian dối.
“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt.23,27).
Thế nên, phải dọn cho Chúa một con đường nội tâm chân chính. Con đường ấy là một cuộc hành trình sa mạc đầy thử thách gian nan, như dân It-ra-en trải qua 40 năm sa mạc để về miền Đất Hứa. Con đường ấy, trong ánh sáng mạc khải Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, đó là Con Đường Thập Giá.
“Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” (Mt.3,7-8)
... ĐẾN TIẾNG GỌI TRONG LÒNG
Tình Yêu và Chân Lý có tiếng nói mạnh mẽ trong con tim mỗi người, khó mà chối bỏ được. Nhiều khi vì danh vọng, bạc tiền, tư lợi nào đó, người ta tìm cách chối bỏ Thiên Chúa. Người ta khóa chặt cửa lòng từ chối đón Chúa vào căn nhà tâm hồn mình. Nhưng tiếng gọi trong lòng vẫn không hề tắt lịm. Tiếng gọi thiêng liêng vẫn mãi mãi còn đó như Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người mãi mãi còn đó. Con người chối bỏ là sự chọn lựa của chính mình. Là do con tim nguội lạnh. Ngọn lửa tình yêu không còn bùng cháy trong trái tim nữa.
“Thầy đã đến ném lửa trên thế gian và Thầy mong biết bao nhìn thấy nó bùng lên” (Lc.12,49).
Con người chối bỏ Thiên Chúa, vì con người không đón nhận Thánh Thần. Không lớn lên trong Thánh Thần. Không có Thánh Thần con người không thể được nâng lên khỏi lãnh vực xác thịt, không thể trở nên con Thiên Chúa, không có khả năng công nhận Thiên Chúa là Cha.
“Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga.4,24).
Chính vì thế, chúng ta phải dọn cho Chúa một con đường để Ngài đến với ta. Để Ngài thật sự thuộc về ta, ta thuộc về Ngài. Chỉ có Ngài - Đấng Cứu Thế - mới có thể ban phát cho ta hồng ân vô biên đó, vì được làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, là hạnh phúc lớn nhất mà con người tìm kiếm.
“Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt.3,11).
Khi ấy, lòng ta trải rộng, Ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng yêu thương ta một cách trọn vẹn. Hình ảnh Thiên Chúa không còn đóng khung trong trí tưởng tượng hẹp hòi của con người. Con tim ta sẽ mở ra, để đón nhận và cho đi suối nguồn tình yêu mà nhờ Chúa Giêsu Kitô ta được ban phát dồi dào đến vô tận. Khi ta khát khao tìm Chúa, ta mới được Chúa soi sáng tâm trí để nhận ra chân dung đích thực của Chúa. Có nhận ra được chân dung đích thực của Chúa, ta mới cảm nhận được sự cao cả và ngọt ngào của Thiên Chúa Tình Yêu. Và đó là niềm tin yêu và hy vọng mà ta hằng luôn ấp ủ trong tận cùng khối óc và con tim ta trong suốt cả đời. Và đó cũng là Mùa Vọng của một đời người.
Có một câu chuyện kể về một bé trai sống trong viện mồ côi: Một đêm nọ, nó giật mình thức giấc. Trời vẫn tối đen, nhưng nó biết rằng hừng đông chẳng mấy chốc nữa sẽ tới. Nó cảm thấy rất nóng lòng muốn thấy cảnh bình minh bên bờ hồ, nhưng các quy định trong viện thật khắt khe: không có lý do chính đáng thì không một em nào được thức dậy trước chuông và cấm ngặt không được ra khỏi phòng ngủ tập thể cho đến khi được phép. Nhưng nó quyết định liều một phen. Nó vội vàng mặc quần áo, cầm giày trên tay và bò ra ngoài để khỏi đánh thức ai. Nó bò một hồi đến hành lang dài và không muốn bắt gặp những cái nhìn không tán thành của các hình ảnh trên tường.
Sau cùng cũng đến được bờ hồ, trong bóng tối, nó ngồi đợi hừng đông. Và kìa! Ngày mới đang bắt đầu, ánh dương ngả từ màu cam sang màu đỏ. Nó mải mê ngắm những tia sáng phản chiếu trên mặt hồ, say sưa với vẻ đẹp tinh khôi. Thình lình nó chợt nhớ đã hết giờ. Lúc này mọi người hẳn đã thức dậy. Nó sẽ trễ mất. Nhất định gặp rầy rà rồi. Nghĩ vậy, nó đứng lên và nói những lời sau cùng với hồ nước: “Bây giờ mình phải về đây. Cám ơn bạn. Mình không lo nếu có bị phạt, bởi vì mình đã hiểu ra rồi. Bây giờ mình biết rằng Thiên Chúa của hồ nước vĩ đại hơn Thiên Chúa của viện mồ côi (Gallagher).
Lạy Chúa,
Xin soi sáng lòng trí con,
Để con nhận ra những lỗi lầm.
Sửa đổi cuộc đời con,
Để nên một con đường,
Ngài đoái thương thăm viếng. Amen.
26. Dọn đường Tình Yêu
(Suy niệm của ĐGM. Antôn Vũ Huy Chương)
Giáo hội bước vào Mùa Vọng, 4 tuần lễ chuẩn bị cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Lời Nhập Thể. Ngôi Lời đã làm người bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và đã được Đức Trinh Nữ Maria sinh hạ cách đây hơn 20 thế kỷ. Cử hành Mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh là cử hành việc Chúa ĐÃ ĐẾN để khởi đầu công trình cứu độ trần gian, mà cao điểm là sự kiện CHẾT và SỐNG LẠI của Người, một lần là đủ cho tất cả mọi thời và mọi nơi, nhưng mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo này được cử hành trong Thánh Lễ mà chúng ta cử hành mỗi ngày nhằm “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chính vì thế, Mùa Vọng còn hướng về việc Chúa SẼ ĐẾN.
Khi cá nhân và tập thể định hướng cho THỜI GIAN thì con người và thời gian đó làm nên LỊCH SỬ. Khi cá nhân người Kitô hữu và tập thể Giáo hội định hướng cho lịch sử theo ý định của Thiên Chúa là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho lịch sử đó trở thành LỊCH SỬ CỨU ĐỘ. Như thế, lịch sử mỗi người và lịch sử nhân loại nằm giữa RỒI và CHƯA: Chúa đã đến rồi (Giáng Sinh) để định hướng cho Lịch Sử Cứu Độ, nhưng chưa hoàn tất, nghĩa là chưa đạt tới cứu cánh chung cuộc (Cánh Chung). Mùa Vọng vừa cử hành việc Chúa đã đến RỒI, vừa hướng về việc Chúa CHƯA đến. Do đó, nhiệm vụ của mỗi người Kitô hữu cũng như của tập thể Giáo hội, trong thời gian này của Lịch Sử Cứu Độ, là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô sớm tới ngày hoàn tất, ngày đó Chúa Kitô sẽ đến lần thứ hai để khánh thành công trình cứu độ mà Người đã khởi sự.
Theo bài Tin Mừng, sống tinh thần Mùa Vọng là sống tinh thần SÁM HỐI theo lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần… Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi… Hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”. Dọn đường là tuyên xưng Đức Tin và Đức Cậy vào Tình yêu Nhập Thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là sống Đức Ái một cách cụ thể và thiết thực theo gương Người, để đem lại niềm tin và hy vọng cho những người chung quanh. Đặc biệt khi làm việc bác ái từ thiện, mọi người nhớ lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Cagliari: “Chúng ta phải thực thi các công việc từ bi bác ái với lòng từ bi, dịu dàng, và luôn luôn với lòng khiêm tốn! Anh chị em biết không: Đôi khi người ta cũng thấy sự kiêu hãnh trong việc phục vụ người nghèo! Một số người làm đẹp, sống bằng người nghèo; một số người lợi dụng người nghèo để phục vụ cho tư lợi hoặc cho phe nhóm của họ. Tôi biết đó là chuyện phàm nhân, nhưng điều ấy không tốt! Và tôi muốn nói hơn nữa, đó là tội lỗi! Tốt hơn những người ấy nên ở nhà”.
Thánh Gioan Tông Đồ viết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 9-11). Chúa Giêsu đã không nói “chúng ta cũng phải yêu thương Thiên Chúa”, mà nói “chúng ta cũng phải yêu thương nhau”. Rõ ràng yêu người và mến Chúa là một giới răn duy nhất!
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải cho Môsê biết Ngài là “Thiên Chúa thương xót và nhân hậu, nhẫn nại và đầy lòng trắc ẩn” với những ai cậy trông vào Ngài (Xh 34,6). Trong Tân Ước, lòng thương xót của Chúa Cha trở nên hữu hình và sống động nơi Đức Giêsu, vì ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Qua những dụ ngôn nói về lòng thương xót, dụ ngôn về con chiên lạc, dụ ngôn về đồng bạc được tìm thấy và dụ ngôn về người cha với hai người con (x. Lc 15,1-32), Chúa Giêsu đã mạc khải bản tính Thiên Chúa như một người Cha luôn đi bước trước cảm thương và tha thứ.
Chúng ta cùng nhau DỌN ĐƯỜNG TÌNH YÊU để đón Chúa đến trong Mùa Giáng Sinh, đến trong cuộc đời mỗi người và đến trong ngày Chúa quang lâm.
27. Mùa Vọng: Mùa màu tím – ĐGM Vũ Duy Thống
(Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’)
Nếu Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, với lối nhìn viễn cảnh, người ta thấy sáng lên dung mạo của Thiên Chúa, Đấng hằng hy vọng vào con người, đồng thời cũng nhận ra dáng đứng của tín hữu là biết hy vọng vào Thiên Chúa bằng lòng tỉnh thức, để Mùa Vọng được gọi là mùa xanh lên niềm hy vọng thì Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, với lối nhìn cận cảnh, người ta lại thấy Phụng Vụ được diễn tả bằng một màu khác, không còn êm ả mướt xanh nữa mà đã đi vào lắng đọng tím màu để Mùa Vọng cũng gọi được là mùa màu tím.
Tím không ở chân trời nắng xế; tím không ở dòng sông Giođan chiều về nơi Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa; tím cũng không ở sắc phục linh mục bước ra dâng lễ, mà tím ở tâm can những tín hữu biết chân thành ăn năn lầm lỗi bao ngày qua để thấy trong lệ sa màu tím của lòng mình. Mùa Vọng đích thực là mùa của màu tím sám hối.
Nhưng làm sao để lòng sám hối diễn tả được nỗi lòng Mùa Vọng, hay nói lên được sắc màu hy vọng? Trả lời câu hỏi này tức là cùng lúc phải xét đến những đặc tính sám hối của Mùa Vọng.
1) Sám hối mang màu hy vọng không cúi gập trên những lầm lỗi của mình mà hướng mở về tình thương Thiên Chúa.
Đối với nhiều người, sám hối cũng đồng nghĩa với lòng hối hận, tức là nhận thức về thân phận tội lỗi của mình, ý thức về những lỗi lầm mình đã phạm và buồn vì mình đã làm xấu cuộc đời mình đi. Tất nhiên, lòng hối hận như thế tự nó có một ý nghĩa nhất định, nhưng nếu chỉ có thế và chấp nhận dừng lại như thế, rõ ràng là có khuynh hướng co cụm lại và cúi gập trên những lầm lỗi của mình. Hối lỗi thì ít mà xem ra hận mình lại nhiều, để rồi khi tự mình vùng vẫy trong tình huống mất thăng bằng ấy, người ta dễ bị rơi xuống vực sâu thất vọng, giống như con muỗi sa vào lưới nhện càng vùng vẫy càng bị xiết chặt, và giống như những kẻ sa vào vũng lầy càng ngoi ngóp càng bị lún sâu.
Thực ra, hối hận chỉ là một thành phần trong hành vi sám hối, hay đúng hơn là khởi điểm của cả một tiến trình trở về mà Thiên Chúa chính là cao điểm và kết điểm. Chính vì đối diện với Thiên Chúa mà tôi biết mình có tội và cũng vì hướng đến Thiên Chúa mà tôi hối hận tìm về. Người ta vẫn bảo sám hối là hai mắt nhìn của con người nội tâm: một mắt nhìn vào mình để nhận ra những tội lụy của một đời xa vắng đã dẫn tới sa ngã rồi xa lìa tình thương Thiên Chúa và mắt khác nhìn vào Thiên Chúa để thấy nơi Ngài một tình yêu như tấm lòng người cha, như trái tim người mẹ bao dung thương xót mà xin ơn làm lại cuộc đời.
Hai con mắt, hai hướng nhìn nhưng vẫn chỉ là một lòng sám hối mang màu hy vọng. Thiếu một trong hai, sắc màu hy vọng đều bị nhạt nhòa. Sẽ là thất vọng nếu chỉ nhìn tội mình mà quên nhìn tình Chúa và sẽ là vô cùng ảo vọng nếu chỉ nhìn tình Chúa mà quên nhìn tội mình; nhưng sẽ là hy vọng dâng đầy cho những ai vươn lên tình yêu Thiên Chúa khởi đi từ lòng sám hối tội lỗi của mình. Hình như trong lời kêu gọi “Hãy sám hối” đã có tiếng giục giã “Hãy hy vọng”, và sở dĩ Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối hôm nay là bởi vì đã có niềm hy vọng dọn đường chờ mong Chúa đến.
2) Sám hối mang màu hy vọng không dừng lại trong nội vi tâm thức mà biết tỏa rộng lên cả cuộc đời.
Đối với một số người khác, sám hối là một cách nói ám chỉ một chuyển biến từ một tình trạng cũ và xấu đến một tình trạng mới và tốt hơn, nhưng hối lỗi chỉ là một chuyển biến xảy ra trong nội vi ý thức của cuộc sống tâm hồn, cùng lắm cũng chỉ được diễn ra bằng những nghi thức đã được quy định. Thế thôi. Rõ ràng cách nhìn như thế quả là không ổn. Không ổn ở chỗ nó quá máy móc, làm như cứ tham dự một số nghi thức sám hối là đương nhiên mình được thanh tẩy bất kể đời sống của mình ra sao; và không ổn ở chỗ nó quá nội giới, làm như sám hối chỉ là một thứ tâm lý liệu pháp nào đó theo kiểu kể tội trong gió, gió thổi bay đi là xong.
Sám hối Mùa Vọng đâu phải là thứ sám hối như thế, mà thật ra phải là thứ sám hối toàn diện đúng mức với lòng hối cải, vốn bao gồm hai động tác cơ bản đan xen: “hối” có nghĩa là hối lỗi và “cải” là kiểu nói tắt của chữ cải thiện. Nếu hối lỗi là lời đoạn tuyệt với quá khứ tội lụy, thì cải thiện là lời quyết tâm dấn bước vào một tương lai tươi mới. Và đến khi sám hối trở thành một thói quen ăn sâu vào trong nhịp sống để nỗ lực chuyển đổi không ngừng lên những tình trạng tốt hơn thì đó chính là một cuộc lột xác đổi đời; không giống như đổi đời xe đời máy mà là đổi đời sống cách sống với những hệ lụy cụ thể không thể lần lữa chần chừ được.
Không phải vô tình mà Gioan Tẩy Giả bảo những kẻ đến với ông là “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối” nhưng qua đó ngài cho thấy lòng sám hối đích thực của Mùa Vọng chính là tích cực đổi mới ngay trong đời sống cụ thể của mình.
3) Sám hối mang màu hy vọng biết vượt qua những động tác để trở thành một thái độ sống.
Đối với một số người khác nữa, sám hối thường được quan niệm như một cao trào chỉ bùng lên một năm vài lần vào những dịp lễ đặc biệt như cách phân bổ Lịch Công Giáo hiện nay, tức là xuân thu nhị kỳ: một lần vào Mùa Vọng để dọn lòng mừng lễ Giáng Sinh cho sốt sắng và lần nữa vào Mùa Chay để tỏ bày sự thông công vào lễ Phục Sinh cho phải đạo, “Xưng tội một năm ít là một lần và chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh”.
Xem ra cách thực hành sám hối như vậy cũng có những nét cụ thể nhất định, nhất là lại phù hợp với đại đa số giáo dân vốn đầu tắt mặt tối chạy vạy với cuộc sống kinh tế gia đình hoặc xã hội. Nhưng từ căn bản có cái gì đó chưa ổn. Một mặt quá gắn liền động tác sám hối với việc đón nhận Bí tích Hòa Giải sẽ dẫn tới ý nghĩ rằng khi mình không nhận Bí tích Hòa Giải thì mình cũng chẳng cần đến sám hối nữa; và mặt khác coi sám hối chỉ như một động tác diễn ra trong khoảnh khắc sẽ tới lúc nghĩ rằng sám hối chỉ là điều kiện ắt có và đủ cho việc xưng tội chứ không như một thái độ thường xuyên phải có trong đời Kitô hữu.
Thực ra sám hối mang màu hy vọng không đơn thuần là một động tác cho bằng là một thái độ. Sám hối là một thành phần của đời sống đức tin, nhưng lại gói ghém và len lỏi vào mọi ngõ ngách của toàn bộ cuộc sống đức tin ấy. Chả thế mà Gioan Tẩy Giả khi trả lời cho đám đông về việc thực thi sám hối đã mở ra cho họ một nhãn giới thật rộng bao gồm cả việc thực thi công bình và sống tình bác ái. “Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt thấp” đâu phải chỉ là chuyện dọn dẹp đường xá, mà đã trở thành chuyện khai quang tâm hồn để nhìn thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. Cũng thế, việc chia cơm sẻ áo đâu phải chỉ là chuyện cứu trợ, mà đích thực đã là cách diễn tả cụ thể của lòng sám hối chờ mong Chúa đến.
Tóm lại, sám hối mang màu hy vọng là sám hối tìm về tình thương Thiên Chúa, chấp nhận thay đổi cuộc đời và biết để cho ơn tha thứ thấm đẫm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đức tin. Đó là sám hối Mùa Vọng chuẩn bị đón lễ Noel, nhưng đó cũng là thái độ thường xuyên của đời tín hữu. Và cũng vì có sám hối như vậy, Mùa Vọng đúng nghĩa chính là mùa màu tím từ bên trong ra bên ngoài và từ ngôn ngữ tới hành vi. Chúc mọi người những ngày Mùa Vọng thật sốt sắng.
28. Món “ăn năn” – ĐGM Vũ Duy Thống
(Trích từ ‘Làm Nụ Hoa Trắng’)
Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh. Món ấy là món gì?
Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, cũng là món ăn hữu ý được nhìn qua trang Tin Mừng hôm nay. Nhưng để tránh dị ứng hoặc phản ứng phụ, đồng thời để tận hưởng những hiệu quả bổ dưỡng, trang Tin Mừng đề nghị ta những động tác quan trọng để hưởng dùng món “ăn năn sám hối”.
1) Động tác thứ nhất là chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình.
Đây là động tác mở đầu trong tiến trình ăn năn sám hối, cũng là động tác mở đầu cho bất cứ một sinh hoạt phượng tự nào khi con người tiếp cận với Thiên Chúa: ta vừa mở đầu Thánh Lễ với tâm tình thú tội ăn năn. Chính Chúa Giêsu ngày trước cũng đã mở đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời kêu gọi không quên “Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm”. Và ngay Gioan Tẩy Giả cho dẫu trong hoang địa nắng cháy khô cằn chẳng có gì ăn, cũng hô vang đồi núi: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã đến gần trong không gian và cũng vì Nước Trời đã gần đến trong thời gian.
Động tác “nhìn nhận tội lỗi” trong mắt nhìn của những kẻ xa lạ với Tin Mừng có thể là một thứ tâm lý xa rời thực tế theo kiểu “không ai bắt lỗi ngu gì mà thú nhận”; nhưng đối với những kẻ tin vào Phúc Âm đó lại là hai mắt nhìn của một tấm lòng chân thành: một mắt nhìn vào mình để nhận ra thân phận mình tội lụy và một mắt nhìn lên Chúa để nhận lấy lòng thương bao dung tha thứ của Ngài. Ta nhận mình có tội bởi ta đã nhìn vào tình thương của Chúa từ hồi nào. Ta nhận ra Chúa yêu ta bởi ta đã nhìn thấy từng ngày lỗi tội của mình.
Như vậy, “nhìn nhận tội lỗi” chính là động tác mở đầu của món “ăn năn sám hối”, cũng là động tác mở về tình thương của Thiên Chúa và mở vào kho tàng thiêng liêng chất chứa ơn tha thứ do Thiên Chúa thết đãi con người. Tự căn bản, xưng thú tội lỗi của mình cũng là tuyên xưng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
2) Động tác thứ hai được gặp thấy trong lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối”.
Có thể có ai đó ngẩn ngơ thầm nghĩ: “Ơ hay, cái ông Gioan Tẩy Giả này mới thật là ngớ ngẩn, sám hối như trong động tác thứ nhất tự nó đã là một việc lành rồi, cần phải làm thêm việc lành khác nữa sao? Vẽ chuyện!”. Xin thưa rằng ông Gioan Tẩy Giả không ngớ ngẩn đâu, ngược lại, trong lời kêu gọi đơn giản của ông đã hàm chứa những ý nghĩa đẹp đến độ ngẩn ngơ cho một lòng ăn năn tích cực và đích thực.
Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”. Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua những việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình.
Đó cũng là lòng ăn năn đích thực không đồng hóa với một thứ tình cảm chợt đến chợt đi, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ cảm tình vị kỷ theo kiểu làm việc lành cho “sướng”, thế thôi, trong khi lòng ăn năn đích thực gọi đến một phẩm cách, một trách nhiệm. Gioan Tẩy Giả không bảo làm việc lành cho “sướng” mà hãy làm việc lành cho “xứng” với lòng sám hối.
3) Động tác thứ ba để thưởng thức món “ăn năn”, đó là khiêm tốn đợi chờ Đấng đang đến.
Đấng ấy không phải là người xa lạ, mà là một THỰC KHÁCH viết hoa viết đậm của mọi Kitô hữu quanh bàn “ăn năn”. Đấng ấy là Đức Kitô đã đến lần thứ nhất trong lịch sử với ngả nghiêng cây Thập Tự, sẽ đến lần thứ hai ngày cánh chung với sự công chính và nền hòa bình viên mãn, và Người đến từng ngày cho tất cả những ai khiêm tốn đợi chờ với lòng sám hối.
Thảo nào trang Tin Mừng hôm nay nói nhiều đến từ ngữ “dọn đường và sửa đường”. Dọn đường bởi vì Đấng ấy đang trên đường đến với ta và sửa đường “quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống” là bởi vì Người chỉ thích đến với ta trên đường công chính.
Hiểu như thế, ăn năn không phải là ăn điều gì khác hơn là ăn chính Đấng đang đến: Chúa Kitô. Chính Người là đích điểm của việc sám hối. Vắng Người là thiếu tất cả: việc sám hối có thể co cụm lại như một thứ nghi thức thực hiện cho yên lương tâm; nhưng có Người là có tất cả: việc sám hối bấy giờ sẽ trở nên một mạch nguồn sức sống mới trong Thánh Thần. Nói cách khác, lòng người sám hối Mùa Vọng ví tựa những căn phòng, quá ngổn ngang chật hẹp, Chúa Kitô sẽ không thể chen chân bước đến; nhưng ngược lại biết dọn dẹp sạch sẽ thẳng ngay, Người sẽ ung dung tìm vào như vào trong căn hộ của mình.
Tóm lại, dẫu chẳng phải là “người có tâm hồn ăn uống” mà chỉ vì cái phong phú và lắt léo của tiếng Việt, nên đã xin chia sẻ Phúc Âm hôm nay qua dạng thức của một món ăn: món “ăn năn sám hối” với ba động tác: nhìn nhận tội lỗi, thực hiện việc lành và chờ đợi Chúa đến; một cách trực tiếp là họa lại lời Gioan Tẩy Giả vang lên trong trang Tin Mừng, một cách gián tiếp là lòng hẹn lòng hãy tìm đến món “ăn năn” qua việc sống Bí tích Hòa Giải.
Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân.
Mười năm trước khi kinh tế còn khó khăn, trên đường đi hằng ngày thấy xuất hiện những tấm bảng hiệu nhận phục hồi những cơ phận máy móc, tôi đã có ý nghĩ nên ghi trên tòa Hòa Giải một tấm bảng hiệu nhận “phục hồi sự sống các tâm hồn”. Hôm nay, thời kinh tế mở cửa, trên đường từ chợ Bến Thành về đây thấy nhan nhản những bảng hiệu của các quán ăn đặc sản, từ Hương phố tới Hương đồng, từ Hương xưa tới Hương rừng lao xao. Tôi nghĩ có lẽ phải ghi trên tòa Hòa Giải tấm bảng khác thôi: Hương thiêng đặc sản tâm hồn, món “ăn năn” dẫn đến nguồn thánh ân.
29. Thế giới luôn cần những con đường đầy hoa
(Chút suy tư và cảm nhận về sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật II Mùa Vọng năm A – Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Mùa Vọng thường gợi lên hình ảnh những con đường: con đường về Núi Thánh Sion, con đường hồi hương tái thiết lại Sa Lem, con đường trong hoang mạc, con đường gồ ghề, con đường cong queo…cùng với những nỗ lực để có những con đường đẹp, con đường thẳng như “bạt thấp nổng đồi”, “lấp đầy hố sâu”, “uốn thẳng con quẹo…”.
Và tất cả những cuộc hành trình đó, những con đường đó chỉ là hình ảnh, biểu trưng để dẫn dắt chúng ta biến thời gian cử hành Mùa Vọng thành một cuộc “lên đường”, một cuộc tiến bước trên “lộ trình” hướng đến và gặp gỡ Thiên Chúa. Và trong cuộc lên đường để gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ phải “bạt xuống nhưng đồi núi của kiêu căng, hợm hĩnh, của tham vọng ngông cuồng”, mà còn phải “lấp đi những hố sâu của hận thù chia rẽ, ghen ghét giận hờn, đố kỵ, cách ngăn”. Có nghĩa là để đón nhận Đức Kitô và sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa, phải sửa dọn con đường thích hợp, con đường ăn năn sám hối (metanoia), con đường từ bỏ hy sinh, con đường yêu thương thuận hòa…. Chúng ta cần sửa dọn “con đường tâm hồn” ta, “con đường cuộc sống” ta. Chúng ta cần sửa dọn những con đường đến với anh em, những con đường là các tương quan người với người trong gia đình, trong cộng đoàn, trong môi trường xã hội quanh ta…
Câu chuyện “con đường giữa hai cái hang” sau đây có thể là một minh họa rõ nét cho câu chuyện “dọn đường, sửa đường đón Chúa” mà chúng ta chia sẻ với nhau hôm nay:
Tại một vùng núi nọ, người ta truyền tụng cho nhau câu chuyện nầy: Ngày xưa, có hai thầy dòng quyết tâm nên thánh bằng cách chọn con đường ẩn tu. Để thực hiện việc nầy, cả hai thầy lên núi, tìm hai hang động cách xa nhau làm chỗ dung thân để qua hết cuôc đời trong thinh lặng và kết hợp với Chúa. Để cuôc sống ẩn tu đạt kết quả cao, và để khỏi bận tâm, chia trí về những "sự thế gian", cả hai quyết định, hang ai nấy ở, mỗi người môt không gian riêng, một thế giới riêng, không liên hệ, không giao tiếp với nhau và với mọi người… Rồi năm tháng qua đi. Cả hai chết lúc nào không ai biết. Hai hang động trở thành hoang phế, như nhai chiếc mồ hoang lạnh giữa rừng sâu. Thời gian sau đó, có hai tên cướp bị săn đuổi, đã thay tên, đổi họ, lần mò trốn lên núi nầy để ẩn danh tìm chút bình an cho cuộc sống thừa. Gặp được hai cái hang hoang lạnh của người xưa, cả hai nẩy sinh sáng kiến: chọn nơi đây làm chốn dừng chân để sám hối và làm lại cuộc đời. Thế là cả hai dọn sạch hang cũ và bắt đầu cuộc sống mới của những người "ẩn tu bất đắc dĩ." Chỉ khác với hai thầy dòng trước một điều là cả hai quyết định làm một con đường nối liền hai hang để thường xuyên qua lại, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an …Dần dà, dọc theo con đường nối hai hang đã mọc đầy hoa, xung quanh hang động cảnh trí phô đầy sức sống và vẻ đẹp. Hai tên cướp năm nào giờ đây đã trở thành hai vị ẩn tu hiền lành, thánh thiện, đến nổi hương thơm thánh đức lan toả khắp vùng khiến nhiều người cất công lên núi để xin "Hai Thầy" cầu nguyện và hưóng dẫn đạo đức. Từ đó, phát xuất phát từ hai cái hang đó, đã có nhiều lối đi, nhiều con đường dẫn đến các khu dân cư, và trên các lối đi đó cùng mọc đầy hoa tươi thắm… Và rồi, hai "thầy tướng cướp ẩn tu" đó qua đời. Vì đời sống thánh thiện và vì có những phép lạ xảy ra cho một số người lên núi cầu xin, nên dân chúng vùng đó "tự động" phong thánh cho hai "thầy cướp ẩn tu" nầy…
Con đường đến với Thiên Chúa và đến với anh em của mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng nầy cũng phải được phát quang và trồng đầy hoa như thế. Và chỉ có những con đường “hiệp thông, chia sẻ, bác ái, khoan dung, quảng đại, tha thứ…như thế mới có thể biến những “hang đá tâm hồn” lạnh lẽo hiu quạnh của những tên cướp trở thành thánh nhân, mới biến chúng ta trở nên những Kitô hữu đích thực, mới biến thế giới quanh ta trở thành an vui hòa bình, và đặc biệt, biến Mùa Vọng, Mùa Giáng sinh năm nay trở thành một “Tin Vui đích thực” cho chính chúng ta và cho mọi người quanh ta. Quả thật trong thế giới nầy, trong cuộc đời nầy, cần thiết biết bao những con đường đầy hoa như thế. Amen.
30. Hướng lòng về ngày Con Người sẽ đến
Các bài Kinh thánh hôm nay cho chúng ta hiểu rõ hơn về Đấng sẽ đến và khuyên chúng ta có thái độ thích hợp với Người.
1) Đấng sẽ đến
Bài sách Isaia tiếp nối tư tưởng Chúa nhật 1 Mùa Vọng: khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ phân xử mọi nước và thiết lập thời đại thái bình. Hai tư tưởng này sẽ được khai triển thêm. Khi xét xử, Đấng Thiên Sai tỏ ra nhân ái một cách đặc biệt với những người nghèo khó. Còn đối với hạng bất nhân vô đạo, thì hơi thở của Ngài sẽ làm họ tiêu tan. Đang khi ấy, những nét tả về thời đại thái bình thật là thi vị. Người ta quên sao được hình ảnh: chó sói sống chung với chiên non, sư tử gặm cỏ như bò và trẻ em giỡn với rắn lửa mà chẳng hề chi?
Tuy nhiên chủ yếu của bài sách Isaia hôm nay không nhằm quảng diễn những tư tưởng của Chúa nhật trước. Nhà Tiên tri còn muốn đi xa hơn và nói một cách cụ thể hơn. Ngay những hàng chữ đầu tiên đã đề cập tới “chồi sẽ xuất từ gốc Giê-sê”; và câu kết còn nhắc lại danh hiệu ấy. Tức là với bài sách Isaia hôm nay, Phụng vụ muốn cho chúng ta hiểu hơn về Đấng sẽ đến sau này. Ngài thuộc tộc Yêssê, thân phụ của Đavít. Ngài sẽ là “Con Vua Đa-vít”. Ngài sẽ đến đầy Thánh Linh, đến nỗi không nơi nào trong Kinh thánh nói đến bảy ơn Chúa Thánh thần như trong đoạn Isaia này. Ngài sẽ xét xử mọi người, và rộng rãi cách đặc biệt với người nghèo khó. Ngài sẽ lập thời đại thái bình và muôn dân sẽ đến thỉnh ý Ngài.
Nhưng người nào trong tộc Đa-vít sẽ là Đấng Thiên Sai? Gioan Tẩy Giả trong bài Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho dân It-ra-en. Họ tuốn đến với ông. Họ xin ông làm phép rửa cho họ. Họ chấp nhận cả những lời khiển trách nặng nề. Nhưng Gioan vẫn chưa bằng lòng. Ông bảo mọi người phải thống hối thêm, để chịu được phép Rửa bởi Thánh Thần và bằng lửa. Chịu rửa bằng nước chưa phải là khó. Chịu rửa bằng lửa sẽ đau đớn hơn vì lửa mới làm cho những dơ bẩn ở trong chảy ra, đang khi nước chỉ rửa được những bụi bặm bám ở ngoài. Thế mà Đấng sẽ đến là Đấng đầy Thánh Thần. Ngài còn khỏe hơn Gioan, tức là đầy Thần lực hơn, đầy thánh thiện hơn, đầy đòi hỏi hơn, Ngài sẽ quan sát mọi người và thấu đạt tâm can như người sàng thóc hay rê lúa. Không ai lọt được sự phán xét của Ngài.
Như vậy, cả bài tiên tri Isaia, cả bài Tin Mừng Matthêu đều muốn cho chúng ta hiểu hơn về Đấng sẽ đến. Ngài sẽ là Đấng xét xử mọi người. Đó là viễn tượng về ngày thế mạt hơn là về ngày Giáng sinh. Chủ yếu của Mùa Vọng vẫn là hướng lòng chúng ta về Ngày Con Người sẽ đến trong những ngày sau hết. Tuy nhiên Mùa Vọng cũng hướng ta nhìn vào Ngày Chúa Giáng sinh như tương lai gần, để chuẩn bị tương lai cuối cùng. Và chúng ta cũng phải nhìn thấy việc Chúa sinh ra như để phán xét mọi người.
2) Đấng phán xét
Nhiều người thường nghĩ chỉ có phán xét khi linh hồn lìa xác về trước Tòa Chúa và đặc biệt lúc sống lại sau hết, mọi người sẽ phải trình diện trước mặt Đấng Chí Công. Nhưng không phải! Cả Isaia, cả Gioan không nghĩ như vậy đâu. Theo các ngài, khi Đấng Cứu Thế đến, dù là đến trong thế gian để làm công việc cứu chuộc, Ngài đã là Đấng Thẩm Phán Chí Công rồi.
Cụ già Simêon chia sẻ quan niệm đó. Nhìn thấy Hài Nhi ở trong Đền thờ, ông đã cất tiếng loan báo: Trẻ này sẽ làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy, nghĩa là hư đi hay được cứu rỗi.
Và thật sự hễ Đức Kitô đến nơi nào là ở chỗ đó có người tin theo và có người chống đối. Giáo lý Ngài truyền ra tức khắc làm cho nhiều kẻ thấy chói tai và nhiều người khác đón nhận như Tin mừng cứu rỗi. Ở nơi thân mật với các tông đồ, Ngài đã khiến Yuđa trở thành tên phản phúc và các người dân chài kia trở nên kẻ đi chài lưới người.
Ở nơi công cộng trên đỉnh đồi Núi Sọ, Ngài cũng làm cho một tên trộm phải lộng ngôn, đang khi người trộm khác được vào nơi an nghỉ.
Đấng Thiên Sai là Đấng Xét Xử. Bản chất Ngài là vậy, vì như Isaia và Gioan nói: Ngài là Đấng đầy Thánh Linh. Mà Thánh Linh là tình yêu. Đấng Thiên Sai mang tình yêu Thiên Chúa nhập thế giáng trần vì Chúa Cha đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho ta. Đức Kitô là Tình yêu của Chúa Cha gửi đến cho loài người. Và tình yêu không chấp nhận dửng dưng. Người ta chỉ có thể đáp trả lại bằng yêu thương hay bằng từ khước, vì dửng dưng đã là từ khước rồi.
Thế nên, đang khi dọn mình mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta phải sẳn sàng đón nhận Đấng đến để phán xét, để phân biệt những người yêu mến Người và những kẻ từ chối Người. Và như vậy cũng là sẵn sàng để đón nhận Đấng sẽ đến phán xét sau này. Chúng ta phải biết ơn Isaia và Gioan. Cả hai đã cho chúng ta hiểu điều đó. Có điều hai ông dường như mâu thuẫn với nhau: Isaia nói đến một Đấng phán xét dịu dàng, còn Gioan lại trình bày Ngài như người sàng thóc, để bỏ trấu vào lửa. Dung hòa hai ông thế nào? Chúng ta phải nghe ai?
3) Thái độ đạo đức
Thật ra, như lời thư Rô-ma nói, mọi điều đã viết xưa kia, thì đã được viết để dạy dỗ ta. Thế nên ta không tìm cách bỏ mất điều nào. Đấng phán xét của Isaia sở dĩ sẽ phân xử công minh cho người hèn yếu và đoán định ngay chính cho kẻ nghèo hèn, là vì Ngài không phân xử theo mã mắt thấy hay đoán định phỏng chừng tai nghe. Ngài thắt đai lưng bằng công chính và nịt hông bằng tín thành. Nghĩa là Ngài là Đấng chính trực và thông suốt. Đứng trước một Đấng Thiên Chúa thánh thiện như vậy, và nhất là phải dọn đường cho Ngài tới giữa một dân tộc còn nhiều tội lỗi, Gioan không thể làm khác hơn là kêu gọi người ta ăn năn thống hối. Ông là người mà tiên tri Isaia đã ám chỉ. Ông tiếp nối sứ mệnh của Isaia. Nhà tiên tri đã báo trước rất xa về Đấng xét xử sẽ đến. Gioan biết Đấng đó đã gần đến rồi. Chính ông đã phải sống cuộc đời tu hành khắc khổ với thức ăn, áo mặc khác thường để mong được cứu độ. Lời ông giảng phát xuất từ đời sống chân thật, khiến người nghe chấp nhận như lẽ đương nhiên phải vậy. Chúng ta không thể nói ông đòi hỏi hơn Isaia hay một tiên tri nào khác. Cả ông lẫn Isaia chỉ nói lên một sự thật: Đấng đang đến sẽ xét xử rất công minh. Thế nên ai nấy hãy thống hối tội lỗi.
Thánh Phao-lô không những được kinh nghiệm của Isaia và của Gioan, ngài còn đã được biết về cuộc đời của Đức Yêsu. Ngài thấy các việc lành Cựu Ước dạy làm chưa đủ để giúp ta được ơn thánh hóa. Các của lễ đền tội ngày xưa không đủ sức xóa bỏ tội lỗi. Duy chỉ có lòng thương xót của Chúa. Việc ta thống hối tội lỗi vẫn cần, nhưng tha thứ vẫn là hành vi hoàn toàn quảng đại của Chúa. Mà rõ ràng Chúa muốn quảng đại. Chúa muốn cứu cả giới cắt bì lẫn lương dân. Ngài muốn thi hành lòng thương xót cho mọi người miễn là người ta muốn đón nhận. Và chỉ ai muốn tha thứ mới đón nhận ơn tha thứ. Có tìm được mảnh đất thích hợp, ơn Chúa mới kết quả như hạt giống rơi vào đất tốt. Thế nên trong ngày Phụng vụ giới thiệu cho ta biết, Đấng sẽ đến là Đấng đến để xét xử, thì không những Giáo hội muốn cho ta thi hành việc thống hối tội lỗi; nhưng để ta chắc chắn nhận được ơn cứu độ thứ tha, dùng lời Thánh Phao-lô, Giáo hội khuyên ta hãy có thái độ chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau và sống thuận hòa với nhau. Bức họa về thời đại thái bình trong bài sách Isaia thúc giục chúng ta xây dựng một nếp sống xã hội thuận hòa để chứng tỏ Nước Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta sẵn sàng cho Ngày Ngài trở lại.
Chúng ta sẽ sống thuận hòa trong mọi ngày chờ đón Chúa đến. Chúng ta cần tinh thần hoà thuận ngay trong lúc này để đi vào Thánh lễ, vì nếu khi mang lễ vật tới bàn thờ mà nhớ đang còn xích mích với ai, hãy đặt của lễ đó, về làm hòa đã rồi sẽ trở lại dâng của lễ sau.
Xin Chúa cho tâm hồn chúng con được thật sự bình an để dâng lễ vật này. Nghĩa là xin Chúa tha thứ những nỗi bất hòa giữa chúng con, để hôm nay dâng lễ vật bình an này về, chúng con sẽ nỗ lực xây dựng xã hội thuận hòa để chờ đón Chúa.
31. Kinh nghiệm trở về – Achille Degeest
(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Để hiểu đoạn văn của tiên tri Isaia trích dẫn ở đây, phải nhớ rằng não trạng Do Thái bị đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm về sự Xuất Hành. Cuộc Xuất Hành đầu tiên là vụ trốn thoát khỏi Ai Cập. Nhưng về sau, dân Israel còn trải qua những cuộc lưu đầy khác, theo sau là những cuộc giải phóng, những vụ Xuất Hành mới. Ở đây lời tiên tri của Isaia liên quan đến cuộc giải thoát khỏi ách thống trị Babylone. Cũng như xưa khi ra khỏi Ai Cập, Do Thái sẽ phải đi qua sa mạc, sa mạc Syria.
Theo Isaia thì tiếng kêu hiệu triệu rằng phải dọn cho Chúa một con đường trong sa mạc. Còn theo Gioan Tẩy Giả, đó lại là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Chúa. Hai cách nói trên không chống nghịch nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Nếu biết rằng não trạng Kitô giáo được đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm trở về với Chúa, bởi cuộc ‘xuất hành thiêng liêng’, người ta có thể chấp nhận rằng tiếng Chúa gọi giữa loài người thường giống như một tiếng kêu trong sa mạc, nhưng đàng khác người ta kinh nghiệm rằng, nếu biết nghe tiếng ấy, thì cuộc trở về với Chúa, nghĩa là sự trở lại, gồm có những giai đoạn ‘lột xác’ trong sa mạc, từ bỏ, trần trụi. Song không được ngã lòng, bởi vì tiếng Chúa là tiếng loan báo Tin Mừng, loan báo Tự Do.
Trong cách thức hành động của Gioan, ta hãy nêu ra hai điểm:
1) Người làm phép rửa trong giòng sông Giođan. Nghi thức tẩy rửa với nước, từ việc rửa tay đến việc tắm gội toàn thân, là một tục lệ thông thường của người Do Thái và nơi các dân tộc khác. Nghi thức đó có ý nghĩa tôn giáo. Mối nguy mà Gioan nói tới, là ở chỗ tin rằng chỉ cần làm nghi thức là có thể coi mình đã trong sạch rồi. Dù vậy Gioan vẫn không coi thường nghi thức ấy, vẫn áp dụng, vẫn làm phép rửa.
Phép Thánh Tẩy Kitô giáo sử dụng nước để rửa, như một dấu hiệu. Con người hiện đại dễ coi khinh các dấu hiệu bên ngoài. Cần phải nhấn mạnh với họ rằng những yếu tố hình thức cho phép đi tới những thực tại sâu xa, miễn là được áp dụng trong một số điều kiện nào đó. Bí tích là những dấu hiệu của một thực tại thiêng liêng; bí tích biểu hiệu bên ngoài điều mà ơn sủng thể hiện bên trong.
2) Phép rửa Gioan kèm theo việc tự cáo tội. Đó là một việc bề ngoài. Thiên Chúa thấy tận thâm sâu của cõi lòng ta, và chính là trong chỗ thầm kín đó mà Người thôi thúc, cật vấn con người. Mà nếu nhìn vào đáy sâu của lương tâm mình, nó không thể không thấy mình khốn nạn. Lúc đó hoặc là nó trở nên mù quáng, hoặc ngã lòng, hoặc sẽ cầu xin Chúa thanh tẩy mình. Chúa thanh tẩy và giúp đỡ con người thành thực có lòng ao ước ra khỏi vòng tội lỗi. Đó là một kinh nghiệm khởi đầu và đi theo suốt cuộc đời người Kitô hữu.
32. Hãy dọn đường Chúa – R. Veritas
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
Ba nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh được Giáo Hội nhắc đến trong Mùa Vọng để giúp chúng ta chuẩn bị đón chờ Chúa đến là tiên tri Isaia, thánh Gioan Tiền Hô và Mẹ Maria. Không những các Ngài đã đón Chúa đến trong cuộc đời mình, mà các Ngài còn giúp cho mọi người khác biết cách để đón chờ Chúa đến.
Bài đọc thứ nhất của cả bốn Chúa Nhật Mùa vọng đều trích lại sứ điệp tràn đầy hy vọng của tiên tri Isaia. Trong cảnh sống nhiều thử thách và bóng tối đau thương dường như thể Thiên Chúa không có mặt, như bỏ rơi con người. Tiếng nói đầy hy vọng của tiên tri Isaia vang lên loan báo Thiên Chúa sắp đến thực hiện lời Ngài đã hứa, là thiết lập lại sự công bằng và hòa bình.
Thời của chúng ta đang sống tuy cách xa thời của tiên tri Isaia, nhưng vẫn cần lắng nghe và hy vọng vào sứ điệp của tiên tri Isaia. Con người có âm mưu loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi con người, nhưng phần Thiên Chúa thì Ngài không thể vì thế mà bỏ mặc con người với những thảm cảnh do chính con người tạo nên, như họ muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Quyền năng vô cùng của Thiên Chúa luôn luôn có cách thế để vượt thắng những điều tiêu cực trong lịch sử con người và chương trình cứu rỗi vẫn được Ngài thực hiện.
Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân Israel đang gặp thử thách ngày xưa và cho chúng ta ngày nay về dung mạo của Thiên Chúa Cứu Chuộc sắp đến là vị Thiên Chúa mà con người cần đến, với những lời được trích lại trong bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng; “Chúa lấy công minh mà xét xử người nghèo” (x. Is 11,1-10). Đó là những đường nét chính của một vị Thiên Chúa cứu rỗi mà con người mọi thời đại cần đến, một vị Thiên Chúa công bằng trong xét đoán và giàu tình yêu thương, vì Ngài đến để thiết lập cuộc sống hoà bình và hoà hợp cho con người. Cuộc sống ấy được tiên tri Isaia loan báo bằng hình ảnh môi sinh, trong đó sói sống chung với chiên, trẻ nhỏ dám tiếp xúc với các thú dữ. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người được sống trong cảnh thái bình hoà hợp. Nhưng từ phía con người, họ không được sống ỷ lại để mặc Thiên Chúa muốn làm sao thì làm, nhưng họ phải biết thay đổi cuộc sống của mình mà trở về với Thiên Chúa, đón nhận hồng ân Ngài ban.
Trong viễn tượng này, bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng nhắc lại sứ điệp của thánh Gioan, kêu gọi con người hãy thực sự trở về với Thiên Chúa bằng hành động thiết thực, chứ không phải bằng lời nói suông cho qua lần. Qua đó chúng ta có thể lưu ý đến những lời sau đây ghi lại điểm chính của sứ điệp là: “Hãy ăn năn và sám hối”.
Sự ăn năn sám hối là bước đầu tiên không thể bỏ qua được trên con đường trở về với Thiên Chúa. Cần dứt khoát, không được chần chờ kéo dài thời gian mãi được: “Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây”. Hơn nữa, trong số những người đến nghe Gioan rao giảng và muốn thực hiện việc ăn năn trở lại, có những người biệt phái và các văn nhân thuộc phái Sadduceo, họ bị thánh Gioan trách nặng lời: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai bảo các ngươi trốn cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối”.
Dù là ai hay trong địa vị nào đi chăng nữa, thì ai ai cũng là kẻ có tội và cần sự ăn năn thống hối, cần thật lòng trở về cùng Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống của mình xem trong ta còn có trở ngại nào ngăn cản không cho Chúa đến trong chính chúng ta và trong xã hội mà chúng ta đang sống.
Chúng ta hằng ngày hãy đọc kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến...”. Lời chúng ta cầu xin cho Nước Cha trị đến sẽ chỉ là lời nói suông hay chỉ là lời nói theo thói quen bao lâu chúng ta không thực sự canh tân đời sống mình: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến”.
33. Hãy sám hối
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Nước Trời đã gần, Đấng Mêsia sắp đến: đó là điều Gioan đã hô to trong hoang địa miền Giuđê. Đối với ông, Đấng Mêsia thật là vị Thẩm phán đáng sợ. Chính Ngài sẽ tách biệt người lành với kẻ dữ, như người ta phân biệt thóc mẩy với thóc lép, “thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa”. Ngày Đấng Mêsia đến cũng là ngày Thiên Chúa thịnh nộ. Rìu đã sẵn, cây không sinh quả thì bị chặt đi. Người ta sẽ phải chịu phép rửa trong lửa hồng. Chính vì thế Gioan khẩn trương mời gọi dân chúng sám hối. Thực tế cho thấy Đức Giêsu không phải là Đấng Mêsia kinh khủng như ông nghĩ.
Tuy nhiên lời mời gọi sám hối của Gioan vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta không sám hối vì bị đe dọa và sợ hãi, nhưng vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương nơi Đức Giêsu.
Mùa Vọng là mùa sám hối để đón Chúa đến. Chúa đã đến âm thầm ở Bêlem. Chúa sẽ đến khải hoàn vào ngày tận thế. Chúa vẫn đang đến với chúng ta mỗi ngày qua các bí tích và các biến cố lớn nhỏ.
Để chuẩn bị Hội Thánh mừng Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã chọn chủ đề cho năm 1996 là Sám hối và Canh tân.
Sám hối là nhìn nhận mình đã gieo rắc bao gương mù khiến khuôn mặt Đức Giêsu trở nên khó tin. Sám hối là tự vấn về những hành động gây chia rẽ các anh em Kitô hữu với nhau. Sám hối là ăn năn về những cử chỉ thiếu khoan dung, về việc đôi khi dùng bạo lực để bắt người khác chấp nhận chân lý. Sám hối là nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước bao sự ác của thế giới hôm nay.
Đây không phải là việc của cá nhân, nhưng là việc của cả Hội Thánh. Một Hội Thánh có can đảm sám hối là một Hội Thánh đang vươn tới sự thánh thiện.
Chúng ta cần nghe lại những lời nhắc nhở của Gioan. Ông kéo chúng ta ra khỏi sự tự mãn: “Đừng tưởng mình có cha là Apraham” (Mt 3,9). Đừng tưởng mình đương nhiên được vào Nước Trời.
Gioan mời mọi người xưng thú tội lỗi (Mt 3,6).
Sông Giođan đã thành nơi con người làm hoà với Thiên Chúa.
“Hãy dọn đường cho Chúa đến”
Hội Thánh và mỗi Kitô hữu là những con đường, để Chúa đến với nhân loại và để nhân loại đến với Chúa.
Ước gì đó là những con đường thẳng và phẳng phiu, để ai cũng muốn đi và đi tới đích.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha mời gọi Hội Thánh sám hối và canh tân. Bạn có thấy giáo xứ, gia đình hay nhóm của bạn làm điều gì ngược với tinh thần Đức Kitô và gây gương mù cho người khác không?
Bạn nghĩ gì về đời sống của bạn? Hiện nay, bạn thấy mình cần hoán cải và canh tân về những điểm nào?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
34. Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM
Hãy ăn năn thống hối vì nước trời đã gần đến
Trong bài Phúc Âm, thánh Mathêu đoạn 3, câu 1 đến 12 đã nói đến lời tiên tri Isaia, một vị tiên tri sống vào khoảng 765 năm trước Chúa Cứu Thế đã nói: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Một lời mà Gioan tiền hô đã suy gẫm, đã ăn chay, đã sống nhiệm nhặt, ăn chay đánh tội, đến nỗi Chúa khen ông là người cao trọng nhất trong Cựu Ước (Mt.11:11). Ngài đã kêu gào người ta thống hối và tin vào phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa của đấng đã thiết lập sau này.
Mùa Vọng này, Giáo Hội muốn chúng ta dọn đường cho Chúa, hãy dọn tâm hồn mình cho trong sạch, đời sống của mình còn có điểm nào quanh co, hãy sửa chữa cho ngay thẳng, cho đoan chính, cho ăn nhập với lời khuyên của Phúc Âm. Những hố sâu tội lỗi, hãy bồi đắp cho bằng, những quăn queo, gồ ghề của tư tưởng vẹo vò, của kiêu ngạo, của tự ái, của ích kỷ, hãy bạt xuống cho bằng. Hãy nghe lời Gioan Tiền hô kêu gọi mà thực hành cho ráo riết, đừng coi thường và hãy thúc đẩy mọi người trong gia đình, trong chòm xóm thi hành lời kêu gọi. Hãy lấy đức ái mà che lỗi cho người sai lầm, chữa chạy cho họ, để cả hai được minh chính trước mặt Chúa, kẻo cái rìu đã đặt dưới gốc cây, cây nào mà không sinh trái, người nào mà không sửa mình sẽ bị chặt và quăng vào lửa. (Mt.3:10).
Cũng tại Hoa Kỳ, Luật Tiểu Bang cấm gọi điện thoại khi lái xe. Ai vi phạm sẽ bị phạt 100 đồng. Một hôm ông Thị Trưởng đi làm bị kẹt xe giữa đường. Hàng xe dài nối duôi nhau chẳng tiến mà cũng chẳng lùi được. Quên luật cấm, ông Thị Trưởng móc điện thoại di động ra liên lạc xem Ty Cảnh Sát có trách nhiệm giải quyết vụ kẹt xe đến đâu rồi. Bị nhà báo chụp hình ông đang nói điện thoại vi phạm luật cấm. Khi nạn kẹt xe được tháo gỡ, lưu thông trở lại bình thường. Ông Thị Trưởng lái xe thẳng tới sở Cảnh Sát, ông bình thản móc túi nộp 100 đồng tiền phạt.
Khi được hỏi, ông trả lời: "Đã có luật thì phải chấp hành, bất kể trong trường hợp nào và là ai. Tôi vi phạm nên tôi phải nộp phạt".
Khi đã khẳng định: Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, nghĩa là người trên, kẻ lớn chả ra sao, thì cấp dưới, con cái nhất định cũng chẳng ra lề thói gì. Ngược lại, lời khẳng định trên cũng hàm chứa điều này: Nếu người trên, kẻ cả tuân thủ luật pháp một cách nghiêm túc, thì chắc chắn cấp dưới sẽ chẳng có cửa nào để làm càn. Chẳng cần ngồi lắc đầu nhìn những việc lỗi đạo hoặc than ngắn thở dài về sự xuống cấp đạo đức nơi gia đình, ngoài xã hội, có lẽ nên bắt chước gương người cha hoặc gương cấp trên của ông Thị Trưởng, chắc là hữu ích.
Lạy Chúa, để dọn mình chờ đón Chúa đến, con xin hứa sẽ nghe lời Gioan kêu gọi mà thực tâm cải thiện đời sống chính mình và kêu gọi người khác cùng thi hành với con.
35. Hãy sám hối
(Trích từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mùa Vọng là hướng tới tương lai. Các tiên tri là những người đã nhìn thấy tương lai. Các tiên tri lãnh sứ mạng loan báo cho Dân Chúa một tương lai huy hoàng, một niềm hy vọng phấn khởi vào thời đại Thiên Sai Cứu Thế sắp đến.
Tiên tri Isaia trong Bài đọc 1 hôm nay đã mô tả thời đại Thiên Sai như một thời đại thái bình, bằng những hình ảnh thật là thi vị: “Chó sói chung sống với chiên con, sư tử gặm cỏ với bò và trẻ em chơi chung với rắn lửa…”. Đó là cảnh thơ mộng của vườn Địa Đàng với những con thú dữ nằm kề bên thú hiền mà không cắn xé nhau. Tiên tri Isaia muốn nói đến một thời đại chung sống hoà bình trên trái đất. Ở đây không nhằm vào các con thú cho bằng nói đến con người, nói đến các dân tộc trên trái đất mà tiên tri Isaia sánh ví với các con thú hiền và các con thú dữ đã trở thành bạn hữu thân thiết, thành anh em. Thời đại hoà bình ấy sẽ đến, khi mọi người đều nhận biết Thiên Chúa và từ Thiên Chúa, con người tìm đường để đi đến với nhau. Còn đối với Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng, thì thời đại của Đấng Thiên Sai Cứu Thế là thời kỳ thịnh nộ, thời phán xét của Thiên Chúa đối với dân Israel. Gioan Tẩy Giả kêu gọi Dân Chúa hãy sám hối tội lỗi. Khác hẳn với giọng điệu dịu hiền trong Tin Mừng của Chúa Kitô, Gioan Tẩy Giả còn đưa ra “cái rìu và cái nia” để hù doạ dân chúng: “Đây cái rìu để sẵn dưới gốc cây: cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt đi và quẳng vào lửa”. Và đây nữa: “Tay Ngài cầm cái nia, Ngài sẽ rê lúa trong sân. Lúa chắc hạt thì thu vào kho lẫm, còn lúa lép thì làm mồi cho lửa, thứ lửa không hề tắt!”. Lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng này vang lên theo một cung điệu thắm thiết: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Gioan Tẩy Giả tố cáo sự giả hình của lối sống đạo thuần tuý bên ngoài. Ông chống lại óc vụ luật, thái độ tự mãn, tự trấn an mình là con cháu Abraham. Gioan Tẩy Giả kêu gọi sự hối cải đích thực, đòi hỏi sự phát sinh hoa trái bên ngoài.
Đấng Thiên Sai đã đến và đã đến từ lâu. Kỷ nguyên mới đã mở ra. Muốn gặp gỡ Ngài cùng với triều đại của Ngài, chúng ta phải cấp tốc “bố trí” lại cõi lòng và cuộc đời của mình.
Trong phim “Người giàu cũng khóc”, mãi lâu lắm Luis mới khám phá ra Mariana chính là ánh sáng của đời mình. Sự khám phá này vẫn chưa tức thì đem lại hạnh phúc cho anh. Một quá khứ lôi thôi, với những tật xấu cùng những hậu quả xã hội của nó vẫn dai dẳng ngăn cản không cho anh bắt đầu một đời sống mới như anh hằng mơ ước khi yêu Mariana. Phải bố trí lại cách sống, phải sửa chữa lại những hậu quả xưa cũ, phải vượt qua rất nhiều khó khăn, Luis mới hội đủ điều kiện cần thiết để xây dựng một cuộc sống yêu thương hạnh phúc trong lành.
Cũng thế, không phải khi Đấng Thiên Sai xuất hiện là mọi ước vọng của con người lập tức được mãn nguyện. Bởi vì, con người vẫn có khả năng từ chối Đấng Thiên Sai, và trong thực tế vẫn thường xuyên từ chối chính bản thân của Đấng Thiên Sai, cũng như khước từ con đường Ngài đề nghị cho con người. Cõi lòng ngổn ngang tù túng của con người phải được sắp xếp bố trí lại. Mọi chướng ngại như đồi cao, hố sâu phải được san bằng, lấp đầy, thì bước chân của Đức Kitô mới tiến vào được. Lời của Gioan Tẩy Giả đã vang lên trong chiều hướng này: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy làm việc lành phúc đức để chứng tỏ lòng ăn năn sám hối”.
Lại quay về với cuốn phim quen thuộc: Khi biết chắc Mariana và Leonardo hứa hôn với nhau, chàng Luis rơi vào cơn hoảng loạn. Trước tình thế có thể mất Mariana vĩnh viễn, anh lao vào cuộc như điên dại. Anh không thể làm khác, vì anh quá yêu Mariana, anh không thể sống thiếu nàng.
Trong tầm nhìn của đức tin, đối với ta, Đức Giêsu còn hơn hẳn Mariana đối với Luis. Vì Ngài là tất cả niềm hy vọng, là trọn vẹn tương lai, và cũng là sự sống hiện tại của ta. Ngài phải là tình yêu tha thiết của ta, thúc đẩy ta cấp tộc “bố trí” lại cuộc đời mình, để cuộc chung sống giữa ta với Ngài có thể thực hiện được và thực hiện ngay bây giờ, không trì hoãn. Cuộc sống chung này sẽ mở ra một kỷ nguyên êm đềm tươi thắm diệu kỳ mà ta phải cấp bách đạt được bằng bất cứ giá nào. Sự chậm trễ trong việc thay đổi cách sống là dấu chứng ta chẳng hề yêu Ngài, và như vậy thì thật là không có gì tệ hại hơn. “Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây”: không có tình yêu Đức Giêsu, cây sẽ không sinh trái và chỉ còn có một cách là đốn ngay đi mà quăng vào lửa.
Anh chị em thân mến. Lời mời gọi của Chúa Nhật 2 Mùa Vọng là tiếng kêu “Hãy sám hối” của Gioan Tẩy Giả. Sám hối ở đây đồng nghĩa với Kitô hoá, nghĩa là “hãy để Đức Kitô chiếm hữu con tim của ta, hãy để cho Ngài cuốn hút ta vào một kỷ nguyên mới”. Muốn vậy, hãy hâm nóng tình yêu và cấp tộc bố trí lại cõi lòng cũng như cách sống của mình.
Chúng ta lại sắp được nên một với Đức Giêsu trong Thánh lễ hôm nay, điều đó càng đòi hỏi chúng ta sửa sang lại tâm hồn ngay bây giờ và trong từng giây phút cuộc đời. Rồi thì những điều kỳ diệu sẽ đến đáp ứng cho mọi khát vọng khôn nguôi của chúng ta.
36. Làm việc
Cây nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Một cây cột gỗ có nhiệm vụ chống đỡ cho căn nhà, nếu nó mục nát không còn chống đỡ được nữa, người ta sẽ hạ xuống làm củi thổi. Một mái lá bị dột, không còn che nắng che mưa được nữa, người ta sẽ dỡ xuống để đun bếp. Mặt trời và mặt trăng có nhiệm vụ soi sáng ban ngày và ban đêm. Nếu chúng không còn tỏa sáng, thì sẽ không đủ lý do tồn tại, mặt đất sẽ tối om. Xem đó, chúng ta thấy mặc dù là vật chất vô linh, chúng vẫn làm việc nhờ đó mà trái đất xanh tươi, muôn loài sống động.
Bước vào thế giới loài vật, chúng ta cũng thấy như vậy. Con chó để coi nhà, con mèo để bắt chuột, con gà để đẻ trứng, con heo để bán thịt. Những con vật đó làm tròn bổn phận thì chủ được hài lòng. Nếu con chó thôi coi nhà, con gà thôi đẻ trứng, con mèo thôi bắt chuột, con heo thôi không lớn, chủ sẽ bực mình và lúc bấy giờ chỉ có nước hạ thịt mà thôi.
Đối với loài người cũng vậy. Trông ra đường, chúng ta thấy kẻ ngược người xuôi, mục đích của họ là gì? Tôi xin thưa, là kiếm tiền bằng cách này hay cách khác vì có làm mới có ăn, có hoạt động mới có tiền bạc. Ngay cả những nhà trí thức, chúng ta tưởng họ nhàn hạ. Không phải là như thế, họ không lao động bằng chân tay nhưng lao động bằng trí óc, và công việc lao động này cũng vất vả, cũng mệt mỏi, nhưng nhờ đó mà đem lại những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật. Suốt nhiều năm vùi đầu vào phòng thí nghiệm để nghiên cứu, Pasteur mới tìm ra phương thuốc chủng, Edison mới phát minh ra điện, Marconi mới hoàn thành xong hệ thống điện báo. Xem như thế, chúng ta thấy nhờ việc làm con người góp tiếng của mình vào bản hòa tấu chung của vũ trụ, cộng tác với Thiên Chúa trong công việc sáng tạo.
Bởi vậy, không có lý do để lười biếng, chơi bời và ăn bám. Đời ta sống lâu lắm là một trăm năm, cắt xén hai đầu lúc trẻ thơ và già cả, còn lại tám mươi năm. Trong quãng tám mươi năm này, đâu phải sung sướng hạnh phúc luôn. Nào bệnh hoạn, nào tai ương, nào chiến tranh, làm vẩn đục niềm hạnh phúc của chúng ta… thế mà chúng ta vẫn tha thiết, vẫn lo lắng, vẫn cặm cụi để bám lấy.
Còn cuộc đời tương lai, kéo dài mãi mãi thì chúng ta lại thờ ơ, không lo, không làm, như vậy đâu phải là khôn ngoan và sáng suốt. Hãy làm việc cho đời sống hiện tại và nhất là cho đời sống tương lai.
Cho đời sống hiện tại, chúng ta làm việc để nuôi sống mình và gia đình. Cho đời sống tương lai, chúng ta làm việc bằng cách sống đạo để được hưởng niềm hạnh phúc bất diệt. Đừng tham cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng. Đừng cúi gằm mặt xuống đất mà quên mất quê trời mai sau, nhưng hãy lợi dụng cuộc sống hiện tại với những thực tại trần gian làm bàn đạp đưa mình vào quê hương nước trời.
37. Tương lai
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ tính hay du đãng, không giữ lễ phép, lại thích chơi chim chơi chó. Bà mẹ vốn là người nghiêm khắc thấy con như thế thì quở phạt luôn mà cậu vẫn không chừa.
Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm quả cân ném trúng chân ông máu chảy đầm đìa. Từ bấy giờ ông không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập.
Về sau ông thi đỗ làm quan đến chức tể tướng. Lúc ông quí hiển thì mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi ông sờ đến vết thương ở chân thì ông lại nức nở khóc lóc mà nói rằng: “Chính vết thương này đã làm cho ta nên người”.
Có nhiều dòng nước mắt trong cuộc đời: Có những nước mắt của đau khổ, nước mắt của niềm vui, nước mắt của ly biệt, nước mắt của tiếc thương. Nhưng chỉ có nước mắt của sám hối là có giá trị hơn cả. Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối rửa sạch tội lỗi để lộ ra ân sủng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy giả đã khơi lên dòng nước mắt ấy: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu cuộc đời rao giảng cũng đã gói trọn sứ điệp nền tảng của Kitô giáo trong lời kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Sám hối là bước khởi đầu và là nền tảng của đời sống đức tin. Một trong những nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo là càng nhận ra sự nhỏ bé yếu đuối của mình, con người càng lớn lên trong ân sủng và tình thương của Chúa. Càng nhận ra thân phận tội lỗi của mình, con người càng dễ cảm thông trước vấp ngã của anh em.
Thiên Chúa không mong chờ nơi con người điều gì khác hơn là tấm lòng sám hối: “Chúa ở bên những người sám hối, và cứu chữa những ai sầu khổ” (Tv 33,19). Chính lòng sám hối chân thành đã đem lại niềm vui cho cả thiên đàng: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 17,7). Toàn bộ Tin Mừng cao rao Đức Giêsu nhân hậu với người tội lỗi.
Tuy nhiên, lòng sám hối đích thực đòi hỏi con người phải có một quyết định dứt khoát. Sám hối, theo truyền thống Kinh Thánh, chính là quay trở lại hoàn toàn theo hướng ngược lại. Sám hối, theo tiếng Hy Lạp “metanoia” có nghĩa là “thay đổi = Meta não trạng = noia”. Như vậy, sám hối đòi hỏi người ta phải triệt để thay đổi: từ tư tưởng cho đến hành động, từ hướng đi cho đến cách sống. Cuộc đời của thánh Phaolô là một kinh nghiệm thật sâu sắc về lòng sám hối, và ngài có đầy uy tín để khuyên bảo chúng ta: “Hãy quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” (Pl 3, 13b).
Sám hối không chỉ là công việc của cá nhân mà là của cả Giáo hội. Đức Thánh Cha Phaolô VI là vị Giáo Hoàng đầu tiên thay mặt Hội Thánh bày tỏ lòng sám hối: “Nếu có lỗi lầm nào về sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là do lỗi lầm của chúng tôi, chúng tôi thành thật xin Chúa tha thứ và chúng tôi cũng xin anh em bị xúc phạm tha thứ cho chúng tôi”. Đặc biệt, trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã liệt kê rất nhiều lỗi lầm của Giáo hội trong hai thiên niên kỷ qua. Ngài đã công khai cử hành nghi thức sám hối và xin tha thứ hôm 12 tháng 3 năm 2000.
Ngọn lửa sám hối mà Đức Thánh Cha đã thắp lên trong lòng Giáo hội, không chỉ là ánh sáng xua tan bóng đêm tội lỗi, mà còn là sức nóng thôi thúc mỗi người tín hữu Kitô cũng hãy thật lòng sám hối những lỗi lầm của mình xúc phạm đến Chúa và anh em.
38. Anh em hãy thống hối, vì Nước Trời đã đến gần
Trước hết, ta tìm hiểu 3 điều:
1/ Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay không phải là Gioan Tông đồ. Gioan hôm nay là con ông bà Giacaria và Elizabet, bà đã sinh Gioan lúc tuổi già. Không rõ Gioan bỏ nhà, vào sống trong rừng hồi nào. Nay ông cũng tới 30 tuổi như Chúa Giêsu. Ông được gọi 2 tên: 1/ là Gioan Tiền hô, vì xuất hiện trước để kêu gọi dân thống hối dọn đường cho Chúa, 2/ là Gioan Tẩy giả, vì ông làm phép Rửa cho Chúa dưới sông Giodanô.
Gioan Tẩy giả tu rừng thời đó mặc áo lông thú vật, ăn châu chấu, mật ong rừng, đó là thức ăn của người nghèo, từ bỏ thú vui trong đời để trở thành người của Thiên Chúa.
Gioan kêu gọi người dân Thống hối: Nghĩa là "Thay đổi con người, từ xấu nên tốt, từ tốt nên tốt hơn, từ tư tưởng, lời nói, hành động, quay về cùng Thiên Chúa, để được sống muôn đời.
2/ Phép rửa của Gioan: đây là nghi thức bên ngoài "gìm người xuống nước" để tỏ ra lòng thống hối bên trong, không phải là Bí tích như Chúa Giêsu lập sau này".
3/ Phép Rửa của Chúa Giêsu: Là Bí tích (bí: bên trong, mắt không thấy nhưng 1/ tha tội, 2/ban đức tin, 3/ cho làm con Chúa. Tích: bên ngoài mắt ta thấy đổ nước trên trán, xức dầu thánh).
Ta suy 3 điều:
1- "Anh em hãy thống hối, vì Nước Trời đã đến gần." Đây là một thông điệp rất ngắn mở đầu sứ mạng của thánh Gioan. Ngắn thì dễ nhớ, nhưng không dễ thực hành.
Lời của thánh nhân có một sức mạnh to lớn làm cho nhiều người Do thái " từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, khắp vùng bờ sông Giođan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan" . Những người không thành tâm bị ông mắng là "nòi rắn độc, đừng hòng thoát cơn giận của Chúa. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt và ném vào lửa Hỏa ngục. Mọi người đều có tội. Người ăn năn thống hối thì được tha, người không thống hối sẽ bị phạt.
2- Phần mỗi người chúng ta ngày nay, có cần thống hối không?
21. Có lẽ không, vì xét sơ sơ, không thấy mình có tội lỗi gì lớn? Không giết người, không trộm cắp, không ngoại tình..., nhưng thử hỏi: Tôi có kính mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn chưa? Tôi có thương yêu người ta như mình không? Chỉ sơ sơ 2 điều đó là thấy tội lò mò ra rồi.
22. Người ta phạm tội, vì nghĩ rằng đó không phải là tội, phá thai không phải là tội, gian lận không phải là tội. nói xấu không phải là tội, chửi bới không phải là tội...Người khác cũng làm như thế, có sao đâu!, Đó là lương tâm bừa bãi, biến tội thành không, biến trọng thành nhẹ, vì thế, người ta không ăn năn, không dốc lòng chừa, không xưng tội, không đền tội, không xa lánh dịp tội, và không sợ bị ném vào lửa hỏa ngục, người ta vào, tôi cũng vào. Không biết rằng mất Thiên đàng là sự thiệt thòi vô cùng.
23. Tôi phải nghe lời thánh Gioan kêu gọi, Chúa Giêsu kêu gọi, Giáo hội kêu gọi, Đức Mẹ Fatima cũng đang kêu gọi "Ăn năn thống hối". Tại Fatima, Đức Mẹ đã nói "Đừng phạm tội nữa, Chúa đã bị xúc phạm quá nhiều rồi".
Vậy tôi cần thống hối. Lỗi tại tôi mọi đàng.
Truyện: Có một gương lành ăn năn thống hối, đền tội cải thiện đời sống đáng nhớ hôm nay, đó là thánh Khảm, được kính ngày 13 tháng 1 hàng năm:
Thánh Luca Phạm Trọng Thìn, người tỉnh Nam Ðịnh, trí khôn thông minh, nhanh nhẹn, được lên chức Chánh tổng hồi còn trẻ, và giao tiếp với nhiều người quan quyền, ông đã có vợ nhỏ, như nhiều người thời đó, vì thế sống thờ ơ với đạo.
Nhưng nhờ lời khuyên của bố, của cha giải tội, có thể của bà tổng, ông đã thành tâm thống hối, cải thiện đời sống. Sự thành tâm của ông sinh quả tốt là sau khi xưng tội, ông đã đổi đời, nên người đạo hạnh, một gia trưởng và hội viên dòng Ba Ðaminh đạo đức, một ông Chánh tổng đáng tin cậy. Hơn nữa, khi bị bắt vì đạo, ông đã cương quyết trước tòa, dù bị đánh, đập, mất danh dự, ông không bước qua Thập giá. Ông khai trong bản tuyên xưng đức tin rằng:
"Tôi là người có đạo Kitô, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, ngay cả cái chết đau đớn nhất, hơn là phạm một lỗi rất nhỏ trong đạo. Chính tay tôi viết điều này. Luca Thìn".
3- Tôi quyết tâm: theo của lễ 3 nhà đạo sĩ dâng Chúa Hài đồng (Vàng, nhũ hương, mộc dược)
1/ Trong tuần này, tôi chú ý hơn mục YÊU MẾN (vàng): mỗi ngày làm tử tế 50 lần Tác động Mến yêu "Giêsu-Maria-Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn" để làm hang đá thiêng liêng mừng Chúa Hài đồng.
2/ Xin Mẹ Maria giúp con gia tăng lòng mến Chúa mến Mẹ và Thánh Giuse, Bạn Trăm năm của Mẹ, và cứu các linh hồn.
* Nhớ lời kêu gọi của Thánh Gioan Tiền hô:"Anh em hãy thống hối, vì Nước Trời đã đến gần."
(Ca: Hãy chỗi dậy hỡi ai ngủ mê)
39. Chiếc rìu sát gốc cây
Có bao giờ chúng ta nghĩ đến những hình phạt mà Thiên Chúa sẽ đổ xuống trên nhân loại này hay không? Xã hội chúng ta đang sống chìm ngập trong tội lỗi, thế nhưng nhiều người lại không nhận ra điều đó.
Trước kia, lề luật của Thiên Chúa được coi là khuôn vàng thước ngọc, được coi là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, từ gia đình cho tới học đường, từ làng xã cho đến quốc gia và quốc tế. Đâu đâu người ta cũng nói đến Thượng đế, đến Ông Trời, đến Thiên Chúa. Kẻ làm điều ác sẽ bị mọi người cảnh cáo, khinh bỉ và có khi còn bị loại trừ. Dĩ nhiên không phải vì thế mà tội lỗi biến đi, nhưng ít ra còn có những người can đảm dám nói lên tiếng nói của lương tâm, phủ nhận tội ác, không dung túng cũng như không đứng về phe tội ác.
Trái lại, trong thời buổi hiện nay phạm tội nhiều khi còn được coi là một hành động anh hùng và nếp sống vô luân trở thành một nếp sống bình thường. Đã có những người cho rằng không phạm tội mới là bất bình thường. Có người chưa dám phạm tội, nhưng lại khoác lác như mình đã phạm tội để cho thiên hạ phải nể phục. Đã có những người tuyên bố rằng:
- Thời vàng son của tự do đã tới, con người được thoải mái sống theo bản năng, muốn làm gì thì làm.
Từ đó, lòng trung thành với tình yêu bị phai mờ. Sự ngay thẳng bị rút vào bóng tối. Tham nhũng hối lộ là chuyện thường ngày. Kẻ lường gạt được coi là khôn ngoan. Người ta không cho kẻ gian ác bị tống ngục là điều chính đáng, nhưng chỉ tiếc là hắn ta thiếu khôn ngoan. Ngay cả những nơi trước kia nền luân lý được coi là khắt khe nhất, thì bây giờ cũng đã bị bóng tối che phủ.
Biết bao nhiêu tội nhân không hề biết dừng bước trên con đường tội lỗi. Ho ung dung bước đi, đến nỗi cảm thấy áy náy nếu không phạm tội, đúng như lời Đức Thánh Cha Piô XII đã cảnh cáo:
- Tội nặng nhất của con người thời nay, đó là họ đã mất ý thức về tội lỗi.
Hình như càng văn minh, con người càng phạm nhiều tội ác. Ngày xưa chỉ có một ngọn tháp Babel, chứ ngày nay không biết có bao nhiêu ngọn tháp như thế? Chúng ta có nghĩ rằng mình đang sống ngoài vòng tội lỗi hay cũng đang lặn ngụp trong đó? Chúng ta có ghi nhận những lời cảnh cáo của Chúa hay không? Ngài sẽ làm gì khi thấy chúng ta như những con thiêu thân lao mình vào lửa?
Nếu đã nói nhiều về tình thương của Chúa, thì hôm nay chúng ta cũng phải nói về cơn thịnh nộ của Ngài. Thực vậy, tình yêu không phải chỉ được biểu lộ qua những ân huệ trao ban, mà còn được biểu lộ qua những hình phạt sửa dạy. Kinh Thánh cũng đã cho thấy:
Một trận đại hồng thủy đã vùi dập nhân loại thuở ban sơ đang chìm đắm trong tội lỗi.
Một dân tộc Do Thái, dù đã được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa, thế mà khi phản bội, Ngài cũng không ngần ngại trừng phạt họ một cách đích đáng, khiến bản thân họ bị tàn sát bởi những dân tộc hùng mạnh và đất nước họ bị đổ vỡ tan hoang.
Chúng ta liệu có xứng đáng hơn những người thời ông Noe, liệu chúng ta có trung thành hơn những người Do Thái hay không? Chưa chắc đâu, bởi vì tội ác đã lên ngôi và Thiên Chúa sẽ trừng phạt:
- Cây nào không sinh trái thì sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Nói tới đây, hẳn chúng ta sẽ liên tưởng đến những trái bom nguyên tử đang treo lơ lửng trên đầu nhân loại. Một trái bom loại này ngày xưa đã hủy diệt cả một thành phố như Hiroshima, còn hôm nay chỉ trong nháy mắt có thể san bằng cả một lục địa. Đúng là gậy ông đập lưng ông.
Thực vậy, chính tội ác của chúng ta đã làm nên những trái bom khủng khiếp ấy, để rồi một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu lãnh nhận hậu quả thảm khốc của nó.
Tuy nhiên, ngày xưa cũng như hôm nay, Thiên Chúa luôn tìm kiếm và cứu vớt những người kính sợ Ngài. Nếu ngày xưa tám người trong gia đình ông Noe được cứu thoát trên chiếc tàu do tay ông đóng lấy, thì hôm nay, chúng ta hãy biết sám hối trở về cùng Chúa, để nhờ đó thoát khỏi án phạt của Ngài, vì này đây, chiếc rìu đã được đặt sát gốc cây.
40. Sứ giả của Thiên Chúa
Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại rực rỡ nhất với uy quyền bành trướng khắp nơi. Vi hoàng đế không phải chỉ cai trị một cách tuyệt đối tại kinh thành La mã, mà còn ở tất cả những quốc gia, những dân tộc nằm trong lãnh địa của mình.
Nếu vị hoàng đế quyết định ghé thăm thủ đô của một thuộc địa xa xôi nào đó, ông ta sẽ sai sứ giả đi trước, có nhiệm vụ báo tin cho dân chúng biết cuộc viếng thăm và đốc thúc họ chuẩn bị đón rước sao cho linh đình và trọng thể. Trong khi chờ đợi, chính vị sứ giả ấy cũng sẽ được tiếp nhận với tất cả vinh dự của mình.
Đúng thế, vào lúc vị Vua tối cao của trời và đất sắp đến thăm hành tinh nhỏ bé này để ở giữa chúng ta, chia sẻ thân phận làm người của chúng ta và nhất là để cứu chuộc chúng ta, Ngài cũng đã chọn lựa cho mình một vị tiên tri, một vị sứ giả, như lời tiên tri Malachia đã loan báo: Này đây, ta sai sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con.
Lời loan này ám chỉ về Gioan Tẩy giả. Đúng thế, bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy giả đã rao giảng và trao ban phép rửa sám hối cho người Do thái để họ chuẩn bị đón mừng đấng cứu thế: Có tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa, (Mt 3,3), quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Gioan Tẩy giả không bảo họ treo cờ, giăng biểu ngữ hay làm cổng chào, nhưng bảo họ hãy sống tinh thần sám hối, xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi chính là những chướng ngại vật ngăn chặn không cho Chúa đến với chúng ta. Nếu không hoán cải, nếu không quay trở về với Chúa, thì này đây, cái dìu đã được đặt dưới gốc cây và cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa. (Mt 3,10).
Ngoài ra, cũng như các vị tiên tri đi trước, Gioan Tẩy giả còn tố cáo sự giả hình và thái độ tự mãn của người Do thái vì cho rằng mình đã có tổ phụ Abraham. (Mt 3,9). Đúng thế, đức tin không phải là một di sản của nòi giống, của chủng tộc, nhưng là một cuộc dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi. An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với người Do thái, trong lúc sự hoán cải đích thực đòi hỏi phải luôn canh tân và đổi mới.
Thái độ của người Do thái phải chăng cũng là thái độ của chúng ta, những người luôn tự hào: Tôi là người đạo gốc, tôi là người đạo dòng, tôi giữ đạo từ tấm bé, tôi luôn thuộc về Giáo Hội, tôi xưng tội rước lễ thường xuyên và như vậy đã bảo đảm cho tôi phần rỗi linh hồn.
Gioan trả lời cho chúng ta hay: Không phải là như thế. Chính Chúa Giêsu cũng xác quyết: Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Abraham. (Mt 3,8). Và như vậy, trong ngày sau hết, con cháu trong nhà sẽ bị quăng ra ngoài, vào chốn tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. (Mt 8,11-12).
Thực vậy, danh hiệu người có đạo mà thôi không đủ để miễn trừ cho chúng ta bổn phận phải sám hối ăn năn, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, nhờ đó thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời. Bởi vì sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, chúng ta sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Mùa vọng đã trở về, đây chính là thời gian thuận tiện nhất để chúng ta lắng nghe và thực thi sứ mạng của Gioan Tiền hô: sám hối và canh tân để dọn đường đón mừng Chúa đến, bởi vì tâm tình sám hối chính là bước chân đầu tiên trên con đường trở về cùng Chúa và cõi lòng ăn năn chính là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.
Hay như thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Tâm tình sám hối ăn năn chính là sự cộng tác, chính là sự góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
41. Ăn năn sám hối
Cách đây không lâu có một bài báo viết về một chương trình rất đặc biệt. Chương trình nói về việc tẩy xóa những vết xăm không còn muốn giữ lại trên thân mình, đặc biệt là những dấu xăm có liên hệ đến băng đảng của các bạn trẻ. Một điều rất ngạc nhiên xảy ra là sau khi bài báo xuất hiện, đã có trên 1000 lá thư từ các bạn trẻ khắp nơi gửi về tòa soạn hỏi thêm chi tiết về chương trình. Nhờ sự đáp ứng đáng kể đó mà một cơ quan giáo dục tại Los Angeles đã phối hợp với một hãng truyền hình địa phương sản xuất một cuốn phim gọi là “Untatoo You” – “Tẩy vết xăm cho bạn”.
Cuốn phim nói về những nguy hiểm của việc xăm mình và trình bày sự khó khăn của việc tẩy đi những dấu xăm nhỏ trên những cánh tay, khuôn mặt, và những vết xăm lớn hơn trên ngực và sau lưng. Các tài tử đóng phim này chính là những bạn trẻ đã xăm mình. Họ nói một cách thành thật về lý do tại sao lúc ban đầu họ đã xăm, và bây giờ tại sao họ lại muốn tẩy xóa đi. Sau cùng, cuốn phim đã chiếm được giải thưởng quốc gia, và bây giờ đã được phát hành trên khắp nơi.
Câu chuyện đằng sau cuốn phim nói với chúng ta một điều quan trọng. Trong cuộc đời chúng ta đã làm những điều mà bây giờ cảm thấy ăn năn sám hối và muốn tẩy xóa đi. “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng”.
Giống như những người trẻ vui mừng khi khám phá ra cách tẩy xóa những dấu xăm không còn muốn giữ nữa, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng vui mừng vì Chúa Giêsu Kitô đã cho chúng ta một cách để tẩy xóa tội lỗi của mình. Chính Ngài đã đến để xóa tội trần gian. Chính Ngài đã lập ra Bích tích Hòa giải để tẩy xóa tội lỗi ta.
Chủ đề chính của Chúa nhật thứ II mùa vọng hôm nay là sự sám hối chân thành và lòng ăn năn trở về với Thiên Chúa. Sự sám hối chân thành được thể hiện bằng những thái độ, sự lựa chọn và cách sống phù hợp với những giảng huấn của Chúa Giêsu và Giáo Hội. Điều này được thực hiện trong Bí tích Giải tội với những tên gọi khác nhau như Bí tích của sự trở lại, Bí tích sám hối, Bí tích của ơn tha thứ, Bí tích hòa giải.
Trong tiếng Hy Lạp chữ sám hối, metanoia, vừa có nghĩa một cảm xúc hối tiếc về những tội lỗi quá khứ làm xúc phạm đến Thiên Chúa, vừa là việc xét mình tỉ mỉ những tội đã phạm, từng tội một, để xin Chúa tha thứ, vừa là một sự đòi hỏi hoán cải sâu xa trong tâm trí và cuộc sống.
Sự biến đổi cuộc sống là dấu chỉ của lòng sám hối đích thật. Phải thay đổi cách suy nghĩ, cách cư xử, và cách hành động. Giáo Hội vừa thánh thiện, vừa gồm những tội nhân. Như một thành phần trong Giáo Hội, chúng ta chưa là thánh, nhưng đang được kêu gọi để trở nên thánh, và luôn được mời gọi để thay đổi.
Nhưng trong quá trình hoán cải, giống như thánh Augustinô, đôi khi chúng ta cũng có khuynh hướng cầu xin với Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy thay đổi con, nhưng xin thay đổi con từ từ thôi”. Chúng ta cũng còn muốn giữ lại một điều gì đó dính bén với tật xấu, thói quen tội lỗi và trần gian. Sự do dự chần chừ trong việc thay đổi cuộc sống như thế thường xảy ra trong đời sống thiêng liêng của con người. Hay tệ hơn nữa chúng ta lại còn có những cảm xúc hối tiếc giả tạo, đánh lừa chính mình nữa.
42. Ăn năn sám hối
Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả thật rõ ràng: hãy nhận lấy trách nhiệm về những hành động của mình. Phải phục hồi lại cảm giác luân lý trong lời nói và việc làm. Phải nhìn thấy sự khác biệt giữa sự giả trá và lòng chân thành. Phải có bằng chứng hiển nhiên rằng mình thành thật ước muốn thay đổi cuộc sống. Một sự sám hối chân thành sẽ phát sinh hoa trái đạo đức: “Hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối”.
Hôm nay thánh Gioan Tẩy giả cũng giảng dạy cho những người Kitô hữu ở thế kỷ 21 đang hờ hững và lạt lẽo với đời sống tinh thần. Ngài thách thức họ phải vứt bỏ những cái mặt nạ giả hình, dối trá, và gian tà bằng sự chân thành sám hối có sức mạnh biến đổi cuộc sống, và trở về với Thiên Chúa. Vì chỉ có lòng sám hối chân thành và ngay thực mới phát sinh được hoa trái đạo đức và mang lại ơn cứu độ như thánh Grêgôriô thành Nazianzê đã nói: “Các giáo phụ đã có lý để gọi sự sám hối là ‘một phép rửa tội gian khổ’. Bí tích sám hối này cần cho ơn cứu độ của những người phạm tội sau khi chịu phép rửa tội…”
Mùa vọng là thời gian để phục hồi lại đời sống tinh thần lạt lẽo của chúng ta và đặt Thiên Chúa lên hàng ưu việt trong thái độ sống và trong các chọn lựa. Đối với Kitô giáo, không có sự hoàn thiện nào mà không đòi hỏi một sự sám hối chân thành.
43. Suy niệm của Đam. Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
“Hãy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đã đến”
Nếu chủ đề của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm A tuần trước là “Hãy leo lên núi Chúa, tới nhà của Thiên Chúa Giacóp” , mà “leo lên núi Chúa”, như bài chia sẻ tuần trước cho thấy, là “hãy loại trừ những việc làm tối tăm” theo lời khuyên của Thánh Phaolô trong bài đọc hai tuần trước, chúng ta mới có thể gặp được Chúa Kitô, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thì lời kêu gọi của tiên tri Isaia trong bài đọc một tuần trước đã nên trọn nơi lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay: “Hãy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đã đến”. Căn cứ vào mối liên hệ sâu xa nơi hai lời kêu gọi hết sức tương hợp với nhau này, một trong Cựu Ước và một trong Tân Ước, chúng ta có thể chuyển dịch ý nghĩa của hai lời mời gọi này như sau: “Hãy leo lên núi Chúa” tức là “hãy cải thiện đời sống”, và “tới nhà của Thiên Chúa Giacóp” tức là “Triều đại Thiên Chúa đã đến”.
Thật vậy, như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, theo tiến trình cứu độ, Mùa Vọng là thời điểm trông đợi Chúa Kitô đến cứu thế, song theo ý nghĩa phụng vụ, Mùa Vọng là thời điểm cảm nghiệm thần linh, cảm nghiệm Đấng đã thực sự đến trong thế gian và không ngừng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế, bởi vậy Mùa Vọng của Giáo Hội Chúa Kitô cũng hướng về biến cố Chúa Kitô lại đến trong vinh quang. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể cảm nghiệm thần linh, có thể thực sự nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Lời Nhập Thể, là Thiên Chúa Làm Người, cho dù Người có đang ở với mỗi người chúng ta bằng Thánh Sủng, và có ở cùng Giáo Hội bằng Thần Linh của Người, nếu chúng ta không “leo lên núi Chúa”, tức không “cải thiện đời sống”. Bởi vì, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” ở trên ngọn của “đỉnh núi cao nhất”, nơi chúng ta “thuộc về hạ giới” (Jn 8:23) không thể tới được, thậm chí không thể thấy được, nếu chúng ta không muốn hay không chịu khó “leo lên núi Chúa”. Thật vậy, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” đây là gì, nếu không phải là nhân tính của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người, một ngôi nhà không phải do tay người ta làm ra, mà là do chính Thiên Chúa, “là do Chúa Thánh Thần”, như thiên thần báo mộng cho Thánh Giuse biết trong Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ Tư Năm A Mùa Vọng hai tuần tới đây. Nếu “Thánh Thần sẽ xuống trên trinh nữ và quyền phép Đấng Tối Cao sẽ bao phủ trinh nữ; bởi thế trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”, như Phúc Âm Thánh Luca trình thuật ở đoạn 1 câu 35, thì quả thực “nhà của Thiên Chúa Giacóp”, một ngôi nhà đã được dựng lên bởi “quyền phép Đấng Tối Cao”, chính là ngôi nhà đã được xây cất ở trên ngọn của “một đỉnh núi cao nhất vượt trên các ngọn đồi”. Và nếu “trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” đây chính là Đấng, cũng theo lời thiên sứ cho biết ở Biến Cố Truyền Tin trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 1 câu 32-33: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời và triều đại Người sẽ vô tận”, thì một khi “nhà của Thiên Chúa Giacóp” được xây cất trên ngọn của “đỉnh núi cao nhất” bấy giờ cũng là lúc “Triều đại Thiên Chúa đã đến”, như lời Gioan Tiền Hô loan báo trong bài Phúc Âm hôm nay.
Thế nhưng, nếu thực sự “Triều đại Thiên Chúa đã đến”, hay nếu Thiên Chúa Đã Làm Người, tại sao không ai trong dân Do Thái biết, không ai thấy, ngoại trừ một số rất hiếm, như tư tế Simêon và nữ tiên tri Anna như được Phúc Âm theo Thánh Luca thuật lại ở đoạn 2 câu 28-38? Phải chăng vì “nhà của Thiên Chúa Giacóp” này xây trên “đỉnh núi cao nhất”, hết sức khó thấy. Đúng thế, Thiên Chúa Nhập Thể là một mầu nhiệm, do đó, nếu không có ơn Chúa đặc biệt, con người không thể nào nhận ra Người, dù Người có thực sự ở giữa họ, như lời Tiền Hô Gioan khẳng định với dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Vậy mà tại sao Gioan Tiền Hô lại biết và loan báo cho dân chúng biết, trong khi chính ngài đã thẳng thắn tuyên bố với dân chúng trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 31 rằng: “Thú thực, tôi không biết Người, mặc dù tôi đến lấy nước mà rửa để Người có thể tỏ mình ra cho dân Yến Duyên”? Trong khi tuyên bố “thú thực, tôi không biết Người” như thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan Tiền Hô lại nói rất rõ về thân phận và vai trò của “Đấng đến sau” mình. Về thân phận của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền Hô tiết lộ: “Tôi lấy nước mà rửa cho các người hoán cải, nhưng Đấng đến sau tôi là Đấng quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người”; về vai trò của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền Hô cũng đã nói rõ: “Người là Đấng sẽ rửa các người trong Thánh Thần và trong lửa… Người sẽ dọn sạch sân lúa của Người, thóc thì Người thu vào kho, còn rơm thì Người cho vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Quả thực Đấng “tôi không biết” của Gioan Tiền Hô đã đến “rửa trong Thánh Thần và trong lửa”: Người đã “rửa trong Thánh Thần”, qua việc Người “thổi hơi” trên các tông đồ sau khi sống lại từ trong kẻ chết, để các vị “nhận lấy Thánh Thần”, như Phúc Âm theo Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 20 câu 22; và Người cũng đã “rửa trong lửa”, qua biến cố “những lưỡi như lửa xuất hiện tản ra đậu trên đầu mỗi một vị. Tất cả đều được đầy Thánh Thần. Các vị bắt đầu nói tiếng lạ và hiên ngang rao giảng theo Thần Linh thúc đẩy”, như được Thánh Ký Luca thuật lại trong Sách Tông Vụ ở đoạn 2 câu 3.
Phúc Âm cho thấy khi Gioan Tiền Hô đang kêu gọi dân Do Thái “cải thiện đời sống” và làm phép rửa thống hối cho họ ngài chưa thực sự tận mắt thấy Đấng “tôi không biết”, thậm chí cho đến lúc thánh nhân làm phép rửa cho Người, và thấy được những dấu chứng tỏ và chứng thực về “Đấng đến sau” mình, như ngài cho biết trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 2 câu 32-34: “Tôi đã thấy Thần Linh như chim bồ câu từ trời xuống đậu trên Người. Tuy nhiên, tôi không biết Người. Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa đã bảo tôi rằng ‘Khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống và đậu trên ai thì người ấy là Đấng rửa trong Thánh Thần’. Nay tôi đã tận mắt thấy và làm chứng ‘Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn’”. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 3 câu 13 và 14, ngay trước khi Đấng “tôi không biết” của Gioan Tiền Hô chịu phép rửa bởi ngài, thánh nhân hình như đã linh cảm được Người chính là “Đấng đến sau” mình rồi, nên thánh nhân đã từ chối làm phép rửa cho Người: “Tôi phải được Ngài rửa cho mới đúng, chứ đâu có chuyện Ngài lại đến xin tôi!”. Vấn đề ở đây là tại sao Gioan và chỉ có một mình Gioan bấy giờ linh cảm thấy Vị Thiên Chúa Làm Người trước khi làm phép rửa cho Người, và chẳng những nhận ra Vị Thiên Chúa Làm Người mà còn làm chứng cho Vị Thiên Chúa Làm Người này sau khi làm phép rửa cho Người, trong khi đó, đám dân chúng đông đảo đang kéo đến với thánh nhân, gồm có cả thành phần thông luật, thông Kinh Thánh, như phái Pharisiêu và Sađucê trong bài Phúc Âm hôm nay, không hề nhận ra Người?
Vẫn biết, nguyên do trước hết và trên hết khiến cho Gioan Tiền Hô có thể linh cảm thấy và nhận ra Vị Thiên Chúa Làm Người là vì, theo thánh nhân nói, như vừa được trích dẫn, “Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa đã bảo tôi”, thế nhưng, Đấng sai thánh nhân đến “lấy nước mà làm phép rửa” đây là ai? Vào lúc nào? Tại đâu? Sao thánh nhân lại tin vào Đấng ấy? Không ai biết, và chính ngài cũng không tiết lộ một tí gì về những chi tiết này. Về vấn đề nguồn gốc sứ vụ của Gioan Tiền Hô đây cũng đã được Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần trưởng tế và kỳ lão lãnh đạo trong dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 21 câu 24 thế này: “Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?” Nhưng họ không trả lời được, nói rõ hơn, họ không muốn trả lời, hay nói chính xác hơn, họ không dám trả lời, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu cùng đoạn tiếp tục thuật lại như sau: “Nếu chúng ta đáp là bởi ‘thần linh’ thì hắn sẽ vặn chúng ta rằng ‘thế thì tại sao các người không tin vào phép rửa này?’ Bằng nếu chúng ta bảo bởi ‘loài người mà thôi’, chúng ta không thể nào lại không sợ dân chúng, vì toàn thể dân chúng đều coi Gioan như là một vị tiên tri vậy”. Đến đây, qua sự kiện thành phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ lập luận để giải đáp về nguồn gốc phép rửa của Gioan, chúng ta mới thấy được lý do chủ quan tại sao Gioan Tiền Hô có thể tự mình linh cảm thấy “Đấng đến sau” khi vừa thấy Người đến xin thánh nhân làm phép rửa cho, trước khi thánh nhân nhận ra Người căn cứ vào chính mạc khải từ “Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa”.
Thật vậy, nếu lý do dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo dân chúng là Hội Đồng Do Thái bấy giờ nói riêng không nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, cho dù họ đã tận tai nghe lời Người giảng dạy vô cùng khôn ngoan cũng như đã tận mắt chứng kiến các phép lạ Người làm, chỉ vì họ muốn chối bỏ sự thật, không muốn chấp nhận sự thật, thì lý do chủ quan khiến Gioan Tiền Hô cảm nhận được ngay Vị Thiên Chúa Làm Người, đó là vì thánh nhân đã sống trong sự thật và tìm kiếm sự thật. Do đó, cho dù “toàn thể dân chúng” có trọng vọng thánh nhân “như một vị tiên tri”, thậm chí tưởng ngài là “Đấng Thiên Sai” (xem Jn 1:25), thánh nhân đã thành thực tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng Thiên Sai” (Jn 1:20). Vì sống trong sự thật như thế, nên có lần nghe thấy các môn đồ của mình nói đến sự kiện dân chúng kéo tới xin Chúa Giêsu làm phép rửa cho đông hơn thánh nhân (xem Jn 3:26), thánh nhân liền nói: “Ngài phải được nổi nang hơn còn tôi cần phải lu mờ đi” (Jn 3:30). Gioan Tiền Hô tự mình chẳng những đã sống trong sự thật như vậy, mà còn mạnh mẽ rao giảng sự thật và cương quyết làm chứng cho sự thật nữa. Thánh nhân đã mạnh mẽ rao giảng sự thật, ở chỗ, như Phúc Âm hôm nay thuật lại, khi ngài lên tiếng khiển trách “nhiều người Pharisiêu và Sađucê đến xin chịu phép rửa: ‘Đừng có mà tự phụ cho rằng Abraham la cha của mình. Tôi bảo cho các người hay Thiên Chúa có thể biến chính những hòn đá này thành con cái Abraham cũng được… Cây nào không sinh hoa kết trái sẽ bị chặt đi và quặng vào lửa”; chưa hết, thánh nhân chẳng những rao giảng mà còn hiên ngang “làm chứng cho sự thật” (Jn 5:33) nữa, ở chỗ, ngài đã lên tiếng phản đối việc hôn nhân bất chính của Hêrôđê và vì thế đã bị mất đầu, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 14, câu 4 và 11.
Vâng, cho dù Thiên Chúa Làm Người có thực sự tỏ mình ra, tỏ mình ra hoàn toàn nhất, đích thực nhất, hiển nhiên nhất nơi Con Người Giêsu Nazarét, và cho dù con người có được soi động cho biết những dấu hiệu đích thực để có thể chắc chắn nhận ra Ngài, nhận ra “Sự Thật”, chẳng hạn như trường hợp Gioan Tẩy Giả qua “Đấng đã sai (ngài) lấy nước mà làm phép rửa”, hay như trường hợp của thành phần lãnh đạo dân Do Thái trước vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra cho họ về ngồn gốc phép rửa của Gioan Tẩy Giả, tự mình con người vẫn cần phải thành tâm tìm kiếm sự thật và sống trong sự thật nữa mới có thể nhận ra Người. Vì Người đã quả quyết với Philatô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 18 câu 37: “Lý do Tôi được sinh ra, lý do Tôi đã đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tìm kiếm sự thật thì nghe thấy tiếng Tôi”. Cho dù thành phần tìm kiếm sự thật này chưa gặp được Người là chính “Sự Thật” (Jn 14:6), nơi họ cũng đã có sẵn tính chất là chiên của Người rồi, và bởi thế họ đã có khả năng làm chiên của Người nữa, khả năng nghe được tiếng chủ chiên của mình, khả năng nghe được “Sự Thật”, nhận biết “Sự Thật” khi được “Sự Thật” tỏ mình ra cho, vì Chúa Giêsu đã tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 10 câu 27 và 16: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”; “Tôi còn những chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi phải dẫn dắt cả chúng nữa, và chúng sẽ nghe thấy tiếng Tôi. Sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu Mùa Vọng chẳng những là thời điểm đợi trông Chúa Kitô đến lần thứ hai mà còn là thời điểm để Kitô hữu chúng ta cảm nghiệm được thực sự Chúa Kitô đã đến rồi và đang ở nơi mỗi một người chúng ta bằng Thánh Sủng cũng như ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế bằng Thần Linh của Người, và nếu muốn thực sự cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa Làm Người này nơi mỗi người cũng như trong Giáo Hội, Kitô hữu chúng ta cần phải như Gioan Tiền Hô sống trong sự thật, mà Sự Thật lại chính là Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa Làm Người, vậy sống trong sự thật phải chăng là tuyệt đối tin tưởng rằng Thiên Chúa thực sự đã Làm Người, và vì hoàn toàn tin tưởng nơi Vị Thiên Chúa Làm Người như vậy, Kitô hữu chúng ta sẽ không dám sống ngược lại với Đường Lối Nhập Thể của Người là khiêm nhượng, thanh bần, phục vụ và chịu đựng khổ đau, tóm lại, chúng ta luôn phải biết “bỏ mình đi và vác thập giá mà theo Thày” (Mt 16:24)?
44. Gioan Tiền Hô
Để hiểu được vai trò và sứ mạng của Gioan tiền hô, chúng ta hãy nhìn vào bối cảnh xã hội của người Do Thái thời bấy giờ.
Thực vậy, thời bấy giờ là thời đô hộ của đế quốc La mã, thời ra oai tác quá của Hêrôđê, thời dân Do Thái tìm mọi cách để được giải phóng.
Giữa lòng dân tộc và đặc biết tại thủ đô Giêrusalem, nhiều phe nhóm đã được hình thành với những khuynh hướng và lập trường khác biệt nhau.
Trước hết là nhóm Biệt phái. Nhóm này phát sinh từ thời Macabêô, qui tụ chừng sáu ngàn người, trong đó có một vài tư tế, các tiến sĩ luật, ký lục và thường dân. Nhờ trung thành với lề luật và truyền thống của cha ông, họ trở nên những nhà lãnh đạo tinh thần của dân chúng. Do đó, họ có một ảnh tưởng đáng kể về phương diện tôn giáo và luân lý. Riêng trong lãnh vực chính trị, họ bênh vực sự tự trị của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt đối với việc tiếp xúc với người La mã.
Bên cạnh họ là nhóm Sađucêô, con cháu của Sađốc, vị thượng tế thời Salomon. Vì thế họ làm thành phái các tư tế vì qui tụ những gia đình tư tế khá giả. Họ chấp nhận các phong tục Hy Lạp và thích nghi với chế độ thống trị của đế quốc La Mã. Về phương diện tôn giáo, họ chối bỏ truyền thống và niềm tin về sự sống lại, sự hiện diện của các thiên thần cũng như sự quan phòng của Thiên Chúa.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải ghi nhận nhiều khuynh hướng cực đoan, chẳng hạn nhóm Zélote, là một đảng phái chính trị và tôn giáo quá khích, được Giuđa người xứ Galiêa thành lập vào năm thứ sáu với ước vọng hình thành một quốc gia thần quyền, trong đó chỉ mình Đức Giavê mới là vua dân Do Thái, đồng thời chủ trương dùng bạo lực để bẻ gẫy ách thống trị của đế quốc La mã. Họ từ chối đóng thuế và lánh vào hoang địa để chuẩn bị một cuộc thánh chiến. Và cuộc thánh chiến này đã bùng nổ vào năm 66.
Ngược lại, những người phái Esseni cũng vào hoang địa, nhưng để âm thầm sửa soạn cho một cộng đồng thiên sai của giao ước.
Chính trong môi trường đa diện ấy, khuôn mặt Gioan xuất hiện như một con người đang cực lực kêu gọi toàn dân Israel hãy ăn năn sám hối và quay trở về cùng Thiên Chúa.
Vậy lời kêu gọi của ông có ý nghĩa gì?
Đối với Gioan, lời kêu gọi ấy xác quyết rằng:
- Sự nong chờ của toàn dân đã đến ngày toại nguyện.
Cũng như những người đương thời, ông tin rằng:
- Niềm chờ mong sẽ được toại nguyện khi Đấng Thiên sai xuất hiện, Đấng mà ông giới thiệu như vị thẩm phán của thời sau hết…
Thực vậy, giữa thời Gioan rao giảng và thời sau hết, giữa lúc bấy giờ và ngày cuối cùng chỉ còn chỗ cho một biến cố duy nhất, đó là việc quang lâm của Đấng sẽ đến để chấm dứt mọi sự.
Cũng như các vị tiên tri đi trước, Gioan tố cáo sự giả hình và thái độ tự mãn của người Do thái chỉ vì mình là con cháu Abramham.
Thế nhưng, đức tin không phải là một di sản của giống nòi, của chủng tộc, nhưng là một cuộc dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi.
An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với dân Do thái,trong lúc sự hối cải đích thực đòi hỏi phải luôn canh tân và đổi mới.
Thái độ của người Do thái phải chăng cũng là thái độ của chúng ta, những người luôn tự hào: - Tôi là người đạo gốc, tôi là người đạo dòng, tôi giữ đạo từ bé, tôi luôn thuộc về Giáo Hội, tôi xưng tội rước lễ thường xuyên và như vậy đã bảo đảm cho tôi phần rỗi linh hồn.
Gioan trả lời: - Không phải là như thế.
Chính Chúa Giêsu cũng xác quyết:
- Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Abraham…Và như vậy trong ngày sau hết, con cháu trong nhà sẽ bị loại ra ngoài.
Thực vậy, danh hiệu người có đạo mà thôi không đủ để miễn cho chúng ta bổn phận phải sám hối ăn năn, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, nhờ đó thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời. Bởi vì sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, chúng ta sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
45. Đường nào
Một hôm, cột đèn điện xanh đỏ giữa công trường chính tại một thành phố lớn kia nổi hứng trở nên như điên dại. Trong chốc lát, cả ba bóng đèn xanh, đỏ, vàng đều tỏa ra một thứ ánh sáng màu xanh lơ. Người đi đường trở nên lúng túng, phân vân không biết phải đi hay phải dừng lại. Nhìn trước nhìn sau, đâu đâu người ta cũng chỉ nhìn thấy một mầu xanh lơ, không khác chi bầu trời xanh thăm thẳm vậy.
Trong lúc mọi người dừng lại ngơ ngác muốn hiểu sự lạ kỳ này có ý nghĩa gì, thì những người mất kiên nhẫn bắt đầu la lối, người lái xe hơi bóp còi inh ỏi, người chạy xe đạp cũng rung chuông rùm beng vì cũng muốn đi trước. Những người có tính khôi hài bắt đầu nói cười với nhau:
Đèn mầu xanh, có lẽ đã bị ai ăn cắp đem sơn nhà nghỉ mát của họ ở miền quê nào đó rồi.
Còn màu đỏ, có lẽ ai đã lấy đem sơn cá vàng trong hồ nước rồi.
Biết màu vàng họ lấy làm gì không? Để pha loãng dầu đem bán hốt bạc của thiên hạ. Sau cùng, giữa đám người đông đảo hỗn độn, một bác cò xuất hiện đến giữa ngã tư công trường, giơ tay làm hiệu cho xe cộ và khách bộ hành qua lại. Người đứng chờ, kẻ tiến bước. Trong khi đó, mấy chú thợ điện cũng chạy lăng xăng tìm công tơ và hộp điện trung ương để sửa chữa và nối lại các mối dây. Trước khi cúp điện, cột đèn xanh lơ chỉ kịp thốt lên một câu:
Thật tội nghiệp cho những người khách đi đường mù quáng, mình ra hiệu đường tự do về trời cho họ, thế mà họ lại không biết đọc. Giá như họ biết đọc dấu hiệu của màu đèn mới này, có lẽ họ đều có thể bay bổng về trời cả rồi, nhưng tiếc là không một ai có đủ can đảm để cất cánh bay bổng lên.
Câu chuyện thần thoại trên đây muốn nói lên một ý nghĩa sâu xa. Đèn điện đường màu xanh lơ ám chỉ một bất ngờ, một sự bất ngờ giữa các sự việc đều đặn như thoi đưa của nếp sống hằng ngày, nó báo hiệu sự khám phá bất ngờ về một chiều kích mới của cuộc sống. Thế nhưng, vì đã quá quen thuộc với nếp sống đều đặn họ không biết nhận ra cái mới mẻ. Như những người lái xe rất lành nghề, họ chỉ biết cúi đầu trên bánh tay lái, chỉ biết nhìn xuống đường đi, họ đành để mình chịu đóng kín trong cái hộp sắt với những cửa sổ bằng kiếng, họ chỉ bận tâm đến công ăn việc làm, đến tiền bạc, danh vọng và trăm ngàn thứ lo lắng hằng ngày.
Bóng đèn điện đường xanh đỏ bỗng dưng đổi màu xanh lơ, là như lời cảnh tỉnh đánh thức họ khỏi cảnh nhàm chán hằng ngày, như muốn nói với họ: Hãy dừng lại, hỡi những người đang đi đường, các ngươi đang bỏ mất một kho tàng quí giá. Trên trần gian này không chỉ có đất mà thôi, hãy nhìn lên cao còn có trời nữa. Tiếc thay, lời thức tỉnh đó quá yếu ớt, chỉ trong nháy mắt đã bị tắt lịm, đã bị tan biến trong làn gió nhẹ.
Tin mừng Phúc âm, chính là lời thức tỉnh nhẹ nhàng đó, nó vang dội khắp nơi, nhưng chỉ ai biết dừng lại, biết đưa mắt nhìn lên cao mới nhận ra tiếng đó được. Đó là những người có thiện chí đi tìm kiếm chân lý và sự thật, những người không chỉ đóng kín trong thế giới vật chất, nhưng còn biết khao khát những gì cao thượng và bất diệt. Biết tìm kiếm chiều kích thánh thiêng của đời sống con người nữa..
Lạy Chúa, hôm nay con muốn nhớ đến những người đang sống xa Chúa, những người mù quáng khẳng quyết rằng không có Thiên Chúa. Những người tin rằng họ là những con vật được khép kín với trời cao, nhưng thực sự họ lại là những người khát vọng trời cao hơn cả mà họ không biết, hoặc không dám tự thú nhận, có lẽ họ đang chờ đợi một cái gì đó đem xuống cho họ một niềm vui, nhóm lên trong tâm hồn họ một niềm hy vọng đích thực.
Lạy Chúa, ước chi tất cả đời sống con có thể là một tia lửa, cho dù thật nhỏ bé, nhưng đủ để nhóm lên niềm hy vọng trong tâm hồn những người còn sống xa Chúa, vẫn còn hững hờ, dửng dưng, vẫn còn chưa nhận biết những dấu hiệu của tình thương vô biên của Chúa. Amen.
46. Hoà bình
Ai trong chúng ta chẳng đôi khi mơ ước một thế giới tốt đẹp hơn? Một thế giới không có lầm than, một thế giới trong đó những con người và các quốc gia sống hòa thuận với nhau, một thế giới của công lý và hòa bình. Lòng con người vẫn ấp ủ khát vọng dai dẳng này nhưng luôn luôn bị các sự kiện trấn át, luôn luôn bị thực tế phũ phàng bóp nghẹt.
Các nhà chính trị sử dụng khát vọng sâu xa này để thu được nhiều phiếu. Ngày xưa tổng thống Johnson hứa “làm cho sa mạc trổ hoa và cho đại dương hết mặn”. Những người khác thì nói về “Xã hội công bằng”, “Hòa giải dân tộc”. Tất cả đều hứa một thế giới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Một số cử tri tin vào những lời hứa này và về sau đã bị thất vọng; còn những người khác thì vẫn không tin.
Vào thời của ông, Isaia không phải là một nhà chính trị. Ông là ngôn sứ. Nghĩa là lời của ông cũng có giá trị cho cả ngày nay nữa. Ông cũng dựa trên khát vọng sâu xa và dai dẳng của chúng ta về một thế giới tốt đẹp hơn. Một thế giới không hận thù, không bạo động, một thế giới không còn gây hấn, một thế giới được hòa giải.
Isaia mô tả cho một thứ thiên đàng được tìm lại. Trong mười hàng, ông phác họa cho chúng ta vài hình ảnh chớp nhoáng của thế giới tốt đẹp hơn đó. Sói và chiên con ở một chỗ với nhau; một cậu bé dẫn bê và sư tử con ra đồng cỏ; gấu con và bò cái ở chung với nhau; sư tử ăn rơm; một đứa bé hai tuổi thọc tay vào hang rắn lục.
Những tấm ảnh này trong thế giới tốt đẹp của Isaia đều mang cùng một đặc điểm, đó là sự thay đổi. Gấu, chó sói, rắn lục, sư tử đã thay đổi nếp sống. Chúng đã mất đi tính bạo động, hung hãn của chúng. Chúng không còn là thú dữ nữa. Con sư tử đã biến đổi đến nỗi ăn rơm, đàng khác bò cái, bê, cừu con cũng thay đổi. Chúng không còn sợ hãi nữa, vì đã hết thú dữ rồi. Isaia mô tả cho một cuộc thuần hóa toàn bộ các thú vật. Nhưng lại chẳng phải ông muốn nói những điều ấy để ám chỉ về con người sao?
Ta suy nghĩ một chút. Ta hãy tự hỏi chúng ta phản ứng thế nào trước thế giới tốt đẹp mà ngôn sứ Isaia trình bày đây. Chúng ta đón nhận bản văn này thế nào? Một số người sẽ nói: “Đẹp đẽ thật… Nhưng liệu có đúng như vậy, liệu điều này có thể xảy ra không?” Họ chỉ thấy những chuyện đó toàn là mơ mộng đạo đức hão huyền thôi. Hoàn toàn không tưởng, không chú ý đến thực tế của thế giới này đầy dẫy xung đột, nơi mà bạo lực càng ngày càng lan rộng. Những kẻ khác dứt khoát từ chối ý nghĩ về một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới của công lý và hòa bình, vì mơ mộng như vậy là nguy hiểm và tai hại. Điều này chỉ làm cho con người yếu đi trong cuộc đấu tranh của mình mà thôi.
Với tư cách là tín hữu, chúng ta không thể ủng hộ những ý kiến này, cũng không thể tạo cho mình những thái độ như thế. Bản văn của Isaia là lời Chúa buộc chúng ta tin. Thế giới của công lý và hòa bình là dự án của Thiên Chúa dành cho con người. Và Thiên Chúa đã bắt đầu thực hiện nó nơi Chúa Giêsu Kitô.
Ngài yêu cầu chúng ta là những tín hữu tham gia vào công cuộc này. Để có thể cộng tác với Ngài, chúng ta phải hoán cải nhiều hơn nữa.
Dụ ngôn của Isaia cho chúng ta thấy loài thú được thuần hóa, được hoán cải. Đối với chúng ta hoán cải trước hết là đón nhận, chấp nhận dự án của Thiên Chúa về một thế giới công bằng và huynh đệ. Chúng ta chấp nhận hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có một thế giới như thế, bất chấp tất cả những thực tại cho thấy điều ngược lại. Chúng ta luôn lạc quan… Nhân danh đức tin Kitô của chúng ta.
Thứ hai, hoán cải là trở nên công bằng và huynh đệ hơn tại nơi chúng ta đang sống: Gia đình, khu xóm, môi trường làm việc. Chính ở những nơi đó mà chúng ta được mời gọi xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Công lý nói trên là công lý của Thiên Chúa, không phải chỉ trả lại cho mỗi người những gì thuộc về họ mà thôi, vì có những người không có quyền gì cả. Đây là thăng tiến những người yếu kém nhất, những kẻ thiếu thốn đủ loại. Như Thiên Chúa, người kitô hữu có lòng ưu ái đối với những kẻ yếu kém.
Mỗi người trong chúng ta phải nhận biết điều Thiên Chúa mời gọi mình làm tại nơi mình đang có mặt. Nhưng đối với mọi người có đức tin thì ý tưởng của Francoise Gaudet-Smet vẫn có giá trị: “Người ta không chờ đợi những ngày tốt đẹp hơn, người ta phải tạo nên những ngày đó”. Thánh lễ chúng ta đang cử hành đây sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để làm việc này.
47. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý
1. Gioan Tẩy Giả kêu gọi chúng ta sám hối để đón Chúa đến. Nhưng để sám hối một cách hữu hiệu và nền tảng, chúng ta cần thay đổi cái gì?
2. Để đón Chúa đến và để được cứu rỗi thì việc lãnh nhận bí tích rửa tội để trở thành Kitô hữu đã đủ chưa? Còn thiếu điều gì nữa?
3. Gioan yêu cầu mọi người “sửa lối cho thẳng”. Chúng ta phải thực hiện lời yêu cầu ấy một cách cụ thể như thế nào?
Suy niệm
1. Điều căn bản nhất trong việc sám hối là điều chỉnh lại quan niệm của mình theo Tin Mừng
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Câu nói ấy của Gioan Tẩy Giả cho thấy: nếu Nước Trời sắp đến thì con người cần phải sám hối. Sám hối là gì? Sám hối trước tiên là nhận ra mình đã phạm sai trái, lầm lỗi hay có tội, đồng thời hối tiếc vì thấy được hậu quả tai hại của chúng, sau đó quyết tâm thay đổi, sửa chữa, không tái phạm nữa. Nhưng điều quan trọng cần sám hối và sửa sai chính là quan niệm của mình. Quan niệm sai lầm sẽ dẫn đến tư tưởng và hành động sai lầm. Nhưng nhận ra quan niệm hiện có của mình là sai lầm là một điều hết sức khó: ai cũng cho quan niệm của mình là đúng. Vì có cho là đúng thì mình mới dùng nó làm căn bản để tư tưởng và hành động. Tuy nhiên, có một tiêu chuẩn để biết quan niệm của mình đúng hay sai, đó là đối chiếu nó với quan niệm của Thiên Chúa, được bầy tỏ trong Tin Mừng qua Đức Giêsu.
Chẳng hạn, rất nhiều Kitô hữu quan niệm sai lầm về đạo đức, về sự thánh thiện. Họ nghĩ đạo đức thánh thiện là siêng năng làm các “việc đạo đức”. Đối với họ, các “việc đạo đức” chủ yếu là tham dự thánh lễ, xưng tội, rước lễ, đọc kinh (chung hoặc riêng), lần chuỗi, bỏ tiền vào nhà thờ, v.v… Và khi siêng năng làm các việc ấy, họ cảm thấy an tâm về phần rỗi của mình vì nghĩ rằng mình là một người đạo đức, mặc dù họ thường cư xử thiếu tình nghĩa với những người chung quanh, mặc dù những “việc đạo đức” ấy chẳng ảnh hưởng bao nhiêu đến cách sống và hành xử của họ.
Quan niệm như thế quả rất khác với quan niệm của Tin Mừng. Theo Tin Mừng, người đạo đức là người biết quên mình, biết coi nhẹ “cái tôi” và quyền lợi riêng của mình, biết vượt thắng bản năng ích kỷ để yêu Chúa và thương tha nhân hữu hiệu hơn, sẵn sàng hy sinh, chịu thiệt chịu khổ vì tình yêu ấy. Đạo đức thật sự phải được thể hiện cụ thể qua cách sống, cách cư xử đầy công bình và bác ái với mọi người. Các “việc đạo đức” như tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích… chỉ là những phương tiện đem lại ơn Chúa và sức mạnh để ta thật sự yêu Chúa và tha nhân bằng những hành động cụ thể. Nếu ta không nhắm thực hiện sự yêu thương ấy như là điều cốt yếu nhất của đạo đức, mà lại coi những “việc đạo đức” kia là chính yếu, thì những “việc đạo đức” ấy trở nên phản tác dụng. Chúng có thể thành cớ để ta tự mãn và lên mặt với mọi người, đang khi thực tế trước mặt Chúa ta chẳng có giá trị gì. Còn biết bao nhiêu quan niệm sai lầm khác ảnh hưởng tai hại đến đời sống tâm linh của ta.
Vì thế, để sám hối, không gì quan trọng và nền tảng bằng lấy ánh sáng Tin Mừng để chỉnh đốn lại những quan niệm sai lầm đang chi phối tư tưởng và cách hành động của ta. Tư tưởng và hành động mà sai trái chính là vì quan niệm chưa đúng. Khi đã sửa đổi quan niệm cho đúng, tự khắc tư tưởng và hành động cũng sẽ đúng theo. Điều này đòi hỏi ta phải dành nhiều thì giờ đặt mình trước mặt Chúa để suy nghĩ, phản tỉnh và tự xét.
2. Đừng tự hào mình là người Kitô hữu
Biết bao người cảm thấy an tâm về phần rỗi đời đời của mình, đồng thời tự hào trước mặt mọi người vì mình là Kitô hữu, là tín đồ của một tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập… Nhưng Gioan Tẩy Giả đã cảnh cáo bọn kinh sĩ: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”. Điều quan trọng là “hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Như vậy, điều quan trọng và cần thiết để được cứu rỗi không phải là chuyện có là Kitô hữu hay không, mà là có sống tinh thần Kitô hữu, tức tinh thần yêu thương của Đức Kitô hay không.
Nếu Thiên Chúa có thể biến những hòn đá thành con cháu Abraham, thì cũng có thể biến chúng thành những Kitô hữu. Điều Thiên Chúa đòi hỏi ta chính là tình yêu, là hoa quả tất yếu của lòng sám hối. Và tình yêu ấy cũng phải sinh hoa kết trái thành hành động, để đem lại bình an, hạnh phúc và những điều tốt đẹp khác cho những người chung quanh ta, cho Giáo Hội và xã hội. Tôi rất thích tư tưởng sau đây của Raoul Follereau: “Thiên Chúa không thích những bàn tay tinh sạch nhưng trống rỗng cho bằng những bàn tay tuy hơi dơ nhưng lại đầy quà dâng lên Ngài”. Ngài đòi hỏi chúng ta nếu có 5 nén thì phải làm lợi thành 10 nén, nếu chỉ có 2 thì cũng phải làm thành 4 (x. Mt 25,14-30, Lc 19,12-27). Nếu không sinh hoa kết trái, chúng ta chỉ là những Kitô hữu “hữu danh vô thực”. Chúng ta cần phải tỏ ra mình là người Kitô hữu qua cách hành xử của chúng ta trong mọi tình huống và qua cách cư xử của chúng ta đối với mọi người. Phải làm sao để người khác nhìn thấy Chúa Kitô và tinh thần của Ngài trong cách sống của chúng ta.
3. Sứ điệp của Gioan: “Hãy sửa lối cho thẳng để Ngài đi
Gioan dùng lời của ngôn sứ Isaia để nói lên sứ điệp của mình: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Ngài đi”. “Đường” và “lối” ở đây chắc chắn không hiểu theo nghĩa vật chất, mà chủ yếu theo nghĩa tâm linh. Nghĩa là tâm hồn chúng ta phải thật thẳng, không quanh quéo. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa của Công Lý, Ngài ưa thích sự công minh chính trực, đường đường chính chính, luôn luôn sáng tỏ. Ngài rất ghét sự quanh co, mờ ám, dối trá. Tuy rất ghét sự xấu, sự ác, nhưng Ngài vẫn sẵn sàng tha thứ cho người xấu người ác khi họ hối cải. Điều Ngài ghét thậm tệ là sự xấu ác được che đậy bằng cái vỏ thánh thiện, đạo đức. Ta thấy: Đức Giêsu cũng như Gioan Tẩy Giả không hề kết án hay chửi rủa những người tội lỗi như bọn đĩ điếm, thu thuế. Đối tượng để các Ngài kết án và chửi rủa là:
- những hạng đạo đức giả hình kiểu “khẩu Phật tâm xà”: “bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong thì toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23,28), “rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ” (23,25).
- những người có chức có quyền trong đạo Do Thái nhưng đã dùng những chức quyền ấy chẳng phải để bênh vực người nghèo, người bị áp bức, mà trái lại để hà hiếp bóc lột họ: “họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14). Những người này đã coi tôn giáo như một cơ hội thuận lợi giúp mình thăng quan tiến chức hầu có thể sống trên đầu trên cổ người khác.
Các Ngài chửi rủa họ một cách thậm tệ, có thể nói là cạn tàu ráo máng: nào là “Nòi rắn độc kia!” (Mt 3,7), nào là “mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23,27), v.v…
Vì thế, để đón Chúa đến, người Kitô hữu phải tránh tất cả mọi thứ quanh quéo trong tâm hồn, lời nói và hành động. Không dùng những xảo thuật như treo đầu dê bán thịt chó, lập lờ đánh lận con đen, tráo trở, có nói không không nói có, nói một đằng làm một nẻo. Trái lại, cần phải có tâm hồn ngay thẳng: “hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,36). Khi phải lên tiếng thì cứ theo công tâm mà nói, không thiên lệch bên nào, không nói lấy được cho mình, cho phe của mình, cho tôn giáo của mình. Điều chúng ta phải bênh vực là công lý và tình thương, chứ không phải một đối tượng nào khác. Nếu có bênh vực người nghèo thì không phải vì họ nghèo, mà vì họ thường là nạn nhân của bất công. Đừng để cho quyền lợi cá nhân hay tập thể chi phối lời nói và hành động của ta, làm ta mất đi sự trong sáng và công tâm của mình. Đừng nói quá nhiều quá hay, mà làm thì quá ít quá dở; đó cũng là một thứ thiếu thẳng thắn.
Là người Kitô hữu, môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta phải hành xử làm sao để mọi người có thể tin vào lương tâm, vào lời nói của chúng ta, nhất là những người chính thức mang danh theo Chúa. Nếu không, chúng ta sẽ làm ô danh Đức Giêsu và tôn giáo mà chúng ta theo. Đó là cách tốt nhất để đón Chúa đến trần gian, nhất là đến trong tâm hồn mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con đang đón chờ Đức Giêsu trở lại trần gian lần thứ hai. Xin cho chúng con biết đón Ngài đến bằng sự sám hối, bằng một sự thay đổi hữu hiệu, mà quan trọng nhất là thay đổi quan niệm. Xin cho chúng con quan niệm mọi sự giống như Đức Giêsu đã quan niệm, được bày tỏ trong các sách Tin Mừng. Xin cho chúng con biết yêu những gì Ngài yêu như sự ngay thẳng, công bình, trong sáng, và ghét những gì Ngài ghét như sự giả hình, quanh co, che đậy. Để càng ngày chúng con càng nên hoàn hảo, giống Ngài hơn. Amen.
48. Dọn đường cho Chúa- Lm. Bùi Công Huy
1. Chúng ta vẫn thường coi việc sám hối và hoán cải như là những điều kiện tiên quyết để kết hợp với Chúa. Cái tiến trình nhỏ bé ấy có thể ví như một vốc bột giặt dùng để tẩy rửa quần áo cho sạch vậy. Quan niệm như thế chẳng khác gì coi việc hoán cải hoàn toàn là do nỗ lực riêng của chính chúng ta, trong khi việc Chúa đến lại hoàn toàn do sáng kiến của Thiên Chúa
Việc Chúa Nhập thể nguyên nó đâu cần chúng ta sám hối, chúng ta hoán cải. Như một em bé vốn đang trong vòng tay âu yếm của mẹ, nó dở chứng muốn buông ra để được tự do trên đất, rồi lại muốn tự chỗi dậy, nhưng làm sao được vì nó bé bỏng quá. Lúc ấy, người mẹ lại phải cúi xuống bồng nó lên và ôm nó vào lòng. Cũng thế, tội lỗi khiến cho con người xa rời Thiên Chúa và hoán cải làm cho con người trở về với Chúa. Việc hoán cải hay sám hối này chẳng qua chỉ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy chúng ta. Như thế, chính Thiên Chúa là tác nhân của việc chúng ta hoán cải. Và việc Chúa Giáng sinh chẳng qua cũng chỉ là điều kiện tiên quyết để tình yêu của Thiên Chúa được hiển hiện. Khi ấy, sám hối như là ánh sáng báo hiệu sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Như ánh sáng chiếu soi trên khắp ngọn đồi, xua tan mọi bóng mờ tăm tối, sự tha thứ của Thiên Chúa cũng đáng tan mọi quá khứ u tối và còn lôi cuốn cơn khát khao gặp gỡ chính nguồn mạch của sự tha thứ.
2. Như thế, lý lịch Kitô hữu hay bằng chứng phép Rửa tội không đủ cho chúng ta gặp được Chúa: “Các anh đừng tưởng có thể nghĩ bụng rằng chúng ta đã có tổ phục Abraham”... để gặp được Chúa, bản thân chúng ta phải xác tín: chúng ta vốn hoàn toàn xa cách Thiên Chúa và đang xa rời vòng tay của Thiên Chúa. Ai có thể gần Chúa được nếu như Chúa không dủ lòng xót thương và nếu chúng ta không biết khẩn cầu lòng thương xót đó. Thánh Phao-lô trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đã chẳng nhắc nhở chúng ta về lòng trung thành và lòng thương xót của Thiên Chúa đó sao? Chính vì thế, chẳng có công trạng riêng tư nào của chúng ta cân xứng với lòng thương xót ngàn đời của Thiên Chúa, bởi chính Ngài là nguồn kiên nhẫn và an ủi của chúng ta mà chúng ta phải khẩn cầu.
3. Như Gioan Tẩy giả, hôm nay, đến lượt mình, chúng ta cũng phải trở nên những “tiền hô” dọn đường cho người khác. Được liên kết với nhau trong Mầu nhiệm Thánh Thể, chúng ta cũng phải liên đới với nhau trong Mầu nhiệm Nhập thể. Lời mời gọi này mời gọi chúng ta, những Kitô hữu, phải trở nên những người dẫn đường chỉ lối cho người khác đến gặp được Chúa. Trong gia đình, nơi xí nghiệp, tại công sở... hay bất cứ nơi đâu, chúng ta phải trở nên những người phục vụ cho sứ mạng đó.
Là “tiền hô” của Đấng Cứu Thế, chúng ta phải nên như những dấu chỉ loan báo Đấng Cứu Thế qua lối sống của chúng ta hay cách xử thế của chúng ta đối với những người chúng ta có dịp gặp gỡ. Khi ấy, chúng ta như ngọn lửa nóng cháy chiếu sáng và sưởi ấm môi trường sống của chúng ta với họ. Và khi ấy, chúng ta không có mối quan tâm nào khác ngoài việc ước ao và nỗ lực làm cho tha nhân ngày một lớn lên hơn và hạnh phúc hơn.
Sống như thế, chúng ta sẽ thấy ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế đang thực sự triển nở trong mọi người: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.
49. Con một Cha trên trời - Lm. Minh Vận, CRM
Gia đình bà Tâm có 7 người con, 4 trai 3 gái. Gia đình sống hạnh phúc, đầm ấm, đến nỗi làm cho nhiều người phải thán phục khen ngợi. Nhiều vị phụ huynh thấy thế đã sinh lòng thèm khát ước mong gia đình mình cũng được như vậy; nhưng trái lại, toàn gặp phải những đau xót chua cay tủi nhục. Một hôm, một bà hàng xóm đã giãi bày tâm sự với bà Tâm về nỗi lòng đau buồn của bà, chồng bà thì rượu bia nhậu nhẹt tối ngày, nóng nảy đập đánh vợ con; con cái thì lêu lổng chơi bời và luôn xảy ra những cuộc tranh cãi bất bình và đánh lộn. Trong gia đình thường luôn phải hô hấp một bầu không khí chiến tranh.
Để an ủi bà bạn, bà Tâm đã chân thành tỏ bày tâm sự một cách khiêm nhu sự thật về gia đình mình: "Chị thấy gia đình em được như ngày nay thật là một ơn trọng Đức Mẹ ban; nhưng đồng thời chúng em cũng phải cộng tác với Mẹ, bằng cách cố gắng lo giáo dục con cái nên người tốt, xứng với nhiệm vụ Chúa trao phó. Sự thực thì 7 đứa con nhà em, tính tình cũng rất ngạo ngược, xung khắc nhau, không đứa nào chịu đứa nào cả... luôn có những bất đồng cãi vã. Trước tình cảnh đau buồn đó, vợ chồng em đã cầu nguyện và bàn tính với nhau tìm cách nào để giúp đỡ các con. Một buổi tối nọ, em đã họp các cháu lại trước sự chứng giám của chồng em, em đã thành thật nói với các cháu: "Chúng con tuy tính tình khác nhau, sở thích khác nhau, quan niệm và nghề nghiệp cũng khác nhau; nhưng chúng con cũng hãy nhớ rằng: Chúng con là con cùng một cha một mẹ. Chính do lòng mẹ đây đã sinh ra các con. Vậy tại sao chúng con không thương yêu nhau, đùm bọc và xây dựng cho nhau?"
Rồi như để nêu cho các con một tấm gương, bà Tâm đã cảm động nói với các con: "Chính cha mẹ đây cũng đã phải nhường nhịn nhau nhiều, cha mẹ không những khác nhau xa vời về phái tính; mà sở thích, xu hướng và quan niệm của mẹ cũng rất khác với ba, nhưng vì yêu thương nhau, chấp nhận nhau và đã được Chúa liên kết nên một, nên cha mẹ đã sẵn sàng hy sinh cho nhau, bù trừ, chịu đựng, tha thứ lẫn cho nhau, để tạo nên một gia đình và nếp sống hạnh phúc cho nhau như chúng con đã thấy đây. Vậy mẹ xin chúng con hãy tha thứ cho cha mẹ về những điều thiếu sót và xin chúng con hãy noi gương cha mẹ, để chúng con biết hiệp nhất nên một, hòa thuận thương yêu nhau, hy sinh cho nhau, hầu cùng nhau tạo dựng một cuộc sống an bình và hạnh phúc".
Đó là tất cả một nghệ thuật mà bà Tâm đã giáo dục con cái bà và do sự tài khéo đó, gia đình bà đã được nhiều người khen ngợi.
I. CON CÙNG MỘT CHA TRÊN TRỜI
Qua thư gởi Tín Hữu Roma, Thánh Phaolô cũng đã cầu nguyện cùng Chúa cho chúng ta: "Xin Thiên Chúa là nguồn sự kiên tâm và an ủi, ban cho anh chị em biết thông cảm với nhau theo gương Chúa Kitô, để anh chị em đồng tâm tôn vinh Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rom 15:5). Ai trong chúng ta cũng đều thực nghiệm thấy rằng: "Bá nhân bá tính", trăm người trăm tính, không ai giống ai. Điều đó không lạ gì, vì một bàn tay có 5 ngón, cũng có ngón dài ngón vắn. Mà cũng chính vì sự khác biệt, sự bất đồng ý kiến, những tương phản đó mà chúng ta đã tìm ra những điểm tương đồng, những lẽ phải, để cùng nhau chấp nhận một luật lệ, một lẽ sống xứng hợp với chân lý, với thánh ý tối thượng của Thiên Chúa.
Không quốc gia hay cộng đồng nào, không đoàn thể hay gia đình nào không có những khác biệt, đối chọi, xung khắc nhau; nhưng nếu chúng ta biết tôn trọng nhau, nhường nhịn nhau, hy sinh tư kiến và chấp nhận lẽ phải, coi nhau như anh chị em con cùng một Cha Trên Trời, cùng chung một Giáo Hội duy nhất chính Chúa Kitô thiết lập, cùng tuân giữ một luật lệ, cùng tiến về một mục đích là Thiên Chúa, thì tất cả những xung khắc dị biệt sẽ được giải quyết dễ dàng.
Nếu chúng ta có tình bác ái huynh đệ chân thành, có lòng xả kỷ vị tha, chúng ta sẽ có thể đoàn kết xây dựng công ích để làm vinh danh Thiên Chúa, khi đó chúng ta mới dễ dàng: "Biết đón nhận anh chị em mình như chính Chúa Kitô đã đón nhận chúng ta, để làm rạng danh Thiên Chúa" (Rom 15:6-7) theo giáo huấn của Thánh Tông Đồ đã dạy. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không còn lý do để chia rẽ nhau; mà trái lại, chúng ta sẽ biết xích lại gần nhau hơn, thông cảm chia sẻ, tôn trọng yêu thương và đùm bọc lẫn nhau, chỉ lo xây dựng hạnh phúc cho nhau, tạo nên một sức mạnh vô song của tập thể, một đại gia đình Thiên Chúa, là anh chị em con cùng một Cha Trên Trời.
II. DỌN LÒNG ĐÓN CHÚA XỨNG ĐÁNG
Mùa Vọng là mùa trông đợi Chúa đến, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta sống theo lời kêu gọi của tiên tri Isaia và lời kêu gọi của Thánh Gioan Tiền Hô: "Hãy dọn đàng Chúa cho ngay thẳng, đồi cao hãy bạt xuống, hố sâu hãy lấp cho đầy, đường cong queo hãy nắn cho ngay, nơi gồ ghề hãy san cho phẳng" (Lc 2:4-5). Chúng ta hãy bạt núi đồi kiêu căng tự phụ, hãy lấp đầy hố chia rẽ ganh tỵ, hãy nắn cho ngay những mưu mô quanh quéo, hãy san cho phẳng những bất đồng ý kiến... Khi đó, chắc chắn chúng ta sẽ cùng nhau tạo dựng được một đại gia đình hiệp nhất và vững mạnh của Giáo Hội Chúa Kitô, cổ động được tình đoàn kết đồng hương dân tộc, biến đổi gia đình chúng ta nên một tổ ấm yêu đương, trên thuận dưới hòa, cha mẹ, con cái, anh chị em thương yêu nhau, tâm đồng ý hiệp để cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc.
Kết Luận
Vậy để đón Chúa ngự đến cộng đồng chúng ta, gia đình và tâm hồn chúng ta cách xứng đáng, chúng ta hãy đón rước Mẹ Maria ngự đến làm Nữ Vương cai trị cộng đồng, gia đình và tâm hồn chúng ta trước. Với tư cách là một người Mẹ, Mẹ có biệt tài chinh phục, hướng dẫn, giáo huấn chúng ta nên những người con ngoan thảo của Thiên Chúa, biết thương yêu nhường nhịn nhau, xây dựng hạnh phúc cho nhau, như anh chị em con một Cha Chung Trên Trời và con cùng một Hiền Mẫu Maria, là Mẹ yêu dấu của tất cả và của riêng mỗi người chúng ta.
Hình ảnh bà Tâm trong câu truyện vừa kể trên đây, chính là hình bóng Mẹ Maria ngự giữa chúng ta. Bao lâu chúng ta biết lắng nghe và tuân giữ lời giáo huấn đầy yêu thương của Mẹ, gia đình chúng ta sẽ thuận hòa hạnh phúc, vợ chồng thương yêu nhau, con cái theo gương tốt lành của cha mẹ, trọng kính và ngoan thảo với cha mẹ, cha mẹ yêu thương săn sóc giáo dục con cái Chúa trao ban theo tinh thần Chúa, anh chị em biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, và tất cả tạo nên một cuộc sống hạnh phúc, xứng danh con cái ngoan thảo của Thiên Chúa và của Mẹ Maria.
50. Chuẩn bị đón nhận Nước Trời- Lm. Bùi Mạnh Tín
Để mang lại kết quả, mỗi công việc cần được chuẩn bị kỹ lưỡng và thích hợp. Thiếu chuẩn bị hay chuẩn bị không đúng cách sẽ trở thành nguyên nhân của những thất bại. Đón nhận Nước Trời là công việc rất quan trọng vì liên quan đến định mệnh mai sau của nhân loại.
Trong bài giảng hôm nay, Gioan Tiền hô đề ra cho chúng ta hai khía cạnh của việc chuẩn bị: tiêu cực và tích cực.
Tiêu cực: Cản trở lớn lao nhất trong việc đón nhận ơn Cứu độ là các khuynh hướng xấu và tội lỗi. Thật vậy, chính các khuynh hướng xấu đã đẩy con người xa lìa Thiên Chúa, làm con người lạc hướng và quên hẳn cuộc gặp gỡ quan trọng của mình với Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã tạo nên bức tường ngăn cách giữa con người và Thiên Chúa, một hố sâu giữa thân phận nhân loại và Ơn Cứu độ. Chúa Giêsu đã từng nói:Chỉ những tâm hồn trong sạch mới nhìn thấy Thiên Chúa. Nhưng thật đáng tiếc, các khuynh hướng xấu và tội lỗi đã dần dần làm lu mờ tâm hồn con người, đánh mất sự trong sạch nguyên thủy. Gioan Tiền hô đã cụ thể hóa thái độ tiêu cực này bằng hình ảnh con rắn độc hay một cây cằn cỗi không sinh hoa trái.
Tích cực: Sau khi dẹp bỏ những cản trở, con người sẽ dễ dàng nhìn thấy đích điểm cần tiến tới, rồi hăng hái bước đi, bước đi về phía Nước Trời, về phía ơn Cứu độ. Nói cách cụ thể, nhân loại phải đến gặp Thiên Chúa, Đấng không còn xa lạ và cao vời ở một thế giới thần thánh nào đó, nhưng đã nhập thể hóa thân làm người mà Gioan tuyên bố: “Đấng ấy sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Chính Đấng ấy sẽ thanh tẩy anh em...” Bước về phía Nước Trời, có nghĩa là chúng ta cần tích cực trong cuộc sống Đức Tin của mình: cầu nguyện, tham dự các Bí tích, chia sẻ cơm áo cho tha nhân, sống hòa hợp và tạo niềm cảm thông với người khác, v..v..
Công việc chuẩn bị này cần được thực hiện liên tục để tạo nên tư thế “sẵn sàng”, vì chúng ta không biết ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến, như ông chủ đi xa bỗng trở về, như tân lang xuất hiện lúc nửa đêm. Nói theo kiểu của Gioan: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây.”
Mùa Vọng này chính là thời gian thuận tiện, thời gian cứu rỗi, để mỗi người chúng ta, theo lời kêu gọi của Gioan và sự trợ giúp của Thiên Chúa, mạnh dạn dẹp tan mọi cản trở và những ràng buộc bất chính, rồi hăng hái nhanh bước tiến về phía Đức Kitô để lãnh nhận Nước Trời.
51. Xin cho con biết lắng nghe- Lm. Bùi Quang Tuấn
“Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” (Mt 3:3)
Tại sao tiếng hô lại được cất lên trong sa mạc mà không phải là thành thị, phố xá hay phòng trà, chợ búa, nơi người ta đang quây quần đông đúc hay vui chơi tội lỗi? Tiếng hô phải được cất lên chính những nơi này mới có người nghe, mới mong có kẻ hồi đầu qui chánh, sửa đường bạt lối, làm nên nẻo chính đường ngay cho Đấng Thiên Sai chứ.
Gioan sống trong sa mạc. Tiếng hô của ông vang lên giữa vùng hoang vắng.
Không biết chốn trời không mông quạnh thế kia thì tiếng hô được mấy ai chú ý. Tiếng hô vang. Vang lên mãi. Nhưng trong nơi trống vắng thì ai nghe cho!
Phải chăng Gioan đã hô lên cho chính mình? Nếu thế thì lời kêu gọi “Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” trước tiên phải là lời nói với chính mình.
Nhờ biết hô với chính mình trước hết nên Gioan đã có sức lôi kéo từng đoàn người từ khắp xứ Giuđê đến với ngài, để nghe tiếng ngài hô, và chịu làm theo lời răn dạy. Nhờ hô với chính mình mà tiếng hô đã vang đến tận khắp các vùng Giêrusalem, xâm nhập tới cõi lòng của bao kẻ sa đoạ khô khan.
Không phải chỉ sau khi nghe tiếng hô của Gioan mới bắt đầu có người ăn ăn hối cải, chịu thanh tẩy để dọn đường cho Chúa đến. Đúng hơn, từ hoang vắng của sa mạc và trong nơi tịch liêu của cõi lòng, Gioan đã nghe tiếng hô “hãy dọn đường cho Chúa đến” phát ra. Lời đó vang đi dội lại trong lòng ông, thúc bách ông nối dài tiếng hô bằng cách ra đi “dọn lòng người cho Chúa đến.”
Cho nên, Gioan chính là người đã dọn đường lòng mình trước nhất. Vì biết lắng nghe những điều mình hô nên tiếng hô của mình có người đáp lại. Sự lắng nghe không chỉ bằng thính giác, nhưng còn bằng tâm hồn. Và từ tâm hồn mới phát sinh những thái độ sống. Một đứa trẻ “biết nghe” không cứ phải là một đứa trẻ có thính giác tốt, song là một đứa trẻ biết ghi tâm lời nói của bố mẹ, thầy cô, và thực thi.
Những gì phát xuất từ con tim cũng đều mang sắc thái của tình yêu và sự sống.
Thế ra, không biết lắng nghe bằng con tim thì con tim sẽ không thể cất lời. Và nếu lời cất lên không phát xuất từ con tim, lời đó sẽ chẳng mang hiệu quả gì. Thomas Merton đã từng nhận xét:
“Nếu đời ta cứ phun ra những lời vô ích
Chẳng bao giờ ta nghe được bất cứ điều gì,
Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ điều gì,
Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ cái gì.
Thế rồi,
Vì cứ nói mãi trước khi có cái gì để nói,
Ta trở thành người không biết nói.”
Không biết nói hoặc nói điều vô ích mà cứ bắt người khác lắng nghe thì chỉ tạo nên những cực hình, phản kháng.
Nhiều gia đình bất an, nhiều cộng đoàn bất thuận, nhiều quốc gia bất hoà chỉ vì có kẻ không biết nói. Nguyên do là thiếu lắng nghe, sự lắng nghe của tâm hồn. Tâm hồn không nghe được vì còn ngổn ngang đây đó nhiều chướng ngại của tự ái, ích kỷ, kiêu căng, tự mãn...
Lắm khi ta than thở: Chúa không chịu nghe tiếng tôi. Nhưng thử hỏi: Chúa không nghe tiếng tôi hay vì tôi không nghe được tiếng Ngài? Rồi khi nghe được tiếng Chúa, liệu tôi có chấp nhận để tiếng ấy nhồi nắn biến đổi đời mình chăng?
Nhiều lúc tôi buồn vì người ta không chịu nghe điều tôi muốn nói. Nhưng thử hỏi: họ không nghe tiếng lòng của họ? Mà nghe tiếng lòng người khác sao được khi chính tôi lại bịt tai tâm hồn? Âm thanh của lời tôi nói sẽ chẳng truyền lan nếu nó không phải là Lời đã vang dội lại trong sa mạc lòng mình.
Có nghe được tiếng nói nơi lòng mình mới mong đổi được đời mình. Có đổi được đời mình mới làm thẳng đường cho Chúa đến. Chúa đến trong đời tôi để rồi qua tôi Ngài đến với người khác.
“Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi.” Tôi muốn hô vang lời ấy cho mọi người nghe. Nhưng trước hết, tôi bắt chước thánh Gioan, đi vào sa mạc cuộc đời, tức là bước vào nơi thanh vắng và tĩnh lặng của nguyện cầu, nơi đó tâm hồn tôi sẽ nghe được tiếng nói của trời cao. Tiếng ấy sẽ dần dần lớn mạnh, cho đến khi oà vỡ và tuôn chảy đến muôn tâm hồn.
Phải chăng đó chính là thái độ sống mà Tin Mừng mùa Vọng năm nay muốn tôi mặc lấy.
52. Thống hối- Lm. Cao Vũ Nghi
Đứng trước tình trạng của một quốc gia không còn nhận biết hồng ân Thiên Chúa, Tổng thống Abraham Lincoln đã chỉ định ngày 30 tháng 4 năm 1863 là Ngày Toàn Quốc Chay Tịnh, Hãm Mình, và Cầu Nguyện. Trong dịp này, Tổng thống Lincoln đã nói: “Chúng ta đã được lãnh nhận biết bao ơn phúc của trời cao. Qua nhiều năm, chúng ta được sống trong bình an và thịnh vượng. Đất nước chúng ta đã phát triển về dân số, thế lực, và kinh tế, như chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Nhưng chúng ta đã quên Thiên Chúa... Với một trái tim đầy ắp tự mãn, chúng ta mộng tưởng rằng những gì chúng ta có là do sự khôn ngoan vượt mực của mình. Say sưa trong sự thành công của mình, chúng ta không còn thấy sự cần thiết của ơn thánh Chúa, và trở nên kiêu hãnh đến nỗi không còn cảm thấy nhu cầu phải cầu nguyện với Đấng đã tác thành nên mình. Vì vậy, chúng ta cần phải hạ mình xuống trước Đấng mà chúng ta đã xúc phạm, phải xưng thú tội chung của quốc gia, và cầu xin ơn thương xót và tha thứ.”
Đó cũng là lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy giả đối với mỗi người chúng ta trong những ngày chuẩn bị mừng kỷ niệm ngày Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến.” Nhưng phải chăng, cũng như các tiên tri trong thời Cựu Ước, chúng ta không muốn nghe những lời kêu gọi này. Chúng ta không muốn nghe là vì chúng ta đã quá chán ngán khi nghe những lời này, hay cũng có thể vì chúng ta không muốn phải bỏ đi nếp sống thoải mái, bỏ đi những đam mê, tật xấu, và phải ép mình để tuân theo những điều Chúa dạy, và cũng có thể vì chúng ta thấy chúng ta có tội lỗi gì đâu mà phải ăn năn thống hối.
Mới đây, khi nhìn vào hiện trạng của thế giới, mục sư Billy Graham đã có nhận xét sau đây: “Chúng ta đang mắc phải một chứng bệnh trầm trọng. Chứng bệnh này không liên quan đến vấn đề chủng tộc, không phải là cảnh nghèo khó, và cũng không phải là chiến tranh. Chứng bệnh trầm trọng này liên quan đến trái tim của chúng ta. Chúng ta cần một trái tim đổi mới.” Chúng ta cần một tấm lòng dám nhìn thẳng vào sự thật về con người của mình. Nhưng đối với con người, đây là một vấn đề thật khó khăn. Người Rôma có những cách xử tử tội nhân thật man rợ, như đóng đinh vào thập giá, dùng người để làm đuốc, hay...nối kết người sống với người chết. Họ lấy giây buộc người bị xử tử dính liền với một người đã chết: mặt đối mặt, tay liền tay. Sức sống của người tử tội tiêu hao một cách mau chóng, để rồi cũng đồng hóa với người chết. Con người chúng ta có lẽ phần nào cũng vậy. Khuyết điểm tội lỗi đã ăn liền với con người của mình, đến nỗi cho dù muốn thoát ly, chúng ta cũng không thể tự giải thoát mình được. Nhưng chúng ta đã có ơn phù trợ của Thiên Chúa. Ngài đã kêu gọi chúng ta hãy ăn năn thống hối trở về với Ngài, thì chắc chắn Ngài sẽ ban ơn cho chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta muốn.
Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay là cơ hội để chúng ta trở về với tâm hồn mình, để chúng ta ý thức rõ ràng hơn những lỗi tội nào đang làm cho chúng ta xa cách Chúa, để chúng ta bắt đầu con đường trở về với Thiên Chúa trong tâm tình ăn năn thống hối, và nhất là để chúng ta có một thái độ khác đối với Thiên chúa. Ngày nay, nhiều người nhận mình là Kitô hữu, nhưng trong hành động họ lại sống như Thiên Chúa không hiện hữu. Những người này tỏ ra họ không cần ơn phù trợ của Chúa và bất chấp những giáo huấn của Ngài. Một cách nào đó, có lẽ cũng có những lúc chúng ta sống như vậy, và vì thế, với tấm lòng ăn năn thống hối, chúng ta hãy bỏ đi thái độ tự kiêu, tự mãn, và thay vào đó, là tấm lòng thảo hiếu tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời. Ngài đã tạo dựng chúng ta, đã cứu chuộc chúng ta, và đã ban tràn đầy ơn phúc cho chúng ta. Trong thời gian qua, chúng ta đã bội bạc với tình yêu thương của Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy đền bù bằng tấm lòng thảo hiếu mến yêu. Chíng tấm lòng thảo hiếu mến yêu này sẽ giúp cho chúng ta có được một tấm lòng ăn năn thống hối thật, và giúp chúng ta bền vững trong ơn nghĩa Chúa.
53. Lời khuyên duy nhất- Lm Phạm Quốc Hưng
“Hãy hối cải, vì nước trời đã gần”
Truyện ngắn Lời Khuyên Duy Nhất đăng trên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp từ số tháng 12/1996-05/1997 là một truyện giả tưởng thuật về việc Chúa Giêsu đích thân đến giảng tĩnh tâm vào mùa Vọng 1999 ở một giáo xứ của người Việt Nam tại Hoa kỳ, để giúp mọi người chuẩn bị bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Vì được cha xứ cho biết chính Chúa Giêsu sẽ đến giảng tĩnh tâm cho giáo xứ vào tối thứ bảy 27/11/1999, áp Chúa nhật thứ nhất của mùa vọng dẫn vào năm 2,000, mọi người trong xứ đều thu xếp công việc để đến tham dự. Ai nấy đều cảm thấy mình bị đánh động mãnh liệt khi lắng nghe những lời giảng dạy từ môi miệng của chính Chúa Giêsu. Sau khi nghe Chúa giảng, một số người muốn xin Chúa cho họ một lời khuyên để làm hành trang cho cuộc sống mới của họ sau khi gặp gỡ Chúa.
Lời khuyên duy nhất mà Chúa nói với mọi người - từ những người mang tiếng là xấu xa tội lỗi như cậu Johnny Lê, cô Tư Ngựa và ông Sơn Rô đến những người được tiếng là đạo đức thánh thiện như “bà Năm xướng kinh”, từ giáo dân trong xứ đến cả cha xứ và cha phó - chính là những lời Chúa đã nói với mọi người khi bắt đầu cuộc đời truyền giáo công khai của Người. Đó là: “Hãy hối cải và tin vào Tin mừng”. Và ai nấy đều cảm nhận rằng đó chính là lời khuyên thích đáng nhất, cần thiết nhất, và ích lợi nhất cho họ.
Với Johnny Lê, hối cải nghĩa là phải bỏ lối sống đi hoang và băng đảng để trở về nhà giúp mẹ, học hành tử tế và sống đạo tích cực qua việc xin làm huynh trưởng đoàn thiếu nhi.
Với Tư Ngựa, hối cải nghĩa là phải trở về làm hòa với cha mẹ, bỏ lối sống lang chạ để bắt đầu một cuộc đời trong sạch.
Với ông Sơn Rô, hối cải nghĩa là đóng cửa sòng bài, sàn nhảy, bỏ luôn lậu cần sa, không tiếp tụd mướn bọn cao bồi cướp phá uy hiếp các cửa tiệm của bà con đồng hương, bồi thường các thiệt hại đã gây cho người khác, và trở về sống với vợ con và sinh hoạt cùng giáo xứ.
Với “bà Năm xướng kinh”, hối cải nghĩa là phải từ bỏ hình ảnh một Thiên Chúa khó tính và khắc nghiệt để tin tưởng nơi một Thiên Chúa đầy lòng khoan dung từ ái; phải tìm sự an bình nội tâm bằng cách cậy trông nơi tình thương vô cùng của Chúa và công nghiệp Chúa Kitô chứ không phải dựa vào các việc thiện của riêng mình.
Với ông chủ tịch hội đồng giáo xứ, hối cải nghĩa là phải bỏ đi sự tự ái, tính sợ dư luận gièm pha, để dấn thân cho lợi ích chung.
Với cha phó, hối cải nghĩa là phải từ bỏ lối nhìn Giáo hội với con mắt thế gian, phải cố gắng sống theo các Giáo huấn chân thực tốt lành của Giáo hội chứ không đòi Hội thánh phải thay đổi Giáo huấn cho phù hợp với lối sống của mình, và phải gia tăng lòng yêu mến gắn bó với Mẹ Maria và Hội thánh.
Với cha xứ, hối cải nghĩa là phải tận lực quan tâm làm đẹp lòng Chúa hơn là tìm cách lấy lòng dân chúng, phải sống như một ngôn sứ chứ không phải một chính khách, phải quan tâm đến việc truyền giáo chứ không được tự thỏa vì sự sung túc điều hòa của giáo xứ.
Câu truyện kết thúc bằng việc chính cha xứ đã thực hiện lời khuyên ấy trước tiên qua việc ngài xin xưng tội cùng cha phó khi đồng hồ điểm 12:00 AM, giờ bắt đầu Chúa nhật thứ nhất mùa vọng dẫn vào năm 2000.
Cũng như Chúa Giêsu đã kêu gọi mọi người phải hối cải và tin vào Tin mừng trong truyện Lời Khuyên Duy Nhất, trong Tin mừng hôm nay, thánh Gioan Tiền hô đã kêu gọi mọi người “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần bên.”
Lời mời gọi hối cải của Gioan mà Giáo hội muốn chúng ta lắng nghe trong phụng vụ Chúa nhật tuần này tiếp tục lời mời gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng của chính Chúa Giêsu như chúng ta đã được nghe trong Phúc âm tuần trước. Đây là một sự nối tiếp rất hợp lý và cần thiết. Thực vậy, chúng ta sẽ không cảm thấy phải mau mắn hối cải, phải thay đổi tâm hồn và cải thiện đời sống, nếu chúng ta không tỉnh thức để nhận ra sự hèn yếu, tội lỗi và bất toàn của mình, nếu chúng ta không nhận ra tính cách khẩn cấp của sứ điệp Tin mừng. Cái đẹp của truyện ngắn Lời Khuyên Duy Nhất trên đây là trong đó con người cảm thấy chính mình là người tội lỗi cần phải hối cải hơn cả, không phải là ai khác những lại chính là cha xứ, người từng được bà con trong xứ khen là hiền lành, khiêm nhường và thánh thiện.
Những người không nhận ra nhu cầu phải hối cải thường lại là những người cần phải hối cải hơn cả. Tin mừng hôm nay nói đến việc những người biệt phái và Sađốc đến với Gioan và xin thanh tẩy. Họ là những người thường được tiếng là đạo đức trong dân và tự hào là con cháu Abraham, nhưng họ đã bị Gioan gọi là “nòi rắn độc” đáng “cơn thịnh nộ” của Chúa. Ngài còn cảnh cáo họ phải gấp rút ăn năn thống hối vì “lưỡi rìu đã sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa.”
Nhiều lần chúng ta được nhắc nhở phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại, cho những người chưatin Chúa, chưa biết Chúa, chưa yêu Chúa, được ơn tin Chúa, biết Chúa, và yêu Chúa. Đó là điều chúng ta phải luôn ghi nhớ và thực hiên trong liên hệ yêu thương đối với người khác. Nhưng điều chúng ta phải ghi nhớ và thực hiện hơn cả đó là chúng ta phải thành thực xét mình trước mặt Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối và là Đấng đã mời gọi chúng ta nên thánh, để nhận biết và xác quyết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi cần phải hối cải hơn cả, chính chúng ta là những người cần đến lòng thương xót của Chúa hơn cả. Chúng ta phải nhận ra rằng mình chưa thực sự biết Chúa và yêu Chúa cách hoàn hảo như Chúa muốn nơi chúng ta. Vì thế, chúng ta phải có tinh thần khiên cung thống hối trong mọi nơi mọi lúc vì “không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa” (Mc 10:18).
Cha giáo tập của tôi trước đây, cha Andrew Costello, CSsR, trong cuốn sách của Ngài mang tựa đề “Thank God - It's Friday” có viết như sau: “Người phải hối cải chính là người đang ngồi trong chỗ tôi ngồi, đang ở trong làn da của tôi, đang suy tưởng với khối óc của tôi.”
Chính tôi là người phải hối cải hơn cả, phải hối cải trước hết.
Nếu tôi là người đang sống trong tội lỗi như ngoại tình, tà dâm, gian dối, bất công, tham lam, ghen ghét, tị hiềm, tôi phải gắng chừa bỏ và xa lánh dịp tội.
Nếu tôi là người đang lãnh đạm thờ ơ, đang khô khan nguội lạnh và biếng nhác trong đời sống đức tin, tôi phải sốt sắng nhiệt thành và siêng năng hơn.
Nếu tôi là người có cảm nghĩ lệch lạc và thiếu sót về Chúa Kitô và Hội thánh của Người, tôi phải ra công học hỏi để hiểu biết và yêu mến Chúa và Giáo hội một cách đúng đắn và đầy đủ hơn.
Nếu tôi chưa dấn thân vào việc tông đồ, chưa hề giúp người khác biết Chúa và yêu Chúa, tôi phải nổ lực trong việc giúp những người khác cũng biết Chúa và yêu Chúa.
Bao lâu còn sống ở trần gian, bấy lâu tôi còn phải nỗ lực hối cải liên lỉ cho đến lúc tôi được Chúa biến đổi để nên giống hệt Chúa Kitô và nên một với Người trong cõi vĩnh hằng của Chúa Ba Ngôi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ “cầu cho chúng con là kẻ có tội” biết nhìn nhận sự yếu đuối, tội lỗi, và thiếu sót của mình, nhất là biết cậy trông ở ân sủng và lòng thương xót Chúa, để nỗ lực cải thiện đời sống không ngừng đùng như lời Chúa khuyên dạy chúng con. Amen.
54. Suy niệm của Giuse Vinh Sơn Ngọc Biển, S.S.P.
HÃY TRỞ THÀNH CON ĐƯỜNG TỐT CHO CHÚA NGỰ ĐẾN
Mỗi khi chuẩn bị đón tiếp một vị khách đặc biệt nào đó, người ta thường hay thăm dò để biết vị thượng khách này thích những thứ gì, hầu đáp ứng nhu cầu để làm hài lòng khách đến chơi.
Cũng vậy, Đức Giêsu chính là vị Đại Thượng Khách. Ngài đến viếng thăm dân của Ngài. Không những thế, Ngài còn ở lại và đồng hành với mọi người. Vì thế, Gioan, trong vai trò là người chuẩn bị, ông đã làm những điều cần thiết để sửa soạn lòng dân đón đợi Đấng Cứu Thế đến một cách xứng đáng.
1. Uy tín của Gioan
Một trong những điều mà Gioan chú tâm và không ngừng lên tiếng, đó là sự sám hối, ông nói: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1); “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mt 3,3).
Lời mời gọi của Gioan cộng với đời sống gương mẫu nơi ông trong hoang địa đã khiến cho dân chúng từ khắp nơi, đâu đâu người ta cũng hướng về ông như một điểm quy chiếu. Cũng chính vì uy tín của ông nên lời mời gọi một khi cất lên, đã được hưởng ứng cách rất tích cực qua tất cả mọi thành phần.
Thật vậy, không chỉ những người bình dân học vụ đến nghe giảng, mà cả những người học thức sâu rộng; không dừng lại ở người thường dân, mà cũng rất nhiều binh lính; không chỉ với người nghèo mà cả giới thượng lưu; không chỉ người đạo đức, nhưng có luôn cả những người tội lỗi…
Tại sao Gioan lại hấp dẫn đến như vậy? Lời rao giảng sao lại hợp thời đến thế? Thưa, bởi vì nơi ông, ngôn hành thống nhất. Ông đã thực hành rồi mới nói. Quả thật, Gioan đã sám hối, ăn chay, hãm mình trước rồi mới khuyên răn người khác, vì vậỵ: “Hữu xạ tự nhiên hương” .
Khi đã thu phục được lòng dân, Gioan lên tiếng kêu gọi họ hãy sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. Nói cách khác, sám hối chính là thay đổi lối sống cho phù hợp với Tin Mừng.
2. Những ai cần phải sám hối?
Vào thời Gioan, khi ông cất tiếng kêu gọi dân chúng sám hối, người ta đã ùn ùn kéo đến với ông và nghe ông giảng. Người ta không cần phải thắc mắc xem: tôi có cần phải sám hối hay không? Nhưng lòng dân lúc này là: cần phải lãnh nhận phép rửa để tỏ lòng sám hối và quay trở về với Thiên Chúa.
Còn thời nay, lời mời gọi của Gioan có còn trở nên cấp bách hay không? Ai là người cần sám hối?
Trước khi đi sâu vào vấn đề, chúng ta cần phải khẳng định ngay rằng: lời mời gọi của Gioan: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1); “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mt 3,3), vẫn rất thời sự và khẩn thiết ở mọi thời.
Tuy nhiên, khẩn thiết là vậy, cấp bách là thế, nhưng con người ngày hôm nay lại xem thường đến độ dửng dưng. Họ viện đủ mọi lý do để không cần phải sám hối, hay sống như vậy là đủ rồi…
Nguyên nhân chính yếu dẫn đến thái độ tự mãn như vậy chính là không biết mình, nhưng lại đề cao cái tôi.
Nếu không biết mình thì không thể sám hối được. Cũng vậy, nếu đề cao cái tôi sẽ dẫn đến thái độ kiêu ngạo. Biết mình chính là điều cốt yếu trong hành trình sám hối. Từ bỏ cái tôi chính là biết ý thức giới hạn của kiếp con người.
Nhà hiền triết Socrate đã khởi đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même). Ông nói như thế là vì nếu không biết mình thì không thể nào phát huy cái tốt và loại trừ cái xấu được. Không biết mình thì chẳng khác gì: “Vô tri bất mộ”. Những người không biết mình thì không hề biết sai trái để mà sửa, cũng chẳng cần biết những điều hay mà học. Vì thế, người ta rất sợ những người không biết mình. Vì thế có câu: điều làm ta sợ nhất chính là “người không biết sợ”. Nói cách khác: “Sợ nhất là người không biết mình”.
Khi họ không biết những giới hạn của mình, lúc đó, họ ung dung và coi mình là “đệ nhất đế vương”, là “cái rốn của vũ trụ”.
Thấu hiểu được lòng dạ con người, vì thế, thời xưa Gioan đã kêu gọi mọi thành phần cần phải sám hối để quay trở về với Thiên Chúa. Không ai là người tinh tuyền đến độ không cần phải sám hối. Thì ngày nay, cũng lời mời gọi ấy, Gioan tiếp tục kêu mời mỗi người chúng ta cần phải sám hối để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đã là con người, không ai là người vô tội.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Lời Chúa hôm nay làm cho chúng ta nhớ lại suy tư của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp Đấng Cứu Độ Nhân Trần số 4, ngài viết: “Con người là con đường của Giáo hội”.
Nói cách khác, mỗi người là một con đường. Ngang qua con đường ấy, Thiên Chúa có thể đi vào cuộc đời của ta và đi đến với tha nhân.
Tuy nhiên, muốn cho con đường ấy được xứng đáng để đón Chúa ngự đến, chúng ta hãy thực thi những gì mà Gioan đã kêu gọi dân chúng khi xưa.
Nếu con đường tâm hồn chúng ta đầy rẫy những sự hận thù, chia rẽ, ghen ghét, nói hành nói xấu, thì giờ đây, hãy thay thế nó bằng con đường của yêu thương, bác ái, hiệp nhất, chân thành.
Nếu lòng dạ chúng ta không trong sạch, mà là đầy những âm mưu đen tối, lừa thầy, phản bạn, gian dối lọc lừa, luôn trách móc, than phiền và lợi dụng nhau, thì giờ đây, hãy thay vào đó một trái tim nhân hậu, một lối sống công bằng, liêm chính, trung thực, nhất là ý ngay lành.
Nếu lựa chọn của chúng ta là sống huênh hoang, tự đắc, kiêu ngạo, coi khinh người khác, ham mê danh vọng, tiền bạc và sắc dục, thì giờ đây, hãy thay vào đó một tâm hồn khiêm nhường, yêu thương, tôn trọng anh chị em thật lòng, sống trong sạch và biết từ bỏ…
Nếu thái độ chúng ta đang thờ ơ, lãnh đạm, dửng dưng trong mối tương quan với Thiên Chúa và vô cảm với nhu cầu và sự liên đới với anh chị em, thì giờ đây, hãy thay vào đó một ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, yêu anh chị em như chính mình.
Nếu chúng ta can đảm để cho lời mời gọi của Gioan chạm đến tâm hồn, trái tim và khối óc của mỗi chúng ta, thì chắc chắn mỗi người sẽ là một con đường xứng hợp để cho Thiên Chúa đi vào cuộc đời của mình và đến với tha nhân.
Lạy thánh Gioan Tiền Hô, lời mơi gọi của ngài đã vang lên cách đây hơn 2000 năm. Tuy nhiên, ngày nay chúng con vẫn thấy rất cấp bách và ý nghĩa trong thời đại mà chúng con đang hiện diện. Vì thế, xin ngài bầu cử cho mỗi người chúng con biết sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón nhận lời mời gọi của ngài để biết sám hối, ngõ hầu tâm hồn được trở nên xứng đáng đón Chúa ngự đến trong cuộc đời của chúng con cũng như đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.
55. Hãy ăn năn thống hối - Trần Minh Đức
Qua báo chí, truyền hình chúng ta thường nghe nói tới những chuyện rủi nhiều may ít: nơi này phong ba bão tố, lụt lội; nơi kia hạn hán, mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tại nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả mọi sự đều tuỳ thuộc vào đó.
Năm xưa, Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Gioan được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của Gioan luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc Âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc Âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy Giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng thống hối ăn năn.
Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống “khẩu phật tâm xà”: môi miệng đọc hết kinh này qua kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác.
Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sỹ kỹ sư thì tự cho mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tự phụ của dân Do thái xưa; họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.
Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng thống hối”, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em”.
Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào “trời mới đất mới” mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục,... Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.
Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi âu lo bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phân biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phân biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.
56. Xác quyết Thiên Chúa đang sống
(Suy niệm của Lm. Đinh Tất Quý)
Hằng năm cứ mỗi lần mùa vọng trở về là chúng ta có dịp gặp lại một trong những khuôn mặt rất đặc biệt của Tin Mừng. Tôi muốn nói đến Gioan Tẩy Giả
I. Hồi ấy Gioan xuất hiện trong hoang địa miền Giuđêa
Ông xuất hiện với một cung cách rất đặc biệt. Tin Mừng nói về Ông như sau: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưngh bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng”.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao ông lại làm thế? Phải chăng ông lập dị, muốn khác người? Không, ông không lập dị muốn khác người. Ông làm thế là vì ông mang một sứ mệnh cao cả. Ông từ bỏ hết mọi thứ mà người đời thường tìm kiếm để sống và chết cho sứ mệnh của mình.
a/ Ăn - Mặc
- Làm người ai mà chẳng muốn ăn ngon mặc đẹp? Gioan có đủ và còn có dư điều kiện để làm việc đó. Ông là người con duy nhất của một gia đình giầu có. Cha mẹ ông là người có địa vị, có thế giá trong xã hội. Vì cha của Gioan thuộc giai cấp tư tế. Thế nhưng Gioan đã hy sinh. Của ăn thức uống của ông không phải là những thứ cao lương mỹ vị.? Tin Mừng cho chúng ta biết ông ăn châu chấu và thêm vào đó có một chút mật ong trong rừng.
Áo mặc của ông cũng không phải là thứ đắt tiền. Tin Mừng bảo ông áo ông mặc làm bằng lông da thú, một thứ áo mặc thường dùng của những người mục tử nghèo khó. Đôi dép ông mang ở dưới chân cũng thế. Tất cả đầu bằng da thú - vừa sẵn có vừa rẻ tiền.
b/ Về cuộc sống thường ngày của ông thì Thánh Luca bảo ngay từ thuở còn niên thiếu ông đã chọn chốn hoang vu làm nơi cư ngụ cho mình. Ông tự nguyện sống một cuộc sống khắc khổ khó khăn như thế để tự rèn luyện mình nên một con người sắt đá hầu có đối mặt, đương đầu với những thách đố do sứ mệnh của ông đòi buộc.
Claude Tassin nói về ông như thế này:”Ông không lập dị nhưng ông coi thường những tiện nghi vật chất. Ông muốn sống hoàn toàn tự do, không để cho mình bị ràng buộc vào bất cứ một thứ gì mà người trần thế coi trọng”. Ta có thể tóm lại trong bằng một ít tiếng sau đây: Ông muốn sống siêu thoát để ông được tự do hành động theo sứ mạng của mình.
II. Bây giờ, chúng ta hãy nghe lời ông tuyên bố:
a/ Những lời ông tuyên bố thật quan trọng. Nó liên hệ đến một Đấng mà các tiên tri trước ông đã loan báo.
- Ông nói với mọi người: “Nước Trời đã kề bên” Hãy ăn năn sám hối. Hãy dọn đường Chúa - Sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
- Ông cảnh cáo nặng lời đối với những người có nhiều thành tích bất công: “Hỡi nòi rắn độc. Dừng hòng tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa - Cái rìu đã để sẵn gốc cây - Thiên Chúa sẽ cầm nia mà sảy sân lúa của Người rồi thu lúa vào kho còn rơm thì Người đốt đi.
- Ông khuyên mọi người hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối.
b/ Nhiều người đã đến với ông. Nghe những lời ông giảng. Họ cảm thấy bức xúc nơi cõi lòng. Họ đã thành khẩn sám hối và để cụ thể hóa những khát vọng muốn đổi mới của mình, họ đã xin ông làm phép rửa sám hối cho họ.
- Tất cả những việc đó chỉ nhắm duy nhất có một điều đó là được nhận ra Đấng mà ông nói:”Người đến sau tôi nhưng có trước tôi. Phần tôi tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Người”
III. Áp dụng.
a/ Đấng mà Gioan loan báo Ngài đã đến rồi. Đó là Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta.
Chúng ta đã biết rõ nơi Ngài đã sinh ra
Chúng ta đã biết những nơi Ngài đã sống
Chúng ta đã biết những lời Ngài đã dạy dỗ chúng ta
Chúng ta đã biết những việc Ngài đã làm
Chúng ta đã biết những đau khổ Ngài đã chịu?
Chúng ta đã biết cái chết đau thương của Ngài ỡ trên cây Thánh giá
Chúng ta đã biết sự Phục sinh vinh hiển của Ngài
Trước khi về trời, Ngài còn tuyên bố một lời mà tất cả chúng ta vẫn không thể quên: “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”
b/ Ngài vẫn ỡ giữa chúng ta những rất nhiều người trong chúng ta vẫn không nhận ra Ngài. Tại sao thế?
Có nhiều lý do nhưng trước hết có một lý hết sức quan trọng đó là con người hôm nay quá bám víu vào những giá trị của trần thế.
* Đây là một trong những kinh nghiệm mà Jacque Maritain và Réxa là 2 triết gia của Pháp vào đầu thế kỷ này kể lại. Họ là những con người xết về phương diện trần thế thì quả thực họ không thiếu một thứ gì trên đời. Họ rất yêu thương nhau, đã tích trữ cho mình được một gia sản khếch xù ít có ai sánh bằng, thế nhưng họ vẫn cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa. Họ thiếu một cái gì đó mà họ vẫn chưa tìm ra. Thế rồi một hôm họ cùng nhau đến một công viên. Và chính từ trong công viên này mà họ đã đi tới một quyết định rất táo bạo ít có ai dám làm như thế. Họ thề với nhau rằng nếu trong một năm mà họ không tìm ra được một ý nghĩa cho cuộc sống của mình thì họ sẽ cùng nhau tự tử. Rất may, sau 12 tháng, họ đã tìm ra. Ý nghĩa ấy nằm trong hai tiếng Yêu thương và ân sủng của Thiên Chúa.
Họ đã thực sự gặp được Thiên Chúa, cảm nghiệm được Tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình. Từ đó trở đi hai người dùng cả quãng đời còn lại 50 năm trời để làm chứng cho một cuộc đời có Chúa ở cùng.
Trong một tác phẩm “Thủ lãnh của thế gian” nổi tiếng của mình, Bà Réxa đã viết những lời rất cảm động này: “Ma quỉ đã tung ra một màng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Màng lưới này tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích những giây phút chóng qua hơn vĩnh cửu. Nó khuyên dụ chúng ta chạy theo sự vô định hơn là chân lý. Nó bảo chúng ta rằng ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy nó mà thôi.” Và chính vì thế mà người ta không thể nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình.?
* Thứ đến như Gioan nói trong bài Tin Mừng hôm nay: Muốn thấy Chúa, muốn gặp được Ngài con người phải dẹp qua một bên những chướng ngại làm cho con đường gặp gỡ không được khai thông. Gioan đã nói đến hố sâu của hận thù, nói đến nuí cao của kiêu ngạo, nói đến quanh co của những nẻo đường bất chính gian dối.
Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của mình lại để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất này là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi.
Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả đều trở về. Thần dữ Satan ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế? Hay là có chuyện gì trục trặc?
Các sứ giả đồng thanh đáp:
- Thưa Ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi quan trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết rồi. Họ hận thù, chém giết nhau, gian tham, trộm cắp. Không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này mà ngược lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa.
Đó là những chướng ngại ngăn cách làm cho Chúa và con người không thể gặp nhau.
Con người sống như Thiên Chúa đã chết. Đó là một thảm cảnh đáng thương cho tất cả mọi người nhất là những người còn bảo rằng mình vẫn tin có Chúa. Sống mà coi như Thiên Chúa đã chết thì làm sao có thể “GẶP” được Ngài.
Xã hội chúng ta, đất nước, quê hương chúng ta đang cần những chứng nhân của Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có sứ mệnh làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để xác quyết Thiên Chúa đang sống và hành động trong trần gian này. Amen.
57. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An
Một lối sống, một lối nghĩ của Tin Mừng
Trong “Người phu quét lá” Lm. Nguyễn Khảm đã ví von đời Linh mục như người phu quét lá. Ngài mượn bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để diễn tả đời Linh mục: “Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu”
Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn vẫn luôn có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người. Trong ý nghĩa đó có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là “Người phu quét lá” dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.
Chúa nhật II Mùa vọng, Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt của Gioan Tẩy Giả, vị Ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng Ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Cuộc đời của Gioan là một thiên anh hùng ca: bất khuất trước cường quyền và bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu với mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú, sống nơi hoang địa vắng người trơ trụi. Nhưng chính nơi đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc Gioan càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn đợi chờ nhiều năm tháng cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Chúa đưa ông ra khỏi hoang địa để đến gặp gỡ con người qua mọi vùng ven sông Giođan. Lời Chúa ông nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan đã sống trong dòng lịch sử của Đạo và Đời: Thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô, hai Thượng tế Khan-na và Cai-pha, một Phi-la-tô tham lam tàn bạo -Tổng trấn Giu-đê-a, một Hêrôđê tiểu vương Ga-li-lê-a -kẻ giết Gioan sau này. Gioan đã đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy để làm trọn sứ mạng Tiền Hô, Dọn Đường cho Đấng Cứu Thế.
Gioan đã kêu gọi dân chúng “Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến”. Ông đã mạnh dạn mời gọi mọi hạng người, từ kẻ cao sang quyền thế cho đến người dân thường: hãy sống cách ngay chính theo địa vị của mình để sẵn sàng đón Chúa đến.Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Phải sửa lối cho thẳng để Chúa đi. Dân chúng lũ lượt đến với ông, họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. Đúng là Gioan đang “quét dọn” tâm hồn mọi hạng ngưòi cho sạch sẽ tội lỗi xứng đáng đón Đấng Cứu Thế.
Đường quan trọng nhất là đường đi vào cõi lòng. Mỗi người chúng ta không ít thì nhiều đều có những đồi núi kiêu ngạo, những thung lũng ích kỷ hẹp hòi, những cây cầu tự ái khoe khoang, những mấp mô ghồ ghề trong mối quan hệ với người khác như kỳ thị, gian dối, thiếu công bằng, nói hành nói xấu. Cũng có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vắng ánh sáng tình yêu.
Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay,san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp mà Thánh Gioan gởi đến cho chúng ta trong Mùa vọng này, giúp chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở về Chúa Cứu Thế. Điều đó cũng chẳng dễ dàng chút nào vì nó thường gây đau đớn. Không phải trong Mùa vọng chỉ đi xưng tội qua loa sau khi xét mình 5-10 phút cho yên ổn lương tâm, mà quan trọng là một lối sống, một lối nghĩ của Tin Mừng: Uốn nắn những quanh co, san phẳng gò cao hay hố thẳm và dẹp bỏ chướng ngại trong tâm hồn từng ngày? để có chổ cho Chúa đến và ở lại.
Gioan Tiền Hô là một Ngôn sứ bất khuất, bao dung và khiêm tốn, chỉ một tâm nguyện là làm “Người phu quét lá” dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của Gioan trở thành “Người phu quét lá” cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế, cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
58. Lời loan báo của Gioan Tẩy Giả
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, ofm)
1.- Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn đầu thuọc nửa hai của Phần Mở.
Phần hai của phần Mở dường như làm thành một bức tranh bộ đôi: ba đoạn liên hệ đến Gioan, và ba đoạn liên hệ đến Đức Giêsu. Về Gioan: giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của ông (3,1-6); lời rao giảng sự sám hối (3,7-10); lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12). Về Đức Giêsu: phép rửa (3,13-17); các cám dỗ (4,1-11); các lời mào đầu về sứ vụ (kết thúc sứ vụ của Gioan, Đức Giêsu trở về Galilê, Người cư ngụ ở Caphácnaum: 4,12-16).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Những chi tiết tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (3,1-6);
2) Lời rao giảng sự sám hối (3,7-10);
3) Lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12).
3.- Vài điểm chú giải
- Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến (1): Động từ paraginomai có nghĩa là “đến, xuất hiện [trên sân khấu]”. Sau này, Đức Giêsu cũng được TM I giới thiệu như thế ở 3,13. Gioan Tẩy Giả chính là người giới thiệu trước Đức Giêsu. Cả hai đều hoạt động tại hoang địa, loan báo Nước Trời và sự hoán cải (3,2 // 4,17), và có làm một phép rửa (c. 11a // c. 11c). Chỉ có điều Đức Giêsu “mạnh hơn” (c. 11), nên Gioan không xứng đáng xách dép cho Người (c. 11), càng không xứng đáng làm phép rửa cho Người (c. 14).
- hoang địa (1): Đây là một ghi chú địa lý (thung lũng sông Giođan), nhưng hơn thế nữa, còn là một ghi chú thần học. Trong truyền thống Kinh Thánh, “hoang địa” là nơi lý tưởng để gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 12,16-22; Gr 2,2-3; Ed 16,23; Đnl 8,2). Trong hoang địa, Đức Chúa (Yhwh) đã nói với Môsê (Xh 3), với Israel (Xh 19), với ngôn sứ Êlia (1 V 19).
- Ông rao giảng (1): Động từ Hy Lạp kêryssô, “làm người tiền hô; rao giảng; loan báo”. Đây là một động từ chuyên biệt của Tân Ước (61 lần) để chỉ công việc công bố Tin Mừng. Các chủ từ của động từ này luôn luôn là Gioan (3,1), Đức Giêsu (4,17) và các Tông Đồ (10,7). Đối tượng của việc công bố này luôn luôn là Tin Mừng, Nước Thiên Chúa. Vì được vay mượn từ Cựu Ước (38 lần, theo Bản LXX. Xem chẳng hạn Is 61,1tt), như thế động từ này nối kết Gioan Tẩy Giả vào truyền thống các ngôn sứ, thiên sai và khải huyền.
- hối cải (2): Động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải” (động từ Híp-ri shub). Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tiêu cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong Tin Mừng Mt, danh từ metanoia được dùng 2 lần (3,8.11) và động từ metanoeô được dùng 5 lần (3,2; 4,17; 11,20; 11,21; 12,41). Xin so sánh: metanoia: Mc một lần, Lc 5 lần, Ga 0 lần, Cv 6 lần, Phaolô 4 lần, Dt 3 lần, 2 Pr một lần; metanoeô: Mc 2 lần, Lc 9 lần, Ga 0 lần, Cv 5 lần, Phaolô một lần, Kh 12 lần. Tác giả chỉ áp dụng động từ metanoeô cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2) và Đức Giêsu (4,17) mà thôi, tức là chỉ liên kết vị Tiền Hô và Đức Giêsu với nhau.
- Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (3): Câu này trích ở đầu “Sách Yên Ủi” (Is 40–55). Bản văn Híp-ri là: “Có tiếng người hô: Trong hoang địa, hãy dọn sẵn một con đường cho Yhwh (Đức Chúa); trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Bản LXX: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Các bản văn đều không xác định ai là “người hô”; phải chăng một thiên thần? Các Tin Mừng đã trích Bản LXX, và gán cho Gioan là “người hô”, và thay thế “Thiên Chúa” bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Đức Giêsu.
- mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn (4): Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà; đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “dây thắt lưng”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta. “Châu chấu” là thức ăn của các dân trong sa mạc (rang với muối hay phơi khô, ăn với dấm và mật ong rừng hoặc làm nhân bánh đa). Kiểu mô tả Gioan khiến độc giả nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8); thật ra Mt mặc nhiên nói rằng Gioan là ngôn sứ Êlia.
- nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa (7): dịch sát là “đến với (giới từ epi + đối-cách[1]: “trên; về phía; nhằm mục đích”) phép rửa”. Câu văn có phần hàm hồ: có thể hiểu là họ đến nhận phép rửa hoặc đến nơi có ban phép rửa. Một đàng, chúng ta được biết là họ không tin vào Gioan và không chấp nhận phép rửa của ông (x. Mt 21,32), nên có thể cho rằng họ đến là để điều tra về ông (x. Ga 1,19-28). Nhưng đàng khác, vì có lời trách của Gioan: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ…”, nên rất có thể họ đến nhận phép rửa thật sự, dù lòng họ không tin.
Phái Pharisêu (= những người “tách biệt”) phát sinh vào thời dòng họ Macabê (x. 1 Mcb 2,42). Sử gia Gioxép cho biết vào lúc đó, họ có khoảng 6.000 thành viên (Ant. J., 18,42), trong đó có một vài tư tế, còn đa số là giáo dân, được chiêu mộ trong số các kinh sư hoặc tiến sĩ Luật. Là những người trung thành với Lề Luật và truyền thống truyền miệng nhận từ các tiền nhân, họ đã trở thành những người linh hoạt đời sống thiêng liêng của dân Chúa vào thời Đức Giêsu. Về mặt chính trị, họ bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt trong các quan hệ với người Rôma.
Phái Xađốc, là hậu duệ của thượng tế Xađốc (thời vua Salômôn: 1 V 2,35), chính là phái các tư tế, vì quy tụ các gia đình tư tế giàu có. Họ chấp nhận các thói tục Hy Lạp và thích nghi với nền đô hộ Rô-ma. Về phương diện tôn giáo, họ nhìn nhận Tôra, tức Bộ Ngũ Thư, loại bỏ truyền thống khẩu truyền, không tin vào sự sống lại, sự hiện hữu của các thiên thần và sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Nòi rắn độc (6): nghĩa là dòng dõi của Satan. St 3 đã coi con rắn là loài “rất tinh khôn” (phronimôtatos). Nó là biểu tượng của sự “khôn khéo” (như rắn: 10,16), nhưng hơn nữa là biểu tượng của sự gian tà xấu xa, do nó cắn và giết người ta bằng nọc độc (x. 12,34; 23,33). Sau này, con rắn được kết nối với Satan (x. Kh 12,9). Lời mắng của Gioan hoàn toàn ngược lại với niềm tự hào của người Pharisêu về bản thân họ (“Chúng ta có tổ phụ [cha] là ông Ápraham”, c. 9; x. Ga 8,3).
- cơn thịnh nộ (7): “Cơn thịnh nộ [orgê]” ở dạng tuyệt đối[2] có nghĩa là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, được tỏ ra trong “Ngày của Đức Chúa” (x. Is 13,6-9; Xp 2,2; Ml 3,2.23-24). Các ngôn sứ khẳng định “cơn giận” này sẽ được giáng xuống trên những kẻ tội lỗi (x. Am 3,2), nhưng Do Thái giáo thời Tân Ước lại dạy rằng cơn giận này chỉ được giáng xuống trên Dân Ngoại, đặc biệt trên những kẻ áp bức Israel: như thế là bắt đầu quan niệm về Đấng Mêsia chính trị.
- những hòn đá này trở nên con cháu (9): Có lẽ ở đây có một kiểu chơi chữ bằng tiếng A-ram: hai từ số phức abenyyâ’, “những hòn đá” và benayyâ’, “những con cháu”, nghe gần giống nhau.
- gốc cây (10): Trong Cựu Ước, “cây” là hình ảnh chỉ “dân chúng” (cây vân hương: Is 6,13; cây hương bá: Ed 31,10-13; một cây [= đế quốc Babylon]: Đn 4,7-12).
- quăng vào lửa (10): Lửa thiêu đốt tượng trưng hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên kẻ vô đạo (x. Am 1,4–2,5; Ed 22,18-22; Xp 1,18; Ml 3,2-19; Is 66,15-16).
- quyền thế (11): dịch sát là “mạnh hơn” (ischyroteros, do danh từ ischys, “sức mạnh; quyền lực; quyền thế”).
- trong Thánh Thần và lửa (11): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23; Ml 3,2; Dcr 13,9), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy có thể hiểu là Chúa Thánh Thần tẩy luyện như lửa (Khi đó, liên từ và có vai trò giải thích). Nhưng ở c. 10 và đến c. 12, “lửa [không hề tắt]” lại là “hình phạt, tức là “cơn thịnh nộ” của Thiên Chúa (x. c. 7). Vậy hợp lý là cho rằng không lý gì mà tác giả thay đổi quá nhanh ý nghĩa của một từ như thế từ c. 10 sang 11 rồi lại trở về nghĩa cũ ở c. 12 mà không báo trước gì cả, nên “lửa” ở cc. 11-12 đều có nghĩa là “cơn thịnh nộ” con người gánh chịu khi đối diện với sự thánh thiện của Thiên Chúa (Khi đó, liên từ và thêm vào một sắc thái đặc biệt). Xem dụ ngôn “Cỏ lùng” (Mt 13,37-42).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (1-6)
Các ghi chú của Mt về Gioan không phải là một bản tiểu sử, nhưng là một bản văn mang tính thần học và biện giáo. Các ghi chú này không nhắc đến hoàn cảnh gia đình ông, cuộc chào đời, ơn gọi (như Lc 1–2), nhưng chỉ nêu ra những điểm liên hệ đến con người và hoạt động của ông, nơi chốn, đề tài và nội dung lời ông rao giảng, các nghi thức kèm theo.
Gioan xuất hiện trong hoang địa, nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, nơi đã là sân khấu cho một thời kỳ hồng ân, khi dân Israel đang tiến về Đất hứa, sống trong tình trạng thân mật với Thiên Chúa (Đnl 2,7; Gr 2,2t; Hs 2,16). Ông xuất hiện như là nhà rao giảng về Đấng Mêsia (cc. 1-3) với dáng vẻ một ngôn sứ (c. 4); đặc biệt với y phục của ông, ông giống với ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8) là vị ngôn sứ mà dân chúng chờ đợi đến để khai mạc thời đại thiên sai (x. Ml 3,23; Mt 11,10). Quả thật, vào thời ấy, người ta tin rằng Êlia chưa chết thật, nên ông sẽ tái xuất hiện để giới thiệu Đấng Mêsia cho thế giới. Nhưng Mt cho biết rằng ngôn sứ Êlia mà người Do Thái vẫn trông mong chính là Gioan (x. Mt 11,14; 17,13). Mt giới thiệu Gioan như một ẩn sĩ (x. 11,8), ăn mặc thô sơ, ăn uống kham khổ (3,4) và so sánh lời rao giảng của ông với một lời than vãn trong đám tang (x. 11,17). Ông đã loan báo một sứ điệp được tóm tắt là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (c. 2).
Ông Gioan không nói cho biết “Nước Trời” nghĩa là gì; nhưng chúng ta biết những nỗi niềm chờ mong của dân chúng thời Đức Giêsu. Israel đã được những vị vua bất trung và bất xứng cai trị lâu quá rồi. Ho nghĩ, nay đã đến lúc Thiên Chúa nắm lấy mọi sự và thay đổi. Có những nhà thuyết giảng đến bảo dân chúng đừng mất tinh thần, họ bảo rằng thế giới cũ sắp chấm dứt rồi, và một thế giới mới sẽ đến. Khi đó, những buồn phiền đau khổ không phải là dấu chỉ của sự chết, mà là của sự sống, giống như những đau đớn của người mẹ sắp sinh con. Đấng Mêsia sẽ chà đạp những kẻ áp bức và một vương quốc mới sẽ được thiết lập, trong đó Thiên Chúa trực tiếp cai quản. Dân chúng sẽ làm bất cứ đòi hỏi nào để được vào trong vương quốc ấy.
Dân chúng “từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến” với Gioan. Ghi chú này có phóng đại nhưng không phải là không có phần đúng, bởi vì vào những thời điểm có những căng thẳng trầm trọng về tôn giáo và chính trị, một ngôn sứ thường thành công. Gioan làm một nghi thức diễn tả lòng thống hối kèm theo lời rao giảng (c. 6). Cách làm của Gioan hoàn toàn phù hợp với bối cảnh thời ông, khi mà người ta vẫn cử hành các nghi thức thanh tẩy được Lề Luật quy định (x. Lv 14–15). Nhưng cách làm của ông cũng có phần khác: phép rửa của ông được ban dưới dấu chỉ metanoia, của sự hoán cải luân lý, tức là lấy lại điểm cốt yếu trong giáo huấn của Cựu Ước, nhưng đặt vào viễn tượng của Nước Thiên Chúa đang đến gần. Không có chỗ nào nói rằng nhờ nghi thức này, người ta được tha các tội, nhưng nghi thức này đánh dấu việc thay đổi đã xảy đến hoặc sắp xảy đến nơi người nhận phép rửa.
* Lời rao giảng sự sám hối (7-10)
Lời rao giảng của Gioan mà Mt ghi lại là những lời đe dọa hơn là một lời loan báo đầy tính an ủi. Giọng điệu của bài là giọng châm biếm, nội dung thì mang tính khải huyền. Thay vì nói đến ơn cứu độ gần kề, hay là giảng về phép rửa, Gioan cho thấy “ngày của Đức Chúa” (ngày phán xét) đã gần bên, ngày chất chứa cơn thịnh nộ đổ xuống dân Chúa (x. Am 5,18-20; Hs 6,1-3; 9,7-9; Mk 4,6-7).
Có những người thuộc phái Pharisêu và Xađốc đã đến có lẽ để nhận phép rửa dù không tin, Gioan đã gọi họ bằng một tên rất nặng: “nòi rắn độc”, họ là những đứa con thoái hóa của tổ phụ Abraham (c. 9), những cây không sinh quả (c. 10). Không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước đã nói với cử tọa nặng lời như thế. Và Gioan khẳng định rằng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên mọi kẻ tội lỗi, dù là Dân Ngoại hay Do Thái; do đó, mọi người phải hoán cải và nhận phép rửa để được tái tháp nhập vào dân Israel chân chính. Sau này tư tưởng này được hỗ trợ bằng các hình ảnh “cái rìu”, “lửa” và “công việc sàng sảy lúa” (cc. 10.12). Đứng trước cái khối người kiêu ngạo và phản loạn này, Gioan nói như thể để phản đối và thách thức: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống?” Câu hỏi này là kiểu nói hùng biện nhằm nhấn mạnh rằng không thoát được án phạt. Dù thế vị Tiền Hô cũng nói với họ một lời khích lệ. Để tránh được “cơn thịnh nộ gần kề”, chỉ có một con đường duy nhất, con đường hoán cải, được chứng thực không phải bằng lời nói suông, mà bằng những công việc tốt lành (c. 8; x. 5,16). Người hoán cải là một cây mới đang cho thấy có sự thay đổi tích cực (“quả”). Dân Do Thái tưởng rằng họ sẽ thoát khỏi án phạt bởi vì họ là thành viên của dân Thiên Chúa tuyển chọn (“con cháu tổ phụ Abraham”); chính sự yên tâm này đã đưa một số người đến chỗ sống buông thả về luân lý và giải thích thái độ tự mãn tự phụ của người Pharisêu. Gioan khẳng định rằng tư cách đó không bảo đảm gì cả và có là “con cháu” (benayyâ’) hay là “các hòn đá” (abenyyâ’) thì cũng như nhau. Người Do Thái tưởng có thể kết luận rằng vì Thiên Chúa đã hứa, thì Ngài cần có Israel để trung thành với lời hứa. Gioan phản ứng để khẳng định sự tự do hoàn toàn của Thiên Chúa: Ngài có thể hoàn tất lời hứa khi loại trừ con cháu Abraham về xác thịt, nếu họ từ chối hoán cải, bởi vì Ngài có thể tạo thành một Israel mới (x. Mt 8,11-12; 21,43; Rm 9,6-8). Israel là một cây, nếu không sinh hoa kết trái tốt lành thì chỉ đáng chặt đi mà quăng vào lửa.
* Lời rao giảng về Đấng Mêsia (11-12)
Bây giờ bản văn giới thiệu dung mạo Đấng Mêsia. Ở đây nổi rõ những bận tâm Kitô học, nhưng cũng có bận tâm biện giáo: tác giả giới thiệu Đức Giêsu nhưng cũng xác định khoảng cách giữa Đức Kitô và vị Tiền Hô. Gioan đi trước Người, nhưng chỉ như người nô lệ đi trước chủ mình, để dọn đường. Gioan làm phép rửa, nhưng chỉ là phép rửa trong nước để thôi thúc đi tới hoán cải. Đấng Mêsia (“Đấng đang đến”: erchomenos) thì “mạnh [quyền thế]” hơn (ischyroteros) và làm một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. “Quyền lực” (ischys) là một phẩm tính của Thiên Chúa; nhưng đối với Is (9,6), đây là một đặc điểm của Đấng Emmanuel, và đối với Mt, đây là một đặc điểm của Đấng Mêsia (x. 12,29). Đứng trước Người, Gioan không xứng đáng làm công việc của một người nô lệ thông thường là xách dép cho chủ. Điểm này cho thấy vị Tẩy Giả hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng Mêsia.
Đấng Mêsia được giới thiệu như là Vị thẩm phán cánh chung: Người sẽ đến với sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa để loại trừ các kẻ bất chính và bất lương. Lịch sử Israel đã đến lúc kết thúc. Thời gian thu hoạch đã gần kề. Lúa đã được gặt về và đập rồi, nay chỉ con chờ được rê để tách vỏ trấu ra khỏi hạt gạo. Nhưng người nông phu (Đức Kitô) đã cầm nia trong tay mà rê sạch gạo. Rơm và trấu thì cháy nhanh, nhưng lửa sẽ thiêu đốt người gian ác thì sẽ cháy mãi cũng như sự gian ác của họ vẫn còn đó.
+ Kết luận
Như thế, bằng ba cách, Gioan đã khẳng định sự trổi vượt của Đức Giêsu: 1) Người là Đấng mạnh hơn, Người vượt xa Gioan bằng sức mạnh thực thụ. 2) Người có phẩm giá cao vời: ngay đến việc xách dép cho Người, Gioan cũng không xứng đáng. 3) Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, trong khi Gioan chỉ làm phép rửa trong nước.
Tuy nhiên, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả còn giúp chúng ta ở nhiều điều khác nữa. Đây không chỉ là một hồi niệm, nhưng còn là một lời khuyến cáo nghiêm khắc cho mọi người mọi thời. Qua bút pháp của Mt, lời rao giảng của Gioan cũng phản ánh cuộc bút chiến giữa các Kitô hữu tiên khởi với hội đường. Tuy nhiên, Mt cũng muốn gửi đến cho giáo đoàn Kitô hữu một sứ điệp. Lời mời gọi “hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” hẳn là nhắm đến các Kitô hữu hơn là đến người Pharisêu. Các Kitô hữu có thể nhìn vào người Pharisêu như nhìn vào một tấm gương để điều chỉnh đời sống mình.
Lời đe dọa bị kết án cũng liên hệ đến các Kitô hữu nào chỉ bằng lòng với việc nhận bí tích thánh tẩy mà không quan tâm sống phù hợp với những cam kết đã lấy. Vẫn còn đó ảo tưởng cho rằng mình là môn đệ của Đức Giêsu, là thành viên thực thụ của Họi Thánh, thì đã được bảo đảm hạnh phúc muôn đời.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho dân chúng biết rằng họ bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng vượt tình trạng thất sủng của họ.
2. Giống như các ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Đức tin không phải là một di sản quốc gia hay dòng tộc, nhưng là một dấn thân của trọn vẹn con người. Trong cuộc dấn thân này, con người cứ phải liên tục rà soát lại bản thân để có thể đáp trả trọn vẹn hơn những đòi hỏi của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
4. Các lời Gioan trách giới lãnh đạo Israel cũng liên hệ đến các nhà hữu trách của cộng đoàn Mátthêu, cũng như tất cả các vị hữu trách của mọi cộng đoàn Kitô hữu mọi thời. Các ngài cũng được mời gọi “sinh hoa quả tốt”. Và đây chính là tiêu chí giúp biện phân ra các ngôn sứ thật với các ngôn sứ giả.
¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬___________________
[1] Accusative.
[2] Nghĩa là không có bổ ngữ nào theo sau. Bản dịch CGKPV đã thêm “của Thiên Chúa” vào cho rõ nghĩa.
59. Chú giải của Noel Quesson
Hồi ấy...
Ta hãy ngờ vực. Ta đừng bị lẫm lẫn. Cách nói này không chỉ là câu nói tầm thường chuyển tiếp theo thói quen: Nhưng ngày mà Matthêu muốn nói đến là những ngày quyết định.:. Có một sự khẩn trương đang đến gần. Ngày mai thì quá trễ rồi. Đó là ngày N, đó là Giờ G sắ đến ngay bây giờ.
Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng
Nếu ta đọc Matthêu như những người đọc ông ban đầu, không biết đến Tin Mừng Luca (trong đó Gioan Tẩy Giả đã choán hết thời thơ ấu của Đức Giêsu), thì mọi chuyện diễn ra ở đây như thể chúng ta đang chứng kiến một ‘khởi đầu tuyệt đối’: “Hồi ấy, Gioan Tẩy Giả đến”. Giáo Hội sơ khai khi ấy bắt đầu Tin Mừng trực tiếp bằng hoạt động của Gioan Tẩy Giả (Cv 10,37; Mc 1,4; Ga 1,19). Những Tin Mừng thời thơ ấu chỉ được đưa vào sau này, như một thứ dẫn nhập thần học trước.
Ta hãy thử tưởng tượng mình vào trong sa mạc này ở bên bờ sông Giođan. Tất cả lịch sử Kitô giáo bắt đầu bằng tiếng kêu của Gioan:
“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”
Đấy là chuyện “khẩn trương”. Đấy là “Tin Mừng” Thiên Chúa sắp ngự trị.
Ta đang ở vào mùa thu năm 27, có thể như thế. Ta khó tưởng tượng ra một “tiếng kêu” như thế sẽ gợi ra chuyện gì Đối với những người vào thời đó, thì nó có tác dụng như một trái bom. Đấy là một chàng điên nói... hay nếu đúng thế, thì đấy là cả một sự chờ đợi hừng hực của Do Thái sắp được mãn nguyện: một “chồi non của cội nguồn Đavít sẽ nảy sinh”; “một nhánh lá, một hy vọng điên cuồng”; “Người sẽ dùng công lý phán xét những kẻ bé mọn”; “một nền hòa bình phổ quát và dứt khoát sẽ thành hình trên mặt đất: Sói sẽ ở với chiên. Sư tử và bò cùng ăn cỏ với nhau, trẻ thơ sẽ vui đùa trên ổ rắn hổ mang”; “sẽ không còn sự ác nữa”; “mọi người sê nhận biết Thiên Chúa” (Is 11,1-10).
Chính đó là tin vui: đấy là “Tin Mừng”, là “loan báo tốt lành”; “eu-angelion” trong tiếng Hy Lạp, “besôrâ” trong tiếng Do Thái. Đó là “tin lành” mà, trong hai năm Đức Giêsu đến lượt Người bắt đầu kêu lên. Đó chính là cùng một thứ tin vui mà Đức Giêsu rao giảng (Mt 4,17). Thiên Chúa đến gần rồi. Thiên Chúa ở giữa người ta, Thiên Chúa ở trên đường đi, Nước Người đang đến gần! Hãy đến! Hãy đến! Chớ chi Nước người ngự đến! Chớ chi tình yêu Người đến! Chớ gì hòa bình đến! Chớ chi công lý đến! Tất cả những của cải mà loài người khát mong.
Tất cả đều ở đó! Gioan Tẩy Giả nói. Ta hiểu rằng cái “tin” này không thể để cho ai còn dửng dưng được. Còn tôi, tôi có phải là một người khát khao không? Tôi có biết phát hiện ra trong thế giới thực tế mỗi ngày, tất cả những khát vọng sâu xa này không? Cái “mong chờ” này không?
Nhưng, chú ý! chú ý! Gioan Tẩy Giả kêu lên. Đừng chỉ mong chờ, khát khao suông. Hãy xây dựng “Nước Thiên Chúa” này, hãy làm đi. Đi đi, lên đường đi, hãy năng động, hãy sám hối; hãy thay đổi!
Gioan chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong sa mạc. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”.
Lạy Chúa, chúng con được “giải ngũ”, chính chúng con, so với những người kia, thế đấy! Chúng con đã làm dịu bớt Tin Mừng. Chúng con đã làm cho Tin Mừng thành một sức mạnh “truyền không”. “bảo thủ” quá khứ. Và khi đó chính là niềm hy vọng lớn lao của quần chung muốn biến đổi xã hội. Thế thì chúng ta hãy cứ lạ lùng trước các chủ nghĩa vô thần hiện đại đã đến tiếp sức khi chúng ta bỏ chạy: “đó là cuộc đấu. tranh cuối cùng. Chúng ta hãy tập hợp lại và ngày mai cuộc đấu tranh quốc tế sẽ là loài người?, là Kitô hữu, chúng ta có say mê xâydựng một thành thị mới không? Chúa chúng ta không phải chỉ “ở trên cao”, Người “ở phía trước”. Người đến, người gần quá rồi; bạn hãy làm cho Người đến, hãy dọn đường cho Người!
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.
Đó là một “tay cứng cỏi”, một “anh chàng nổi tiếng”, cái gã đó, đã kêu lên: “hãy sám hối”. Chính bản thân anh, anh ta đã bắt đầu thực hiện. Anh ta sống một cuộc đời đạm bạc, sơ khai, hợp với môi sinh một cách lành mạnh từ lâu rồi: Không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, hay dư cholesterol!
Khi đó người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê đến với ông.
Chốn hoang mạc này đang đầy nghịt những đám đông! Nó sống lại! Chốn hoang mạc ở chỗ bờ sông Giođan này trở thành một trung tâm, khởi động một phong trào từ khắp nơi: từ thành thị (Giêrusalem!) ở phía Tây, miền thôn dã (sông Giođan!) ở phía Đông.
Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trên sông Giođan.
Vâng đúng là hoang mạc tâm hồn bỗng nhiên bắt đầu sống lại trong khiêm tốn và sám hối. “Thay đổi xã hội” không chưa đủ nhưng cũng phải thay đổi chính bản thân mình. Thời gian của Mùa Vọng trước hết không phải thời gian bày ra những mặt hàng đầy thực phẩm và tặng phẩm. Chính là thời gian trở về lòng mình. Thời gian Mùa Vọng trước hết không phải thời mơ mộng của những bé ngoan: đó là thời gian ‘phải quyết định’. Đối với truyền thống Kinh Thánh: “sám hối” chính là quay trở lại hoàn toàn để đi theo chiều hướng ngược lại với chiều mà ta đã đi theo. Tiếng La tinh “conversio”, từ đó mới có tiếng “conversion”, phiên dịch tiếng Hy Lạp “metanoia”, có nghĩa theo sát chữ là: ‘thay đổi’= meta, ‘não trạng’= noia’. Và hai từ này phiên dịch tiếng Do Thái “shub”, đặc trưng về rao giảng có tính ngôn sứ. Mùa Vọng năm nay, đối với tôi, phải chăng sẽ là một thời gian ‘trở lại’, một thời gian ‘canh tân’, một thời gian ‘thay đổi’, một thời gian ‘sám hối’? Hay là phải chăng tôi cứ tiếp tục cuộc đời rong ruổi của tôi, đôi chân rúc vào đôi giày bố xó nhà, và ngồi ghế bành thoải mái bên tách cà phê? Khi nghe loan báo “Tin mừng về Nước Thiên Chúa đã gần kề, người người thời đó chạy bộ tuồn đến hoang mạc, và nhận ra tội lỗi của mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Phải chăng lương tâm của ta có lẽ không bị va chạm với tội lỗi? Chúng ta có lẽ bị mù quáng chăng? Có lẽ chúng ta thiếu một sự trong sáng cơ bản nhất? Để chuẩn bị cho con đường Giáng sinh, ta có “nhận ra” điều xấu trong ta không? Và đón nhận “nhiệm tích thánh tẩy thứ hai”, nhiệm tích kỳ diệu của hòa giải không? Hay là có lẽ ta giống như người Pharisêu và Xa-đốc chăng?
Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia. ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa kết quả đế chứng tỏ lòng sáng hối “. Đấng tưởng có thế bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”.
Khi có một điều gì hoàn toàn mới đang bắt đầu đối với tất cả những người sáng suốt, thì một số người nào đó lại không “động đậy”, dù một cách lầm lẫn, bọ đã trấn an mình bằng những điều chắc chắn: nhưng cứ xem kìa, chính họ, chẳng có gì thay đổi nơi họ, họ thuộc “chủng người được tuyển chọn”.
Họ tưởng là mình tự do. Họ không nhận thức được rằng họ chịu ảnh hưởng của “một người khác”. Một người bí nhiệm chống lại dự tính về Nước Thiên Chúa trên họ: Một người “không được nhận dạng”. “Ai” đã chứng minh cho bạn cách thoát khỏi Thiên Chúa? Kẻ đối phương là người không lộ mặt đối mặt, nhưng hành động không cho ai biết. Gioan Tẩy Giả đã lột mặt nạ của hắn: chính là Con Rắn tứ thời Eva, đã xúi đàn ông và đàn bà cứ ăn trái cấm không có gì liều lĩnh đâu; và đã biến đổi một cách tinh ma tất cả những người nghe nó thành “nòi rắn” (St 3,15), thành “nòi rắn độc” (Mt 3,7). Không “trở lại”, thì chính là thần phục “nòi kia”.
Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.
Khẩn cấp! Khẩn cấp! Ta hãy mau lên!
Chỉ nữa giây, lưỡi dao sắc bén của cây rìu sẽ làm cho cây đổ máu và hạ nó xuống, để quăng vào lửa, cái cây vô ích kia không sinh hoa trái. Và chúng ta hé thấy số phận của “cây vả không sinh sản” trên đường Giêrusalem, hai năm sau (Mt 21,18). Lạy Chúa, xin giúp con sản sinh được những quả “tốt”.
Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và Lửa.
“Người ngự đến... còn mạnh mẽ hơn” (x. Mc 1,7; Lc 3,16). ở nơi Gioan Tẩy Giả, người cuối cùng trong các ngôn sứ, đấy không phải là một tuyên ngôn khiêm tốn: Tôi không đáng là đầy tớ của Người; chính là một tuyên ngôn đức tin: “Người ngự đến, đó là một linh thể” đó là Vua của Nước Thiên Chúa, đó là phán quan thời thế mạt, đã mặc lấy cơn lôi đình của Thiên Chúa chống lại cái ác.
Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu và kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.
Những hình ảnh Kinh Thánh truyền thống để chỉ về Ngày Phán xét! Cuộc phán xét chỉ dành cho một mình Thiên Chúa! Và tất cả bối cảnh của truyện kể buộc chúng ta phải nhận diện. “Người” ngự đến là chính Đức Giêsu! Tuyên ngôn thuộc lãnh vực thần học. Sân rê lúa là nơi phân biệt hẳn ‘lúa mì’ và ‘trấu'. Một thứ thì đem vào lẫm, còn thứ kia chỉ đáng bỏ vào lửa. Xấu và Tốt không thể đánh đồng với nhau. Ai có dị ứng khi “xưng thú tội lỗi mình”, nếu người đó nhận thức ra, hắn sẽ đắn đo khi phải nhận các trọng lượng nhẹ nhõm của cái vỏ trấu phù du, thay vì làm “lúa mì”.
60. Chú giải của Fiches Dominicales
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Nước trời đã gần đến.
Chính dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ đến trong ngày quang lâm mà ta khai mạc mùa Vọng này. Cũng chính dưới ánh sáng ấy, với thánh Matthêu, ta cùng đến vào thời đầu sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Một câu nói đủ gợi lên sự nhập vai của Gioan: “Vào những ngày ấy, Gioan xuất hiện, loan báo trong hoang địa rằng: Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần” Vào lúc ấy một công thức báo trước một giai đoạn mới. Một bắt đầu mới. “... Gioan xuất hiện”
+ Sự bắt đầu mới này loan báo việc nhập vai của Gioan, giới thiệu sự xuất hiện của Đức Giêsu, trong câu 3,13: “Bấy giờ, Đức Giêsu đến từ Galilêa, xuất hiện bên bờ sông Giôđan”.
+ Ở đây, Gioan nhận lấy biệt danh: Tẩy Giả (người làm phép rửa), danh hiệu xếp ông vào vòng ảnh hưởng những nhóm tu sĩ thực hành nghi thức làm phép rửa, vào thời Đức Giêsu; một nghi thức mà các Kitô hữu sẽ du nhập. Và có thể đó là dấu vết của sự căng thẳng liên lỉ, mãi cho tới thời thánh Matthêu, giữa một số môn đồ của Gioan Tẩy Giả và cộng đoàn các môn đệ Đức Gìêsu?
+ Ông loan báo trong hoang địa xứ Giuđê.
Trong ký ức tập thể của dân Israel, hoang địa là nơi thử thách, nhưng cũng là nơi tình nghĩa cha con của Thiên Chúa, và là nơi của mọi khởi đầu. Chỉ cần gợi lại bốn mươi năm vượt qua sa mạc, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của tiên tri cha trên đường về nơi Herob, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của Đức Giêsu nơi hoang địa, bắt đầu sứ vụ của Ngài.
+ Ông loan báo điều gì? “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần đến. Trọng tâm của lời giảng của Gioan Tẩy Giả, trong Phúc âm Matthêu, cũng sẽ là trọng tâm của lời công bố của Chúa Giêsu (Mt 4,l7), cũng như sẽ là trọng tâm lời rao giảng của Giáo Hội, theo Tông đồ Công vụ 10,7. Điều Gioan loan báo đã là Phúc âm rồi: Phúc âm của Đức Kitô, Phúc âm của Giáo Hội Ngài. Từ nay, theo sự hướng dẫn của Matthêu, chúng ta có thể hiểu con người của hoang địa này hơn, ngài vừa nhập vai mở màn cho một đoạn mới của lịch sử ơn cứu độ
+ Vấn đề một tiên tri mà sứ mạng làm trọn lời tiên báo của Isaia 40: trong sa mạc có tiếng kêu: Hãy dọn đường Chúa, hãy săn phẳng lối Ngài”.
Cl. Tassin chú giải: “Ngày xưa, Isracl sinh ra từ hoang địa trong cuộc xuất Hành, rồi từ chuyến trở về từ nơi lưu đày. Ngày nay, phải tái sinh nhờ lắng nghe lời tiên tri, và phải dọn đường Chúa đến. Chính Đức Giêsu sẽ làm gương qua việc Ngài chịu phép rửa và thời gian ở trong hoang địa”
+ “Y phục ngài bằng lông lạc đà, nghệ thuật làm tượng thường trình bày như thế, có thể là rất lạ lùng đối với chứng ta ngày nay. Vào thời đó, nó có giá trị biểu tượng rất lớn, bởi vì nó gợi nhớ y phục của Elia (xem sách Các Vua, quyển thứ hai 1,8), mà theo truyền thống Do Thái, sự trở lại phải mở đầu cho chính Đấng Cứu Thế đến (xem Mt 11,4).
+ Còn sự toả lan ra của lời giảng của ngài, thì cũng giống như của Đức Giêsu trong câu 4,23-25, “Giêrusalem, tất cả xứ Giuđêa và khắp miền sông Giođan”. Theo lời kêu gọi của tiên tri trong sa mạc, một dân tộc tội lỗi sẽ đến dìm mình trong dòng nước mà ngày xưa họ đã vượt qua để vào Đất Hứa: “Họ để ông làm phép rửa trong sông Giôđan khi nhìn nhận tội lỗi họ. Đó là một khởi đầu mới, một sự sinh thành mới được chuẩn bị kỹ lưỡng. Jean Perron kết luận trong “Lire la Bible”, số 52, trang 14-15: “Thu tóm trong chính mình tất cả những tiên tri từ thời Elia, Đấng tiền hô rõ ràng lời tiên tri sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo; kết thúc tiên tri và mở đầu Phúc âm, ngài là bản lề nối kết Cựu ước và Tân ước”.
2. Sự cấp bách trở về.
Sau khi đưa ra một cái nhìn tổng quát về những đám đông tuốn đến sông Giođan, tác giả Phúc âm kể ra những loại người đặc biệt: “Những người biệt phái và những người Sađuceo” đến “chịu phép rửa” rất đông?
+ Xuất thân từ giới bình dân, danh xưng biệt phái (Pharisêu) chỉ “những người tách biệt”, “những người tinh sạch”, họ rất lo lắng đến sự tinh sạch và tuân theo lề luật đó cũng là một khuynh hướng nệ luật triệt để và nẹ hình thức tôn giáo.
+ Xuất thân từ giới thượng lưu và tư tế, những người thuộc phái Saduceo, đồng minh với trật tự đã được thiết lập, chấp nhận sự có mặt của người Roma, khác với những người biệt phái, nỗi tiếng bảo thủ trong vấn đề tôn giáo. Tuy hoàn toàn đối lập họ với nhau, hai nhóm tôn giáo này cùng có mặt ở đây, cùng đi về sông Giođan theo lời kêu gọi của Gioan, cũng như chẳng bao lâu sau, họ sẽ cùng liên kết với nhau để bắt bẻ Đức Giêsu Nagiarét. Vị tiên tri của sa mạc không nể nang họ. Vừa nhìn thấy họ, ông đã mạt sát: “Hỡi loài rắn độc” nghĩa là: “những môi miệng chỉ tuôn ra những lời độc địa”, ai đã chỉ dạy cho các ngươi tránh khỏi cơn thịnh nộ sắp tới?”. Liệu những con người độc địa, túi tiết ra nọc độc có thể thoát khỏi sự phán xét sắp tới của Thiên Chúa không? Lời nói nghiêm khắc nhắm vào họ tựu trung ở hai điểm, bằng một lời đe doạ tương tự như nhau: ở câu 10, “cái rìu đã ở kề gốc cây”, và ở câu 12, “tay Người cầm nia”.
+ Điểm thứ nhất là một lời khuyến khích “sinh hoa kết quả”, một hoa trái diễn tả sự trở về của các anh”. Kêu nài đến Abraham cũng không ích lợi gì cả. “Con cái đích thực của Abraham” không phải là những người nói hay nghĩ những điều đúng đắn về Thiên Chúa, mà là những người sống theo ý Thiên Chúa. Cl. Tassin chú giải: “Như thế, trái ngược với một phép rửa cứu thoát một cách tự động, Gioan đòi phải có một sự trở lại thục sự (OC. trang 40).
+ Sau cùng, trong điểm thứ hai, Gioan trình bày phép rửa “trong nước dẫn đến sự trở lại” như để chuẩn bị cho một phép rửa khác, một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. Bởi vì kẻ “đến sau ông (một từ ngữ chỉ môn đệ), thực ra lại “mạnh mẽ” hơn ông. Đến độ Gioan nhìn nhận rằng mình “không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, là nhiệm vụ dành riêng cho người nô lệ. Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đâ nhận nhiệm vụ dọn đường.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Không thể có Phúc Âm hóa mà không có sự trở lại.
“Gioan chất vấn bằng lời nói, nhưng cũng bằng cách sống của ông: hoang địa, y phục, lương thực... Chính cuộc sống của ông đặt vấn đề và lôi cuốn. Sau này, Đức Giêsu nhắc lại điều đó: “Các ông nhìn thấy gì nơi hoang địa. Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy thì các ông thấy gì? Một người ăn mặc lịch sự sang trọng ư? Nhưng những người ăn mặc lịch sự sang trọng thì ở trong cung điện nhà vua” (11,7-8). Tiên tri là người đầu tiên phải trở lại. Trước khi loan báo Nước Trời cho người khác, chính ông phải sẵn sàng đón tiếp Nước ấy. Không thể nào loan báo cho người khác nếu chính mình không hồi tâm trở lại, bởi vì đó không phải chỉ đơn thuần là chuyển giao một kiến thức. Thông tin về Nước Trời chỉ có thể được tiếp nhận bởi người nào chấp nhận biến đổi đời mình: Hãy ăn năn thống hối Nước Trời đã gần đến. Không ăn năn trở lại, thì Nước Trời vẫn ở ngoài cửa mà thôi. Chúng ta cần nghe lại sứ điệp của Gioan Tẩy Giả. Trong một thế giới mà việc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa là nước không được nhận biết, không được chấp nhận, thì không được quên rằng, sẽ không được Phúc âm hoá nếu không có sự ăn năn trở lại của người loan báo, cũng như của người lắng nghe Phúc âm. Chúng ta luôn luôn phải chạm trán với sự không tin hay với sự thờ ơ? dửng dưng. Chúng thách thức ta phải kiểm điểm lại sự trung thành với Phúc âm, trình bày Phúc âm không phai là một giáo huấn đơn thuần cho trí hiểu nhưng là một lời mời gọi biến đổi đời mình. Bởi vì Phúc âm là sức mạnh đổi mới, hướng dẫn đời sống một cách khác. Phúc âm khơi gợi một sự ý thức về tội lỗi một ý chí muốn thay đổi cuộc sống. Đó là ý nghĩa của phép rửa của Gioan: trong khi xưng thú tội lỗi, họ để ông làm phép rửa trong sông Giođan”.
2. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận.
Gioan không rào trước đón sau, mắng nhiếc thậm tệ những người đến với ông. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người đến với ông đều tỏ ra thiện chí. Bởi vì họ đã bước xuống nước sông Giođan. Bởi vì họ đã dầm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng không đúng thế.
Nghi thức tự nó không đủ. Chính con tim và cách sống mới can hệ. Và khi Thiên Chúa đến thì sẽ là phép rửa bằng lửa: một ngọn lửa tinh luyện và đức rèn. Một ngọn lửa thiêu đốt thế giới. Một ngọn lửa cháy lên huy hoàng vinh quang. Chúng ta thấy đó: không phải là vấn đề giả bộ. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận. Và nhất là, nếu chúng ta để Thiên Chúa hành động thì Ngài sẽ cho thực hiện các phép lạ. Các bạn sẽ sản xuất ra nhiều hoa trái một cách dồi dào phong phú, các kho lẫm trên trời se đầy tràn chan chứa. Nhưng trước tiên, các bạn hãy ăn năn trở lại! Hãy từ bỏ sự tự mãn! Hãy để Thiên Chúa tràn ngập các bạn và đốt lửa lên trong lòng các bạn! Các bạn hãy thành thật đi! Đừng tìm cách đánh lừa, Thiên Chúa, hãy từ bỏ sự bảo đảm dựa trên các tập quán để mở rộng con tim các bạn đón nhận những cái mới căn bản của Nước Trời!
61. Chú giải của William Barclay
SỰ XUẤT HIỆN CỦA GIOAN TẨY GIẢ: 3,1-6
Sự xuất hiện của Gioan giống như tiếng nói của Thiên Chúa thình lình vang lên. Lúc bấy giờ người Do Thái buồn bã vì tiếng nói của các ngôn sứ không còn nữa. Trải qua bốn trăm năm không hề có ngôn sứ nào, suốt bốn thế kỷ dài đằng đẵng tiếng nói ngôn sứ hoàn toàn yên lặng. Như chính họ đã ghi nhận “không có tiếng nói, cũng chẳng có tiếng đáp”. Nhưng trong Gioan, tiếng nói ngôn sứ lại đang vang lên. Vậy đặc điểm của Gioan và sứ điệp của ông là gì?
1. Ông mạnh dạn tố cáo bất cứ tội ác nào ông biết. Khi vua Hêrôđê phạm tội trong một cuộc hôn nhân xấu xa và bất hợp pháp, Gioan quở trách ngay. Khi những người Xađốc và Pharisêu, các thủ lãnh tôn giáo chính thống, những nhà đạo đức đương thời chìm đắm trong những nghi thức bề ngoài, Gioan đã không ngần ngại lên tiếng. Khi đám thường dân sống cuộc đời vô đạo, ông mạnh dạn cảnh cáo họ. Nơi nào Gioan thấy điều ác, trong quốc gia, trong đạo, trong dân gian, ông quở trách không chút e dè. Gioan giống như ngọn đèn soi trong nơi tối tăm, ông giống như ngọn gió từ Thiên Chúa quét sạch cả xứ. Ngày nay sự cảnh tỉnh và tố cáo vẫn còn trong sứ điệp Kitô giáo. Diogene từng nói: “Chân lý giống như ánh sáng đối với mắt đau”. Ông nói “Người nào không bao giờ làm mất lòng ai thì cũng chẳng bao giờ làm được ích gì cho ai”. Đã có những thời kỳ Hội Thánh quá cẩn thận để khỏi làm mích lòng người. Thời kỳ lịch sử dễ dãi đã qua, và thì giờ quở trách tỏ tường phải đến.
2. Ông khẩn khoản kêu gọi mọi người đến với sự công chính. Sứ điệp của Gioan không những là tố cáo tiêu cực nhưng cũng tích cực xây dựng những tiêu chuẩn đạo đức của Thiên Chúa. Ông chẳng những tố cáo người ta về những việc họ đã làm, mà còn chỉ bảo họ điều phải làm. Ông không chỉ lên án quá khứ của họ mà còn khuyến khích họ phải sống thế nào. Ông giống như tiếng kêu gọi mọi người bước lên chỗ cao hơn. Chẳng những ông quở trách điều ác, mà còn đặt ra điều thiện trước mặt mọi người. Nhiều khi Hội Thánh chỉ lo nói cho mọi người biết điều không nên làm mà không quan tâm đến việc đưa ra cho họ thấy sự cao trọng của lý tưởng Kitô giáo.
3. Gioan từ Thiên Chúa đến. Ông từ hoang địa đi ra; ông đến với người ta sau khi đã được Thiên Chúa chuẩn bị qua những năm tháng cô đơn. Như Alexander Maclaren đã nói: “Gioan như ta thấy khi nhảy vào đấu trường đã trưởng thành và võ trang đầy đủ”. Ông đến không phải với vài quan niệm của mình, nhưng với sứ điệp của Thiên Chúa. Trước khi nói với loài người, ông đã ở lâu ngày với Thiên Chúa. Người nào giảng dạy lời ngôn sứ phải luôn luôn ở cùng Thiên Chúa rồi mới có thể đứng trước mặt loài người.
4. Gioan chỉ cho người ta đi tới cái trổi vượt hơn chính ông. Gioan không chỉ là ánh sáng phơi bày điều ác, không chỉ là tiếng nói quở trách tội lỗi mà còn là bảng chỉ đường đến Thiên Chúa. Gioan không muốn loài người chiêm ngưỡng ông, mà muốn chuẩn bị họ cho Đấng sẽ đến.
Người Do Thái tin tưởng Êlia sẽ trở lại trước khi Đấng Cứu Thế đến và ông là người báo tin cho công chúng biết về vị Vua tương lai “Này ta sẽ sai ngôn sứ Êlia đến cùng các ngươi trước ngày lớn lao và đáng sợ của Thiên Chúa chưa đến” (Ml 4,5). Gioan mặc áo bằng lông lạc đà, thắt dây lưng bằng da, đây là hình ảnh chiếc áo ngôn sứ Êlia đã mặc (2V 1,8).
Matthêu liên kết Gioan với lời tiên tri trong Isaia 40,3. Trong thời cổ đại, đường xá phương Đông rất xấu. Có một châm ngôn phương Đông nói rằng: “Có ba điều khốn khổ: đau ốm, nhịn ăn và du lịch”. Một nhà du lịch sắp lên đường thường được khuyên trả tất cả nợ nần, chuẩn bị mọi sự cho vợ con, trao những quà tặng chia tay, trả lại những món đồ ký thác, lấy tiền rồi chuẩn bị cho cuộc hành trình và chào từ biệt mọi người. Quốc lộ chẳng hơn gì các lối mòn và không hề được trải đá, vì đất xứ Palestine cứng có thể chịu được sự lưu thông lừa, la và xe bò, xe ngựa. Cuộc hành trình trên một tuyến đường như thế quả là phiêu lưu, một cuộc phiêu lưu cần phải tránh. Cũng có một số ít đường trải đá, tỉ dụ như Josephus nói rằng Salômôn đã đắp một con đường cao bằng đá đen dọc theo những đường dẫn đến Giêrusalem để dễ dàng cho những người đi viếng nơi thánh và để “bày tỏ sự giàu có sang trọng của nước mình”. Tất cả những đường đá đắp bằng sức người đó do các vị vua làm chỉ đặc biệt dành cho vua sử dụng. Bởi vậy chúng được mệnh danh là “xa lộ hoàng gia”. Đường ấy chỉ được tu bổ khi vua cần dùng cho một cuộc du hành nào đó. Trước khi vua đến, dân chúng được loan báo để chuẩn bị đường cho xa giá vua đi. Gioan thật đang sửa soạn cho con đường của vua. Những người rao giảng lời ngôn sứ không nói về mình nhưng nói về Thiên Chúa.
Mục tiêu của người giảng không phải là làm cho người ta chú ý đến sự khéo léo của mình nhưng vào sự oai nghiêm của Thiên Chúa. Nhà truyền giáo chân thật là người tan biến trong sứ điệp của chính mình.
Người ta nhìn nhận Gioan là ngôn sứ dù cho sau bao nhiêu năm dài không hề vang lên tiếng nói ngôn sứ nào, vì ông là ánh sáng phơi bày sự dữ, là tiếng nói hiệu triệu con người đến sự công chính, là bảng chỉ đường để con người đến cùng Thiên Chúa, và vì ông có một uy quyền không thể giải thích được, một thứ uy quyền chỉ có sau khi đã ở lâu với Thiên Chúa.
SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: LỜI NGĂM ĐE
Trong sứ điệp của Gioan có cả sự ngăm đe lẫn lời hứa. Cả đoạn này đầy những bức tranh linh động. Gioan gọi những Pharisêu và Xađốc là dòng dõi rắn độc và hỏi ai đã chỉ cho họ chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Có thể Gioan nói lên hai hình ảnh sau đây: Một là Gioan biết rõ hình ảnh hoang địa, có những nơi cỏ mọc ngắn thưa, khô héo với những bụi gai cằn cỗi, gầy, dòn vì thiếu hơi ẩm. Thỉnh thoảng có những đám cháy rừng, lúc ấy lửa như con sông đỏ rực tràn qua, và ngọn cỏ, bụi cây như mới bùi nhùi. Trước đám cháy, rắn rết, bọ cạp vội vã trốn chạy, cả đến những loài thường sống ẩn náu trong bụi cỏ hoặc lùm cây cũng phải bỏ nơi trú ẩn để chạy cứu mạng mình. Cũng có thể một hình ảnh khác mà Gioan dùng ở đây, có nhiều loài vật và côn trùng nhỏ trong cánh đồng bắp như chuột đồng, thỏ và chim chóc, nhưng kh người thợ gặt tới thì chúng bị đuổi khỏi tổ, khỏi hang, chúng phải chạy trốn cứu mạng khi cánh đồng bị gặt trụi… Gioan đã dựa vào những hình ảnh này để suy nghĩ. Nếu các Pharisêu và Xađốc thật tâm xin chịu phép rửa thì họ chỉ như những con thú chạy gấp để cứu mạng trước ngọn lửa hoang địa hoặc trước lưỡi hái của thợ gặt.
Gioan cảnh cáo dù họ có nại ra Ápraham là tổ phụ của họ cũng chẳng ích gì. Đối với người Do Thái chính thống, đó là một câu nói không thể chấp nhận được. Đối với người Do Thái, Ápraham thật độc đáo, độc đáo đến nỗi những công đức của người, cả về sự thiện hảo và ơn Chúa, Ápraham có đủ cho mình và còn cho cả dòng dõi ông nữa. Ápraham đã tích trữ một kho tàng công đức mà tất cả những đòi hỏi và nhu cầu của dòng dõi ông không thể dùng hết được. Vì vậy người Do Thái tin rằng, một người Do Thái tầm thường dù chẳng có công đức riêng nào cũng sẽ được an toàn trong tương lại. Họ nói “tất cả người Israel đều có phần trong thế giới sắp đến”. Họ nói về “những công đức giải phóng của tổ phụ”. Họ nói rằng Ápraham ngồi ở các cổng địa ngục để đuổi người Israel nào chẳng may bị đưa đến chốn kinh khiếp đó trở về, những công đức của Ápraham đã khiến những con tàu thuận buồm xuôi gió trên biển cả, cũng bởi công đức của Ápraham mà mưa sa trên đất. Công đức của Ápraham đã đưa Môsê lên trời để nhận luật. Bởi công đức của Ápraham mà Đavít được Chúa nhậm lời, những công đức này cũng đủ cho người gian ác nữa. Họ nói về Ápraham “nếu con cháu người chỉ là những thi hài, không có mạch máu hay xương cốt, thì công đức của người cũng có lợi cho chúng”. Gioan quở trách tinh thần ỷ lại đó. Có lẽ người Do Thái đã đưa vấn đề đi quá xa, nhưng bao giờ cũng cần cảnh cáo rằng chúng ta không thể sống trên số vốn thuộc linh trong quá khứ. Một thời đại suy đồi không thể trông mong được cứu rỗi dù đã thừa hưởng một quá khứ anh hùng. Một đứa con hư hỏng không thể hy vọng viện dẫn công đức của một người cha thánh thiện.
Một lần nữa, Gioan trở lại với hình ảnh về mùa gặt. Cuối mùa, người giữ vườn nho và vườn vả sẽ kiểm tra kết quả. Nếu chúng không có trái và vô dụng sẽ bị nhổ tận gốc, vì đã choán đất vô ích. Sự vô dụng bao giờ cũng chuốc lấy tai hoạ. Một người vô dụng đối với Thiên Chúa và đồng loại thì ở trong sự nguy hiểm trầm trọng và bị kết án.
SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: LỜI HỨA
Sau lời ngăm đe của Gioan là lời hứa, trong đó cũng bao hàm một lời hăm doạ. Như chúng ta biết, Gioan xuất hiện để chỉ cho mọi người thấy Đấng trổi vượt hơn ông sắp đến. Lúc đó Gioan đang nổi danh và đang có ảnh hưởng rất lớn. Tuy nhiên, ông nói rằng mình không đáng xách dép cho Đấng sắp đến. Xách dép là phận sự của người nô lệ. Thái độ của Gioan là thái độ tự xoá mình đi không tự cho mình là quan trọng. Tính cách quan trọng của ông là làm bảng chỉ đường dẫn đến Đấng sắp đến. Ông nói Đấng đến sau ông sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Trong suốt cả lịch sử, người Do Thái để tâm tìm kiếm thời đại Thánh Thần sẽ đến. Êdêkien đã được nghe Thiên Chúa dạy: “Ta sẽ ban lòng mới cho cho các ngươi và đặt thần mới trong các ngươi. Ta sẽ đặt thần Ta trong các ngươi và khiến các ngươi noi theo luật lệ Ta, các ngươi sẽ giữ mệnh lệnh Ta mà làm theo” (Ed 36,26.27), “Ta sẽ đặt thần Ta trong các ngươi và các ngươi sẽ sống” (Ed 37,14). “Ta sẽ không che mặt khỏi chúng nó nữa vì Ta sẽ đổ thần Ta trên nhà Israel, Chúa dạy vậy” (Ed 39,29), “Vì Ta sẽ rót nước trên kẻ khát, cho suối chảy nơi đất khô, Ta sẽ đổ thần Ta trên dòng dõi ngươi và phước lành Ta trên những kẻ ra từ ngươi” (Is 44,3), “Trong những ngày đó, dầu những đầy tớ trai và đầy tớ gái, Ta cũng đổ thần Ta lên” (Ge 2,29). Vậy ân tứ và công việc của Thánh Thần Thiên Chúa là gì? Khi thử giải đáp câu hỏi ấy, ta nên nhớ trả lời theo nghĩa của người Do Thái. Gioan là người Do Thái và đang nói với người Do Thái, ông đang suy nghĩ và nói không theo nghĩa giáo lý Kitô giáo về Thánh Thần mà theo nghĩa giáo lý của người Do Thái.
1. Chữ “ruah” của Do Thái, cũng như chữ pneuma trong tiếng Hy Lạp, không chỉ có nghĩa là thần linh mà còn là hơi thở. Hơi thở là sự sống, bởi vậy hứa ban Thánh Thần tức là hứa ban sự sống. Khi Thánh Thần Thiên Chúa ngự vào một người thì cảnh thất bại mệt mỏi và thiếu vẻ đẹp của cuộc sống cũ sẽ qua đi để làm nổi bật sự sống mới trong người ấy.
2. Chữ ruah này chẳng những có ý nghĩa là hơi thở mà cũng có nghĩa là gió, chỉ về bão, cơn gió mạnh mà ngôn sứ đã nghe. Gió nghĩa là năng lực, gió lớn đẩy tàu đi và làm trốc gốc cây cối. Gió có một sức mạnh không gì cự địch được. Thánh Thần Chúa là Thánh Thần của năng lực, khi Thánh Thần Chúa ngự trong một người, sự yếu đuối của người ấy được mặc lấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài khiến người ấy làm được điều bất năng, đối diện với sự việc không thể đương đầu, chịu đựng được điều không thể chịu nổi. Sự thất bại bị loại trừ và chiến thắng đến.
3. Thánh Thần Thiên Chúa liên hệ đến việc sáng tạo. Khi Thánh Thần của Thiên Chúa vận hành trên mặt nước, cảnh hỗn mang trở thành vũ trụ, hỗn độn trở thành trật tự. Ngài tạo nên thế giới giữa đám sương mù thuở ban sơ. Thánh Thần Thiên Chúa có thể tái tạo chúng ta, Thánh Thần Chúa ngự vào một người, sự vô trật tự của bản chất con người sẽ trở thành trật tự. Tình trạng không kiểm soát được sẽ được Thánh Thần uốn nắn để ăn khớp, hoà hợp với Thiên Chúa.
4. Người Do Thái quy cho Thánh Thần những chức năng đặc biệt. Họ tin là Thánh Thần mang chân lý Thiên Chúa mặc khải cho loài người. Mỗi khám phá trong lãnh vực tư tưởng là một ơn ban của Thánh Thần cho tâm trí con người. Thánh Thần vào trong trí con người và biến phỏng đoán trở thành khẳng định, đổi sự ngu dốt của con người thành sự thông biết.
5. Thánh Thần khiến người ta nhận ra chân lý Thiên Chúa khi gặp. Khi Thánh Thần vào lòng, mắt chúng ta sẽ mở ra, những thành kiến vốn làm đui mù bị cắt bỏ, ý riêng tăm tối được loại trừ, Thánh Thần khiến con người thấy rõ.
Đó là những ân huệ của Thánh Thần mà Gioan đã thấy và là những ân huệ sẽ do Đấng sắp đến mang lại.
SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: LỜI HỨA VÀ NGĂM ĐE
Có một chữ và một hình ảnh trong sứ điệp của Gioan chứa đựng cả lời hứa lẫn ngăm đe. Gioan nói Đấng sắp đến sẽ làm phép rửa trong lửa. Phép rửa trong lửa cho ta ba ý niệm sau đây:
1. Ý niệm về sự soi sáng: Ngọn lửa chiếu trong đêm soi sáng những xó xỉnh tối tăm. Ánh sáng hải đăng hướng dẫn người thuỷ thủ đến bờ bến an toàn. Lửa không chỉ thiêu huỷ mà còn ban ánh sáng và sự hướng dẫn. Chúa Giêsu là ánh sáng của hải đăng dẫn con người vào chân lý và đưa họ về nhà Thiên Chúa.
2. Ý niệm ấm cúng: Một người quảng đại và nhân từ được soi là người đốt lửa trong những căn phòng giá lạnh. Khi Chúa Giêsu đến với cuộc đời, Ngài đã nhen nhúm lên trong lòng con người sự ấm áp của tình yêu. Kitô giáo bao giờ cũng là tôn giáo của trái tim nồng ấm.
3. Ý niệm tẩy sạch: Trong nghĩa này, tẩy sạch bao hàm ý huỷ diệt vì ngọn lửa tinh luyện thiêu đốt sự giả dối và để lại sự chân thật. Ngọn lửa tôi luyện, làm cứng rắn và làm tinh ròng kim loại. Khi Chúa Giêsu ngự vào lòng người, cặn bã xấu xa bị tẩy trừ. Có khi đó là một kinh nghiệm đau đớn, nhưng nếu một người đã trải qua những kinh nghiệm trong đời sống mà tin rằng Thiên Chúa có thể làm cho mọi sự trở thành ích lợi, thì người ấy sẽ ra khỏi những kinh nghiệm đó với tâm tình được thanh tẩy, và với tấm lòng trong sạch. Người ấy được thấy Thiên Chúa.
Vì vậy, lửa bao gồm sự soi sáng, sự ấm áp và tinh sạch cho tấm lòng người nào có Chúa Giêsu ngự vào.
Bức tranh về sân đạp lúa củ Gioan cũng gồm cả lời hứa lẫn ngăm đe. Cái quạt để rê lúa trông giống như cái xẻng gỗ lớn để hất lúa lên cao. Thóc nặng rơi xuống trước còn trấu nhẹ bị gió lùa đi. thóc được gom vào bồ, còn trấu thì dùng để đốt.
Khi Chúa Giêsu đến thì buộc phải có sự phân rẽ. Người ta hoặc tiếp nhận Ngài hoặc chối bỏ Ngài. Đối diện với Chúa, họ đứng trước một lựa chọn không thể tránh né được. Hoặc thuận hay nghịch với Ngài. Sự lựa chọn đó định đoạt số phận con người. Con người được phân chia do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu.
Theo quan niệm Kitô giáo thì không ai có thể tránh việc lựa chọn số phận đời đời. Tại làng Bedford, John Bunyan đã nghe một tiếng gọi thình lình đưa ông đối diện với cõi đời đời: “Ngươi có bằng lòng từ bỏ tội lỗi để vào thiên đàng hay cứ giữ tội để xuống địa ngục?”. Phân tích cho cặn kẽ thì không ai có thể trốn tránh một lựa chọn dứt khoát cho chính mình.
SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: HOÁN CẢI
Trong tất cả các lời giảng của Gioan, điều đòi hỏi cơ bản là: “Hoán cải” (Mt 3,2). Đó cũng là sứ điệp cơ bản của Chúa Giêsu. Ngài đã đến và truyền dạy: “Anh em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Rõ ràng chúng ta cần tìm hiểu hoán cải là gì và yêu cầu cơ bản của Vua và của người dọn đường của Ngài là gì. Điều đáng chú ý là Chúa Giêsu và Gioan đều dùng chữ hoán cải mà không có lời giải thích. Cả hai đều coi chữ này như một từ chắc chắn mà người nghe sẽ biết và hiểu rõ ý nghĩa.
Chúng ta hãy xem người Do Thái dạy thế nào về hoán cải. Đối với người Do Thái, hoán cải là trọng tâm của mọi đức tin tôn giáo, mọi sự liên hệ với Thiên Chúa. G.F. Moore đã viết: “Hoán cải là điều kiện duy nhất và bất khả thay thế để được Thiên Chúa tha thứ, phục hồi ân huệ của Ngài. Sự tha thứ cùng ân huệ ấy không bao giờ phụ lòng hoán cải chân thành”, “Thiên Chúa hoàn toàn tha thứ tội lỗi của người hoán cải là lẽ đạo chủ yếu của Do Thái giáo”. Các Rápbi bảo rằng hoán cải rất là vĩ đại vì nó đem sự chữa lành đến cho thế gian. Hoán cải thật vĩ đại vì nó đạt đến vinh quang của Thiên Chúa. C.G.Montefiore đã viết: “Hoán cải là mối ràng buộc hoà giải lớn giữa Thiên Chúa và loài người”.
Luật được lập hai ngàn năm sau cuộc sáng tạo nhưng các Rápbi Do Thái dạy rằng hoán cải là một trong những điều sáng tạo trước cả luật. Có sáu điều quan trọng là: Hoán cải, thiên đàng, địa ngục, ngai vinh quang của Chúa, đền thánh trên trời và Danh của Đấng Cứu Thế. Họ nói: “Một người bắn mũi tên có thể tới vài trăm thước nhưng hoán cải tới được cả Thiên Chúa.
Câu chuyện danh tiếng sau đây của các Rápbi cho thấy hoán cải được đặt vào hàng đầu: “Ai giống như Thiên Chúa là thầy giáo dạy các tội nhân để họ hoán cải?”. Họ hỏi sự Khôn Ngoan: “Hình phạt cho tội nhân sẽ là gì?”. Khôn Ngoan đáp: “Tai hoạ đuổi theo kẻ có tội” (Cn 13,21). Hỏi ngôn sứ, ngôn sứ đáp: “Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết” (Ed 18,4). Hỏi Luật, Luật trả lời: “Người ấy phải dâng lễ vật” (Lv 1,4). Người ta hỏi Thiên Chúa và Ngài đáp: “Ngươi hãy hoán cải để được chuộc tội. Hỡi các con, điều Ta đòi hỏi nơi các con là gì? Hãy tìm kiếm Ta và được sống”. Cũng vậy, đối với người Do Thái, cổng duy nhất để trở về với Thiên Chúa là cổng hoán cải.
Chữ Do Thái Teshubah dùng chỉ hoán cải cũng rất hay. Đó là danh từ của động từ shub có nghĩa quay lại. Hoán cải là quay bỏ điều dữ và quay lại cùng Thiên Chúa, thay đổi cách ăn nết ở, cải tạo đời sống luân lý và tôn giáo của toàn dân hoặc của cá nhân. C.G.Montefiore viết: “Đối với các Rápbi, bản chất của hoán cải là ở chỗ hoàn toàn thay đổi tâm trí, từ đó đem lại sự thay đổi trong cuộc sống và trong cách cư xử”. Maimonides, một học giả Do Thái danh tiếng trong thời trung cổ định nghĩa hoán cải như sau: “Hoán cải là gì? Hoán cải là tội nhân lìa bỏ tội và khai trừ nó ra khỏi tư tưởng mình, hoàn toàn quyết định trong tâm trí sẽ không tái phạm nữa như có chép rằng: “Kẻ ác bỏ đường mình, người bất nghĩa bỏ các ý tưởng”.
Có một định nghĩa về hoán cải mà người Do Thái hoàn toàn có thể chấp nhận được trừ mấy chữ trong ngoặc đơn: “Hoán cải để được sống là một ân sủng cứu rỗi, nhờ đó tội nhân nhận biết được ý nghĩa của tội lỗi, hiểu rõ lòng thương xót của Thiên Chúa (trong Chúa Kitô) với nỗi đau buồn và chán ghét tội lỗi, thật lòng quay lại với Thiên Chúa, nỗ lực và quyết tâm vâng lời Ngài”. Nhiều lần Kinh Thánh nói về quay lưng lại tội lỗi và trở lại cùng Thiên Chúa. Êdêkien chép: “Thật như Ta hằng sống, Ta chẳng coi kẻ dữ chết làm vui, nhưng vui vì nó bỏ đường lối mình và được sống. Các ngươi hãy bỏ đường lối xấu xa của mình. Sao các ngươi muốn chết, hỡi nhà Israel?” (Ed 33,11). Giêrêmia chép: “Xin Chúa cho tôi trở lại, thì tôi sẽ được trở lại vì Chúa là Thiên Chúa tôi” (Gr 31,18). Hôsê dạy: “Hỡi Israel, hãy trở lại cùng Thiên Chúa ngươi… Các ngươi hãy lấy lời nói mà trở lại cùng Chúa” (Hs 14,1.2).
Từ những điểm kể trên, rõ ràng trong Do Thái giáo hoán cải tự nó đã có một đòi hỏi đạo đức, đó là bỏ tội lỗi mà đến cùng Thiên Chúa với một thay đổi tương xứng trong hành động. Khi Gioan đòi hỏi người nghe phải có kết quả xứng đáng với hoán cải thì đòi hỏi đó hoàn toàn nằm trong truyền thống dân tộc. Có một lời cầu nguyện thật đẹp thường được đọc trong hội đường: “Lạy Cha, xin làm cho chúng con trở lại với luật Ngài. Xin kéo chúng con đến phục vụ Ngài, hãy đem chúng con trở lại trong hoán cải hoàn toàn trước nhan Ngài. Chúng con ca ngợi Chúa, vì Ngài vui thích lòng người hoán cải”. Nhưng hoán cải đó phải được minh chứng qua nếp sống thay đổi.
Bình luận về Giôna 3,10, một Rápbi đã viết: “Hỡi anh em, Kinh Thánh không chép Thiên Chúa thấy bao gai và sự kiêng ăn của người Ninivê, nhưng Ngài thấy việc làm của họ và từ bỏ con đường gian ác”. Các Rápbi nói: “Đừng như kẻ ngu dại khi phạm tội thì dâng lễ vật mà không hoán cải. Nếu có người nói rằng: Tôi cứ phạm tội rồi hoán cải, thì người ấy không còn được phép hoán cải nữa”. Người ta liệt kê năm hạng tội nhân không được tha thứ, trong đó có “những người phạm tội để hoán cải và những người vừa mới hoán cải xong lại tái phạm”. Họ nói: “Một người cầm một vật ô uế trong tay, thì dù có rửa tay bằng nước của cả đại dương tay vẫn không sạch, nhưng ném vật dơ bẩn đó thì chỉ một chút nước là xong”. Các giáo sư Do Thái thường nói về “chín quy tắc hoán cải” tức là chín điều cần thiết cho hoán cải thật. Chín điều này viết trong Isaia 1,16-17 “Hãy rửa, hãy làm cho sạch. Hãy tránh những việc ác khỏi mặt Ta, đừng làm dữ nữa, hãy học làm lành, tìm kiếm sự công bình, hãy đỡ đần kẻ bị hà hiếp, và kẻ mồ côi, bênh vực người goá bụa”.
Con trai Sirach viết trong sách nguỵ kinh Ecclesiasticus (Huấn ca): “Đừng nói tôi đã phạm tội, có việc gì xảy đến cho tôi đâu?”. Vì Chúa là Đấng khoan nhân. Đừng dại dột tin vào của lễ chuộc tội để rồi cứ tiếp tục thêm tội vào tội, và đừng nói Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài sẽ tha thứ vô số tội lỗi tôi “vì Ngài là Thiên Chúa của tình thương lẫn của thịnh nộ; Ngài sẽ giáng thịnh nộ trên kẻ phạm tội. Đừng trì hoãn việc trở lại cùng Chúa và đừng chần chừ ngày này qua ngày khác” (Hc 5,4-7). Người viết tiếp: “Một người đụng đến xác chết bị ô uế đi tắm để được tinh sạch nhưng lại rờ đến xác chết ấy nữa thì tắm rửa có ích gì? Cũng vậy một người kiêng ăn vì đã phạm tội nhưng lại tái phạm thì ai sẽ nghe lời cầu xin của người ấy? Kiêng ăn hãm mình của người đó có ích gì?” (Hc 34,25-26).
Người Do Thái chủ trương hoán cải thật không chỉ biểu hiện bằng một cảm xúc buồn thảm mà còn phải thật sự thay đổi đời sống. Đây cũng là quan niệm của Kitô giáo. Người Do Thái chủ trương kết quả chứng minh cho hoán cải thật. Kitô hữu cũng thế. Người Do Thái còn nhiều điều khác nói về hoán cải và chúng ta phải tiếp tục tìm hiểu.
SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: HOÁN CẢI
Có điểm đáng sợ trong đòi hỏi đạo đức về hoán cải của người Do Thái, nhưng đồng thời cũng có nhiều điều khích lệ.
Lúc nào cũng có cơ hội để hoán cải. Họ nói: “Hoán cải giống như biển cả muốn tắm lúc nào cũng được”. Có những khi cánh cổng cầu nguyện đóng chặt, nhưng các cổng hoán cải thì không bao giờ đóng, cũng không ai đóng được.
Hoán cải hoàn toàn cần thiết. Người ta kể một câu chuyện Ápraham tranh luận với Chúa, ông thưa với Chúa rằng: “Cùng một lúc Chúa không thể nắm hai đầu dây. Nếu Chúa đòi hỏi sự công chính tuyệt đối thì thế gian không chịu nổi, nếu Chúa muốn bảo toàn thế gian thì lại không thể duy trì sự công chính tuyệt đối”. Nếu không có lòng thương xót của Chúa và hoán cải, thế gian không thể tiếp tục tồn tại. Nếu không có gì khác ngoài sự công chính của Chúa thì mọi người và mọi vật không thể tồn tại. Hoán cải rất cần thiết để Chúa bãi bỏ đòi hỏi của Ngài: “Hoán cải trước mặt Chúa thật đáng quý, vì Ngài đã bãi bỏ chính lời Ngài vì hoán cải”. Lời ngăm đe huỷ diệt tội nhân bị bãi bỏ vì Chúa chấp nhận hoán cải của tội nhân.
Hoán cải kéo dài suốt đời. Chừng nào còn sự sống thì còn có thể hoán cải. “Bàn tay Chúa đưa ra để giựt người hoán cải ra khỏi điều công chính đòi hỏi”. Rápbi Simeon ben Yohai nói: “Một người suốt đời công chính nhưng cuối cùng phản loạn, là đã phá huỷ hết vì có lời chép: Sự công chính sẽ không cứu được nó trong ngày nó phạm tội” (Ed 33,12). Nhưng nếu có một người cả đời sống gian ác, đến cuối cùng lại hoán cải, thì Chúa vẫn tiếp nhận người ấy vì có lời chép: “Sự dữ của kẻ dữ không làm cho nó sa ngã vào ngày nó từ bỏ sự dữ ấy” (Ed 33,12). Họ nói: “Nhiều người, phải sau nhiều năm mới vào được thiên đàng trong khi người khác chỉ trong một giờ”. Một thi sĩ nói về một người tìm ơn thương xót của Thiên Chúa trong giờ phút lâm chung: “Trong khoảnh khắc còn lại của cuộc đời, tôi tìm kiếm ơn thương xót của Chúa và tôi đã gặp”.
Lòng thương xót của Thiên Chúa cao cả đến nỗi Ngài chấp nhận cả hoán cải kín đáo nữa. Rápbi Eleazar nói: “Đây là cách của thế gian, một người công khai nhục mạ đồng bào, sau một thời gian lại tìm đến làm hoà thì người kia sẽ nói: “Anh đã nhục mạ tôi công khai bây giờ lại chỉ muốn làm hoà giữa hai người thôi sao? Không được, hãy đem những người chứng kiến sự nhục mạ của anh đến đây, trước mắt họ, tôi sẽ giảng hoà với anh…” Nhưng Chúa không như thế, đối với người nhạo báng, xúc phạm Chúa ngay giữa chợ, Chúa vẫn dạy: “Hãy hoán cải giữa hai ta, ta sẽ tiếp nhận ngươi”. Lòng thương xót của Chúa vẫn dành cho người hổ thẹn đến nỗi không dám nói điều xấu hổ với ai trừ Chúa.
Thiên Chúa không có sự quên lãng vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng lòng thương xót của Ngài lớn lao đến nỗi không những Ngài tha thứ mà còn quên tất cả tội của người hoán cải nữa. “Thần Minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài?” (Mk 7,18), “Chúa đã tha gian ác cho dân Chúa và khoả lấp mọi tội lỗi của họ” (Tv 85,2). Tha thứ thì loài người có thể làm được, nhưng quên, bỏ thì chỉ có Thiên Chúa.
Điều đẹp hơn hết là Chúa đã đi hơn phân nửa đường để đến gặp tội nhân hoán cải. “Hãy trở lại theo khả năng của con, đi được bao xa thì đi, còn Ta, Ta sẽ đến với con, đi phần còn lại của quãng đường”. Sâu sắc lắm thì các Rápbi cũng chỉ thoáng thấy được tình yêu của cha khi người cha chạy ra đón đứa con hoang đàng trở về. Tuy nhiên dầu nhớ hết sự thương xót này của Chúa, trong hoán cải thật vẫn còn có sự bồi hoàn, sửa chữa trong phạm vi khả năng. Các Rápbi nói: “sự thiệt hại phải được đền bồi, thì ơn khoan dung và tha thứ sẽ đến”. “Người hoán cải thật là người có dịp để phạm cùng một tội lần nữa trong cùng một trường hợp mà không làm”. Các Rápbi nhấn mạnh luôn về tầm quan trọng của mối tương quan nhân loại và việc cần sửa chữa cho mối tương quan đó tốt đẹp. Có một đoạn sách giáo huấn nói: “Người nào tốt với trời và với anh em mình là một zadik tốt (zadik nghĩa là một người công chính”. Người nào tốt với trời mà không tốt với anh em là một zadik xấu. Người nào gian ác với trời và gian ác đối với anh em là một tội nhân tệ hại. Người nào gian ác với trời mà không gian ác đối với người anh em thì là tội nhân không tệ hại”. Sự sửa chữa bồi hoàn cà cần thiết nên ai xúi dạy người ấy phạm tội là tội nhân xấu xa nhất, tệ hại nhất, vì đó là việc không thể sửa chữa bồi hoàn được, bởi người ấy không thể lường được hậu quả và ảnh hưởng của tội lỗi mình. Chẳng những sửa chữa cần thiết cho hoán cải thật mà xưng tội cũng vậy. Đòi hỏi này được nhắc đi nhắc lại trong Kinh Thánh “Khi một người nam hay một người nữ phạm một trong những tội mà người ta thường phạm, thì người ấy phải xưng tội của mình ra” (Ds 5,6.7). “Người nào giấu tội lỗi của mình sẽ không được may mắn, nhưng ai xưng nó ra và lìa bỏ nó sẽ được thương xót” (Cn 28,13), “Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu điều gian ác của tôi. Tôi nói: Tôi sẽ xưng các lỗi phạm của tôi cùng Chúa, còn Chúa tha tội ác tôi” (Tv 32,5), “Người nào nói mình vô tội và chối không nhận mình đã phạm tội thì bị lên án” (Gr 2,35). Maimonides đưa ra một lời xưng tội mẫu để người ta dùng khi xưng tội: “Lạy Chúa, con đã phạm tội, con đã làm điều gian ác, con đã phạm lỗi trước mặt Ngài và đã làm những việc này. Con hối tiếc về việc làm của con. Từ nay con sẽ không bao giờ tái phạm”. Hoán cải thật cần hạ mình để thừa nhận và xưng tội lỗi ra. Không có trường hợp nào là vô vọng đối với hoán cải, cũng không người nào không thể hoán cải. Các Rápbi khuyên: “Đừng ai nói tôi đã phạm và vậy là vô phương cứu vãn”, nhưng hãy tin cậy Chúa và hoán cải thì Ngài sẽ tiếp nhận. Có một trường hợp dường như không thể cải tạo được là Mơnase. Ông thờ ngẫu tượng Baan, ông đem các thần lạ vào Giêrusalem, thậm chí đem các con trẻ dâng cho Môlóc tại thung lũng Hinôm. Khi bị lưu đày qua Assyria trong gông cùm và nằm trên gai, ông cầu nguyện cùng Chúa trong cơn khốn khó và Ngài đã nghe lời cầu khẩn của ông đưa ông trở lại Giêrusalem. Khi ấy Mơnase mới nhận thức Chúa là Thiên Chúa (2Sb 33,13). Đôi khi Chúa phải dùng sự ngăm đe và kỷ luật để đem một người trở về và không có trường hợp nào vượt quá khả năng của Chúa đến nỗi Ngài không thể đem về được.
Còn một những gì cuối của người Do Thái về hoán cải và chắc đó là Gioan liên tưởng tới. Ít nhất cũng có một vài giáo sư Do Thái dạy rằng: Nếu Israel thật sự ăn năn hoàn toàn dù chỉ trong một ngày thì Đấng Mêsia sẽ đến. Chỉ tại lòng người cứng cỏi khiến cho việc sai phái Đấng Cứu Chuộc xuống thế gian phải trì hoãn lại.
Hoán cải chính là trọng tâm của đức tin Do Thái mà cũng chính là trọng tâm của đức tin Kitô hữu vì hoán cải là quay lưng lại với tội lỗi để đến với Chúa, với cuộc đời Ngài muốn chúng ta sống.
07/12 Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít
- Viết bởi Ngọc Biển, SSP.
Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít.
Thứ Bảy tuần 1 mùa vọng – Thánh Amrôxiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ".
* Thánh Amrôxiô chào đời ở Trêvêrô khoảng năm 340 trong một gia đình người Rôma. Thánh nhân theo học ở Rôma và bắt đầu sự nghiệp hiển hách ở Xiếcmiô. Năm 374, lúc đang ở Milanô, thánh nhân bất ngờ được bầu làm giám mục và được tấn phong ngày 7 tháng 12.
Người trung thành thi hành bổn phận, nổi bật nhất về lòng bác ái đối với mọi người. Đối với các tín hữu, người vừa là mục tử, vừa là tôn sư. Người đã can đảm bênh vực các quyền của Hội Thánh, người vừa viết lách, vừa hoạt động để bênh vực giáo lý đức tin chân thật, chống lại những người theo phái Ariô.
Người qua đời thứ bảy tuần thánh, ngày 07 tháng 04 năm 397.
LỜI CHÚA: Mt 9,35 - 10,1.6-8
Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Và Người triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người bảo: "Các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chạnh lòng thương
Suy niệm:
Thiên Chúa của Do Thái giáo là Thiên Chúa gần gũi với con người.
Thiên Chúa của Ítraen có thể trừng phạt dân vì sự bất trung của họ,
nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa giàu lòng tha thứ.
Khi đọc bài đọc 1 của ngôn sứ Isaia, chúng ta ngạc nhiên
khi thấy một Thiên Chúa tỉ mỉ quan tâm đến hạnh phúc của con người.
Ngài nghe và đáp lại tiếng dân kêu than, khóc lóc (c. 19).
Ngài dạy dỗ và chỉ đường cho người lưỡng lự phân vân (c. 21).
Nhưng hơn nữa, Ngài còn để ý đến đời sống vật chất của dân chúng.
Ngài làm cho mưa thuận gió hòa,
cho khe suối róc rách vì có dòng nước chảy.
Nhờ đó hạt giống được gieo trở thành lương thực,
súc vật chăn nuôi được gặm cỏ thỏa thuê,
bò cầy ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối (cc. 23-24).
Con người có đủ bánh ăn và nước uống trong lúc ngặt nghèo.
Qua cuộc sống của mình, Đức Giêsu cũng muốn cho ta thấy
một Thiên Chúa nhân từ bằng xương bằng thịt,
một Thiên Chúa bị thu hút bởi con người, mê say phục vụ con người.
Không rõ trong sứ vụ công khai, trong gần ba năm rong ruổi,
Đức Giêsu đã đi bộ bao nhiêu cây số của xứ Paléttin,
đôi chân dẻo dai của Ngài đã đến với bao nhiêu làng mạc, thành phố.
đôi tay của Ngài đã chạm đến bao nhiêu thương tích của nhân gian.
Chỉ biết trái tim của Ngài là trái tim bằng thịt,
cứ nhói đau và chạnh thương trước bể khổ của phận người.
Bệnh tật thân xác là gánh nặng kéo con người xuống.
Đức Giêsu đã trở nên như vị lương y đối diện với đủ thứ bệnh tật.
Mù lòa, câm điếc, bất toại, phong hủi đều được Ngài chữa lành,
thậm chí Ngài còn hoàn sinh kẻ chết.
Ma quỷ cũng là một mãnh lực làm con người mất tự do.
Khử trừ ma quỷ và thần ô uế, là dấu cho thấy Nước Trời đã đến.
Mọi sự Đức Giêsu đã làm thì Ngài sai các môn đệ tiếp tục (cc. 6-8).
Hôm nay chúng ta cũng được sai để tiếp tục việc của Ngài ngày xưa:
loan báo Tin Mừng Nước Trời, chữa lành thế giới khỏi mọi bệnh tật,
giải phóng con người khỏi những xích xiềng mới do chính họ tạo nên,
và loại trừ thần ô uế ra khỏi mọi nơi con người sinh sống.
Công việc này thật bao la,
vì không giới hạn trong mảnh đất Paléttin nhỏ hẹp.
Công việc này không dễ,
vì ta phải đối diện với sức đề kháng mạnh mẽ của ác thần.
Nhưng với quyền năng Chúa ban, chúng ta tin mình sẽ thắng (c. 1).
Lễ Giáng Sinh là lễ mừng ơn cứu độ cho con người.
Chúng ta được mời nhìn thế giới hôm nay bằng cái nhìn của Giêsu,
yêu thế giới bơ vơ hôm nay bằng trái tim của Giêsu,
đến với thế giới xa xôi hôm nay bằng đôi chân của Giêsu.
Ước gì tay chúng ta chạm đến người nghèo, người yếu đau, sa ngã.
Và ước gì chúng ta cho không những gì đã nhận được nhưng không.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống ;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Sứ Mệnh Tông Ðồ
Chú ý đến những thái độ trên của Chúa Giêsu, chúng ta có thể khám phá ra những sự thật hữu ích cho cuộc đời theo Chúa của mỗi người, nhất là của những ai dấn bước theo Chúa, cách đặc biệt hơn là những kẻ "Tận Hiến" cuộc đời làm chứng cho Chúa. Dung mạo tinh thần xung quanh và trước mặt Chúa Giêsu thời Ngài cũng như của thời đại chúng ta hôm nay được Chúa mô tả như lầm than, vất vả, bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt, bị lạc mất lý tưởng sống, đang tự tranh đấu để sống còn.
Trong đoạn này những điểm tiêu cực nhiều hơn là tích cực, như bơ vơ, lạc lõng, đã bỏ mất hay không biết gì đến giá trị nhân bản Kitô. Ðó là đoàn người của một xã hội bị trần tục hóa trầm trọng của ngày hôm nay. Diễn phác môi trường như thế, Chúa Giêsu không có chút trách móc, khinh thị, tránh né mà nhìn đó như một lời mời gọi dấn thân yêu thương, đó là mùa lúa chín một cơ hội ngàn vàng để biểu lộ tình yêu thương đối với anh chị em.
Sự nhỏ mọn tầm thường nơi tâm hồn có thể làm cho chúng ta có một thái độ tranh chấp, khinh thị, rút lui, nhưng đó không phải là thái độ của chính Chúa Giêsu khi Ngài nhìn thấy đoàn người khủng hoảng tinh thần như đoàn chiên không người chăn dắt, vả lại Chúa Giêsu đã yêu thương họ. Ðây không phải là một sự chạnh lòng thương, không phải là một tâm tình thương hại, tôi nghiệp chóng qua nhưng là một tình thương sâu thẳm từ đáy tâm hồn của Chúa Giêsu.
Qua đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy tâm hồn Chúa Giêsu tràn đầy tình thương khi nhìn thấy nhu cầu dân chúng đang bị lạc hướng như đàn chiên không người chăn dắt. Tâm hồn Ngài xúc động tận trong thâm tâm, vì Ngài tràn đầy tình thương đối với họ, Ðó là bí quyết của đời sống Tông đồ của mọi đồ đệ theo Chúa. Ðược Chúa mời gọi làm chứng nhân của tình thương cho tình thương thì những sự dữ, những tiêu cực của môi trường chúng ta sinh sống ngày nay là những cơ hội ngàn vàng để chúng ta sống tình thương mà Chúa đã ban tặng cho các đồ đệ của Ngài.
Tư tưởng thứ hai mà bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta là những hành động của Chúa Giêsu: Chúa gọi các Tông đồ, ban cho họ quyền hành như Chúa, trừ các tà thần, giải phóng con người khỏi làm nô lệ cho sự dữ, cho ma quỉ, chữa lành các bệnh tật, thăng tiến cuộc sống con người. Chúa sai các Tông đồ đi rao giảng bằng các chỉ thị, mặc dù đây mới chỉ là sai các ngài đi thử nghiệm lúc ban đầu. Cuộc sai đi chính thức sau này sẽ được thực hiện khi Chúa đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc của Ngài sau biến cố Phục Sinh.
Những hành động của Chúa phát đi từ tình thương của Ngài đối với con người. Nhìn công việc của người khác chúng ta có thể nói trọn vẹn sứ mạng của Giáo Hội, mọi thành phần của Giáo Hội, mọi thành phần đích thực của Chúa đều phát sinh từ tình yêu Thần Linh hiện diện nơi con tim phàm trần. Người đồ đệ của Chúa cần phải được thanh luyện, cần phải được biến đổi, được thay thế quả tim xác thịt bằng một quả tim mới tràn đầy tình yêu thương thần thiêng. Toàn thể cơ cấu Giáo Hội trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng được xây dựng trên nền tảng tình yêu thương thần thiêng này. Chính nơi đây, chúng ta được hiểu thêm hay hiểu lại câu nói của thánh Phaolô Tông đồ viết về bí quyết đời sống Tông đồ của ngài: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".
Chúa Giêsu thấy đám đông liền chạnh lòng thương. Tâm hồn Ngài tràn ngập tình thương, Ngài xúc động tận thâm tâm trước nhu cầu của dân chúng đang bị lạc hướng như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài lên tiếng mời gọi các Tông đồ, những con người tầm thường hãy theo Ngài, hãy để Ngài biến đổi thành những chứng nhân tình yêu. Thái độ đáp trả duy nhất của mỗi người chúng ta là để cho tình yêu thần thiêng Chúa biến đổi và thôi thúc chúng ta hành động: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".
Trong khiêm tốn và trong thinh lặng của Ðức Tin, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, hãy bắt chước cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần gian này: "Thầy đến để mang lửa yêu thương đến trần gian và Thầy không có mong ước nào khác hơn là cho lửa ấy cháy lên, tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng cho con người". Hãy khiêm tốn lắng nghe và hãy để cho tình yêu Chúa biến đổi và thôi thúc.
Lạy Chúa, xin đổ tràn tình yêu Chúa trên chúng con và biến đổi chúng con thành những chứng nhân cho tình yêu Chúa, chứng nhân kiên trung trong Ðức Tin sống động qua đức Bác Ái. Amen.
Suy Niệm 3: Nhà truyền giáo đích thực
Vào thời Trung cổ, một số tín hữu giàu có muốn sống theo tinh thần của thánh Benado đã từ bỏ mọi tiện nghi và ngay cả ngôi thánh đường ấm cúng của họ để đến cư ngụ trên một đỉnh núi cao. Mục đích của họ là để cảm thông với những khách bộ hành lạc lối giữa núi rừng, nhất là vào mùa đông tuyết rơi. Những tín hữu này quyết định ngày đêm túc trực ở đó để kịp thời cứu vớt những ai kêu cứu. Để làm việc đó, họ đã huấn luyện một đàn chó đi tìm người lạc lối, đưa về nhà Dòng để được tận tình săn sóc.
Sự cảm thông không chỉ là một cảm xúc trong tâm hồn, mà còn là đến gần để lắng nghe, chia sẻ, trao ban. Thiên Chúa là Đấng cảm thông đích thực: Ngài không thể hiện sự cảm thông duy chỉ bằng cái nhìn từ trời cao, nhưng Ngài đã hoá thân làm người, chia sẻ hoàn toàn kiếp sống khốn cùng của con người. Tin mừng hôm nay nói lên sự cảm thông của Thiên Chúa bằng câu: “Ngài động lòng xót thương họ”. Chúa Giêsu quả thực chính là Trái tim của Thiên Chúa, một Trái tim không những rung động trước nỗi khốn khổ của con người, mà còn đến ở bên con người.
Chúa Giêsu xuất hiện như một tôn sư. Nhưng trong khi các bậc thầy khác qui tự một số môn sinh trong một ngôi trường hoặc chỉ giảng dạy tại cổng thành, thì Chúa Giêsu đã ra đi khắp nơi, chiêu mộ môn sinh để họ cùng đi với Ngài tìm đến những người bị bỏ rơi nhất trong xã hội.
Qua cung cách thể hiện sự cảm thông ấy, Chúa Giêsu phác hoạ ra mẫu người truyền giáo đích thực: ra đi và tìm đến với người khác. Ra đi dĩ nhiên không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này đến nơi khác, mà thiết yếu là thái độ ra khỏi chính mình, ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với tha nhân.
Chúa Giêsu đã đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ. Ngài đã phục vụ bằng một tình yêu vừa bao la, vừa cụ thể, đến với từng con người trong từng nỗi đau của họ để băng bó, xoa dịu.
Ước gì sự đồng hành cảm thông của Chúa Giêsu cũng hiện thực hoá trong cuộc sống mỗi Kitô hữu, để mọi người chung quanh nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với họ.
Suy Niệm 4: Chứng nhân của niềm vui (Mt. 9,35 - 10,8)
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa các bệnh hoạn tật nguyền (Mt.10,1)
Không ai không biết câu châm ngôn này: “Một ông thánh buồn là điều đáng buồn”. Lời Chúa trong tất cả các trang Tin mừng mời gọi chúng ta sống vui mừng sâu thẳm và trở nên nhân chứng Tin mừng của Đức Giêsu.
Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ một sứ điệp không hề có một chút bất hạnh nào. Người làm cho họ nên những người ban phát sự sống và mời gọi họ đi loan báo Tin mừng nước trời, kèm theo những dấu chỉ: Những dấu chỉ vui mừng chiến thắng buồn sầu, sự sống chiến thắng sự chết, hạnh phúc của Thiên Chúa chiến thắng tội lỗi: “Các con hãy đi chữa lành các bệnh nhân, phục sinh những kẻ chết, thanh tẩy những kẻ phong cùi”.
Niềm vui người tông đồ của Đức Kitô còn hơn cảm tính vui mừng tâm lý con người. Niềm vui đó bắt nguồn sâu xa trong sự gặp gỡ sống động với tình yêu Thiên Chúa. Ai cảm thấy được yêu mãnh liệt bởi Đức Chúa Cha và được sống đổi mới bởi Chúa Thánh Thần thì không thể bị lôi cuốn lâu trong buồn sầu. Dù có bị chôn vùi trong những hố sâu nguy khó, họ sẽ nhận ra Đấng đầy quyền năng phá tan đen tối (Is. 30, 20 và 26). Môn đệ quyết tâm nhận lãnh sứ mệnh đưa Tin mừng tình yêu vô hạn cho những kẻ đang tìm ngụp lặn trong những thú vui tạm bợ giữa lòng thế giới chồng chất buồn sầu lai láng. Mỗi cá nhân và tập thể chúng ta phải biết gieo những mầm sống và hy vọng của Tin mừng. Cùng nhau và chính mình chúng ta phải tìm mọi cách xua đuổi những thế lực sự dữ còn đang hiện diện trong thế giới chúng ta. Tìm mọi cách trao ban hương vị tự do cho những ai đã quàng vào cổ mình ách nô lệ, tìm mọi cách rao giảng Đức Giêsu Kitô cho kẻ không nhận biết Người là Chúa sự sống của họ, là Chúa các ngày lễ. Nếu chúng ta quyết tâm hợp tác vào công cuộc cứu độ thế giới, thì chúng ta phải là những sứ giả mang Tin mừng có sức biến đổi bộ mặt trái đất này.
Chúng ta có ý thức rõ như thế không?
C.G
Suy Niệm 5: MỤC TỬ ĐÍCH THỰC (Mt 9, 35; 10, 1.6-8 )
Lời mời gọi truyền giáo là đề tài xuyên suốt của Đức Giêsu trong hành trình sứ vụ của Ngài. Từng lời nói, hành động đều làm toát lên đặc tính này.
Hôm nay, một lần nữa Đức Giêsu quan sát và thấy dân chúng lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt và Ngài đã chạnh lòng thương đám đông này.
Thực ra thì dân chúng có người lãnh đạo, nhưng điều thua thiệt cho họ là họ lại bị sống dưới sự thống lãnh của những kẻ độc tài, kiêu ngạo, hình thức, dối trá là những Luật Sĩ và Pharisiêu. Vì thế, họ bị những người này dẫn đi sai đường trật lối, bởi vì người đang dẫn dắt họ chính là những mục tử dởm.
Chính vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã sống hoàn toàn khác với những người lãnh đạo thời bấy giờ, để làm hiện lên dung mạo một vị Mục Tử nhân lành, biết từng con chiên của mình, để con nào ốm đau, Ngài chữa trị; con nào gãy chân, què tay, Ngài băng bó; con nào đi lạc, Ngài đi tìm..., nói chung, Ngài đã “ngửi thấy mùi của từng con chiên” để yêu thương chúng xứng với nhân phẩn của từng con.
Hôm nay, Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu một lần nữa thi hành sứ vụ Mục Tử của mình khi “chạnh lòng thương” để chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và giải thoát họ khỏi những sự kiềm chế của tội lỗi.
Kế đó, Đức Giêsu đã mời gọi các môn đệ ra đi thi hành cùng một sứ vụ như Ngài và đồng thời trao ban cho các ông những quyền năng cần thiết để hỗ trợ việc rao giảng như khả năng chữa bệnh, trừ quỷ, khuất phục thiên nhiên.... Tuy nhiên, vì Ngài biết rõ sự nguy hại của kẻ kiêu ngạo, nên không quên nhắc các ông: “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có thái độ như Đức Giêsu là phải có tình yêu thương, trách nhiệm và hết lòng phục vụ con người cách vô vị lợi, không tìm lợi lộc, danh vọng thấp hèn cho mình, nhưng tất cả để cho danh Cha được cả sáng và Nước Cha mau ngự trị.
Có thế, Mùa Vọng mới thực sự là Mùa của tình thương, sự tha thứ, bao dung. Được như thế, chúng ta sẽ có những món quà trân quý để dâng lên cho Chúa Hài Đồng trong dịp lễ Giáng Sinh sắp tới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên người môn đệ đích thực nhờ học và noi theo gương Chúa đã làm. Xin cho anh chị em giới trẻ biết mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa để ra đi và làm môn đệ cho Chúa. Amen.
Ngọc Biển, SSP.
06/12 Chữa lành 2 người mù
- Viết bởi Ngọc Biển, SSP.
Chữa lành 2 người mù.
Thứ Sáu tuần 1 mùa vọng.
"Tin vào Chúa Giêsu, hai người mù được chữa lành".
LỜI CHÚA: Mt 9, 27-31
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi".
Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: "Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?" Họ thưa: "Lạy Thầy, có". Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: "Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy". Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: "Coi chừng, đừng cho ai biết". Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Mắt họ liền mở ra
Suy niệm:
Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 500 ngàn người bị mù hai mắt,
và 900 ngàn người mù một mắt.
Tỉ lệ người mù như thế là cao so với nhiều nước khác.
Bao cố gắng được đưa ra để giảm số người bị mù,
trong đó có việc mổ cho 350 ngàn người mắc bệnh đục thủy tinh thể.
Người ta hy vọng nhờ đóng góp của các ân nhân,
sẽ có 100 ngàn người nghèo được mổ trong năm 2010.
Hạnh phúc biết bao cho ai lần đầu tiên thấy khuôn mặt người thân,
thấy được màu xanh của lá và phân biệt được sáng với chiều.
Hạnh phúc cho ai lần đầu tiên đi đứng mạnh dạn một mình
mà không cần bàn tay dắt hay cây gậy khua phía trước.
Ở nước Palestin thời xưa cũng có nhiều người mù.
Mù thường bị coi như một hình phạt của Thiên Chúa (Đnl 28, 28-29).
Người mù hẳn là người bị đứng ngoài lề xã hội.
Vào thời y khoa còn kém, người mù phải chịu cảnh tăm tối suốt đời.
Nỗi đau của người mù cũng ảnh hưởng trên cả đất nước.
Chính vì thế khi nói đến thời đại hạnh phúc của Đấng Mêsia,
Isaia nhiều lần nhắc đến chuyện người mù được sáng mắt (Is 35, 5; 42, 7).
Trong bài đọc 1 ta vừa nghe (Is 29, 18), ngôn sứ Isaia viết:
“Mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm, và sẽ được nhìn thấy.”
Được nhìn thấy bằng đôi mắt nghĩa là được mở ra với thế giới bên ngoài.
Tiếp xúc bằng mắt vẫn có cái gì vượt trội hơn tiếp xúc bằng tay hay tai.
Khi chữa lành những người mù và những tật bệnh khác,
Đức Giêsu khai mở thời đại thiên sai (x. Mt 11, 2-6).
Ngài cho thấy Nước Thiên Chúa nay đã đến.
Khi hai anh mù gọi Đức Giêsu là Con vua Đavít (c. 27),
họ nhìn nhận Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai.
Bởi thế họ hy vọng Ngài sẽ cho họ quà tặng của thời thiên sai.
“Xin thương xót chúng tôi” là xin đưa chúng tôi ra khỏi cảnh mù lòa.
Đức Giêsu đã muốn chữa hai anh một cách kín đáo, tại nhà của Phêrô.
Ngài không chữa cho họ ngay lập tức, nhưng lại hỏi họ một câu rất lạ:
“Các anh có tin là tôi có thể làm được điều ấy không?” (c. 28).
Chỉ khi họ tuyên xưng niềm tin vào quyền năng của Ngài,
Đức Giêsu mới mở mắt cho họ bằng một lời và một chạm nhẹ (c. 29).
Niềm vui quá lớn khiến họ không giữ được lặng thinh (c. 31).
Giáng Sinh là lễ của Ánh sáng, Ánh sáng ngay giữa đêm đen.
Ơn của Mùa Vọng là ơn thoát ra khỏi cảnh tăm tối mù lòa.
Mù lòa đâu phải chỉ là chuyện của 37 triệu người mù trên thế giới.
Mù lòa về chính mình, mù lòa vì không thấy những Ladarô trước cửa,
mù lòa về chính những người trong gia đình, trong giáo xứ,
mù lòa vì không thấy Chúa vẫn đang hiện diện gần bên,
những mù lòa ấy cũng nguy hiểm không kém và cần được chữa lành.
Xin Giêsu đụng vào mắt tôi để tôi được sáng,
và để tôi giúp người khác cũng được thấy ánh sáng Giêsu.
Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Lòng Tin Khiến Họ Ðược Chữa Lành
Roberto Newman là một người mù từ lúc mới sinh, và mãi đến năm 50 tuổi, một cuộc giải phẫu mới cho phép ông được thấy ánh sáng đầu tiên trong cuộc đời. Với ánh sáng, toàn thể thế giới như thay đổi hẳn viễn tượng trong tâm trí ông với những điều bấy lâu ông hằng tưởng tượng.
Khi được phỏng vấn, ông đã trả lời tờ báo Chicago như sau: "Ðược nhìn thấy mọi vật quả là một diễm phúc trên đời. Tôi không ngờ rằng một giáo thuyết đã dạy tôi sẽ nhìn thấy mọi vật quanh tôi và đêm về tôi có thể nhìn ngắm các vì sao, những vật thể li ti của dãy ngân hà trên thiên không diệu vời. Bạn sẽ chẳng bao giờ thấy chúng tuyệt vời đến thế nào đối với tôi".
Nhận xét của Roberto thật xác đáng. Những ai đã một lần mất đi ánh sáng trong cuộc đời để rồi đánh giá trị của khả năng nhìn ngắm. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng thuật lại cho chúng ta câu chuyện hai người đang cần ánh sáng và cuộc tìm kiếm của họ.
Thật vậy, ánh nắng chói chang của vùng sa mạc cùng với những cơn lốc thổi cát bụi mịt mù và cách sống không mấy vệ sinh về đôi mắt đã khiến cho bệnh mù dễ dàng phát sinh tại vùng Palestina. Chúng ta cũng phần nào thấy được điều này qua con số bị mắc bệnh thường tìm đến với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, dù có phải đông người mắc chứng bệnh mù lòa thì không phải vì thế mà người mù lại an phận với kiếp mù lòa của họ, nhưng cuộc sống của họ luôn luôn là một thao thức tìm kiếm ánh sáng, gặp được cơ may có thể tìm thấy ánh sáng thì họ chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ hội.
Người mù Thành Giêricô đang ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng vừa nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, anh liền vội vàng lớn tiếng kêu xin: "Lạy Ngài xin cứu chữa tôi". Những người chung quanh cản ngăn thì anh lại càng la to hơn để rồi một khi đã nghe tiếng Chúa gọi, anh ta vứt bỏ tất cả để kịp đến với Ngài.
Hai người mù trong trình thuật Tin Mừng hôm nay tuy không có những cử chỉ như người mù Thành Giêricô, nhưng thái độ bền bỉ của họ cũng nói lên được tâm trạng khát vọng sự sáng. Chúa Giêsu đã gặp họ dọc đường, họ lớn tiếng kêu xin Người nhưng Ngài không chữa họ tại nơi đó, Ngài tiếp tục hành trình. Dù chưa được Chúa đáp lời chữa ngay nhưng họ không thất vọng bỏ cuộc và vẫn tiếp tục theo Ngài. Về đến nhà, họ tiến lại gặp Ngài để một lần nữa xin Ngài chữa lành. Câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra cho hai người mù là để gián tiếp diễn tả một câu hỏi khác: "Các ngươi có tin Ta là Ðấng Cứu Thế không?" Vì theo các tiên tri khi thời Ðấng Cứu Thế đến thì mọi bệnh tật sẽ được chữa lành như: người câm nói được, người điếc được nghe, kẻ què được lành và người mù được thấy... Họ đáp: "Có" và lòng tin đã khiến cho họ được chữa lành. Trước và sau khi được chữa lành, người mù đều lớn tiếng. Lúc trước họ lớn tiếng vì lòng khát khao tìm thấy ánh sáng, và lần sau họ cũng lớn tiếng với nỗi vui mừng đã được thấy ánh sáng. Khi tìm được nỗi vui mừng thì dù Chúa Giêsu có ngăn cấm, họ vẫn cao rao danh Ngài.
Thế giới hôm nay cũng đang có những luồng ánh sáng và cơn lốc tối mù lý trí và lương tâm con người, bệnh mù này còn nguy hiểm hơn bệnh mù thể xác. Vì lắm lúc con người đang mù mà vẫn cứ tưởng là mình sáng, hoặc có quá nhiều người mù nên con người lại lấy số đông để khỏa lấp cơn bệnh. Phần nào như tâm trạng của Tú Xương: "Thiên hạ có khi đang ngủ cả, viêc gì mà thức một mình ta".
Ðể chữa trị bệnh mù này cũng không dễ dàng gì, nó đòi hỏi con người phải có một thái độ bền bỉ và vững tin vào Chúa Giêsu như hai người mù ở trên. Bước theo Ngài nhưng nhiều lúc như bị Ngài bỏ quên không nhìn tới. Tha thiết tìm đến Ngài thế mà chẳng được đoái hoài. Thất vọng để rồi buông xuôi bỏ cuộc thì con người sẽ mãi mãi ở trong bóng tối, nhưng vững bước theo Ngài để rồi tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô thì con người sẽ tìm thấy ánh sáng, sẽ được nhìn ngắm những điều tuyệt vời mà trước đấy họ chưa từng thấy và cũng chẳng ai có ngoài một mình Thiên Chúa.
Ước mong rằng trong Mùa Vọng này, mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị sự sáng Chúa đã đem đến cho trần gian, cũng như biết rõ tình trạng mù lòa của mình để rồi chúng ta sẽ tìm đến với Ngài, bất chấp mọi khó khăn trở ngại và nhờ vào lòng tin, chúng ta sẽ được chữa lành.
Suy Niệm 3: Người mù được sáng
Không riêng gì thế giới siêu hình, ngay cả thế giới hữu hình của chúng ta cũng đầy dẫy những huyền nhiệm, hay đúng hơn nhưng thực tại mà con người vẫn chưa hiểu được bản chất. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến ánh sáng.
Có lẽ ánh sáng vẫn tiếp tục là một huyền nhiệm mà khoa học chưa đưa ra một giải thích thoả đáng hoàn toàn: người thì cho rằng ánh sáng được cấu tạo bằng những tinh thể cực nhỏ, kẻ lại cho rằng ánh sáng được cấu tạo bằng những âm ba…
Tính cách huyền nhiệm của ánh sáng và của biết bao thực tại khác trong thế giới là một mời gọi để con người không ngừng vươn lên chiều kích siêu việt của cuộc sống.
Con người không thể tự mình tìm ra được giải đáp cho mọi vấn đề của cuộc sống. Chỉ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể đem lại cho con người chân lý về cuộc sống, về con người, về chính Ngài. Chỉ Thiên Chúa mới có thể vén mở cho con người biết được chân lý và sự vén mở ấy được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô.
Nói như thánh Gioan: Chúa Giêsu chính là Ánh sáng thế gian, ai đi theo Ngài sẽ được ánh sáng ban sự sống. Tin mừng hôm nay khi thuật lại việc Chúa chữa hai người mù cũng muốn nêu bật chân lý ấy. Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Chỉ trong Ngài, chúng ta mới thực sự là người được sáng mắt; chỉ trong Ngài, chúng ta mới biết được chúng ta là ai? Sẽ đi về đâu? Và đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Nhưng dĩ nhiên, để có thể tiếp nhận ánh sáng của Chúa Kitô, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải ý thức được sự mù loà của mình và quyết tâm ra khỏi sự mù loà ấy.
Mù quáng vẫn là cơm cám dỗ khủng khiếp nhất của con người. Mù quáng chính là không còn nhận thức và chấp nhận sự mù loà của mình. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu đã lên án thái độ mù quáng của Biệt phái, họ cuộn mình trong nấm mồ tăm tối của những thành kiến và mớ kiến thức hạn hẹp của con người để khước từ ánh sáng của Thiên Chúa.
Với tâm tình của hai người mù hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chữa trị tật mù loà của thiển cận, tham lam, ích kỷ, tự phụ để chúng ta được bước đi trong ánh sáng của Chúa.
Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta tin rằng mọi biến cố cuộc sống đều có ý nghĩa. Trong ánh sáng của Ngài, thất bại, khổ đau sẽ là khởi đầu của nguồn ơn dồi dào hơn. Trong ánh sáng của Ngài, tha nhân dù có thấp hèn đến đâu cũng đều phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa.
Suy Niệm 4: Chiến thắng thuộc về chúng ta (Mt. 9, 27-31)
Khi Đức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa Ngài, chúng tôi tin.” Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: “ Các anh tin thế nào thì được như vậy.” (Mt. 9, 28-29)
Nhiều khi chúng ta chán nản trước một vài thất bại, một vài khó khăn cản trở đời sống riêng tư cũng như chung của xã hội. Chúng ta phiền muộn phải chứng kiến những thế lực tăm tối vẫn hoành hành tàn phá; kẻ mạnh bóc lột kẻ yếu, bạo lực công khai hay che đậy, những kẻ ích kỷ lợi dụng, những kẻ cường quyền kiêu ngạo. Một vài lúc chúng ta có khuynh hướng tiêu cực, thụt lùi trước những sức nặng ngăn chặn bước tiến của chúng ta.
Hôm nay một lời đầy hy vọng vang tới tai chúng ta, thúc giục ta can đảm lên, đừng để nỗi chán nản đè bẹp chúng ta: “Nước Thiên Chúa là đây. Ngài ở với chúng ta, Ngài là hoàng tử ánh sáng đến đánh tan bóng tối”. Vâng, những kẻ mù tin Ngài và đang reo vui nhảy múa vì Ngài đã mở mắt cho họ được sáng. Chúng ta chắc chắn chiến thắng sau cùng vì Thánh Thần của Đấng Phục sinh đang sống giữa lòng thế giới: “Kẻ bạo chúa sẽ không còn nữa, và kẻ hỗn xược sẽ mất dạng”.
Nhưng niềm cậy trông này xây nhà trong thế giới hư ảo cho ta trú ẩn. Những xung đột vẫn còn đó, những cuộc chiến vẫn tiếp nối. Môn đệ không hơn Thầy. Thầy đã hy sinh mạng sống, trò cũng phải vác thập giá mình để tham gia xây dựng nước trời lớn lên. Nếu sống biết cậy trông, thì phải lo cố gắng, tin rằng mỗi bước đi trong tình yêu chân thật là đạt tới nước trời đời đời. Môn đệ không được miễn trừ khỏi chiến đấu, nhưng với đức tin, họ sẽ có một cái nhìn sâu sắc rằng những cuộc chiến của họ không vô ích vì chúng đưa họ tới giờ chiến thắng cuối cùng.
Nếu đôi khi chúng ta có cảm tưởng kéo lê đời mình trong tầm thường, nếu chúng ta thất vọng về những mù quáng của thế giới, thì tại sao chúng ta không nghiền ngẫm, nuôi dưỡng thái độ cậy trông của những anh mù trong Tin mừng hôm nay và kêu lên rằng: “Lạy con vua Đa-vít, xin thương xót chúng con”.
Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta không được phép thất vọng vì Người đến với chúng ta trong quyền năng mạnh mẽ của lòng thương xót và trong tình yêu chiến thắng tất cả mọi tử thần.
C.G
Suy Niệm 5: MÙ THÌ SÁNG – SÁNG LẠI MÙ (Mt 9, 27-31)
Người ta thường nói: “Tình yêu là thứ ngôn ngữ mà người mù có thể thấy, người điếc có thể nghe!”.
Điều đó đã thật đúng với hai người mù hôm nay trong bài Tin Mừng. Quả thật, hai người mù này, họ đã nhận ra Đức Giêsu và họ đã đặt niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Còn những kẻ sáng mắt như Pharisiêu và Luật Sĩ..., thì lại không nhận ra con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Họ có mắt mà như mù, còn kẻ mù thì lại sáng! Tại sao vậy? Thưa, vì Đức Giêsu đã phát ra tín hiệu tình yêu, và chỉ những ai khao khát cũng như muốn đón nhận tình thương đó của Ngài thì mới nhận ra mà thôi. Còn những kẻ bảo thủ, cố chấp và tự phụ thì muôn đời vẫn trơ như đá, và lẽ đương nhiên không thể nhận ra Đức Giêsu vì không nằm trong quỹ đạo cũng như không bắt được tần sóng yêu thương của Ngài.
Lời kêu xin của những người mù: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi”, nói lên niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Bởi vì Đức Giêsu thuộc dòng dõi Vua Đavít, Đấng đến để giải thoát và cứu chữa con người, đã được các ngôn sứ tiên báo trước đó, và hôm nay họ nhận ra chính Ngài chứ không phải một Giêsu nào đó cùng tên.
Vì thế, khi được hỏi: “Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?”. Họ đã nhanh chóng đáp lại: “Thưa Ngài, chúng tôi tin”. Cuối cùng, niềm tin đã làm cho họ sáng mắt do tình thương của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mặc khải cho chúng ta biết về sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu, Ngài đến để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người đau khổ.
Ngang qua đó, Đức Giêsu muốn mời gọi mỗi chúng ta cần có tấm lòng yêu thương như Ngài. Có khi chúng ta không có cái gì về vật chất để chia sẻ cho người nghèo, nhưng chúng ta có tình yêu ngang qua cử chỉ, ánh mắt, nụ cười….
Hình ảnh của những người mù vui mừng hân hoan vì được Đức Giêsu chữa cho sáng mắt cũng là điểm gợi ý cho chúng ta rằng:
Cần năng đến với Chúa để được Ngài mở con mắt đức tin cho mình. Khi con mắt đức tin được sáng, hẳn chúng ta sẽ được hạnh phúc vì nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đời và sống với nhau như anh chị em trong đại gia đình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con không bị mù về mặt thể xác, nhưng có khi tâm hồn chúng con lại mù vì không nhận ra tình thương của Chúa và nhận thấy sự khó khăn của anh chị em. Xin Chúa cho mỗi chúng con được sáng con mắt đức tin, để chúng con nhận ra Chúa và sống liên đới với anh chị em của mình. Amen.
Ngọc Biển, SSP.
05/12 Người Khôn Ngoan thực sự
- Viết bởi Ngọc Biển, SSP.
Người Khôn Ngoan thực sự.
Thứ Năm tuần 1 mùa vọng.
"Ai thực hiện ý Chúa Cha, sẽ được vào nước trời".
LỜI CHÚA: Mt 7, 21. 24-27
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Ta, 'Lạy Chúa, lạy Chúa!', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời.
"Vậy ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá.
Và hễ ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Xây trên nền đá
Suy Niệm
Sau khi một cơn bão đi qua thành phố,
người ta ngạc nhiên khi thấy những căn nhà sụp đổ
lại là những công trình mới xây chưa được bao lâu.
Còn những công trình xưa lại hiên ngang đứng vững.
Cũng có khi sau một cơn dông,
một cây còn xanh bỗng nhiên ngã đổ.
Người ta lại gần và thấy ruột của cây đã bị mục từ lâu.
Dông bão làm lộ ra sự thật, vén mở chân tướng,
vì khi biển lặng, ai cũng có thể là hoa tiêu.
Đời con người tránh sao khỏi những dông tố.
Ai cũng mong xây căn nhà đời mình cho kiên cố vững vàng,
đứng được trước bão táp phong ba.
Nhà càng cao, nền càng phải chắc chắn.
Xây trên cát hay trên đá cho thấy ai dại, ai khôn.
Thầy Giêsu dạy các môn đệ biết thế nào là xây đời mình trên đá.
Đó là đem ra thực hành những lời Thầy dạy
mà họ đang nghe trong Bài Giảng trên núi (Mt 5-7).
Sống lời Thầy dạy là chọn đi vào con đường hẹp, ít người đi,
với những thách đố và thiệt thòi, những hiểm nguy và nhục nhã.
Chỉ ai dám sống như thế mới đứng vững khi dông bão bất ngờ ập tới.
Lúc ấy người bị coi là ngu vì sống lời Thầy, mới lộ ra là người khôn.
Vì lời của Thầy Giêsu diễn tả ý muốn của Cha trên trời,
nên thi hành lời Thầy cũng là thi hành ý muốn của Cha.
Đây là điều kiện cần thiết để được vào Nước Trời,
vì tuyên xưng trên môi Thầy Giêsu là Chúa, vẫn chưa đủ (c. 21).
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa ngóng đợi Nước Chúa đến.
Đây là thời gian thuận tiện để suy nghĩ về cái nền của căn nhà mình,
cái nền của những công trình ta đang đầu tư xây dựng.
Có khi chúng ta thấy nó sao quá mong manh.
Chúng ta không đợi đến lúc dông bão mới gia cố nền móng.
Căn nhà của giáo xứ, giáo phận hay Giáo Hội cũng vậy.
Xây nhà cao tầng mà nền không chắc thì nhà dễ nghiêng.
Đối với ngôn sứ Isaia,
“Chính Đức Chúa là Đá Tảng bền vững ngàn năm” (Is 26, 4).
Tin vào Ngài, ta sẽ được bảo vệ chở che và thêm mạnh sức.
Ngoài Đức Chúa, chẳng có gì vĩnh hằng.
Cuộc sống hôm nay có vẻ ổn định hơn xưa.
Thật ra số phận con người hôm nay bấp bênh hơn nhiều.
Chỉ một sai sót nhỏ cũng kéo theo một cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Chỉ một tranh chấp nhỏ cũng có thể làm bùng lên một cuộc chiến.
Hãy xây tương lai của xã hội và Giáo Hội trên Đá Tảng.
Hãy xây những dự tính của đời mình trên nền đá.
Nhờ đó những công trình của chúng ta trở thành vĩnh cửu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Người Khôn Ngoan Thi Hành Ý Chúa
Ở bất cứ một xã hội nào, một quốc gia nào, một thời đại nào, người ta vẫn trọng chữ "Tín", nghĩa là tin tưởng nhau, đặt trọn niềm tin ở nhau. Ai cũng muốn sống chân thật, không lừa dối, phỉnh phờ... Khi tìm bạn để kết nghĩa, ai cũng muốn sống với nhau bằng trái tim chân thành. Không lạ gì khi người ta có quan niệm: "Một túp lều tranh, hai quả tim vàng". Người ta sợ nhất những người ăn nói dẻo miệng, ăn nói ngọt ngào, vì ai cũng cho là "mật ngọt chết ruồi". Những người có khoa ăn nói dễ thành công khi ngoại giao tiếp xúc với bên ngoài nhưng không mấy ai kết thân trong tình nghĩa.
Và hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một nhận xét: "Không phải những ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời nhưng chỉ có những người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời". Chúa Giêsu cũng thường lên án những người Do Thái bấy giờ: "Dân này thờ Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta".
Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật để thờ phượng Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta đã không hẳn hoàn toàn nhớ đến Chúa. Chúng ta vẫn để ý những câu chuyện đâu đâu, từ nhà đến phố chợ, từ công sở cho đến những việc giải trí. Chúng ta không tìm hiểu Thánh Lễ là gì đối với những phần chính yếu trong Thánh Lễ mang một ý nghĩa nào. Qua các phần đó, Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta qua Giáo Hội. Chúng ta giữ đạo chứ chúng ta chưa sống đạo: giữ đạo tức là chúng ta giữ các giới răn của Chúa như người thanh niên trong Tin Mừng thuật lại rằng: "Khi anh đến xin cùng Chúa Giêsu nhân lành: Lạy Thầy, con phải làm gì để được sống đời đời. Chúa Giêsu đã bảo anh ta: Hãy thờ phượng Thiên Chúa, hãy thảo kính cha mẹ, chớ ngoại tình, chớ gian tham, chớ làm chứng dối... Người thanh niên đó thưa: Lạy Thầy, những điều ấy tôi đã giữ từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu liền nói với anh: Vậy anh hãy về bán tất cả của cải rồi đến đây theo Ta. Vì nhiều của cải nên anh không thể bỏ mà đi theo Ngài được". Như vậy anh thanh niên đó đã giữ trọn lề luật cho chính bản thân mình mà thôi, còn đối với những người khác, anh vẫn chưa thực hiện được việc yêu người.
Chúng ta cũng thế, chúng ta có thể giữ trọn Mười Ðiều Răn của Chúa, vẫn không trộm cắp, không ngoại tình, vẫn đi nhà thờ theo luật Chúa dạy. Thế nhưng người bên cạnh tôi không có gì ăn tối, tôi đang dư phần cơm nguội nhưng vẫn điềm nhiên như chẳng liên can gì đến tôi. Trên đường đi đến nhà thờ dự thánh lễ là nguồn mạch yêu thương, thế nhưng có người đang bị trúng gió ngã bên đường, liếc mắt qua, nhìn lại không thấy ai tôi cũng nhanh chân bước vội vì sợ trễ thánh lễ. Vào nhà thờ, người vào trước ngồi trên, chúng ta vẫn cứ ngồi cuối nhà thờ mặc cho ai kêu gọi lên trên. Có lẽ chúng ta sợ Chúa phạt nên ngồi xa xa chăng.
Tình yêu Thiên Chúa cơ mà. Chúng ta sống đạo, sống luật Chúa trong tình yêu thương. Thiên Chúa thực sự và gần anh chị em trong tâm tình con một Cha chung trên trời, khi chúng ta cùng nhau đọc lời kinh Lạy Cha, có như thế chúng ta mới thực sự sống đạo, có như thế chúng ta mới xây nhà trên đá được. Dù sóng gió, bão táp của cuộc đời, ngôi nhà sống đạo của chúng ta vẫn vững bền, dù sóng gió có lùa vào thì cũng không thể làm sập nổi, dù có mưa sa nước lũ, căn nhà đức tin của chúng ta cũng không hề hấn gì, vì được bao bọc bằng tình thương quan phòng của Thiên Chúa che chở. Ðó là người khôn ngoan mà Chúa Giêsu đã nói hôm nay: "Ai nghe và giữ lời Ta nói đây mà đem ra thực hành thì giống như người khôn ngoan xây nhà trên đá". Nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, đó là một cần thiết cho mọi Kitô hữu. Và Chúa Giêsu còn quả quyết thêm: "Ai nghe và giữ lời Ta thì là Mẹ Ta, là anh em Ta".
Bàn Tiệc Lời Chúa và Bàn Tiệc Mình Máu Thánh Chúa quan trọng như nhau. Trong Thánh Lễ nhắc nhở cho chúng ta hai phần quan trọng nhất là Bàn Tiệc Lời Chúa, Bàn Tiệc Mình Máu Chúa. Lời Chúa là của ăn bổ dưỡng tinh thần cho chúng ta, Mình Chúa là của ăn thần linh nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta ý thức được điều đó.
Lạy Chúa, xin cho chúng con chuẩn bị mừng Chúa đến trong tâm tình yêu mến và ý thức cảm nghiệm được thức ăn bổ dưỡng tâm linh cho chúng con, đó là thức ăn Lời Chúa và Mình Máu Chúa. Amen.
Suy Niệm 3: Thực thi chân lý
R. Khrisna, nhà thần bí Ấn độ, có kể câu chuyện như sau:
Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sự đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho nhà vua nghe, và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi: “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?” Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời: “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”.
Dĩ nhiên, thái độ của vua làm cho nhà sư buồn không ít. Ngày nào ông cũng miệt mài tra cứu cốt để giúp nhà vua hiểu được lời kinh trong sách thánh của Ấn giáo. Nhưng mỗi ngày ông có cảm tưởng như mình đang làm một công việc dã tràng.
Ngày nọ, giữa lúc đang định tâm, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sự quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua: “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”.
Sự giác ngộ của nhà sư trên đây có thể gợi lên cho chúng ta lời nhắn nhủ của thánh Gioan Tông đồ. Trong thư thứ nhất, ngài lặp đi lặp lại nhiều lần: “Chúng ta phải thực thi chân lý, chúng ta phải sống chân lý. Ai thực thi chân lý sẽ đến với ánh sáng”. Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý.
Giáo huấn của thánh Gioan chính là âm vang của lời Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thực thi ý Cha Ta trên trời, những người ấy mới được vào Nước Trời”.
Chúa Giêsu không bao giờ dạy điều gì mà chính Ngài không sống và thực thi trước. Cả cuộc sống Ngài là một tiếng xin vâng với thánh ý Thiên Chúa, cả cuộc sống Ngài là một thể hiện lời Ngài giảng dạy.
Ước gì lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về sứ mệnh của người Kitô hữu, đó là làm chứng cho Đức Kitô, không những bằng những tuyên xưng hay biểu dương bên ngoài, mà bằng cả cuộc sống của chúng ta.
Suy Niệm 4: Giấc mơ tồn tại vững chắc
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”. (Mt. 7, 21)
Một Lời
Thiên Chúa khác với các thần tượng ở sự tồn tại vững chắc muôn đời của Thiên Chúa, còn các thần tượng khác thì chóng qua, chóng hết. Lời Thiên Chúa thì kiên cố vì Ngài đã thực hiện những việc kỳ diệu. Hành động của Ngài mạnh mẽ vô song đã đánh bại quân thù. Sự trung tín của Ngài được thể hiện mãi mãi. Tình yêu của Ngài tồn tại đến muôn đời.
Tin mừng hôm nay nói cho chúng ta biết sự tồn tại vững chắc của Thiên Chúa như tảng đá cho chúng ta xây nhà. Ngài quả quyết ai xây nhà trên tảng đá này sẽ được hoàn toàn bình an vững chắc. Tảng đá đó chính là Đức Kitô.
Trong Xã Hội Chúng Ta
Xã hội tân tiến của chúng ta luôn luôn phô trương quảng cáo mọi cái đều vững chắc lâu bền. Những công ty quảng cáo đều nhấn mạnh việc thành lập đã nhiều năm. Người ta tuyên bố một công ty bảo hiểm vững chắc như “Hòn đảo Gibraltar” trên Đại tây dương ngoài biển khơi Châu Phi. Trái lại, chính những công ty đó lại sụp đổ khi nền kinh tế bị khủng hoảng. Thế mà chúng ta vẫn bị quảng cáo lừa dối, dù chúng ta biết rõ những loại đó chỉ tồn tại được vài năm như máy giặt, máy sấy, ô tô.
Còn chúng ta, chúng ta tưởng mình đang an toàn khi có việc làm vững chắc bảo đảm, khi mọi liên hệ của chúng ta với bà con thường gần gũi nhau. Chúng ta còn đề phòng cho tương lai mình được vững chắc bằng số tiền dự trữ gửi vào ngân hàng hay cho vào quỹ hưu bổng.
Thế Nào Mới Là Tồn Tại Vững Chắc Thật
Hôm nay Tin Mừng dạy ta biết thế nào là tồn tại vững chắc thật. Nếu người ta chỉ nói, chỉ hô hào, chỉ đọc kinh, chỉ la ó phản đối bất công, chỉ tố cáo giả hình thì người ta đã xây nhà trên cát. Chỉ nói suông không đủ làm nền móng vững chắc cho đời sống. Phải hành động, phải sống thực với lời cầu nguyện, phải sống công bằng và thực thi bác ái. Phải thực hiện như thế mới thực sự xây nhà trên đá.
Vậy hôm nay tôi sẽ làm gì?
C.G
Suy Niệm 5: SỐNG VÀ THI HÀNH (Mt 7, 21. 24 – 27)
Cuộc đời môn đệ là một cuộc đời đi theo Đức Giêsu. Tuy nhiên không chỉ có cái “mác”, mà còn phải có cái “cốt”; cái “chất” của người môn đệ nữa. Người môn sinh hoàn hảo là người để cho Lời Chúa soi dọi, thấm đượm vào từng hành vi, cử chỉ..., đồng thời phải là người trung thành và thi hành theo giáo huấn của Đức Giêsu cách cụ thể chứ không phải trên giấy tờ, sách vở....
Hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến căn tính của người môn đệ và mời gọi phải sống triệt để thì mới được chung hưởng phần phúc Nước Trời với Ngài, đó là: "Không phải tất cả những ai nói với Ta, ‘lạy Chúa, lạy Chúa!’, là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời”. Như vậy, người được tuyển chọn chính là những người dám sống những đòi hỏi của Tin Mừng cách thực tế chứ không phải chỉ trên đầu môi chót lưỡi. Không chỉ hiểu mà còn phải sống và thi hành những gì đã cảm nghiệm.
Điều đó đã được Đức Giêsu vạch ra trong bài giảng trên núi. Thi hành như thế là người khôn ngoan, biết lo cho cuộc sống mai hậu, biết xây đời mình trên đá chứ không phải trên cát.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần tránh lối sống giả hình, đạo đức hão huyền. Không thể sống mãi kiểu đạo đức hình thức bên ngoài. Những chuyện bên lề đó chỉ là khởi điểm để dẫn ta đi đến cốt lõi của đạo. Nếu không sống cốt lõi của nó, thì mãi mãi chúng ta chỉ là kẻ dựa dẫm, lăng xăng mà thôi.
Hãy tránh cho xa những thói giả hình như: phô trương, hình thức; quá lo lắng đến tiếng tăm bề ngoài; hay xét đoán người khác trong sự nông nổi, nhẹ nhạ....
Cần phải thi hành cho được những đức tính tốt như: phục vụ anh chị em cách vô vị lợi; chia sẻ cơm bánh cho người nghèo cách quảng đại; khiêm tốn khi thành công; vững tin khi thất bại và phó thác trong mọi hoàn cảnh; đồng thời, làm mọi việc là vì vinh danh Chúa chứ không phải vinh thân chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa tha thứ cho chúng con vì những lần chúng con hời hợt mà bỏ qua tinh thần của Chúa là thi hành và yêu mến luật Chúa. Xin cho chúng con biết sống thật tình với Chúa và anh chị em trong cuộc đời và nhất là trong Mùa Vọng này. Amen.
Ngọc Biển, SSP.
04/12 Hóa bánh ra nhiều lần 2
- Viết bởi Ngọc Biển, SSP.
Hóa bánh ra nhiều lần 2.
Thứ Tư tuần 1 mùa vọng.
"Chúa Giêsu chữa nhiều người và hoá bánh ra nhiều".
LỜI CHÚA: Mt 15, 29-37
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel.
Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng". Các môn đệ thưa Người: "Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các con có bao nhiêu chiếc bánh?" Họ thưa: "Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ". Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy. Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít. Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ăn no nê
Suy niệm:
Khi mô tả về thời cánh chung, thời thiên sai, thời của Đấng Mêsia,
ngôn sứ Isaia nghĩ đến một bữa tiệc lớn cho muôn dân tộc
do Đức Chúa của Ítraen khoản đãi trên núi thánh.
Không phải chỉ đãi thịt béo, rượu ngon,
Đức Chúa còn lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người,
Khổ đau không còn nữa, chỉ còn tiếng reo vui (Is 25, 6-10).
Nơi Đức Giêsu, lời của ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lên một ngọn núi
thuộc miền Thập Tỉnh của dân ngoại (x. Mc 7, 31).
Dân chúng kéo đến cùng với những người bệnh hoạn tật nguyền.
Trên ngọn núi ấy, Ngài đã đem đến niềm vui cho bao người.
Kẻ câm nói được, người què đi được, người mù sáng mắt.
Đức Giêsu không giảng về một Nước Trời xa xôi.
Ngài cho thấy một Nước Trời gần gũi khi thân xác được lành mạnh.
Kitô giáo không duy tâm, duy linh hay duy vật.
Đức Giêsu quan tâm đến trọn cả con người với xác và hồn.
Chính vì thế Ngài vừa rao giảng, vừa chữa bệnh.
Ngài biết chạnh lòng thương đám đông,
vì họ đã ở lại với Ngài từ ba ngày qua mà không có gì ăn.
Ngài hiểu thế nào là cái đói và hậu quả của nó
nên Ngài không muốn để họ đi về mà bụng lại rỗng không.
“Sợ rằng họ bị xỉu dọc đường” (c. 32).
Đức Giêsu đã nghĩ đến việc cho họ ăn như một nhu cầu cấp thiết.
“Chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no” (c. 33).
Trước vấn đề lương thực cho một đám đông ở nơi hoang vắng,
các môn đệ thấy mình bất lực và bế tắc.
“Bảy cái bánh và ít cá nhỏ”, đó là tất cả những gì họ có.
Để nuôi đám đông, các môn đệ phải cộng tác với Đức Giêsu,
trao cho Ngài tất cả những gì mình có,
để rồi nhận lại tất cả từ Ngài, và đem chia sẻ cho đám đông.
Bữa ăn ở nơi vắng này không phải là một đại tiệc với rượu thịt,
nhưng rõ ràng là rất cần thiết, đem lại no đủ và thậm chí dư thừa.
Thế giới hôm nay có hơn một tỉ người đói, đa số ở Á châu.
Những bữa ăn đầy đủ vẫn là nỗi khát khao ám ảnh nhiều người.
Đói chẳng những làm ngất xỉu hay dẫn đến cái chết,
nhưng còn làm người ta mất nhân cách, sống không ra người.
Bận tâm của Đức Giêsu về cái đói cũng là mối bận tâm của Giáo Hội.
Phép lạ bánh hóa nhiều của Đức Giêsu phải được nhân lên khắp nơi,
để không còn ai phải đói trên thế giới.
Bữa tiệc cánh chung, nơi muôn người từ đông sang tây đến dự,
phải được chuẩn bị từ những bữa ăn cho kẻ nghèo hôm nay.
Sống Mùa Vọng là lưu tâm đến bao người thiếu ăn ở quanh ta.
Và dù chỉ có mấy cái bánh, ta vẫn tin có thể bẻ ra để nuôi được họ.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Hóa Bánh Ra Nhiều
Khi bàn về đoạn Tin Mừng hôm nay, một học giả Kinh Thánh đã viết: "Mỗi một giai đoạn trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu được đánh dấu bằng một bữa ăn khoản đãi dân Ngài". Trước hết là phép lạ bánh hóa ra nhiều cho 5,000 người ăn, được coi như biến cố chấm dứt sứ vụ của Ngài tại Galilêa. Vì từ đây Ngài không còn giảng dạy tại các Hội Ðường cũng như làm những phép lạ, chữa bệnh tật tại đó nữa. Thứ đến là phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi sống 4,000 người, đánh dấu trong một giai đoạn ngắn giảng dạy tại các vùng dân ngoại biên giới Palestina, miền Tirô và Sidon và miền thập tỉnh. Sau cùng là bữa tiệc ly tại Jérusalem, nơi đây đã kết thúc cuộc đời rao giảng của Ngài ở trần gian.
Với cái nhìn phân tích, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi bữa ăn đều nằm trong một bối cảnh khác nhau, thành phần tham dự cũng khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng phát xuất từ một động lực chính, đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Hai lần hóa bánh ra nhiều đều do sự lo lắng của Chúa Giêsu: "Nếu để họ ra về e rằng có những người sẽ bị đói lả dọc đường". Và riêng bữa tiệc cuối cùng, đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phải thực hiện một phép lạ vĩ đại để cho mọi người được đủ sức mạnh mà tiến bước trên con đường lữ hành trần gian. Nếu là một trong 5,000 người của đám dân chúng được Tin Mừng nói đến hôm nay, chắc chắn tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì tâm trạng của đám dân chúng lúc bấy giờ, là bụng đói lả sau ba ngày theo ngài nhưng lại không dám lên tiếng cứ giữ thái độ yên lặng.
Có thể họ im lặng vì chưa đủ lòng tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Thắc mắc của họ phần nào tương tự như thắc mắc của các tông đồ: "Lấy đâu ra bánh trong hoang địa này cho ngần ấy người ăn". Mặc dù các môn đệ đã thấy Ngài chữa lành các bệnh tật như làm cho kẻ điếc được nghe, què được đi, cùi được sạch... Tuy nhiên, có thể họ nghĩ rằng mình không thuộc về những hạng người cần đến Chúa Giêsu, vì thân thể đang khỏe mạnh đâu cần gì đến thầy thuốc. Sự đói mệt chỉ là một nhu cầu thể lý chứ không phải là một căn bệnh làm gì phải bắt Ngài bận tâm. Thế nhưng họ đâu có thể ngờ rằng, tuy không phải là căn bệnh thì chúng có thể làm hại con người hoặc có thể vì chút tự ái cá nhân mà họ đành im lặng mặc cho cơn đói hành hạ. Tại sao không chịu lo xa chuẩn bị chút ít lương thực phòng thân để giờ này lại mở miệng lên tiếng kêu ca.
Nhìn chung thái độ im lặng này xuất phát từ hai nguyên nhân: Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa và quá quy trách vào bản thân.
Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa khiến con người không thấy Ngài đầy quyền năng và đầy lòng thương xót. Ngài thấu hiểu hết mọi người và hằng quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của con người, ngay cả những nhu cầu nhỏ nhặt nhất cũng đều được Ngài đáp ứng. Mặt khác, quá thiên về bản thân cũng khiến cho con người xa cách Thiên Chúa. Con người luôn phải cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Về phần Chúa Giêsu, dù cho đám dân chúng im lặng, Ngài không chấp lẽ thái độ của họ, Ngài luôn quan tâm đến họ, Ngài sợ họ đói lả té xỉu dọc đàng, và Ngài đã cho họ ăn một cách dư giả đến nổi ăn xong còn dư được bảy thúng đầy. Con số này tượng trưng cho cái vô biên không đo lường nổi.
Cuộc lữ hành nào mà chẳng mệt nhoc, không lương thực thì chắc chắn sẽ có kẻ rơi rụng dọc đường. Chúa Giêsu đã thấy trước điều này ngay trong cuộc lữ hành trần gian, vì thế Ngài đã ban Mình Ngài để làm lương thực nuôi dân Ngài. Tuy nhiên, căn bệnh im lặng của đám dân chúng ngày xưa còn là căn bệnh của thế giới hôm nay. Căn bệnh đó xem ra còn trầm trọng hơn, vì bàn tiệc đã bày sẵn nhưng chẳng mấy ai đến hưởng dùng.
Mùa vọng là mùa đợi trông, dân Do Thái ngày xưa trông đợi ngày Chúa đến, ngày mà Chủ các cơ binh sẽ thiết đãi một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị trổi vượt của bàn tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa đã thiết đãi dân Ngài để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng ta sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời, không lo sợ phải mệt lả dọc đường.
Suy Niệm 3: Hoá bánh ra nhiều lần 2
Nạn đói tại Somali và một vài nơi trên thế giới là một ô nhục cho nhân loại ngày nay. Nhưng không riêng gì tại các nước nghèo, ngay trong các nước giàu, người ta cũng nói đến những hình thức nghèo đói và thiếu ăn mới, đó là nghèo đói tình người: con người có thể có một bộ óc phát triển hơn, một thân thể cường tráng hơn, nhưng trái tim thì lại mỗi ngày một nhỏ lại.
Chúa Giêsu đã đến để làm cho con người được giàu có dư dật hơn, nhưng thiết yếu là giàu có dư dật tình người. Ngài đã không mang lại cho con người cây đũa thần kinh tế chính trị để chỉ làm một cử động nhỏ bé là có đủ cơm bánh. Mồ hôi, nước mắt vẫn là định luật của cuộc sống. Chúa Giêsu không muốn xoá bỏ định luật ấy. Phép lạ, hay đúng hơn giải pháp Ngài đem đến chính là tình người: có tình người, con người có thể xoá bỏ được mọi thứ nghèo đói. Đó là sứ điệp mà chúng ta có thể tìm thấy trong bài Tin mừng hôm nay.
Chúa Giêsu xót thương đám đông đi theo Ngài. Ngài xót thương họ không những vì họ đang đói khát cơm bánh thể xác, mà còn vì nỗi đói khát tinh thần của họ. Phép lạ bánh hoá nhiều không phải là một giải pháp tạm thời xoa dịu cơn đói khát, mà là một lời mời gọi, một khơi dậy về một chiều kích vượt trên những nhu cầu thể lý. Bên kia cơm bánh nuôi thể xác, Chúa Giêsu mời gọi con người hướng về một của ăn không hư nát là sự sống thần linh, sự sống làm cho con người biết yêu thương, quảng đại hơn.
Chúa Giêsu đã có thể nói một lời và phép lạ liền diễn ra. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài tra vấn các môn đệ để khơi dậy nơi các ông mối quan tâm, lo lắng đến người khác. Và chính từ những chiếc bánh và nhưng con cá có sẵn, tượng trưng cho sự đóng góp và lòng quảng đại của con người, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hoá nhiều nuôi sống đám đông dân chúng.
Giàu tình người, giàu lòng quảng đại, giàu tình liên đới, đó là sự giàu có đích thực, và với sự giàu có ấy, phép lạ của Chúa Giêsu sẽ không ngừng được tiếp diễn và lúc đó cái đói khát thể xác mới được xoá bỏ và kiếp nghèo mới được hạ giảm.
Suy Niệm 4: Giấc mơ vô tận (Mt. 15, 29-37)
Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến Biển Hồ Galilê. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành. (Mt. 15, 29-30)
Một Lời
Niềm hy vọng không ngừng vọt ra từ những bản văn của ngôn sứ I-sai-a. Hôm nay, niềm hy vọng này làm sống lại ước muốn của chúng ta được vượt qua những giới hạn của sự chết, được sống toàn vẹn, thoát khỏi tang tóc đau thương. Chúng ta thấy trong niềm hy vọng đó lời Chúa ban sự sống xứng đáng dồi dào, xóa sạch mọi khổ nhục. Đó là sự sống vô hạn.
Tin mừng lập lại đề tài này, không phải bằng lời loan báo viển vông, mà bằng dấu chỉ thực hiện niềm hy vọng vô tận này rõ ràng, cụ thể qua việc: “Chúa cầm lấy bảy tấm bánh và mấy con cá, Người tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ phân phát cho dân chúng”.
Một Xã Hội
Chúng ta đang bị một cú sốc. Sau vài thập niên, ai cũng tưởng rằng trái đất là nguồn phong phú vô tận. Nhưng nếu chỉ trong vòng không đầy một tháng thôi, mỏ dầu cạn kiệt, biển khơi chồng chất cặn bã và làm cá chết, những loài vật biến mất, môi trường bị phá hủy, không khí bị ô nhiễm: trái đất sẽ cạn kiệt, thì không còn sản phẩm mới nữa, nguyên liệu hết, đời sống sẽ chẳng còn gì.
Và chúng ta sẽ ra sao?
Thiên Chúa đã hứa ban cho một đời sống phong phú vô tận, nhưng Ngài nhấn mạnh đến phẩm chất của đời sống này, chứ không nói đến đời sống vật chất. Để niềm hy vọng của chúng ta có một giá trị cao quý đích thực về đời sống, chúng ta hãy nghĩ xem và thử đặt vấn đề: “Tôi hy vọng gì? hay đúng hơn: tôi hy vọng vào ai?”. Chúng ta sẽ tìm thấy vô tận ở đâu? Nơi sản phẩm mình có, hay nơi nhân phẩm của mình, nơi cái mình có, hay nơi mình là. Cái mình là, cái phẩm giá mới làm cho đời sống trở thành vô tận. Vậy hãy ném cái thùng của mình vào cái giếng vô tận tuyệt đối, ném cái hữu thể của mình vào hữu thể của Thiên Chúa, ném đời sống mình vào nguồn sống hằng có đời đời của Thiên Chúa.
Sau cùng, để được sống vô biên, cần phải chia sẻ nó. Bánh được hóa ra nhiều để chia sẻ cho đám dân đông đảo, thế mà vẫn còn thu được nhiều thúng đầy. Của cải của chúng ta cần được san sẻ, đời sống của chúng ta cần được bẻ ra phân phát cho nhiều người, nhờ thế, nó được trở nên vô tận.
C.G
Suy Niệm 5: CẦN CÓ MỘT TẤM LÒNG (Mt 15,29-37)
Ngày nay, nhiều người giáo dục con cái về tình thương, nhân ái, liên đới với mọi người bằng cách: khi ra đường, thấy những người ăn xin..., họ thường đưa tiền cho con cái của họ và dặn các cháu lễ phép, kính trọng biếu những người đó. Hay khi bỏ tiền vào rỏ ở nhà thờ hay đền thánh..., họ cũng thường đưa cho các bé bỏ vào. Qua đó, họ muốn con họ sau này sống có tình thương, chia sẻ, liên đới.
Hôm nay, Đức Giêsu đã thực hiện một phép lạ cả thể là chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Ngài không muốn làm một mình, nhưng Ngài muốn các môn đệ chung chia nỗi thao thức với Ngài, vì thế, Ngài đã gọi các ông lại và nói: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng". Đức Giêsu đã khéo khơi gợi lòng bác ái nơi các môn đệ, và như thế, Ngài đã dạy cho các ông bài học quý báu là phải biết lo lắng cho những người đang cần sự giúp đỡ của họ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có lòng thương xót như Đức Giêsu. Cần có một tình thương bao la, không giới hạn giữa bạn và thù. Nếu những người ốm đau, bệnh tật thời Đức Giêsu, họ đã tìm lại được sự bình an, hạnh phúc khi gặp được Ngài, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng phải làm cho khuôn mặt, hành động và tình thương của Đức Giêsu được lan truyền và sống động nơi các hành vi, từ cử chỉ, ánh mắt đến nụ cười của mình được thấm đượm vị mặn Giêsu, để những ai gặp được chúng ta, họ như gặp được nguồn bình an, sự cảm thông, lòng thương xót và được hạnh phúc.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thật ý nghĩa khi nó được đặt vào ngay trong Mùa Vọng, vì Mùa Vọng gợi nhớ và nhắc nhở mỗi chúng ta nhớ lại tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của mình, đồng thời biết loan truyền tình thương ấy cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu, tình yêu và lòng thương xót của Chúa đã làm cho dân chúng an vui, hạnh phúc. Xin Chúa cũng ban cho chúng con được trở nên sứ giả của niềm vui, bình an và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
Ngọc Biển, SSP.
03/12 Rao giảng cho mọi dân tộc
- Viết bởi Mc 16, 15-20
Rao giảng cho mọi dân tộc.
Thứ Ba tuần 1 mùa vọng – THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, LINH MỤC. Bổn mạng các xứ truyền giáo. Lễ kính.
"Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng".
* Thánh Phanxicô chào đời tại Tây Ban Nha năm 1506. Khi đang học văn chương ở Pa-ri, người nhập đoàn với thánh I-nha-xi-ô. Người chịu chức linh mục ở Rôma năm 1537 và chăm lo thực hành việc bác ái. Năm 1541, người lên đường sang phương Đông. Trong mười năm, người can đảm loan báo Tin Mừng cho người Ấn Độ và Nhật Bản, giúp cho nhiều người hoán cải mà đón nhận đức tin. Người qua đời năm 1552 ở đảo Xanxian, cửa ngõ vào Trung Quốc.
LỜI CHÚA: Mc 16, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Nhân danh Đức Kitô mà rao giảng cho mọi dân tộc
Chúa Giêsu phục sinh hiện ra để củng cố đức tin của các môn đệ,
để ban bình an cho họ sau những biến cố buồn đau,
nhưng cũng là để sai các môn đệ lên đường đi sứ vụ.
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).
“Hãy đi và làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ…” (Mt 28, 19-20).
“Phải nhân danh Đức Kitô mà rao giảng cho mọi dân tộc” (Lc 24, 47).
“Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho mọi thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thế hệ các Kitô hữu đầu tiên rất trân trọng mệnh lệnh này.
Bao vị tông đồ đã chịu tử đạo chỉ vì tuân giữ mệnh lệnh ấy.
Ước mơ của Chúa Giêsu phục sinh thật lớn lao.
Ước mơ ấy muốn ôm cả trái đất với muôn dân tộc.
Ngài đã sống, đã chết và đã sống lại, chính là để cứu độ cả loài người.
Ngài đã đem lửa đến trên mặt đất,
và Ngài muốn chúng ta tiếp tục làm cho ngọn lửa ấy bùng lên (Lc 12, 49).
Phanxicô Xaviê đã muốn sống mệnh lệnh này cách đặc biệt.
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (c. 20).
Phanxicô cũng muốn đi khắp nơi để nói về Chúa Giêsu cho ai chưa tin.
Một năm trời lênh đênh trên biển để đi từ Bồ Đào Nha đến Ấn Độ.
Ba mươi sáu tuổi bắt đầu công việc của một nhà truyền giáo ở Goa,
Phanxicô chịu mọi lao nhọc để giảng dạy và rửa tội cho người bản xứ.
Rồi Phanxicô lại lên đường đi Malaixia, Inđônêsia.
và là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên tại Nhật Bản.
Nhưng trái tim Phanxicô vẫn chưa dừng ở đó.
Ngài còn muốn đặt chân đến Bắc Kinh để gặp Hoàng đế Trung Quốc.
Phanxicô chết vì kiệt sức khi đang chờ trên hòn đảo Thượng Xuyên,
mắt vẫn hướng về Quảng Đông chỉ cách đó 14 cây số.
Hôm ấy là ngày 3-12-1552, khi Phanxicô mới bốn mươi sáu tuổi.
Mừng lễ thánh Phanxicô, Bổn mạng các xứ truyền giáo,
chúng ta nhớ Việt Nam vẫn là nơi cần được loan báo Tin Mừng,
và Trung Quốc vẫn là nơi gần như Kitô giáo chưa được biết đến.
Hơn 90% người dân Việt chưa nhận biết Đức Kitô.
Hơn một tỷ người Trung Quốc cần được nghe lời rao giảng.
Có ai còn nhớ đến những mệnh lệnh của Chúa phục sinh không?
Có người nghĩ rằng chẳng cần phải loan báo Tin Mừng nữa,
vì đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành, dạy sống theo lương tâm,
vì các tôn giáo đều có nét hay riêng, đều là những con đường cứu độ,
vì Đức Kitô Giêsu chẳng phải là Đấng Trung Gian duy nhất!
Anh em hãy đi khắp thế giới, hãy làm cho muôn dân thành môn đệ!
Lời ấy của Đức Giêsu phải là lời nhắc nhở Hội Thánh.
Loan báo Tin Mừng hôm nay thuận lợi hơn xưa rất nhiều.
Chúng ta không phải đi thuyền buồm để mà sợ đứng gió.
Chỉ gửi một email, làm một trang web, là nhiều người nghe được Tin Mừng.
Điều chúng ta thiếu lại là chút nhiệt thành nóng bỏng của Phanxicô.
Xin cho tôi hiểu và yêu Ngài hơn, để dám giới thiệu Ngài cho thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái tim Chúa,
ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày,
nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau,
và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ
mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng
của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành
để hết lòng phụng sự Nước Chúa,
lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa
để chúng con đi khắp địa cầu
loan báo về Tình yêu và gieo rắc Tình yêu khắp nơi. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: Giác ngộ
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”... Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...
“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”... Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành...
Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ...
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại... Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.
SUY NIỆM 3: Cuộc đời và tiếng gọi
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: “Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy!”.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu… Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí, mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc Phúc Âm, ta nghe âm vang lời mời gọi: “Hãy theo Thầy!”. Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.
Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy!”.
1. Cuộc đời
Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre, khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi, ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris, ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó, với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô, khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 04.1541, ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau, mới đến được Goa bên Ấn độ.
Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số.
Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó, đến Indonésia.
Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản. Trước khi ra đi, ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người.
Cuối cùng, vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên, ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây, ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh, chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3/12/1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
2. Tiếng gọi.
Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức Giêsu hỏi: “Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?” (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng, dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị: lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng, không có gì, thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết, thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ, mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn, đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.
b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt: Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng, đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534, ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.
Ở Paris, sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì quá uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.
Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh, có sức công phá, không gì có thể cầm lại được. “Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó, cùng với Ignaxiô, thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu “cho vinh danh Chúa hơn”.
Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo.
- “Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi” (Bt 48,1: bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1);
- “Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại” (Bt 20,14);
- “Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình” (Bt 55,10).
- “Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau” (Bt 48,1).
- “Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài” (Bt,16).
- “Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm” (Bt 97,1).
- “Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách được” (Bt 1,7).
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban đầu, nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn, là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó, ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới Goa ngày 6/5/1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết.
Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên kinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu. Tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quảng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3/12/1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dở… Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại, chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân: “Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người” (Bt 78,2).
Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẵn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng, nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.
3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo, cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.
Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi.
Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên.
Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “Hãy theo Thầy” để “ra đi và rao giảng cho muôn dân” (Mt 28,19).
Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta.
Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác.
Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: “Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình” (Bt 90,8.9).
Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc “Chúa đến viếng thăm”, là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.
SUY NIỆM 4: Thánh Phanxicô Xaviê, quan thầy các xứ truyền giáo
(Lm. Đinh Lập Liễm)
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, thuộc giáo phận Pampelune, nước Tây ban nha. Năm 17 tuổi đến Paris theo học tại trường đại học danh tiếng Sorbonne nước Pháp. Tám năm sau Phanxicô tốt nghiệp và được tuyển làm giáo sư triết học tại đại học này. Nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian.
Ngài có một người bạn thân là Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo lời Chúa vào tai Phanxicô: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì nào có ích gì”(Mt 16,26). Được ơn thánh Chúa tác động, Phanxicô đã cùng 7 anh em bạn đến Montmartre thành lập dòng Chúa Giêsu (ngày nay là dòng Tên) do Inhaxiô Loyola đứng đầu, cùng khấn khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ.
Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venetia miền bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tầu từ Lisbonne (Bồ đào nha) đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức thánh Cha Phaolô III.
Suốt 11 năm ngài đã đi giảng đạo tại Ấn độ, Tích lan, qua Nhật và còn dự định vào Trung quốc. Tại Ấn độ ngài rửa tội cho nhiều bậc quân vương. Tại Nhật ngài cũng được Nhật hoàng Bungolu hết sức cảm phục. Ngài đã vượt hàng ngàn cây số đường bộ nhất là đường biển và đã đem lại cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn. Ngoài thánh Phaolô chắc có ít vị thánh nào có hành trình truyền giáo như thánh Phanxicô.
Lòng nhiệt thành cứu các linh hồn còn thôi thúc ngài tới lục địa Trung quốc bao la để truyền giáo, nhưng đang trên cuộc hành trình tới đó, ngài đã qua đời tại đảo Tân châu (Trung quốc) ngày 03/12/1552. Xác ngài được đưa về mai táng tại Goa (Ấn độ). Năm 1622, tức sau 70 năm, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã phong thánh cho ngài cùng với thánh Inhaxiô và được đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Chúa Giêsu đã từng nhắn nhủ các môn đệ: “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và con và Thánh Thần”(x. Mt 16,16). Sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ chia nhau đi khắp nơi để rao giảng Tin mừng. Việc rao giảng Tin mừng ấy còn phải được kế thừa trong Giáo hội. Như vậy, mọi người đều có trách nhiệm phải rao giảng Tin mừng trong hoàn cảnh thực tế của mình.
Thánh Phanxicô đã ý thức về điều đó. Ngài thấy rằng không có gì quí trọng bằng một linh hồn, bởi vì “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì có ích gì” (Mt 16,16). Ngài thấy cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la, nhiều người đang sẵn sàng đón nhận Tin mừng, nhưng tiếc thay, không có người đi rao giảng cho họ. Mối thao thức của ngài được diễn tả trong bức thư ngài gửi về cho thánh Inhaxiô:
“Có rất nhiều người tại những nơi này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ trở nên người có đạo.
Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các đại học bên châu Âu, nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ biết lý thuyết hơn là thực hành rằng: “Khốn thay, có vô số linh hồn vì lỗi của các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục.
Chớ gì những người đó chuyên chú vào việc tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã ủy thác cho họ (Các giờ kinh Phụng vụ, tr 535).
Thượng hội đồng Giám mục Á châu đã cho thấy mối ưu tư của các Giáo hội ở Á châu. Về việc truyền giáo cho các dân tộc Á châu. Nhìn vào bản đồ Á châu, chúng ta thấy đây là một lục địa đông dân cư nhất, nhưng lại là lục địa có con số Công giáo thấp nhất, khoảng 2,6%. Đây là một thách đố lớn cho công việc truyền giáo. Giáo hội Á châu là một Giáo hội bé nhỏ trong một lục địa mênh mông được mời gọi rao giảng về sứ mạng tình yêu và phục vụ của Chúa Giêsu Kitô tại Á châu.
Thánh Phanxicô đã làm gương cho chúng ta về lòng nhiệt thành truyền giáo vì yêu Chúa và các linh hồn, ngài đã hy sinh tất cả bởi vì như ngài nói: “Tất cả đau khổ phiền muộn là nguồn vui sướng cho tôi”. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Ở đâu có tình yêu ở đó không còn khó nhọc nữa. Mà nếu có khó nhọc thì họ lại yêu thích chính sự khó nhọc đó”.
Vì thế, sau khi rửa tội cho một bà già đau nặng, ngài đã kêu lên: “Lạy Chúa, bỏ cha mẹ, quê hương, vượt trùng dương để cứu một linh hồn mà thôi thì con cũng thỏa mãn lắm rồi. Nay có chết con cũng vui lòng”. Điều đó chứng tỏ ngài yêu các linh hồn như thế nào.
Gương truyền giáo của thánh Phanxicô thật tuyệt vời, còn chúng ta thì sao? Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để “đi rao giảng cho muôn dân” (x. Mt 28,19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hằng ngày.
Một cách cụ thể, chúng ta thực hiện việc truyền giáo trước hết bằng lời cầu nguyện và bằng những việc hy sinh hãm mình. Chỉ có Chúa mới làm cho người khác tin Chúa mà thôi. Chứ người phàm không có khả năng làm được điều đó vì Chúa đã phán: “Hãy xin thì sẽ được” (Mt 7,7-8; Lc 11,9-10; Ga 14,13-14).
Thứ đến phải sống một đời sống tốt lành thánh thiện để làm gương sáng cho người khác vì như người ta nói: “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo”. Gương sáng có tính cách thuyết phục và hấp dẫn hơn lời nói như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Người thời này không thích những thầy dạy cho bằng nhân chứng”.
Chúng ta chỉ có thể truyền giáo bằng gương sống của chúng ta qua việc sẵn sàng giúp đỡ mọi người, qua việc thực thi bác ái của Tin mừng mà thôi. Ước gì đời sống mỗi người, mỗi gia đình là tấm gương tốt lành, công bằng, yêu thương minh chứng cụ thể cho đức tin và lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
SUY NIỆM 5: Thánh Phanxicô Xaviê, Linh Mục (1506-1552)
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Thánh Phanxicô Xaviê được mệnh danh là Phaolô thế kỷ XVI. Thánh nhân có tinh thần truyền giáo cao độ. Ngài luôn hướng tới Chúa và yêu mến các linh hồn. Phanxicô đi đi mãi tới các nước Châu Á. Ngài đến với Á Châu, đến với những con người chưa biết Chúa. Ngài luôn mang trong mình Ngài hai tình yêu đã nên một: tình yêu Ðức Giêsu Cứu Thế và tình yêu các linh hồn.
CON NGƯỜI ÐẶC BIỆT
Thánh Phanxicô sinh năm 1506 tại miền Xaviê thuộc địa phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình giầu sang, quyền quí, vị vọng. Thánh nhân có trí thông minh đặc biệt, nên vào năm Ngài lên 19 tuổi, cha mẹ Ngài gửi Ngài qua Paris để tiếp tục công việc đèn sách. Tám năm sau đó, Ngài tốt nghiệp đại học và trở thành giáo sư danh tiếng tại nước Pháp. Thánh nhân lúc đó miệt mài chạy theo danh vọng trần tục. Ngài coi trần gian là tất cả. Ý Chúa nhiệm mầu, cao sâu, huyền bí nào ai hiểu nổi. Một lời của Chúa đã khiến Phanxicô thay đổi tất cả: "Ðược lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?". Chúa đã dùng miệng lưỡi của thánh Ignatiô cũng là thầy dạy Ngài để nói lên điều đó. Chính lời Chúa đã biến đổi cuộc đời của Ngài tận căn. Chúa đã chiếm đoạt con tim của Ngài toàn vẹn. Thánh nhân đã trở thành khí cụ bình an đem Tin Mừng cho người Á Châu. Năm 1539, Ðức Thánh Cha Phaolô III đã sai Ngài đi truyền giáo cho dân tộc Ấn Ðộ.
Thánh Phanxicô đã miệt mài với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ðâu đâu Ngài cũng nghe tiếng thúc bách của các linh hồn: Ấn Ðộ, Macao, Nhật Bản, Trung Hoa cũng nằm trong trí óc và hiện ra trước mắt Ngài. Ngài đi mãi, đi hoài không mệt mỏi, không lo âu, sợ sệt và do dự. Mười một năm ròng rã loan báo Tin Mừng, cuộc đời thánh nhân là một cuộc hành trình dài không ngừng. Ngài lúc nào cũng được thúc bách bằng tấm lòng nồng cháy các linh hồn. Ngài đã đem không biết bao người về với Chúa, với Giáo Hội. Ngài có lòng khiêm nhượng tuyệt đối, Ngài luôn yêu mến và kính trọng bề trên của Ngài là thánh Ignatiô. Chúa đã giúp Ngài bằng nhiều phép lạ phi thường vì lòng nhiệt thành hăng say của Ngài đối với các linh hồn.
CHÚA ÐỘI MŨ TRIỀU THIÊN CHO PHANXICÔ XAVIÊ
Lòng hăng say nhiệt thành của Phanxicô, quên bản thân mình để cho nhiều người được hạnh phúc. Thánh nhân nhìn nước Trung Hoa với tình thương lênh láng, Ngài ước mong đem Tin Mừng và Giáo lý của Chúa Giêsu cho một dân tộc đông dân nhất thế giới. Ước mơ của Ngài chưa thể thực hiện thì ngày 02/12/1552, Ngài qua đời khi trên đường gần tới nước Trung Hoa, tại cửa ngõ bước vào Trung Hoa tại đảo Tân Châu. Xác thánh nhân được đem về an táng tại thành Goa nước Ấn Ðộ. Năm 1622, Ðức thánh cha Grêgoriô XV đã phong Ngài lên bậc hiển thánh và đến năm 1904, Ðức Giáo Hoàng Piô X đã đặt Ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Lạy Thánh Phanxicô Xaviê, xin ban cho mọi người chúng con ơn nhiệt thành, lòng quảng đại và tinh thần truyền giáo, để chúng con đem nhiều người về với Chúa và với Giáo Hội.
SUY NIỆM 6: Thánh PHANXICÔ XAVIÊ, Tông đồ Ấn Độ và Nhật Bản
Bổn mạng các xứ (vùng, miền) truyền giáo (1506 - 1552)
(http://tgpsaigon.net)
Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Favre, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được tuyên thánh trong thời gian gần đây theo thể thức “tuyên thánh tương đương”. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhaxiô thành Loyola.
Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì."
Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".
Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.
Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartres, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn Thánh Kinh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến giây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.
Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venitia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuộc hành hương đi thánh địa. Đức Thánh Cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhaxiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.
Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.
Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh Cha gửi các thừa sai sang Ấn Độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.
Ngài bộc lộ cho một người bạn: "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la: "Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa" không? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa".
Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.
Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo".
Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.
Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp Ấn Độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo Kitô hữu, khiến "xuôi tay vì mệt mỏi". Người nói: "Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai".
Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.
Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc...
Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trước đây sao?
Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại: - "Thì tôi bơi tới vậy".
- Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao?
Ngài nói: - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.
Rồi Ngài thêm: "Ôi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi".
Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhaxiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.
Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.
Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản.
Phanxicô trở lại Ấn Độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.
Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con".
Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.
Năm 1619, Đức Thánh Cha Phaolô V đã tuyên chân phước cho Ngài. Năm 1622, Đức Thánh Cha Grêgôriô XV đã ghi tên Ngài vào sổ bộ các vị hiển thánh. Ngài được tuyên thánh cùng với thánh Inhaxiô. Thánh Phanxicô Xaviê được đặt làm bổn mạng các xứ (vùng, miền) truyền giáo.
SUY NIỆM 7: Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng các xứ truyền giáo
(www.giaophandanang.org//Linh mục Nguyễn Trung Thành)
Thánh Lm Phanxicô Xavie (Francis Xavier), vị Đại Thánh bổn mạng các xứ truyền giáo, trong đó có Việt Nam, được Giáo Hội mừng kính ngày 3-12 hàng năm, và cũng là ngày giỗ của ngài, vì ngài mất ngày 3-12-1552.
Ngài sinh ngày 7-4-1506 tại Xavier, thuộc Vương quốc Navarre (nay là Tây Ban Nha). Tên khai sinh của ngài là Francisco de Jasso y Azpilicueta. Ngài là con út của ông Juan de Jaso, cố vấn riêng của Vua John III (Jean d’Albret, cai trị Navarre) và bà Doña Maria de Azpilcueta y Aznárez. Ngài có bà con với thần học gia và triết gia Martín de Azpilcueta danh tiếng.
Ngài là học trò của Thánh Inhaxiô Loyola (lập Dòng Tên, Society of Jesus= SJ), đồng sáng lập viên của Dòng Tên, là nhà truyền giáo và là một trong bảy tu sĩ đầu tiên của Dòng Tên tại Montmartre năm 1534. Ngài làm trưởng nhóm truyền giáo tại Á châu. Ngài có công truyền bá và duy trì Công Giáo ở Ấn Độ, kể cả Nhật, Borneo, quần đảo Maluku, và những vùng chưa có dấu chân các nhà truyền giáo. Tại những vùng này, ngài tiên phong và cố gắng học tiếng bản xứ, ngài thành công nhất ở Ấn Độ. Thật lòng ngài muốn tới Việt Nam, nhưng Chúa có kế hoạch khác, nên Việt Nam không được đón tiếp ngài.
Năm 1525, ngài học ĐH Sainte-Barbe ở Paris (Pháp). Năm 1530, ngài nhận bằng thạc sĩ văn chương và dạy triết học Aristotes tại ĐH Beauvais, tương lai rộng mở, danh vọng hứa hẹn. Ngài gặp Inhaxiô Loyola và Pierre Favre tại ĐH Sainte-Barbe. Thánh Inhaxiô đặt vấn đề với ngài: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Thế là ngài bỏ tất cả để đi tu và làm linh mục, rồi tình nguyện đi truyền giáo.
Thánh Inhaxiô cùng với Thánh Phanxicô Xavie và năm anh em khác thành lập Dòng Tên ngày 15-8-1534 tại một nhà nguyện ở Montmartre, cùng nhau khấn đức nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời, đồng thời khấn hoán cải người Hồi giáo ở Trung Đông. Dòng Tên đã được Đức Giáo Hoàng phê chuẩn, khi đó tu sĩ Phanxicô Xavie tới Venice (Ý) để thụ phong linh mục vào ngày 24-6-1537. Đến cuối tháng 10, bảy anh em tới Bologna và cùng làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie phục vụ một thời gian ngắn tại Rôma với tư cách thư ký của Thánh Inhaxiô. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie dành phần nhiều cuộc đời để truyền giáo tại Á châu, chủ yếu qua lại bốn nơi là Malacca, Amboina, Ternate (Nhật) và Trung Hoa.
Ngài rời Lisbon ngày 7-4-1541 lúc ngài 35 tuổi, đi cùng hai tu sĩ Dòng Tên khác. Từ tháng 8-1541 tới tháng 3-1542, ngài tới Goa, lúc đó là thủ phủ của Ấn Độ (thuộc địa của Bồ Đào Nha), ngày 6-5-1542, 35 tháng sau khi rời Lisbon. Mùa Xuân năm 1545, Lm Phanxicô Xavie đi Malaca (cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Khoảng tháng 1-1546, ngài rời Malacca đi quần đảo Maluku, nơi ngài truyền giáo 1 năm rưỡi cho dân đảo Ambon. Ngay sau lễ Phục Sinh năm 1546, ngài trở lại Malacca.
Tháng 12-1547, tại Malaca, Lm Phanxicô Xavie gặp một người Nhật tên là Anjirō. Chính Anjirō cũng đã nghe nói về Lm Phanxicô Xavie từ năm 1545. Sau khi bị kết tội sát nhân, Anjirō trốn khỏi Nhật. Ông hết nói với Lm Phanxicô Xavie về quá khứ của mìn, về văn hóa và văn chương Nhật. Anjiro làm thông dịch cho Lm Phanxicô Xavie để giao tiếp với người Nhật. Và rồi Anjirō trở thành Kitô hữu người Nhật đầu tiên và lấy tên là Paulo de Santa Fe.
Sau khi qua đời, thi hài Thánh Phanxicô Xavie được an táng trên đảo Shangchuan. Tháng 1-1553, người ta khai quật mộ ngài và thấy thi hài ngài còn nguyên vẹn. Rồi người ta đưa thi hài ngài tới Nhà thờ Thánh Phaolô tại đảo Malaca vào ngày 22-3-1553. Ngày 11-12-1553, thi hài ngài lại được chuyển tới Goa. Hòm thánh tích của ngài được chuyển tới Nhà thờ Chúa Giêsu Giáng Sinh tại Goa từ ngày 2-12-1637.
Cánh tay phải, đã từng chúc lành và rửa tội cho nhiều người, được Tổng bề trên Claudio Acquaviva tách ra từ năm 1614 để trưng bày cho mọi người kính viếng tại Nhà thờ Il Gesù ở Rôma. Cánh tay trái của ngài được đưa về Macau. Cuối cùng được chuyển tới Nhà thờ Thánh Giuse năm 1978, rồi lại chuyển tới nhà nguyện Thánh Phanxicô Xavie trên đảo Coloane. Mới đây, thánh tích của ngài được chuyển tới Chủng viện Thánh Giuse và Viện bảo tàng Nghệ thuật Thánh (Sacred Art Museum).
Lm Phanxicô Xavie được ĐGH Phaolô V tôn phong chân phước ngày 25-10-1619, và được ĐGH Grêgôriô XV tôn phong hiển thánh ngày 12-3-1622, cùng với Thánh Inhaxiô Loyola. Cuối cùng, ĐGH Piô XI tôn phong Thánh Phanxicô Xavie làm bổn mạng các xứ truyền giáo (Patron of Catholic Missions).
SUY NIỆM 8: NHIỆT THÀNH TỒNG ĐỒ
(dongten.net)
Đọc các thư của thánh Phanxicô Xavier, ai cũng phải nhìn nhận đó là một con người hoàn toàn vị tha. Ngài luôn luôn nghĩ đến người khác, không màng đến lợi lộc, danh vọng, địa vị, và cả đến mạng sống mình nữa. Có khi ngài quan tâm đến một thanh niên cần chút vốn để về quê; có khi là một cô gái mồ côi vô danh cần lấy chồng. Tuy nhiên, quan tâm lớn nhất của ngài là phần rỗi linh hồn người ta. Chúa Giêsu nói: “Được lời lãi cả thế gian mà đánh mất sự sống mình thì nào được ích gì?” (Mt 16,26). Tính cách triệt để của câu nói ấy hẳn là đã thôi thúc trái tim vị tha của thánh Phanxicô Xavier. Ngài coi việc cứu rỗi các linh hồn là tối quan trọng và khẩn cấp, không gì có thể thay thế được. Chính vì vậy, ngài đi hết nơi này đến nơi khác, làm như không biết mệt mỏi và sợ hãi. Phải nói là ngài đã gào thét ‘như kẻ mất trí’ để kêu gọi giới học thức đừng chỉ vùi đầu vào sách vở để ủm kiếm vinh hoa phú quí, nhưng biết dấn thân cứu vớt các linh hồn. Ngài đòi các quan chức Bồ Đào Nha, và cả vua João III, phải tích cực giúp đỡ công cuộc truyền giáo. Trước mắt nhiều người, hẳn ngài là một kẻ quấy rầy dai dẳng. Tuy nhiên, ngài không chỉ kêu gào: chân trời góc biển nào ngài cũng có thể đến, bất chấp mọi khó khăn và nguy hiểm.
Ngài không chỉ là một tông đồ đơn độc. Mở được một con đường, ngài tìm người đến địa điểm mới để giúp đỡ các linh hồn ở đó. Dĩ nhiên người đặc biệt để ý đến Dòng Tên, dù mới khai sinh, nhưng rất năng động. Ngài xin Dòng ở Châu Âu gửi người sang tăng cường. Ngài tiếp nhận Học viện Thánh Phaolô ở Goa, rồi mở các trường học khác, để chuẩn bị cho tương lai. Gửi anh em đến các nơi, ngài hướng dẫn cách sống và cách làm việc, an ủi khi gặp khó khăn, khích lệ khi có kết quả, sửa bảo khi cần thiết. Ngài thấy điều quan trọng nhất nơi các thừa sai ở Ấn Độ là sức khỏe dẻo dai và đức hạnh vững chắc, để đối diện với hoàn cảnh hết sức khó khăn, để vượt qua những thử thách và cám dỗ, và để nêu gương sáng cho mọi người. Ngay từ đầu, ngài đã nghĩ đến việc gầy dựng hàng giáo sĩ bản xứ. Mặc dầu kinh nghiệm nhiều lần cho thấy là khó khăn, nhưng ngài vẫn quyết tâm theo đuổi. Cũng có lúc ngài hầu như ngã lòng, nhưng được thánh I-nhã khích lệ, ngài lại dứt khoát hơn. Đây là một trong những lý do chính khiến xảy ra bất đồng giữa ngài với cha Antonio Gomes, để rồi cuối cùng ngài phải khai trừ cha này ra khỏi Dòng Tên.
Đứng trước mọi vấn đề, quan điểm của ngài luôn luôn là quan điểm tông đồ. Trên tàu từ Bồ Đào Nha đi Ấn Độ, người ta khuyên ngài nên nhận một người giúp việc, nhưng ngài từ chối. Ngài tự giặt quần áo lấy. Phần ăn, ngài nhận từ bàn vị Tổng Trấn, dùng vừa đủ, những gì còn lại chia cho người nghèo. Phòng dành cho ngài, ngài cho người bệnh ở, còn chính mình ra nằm ngủ ở đống thừng chão, bên cạnh những thanh niên nghèo đi tha phương cầu thực. Khi có người bệnh, ngài chăm sóc phần xác và phần hồn. Con tàu chở ngài vượt biển được ngài biến thành giáo điểm. Ở Goa, trong lúc chờ đợi hai bạn đồng hành đến sau, ngài đi dạy giáo lý cho trẻ em, đi giảng cho người lớn, đi thăm bệnh viện, trại giam và trại phong. Chưa làm tông đồ ở địa điểm của mình được, ngài làm tông đồ ngay tại nơi lẽ ra người khác chỉ ngồi chờ. Khi xảy ra tranh chấp giữa các tiểu vương địa phương, ngài luôn luôn chủ trương chính quyền Bồ Đào Nha phải can thiệp để giúp đỡ công việc truyền giáo. Trong khi ngài chỉ chú tâm vào việc giúp đỡ các linh hồn, các quan chức Bồ Đào Nha thường lại chỉ chú tâm vào lợi lộc vật chất, do đó nảy sinh bao mâu thuẫn. Khi thấy ở Ấn Độ hoạt động tông đồ gặp nhiều trở ngại, không tiến lên được, vì các tín hữu bản xứ ‘bị mẹ Ấn Độ ruồng rẫy, cha Bồ Đào Nha khinh bỉ’, trong khi ở các nơi khác như Maluku, Nhật Bản, Trung Hoa, lại có triển vọng, ngài ra đi.
Vừa để duy trì vừa để phát triển hoạt động tông đồ, những người được sai đi phải giữ bầu khí yêu thương. Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em thương yêu nhau” (Ga 13,15). Chúa cũng cầu nguyện với Chúa Cha: “Xin cho chúng nên một để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,23).
Hàng ngũ giáo sĩ và tu sĩ ở Ấn Độ lúc ấy có Đức Giám Mục, vị Tổng Đại Diện, các đại diện giám mục ở mỗi địa điểm quan trọng, các linh mục triều khác, các thừa sai dòng Thánh Phanxicô và dòng Thánh Đaminh, cuối cùng là Dòng Tên. Phải hợp tác với nhau, thăm viếng giúp đỡ nhau, không nói xấu nhau, tránh làm gương xấu cho giáo dân. Đặc biệt phải tôn trọng Đức Giám Mục và các đại diện của ngài. Riêng trong nội bộ Dòng Tên, một mặt phải giữ kỷ luật chặt chẽ, mặt khác, và hơn nữa, phải giữ cho được bầu khí yêu thương. Thánh Phanxicô Xavier đưa ra một định nghĩa thời danh: “Dòng Tên là dòng yêu thương”. Không có cưỡng ép, nhưng phải chia sẻ. Ngài luôn luôn muốn biết tin tức về từng anh em ở Ấn Độ cũng như ở Châu Âu. Đặc biệt là lòng yêu mến ngài dành cho thánh I-nhã và các bạn đầu tiên của Dòng: lúc ngài qua đời, người ta thấy trên cổ ngài đeo một gói nhỏ, trong đó có bản lời khấn của ngài và chữ ký của các bạn ngài cắt từ các lá thư nhận được.
Thánh Phanxicô Xavier là một tông đồ di động. Ngài không phải là người có máu du lịch. Trước khi gặp thánh I-nhã, ngài ước mơ làm giáo sư, làm bác sĩ hay làm giám mục… để được hưởng vinh hoa phú quí. Ngài không hề ước mơ theo vết chân Christophe Colombo sang Châu Mỹ hay Vasco da Gama sang Châu Á, như cha Cosma de Torres chẳng hạn. Hơn nữa, là dân miền đồi núi, ngài xa lạ với biển. Một trong những điều gây ấn tượng mạnh nhất đối với ngài là những nguy hiểm trên biển. Dầu vậy, ngài đã vượt gần 100.000 cây số đường biển. Theo tính toán của cha X. Léon-Dufour, S.J., trong mười hai năm hoạt động truyền giáo, thánh Phanxicô Xavier ở trên biển ba năm bảy tháng, tức là cứ ba ngày thì có một ngày trên biển, và mỗi ngày di chuyển trung bình 60 km. Ngài tự coi mình là người mở đường cho anh em, Dòng Tên cũng như các thừa sai khác. Và khi mở ra được một con đường, ngài vui mừng, rồi lại đi mở con đường khác. Một cha Dòng Tên cùng ở Ấn Độ với ngài nói: ngài không ở đâu yên được quá hai tuần lễ! Một cha khác nói: ngài không ngồi yên được bao giờ!
Chúng ta chỉ có thể lấy lời của Thánh Phaolô để hiểu được sự thôi thúc thâm sâu và mãnh liệt trong trái tim thánh Phanxicô Xavier: “Chúng tôi có điên thì cũng vì Thiên Chúa; chúng tôi có khôn thì cũng vì anh em: Tình Yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5, 13-14)
SUY NIỆM 9: THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ:
NGHIỆT NGÃ PHẬN NGƯỜI, NHƯNG VINH QUANG CHO TÔI TỚ CHÚA
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, có đoạn (1 Cr 9, 16-19.22-23) thánh Phao-lô muốn chia sẻ ý thức trách nhiệm và thái độ cần phải có của một người ra đi rao giảng Lời Chúa. Ngài rao giảng không phải để tự hào, nhưng đó là sự cần thiết mà lương tâm bắt buộc ngài phải làm. Ngài rao giảng với thái độ của một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tự nguyện chấp nhận trở thành nô lệ của mọi người vì phần rỗi của họ, và theo lời Thầy Giêsu mời gọi: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo." (Mc 16, 15).
Như vậy Lời Chúa đã chỉ rõ, việc rao giảng Tin Mừng không hề có biên giới, cũng không phân biệt màu da hay chủng tộc, tầng lớp giai cấp hay chính kiến xã hội...Tất cả mọi người đều có quyền được thông chia phần phúc của Tin Mừng.
Và trao ban, theo Tin Mừng không phải là một việc tùy tiện. Muốn trao ban hay không tùy ý. Nhưng đó là ơn gọi bẩm sinh của con người. Không thể trao ban những thứ thừa thãi, hay những thứ không còn sử dụng được nữa. Mà là trao ban chính mình. Việc trao ban chỉ ý nghĩa và có giá trị khi được trao ban với ý thức và liên đới với tha nhân. Một hành động trao ban nhưng không, như Thầy Giêsu đã trao ban chính mạng sống mình, không vì tư lợi cá nhân hay vì mục đích nào khác, ngoài tình yêu thương. Mà sau này Người cũng truyền lại cho chúng ta: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." (Ga 15, 12)
Nhận ra ý nghĩa cuộc đời mình, từ lời thách thức của Tin Mừng:"Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì ?", đã khiến một vị giáo sư trẻ tuổi nhiều tham vọng, từ bỏ tương lai đầy hứa hẹn, chỉ để đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của tha nhân.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo. Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến gần, Phanxicô Xaviê đã nhận được lời thách thức trên đây từ một người bạn thân Ignaxiô.
Không thể cưỡng lại với Lời Chúa, Phanxicô đã đến Montmartre để cùng với Ignaxiô sống đời khó nghèo, khiết tịnh và phục vụ tông đồ theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha.
Đến năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô Xaviê lãnh chức Linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisbon của Bồ Đào Nha để lên dường đi truyền giáo tại Ấn Độ.
Trong 10 năm ngắn ngủi (1542-1552), Phanxicô Xaviê đã rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai, Indonésia và Ấn Độ. Chưa đạt được giấc mơ đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức vì bệnh tật tại một hải đảo xa xôi, cách Hồng Kông 100 cây số.
Thánh Phanxicô Xaviê là hiện thân của Tin Mừng phổ quát, không biên giới. Ngài nhận ra giá trị đích thực của Tin Mừng, và bổn phận của người tôi tớ Chúa. Từ giã vinh hoa phú quí, thánh nhân rong ruổi trên những nẻo dường Châu Á xa lạ. Cuộc đời của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ, bất hạnh thuộc mọi chủng tộc, mọi quốc gia. Ngài phục vụ họ suốt hành trình không biết mệt mỏi, nhưng luôn tràn ngập niềm vui, mà chỉ những người phục vụ trong yêu thương mới có được.
Như sự nghiệt ngã của rừng thiêng nước độc ở vùng đất xa xôi hẻo lánh, đã lấy đi mạng sống của ngài trong trơ trụi nghèo nàn.Thì sự nghiệt ngã mà ngày nay vẫn còn kéo dài và đang hằn sâu trên gương mặt khắc khổ của những con người, vì sự thật: bị cầm tù, bị nhục mạ, và chịu nhiều bất công, đói nghèo trên mảnh đất Châu Á nhỏ bé này Nghiệt ngã phận người, nhưng vinh quang cho tôi tớ Chúa.
Mừng kính thánh Phanxicô Xaviê, với tâm tình cảm tạ Chúa và tri ân, vì nhờ ngài chúng ta được biết Chúa để tôn thờ và mến yêu, được biết chân lý Sự Thật. Chúng ta xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh nhân, cho mỗi người Việt Nam hôm nay luôn ý thức trách nhiệm người thợ gặt của Chúa, trên cánh đồng truyền giáo mênh mông tại quê hương mình. Đặc biệt, xin Chúa ban ơn can đảm và bền đỗ đến cùng, cho những người đang bị bách hại vì sự công chính, xin cho họ biết đón nhận mọi thử thách, như dấu chỉ của lòng tín thác và niềm hy vọng cậy trông vào ngày Chúa quang lâm.
SUY NIỆM 10: THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ VỚI SỨ VỤ TRUYỂN GIÁO
(Lm. Nguyễn ngọc Long)
Ngày xưa con tầu là phương tiện vận chuyển người cùng vật dụng, hay trong dịch vụ buôn bán, từ nước này sang nước khác vượt sông biển xa xôi ngàn dặm, rất phổ thông trong đời sống.
Ngày nay, tuy có những phương tiện vận chuyển mới khác nhanh lẹ hơn, nhưng phương tiện bằng tầu thủy vẫn còn thích hợp.
Một con tầu không chỉ là phương tiện vận chuyển đồ trên thủy lộ, nhưng tầu còn là phương tiện đưa con người đi du lịch tham quan thắng cảnh trên sông ngòi, biển cả từ vùng này tới vùng khác, từ nước này sang nước khác. Phương tiện du lịch bằng tầu thủy ngày nay phát triển mạnh, đưa con người đến miền có nhiều cảnh thiên nhiên mới lạ thi vị mơ mộng.
Hình ảnh một con tầu có liên quan gì tới đời sống đức tin của chúng ta không?
Theo Kinh Thánh thuật lại ( St 7,1-24) khi nạn lụt đại hồng thủy dâng lên bao phủ khắp mặt đất 40 ngày đêm, gia đình Ông Noe đã vào sống trong một con tầu. Và nhờ sống trong tầu gia đình Ông mới sống sót không bị nước cuốn tiêu diệt như bao người khác.
Hình ảnh con tầu lịch sử Noe thầm nói lên ý nghĩa: Một ngôi nhà dùng để vượt qua những nguy hiểm trong đời sống. Ngôi nhà đó là Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Trong ngôi nhà đó, các Bí tích là nguồn nước sự sống, là nguồn lương thực đời sống đức tin cho con người.
Vì thế, xưa nay nhiều thánh đường được xây cất theo mô hình nhà thờ dài như một con tầu.
Khi sang loan truyền Tin mừng tình yêu nước Thiên Chúa, mang con tầu Giáo Hội Chúa đến cho vùng đất xa lạ, các nhà Truyền Giáo cũng đã dùng phương tiện di chuyển bằng tầu vượt qua biển cả từ Âu châu sang tới Á châu, sang Việtnam. Trong số những vị đi truyền giáo đó có Thánh Phanxico Xaviê.
Thánh Phanxicô Xavie không chỉ dùng tầu vượt biển sóng nước đến Á Châu, nhưng Ông còn xây dựng con tầu Giáo Hội ở nơi đó nữa.
Sử sách không thấy nói đến Ông xây những ngôi thánh đường nguy nga lộng lẫy theo mô hình con tầu. Nhưng chỉ nói đến sứ vụ truyền giáo rao giảng Tin mừng với lòng nhiệt thành hăng say của ông thôi. Sứ vụ truyền giáo của Thánh nhân qui vào việc xây dựng ngôi nhà Giáo Hội nơi tâm hồn con người. Những ngôi nhà thờ tâm hồn con người, mà Thánh nhân đã xây dựng, để lại “ dấu vết ngàn xưa lưu ký”.
Cũng theo sử sách thuật lại, Thánh nhân đã mang làn nước Bí tích Rửa tội đến cho hàng chục ngàn người bên Trung Hoa bên Ấn Độ.
Làn nước Bí tích rửa tội Thánh nhân mang đến cho những con người đó, là chỉ lối cho họ đi vào ngôi nhà Giáo Hội của Chúa, nơi có nguồn nước sự sống, nguồn lương thực tâm linh cho tâm hồn con người.
Làn nước Bí tích rửa tội, Thánh Phanxico Xaviê đã mang đến cho họ, không chỉ có ánh sáng đức tin soi đường tới ngôi nhà con tầu Giáo Hội của Chúa, nhưng họ còn tiếp nhận một con đường, đúng hơn một truyền thống, giáo dục đào tạo Kitô giáo nữa.
Nền giáo dục đào tạo đó thể hiện theo chiều thẳng đứng: Trời và đất, Thiên Chúa và con người liên kết với nhau; theo chiều ngang nền chân trời: con người với nhau, con người với thiên nhiên, với quê hương đất nước, nơi sinh ra nơi sinh sống, cùng trong tương quan liên đới với nhau.
Nền giáo dục đào tạo đó đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật :
"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.”(Mt 5,2-12)
Nền giáo dục đào tạo đó lấy bác ái, khiêm nhường làm mẫu mực cho đời sống: “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.” (Kinh hòa bình của Thánh Phanxico)
•••
Thánh Phanxicô Xaviê đã về trời từ hằng trăm năm nay, nhưng ngôi nhà đền thờ tâm hồn con người, qua làn nước Bí tích rửa tội, ngài đã xây dựng vẫn còn đó và tiếp tục phát triển nơi con người.
Thánh nhân không còn sống trên trần gian từ hàng thế kỷ nay. Nhưng nền giáo dục đào tạo Kiô giáo, mà ngài đã gieo trồng nơi những con người xưa kia, vẫn ăn rễ sâu nơi đời sống tin thần con người, vẫn luôn vang vọng ảnh hưởng đến suy nghĩ cùng cách sống của những thế hệ con người.
Nền Giáo dục đào tạo Kitô giáo đã giúp nhiều người xây dựng đời sống, tìm được niềm vui cùng bình an trong đời sống.
SUY NIỆM 11: Thánh Phanxicô Xaviê, Linh Mục (1506-1552)
(Nhóm Châu Kiên Long)
Phanxicô sinh năm 1506 tại Xaviê thuộc giáo phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài sang Ba Lê để tiếp tục việc học. Tám năm sau, ngài tốt nghiệp và trở thành giáo sư đại học đó. Ðược nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng thế tục. Nhưng một ngày kia, Chúa đã dùng miệng lưỡi thánh Ignatiô, cũng là thầy dạy, để nói cùng ngài: “Ðược lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi?”. Và Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim thánh nhân, biến ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền giáo. Năm 1539, Phanxicô hăng hái lãnh sứ mệnh nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô III là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho dân tộc Ấn Ðộ.
Mười một năm trường nhiệt thành với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đời sống thánh nhân là một cuộc hành trình không ngừng. Bước chân ngài len lỏi qua khắp các thành thị cũng như thôn quê để rao giảng Phúc Âm Chúa Giêsu. Tiếng ngài vang vọng từ Ấn Ðộ, Tích Lan đến Nhật Bản. Riêng tại Ấn Ðộ, ngài đã đem về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn và Rửa Tội cho nhiều bậc quân vương. Dù vậy, ngài luôn ấp ủ một tâm hồn khiêm nhượng hiếm có: Ngài thường quỳ gối để viết thư cho thánh Ignatiô là Bề Trên của mình. Chúa đã hỗ trợ lòng nhiệt thành của thánh nhân bằng nhiều phép lạ phi thường.
Ngày 02/12/1552, khi đang trên đường tới gần Trung Hoa thì ngài ngã bệnh và từ trần tại đảo Tân Châu (Sancian). Xác ngài được đem về mai táng tại thành Goa bên Ấn Ðộ.
Ðúng 70 năm sau, Ðức Grêgôriô XV đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh (1622). Và đến năm 1904, Ðức Thánh Cha Piô X đặt ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
02/12 Niềm tin đích thực
- Viết bởi Ngọc Biển, SSP
Niềm tin đích thực.
Thứ Hai tuần 1 mùa vọng.
"Nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".
Lời Chúa: Mt 8, 5-11
Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một viên đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt và đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi; tôi bảo người kia đến thì anh đến; tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"
Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Từ phương Đông phương Tây
Suy Niệm
Tín đồ Do thái giáo có tiếng về sống đức hy vọng.
Họ đã hy vọng và vẫn còn hy vọng Đấng Mêsia sẽ đến để đem ơn cứu độ.
Họ đã chờ và vẫn chờ từ bao ngàn năm nay.
Còn Kitô hữu chúng ta có tiếng về sống đức ái.
Tuy nhiên, tự bản chất Kitô giáo vẫn là tôn giáo của đức hy vọng.
Chúng ta tin Đấng Mêsia là Đức Giêsu đã đến rồi.
Ngài đến đem ơn cứu độ không phải cho riêng dân Israel,
nhưng cho mọi dân mọi nước trên toàn thế giới.
Nhưng Kitô hữu vẫn còn sống trong chờ đợi và hy vọng.
Chúng ta mong ngày trở lại trong vinh quang của Chúa Giêsu,
cũng là ngày thế giới này đi đến chỗ tận cùng, để sang một trang mới.
MARANA THA, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến (1 Cr 6, 22; Kh 22, 20).
đó là lời nguyện của các Kitô hữu trong Giáo Hội buổi sơ khai.
Đó cũng là lời nguyện khẩn thiết của chúng ta, đặc biệt trong Mùa Vọng.
Ngày quang lâm là ngày tận thế đáng sợ,
khi Chúa Giêsu trở lại xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Nhưng đó cũng là ngày hội vui lớn nhất của nhân loại,
ngày mà niềm hy vọng của chúng ta được thành tựu viên mãn.
Ngày ấy “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc
cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời” (c. 11).
Đức Giêsu ngỡ ngàng khi thấy niềm tin lớn lao của viên đại đội trưởng.
Ông thuộc dân ngoại mà lại có lòng tin lớn hơn các người Israel khác (c. 10).
Ông tin Đức Giêsu có thể chữa lành cho người đầy tớ yêu quý của ông.
Không cần Ngài đến nhà, chỉ cần một lời nói của Ngài thôi cũng đủ (c. 8).
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm tốn của ông đã chinh phục Đức Giêsu.
Lời của viên sĩ quan dân ngoại đã trở nên lời ta đọc trước khi rước lễ.
“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con,
nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”
Đầy tớ của viên đại đội trưởng đã được chữa lành,
nhưng điều quan trọng hơn là chuyện ông có hy vọng được dự tiệc.
Đây là bữa tiệc cánh chung, bữa tiệc trong Nước Trời (x. Is 25, 6-8).
Một người dân ngoại được ngồi dự tiệc bên các tổ phụ Do thái.
Đây là điều hẳn làm cho nhiều người Do thái phải ngạc nhiên.
Mà không phải chỉ có viên đại đội trưởng,
có nhiều người từ tứ phương thiên hạ cũng được mời (c. 11).
Nước Trời như một bữa tiệc vui và thịnh soạn do Thiên Chúa thết đãi,
trong đó mọi dân tộc khác nhau cùng đến để chia sẻ và hiệp thông.
Mọi đau buồn, mọi cách ngăn đều bị xóa bỏ.
Màu tím là màu của phụng vụ Mùa Vọng,
nhưng đây không phải là màu buồn.
Mùa Vọng nhắc chúng ta về niềm hy vọng rất xanh tươi
mà Chúa Giêsu đã mang lại cách đây hai ngàn năm
và chúng ta có bổn phận vun đắp cho thành tựu.
Làm sao để ơn cứu độ của Ngài được mọi người trên thế giới nhận biết?
Làm sao để dân ngoại được ơn đức tin và ơn chữa lành như viên sĩ quan?
Làm sao để chẳng ai vắng mặt trong bữa đại tiệc của Nước Trời?
Mùa Vọng đưa ta về thế giới bao la của châu Á, với 3% người công giáo.
Nếu ngày mai tận thế, Chúa sẽ hỏi ta 97% kia đâu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Xin Ngài Chỉ Phán Một Lời
Trong quân đội Roma, danh từ "bách quan" hay "đại đội trưởng" dùng để chỉ những người có một trăm tên lính trong tay. Nếu ở chốn đế đô, họ chẳng là gì thì tại các vùng thuộc địa họ là những viên chức đầy uy quyền góp phần cai trị hà khắc của đế quốc. Có thể gọi họ là chất xúc tác và là thước đo lòng căm thù đế quốc của người Do Thái. Ðối với đế quốc cai trị, họ là những người trực tiếp áp đặt chính sách lên dân chúng.
Luật Do Thái đã khắt khe trong việc giao tế với dân ngoại thì lại càng khắt khe hơn đối với những người đang giày xéo lên mảnh đất Thánh của Giavê Thiên Chúa. Người Do Thái sẽ không bước vào nhà dân ngoại vì đó là những nơi không thanh sạch. Sách Midna đã viết: "Mọi nơi cư ngụ của dân ngoại đều là chỗ không thanh sạch", thế mà Chúa Giêsu lại không ngần ngại đi đến nhà viên bách quan để chữa bệnh cho gia nhân của ông. Chúa Giêsu có ý gì khi hành động như vậy? Nếu luật lệ Do Thái khắt khe với dân ngoại mà Chúa Giêsu và các tông đồ lại nghiêng về phía họ thì hẳn việc làm của Chúa Giêsu và các tông đồ phải mang một ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống.
Riêng về các viên bách quan, Kinh Thánh Tân Ước đã không ít lần lên tiếng khen ngợi hành vi của các viên bách quan như lúc Chúa Giêsu bị chết treo nhục nhã trên Thập Giá, một viên bách quan đã tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Một viên bách quan khác đã cứu tông đồ Phaolô thoát khỏi hình phạt đánh đòn, và một viên bách quan khác nữa đã giúp Phaolô thoát khỏi âm mưu giết hại của người Do Thái. Tuy nhiên nổi bật hơn hết là viên bách quan được nói đến trong bài đọc Tin Mừng hôm nay. Nơi ông đã hội tụ hai yếu tố căn bản mà mỗi người trong chúng ta cần phải có để khiêm nhượng trước mặt Chúa và bác ái với anh em. Một gia nhân hay đúng hơn một tên nô lệ chẳng là gì trước mặt viên bách quan, ông có thể sử dụng như một món đồ vật, không dùng thì quăng đi cần gì phải bận tâm. Thế mà ở đây ông lại quan tâm đến tên gia nhân cách đặc biệt. Ngoài ra theo đoạn Tin Mừng song song của Luca, ông còn là người giúp đỡ cho Hội Ðường Do Thái.
Lòng vị tha đã khiến viên bách quan vừa có uy quyền, vừa được mộ mến. Tuy nhiên dù là gì đi nữa, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Chúa Giêsu, ông vẫn phải giữ một thái độ hoàn toàn khiêm nhu: "Lạy Thầy, tôi không xứng đáng để được Thầy đến nhà". Ông không chỉ khiêm nhu nhưng lại đầy tin tưởng: "Xin Thầy hãy phán một lời thì gia nhân của tôi được lành mạnh".
Lời cầu khiêm nhu này đã trở thành lời kinh hằng ngày được tín hữu chuyên đọc, và niềm tin của viên bách quan khai mở một kỷ nguyên mới cho lịch sử ơn cứu độ: "Nhiều người từ Ðông chí Tây sẽ đến dự tiệc với Abraham, Isaac và Jacob, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài". Chúa Giêsu, Ngài đến để cứu chữa hết mọi người, chưa cần viên bách quan tuyên xưng lòng tin, Ngài đã nói lên ý định của Ngài: "Tôi sẽ đến chữa nó".
Luật Do Thái ngăn cấm bước vào nhà dân ngoại thì Chúa Giêsu vượt ra ngoài các cấm đoán của lề luật, vì Vương Quốc của Ngài không xây dựng trên nền tảng các luật cứng nhắc ấy nhưng trên thực hành niềm tin. Ngài cũng không đến để hủy bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Lề luật bây giờ phải được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống.
Viên bách quan không có các nghi thức để tuân giữ lề luật như: không rửa tay trước khi dùng bữa, không đến Hội Ðường vào ngày Sabat. Nhưng trước sự hiện diện của Chúa, ông tỏ một niềm kính sợ, trước tha nhân ông hết lòng yêu mến. Ông trở thành tiêu biểu cho các công dân Nước Trời. Chúa Giêsu đã khen ngợi và đã đón nhận ông vào nước của Ngài.
Chúa Giêsu nói với những kẻ theo Ngài lúc đó cũng như đối với chúng ta hôm nay: "Còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài". Không phải được mang tước hiệu con cái là bảo đảm được dự phần vào Nước Thiên Chúa, nhưng phải là kẻ biết thực hành niềm tin. Tước hiệu Kitô hữu nếu không được nuôi dưỡng bằng sức sống của niềm tin thì chỉ là những bản án được công bố trước thời điểm mà thôi.
Bước vào Mùa Vọng, cùng với Giáo Hội với ý hướng chờ ngày Chúa đến, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ nhìn vào niềm tin của viên bách quan làm tiêu chuẩn sống cho mình. Mỗi người chúng ta hãy biết khiêm nhu trước Thiên Chúa và biết yêu mến anh em thì hy vong chúng ta sẽ được Thiên Chúa hài lòng đón nhận trong bàn tiệc Nước Ngài.
Suy Niệm 3: Mùa của đức cậy và đức tin
Khi Đức Giêsu vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm”. Người nói: “Chính tôi sẽ đến chữa nó”. Viên đại đội trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh (Mt. 8, 5-8).
Điều gì đã thúc đẩy vị sĩ quan Rô-ma ra khỏi nhà từ sáng sớm? Thưa, ông hy vọng rằng ông ra đi ông sẽ gặp được điều tốt hơn là cứ luẩn quẩn trong nhà. Dù ông là một người đầy quyền thế, biết chỉ đạo mọi việc, nhưng cứ ở nhà, ông sẽ chẳng có thể làm gì để cứu chữa đầy tớ đang đau liệt. Ông phải đến với Đức Giêsu.
Ngày hôm nay, bạn cần phải ra khỏi con người bạn để khởi hành vào mùa vọng; mùa sẽ đưa bạn đầy tràn hy vọng đến với Chúa chúng ta. Bạn đã sẵn sàng chưa?
Niềm hy vọng tăng cao nhờ khát vọng mạnh, nhờ nhu cầu khẩn thiết. Niềm hy vọng của bạn hôm nay là gì? Khát mong của viên sĩ quan là: “Đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà tôi, đau đớn lắm”. Còn bạn, bạn có thể đồng cảm với nỗi đau đớn đó không?
Bạn đồng cảm rất dễ với chồng bạn, với vợ bạn, với con bạn, với ông bà cha mẹ, họ hàng và bạn bè của bạn. Bạn cần đồng cảm xa hơn nữa. Viên sĩ quan đã đồng cảm với những tên đầy tớ: một sự đồng cảm với những kẻ hèn mọn. Còn bạn, bạn có thể đồng cảm với bao nhiêu nỗi xót xa của những kẻ đi làm thuê, làm mướn, những kẻ quét đường, đổ rác đi qua nhà bạn mỗi sáng thứ hai không? … Đó là những tôi tớ của bạn, của cộng đồng, của xã hội.
Hôm nay bắt đầu mùa vọng, bạn cầu nguyện cho ai? Bạn hy vọng vị nào đến làm gì cho họ? Thật quan trọng khi bạn biết liệt kê ra những nhu cầu đó để khêu gợi cho mình có những niềm hy vọng, niềm cậy trông giúp bạn có đức cậy.
Hôm nay, bắt đầu mùa vọng, còn một việc nữa cần phân tích, đó là đức tin của chúng ta. Đức Giêsu nói với chúng ta: “Chính tôi sẽ đến cứu chữa nó”. Vị sĩ quan thưa lại: “Lạy ngài, tôi không đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh …”. Chúng ta có thể tin được như thế không? Bao giờ chúng ta mới có được đức tin như thế?
Chúng ta có tin Đức Giêsu có thể đổi mới tâm hồn chúng ta được không? Biết bao nhiêu tôi tớ trên trái đất này đang đau khổ cực độ. Chúng ta có tin Ngài đến cứu chữa họ không?
Bắt đầu mùa vọng, chính là để giúp chúng ta cậy trông và tin tưởng. Và cử hành Thánh lễ chính là để giúp chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu đến thực hiện công trình cứu độ.
C.G
Suy Niệm 4: CHÚA ƠI, XIN VỀ VỚI CON ĐI (Mt 8,5-11)
Trong lớp Giáo lý Dự tòng, có một bà năm nay đã gần 80 tuổi xin theo học. Bà góa chồng đã 7 năm. Từ ngày chồng bà chết, nhiều lần bà muốn theo đạo, nhưng vì nhiều lý do khách quan, bà không thực hiện được tâm nguyện của mình.
Đến nay, thuận lợi, bà xin học đạo để được gia nhập Giáo Hội. Trước khi ban Bí tích Rửa Tội cho bà, cha xứ có hỏi: “Bà có ý định theo đạo lâu chưa?”; Bà trả lời: “Khoảng 7 năm”; Cha xứ hỏi tiếp: “Thế bà muốn theo Chúa, nhưng bà có cầu nguyện với Chúa bao giờ không?” Bà nói: “Thưa có”; “Bà cầu nguyện thế nào”; “Thưa Cha, con cầu nguyện rằng: ‘Chúa ơi, xin Chúa về với con đi!’”. Cha xứ tỏ vẻ thán phục niềm tin chân thành và đơn sơ của bà, và ngài đã sẵn lòng Rửa Tội cho bà để bà được gia nhập Giáo Hội.
Câu chuyện của bà cụ rất trùng hợp với một nhân vật cũng khá đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là viên sĩ quan, người dân ngoại. Ông là một người ngoại đạo, tức không thuộc về Dothái giáo, nhưng tâm hồn lại có đạo hơn ai hết bởi sự chân thành, đơn sơ nhưng mãnh liệt nơi ông. Vì thế, ông đã được thúc đẩy từ bên trong, nên ông nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, trong khi những người Dothái lại không nhận ra!
Khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, ông đã đặt niềm tin tuyệt đối nơi Ngài, vì thế, Đức Giêsu đã lên tiếng khen ngợi ông: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel”. Ơn thánh của Chúa đã thực sự bén rễ sâu trong tâm hồn người dân ngoại này, vì ông khiêm tốn và sẵn sàng mở lòng để cho ơn thánh của Chúa được tác sinh nơi ông.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mặc khải về ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa được dành cho hết mọi người. Vì thế, chúng ta không cất giấu hay để ơn Chúa vào nơi an toàn, mà phải vươn ra đến với hết mọi người, mọi nơi, nhất là những anh chị em chưa nhận biết Chúa.
Cần tránh lối suy nghĩ từ lâu: chỉ những người Công Giáo mới được ơn cứu độ! Những người ngoài Giáo Hội không xứng đáng để đón nhận hồng ân cứu chuộc của Thiên Chúa. Tránh sự kỳ thị, phe phái, tôn giáo, văn hóa xã hội, địa vị, nghề nghiệp..., để nhìn nhận cái hay, cái phải, cái tốt của tha nhân mà noi theo, học hỏi, nếu điều đó phù hợp với đạo lý Tin Mừng. Tránh thái độ hẹp hòi, cục bộ, mặc cảm, yên trí đến bất công, khiến chúng ta đi sai đường lối cứu độ của Thiên Chúa và xa cách tha nhân.
Bước vào Mùa Vọng, mỗi người chúng ta cùng nhau nhìn lại cuộc sống, cách cư xử của mình với anh chị em xung quanh: đã có lần nào vì hẹp hòi mà ta ngăn cản ơn Chúa đến với người khác không? Hay nhiều khi chúng ta không dám rời bỏ chốn an thân, an cư để đến với những người đang cần sự giúp đỡ của chúng ta?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Chúa, tin tưởng vào Chúa, sống khiêm tốn, quảng đại với tha nhân. Amen.
Ngọc Biển, SSP
01/12 Tỉnh thức, vì Chúa sẽ quang lâm
- Viết bởi Mt 24, 37-44
Tỉnh thức, vì Chúa sẽ quang lâm.
CHÚA NHẬT TUẦN 1 MÙA VỌNG NĂM A.
"Hãy tỉnh thức để sẵn sàng".
Lời Chúa: Mt 24, 37-44
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy.
Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi.
Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.
"Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình.
Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG A
Lời Chúa: Is 2,1-5; Rm 13,11-14; Mt 24,37-44
1. Canh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa - Dã Quỳ
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, khởi đầu cho Năm Phụng Vụ mới. Chắc hẳn ta cảm nhận thời gian trôi qua thật nhanh. Khi khí trời se lạnh một chút, chúng ta đã thấy ngoài thị trường trưng bày bán đầy dẫy những đồ trang trí lễ Noel. Người ta rộn ràng mua sắm, chuẩn bị cho ngày lễ và mở nhạc Giáng Sinh khắp nơi. Thế nhưng, với mỗi người Kitô hữu, Hội Thánh mong muốn chúng ta sống Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị kính nhớ biến cố Con Thiên Chúa đến với nhân loại lần thứ nhất, đồng thời chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày cánh chung. Vì thế, Lời Chúa mời gọi ta "Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến." Vậy, chúng ta cần làm gì và sống như thế nào để có thể canh thức và sẵn sàng đón Chúa?
Khi mừng Lễ Giáng Sinh, chúng ta nhớ về một biến cố trong quá khứ đã diễn ra trước đây hơn hai ngàn năm. Chúng ta cử hành sinh nhật của Chúa Giêsu, Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa trở nên một người ở giữa chúng ta. Còn Mùa Vọng lại thúc đẩy chúng ta hướng về tương lai. Mùa Vọng nhắc chúng ta nhớ rằng một ngày nào đó Chúa Giêsu sẽ đến trong vinh quang, là ngày cùng tận của thế giới, để thay đổi, làm cho tất cả nên mới. Vì thế, "Hãy canh thức, hãy sẵn sàng" là điều Chúa Giêsu chỉ dạy và mong ước chúng ta thực thi.
Hãy Canh Thức. Chúa tha thiết kêu mời chúng ta hãy canh thức để có thể nhận biết sự hiện diện của Chúa trong trần gian và trong cuộc sống của chính chúng ta. Chúa Giêsu đưa ra quang cảnh ngày Chúa đến sẽ như nạn hồng thủy ập xuống bất ngờ "Thời ông Nôê thế nào thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy." Vì thế, cần phải canh thức mới nhận ra ngày giờ Chúa đến và mới được cứu. Người canh thức là người tỉnh, không ngủ mê trong những tội lỗi; là người tỉnh thức trước những cám dỗ của trần gian, của những ham mê danh lợi thú, của những lo lắng sự đời và tất cả những gì ngăn cản Chúa đến với ta.
Cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tỉnh thức hướng lòng về Chúa và không còn bám víu vào thế trần. Chính Chúa đã dạy các môn đệ "Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối."(Mc 14,38). Cầu nguyện là vũ khí của người Kitô hữu và là chìa khóa mở trái tim Thiên Chúa. Vì vậy, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta hãy "Cầm lấy cũ khí của sự sáng để chiến đấu."(Rm13,12) Nhờ vũ khí cầu nguyện, chúng ta mới thức dậy và mạnh mẽ loại trừ những việc làm đen tối, ăn ở đứng đắn, không chiều theo tính xác thịt hay dục vọng nhưng luôn mặc lấy Chúa Kitô (x. Rm 13,12-14). Vậy đừng bao giờ chúng ta ngừng cầu nguyện, vì "Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục."(Thánh Têrêsa Avila) Ước mong sao mỗi chúng ta biết dùng thời giờ trong ngày sống để dâng lên Chúa những tâm tình tôn vinh, chúc tụng, cảm tạ, hối lỗi và xin ơn lành...Như thế, cầu nguyện sẽ là chiếc thang nối trời với đất và giúp ta luôn tỉnh thức sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy Sẵn Sàng. Lời Chúa tha thiết nhắc nhở ta hãy biết chuẩn bị chu đáo từ xa để có một tâm hồn sẵn sàng chờ đón Chúa. Bởi "Đời đâu học được chữ ngờ", thế nên thái độ sẵn sàng không bao giờ là thừa, nhất là sẵn sàng chờ đón giờ Chúa đến. Vì "chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Giờ và ngày ấy sẽ không bất ngờ nếu ta biết chuyên chăm cầu nguyện, cử hành các Bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày. Chỉ trong cầu nguyện và cử hành Bí tích, ta mới có cơ hội tập quen dần đón Chúa, gặp gỡ Chúa và trò chuyện thân mật với Chúa. Nhờ cầu nguyện, Chúa ban cho ta sức mạnh và lòng can đảm để vượt qua những thử thách, những sự dữ và có thể đứng vững trong ngày Chúa đến.
Chúng ta cần lắng nghe Chúa nhắn nhủ và ý thức để sống Canh Thức và Sẵn Sàng, vì "Anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến." Hãy để Lời Chúa ngân vang trong lòng chúng ta, và cố gắng thực thi Lời Chúa dạy. Hãy dành thời gian cầu nguyện, tập nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đởi mình, trong những biến cố, trong anh chị em. Và ta cũng hãy biết đón Chúa qua việc tiếp đón, yêu thương chia sẻ với những anh chị em bé nhỏ, nghèo hèn đang sống quanh ta ngay nơi trần gian này. Có như thế, tâm hồn ta mới luôn ở trong tư thế canh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa. Đừng để ta bị bất ngờ về "Ngày ấy" Ngày Chúa đến với ta qua giờ chết của mỗi người và trong ngày Chúa quang lâm.
Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến. Xin hãy ban thêm lòng tin, cậy, mến, để chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa và được hưởng ơn cứu độ. Amen.
2. Tỉnh thức chờ Chúa đến - Huệ Minh
Mùa vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử. Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một. Ðó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết. Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng. Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới. Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.
Ngôn sứ Isaia cổ võ thêm cho sự mong chờ ấy bằng lời sấm đầy tràn hy vọng về đấng Emmanuel: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, đặt tên là Emmanuel” (Is 7, 14). Vị ngôn sứ còn loan báo một cuộc hành hương vĩ đại vào thời thiên sai: mọi dân nước trên mặt đất sẽ tiến về Giêrusalem, tập trung quanh Israel, để nhận biết và phụng thờ Giavê (Is 2, 2-5; x. Mk 4,1-5). Niềm hy vọng vội tan biến khi Israel bị Babylone xâm lăng và bị lưu đày (587).
Do Thái, dân tuyển chọn, lúc ấy đang sống trong thời kỳ bi thảm về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo. Phương Bắc đã hoàn toàn bị đế quốc Assyri tiêu diệt (721), Phương Nam, tức đất nước Giuđa, sống dưới sức ép của đế quốc Babylone đang hăm he thôn tính. Xã hội đầy những bất công, áp bức và chèn ép: người giàu cứ phè phỡn hưởng thụ trong khi dân nghèo bị bỏ rơi và khốn khổ. Tôn giáo lỏng lẻo, pha trộn, vụ hình thức. Chính trong thời buổi nhiễu nhương và thất vọng ấy, sấm ngôn Nathan (2S 7,14) về việc Thiên Chúa hứa sẽ bảo đảm cho vương triều Đavít được miên trường khơi dậy trong lòng người nỗi mong chờ một vị Thiên Sai thuộc dòng tộc Đavít xuất hiện để giải cứu và phục hưng đất nước.
Trước hết Ngài dùng chuyện ông Nôê trong Cựu Ước để khuyến cáo các môn đệ mình: người ta dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống vật chất (ăn uống, cưới vợ lấy chồng). Những lo lắng này không có gì là tội lỗi, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều quan trọng là luôn luôn sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Do đó khi ngày ấy đến một cách nhanh chóng và bất ngờ, thì những kẻ không sẵn sàng sẽ phải hư mất.
Tiếp theo là một số hình ảnh diễn nghĩa, giúp dễ hiểu: Có những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau (hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay một cối bột) nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem đi (đem đi với Thiên Chúa), còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại (bỏ lại trong hư vong).
Nếu trước đây Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, giờ đây Người lại giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày để họ được hồi hương tái thiết Đền Thờ và đất nước.
Một lần nữa, hy vọng lại dâng cao với sự mong chờ vị Thiên Sai Ngôn sứ mà trước đây Môsê đã từng loan báo (Đnl 18,18). Đấng Thiên Sai Ngôn sứ này là người Tôi trung của Giavê mà Isaia II đã phác hoạ là người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban tràn đầy Thần Khí, sẽ phải chịu nhiều đau khổ và chịu chết để cứu độ dân Người. Hy vọng và mong chờ vẫn kéo dài cho đến lúc người ta lại chuyển sang việc mong đợi Con Người, một nhân vật thiên quốc mà Daniel mô tả là Đấng ngồi bên hữu Thiên Chúa, được Thiên Chúa trao cho toàn quyền chung thẩm nhân loại (Dn 7,13-14).
Trong từng giai đoạn,Israel lại mong chờ vị Thiên Sai cứu tinh. Niềm hy vọng mong chờ đó đã nâng đỡ dân trong suốt thời kỳ đầy thảm hoạ. Sống là hy vọng và mong chờ. Suốt thời kỳ đầu của Giáo Hội tiên khởi, giữa trăm chiều thử thách, các tín hữu hằng mong chờ ngày Chúa trở lại và tha thiết kêu xin: Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
Giữa lúc nhân loại đang chìm sâu trong đêm tối của lầm lạc và tội lỗi, khát mong ơn cứu độ. Khi Israel đang mòn mỏi mong chờ vị Thiên sai đến giải thoát. Một vì sao sáng xé ngang màn đêm. Ánh sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã nhập thể đến giữa loài người, mang tên gọi Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,23).
Loài người khát khao cứu độ, nhưng nhận biết mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết trông đợi ở Chúa. Con người không thể lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa lại xuống với con người. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Người Con một ấy chính là Ngôi Lời vĩnh cữu đã trở nên người phàm (Ga 1,1.14), sinh bởi một người nữ và sống dưới Lề Luật để cứu những ai đang sống dưới Lề Luật, hầu cho họ được ơn làm nghĩa tử (Gl 4,4-5).
Đó là lần thứ nhất Thiên Chúa xuống trong lịch sử mà ta vui mừng tưởng niệm trong ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh sắp đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa đến với ta, mang niềm vui, an bình và cứu độ.
Tưởng niệm không phải chỉ là một hoài niệm quá khứ, nhưng căn bản là hiện tại hoá việc Chúa đến hôm nay trong mỗi giây phút cuộc sống và nhất là hướng lòng về ngày Chúa quang lâm khi niên cùng nguyệt tận để phán xét toàn nhân loại. Lúc ấy Người sẽ phân định sự sống đời đời cho những người lành và án phạt muôn đời cho những kẻ dữ là những ai khi sống nơi dương thế đã chối từ Thiên Chúa để đặt mình dưới quyền thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Hãy biết lắng nghe, suy niệm và thực hành Lời Chúa bởi đơn giản rằng Chúa đến và đối thoại với ta trong Thánh Kinh.
Hãy thu xếp công việc để rồi năng tham dự thánh lễ và rước lễ, hãy chiêm ngắm, tôn thờ và sống bí tích Thánh Thể. Chúa đến và ở giữa chúng ta trong Thánh Thể bằng tất cả tình yêu tự hiến, và trở nên Bánh hằng sống nuôi dưỡng ta trên bước đường lữ thứ tiến về nhà Cha.
Trọn cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là yêu thương và phục vụ hết tình và hết mình. Chúa đến trong anh em: “Sự gì các ngươi làm cho một anh em bé mọn là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Người đã rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc ly như mẫu gương của sự phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi (Ga 13,14-15). Người đã yêu thương đến tận cùng, đến chết trên thập giá. Hãy sống yêu thương và phục vụ vì đó là lề luật quan trọng nhất và là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Giêsu (Ga 13,34-35).
Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: “Phúc cho ai chết trong ân nghĩa của Chúa”. Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự bàn tiệc với người ấy.
Hãy quay trở về nơi chốn thâm sâu nhất của cõi lòng mình và hãy nhận ra cho được ai và cái gì đang ngự trị trong chốn thâm sâu đó, và đang thực sự điều hướng tất cả mọi suy nghĩ, mọi ước muốn, mọi hành vi của mình…
3. Ngày quang lâm - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mùa vọng là thời điểm dọn mình mừng Chúa Giáng Sinh. Nhưng tại sao Tin mừng nói đến ngày quang lâm?
Quang lâm là gì? Quang là ánh sáng, lâm là đến, ngụ ý: người trên đưa vinh quang đến cho người dưới. Theo văn hóa Hy lạp, quang lâm (parousia) chỉ sự hiện diện sinh động của vua chúa trong các nghi lễ lớn như phong vương có kèn trống, ca hát, chúc tụng, tiến dâng phẩm vật. Quang lâm còn chỉ sự thần hiện giáng phúc như xưa ta nói: Thánh thượng giáng lâm.
Theo Cựu ước, quang lâm là ngày của Thiên Chúa, ngày vinh quang đầy ánh sáng huy hoàng đến xua đuổi đêm tối rợn rùng bao phủ dân Ngài. Isaia luôn luôn mô tả hai cảnh tương phản đó: “Trời hỡi, đất hỡi hãy lắng nghe Giavê phán: khốn thay nước tội lỗi, dân chất nặng vạ hình nòi giống ác nhân … Xứ sở các ngươi một cảnh điêu tàn, thành thị bị lửa thiêu, đất đai bị nước ngoài ngốn hết, cảnh điêu tàn như thời Sôđôma” (Isaia 1, 4... 7). Trước cảnh đen tối khốn cùng đó, Thiên Chúa vẫn đến cứu giúp đem lại vinh phúc cho con người: “Từ Sion thánh chỉ ban ra... Người sẽ phân xử cho muôn dân. Họ đúc gươm đao thành cày cuốc, rèn giáo mác nên liềm hái; dân này nước nọ không còn vung kiếm chém nhau và thiên hạ thôi học bài chinh chiến. Hỡi nhà Giacóp ta hãy bước đi trong ánh sáng nước trời” (Isaia 2, 3b-5).
Tân ước diễn tả ngày quang lâm đột xuất xẩy đến giữa thời điểm đen tối của con người: “Đêm sắp tàn, trời gần sáng” (Rm. 13, 12). Trong sa mạc Gioan Tẩy giả đã rao giảng: “Hãy hối cải vì nước trời đã gần đến …”. Sa mạc là cảnh khô cằn nóng như lửa đốt, Đấng Cứu thế đến sẽ biến sa mạc thành nước Trời. Nước Trời ví như ngày mùa lúa đầy sân, đầy kho lẫm, hình ảnh này biểu lộ sự vinh quang, hằng sống của nước Trời.
Về cuối đời ở trần thế, Chúa Giêsu mô tả thời cánh chung có hai cảnh tương phản nhau: một cảnh tận diệt khủng khiếp, lừa gạt, giặc giã, chiến tranh, tội ác đầy ứ, bắt bớ chém giết, mặt trời mặt trăng tối sầm, tinh tú sa xuống. Một cảnh quang lâm như một lễ hội rực rỡ đầy quyền năng, vinh quang của Con người tỏ hiện trên mây trời, ngự trên ngai uy nghi có hết thảy thiên thần hầu cận, thổi loa vang dậy, tập họp muôn dân thiên hạ trước mặt Ngài (Mt. 24, 4-31; 25, 31-46).
Như vậy ngày quang lâm là ngày chấm dứt thời gian đen tối, mở ra thời đại huy hoàng. Cựu ước mong chờ một ông Vua thái bình, một người Cha muôn thuở. Tân ước loan báo ngày Thánh thượng giáng lâm chúc phúc cho muôn dân đến muôn đời.
Mùa Vọng hội tụ cả hai ý nghĩa Cựu ước và Tân ước. Sống tâm tình Cựu ước, ta đầy tin tưởng vui mừng vì bỉ cực thái lai, đêm qua ngày tới, sau giông tố trời lại sáng, có sa ngã thì có cứu độ, có lưu đầy thì có đất hứa, có Pharaon thì có Maisen, có Adam thì có Đấng Cứu thế. Sống tâm tình Tân ước, ta càng bùng cháy niềm tin yêu dạt dào, tràn đầy niềm vui vì Đấng Cứu thế đã đến rồi, đêm đông đã chan hòa ánh sáng, đồng hoang đã vang dội tiếng muôn thiên thần mừng hát Đấng đã ban ánh sáng chiếu soi cho muôn dân ngồi trong bóng tối tử thần.
4. Tỉnh thức và chờ đợi - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào Chúa nhật I Mùa Vọng, Năm Mới Phụng Vụ được bắt đầu, đặc biệt chúng ta chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh của Con Một Chúa và bắt đầu lại cuộc lữ hành thiêng liêng hướng về Ðấng Thiên Sai muôn dân mong đợi.
Thiên Chúa là "Ðấng đang ngự đến"; Ngài đã đến giữa chúng ta nơi con người Chúa Giêsu Kitô; Ngài sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Mùa Vọng mới bắt đầu, dân Chúa lại được Đức Giêsu Kitô hướng dẫn trong cuộc hành trình mới. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đặt vấn đề: "Hành trình về đâu? Có một đích chung nào không? Ðích ấy là gì? Thiên Chúa đã trả lời thông qua ngôn sứ Isaia: " Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, Nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: "Ðến đây, ta cùng lên núi Ðức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ." (Is 2,2-3)
Ðó là một cuộc hành hương của cả vũ trụ hướng về một cùng đích chung, chính là Giêrusalem của Cựu Ước, nơi có Ðền Thờ Ðức Chúa, vì từ đó, dung nhan của Thiên Chúa và giới luật của Người sẽ được ban truyền, và "đền thờ của Thiên Chúa" là chính Người, Ngôi Lời đã làm người: Người hướng dẫn và đặt đích đến cho cuộc hành hương của Dân Chúa; và là ánh sáng chiếu rọi dân Người để họ có thể tiến tới một Vương Quốc của công chính và bình an. Tiên Tri Isaia nói: "Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôndân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến." (Is 2,4)
Như vậy, hành trình mới nhân loại được Chúa Giêsu hướng dẫn qua dòng lịch sử hướng về sự kiện toàn trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Mùa Vọng được ghi dấu đặc biệt bởi sự tỉnh thức và đợi chờ. Tỉnh thức để tích cực làm việc tốt, chờ đợi trong tình yêu thương và hy vọng. Vì thế, chúng ta có thể dùng thời gian này như một lời mời gọi đổi mới một vài khía cạnh cần thiết trong cuộc sống.
Thứ nhất, cần phải tỉnh thức, vì ý nghĩa cuộc sống trên trái đất này là để chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu, mà thời gian chuẩn bị là món quà và ân sủng của Thiên Chúa. Ngài không muốn áp đặt tình yêu của mình trên chúng ta, cũng không phải trên Trời: Ngài muốn chúng ta được tự do (vì đây là cách duy nhất của tình yêu). Chúng ta không biết khi nào việc chuẩn bị sẽ kết thúc: "Chúng ta loan báo Chúa Kitô đến và không chỉ có đến mà còn hoàn tất thế giới này" (Thánh Cyrillô thành Giêrusalem). Nỗ lực duy trì một thái độ mới với niềm hy vọng là điều chúng ta phải có.
Thứ hai, chúng ta cần phải tỉnh thức vì thói quen và thoải mái không thích hợp với tình yêu. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta rằng, cũng như "trong thời Noe" người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng (x.Mt 24,37-38) không có nghi ngờ gì khi mà lụt đại hông thủy đến. Tương tự như thời ông Noe, Đấng xét xử sẽ đến đem người này đi và bỏ người kia lại, thật bất ngờ.
Phải tỉnh thức, Đức Bênêđictô XVI nói: "chỉ có người tỉnh thức mới không cảm thấy bất ngờ". Chúng ta phải chuẩn bị với một tình yêu rực cháy trong tim, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể. "Kìa chàng rể đến" (Mt 25,6), Chúa Giêsu Kitô sẽ đến vào lúc người ta không ngờ.
Ngày giờ Chúa đến là niềm vui không cùng cho những ai cầm đền cháy sáng trong tay. Người đến như một người cha trong gia đình sống ở phương xa viết thư thăm nhà: Cả nhà cứ đợi, bố sẽ về. Từ từ hôm đó, niềm vui tràn ngập trong gia đình đến: Bố về! Các thánh là những mẫu gương cho chúng ta, vì các ngài đã sống "trong sự chờ đợi Chúa".
Mùa Vọng giúp chúng ta chờ đợi Chúa đến trong yêu thương và an bình. Thánh Augustinô cho chúng ta một bài học về sự đợi chờ: "Sống sao chết vậy". Nếu chúng ta chờ đợi với tình yêu, Chúa đến, Người sẽ lấp đầy trái tim ta niềm vui chờ đợi Chúa.
"Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến" (x.Mt 24,42). Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI giải thích: "Tỉnh thức có nghĩa là theo Chúa, lựa chọn những gì Chúa Kitô đã chọn, yêu thương những gì Chúa đã yêu, để có một cuộc sống phù hợp với mình. Khi Con Người đến ...Chúa Cha sẽ chào đón chúng ta trong vòng tay yêu thương của Chúa, vì chúng ta giống Con của Ngài".
Noi gương Mẹ Maria, mẫu gương đẹp nhất trong Mùa Vọng về sự chờ đợi và đón nhận Con Thiên Chúa làm Người. Nguyện xin Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria giúp chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa Kitô ngự đến. Amen.
5. Thái độ mong chờ Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kính thưa cộng đoàn,
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi: Chúa đã đến chưa? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng: Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa khi Ngài sinh bởi Ðức Trinh Mữ Maria ; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do chữ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: “Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi”, và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: “Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống”. Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mang tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Các bài đọc Thánh lễ trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Ðức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Ðức Chúa. Lòng kính sợ Ðức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở...” (Is 11, 1-10).
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng cũng nhắc lại việc Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế: thiên thần Gabriel hiện ra với Đức Maria và báo cho Mẹ biết rằng: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận (...) Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng: “Có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, Mùa Vọng kêu gọi người kitô hữu cải hóa nội tâm. Những việc cử hành thánh thường xuyên nhắc nhở chúng ta canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi Chúa nhật với tên gọi truyền thống đặc thù của nó gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu:
- Chúa nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi... (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa… )
- Chúa nhật II Mùa Vọng: Populus Sion ... (Này hỡi Dân Sion…)
- Chúa nhật III Mùa Vọng: Gaudete ... (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)
- Chủ nhật IV Mùa Vọng: Rorate ... (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính...)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Con Chúa đến lần thứ nhất. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Đức Giêsu nhắc bảo chúng ta hãy tỉnh thức để sẵn sàng cho lần đến cuối cùng của Ngài (Mt 24, 37-44).
Ðức Giêsu nói về ngày Ngài đến sẽ giống như thời ông Nôe: “Thình lình đại hồng thủy đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy” (Mt 24, 37). Những điều Chúa loan báo trên đây that quá bất ngờ, vì bất ngờ nên “phải tỉnh thức” là thượng sách.
Chẳng nói đâu xa, năm 2012 người ta đang dự kiến ngày tận thế là ngày 23 tháng 12 tính theo lịch của dân Maya, nhiều người trên thế giới đã lo lắng vì lời đồn đoán ấy, họ đi mua nến, mua dầu, mua mì tôm... Người ta sợ phải lìa bỏ cái thế giới thân yêu này, cho dù nó vẫn còn nhiều khổ não. Trong thời đại của chúng ta không thiếu các thiên tai, chiến tranh, bạo lực. Phải chăng đó là dấu hiệu của ngày tận thế?
Chúa Giêsu xác nhận sẽ có ngày tận thế, nhưng không phải để tan biến thành hư vô. Sẽ có những dấu hiệu làm nhiều người hoang mang sợ hãi, nhưng đối với các tín hữu, đó là dấu hiệu vui mừng vì mình sắp được cứu độ. Chúa mời gọi chúng ta: “ Các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến” (Mt 24, 44).
Chuẩn bị lễ Giáng Sinh, mỗi người chúng ta tự hỏi: về phần tôi, tôi đang chờ đợi điều gì? Trong lúc này của đời tôi, con tim tôi đang hướng về điều gì? Lòng tôi có bị vướng vào những hành vi ám muội… ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị… thỏa mãn xác không? (x. Rm 13, 11-14) Trái tim tôi có bị nặng nề bởi những lo âu trần thế không? Những nỗi lo toan về cuộc sống vật chất vắt kiệt sức ta, khiến ta không còn khả năng mở lòng mình ra với Chúa và tha nhân? Trái tim nặng nề nên nhiều người mắc bệnh tim. Trái tim bị kéo xuống cái thực dụng tầm thường ở trên mặt đất, nên con người bị còng xuống, không ngước lên được điều trên cao. Thánh Phaolô bảo chúng ta: “Anh em biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy” (Rm 13, 11).
Chúa Giêsu dạy chúng ta “hãy tỉnh thức”. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “phải thức dậy” (Rm 13, 11). Vậy mỗi người chúng ta đây hãy thức tỉnh và cầu nguyện, để khi Con Người là Đức Giêsu ngự đến trên mây trời, Ngài thấy chúng ta đang ở tư thế sẵn sàng, đứng thẳng, không phải xấu hổ cúi đầu, không bị ràng buộc bởi đam mê, nhưng vui sướng vì mình đã không uổng công chờ đợi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ “đầy ân sủng”, Mẹ đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong lòng, xin giúp chúng con cởi mở tâm hồn đón nhận Chúa Giêsu Con Mẹ. Lạy Ðấng Cứu Thế là Vua Hòa Bình xin ngự đến. Amen.
6. Dấu chỉ thời đại
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay nói về ngày tận thế sẽ bất ngờ xảy đến. Tất cả những biến cố được mô tả cho thấy rằng trần gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thế nhưng mà nhiều người lại dừng chân ở đó. Họ cố gắng tìm tòi vật chất và ra sức xây dựng một thiên đường trần gian. Đó chính là trường hợp của những kẻ mà ngày xưa đã bị dòng nước hồng thuỷ cuốn trôi. Những ai không biết đọc những dấu chỉ thời đại rồi cũng bị những tai hoạ bất ngờ đổ xuống như vậy.
Trong chiều hướng ấy, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: liệu tôi đã nhận ra những dấu chỉ thời đại hay chưa? Liệu tôi có đọc được thánh ý Chúa qua những biến cố xảy ra trên mặt đất này hay chưa? Công đồng Vatican II trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng đã viết: Chúng ta đang gán cái ý nghĩa Phúc Âm nào cho những biến cố hiện đại đang tác động trên con người và trên nhân loại?
Trước hết về phía con người. Chúng ta đang chứng kiến sự giảm sút niềm kính trọng đối với nhân vị. Theo một số nhà khoa học thì con người chỉ là kết quả của một sự tình cờ ngẫu nhiên trong đà tiến hoá của vật chất. Với một quan niệm như thế thì con người còn có giá trị gì? Trong khi đó Phúc Âm đặt con người vào trong mối tương quan với Đức Kitô. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Mặc dù tội lỗi, nhưng đã được Đức Kitô cứu chuộc, để rồi trở nên con cái Thiên Chúa. Sự sống con người là một cái gì linh thiêng. Từ đó chúng ta đi tới một kết luận: chủ nghĩa duy vật hiện nay trong lý thuyết cũng như trọn cuộc sống là một dấu chỉ thời đại thôi thúc chúng ta phải xác định lại phẩm giá con người một cách mạnh mẽ.
Tiếp đến là cộng đồng nhân loại. Trong thế giới ngày nay, chưa bao giờ con người được sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật như ngày nay. Từ phương trời này đến phương trời kia chúng ta có thể liên hệ với nhau chỉ trong giây lát. Phải chăng đó cũng là một dấu chỉ thời đại khiến chúng ta phải tạo cho mình một não trạng phổ quát, một não trạng công giáo bao trùm trên toàn thế giới. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy hiện nay Thiên Chúa đang đi tới con người qua tất cả những phương tiện dễ dàng làm cho con người gặp gỡ nhau.
Ngoài ra những thành công của con người cũng là một dấu chỉ biểu lộ sự phong phú vô biên của Thiên Chúa nơi tạo vật. Thế nhưng uy quyền của con người càng tăng thì trách nhiệm của nó lại càng lớn. Con người sẽ làm việc cho con người, trong một ý nghĩa tích cực, nếu nó duy trì mối liên hệ với Thiên Chúa. Nếu nó xa lìa Thiên Chúa, thì uy quyền càng nhiều, sức phá huỷ của nó càng gia tăng. Trước những chuyển biến xảy ra hằng ngày, liệu chúng ta có tỉnh thức nhận ra sứ điệp Chúa muốn gởi đến hay không?
7. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Hãy sẵn sàng cho một tương lai tốt đẹp
I. Dẫn Vào Thánh Lễ
Hôm nay Hội Thánh bước vào Mùa Vọng. Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều gì? Phải chăng là mong chờ Lễ Giáng sinh? Thưa không, chúng ta không mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến, Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng những ơn lành ấy chỉ đến với những ai đã chuẩn bị lòng mình sẵn sàng. Vậy kể từ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tích cực chuẩn bị tâm hồn, vì ơn cứu độ của Chúa đã đến gần.
II. Gợi Ý Sám Hối
Một năm phụng vụ đã trôi qua, hôm nay bắt đầu một năm phụng vụ mới. Phải chăng trong năm phụng vụ vừa qua chúng ta đã có phần thờ ơ, ươn lười, nhiều lầm lỗi?
Xã hội ngày nay đầy dẫy sự xấu. Phải chăng chúng ta cũng có phần tạo nên tình trạng ấy?
Chúng ta cũng mong rằng thế giới sẽ tốt hơn, con người sẽ thương yêu nhau hơn. Nhưng chúng ta có làm gì cho tương lai ấy mau đến không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 2,1-5):
Vào hậu bán thế kỷ VIII trước công nguyên, vương quốc Giuđa khá thịnh vượng về mặt vật chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt đạo đức. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia một mặt thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối, mặt khác loan báo rằng nếu dân trở lại thì Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp.
Tương lai ấy được Isaia diễn tả bằng những hình ảnh thi vị:
Ðó sẽ là thời dân Thiên Chúa được tôn vinh: "Núi Nhà Chúa sẽ được xây trên đỉnh các núi". Mà dân Thiên Chúa được tôn vinh cũng có nghĩa là Thiên Chúa được tôn vinh, vì chính nhờ đức tin của họ mà các dân tộc trên mặt đất sẽ biết tới Chúa và tôn thờ Ngài: "Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà của Giacóp".
Khi mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng sẽ là một thời thái bình: "Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa".
2. Ðáp ca (Tv 121)
Tâm tình đầy lạc quan hy vọng của Isaia được diễn tả qua Tv 121: "Ôi tôi sung sướng biết bao khi nghe nói: Chúng ta sẽ về nhà Chúa"
3. Bài Tin Mừng (Mt 24,37-44)
Ðức Giêsu cho biết Ngày tốt đẹp ấy sắp đến. Nhưng Ngài đặc biệt lưu ý ba điều:
a/ Ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe: thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục "Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ".
b/ Trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau: có người sẽ "được đem đi" (được tiếp nhận), nghĩa là được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ "bị bỏ lại", nghĩa là không được hưởng hạnh phúc ấy (Chú ý: một số bản Việt ngữ đã dịch ngược nghĩa là "bị đem đi" và "được để lại").
c/ Ðược tiếp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Vì thế Ðức Giêsu kết luận: "Vậy các con phải sẵn sàng"
4. Bài đọc II (Rm 13,11-14)
Thánh Phaolô nói rằng Ngày tươi sáng đó rất gần rồi: "Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến... Ðêm sắp tàn, ngày gần đến". Và Ngài giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng:
a/ Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là "từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu". Nghĩa là phải tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ và cổ vũ cho sự thiện.
b/ Kế đó, tỉnh thức sẵn sàng là thay đổi cách sống: Hãy bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị, lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt; thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Ðức Giêsu Kitô.
IV. Gợi Ý Giảng
1. Phải biết nuôi hy vọng
Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Country trong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ: ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng. Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apartheid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.
Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa: Ông mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Ðấng Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Ðấng Messia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.
Một chuyện khác: Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi cánh rộng màu trắng rực rỡ. Ðó là con chim đẹp nhất trong các loài chim trên mặt đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia. Một lần anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thoáng thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước của mình.
Cuộc săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của loài người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ toàn thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ có ngày sẽ đứng trên đó. Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.
Ngay cả khi giấc mơ thái bình ấy sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên toàn thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời ta. Ðiều quan trọng không phải là đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều khi, có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ mục đích ấy.
Thế giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều, nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được: bất hòa khắp nơi, trên bình diện lớn như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ; hoặc trên bình diện nhỏ như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi kitô hữu có thể góp phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xoá bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau...; bằng cách gieo rắc hòa thuận, cảm thông, hợp tác...
Chúng ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa giúp ta: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến ở với loài người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.
2. "Ðây là lúc chúng ta phải thức dậy"
Lời Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang ngủ vùi?
Ðúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù:
- Chúng ta ngủ vì "những việc làm đen tối"
- Chúng ta ngủ vì cứ "chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng"
- Chúng ta ngủ vì lòng đầy "tranh chấp đố kỵ"
- Chúng ta ngủ vì chỉ "lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt".
Nhưng Thánh Phaolô nhắc nhở rằng: "Ðêm sắp tàn, ngày gần đến" và "Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo", vậy "Ðây là lúc chúng ta phải thức dậy".
- "Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày"
- Hãy "cầm lấy khí giới của sự sáng" để chiến đấu chống lại những sức mạnh của tối tăm tội lỗi.
- Hãy cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để "mang lấy Ðức Giêsu Kitô".
3. Hai người, hai số phận
"Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi".
Ðức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe: Ông Nôe chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, "ăn uống, dựng vợ gả chồng". Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện "ăn uống, dựng vợ gả chồng".
Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời... Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ "được tiếp nhận", kẻ nào mãi thờ ơ thì như "đàn gãy tai trâu" và sẽ "bị bỏ lại".
4. Chúa cấm con thất vọng
* Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế (ÐHV 971)
Cha Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Ðọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng:
- "Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó".
- "Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện".
- "Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói 'Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp'"
- "Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói: 'Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đường...'"
- "Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa" (ÐHY NVT, Trên đường lữ hành)
5. Thức dậy
Ở Mêhicô, giáo phận của Ðức Cha Samuel Ruiz có tới 80% giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau: "Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ, nghĩa là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một thân cây và bị ông chủ dùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa." Chính cái biến cố đó đã làm cho Ðức Cha Samuel Ruiz "thức dậy". Từ đó trở đi, ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi người da đỏ.
Chuyện trên cho ta thấy hai điều: 1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy; 2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy: thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Mùa Vọng, mùa Xuân của năm phụng vụ, là thời gian chuẩn bị đón mừng Ðức Kitô, Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa hướng lòng trông đợi Người đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Trong niềm khát khao trông chờ Chúa ngự đến, chúng ta cùng tin tưởng nguyện xin.
1. Hội Thánh được Chúa Giêsu thiết lập / và trao ban sứ mạng rao giảng mọi nước mọi dân biết Thiên Chúa là Tình yêu. / Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / luôn làm tròn sứ mạng cao quý nhưng hết sức khó khăn này.
2. Khát vọng sâu xa nhất của con người thời nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng. / Nhưng chiến tranh vẫn bùng nổ ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao cảnh tang thương. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương thâm nhập mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết thương yêu và tôn trọng nhau hơn.
3. Thánh Phaolô kêu gọi: / "Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày / không chè chén say sưa / không chơi bời dâm đãng / cũng không cãi cọ ghen tương" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết luôn ghi nhớ và thực hiện lời mời gọi của vị tông đồ dân ngoại / để có thể trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng chiếu soi trần gian.
4. Ðức Giêsu nhắc nhở các môn đệ: / "Anh em hãy canh thức / vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến". / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sẵn sàng đón Chúa ngự đến / bằng một đời sống sốt sắng thờ phượng Chúa và chan hòa tình bác ái yêu thương.
CT: Lạy Chúa, vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Con Một xuống thế làm người, sống kiếp phàm nhân, nên giống chúng con trong mọi sự, trừ tội lỗi. Xin cho tất cả chúng con thiết tha trông chờ Con Chúa ngự đến, biết chuẩn bị xứng đáng tâm hồn, để đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin...
(Phần "Lời nguyện cho mọi người" của Năm A này được trích từ Báo Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh năm Phụng vụ A, 1998-1999)
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Nên dùng Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh một số nơi:
. Sau lời tung hô sau truyền phép: "Vì vậy lạy Cha, giờ đây chúng con tưởng nhớ... đồng thời mong đợi Người lại đến, chúng con dâng lên Cha hy lễ hằng sống và thánh thiện này..."
. Sau truyền phép, đoạn 4: "Lạy Cha, xin cho hy lễ hòa giải này... Còn những con cái Cha đang tản mát bốn phương trời, xin thương quy tụ tất cả về với Cha..."
- Trước Kinh Lạy Cha: Trong niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời", chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha sau đây:
- Chúc bình an: Ngôn sứ Isaia đã mơ đến ngày thế giới không còn chiến tranh, người ta sẽ lấy gươm giáo rèn thành lưỡi hái lưỡi cày. Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an và trở thành những người xây dựng hòa bình cho cuộc sống.
- Trước lúc rước lễ: "Ðây Chiên Thiên Chúa, Ðấng đã đến xóa tội trần gian và sẽ lại đến thăm viếng chúng ta, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa".
VII. GIẢI TÁN
Dùng công thức ban phúc lành cuối lễ long trọng của Mùa Vọng (Sách lễ Rôma, xuất bản 1992, trang 575)
8. Chúa đến
Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến. Chúng ta trông chờ Chúa đến là bởi vì chúng ta không được thoả mãn với tình trạng hiện tại của chúng ta. Dầu có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn gặp phải không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng hạn như bệnh tật, nghèo đói, cô đơn, chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ đến để lấp đầy những khát vọng chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ mang lại một đời sống hạnh phúc:
Sẽ không còn chiến tranh, thù hận và hao tốn tiền của nữa, vì thời đại của Chúa là thời đại hoà bình. Bản thân Chúa chính là sự bình an như lời các thiên thần hát vang trên cánh đồng Bêlem: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Thời đại của Chúa là thời đại hòa bình như tiên tri Isaia đã diễn tả: Khi Chúa đến, người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi hái. Nước này sẽ không còn tuốt gươm ra xông đánh nước kia. Mọi người sẽ chung sống với nhau trong hoà thuận và yêu thương. Sẽ không còn cái cảnh cá đớp cá, người trói người. Sẽ không còn cái cung cách người với người là chó sói của nhau bởi vì tứ hai giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em ruột thịt vì cùng là con của Cha trên trời.
Người ta sẽ không còn tranh chấp lừa đảo nhau nữa bởi vì Chúa sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ tuân theo ý định của Ngài. Mọi mơ ước của con người sẽ được thoả mãn, sẽ trở thành sự thật. Vậy cảnh địa đàng này bao giờ sẽ tới? Bao giờ Chúa mới ban cho chúng ta hoà bình và hạnh phúc đích thực và lâu dài?
Điều đó chúng ta không hay biết bởi vì Chúa đã phán: Vào lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến. Lúc Chúa đến có thể hiểu là giờ chết của mỗi người chúng ta, hay là ngày tận thế. Chúng ta không biết lúc nào sẽ xảy ra hai việc ấy. Do đó, lo lắng tìm biết lúc nào mình sẽ chết hay lúc nào sẽ là ngày tận thế? Đó là một việc làm luống công và vô ích. Trái lại hãy phó thác tương lai cho Chúa như lời Ngài đã phán: Chớ áy náy về ngày mai. Ngày mai sẽ lo cho ngày mai, ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy, nhưng tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Ngài.
Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta không phải là tìm biết ngày giờ lìa đời, hay ngày giờ tận thế, nhưng là chuẩn bị tâm hồn để có thể đứng vững trước mặt Con Người, khi Ngài đến. Hay như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang lấy khí giới của ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng của xác thịt.
Có sống như vậy thì khi Chúa đến, chúng ta sẽ được nghe những lời nói đầy êm dịu ngọt ngào và yêu thương của Chúa: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến, lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời, đã được dọn sẵn cho các con từ muôn ngàn thuở trước.
9. Hãy sẵn sàng
Qua phần phụng vụ Lời Chúa sáng hôm nay, Giáo Hội muốn đặt chúng ta trước số phận đời đời đang chờ đón. Thực vậy, Giáo Hội đã lên tiếng khuyên nhủ chúng ta: đừng để cho những vui thú ru ngủ, trái lại hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì Đức Kitô sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ và giờ chúng ta không biết. Nhất là qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trình bày về ngày sau hết như là một biến cố bất ngờ, không ai nắm vững. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại nghĩ rằng: Ngày ấy còn xa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy đến.
Trong phạm vi cá nhân, thì ngày sau hết chính là ngày cái chết gõ cửa. Đúng thế. Cái chết là một sự kiện vừa chắc chắn lại vừa gần gũi. Với cái chết chúng ta sẽ phải ra trước toà án tối cao của Thiên Chúa, để chịu phán xét về những việc lành dữ mình đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Bài Phúc Âm đã cho chúng ta thấy hai giới tuyến rõ rệt: Bấy giờ, hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Vậy thì Lời Chúa có ý nghĩa gì?
Cả hai trường hợp đều cho chúng ta thấy hai người đang làm việc trong ngày Đức Kitô trở lại, thế nhưng số phận đời đời của họ thì lại hoàn toàn khác biệt nhau. Một người thì sẽ được đưa về trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, còn một người thì sẽ bị đày đoạ trong hoả ngục với muôn vàn khổ đau. Bởi vì họ đã chống đối ơn sủng và tình thương của Chúa cho đến cùng. Chính vì thế mà vấn đề quan trọng nhất đó là sống trong tình thương và ơn sủng của Chúa.
Vì yêu thương chúng ta và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Trong một ngày mà thôi, có biết bao nhiêu người đã phải vĩnh viễn ra đi vào lúc họ nghĩ rằng ngày ấy còn xa, nên chẳng kịp chuẩn bị và sửa soạn. Một tai nạn xe hơi. Một cơn đau tim hay một ngọn gió độc bất ngờ nào đó.
Chúng ta phải cảm phục thái độ can đảm của những người tín hữu trưởng thành, khi phải đối đầu với cái chết. Họ đã giục lòng ăn năn ám hối xin Chúa xoá bỏ tội lỗi. Họ coi đó như là một hồng ân Chúa ban bởi vì họ đã kịp chuẩn bị cho mình một cái chết tốt lành và thánh thiện. Cái chết là một biến cố quan trọng nhất của cuộc sống, còn quan trọng hơn cả ngày chúng ta mở mắt chào đời, bởi vì kể từ đó, số phận đời đời của chúng ta được ấn định.
Vì thế, bằng mọi cách chúng ta phải chuẩn bị cho giờ chết, và phải được chết đi trong tình thương và ơn sủng của Chúa. Để đạt tới mục đích này, không gì hơn là hãy thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô: Đừng ngủ quên, cũng đừng chìm đắm trong vui thú. Ngài nói: Đêm sắp tàn và ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vị ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tỵ. Chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô.
Bởi vì chỉ mình Ngài mới là đường, là sự thật và là sự sống của chúng ta mà thôi.
10. Thánh hóa từng giây phút sống
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Hôm nay chúng ta bắt đầu năm Phụng Vụ mới: năm Phụng vụ 2013-2014. Cùng với việc mừng “tết” Phụng vụ, chúng ta cũng đồng thời bắt đầu bước vào mùa Vọng mới.
Mùa Vọng mang hai đặc tính thiết thực: 1. Mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người. 2. Mùa mà qua cuộc kính nhớ ấy, mời gọi ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế.
Ngay ngày đầu mùa Vọng, cũng là ngày đầu năm, Hội Thánh, qua Lời Chúa, nhắc nhở ta tinh thần chuẩn bị sẵn sàng cho việc đón chờ ngày Chúa đến. Đó là ngày bất ngờ, ngày đáng sợ như đại lụt hồng thủy xưa:
“Thời ông Noê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
Theo cách viết của thánh Matthêu, những người thời ông Noê chẳng làm gì nên tội. Họ chỉ làm những việc bình thường: “ăn uống, cưới vợ gả chồng”. Họ chết trong cơn nước lụt, không phải là vì họ có tội, mà vì họ không thánh hóa mọi giờ khắc, mọi công việc của mình.
Họ đã không làm mọi việc trong tinh thần cầu nguyện, trong lòng yêu mến Chúa. Đúng hơn, họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh hồn cả. Họ đã không làm những việc phải làm. Ngược lại, họ chỉ làm những việc không cần thiết.
Chúa Giêsu nhắc nhở ta phải luôn sẵn sàng vì Người sẽ đến bất cứ lúc nào. Sự sẵn sàng của ta không như những người thời Noê, nhưng là theo ý Chúa dạy. Nghĩa là, giữa cuộc sống trần thế còn nhiều bộn bề, nhiều vất vả, lo âu, nhưng ta chỉ tin tưởng phó thác vào Chúa mà thôi. Ta tập cho mình dù làm gì, ở đâu, bất cứ thời gian nào, đều biết thánh hóa giây phút hiện tại, biết hiến dâng chính giờ này, việc này, hoàn cảnh này cho Chúa.
Đức Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận, con người của niềm hy vọng, đã nêu gương tuyệt hảo trong việc sống và thánh hóa giây phút hiện tại. Ngài nói: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại, sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn; đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó”. (Đường Hy vọng 997). Đức Hồng Y càng sống niềm hy vọng, ngài càng ra sức thánh hóa phút hiện tại.
Ngày 15/8/1975, vừa khi bị bắt, ngài hụt hẩng, cô đơn vì không còn được thực hành mục vụ của một chủ chăn giáo phận. Nhưng ngay sau đó, Đức Hồng Y nhận ra, một tù nhân như ngài, không thể chờ đợi bất cứ tương lai nào. Ngài quyết định: Chỉ có thánh hóa và sống giây phút hiện tại. Ngài đã làm cho phút hiện tại chất chứa đầy tình thương.
Quá khứ đã qua, tương lai còn phía trước, chỉ có hiện tại nằm trong tầm tay của ta. Phút hiện tại sẵn sàng đồng hành với ta, giúp ta thể hiện mọi tư tưởng, thi hành mọi hành động trong cuộc sống và cho cuộc sống.
Chính khi thăng hoa phút hiện tại bằng cách thánh hóa nó, ta càng cảm nhận bàn tay kỳ diệu của Chúa vẽ thẳng trên những đường cong qua mọi ngày đời ta.
Như Đức Hồng Y, đón nhận lời mời gọi hãy tỉnh thức của Chúa Giêsu, ta hãy triệt để thánh hóa và sống thật tốt giây phút hiện tại của mình. Dù phải trăn trở, vất vả, lo âu, lao nhọc, mồ hôi, nước mắt, ta vẫn thấy Chúa đang hiện diện với mình, và bản thân đang ở trước mặt Chúa, ở trong Chúa.
Sống với Chúa luôn luôn như thế, là ta đang chuẩn bị cho ngày Chúa đến, ngày mà Người mời gọi ta về với Người.
Sống với Chúa luôn luôn như thế, là ta đang sẵn sàng, đang tỉnh thức chờ đợi ngày của Chúa. Từng giây phút sống sẵn sàng và tỉnh thức, cho thấy ta đang sống mãnh liệt niềm hy vọng trong Chúa của mình.
Sống với Chúa mãnh liệt và triền miên như thế, ta không còn sợ ngày tận thế sẽ là ngày bất ngờ với ta, vì luôn luôn có Chúa, luôn luôn hiện diện trong Chúa, chẳng có gì là bất ngờ cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và tha thứ mọi tội lỗi, mọi thiếu sót mà trong một năm qua, chúng con đã xúc phạm đến Chúa, đến anh chị em của mình. Xin cho mỗi chúng con, bước vào năm Phụng vụ mới, biết ý thức từng giây phút sống, để chúng con luôn sống cho Chúa và sống trong Chúa. Xin cho chúng con luôn nhận tinh thần tĩnh thức, là sống thánh thiện, sống nhân đức, sống hiến dâng, sống phó thác làm phương cách chuẩn bị cho giờ ra đi của mình.
11. Mùa Vọng với hai hy vọng
(Suy niệm của ĐGM. Gioan Baotixita Bùi Tuần – 25/11/2013)
Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô giáo.
1.
Mùa Vọng, tôi có hai hy vọng.
Hy vọng thứ nhất là hy vọng tôi biết đón nhận Chúa.
Hy vọng thứ hai là hy vọng tôi được Chúa đón nhận tôi.
Hy vọng vẫn là hy vọng, nghĩa là chỉ trong ước mong. Còn điều tôi ước mong có được thực hiện hay không lại là chuyện khác.
Tôi rất lo cho sự thực hiện hai hy vọng trên đây của tôi. Nỗi lo của tôi có cơ sở Phúc Âm và thực tế lịch sử.
2.
Trước hết, xin nói về hy vọng biết đón nhận Chúa.
Phúc Âm cho thấy nhiều người theo đạo Chúa thời Đức Giêsu Kitô xuất hiện, đã không biết đón nhận Người.
Thánh Gioan Tông đồ đã viết ngay trong “lời tựa” Phúc Âm của Ngài những câu đau đớn: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có. Nhưng thế gian lại không nhận biết Người, Người đã đến nhà mình, nhưng những người nhà lại chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,9-11).
Thực là phũ phàng.
3.
Sự thực phũ phàng đó lại xảy ra ngay tại Nadarét, là quê hương của Chúa Giêsu.
Thánh sử Luca viết: “Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát, và đứng lên đọc sách thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi
để tôi loan báo Tin Mừng
cho người nghèo khó
...
Người bắt đầu nói với họ: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Người nói với họ: Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình. Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphácnaum, ông cũng hãy làm tại đây, là quê hương của ông xem nào. Người trả lời: Tôi bảo thật các ông: Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương.
...
Mọi người trong hội đường đều phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,16-20).
Đồng hương của Chúa Giêsu không những không đón nhận Người, mà còn định tiêu diệt Người. Thực là một sự thực phũ phàng đầy đau đớn.
4.
Sự thực phũ phàng đau đớn như thế lại đã xảy ra một cách độc ác ngay chính những người đứng đầu đạo Chúa thời Chúa Giêsu.
Thánh sử Marcô ghi lại một cách rõ ràng: “Hai ngày trước lễ Vượt qua và lễ không men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu để bắt Đức Giêsu mà giết đi.
...
Họ điệu Đức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đều tựu lại... Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng hội đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giêsu để làm án tử hình, nhưng họ không tìm ra
...
Họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho quan Philatô.
Các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô lên án giết Đức Giêsu” (Mc 14,1-11).
5.
Những chuyện phũ phàng đau đớn và ác độc trên đây không phải là không tái diễn trong lịch sử Hội Thánh dưới nhiều hình thức khác nhau, rải rác đó đây, nơi này nơi nọ.
6.
Chuyện xua đuổi Chúa một cách quy mô có thể là không nhiều. Nhưng chuyện dửng dưng không đón nhận Chúa là chuyện phải nói là thông thường. Chúa phán: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa ra, thì Ta sẽ vào nhà người ấy” (Kh 3,20). Biết bao lần, tôi đã không tỉnh thức nghe tiếng Chúa gõ cửa lòng tôi. Biết bao lần, tôi nghe tiếng Chúa gọi, nhưng tôi đã không mở cửa lòng tôi ra, để đón Chúa.
Không đón Chúa đến với mình, đó là một thực tế đau lòng, mà tôi thấy đang xảy ra nơi nhiều người đạo Chúa.
Thực tế đau lòng đó cũng rất có thể đang xảy ra nơi tôi. Lạy Chúa, xin Chúa xót thương con.
7.
Bây giờ, tôi nhìn sang hy vọng thứ hai của tôi, đó là hy vọng tôi được Chúa đón nhận.
Phúc Âm cho thấy điều này: Những điều Chúa Giêsu giảng dạy dưới mọi hình thức đều quy về mục đích đưa con người vào chính lộ dẫn về Nước Trời, nơi được hạnh phúc trường sinh bên Chúa.
Những ai đi vào chính lộ, phấn đấu làm điều phúc đức, tránh điều tội lỗi, bước theo Chúa đến cùng, sẽ được Chúa đón nhận vào thiên đường. Còn những ai làm theo ý riêng mình, không từ bỏ tội lỗi, không sám hối, trở về với Chúa, sẽ không được Chúa đón nhận. Những ai được Chúa đón nhận và những ai không được Chúa đón nhận đều đã được Chúa nói rõ trong Phúc Âm, nhất là trong nhiều dụ ngôn, đặc biệt là trong bài nói về ngày phán xét.
8.
Phán đoán của Chúa rất công minh, và rất nhiệm mầu. Nhưng chắc chắn điều này là: Chúa ưa thích những ai khiêm nhường, chân thành, tin cậy vào Chúa và biết xót thương người khác, luôn tìm thực thi ý Chúa và biết sám hối. Tôi nhớ tới người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7,38-50) và người trộm cướp bị đóng đinh bên hữu Chúa (x. Lc 23,40-43).
Có thể nói tinh thần hưởng thụ, nếp sống thực dụng và thói quen đưa mình lên luôn là những cản trở khiến con người mọi nơi mọi thời không được Chúa đón nhận.
Lời Chúa phán sau đây làm tôi lo sợ: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Nhưng, bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố vói họ: Ta không hề biết các ngươi là ai. Hãy xéo đi cho khuất mặt Ta, hỡi những kẻ làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Như vậy, tôi đừng có chủ quan tự mãn với những việc tôi làm, mà tôi tưởng là lành thánh. Bởi vì rất có thể khi tôi làm những việc đó, đã có pha mục đích khoe khoang, và trái ý Chúa.
9.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi thấy Mùa Vọng của tôi sẽ là thời gian quý giá để rà soát lại hai hy vọng của tôi.
Tôi rà soát lại bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, là hai phụ nữ quan trọng trong mùa Vọng.
Đức Mẹ Maria đã đón nhận Chúa một cách rất khiêm nhường, phó thác. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Mẹ một cách bất ngờ với tình yêu thương xót, và đã làm nơi Mẹ những sự lạ lùng, vì danh Người là Thánh.
Bà thánh Isave đã đón nhận Chúa với lòng tin mãnh liệt và tâm tình cảm tạ khiêm cung. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Bà một cách tế nhị kín đáo với một chương trình cứu độ hết sức lớn lao.
Đức Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu, bà Isave cưu mang thánh Gioan Baotixita. Cả hai phụ nữ cưu mang ấy đã rất âm thầm, nhưng đã cộng tác rất đắc lực với chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Ở bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, tôi trở thành bé nhỏ. Và tự nhiên, tôi hiểu bé nhỏ, khiêm nhường, nghèo khó, tin tưởng ở Chúa chính là những điều kiện cần, để sống mùa Vọng với hai hy vọng của tôi.
Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô giáo. Nếu thiếu đời sống nội tâm với những nét căn bản đó, tôi có thể sẽ chỉ còn là người của một cơ chế tôn giáo, chứ không là chứng nhân đích thực của đức tin.
Lạy Chúa, xin thương xót con.
12. Đừng ảo tưởng – Lm Ignatiô Trần Ngà
Vào dịp cuối năm, Lu-xi-phe triệu tập đại hội đồng quỷ sứ để kiểm điểm tình hình hoạt động suốt năm qua.
Quỷ già, quỷ cái, quỷ con đều họp mặt đông đủ và báo cáo cho Quỷ Vương Lu-xi-phe biết tình hình cám dỗ của toàn bầy quỷ sứ.
Nói chung, hoạt động cám dỗ không đạt kết quả như chỉ tiêu đã đề ra và tỉ số người phải xuống hoả ngục xem ra không gia tăng đáng kể.
Vì thế, khi bước qua phần hai của chương trình thảo luận, Quỷ Vương Lu-xi-phe kêu gọi hội đồng quỷ hãy đề ra những chiêu thức cám dỗ hữu hiệu hơn, liệu sao để lôi kéo được nhiều linh hồn sa hoả ngục hơn.
Các quỷ tham gia tranh luận sôi nổi, bày ra nhiều mưu chước nhằm làm cho loài người sa vòng tội lỗi. Ý kiến thì nhiều, nhưng chỉ nêu ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Có quỷ đề nghị hãy cám dỗ các bạn trẻ rằng: "Không có Thiên Chúa, không có thiên đàng hoả ngục. Thiên đàng là ảo tưởng do Giáo Hội bày ra để dụ khị loài người; hoả ngục chỉ là sản phẩm do Cha Cố thêu dệt để hù doạ những người yếu bóng vía. Đừng dại dột tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau mà phí cả cuộc đời!". Mưu chước nầy cũng chưa thuyết phục nên không được đa số chấp nhận.
Có quỷ thì hiến kế nên thuyết phục người ta biết rằng Đức Giêsu chỉ là hạng phàm phu tục tử, Phúc Âm của Ngài gồm toàn những chuyện bịa đặt viển vông..." nhưng rồi ý kiến nầy cũng không được hưởng ứng.
Cuối cùng có lão quỷ già có tiếng là đa mưu túc kế lên tiếng: "Theo tôi, chúng ta nên cám dỗ thế nầy: "có Thiên Chúa, có thiên đàng hoả ngục, có linh hồn, có sự sống đời sau... (mình phải nói như vậy để người ta tin mình đã, rồi ta sẽ thêm) nhưng bạn hãy nhớ rằng: Đời bạn còn dài mà, bạn chưa chết đâu! Vậy hãy vui hưởng lạc thú đời nầy đi! Đợi đến khi già yếu rồi ăn năn sám hối cũng chưa muộn."
Một tràng pháo tay giòn vang tán thưởng diệu kế của lão quỷ già thâm độc. Thế là hội nghị nhất trí với phương thức cám dỗ được xem là sẽ rất kiến hiệu của lão quỷ già đa mưu.
Hiện nay, hầu như mọi người đều tin theo lời cám dỗ độc hại ấy. Ai cũng tin rằng đời mình còn dài, chưa đến lúc phải ăn năn hối cải. Ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ta sẽ sám hối, sẽ cải thiện cuộc đời, còn hôm nay, thì...
Qua bài trích thư gởi tín hữu Rô-ma trích đọc hôm nay (Rm 13, 11-14) thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy mau quay về với Chúa, hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, đừng mơ tưởng đời còn dài rồi cứ đắm mình trong lạc thú:
"Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng."
Và Lời Chúa trong Tin Mừng cũng kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức vì giờ Chúa đến thật bất ngờ; vì như "Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy".
"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Nếu hôm nay, lúc còn an bình khoẻ mạnh, ta không tưởng gì đến Chúa; đợi đến lúc lâm nguy rồi mới chạy đến với Ngài thì chúng ta xem Chúa có khác gì chiếc phao. Bình thường khi trời quang mây tạnh, mọi sự an lành thì không ai thèm ngó lại chiếc phao, xem nó như cái gì thừa thãi vô tích sự, có thấy nó nằm giữa lối đi thì người ta cũng đá nó sang một bên, không ai thèm đoái hoài. Nhưng khi gặp phong ba bão táp, nguy khốn đến nơi thì tranh nhau giành lấy phao cho bằng được!
Lạy Chúa, Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Thiên Chúa tối cao mà chúng con phải phụng thờ suốt đời, ngay cả bây giờ, chứ không phải là chiếc phao cứu mạng chỉ cần dùng lúc gặp gian nguy khốn khó.
Xin cho chúng con đừng khờ khạo tin rằng đời còn dài, hãy tận hưởng đời và mê đắm trong tội mà lãng quên phần rỗi đời đời của chúng con.
13. Con hướng về Chúa
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên - Hải Phòng, Mùa Vọng 2016)
Khi nỗ lực đón Chúa ngự đến tâm hồn, chúng ta sẽ được hưởng sự ngọt ngào của ân sủng. Đó cũng là niềm vui và hạnh phúc Chúa ban cho những ai chuyên tâm quy hướng về Ngài.
Con hướng về Chúa
Như đất khô mong nước nguồn
Như tuần phiên mong trời sáng
Như con thơ mong mẹ hiền (Thánh ca)
Lời của bài Thánh ca diễn tả niềm khát vọng của con người luôn hướng về Chúa, bất kể họ thuộc về thời đại hoặc nền văn hoá nào. Con người cần Chúa như thân xác cần hơi thở, như đất cần có mưa. Niềm mong đợi Chúa vừa thiêng liêng cao cả, vừa thân thiết gần gũi. Không có Chúa, đời sống sẽ khô cằn, vô nghĩa. Vắng bóng Ngài, cuộc đời sẽ lạc lõng, đau thương.
“Con hướng về Chúa”, đó là lời tuyên xưng đức tin vào Đấng là nguyên lý của muôn vật muôn loài. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng thiên nhiên vũ trụ và con người. Ngài dựng nên mọi sự từ hư vô. Ngài tiếp tục điều khiển vũ trụ, làm cho nó chuyển động trong trật tự kỳ diệu. Nhờ Chúa mà bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, thay nhau đắp đổi. Do Ngài mà bát tiết, tháng năm trật tự xoay vần. Với tình yêu thương quan phòng, Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ để công trình tạo thành của Ngài ngày càng tiến triển, đạt tới tầm vóc hoàn hảo trong tương lai, vào thời điểm Ngài muốn. Trong số các tạo vật, con người được Chúa ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Ngài còn phú bẩm cho họ linh hồn bất tử. Thiên Chúa cũng chia sẻ cho con người vinh quang của Ngài. Ngài dựng nên họ để hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Khi tôn nhận Chúa là nguyên lý của muôn vật muôn loài, chúng ta sẽ yêu mến thiên nhiên và yêu mến cuộc sống này hơn, vì vũ trụ này phản ánh vinh quang và sự thánh thiện của Thiên Chúa. Hướng về Chúa là khuynh hướng tự nhiên thuộc bản tính con người, giống như nam châm hút sắt, như đoá hoa hướng dương ngả về mặt trời. Trong nỗi khắc khoải hướng về Chúa, tác giả Thánh vịnh đã thốt lên: “Ngay từ rạng đông, con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” (Tv 62,2). Từ xa xưa, khi con người bắt đầu hiện hữu trên trái đất, cũng là lúc con người khởi đầu những nỗ lực tìm kiếm Chúa, nhưng họ lầm tưởng Ngài với những hiện tượng thiên nhiên huyền bí. Đó là lý do tại sao những bộ lạc hoang sơ đã thờ mặt trời mặt trăng, cây đa cây đề, hoặc thần núi thần sông, thần sấm thần sét. Họ quan niệm rằng những hiện tượng và thực tại đó là những thần linh cao cả quyền năng.
“Con hướng về Chúa”, đó là tâm tình yêu mến của những ai tin vào Đấng là Cha chung của gia đình nhân loại. Tâm tình ấy thân thiết, gần gũi ấm êm “như con thơ mong mẹ hiền”. Chúa là Đấng đáng yêu đáng mến, vì Ngài tốt lành thánh thiện, và nhất là Ngài đã dựng nên chúng ta và cho chúng ta hiện hữu trên đời. Ngài còn ban cho chúng ta biết bao điều tốt lành trong cuộc sống. Trước những điều may mắn phúc lộc xảy đến trong cuộc đời, nhiều người nghĩ đó là điều ngẫu nhiên, nhưng những ai tin Chúa đều nhận ra đó là ân ban do lòng từ tâm và thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã khẳng định với chúng ta, những sợi tóc trên đầu mỗi người cũng được Chúa đếm cả, những con chim sẻ không tích trữ kho lẫm vẫn được Chúa nuôi dưỡng và những bông hoa huệ ngoài đồng không may vá dệt cửi vẫn được Chúa mặc cho vẻ đẹp huy hoàng (x. Mt 6,25-29). Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha bằng tâm tình thân thương hiếu thảo: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Yêu mến Đấng đã dựng nên mình và là Cha của mình, đó là tình cảm tự nhiên và đó cũng là bổn phận của lòng hiếu thảo. Lòng yêu mến ấy giúp chúng ta mỗi ngày một đến gần Chúa hơn trong sự kết hiệp thâm sâu mà chúng ta thường gọi là đời sống nội tâm. Tâm tình ấy cũng giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, mỗi ngày một rõ nét hơn, để rồi, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Ý thức Chúa sống trong tâm hồn, người tín hữu sẽ dễ dàng nên hoàn thiện trong lời nói, tư tưởng cũng như việc làm. Họ sẽ tìm thánh ý Chúa, cố gắng sống đẹp lòng Ngài và coi đó là điều ưu tiên quan trọng nhất trong đời.
“Con hướng về Chúa”, đó là lời cầu nguyện diễn tả niềm hy vọng cậy trông của người tín hữu. Giữa cuộc đời chìm nổi truân chuyên, nào ai biết những gì bất chợt sẽ đến? Giữa dòng đời bon chen xuôi ngược, nào ai đoán được hậu vận tương lai? Người tin Chúa luôn phó thác nơi Ngài, tin chắc rằng không bao giờ Ngài dửng dưng trước lời cầu nguyện chân thành tha thiết. Chúa Giêsu đã hứa: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho” (Mt 7,7). Người cũng hứa ngự giữa chúng ta khi chúng ta hội họp cầu nguyện nhân danh Người (x. Mt 18,19). Hướng về Chúa chính là niềm xác tín vào lời hứa ấy. Niềm cậy trông vào Chúa nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, đồng thời là nguồn sức mạnh giúp chúng ta vượt lên những khó khăn thử thách trên đường đời. Niềm hy vọng cũng giúp chúng ta nhìn cuộc đời này lạc quan hơn, để cùng nhau hướng thiện, dù còn nhiều bóng tối vây quanh bao phủ. Sống mà không có niềm hy vọng, con người giống như người mộng du ảo giác, lang thang vô định. Không có niềm hy vọng, chúng ta sẽ nhìn cuộc đời đen tối tiêu cực và dễ chán nản. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng hướng về Ngài, cầu xin Ngài giáng phúc ban ơn, để cuộc sống của chúng ta được bình an.
“Con hướng về Chúa”, tâm tình này thể hiện cuộc lữ hành trần thế của mỗi chúng ta. Sống một ngày trên đời là tiến tới gần Chúa hơn. Chẳng ai sống mãi ở đời này, nhưng mỗi người sinh ra được Chúa cho một quỹ thời gian nhất định. Hết quỹ thời gian đó, họ phải kết thúc cuộc sống, từ giã cõi đời. Mọi người sống trên đời, giàu sang phú quý hay nghèo nàn bất hạnh rồi cũng phải chết như nhau, nhưng hậu vận của họ lại không giống nhau. Những người sống một đời thánh thiện yêu thương sẽ được hưởng phúc thiên đàng; những ai sống bất công gian dối sẽ phải đau khổ trầm luân. Đừng vội trách Chúa nghiêm khắc với tội nhân! nhưng hãy tự trách mình đã dửng dưng và để lỡ nhiều cơ hội. Hạnh phúc thiên đàng hay hình phạt hỏa ngục là do chính mình tự chọn, qua thái độ sống ở đời. Chúa Giêsu đã nói tới hai con đường: con đường thênh thang rộng mở dẫn tới sự chết; con đường nhỏ hẹp khó đi dẫn tới sự sống (x. Mt 7,13-14). Nhiều người đã muốn chọn con đường rộng rãi thênh thang cho mình. Đó là sự buông thả, dễ dãi, chiều theo những tham vọng đam mê và ích kỷ. Mỗi người phải gánh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy của mình.
Mỗi năm, khi Mùa Vọng về, Giáo Hội mời gọi các tín hữu cùng hướng về Chúa. Lời ngôn sứ diễn tả niềm khao khát của nhân loại mọi nơi mọi thời: “Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công chính” (Is 45,8). Niềm khao khát ấy, cũng nồng nàn tha thiết như đất mong nước nguồn, như tuần phiên mong trời sáng và như con thơ mong mẹ hiền.
Người Kitô hữu hôm nay không còn mong đợi Đấng Công chính với tâm trạng của thời ngôn sứ Isaia. Bởi lẽ Đấng Công chính là Đức Giêsu Kitô đã giáng trần cách nay hơn hai ngàn năm. Người đã đi vào lịch sử nhân loại với sứ mạng rao giảng tình thương của Thiên Chúa. Hôm nay, Người đang hiện diện giữa chúng ta. Khi nỗ lực đón Chúa ngự đến tâm hồn, chúng ta sẽ được hưởng sự ngọt ngào của ân sủng. Đó cũng là niềm vui và hạnh phúc Chúa ban cho những ai chuyên tâm quy hướng về Ngài.
14. Sống tỉnh thức – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam có câu "nước tới chân mới nhảy" thì quá trễ. Người Miền Trung đã quá thấm thía câu nói này qua những ngày tháng lũ lụt kéo dài suốt gần 1 tháng qua. Không có lương thực dự trữ, đa phần phải sống trong cảnh thiếu thốn, bữa no bữa đói. Có những nơi chỉ còn biết trông chờ ở những đoàn cứu trợ từ khắp nơi mang đến. Không ai nghĩ rằng lũ lụt lại quá kinh khủng như vậy. Thế nên, họ vẫn ăn uống, vẫn vui chơi, vẫn không cần tích trữ cho ngày mai. Họ đâu ngờ rằng có những ngày "gạo quế củi châu", khiến họ phải đói khổ cơ hàn, để rồi phải ngửa tay van xin lòng thương xót của người khác. Họ đâu ngờ rằng những gì họ tích luỹ, cất dấu lại bị nước cuốn trôi và trở nên trắng tay lại hoàn trắng tay. Xem ra trên thế gian này chẳng có gì an toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất cả đều mong manh, kể cả kiếp người cũng mong manh như loài hoa trước gió, đến độ "một cơn gió thoảng cũng làm nó biến đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích".
Hôm nay, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để ngày khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì, như "thời ông Noe, người ta vẫn ăn uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng". Người ta tưởng rằng thế giới mãi mãi là thế, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì phải lo, phải sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã vượt ra khỏi thói quen của mọi người. Một mình ông đóng tàu. Một mình ông chuẩn bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy đến cho ông và cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng chỉ một mình ông và gia đình lên tàu, còn những người khác vẫn ăn uống, vẫn đàn hát cho đến khi cơn hồng thủy đến và nhậm chìm vạn vật và hàng triệu sinh linh trên mặt địa cầu.
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, xum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta là hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Ngày xưa có một ông cụ già cố cứu kinh thành Sôđôm khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:
- Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!
Ông cụ bình tĩnh đáp:
- Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.
Câu truyện kể trên chỉ là một dụ ngôn. Nhưng trên thực tế ông Lót ngày xưa sống trong kinh thành Sôđôm. Chính là ông già đó.
Trong thư thứ hai của thánh Phêrô có ghi rằng: "Chúa cứu Lót ra khỏi Sôđôm vì ông là người công chính, tâm hồn luôn luôn bị dày vò vì những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hàng ngày quanh mình.
Ông Lót sinh sống tại vùng Sôđôma. Khi Sôđôma bị các nước lân bang xâm chiếm, Lót bị bắt đi. Abraham là chú phải ra tay tiếp cứu Lót. Nhưng Lót vẫn về sống ở kinh thành Sôđôma. Khi Chúa quyết định giáng tai họa xuống kính thành Sôđôma, Abraham đã cầu xin Chúa giải cứu, nhưng vì Sôđôma không có đến mười người kính thờ Chúa, nên đã bị tiêu diệt. Trước khi tai họa xảy ra, có hai thiên sứ của Chúa đến giải cứu Lót. Nhưng ông ta vẫn còn lần lữa. Khi đã ra khỏi Sôđôm, bà vợ ông Lót còn ngoái lại nhìn và đã bị biến thành tượng muối.
Vâng, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, aid đã tiêu diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, bất chấp tai họa. Cuộc sống sa đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã than thở rằng: "cái đáng buồn của thế giới ngày này, đó chính là mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng của mình đến độ bất chấp cả lề luật mà Thượng Đế đã an bài".
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải nói về Chúa cho đồng bào mình vì nếu không, chính chúng ta sẽ thay đổi theo chiều đồi trụy. Đó chính là phương cách bảo vệ niềm tin Chúa và đưa người khác đến với Chúa. Nếu không làm như vậy, không mấy lúc mà ta sẽ thay đổi theo với xu hướng tục hoá của xã hội, chứ không phải xã hội chung quanh thay đổi vì ta.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
15. Sống tỉnh thức - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Những ngày của tháng 09 và 10 mưa lớn như trút nước, lũ dữ từ thượng nguồn ào ạt đổ về. Nhiều tỉnh duyên hải miền Trung ngập chìm trong biển nước. Nhà cửa, của cải, hoa màu bỗng tiêu tan . ..
Miền Trung năm nay thật là “họa vô đơn chí”, vì hết họa này đến họa khác. Khởi đầu là Formosa tàn phá thiên nhiên khiến ngư dân thất ngiệp, cái đói lặn vào từng gia đình. Rồi liên tiếp lũ lụt lại tàn phá tan hoang đất đai, nhà cửa, hoa màu của cải cuốn trôi theo dòng nước.
Những tai họa của miền Trung đáng buồn là do nhân tai nhiều hơn là thiên tai. Con người đã phá thiên nhiên ở dưới biển khi thải chất độc. Con người lại tiếp tục phá rừng vì thiếu ý thức và vì những công trình thủy điện lãng phí . . .
Nhìn thấy cảnh tượng dân Miền Trung dồn dập tai ương khiến cho chúng ta cũng chạnh lòng với nỗi đau của anh em mình. Không đau sao được khi chỉ trong phút chốc, người dân dải đất miền Trung vốn được xem là khúc ruột của cả nước phải lâm cảnh trắng tay vì tài sản đã bị cuốn chìm trong dòng nước lũ! Không đau sao được khi công sức bao năm chắt chiu, dành dụm chỉ một đêm lũ về thì nửa hạt gạo cũng chẳng còn!
Có một người dân đã nói rằng trong nước mắt: “Chúng tôi đã thức trắng trên nóc nhà với nước trên đầu, nước dưới chân. Chưa bao giờ thấy nước dâng cao như vậy, nhà cửa tan tành hết rồi…” - những lời than như khóc của bao người dân quê nghèo các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh… giữa mênh mông biển nước tựa vết dao cứa lòng người.
Chạnh lòng với nỗi đau của anh em Miền Trung cũng mời gọi chúng ta chia cơm sẻ áo cho anh em. Một gói mì tôm, một chén gạo, một đồng tiền lẻ thật nhỏ bé nhưng được cả cộng đồng ý thức sẽ cứu cả hơn 20 triệu người dân Miền Trung. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta cuộc sống này chẳng có gì đảm bảo, tất cả sẽ có thể tan hoang, vuột khỏi tay ta cho dù ta có lắm kho lẫm kiên cố hay tiền dư bạc để rồi cũng chỉ là “phù vân trên mọi phù vân” . . .
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để ngày khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì, như “thời ông Noe, người ta vẫn ăn uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng”. Người ta tưởng rằng thế giới mãi mãi là thế, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì phải lo, phải sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã vượt ra khỏi thói quen của mọi người. Một mình ông đóng tàu. Một mình chuẩn bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy đến cho ông và cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng chỉ một mình ông và gia đình được cứu thoát còn những người khác đã bị dòng nước cuốn đi khi họ vẫn ăn uống, vẫn đàn hát . . .
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, sum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu còn được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Vâng, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim ảnh đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng. Cuộc sống sa đoạ đến mức mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng đam mê của mình . . .
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần sống chuẩn bị cho đời sau đừng để những thói đời trụy lạc lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Hãy tích lũy cho mình kho lẫm ở trên trời là đời sống trong sạch, tiết độ, công bình và bác ái. Đừng mải mê tìm kiếm bổng lộc trần gian mà xa lìa Chúa, vì những của cái ấy chỉ là của đồng lần nay người mai ta. Có khi chỉ một cơn gió thoảng chúng cũng biến tan đi.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
16. Tỉnh thức và cầu nguyện
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong tết đến được về quê xum họp. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.
Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi Đấng sẽ đến
Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ xảy ra. Chúng ta chờ đợi một ‘Con người’. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.
Chờ đợi trong hi vọng
Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo, đặc biệt dựa vào lời tiên báo trong sách ngôn sứ Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến để thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.
Một triết gia đã nói: “Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo”. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần: Tin - Cậy- Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.
Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Trái lại, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.
Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng
Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở: “Vậy anh em hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế, giống như dân chúng thời Noe năm xưa. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cũng nhắc nhớ dân thành Rôma phải ‘thức dậy’, đừng ngủ mê trên những việc làm đen tối, vì ngày cứu độ đang gần tới. Chúa đến để đem ơn cứu độ cho trần gian. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai, khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.
Cách đây gần 30 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California, Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ: “Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao lâu nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘Ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta hôm nay: “Anh em hãy sẵn sàng vì chính lúc anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” ( Mt 24, 44 )
Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay mang chở. Những gì cần phải làm hôm nay, đừng để đến ngày mai.
Kết luận
Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “Anh em hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày” (Rm 13,13). Sống giữa ban ngày là thời điểm có ánh sáng mặt trời soi chiếu. Xin ánh sáng của Đức Giêsu là mặt trời công chính luôn tỏa sáng trên tâm hồn mỗi người chúng ta.
17. Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
Phụng Vụ Chúa Nhật I Mùa Vọng năm C này là Phụng Vụ của niềm hy vọng.
Gr 33: 14-16
Bài Đọc I là sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã được một bàn tay vô danh sửa lại, hay nói đúng hơn, hiện tại hóa vào trong thời đại của mình, sau khi vương triều Đa-vít biến mất. Bản văn này chuyển niềm hy vọng Mê-si-a sang Giê-ru-sa-lem, thành đô của Thiên Chúa.
1Tx 3: 12-4: 2
Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang bằng cách thực hành đức ái huynh đệ và thăng tiến trên con đường thánh thiện.
Lc 21: 25-28, 34-36
Tin Mừng được trích từ bài diễn từ của Đức Giêsu về ngày tận thế theo Tin Mừng Lu-ca. Đức Giêsu loan báo cuộc trở lại trong vinh quang của Ngài để khai mạc một thế giới mới; các tín hữu phải chờ đợi ngày này trong niềm tin tưởng chứa chan niềm hy vọng.
BÀI ĐỌC I (Gr 33: 14-16)
Bản văn Gr 33: 14-16 nầy lập lại sấm ngôn của Giê-rê-mi-a ở 23: 5-6, tuy nhiên đoạn cuối đã được một nhà biên soạn vô danh sửa lại sau này: thay vì “Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn” (23: 6), thì lại “Trong những ngày ấy, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ được an cư lập nghiệp” (33: 16). Việc sửa lại này dâng hiến một lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như tâm lý.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố sứ điệp hy vọng này vào lúc triều đại Đa-vít biến mất trong một cơn phong ba bảo táp dữ dội và xem ra cuốn theo với triều đại này mọi lời hứa về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít.
1. Bối cảnh lịch sử:
Bối cảnh lịch sử được định vị vào năm 597 trước Công Nguyên, khi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và bắt vua Giơ-hô-gia-khin, hậu duệ của vua Đa-vít, và các thân hào nhân sĩ đi lưu đày; đoạn, mười năm sau đó cướp sạch thành thánh và triệt hạ Đền Thờ.
Trước khi tai họa xảy đến cho đất nước, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã lãnh nhận một sứ mạng khó khăn là báo trước cho các vị lãnh đạo và các thân hào nhân sĩ những biến cố bi thảm này, nếu họ không chịu thay đổi cách ăn nếp ở, thực hành công chính và trung tín với Đức Chúa. Nhưng khi những nỗi gian truân bất ngờ xảy đến, ngôn sứ Giê-rê-mi-a, từ ngôn sứ loan báo những tai họa trở thành sứ giả loan báo niềm hy vọng, khẳng định rằng không có gì mất cả; những lời hứa của Thiên Chúa liên quan đến dòng dõi vua Đa-vít không bị hủy bỏ.
“Này, sẽ đến những ngày” (biểu thức này ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc, chắc chắn được mượn ở ngôn sứ A-mốt) Thiên Chúa sẽ cho mọc lên từ dòng dõi Đa-vít một “mầm non” (thuật ngữ này đã là một danh hiệu của Đấng Mê-si-a), Đấng này sẽ trị nước theo lẽ công minh chính trực. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a kết thúc sấm ngôn của mình khi trao tặng cho hậu duệ Đa-vít tương lai danh hiệu “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta”, một trong những danh xưng biểu tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng (từ “công chính” được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh là sự thánh thiện của Thiên Chúa).
2. Ý nghĩa của việc sửa lại.
Nhiều thế kỷ trôi qua, nền độc lập không còn được khôi phục và vương triều không còn được tái lập. Dân Thiên Chúa được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của họ và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết. Vào lúc đó, sấm ngôn Giê-rê-mi-a được sửa lại. Vì thế ai xứng đáng đón nhận danh hiệu Mê-si-a “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta” này, nếu không là Giê-ru-sa-lem, một cách nào đó được nhân cách hóa? Không phải từ nay Thành Thánh là nơi độc nhất mà các lời hứa cứu độ được ký thác sao?
Các nhà chuyên môn có thể ghi niên biểu của việc sửa đổi này vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, vì bản dịch Hy lạp, bản Bảy Mươi, không biết đoạn văn này. Ấy vậy, bản dịch nầy được thực hiện ở A-lê-xan-ri-a vào những năm 285-246 trước Công Nguyên.
Việc sửa đổi này rất có ý nghĩa. Vào thời đó, dòng dõi Đa-vít bị mất hút vào trong tập thể. Vị thượng tế lãnh nhận lễ xức dầu tấn phong thế vị vua. Trào lưu Mê-si-a vương đế và trào lưu Mê-si-a tư tế được nhập thành một. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem là trung tâm độc nhất, dấu chỉ niềm hy vọng vĩnh hằng.
BÀI ĐỌC II (1Tx 3: 12-4: 2)
Thánh Phaolô viết Thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vào đầu năm 51, tức khoảng hai mươi năm sau cái chết của Đức Giêsu. Đây là một văn kiện Tân Ước lâu đời nhất.
Thánh Phaolô viết hai bức thư gởi cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca; trong cả hai bức thư, viễn cảnh quang lâm của Đức Giêsu là một trong những chủ đề chính, viễn cảnh nầy đem lại cho những lời khuyến dụ của thánh nhân một cung giọng khẩn thiết. Như vậy, đoạn trích thư này hòa hợp với hai bài đọc còn lại của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm C này.
1. Bối cảnh:
Thánh Phaolô đã sáng lập Giáo Đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào năm 50. Thê-xa-lô-ni-ca là thành phố thương mại miền duyên hãi, thủ phủ của miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai thuộc Châu Âu đón nhận sứ điệp Tin Mừng, sau thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê (1Tx 2: 2). Việc thánh Phaolô rao giảng thành công đã khiến một nhóm người Do thái ghen tức, họ xúi dục một nhóm người chống đối thánh nhân dữ dội đến mức thánh nhân cùng với hai người bạn đồng hành là Xin-va-nô và Ti-mô-thê đang đêm phải vội vã trốn khỏi thành phố (Cv 17: 5-10). Thánh Phaolô ra đi mang theo nỗi bận lòng của ngài vì phải rời bỏ một giáo đoàn mà ngài vừa mới thành lập mà đức tin của họ vẫn còn non yếu. Vì thế, khi thời thế thuận tiện, thánh nhân đã phái ông Ti-mô-thê viếng thăm giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca mà chính thánh nhân đã không thể. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem đến những thông tin đầy khích lệ: các tín hữu non trẻ vẫn “đứng vững trong Chúa” (Tx 3: 8), bất chấp những gian truân mà họ phải chịu. Lúc đó, thánh Phaolô ở Cô-rin-tô, với niềm vui và tâm tình cảm tạ tri ân, viết một bức thư chan chứa ân tình, thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Thư này gồm hai phần. Đoạn trích hôm nay là một bản lề: chúng ta đọc đoạn kết của phần thứ nhất (3: 12-13) và đoạn mở của phần thứ hai (4: 1-2).
2. Lời nguyện xin của thánh Phaolô:
Phần thứ nhất kết thúc với lời nguyện xin của thánh Phaolô (phần thứ hai cũng vậy). Qua những ngôn từ của lời nguyện xin này, thánh nhân nhắc nhở cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nguyên tắc Kitô giáo tuyệt vời: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”. Giáo đoàn đa số là các Kitô hữu gốc lương dân, như mạch văn để cho thấy điều đó, nhưng chắc chắn cũng bao gồm những Kitô hữu gốc Do thái.
Trong Giáo Hội tiên khởi việc sống chung không là vấn đề, nhưng thánh nhân còn đi xa hơn: khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca không chỉ yêu thương nhau mà còn yêu thương hết mọi người, “ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”, lời khuyên này vào hoàn cảnh đó thật quan trọng, tức là các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca phải yêu mến những người bách hại mình, dù phải chịu nhiều nỗi gian truân. Để nâng đỡ và khích lệ họ, thánh nhân nhắc họ nhớ lại tấm lòng mà ngài có đối với họ: “cũng như tình thương của chúng tôi đối anh em vậy”.
Luật yêu thương là con đường thánh thiện, “không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người”.
3. Ngày của Chúa:
Chúng ta ghi nhận rằng ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, Đức Giêsu được gọi là Chúa (Đức Chúa), danh xưng mà Cựu Ước dành riêng cho Thiên Chúa. Như vậy, các Kitô hữu tiên khởi đã khẳng định Thần Tính của Đức Giêsu. “Ngày của Chúa” mà các ngôn sứ đã loan báo nay được dùng để chỉ “ngày Quang Lâm”, nghĩa là ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang cùng với “các thánh của Người”.
Các thánh này là ai? Theo truyền thống Do thái, nhất là truyền thống khải huyền, vào ngày chung thẩm, Đức Chúa được các thiên sứ đứng chầu chung quanh, thường được gọi “các thánh” (x. Dcr 14: 5). Các sách Tin Mừng vang dội lại truyền thống này: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Ngài, có tất cả các thiên sứ theo hầu” (Mt 25: 31). Tuy nhiên, thánh Phaolô vừa mới gợi lên sự thánh thiện của các tín hữu, vì thế, không thể không nghĩ rằng thánh nhân liên kết sự hiện diện của những người được tuyển chọn với sự hiện diện của các thiên sứ.
4. Trong ngày của Đức Giêsu:
Đoạn văn này chỉ trích dẫn lời mào đầu của phần thứ hai thư gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (4: 1-2). Trong lời mào đầu này, thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu hãy kiên vững và thăng tiến trên con đường thánh thiện. Thánh nhân nhắc nhớ giáo huấn của ngài, khi xác định ngài đã truyền đạt cho họ những chỉ thị mà ngài “đã lấy quyền Chúa Giêsu”. Thánh nhân sẽ luôn luôn tự giới thiệu mình chỉ là người trung gian, sứ giả phàm nhân của lời Thiên Chúa.
Mặt khác, thật đáng chú ý là, ngay từ bản văn đầu tiên của thánh Phaolô, xuất hiện biểu thức thường được lập đi lập lại dưới ngòi bút của thánh nhân, biểu thức then chốt phản ảnh hồn tông đồ cũng như cuộc sống nội tâm của thánh nhân: “Nhân danh Chúa Giêsu”: “Nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em”. Xa hơn một chút, thánh nhân lập lại đến hai lần “Nhân danh Chúa Giêsu” (5: 12, 18). Phải sống, hành động, suy nghĩ, cầu nguyện “nhân danh Chúa Kitô”. Đây là cách thức duy nhất “làm vui lòng Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Lc 21: 25-28, 34-36)
Năm Phụng Vụ khởi đầu và kết thúc trên viễn cảnh Đức Giêsu trở lại vào ngày tận thế để thiết lập Triều Đại của Ngài một cách vĩnh viễn và tôn vinh các thánh. Như vậy, vào Chúa Nhật trước, Lễ Chúa Giêsu Vua kết thúc năm Phụng Vụ, năm B, chúng ta đã cử hành vương quyền hoàn vũ của Đức Giêsu. Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng này, chúng ta lấy lại sự gợi ý tương tự, nhưng trong viễn cảnh Giáng Sinh. Đức Giêsu đã trở thành phàm nhân và đã hội nhập vào trong cuộc sống nhân loại để hướng dẫn nhân loại đến vận mệnh siêu nhiên của Ngài; Ngài sẽ hoàn thành công trình của mình vào ngày Quang lâm. Tương ứng với sự yếu đuối và khiêm hạ của biến cố Bê-lem lại là quyền năng và sự cao cả của việc “Con Người ngự đến”.
1. Bối cảnh:
Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca đặt bài diễn từ về ngày Quang Lâm của Đức Giêsu vào lời giáo huấn sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, không bao lâu trước cuộc Thương Khó của Ngài. Chúng ta đọc phần cuối của bài diễn từ này.
Trong cả ba Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giêsu công bố bài diễn từ này vào dịp Ngài rao giảng về sự sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21: 6). Viễn cảnh này làm xao xuyến các môn đệ đến độ các ông liên kết nó với viễn cảnh ngày tận thế. Về phần mình, thánh Lu-ca cẩn trọng ghi nhận giữa hai biến cố này có một thời kỳ trung gian, “thời kỳ dân ngoại” ở 22: 24 ngay trước đoạn trích này: “Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại”.
Ở nơi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, Đức Giêsu công bố diễn từ này trên núi Ô-liu, khi ngỏ lời với các môn đệ, hay chỉ một nhóm nhỏ, theo Mác-cô. Thánh Lu-ca định vị nó vào ở trung tâm Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi mà việc sụp đổ sắp xảy ra (thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ luôn luôn là trọng tâm của những viễn cảnh sách Tin Mừng Lu-ca). Bên kia các môn đệ, Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông; như vậy thành thánh Giê-ru-sa-lem nghe công bố ngày Quang Lâm của Đấng mà nó sẵn sàng giết chết.
2. Truyền Thống Kinh Thánh:
Trong Kinh Thánh, những điềm báo về việc Thiên Chúa can thiệp dứt khoát trong lịch sử, đề tài này xuất hiện rất sớm. Ví dụ như Đức Chúa gieo rắc sự kinh hoàng tại đất Ai-cập trước khi giải phóng dân Ngài (Xh 7: 14-11: 8). Đức Giêsu loan báo ngày tận thế theo cùng tiến trình: “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc”, trong khi những người công chính “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”.
Những điềm trời thường được các ngôn sứ sử dụng để loan báo những án phạt của Thiên Chúa trên các dân ngoại áp bức dân Ít-ra-en, cũng như trên chính dân Chúa chọn khi dân bất trung hay bất chính như Is 13: 10: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn tỏa sáng”.
Khởi đi từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, các sách khải huyền phóng đại những mô tả này bằng những cảnh tượng huyền hoặc được gợi hứng từ Phương Đông (điều này đã để lại dấu vết trên sách Khải Huyền của thánh Gioan). Thể loại văn chương này đưa vào trong Do thái giáo một trào lưu suy luận rộng lớn về “thế giới tương lai” và “kỷ nguyên cánh chung”. Vào thời Đức Giêsu, người ta rất quan tâm đến vấn đề này; chúng ta cũng có thể nói rằng vào lúc đó nhiều thế hệ đã sống trong niềm mong đợi ngày tận thế. Nhiều người Kitô hữu gốc Do thái sống trong niềm mong đợi ngày Quang Lâm của Đức Kitô.
3. Con Người ngự đến:
Thánh Lu-ca gợi lên những hình ảnh truyền thống và quy ước về những xáo động trên đất và biển như khúc dạo đầu “Ngày của Chúa”, vì những hình ảnh nầy diễn tả những vùng vẫy sau cùng của những quyền lực sự ác trước khi chúng bị tiêu diệt; nhưng thánh ký không chú tâm đến những hình ảnh này; ông ngỏ lời với quần chúng ít quen thuộc với thể loại văn chương khải huyền Do thái. Tất cả từ vựng này được sử dụng cốt nhấn mạnh quyền tối thượng của Đấng “ngự trong đám mây mà đến”.
Đức Giêsu đã loan báo nhiều lần rồi cho các môn đệ Ngài cuộc trở lại đầy quyền năng và vinh quang của Ngài dưới danh xưng Con Người; ở đây Ngài đặt cách diễn tả vào trong bối cảnh gốc của nó hầu như theo sát nguyên văn, thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Do đó, danh hiệu mà Đức Giêsu tự nhận cho mình được khám phá với tất cả trương độ ý nghĩa của nó. Như Con Người trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en là thủ lãnh “dân thánh của Đấng Tối Cao”, Đức Giêsu mang lấy vận mệnh nhân loại. Vinh quang của Ngài cũng sẽ là tôn vinh tất cả những ai đã tin vào Ngài.
4. Bức tranh bộ đôi:
Thánh Lu-ca đặc biệt nhạy bén trước chiều kích con người về tấn thảm kịch sau cùng; thánh ký đặt hai bức tranh đối lập với nhau: bức tranh về quân vô đạo (chư dân) “sợ đến hồn xiêu phách lạc” và bức tranh về các tín hữu phát hiện giờ mình được cứu độ, giờ mình được giải thoát. Nói cách chính xác, nếu thánh ký không mô tả cuộc quy tụ những người được tuyển chọn, thì những từ ngữ ông sử dụng có một âm vang rất ý nghĩa: “đứng thẳng”, “ngẩng đầu lên”, diễn tả tư thế của những người được sống lại.
5. Biến cố bất ngờ:
Đức Giêsu không bác bỏ những hình ảnh của văn chương khải huyền; nhưng Ngài đề nghị miêu tả Triều Đại của Ngài theo một cách thức khác, khi dựa trên một truyền thống tuy ít được chứng thực nhưng phổ biến: Ngày Quang Lâm của Ngài xảy đến bất ngờ không có dấu hiệu nào báo trước; nó thình lình giáng xuống địa cầu. Đức Giêsu đã gợi lên rồi viễn cảnh này ở nơi các dụ ngôn kêu gọi sự tỉnh thức của Ngài: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng , vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12: 40) và ở nơi việc Ngài so sánh Triều Đại của Ngài với trận đại hồng thủy xảy đến bất ngờ: “Vì ánh chớp lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng là như vậy trong ngày của Người” (Lc 17: 20). Ở đây, Đức Giêsu sử dụng hình ảnh “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” mà ngôn sứ I-sai-a đã dùng: “Nào kinh hoàng, nào hố sâu, nào dò lưới đang chờ đợi ngươi, hỡi cư dân trái đất” (I s 24: 17). Khi căn dặn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phaolô cũng theo truyền thống như vậy: “Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 2), điều nầy không loại trừ thời kỳ gian nan khốn khó sau cùng: “Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy” (2Pr 3: 10).
6. Tỉnh thức và cầu nguyện:
Đức Giêsu đặt hai truyền thống này bên cạnh nhau: một truyền thống đặt dấu nhấn trên chiều kích hoàn vũ của biến cố, còn truyền thống kia – không loại trừ chiều kích hoàn vũ này – nhấn mạnh sự gặp gỡ thân tình của mỗi cá nhân với Chúa. Từ đó, Đức Giêsu mời gọi hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Thánh Lu-ca không bao giờ quên tầm quan trọng của việc cầu nguyện; thánh nhân là thánh ký thường hằng ghi nhận tầm quan trọng quan trọng của lời cầu nguyện trong cuộc đời của Đức Giêsu.
“Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, đây là lời căn dặn sau cùng của Đức Giêsu cho các môn đệ của Ngài; Ngài sẽ lập lại vài giờ sau này ở vườn Ô-liu…
18. Suy niệm của Ủy Ban Kinh Thánh – HĐGMVN
(Trích từ ‘http://www.kinhthanhvn.org’)
Đức Giêsu đã đến xưa kia, sẽ đến vào ngày Quang Lâm và vẫn đang đến mỗi ngày. Cần biết đón tiếp Người đến dưới bất cứ dạng nào.
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến: Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới, nhưng căn bản là ngày Chúa quang lâm: Chúa sẽ trở lại trong vinh quang vào ngày thế tận, như lời tuyên xưng hằng ngày trong Thánh lễ: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.
1. Israel mong chờ Đấng Thiên Sai (Messia)
Do-Thái, dân tuyển chọn, lúc ấy đang sống trong thời kỳ bi thảm về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo. Phương Bắc đã hoàn toàn bị đế quốc Assyri tiêu diệt (721), Phương Nam, tức đất nước Giuđa, sống dưới sức ép của đế quốc Babylone đang hăm he thôn tính. Xã hội đầy những bất công, áp bức và chèn ép: người giàu cứ phè phỡn hưởng thụ trong khi dân nghèo bị bỏ rơi và khốn khổ. Tôn giáo lỏng lẻo, pha trộn, vụ hình thức. Chính trong thời buổi nhiễu nhương và thất vọng ấy, sấm ngôn Nathan (2S 7,14) về việc Thiên Chúa hứa sẽ bảo đảm cho vương triều Đavít được miên trường khơi dậy trong lòng người nỗi mong chờ một vị Thiên Sai thuộc dòng tộc Đavít xuất hiện để giải cứu và phục hưng đất nước. Ngôn sứ Isaia cổ võ thêm cho sự mong chờ ấy bằng lời sấm đầy tràn hy vọng về đấng Emmanuel: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14). Vị ngôn sứ còn loan báo một cuộc hành hương vĩ đại vào thời thiên sai: mọi dân nước trên mặt đất sẽ tiến về Giêrusalem, tập trung quanh Israel, để nhận biết và phụng thờ Giavê (Is 2,2-5; x. Mk 4,1-5). Niềm hy vọng vội tan biến khi Israel bị Babylone xâm lăng và bị lưu đày (587). Nếu trước đây Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-Cập, giờ đây Người lại giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày để họ được hồi hương tái thiết Đền Thờ và đất nước. Một lần nữa, hy vọng lại dâng cao với sự mong chờ vị Thiên Sai Ngôn sứ mà trước đây Môsê đã từng loan báo (Đnl 18,18). Đấng Thiên Sai Ngôn sứ này là người Tôi trung của Giavê mà Isaia II đã phác hoạ là người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban tràn đầy Thần Khí, sẽ phải chịu nhiều đau khổ và chịu chết để cứu độ dân Người. Hy vọng và mong chờ vẫn kéo dài cho đến lúc người ta lại chuyển sang việc mong đợi Con Người, một nhân vật thiên quốc mà Daniel mô tả là Đấng ngồi bên hữu Thiên Chúa, được Thiên Chúa trao cho toàn quyền chung thẩm nhân loại (Dn 7,13-14). Trong từng giai đoạn, Israel lại mong chờ vị Thiên Sai cứu tinh. Niềm hy vọng mong chờ đó đã nâng đỡ dân trong suốt thời kỳ đầy thảm hoạ. Sống là hy vọng và mong chờ. Suốt thời kỳ đầu của Giáo Hội tiên khởi, giữa trăm chiều thử thách, các tín hữu hằng mong chờ ngày Chúa trở lại và tha thiết kêu xin: Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
2. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đã đến hoàn tất niềm mong đợi Cựu Ước
Giữa lúc nhân loại đang chìm sâu trong đêm tối của lầm lạc và tội lỗi, khát mong ơn cứu độ. Khi Israel đang mòn mỏi mong chờ vị Thiên sai đến giải thoát. Một vì sao sáng xé ngang màn đêm. Ánh sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã nhập thể đến giữa loài người, mang tên gọi Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,23). Loài người khát khao cứu độ, nhưng nhận biết mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết trông đợi ở Chúa. Con người không thể lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa lại xuống với con người. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Người Con một ấy chính là Ngôi Lời vĩnh cữu đã trở nên người phàm (Ga 1,1.14), sinh bởi một người nữ và sống dưới Lề Luật để cứu những ai đang sống dưới Lề Luật, hầu cho họ được ơn làm nghĩa tử (Gl 4,4-5). Đó là lần thứ nhất Thiên Chúa xuống trong lịch sử mà ta vui mừng tưởng niệm trong ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh sắp đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa đến với ta, mang niềm vui, an bình và cứu độ.
3. Hướng về ngày Quang Lâm
Tưởng niệm không phải chỉ là một hoài niệm quá khứ, nhưng căn bản là hiện tại hoá việc Chúa đến hôm nay trong mỗi giây phút cuộc sống và nhất là hướng lòng về ngày Chúa quang lâm khi niên cùng nguyệt tận để phán xét toàn nhân loại. Lúc ấy Người sẽ phân định sự sống đời đời cho những người lành và án phạt muôn đời cho những kẻ dữ là những ai khi sống nơi dương thế đã chối từ Thiên Chúa để đặt mình dưới quyền thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Ngày Chúa quang lâm thật bất ngờ, không ai biết trước được sẽ xảy đến lúc nào. Vì thế, Chúa dạy phải sẵn sàng tỉnh thức như người đầy tớ khôn ngoan chờ đợi chủ về vào lúc đêm khuya, hoặc như các trinh nữ khôn ngoan chờ đợi chàng rễ đến chậm, như người quản gia trung tín luôn biết chu toàn bổn phận khi chủ vắng nhà. “Hãy cầm đèn cháy sáng trong tay và hãy thắt lưng như người chờ đợi chủ về ”. Hình ảnh Hồng thuỷ và Sôđôma luôn là một cảnh tỉnh con người trong cuộc sống cần biết hướng về ngày thế tận, chứ không phải sống như thể trần gian và hiện tại là tất cả. Cuộc sống hiện tại là một chuẩn bị và xác định cho định mệnh cuối cùng. Chúa Giêsu đã có lần cảnh cáo qua dụ ngôn người giàu khờ dại: “Không phải sự sung túc của cải đời này đảm bảo hạnh phúc đời đời” (Lc 12,15). Thánh Phaolô khuyên: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy loại bỏ mọi hành vi ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng để chiến đấu...” (Rm 13,11-14).
4. Chúa vẫn đến mỗi ngày
Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: “Phúc cho ai chết trong ân nghĩa của Chúa”. Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự bàn tiệc với người ấy.
- Chúa đến và đối thoại với ta trong Kinh Thánh. Hãy biết lắng nghe, suy niệm và thực hành Lời Chúa.
- Chúa đến và ở giữa chúng ta trong Thánh Thể bằng tất cả tình yêu tự hiến, và trở nên Bánh hằng sống nuôi dưỡng ta trên bước đường lữ thứ tiến về nhà Cha. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, hãy chiêm ngắm, tôn thờ và sống bí tích Thánh Thể.
- Chúa đến trong anh em: “Sự gì các ngươi làm cho một anh em bé mọn là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Trọn cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là yêu thương và phục vụ hết tình và hết mình. Người đã rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc ly như mẫu gương của sự phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi (Ga 13,14-15). Người đã yêu thương đến tận cùng, đến chết trên thập giá. Hãy sống yêu thương và phục vụ vì đó là lề luật quan trọng nhất và là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Giêsu (Ga 13,34-35).
19. Niềm vui bất ngờ
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Tại chùa Tô châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở được.
Khách đến chơi trông thấy cười nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Vị sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết là gì.
Như ta đây, mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi.
***
Mới đây nhất ngày 8 tháng 11 năm 2013 người Phi Luật Tân đã bị siêu bão Haiyen quét đi biết bao nhà cửa, nhân mạng chết hay bị thương. Hầu như tất cả mọi người không thể ngờ hay biết trước siêu bão sẽ đến như thế nào! Hay tại tiểu bang Lousiana Hoa Kỳ năm 2005 với cơn bão Katrina tràn ngập nước bùn biết bao nhà cửa hư hỏng mặc dù con số tử vong không có bao nhiêu người, nhưng tổn thất rất là nặng nề.
***
Nhà sư Viên Phủy Trung quả là một con người biết tỉnh thức:
Tỉnh thức là biết nhìn xa trông rộng; nhìn tới cùng đích của kiếp người là cái chết, trông đến mục tiêu của nhân sinh là Nước Trời.
Tỉnh thức là biết lo trước nghĩ xa, vì không lo xa ắt có buồn gần. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt để được cái lợi lớn ở tương lai.
Tỉnh thức là biết phải hành động tốt đẹp cho hôm nay, để chờ đón bao phúc lộc, vạn hạnh cho ngày mai.
“Anh em hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42).
Tỉnh thức để chờ đón Chúa đến thì còn gì vui sướng hơn. Tỉnh thức để chuẩn bị cho cuộc hạnh ngộ thì còn gì hạnh phúc bằng. Tuy nhiên, con người lại hay mê ngủ: tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt lại nặng nề.
Sợ rằng khi Chúa đến họ lại chẳng đủ sức để tỉnh thức ra đón Người. Thấu hiểu thân phận yếu của con người nên Chúa đã khuyên dạy: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
“Lúc Con Người đến” chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng thật trớ trêu là nó lại đến một cách bất ngờ: bất ngờ như biến cố đại hồng thủy thời ông Noe, bất ngờ như kẻ trộm đêm khuya đột kích vào nhà. Chẳng bao giờ kẻ trộm gọi điện thoại báo trước giờ nó đến, vì vũ khí của hắn là sự bất ngờ. Chỉ có một cách duy nhất để tai họa khỏi chộp xuống đầu chúng ta như “tiếng sấm đánh không kịp bịt tai”, là chúng ta luôn tỉnh thức và sẵn sàng trong ơn nghĩa Chúa.
Con người có một nhược điểm hết sức phổ biến, là luôn cho rằng vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày mai để sám hối ăn năn, còn ngày mai để thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh nghiệm hết sức chua xót đã từng đổ ập xuống bao người là ngày mai ấy không bao giờ trở lại. Chần chừ, khất lần chính là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma quỉ. Xin đừng để quá muộn! Muốn vậy hãy tỉnh thức và đợi chờ.
Mùa vọng là mùa của đợi chờ:
Không phải đợi chờ trong mỏi mòn, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong niềm hy vọng.
Không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng là làm việc trong đợi chờ.
Không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.
Chờ đợi như thế chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về tới Nước Trời.
Chờ đợi như thế chính là chung tay xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương, an vui và hạnh phúc.
Chờ đợi như thế thì ngày Chúa đến không còn là bất ngờ đáng sợ, nhưng lại là niềm vui bất ngờ.
Vui vì Chúa chúng ta đã toàn thắng vinh quang.
Vui vì bao con người được ơn cứu rỗi.
Vui vì vũ trụ này đã được giải thoát.
Vui vì “trời mới đất mới” sẽ mở ra, dẫn đưa chúng ta vào nơi vinh phúc.
***
Lạy Chúa Giêsu, trong khi chúng con chuẩn bị mừng ky niệm Chúa đến lần thứ nhất, và mong chờ Chúa sẽ đến lần thứ hai , xin cho chúng con luôn tỉnh thức để nhận ra biết bao lần Chúa đến với chúng con nơi dung mạo những anh chị em nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, để ngày Chúa đến sẽ là một ngày hội vui cho tất cả mọi người. Amen.
20. Tỉnh để chờ – Anmai
Chắc ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần chờ xe, chờ đò, chờ máy bay...
Kỷ niệm lại về khi nhớ về ngày xưa ở vùng ven biển. Muốn đến nơi cần đến phải qua 2 chuyến phà. Chuyến phà thứ nhất ngày xưa như thế này, vì sợ hao xăng hao dầu nên chạy cầm chừng và rồi những chuyến đò ngang được cập bến phà để chở thêm người ngoài, vừa nhanh vừa tiện. Thế nhưng từ khi báo động đến mức nguy hiểm khi dùng đò ngang đi qua đoạn sông hơn một cây số thì tất cả đò ngang đều bị cấm, Thế là chỉ còn phương tiện duy nhất là phà. Nếu tạm gọi là may mắn vừa chuyến phà thì kịp lên, bằng không thì đành phải đợi. Hôm nào rơi vào ngày Tết ngày Lễ thì lượng người đi tăng gấp đôi ba lần. Như vậy thì chỉ đành chờ và chờ. Tâm trạng người chờ thì lúc nào cũng sốt ruột không biết khi nào đò sang để qua bờ bên kia.
Chờ đò là như thế, chờ xe cũng chẳng khác gì. Vài lần, anh em đi chung với nhau nhưng chẳng hiểu sao có vài anh ngủ quên cả dậy nên xe đã lăn bánh. Thế là lọ mọ dậy và chỉ còn cách duy nhất là ra bến để tìm phương tiện đến nơi cần đến.
Chỉ cần mất tỉnh thức một chút thì lỡ chuyến xe và lỡ chuyến đó. Chuyện này hết sức thực tiễn trong cuộc đời con người.
Mới đây thôi, từ Phát Diệm về Hà Nội để về lại Sài Gòn làm tôi phải sôi ruột. Cơm trễ, 1 giờ trưa khởi hành về Hà Nội, trong khi đó chuyến bay về lại Sài Gòn cất cánh lúc 5 giờ. Quán ăn từ Phát Diệm về Hà Nội khoảng hơn tám mươi cây số nhưng sợ cảnh kẹt xe. 3 giờ kém xe về đến quận Đống Đa. Chờ 10 phút, xe đưa tôi vào sân bay. Vừa ra đường Nguyễn Lương Bằng thì chuyện không mong nó vẫn đến là kẹt xe. Xe này nối xe kia một hàng dài. Thoát khỏi cảnh kẹt xe, tài xế biết gần đến giờ bay nên tăng tốc. Đến sân bay thì hỡi ôi một hàng dài đang chờ để Hải Quan kiểm tra. Đến lượt mình cũng là người cuối cùng bước chân vào máy bay. Một tí nữa coi như phải ở lại Hà Nội để chờ đến ngày mai mới được vào Sài Gòn. Một hành trình đầy kinh hãi!
Ngày hôm nay, bước vào Chúa nhật đầu tiên của mùa Vọng. Sống tâm tình mùa Vọng là chờ mong, đợi chờ Thiên Chúa đến trong cuộc đời chúng ta.
Chúa Giêsu ngày hôm nay mời gọi các môn đệ cũng chính là mời chúng ta sống tâm tình tỉnh thức để đợi Chúa đến.
Trong tâm tình nhắc nhở này, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của gia đình ông Nôê ở Cựu Ước. Được báo là sẽ có một trận lụt hồng thủy đến trên mặt đất này để rồi ông Nôê và gia đình ông chuẩn bị đóng một con tàu thật lớn để lên đó tránh lụt. Như lời tiên báo căn dặn, ông đã làm tất cả những gì cần thiết và sẵn sàng để "đối phó" với cơn đại hồng thủy sắp đến. Trong khi đó, những người khác cùng sống cùng thời với ông vẫn cứ vui vẻ để sống chứ không hề bận tâm chuyện gì cả.
Chuyện gì đến sẽ đến. Như trong lời báo, nước ngày mỗi ngày một dâng cao. Và, dĩ nhiên là những ai lên tàu, thậm chí súc vật mới được sống sót sau trận lụt hồng thủy kinh hoàng.
Chuyện hồng thủy trong đời ông Nôê cũng chỉ là cảnh lụt lội. Sau cơn mưa trời lại sáng, sau bão lũ thì mọi sự cũng sẽ trở lại bình thường và con người số gắng lao nhọc để kiếm sống từ hai bàn tay trắng. Dù phải làm lại từ đầu, dù phải xuất phát điểm từ hai bàn tây trắng nhưng con người còn có cơ hội sống để làm lại từ đầu. Những người thời ông Nôê bị cơn lụt cuốn trôi thì muốn làm lại từ đầu như gia đình ông Nôê cũng không làm được vì tất cả đã chết.
Sao bão tố, sau thiên tai con người còn có thể sống. Như những nạn nhân trong cơn bão dữ để đời ở Philippines là một bằng chứng hết sức cụ thể. Còn lại 5 người gia đình người Việt sống trong vùng tâm bão sống sót. Những người này rơi vào cảnh hai bàn tay trắng và phải làm lại từ đầu. Giờ này, họ cũng chẳng mong gì khác ngoài thực phẩm để cứu sống họ sau những ngày tan thương này chứ cũng chưa nghĩ rằng phải vực lại nền kinh tế như xưa. 5 người này may mắn hơn cả ngàn người khác vì họ đã qua đi ngay khi bão đến.
Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng thế, chúng ta không chỉ là được báo trước như ông Nôê hay dự báo bão dữ như những cơn bão năm này qua năm khác ập đến. Không phải báo trước mà là thân phận con người đến một ngày nào cũng phải kết thúc.
Chúa Giêsu nói thẳng chứ không mấp mé, không hoa mỹ, không gợi hình gợi ý gì cả. Chúa Giêsu nói thẳng luôn là trong khi hai người đang xay bột thì có một người bị đem đi và một người ở lại, có người đang trồng lúa thì cũng sẽ một người được ở lại.
Chân lý này không ai có thể phủ nhận được vì lẽ ngày mỗi ngày đều diễn ra cái sự thật này, cái chân lý này.
Nếu đến Từ Dũ, chúng ta sẽ thấy nhiều và thật nhiều bà mẹ đang quằn quại trong cơn đau để sinh hạ đứa con yêu của mình. Và, nếu chúng ta đến Đa Phước hay Bình Hưng Hòa, chúng ta sẽ bắt gặp đoàn xe tang nối đuôi nhau đưa người quá cố lên đài hỏa táng. Nhìn như thế, gặp như thế và rồi một ngày nào đó ta cũng như thế chứ không sai.
Chúa Giêsu, trong tâm tình giờ người làm ruộng và người xay bột bị mang đi đó, mời gọi con người, mỗi người, nhất là những người có niềm tin phải tỉnh tức.
Chuyện quan trọng nhất của đời người đó là tỉnh thức. Lý do để chúng ta luôn canh thức là “vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Sự kiện Chúa sẽ đến trong cuộc quang lâm là một thực tại chắc chắn, nhưng đồng thời đó cũng là một thực tại sẽ xảy đến hoàn toàn bất ngờ, vượt ra bên ngoài những dự đoán hay hiểu biết chính xác của con người.
Ngày mỗi ngày, chúng ta vẫn “xay bột”, vẫn “làm ruộng”, tức là vẫn sống trong các thực tại bình thường hằng ngày của cuộc sống con người, nhưng bên trong phải là một sự canh thức đích thực, tức là một sự tham dự thật sự vào số phận và mầu nhiệm của Đức Giêsu. Đó mới là điều quan trọng.
Để minh họa cho tính chất bất ngờ đó của cuộc quang lâm, Chúa Giêsu kể dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã canh thức, không để nó khoét vách nhà mình” (24, 43). Tân Ước vẫn thường dùng hình ảnh kẻ trộm để nói về tính chất bất ngờ của ngày Chúa đến (1 Tx 5,2; 2Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Vì tính chất bất ngờ này, các đồ đệ của Chúa được yêu cầu phải luôn luôn hiện diện trong tư thế sẵn sàng đối diện với biến cố đó (c.44), tức là luôn hiện diện một cách tròn đầy trong từng phút giây hiện tại trong sự liên kết mật thiết với cuộc vượt qua của chính Đức Kitô Giêsu. Cuộc quang lâm của Chúa là biến có cứu độ, vì Ngài ngự đến để tập hợp những người được tuyển chọn ( 24, 31), và khi ấy, “kẻ nào bền chí đến cùng kẻ ấy sẽ được cứu độ” (24, 13).
Chúa Giêsu kết luận: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã canh thức, không để nó khoét vách nhà mình.44 Cho nên anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ phút anh em không ngờ, Con Người sẽ đến” (Mt 24.42-44).
Căn cốt của trang Tin Mừng hôm nay là động từ “canh thức” trong câu 42. "Canh thức" có nghĩa là không ngủ, là tỉnh thức. Động từ này xuất hiện trong trình thuật về Chúa Giêsu trong vườn Dầu (26, 38.40.41). Nó diễn tả sự liên đới và đồng nhất hóa với cái chết mà Chúa Giêsu trải qua trong chiều sâu kinh hoàng thật sự của cái chết cứu độ đó. Vậy đây không chỉ là sự không mê ngủ, mà còn là sự nên một với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Đây chính là tâm tình lời mời gọi của Chúa Giêsu mời các môn sinh của Ngài cũng như mời gọi mỗi người chúng ta: “Anh em hãy canh thức”.
"Canh thức" như Chúa Giêsu mời gọi có nghĩa là ngồi đó thức và chờ đợi chứ không làm gì cả. Thái độ, tâm tình như thế là tâm tình tiêu cực, tâm tình bi quan và chẳng có ý nghĩa gì với ta cả.
Tâm tình "canh thức" được Thánh Phaolô mời gọi rất rõ qua đoạn thư của Ngài: "... vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.
Xin cho chúng ta sống tâm tình "canh thức" như Thánh Phaolô mời gọi để bất cứ khi nào Chúa đến với đời ta, ta sẵn sàng đón chờ Chúa và Chúa đưa ta vào hưởng hạnh phúc Quê Trời với Ngài.
21. Để Chúa đến trong cả cuộc đời
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài đọc 1 trích sách Ngôn sứ Isaia: "Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gicop hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường" (Is 2,1-5).
Ngôn sứ Isaia ước mơ về một tương lai thế giới hoà bình, không còn đánh nhau, không còn chinh chiến nữa, gươm đao giáo mác trở nên liềm hái làm dụng cụ lao động. Bức tranh về một nền hoà bình tuyệt đẹp: sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò (Is 65,25), trẻ con thọc tay vào hang rắn lục...
Isaia hướng nhân loại về niềm hy vọng: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan (Is 65,17-18).
Khát vọng của Ngôn sứ Isaia cũng như của nhân loại ngàn đời là một nền hoà bình vĩnh cữu. Chính trong niềm khát vọng ấy mà Tu sĩ Hermann Schaluck, Ofm đã ước mơ đến: Trình Thuật Mới Về Công Việc Sáng Tạo:
- Và Thiên Chúa nhìn thấy cách thức loài người khắp cõi trần, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, không phân biệt nòi giống, nam nữ, đang khởi công liên hệ cùng nhau cách chân tình. Các dân tộc tự chọn giữa họ những người nam nữ tốt lành nhất và gởi họ tới lâu đài trứ danh bằng kính trên hòn đảo Manhattan (Trụ sở Liên Hiệp Quốc), nơi mở cửa đón tiếp tất cả các quốc gia hoàn cầu. Tại đây, họ lắng nghe đối thoại thân mật, thông cảm lẫn nhau và khai triển những dự án cộng đồng.
Và Thiên Chúa phán: "Như thế là tốt". Và đây là ngày đầu tiên của kỷ nguyên mới.
- Và Thiên Chúa nhìn thấy cách các chiến sĩ hoà bình tách biệt các đạo quân đang lâm chiến với nhau, các tranh chấp được dàn xếp bằng lẽ phải và điều đình, chứ không phải bằng khí giới. Các nhà lãnh đạo quốc gia biết lắng nghe tiếng nói của các dân tộc, biết cùng nhau khởi sự coi trọng lợi ích toàn cầu và hoà bình thế giới kết hợp với lợi ích riêng biệt.
Và Thiên Chúa phán: "Như thế là tốt". Và đó là ngày thứ hai của hành tinh mới.
- Và Thiên Chúa nhìn thấy cách loài người bắt đầu yêu chuộng và bảo vệ thay vì khai thác tạo vật: bầu khí quyển với lớp ozon, nước sông, nước biển, trái đất và nguyên liệu cũng như tất cả những gì sinh sống và phát triển tại đó. Và Thiên Chúa cũng thấy rằng bắt đầu loài người không còn thống trị và khai thác lẫn nhau, nhưng tự coi là con một Cha duy nhất và đối xử đồng đều với nhau.
Và Thiên Chúa phán: "Như thế là tốt". Và đó là ngày thứ ba của kỷ nguyên tư tưởng mới.
- Và Thiên Chúa thấy cách loài người khắp hoàn cầu khởi công khám phá và loại trừ các nguyên nhân gây nên đói khát, bệnh tật, dốt nát và nghèo đói bất công. Họ khởi sự san sẻ cùng nhau những gì thuộc về tất cả và vì lợi ích chung và sự sống còn của toàn cầu, họ khởi sự xem xét các khía cạnh tích cực và quan điểm chung của các dân tộc và tôn giáo.
Và Thiên Chúa phán: "Sự việc phải như vậy". Và đó là ngày thứ tư của cuộc sáng tạo mới.
- Và Thiên Chúa thấy cách loài người, với một ý thức hoàn hảo, có trách nhiệm chứ không vì ham muốn quyền lực, khởi sự sử dụng tài nguyên thiên nhiên được giao phó cho mình, đặc biệt là chất đốt rút ra từ lòng đất và năng lượng nguyên tử. Thiên Chúa thấy cách lương tâm họ luôn thức tỉnh thúc đẩy họ tự vấn xem lại các dự án mới mà họ định nghiên cứu có thích hợp với việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại không. Họ từ bỏ ương ngạnh để chủ trương tế nhị, từ bỏ tham lam để chủ trương không vụ lợi, ích kỷ cá nhân và quốc gia để chủ trương tinh thần liên đới.
Và Thiên Chúa phán: "Như thế là tốt". Đó là ngày thứ năm của một thế giới nhân đạo hơn.
- Và Thiên Chúa thấy cách loài người năm châu khởi sự tháo gỡ và phá bỏ các dàn phóng hoả tiễn, các kho bom đạn, vũ khí hoá học, vi trùng cũng như các vệ tinh do thám và hệ thống truy tầm, giải phóng quân đội và vì thế phổ biến trong học đường và chương trình giáo dục những mô hình sư phạm về hoà bình minh bạch và hữu hiệu đến nỗi các cuộc tranh chấp có thể được giải quyết bằng đường lối hoà bình.
Và Thiên Chúa phán: "Tất cả như thế là tốt". Đó là ngày thứ sáu của một bầu trời mới.
- Và Thiên Chúa nhận thấy cách loài người bắt đầu tái nhận biết Ngài nơi mọi sự, Ngài, Thiên Chúa hằng yêu quý sự sống. Họ coi cuộc tranh đấu cho sự sống, cho phẩm giá và cho việc nhìn nhận quyền lợi mỗi cá nhân là một việc phụng vụ Thiên Chúa. Và mỗi lần một trong những ý thức hệ họ sụp đổ, lúc thảo lại một hiến pháp mới, họ ghi vào đó rằng: Ta đừng bao giờ quên lãng Thiên Chúa là nguồn gốc và tận cùng một thế giới công bình và nhân đạo. Và họ nhìn nhận con người được sống và được giải phóng là dấu chỉ của Thiên Chúa trong lịch sử.
Và Thiên Chúa phán: "Bây giờ, tất cả đều trở nên tốt lành". Đó là ngày thứ bảy của việc sáng tạo hoàn cầu. Từ đây hoàn cầu đồng thuộc về nhân loại mới và Thiên Chúa.
Một nền hoà bình đích thực dẫn đưa con người đến "trời mới, đất mới" (Kh 21,1) hiệp thông với Đấng là sự Thật và là Sự Sống. Loại bỏ những việc làm đen tối (Rm 13,13), mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14), nhân loại sẽ xây dựng được nền hoà bình vĩnh cửu. Niềm hy vọng một nền hòa bình vĩnh cửu gắn liền với lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại bởi lẽ: Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử. Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Thiên Chúa là Sự Sống, là Tình Yêu. Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm Người. Đức Giêsu Kitô chính là Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu.Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu loan báo cho loài người là Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Tình Yêu. Ngài luôn mời gọi mọi người thiện tâm chung sức kiến tạo nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.
Năm Phụng Vụ khởi đầu bằng Mùa Vọng. Bài thánh ca quen thuộc ngân vang trong những sinh hoạt đạo đức hàng ngày: Xin cho lòng chúng con luôn mở rộng chờ mong Chúa đến, xin cho lòng chúng con luôn thắm đượm một tình yêu mến, xin cho lòng chúng con luôn ước ao, luôn khát khao, một thế giới sướng vui dạt dào, một thế giới không còn khổ đau.... để Chúa đến trong cuộc đời, để Chúa đến mang ơn trời, nguồn hạnh phúc cho con người, nguồn cứu rỗi cho mọi nơi...
Để đón chờ Chúa đến, cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Giêsu dạy trong trang Tin Mừng: ngày Con Người đến thật bất ngờ: vào ngày nào, giờ nào không một ai biết. "Lúc Con Người đến" chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng nó lại đến một cách bất ngờ. Bất ngờ như trận lụt đại hồng thủy thời ông Noê. Bất ngờ như hai người đàn ông đang làm ruộng, hai người đàn bà đang xay bột, một người bị đem đi, một người để lại. Không ai biết được mình sẽ ra đi lúc nào. Không ai biết được tương lai của mình ra sao. Không ai biết được ngày tận thế. Vào thời ông Noê, trong khi không ai để ý chuyện gì sắp xảy ra, cuộc sống vẫn cứ tiếp tục với những dấu hiệu bình an: "Thiên hạ vẫn ăn uống, dựng vợ gả chồng". Chỉ có ông Noê là người tỉnh thức và sẵn sàng. Vâng lệnh Chúa, ông Noê đóng một chiếc tàu rất lớn. Đang khi đóng tàu, dân chúng chế giễu ông lẩm cẩm. Sau khi hoàn tất, ông và gia đình cùng với súc vật vào tàu, trời bắt đầu sấm chớp và đổ mưa như trút ngày đêm. Lụt đại hồng thủy dâng lên bất chợt. Tất cả đều bị cuốn trôi trong nước lũ. Chỉ còn lại gia đình ông Noê được cứu sống. Chúa đến sẽ bất chợt khi chúng ta đang làm việc, đang sinh sống, đang ăn uống, đang ngũ nghỉ.
Chúa đã đến và vẫn đến mỗi ngày. Để đón chờ Chúa đến, cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức không "chè chén say sưa", là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không "lo lắng sự đời", là không quá mê say danh, lợi, thú. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới "đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người". Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.
Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Mùa Vọng chúng ta trông chờ Chúa hay Chúa trông chờ chúng ta?
Mùa Vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
22. Niềm tin yêu phó thác.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
CON THUYỀN KHÔNG BẾN
Trong một lớp giáo lý Rước Lễ Trọng Thể, khi được hỏi: “Con tàu No-ê đã trôi về đâu”, một em học viên tuổi vào đời đã trả lời nhanh: “Dạ, nó trôi lênh đênh như con thuyền không bến”.
Hay! Giữa trời biển bao la, còn đâu là bến bờ, câu trả lời thật thơ mộng và chính xác!
Nhưng đó chỉ là hình ảnh được hiểu theo kiểu “người trần mắt thịt”, thấy sau biết vậy. Con thuyền No-ê không trôi vô định, phó mặc dòng đời tùy hên xui may rủi, kiểu “con thuyền không bến” của người đời: “cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu”. Con thuyền No-ê đã được tạo thành có mục đích, nó trôi nổi giữa dòng đời theo mục đích, và sẽ dừng lại đúng mục đích.
Đó là một cuộc hành trình có khởi điểm, có lộ trình, và có điểm đến. Đó là một cuộc hành trình do Thiên Chúa hoạch định. Đó là ơn gọi vì yêu thương.
Bến cũ không còn an toàn, Thiên Chúa muốn ông No-ê rời bỏ nơi ấy, để đến bến bờ mới của sự sống, nơi sẽ là Trời Mới, Đất mới - một Thế Giới Mới. No-ê đã vâng lời. Ông tin những gì Thiên Chúa nói. Ông vâng phục những gì Thiên Chúa dạy. Ông phó thác mọi sự trong chương trình của Thiên Chúa.
Nên, giữa trời biển bao la, vẫn có một bến bờ mà nếu không có đôi mắt đức tin không thể nào thấy được, đó là bến bờ vô hình đang chờ đợi “con thuyền không bến” của No-ê cập bến: - bến bờ sự sống mới.
Như vậy, cuộc hành trình của con tàu No-ê là một cuộc hành trình hy vọng. Hy vọng những điểu tốt lành Thiên Chúa sẽ trao ban như lời Ngài đã hứa.
CHỜ ĐỢI VÀ HY VỌNG
Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng. Hy vọng đòi hỏi đợi chờ. Có những người tự tử vì họ không còn hy vọng. Họ không còn gì để đợi chờ. Có những người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ luôn hy vọng điều tốt lành đang ở phía trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ trong hy vọng.
Tháng ngày lênh đênh trên sóng nước bao la của con tàu No-ê là cuộc hành trình chờ đợi trong hy vọng. Mong đợi thấy được ánh mặt trời của ngày mới rực sáng trên mặt đất hồi sinh.
Đó là Mùa Vọng của con tàu Nô-ê. Mùa Vọng của những người luôn được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến Chúa. Những người luôn tỉnh thức để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
Muốn có được niềm hy vọng, người ta luôn phải phấn đấu. Không ai đạt được mục đích mà chỉ “nằm há miệng chờ sung”. Để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con người luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải có hy sinh, đau đớn, khổ luyện, con người mới vươn lên được. “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi”.
Cuộc sống chỉ để thỏa mãn những thú vui thấp hèn. Theo đuổi những giá trị nhất thời. Hưởng thụ những thứ phàm tục thoáng qua. Buông thả theo bản năng. Mất phương hướng đời người. Không còn cảm nhận được những giá trị cao cả lâu bền. Cuộc sống ấy sẽ thật sự chấm hết trong thế giới tan biến phù hoa ảo ảnh. Vì cuộc sống ấy không nối kết được với nguồn sống vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Thời ông Nô-ê thế nào, thì con người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày con người quan lâm cũng sẽ như vậy”. (Mt.24,37-39).
VÀO GIỜ PHÚT KHÔNG NGỜ...
Ở quê tôi, không nhớ rõ năm nào, chỉ biết là trước năm 1975, người ta báo tin một chiến sĩ tên Sang tử trận. Phải mất gần ba ngày sau, gia đình người thân mới đi lãnh xác về được trong chiếc quan tài được hàn chì bên trong cẩn thận.
Thật khó mà tả được hình ảnh người mẹ đau khổ. Bà ôm chiếc quan tài và tha thiết xin được nhìn mặt con lần cuối, nhưng không ai đáp lại nguyện vọng của bà. Vì ai cũng hiểu: chẳng còn hình thù gì nữa để nhìn. Người ta giữ lại chiếc quan tài một đêm để cầu lễ và dự định ngày hôm sau thánh lễ an táng sẽ cử hành lúc 2 giờ chiều.
Buổi sáng ngày dự định chôn cất, lúc ấy khoảng 8g, khi người mẹ còn đang thỉnh thoảng bước lại nhìn di ảnh đứa con trai cưng của mình, thắp vài nén hương trong nước mắt, thì một người ở ngoài đường hối hả chạy vào nhà báo tin: “Mẹ ơi, người ta điện về xã cho biết tên Sang đó không phải là người ở xã của mình, ở nơi khác. Mẹ ơi, anh Sang còn sống! Mẹ ơi, anh Sang còn sống!”.
Người mẹ đứng chết trân, ngỡ ngàng, không biết mơ hay thực, nước mắt tiếc thương chưa kịp khô, những giọt nước mắt vui mừng trào trào ra tuôn dòng trên đôi má nhăn nheo.
Ngay ngày hôm sau, người ta cho anh Sang về phép. Có lẽ ai đó có trách nhiệm trong việc lầm lẫn tai hại này muốn chuộc lại lỗi lầm chăng. Hay muốn bảo đảm chắc chắc rằng người nằm trong quan tài kia không phải là Sang ở gia đình này. Sau đó, người ta đem chôn tạm chiếc quan tài kia ở phía sau ruộng. Gần một tháng sau mới có thân nhân đến tìm mộ.
Mấy ngày sau, tôi đến thăm người mẹ đó. Bà nói câu nào cũng khóc. Khóc rồi cười. Cười rồi lại khóc. Đó là thứ ngôn ngữ diễn tả niềm vui quá sức lớn lao đến mức người ta có thể điên lên được vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Thật không ngờ! Tôi cứng rắn lắm, vậy mà cũng khóc. Tôi khóc vì cảm động trước lòng mẹ...
Ôi, sự sống quý trọng biết bao và là khát vọng muôn thuở của con người!
Tôi chợt nhớ đến hình ảnh của Chúa Giêsu đã xúc động trước đám tang của con trai bà góa thành Na-im (Lc.7,11-17). “Trông thấy bà Chúa chạnh lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc nữa’”. Niềm hạnh phúc của bà mẹ này chắc chắc rất lớn lao và thật không ngờ. “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”.
Niềm vui ấy không chỉ riêng của bà mẹ thành Na-im và bản thân người chết, mà còn là niềm vui của mọi người. Đó là nỗi khắc khoải chờ mong của mọi người, của kiếp nhân sinh. “Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ‘Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người ’”. (Lc.7,16).
Đó là niềm vui lớn nhất mà chúng ta chờ đợi. Đó là hy vọng mà chúng ta ấp ủ trọn cả kiếp người.
Cuộc đời của chúng ta có rất nhiều điều không ngờ. Chúng ta là thân cát bụi mà Chúa đã yêu thương chúng ta đến mức không ngờ. Ngài tha thứ chúng ta đến mức không ngờ. Ngài là Thiên Chúa mà chọn cái chết vì chúng ta thật không ngờ. Ngài sẽ đến vào ngày không ngờ. Ngài sẽ đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc không ngờ.
Chỉ có điều, ta đáp lại tình Ngài như thế nào qua cách sống của chúng ta. Nếu ta bước đi vững vàng trong niềm tin yêu Thiên Chúa. Nếu ta biết lắng nghe Lời Chúa. Nếu ta biết chọn lựa những gì thuộc về Chúa. Nào ta còn sợ gì lạc lối. Mặc cho cuộc đời có đổi thay. Sóng gió tư bề bao phủ. Chuyện kinh thiên động địa tràn lan, ta chẳng hề sợ đến “hồn xiêu phách lạc”, vì ta tin vững Thiên Chúa không hề bỏ rơi những ai trung thành và hằng kêu cầu đến Thánh danh Ngài. “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và hãy ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ” (Lc.21.28).
Có một chút màu trắng trinh nguyên,
Có một chút màu đen bóng tối,
Có một chút màu xanh hy vọng,
Có một chút màu đỏ tình yêu.
Đan quyện lấy nhau.
Pha trộn vào nhau.
Để cho ra màu tím.
Màu Tím Mùa Vọng.
Màu của đợi chờ.
Lạy Chúa,
Cho con cúi xuống, chẳng dám nhìn lên,
Dòng lệ ăn năn khóc đời lầm lỡ.
Cho con ngước lên, dòng lệ òa vỡ,
Trông chờ Chúa thương cứu chuộc đời con. Amen.
23. Âm vang mùa vọng
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quan Trung)
Thiên tai, địch họa, bão lũ, cuồng phong trong thời gian gần đây đã gieo bao tai ương! Đã gây bao đổ vỡ! Đã cướp bao sinh mạng! Đã vùi bao mái ấm! Tại trời? Tại đất? Tại đời?
Cuộc sống ngày càng mang tới nhiều nơm nớp lo âu: bạo hành từ gia đình! Bạo lực nơi học đường! Bạo ngược trong cuộc sống! Bạo thiên nghịch địa mất hết nghĩa nhân! Tại Trời? Tại đất? Tại đời?
Đạo đức ngày càng thêm tuột dốc! Nhân cách ngày càng lúc nhạt phai! Lọc lừa ngày một thêm táo tợn! Tình đời ngày tráo trở liên hồi! Nào phải tại trời! Đâu phải tại đất! Cũng chẳng tại đời! Mà tại lòng người không thích lắng nghe lời hay, không muốn đi vào đường thiện, không cùng hòa nhịp yêu thương!
Tất cả những điều bất hạnh ấy đã được vị Mục Tử nhân lành Giêsu cảnh báo từ ngàn xưa: “Hãy tỉnh thức!”(Lc 21,36); “ Sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21,25).
“Hãy tỉnh thức”: - để sống cho ra sống, sống có mục đích, có lý tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!
“Hãy tỉnh thức”: - để tỉnh táo phân biệt chính- tà; tội- phước; cố gắng thoát kiếp “con”để sống đẹp kiếp “người”!
“Hãy tỉnh thức”: - để làm vui lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia đình luôn là bến đậu vững chắc trước bão đời đang vùi dập tình thân huyết thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong; đang hủy hoại nếp đời nếp đạo.
Lũ lụt miền trung
Bởi từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã gây họa cho nhau: rừng không còn bóng râm ươm mát, giữ nước chặn nguồn, nên lũ trôi nước cuốn là lẽ đương nhiên! Những dãy núi xanh thẫm bị khai thác vô tội vạ, còn biết lấy đâu ra bức bình phong ngăn cơn thịnh nộ của cuồng phong, nên đồi sạt đá lở nào phải tại trời? Nếu đủ tỉnh thức, bao dòng sông đã không ô nhiễm! Bao khí trời đâu mất tinh khôi! Bao kiếp người đâu vương nhiều mầm bệnh!
Do từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã giết chết đời nhau: bao cô gái chàng trai, bỗng trở thành món hàng bị bán buôn, trao đổi, bị xóa đi nhân phẩm một thời! Danh- Lợi- Thú đã giết chết đường tương lai rạng rỡ. Đam mê, dục vọng, bạc tiền, quyền lực đã dìm chết bao lứa tuổi mộng mơ!
Rồi cũng từ lòng tham không đáy, nơi được gọi là rèn đúc nền tảng đạo đức làm người, đã đâm thủng cái tâm của bao nhà giáo chân chính: loạn học đường cũng do thiếu Tỉnh Thức từ đầu. Nỗi đau này ai gánh, ai mang?
Mùa Đông se lạnh đang về. Mùa Vọng chờ mong một cuộc hoán chuyển lòng người đã tới. Có mấy ai muốn nghe lời nhắn nhủ đầy yêu thương của Đấng muốn ban mầm sống vĩnh cửu cho mình: “Hãy tỉnh thức đi con! Hãy quay về đi con! Hãy can đảm đi đến tận cùng của sự lột xác, để đời không còn bị trói buộc trong ganh tỵ, trong thù hận, trong ghen tương, trong tính toán tom góp vật chất mà quên rằng: cuộc sống này rồi cũng qua đi nhưng điểm dừng đâu chỉ là cái chết! Nếu nghĩ vậy, con chỉ mới đi hết phần “con” chứ đâu đã hưởng trọn vẹn phần “người”!
Nếu sống phút giây hiện tại như giây phút cuối đời mình: Chắc không mấy ai mãi mê chạy theo danh vọng!
Nếu sáng thức dậy mà biết hoàng hôn chưa xuống thì cuộc đời mình sẽ không thấy ngày mai: chắc chẳng mấy ai đắm chìm trong biển vàng rừng bạc!
Nếu sống mà tỉnh thức như thế, tận thế hay không cũng chẳng còn là nỗi âu lo! Cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên niềm vui hạnh phúc! Nỗi lo lắng cơm- áo- gạo- tiền không còn là gánh trĩu nặng trên vai!
Chúa không cảnh báo, răn đe, mà Chúa đang khuyên nhủ, đang mời gọi, đang mở đường để ta không phải lệch đường, sai lối trên con đường lữ hành hoàn thiện kiếp người! Âm vang đầy yêu thương ấy; lời mời gọi đầy ân tình ấy; có phút nào ta mở rộng tim mình để cảm nhận, để đáp trả, để Chúa có thể vào trú ngụ không đây?
24. Một ánh sáng trong đêm tối
(Suy niệm của Bernard Lafrenière – BTGH chuyển ngữ)
Trong hành trình, ban đêm, trên một con đường xa lạ, chúng ta chỉ cần nhìn thấy một ánh sáng hoặc một ngôi nhà để cảm thấy được an tâm. Như vậy, khi chúng ta vượt qua những giai đoạn khó khăn, chúng ta tìm một ánh sáng trong đêm tối. Trong ba bài đọc hôm nay, nói về giấc ngủ, đêm tối và ánh sáng.
“Hãy đến – lời tiên tri Isaia nói với chúng ta – hãy bước đi trong ánh sáng của Đức Chúa”. Thánh Phaolô viết: “Giờ đã đến để ra khỏi giấc ngủ... Đêm sắp tàn,ngày đang đến gần…”. Chúa Giêsu nói thêm: “Hãy sẵn sàng: Chính vào giờ các con không ngờ, Con Người sẽ đến…”. Và như để nhấn mạnh tầm quan trọng của thông điệp nầy, Chúa Giêsu đưa ra ba ví dụ, trong đó những người không nghi ngờ gì hết trong khi một biến cố hệ trọng xảy ra.
Trong trình thuật của sách Sáng Thế Ký, một tình huống khác thường sắp sửa đảo lộn nhân loại,nhưng không ai mảy may nghi ngờ, trừ một người tên là Noé. Xung quanh Ông, người cưới hỏi, ăn uống như thể không gì có thể xảy ra. Chỉ có Ông Noé là làm cho mình một con tàu ngay giữa nông thôn. Vả lại, Ông đã rất già yếu và người ta thích chí ngắm ông làm. Chúa Giêsu nói thêm: “Người ta không nghi ngờ gì hết, cho tới khi nạn hồng thủy ập tới chôn vùi tất cả bọn họ: đó cũng sẽ là ngày Con Người đến.
Hai người đàn ông sẽ ở ngoài đồng, làm công việc rất bình thường, giữa thiên nhiên: “một người được đem đi, người kia bị bỏ lại”. Hai người phụ nữ sẽ ở cối xay bột. Người ta vẫn còn tìm thấy những chiếc cối nhỏ Phương Đông được làm với hai hòn đá đặt chồng lên nhau và một hòn có một tay nắm, mà hai phụ nữ ngồi chuyển cho nhau để làm cho viên đá nầy quay. Đây là một công việc rất đơn giản. Cả ở đó nữa, – Chúa Giêsu nói – “một người được đem đi, một người bị bỏ lại”.
Nhưng biến cố nào sẽ chợt xảy đến với chúng ta? Tại sao lại phải thức dậy khi đang ngủ và để cho mình được dẫn đi theo ánh sáng? Muốn hiểu nó, chỉ cần nhìn những người sống xung quanh ta và tự hỏi: “Điều gì làm họ chăm chú vậy?”
Nhiều người an toạ tốt bao nhiêu hay bấy nhiêu trong thế gian chóng qua nầy. Đã hẳn tiện nghi cung cấp cho chúng ta một sự thoải mái nhất định. Nhưng cuộc sống qua đi và không có gì mỏng manh như là những lời hứa của thế gian nầy. Phải thức dậy: Đức Chúa đang đến! Chúng ta phải chỉnh tề khi Nước Thiên Chúa sắp đến!
25. Sống tỉnh thức và sẵn sàng
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một năm Phụng Vụ lại đến. Thời gian cứ thế trôi đều theo nhịp dường như chẳng có gì mới dưới trần gian này. Đông qua, xuân đến, hạ đi, thu lại về. Hết mùa thường niên, đoàn tín hữu Kitô bước vào mùa Vọng, mùa Giáng Sinh. Tuy nhiên vẫn có đó cái gì mới lạ khi ta bước vào một điểm mốc của thời gian, cho dù đó chỉ là sản phẩm có tính quy ước của con người. Bắt đầu một chu kỳ mới, được gọi là năm dựa trên vòng xoay của vũ trụ nói chung, của thái dương hệ mặt trời và trái đất chúng ta nói riêng hay khởi đầu một chu kỳ lịch sử ơn cứu độ theo niên lịch Phụng vụ Kitô giáo, hẳn nhiên vẫn tiềm tàng một khao khát, ước mơ, hy vọng nào đó. Chắc chắn đó là những hy vọng, mơ ước về nhiều điều tốt đẹp, có thể là hợp lý, phải đạo, cũng có thể là không và không thể loại trừ những ước vọng cao cả.
Bước vào một chu kỳ mới của niên lịch Phụng vụ, Hội Thánh mẹ, trong năm Phụng vụ năm A này có vẻ hơi lạ thường khi mời gọi chúng ta hướng cái nhìn đến ngày chung cục của thế giới, của đời người chúng ta. Bài tin mừng theo thánh Matthêu tường thuật những lời cảnh báo của Chúa Giêsu về tính bất ngờ, đột ngột của cái ngày chung cục ấy. Đồng thời Người kêu gọi các khán thính giả lúc bấy giờ cũng như chúng ta hôm nay rằng hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Quy luật tự nhiên giúp ta thêm xác tín rằng sự gì khi đã có khởi đầu thì hẳn có lúc kết thúc.
Vòng đời “thành, trụ, hoại, không” của nhiều vật, nhiều loài hữu hình trước mắt chúng ta là một dấu chứng cho sự kết thúc của vạn vật nói chung và của đời người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là tính bất ngờ. Hình ảnh cơn lụt đại hồng thủy thời Noe hay hình ảnh hai người đàn ông đang làm ruộng, hai người đàn bà đang xay bột, thì một người bị đem đi, một người bị để lại, tất thảy đều muốn mô tả sự bất ngờ. Khi nói đến sự bất ngờ người ta thường nói đến hệ quả của nó là sự mất mát, sự thiệt hại hơn là sự may mắn hay là được lợi, cho dù thỉnh thoảng nhiều sự may mắn có xảy đến cách bất ngờ như chuyện trúng số độc đắc. Để tránh những hệ quả xấu, di hại cho hạnh phúc chúng ta đời này, nhất là cho hạnh phúc vĩnh cửu mai sau, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại là hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Vậy thế nào là thái độ biết sẵn sàng và tỉnh thức? Hội Thánh, qua bài đọc thứ nhất trích Sách Tiên tri Isaia và bài đọc thứ hai trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Roma, muốn trình bày hai phương thế sống tỉnh thức sẵn sàng, xét theo phương diện tiêu cực và tích cực.
1. Sống tỉnh thức sẵn sàng theo phương diện tiêu cực: Hãy loại bỏ những việc làm đen tối. Hãy dứt khoát với việc chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tương. Không chìu theo tính tự nhiên mà thỏa mãn các dục vọng bất chính, đê hèn. Những hành vi bất chính, những thái độ bất xứng, những việc làm ám muội thường là những thái độ, hành vi, việc làm mà ta ít dám thể hiện công khai và thường không muốn cho ai hay, ai biết, ngoại trừ người đồng lõa, người tòng phạm.
Để sống tỉnh thức sẵn sàng theo nghĩa này thì xin hãy nhớ rằng không có sự gì mà sẽ không bị tỏ lộ. Chúng ta có thể che giấu một người nhiều lần. Chúng ta cũng có thể che giấu nhiều người một vài lần. Nhưng chúng ta khó mà che giấu mọi người nhiều lần. Nhất là chúng ta không thể nào che giấu được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn tâm can con người, từn người và mọi người (x.Tv 139)
Để sống sẵn sàng tỉnh thức theo ý hướng này không gì hơn hãy minh bạch hóa các việc làm của ta. Một người không ngần ngại công khai hóa các lời nói, tâm tư và hành động của mình thì sẽ tránh được nhiều sai sót, lỗi lầm. Và nếu có lỡ lầm hay sai sót thì cũng sẽ dễ có cơ hội khắc phục, sữa sai nhờ tha nhân góp ý, nhận định, phê bình.
2. Sống tỉnh thức sẵn sàng theo phương diện tích cực: Lấy gươm đao rèn thành cuốc thành cày; lấy giáo mác đúc thành liềm, lưỡi hái. Một động thái tích cực thật tuyệt vời. Đó là quay ngược 180 độ các xu hướng xấu xa, các việc làm ám muội, các hành vi gian ác. Một ngày kia, người ta hỏi văn hào Bernard Shaw, một văn hào rất thông minh và dí dỏm trong lối ứng xử: Nhờ đâu, và bằng cách nào ngài có được những câu ứng xử vừa thông minh vừa dí dỏm như thế? Có gì đâu. Tôi cứ tưởng tượng ra một câu nói thật ngu ngốc và nhạt nhẽo, rồi tôi tìm cách nói ngược lại.
Ai trong chúng ta lại không có những điểm yếu, những nghiêng chiều bất chính, những thói quen không tốt, chẳng hay, nếu chưa muốn nói là xấu xa? Ai trong chúng ta lại không có những tội lỗi mà nếu công khai ra thì thật ngượng ngùng? Ai trong chúng ta lại không có nhũng lầm lỗi hay tái phạm nhiều lần, khó chữa, khó chừa? Cứ vạch rõ chúng ra rồi hãy làm điều ngược lại. Giả như tôi có tật xấu hay bủn xỉn, keo kiệt về tiền bạc thì ước gì tôi tích cực tập chia sẻ cho tha nhân cách cụ thể bằng những đồng tiền rút từ hầu bao của tôi.
Kinh “Cải tội bảy mối, có bảy đức” chúng ta dường như thuộc nằm lòng. Kinh ấy có ra không phải là để chỉ đọc trong các ngày Chúa Nhật và Lễ trọng mà là để chúng ta sống. Có thể nói một cách chắc chắn rằng những ai sống nội dung kinh “Cải tội bảy mối…” là đang thật sự tỉnh thức và sẵn sàng.
Người đang sẵn sàng và tỉnh thức thì không có gì là đột ngột hay bất ngờ mà là luôn trong tư thế chuẩn bị và đón chờ. Người biết đón chờ trong tư thế chuẩn bị thì hẳn sẽ gặp nhiều may lành khi giờ Chúa đến. Nói đến giờ Chúa gọi thì có thể có người cho là còn xa. Nhưng chắc chắn người biết chuẩn bị và đón chờ thì sẽ gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp trong dịp kỷ niệm Chúa Kitô đến thế gian lần thứ nhất là Đại Lễ mừng Chúa Giáng Sinh.
26. Chúa sẽ đến cho con người hạnh phúc.
(Suy niệm của Lm Jos Phạm Thanh Liêm)
Mùa vọng là thời gian chờ mong Chúa đến. Kitô hữu không còn chờ Chúa sinh lại trong máng cỏ hang lừa, nhưng chờ mong Chúa đến trong vinh quang để giải phóng trọn vẹn con người, cho con người được sống vĩnh cửu với Thiên Chúa.
1) Không có hạnh phúc trọn vẹn nơi cuộc đời chóng qua này
Thế gian này không phải là nơi ngập tràn hạnh phúc. Nghèo đói, bệnh tật, làm cho con người đau khổ. Không phải những người nghèo, vì bản thân bị đói nên họ cảm thấy khổ. Cái nghèo của bản thân, còn kéo theo những hậu quả xảy đến cho những người thân như con cái, cha mẹ, anh em. Cái nghèo khổ thể xác, đôi khi kéo theo cái nghèo khổ về tinh thần.
Những thất bại trên đường đời, thất bại trên đường tình (yêu mà không được đáp trả), thất bại về công danh sự nghiệp, cũng làm con người chán nản và đôi khi không muốn sống. Đời người tuy có những lúc hạnh phúc nhưng cũng nhiều vất vả, gian nan và đau khổ.
Cái chết, làm người ta phải xa lìa những người thân yêu, và nó cũng là một điều làm con người đau khổ. Có ai muốn xa người mình thương yêu, có ai an lòng khi phải xa những người thân yêu của mình, mà mình biết nếu thiếu vắng mình người đó sẽ bị đe doạ hay nguy hiểm. Cái chết làm người ta phải xa lìa những người thân yêu mà không ai cản được.
Những áp bức bất công thường xảy đến với con người. Những bất công xã hội và chiến tranh chết chóc vẫn đang tiếp diễn. Tất cả những điều này làm con người đau khổ. Ai giúp con người thoát cảnh súng đạn chết chóc và sống trong an bình? Ai giúp mang lại công bằng cho những người này? Ai có thể mang lại hạnh phúc bền vững cho con người?
2) Ơn cứu độ nơi Thiên Chúa
Cái chết làm con người khổ, vì thế con người mong có thuốc trường sinh bất tử. Con người ngày nay như muốn tìm trường sinh bất tử nơi “cloning”, nhưng “cloning” lại làm nảy sinh bao nhiêu điều đáng lo sợ. Trong cuộc sống có nhiều người “tàng tàng” đã sát hại bao người khác. Con người mới chỉ “cloning” được thân xác, nhưng đâu “cloning” được tinh thần. Con người được “cloning” này với bao yếu tố tâm lý ảnh hưởng, có chắc gì những người đó là những người bình thường, biết đâu những người đó có thể là mối đe dọa cho xã hội con người. Liều thuốc trường sinh còn xa vời với con người hôm nay. Hơn nữa, ngay cả người được sống hoài, có thể sau một thời gian sống lâu, cũng cảm thấy chán và muốn chết. Câu chuyện tưởng tượng một người được thuốc trường sinh bất tử nên sống hoài khi những người thân cùng thế hệ chết, rồi con cháu của người đó cũng chết; rồi cứ thế mãi cho đến một ngày người đó cảm thấy cô độc, và rồi cảm thấy sống hoài lại là nỗi khổ. Sau cùng, người đó lại ao ước được chết như tất cả mọi người. Phải chăng con người chỉ muốn sống, khi cuộc sống hạnh phúc? Phải chăng hạnh phúc không chỉ hoàn toàn nằm trong tầm tay con người? Ai có thể cứu độ con người? Ai có thể đong đầy ao ước hạnh phúc của con người?
Con người chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa niềm hy vọng giải phóng trọn vẹn con người, làm con người hạnh phúc vĩnh cửu. Bài đọc I cho thấy ao ước của người xưa về thời cánh chung, thời đó người ta không còn chém giết đánh nhau nữa. Sở dĩ vậy vì người ta tin vào Thiên Chúa, người ta sống theo ánh sáng của Thiên Chúa. Cũng với tinh thần này các tín hữu mong chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang, để giải phóng trọn vẹn con người.
Ngày Chúa tới trong vinh quang, là ngày Ngài tới để cứu độ con người, ngày Ngài giải phóng con người trọn vẹn, cả về tinh thần lẫn thân xác. Ngày đó con người sẽ sống lại, và người lành được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngày đó, sách Khải Huyền diễn tả, có trời mới đất mới. Sẽ không còn chết chóc, không còn khóc lóc nữa. Con người sẽ được hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu.
3) Sống trọn vẹn đời này
Bài đọc II thánh Phaolô khuyên bảo tín hữu vì không biết khi nào mình chết, nên hãy từ bỏ những công việc đen tối, đừng chiều theo những đòi hỏi của xác thịt. Tuy dù đời này chỉ là “đời tạm” nhưng con người được mời gọi để sống trọn vẹn thời gian của cuộc đời này một cách tuyệt vời.
Trở về với Thiên Chúa là Cha và cùng đích của mình. Tâm niệm và xác tín Thiên Chúa yêu thương mình. Phó thác đời mình cho Thiên Chúa. Cố gắng hoàn thiện và sống hạnh phúc trong từng giây phút của đời mình. Chấp nhận những gì xảy ra sau khi đã cố gắng hết sức để làm theo điều mình thấy tốt nhất. Tha thứ những gì người khác xúc phạm đến mình ngay cả khi họ không nhận lỗi. Cố gắng làm cho đời này tươi đẹp hơn, làm cho người khác vui hơn và hạnh phúc hơn, bằng cách yêu thương và tươi cười với họ, giúp đỡ họ khi họ cần.
Thánh Thần của Đức Yêsu đang ở với con người. Chính Thánh Thần sẽ giúp con người sống trọn vẹn từng ngày khi mong chờ ngày Đức Yêsu trở lại trong vinh quang.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Thật lòng mà nói, bạn có mong ước Chúa đến không? Tại sao?
2. Ngày Chúa đến trong vinh quang, con người được gì?
3. Bạn cần làm gì trong thời gian chờ mong Ngài đến? Điều bạn nói, có thể thực hiện được không?
27. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
CHỜ ĐỢI TRONG HY VỌNG
Mỗi người trong chúng ta đã có lần chờ đợi. Chúng ta chờ đợi một biến cố quan trọng trong đời; chờ đợi người đi xa trở về; chờ đợi một tin vui của người thân. Cuộc chờ đợi nào cũng làm chúng ta hồi hộp lo lắng xen lẫn với khấp khởi mừng vui. Trong khi chờ đợi, thời gian dường như trôi đi rất chậm, rất dài.
Mùa phụng vụ đầu tiên trong năm mới có tên là Mùa Vọng hay Mùa Đợi. Chúng ta chờ đợi Chúa đến. Đức Giêsu đã đến hai ngàn năm nay trong lịch sử, nhưng đối với mỗi cá nhân sống trên cõi đời này, thì Người vẫn đang đến. Và thế là, mỗi ngày sống của chúng ta trên trần gian là một ngày chờ đợi để gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ này mang màu sắc lạc quan hay bi quan tùy thuộc vào thái độ sống của mỗi người. Đối với ai thành tâm kiếm tìm Chúa thì cuộc gặp gỡ ấy là niềm vui và hạnh phúc. Đối với ai chỉ coi giá trị vật chất đời này là đích điểm, thì cuộc gặp gỡ ấy là sự kết án đau thương.
Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ yêu thương giữa Thiên Chúa với con người, Phụng vụ Mùa Vọng mở đầu bằng lời kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Chúa Giêsu trích dẫn sự kiện trong lịch sử Thánh Kinh mà người Do Thái nào cũng biết, đó là biến cố Đại Hồng thủy. Khi ông Nôê đóng tàu thì có nhiều người chê cười ông. Nhưng khi nước dâng lên thì họ bị nước cuốn trôi. Chúa kêu gọi mọi người hãy học bài học lịch sử đó như một kinh nghiệm sống, để luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì không biết giờ nào và ngày nào sẽ là lúc tận cùng của cuộc sống cá nhân chúng ta. Lúc tận cùng ấy huyền nhiệm và khó hiểu, được diễn tả như việc có hai người đang làm ruộng, hay hai người đang xay bột, một người được để lại và người kia được đem đi. Hay cũng bất ngờ như người chủ đi xa trở về bất chợt, vào lúc những người giúp việc không ngờ.
Tỉnh thức để đón Chúa, người tín hữu cũng được kêu mời tỉnh thức đối với anh chị em mình. Ngày nay người ta nói nhiều đến chứng bệnh vô cảm. Con người trở nên dửng dưng lạnh lùng trước những nhu cầu và nỗi đau của người thân hoặc những người xung quanh. Con đường dẫn ta đến gặp Chúa là con đường được nối kết bằng những việc bác ái ta làm đối với anh chị em mình. Bởi lẽ chúng ta không chỉ đi một mình đơn lẻ để gặp gỡ Chúa, mà ta đi với anh chị em, trong tình mến thân thiện của những người có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa tối cao. Không thể sống tinh thần Mùa Vọng mà lại dửng dưng hay thù ghét anh chị em của mình. Khi Chúa đến gặp ta, Người sẽ xét xử về cách sống của ta đối với những người xung quanh, nhất là những người nghèo khổ và bất hạnh. Như vậy, “tỉnh thức” có nghĩa là quan tâm đến người khác và ân cần giúp đỡ họ.
Lời Chúa trong ngày mở đầu Năm Phụng vụ mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuốc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người.
Hãy thức dạy những ai ngủ mê! Hãy ra khỏi bóng tối của ích kỷ hận thù, để bước vào ánh sáng huyền nhiệm của bác ái thứ tha. Sống theo ánh sáng, đó là một điều kiện không thể thiếu đối với những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Đức Giêsu.
Cuộc đời này là sự chờ đợi liên lỉ. Chờ đợi Chúa không giống như tìm kiếm sự may rủi hay một cơ hội có thể đến mà cũng có thể không. Chúng ta chờ đợi Chúa trong sự xác tín vào quyền năng của Ngài, và chắc chắn Người sẽ đến. Cuộc đời này được sánh ví như một con đường. Mỗi người chúng ta đang đi trên con đường đó. Ở cuối của con đường này, Chúa đang chờ đợi chúng ta, vì thế mà sự đợi của chúng ta là chờ đợi trong hy vọng. Chúng ta cũng tin chắc Chúa là Đấng yêu thương, luôn dành những điều bất ngờ cho những ai giữ một lòng trung tín và cậy trông nơi Người.
28. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA
Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Bàn thờ đạm bạc không hương hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa.
Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi đã thấy thấp thoáng màu xanh hy vọng vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến thành màu xanh? Làm sao nắm bắt được niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi Người ngự đến? Lời Chúa sẽ hướng dẫn ta sống tinh thần mùa Vọng này.
Trong tuần thứ nhất mùa Vọng, Chúa Giêsu khuyên ta noi gương tổ phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu thoát khỏi nạn hồng thủy nhờ thái độ sống tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái độ tích cực đó gồm hai điểm hỗ tương.
1) Chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào cuộc đời tối tăm hiện tại
Người ta sống nhờ hy vọng. Không có hy vọng, không ai sống nổi ở đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc đời tràn ngập đau khổ. Cuộc đời quá nhiều thử thách. Nhờ hy vọng con người mới có thể tiếp tục sống, làm việc, thăng tiến.
Chính vì hy vọng một mùa gặt bội thu mà người nông dân không ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy sớm, cần cù cày bừa, gieo vãi và vun tưới.
Chính vì hy vọng đậu đạt mà học sinh, sinh viên không ngại vất vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui chơi, đêm đêm chong đèn đọc sách.
Chính niềm hy vọng được cứu thoát đã giúp tổ phụ No-e có đủ can đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ và công sức để đóng một con tàu lớn như thế. Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời hứa của Chúa. Tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa, tổ phụ No-e sống tràn đầy niềm hy vọng vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài vượt qua những khó khăn hiện tại.
2) Sống tích cực giây phút hiện tại để chuẩn bị cho tương lai.
Niềm hy vọng vào tương lai giúp ta thêm can đảm. Nhưng nó không cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Niềm hy vọng tách rời khỏi thực tế sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt tới niềm hy vọng tương lai, ta phải tích cực sống phút giây hiện tại. Phải tích cực làm việc cho tương lai.
Người học trò muốn có tương lai tươi sáng không thể chỉ ngồi đó chờ đợi, nhưng phải ngày đêm chăm lo học hành.
Người nông phu muốn có mùa gặt bội thu không thể khoán trắng công việc đồng áng cho trời đất. Nhưng phải cần cù chăm chỉ dầm mưa dãi nắng.
Tổ phụ No-e không ngồi khoanh tay chờ Chúa đến cứu, nhưng đã bắt tay vào việc. Ngài làm việc cật lực, bất chấp những lời dèm pha, dị nghị của những người chung quanh.
Tục ngữ Pháp có câu: Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài đã dồn hết công sức vào việc chuẩn bị tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã hứa.
Đời sống ta là một mùa Vọng kéo dài. Mùa Vọng trần gian muốn phủ ta trong màu tím buồn của những gian nan thử thách, những thất bại, những chán nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy noi gương tổ phụ No-e, tin tưởng vững chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào những tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e, ta không ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng tích cực làm việc bổn phận trong hiện tại. Làm mọi việc thường ngày với lòng tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ mọn với tình mến Chúa yêu người tha thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Đó chính là ta tỉnh thức không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Có nhiều người chỉ quan tâm tới đời sau mà không chịu làm việc hiện tại. Có nhiều người lại chỉ lo làm ăn sinh sống mà không nghĩ đến đời sau. Bạn nghĩ sao về hai thái độ đó?
2) Ta phải sống thế nào để chu toàn nhiệm vụ hiện tại với bản thân, với gia đình mà không quên Chúa, không quên phần linh hồn của mình?
3) Tuần này, bạn sẽ làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến?
29. Bất ngờ và thức tỉnh
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Trần Văn Toản)
Giáo Hội bắt đầu năm phụng vụ với mùa vọng. Đây là mùa đón chờ Chúa đến. Trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm A, Mt 24, 37-44, Chúa Giêsu cảnh báo: “Các con hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Đây là tính bất ngờ của việc Chúa đến, và vì bất ngờ, nên phải luôn tỉnh thức.
Tính bất ngờ của việc Chúa đến: Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu trưng dẫn sự kiện xảy ra thời ông Noe: “Thời ông Noe thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noe vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (c.37-39). Trong lịch sử thánh, Chúa đã bất ngờ giáng sinh trong máng cỏ như một hài nhi của một gia đình di dân không tìm được quán trọ tại Belem (Mt 2,7). Tính bất ngờ của việc Chúa đến vẫn còn xảy ra trong hiện tại cho đến ngày cánh chung. Vì, một trong những cách mà Chúa ưu tiên chọn lựa để đến với ta hàng ngày là Chúa đến qua những người đói khát, người khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đày (Mt 25,31-46).
Vì bất ngờ nên phải thức tỉnh: Chúa Giêsu so sánh với thái độ thức tỉnh canh chừng kẻ trộm của người chủ nhà: “Anh em hãy biết điều này, nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c.43-44). Trong biến cố Chúa đến lần thứ I tại Belem, chỉ một nhóm nhỏ thức tỉnh và đã gặp Chúa. Đó là Mẹ Maria và Thánh Giuse, ông Giacaria và bà Isave, các mục đồng và các nhà đạo sĩ, ông Simeon và bà Anna. Để đợi chờ Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang, sách Khải Huyền dạy ta phải thức tỉnh mới lắng nghe được tiếng Chúa gõ cửa đời ta: “Hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn. Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 19-20).
Thức tỉnh là sống tốt giây phút hiện tại: Quá khứ là những gì đã qua, tương lai là những gì chưa tới, và ta chỉ có hiện tại để sống. Chính vì thế, ta cần ý thức rằng: thường thì ta không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể phá hủy hiện tại bằng cách quá tiếc nuối quá khứ, và quá lo lắng cho tương lai. Thức tỉnh sống hiện tại là phải sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời ta. Vì là ngày cuối cùng, nên phải “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự” (2Cr 5,9). Và lời khuyên của Thánh Phaolô luôn là cần thiết và hữu ích: “Thưa anh em, chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ (1Tx 5, 4-6)… Hãy từ bỏ những hành vi ám muội… không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghanh tị… chớ lo lắng và thỏa mãn những dục vọng xác thịt” (Rm 13,11-14).
Thức tỉnh cần thinh lặng trở lại với lòng mình để thiết lập tương quan với Thiên Chúa: Thường xuyên trở lại với lòng mình trong thinh lặng nội tâm, tâm hồn ta được coi như mảnh vườn thiêng liêng, trong đó, Chúa Thánh Thần như “Bác Làm Vườn” thường xuyên chăm sóc và chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ thiêng liêng giữa ta với Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, Chúa thức tỉnh hồn ta về khát vọng Thiên Chúa của ta vì ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Từ khát vọng này, đi đến ý thức rằng không phải ta khát vọng Thiên Chúa trước, mà thực ra, chính Thiên Chúa khát vọng ta, và vì thế Ngài luôn đến tìm ta, chờ đợi ta, và vui thích ở với ta. “Mỗi buổi chiều, trong gió hiu hiu, Thiên Chúa đến địa đàng đi dạo và đàm đạo với Adam và Eva (x. Kn 3,8). Đây là lúc ta có thể thốt lên như Thánh Augustinô: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con cho Chúa, và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa mà thôi”. Khát vọng này tạo nên sự thức tỉnh trong cuộc sống, như hơi thở, như nhịp đập của con tim, như dòng máu lưu thông trong thân thể…
Thiết lập tương quan với Chúa để ta cũng thiết lập tương quan với tha nhân: Đó là tương quan của ta với con người thời đại. Người môn đệ Chúa Kitô, theo gương mẫu của Thầy Chí Thánh trong mầu nhiệm Nhập Thể, tìm thiết lập các tương quan bằng chia sẻ cuộc sống với những cảm thông, bao dung, và đồng hành. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công đồng Vaticanô II viết: “Vui Mừng và Hy Vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô” (số 1). Hơn nữa, người Kitô hữu, còn tìm thiết lập các tương quan bằng tinh thần yêu thương và khiêm tốn phục vụ nhau như Đức Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thế: “Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau”. Nhất là, người môn đệ của Đức Kitô sống theo lý tưởng của Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt Qua, đã hiến thân vì anh chị em, “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người”. Trong tương quan với tha nhân, không những ta gặp được Chúa mà còn bước theo gương mẫu yêu thương, phục vụ, và tận hiến.
Thiết lập tương quan với Chúa và với tha nhân, để ta cũng thiết lập tương quan với thiên nhiên trong tâm tình ngợi khen, tạ ơn và trách nhiệm: Thông điệp “Chăm sóc ngôi nhà chung – Laudato si” đã dùng bài ca vạn vật của Thánh Phanxicô để ca tụng Đấng Tạo Thành: “Lạy Thiên Chúa của con, chúc tụng Chúa qua người chị của chúng con, Mẹ trái đất, là người nuôi dưỡng và chi phối chúng con, là người sản sinh hoa trái phong phú với biết bao hoa thơm cỏ lạ” (số 1). Và số 9 viết: “Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đón nhận thế giới như một bí tích của sự hiệp thông, một cách chia sẻ cùng Thiên Chúa và anh chị em đồng loại trên quy mô toàn cầu…”. Chính trong tương quan với thiên nhiên này, mà ta ý thức ta và thiên nhiên có cùng một nguồn gốc là Đấng Tạo Thành, để ta tận hưởng thiên nhiên như ân phúc của Thiên Chúa, đồng thời ta ý thức trách nhiệm cộng tác với Đấng Tạo Thành để chăm sóc thiên nhiên, hướng về Trời Mới Đất Mới của Nước Thiên Chúa, ngày Chúa Giáng Lâm trong vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
30. Hãy sẵn sàng
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Vào một ngày của tháng 10 năm 1992, một số người Nam Hàn tụ tập ở các nhà thờ để chờ ngày tận thế đến vào lúc nửa đêm. Có người đã bán nhà và xin nghỉ việc, nhưng dĩ nhiên đó không phải là ngày tận thế. Kinh Thánh chẳng hề nói tận thế đến vào lúc nào. Đức Giêsu cũng bảo là Ngài không biết (Mt 24,36). Chính vì thế Kitô hữu không tin những lời đồn thổi, nhưng kiên tâm chờ đợi trong hy vọng.
Đây không phải là thứ nơm nớp chờ đợi, khoanh tay, nhưng là thứ chờ đợi bằng cách sống hết mình để chuẩn bị cho trái đất đón Chúa trở lại.
Mùa Vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử.
Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một. Đó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết.
Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng.
Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới. Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.
Có lẽ chúng ta hôm nay mong chờ Chúa đến ít hơn các Kitô hữu thuở ban đầu. Chẳng ai thích nghĩ đến ngày tận thế. Tận thế bị coi là chuyện tương lai xa vời. Cuộc sống hiện tại có vô số mối lo âu và hy vọng: ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, làm ruộng, xay bột.
Thật ra, nghĩ đến ngày tận thế cũng cần như nghĩ đến cái chết của mình.
Cái chết dạy người ta biết cách sống. Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây dựng thế giới trên nền tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường tồn.
Đối với Kitô giáo, ngày tận thế không phải là ngày buồn, ngày của hủy diệt và tang tóc, nhưng là ngày của thân xác được sống lại, ngày khai sinh một thế giới mới không bị hận thù và chết chóc đe dọa.
Ngày tận thế là ngày Chúa quang lâm. Chúng ta phải sẵn sàng ra đón Ngài. Sẵn sàng là cùng với Chúa xây dựng một trái đất đầy tình thương và công lý. Sẵn sàng là biến trái đất thành con đường dẫn tới Thiên đàng.
Ngày Chúa quang lâm là một ngày bất ngờ, nhưng nó sẽ ít bất ngờ đối với những ai biết sẵn sàng chờ đợi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, có sự giằng co giữa đời này và đời sau nơi người Kitô hữu không? Làm sao để mối lo toan về đời này không làm ta sao nhãng đời sau? Làm sao để mối quan tâm về đời sau lại thêm sức cho ta chu toàn bổn phận đối với đời này?
Nếu ngày mai tận thế, hôm nay bạn làm gì?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
31. Mùa Vọng: Mùa màu xanh
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống – Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’ – trg. 7)
Tuần qua có dịp về quê, mới bước vào nhà, đứa cháu nhỏ ở tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến chào mọi người. Khi biết tôi đang ở đó, nó chạy lại quấn quít hỏi: “Mùa Vọng, bác có lì xì cho cháu không?”. Tôi chưa biết trả lời ra sao thì nó đã líu lo quanh quẩn giải thích. Thì ra ở lớp giáo lý, giáo lý viên đã dạy rằng: tuần tới, tức hôm nay, Phụng Vụ chuyển sang năm mới được khởi đầu bằng Mùa Vọng. Đứa bé chẳng biết Phụng Vụ là gì, nhưng đã nhớ rất kỹ chữ “năm mới”, vì thế mới có chuyện vòi lì xì. Đành phải chiều thôi. Nhưng chỉ được một lát, nó đã vòng lại khoe: cháu còn biết viết chữ “mùa vọng” nữa. Tôi bảo nó viết. Nó nằm bò trên sàn nhà nắn nót ra chiều khổ sở lắm, rồi cuối cùng cũng xong và đưa đến cho mọi người xem. Nhưng ôi thôi, thay vì “Mùa Vọng”, cháu đã viết lộn một nét để thành “Màu Vọng” khiến cả nhà được cười một trận.
Tôi ra đi trong tiếng cười ấy và sự lẫn lộn của đứa cháu như đeo bám lấy mình, để cuối cùng bất giác tự hỏi: Mùa Vọng màu gì nhỉ? Xin được mượn tâm tư ấy làm chủ đề cho Mùa Vọng năm nay. Đó là gọi tên Mùa Vọng bằng những sắc màu.
Hôm nay Chúa Nhật I Mùa Vọng, xin được gọi Mùa Vọng là mùa màu xanh, hay đúng hơn là mùa xanh lên niềm hy vọng. Gọi thế sẽ nêu hai ý nghĩa:
1) Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
Đã đành, lúc nào Thiên Chúa mà chẳng hy vọng vào con người. Do hy vọng, Ngài đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài. Cho hy vọng, Ngài đã không ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với họ, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài. Nhưng Mùa Vọng chính là thời gian, chính là một mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng vào con người qua lịch sử Dân Chúa, Đấng vẫn hy vọng vào con người trong lịch sử Giáo Hội và Đấng mãi hy vọng vào người đời trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi Đức Kitô qua những chuyến viếng thăm chính thức của Người. Lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể, Người đã đến âm thầm làm một người chan hòa giữa muôn người để đảm lĩnh lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu độ cho những kẻ tin. Thế nhưng, lúc Người về trời, công trình của Người vẫn còn dở dang. Mọi sự dường như mới bắt đầu. Ơn cứu độ khách quan đã xong, nhưng chủ quan, áp dụng cho từng con người lại cứ tiếp tục phải khởi sự. Thế nên, Người hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày chung kết vũ trụ và con người, trong vinh quang để đặt mỗi người đối diện với chính Người như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi.
Lần thứ nhất, do hy vọng, Người đến gieo ơn cứu rỗi và lần thứ hai, cho hy vọng, Người đến gặt những gì mình đã gieo và giữa hai lần đến chính thức ấy là cơ man nào mà kể những lần âm thầm đột xuất ngẫu hứng bất ngờ, Đức Kitô vẫn sáng kiến hy vọng mà bước đến với con người, qua những biến cố xảy đến với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc cá nhân; qua những khuôn mặt người anh chị em dẫu lạ hay quen ta tiếp cận; và nhất là qua những cảm nghiệm đến với lòng ta và lòng người, cho xanh lên niềm hy vọng cứu rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là cái giờ và cái cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của họ giữa chốn chợ đời. Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
2) Mùa Vọng là mùa con người hy vọng vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai; tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh cửu. Nhưng điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với khẩu hiệu “con người là tương lai của con người" nên dẫn đến chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp “Thiên Chúa là tương lai của con người" cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng “bốn mùa” xanh tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go.
Và cuối cùng, tỉnh thức trong hy vọng cũng có nghĩa là thao thức thường xuyên cùng với Giáo Hội để gieo niềm hy vọng vào chính môi trường mình sống. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một cuộc lên Đền từng bước, nhưng biết rằng ở đỉnh cao có Chúa đang chờ đợi. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng giống như kẻ đắp xây hòa bình, hãy đúc gươm đao thành cuốc thành cày, hãy rèn giáo mác nên liềm nên hái. Từng hạt lúa gieo, từng bước đi tới, rất âm thầm nhưng sẽ dẫn tới những cánh đồng bát ngát màu xanh hy vọng. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một chuyến đi có đích và có ích; đừng để trở thành “Chuyến đi không đến đâu” như bộ phim Úc mới chiếu trên tivi.
Sống Mùa Vọng như thế chính là sống niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng hy vọng vào con người. Và như vậy là êm đềm gợn sóng màu xanh lên chính cuộc đời tín hữu của mình. Mùa Vọng là mùa màu xanh.
Sáng nay ngang qua cuối nhà thờ Tân Định thấy bày la liệt những cây thông Noel. Hai, ba tuần trước đã thấy nhưng vẫn còn xa lạ, nhưng hôm nay cùng với tiết trời trở lạnh và nhịp Phụng Vụ trở mình bước vào Mùa Vọng, tôi mới thấy những cây thông ấy đẹp làm sao, không vì kiểu dáng chất liệu cho bằng chính sắc màu của nó. Trong mắt nhìn của tôi, màu xanh của những cây thông ấy chính là màu xanh của niềm hy vọng vươn lên.
Chúc mỗi người có một cây thông xanh thiêng liêng hy vọng nơi mình, để dẫu sống giữa những vòng quay điên đảo thử thách trăm bề, vẫn luôn kiên định trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa giống như đứa bé đòi lì xì, cứ “lì” ra trong niềm hy vọng, Thiên Chúa sẽ “xì” ra bàn tay cứu độ. Và thế là gặp gỡ đẹp xanh hy vọng.
32. Dấu hiệu thời đại – Achille Degeest
(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sau khi Chúa Giêsu đã nói tới những dấu hiệu báo trước sự tàn phá thành Giêrusalem, thì hôm nay Người nói về ngày tận thế. Ngày ấy sẽ xảy đến bất ngờ. Một cách nào đó, những dấu hiệu mô tả trong Phúc Âm đã xảy ra trong lịch sử loài người, và nhân loại đã quen với chúng rồi. Trong lúc mà bằng vô vàn cách thức khác nhau, các biến cố xảy ra cho thấy rằng thế gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thì con người vẫn dừng lại ở trình độ tìm tòi duy vật trong nỗ lực xây dựng văn minh. Đó là trường hợp của những người xưa kia bị hồng thủy thình lình ập xuống trên mình. Những ai không biết đọc dấu hiệu thời đại, rồi cũng sẽ bị tai họa bất ngờ như vậy. Cũng trong một viễn tượng gần như thế, ta hãy tự hỏi: Chúng ta có biết đọc dấu hiệu thời đại không? Thật vậy, hành động liên tục của Chúa trong nhân loại có thể quan niệm như một cuộc ngự đến không ngừng của Người trong nhân loại. Ta có biết nhận ra những dấu hiệu của cuộc ngự đến ấy không? Dựa vào Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II, chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta đang gắn ý nghĩa Phúc Âm nào cho những biến cố hiện đại đang tác động trên con người, trên cộng đồng nhân loại và hoạt động của loài người?
1) Con người
Chúng ta đang chứng kiến sự giảm sút kính trọng đối với nhân vị. Theo một số khoa học gia, bậc thầy trong khoa sinh vật học, con người là kết quả của một sự tình cờ may mắn trong đà tiến hóa của vật chất. Trong cách thức người ta quan niệm thì con người có giá trị gì? Con người có giá trị nào trước những vấn đề như phá thai, ngừa thai, công bằng, chính trị v.v… Phúc Âm đặt con người vào trình độ của tương quan giữa nó với Đức Giêsu Kitô. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Nó tội lỗi nhưng được cứu độ. Trong toàn con người nó, xác và hồn, nó là con cái Chúa. Sự sống của nó là một điều thiêng liêng. Phẩm giá con người đòi hỏi rằng trí khôn nó phải được soi sáng và con tim nó được huấn luyện. Chủ nghĩa duy vật hiện đại là một dấu hiệu thời đại phải thôi thúc người Kitô hữu quả quyết lại phẩm giá của con người một cách mạnh mẽ.
2) Cộng đồng nhân loại
Đang trên đường tìm kiếm, chưa bao giờ con người được sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật như thể gặp gỡ nhau khắp cùng trái đất. Đó là một dấu hiệu thời đại khiến người Kitô hữu phải tạo cho mình một não trạng phổ quát ‘công giáo’, bao trùm toàn thế giới. Hiện nay, đối với ai biết nhìn xem, Thiên Chúa đang đi tới con người qua tất cả những phương tiện dễ dàng làm cho con người gặp gỡ nhau.
3) Hoạt động của con người
Những cuộc chiến thắng, những thành công của con người là dấu hiệu biểu lộ sự phong phú vô biên của Chúa trong tạo vật. Nhưng uy quyền con người càng tăng, thì trách nhiệm của nó càng lớn. Con người sẽ làm việc cho con người, và làm việc trong một ý nghĩa tích cực, nếu nó duy trì liên quan của mình với Thiên Chúa. Nếu xa lìa Chúa, thì uy quyền nó càng nhiều, sức mạnh phá hủy của nó càng tăng.
Trên các biến cố thời sự làm xao động thế giới, ta hãy luôn luôn chiếu giãi ánh sáng Phúc Âm. Phải tỉnh thức. Hơn nữa, ta hãy tùy theo phương tiện ta có mà can thiệp vào để giúp cho Chúa ngự đến trong thế giới chúng ta.
33. Chống lại thói quen – André Sève
“Anh em hãy tỉnh thức!”
Giấc ngủ là thói quen của chúng ta. Nó làm chúng ta không ý thức được ngày giờ trôi qua.
Chúa Giêsu mô tả thói quen này như sau: “Vào thời Noe, người ta ăn uống, người ta dựng vợ gả chồng …”. Có một người thoát ra khỏi thói quen này đúng lúc, đó là Noe. “Noe bước lên tàu”. Còn những người khác vẫn sống “mà không nghi ngờ gì cả, cho đến khi trận lụt nhận chìm họ”.
Thói quen nhận chìm chúng ta. Bạn hãy nghĩ đến những câu: “Tôi phải phản ứng lại… Tôi phải bắt đầu… Không thể tin được là thời gian trôi qua nhanh thế… Nếu có thể làm lại điều đó… Nếu lúc trẻ mà biết thì …”.
Chúng ta biết chứ. Chỉ cần lắng nghe Chúa Giêsu thì đủ rõ: “Hai người cùng ở trong ruộng, thì một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại; hai bà cùng xay bột nơi cối, thì một sẽ bị đem đi và một sẽ được để lại. Vậy các ngươi hãy tỉnh thức”. Khi làm cùng những công việc, có người thì chết, có người thì sống. Có người không chuẩn bị gì cả, có người đã chuẩn bị sẵn sàng.
Sẵn sàng cho cái gì? Phải lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh giác này vì Chúa Giêsu cũng lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh giác đó, một sự cảnh giác thật sự. Sự cảnh giác có thể có vẻ như một sự lo âu làm cho tê liệt, hoặc đi đến chỗ đặt câu hỏi “ích lợi gì cơ chứ?” làm cho quay sang khinh dể thế gian và những công việc trần thế. Không, trái lại, sự cảnh giác trong Phúc Âm là một sức sống mạnh mẽ hiện tại, bởi vì người ta luôn luôn xác minh được ở đó ích lợi và sự biểu hiện thực sự của điều mà người ta đang làm.
Những thói quen của chúng ta (công việc, truyền hình, xe cộ), những lo toan của chúng ta (kiếm tiền nhiều hơn, hoàn thành nhiệm vụ nào đó), những dự định nghỉ ngơi (mong ngày cuối tuần mau đến, mong kỳ nghỉ hè mau đến), có phải những điều đó làm cho mỗi người chúng ta sử dụng cuộc sống đến nơi đến chốn rồi chăng? Đâu là tình yêu, nghĩa là cuộc sống 100%? Sự phục vụ huynh đệ, nỗi ám ảnh truyền giáo, kinh nguyện, ở đâu?
“Tôi không có thời giờ” đôi khi là tiếng than phiền của cuộc sống mãnh liệt. Nhưng thường thì đây là bài ca của thói quen. Thói quen ca bài này rất hay.
Sự tỉnh thức của người Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc sống trước mặt Thiên Chúa, cuộc sống với Thiên Chúa. Người ta làm đúng y cũng những điều đó, nhưng chúng có thêm một ích lợi, một chiều dày. “Một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại”. Những người tỉnh thức đã bám rễ trong vĩnh cửu, những người thủ cựu thì ở trên bề mặt, lúc nào họ cũng có nguy cơ bị quét đi.
Khác xa việc lấy mất sở thích những gì thuộc về cuộc sống, sự tỉnh thức thật sự mang lại thú vị cho những bước khai tâm, những bước đầu học tập lý thú. Tuyệt vời làm sao, qua những gì người ta sống, khi trở thành một người được xây dựng cho sự vĩnh cửu và xây dựng một phần của nhân loại vĩnh cửu!
Chống lại thói quen là sao? Là suy nghĩ, lại tiếp tục, không buộc mình chỉ sống theo đồng hồ, lịch hoặc sự đều đặn máy móc và bảo “tôi luôn luôn làm điều đó”.
Người tín hữu Kitô “sẵn sàng” là người sống cái bình thường một cách hết sức tự do, ý thức, đến độ điều này giữ cho họ tỉnh thức đối với điều bất ngờ, trong đó có giờ phút cuối đời, giờ kẻ trộm đến: “Hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
34. Các con hãy sẵn sàng – R. Veritas
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
Với Lễ Chúa Kitô Vua được mừng vào hôm Chúa Nhật tuần vừa qua, Giáo Hội Công Giáo kết thúc năm Phụng vụ theo chu kỳ Năm C và bắt đầu năm mới Phụng vụ theo chu kỳ Năm A bằng Chúa Nhật thứ I Mùa vọng.
Bài đọc thứ nhất được trích trong đoạn quan trọng nhất của sách tiên tri Isaia, ngài là vị ngôn sứ cao cả nhất của thời Cựu Ước. Giáo huấn của ngài vang dội tại Giêrusalem từ khoảng năm 742 cho đến năm 800 trước Chúa Kitô Giáng Sinh. Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân Chúa, vì lãnh thổ bị chia đôi, các bộ lạc miền Bắc qui tụ thành vương quốc Israel, bị đế quốc Assyria chiếm cứ từ năm 772. Các bộ lạc miền Nam qui tụ thành vương quốc Giuđa, càng ngày càng xa lìa Thiên Chúa, sống bất trung với giao ước kết thúc trong đau thương của cuộc lưu đày Babylon.
Chính trong thời kỳ này mà tiên tri Isaia đến công bố cho dân Chúa sứ điệp hy vọng vào sự phục hưng huy hoàng ở tương lai. Mặc cho những bất trung của dân, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài đã hứa là sẽ qui tụ tất cả mọi dân tộc lại. Thật là hy vọng biết chừng nào khi mà giữa những thử thách hiện tại, những xúc phạm của các dân tộc đối với Thiên Chúa, thì cộng đoàn nhỏ bé Israel còn lại gồm những kẻ trung thành với Thiên Chúa được nghe những lời loan báo Thiên Chúa sẽ ngự đến, sẽ xây nhà Ngài trên đỉnh núi, nghĩa là Ngài sẽ đến ngự giữa loài người và nơi Ngài hiện diện sẽ là trung tâm qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Họ đang chống đối Thiên Chúa, nhục mạ Ngài, nhưng rồi sẽ đến lúc họ trở lại nhìn nhận Ngài. Đó là sứ điệp hy vọng của bài đọc thứ nhất trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng. Các dân nước sẽ đổ về đó, nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: "Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa, Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ đi theo thánh ý của Ngài. Và khi các dân tộc nhìn nhận Chúa, giữ các giới răn của Người thì hoà bình sẽ ngự trị giữa họ. Đó là thời điểm. Đó là thời kỳ mà theo lời tiên tri Isaia "các dân các nước sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi liềm", nghĩa là biến các dụng cụ giết hại nhau thành phương tiện tạo nên bánh nuôi sống và nâng đỡ cho cuộc sống con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, Isaia loan báo tiếp: "Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa, người ta cũng không còn thao luyện để chiến đấu nữa". 700 năm sau, sau lời tiên báo của Isaia, Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa khi Ngài sai Con Một của Ngài xuống trần gian làm người để cứu chuộc nhân loại, để hòa giải con người với Thiên Chúa.
Những ai lắng nghe và sống lời Ngài được qui tụ lại trong dân mới của Thiên Chúa là Giáo Hội gồm mọi dân nước. Với sự hiện diện và ân sủng của mình, Thiên Chúa đã làm cho Giáo Hội trở thành dấu chỉ và phương tiện để xây dựng sự hiệp nhất hòa bình giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau. Qua đó, chúng ta thấy Giáo Hội của Chúa vẫn kiên trì trung thành với sứ mạng làm trung gian hòa giải này, giúp xây dựng hòa bình giữa con người với nhau trong thế giới ngày nay.
Mùa vọng mới mà Giáo Hội bắt đầu cử hành trong Phụng vụ của mình với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng, không phải là thời gian để Giáo Hội nhìn lại quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh và cử hành biến cố này với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa vọng không phải là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sứ điệp mà bài đọc II và Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu: "Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày" (Rm 13, 11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc Âm Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: "Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến" (Mt 24, 44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
35. Chờ đợi Chúa đến
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mùa Vọng đối với người Kitô hữu chúng ta là mùa Xuân, vì nó khởi đầu một niên lịch Phụng Vụ. Trong mùa Xuân, cây cối đâm chồi nẩy lộc, kết nụ đơm hoa, chuẩn bị cho mùa thu hoạch mới. Như vậy, mùa Xuân cũng là mùa vọng, là thời gian trông chờ, mong đợi…
Nhưng, thưa anh chị em, chúng ta mong đợi gì?
Sống là phải có hy vọng, đợi chờ. Còn hy vọng, con người còn nỗ lực, phấn đấu để sống. Mất hy vọng, con người sẽ không còn động lực nào để sống, để làm việc, dù bất cứ ở lãnh vực nào. Khoảng thời gian từ lúc bắt đầu đến khi hy vọng được thành tựu, là lúc người ta phải chờ đợi, ngóng trông. Làm sao tả hết được những tâm trạng chờ đợi? Vì nó đa dạng và có nhiều mức độ thao thức khác nhau:
- Với một em bé, chắc không còn nôn nóng nào hơn khi mong mẹ đi chợ về, mua cho bé gói bánh, món quà.
- Một học sinh đi thi, chắc hẳn không một việc gì có thể làm cậu gián đoạn sự trông chờ kết quả với đầy hồi hộp, bồn chồn.
- Với một thanh niên, còn gì thú vị hơn lúc chờ đợi người yêu.
- Trong lãnh vực nghề nghiệp, người ta cũng mong ngóng, đợi chờ: Người buôn bán thì mong trúng mối, đắt hàng, nhiều lời. Người nông dân chẳng mong gì hơn là mưa thuận gió hòa, cho mùa màng tốt tươi, hoa quả đầy vườn.
Ai cũng ôm một mối hy vọng, chờ mong. Đó là động cơ của cuộc sống con người. Hy vọng với những kết quả đạt được là hạnh phúc của con người: được mùa, thi đậu, là những món quà hạnh phúc của tuổi trẻ. Người yêu đến thăm, đến đón, người chồng đi xa trở về, là những hạnh phúc êm đềm, dịu ngọt. Được mùa, làm ăn phát đạt, là những hạnh phúc ấm no… Tất cả đều là những hạnh phúc nho nhỏ của con người.
Nhưng, thưa anh chị em,
Phải chăng con người chỉ mong đợi có những hạnh phúc nho nhỏ đó thôi sao? Con người không còn gì lớn lao hơn để đợi chờ sao? Bởi vì, những hạnh phúc cỏn con đó không thỏa mãn được khát vọng của con người: Trong cuộc sống, rất nhiều lúc chúng ta cảm thấy buồn chán, lạc lõng, không biết mình muốn cái gì và ước mơ điều gì nữa. Đó chính là một cảm nghiệm thiếu vắng tình thương, thiếu một “ai đó” có thể thỏa mãn được mọi khát vọng của chúng ta.
Hoặc có những người, sau khi đã hưởng thụ tất cả, bỗng cảm thấy chán chường mọi giàu sang phú quý và sống vất vưởng, tuyệt vọng. Nhưng họ không biết đó chính là tiếng réo gọi thiêng liêng đang đòi hỏi một cái gì có giá trị vô cùng so với mọi thứ hạnh phúc trần gian tổng hợp lại. Một hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Thật vậy, có một đối tượng hy vọng, một đối tượng trông đợi hạnh phúc nhất, tuyệt vời nhất đối với con người mà qua bao nhiêu thế hệ, con người vẫn mang khát vọng sâu xa tìm kiếm: đó là Thiên Chúa.
Thật vậy, đời người là cả một thời gian nôn nóng chờ đợi ngày giáp mặt Thiên Chúa tình thương. Chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy mọi khát vọng của con người. Vũ trụ, tạo vật, nhất là con người là kết quả của tình thương vô biên đó, nên con người luôn có những khao khát vượt thoát trần gian, mong được giải thoát khỏi những ràng buộc vật chất, thể xác và những đau khổ phiền muộn để sống với tình thương viên mãn, bất diệt. Nhưng con người lại gắn chặt vào thân xác, vào mặt đất. Vì vậy, con người luôn bị giằng co, ray rứt giữa trời và đất, giữa ước mơ siêu nhiên và thực tại vật chất, nhu cần thể xác.
Với người tín hữu, đối tượng mong chờ của chúng ta đã cụ thể: chúng ta mong chờ Chúa đến. Lẽ tất nhiên không phải mong chờ Chúa đến như một cuộc Giáng Sinh ở hai ngàn năm trước, nhưng là Chúa đến trong vinh quang, Chúa đến khi Nước Trời được hoàn tất. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng ngày nào, giờ nào, thì chúng ta không biết được vì vậy, “phải tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến… Phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Phải sẵn sàng luôn, đừng để bị bất chợt như dân chúng trong thời ông Noê đóng tàu, đã không ngờ nên bị Lụt Đại Hồng Thủy cuốn trôi đi; hay như chủ nhà đã không tỉnh thức để bị trộm vào nhà vét sạch tiền của.
Giờ Chúa đến chỉ mình Thiên Chúa biết, chúng ta đi tìm tòi có ích gì. Điều hệ trọng là sống cho có ý nghĩa ở ngày hôm nay, sống để tạo điều kiện cho Nước Trời mau đến. Như thánh Phaolô đã dạy: “Anh em biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt.
Anh chị em thân mến,
Mùa Vọng là những ngày Giáo Hội giúp chúng ta ý thức đến ý nghĩa cuộc sống của mình, ý nghĩa đó nối kết chặt chẽ với tương lai, với ngày Chúa đến. Tuy nhiên, chờ đợi Chúa đến, không làm cho chúng ta xa rời cuộc sống, trái lại, đòi hỏi chúng ta sống triệt để hơn, hoàn thành nhiệm vụ chu đáo hơn, bởi vì Thiên Chúa phán xét là tùy ở chỗ chúng ta sống trung thành với Ngài và yêu như Ngài yêu chúng ta, thì chúng ta có thể chờ đợi Chúa như đứa con chờ mẹ như người yêu chờ người yêu.
36. Chuẩn bị cho một thời đại mới sắp đến
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí – Trích trong “Tin Vui Xuân Lộc”)
Thưa quý OBACE,
Các nhà khoa học cho rằng cách đây khoảng 65 triệu năm đã có một thiên thạch rơi trúng trái đất, nó đã làm cho trái đất hoàn toàn thay đổi về khí hậu, địa chất, nó cũng làm tuyệt chủng một số loài sinh vật, chẳng hạn như loài khủng long đã bị biến mất, nhưng đồng thời nó cũng tạo một môi trường mới cho nhiều loài mới xuất hiện và phát triển. Cho đến ngày nay các nhà khoa học và nhiều dân tộc trên thế giới cũng tin rằng trái đất này sẽ trải qua một cuộc biến đổi khác, và nó cũng sẽ hủy diệt những loài nào không còn thích hợp, và chỉ những loài nào thích nghi được thì sẽ tiếp tục phát triển. Còn các nhà tôn giáo lại trình bảy thời kỳ biến đổi này dưới cái nhìn riêng, tùy theo niềm tin của mình.
Giống như sau những ngày oi bức nắng hạn, người ta mong đợi một trận mưa rào, sau những ngày đông băng giá, cây cối ủ rũ, người ta mong đợi những tia nắng ấm mùa xuân và sự đâm chồi nảy lộc của vũ trụ, cũng vậy, hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào mùa vọng, là mùa Giáo hội mời gọi chúng ta điều chỉnh cuộc sống chuẩn bị tâm hồn để đón chờ một thời đại mới, thời đại của Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ đến để đem lại sự hồi sinh cho nhân loại, đem nhân loại vào một thời đại của tình yêu thương và ơn cứu độ.
Tiên tri Giêrêmia sống cách Chúa Giêsu khoảng 500 năm, lúc mà dân tộc Israel đang phải cúi đầu chấp nhận sự đô hộ của quân Babylon, tức là cả một dân tộc đang rơi vào cảnh tăm tối khốc liệt, thì vị tiên tri Đã nhìn thấy một thời đại mới sắp đến đem lại hy vọng cho dân Israel. Chính vì thế Giêrêmia đã dùng hình ảnh của một mùa xuân mới để diễn tả về thời đại ấy: Trong những ngày ấy ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavit. Chỉ cần nhắc đến chồi non nảy mầm từ nhà Đavít cũng đủ để đem lại hy vọng cho dân Israel trong cảnh lưu đày, vì các tổ phụ các tiên tri đều loan báo rằng một chồi lộc từ nhà Đavit sẽ phục hồi xứ sở, sẽ đem đến hòa bình thịnh vượng cho dân tộc, sẽ cất khỏi họ nỗi nhục nhằn khổ sở. Tiên tri Giêremia còn cho thấy thêm chi tiết: Người sẽ thống trị muôn nước theo lẽ công bình chính trực, trong ngày ấy, Giuda sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ được an vui, và người ta gọi tên thành là: Đức Chúa là sự công chính của chúng ta. Với lời tiên báo này thì gương mặt của Đấng Giải Thoát đã rõ dần, dưới triều đại của Ngài, muôn dân muôn nước sẽ được hưởng thái bình thịnh vượng, Giêrusalem lại được muôn dân biết đến như là thành trì của Thiên Chúa, là niềm tự hào của dân tộc.
Đức Giêsu chính là Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo, việc Ngài bước vào lịch sử nhân loại này, Ngài đã thay đổi hoàn toàn lịch sử nhân loại và đem đến một thời đại mới, kỷ nguyên mới, thời đại của tình yêu thương và kỷ nguyên ơn cứu độ. Kể từ đây, Thiên Chúa không còn là Đấng ở xa, hay ở trên trời để nhận hương khói của con người nữa, mà là Đấng đã làm người, đến để ở với con người, cùng nói chung một tiếng nói với con người, cùng chung một nhịp đập của con tim và cùng chung một hơi thở với con người, để yêu thương, để nâng đỡ và để cứu con người khoi cảnh nô lệ của tội lỗi và sự chết, để cho con người đựơc sống trong thời đại của ân sủng, thứ tha và chữa lành.
Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Ngài đã đem đến cho nhân loại một niềm hy vọng và một nếp sống mới. Ngài muốn con người sống theo luật mới của Ngài, là luật của yêu thương chứ không phải là gánh nặng, ngài muốn cho con người tìm được hạnh phúc ngay tại trần gian và nhất là đạt được hạnh phúc nước trời qua con đường của Tám Mối Phúc Thật, qua con đường từ bỏ khỏi sự ràng buộc của vật chất và thế gian, Ngài đem đến một nếp sống của tình yêu thương tha thứ và phục vụ, tha thứ đến bảy mươi lần bảy, và phục vụ như một người đầy tớ. Với triều đại của Ngài, Đức Giêsu đã mở ra cho nhân loại một con đường hy vọng, hy vọng được sống lại và được sống đời đời mà không phải chết, vì Ngài đã dùng cái chết của chính mình hủy diệt âm mưu của ma quỷ, trả lại sự sống và tư cách làm con Thiên Chúa cho chúng ta.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại mở ra và hướng mỗi người đến một thời đại mới, thời đại vĩnh cửu, thời mà Đức Giêsu sẽ trở lại, thế nhưng trước khi thời ấy xảy ra, thì Ngài đã cho những dấu hiệu báo trước: Những điềm lạ trên trời dưới đất sẽ xảy ra khiến cho người ta hoang mang hoảng sợ, thiên tai động đất và những tai họa khủng khiếp sẽ giáng xuống địa cầu khiến cho người ta hồn xiêu phách lạc. Nhắc đến những sự kiện thiên tai như thế không phải để gây sợ hãi hoang mang cho con người người, Nhưng Ngài chỉ muốn mỗi người nhìn những sự kiện thiên nhiên ấy để chuẩn bị cho riêng mình một tư thế, một tình trạnh và nhưng hành trang cần thiết. Các diễn biến của thiên nhiên giống như một sự chuyển mình của vũ trụ để bước vào một thời đại mới, thời đại của vĩnh hằng của bất tử, Ngày ấy, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang của một vị Thiên Chúa và trong quyền uy của một vị thẩm phán. Khi thấy những biến cố ấy xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì ngày cứu chuộc anh em đã đến gần.
Thưa quý OBACE, để có thể đứng thẳng và ngẩng cao đầu trong ngày của Chúa trở lại thì mỗi người cần có một thái độ xứng đáng đó là: hãy đề phòng đừng để lòng mình ra nặng nề bởi chè chén say sưa, bởi lo lắng sự đời. Đó là lời căn dặn đầu tiên của Chúa vì lòng con người hay thay đổi dễ bị lôi kéo bởi tiên bạc của cải danh vọng, hưởng thụ thỏa mãn, cậy dựa vào vật chất, kể cả công ăn việc làm, tất cả những cám dỗ và lôi kéo đó khiến cho tâm hồn chúng ta thành nặng nề uể oải không còn mau mắn tỉnh thức đề đón chờ Chúa, không còn siêng năng chăm chỉ đến với Chúa nữa.
Điều tiếp theo Chúa căn dặn chúng ta: Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể đứng vững trước mặt Con Người. Chỉ có những con người tỉnh thức và cầu nguyện mới có thể đứng vững và chống chọi được với những cám dỗ của ma quỷ dục vọng thế gian, vì cầu nguyện là đón nhận được sức mạnh và sự trợ lực từ nơi chính Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn giải thích thêm và mời gọi chúng ta: hãy lấy tình yêu thương mà đối xử với nhau, và hãy sống ngay thẳng thật thà đửng để điều gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa, và hãy cố gắng không ngừng.
Để đón chờ một thời đại mới mà Chúa cứu thế sẽ mang đến, để có thể đứng thẳng và ngẩng cao đầu chờ ngày Ngài trở lại, chúng ta cần thực hiện những lời Chúa căn dặn hôm nay, phải trở thành con người mới, đừng để mình ngủ quên trong sự thành công và sự kiêu hãnh của mình, mà hãy tỉnh thức để nhận ra tình yêu Thiên Chúa và ân ban của Ngài đang dành cho mỗi người chúng ta. Hãy luôn tỉnh thức bằng việc chuẩn bị cho mình một tâm hồn thanh thản trong sạch trước mặt Chúa, đừng để cho đam mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc, dục vọng lôi kéo và chôn vùi cuộc đời chúng ta, cũng đừng để cho sự lười biếng ru ngủ chúng ta, mà hãy kiên trì trong việc cầu nguyện sớm tối, dâng lễ rước lễ mỗi ngày, và hãy làm cho vợ con và gia đình trở thành một tổ ấm yêu thương và đạo đức.
Các bạn trẻ thân mến, tuổi trẻ luôn mong chờ sự đổi mới, Lời Chúa hôm nay thực sự là một lời mời gọi và cũng là một thách thức đối với các bạn, đừng để cho tuổi trẻ trở nên uổng phí, và cũng đừng để tuổi trẻ của mình chìm ngập trong lối sống vô thần, hưởng thụ, ích kỷ, xô bồ, hời hợt của ngày hôm nay, mà hãy bắt tay vào để góp phần biến đổi thế giới và xã hội này. Hãy bắt đầu từ chính bản thân mình, sống con người mới với một niềm vui hân hoan vì mình đã được cứu chuộc, vì mình thuộc về Chúa Kitô; hãy tích cực giới thiệu cho mọi người, cho bạn bè xung quanh về một thời đại mới của Chúa bằng thái độ sống yêu thương quảng đại dám đưa tay ra để giúp đỡ và chia sẻ, dám cúi xuống để phục vụ, dám chịu thiệt thòi để đem đến bình an cho gia đình cả công đồng.
Khi mỗi người và mỗi bạn trẻ dám bắt tay vào làm những việc nêu trên, là chúng ta đang sống tâm tình cùa mùa vọng, là chúng ta đang chuẩn bị đón chờ một thời đại mới mà Chúa Cứu Thế đem đến cho nhân loại chúng ta. Amen.
37. Sống tỉnh thức
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Năm phụng vụ mới bắt đầu, khởi đầu là mùa Vọng. Mùa Vọng, mùa mong chờ Chúa đến. Chúa đã đến lần thứ nhất, trong ngày Ngài Giáng sinh. Ngài sẽ đến lần thứ hai, trong ngày Ngài Quang lâm. Để đón chờ ngày Quang lâm, Đức Giêsu dạy: "Hãy tỉnh thức". Tin mừng Matthêu, có bốn dụ ngôn minh hoạ về sự tỉnh thức: Lụt hồng thuỷ, kẻ trộm, đầy tớ trung tín và mười trinh nữ. Hai dụ ngôn: Lụt hồng thuỷ và kẻ trộm, được chọn cho Chúa nhật thứ I mùa Vọng này.
1. Dụ ngôn Lụt hồng thuỷ
Mở đầu dụ ngôn, Đức Giêsu nói: "Quả thế, thời ông Noe thế nào, ngày Quang lâm, Con Người cũng như vậy".
Quang lâm là gì? Quang là ánh sáng, lâm là đến. Tiếng Hylạp là "Parousia", nghĩa là sự hiện diện. Xưa, trong thế giới La-Hy, người ta dùng từ ấy để chỉ những cuộc đi thăm chính thức của hoàng đế: "Thánh thượng giáng lâm".
Theo Cựu ước, Quang lâm là ngày của Chúa, ngày Đức Chúa can thiệp vào lịch sử thế giới, ngày vinh quang đầy ánh sáng huy hoàng, đến xua đuổi bóng đen tội lỗi bao phủ dân Ngài. Theo Tân ước, Quang lâm là ngày Đức Giêsu đến lần thứ hai, ngày Ngài trở lại trong vinh quang, phán xét người lành kẻ dữ, có các Thiên thần hầu cận.
Lụt hồng thuỷ thời Noe được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người. Rachi chú giải: "Sự sa đoạ nhục dục của con người thời Noe, đã đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội, đến nỗi loài người tự huỷ diệt chính mình mà không còn hy vọng sống sót...". Đức Giêsu biết rõ điều đó, biết con người thời đó quá gian ác và vô luân, lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày. Tuy nhiên, Đức Giêsu không nói về tội vô luân, không trách sự sa đọa của những người thời Noe. Ngài chỉ trách một điều: "Họ không biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ tới cuốn đi hết thảy". Họ có vẻ tin là họ bất tử, ăn chơi trác táng. Mắt họ bị bịt kín không thấy thân phận dòng mỏng con người. Họ phải chịu cái chết "nuốt trôi", để rồi phút chốc khám phá thấy mình không phải là "thần linh". Nếu muốn sống, họ cần phải có Thiên Chúa.
Để diễn tả ngày Quang lâm, Đức Giêsu lấy lời Ngôn sứ Xôphônia: "Đang lúc người ta hăng say với công việc đời thường của mình. Giữa lúc người nông dân đang cầy ruộng, người nội trợ đang xay bột, Chúa đến. Chúa đến bất chợt như chiếc lưới thình lình chụp xuống, như chớp loé từ Đông sang Tây". Và Ngài giải thích: "Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang kéo cối xay, một người được đem đi, một người bị bỏ lại...". Tại sao thế? Hai người chẳng có gì khác nhau, cùng làm ruộng, cùng xay bột, Chúa biết sự khác nhau của họ: Người sẵn sàng, người không. Bởi thế, Chúa nói: "Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến".
2. Dụ ngôn kẻ trộm
Để nhấn mạnh phải tỉnh thức, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn kẻ trộm: "Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết vào canh nào, kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải tỉnh thức". Đức Giêsu không có ý so sánh Ngài với kẻ trộm, chỉ có ý nói sự bất chợt của ngày Quang lâm. Gia chủ nọ, nếu ông biết canh kẻ trộm đến, hẳn ông phải thức, không để nó khoét vách nhà mình. Ngày Quang lâm chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không biết vào ngày nào, vấn đề là phải tỉnh thức.
Tỉnh thức, Đức Giêsu nói đây, chẳng phải là một thái độ tiêu cực, cứ ngồi đấy nôn nóng chờ đợi. Tỉnh thức là trung thành với nhiệm vụ được trao phó, như người quản gia trung tín. Tỉnh thức là chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại, như những trinh nữ khôn ngoan, là yêu sách chu toàn trách nhiệm của mình như những đầy tớ được trao những nén bạc, là bổn phận giúp đỡ các anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô.
Tỉnh thức, Đức Giêsu mời gọi, không phải là sợ hãi, chỉ có những kẻ ngủ mê mới phải sợ hãi, bởi họ không được Chúa đem đi. Lời mời gọi tỉnh thức của Đức Giêsu không chỉ nhắm vào thời sau cùng, còn nhắm tới việc Người đến với mỗi người trong giờ chết. Không ai hay được ngày giờ mình chết, chẳng ai biết cách tính toán, dự phòng. Giờ chết có thể đến thình lình, bất ngờ, đang lúc làm việc, ngủ nghỉ, giải trí. Việc chuẩn bị ngày chết, cũng là việc chuẩn bị ngày Quang lâm. Nếu thực sự quan tâm đến tính cách bất ngờ và bí ẩn của ngày giờ đó, nếu sẵn sàng luôn luôn, chính giờ phút không ngờ, cho dù Chúa có đến, ta vẫn hân hoan vui mừng, bởi giờ cứu rỗi đã điểm, ta sẽ cùng với Chúa tiến vào tiệc cưới nước Trời.
38. Tai họa khủng khiếp
Tai họa khủng khiếp, đó là tựa đề một cuốn chuyện của Mark Twain, một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, mô tả một nhóm người đang lâm vào một tình cảnh bi đát. Chết đến nơi rồi mà họ vẫn chưa tìm được lối thoát. Đúng là họ đang nằm trên bờ một tai họa khủng khiếp. Tác giả không muốn cho câu chuyện kết thúc một cách bi thảm, nhưng ông không biết làm cách nào để cứu nhóm người đó. Vì thế ông đã viết: Tôi lỡ đặt các nhân vật của tôi vào một tình cảnh cực kỳ gian nan, đến nỗi tôi không thể nào cứu gỡ được. Ai nghĩ rằng mình có thể cứu gỡ được thì xin vui lòng chỉ giùm.
Xét về một mặt thì đây là một kết cục không hợp lý, nhưng xét về mặt khác thì đây lại là một kết cục hay, vì nó đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ, phải can dự vào.
Cũng thế, hàng ngàn năm trước, nhân loại đã rơi vào một tình cảnh thật bi đát. Tội lỗi đã đột nhập vào trần gian và tràn lan như một đám cháy. Nhân loại bị vây khốn và không tìm được lối thoát cho chính mình. Thiên Chúa đã nhìn thấy tình cảnh bi đát ấy. Ngài không muốn câu chuyện kết thúc một cách buồn thảm, bởi vì Ngài quá yêu thương nhân loại. Ngài đã nghĩ đến phương cách giải cứu, đó là sai chính Con một Ngài đến trần gian, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và thiết lập vương quốc của Ngài. Vương quốc ấy đã được khởi sự rồi, nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn tất. Ngài ủy thác việc hoàn tất ấy cho chúng ta.
Mùa vọng nhắc nhở chúng ta nhớ lại tình cảnh bi đát của nhân loại trước khi Đức Kitô đến. Nhưng không phải chỉ có thế. Mùa vọng còn nhắc nhở chúng ta rằng Đức Kitô sẽ trở lại. Ngài sẽ đích thân xét xử mỗi người chúng ta về việc chúng ta cộng tác với Ngài trong công việc mà Ngài đã ủy thác cho chúng ta phải hoàn tất.
Chúng ta đang sống giữa cái rồi và cái chưa. Giữa biến cố Giáng sinh của Ngài và việc Ngài sẽ trở lại trong ngày sau hết. Hẳn chúng ta còn nhớ lời thiên thần nói với các môn đệ vào buổi sáng ngày lễ Thăng thiên: Sao các ngươi còn đứng đó mà nhìn trời. Đức Kitô vừa rời các ngươi mà về trời, thì Ngài cũng sẽ trở lại y như thế. Trong khi đợi chờ Ngài lại đến, thì nhiệm vụ của chúng ta trên trái đất này, không phải là đứng đó mà nhìn trời và chẳng làm gì hết, trái lại chúng ta phải nhập cuộc, phải xắn tay áo lên để hoàn tất công việc Ngài đã trao phó. Đó là những hành động bác ái yêu thương: Cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, kẻ đau yếu được thăm viếng. Hãy xây dựng hòa bình bằng tình bác ái yêu thương.
Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta kiểm điểm xem bản thân chúng ta đã thực thi những điều ấy như thế nào? Là thời gian để chúng ta mong đợi Ngài lại đến trong vinh quang để phán xét chúng ta. Vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: Đêm sắp tàn và ngày đang tới, anh chị em hãy từ bỏ những hành vi ám muội để mặc lấy chiến bào sự sáng.
39. Hãy sẵn sàng
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể lại một câu chuyện như sau: Bấy giờ vua nước Ngô định đem quân đánh nước Tề, nhiều người lên tiếng can ngăn, nhưng vua chẳng chịu nghe, lại còn ra lệnh nếu ai nói tới việc đình chiến thì sẽ bị chém đầu.
Một vị quan trẻ tuổi nhưng nổi tiếng khôn ngoan, luôn ba ngày liền cứ sáng sớm mang cung đến khu vườn trong hoàng cung. Không đếm xỉa gì tới sương rơi và nắng gội. Ngày thứ ba, vua gặp và hỏi:
- Khanh là chi đó?
- Thưa trên ngọn cây cổ thụ này có con ve sầu hút gió, uống sương và kêu ve ve suốt ngày. Tưởng mình yên thân, song đằng sau xa xa có con bọ ngựa đang rình nhảy tới vồ. Trong khi bọ ngựa định tóm cổ ve sầu, thì ở gần đó có con chim sẻ dòm ngó, tính bắt con bọ ngựa. Nhưng chính con chim sẻ này lại không dè dưới gốc cây có người đang nhắm bắn mình. Chính tôi đây đang rình bắn con chim sẻ, thì lại quên rằng sương rơi và nắng gội có thể làm mình bị cảm và chết. Cũng như nhiều người, tôi chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ nhen trước mắt mà quên mất cái hại tày đình sau lưng.
Hiểu vị quan này có ý thức tỉnh mình, vua nước Ngô đã nghĩ lại, đình chỉ việc đem quân xâm lấn nước Tề.
Cũng vậy, vì đam mê chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, chúng ta quên mất thần chết đang rình rập ở sau lưng. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng biết rằng mình sẽ phải chết và hằng ngày luôn đối đầu với nó. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định.
Mặc dù đã ý thức, nhưng chúng ta lại quên, không chịu sống đạo và thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng. Chúng ta mải miết chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, như vua nước Ngô đem quân xâm lăng, mở thêm chút bờ cõi, kiếm thêm chút danh vọng, không ngờ rằng một khi mình giàu sang, thì sẽ bị một nước khác nhòm ngó và chiếm đoạt.
Bởi đó, trước hết không được đặt trọng tâm đời mình vào tiền của, bởi vì càng lắm tiền của thì càng nhiều lo âu, càng nhiều bè bạn giả tạo và càng nhiều cám dỗ, để rồi sa chân vào vòng cờ bạc, rượu chè, ma túy và tội lỗi.
Nếu có chút dư thừa, thì hãy biết sử dụng vào những việc bác ái, giúp đỡ những người chung quanh, bởi vì chỉ những cái chúng ta cho đi hôm nay, thì ngày mai mới thuộc về chúng mãi mãi mà thôi.
Tiếp đến không được đặt trọng tâm đời mình vào danh vọng, bởi vì càng cao danh vọng càng dày gian nan và càng lắm kẻ thù. Trèo cao thì ngã đau.
De Girandin là một vị tổng thống, khi nằm trên giường bệnh, được bạn bè tới thăm và nhắc lại những công lao sự nghiệp, thì ông đã trả lời:
- Mấy cái đó nào có ăn thua chi. Hãy cầu nguyện cho tôi thì tốt hơn.
Sau cùng, cũng đừng đặt trong tâm đời mình vào lạc thú vì lạc thú như một thứ rượu nồng, càng uống càng khát, càng tìm kiếm càng thấy mình hèn kém và đáng khinh dễ.
Thánh Alphongsô, một nhà thần học nổi tiếng, đã quả quyết:
- Có tới 90% những người sa xuống hỏa ngục, chỉ vì đã phạm tội này.
Thực tế cho hay: phạm những tội khác, chúng ta dễ dàng sám hối ăn năn, còn phạm tội này, chúng ta ít khi chịu dừng lại, đã phạm một lần, thì thường cứ tiếp tục phạm mãi.
Hãy sẵn sàng vì thần chết luôn rình rập sau lưng. Hãy sẵn sàng vì Chúa sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết.
Hãy chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, là một tâm hồn trong trắng và một đôi tay chất đầy công nghiệp, được kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương chúng ta đã thực hiện.
Bằng không, khi Chúa đến vào cuối đoạn đường đời, chúng ta sẽ phải bẽ bàng và cay đắng vì thấy mình trắng tay, vì thấy mình phá sản, vì thấy mình chẳng có gì để đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu.
40. Tỉnh thức
“Vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt, chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Ngài…”. Tỉnh thức có nghĩa là chúng ta phải sống mỗi ngày như là một ngày cuối cùng, “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi việc”.
Một vị linh mục lớn tuổi đã kể lại câu chuyện sau đây. Xưa kia ở New York, có một bà mẹ sống với một người con trai. Chẳng may đứa con trai bị bệnh nặng. Bà mẹ không còn mong muốn gì hơn là tìm gặp được người thầy thuốc giỏi chữa lành bệnh cho con bà. Bà nghe người ta đồn về một ông bác sĩ rất giỏi từ Vienna, Aùo quốc, sẽ ghé thăm thành phố New York, và bà hy vọng sẽ mang đứa con trai đến cho ông chữa bệnh. Vào một buổi tối mùa đông, thời tiết rất xấu, bên ngoài trời mưa lạnh, bà nghe rõ có tiếng gõ cửa. Mở hé cửa ngó ra ngoài bà chỉ nhìn thấy một người đàn ông tóc phủ bờ vai cùng với bộ râu dài và lướt thướt. “Thưa bà, trời đêm tối lạnh lẽo và ướt át, tôi có thể vào nhà bà được không?” Người đàn ông hỏi. “Rất tiếc,” người đàn bà nói, “tôi không thể đón tiếp ông được!” Rồi bà đóng sầm cánh cửa và khóa kín lại.
Ngày hôm sau, người đàn bà mở tờ nhật báo ra. Ngay trang nhất, bà đọc được hàng chữ lớn in đậm: “Vị Bác Sĩ Nổi Tiếng Từ Vienna Viếng Thăm New York.” Phía dưới hàng chữ là bức hình chụp của ông bác sĩ. Với sự ngạc nhiên và buồn rầu, đây chính là người đàn ông tóc dài với bộ râu lướt thướt đã gõ cửa nhà bà tối hôm qua!
Trái với sự tỉnh thức là ngủ mê. Ngủ mê trong ảo tưởng của tội lỗi, vật chất và trần gian. Thánh Phaolô khuyên dạy dân thành Thêxalônica như sau: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ”.
Vài thập niên vừa qua, thành phố Pittsburgh, nơi có nhiều xưởng thép và những lò luyện kim vĩ đại gây nên những tiếng đập ồn ào suốt ngày đêm. Dân chúng sống chung quanh vùng này đã quen tai với những tiếng búa, tiếng nện đến nỗi họ vẫn ngủ yên an bình. Quả vậy, tiếng động đã ru họ ngủ ngon giấc. Nhưng vào một đêm, bất chợt tai nạn xảy đến làm ngưng trệ một nhà máy lớn. Tiếng nện ồn ào ngưng hẳn. Và mọi người đã tỉnh thức.
Có một điều gì đó giống như vậy cần xảy ra cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chúng ta đang bị vây hãm bởi sự ồn ào và những cám dỗ chia trí xung quanh. Chỉ có một điều giúp tỉnh tức là sự im lặng. Sự im lặng thực sự của tâm hồn sẽ mang lại an bình và nghe được tiếng Chúa như lời khuyên của thánh Ingatiô Antiôkia: “Lời của Chúa phán ra trong thinh lặng”.
Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần hết. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội, không ăn uống say xưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tị, chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
41. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta có thể nói gì về những bất ngờ xảy đến khi Đức Giêsu quang lâm? Có thể có những bất ngờ nào khác ngoài phương diện thời gian?
2. Sự công minh của Ngài khi xét xử trần gian có siêu việt không? Những kẻ gian ác nhưng biết ngụy trang một cách khéo léo có bị lật tẩy không?
3. Phải tỉnh thức như thế nào trước những bất ngờ của ngày Chúa đến? để vẫn có thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa?
Suy niệm
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cho biết Ngài sẽ trở lại trần gian để xét xử nhân loại và cho biết một số điều về ngày ấy như sau:
1) Ngài đến bất ngờ như kẻ trộm:
Đức Giêsu cho biết: “Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40), “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10). Sự bất ngờ của kẻ trộm có thể về mặt thời gian – nghĩa là không thể xác định được ngày nào, giờ nào – mà cũng có thể bất ngờ về cách thức: không biết được trộm đến theo cách thức nào, vô nhà bằng lối nào, lấy trộm thứ của cải nào, trộm sẽ giả dạng như thế nào, v.v… rất có thể kẻ trộm lại là người rất quen thuộc với ta, thậm chí là người nhà của ta nữa.
Hãy rút ra bài học từ quá khứ. Mặc dù việc Đức Giêsu đến trần gian đã được báo trước cả mấy trăm năm trước, và được toàn dân Ít-ra-en mong đợi, thế mà khi Ngài đến, chẳng mấy ai nhận ra Ngài. Tệ hơn nữa, họ còn kết án và giết chết Ngài một cách tàn ác. Cách Ngài đã đến khác hẳn với cách mà hầu hết mọi người nghĩ tới trước đó. Cách Ngài đến thật bất ngờ mà người thường không ai có thể tưởng tượng ra nổi. Lời Kinh Thánh báo trước cả mấy trăm năm đều được ứng nghiệm, nhưng ứng nghiệm cách khác hẳn với cách giải thích hay cách hiểu truyền thống.
Ngày Chúa đến lần thứ hai để xét xử nhân loại cũng có thể có nhiều điều hết sức bất ngờ mà con người không thể đoán trước được, không chỉ về thời gian, mà còn về nhiều mặt khác nữa. Có như thế, sự công chính hay gian tà mới lộ diện rõ rệt, vì ở thế gian, sự gian tà rất nhiều trường hợp lại được ngụy trang bằng sự công chính, và tội lỗi lại mang những bộ mặt hết sức thánh thiện. Con mắt thế gian không thể nào khám phá được, nhưng không ai qua mặt được Thiên Chúa. Đức Giêsu đã từng nói về “các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (Mt 7,15). Thánh Phaolô đã từng vạch mặt những hạng người ấy: “Những kẻ đó là tông đồ giả, là thợ gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức Kitô. Lạ gì đâu! Vì chính Xa-tan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm” (2 Cr 11,13-15).
2) Cách phán xử của Ngài công minh không ai ngờ trước được
Nếu Đức Giêsu đến để xét xử trần gian mà không vạch mặt được những giả hình gian dối ấy, nếu Ngài cũng bị hạng người này qua mặt như đã từng qua mặt mọi người trần, thì sự phán xử của Ngài còn gì là công minh nữa? Với tư cách là vị phán trần gian, cách xét đoán của Ngài sẽ phải hết sức công minh, công minh vượt hẳn và khác hẳn cách suy đoán của mọi người. Ngày ấy, biết bao điều bị che dấu thật khôn khéo và kỹ lưỡng, đến nỗi chưa hề có ai biết, sẽ bị đưa ra ánh sáng: “Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết” (Lc 12,2), và “những việc tốt thì đã rành rành; mà cả những việc không tốt cũng chẳng che giấu được” (1 Tt 5,25). Chính vì thế mới có những chuyện bất ngờ như: “nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu” (Mc 10,31; x. Mt 20,16; Lc 13,30).
Nhiều kẻ tưởng mình là công chính hoặc được mọi người tưởng là như thế nhưng lại bị Ngài xét là gian ác, ngược lại có nhiều kẻ tưởng mình thuộc loại xấu đáng kết án hoặc bị mọi người tưởng là như thế, nhưng lại được Ngài xét là công chính. Dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14) là một thí dụ điển hình cho sự trái ngược ấy. Còn bao nhiêu chuyện trái ngược như thế được biểu lộ trong Thánh Kinh: “Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12; nên xem thêm Rm 9,30-32; 10,20). Vì thế, tới lúc ấy, chẳng ai dám tự hào mình công chính, vì càng tự hào thì càng dễ trở nên bất chính do chính sự tự hào ấy: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12).
Ngày ấy, sẽ có rất nhiều người tưởng mình công chính vì tự thấy mình chưa bao giờ làm một điều gì xấu, lại làm được biết bao việc phúc đức, nhưng lại không được coi là công chính, mà thậm chí ngược lại, vì:
– biết bao nhiêu lần họ đã bỏ qua không làm những việc quan trọng và cần thiết mà đấng bậc họ buộc phải làm
– họ có thói quen thờ ơ trước những đau khổ cùng quẫn của người chung quanh, họ không làm gì cả mà lương tâm chẳng hề cắn rứt
– họ thường xuyên nhắm mắt làm ngơ để mặc bất công hoành hành đang khi mình có khả năng can thiệp hoặc chặn đứng lại được
– họ hay tự hào về những việc tốt lành của mình đồng thời lên mặt khinh chê người khác
Và cũng biết bao người tỏ ra khô khan nguội lạnh nên tưởng mình là bất chính nhưng lại được Chúa xét là công chính, vì:
– đã thực tình sám hối và quyết tâm không bao giờ tái phạm
– khi đụng chuyện cần phải hy sinh cho tha nhân thì đã hy sinh một cách quảng đại, không tính toán, biết quên mình thật sự.
– biết mình yếu đuối, nên luôn luôn tỏ ra khiêm nhường, biết cảm thông với những yếu đuối, sai lầm của mọi người.
3) Số phận con người khi ấy được định đoạt khác nhau
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại”. Chúng ta chưa biết ý nghĩa chắc chắn của hai từ “được đem đi” và “bị bỏ lại”, nhưng qua đó, ta biết được số phận mỗi người lúc ấy được định đoạt một cách khác nhau: kẻ “bị” người “được”, kẻ khổ người sướng. Tất cả đều tùy thuộc vào cách sống, cách cư xử và hành động của mỗi người ở trần gian: Ngài “cứ theo công việc mỗi người mà xét xử” (1 Pr 1,17; Kh 20,12-13), “sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27; x. Rm 2,6). Thánh Gia-cô-bê còn cho biết: “Đừng ham làm thầy thiên hạ, vì anh em sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn” (Gc 3,1).
Đó là ngày của công lý. Những kẻ gây bất công sẽ phải đền tội: “Thiên Chúa sẽ trả báo, nghĩa là bắt những kẻ gây gian truân cho anh em phải chịu gian truân” (2 Tx 1,6), “Ai ăn ở bất công sẽ được trả theo điều bất công mình làm; không có chuyện thiên vị” (Cr 3,25). Còn những kẻ đã phải đau khổ và chịu bất công vì Thiên Chúa, vì tha nhân, sẽ được đền đáp: “Anh em sẽ được coi là xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ” (2 Tx 1,5).
4) Cần phải tỉnh thức
Vì không ai biết được ngày quang lâm của Chúa xảy đến lúc nào, và xảy ra thế nào, nhưng có điều chắc chắn là sẽ có nhiều điều rất bất ngờ, không ai dè trước được. Chính vì thế, Đức Giêsu đề nghị với chúng ta một thái độ khôn ngoan, đó là phải tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là phải sống làm sao để dù Chúa đến vào bất kỳ lúc nào, dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc xét xử công minh đến đâu, thì ta vẫn có thể đứng vững trước mặt Ngài. Vậy cần phải tỉnh thức cách nào?
Thái độ tốt nhất trước mặt Thiên Chúa là thái độ tự hủy và yêu thương. Tự hủy là coi nhẹ cái tôi của mình, không coi mình là cái gì quan trọng, không tự hào, không tự cho mình hơn ai, không kết án ai, và cũng không coi ý riêng của mình là sáng suốt, khôn ngoan hơn người. Yêu thương là thể hiện tinh thần tự hủy một cách tích cực hơn, ích lợi hơn cho tha nhân: sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích và hạnh phúc của tha nhân. Yêu thương đòi hỏi phải tự hủy như một điều kiện cần thiết. Không thể yêu thương đích thực nếu không tự hủy. Sống tinh thần tự hủy và yêu thương như thế là cầu nguyện đúng nghĩa nhất: cầu nguyện bằng chính cuộc sống, là kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa nơi tha nhân, một sự kết hiệp thực tế và bằng hành động cụ thể. Đó là cách tích cực để ta nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Thiên Chúa xét xử ta khoan hay nghiêm tùy thuộc rất nhiều vào sự khoan nghiêm của ta đối với tha nhân: “Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn với ai biết thương xót, thì Người chẳng quan tâm đến việc xét xử” (Gc 2,13). Ngài không thể không tha thứ cho những ai luôn luôn tha thứ. Ngài sẽ phải tha thứ vô điều kiện cho những kẻ luôn luôn tha thứ vô điều kiện. Chắc chắn Ngài không thể thua con người về lòng khoan dung. Vả lại chúng ta đã hợp đồng với Chúa như thế khi đọc kinh Lạy Cha, theo sự chỉ dạy của Đức Giêsu: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12; x. Lc 11,4). Khốn cho chúng ta nếu đã hợp đồng với Chúa như thế mà lại không biết tha thứ: “Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như vậy” (Mt 18,35). Như thế, luôn luôn tha thứ cho mọi người một cách vô điều kiện, dù lỗi họ có nặng đến đâu, không cần họ phải hối hận hay xin lỗi, là một bí quyết giúp ta hoàn toàn trắng án trong ngày đó, cho dù tội lỗi ta có nặng đến đâu.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết sống yêu thương, quên mình, đồng thời biết cảm thông với những đau khổ cũng như những yếu đuối của tha nhân, để con biết ra tay cứu giúp, biết tha thứ những lầm lỗi của họ. Con nghĩ đó là cách tỉnh thức đón chờ Đức Giêsu đến một cách khôn ngoan nhất. Xin cho con thực hiện được những điều ấy, để ngày ấy Cha sẽ hài lòng về con và ngày ấy cũng sẽ là ngày hạnh phúc nhất của con. Amen.
42. Ngày và đêm - Lm Bùi Quang Tuấn
“Các con phải sẵn sàng” (Mt 24,44) vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12). “Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa” (Is 2,5).
Đó là lời mời gọi cấp thiết khởi đầu cho một năm phụng vụ. Thế là một mùa Vọng lại về. Bao tâm hồn lại nao nức chuẩn bị cho ngày lễ Giáng sinh sắp đến.
“Đêm sắp tàn, ngày gần tới” rồi sao? Nhưng khi nào là đêm và lúc nào là ngày? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm?
Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi với các học trò của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?” Một anh nhanh nhảu: “Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.” Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.” Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra nhưng dường như vị sư phụ không thoáng một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như muốn thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là anh chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”
Thế ra không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng toả rạng.
Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời tôi cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, vô luân, lừa dối. Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới cuộc đời đã bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi lối đường.
Nỗi khát mong đợi chờ cho ánh sáng tình yêu thống trị địa cầu đã bắt đầu thành sự khi Đức Giêsu là “Mặt Trời Công Chính” bừng lên và cũng là “Hoàng tử Bình An” ngự đến.
Ấy thế mà dường như nỗi khát mong đợi chờ ấy vẫn không ngừng lập đi lập lại. Phải chăng vì tâm hồn nhân thế cứ bị bóng đêm của thế gian đe dọa chiếm đoạt, nên ước nguyện ánh sáng chân lý chiếu soi vẫn mãi là đặc tính của mùa Vọng hằng năm?
Ngày xưa, theo truyền thuyết của dân Rôma, tối 24 tháng 12 là ngày sinh của thần mặt trời, để rồi sáng hôm sau vị thần đó vươn mình đứng lên mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân gian. Thế nên, khắp cùng đế quốc, người ta mừng lễ Natalis Solis Invicti vào ngày đông chí, tức là ngày 25 tháng 12, khởi đầu thời kỳ thần ánh sáng thắng vượt tối tăm, bước qua giai đoạn ngày dài hơn đêm.
Vào năm 336, Đức Giáo Hoàng Jules I đã ấn định ngày đông chí như ngày kỷ niệm Đức Giêsu – “Mặt Trời Công Chính” – đã giáng sinh cho nhân loại. Thế là ngày lễ ngoại giáo đã được Kitô hoá. Nét truyền thuyết và thần thoại được thay bằng tính chất xác thực của biết cố Nhập thể.
Từ đó trở đi, cứ mỗi lần sắp đến 25 tháng 12, giáo dân khắp nơi nô nức chuẩn bị tâm hồn cho ngày đại lễ Giáng Sinh. Họ không ngừng ăn chay hãm mình, quảng đại thứ tha, đổi mới đời sống, chờ mừng ngày Chúa ngự đến. Dần dần những việc làm đó trở thành đặc tính căn bản của mùa Vọng, mùa trông mong ngày sinh nhật Đấng Cứu thế.
Đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, nhưng có lẽ “tính chất căn bản” của mùa Vọng đó đã phai mờ trong lòng nhiều người. Khi xưa, Giáo hội Kitô hóa ngày lễ ngoại giáo thành lễ Giáng sinh để hướng con người đến với nguồn sáng và nguồn sống đích thực. Còn hôm nay, không chừng tôi lại đang tục hóa ngày lễ thiêng liêng kia để rồi lòng mình cứ mãi lắng lo trong bao sự đời.
Ngày xưa mùa Vọng đã trở nên lời nhắc nhở canh tân lối sống, sửa sang tâm hồn, dọn lòng mừng Chúa đến. Còn hôm nay, không chừng tôi chỉ nghĩ đến trang hoàng nhà cửa, giăng thêm đèn màu, mua sắm quà cáp chuẩn bị cho những cuộc liên hoan say sưa, cuồng loạn, có khi... tội lỗi.
Một lần nữa, lời nhắn nhủ trong thơ của Thánh Phaolô lại thức tỉnh hồn tôi: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn các dục vọng xác thịt”. (Rm 13,12-14)
Thực hành lời khuyên nhủ trên là khởi sự Kitô hoá cuộc đời, là sống trọn vẹn hơn ý nghĩa của mùa Vọng năm nay, và chắc chắn, là bắt đầu cảm nếm niềm vui nhiệm mầu sâu lắng trong lễ Giáng sinh sắp đến.
43. Có thể đây là năm cuối đời tôi - Lm Hà Ngọc Đoài
"Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến." (Mt 24,42)
Trong một bữa tiệc tất niên với bạn hữu, bà B nói nhỏ với ông A khuyên chồng bà đi xưng tội, để chuẩn bị lễ Giáng Sinh cách đặc biệt. Năm nay các con cháu xa gần sẽ quy tụ tại nhà ông bà để mừng lễ Giáng Sinh. Vì con cái nghĩ rằng cha mẹ họ đã già, đến với nhau được năm nào hay năm đó. Biết đâu đây là dịp cuối cùng con cái được quây quần bên cha mẹ để mừng lễ. Ông B trước đây là một người ngoan đạo, sốt mến trong các việc giúp đỡ giáo xứ, nhưng vì một hiểu lầm nào đó ông bỏ lễ luôn! Bạn bè thông cảm và khuyên rằng, nếu bất bình với cha xứ hoặc với ai trong giáo xứ mà bỏ lễ thì không đúng. Chúng tôi không bênh vực ai hết, nhưng mời ông nhìn vào thực tế của đời mình và Thiên Chúa. Đạo là do Chúa ban cho mỗi người qua Giáo Hội. Cùng với Giáo Hội đức tin của chúng ta lớn mạnh và cùng với Giáo Hội chúng ta có bổn phận phát triển nước Chúa. Tại sao vì giận người trần mà bỏ Thiên Chúa và bỏ môi trường Chúa ban cho ta để sống và nương nhờ nhau. Trong cuộc sống chung, va chạm và hiểu lầm là chuyện thường tình. Chỉ có một điều là đừng quá khích và tự tôn mà xa nhau. Cần có sự quảng đại và thông cảm cho mỗi người trong công việc của họ thì mới xây dựng cộng đoàn dân Chúa được. Xã hội gồm nhiều người có nhiều đặc tính khác nhau, hễ bất mãn là phá, hễ không vừa ý mình là chống thì làm sao mà hòa hợp được. Ông B nghe lời khuyên có lý, nhưng vì tự ái còn âm ỷ trong mình nên trả lời rằng ‘khi gần chết thì tôi sẽ làm hoà lại." Mọi người an lòng khi nghe như vậy, nhưng ai cũng im lặng và suy nghĩ trong lòng rằng ai biết được giờ chết của mình? Ơn hòa giải đến từ Thiên Chúa hay chính mình ban ra? Quyền quyết định về phần rỗi là nơi Thiên Chúa hay chính con người? Thánh Augustinô khi đang còn sống trong tình trạng tội lỗi cũng lý luận, biện minh, và trì hoãn như thế. Ngài nói là xin cho con ơn trở lại, nhưng hãy đợi lúc sắp chết! Trong tác phẩm Confessions của Ngài kể rằng, một hôm tiếng lương tâm thúc dục: chần chờ bao lâu nữa? Ngài dày vò đầu óc tự hứa là ngày mai sẽ trở lại. Lương tâm tiếp tục cảnh cáo rằng tại sao không bây giờ, ngày mai thì không chắc chắn! Liền ngay đó có tiếng nói hai lần: Hãy cầm lấy và đọc. Ngài đi hỏi người bạn tiếng nói ấy có ý nghĩa gì, thì người bạn đưa cho cuốn Thánh Kinh, Ngài mở đúng ngay đọan Rom 13:11-14: hãy biết rằng giờ này là lúc con hãy thức dậy.
Thực Hành: "Đêm sắp tàn, ngày sắp đến... phần rỗi chúng ta gần đến." (Rom 13:11-12) Trái đất quay chung quanh mặt trời để muôn vật có ánh sáng và sự sống. Chúa ban cho chúng ta có mùa phụng vụ để thay đổi đời mình tốt đẹp hơn và sống gần Chúa hơn. Xin cho con ơn nhạy cảm để đời con không mất đì cơ hội sống đời đời.
44. Lên tàu hy vọng - Lm Phạm Quốc Hưng
Hôm nay, chúng ta bước vào Mùa Vọng, vào một năm phụng vụ mới của Giáo Hội. Giáo hội mời gọi chúng ta phải nỗ lực canh tân đời sống đức tin và lòng nhiệt thành truyền giáo để đón Chúa Giêsu xuống thế làm người.
Thật vậy, trong mùa Vọng, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ lại việc Chúa Giêsu đã sinh ra làm người để cứu chuộc nhân loại nơi hang Bêlem, và việc chúng ta phải chuẩn bị để chào đón Người trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi phải luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày nơi mọi người, mọi vật, mọi biết cố nhỏ to, nhất là nơi Thánh kinh, Thánh Thể và các bí tích của Hột Thánh, để chuẩn bị sẵn sàng gặp gỡ Chúa trong giờ chết, khi Chúa đến đưa chúng ta về bên Người trong cõi vĩnh hằng.
Chúng ta có cảm nghĩ và phản ứng gì khi nhớ đến việc Chúa đã xuống thế làm người hơn 2000 năm trước đây? Chúng ta phải làm gì để chào đón Người trở lại lần thứ hai? Chúng ta đã luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày chưa? Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để hân hoan đón nhận cái chết ngay giây phút này đây, như một cuộc gặp gỡ mà chúng ta hằng chờ mong để được chiếm hữu Chúa trong cõi vĩnh hằng chưa?
Nếu giờ đây lòng chúng ta không rộn ràng sung sướng vì tin vui Chúa đã giáng trần, nếu hiện nay chúng ta không thao thức mong chờ Chúa đến trong vinh quang, nếu lúc này chúng ta chưa cảm nhận hiện diện đầy quyền năng và tình thương của Chúa trong cuộc sống hàng ngày, nếu bây giờ chúng ta còn sợ chết, thì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy chúng ta chưa sẵn sàng đón tiếp Chúa. Đó là dấu chúng ta chưa thực sự tin Chúa, chưa thực sự biết Chúa, chưa thực sự yêu Chúa, chưa thực sự thuộc về Chúa. Đó là dấu chúng ta còn đang ngủ, đang mê, đang sống trong bóng đêm tội lỗi.
Trong Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, một lần nữa Chúa đang nói với chúng ta một cách khẩn thiết và thân thương như Chúa đã nói với các môn đệ khi xưa: “Hãy tỉnh thức... hãy sẵn sàng...”
Chúa đã nhắc đến việc Nôê đóng tàu để cứu sống ông và gia đình khi đại hồng thủy đến trong khi dân chúng cùng thời với ông tiếp tục sống buông thả theo dục vọng và tội lỗi của họ. Người dạy các môn đệ đừng bắt chước những người đồng thời với Nôê. Những người thời Nôê đã dại dột không biết lắng nghe ông và cố ở lì trong nếp sống sa đọa tội lỗi nên đã bị tru diệt. Chúa muốn các môn đệ của Người noi gương Nôê, biết tỉnh thức làm theo lời Chúa, đóng tàu và lên tàu với hy vọng được cứu sống.
Trong xã hội hôm nay, nhiều ngưởi trong chúng ta còn dại dột hơn những người đồng thời với Nôê bội phần. Vì chúng ta đã thấy đại lụt bắt đầu rồi mà vẫn lì lợm không chịu bước vào con tàu hy vọng Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta. Vì chúng ta đã được chính Chúa Giêwu – Con Thiên Chúa làm người, chứ không phải một người phàm như Nôê – cảnh cáo và kêu gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng, nhưng chúng ta vẫn giả điếc làm ngơ.
Hiện nay, trên thế giới có hơn 50 triệu thai nhi bị giết hàng năm một cách hợp pháp tại hầu hết các quốc gia. Đa số các cặp vợ chồng đi ngược lại luật Chúa khi xử dụng các phương thế ngừa thai nhân tạo hay tuyệt sản để tránh bổn phận phục vụ sự sống. Bao gia đình tan rã vì ly dị. Việc ăn chung ở chạ được nhiều người coi là chuyện bình thường. Phim ảnh và sách báo đua nhau khai thác bản năng tính dục của quần chúng. Không ít linh mục và giám mục Công giáo hổ thẹn vì giáo huấn chân thực của Hội thánh về luân lý liên quan đến hôn nhân và tính dục. Nhiều tín hữu dù đã đủ ăn đủ mặc vẫn gian lận trợ cấp xã hội dành cho người cùng khổ. Có những chủ nhân Công giáo bóc lột nhân công cách tàn nhẫn. Có không ít những đố kị ghen ghét bôi lọ nhau diễn ra ngay trong sinh hoạt của các giáo xứ và cộng đoàn Kitô hữu. Đó là chưa kể đến những gương xấu của những người lãnh đạo tên tuổi và những cuộc chém giết bạo động được ghi nhận trên báo chí hàng ngày.
Những sự kiện kinh hoàng trên đây không đủ để làm thành một thứ “văn hóa tử vong” hay một cuộc đại hồng thủy của tội lỗi còn ghê tởm hơn cuộc đại lụt thời Nôê đó ư? Lời kêu gọi thống thiết của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và các vị chủ chăn chính trực của Hội Thánh nhằm ngăn chặn các tội ác chống lại sự sống và phẩm giá con người không phải là sự lập lại lời kêu gọi của ông Nôê hay của chính Chúa Giêsu khi xưa sao?
Nôê và gia đình của ông năm xưa đã được cứu thoát khỏi đại hồng thủy vì đã đóng tàu và vào tàu như lời Chúa truyền dạy. Con tàu Nôê đã là biểu tượng của hy vọng và của ơn cứu độ.
Cũng vậy, ngày nay chúng ta sẽ được cứu thoát khỏi cơn đại lụt của tội lỗi đang dâng tràn trên thế giới, nếu chúng ta biết nổ lực xây dựng và gắn bó với con tàu hy vọng là Hội Thánh Công Giáo – Nhiệm thể Chúa Kitô và sự Hiện diện nối dài của chính Chúa Kitô – và lắng nghe mệnh lệnh của viên thuyền trưởng là chính Chúa Kitô mà Đức thánh Cha là vị đại diện hữu hình của Người.
Trong con tàu hy vọng ấy, chúng ta không những được bảo đảm thoát khỏi hiểm họa của đại lụt của tội lỗi, mà còn được diễm phúc gặp gỡ và kết hợp mật thiết với Chúa Kitô qua Lời Chúa và các bí tích của Hội thánh cũng như các hoạt động bác ái và truyền giáo của Hội thánh.
Những cây đinh, những tấm ván, và những cây cột mà chúng ta dùng để dựng xây con tàu Hội thánh chính là những lời cầu nguyện, những hy sinh hãm mình, những hành động yêu thương và những hoạt động tông đồ mà chúng ta thực hiện trong sự yêu mến, vâng phục và hiệp nhất với Hội thánh.
Chúng ta có tỉnh thức và sẵn sàng để cùng các môn đệ yêu quý của Chúa Kitô qua mọi thời đại bước vào con tàu hy vọng của Hội thánh và nỗ lực góp phần xây dựng Hội thánh chưa?
Một lần nữa, chúng ta hãy nghe thánh Phaolô – một trong những người có công đầu trong việc dựng xây và lèo lái con tàu Hội thánh theo ý Chúa Kitô – mời gọi chúng ta chuẩn bị để bước lên tàu hy vọng với những lời tha thiết như sau:
“Phải như thế, vì anh em biết thời buổi (nào ta đang sống). Đã đến giờ anh em phải tỉnh ngủ thức dậy, vì nay ơn cứu thoát đã gần ta hơn là khi ta mới tin. Đêm hầu tàn, ngày sắp đến. Vậy ta hãy vất bỏ những vật tối tăm và hãy mặc lấy khí giới sự sáng. Như giữa ban ngày, ta hãy sống đoan trang, chứ không phải trong chè chén và say sưa, trong dâm dật và phóng đãng, trong kình địch và ghen tuông. Nhưng anh em hãy mặc lấy Đức Kitô và đừng lo toan về xác thịt, cho thỏa các đam mê.” (Rm 13,11-14)
Lạy Mẹ Maria là nguồn hy vọng và cậy trông của chúng con, xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa Giêsu cho hết thảy chúng con trong năm phụng vụ mới nầy và suốt cả đời chúng con, ơn luôn nhận biết Hội thánh chính là con tàu hy vọng Chúa đã ban cho nhân loại để chúng con được ơn cứu rổi. Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con luôn trung thành, yêu mến và vâng phục Hội thánh và Đức thánh cha để luôn được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Amen.
45. Hãy tỉnh thức
Đoạn Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta liên tưởng tới cái chết. Dầu vậy, Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm trong một màu tang tóc và một bàu khí nơm nớp lo sợ, nhưng để chúng ta luôn sẵn dàng và nhìn cái chết bằng cặp mắt lạc quan.
Đúng thế, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết thì lại bấp bênh vô định.
Có một mẩu chuyện cổ tích kể lại rằng: Vào một buổi sáng mùa xuân, thày dòng giữ cửa trong một tu viện, nghe thấy tiếng chim hót véo von. Thày ngước mắt trông xem và nhìn thấy một con chim họa mi rất đẹp, thày liền đuổi theo, con chim cứ bay một quãng rồi lại dừng, làm thày miệt đuổi theo, đến lúc thày lạc vào một khu rừng vắng thì con chim biến mất.
Thày tìm đường trở lại nhà dòng. Mãi tới chiều mới về đến. Cửa nhà dòng đóng chặt, thày nhấn chuông và một người ra mở cổng. Thày ngơ ngác nhìn người lạ mặt và những sự đổi thay trong nhà dòng. Thày tự giới thiệu nhưng không một ai nhận biết. Mãi sau cha bề trên đem sổ sách ra tìm tòi, thì mới thấy một thày canh cổng trùng tên đã mất tích cách đây 100 năm. Một trăm năm trôi qua mà thày cứ tưởng như là một tiếng chim hót.
Thời giờ thấm thoát tựa thoi đưa, vụt đến rồi vụt đi như ngựa hồng qua khung cửa. Và một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại, như người ta thường bảo:
- Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông.
Mới hôm nào tôi còn là một đứa bé, đầu để chỏm ba quả đào, mà hôm nay đã ngoài năm mươi, để rồi bắt đầu bước vào tuổi già.
Những em thiếu nhi đang ngồi đây, nhưng rồi 20, 30, 40 năm nữa sẽ như thế nào? Nhất là còn bao lâu nữa sẽ đến giây phút trọng đại, giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi. Nói như thế, chắc hẳn sẽ có người cho tôi là lẫm cẩm, vì họ nghĩ rằng:
- Đời mình còn dài và cứ dệt nhiều ước mơ, thân xác mình còn đầy tràn nhựa sống và hăng say hoạt động.
Nhưng chúng ta sẽ lầm, cái chết không dành riêng cho một người nào đó. Nó muốn gọi ai, thì người ấy phải bước theo nó, dù là vua chúa quyền uy. Nó không bao giờ phân biệt giai cấp, tuổi tác cũng như ngôn ngữ vàchủng tộc.
Trên mộ bia của của một thanh niên người ta đọc thấy dòng chữ:
- Cái chết thật vô lễ vì nó dám kéo người trai trẻ này đi trước cụ già.
Một làn gió nhẹ, một sơ suất nhỏ bé cũng đủ đưa chúng ta sang thế giới bên kia bất cứ lúc nào. Ý thức được sự mỏng manh, bèo bọt của kiếp sống là như thế, nên thái độ cần phải có, đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Đúng thế, cách đây khá lâu tôi quen một gia đình ở Sài gòn. Mùa hè năm ấy, sau khi cậu con trai đỗ tú tài phần hai, cả gia đình rủ nhau đi Vũng tàu. Buổi sáng Chúa nhật trời trong xanh, giữa lúc mọi người đùa giỡn với sóng biển, thì cậu con trai bơi ra xa, xa hơn một chút và rồi cậu không bao giờ trở lại nữa.
Một xoáy nước nào đó đã cuốn mất cậu, người ta tìm kiếm hoài mà cũng không thấy, mãi sau xác cậu nổi lên và dạt vào bờ.
Thế nhưng, chúng ta có biết được niềm an ủi độc nhất của người cha và người mẹ đáng thương ấy không? Hai ông bà đã nói với tôi rằng:
- Nó mới xưng tội và vẫn còn rước lễ sáng hôm đó.
Thật tốt đẹp nếu chúng ta có một linh hồn được chuẩn bị sẵn sàng, bằng không thì chúng ta sẽ mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi, mất cả đời này lẫn đời sau.
Trên mộ bia của những người thời xưa, chúng ta thường thấy ghi háng chữ tuyệt vời:
- Người này đã chết sau nụ hôn của Chúa.
Chúng ta hãy sống thế nào, để dù Chúa có đến vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết thì chúng ta vẫn sẵn sàng, vẫn bình an và vui sướng. Vậy mỗi ngày sống, chúng ta có biết chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này hay không?
Trong cơn hấp hối, người ta đã hỏi thánh nữ Marguerite Alacoque rằng:
- Còn cần sự gì nữa chăng?
Thánh nữ đã trả lời:
- Không, vì tôi đã sẵn sàng.
Cũng vậy trong giờ chơi, một xơ đã hỏi các em nhỏ:
- Nếu như bây giờ được Chúa gọi về, các em sẽ làm gì?
Em thì bảo sẽ giục lòng ăn năn tội cách trọn, em thì bảo sẽ vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Thế nhưng có một em đã trả lời:
- Phần con, con vẫn tiếp tục chơi như thường vì con đã sẵn sàng.
Em bé ấy sau này đã trở nên một vị thánh đó là thánh Gioan Berchmans.
Nếu hôm nay tôi phải đến trước tôn nhan Chúa, liệu tôi đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Tôi đã trả hết những món nợ đối với Chúa và đối với anh em hay chưa? Tôi đã tẩy xóa hết những vết nhơ tội lỗi qua bí tích cáo giải hay chưa?
Nếu chúng ta biết sửa soạn ngay từ ngày hôm nay, nếu mỗi khi chiều xuống chúng ta biết xét mình, tự vấn lương tâm và chỉ ngủ yên khi nào linh hồn mình đã được gột rửa qua tâm tình thống hối, nếu chúng ta giữ được màu trắng của tấm áo ngày rửa tội, nếu chúng ta giữ được ngọn nến đức tin luôn bừng cháy, thì thật là hạnh phúc và giờ chết không còn là giờ kinh hoàng và đáng sợ nữa.
Nếu bây giờ chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng, thì khi Chúa đến, chúng ta sẽ không chết, nhưng chính lúc ấy chúng ta mới bát đầu sống. Cuộc sống nơi trần thế là một chuyến viễn du trong đêm tối hay trên mặt biển dậy sóng. Nhưng ở đằng kia bình minh đang ló dạng và Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay chào đón chúng ta nơi bờ bến hạnh phúc.
Hãy sống để chuẩn bị cho cái chết và hãy chết để được sống muôn đời.
46. Đứng thẳng
Càng ngày các thiên tai càng xảy ra nhiều hơn trên toàn thế giới. Bão tố, lũ lụt, động đất, hạn hán…Và sự tàn phá của các thiên tai thật là khủng khiếp. Các bình luận gia cho rằng: Một trong những nguyên nhân đưa đến sự thiệt hại lớn lao về sinh mạng và tài sản do các thiên tai gây ra, đó là vì người ta thiếu cảnh giác và đề phòng. Thực vậy, nếu những nơi nào người ta biết cảnh giác, biết đề phòng thì sẽ tránh được nhiều thiệt hại do thiên tai đem đến.
Tại Việt Nam, các cơn bão, các trận lũ lụt thường xảy ra vào khoảng tháng 11, tháng mà Giáo hội nhắc nhở người Kitô hữu suy nghĩ về sự chết. Thời gian này cũng là những tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ và bắt đầu một năm phụng vụ mới. Các bài đọc Lời Chúa trong các thành lễ của thời gian này nói nhiều về ngày cùng tận của thế giới và về ngày cùng tận của mỗi người. Đó là những biến cố quan trọng mà con người không thể dửng dưng. Trái lại, phải biết cảnh giác, biết đề phòng để khi những biến cố ấy xảy đến, chúng không hủy diệt con người và cuộc sống của mình. Quả là một sự trùng hợp về thời gian rất đáng để chúng ta suy nghĩ.
Tổng kết các thiệt hại chúng ta thấy rằng: Thiên tai thường cất đi mạng sống của nhiều người. Trong số đó có những con người còn rất khỏe mạnh, rất trẻ trung. Có lẽ gia đình và bản thân những người ấy đã không nghĩ rằng họ sẽ chết trong tình trạng sức khỏe và tuổi tác như thế. Vậy mà họ đã chết. Thì ra, sức khỏe và sự trẻ trung không phải là những thế lực có thể thắng được cái chết.
Trong số những người chết vì thiên tai, cũng có những người nắm giữ những chức vụ quan trọng trong xã hội, có những người giàu sang quyền quí, có những người học cao hiểu rộng, thông minh tài trí…Có thể họ là những người cần thiết và hữu ích cho nhân loại, thế nhưng, cái chết vẫn không chừa họ ra.
Các thiên tai cũng phá đổ nhiều công trình kiến trúc, nhiều ngôi nhà cao tầng kiên cố, đã quét sạch tài sản của nhiều người. Những cao ốc và những tài sản này có khi là công sức của nhiều thế hệ mới tạo lập nên được. Người ta đã tưởng chúng sẽ có thể tồn tại lâu dài theo năm tháng và sẽ là điểm tựa, là chỗ ẩn náu vững chắc cho cuộc sống. Vậy mà chỉ trong nháy mắt,tất cả đã biến thành tro bụi.
Thế đấy! Những gì mà người ta nghĩ rằng không thể đến thì chúng đã đến. Những gì mà người ta nghĩ rằng chúng chưa xảy ra thì chúng đã xảy ra. Và khi sự việc đã xảy ra thì người ta mới tỏ ý hối tiếc. Hối tiếc rằng: Phải chi họ đã cảnh giác đề phòng, đã tiên liệu, thì hậu quả đâu đến nỗi bi đát như vậy. Phải chi đài khí tượng thủy văn đã được trang bị hiện đại hơn để có thể ghi nhận những thay đổi của thời tiết một cách chính xác và mau lẹ hơn. Phải chi hệ thống thông tin đã loan báo tin bão khẩn cấp, tin lũ lụt sớm hơn và kịp thời hơn. Phải chi họ đã di dời nhà cửa trước khi cơn bão lũ xuất hiện. Phải chi họ đã không ra khơi trong những ngày đó. Phải chi các tàu thuyền đã chuẩn bị phao cứu hộ đầy đủ hơn… Có cả hàng trăm câu”phải chi”như vậy.
Tuy nhiên, dù người ta hối tiếc về sự thiếu chuẩn bị, thiếu đề phòng trong những biến cố đã qua, thì người ta vẫn quên hay cố tình quên không chuẩn bị, không cảnh giác đề phòng một biến cố khác sẽ đến. Biến cố này quan trọng hơn cả các thiên tai dữ dội nhất và là biến cố rất quan trọng của một đời người. Biến cố ấy chính là giờ chết của mỗi người. Biết rằng cái chết sẽ đến, nhưng người ta vẫn né tránh không nghĩ tới nó. Lý do có thể là người ta sợ hãi khi nghĩ tới giờ chết, tới cái chết của chính mình. Người ta cũng lo sợ rằng khi nghĩ về giờ chết, về sự chết thì cuộc đời của họ sẽ bị đảo lộn. Thật vậy, khi nghĩ tới giờ chết một cách nghiêm túc, người ta sẽ phải thay đổi đời sống, sẽ phải bỏ đi một lối sống buông thả, một lối sống ươn lười chỉ thích hưởng thụ, sẽ phải bỏ đi những lợi nhuận bất chính, bỏ đi những đam mê thấp hèn, bỏ đi những khoái lạc mang nặng thú tính v.v… Phải bỏ đi những trái cấm ngọt ngào ấy quả là đáng tiếc. Vì thế, người ta ngại nghĩ đến giờ chết của mình. Nhưng dù nghĩ tới hay không thì giờ chết vẫn cứ đến như một thứ định mệnh không thể né tránh. Đối với những ai không chuẩn bị để đón nó, cái chết sẽ như những thiên tai khủng khiếp hủy diệt tất cả.
Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta hãy tỉnh thức, hãy cảnh giác đề phòng. Đề phòng bằng cách đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để thấy được trời cao lồng lộng ở trên đầu mình chứ không phải chỉ có cuộc tạm gửi này. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để hướng tới hạnh phúc đích thực và trường cửu chứ không chỉ biết bám vào những thứ hạnh phúc mau qua. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để vươn tới tầm cao của sự thánh thiện chứ không chỉ biết cúi xuống với những lời mời chào của tội lỗi.
47. Tỉnh thức
Một người thuộc bộ lạc miền núi cả đời như chưa từng thấy ánh sáng văn minh. Một hôm ông được đưa xuống thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên, ông giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Sau khi được người chung quanh cho biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hỏa hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Người dân miền núi nhìn ngọn lủa đang bốc cháy tại một góc trời, rồi ông trở lại giường ngủ tiếp.
Trở về làng, ông báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: Người dân thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu. Khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe nói thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ các loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hòa hoạn xảy đến trong làng, tất cả dân làng đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng và thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại diễn tiến cơn hỏa hoạn, một người dân thành thị mới giải thích cho dân làng như sau: Các người thật ngây ngô, các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt được ngọn lửa ư? Không phải thế đâu. Tại thành phố, người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy, chứ không ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. Để nói lên sự tỉnh thức đích thực, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ đêm ngày trung thành với công việc được chủ trao phó. Sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu kêu mời là một sự tỉnh thức tích cực đòi hỏi lao tác và phấn đấu. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho các tín hữu Thessalonica về thái độ tích cực tỉnh thức ấy. Trong những năm đầu của Kitô giáo, một số tín hữu tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong một sớm một chiều, nên họ ăn không ngồi rồi và dây mình vào chuyện người khác. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy tỉnh thức bằng cách hăng say lao động và thực thi bác ái.
Tỉnh thức là thái độ cơ bản của người Kitô hữu. Toàn bộ thánh kinh là một lời mời gọi tỉnh thức, bởi vì Thiên Chúa là đấng đang đến trong từng phút giây cuộc đời, trong từng biến cố và trong mỗi con người. Tỉnh thức để nhận ra Ngài và nhất là đáp trả một cách tích cực tiếng gọi của Ngài, Ước gì cuộc sống đức tin của chúng ta không chỉ là tiếng trống khua inh ỏi trong bốn bức tường nhà thờ, mà phải được thể hiện bằng những gặp gỡ để cảm thông và phục vụ.
48. Sẵn sàng
Chúng ta bắt đầu mùa vọng với hai đặc tính: vừa chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, kính nhớ việc con Thiên Chúa đến lần thứ nhất, vừa trông đợi Ngài đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì vậy, mùa vọng được coi là mùa sốt sắng và hân hoan trông chờ.
Qua đoạn tin mừng sáng hôm nay chúng ta thấy: Chúa Giêsu nói Ngài sẽ trở lại, nhưng không xác định thời giờ. Vì thế, bổn phận của chúng ta không phải là tìm hiểu xem bao giờ ngày trọng đại ấy sẽ xảy ra, nhưng là chuẩn bị cho mình bằng cách tỉnh thức và săn sàng, bởi vì ngày đó sẽ đến thật hết sức bất ngờ cho những kẻ miệt mài chạy theo vật chất trần gian. Trong câu chuyện ngày xưa, Noe đã chuẩn bị cho mình khi thời tiết còn tốt, hầu sẵn sàng cho trận đại hồng thủy, đang khi ấy, những kẻ còn lại thì mải mê ăn uống, cưới gả, nên đã bị nước lụt cuốn trôi. Vì thế, đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi sống đời đời, đừng quá quan tâm đến thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa và vấn đề sống hay chết đều nằm ở trong bàn tay của Ngài. Bất kỳ khi nào Ngài gọi, ban sáng, ban trưa, ban chiều hay ban tối, chúng ta đều phải sẵn sàng.
Một tên trộm sẽ không bao giờ gửi thư báo trước mình sẽ viếng thăm nhà nào. Lợi thế của hắn ta chính là sự bất ngờ. Vì vậy chủ nhà lúc nào cĩng phải canh chừng. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhớ rằng: Chúa cảnh giác chúng ta chứ không chơi khăm chúng ta bằng cách cứ nhắm vào lúc chúng ta sơ hở mà trở lại. Hơnthế nữa, người Kitô hữu không trông chờ trong sợ hãi kinh khiếp, nhưng trông chờ trong hân hoan vui mừng vì Chúa sẽ đến và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta.
Ông thanh tra khi đến thăm một trường tiểu học đã nói với các em học sinh rằng:
- Tôi sẽ trở lại đây. Vậy từ nay cho đến ngày tôi trở lại, em nào giữ được bàn mình sạch gọn thì sẽ được thưởng.
- Vậy bao giờ ông trở lại?
- Chưa biết hôm nào.
Trong số các học sinh có một cô bé quả quyết rằng mình sẽ chiếm được phần thưởng. Ai nghe cũng phải mỉm cười vì cô bé ấy nổi tiếng là lười biếng. Có người hỏi:
- Bàn của cô có bao giờ sạch đâu mà mong được thưởng?
- Từ nay, mỗi buổi sáng tôi sẽ thu xếp một lần.
- Nhưng nếu ông thanh tra đến vào buổi chiều hay buổi tối thì sao?
Cô bé yên lặêng một lúc rồi nói:
-Tôi hiểu rồi, như thế thì lúc nào tôi cũng phải giữ bàn của tôi cho được sạch sẽ và gọn ghẽ.
Nếu chúng ta muốn được Chúa ân thưởng thì chúng ta cũng phải tỉnh thức và săn sàng như vậy.
49. Sẵn sàng
Chúa sẽ đến nhưng bao giờ Ngài đến thì đó là một điều bí ẩn, bởi vì Ngài sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ vào giờ chúng ta không biết. Vì thế phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Đồng thời thái độ nguy hiểm nhất đó là cứ cho rằng mình còn nhiều thời giờ.
Trong một cuộc đại hội của quỉ sứ, chúng bàn bạc và góp ý xem đâu là phương thế hữu hiệu nhất để cám dỗ con người. Tên quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ bảo cho loài người biết rằng chẳng có Thiên Chúa.
Tên quỉ thứ hai phát biểu:
- Tôi sẽ bảo cho họ hay rằng chẳng có hỏa ngục.
Satan trả lời:
- Các ngươi sẽ không thể lừa dối được một ai bằng những phương cách đó, bởi vì cho đến ngay hôm nay, loài người vẫn tin rằng có Thiên Chúa và vẫn biết có một hỏa ngục dành cho các tội nhân.
Tên quỉ thứ ba hiến kế:
- Tôi sẽ bảo với loài người rằng còn nhiều thời gian, nên đừng có vội vã làm chi.
Satan đáp:
- Hãy đi đi, với phương cách này, chúng ta sẽ làm hại được rất nhiều người.
Ảo tưởng nguy hiểm nhất chính là ảo tưởng cho rằng mình còn nhiều thời giờ. Cái ngày tai hại nhất trong cuộc sống con người chính là khi chúng ta học được hai chữ ngày mai và trì hoãn công việc bởi vì không ai biết ngày mai có còn đến với mình nữa hay không. Bởi đó, có một câu danh ngôn đã khuyên chúng ta: Việc hôm nay chớ để đến ngày mai. Lịch sử còn ghi lai nhiều câu chuyện bi thảm.
Viên pháp quan ở Thebea đang ngồi uống rượu với các dũng sĩ của mình, bỗng có sứ giả bước vào và báo cho ông hay về một âm mưu sát hại ông. Thay vì lên phương án đối phó. Ông nói: để đến mai hãy hay. Thế nhưng ngay đêm hôn đó, ông đã bị giết chết.
Một thiếu nữ Mã lai lấy chồng giàu ở Nữu ước. Ngày kia trên đường từ Cali trở về, cô gặp tai nạn giao thông và bị thương rất nặng. Lúc còn trẻ, cô là người đạo đức. Tuy nhiên cuộc hôn nhân đã đưa cô vào một môi trường khác hẳn. Ở đây không còn một ai nói với cô về Thiên Chúa và cuộc sống vĩnh cửu. Lúc đầu, thái độ và bàu khí dửng dưng về tôn giáo này làm cho cô khó chịu, nhưng dần dần cô tiêm nhiễm sự xa hoa để rồi cuối cùng chính cô cũng không còn lưu tân đến Thiên Chúa và linh hồn nữa. Tai nạn bất ngờ đã kéo cô ra khỏi vùng xoáy của trần gian và ném cô vào vòng tay tử thần. Cô khắc khoải hỏi vị bác sĩ:Tôi sẽ chết ư? Tôi còn sống được bao lâu nữa? Chừng một giờ. Nghe vậy toàn thân côrun rẩy. Cô đưa tay che mặt lại và nằm yên không động đậy trong giây lát. Sau đó, hình như cô lấy hết sức còn lại và nói: Xin hãy đưa tôi về Nữu ước. Nhưng vị bác sĩ trả lời:
- Không thể được.
Với vẻ thất vọng, cô nói:
- Tôi đã có thể làm biết bao nhiêu điều tốt lành với tiền bạc của tôi nếu tôi trung thành với đức tin. Thế nhưng tôi chỉ nghĩ đến những cuộc giải trí và trang điểm. tôi chỉ còn sống được một giờ nữa mà thôi. Bây giờ thì đã quá muộn rồi.
Bởi đó, hãy chuẩn bị, hãy tỉnh thức và hãy sẵn sàng, để chúng ta khỏi phải thốt lên trong tuyệt vọng: đã quá muộn rồi.
50. Ngạc nhiên
Khi còn trẻ, ta ấp ủ những hy vọng lớn nhất. Ta tưởng có thể thay đổi được thế giới. Ta hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của mình, và thấy dường như không gì mà không thực hiện được. Khi đã lớn khôn ta lại thấy khác hẳn. Ta đã gặp thất bại. Ta biết rõ giới hạn của mình và của những kẻ chung quanh mình hơn. Ta đã biết phát hiện rõ hơn những gì trong lòng con người… và trong chính con tim của ta nữa. Lúc đó ta trở thành cụ thể và thực tế, như người ta nói. Ta ngày càng ít ảo tưởng. Có lẽ ta không bỏ hoàn toàn những giấc mơ tuổi trẻ của mình, nhưng ta nhận thấy rằng chúng đã tàn phai. Bốn mươi, năm mươi tuổi, thường là thời kỳ mà người ta trở nên ít nhiệt tình và e ngại trước nhiều sự việc mà trước kia ta cho là chính yếu. Hòa bình thế giới ư? Lý tưởng đẹp đẽ thật; nhưng ta không bao giờ đạt tới được đâu! Công lý cho mọi người, lương thực được phân phát đồng đều khắp nơi ư? Có nhiều không tưởng trong những điều ấy! Nếu thời trẻ say mê tin tưởng sẽ có được như thế, thì điều khôn ngoan là nên dè dặt hơn khi ta đã lớn tuổi. Những tháng năm trôi qua, những biến cố xẩy đến trên thế giới, những kinh nghiệm sống của bản thân, sẽ thử thách niềm hy vọng của chúng ta. Đấy là điều chắc chắn. Vậy cần có thời gian để thức tỉnh, để làm cho niềm hy vọng ấy trở nên mạnh mẽ hơn. Mùa Vọng là thời gian cần thiết đó. Năm này sang năm khác, mùa Vọng công bố lại những lời sấm vĩ đại, nâng đỡ, soi sáng và kích thích tín hữu. Không tưởng đối với loài người… Dự án đối với Thiên Chúa.
Điều làm chúng ta ngạc nhiên trong các bản văn của thánh lễ hôm nay là dáng vẻ phi thực tế của chúng. Đoạn sách ngôn sứ Isaia chúng ta vừa nghe là một thí dụ. Bản văn này loan báo ngày mà tất cả các dân tộc sẽ hướng về Thiên Chúa, sẽ đón nhận và thực thi giáo huấn của Ngài. Lúc đó họ sẽ sống trong hòa bình sâu xa nhất, và trong một tình thương huynh đệ gương mẫu. Các bạn hãy tưởng tượng xem? “Gươm đao sẽ thành cuốc thành cày, và giáo mác thành liềm thành hái. Nước này sẽ không chống nước kia nữa, người ta sẽ thôi học nghề chinh chiến. Hết xung đột tại Trung đông! Hết đấu tranh giữa người da trắng và da đen, người giàu và kẻ nghèo. Hoàn toàn hết chạy đua vũ trang!... Ta tưởng như mình đang mơ. Thiên Chúa ngây thơ đến thế ư? Không đâu! Ngài là Thiên Chúa. Ngài toàn năng. Ngài là chủ tể của cái chưa từng thấy và của cái không thể được. Ngài muốn – và Ngài sẽ thực hiện – một hạnh phúc hoàn toàn cho những con người mà ngài đã tạo dựng nên”. Thiên Chúa đã cho thấy những gì Ngài đã làm cho những kẻ thuộc về Ngài rồi. Nhất là Ngài đã tự tỏ mình ra từ ngày Con Một Ngài là Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta. Ta hãy nhớ! Chúa Giêsu đã làm cho người què đi được, cho kẻ phong cùi được sạch, đã tha thứ cho kẻ có tội. Nhờ Ngài, Nước Thiên Chúa đã đến giữa chúng ta, và mỗi ngày một tiến triển. Đúng là nó tiến triển chậm chạp, và với nhiều khó khăn cản trở. Đôi khi, dường như nó bị mất đất, diều này cũng đúng nữa. Tuy nhiên Thiên Chúa chăm sóc tất cả những gì Ngài đã trồng và khi đến giờ Ngài lựa chọn, theo cách của Ngài, Ngài sẽ biểu dương tất cả sức mạnh của Ngài, tất cả tình thương của Ngài. Ngày mai sẽ tốt đẹp hơn hôm qua, tốt đẹp hơn hôm nay. Bao nhiêu điều gây ngạc nhiên đang chờ đợi chúng ta.
Cụ thể hóa niềm hy vọng
Những gì Thiên Chúa có thể làm và muốn làm, Ngài đều chờ đợi sự đóng góp của chúng ta. Ngài đòi hỏi chúng ta cộng tác vào. Trách nhiệm nặng nề, vì chúng ta có thể hợp tác hoặc chống đối, làm cho nhanh hoặc chậm lại sự tiến triển của Nước Chúa. Để hỗ trợ sự tiến triển này chúng ta phải là những kitô hữu “Tỉnh thức”, luôn luôn chờ đợi, luôn luôn đẩy lui sự dữ và làm nẩy sinh sự thiện. Đó là giáo huấn của thánh Phaolô và của Tin mừng. Chúng ta phải nói với thế giới, như Chúa Giêsu đã làm, rằng mọi cuộc tái sinh đều có thể được, và bóng tối có thể biến thành ánh sáng được. Sứ vụ của kitô hữu chúng ta hôm nay, là nhìn thế giới và những con người sống trong đó với chính cái nhìn của Thiên Chúa: Tức là hành động, bằng những công việc phản ánh những công việc của Chúa Kitô. Sứ vụ của chúng ta là bỏ đi những sự nghi nan và những nỗi thất vọng để trở thành như Chúa Kitô, tức là những con người không bao giờ thất vọng về điều gì cả, bởi vì họ hy vọng mọi sự từ nơi Thiên Chúa, Đấng không ngớt làm chúng ta ngạc nhiên trong những điều chúng ta mong đợi.
51. Chúa đến
Vào năm 1987, người ta cho trình chiếu cuốn phim mang tựa đề: “After day”, nghĩa là “ngày sau đó” kể lại nghịch cảnh của ít người dân trong thành phố lớn thuộc miền bắc Hoa Kỳ còn sống sót sau một trận bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người khi quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật, thuộc mọi đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc, hoang tàn đổ nát, đau khổ và thất vọng của những người đang chờ đến lượt mình phải chết, vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu đồ ăn thức uống.
Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết chóc ấy, những người còn sống sót đã tàn sát nhau để tranh giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người phải đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn tay trắng, bất lực và tuyệt vọng.
Các bài đọc trong Chúa nhật I Mùa Vọng hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là ngày tận thế bị chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới. Đó cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Muốn được như thế, chúng ta phải sống đẹp lòng Thiên Chúa chứ không phải sống đẹp lòng người ta, dù người ta ấy có là ai đi chăng nữa. Nhưng phải là gì để làm đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế.
Ngoài ra, mỗi người chúng ta cần phải luôn luôn đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm hồn và trong cuộc đời bằng cách sống thánh thiện và kiên vững chờ đợi Chúa đến. Bởi vì sống thánh thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn. Càng biết yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, thì càng trở nên giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho Ngài vui sướng hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội loài người gặp nhiều khổ đau, vì con người không biết yêu thương nhau, hay không yêu thương nhau theo tinh thần Tin mừng của Chúa mà Ngài mời gọi. Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thần linh và xây dựng trời mới đất mới cách cụ thể và hữu hiệu nhất.
52. Sẵn sàng
Năm Phụng Vụ mới được Giáo Hội hội bắt đầu với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng.
Thế nhưng, mùa vọng không phải chỉ là thời gian để Giáo Hội nhìn về quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã giáng sinh và cử hành biến cố này với lễ Noel. Nghĩa là mùa vọng không phải chỉ là mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Nhưng mùa vọng còn là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sừ điệp mà bài đọc II và Tin mừng Chúa nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu: “Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày” (Rm 13,11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc âm Chúa nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: “Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
53. Tỉnh thức
Chuyện kể rằng, một thày dòng nọ đọc đâu được trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo cho biết rằng: “Tận cùng chân trời của trái đất là nơi trời với đất gặp gỡ nhau”.
Phấn khởi vui mừng, thầy lên đường tìm kiếm nơi trời mới đất mới gặp nhau và sẽ không trở về nhà cho tới khi tìm được. Ngày tháng trôi qua, thầy vẫn kiên nhẫn rảo bước khắp nơi với niềm hy vọng mãnh liệt trong tâm hồn, bất chấp mọi khó khăn gian khổ và thử thách, những lần phải chịu đói khát, giá rét và không gì có thể lay chuyển được ý định của thầy.
Trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ ấy có chỉ thêm rằng: “Khi tới chỗ đất với trời gặp nhau sẽ thấy có một cánh cửa, chỉ cần gõ nhẹ cánh cửa sẽ mở ra và người ấy sẽ gặp thấy Thiên Chúa”.
Thật vậy, sau nhiều ngày tháng đi tìm kiếm đó đây khắp mặt đất, cuối cùng thầy dòng đã tới trước cánh cửa. Thầy vui mừng gõ cửa bước vào, lúc đó thầy dòng mới hoảng hồn nhận ra đó là Tu viện cũ của thầy, là cửa của căn phòng mà thầy đã từng sống bao nhiêu năm qua.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã hứa với dân chúng rằng: “Ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho”. Đời sống trần thế là thời gian tìm kiếm Chúa với hy vọng vững chắc là sẽ được gặp Ngài, nhưng cần phải tìm kiếm Chúa ở đâu?
Thật sự không cần phải đi tìm kiếm Chúa ở tận nơi xa xôi hoặc mãi nơi chân trời nào cả, Thiên Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mỗi người, cùng đồng hành với mỗi người trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ của cuộc sống. Vấn đề quan trọng là có biết nhận ra những giờ, những nơi hẹn mà Chúa đang chờ đợi ta hay không?
Chúng ta biết tỉnh táo và chuẩn bị sẵn sàng là thái độ của mỗi người đầy tớ trung tín, chứ không phải là thái độ cần thiết của những người gác cổng mà thôi. Tỉnh thức có nghĩa là các đầy tớ sẽ làm các công việc khác nhau của mình một cách ý thức, là tiến hành công việc mà Thiên Chúa đã ủy thác cho họ thực hiện. Tỉnh thức là biết mình đang làm gì đến nỗi vừa làm việc, vừa có thể nghe được hơi thở của mình. Sự ý thức lựa chọn mà mỗi người làm trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số phận vĩnh hằng của mình sau này.
Giáo Hội như người mẹ hiền nhắc nhở con cái là những người có lòng tin phải sẵn sàng chờ đợi ngày trở lại sau cùng của Chúa Giêsu, ngày trở lại đó ai cũng biết là chắc chắn mặc dù không ai biết trước được khi nào ngày giờ đó sẽ xẩy đến. Cũng là điều tốt cho chúng ta khi không biết chắc chắn lúc Chúa Kitô sẽ trở lại, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng trong công việc của mình cho Chúa Kitô, hoặc tệ hại hơn nữa là tiếp tục ngồi lì trong con đường tội lỗi với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng.
Tỉnh thức và sẵn sàng, tức là lúc nào cũng sẵn sàng chuẩn bị để bất cứ lúc nào ông chủ vềàbất thình lình, Người vẫn thấy chúng ta có mặt thay vì ngủ nghê hoặc lêu lổng với công việc bổn phận. Để được thế, chúng ta cần luyện tập, làm việc cách trung thành với công việc Chúa đã ban cho chúng ta trong giây phút hiện tại, cũng đừng để cho trí tuệ tinh thần của chúng ta ra u mê, sống buông thả hay sự mù quáng đuổi theo các đam mê điên rồ hoặc để cho các lo âu đời sống đè bẹp, trói buộc chúng ta mãi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán bảo chúng con hãy luôn tỉnh thức kẻo sa chước cám dỗ, xin ban sức mạnh cho chúng con để chúng con luôn bền tâm trong công việc thiện, trong khi chờ ngày Chúa đến. Ước chi mỗi lần Chúa đến gõ cửa nhà tâm hồn chúng con, Chúa sẽ hài lòng thấy chúng con luôn tỉnh thức trong cầu nguyện, vui mừng ca tụng Chúa và nhiệt thành thực thi bác ái với mọi người. Amen.
54. Tỉnh thức
Theo Phúc âm thánh Matthêu thì việc canh phòng chờ đợi ngày Chúa đến được giải thích bằng ba dụ ngôn: Dụ ngôn kẻ trộm đến bất ưng ban đêm và người đầy tớ bất trung, người trinh nữ ban đêm chờ đợi chàng rể đến và các nén bạc phải được sinh lời cho chủ.
Lời căn dặn chung của ba dụ ngôn này: “Các con hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết Chúa đến lúc nào”. Nếu dụ ngôn thứ nhất mà chúng ta suy niệm hôm nay không nói rõ việc cảnh phòng ở tại cái gì, thì dụ ngôn thứ hai sẽ giúp chúng ta hiểu ra ngay, đó là việc chu toàn sứ mệnh đã lãnh nhận. Việc Chúa trở lại được loan báo trong các dụ ngôn là điều chắc chắn, nhưng ngày giờ Ngài đến lại không thể biết được. Vì không thể biết trước, nên cần phải tỉnh thức và canh phòng đợi chờ.
Trong nhiều cộng đồng kitô hữu thời các thánh Tông đồ, việc chờ đợi Chúa đến được lưu ý một cách đặc biệt. Chúa đến trong ngày tận thế đã gây nên những phản ứng khác nhau nơi các tín hữu thành Thessalônica, họ thất vọng vì chờ đợi quá lâu, nên họ lãng quên vì công việc làm, vì ham thích thú vui. Chính thánh Phaolô tông đồ đã nhắc tới tình trạng này trong thư gởi tín hữu Thessalônica như sau: “Kẻ thì sống qua ngày không làm lụng gì cả, người thì luôn luôn lo lắng bối rối về nhiều chuyện”.
Sau khi nhắc đi nhắc lại cho các tín hữu biết ngày giờ của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm, thánh Phaolô khuyên họ bằng những lời sau đây: “Thưa anh em, vì mình không ở trong chỗ tối tăm, nên ngày ấy vụt đến với anh em như kẻ trộm. Anh em hết thảy đều là con cái sự sáng, con cái ban ngày không thuộc về ban đêm hoặc bóng tối, nên chúng ta chẳng phải chết như những người khác. Vậy chúng ta hãy tỉnh thức và điều độ”.
Có những người đã dùng những từ ngữ kinh hoàng gây nên sợ hãi về giờ chết và ngày phán xét, nhưng đây không là mục tiêu, là nhân tố thiết yếu của việc canh phòng theo tinh thần Phúc âm. Bởi vì việc chờ ngày Chúa đến không phải là lý do gây nên sợ hãi một cách nô lệ cho những người theo Chúa Kitô. Trái lại, đây là lý do của niềm tin cậy, của ước ao, của khát khao và của nguồn vui chan chứa được gặp Chúa. Ngài có thể đến với chúng ta hôm nay và ngày mai như kẻ trộm đến bất ưng vào ban đêm. Chúng ta không dễ gì nhận ra Ngài và đón tiếp Người, nếu chúng ta không chuẩn bị, không canh phòng và sẵn sàng chờ đợi.
Nhờ đức tin chúng ta biết rằng, Thiên Chúa ở gần chúng ta trong mọi nơi mọi lúc, nhưng đã nhiều lần chúng ta không biết hoặc vô tình quên ngài. Để nhận biết Người, chúng ta phải bỏ qua những gì ngăn cách giữa Ngài với chúng ta, chúng ta phải lắng nghe tiếng Ngài và sống hiệp thông với Ngài. Do đó, sự chờ đợi của chúng ta sẽ được thỏa mãn và được thưởng công: “Hỡi đầy tớ trung tín và tốt lành, hãy vào hưởng sự sung sướng của chủ ngươi”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con khám phá ra những lần Chúa đến trong lịch sử, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng con. Chúa đến nơi người anh em chúng con đang sống trong cảnh cùng cực cần sự giúp đỡ, săn sóc và tình yêu thương của chúng con. Chúa đến trong anh em đang đau khổ tinh thần và thể xác, như người bị cướp đánh, bị đả thương bỏ bên lề đường Giêricô. Chúa đến trong những anh em đang tìm Chúa để gặp được Ngài, tôn thờ và yêu mến Chúa như chúng con. Những người anh em này cần đến chúng con, chúng con phải trở nên những người đem Tin mừng của Chúa đến cho họ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức để nhận ra ngày giờ Chúa đến dưới nhiều hình thức khác nhau, để đón tiếp Chúa với niềm hân hoan: “Phúc cho đầy tớ nào nếu chủ về mà còn đang tỉnh thức”.
55. Tỉnh thức và sẵn sàng.
TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG, MỘT THÁI ĐỘ SỐNG ĐẠO TỐT ĐẸP
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có nghĩ rằng sắp tận thế không? Bạn có biết rằng thời các tông đồ, ngay trước năm 1000 và 2000, rất nhiều Kitô hữu cũng đã nghĩ “tận thế đến nơi rồi” không? Nhưng cuối cùng thì… tận thế vẫn chưa đến!
2. Giả như tháng sau, tuần sau là tận thế, thì bây giờ bạn làm gì? Bạn chuẩn bị đón Chúa đến như thế nào? Chúa muốn bạn phải chuẩn bị thế nào?
3. Có cách sống đạo nào mang nhiều tính tỉnh thức và sẵn sàng không? Nếu lúc nào cũng tỉnh thức và sẵn sàng, thì có phải lo tận thế không?
Suy tư gợi ý:
1. Nhiều Kitô hữu nghĩ rằng ngày tận thế sắp đến
Hiện nay, rất nhiều Kitô hữu đang quan tâm đến ngày tận thế. Nhiều người đoán rằng ngày ấy gần đến rồi. Thực ra, ngay từ thời các tông đồ, rồi thời gian ngay trước năm 1000, rồi mới đây ngay trước năm 2000, và hiện nay khi thấy chiến tranh thế giới có nguy cơ xảy ra, các Kitô hữu nghĩ ngày tận thế sắp đến ngay tức thời. Vào những thời điểm kể trên, có rất nhiều dấu hiệu phù hợp với những lời tiên tri của Đức Giêsu về ngày tận thế: chiến tranh, thiên tai, động đất, lòng người nguội lạnh, sự ác lan tràn… Những thời điểm ấy, thời điểm nào các Kitô hữu cũng đều thấy rằng từ trước đến lúc ấy, chưa bao giờ những sự kiện được coi là điềm của tận thế lại dồn dập đến như những thời điểm ấy. Nhưng rồi những thời điểm ấy qua đi, và ngày tận thế vẫn chưa tới. Hiện nay, tâm lý người Kitô hữu vẫn y như vậy. Đó cũng là một điều tốt để cảnh tỉnh người Kitô hữu.
2. Coi chừng kẻo bị lường gạt
Đúng ra, khi nghĩ đến tận thế và chuẩn bị cho tận thế, người Kitô hữu phải tỉnh thức như Đức Giêsu khuyên nhủ, bằng cách sống tích cực tinh thần Tin Mừng của Ngài, cụ thể bằng sự yêu thương nhau. Nhưng trong thực tế, thay vì sống tinh thần tỉnh thức, họ bị lôi cuốn vào việc tìm những điềm thiêng dấu lạ, sưu tầm những lời khuyên nhủ mới nhất của đấng này đấng kia hiện ra… Lòng họ vì thế bị chao đảo, sợ hãi: thay vì cứ an tâm sống cho đúng tinh thần Tin Mừng, thì họ lại tìm cách đối phó với ngày ấy, hoặc tìm những phương cách dễ dàng do người này chỉ người kia bảo, những phương cách khôn ngoan kiểu thế gian… miễn sao được cứu rỗi vào ngày đó. Vì thế, họ dễ bị thần khí xấu lường gạt.
Theo tôi, ta nên nghe lời thánh Phaolô: “nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải… quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2Tx 2,2-3). Và cũng nên lưu ý lời thánh Gioan: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1Ga 4,1). Thần khí giả thời nay rất khôn khéo, không hề nói điều gì xấu hay sai trái, toàn nói những điều hay lẽ thật, nhưng lại chỉ nhấn mạnh đến những điều tương đối phụ thuộc hầu làm người ta quên đi điều cốt yếu của Tin Mừng. Hoặc cứ nhấn mạnh đến việc sử dụng những phương tiện để làm người ta quên đi mục đích: dùng phương tiện thật hay mà không xác định rõ ràng mục đích phải tới, thì mục đích ấy làm sao đạt được? Mục đích không đạt được thì phương tiện có ích lợi gì? Nhờ khôn khéo như thế, thần khí xấu ấy dối gạt được rất nhiều người (x. Mt 24,11), kể cả những người được chọn (x. Mt 24,24). Chỉ cần làm người ta lạc hướng Tin Mừng như thế là ma quỉ đã thành công lớn rồi! Chính Đức Giêsu cũng đã cảnh báo: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây", và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ” (Lc 21,8). Thần khí xấu có thể không xưng mình là Đức Giêsu, vì như thế sống sượng quá, không lừa gạt được ai, mà xưng mình là một nhân vật uy tín nào đó!
Vì thế, thay vì quan tâm sống cho đúng tinh thần của Đức Giêsu, thì nhiều Kitô hữu chuẩn bị đón Chúa đến bằng sự gia tăng đọc kinh cầu nguyện cho nhiều và cho sốt sắng hơn, tham dự các bí tích thường xuyên hơn, đồng thời hối thúc người khác cũng chuẩn bị giống như họ, v.v… Quả thật, tất cả những việc ấy đều rất tốt, rất đáng làm, nhưng lại không phải là việc chính yếu cần phải làm để chuẩn bị ngày Chúa đến. Nhiều người còn nghĩ tới chuyện phải đối phó làm sao với cảnh tối ba ngày ba đêm bằng cách mua thật nhiều đèn cầy rồi đem đến xin linh mục làm phép để đốt trong những ngày ấy! Chỉ cần làm cho người ta quá quan tâm đến việc đối phó với tận thế mà quên đi việc sống đạo hay những bổn phận trước mắt là ma quỉ đã thắng lợi rồi!
3. Hãy chuẩn bị đón Chúa đến một cách khôn ngoan, đúng ý Thiên Chúa muốn
Đúng ra, theo tinh thần bài Tin Mừng trên, thì việc cần làm nhất là tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là phải từng giây từng phút sống sao cho đúng thánh ý của Thiên Chúa, đúng tinh thần của Đức Giêsu. Cụ thể là:
– yêu mến Thiên Chúa bằng cách sống cho có tình có nghĩa với mọi người chung quanh, nhất là những người gần gũi mình nhất. Chính Đức Giêsu đã dùng tình yêu đối với loài người, được biểu lộ hùng hồn nhất qua cái chết của Ngài, để thờ phượng và thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
– nhận ra tha nhân là hình ảnh và là hiện thân của Thiên Chúa mà mình phải yêu thương. Làm sao ta dám cho rằng mình yêu mến Thiên Chúa vô hình khi mà những hình ảnh hay hiện thân hữu hình của Ngài thì mình lại chẳng yêu thương?
– thể hiện tình yêu thương ấy bằng hành động cụ thể là sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho họ. Tình yêu không được biểu lộ thành hành động cụ thể chỉ là thứ tình yêu giả dối, ngoài môi miệng.
Cách chuẩn bị cho ngày tận thế hay nhất vẫn là tỉnh thức theo kiểu thánh Louis Gonzaga, một vị thánh chết khi còn rất trẻ tuổi. Một hôm, vào giờ chơi, Louis đang chơi banh ngoài sân, cha linh hướng đến hỏi Louis: “Nếu một lát nữa Chúa gọi con về với Ngài, thì bây giờ con làm gì?” Câu trả lời của Louis làm cha linh hướng rất hài lòng: “Con sẽ tiếp tục chơi, vì bây giờ là giờ chơi, thánh ý của Thiên Chúa đối với con vào giờ này là muốn con chơi”. Điều đó cho thấy Louis lúc nào cũng cố gắng sống đúng thánh ý Chúa, đúng theo đòi hỏi của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, nên Louis có thể sẵn sàng về với Chúa bất kỳ lúc nào.
Nếu ta là Louis lúc đó, chắc hẳn ta sẽ trả lời: “Con sẽ đi gặp một linh mục để xưng tội, và vào nhà thờ cầu nguyện để chết trong khi cầu nguyện”. Trả lời như thế chứng tỏ ta không thường xuyên sống trong tình trạng tỉnh thức chuẩn bị Chúa đến, mà đợi “nước đến chân mới nhảy”. Như vậy, giả như Thiên Chúa gọi ta về với Ngài ngay lúc này, khiến ta không có một phút nào để kịp ăn năn hay xưng tội, thì số phận ta sẽ thế nào?
Nếu lúc nào ta cũng sống đúng theo thánh ý Thiên Chúa, sống đẹp lòng Thiên Chúa, thì dù Chúa sắp đến hay còn lâu mới đến, ta không có gì phải bận tâm. Đấy là cách chuẩn bị đón Chúa đến hay nhất, cách mà Đức Giêsu muốn ta thực hiện nhất. Nghĩa là lúc nào ta cũng sẵn sàng đến trình diện Chúa như Louis Gonzaga, nên luôn luôn làm mọi việc như bình thường, có vẻ như chẳng chuẩn bị gì cả, cho dù biết Chúa sẽ đến ngay ngày mai, hay chỉ trong chốc lát nữa! Đối với người luôn tỉnh thức và sẵn sàng, Chúa đến lúc nào cũng vậy thôi!
4. Sống giây phút hiện tại như giây phút cuối cùng đời mình
Một danh nhân nọ nói: “Ngày nào tôi cũng tự nhủ: "tôi sống như thể hôm nay là ngày đầu tiên và cũng là ngày cuối cùng cuộc đời tôi”. Đó cũng là một cách sống tỉnh thức và sẵn sàng, rất phù hợp với tinh thần bài Tin Mừng hôm nay. Sống như thế, cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên tràn đầy, ý vị, vì không bị những buồn phiền, rắc rối, hối tiếc về quá khứ và những nỗi lo lắng cho tương lai làm bận tâm, làm mất năng lực. Sáng dậy, nếu ta nghĩ như thể ngày hôm nay là ngày duy nhất của cuộc đời ta, coi như không có quá khứ, cũng không có tương lai, chỉ có hiện tại, thì ta dễ tập trung mọi năng lực để sống thật tốt, sống thật đẹp lòng Chúa, để làm cho ngày hôm nay thành một của lễ sống động, thật giá trị dâng lên Thiên Chúa. Cuộc đời ta cứ dệt bằng những ngày như vậy thì cần gì phải lo tận thế! Đừng quan tâm hay thắc mắc bao giờ sẽ tận thế, nhưng hãy sống mỗi ngày như thể cuối ngày đó là tận thế! Cứ sống thử như thế đi, bạn sẽ thấy cuộc đời bạn đổi mới từ đây, với nhiều sức mạnh và hạnh phúc hơn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin đừng để con vì những dư luận về tận thế mà xao lãng việc sống đúng ý Cha, sống yêu thương tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu cấp thiết của những người chung quanh con, chu toàn những bổn phận hằng ngày của con. Xin đừng để con bị lường gạt bởi những thần khí xấu hoặc những ngôn sứ giả, khiến con chú tâm vào những điều phụ thuộc cho dù rất tốt mà quên đi những điều chính yếu trong việc sống đạo. Xin cho con phân biệt rõ ràng đâu là phương tiện, đâu là mục đích, để con đừng lấy phương tiện làm mục đích. Vì một phương tiện rất tốt có thể trở thành một mục đích rất xấu khi nó làm con lạc hướng và quên đi mục đích mà đúng ra phương tiện ấy phải giúp con đạt tới.
56. Tôi vui mừng cùng hoan lạc – Huỳnh Văn Ngọc
Tôi vui mừng cùng hoan lạc khi người ta đến nói cùng tôi: “Nào ta lên đền thánh Chúa” (Đáp ca, Tv 122)
Trước năm 1975, tôi được thuyên chuyển vào làm việc tại Phan thiết. Cái cảm giác đầu tiên của tôi tại đây là mùi mắm. Mấy ngày đầu, mùi mắm làm tôi rất khó chịu, ngứa ngáy và buồn nôn. Nhưng dần dà sau vài ba tuần lễ, tôi không còn cảm thấy mùi mắm đâu cà. Thì ra mũi tôi đả quen với mùi mắm rồi.
Thành phố Pittsburgh, PA là thành phố luyện thép lớn nhất nước Mỹ. Lúc đầu khi các nhà máy mới hoạt động, những động cơ khổng lồ phát ra những âm thanh làm rêm tai nhức óc. Dân chúng địa phương ăn không được, ngũ không được, họ rất đồi khó chịu vì tiếng động. Nhưng vì sinh kế, người ta ùn ùn kéo đến lập nghiệp, dần dà họ quen với tiếng động và xem đó như là một loại âm nhạc kích động ru ngủ. Họ đã quen với tiếng động. Bỗng một hôm, đang đêm bị cúp điện, các nhà máy im bặt, mọi người đều thức giấc, hoảng hốt chạy tán loạn.
Xã hội càng văn minh, người ta càng xa dần Thiên Chúa, càng làm mất đi cái “Tính Bản Thiện” mà Thiên Chúa đã ban cho khi tạo dựng con người. Người ta đã mất đi cái cảm giác sợ tội.
Trước đây, trong xã hôi VN, “không chồng mà chửa thế gian chê cười”. Nhưng ngày nay, ‘single mother’ là chuyện thường. Hai người đàn ông lấy nhau, hai người đàn bà cưới nhau rồi đem nhau ra toà làm hôn thú, chúng ta cho là một việc hết sức quái gở, nhưng xã hội coi đó là chuyện thường. Đồng tính luyến ái, ‘gay marriage’, phá thai, thụ thai nhân tạo, ly dị, tự do luyến ái v. v. đã được luật pháp che chở. Giết người vô tội bằng cách ôm bom tự sát mà họ cho là tử đạo, là thánh chiến...
Nhân loại đang đi trong đêm tối. Nhân loại đang trong cơn ngủ mê. Thì đây, tiên tri Isaiah lớn tiếng kêu lên: “Hãy chổi dậy, hởi nhà Gia cóp”. Thánh Phao lồ càng kêu to hơn nữa: “Hãy thức dậy. Đêm đã sắp tàn, ngày đã gần đến. Hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô”. Tiên tri Isaiah còn chỉ cho chúng ta hướng nhìn về tương lai, một vương quốc hoà bình và yêu thương: Gươm giáo biến thành cuốc thành cày, dao mác biến thành liềm thành hái.
Đó là sứ điệp của Mùa vọng, sứ điệp đầu tiên của năm PV chu kỳ A năm 2005, mà giáo hội muốn kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức, chuẩn bị chờ ngày Chúa lại đến.
Người lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng. Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại và sự sống đời sau”. (Kinh Tin kính).
Thời ông Noe, trong khi mọi người đang lo dựng vợ gã chồng, đang lo ăn uống say sưa, bình chân như vại, xem như không có Thiên Chúa cũng chẳng có đời sau, thì ông Noe lo đóng tàu, mặc dù trời còn đang nắng hạn. Rồi lụt đại hồng thuỷ thình lình ập đến, nhân loại bị chết chìm, ông và gia đình ông đã được cứu thoát.
Đức Giêsu còn đưa ra hai ví dụ khác: Hai người đàn ông cùng cày ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay bột trong nhà. Họ cùng sống trong một hoàn cảnh, cùng làm chung một công việc, tại sao có người được cứu có người lại không? Thưa vì một người có chuẩn bị và một người không chuẫn bị. Một người có đức tin và một người không tin. Một người làm việc qua loa để lảnh tiền công, để ăn xài, chơi bời trác táng, người kia cũng lảm việc cũng lãnh lương nhưng lòng quy hướng về đời sau và về Thiên Chúa. Tiền của không làm hoa mắt họ. Mũi họ không bị ô nhiễm bởi mùi hôi tanh của tội lỗi, tiếng động cơ nhà máy không làm lấn át tiếng nói lưong tâm và sự bằng yên trong tâm hồn họ.
Đức Giêsu kết thúc lời cảnh cáo bằng dụ ngôn kẻ trộm vào nhà. Nếu bạn biết đêm nay có kẻ trộm muốn vào nhà lấy báu vật của bạn mà bạn lại không thức mà canh chừng sao? Báu vật ấy là gì? Là kho tàng giấu trong ruộng, là viên ngọc quý người thương gia tìm được (Mt 13: 44 - 46). Ấy chính là Đức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa đã trao ban cho loài người qua mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
Phụng vụ dùng những lời trên đây để khai mạc Mùa vọng, không chỉ nhằm việc đón mừng lễ Giáng sinh nhưng muốn khơi lại niềm tin về Ngày Chúa lại đến và cũng để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta chờ đợi và chuẩn bị.
Chúng ta cần làm sống lại Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể. Thái độ chờ đợi nầy đòi hỏi chúng ta phài có một tâm hồn trong trắng, cầu nguyện và đón nhận. Đó cũng là thái độ mà chúng ta phải có mỗi khi tham dự thánh lễ. Có Chúa ở trong tâm hồn qua bí tích Thánh thể giúp chúng ta có khả năng đón mừng lễ Giáng sinh và sẳn sàng để được Chúa “đem đi” khi Người lại đến.
Sẵn sàng, như 10 cô trinh nữ khôn ngoan, cầm đèn đi đón chàng rể. Tỉnh thức và sẳn sàng khi Người lại đến để đón ta về nhà Cha và miệng chúng ta sẽ không ngừng hát lên bài thánh vịnh: “Tôi vui mùng cùng hoan lạc khi người ta đến nói cùng tôi: “Nào ta lên đền thánh Chúa. Nào ta lên đền thánh Chúa”.
57. Mùa vọng: Người đến để con tim được vui trở lại
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
1. Bỏ quá khứ lại sau lưng để tiến về phía trước:
Ý nghĩa đầu tiên của Mùa Vọng gần như được diễn tả ngay trong tên gọi của tiếng la tinh: Adventus, Mùa “Đến, mùa Quang lâm”. Vâng, Mùa Vọng chính là thời điểm thích hợp để chúng ta sống tâm tình và thái độ đức tin đón chào cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, hay sống với nỗ lực dấn thân thực hiện cuộc canh tân và hoán cải tâm hồn theo những lời mời gọi của Phúc Âm.
Vâng, Lời Chúa chúng ta vừa nghe công bố gần như hết lòng hổ trợ ý tưởng nầy và lôi kéo chúng ta tập chú suy tư và cầu nguyện theo ý hướng đó:
Bài đọc 1 đã trình bày: giữa một hoàn cảnh éo le và đầy tăm tối thất vọng của kiếp sống nô lệ, mất nước, lưu đày, Sứ Ngôn I-sa-i-a loan báo cho dân Ít-ra-en một viễn tượng huy hoàng ở cuối chân trời lịch sử: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi…Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”.
Tin Vui đó, viễn tượng một thế giới hòa bình an lạc đó chắc chắn không phải là một thứ “tuyên truyền ngẫu hứng” của một tay “thần kinh bất ổn” mà là của chính Thiên Chúa mặc khải qua miệng của vị sứ ngôn được Ngài ra tay tuyển chọn. Và 600 năm sau lời tiên tri đó, Đấng là Em-ma-nu-en, là Hoàng tử Bình An, là Đấng Cứu thế, là Thiên Chúa Làm Người đã xuất hiện, Ngài đến để giải phóng toàn diện lịch sử con người, là qui tụ toàn nhân loại trong một Vương Quốc bao la vĩnh cửu.
Hôm nay, bước vào Mùa Vọng, khai mạc một Năm Phụng vụ mới, Lời Chúa cũng muốn nhắn gởi chúng ta qua chính lời tiên tri ấy. Cũng như dân Ít-ra-en đang sống trong nổi ê chề thất vọng của kiếp phận lưu đầy được nhà sứ ngôn loan tin giải thoát với niềm hy vọng một ngày mai tươi sáng đang đến gần, cộng đoàn chúng ta hôm nay đang được Lời Chúa mời gọi hãy vứt bỏ đi những nổi chán chường, thất vọng của một lối diễn tả đức tin mang đầy dấu vết của nô lệ, của lưu đầy, của sự lựa chọn biếng lười, ích kỷ và vô trách nhiệm. Hãy vứt bỏ đi lối sống buông trôi, lờ lững, không biết tới ngày mai, không dám đối diện với tương lai. Hãy vứt bỏ đi cuộc sống chỉ có biết bon chen, cặm cụi với cái lãi cái lời vật chất, cặm cụi đầu tư bất kể cho những thứ chóng qua mà chẳng tính gì đến chuyện vĩnh hằng tối hậu. Và cũng vứt bỏ đi cái lối sống đạo và hành xử đức tin vụ hình thức, giả tạo, biệt phái và kiêu căng.
Một cuộc vứt bỏ như thế để làm lại cuộc đời trong thánh thiện yêu thương phải chăng là tiêu đích của Hành trình Mùa Vọng, của đức tin Kitô, mà theo theo cách nói của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Rôma trong bài đọc 2 đó là một cuộc “bừng mắt dậy sau đêm dài của giấc ngủ tội lỗi đen tối”: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những hành vi đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu…”
2. Một cuộc hạnh ngộ để đổi đời.
Nếu “Thiên Chúa của chúng ta không bao giờ cũ", thì cuộc gặp gỡ Ngài, chọn lựa Ngài, đến với Ngài phải luôn là một cuộc “hạnh ngộ” đầy hoan vui và hy vọng, một cuộc hạnh ngộ để làm lại cuộc đời.
Trong trích đoạn Tin mừng hôm nay, Thánh Mát-thêu đã thuật lại một bài giáo lý của Đức Kitô mà nội dung cốt lỏi cũng chính là thể hiện niềm tin bằng lối sống luôn là “sắp sẳn, tỉnh táo như người đang đón đợi khách quí, như kẻ đang nai nịt hành trang lên đường hay như ngôi nhà đang thắp sáng với đầy đủ những con người đang tỉnh thức canh phòng đến độ không còn chỗ hở nào để kẻ trộm thâm nhập”. Đây không phải là chuyện dễ ợt, mà là một cuộc phấn đấu nhọc mệt, là cả một cuộc hành trình cam go và mạo hiểm, một cuộc sống khôn ngoan biết tiên liệu và tỉnh táo đối diện với những “bất trắc đột xuất”, như hình tượng Noe trong biến cố “Nạn Đại Hồng Thủy”, hay hình ảnh canh chừng kẻ trộm trong đêm khuya mà Đức Kitô đã diễn tả.
Câu chuyện vui sau đây là một minh họa cho ý nghĩa trên của Mùa Vọng:
Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hỏa hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. ("Mỗi ngày một tin vui")
Mùa Vọng khơi gợi lên một cuộc chiến đấu của đức tin, một hành trình sống đạo năng động, ra sức đẩy lùi mọi biểu hiện tiêu cực, tầm thường, máy móc, vụ lợi, vụ hình thức. Chính trong chiều kích tích cực đó mà chúng ý thức rằng:
- Mỗi một lời kinh tôi đọc hôm nay phải là một đối thoại tuyệt vời, thực sự với Thiên Chúa.
- Mỗi một Thánh lễ tôi dâng phải là một cử hành sống động lễ Vượt Qua của chính Chúa Kitô mà tôi được diễm phúc cọng tác và kết hợp với Ngài.
- Mỗi một khi bước tới tòa Giải tội là một lần hoán cải thực sự, một cuộc đổi đời.
- Mỗi một việc bác ái tôi làm, một công tác mục vụ tôi đảm trách, phải là một biểu lộ thực sự của tình yêu, một tình yêu vô vị lợi và quảng đại.
- Mỗi một việc làm cho nhau trong đời thường giữa vợ chồng, con cái, anh em, bạn hữu…không còn là chuyện đải bôi môi mép, lạm dụng và ích kỷ, nhưng tất cả phải là những nghĩa cử của tinh thần trách nhiệm, phục vụ và yêu thương.
Nếu mọi Kitô hữu đều xác tín và hành động như thế, thì Mùa Vọng trở về thật ý nghĩa và cần thiết biết bao! Khi ấy, Giáo Hội không còn là một tổ chức kềm kẹp sự tự do của tôi, Ngày Chúa Nhật không còn là một bận rộn ngán ngẩm, Tòa Giải tội không còn là một tòa án tàn nhẫn và đáng sợ, và ngay cả bệnh tật chết chóc cũng sẽ trở thành cơ hội để tôi tìm thấy giá trị và niềm vui, như lời chứng sống động của Elena Frings:
Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim. Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề (Christopher Notes).
Vâng, sống Mùa Vọng là sống như thế đó. Bởi chưng Mùa Vọng của Phụng vụ cũng chính là Mùa Vọng của cuộc đời. Đức tin không cho phép chúng ta đầu hàng hay tìm một lối mòn dễ dãi; cũng không có quyền nhắm mắt đưa chân mặc tới đâu thì tới, hay tìm lãng quên trong hưởng thụ, trong bon chen trong trác táng thả buông…Nhưng đức tin gọi mời chúng ta ngẫng cao đầu tiến về phía trước trong một con tim mới, cõi lòng mới như bài hát của nhạc sĩ Đức Huy: “và con tim đã vui trở lại”:
Và con tim đã vui trở lại, Tình yêu đến cho tôi ngày mai. Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời. Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi. Và con tim đã vui trở lại. Và niềm tin đã dâng về người. Trọn tâm hồn, Nguyện yêu mãi riêng người mà thôi...
Giờ đây, một cuộc gặp gỡ kỳ diệu đang và sắp xảy ra: Đức Kitô một lần nữa đang đến với chúng ta trong bàn tiệc Tạ ơn nầy: Đức Kitô hôm, qua hôm nay và tận cùng vẫn là Đức Kitô của một Mùa Xuân bất diệt, Đức Kitô mới mãi, trẻ mãi, sinh động và đầy ắp yêu thương. Ngài là Mục Tử nhân lành hôm nay trở về để đưa ta vào đồng xanh suối mát. Chúng ta vui mừng cử hành ngày “Tân Niên Phụng Vụ” trong tâm tình hân hoan, tin tưởng, trong thái độ khiêm tốn tạ ơn. Chúng ta hãy cùng nhau nắm tay mà bước đi trên hành trình Mùa Vọng để tiến vể Đại Lễ Giáng Sinh với tất cả niềm hăng say phấn khởi và nỗ lực đổi mới cuộc đời cho đẹp hơn, thánh hơn, hiệp nhất hơn, yêu thương hơn. Nói cách khác, đây là giờ phút không phải chúng ta hát mà là thực sự sống chính cái ý nghĩa của lời ca Nhập Lễ vừa vang lên lúc khởi đầu: “Con vươn linh hồn lên tới Chúa”. Amen.
58. Chờ đón Chúa đến thăm
Có một câu chuyện ngụ ngôn nhiều ý nghĩa, tôi muốn kể cũng anh chị em nhân dịp chuẩn bị đón Chúa đến. Chuyện kể rằng: Vào buổi chiều hôm ấy, bác thợ giầy thức giấc thật sớm. Bác quyết định chuẩn bị căn phòng làm việc của mình cho gọn ghẽ, để chờ đón một vị khách qúy là chính Chúa Giêsu, vì trong giấc mộng ban đêm, Ngài đã hiện ra báo cho bác biết, Ngài sẽ ghé thăm ngay hôm nay.
Bác thợ đánh giầy ngồi chờ, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Những tia nắng ban mai dọi qua khung cửa làm cho căn phòng ấm áp thêm. Chợt nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ, lòng bác thêm hồi hộp, sung sướng vì được Chúa ghé thăm. Nhưng khi cánh cửa mở ra, người khách đối diện lại là ông đưa thư quen thuộc, tay chân tím bầm, mặt mũi xám ngoách, vì trời cuối đông lạnh buốt. Không nỡ để ông run rẩy ra đi, bác mời ông vô nhà pha trà tiếp khách. Sau khi được sưởi ấm tấm thân, người đưa thư đứng dậy cám ơn rồi ra đi tiếp tục công việc.
Bác thợ giầy trở lại chỗ cũ chờ đón Chúa đến. Nhìn qua khung cửa hàng, bác thấy một em bé đang khóc xướt mướt trước cửa nhà. Bác ra mở cửa gọi nó lại, hỏi nguyên do, nó mếu máo cho biết là nó lạc mất mẹ và không biết đường về. Bác thợ giầy lấy giấy viết vài chữ nguệch ngoạc đặt trên bàn, báo cho người khách qúy biết mình phải đi ra ngoài lo tìm nhà cho em bé. Nhưng tìm đường dẫn em về nhà không phải là chuyện nhỏ. Mãi đến sẩm tối bác mới tìm được và khi trở về nhà thì phố đã lên đèn.
Vừa bước vào đã thấy có người ngồi đợi, nhưng đó không phải là Chúa Giêsu, mà là một người đàn bà tiều tụy, mệt lả vì có con ốm nặng cần giúp đỡ. Bác thợ giầy thấy thế liền vội vàng đến nhà giúp đỡ em bé, đến nửa đêm mới về. Bác lăn vô giường ngủ chẳng kịp thay quần áo.
Thế là một ngày qua đi mà Chúa cũng chưa đến thăm bác nữa. Nhưng trong giấc ngủ vùi vì mệt mã, bác nghe thấy tiếng Chúa nói: "Cám ơn con đã dọn trà cho Ta uống, đã dẫn Ta về nhà, đã săn sóc an ủi Ta đau yếu. Cám ơn con đã tiếp đón Ta hôm nay".
Ý nghĩa câu chuyện quá rõ ràng. Cuộc chờ đón Chúa không phải là một vinh quang trần thế, không phải trong vui vẻ hài hòa, mà Chúa đến trong mọi hoạt cảnh, từ sáng đến trưa, từ trưa tới khuya. Chúa đến qua hiện thân của mọi người ta gặp hàng ngày.
Điều quan trọng là ta có sẵn sàng, có niềm nở, có vui tươi chấp nhận họ với cả sự hy sinh chính mình không. Nén bạc tác động của tình thương, của tình yêu, của tình bác ái chân thành và đầy ý nghĩa muốn như bác thợ giầy mới là tác động đón Chúa cách tích cực. Việc làm ấy mới đem lại lợi lộc gấp trăm.
Hàng năm chúng ta vẫn thích đón mừng Chúa Giáng Sinh, và hàng năm Ngài vẫn gõ của từng quán trọ, từng cửa lòng mỗi người. Nhưng chúng ta tiếp đón Chúa thế nào? Có đến nỗi Chúa phải sinh ra trong hang lạnh giá lòng chúng ta không? Và nếu còn như thế, Ngài cũng sẽ tiếp tục nói mãi trong giấc mộng của chúng ta. Hãy mở rộng tâm hồn đón Ngài. Hãy sửa soạn tâm hồn, sửa sang con tim cho ngay chính. Ngài cần tách trà ấm tình cho người lạnh nhạt với chúng ta. Ngài cần cánh tay nâng đỡ những người nhờ vả chúng ta. Ngài cần sự cảm thông tha thứ cho người có lỗi với chúng ta. Ngài cần chúng ta cho đi những gì mình muốn giữ lại. Bao nhiêu nghĩa cử ấy là bấy nhiêu lễ Giáng Sinh đẹp trong đời. Xin hãy suy nghĩ và thực hiện trong những ngày chờ đón Chúa đến.
“Hãy leo lên núi Chúa, tới nhà Thiên Chúa Giacóp”
Vâng, Chúa Kitô thật sự là một Con Người Lịch Sử, là Đấng Thiên Sai, Đấng đến để “cứu dân mình khỏi tội”, đúng như ý nghĩa tên Giêsu của Người đã được thiên thần nói đến khi báo mộng cho Thánh Giuse trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 1 câu 21, cũng đúng như sứ mệnh của Người đã được tư tế Giacaria thân phụ của Gioan tiên báo trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 1 câu 77. Bởi thế Dân Do Thái của Người nói riêng, hơn ai hết, đã trông đợi Người tới, như được tỏ hiện rõ ràng hơn hết qua việc họ tuốn đến với Gioan Tẩy Giả để xin lãnh nhận phép rửa của thánh nhân, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu cho Chúa Nhật thứ hai và thứ ba Mùa Vọng thuật lại, vì họ tưởng Gioan này là Đấng Thiên Sai, như Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy ở đoạn 1 từ câu 19 đến 22. Tuy nhiên, cho tới nay, dân Do Thái vẫn trông đợi Đấng Thiên Sai của họ, vẫn sống trong một thời điểm như thời điểm Mùa Vọng Kitô hữu chúng ta hôm nay bước vào đây. Dân Do Thái sở dĩ tiếp tục mông đợi Đấng Thiên Sai của mình vì Con Người Lịch Sử Giêsu cách đây hơn 2000 năm không phải là Đấng Thiên Sai họ đợi trông. Đúng thế, theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, Con Người Lịch Sử Giêsu là Đấng Thiên Sai này không phải chỉ đến để “cứu dân mình khỏi tội”, mà còn cứu cả loài người khỏi tội lỗi và sự chết nữa, vì Người là Đấng Cứu Thế, chứ không phải chỉ là Đấng Cứu Tinh Dân Tộc Do Thái như một vị anh hùng thời thế vẫn xuất hiện trong giòng lịch sử của họ thôi. Đó là lý do vừa mở màn cho phụng niên để cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hình ảnh nhân loại nói chung đã được Phụng Vụ Lời Chúa nhắc đến rồi, như bài đọc một của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng cho thấy: “Tất cả các dân nước sẽ tuốn về núi của nhà Chúa; nhiều người sẽ tới mà nói: ‘Hãy đến, nào chúng ta hãy leo lên núi Chúa, tới nhà Thiên Chúa Giacóp”, và bài đọc một của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng cũng cho thấy: “Vào ngày ấy, gốc Jesse mọc lên như một dấu hiệu cho các dân nước thấy, Các Dân Ngoại sẽ tìm kiếm, vì nơi Người cư ngụ sẽ được vinh quang”. Chính Con Người Lịch Sử Giêsu này là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” đã làm sáng tỏ ý nghĩa của bốn tuần lễ Mùa Vọng, một thời đoạn tượng trưng cho 4 ngàn năm toàn thể nhân loại trông đợi Đấng Thiên Sai, Đấng ngay từ đầu lịch sử thế giới đã được Thiên Chúa Hóa Công hứa ban, như Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 3 câu 15 về giòng dõi người nữ đạp đầu rắn quỉ.
Tuy nhiên, nếu thực sự Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần đã đến rồi, cách đây hơn 2000 năm, thì Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng còn cần gì phải cử hành Mùa Vọng để chờ đón Người đến thế gian lần thứ nhất này nữa mà làm gì, còn cần gì phải như Dân Do Thái cho tới bay giờ vẫn đợi trông Đấng Thiên Sai của họ, vì nhân vật Giêsu Nazarét ở giữa họ cách đây hơn 2000 năm, một nhân vật đã hoàn toàn bị họ căm hờn phủ nhận, đến nỗi, họ thà nhận giặc làm vua còn hơn nhìn nhận nhân vật lộng ngôn phạm thượng này (xem Mt 26,65; Jn 19,7), như họ đã tuyên bố thẳng thắn với tổng trấn Philatô: “Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cêsa” (Jn 19,15)? Thật vậy, theo lịch trình phụng niên, Mầu Nhiệm Chúa Kitô Giáng Sinh và Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phán Xét hoàn toàn khác nhau, ở chỗ, một mầu nhiệm mở màn cho phụng niên và một mầu nhiệm kết thúc phụng niên. Thế nhưng, theo bản chất và ý nghĩa của mình, nếu phụng vụ là việc long trọng cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử hành những gì do Vị Thiên Chúa Làm Người đã thực hiện trong lịch sử loài người, như nhập thể, tử giá và phục sinh, những Biến Cố Thần Linh không thể qua đi như mọi biến cố lịch sử trần gian khác, trái lại, chúng sẽ muôn đời tồn tại như chính vị Tác Giả Thần Linh của chúng, với Tác Hiệu Thần Linh phát sinh từ những Biến Cố Thiên Chúa thực hiện này, thì qua việc cử hành phụng vụ, Chúa Kitô quả thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu nhiệm.
Bởi thế, bởi “Chúa Kitô quả thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu nhiệm”, mà khi cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô trong Mùa Vọng là thời đoạn trông đợi Người đến lần thứ nhất, Giáo Hội chẳng những muốn hướng con cái mình về biến cố Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn muốn con cái mình, nhờ Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể, thực sự cảm nghiệm được việc Chúa Kitô đang hiện diện trong Giáo Hội cho tới tận thế, cho tới khi Người đến lần thứ hai. Như vậy, Kitô hữu chúng ta chỉ thực sự Sống Phụng Vụ nói chung và Sống Mùa Vọng nói riêng, khi chúng ta có được Cảm Nghiệm Thần Linh này, một cảm nghiệm về “Ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới chấp nhận đức tin”, như Thánh Phaolô nhắc nhở một cách sâu xa trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở bài đọc thứ hai hôm nay. Đó là lý do, trong cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, Giáo Hội bao giờ cũng chọn bài Phúc Âm về lời Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ của Người, (chứ không phải cảnh giác chung dân Do Thái hay cảnh giác riêng nhóm Pharisiêu hoặc cảnh giác thành phần thượng tế và kỳ lão lãnh đạo trong dân), về việc “hãy tỉnh thức” chờ Chúa đến. Bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu Năm A hôm nay đã chứng thực điều này như sau: “Vậy các con hãy tỉnh thức! Các con không biết được ngày nào Chúa của các con đến”.
Đúng vậy, cho dù Chúa Kitô Cứu Thế đã đến với chung loài người và đang ở cùng Giáo Hội của Người cho tới tận thế, tức cho tới khi Người đến lần thứ hai, thế nhưng, nếu xét về con số, thì 4/5 nhân loại, tức đa số loài người vẫn chưa nhận biết Người, trong khi đó, chính thành phần mang danh Kitô hữu, thành phần 1/5 dân số nhân loại hiện nay đã chính thức chấp nhận Người qua Bí Tích Rửa Tội, cũng đã quay ra chối bỏ Người, một thái độ được bộc lộ tỏ tường nơi thế giới Kitô Giáo Âu Mỹ qua hiện tượng phá sản đức tin bằng văn hóa sự chết hiện nay. Như thế, đối với hầu hết nhân loại, kể cả thành phần ngoài lẫn trong Kitô Giáo, Chúa Kitô Cứu Thế đã trở thành vô nghĩa, không có giá trị gì cả, kể như không có, hay có chăng nữa, cùng lắm cũng chỉ là một nhân vật lịch sử thuần túy vậy thôi, giống hệt như các vị sáng lập những đạo giáo khác vậy. Chính vì để tránh khỏi tình trạng như Tiền Hô Gioan đã cảnh giác dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”, một tình trạng chẳng những xẩy ra cho Kitô hữu thời chúng ta, thời 2001 năm sau Chúa Kitô Giáng Sinh, mà còn xẩy ra ngay cho cả Kitô hữu ở vào thời Giáo Hội sơ khai, thời Chúa Kitô vừa mới về trời, Thánh Phaolô đã kêu gọi Giáo Đoàn Rôma rằng: “Anh em biết thời gian chúng ta đang sống đây. Đó là thời giờ anh em phải tỉnh giấc… Đêm qua rồi; ngày gần đến. Chúng ta hãy loại trừ những việc làm tối tăm và hãy mặc lấy khí giới ánh sáng”.
Vâng, đúng thế, chính “những việc làm tối tăm” của Kitô hữu đã khiến cho họ, dù ở bất cứ thời nào, không còn thấy được hay thấy rõ Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) nữa, đúng như Người đã cho Nicôđêmô biết ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 19: “Aùnh sáng đã đến trong thế gian, song con người đã chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều là những việc gian ác”. Mà “những việc làm tối tăm” đây là gì, nếu không phải là những việc liên quan đến đam mê nhục dục, như Chúa Giêsu đã đề cập đến trong Phúc Âm hôm nay khi Người nhắc lại “thời Noe… người ta ăn uống, cưới vợ gả chồng… hoàn toàn không còn để ý gì nữa cho đến khi lụt xẩy đến mà hủy diệt họ”. Trong bài đọc hai hôm nay, Thánh Phaolô cũng khuyên Giáo Đoàn Rôma “anh em hãy loại trừ những việc làm tối tăm” là những việc liên quan đến đam mê nhục dục như sau: “Chúng ta hãy sống một cách đoan chính như giữa ban ngày; đừng chè chén say sưa, đừng dâm ô lăng loàn, đừng cãi lẫy hờn ghen. Trái lại, anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo những ước muốn xác thịt”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Để có được Cảm Nghiệm Thần Linh về thực tại Chúa Kitô là Lời đã nhập thể 2001 năm trước đây, cũng như về thực tại Người còn đang mầu nhiệm ở với Giáo Hội của Người cho đến tận thế, trước hết, chúng ta cần phải “tỉnh thức”, bằng cách “loại trừ những việc làm tối tăm”, như ý hướng của Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng như của chính Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay huấn dụ. Phải chăng chính lúc chúng ta “loại trừ những việc làm tối tăm” là lúc chúng ta đang “leo lên núi Chúa”, đang lên cao hơn, đang từ từ được tự do thanh thoát hơn, “cho tới khiù được mặc lấy quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49), một tầm mức và trạng thái đã được tiên tri Isaia bóng bẩy diễn tả như một “đỉnh núi cao nhất” trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Trong những ngày tới đây, ngọn núi của nhà Chúa sẽ được thiết lập như một đỉnh núi cao nhất, vượt trên các ngọn đồi… Chúng ta hãy leo lên núi Chúa, đến nhà Thiên Chúa của Giacóp”? Phải chăng chỉ khi nào chúng ta leo lên tới ngọn của “đỉnh núi cao nhất” này, tức lúc chúng ta được tràn đầy “quyền lực từ trên cao”, chúng ta mới đến được “nhà Thiên Chúa của Giacóp”, tức mới gặp được “Con Người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5), Đấng “đã đến trong xác thịt” (1Jn 4:2), Đấng chính là “Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23)?
59. Dọn lòng đón Chúa – Lm Minh Vận
Mùa Vọng là mùa khơi dậy cho con cái Chúa một niềm vui đầy hy vọng và trông đợi Chúa đến. Sự trông đợi Chúa đây, không phải như các tổ phụ, các tiên tri và dân Do Thái xưa mong đợi Chúa Cứu Thế đến trần gian, vì Chúa Cứu Thế đã đến, Người sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Belem đã 2000 năm rồi.
Nhưng trong Mùa Vọng, Giáo Hội muốn nhắc nhớ và khuyên nhủ con cái, dọn tâm hồn trong sạch để xứng đáng đón rước Chúa đến với mỗi tâm hồn chúng ta, bằng ơn thánh, bằng tình yêu thương và an bình của Chúa. Đó là món quà đặc biệt nhất Chúa muốn ban tặng cho các con cái ngoan thảo của Chúa trong dịp mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh sắp tới.
Vậy chúng ta cần phải chuẩn bị thế nào để tâm hồn chúng ta được xứng đáng đón tiếp Chúa đến với chúng ta?
I. HÃY TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi đề cập đến lụt đại hồng thủy thời ông Noe, đang lúc người ta chỉ mải mê ăn chơi xa xỉ, thì bất ngờ đại hồng thủy đến, cuốn đi tất cả; Chúa đã khéo lợi dụng câu truyện này để khuyên nhủ chúng ta: "Vậy các con hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Chúa các con sẽ đến"(Mt 24:44).
Cô Thanh là một cô gái rất ngoan đạo, được sinh ra và lớn lên trong một gia đình gia giáo, được truyền thụ một nền giáo dục đạo hạnh. Lúc nào cô cũng khát khao được gặp Chúa và siêng năng lợi dụng thánh hóa các công việc hằng ngày, nhất là công việc cô đang đảm trách là đứng bán hàng trong một cửa tiệm tạp hóa do cha mẹ cô trao phó. Một đêm kia, đang nằm ngủ, cô được mộng báo là hôm sau cô được Chúa Kitô tới thăm nơi cửa tiệm. Giấc chiêm bao sống động và vui sướng đến nỗi, cô Thanh tưởng rằng câu truyện đó là một thực tại sẽ xảy ra. Thế là ngay sáng hôm sau, khi vừa tới cửa tiệm, cô lo quét dọn, sắp đặt và trang hoàng lịch sự để đón tiếp Chúa tới thăm. Cô Thanh cuống lên giục người phụ tá phất trần, lau bụi, chưng hoa và cho biết hôm nay sẽ đón tiếp một vị Thượng Khách. Cô phụ tá tên là Huyền Vi rất vui vẻ và hăng say trong việc chuẩn bị, để đón tiếp vị Thượng Khách. Huyền Vi chỉ xin một ơn huệ là nhờ cô Thanh lái xe đưa về nhà lo thuốc thang cho bố, rồi sẽ trở lại cửa tiệm ngay chỉ trong vòng 30 phút thôi.
Cô Thanh chia buồn vì bố Huyền Vi bệnh, rất muốn giúp nhưng không thể làm được hôm nay, vì công chuyện quá khẩn cấp trong việc chuẩn bị. Lại nữa, lỡ ra lúc vắng mặt 30 phút vị Thượng Khách tới thì sao. Thế là cả hai đều chăm chú vào việc dọn dẹp chuẩn bị.
Mỗi lần cánh cửa tiệm mở, nghe thấy chuông báo hiệu có người vào là cô Thanh phóng ngay cặp mắt về hướng đó... Nhưng vô hiệu, vì không thấy bóng vị Thượng Khách, ngoại trừ những khách hàng quen thuộc thường lệ, đến trao đổi lời chào thăm và mua bán.
Vào quãng giữa trưa, một người hành khất từ ngoài đường bước vào, thân mình gầy còm hốc hác nấp dưới tấm áo rách tả tơi bẩn thỉu, đầu tóc rối bù tanh hôi. Người xấu số ngửa tay van lơn: "Nhờ ông đi qua, nhờ bà đi lại cho tôi chút cháo đổ vào bụng, đã mấy ngày không cơm..." Cô Thanh cầm mấy đồng cắc dí vào tay ông rồi vội vàng dẫn ra cửa, dường như không muốn kẻ hôi tanh nán lại, lỡ ra vị Thượng Khách bất ngờ tới thăm.
Chiều hôm đó cũng qua đi như mọi ngày. Cửa tiệm vẫn thế, kẻ ra người vào, kẻ đến người đi... trong số đó có một bà quả phụ tìm đến cửa hàng mong được sự giúp đỡ, vì con bà phạm pháp bị bắt giam. Bà ta bối rối lo sợ, chẳng biết kêu với ai. Nghe truyện thương tâm, cô Thanh rất cảm động hết lòng muốn giúp đỡ, nhưng chẳng dám rời cửa tiệm phút nào, vì sợ Chúa đến mà không được gặp.
Đã đến giờ đóng cửa, cô phụ tá ra về, khách hàng hết vãng lai. Đường phố đã chìm ngập trong cảnh hoàng hôn hiu quạnh, nhưng Chúa Giêsu vẫn chưa thấy đến thăm. Ngã lòng vì chờ đợi mỏi mệt, cô Thanh thất vọng ra về nghĩ bụng: "Thật điên rồ chạy theo giấc chiêm bao!"
II. CHÚA ẨN THÂN NƠI KẺ RỐT HẾT
Về tới nhà, sau khi nghỉ ngơi, ăn uống, thu dọn nhà cửa; tới giờ đọc kinh tối như thường lệ và suy niệm Lời Chúa. Tình cờ, cô Thanh mở sách Tin Mừng theo Thánh Matheu đoạn 25, cô đọc thấy những dòng sau đây: "Bấy giờ Vua phán với những kẻ đứng bên phải: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh cơ nghiệp Nước Trời, đã dọn sẵn cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát các ngươi đã cho Ta uống, Ta đau yếu các ngươi đã an ủi, Ta ở tù các ngươi đã thăm viếng". Bấy giờ các kẻ lành thưa lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà nuôi dưỡng, khát mà cho uống, mình trần mà đã cho mặc? Có bao giờ thấy Chúa đau yếu hay ở tù mà chúng con đã đến thăm viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Những gì các ngươi đã làm cho anh chị em hèn mọn nhất của Ta là làm cho chính Ta"(Mt 25:34-40). Cô Thanh hồi tưởng lại những gì xảy ra trong ngày và nghĩ rằng giấc chiêm bao đã thành sự thật... Chúa Giêsu đã đến thăm cửa tiệm hôm ấy mà cô đã không ngờ. Chúa đã đến và Chúa lại đến hằng ngày, qua mỗi người anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa, nồng hậu tiếp đón Chúa, Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta qua mỗi người anh chị em, cho dù là những người hèn mọn nhất trên trần gian.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy lợi dụng Mùa Vọng như một thời cơ thuận tiện, để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Chúa ngự đến với mỗi người chúng ta; bằng cách thực thi Đức Bác Ái, biết nhận ra Chúa, đón tiếp Chúa nơi tha nhân, chia sẻ cơm bánh với những người đói khát, biết cảm thương an ủi những người sầu khổ, nâng đỡ những người yếu đuối, khích lệ những người thất vọng ngã lòng. Hơn nữa, Chúa còn muốn chúng ta hướng tâm hồn lên cao hơn, biết yêu thương cả những kẻ thù nghịch, làm ơn lành cho những kẻ ghen ghét mình, lại cầu nguyện cho những kẻ vu oan cáo vạ, bắt bớ, bách hại chúng ta nữa.
Chu toàn được những điều Chúa muốn trên đây, là chúng ta đã biết chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón tiếp Chúa đến với chúng ta, bất cứ giờ phút nào. Chúa sẽ sung sướng ngự vào tâm hồn chúng ta như Chúa của sự bình an và nguồn hạnh phúc; ban cho chúng ta được tràn ngập niềm vui sướng Thiên Đàng ngay khi còn ở trần gian này.
60. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TỈNH THỨC ĐỂ KHỎI BỊ BẮT CHỢT
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Phần đầu của diễn từ này đã kể ra những dấu hiệu rõ ràng báo trước cuộc Quang lâm. Còn đoạn văn chúng ta đây, khởi đầu phần hai, nhấn mạnh điều gì? Có mâu thuẫn giữa hai phần không?
2. Mt là người duy nhất trong bốn tác giả Tin Mừng dùng chữ "Quang lâm" (Parousia) (24,3.27.37.39). Chữ này có nghĩa nào trong thế giới La-Hy?
3. Phải chăng các câu 40-41 nhằm trình bày cuộc Phán xét tận cùng như một thứ định mệnh mù quáng và ngẫu nhiên? Đâu là điểm chung giữa nhung hình ảnh rút ra từ cuộc sống hằng ngày?
4. Các câu 42- 44 có cho biết sự tỉnh thức hệ tại điều gì không? Các dụ ngôn tiếp theo đó (24, 45- 51; 25, 1- 13; 25, 14- 30) có lấy lại và soi sáng chủ đề tỉnh thức này không?
5. Trong dụ ngôn ở câu 43- 44, việc Con Người được so sánh với một tên trộm có đáng ngạc nhiên không? Phải chăng đấy là trọng tâm của dụ ngôn? Giáo Hội sơ khai đã mặc cho dụ ngôn này ý nghĩa nào?
***
1. Trong phần đầu của diễn từ Cánh chung (cc.1- 36), Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: Con Người chắc chắn sẽ đến và đến một cách rõ ràng. Mặc dù có những hạng thiên sai và ngôn sứ giả (cc.24- 26) mà các tín hữu phải đề phòng, người ta vẫn không thể lầm lẫn được. "Vì như sấm chớp lòe bên đông rạng bên tây thế nào, thì cuộc Quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy" (c.27). Dụ ngôn cây vả nằm trong chiều hướng, ý nghĩa đó (cc.32-34): đừng hoang mang trước làm gì vô ích, sẽ có những dấu hiệu chắc chắn báo động cho các ngươi.
Với các câu 37-41, ta đi sang một ý tưởng khác, không phải là hệ luận của ý tưởng trước đó. Nếu Con Người sẽ phải đến cách rõ ràng, ai nấy đều nhận ra được, thì Người cũng đến một cách đột ngột bất ngờ. Việc đối chiếu với câu chuyện lụt đại hồng thủy thời Noe nhấn mạnh tới nguy cơ của tình thế ấy.
Để nói về việc Con Người trở lại, thánh Matthêô, duy nhất trong bốn tác giả, đã dùng từ ngữ "Quang lâm" (Parousia) (24,3.27.37.39). Nguyên khởi, chữ này có nghĩa là "đến, hiện diện". Trong thế giới La-Hy (Hy lạp-la mã), người ta dùng nó để chỉ việc hoàng đế long trọng ngự đến hay chính thức thăm viếng một thành nào. Trong Kitô giáo sơ khai, từ ngữ sớm được sử dụng để nói về cuộc trở lại vinh quang của Chúa Kitô vào ngày cánh chung (x. 1Tx 2, 19; 4, 15; 2 Tx 2, 1. 8. 9; 1 Cr 15, 23). Trong ngày ấy, phải tỏ ra không gì đáng trách (1 Tx 3, 16; 5, 23), vì như bản văn cho thấy, phán xét đi liền với Quang lâm.
Chúa Giêsu, khi kể các dụ ngôn, thường ưa dùng những ám dụ lấy từ Cựu ước, dễ hiểu đối với thính giả cây nho: hình ảnh Israel; người cha, vị quan tòa, ông chủ đất, người chủ hộ: hình ảnh Thiên Chúa, mùa gặt: hình ảnh cuộc Thẩm xét v.v...). ở đây Người tạo ra một ám dụ mới: cuộc Quang lâm của Con Người vào lúc tận cùng giống như một trận đại hồng thủy thứ hai. Hình ảnh được chọn cho thấy khá rõ ý tưởng diễn tả: cánh chung sẽ là một tai ương thình lình đổ xuống đầu mọi người. Thay vì mâu thuẫn với ý tưởng trước nói về biến cố được nhiều dấu hiệu tiên báo, các câu 37-41 trình bày một viễn tượng khác: thái độ của con người. Thiên hạ thời Noe không ngờ được chuyện gì cả và vẫn cứ ăn uống, cưới vợ lấy chồng. Sự vô tri này thật là nguy hiểm: họ đã chết vì đã không nhận ra dấu hiệu nào. Ngày tận cùng cũng vậy. Tai ương treo trên đầu mọi người và sẽ rơi lúc nào không hay. Trong ngày đó, toan tính gì thì đã quá muộn: phải mở mắt ngay từ lúc này đây!
2. Cuộc Phán xét chẳng những bất ngờ mà còn tức khắc. Người ta sẽ không còn giờ, còn cách nào chuẩn bị. Và khi mà thiên hạ tưởng là chẳng có gì khác biệt, thì lúc ấy lại có một cuộc lựa lọc: lúc ấy ta sẽ biết ai là trinh nữ khôn ngoan và dại khờ, ai là tôi tớ tín thành và bất trung (25, 1 -30). Để diễn tả ý tưởng đó, bản văn dùng những hình ảnh lấy trong đời sống thường ngày: hai người làm ngoài đồng, hai bà đang xay bột.
Chắc hẳn đây là một nhóm thí dụ làm thành một ngạn ngữ bình dân mà Chúa Giêsu trích ra cho môn đồ. Thật thế, một bản văn Do thái còn giữ lại bằng tiếng copte, Khải huyền của Xôphônia (1, 8- 16) có kể ra 3 thị kiến mà chẳng giải thích, như thể độc giả đã quá quen thuộc cảnh tượng; ba thị kiến này tương ứng lạ lùng với Mt và Lc: "Lúc bấy giờ tôi thấy hai người đang sóng bước trên cùng một lộ trình: tôi nhìn họ nói chuyện với nhau. Và tôi cũng thấy hai người đàn bà đang xay bột và tôi nhìn họ trong lúc họ cùng nhau trò chuyện. Và tôi cũng thấy hai người trên giường trong lúc họ đang nằm nghỉ " (x. P.Lacan, Joumal Asiatique, 1966, tr. 169- 177). Ba lần lặp đi lặp lại này, thường thấy trong văn chương hy bá, cho ta liên tưởng tới một châm ngôn thông dụng mà các Tin Mừng cũng như cuốn sách Khải huyền Do thái nói đây đều tham chiếu.
Dầu sao, những thí dụ bình dân kia thật rõ ràng. Kẻ này người nọ đều lao động, đều cùng làm một công việc (hoặc cùng nghỉ ngơi, theo Luca), chẳng có gì khác nhau. Về phương diện này, cảnh hai người đàn bà đang xay bột thật đặc biệt sống động. Cối họ dùng là một thứ cối xay bằng tay nhỏ như ta còn thấy ngày nay bên Đông phương. Nó gồm hai khói đá tròn lắp chồng lên nhau; khối dưới nằm yên, và có một trục đứng; khối trên xoay động và có lỗ trũng ở giữa. Để xay, hai bà ngồi hai bên cối, cùng nắm một cái cán thẳng đứng và xoay tròn khối đá bên trên. Họ phải hòa hợp động tác với nhau và làm theo một nhịp điệu. Luca có nhấn mạnh đến tính cách tập thể của công việc này: "Hai bà cùng nhau xay bột". Nhìn họ làm việc ta chẳng thấy có gì khác giữa hai người. Thế nhưng, "một sẽ được đem đi, và một sẽ bị để lại ".
Vì vào giờ ấy sẽ có sự phân biệt rẽ đôi giữa loài người bề ngoài xem ra giống nhau. Chỉ lúc đó mới thật sự xuất hiện sự xung khắc ghê gớm giữa họ: người này được cứu, người kia hư mất. Và dù không ai biết, người này đã ở trong ánh sáng và kẻ kia đã ngập trong tăm tối rồi. Đến lúc ấy mới chuẩn bị, mới ăn năn, mới xin can thiệp thì đã quá muộn.
3. Đứng trước giây phút chung cục cấp bách và thình lình như nước lụt đó, người tín hữu phải luôn tỉnh thức. Các câu 42 và 44 không cho ta biết phải tỉnh thức như thế nào mà chỉ nói: môn đồ Chúa hãy san sàng luôn vì đã được báo động. "Hãy tỉnh thức": mệnh lệnh đó kết thúc đoạn so sánh với lụt đại hồng thủy (c.42) và mở đầu một khai triển mới. Thật vậy, chủ đề tỉnh thức được lấy lại và minh giải qua những dụ ngôn cho thấy các hậu kết thực tiễn của việc chờ mong Chúa Kitô trở lại. Tỉnh thức chẳng phải là một thái độ nội tâm mơ hồ hay một nhân đức tiêu cực, cũng không có vẻ gì là một sự chờ đợi nôn nóng hay rối loạn cả. Đó là lòng trung thành với nhiệm vụ đã được giao phó (dụ ngôn người quản gia), là việc chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại (dụ ngôn mười trinh nữ), là yêu sách chu toàn trách nhiệm của mình (dụ ngôn các nén bạc), là bổn phận giúp đỡ các anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô.
4. Ý nghĩa dụ ngôn tên trộm (c.43) tự nó không khó hiểu. Cái tế nhị và khó khăn là vấn đề áp dụng dụ ngôn đó lúc ban đầu ở Đông phương, nơi trộm cắp hoành hành ban đêm, người ta thường rất sợ những cuộc thăm viếng như vậy lắm. Lề luật đã tiên liệu trường hợp gia chủ giết tên trộm nếu bắt gặp hắn đang đêm (Xh 22,2). Do đó, thay vì truy tầm nguồn gốc chủ đề tên trộm này trong những ám chỉ xa xôi, mơ hồ của Cựu ước (Gr 49, 4; G 24, 14), có lẽ nên nghĩ đến một vụ trộm vừa mới xảy ra tại địa phương - như động từ ở thì quá khứ muốn bảo (tất ông đã tỉnh thức và đã không để nhà bị đào ngạch). Chúa Giêsu dùng sự kiện đó để một lần nữa báo động cho các thính giả biết cơn khủng hoảng gần kề: hãy đề phòng để khỏi bị bắt chợt như gia chủ kia. Ông ấy đã không thể đoán trước; nhưng các ngươi, các ngươi chẳng được quyền nói: "Nếu tôi đã hay mọi chuyện". Vì đù không rõ ngày giờ, các ngươi vẫn biết tai biến sẽ tới bởi Ta đã báo cho hay. Như vậy ý nghĩa nguyên thủy của dụ ngôn này chắc hẳn trùng với ý nghĩa của dụ ngôn Noe.
Sự kiện trên giải thích một điểm có lẽ đã làm ta bỡ ngỡ là lối so sánh cuộc viếng thăm của tên đạo chích với cuộc trở lại của Con Người. Trọng tâm dụ ngôn không nằm trên lối so sánh đó, nhưng trên tính cách bất ngờ của biến cố. Một chuyện xảy ra không ai lường trước được. Vì vậy phải chờ đợi, cho dù chẳng biết thời cơ. Đàng khác, cần lưu ý rằng, đối với Kitô hữu, ngày trở lại của Chủ là một ngày vui chứ chẳng phải là một ngày tai biến.
Hình như ở đây truyền thống sơ khai đã mặc cho dụ ngôn này ý nghĩa ám dụ (và Kitô học). Ta thấy có dấu vết của việc chuyển từ dụ ngôn sang ám dụ khi so sánh Mc 13, 35:,"Các ngươi không biết lúc nào chủ nhà trở về " với Mt 24,42: "Các ngươi không biết ngày nào Chủ các ngươi đến." Ở đây cộng đoàn Kitô hữu đã áp dụng cho mình một dụ ngôn có ý nghĩa tổng quát hơn nhiều. Trong tình thế họ đang sống, trước sự trì hoãn của ngày Quang lâm, cộng đoàn đã hơi xê dịch trọng tâm dụ ngôn khi lấy tên trộm làm hình ảnh Con Người. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh sự đột ngột của ngày Chung thẩm. Còn Kitô hữu sơ khai lại nghĩ tới Đấng sẽ đến phán xét vào ngày cánh chung. Chủ sẽ đến, đó là điều họ đoan chắc, nhưng Người sẽ đến thình lình. Thành ra phải không ngừng thức tỉnh.
Ta biết hình ảnh tên trộm ấy được Tân ước nhắc lại nhiều lần. Chắc chắn nó phát xuất từ dụ ngôn này, bởi vì các bản văn Do thái giáo nói về ngày cánh chung không hề dùng đến nó. Thế mà trong 1 Tx 5, 2- 4 cũng như 2 Pr 3, 10, chính Ngày của Chúa theo nghĩa Cựu ước (x.Am 5,18), tức là ngày sau cùng, (được so sánh với một tên trộm Ngày ấy bắt chợt mọi người, tín hữu cũng như lương dân; chỉ có những ai săn sàng mới không bị chộp thình lình. Như vậy, dụ ngôn đã được hiểu theo ý nghĩa Chúa Giêsu muốn. Tuy nhiên, trong Khải huyền (3, 3; 16, 15), Chúa Kitô đến như một kẻ trộm, và Người chỉ báo động cho Kitô hữu thôi. Chúng ta gặp lại ở đó ý nghĩa mà Giáo Hội sơ khai đã tìm thấy trong dụ ngôn.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Thiên hạ cứ ăn uống": Lụt đại hồng thủy xảy đến vì nhân loại đã hoàn toàn sa đọa. Nhưng ở đây Mt không chủ ý nhắc đến sự đồi trụy có tính cách truyền kỳ của thời Noe; ông chỉ muốn nói đến đời sống bình thường của con người. Điều bản văn muốn nhấn mạnh là: một đời sống hoàn toàn tự nhiên như thế, không trái gì với luật Thiên Chúa, chẳng đồi trụy chút nào, vẫn không hề làm cho người ta tưởng nhớ đến ngày phán xét. Vậy mà, chính trong những điều kiện như thế, cuộc chung thẩm sẽ bất ngờ xảy ra.
"Một sẽ được đem đi, và một sẽ bị để lại ”: Được đem đi có nghĩa là được đem về Nước Trời, và bị để lại có nghĩa là bị hư mất mãi mãi.
KẾT LUẬN
Lời Chúa Giêsu khẳng quyết ta không thể biết đâu là ngày giờ tận cùng như muốn bảo chúng ta đừng tính toán, giả định thời gian Người đến. Mối hy vọng Người trở lại đừng biến thành một sự chờ mong nôn nóng, song như là niềm xác tín rằng: Đấng đã và đang đến sống giữa các thân thuộc Người, sẽ ban cho cuộc đời con người và vũ trụ một ý nghĩa đích thực, để Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người (1 Cr 15, 24- 28).
Nhưng được giải tỏa khỏi thắc mắc "khi nào và làm sao", Kitô hữu lại càng phải sống như thể ngày đó gần kề. Trong ý nghĩa này, bản văn không mời gọi ta luôn ngước mắt về trời cho bằng hãy quan tâm đến những bổn phận thường nhật mà Chủ bảo phải làm. Ngày giờ tận cùng càng bí ẩn bao nhiêu, thì sự tỉnh thức càng khẩn thiết bấy nhiêu. Lời kêu gọi của các Tin Mừng: "Hãy sẵn sàng? Hãy tỉnh thức" phải vang dội trong tâm khảm những ai đang đón chờ ngày hội ngộ lớn lao đó, không như một mối ám ảnh về ơn rỗi riêng tư, nhưng như một đòi hỏi trung thành với nhiệm vụ Chủ đã trao phó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Bên ngoài, không có gì phân biệt hai nông dân đang làm việc ngoài đồng và hai bà đang xay bột. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, có một cái phân biệt họ, đó là thái độ nội tâm. Một người thuộc về số những kẻ không ngờ được chuyện gì, người kia thuộc về số biết rõ. Người thì chỉ lưu ý đến cuộc sống, dự định của mình, kẻ kia. quan tâm đến Thiên Chúa và ngày Ngài trở lại. Một chỉ nghĩ đến công việc riêng tư còn người kia làm việc trước mặt Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng hiện diện trước mặt họ y như công việc họ đang làm. Người thì ngủ, kẻ lại tỉnh thức. Lời này chiếu dãi ánh sáng trên cuộc sống hằng ngày của ta. Cái quan trọng không phải là việc làm nhưng!à cách làm.
2. Lời khuyên tỉnh thức chờ mong Chúa Giêsu đến không chỉ nhắm vào thời sau cùng, nhưng còn nhắm tới việc Người đến trong đời mỗi người chúng ta: giờ chúng ta chết. Không ai hay được giờ ngày mình chết, chẳng ai biết cách tính toán, dự phòng. Giờ chết có thể đến thình lình, bất ngờ, đang lúc làm việc ngủ nghỉ, hay giải trí. Việc chuẩn bị chết cũng là việc chuẩn bị ngày Quang lâm. Nếu thật sự quan tâm đến tính cách bất ngờ và bí ẩn của giờ đó, nếu sẵn sàng luôn luôn, ta sẽ có một thái độ thực sự Kitô giáo để đón chờ Chúa đến.
3. Chúng ta, người tín hữu, đang sống trong một thế giới mà đối với nó, niềm xác tín việc Chúa Kitô trở lại với bao hậu quả kèm theo chẳng có một ý nghĩa gì. Thế giới quanh ta không chống cũng chẳng bênh việc trở lại đó; họ không hay biết điều ấy; họ cho là ảo tưởng, hão huyền. Niềm xác tín của chúng ta bị xem là dị thường, kỳ lạ; đức tin chúng ta vẫn luôn bị đồng hóa vào một thứ mê tín lỗi thời. Thế gian có lẽ chấp nhận sự hiện hữu của Giáo Hội như một tôn giáo tổ chức chặt chẽ, khả dĩ phục vụ được nhân loại trong vài vấn đề nhất thời hơi quá sức con người; thế gian thừa nhận Giáo Hội xét như Giáo hội giống với nó và đồng hóa với nó, nhưng ý nghĩa sâu xa của Giáo Hội là nhắc nhở và chuẩn bị ta chờ đón Chúa đến thì thế gian không bao giờ hiểu được. Thành ra thật là vô ích khi người tín hữu đi tìm trong thế gian và trong não trạng hiện thời những lý do để tin vào Chúa Giêsu và tin vào ngày Người trở lại; thế gian luôn bất lực, ngay cả trong nhung mộng ước, dự định điên rồ nhất và cuồng loạn nhất của nó. Vì thế, Chúa đã nhấn mạnh: "Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng". Người biết rõ rằng đời sống thường nhật với bao nhiệm vụ gia đình và xã hội, cũng như não trạng đang sinh động nhân loại quanh ta, không thể giúp gì cho ta trong chuyện ấy; hơn nữa, ta thường xuyên bị lôi kéo vào sự vô ý thức chung, vào sự mê ngủ thiêng liêng toàn diện. Đôi khi ta đau khổ, lắm lần ta bỡ ngỡ vì tình trạng đó; song đừng viện cớ ấy mà thoái thác và làm phai nhạt trong ta niềm xác tín ngày Chúa trở lại.
4. Suốt Mùa Vọng này, Chúa sẽ tỏ mình cho mỗi người chúng ta. Đấy là điều chắc chắn: Chúa sẽ thông ban chính mình cho kẻ tìm Người qua sự bằng an nội tâm sâu xa hơn, một đức ái thực sự hơn, một sức can đảm mạnh mẽ để đương đầu với trách nhiệm hơn. Ta hãy chú ý và tỉnh thức để bắt gặp giờ của Người; giờ ấy sẽ làm cho ta nếm được tình yêu đích thật của Người và củng cố niềm tin của chúng ta vào việc Người đến lần sau hết.
61. Không một ai biết giờ
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Khối diễn từ cuối cùng gồm trọn chương 23 Mt, “Những lời nguyền rủa người Pharisêu”, trước đây vẫn được coi như tách biệt, và phân đoạn Mt 24,1–25,46, “Diễn từ cánh chung”: Cả khối từ câu 23,1 đến câu 25,46 làm thành bài diễn từ duy nhất có chức năng nhắc nhở những người trong nhà sống một đời sống trung thực với những hành vi, công bình, nhân ái, dưới ánh sáng của cuộc chiến thắng cánh chung của Thiên Chúa và cuộc phán xét đang đến. Bài Tin Mừng Mt 24,37-44 nằm trong khối diễn từ cuối cùng này.
Phụng vụ cho đọc từ c. 37, nhưng có lẽ nên đọc bản văn ngay từ câu 36, vì: 1) Tư tưởng của câu 36 này được trình bày trong cc. 37-44; 2) Hai từ ngữ “ngày và giờ” trong c. 36 được nhắc lại trong cc. 42 và 44 làm thành một lối hành văn “đóng khung”, khiến cả phân đoạn 24,36-44 thành một đơn vị thống nhất. Các nhà chú giải thường cắt phân đoạn ở c. 36 thay vì ở c. 37 như trong bản văn Phụng vụ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Bài học thời Nôê (24,37-39), với công thức “cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy” ở c. 37 và c. 39 đóng khung đoạn văn thành một đơn vị; đơn vị này xoáy vào trọng tâm là “ngày Quang Lâm của Con Người”;
2) Cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (24, 40-41): Hai câu này vừa là kết luận cho đoạn 37-39, vừa là tiền đề (và cũng là kết luận) cho lời kêu gọi và dụ ngôn ở cc. 42-44;
3) Bài học về canh thức và sẵn sàng (24,42-44), với dụ ngôn “Kẻ trộm đêm khuya”, được đóng khung thành một đơn vị bằng hai công thức tương tự “ngày Chúa của anh em đến” (c. 42) và “giờ Con Người sẽ đến” (c. 44); đơn vị này xoáy vào hai từ cụ thể được tác giả Mt dùng để gọi ngày Quang Lâm, “ngày và giờ”.
3.- Vài điểm chú giải
- thời ông Nôê (37): Kinh Thánh kể việc Nôê đóng tàu trong sách Sáng thế (6,11-13).
- quang lâm (37.39) (HL: parousía, nghĩa đen là “sự hiện diện”): Trong Mt 24,29-31, Đức Giêsu cho biết rằng Người sẽ trở lại “uy nghi” (= với quyền lực), “ vinh hiển” (= với vinh quang), “ngự giá mây trời” (= trên mây trời). Các hình ảnh đó cho hiểu Người sẽ trở lại trong tư cách Đấng chiến thắng. Đây là một cuộc khải hoàn.
- một người được đem đi, một người bị bỏ lại (40.41): Hai động từ của bản văn Hy-lạp ở thái bị động paralambanetai và aphietai nên phải hiểu chủ ngữ là Thiên Chúa. Dựa theo truyền thống, có thể hiểu: sự kiện các thiên thần “tập hợp những kẻ được [Con Người] tuyển chọn” (c. 31; x. Mc 13,27) cho thấy paralambanetai có nghĩa là “được cứu thoát”, nên phải dịch là “được đem đi”, aphietai, có nghĩa là “bị kết án”, nên phải dịch là “bị bỏ lại”.
- canh thức (42) (HL: grêgoreô): có nghĩa là “không ngủ”. Đây là thái độ Đức Giêsu yêu cầu phải có nơi những người đang trông chờ Người đến (x. Mt 25,13; Mc 13,33-37; Lc 12,35-40). Sự canh thức, ở trong tình trạng “báo động”, giả thiết phải có một niềm hy vọng vững chắc và đòi hỏi tâm trí luôn sẵn sàng (đây cũng là “sự tiết độ”: 1 Tx 5,6-8; 1 Pr 5,8).
- không biết ngày nào (42): Đức Giêsu vừa khẳng định mạnh mẽ rằng Người sẽ lại đến, vừa nhấn mạnh rằng không ai biết được ngày giờ đó (24,36.42.44). Không ai biết và cũng không ai có thể tính toán để tìm ra ngày giờ ấy cả.
- kẻ trộm (43): Kinh Thánh dùng hình ảnh tên trộm để nói tới tính bất ngờ của ngày Chúa đến (x. 1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15).
- vào canh nào (43): Một đêm thường được chia thành bốn canh (HL: phylakê): chiều (từ khi mặt trời lặn đến 9g tối), nửa đêm (từ 9g tối đến 12g đêm), khi gà gáy (từ 12g đêm đến 3g sáng) và sáng (từ 3g sáng đến bình minh, khoảng 6g sáng).
- khoét vách (43): Nhà dân Do Thái thời Đức Giêsu thường được làm bằng đất với cành cây khô, nên kẻ trộm có thể lọt vào nhà bằng cách khoét thủng vách tường đất.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay, nếu không được hiểu đúng, sẽ gây khó khăn cho chúng ta.
Trước tiên, can phải xem Đức Giêsu đang nói về chuyện gì. Tại sao Người đưa vào trong câu chuyện: ông Nôê, hai người đàn ông đang làm việc trên cánh đồng, hai người đàn bà đang xay bột, và một tên trộm? Câu trả lời nằm ở đầu chương 24: ở đây Đức Giêsu đang nói về những dân cư Giêrusalem không muốn hoán cải. Các môn đệ sửng sốt vì những lời Thầy nói, đã hỏi Người hai điều: khi nào chuyện ấy xảy ra và có dấu hiệu báo trước chăng (cc. 2-3). Thay vì trả lời họ, Đức Giêsu dạy họ những điều đến hôm nay vẫn còn giá trị: chúng ta phải luôn luôn canh thức. Rồi Người đưa ra ba ví dụ.
* Bài học thời Nôê (37-39)
Vào thời Nôê, có hai hạng người: những người chỉ biết hưởng thụ cho bản thân và những người tỉnh thức biết lắng nghe các lời lưu ý.
Những người hoàn toàn để mình bị cuốn hút vào trong cuộc sống trần thế, với những sinh hoạt cụ thể và những phương diện bề ngoài ai cũng thấy được (ăn uống, cưới vợ lấy chồng), thì chỉ biết vui hưởng đời này, không muốn quan tâm đến bất cứ điều gì khác nữa. Vả lại, nạn hồng thủy chỉ được loan báo, chứ chưa xảy ra. Cũng thế, cuộc Quang Lâm của Chúa Giêsu cũng chỉ mới được loan báo, chứ chưa xảy ra. Tính cụ thể của các sự việc trần thế và kinh nghiệm hiện tại dường như thực hữu hơn là bản thân Đức Chúa như Người đã loan báo. Do đó, người ta bị hút vào hiện tại và hoàn toàn không màng đến Người, không nghĩ đến trách nhiệm của mình đối với Người. Dù sao, biến cố quan trọng ấy cũng đã được loan báo, nên chúng ta phải chịu trách nhiệm về tình trạng bản thân khi Người đến. Cần phải luôn canh thức và sẵn sàng.
Bài học là: Vào thời Nôê, nhiều người đã bị chết; vậy những kẻ không chấp nhận Đức Giêsu hoặc tuân theo lời Người, cũng sẽ chết khi thành thánh bị tàn phá. Còn những ai đón nhận sứ điệp của Người, sẽ được cứu độ và sẽ trở thành những người đầu tiên thuộc đoàn dân Người.
* Cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (40-41)
Với ví dụ thứ hai rút ra từ cuộc sống thường ngày, Đức Giêsu cho thấy rằng mọi người bình đẳng trong các sinh hoạt trần thế, và không một hoàn cảnh bên ngoài nào bảo đảm cho người ta có một tư cách xứng đáng cả. Về bề ngoài, không có nét nào phân biệt giữa hai người đàn ông đang làm ruộng, hoặc hai người đàn bà đang kéo cối xay. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu quang lâm, sẽ xảy ra một cuộc phân rẽ tận căn: những ai đã sẵn sàng với Người thì được đón vào sống hiệp thông với Người, còn những người khác thì bị loại trừ. Số phận vĩnh viễn của mỗi người tùy thuộc cách thức mỗi người sống với Người trong thời gian này. Từ chỗ thấy rằng mọi người đều có phần công việc và lao khổ, hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ và niềm vui, sống và chết, người ta dễ rơi vào ảo tưởng là sự vâng phục hoặc bất phục tùng đối với Thiên Chúa, sự ngay thẳng hay gian tà không hề quan trọng gì cả, là mọi sự đều như nhau, chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì mọi sự sẽ kết thúc giống nhau cho mọi người! Đức Giêsu điều chỉnh lối suy tư sai lạc này.
Bài học là: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (c. 42).
* Bài học về canh thức và sẵn sàng (42-44)
Đến đây, Đức Giêsu cho ví dụ thứ ba. Nếu chúng ta biết ngày giờ Chúa đến, hẳn là chúng ta sẽ chuẩn bị và chờ đợi. Nhưng Đức Giêsu dùng dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya để báo cho chúng ta rằng Người sẽ đến thật bất ngờ, chúng ta không thể tiên liệu. Do đó, chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng, từng giờ từng phút: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c. 44).
Tất cả những lời kêu gọi tỉnh thức này có ý nghĩa gì đối với chúng ta hôm nay? Phải chăng Thiên Chúa thật sự đến như một kẻ trộm, và gọi người ta đến mà xét xử vào lúc họ ít sẵn sàng nhất? Thật khó mà đặt lòng tin vào một vị Thiên Chúa như thế! Nếu đây là cách giải thích đúng các lời nói của Đức Giêsu, hẳn là chúng ta sẽ không có một sứ điệp cứu độ, mà chỉ có một lời đe dọa ác độc. Thật ra điều Người muốn nói với chúng ta hoàn toàn khác hẳn.
Trong mỗi khoảnh khắc, chúng ta phải sống một cuộc sống phù hợp với ý muốn của Người và có thể lãnh trách nhiệm trước mặt Người. Chính vì Người không cho thấy tất cả ý định của Người mà chúng ta phải hiểu rằng chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Người. Sự kiện lúc này Người còn đang ẩn mình và rất “ở yên” không được khiến chúng ta bị lừa. Như thế, điều Đức Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay là Người luôn luôn muốn cứu chúng ta, làm cho chúng ta hạnh phúc, nhưng chúng ta phải luôn ý thức về sự hiện diện của Người.
+ Kết luận
Theo kinh nghiệm thông thường, người ta cho rằng chính loài người và các sức mạnh thiên nhiên qui định dòng lưu chuyển của từng số phận con người và toàn thể lịch sử nhân loại. Quan niệm này khiến người ta nghĩ rằng sự việc vẫn cứ tiếp tục như thế, trừ phi là xảy ra mộttai họa trên toàn thể vũ trụ. Nhưng Đức Giêsu lại đến loan báo rằng Nước Trời đã gần kề, có nghĩa là Thiên Chúa dứt khoát quyết định bung mở quyền chúa tể của Ngài ra (x. 4,17). Điều này sẽ được thể hiện khi Con Người đến với quyền lực và vinh quang Thiên Chúa (24,30). Khi Người tỏ mình ra vĩnh viễn cho hết mọi người với quyền lực thần linh của Người trước toàn thể thế giới, mỗi người sẽ xuất hiện ra trước mặt Người trong chiều hướng và giá trị đã đạt được. Với biến cố Đức Giêsu đến vĩnh viễn, mỗi người cũng sẽ đạt tới ánh sáng trong bản chất thâm sâu của mình. Mỗi người bị liên kết sâu xa với ngày Đức Giêsu trở lại, do đó phải sống trọn cuộc đời trong chiều hướng này. Và bởi vì không một ai biết chính xác ngày giờ Người trở lại (24,36.42.44), mỗi người cần luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Người khi Người lại đến.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu khẳng định là không một ai có thể biết được ngày giờ Người trở lại trần gian và tính toán để tìm ra ngày giờ ấy. Do đó, điều hết sức hệ trọng là luôn sẵn sàng cho biến cố ấy, tức là lưu ý đến tính bất xác, tính bất khả tri và bất khả tiên liệu của ngày giờ đó, hầu tránh được lối sống mù quáng. Chúng ta vẫn đang hy vọng Người trở lại. Nhưng đây không phải là một nỗi niềm chờ mong khắc khoải, mà là một xác tín rằng Người cũng là Đấng đã đến và đang đến sống giữa chúng ta: chính Người đang và sẽ đưa lại ý nghĩa chân thật cho cuộc đời và vũ trụ chúng ta.
2. Vì đã được Đức Giêsu dạy là không thể tìm ra đáp án cho các câu hỏi “khi nào và cách nào”, người Kitô hữu chỉ càng chăm chú sống y như thể ngày đó đang đến rồi. Tuy nhiên, canh thức và sẵn sàng không có nghĩa là cứ đưa mắt nhìn về trời! Lời Chúa mời gọi chúng ta quan tâm đến những nhiệm vụ hằng ngày chúng ta đã và sẽ đảm nhận. Sống và làm việc đúng như Người đã giáo huấn chúng ta, đó là cách thức tốt nhất để đón Người vào ngày Người trở lại. Sự canh thức càng có tính thúc bách khi chúng ta không biết giờ cùng tận. Tiếng hô của bài Tin Mừng: “Anh em hãy sẵn sàng! Hãy canh thức!” phải vang lên trong tim của những người đang chờ mong cuộc gặp gỡ vĩ đại.
3. Nhìn bề ngoài, không có dấu chỉ nào giúp phân biệt người đang sống đúng thánh ý Thiên Chúa và người không sống như thế, khi mà ai nấy đều đang sống chìm vào giữa những thực tại trần gian. Do đó, chúng ta không được nhìn vào người khác để lượng định bản thân và nhất là để mình rơi vào mộtthứ yên tâm giả tạo. Tốt nhất là hãy nhớ lại các giáo huấn Đức Giêsu đã ban cho chúng ta, rà soát xem chúng ta đã đưa ra thực hành như thế nào. Bài Giảng trên núi trong TM Mt chính là một cẩm nang giúp người Kitô hữu sống canh thức và sẵn sàng.
4. Chúng ta nhớ rằng chúng ta luôn luôn lệ thuộc vào Đức Giêsu và chúng ta luôn chịu trách nhiệm trước mặt Người. Đức Giêsu đến vào Ngày Quang Lâm không còn phải là trong tư cách Đấng Cứu thế, nhưng trong tư cách vị Thẩm Phán tối cao. Do đó, ngày Người đến sẽ là ngày giờ của sự thật, bởi vì sẽ là ngày giờ để trả lời (“trả lẽ”) với Người về những nhiệm vụ chúng ta phải chu toàn và là ngày giờ chúng ta được vén mở (= mạc khải) cho hiểu biết mọi sự.
62. Chú giải của Noel Quesson
Một năm phụng vụ mới bắt đầu. Năm nay (A), chúng ta sẽ đọc mỗi Chúa nhật một đoạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu. (Năm B là năm Tin Mừng Maccô, và năm C là năm Tin Mừng Luca).
Quả thế, thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Đó là Mùa Vọng.
Ta biết từ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh adventum, nghĩa là sự đến, đã đến đấy là từ đầu tiên của sách Tin Mừng này. Một ai đó. Đức Giêsu không giới thiệu mình cho chúng ta như một người của quá khứ, nhưng như một người của tương lai. Người nói về việc người đến, về việc người quang lâm như một biến cố tương lai.
Lễ Giáng sinh sắp đến, đối với chúng ta không phả là một cách làm giả bộ, như chúng ta vui sướng chờ một người đã đến và chúng ta nhớ nhung gợi lại một câu chuyện lạ lùng xưa.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta Người sắp đến; thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Này đây Chúa đến! Ta hãy để cho Chúa đi qua!
Mỗi buổi sáng Thiên Chúa đều mới mẻ.
Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, cho mãi đến ngày ông No-ê vào tàu.
Những đầu óc nông cạn có lẽ sẽ nói: tại sao lại phải tìm quá xa và đi ngược mãi lên đến thời hồng thủy và Tàu No-ê. Người ta phải làm chi đây? Này! Đức Giêsu, chính Người đang nghĩ ta đang ở "vào thời No-ê". Và Người mô tả về điều người ta lo lắng. Đó chính là bức tranh của xã hội ta đương. đại: làm việc, ăn uống, dựng vợ, gả chồng. Tất cả những chuyện đó, chẳng có gì tự nhiên hơn!
Trong sách Sáng Thế (16,5-13), cơn hồng thủy được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người thời đó; "Đức Chúa thấy rằng con người quá gian ác trên mặt đất, và lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày". Truyền thống thượng tế khi kéo dài và bi kịch hóa mạc khải Kinh Thánh, đã nghiêm khắc mô tả "sự sa đọa nhục dục của những người đương thời No-ê kéo theo hỗn loạn sang lãnh vực phong tục... và cuối cùng đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội đến nỗi loài người tự hủy diệt chính mình mà không còn hy vọng sống xót…” (chú giải về sách Sáng Thế của Rachi).
Đức Giêsu, trái lại, tuyệt đối không hề nói gì về nạn vô luân. Người không trách móc những người đương thời No-ê, đó chỉ là những đàn ông và đàn bà đang hít thở niềm vui của cuộc sống! Người không trách họ về sự sa đọa của họ. Cuối cùng thì họ chẳng làm chuyện chi xấu xa cả: họ chú tâm đến những nhu cầu hoàn toàn bình thường của cuộc sống, chẳng có một hậu ý gì.
Thế thì họ quấy quá ở chỗ nào? Đức Giêsu có thể trách móc họ điều gì nào?
Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy tới cuốn đi hết thảy.
Họ không bị khiển trách vì phóng đãng mà cũng chẳng phải vì tội lỗi. Chính vì họ “không biết sớ hãi gì cả!” không lo đến chuyện chính yếu... không có một nhận thức đúng đắn về thực tại…
Họ có vẻ tin là họ bất tử! Mắt họ bị bịt không thấy thân phận con người của mình. Họ phải chịu cái chết "nuốt trôi” để rồi, trong phút chốc, họ khám phá thấy rằng họ không phải là “những thần linh” và nếu muốn sống thì họ cần đến Chúa!
Chúng ta luôn luôn ở vào "những ngày thời No-ê!".
Loài người hôm nay, cũng thế, họ như bị đánh thuốc mê. Tiến bộ vật chất chính nó có xu hướng ru ngủ chúng ta. Người ta tin thế gian này vững vàng, chỗ người ta đã quen sống, cho đến ngày đến lúc chợt tỉnh ngộ, thì còn tàn bạo hơn cả trước kia người ta đã vô ý thức quá về mối nguy hiểm. Có một cảnh tượng hiện đại của cận đại hồng thủy; đấy là cuộc lạm phát tiền tệ quốc tế nhận chìm hết mọi nền kinh tế, đấy làm sự tăng giá đột ngột như một cơn són triều của dầu khí và những nguyên liệu thiết yếu nhất, đấy là một căn bệnh không tiên đoán được, đấy là một ta nạn … Và tất cả mọi thứ an toàn của chúng ta đều bị cuốn trôi hết!
Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.
Lần thứ hai, Đức Giêsu dùng đến từ "quang lâm" “parousia" trong tiếng Hy Lạp. Thực sự, từ này có nghĩa là sự "hiện diện", "đã đến": Có mặt ở đấy! Xưa người ta dùng từ ấy, trong thế giới Hy-La để chỉ "những cuộc đi thăm chính thức của các hoàng đế".
Chúng ta có xu hướng hơi thái quá đem áp dụng nghĩa “parousia" cho Ngày Tận Cùng Các Thời Đại, khi nghĩ rằng ta có những cơ may là không trông thấy ngày tận thế. Đúng là cách ta đánh giá sai lầm về các sự vật mà Đức Giêsu muốn chúng ta cảnh giác: Thực sự, Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Người đến "thăm chính thức” chúng ta trong lúc ta bận rộn những chuyện thường ngày nhất, tại nơi ta làm việc tại nhà ta, ở nới ta ăn uống, trong các quan hệ giữa đàn ông và đàn bà của ta. Lúc lào ta cũng phải sẵn sàng cho Đức Giêsu "ngự đến", "đến cuối cùng", ' có mặt ở đó".
Bấy giờ hai người đàn ông đang làm nương, thì một người được đem đi! một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại...
Đó là cuộc sống hằng ngày.
Chính trong những lúc bận rộn rất thường ngày của chúng ta mà Đức Giêsu đến, giữa lúc người nông dân đang làm, người nội trợ đang làm... và ta có thể thêm, nơi văn phòng, ngoại phố, lúc ta đang lái ôtô.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.
Đức Giêsu khuyên chúng ta phải "tỉnh thức": Hãy canh thức! Hãy chuẩn bị cho tương lai chúng ta. Bởi lẽ Chúa "đến", Chúa "có mặt" mọi ngày.
Đức Giêsu "đến” tạo ra một cách thế riêng của người ở chỗ mà người ta không thấy có gì khác nhau, bởi lẽ không có gì phân biệt giữa hai người này đang cùng làm ruộng, hai người đàn bà cùng kéo cối xay này. Chỉ có chính Chúa mới thấy cái khác nhau: Một người thì sắn sàng, người kia thì không! Bấy giờ một người được ở với Chúa, ở trong ánh sáng còn người kia không được ở với Chúa, phải ở trong tối tăm. Hiển nhiên là không có vấn đề độc đoán.
Toàn bộ Kinh Thánh nhắc lại rằng Thiên Chúa "cứu độ". Và nếu ta hiểu rõ đoạn nói về nạn hồng thủy, thì phải thấy ở đó có một “hành vi cứu thoát”: Khi con người bấy giờ đang đi tới đại họa, thì mọi chuyện đi theo chiều hướng ngược lại khi Thiên Chúa can thiệp, để làm cho một nhân loại mới xuất hiện. No-ê, chính là người được Thiên Chúa “cứu độ”.
Nhưng, hãy chú ý, tàu đã sắn sàng, hôm nay, cho nạn hồng thủy của bạn. Đức Kitô Đấng Cứu Độ, đã vào trong biển nước chết chóc, lôi kéo thêm người vào Giáo Hội, trên thuyền của Người, tất cả những ai theo Người. Và khi vào thời No-ê theo nguyên văn Kinh Thánh, loài người đầu tiên thực sự đã biến mất trọn vẹn, thì Đức Giêsu, nói đến 50% những người được cứu độ... một trên hai.. năm trinh nữ khôn ngoan, khác với năm trinh nữ dại khờ (Mt 25,12). Và hiển nhiên chúng ta biết rằng đó không phải là những phần trăm theo toán học.
Không hề muốn nói đến một bầu không khí sợ hãi, Đức Giêsu lôi những người “đang đứng", những người "canh thức", những người "đang rình". Cái "liều lĩnh" trong cuộc sống kinh tế, xã hội, gia đình, mời gọi ta thấy trước, lo chuẩn bị tỉ mỉ. Ong chủ doanh nghiệp đang "thiêm thiếp ngủ” sẽ kết án chính cái doanh nghiệp của mình. Chàng trai trẻ không lo chuẩn bị tái lai của mình, thì chính mình sẽ chịu trách nhiệm làm hỏng cuộc đời mình, giống hệt như nhau. Người đàn ông hay đàn bà không bao giờ nghĩ đến Chúa sẽ làm hỏng cuộc "viếng thăm" của Người.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hay biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức...
Đừng làm cho cuộc đời mình cứ ngủ! Hãy tỉnh thức!
Sinh vật nào thức tỉnh, con vật đang săn mồi, cuối cùng chính là thứ "được sống". Tỉnh thức không hề có nghĩa là "tích lũy cho nhiều hệ thống an ninh", "chắn rào chung quanh nhà để tránh cướp": Không! Tỉnh thức, chính là “sắn sàng" để đối phó, chính là "được vận động liên tục” để hành động:.. Tỉnh thức, chính là trái nghịch với "để buông trôi", lo lắng, bất cần.
Không nên nói "giá mà tôi đã biết trước" vì đã quá muộn rồi, bởi lẽ chúng ta đã được cảnh báo trước rồi.
Nếu chủ: nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến... Hẳn ông đã thức không để nó khoét vách nhà mình đâu.
Trong tâm trí chúng ta, hiển nhiên hình ảnh của “người kẻ trộm" gắn liền với sợ hãi. Chắc chắn ta có thể đọc một bài khác về hình ảnh này. Thế thì theo Đức Giêsu, kẻ trộm đến làm gì? Nó "khoét vách nhà" anh" ta đến mở cái gì đang bị đóng lại, bỗng nhiên ta khám phá một ý nghĩa tượng trưng kỳ diệu; qua những lời lẽ chân thực củ dụ ngôn: Chúa luôn luôn:đến "để mở" thế gian cứ đóng không cho Người vào. Khi Người đến cửa nhà chúng ta, Chúa sẽ vào nhà ai tỉnh thức để mở cho người! Nhưng ai để cho mình phải bất ngờ …coi chừng! Cửa không phải lúc nào cũng mở luôn luôn đâu.
Chúng ta có lỡ không để chúng ta ngỏ vào thế giới của Thiên Chúa không?
Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Người Kitô hữu sẽ được giải thoát khỏi cái ngày..luôn luôn sắn sàng. Vâng! Con Người đến bất cứ lúc nào trong đời. Người đến thường xuyên, đơn giản đến độ có vẻ như luôn luôn không ngờ đến.
Ta có tin vào điều mạc khải này của Chúa không?
63. Chú giải của Fiches Dominicales
SỐNG TỈNH THỨC
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Những câu hỏi “Khi nào” và “thế nào” không có giải đáp:
Chúng ta mở đầu bài Phúc Âm bằng đoạn cuối cùng, hay gần như cuối cùng của Tin Mừng thánh Mátthêu. Như thế, Phụng vụ muốn khẳng định ngay rằng Đấng mà chúng ta đang chờ đón đến với chúng ta dịp lễ Giáng Sinh, chính là Đấng sẽ trở lại vào ngày tận thế, và cũng là Đấng luôn luôn đến với chúng ta.
Đáp lại lời các môn đệ đang trầm trồ trước vẻ huy hoàng của đền thờ Giêrusalem, Đức Giêsu khiến mọi người sửng sờ khi báo trước rằng, dấu chỉ tuyệt vời của sự hiện diện Thiên Chúa đối với dân Ngài ấy chắc chắn sẽ bị huỷ diệt. Ngài khẳng định: Tất cả những gì các con xem thấy, sẽ chẳng còn hòn đá nào trên hòn đá nào; tất cả sẽ bị huỷ diệt (24,2).
Trở lại núi Cây Dầu, nơi ta có thể nhìn thấy toàn cảnh Thành Thánh và Đền Thờ, Đức Giêsu ngồi xuống lập tức các môn đệ tới tấp đặt câu hỏi: Xin Thầy hãy nói cho chúng con biết khi nào điều đó xảy đến. Xin hãy nói cho chúng con đâu sẽ là dấu chỉ cho biết Thầy đến, và đâu là dấu chỉ cho biết ngày tận thế (24, 3).
Đức Giêsu bỏ qua không trả lời những câu hỏi này, bởi vì theo Ngài, đó là điều bí mật của Chúa Cha (24,36).
2. Một huấn lệnh cần phải được tuân giữ ngay lập tức.
Nếu Đức Giêsu từ chối không tham dự vào những cuộc tranh luận của các môn đệ - xưa cũng như nay - về việc Con Người sẽ trở lại "Khi nào" và "thế nào", thì Ngài lại mạnh mẽ khẳng định rằng đó là điều không thể tránh né. Vì thế, Ngài khuyến khích các tín hữu đang sống trong dòng lịch sử, hãy luôn luôn sẵn sàng: "Vậy hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết khi nào Chúa sẽ đến. Vậy các con hãy sẵn sàng: chính vào giờ các con không ngờ mà Con Người đến. Trong Phúc âm thánh Matthêu, có bốn dụ ngôn minh hoạ lời Ngài dạy. Sau đây là những dụ ngôn được chọn cho Chúa nhật thứ I Mùa Vọng:
- Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ:
Vào thời Noe, chỉ một mình tổ phụ được "chừa lại", khi ngài vào trong tàu; chỉ một mình ngài được cứu thoát, bởi vì ngài biết nhìn thấy trước biến cố lụt lội phủ lấp trái đất, ngài đã đọc được những dấu chỉ loan báo việc sắp xảy đến. Những người khác cứ tiếp tục cuộc sống thường ngày, không chút mảy may nghi ngờ, nên đã bị "nuốt trửng", không phải vì hạnh kiểm họ xấu, mà vì không biết phòng xa. Cũng vậy, khi Con Người đến, Ngài sẽ quyết định dứt khoát mối liên hệ đời thường nhất giữa những người đang sát cánh bê nhau miệt mài trong cùng một công việc "đang làm ruộng" hay "đang xay bột". Một số người biết chuẩn bị tích cực sẽ "được đem đi", nghĩa là "được cứu thoát". Những người khác, cứ sống mà không biết thấy trước ngày sắp đến, sẽ bị "bỏ lại".
- Dụ ngôn kẻ trộm ban đêm:
Con Người đến như lụt đại hồng thuỷ không ai biết trước, như việc tên trộm lẻn đến ban đêm, âm thầm chọc thủng những tấm vách mỏng mang của những mái nhà rách nát xứ Palestine. Vì thế, thái độ duy nhất phải có là luôn luôn "tỉnh thức", "sẵn sàng". Không phải trong sợ hãi, mà là trong thanh thản; không phải co rúm tê liệt đi, mà là trong niềm khao khát và năng động mong chờ ngày Chúa đến. Bằng cách lãnh nhận trách nhiệm của chúng ta. Bằng cách chu toàn sứ mạng được trao phó (24,45-5l): Bằng cách đến cứu giúp những anh em nghèo túng.
"Vậy người Kitô hữu dấn thân sống như là ngày tháng xét đã đến. Hiện tại của thế giới bị chất vấn bởi tương lai. ước mong rằng người tín hữu luôn trung thành với ơn gọi và sứ mạng đã lãnh thận" ("Célébrer", n. 224, trang 18).
BÀI ĐỌC THÊM:
1.“Đức Giêsu đến gặp chúng ta một cách bất ngờ, nhưng không phải là không báo trước"
Ngày và giờ là bí mật của Chúa Cha. Đó không phải là cơn thịnh nộ và sự trừng phạt vào ngày đã định. Nói rằng chỉ một mình Chúa Cha biết ngày tận thế và việc con Người trở lại, có nghĩa là đặt thế giới và nhân loại trong tay của Ngài, trong đôi tay nhân từ của Ngài. Đó là đặt chúng ta trong sự thanh thản, an toàn: ai có thể rứt chúng ta ra khỏi đôi tay của Chúa Cha? Chúng ta còn sợ gì nếu chúng ta được ấp ủ trong tình yêu của Ngài?
Đức Giêsu không mời gọi ta sợ hãi, nhưng mời gọi ta tỉnh thức. Ngài so sánh lụt đại hồng thuỷ và ông Noe: Người ta không nghi ngờ gì hết cho đến khi lụt đại hồng thuỷ đến cuốn trôi hết tất cả mọi sự. Tất cả mọi người mãi lo lắng sự đời: người ta mãi lo ăn uống, cưới vợ gã chồng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta mãi lo lắng sự đời, và đó là điều cần thiết! Chính lúc đó, Chúa đến gặp chúng ta. Nhưng để khỏi bị bất ngờ khi Ngài đến, chúng ta phải chuẩn bị như ông Noe. Cũng giống như ông, chúng ta có lời Chúa cảnh báo và nhắc nhở chúng ta; Đức Giêsu nói: Đó, Thầy đã báo trước cho các con. Ngài đến gặp chúng ta một cách bất ngờ, nhưng không phải là không báo trước. Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra vào lúc tận thế. Cái chết của mỗi người cũng sẽ bất ngờ. Phải chăng cái chết không là ngày tận thế, ngày tận thế riêng của mỗi người, lúc mà Đức Giêsu đến gặp riêng mỗi người? Ít nhất điều đó đã cảnh báo chúng ta qua ví dụ của Phúc âm: Bấy giờ hai người đàn ông trên cánh đồng: một người sẽ được đem đi, người kia bị bỏ lại; hai người đàn bà đang xay bột ở cối xay: một người được đem đi, một người bị bỏ lại... Quan trọng nhất vẫn là tỉnh thức. Không lo lắng, nhưng chú ý, chú ý vào Chúa Cha, chú ý vào Đức Giêsu Kitô. Nếu chúng ta không biết ngày và giờ, thì điều quan trọng là phải biết Ngài, và phải nhận ra Ngài khi Ngài đến với chúng ta. Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại hai lần rằng vì ta không biết nên ta phải tỉnh thức: Vậy hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết ngày nào Chúa sẽ đến... Để kết thúc, Ngài dùng một ví dụ chỉ cho thấy sự nghiêm trọng của tình thế, và sự gấp rút phải tỉnh thức. Ví dụ hơi mâu thuẫn, vì nói về một ông chủ nhà tỉnh thức, bởi lẽ ông ta biết giờ kẻ trộm lẻn đến ban đêm. Khi biết, thì dễ chờ đợi hơn còn chúng ta, chúng ta thấy thời gian dài, mà chẳng hay biết gì. Không biết là một lý do khiến chúng ta đừng ngủ say. Được hay thua thì điều quan trọng là đừng để tường nhà mình bị chọc thủng. Con Người đến gặp chúng ta. Đừng có ngủ say trong thời gian đó: "Đó là lý do tại sao các con phải tỉnh thức, bởi vì vào giờ mà các con không ngờ Con Người sẽ đến”.
2. “Vì không biết Ngài các con hãy tỉnh thức"
"Lời khẳng định của Đức Giêsu về việc chúng ta không biết Ngài, giờ tránh cho chúng ta khỏi mọi tính toán về ngày Chúa đến, niềm hy vọng Ngài trở lại luôn luôn còn đó, không phải là một chờ đợi bồn chồn, mà là một chắc chắn về Đấng đã đến, đang đến sống giữa những người thân yêu của Ngài, sẽ đen lại ý nghĩa đích thực cho cuộc sống và cho vũ trụ của chúng ta, Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi người" (1Cr 15,24-28).
Được giải thoát khỏi những vấn nạn "khi nào và thế nào" rồi, người Kitô hữu chỉ còn lo chú ý vào việc phải sống như là ngày đó đã đến thực sự. Trong ý nghĩa đó những câu chúng ta vừa đọc mời chúng ta hướng về trời ít hơn là gọi chúng ta quan tâm đến những bổn phận hằng ngày mà Thầy chúng ta đòi hỏi. Sự tỉnh thức càng quyết liệt hơn khi giờ kết thúc vẫn còn chưa điểm. Tiếng kêu của Phúc âm: "Hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức phải vang dội trong tâm hồn của người đang chờ đợi cuộc hội ngộ lớn lao, không phải như một nỗi árn ảnh liên hệ đến ơn cứu độ riêng tư của mình, mà như một đòi hỏi trung thành với những sứ mạng Thầy trao phó".
3. “Hãy có một con tim tỉnh thức”
"Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại. thiên Chúa thức tỉnh ta. Thiên Chua mời gọi ta. Tới phiên ta trả lời Ngài.
Nếu ta ngủ mê, quá bận rộn với những công việc vật chất, ta sẽ ở bên lề biến cố Thiên Chúa tỏ mình ra là Đấng Cứu độ. Chẳng lẽ mối lo mua bánh hay thu hoạch rau quả không thể nối tiếp những phút suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời. Những phút ta dừng 1ại để kiểm điểm mối tương giao với Thiên Chúa. Một tinh thần nhắc nhở chúng ta đừng quá đầu tư vào cuộc sống vật chất đến nỗi không nhìn ra ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện nơi ta, "ngày tốt đẹp" mà Ngài đã nói với ta hay sao. Nếu muốn chụp lấy tấm ván cứu độ, ta hãy mở rộng đôi mắt. Tinh thần minh mẫn. Con tim tỉnh thức, tâm hồn đợi chờ. Và ta sẽ đi chuyến tàu đang tới".
64. Đợi chờ, nhưng phải hành động
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Mỗi khi Mùa Vọng về, người ta thường nhắc nhau đi tham dự các buổi tĩnh tâm, xưng tội, làm các việc bác ái và hy sinh để chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Tại sao lại thế? Thưa, vì Mùa Vọng chính là mùa sống lại tinh thần đợi trông Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu độ nhân loại của dân Dothái xưa, và ngày nay, chúng ta đang đợi chờ Chúa đến với chúng ta lần thứ hai trong ngày quang lâm. Tuy nhiên, đợi trông không có nghĩa là cứ ngồi rồi mong ngóng như con trẻ mong mẹ đi chợ về. Cũng không phải như những người ngủ mê, sống ù lì và há miệng chờ sung rụng. Nhưng đợi trông ở đây gắn liền với hành động, một thứ hành động trong tỉnh thức. Tỉnh thức để biết được đâu là điểm chính yếu, đâu là phụ thuộc, đâu là cái vĩnh hằng, đâu là cái nhất thời. Tỉnh thức cũng là tinh thần của người khôn ngoan biết chọn lựa cái tốt và loại trừ cái xấu. Chờ đợi theo tinh thần của những người tin là hướng về phía “Ánh Sáng” mà tiến bước trong hân hoan.
1. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng
Bài Tin Mừng hôm nay, được nối tiếp một loạt giáo huấn của Đức Giêsu về ngày cánh chung; những đau đớn sẽ xảy ra trong ngày đó; ngày đó chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng xảy ra ngày nào thì không ai biết (x. Mt 24, 1-36).
Trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh trực tiếp đến tính bất ngờ của ngày ấy và làm sáng tỏ sự bất định của cái chết khi trích dẫn câu chuyện thời ông Noe: “Những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả” và “khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy” (x. Mt 24, 37-39). Ngày đó sẽ là ngày tách chiên ra khỏi dê, lọc lúa ra khỏi cỏ lùng, là ngày thưởng phạt theo lẽ công bằng. Ai đã chuẩn bị xứng đáng thì sẽ hân hoan, còn ai không sẵn sàng thì bị loại ra, số phận của mỗi người hoàn toàn khác nhau tùy vào thái độ của họ. Chính cái làm nên điều khác biệt đó là biết tỉnh thức hay không!
Như vậy, tỉnh thức chính là điều kiện cần cho ơn cứu độ. Để chứng minh điều này, Đức Giêsu đã đưa ra hình ảnh hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại (x. Mt 24, 40). "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24, 42). Bởi vì ngày ấy đến như kẻ trộm lúc đêm khuya (x. Mt 24, 43). Như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em (x. Lc 21,34).
Quả thật, ngay từ giây phút này, chúng ta phải chuẩn bị cho tốt, để nếu điều đó xảy ra cho chúng ta cách này hay cách khác, ban ngày hay đêm khuya, ta đâu có sợ hãi chi.
Hãy tỉnh thức, tức là không mê ngủ, nhưng luôn "thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn" để đón Chúa đến bất cứ lúc nào (x. Lc 12,35-48). Tỉnh thức còn là sự trung tín với Chúa bằng việc cầu nguyện không ngừng (x. Lc 18,1), không nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1).
Tỉnh thức như: người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó (x. Mt 24, 45-51).
Như năm cô trinh nữ khôn ngoan biết phòng xa mang dầu theo (x. Mt 25, 1-13)
Như người được trao vốn và đem kinh doanh sinh lời lãi cho ông chủ (x. Mt 25, 14-30)
Cuối cùng, tỉnh thức bằng cách sống yêu thương và phục vụ theo tinh thần của Chúa (x.Ga 13,6); (Ga 15,13).
Như vậy, tinh thần của Mùa Vọng không phải là đợi chờ trong mòn mỏi, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong hy vọng. Cũng không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng làm việc trong đợi chờ với thái độ tỉnh thức Và, không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu của mình hãy chuẩn bị sẵn sàng để đón đợi ngày Chúa đến. Ngài đã không khuyên cách chung chung, mà là cụ thể: “Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị”. Bởi vì “Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến” (x. Rm 13, 11-14).
2. Sống Lời Chúa
Hãy tỉnh thức là điều mà Đức Giêsu muốn mời gọi mỗi chúng ta. Sứ điệp lời Chúa hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng: đừng dại dột mà chỉ lo cho cuộc sống hiện tại này, đừng bám vào những thứ phù vân, bởi vì phù vân chỉ là phù vân. Phù vân nối tiếp phù vân. Đừng sống như những vật vô tri, không biết lo cho ngày mai. Cũng đừng sống như những người nghĩ mình không bao giờ phải chết. Nhưng hãy chuẩn bị cho tương lai của mình một cuộc sống hạnh phúc thật bằng việc siêng năng cầu nguyện, xưng tội, rước lễ, làm việc bác ái, hy sinh hãm mình, loại trừ cái xấu và thay vào đó là những điều tốt.
Nếu không tỉnh thức nội tâm thực sự, thì những hành vi bề ngoài như làm hang đá, đèn sao sầm uất, trang trí lộng lẫy chỉ là những trò giả tạo, giả hình. Chỉ như cái thùng kêu to là cái thùng rỗng, nhưng thực chất bên trong chẳng có gì. Thật vậy, những hình thức bên ngoài đó chỉ có giá trị khi nó được nội tâm hóa từ bên trong, tức là bên trong đã có và đây chỉ là diễn tả ra bên ngoài mà thôi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con mỗi khi Mùa Vọng về, là mỗi dịp chúng con cần thức tỉnh lương tâm; đồng thời biết hành động đúng theo tinh thần của Chúa để được ơn cứu độ trong ngày Chúa đến đón đợi chúng con. Amen.
30/11 Ngư phủ lưới người
- Viết bởi Mt 4, 18-22
Ngư phủ lưới người.
Thứ Bảy tuần 34 thường niên – THÁNH ANRÊ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
"Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".
* Thánh Anrê quê ở Bétsaiđa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó theo Chúa Kitô. Người cũng đã dẫn em là thánh Phêrô đến gặp Chúa. Chính người cùng với thánh Philipphê đã giới thiệu những người ngoại giáo với Chúa Kitô và đã cho biết có một em bé mang theo bánh và cá khi những người nghe Chúa giảng không có gì ăn. Sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, người đã đi loan báo Tin Mừng ở nhiều nơi và đã bị đóng đinh thập giá ở A-khai-a.
LỜI CHÚA: Mt 4, 18-22
Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.
Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thánh Anrê, Tông Đồ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Như một sự tình cờ, lúc đang đi dọc theo bờ hồ Galilê,
Đức Giêsu thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc.
Hẳn họ đã có lần nghe Ngài giảng và thấy Ngài chữa lành bệnh nhân.
Đức Giêsu yên lặng nhìn các anh làm việc.
Họ đang quăng lưới bắt cá hay ngồi trong khoang vá lưới với cha.
Cảnh tượng rất đời thường và ấm áp.
Đẹp biết mấy chuyện con người làm việc chung với nhau.
Sau này họ sẽ biết cách làm việc với nhau trên con thuyền Giáo Hội.
Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy tôi.
Tôi thế nào, Ngài thấy tôi thế ấy.
Cái nhìn của Ngài không làm tôi bị tê liệt, nhưng cho tôi tự do.
Ngài chấp nhận trọn vẹn con người tôi, cả tội lỗi và yếu đuối.
Chẳng cần son phấn, tôi thu hút Ngài bằng cái mộc mạc của tôi.
Ngài gặp tôi hôm nay lúc tôi đang mải mê làm một việc gì đó.
Ngài gặp tôi giữa cái vất vả kiếm sống của đời thường.
Hạnh phúc cho người nào được thấy Thiên Chúa (Mt 5, 8),
và cũng thật hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa thấy.
“Các anh hãy theo tôi”: đây là một lời mời dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu khởi đi từ tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Người Do Thái thường tầm sư học đạo,
còn ở đây, chính Thầy Giêsu đi chọn môn đệ cho mình (Ga 15, 16).
Ngài mời ta đi theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng cao đẹp hay một dự án hấp dẫn.
“Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới con người.”
Một cuộc đổi đời thực sự, từ lưới cá đến lưới con người.
Con người của mọi dân tộc là mối bận tâm của Thiên Chúa.
Theo Chúa Giêsu là chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại,
và đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới.
Simon và Anrê đã bỏ chài lưới, Giacôbê và Gioan bỏ thuyền và cha.
Sự từ bỏ nào cũng gây ít nhiều xót xa đau đớn.
Biển cả, sóng nước, thuyền bè, lưới cá, người cha, người vợ:
biết bao giá trị phải bỏ lại, những người tôi đã và vẫn còn yêu mến.
Từ bỏ chỉ khả thi nếu tôi gặp một giá trị cao hơn, một tình yêu lớn hơn.
Chúa không đòi mọi người phải sống đời tu, nhưng đòi phải từ bỏ mình.
Từ bỏ đơn giản là đặt Thiên Chúa lên trên mọi thụ tạo khác,
là chọn Giêsu trong giây phút hiện tại, là đón lấy cái bấp bênh.
Bốn anh ngư phủ đã lên bờ để đi theo một ông thợ mộc bỏ nghề.
Đời họ đã sang một trang mới.
Hôm nay Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi như một sự tình cờ.
Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để tôi bỏ và đi theo.
Không thấy và gọi, thì cũng chẳng ai từ bỏ và đi theo.
Tiến trình này được lặp lại nhiều lần, làm nên hành trình Kitô hữu.
Hôm nay tôi mong theo Chúa hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
SUY NIỆM 2: Thánh Anrê, Tông Đồ
Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như anh mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài:
- Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp Đấng Cứu Thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và Anrê có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng Thiên Sai mà nhân loại mong chờ. Gioan và Anrê lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ:
- Các anh tìm chi vậy?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại:
- Thưa Thầy, thày ở đâu?
Chúa Giêsu nói:
- Hãy đến mà xem.
Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà Anrê đã nói với anh mình:
- Chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tôn thờ Đấng Cứu Thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc phục sinh những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói:
- Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8-9).
Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Giêrusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày Chí Thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc Âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc Âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc Hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày.
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:
- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa vặn lại:
- Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:
- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:
- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói:
- Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
SUY NIỆM 3: Thánh Anrê
Chúa đã chọn các tông đồ để tiếp nối sứ mạng rao giảng Tin Mừng và góp tay vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúa tuyển chọn các tông đồ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội. Chúa chọn các tông đồ với ơn huệ nhưng không của Ngài. Chúa muốn chọn ai tùy ý Chúa.
Thánh Anrê
Theo tiếng Hy Lạp, Anrê có nghĩa là trượng phu và thanh nhã. Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Anrê và một tông đồ khác với Chúa Giêsu. Thánh nhân đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành ngư phủ lưới người ta". Anrê và Phêrô đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Anrê đã được nhắc nhớ nhiều lần trong các sách Tin Mừng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã nói tiên tri về thành thánh Giêrusalem, Anrê đã thắc mắc hỏi Chúa Giêsu khi nào thì sẽ xẩy ra như lời Chúa nói. Sau khi Chúa sống lại, các tông đồ nghe lời Chúa ở lại Giêrusalem để lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sau đó ra đi loan báo Tin Mừng. Sử liệu ít ghi lại về công cuộc truyền giáo của các ngài nơi nhiều vùng đất, nơi nhiều nước trên thế giới. Nhưng có đoạn viết đã tường thuật về cuộc tử đạo của thánh Anrê tông đồ. Thánh nhân đã dứt khoát không chịu để cho người ta thương ngài xin quan tha chết cho ngài. Ngài đã dứt khoát chịu chết để được nên giống Chúa Giêsu. Chúa đã chấp nhận lời ngài kêu xin, Ngài đã không chịu khuất phục quan lãnh sự Akai và chấp nhận cái chết như lời Chúa Giêsu đã nói: "Khi nào Ta được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta". Thánh nhân đã được Chúa cho đội mũ triều thiên công chính. Giáo chủ thành Alexandrie năm 357 đã đem hài cốt Ngài về Constantinople.
Lời cầu nguyện
Vì muốn nên giống Chúa Giêsu, thánh nhân đã liều mình, hy sinh chịu chết: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu" (Ga 15,13). Thánh nhân đã cảm nghiệm sâu xa lời: "vì Người mà tôi chịu đau khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi" (2Tm 2,9). Và như thế, Ngài cảm nghiệm: Ðức Giêsu, Ðấng"chúng ta sẽ cùng hiển trị với Người, nếu Ta kiên tâm chịu đựng" (2Tm 2,12).
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính thánh Anrê, người ngư phủ đã tin Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia và mau mắn giới thiệu cho em mình. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố niềm tin của chúng con để chúng con cũng chia sẻ niềm tin của mình cho những người chúng con gặp gỡ. (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Anrê, tông đồ).
(Lm. Nguyễn Hưng Lợi)
SUY NIỆM 4: Tông đồ trước nhất, Anrê
Lễ Thánh Anrê là lễ trước nhất trong lịch sử phụng vụ chư thánh, Ngài là người trước nhất đi theo Đức Giêsu và là người trước nhất tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Messia. Thánh Gioan kể nhiiều chi tiết về Thánh Anrê hơn Thánh Matthêu cho chúng ta biết thái độ của Thánh Anrê.
Anrê là anh của Simon. Ngài đã thuộc nhóm đạo đức của Thánh Gioan tiền hô. Ngài cùng với Thánh Gioan đi tháp tùng Thánh Gioan Tiền Hô. Khi Thày thấy Đức Giêsu đi ngang qua, thày đã nói: “Đây Chiên Thiên Chúa”. Anrê đã bỏ thày lại và đi theo Đức Giêsu, đến nơi ở của Người và họ đã ở lại với Người từ ngày đó!”
Ngày hôm sau, khi em mình là Simon, Ngài nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu”. (Ga 1, 41-42)
Theo truyền khẩu Ngài chết ở Patras Hy Lạp, bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X.
Ngày nay, ta luôn luôn có cảm tưởng rằng để noi gương các thánh, chúng ta phải thực hành nhân đức đặc sác của Ngài. Đúng thế! Nhưng suy nghĩ về các Thánh mà chúng ta biết điều thúc dục chúng ta là luôn cầu nguyện theo gương các Ngài, như phụng vụ khêu gợi cho chúng ta. Tờ kê khai các nhân đức của các Ngài thì dài vô tận và chúng ta sẽ như chim chích vào rừng, nói thế không phải chuyện dỡn!
Nhưng thay vì lạc vào rừng, tiên vàn ta hãy theo Thánh Anrê, cũng như các thánh, muốn dạy chúng ta bài học độc nhất là: gặp gỡ Đức Ki-tô và yêu mến Người. Đó là đúng nhất. Không còn bài học nào khác, cũng không phải tìm ai nữa, Ngài đã tìm được Đấng giải thích cho lý trí của Ngài: “Tôi đã gặp được Đấng tôi yêu và yêu tôi”. “Tôi yêu Người trọn vẹn vì lý do đó”.
Anrê nghĩa là dâng hiến, là trung tín, là tất cả trong tình yêu, tình bạn khiêm tốn.
J.M.
SUY NIỆM 5: THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ
(http://tinmung.net//Phó Tế Huỳnh Mai Trác)
Thánh Anrê quê ở Bethsaida, xứ Galilê, cùng với em là Phêrô, làm nghề đánh cá bên bờ hồ Tiberia. Anrê là người khát vọng Thiên Chúa. Khi được nghe thánh Gioan Tẩy giả rao giảng và làm phép rửa thì Anrê biết rằng Đấng Cứu Thế đã đến. Và khi nghe Gioan giới thiệu về Ðấng Cứu Thế: “Hãy nhìn Đức Giêsu đang đi đến, đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” Anrê nghe Gioan nói như vậy liền đi theo Chúa Giêsu và từ đó không hề rời Chúa nữa bước. Anrê vội vã tìm em mình là Simon Phêrô và nói: “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Messia, có nghĩa là Đấng Kitô!.” và đem Phêrô giới thiệu cùng Chúa Giêsu. Từ giờ phút này Anrê là một người Tông đồ thật sự của Chúa.
Chúa Giêsu đã không hứa gì với Anrê và Phêrô. Nhưng khi được gọi thì hai ngài đã bỏ tất cả để theo Chúa. Các ngài từ bỏ những gì các ngài sở hữu, từ vật chất đến tinh thần một lòng quyết theo Chúa. Không giữ gì riêng cho mình cho đến cả mạng sống.
Anrê là người biết cách móc nối với người khác. Chính Anrê đã đem cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá đến với Chúa để Chúa làm phép hóa bánh và cá ra nhiều đủ nuôi năm ngàn người và còn dư thừa. Khi những người Hy lạp muốn được gặp Chúa Giêsu thì cũng chính Anrê đứng ra dàn xếp.
Các nguồn tài liệu cho biết thánh Anrê đã bị hành quyết tại Patras xứ Hy lạp. Vào thế kỷ thứ bốn, hài cốt của ngài được di chuyển về Constantinople. Đến thế kỷ 15 một số di tích quan trọng được đem về đặt để tại Vatican, đến năm 1966 thì được giao chuyển lại cho Giáo Hội Đông Phương như một thiện chí hiệp thông giữa Giáo Hội La mã với các giáo phụ Đông Phương. Xứ Ukrainia tôn kính thánh Anrê như đấng đầu tiên mang Tin Mừng đến Kiev và xứ Scotland thì chọn ngài làm đấng phù trì quốc gia của họ.
SUY NIỆM 6: THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ
Anrê tiếng Hy Lạp có nghĩa là mạnh mẽ, can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm 1 trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Thân phụ là Gioana. Như anh mình là Phêrô, ngài làm nghề đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền.
Như thế, ngài thuộc lớp người nghèo được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênêzareth. Thánh Anrê là một trong 4 người môn đệ đầu tiên đã được Chúa Giêsu gọi ngay sau khi Người chịu phép rửa ở sông Giođan, lúc ấy Anrê đang là môn đệ của Gioan Tẩy giả.
Phúc âm kể như sau: “Hôm đó, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu, Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế ?”
Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là “Thưa Thầy”), Thầy ở đâu ?”
Người bảo họ: “Hãy đến mà xem”.
Họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người. Lúc đó vào khoảng 4 giờ chiều (Ga 1, 35-39). Và sau khi ở lại với Chúa Giêsu, Anrê đã giới thiệu Chúa cho anh mình trước tiên: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1, 41-42).
Rồi ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha (tức là Phêrô)” (Ga 1, 40-43).
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy, Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Thánh nhân được Chúa chính thức gọi theo Người lúc đang thả lưới với anh là Phêrô, ở biển hồ Tibêria. Người gọi các ông trong hoàn cảnh sau đây: “Người đang đi dọc biển hồ Galile thì thấy hai anh em kia, là ông Simon cũng gọi là Phêrô, và người em là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển. Vì các ông làm nghề đánh cá, Người bảo các ông: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức, các ông bỏ chài lưới đi theo Người (Mt 4, 18-20).
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc Chúa phục sinh những kẻ chết. Trong phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều, chính Anrê là người lên tiếng thưa với Chúa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu !” (Ga 12, 22).
Ở Giêrusalem, Anrê còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người (Ga 12, 23). Anrê đã được nghe loan báo về các chân phúc, các dụ ngôn, ngài cũng có mặt trong bữa tiệc ly. Sau Phục sinh, ngài đã sung sướng gặp lại Thầy Chí thánh. Ngày lên trời, Anrê thấy Thầy khuất vào đám mây. Ngày hiện xuống, Anrê cùng các tông đồ hân hoan đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc Âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Tương truyền sau khi Chúa về trời, thánh nhân đã loan báo Tin Mừng ở Giêrusalem, Giuđê và Galilê. Sau đó, ngài đến giảng đạo ở vùng Biển Đen và Hy Lạp rồi chịu tử đạo tại đây.
Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc Âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc Hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, ngài ăn chay 5 ngày.
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Êgêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: “Kẻ ngoại lai” này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư ?
Nhưng Anrê không sợ gì Êgêa. Ngài đã nắm vững được chân lý, ngài nói: Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết, ông phải biết đến Vị Thẩm phán xét xử mọi người ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.”
Êgêa vặn lại: “Vị Thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì ? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.” Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc, làm sao ngài để mất danh dự được đóng đinh và cùng một đau khổ giá như Thầy mình được ? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, ngài nói với Êgêa: “Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.”
Thánh nhân chẳng những không sợ mà còn vui mừng nói: “Chết treo trên khổ giá, đó là hạnh phúc lớn nhất của tôi, vì được chết giống Thầy Chí thánh của tôi”. Viên tổng trấn nổi giận truyền đem treo ngài lên thập giá cho chết.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính và nói: “Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu ta mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.” Dịu dàng, Anrê giang tay ra, ngài bị cột bằng dây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo dây cho ngài. Họ nói: “Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quý của Thiên Chúa.”
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi Thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp Thầy, trong Thầy mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.” Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền rằng việc thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV, người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
Lý hình cột treo ngài lên thập giá. Từ trên cao, ngài kêu gọi mọi người hãy tin thờ Chúa rồi gục đầu tắt thở.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã khen ngợi thánh Anrê tông đồ: “Sau khi ở lại với Đức Giêsu và học cùng Người được nhiều rồi, Anrê đã không giấu kho tàng quý báu nơi mình, nhưng vội vàng chạy đến anh mình và chia sẻ với họ…
“Những điều ông đã học trong thời gian rất vắn kia, ta có thấy ông đã nói lên thế nào ? Ông vừa tuyên xưng uy thế của Thầy, một uy thế hấp dẫn các môn đệ, vừa nói lên sự siêng năng chăm chỉ của môn đệ đã chuyên chú ngay từ đầu. Đó là tiếng nói của một tâm hồn hết sức ao ước Đấng Mêsia đến, và của linh hồn mong đợi Người tự trời đến, họ nhảy mừng khi thấy Người hiện ra, rồi vội vàng đi báo tin đặc biệt đó cho kẻ khác. Đặc điểm của tình anh em, của nghĩa bạn bè và của tấm lòng chân thật là thông đạt cho nhau những điều thiêng liêng.”
Thánh Anrê là mẫu gương người công chính mới này. Quả vậy, Anrê nghe theo lời giới thiệu của Thầy mình là thánh Gioan Tẩy giả đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1, 29-35). Trong cuộc gặp gỡ này, ngài đã tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Nhờ niềm tin này mà ngài đã bỏ mọi sự để đi theo Chúa và làm tông đồ của Chúa trong nhóm Mười Hai (Ga 1, 35-42).
Trong lễ kính thánh Anrê, bài Tin Mừng (Mt 4, 18-22) thuật lại ơn gọi như sau: Chúa Giêsu “thấy” những người này: Người kêu gọi, họ bỏ tất cả và đi theo Người. Họ cũng không tìm lý do và cũng không sợ khó khăn. Thực ra, họ cảm nghiệm bằng tình yêu nhanh hơn lý trí: Đức Giêsu là ai và đi theo Người có nghĩa là gì.
Đặt bài Tin Mừng này trong ngày lễ mừng kính thánh Anrê tông đồ, phụng vụ muốn chúng ta nhận thức rằng: “Thánh Anrê là một trong nhóm Mười Hai tông đồ của Chúa. ngài đã nghe nói, được giới thiệu về Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, nên ngài đã hoàn toàn dấn thân và dâng trọn cuộc đời cho Chúa trong đời sống và sứ vụ Tông đồ.”
Thánh Anrê quả là vị Tông đồ giàu tình bạn và ngài đã quảng đại và vị tha chia sẻ Chúa Giêsu cho người khác, chứng tỏ Anrê là người khiêm nhường, người làm công cho kẻ khác, là người ẩn mình để kẻ khác lớn lên, là người giữ vai phụ cho người khác và ông sẵn sàng bị quên lãng. Trong cánh đồng Tông đồ truyền giáo để mở rộng Nước Chúa, Chúa Giêsu cần những người như Anrê. Bạn có sẵn lòng làm công việc như Anrê để rao giảng Tin Mừng không ?
Qua con người và công việc của thánh Anrê, chúng ta cảm nhận rằng Chúa cần những người giàu tình bạn chân thành. Những người tuy tài năng chỉ “một nén” nhưng sống làm chứng và ra đi kể lại câu chuyện “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”.
Những cuộc gặp gỡ nhau để chia sẻ kinh nghiệm sống Lời Chúa, những hoạt động Tông đồ truyền giáo khắp nơi đang diễn ra trên thế giới… phải chăng là những công việc của thánh Anrê mà chúng ta mừng kính hôm nay ?
Ước gì lời chúng ta tung hô trong mỗi thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến” được thực hiện nơi cuộc sống của mỗi người chúng ta theo tinh thần của thánh Anrê: vị Tông đồ giàu tình bạn.
SUY NIỆM 7: THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ
(http://giaophanvinhlong.net)
Andreas mà tiếng Việt Nam phiên âm là Anrê là một danh từ ít dùng trong tiếng Hy lạp. Tuy nhiên nó mang một ý nghĩa rất thi vị: Anrê nghĩa là trượng phu, thanh nhã.
Đọc Tân ước, chúng ta chỉ thấy một ít đoạn sau đây nói về thánh Anrê, hoặc nói đến tên ngài.
Lần trước hết: hôm ấy thánh Gioan Tẩy giả đứng với hai môn đệ tại Bêthania, bên kia sông Giođanô. Nhìn thấy Chúa Giêsu đi qua, ngài nói với hai môn đệ: “Kìa Con Chiên Thiên Chúa”. Nghe nói như thế, hai môn đệ vội rảo theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu bảo họ: - Các người tìm ai?
- Thưa Thầy, Thầy đi đâu bây giờ?
- Cứ đến mà xem.
Lúc đó là bốn giờ chiều và hai môn đệ đi theo Chúa suốt buổi hôm ấy. Hai môn đệ đó là Anrê; em ông Simon Phêrô, và một người khác có lẽ là Gioan. Lúc về nhà gặp Phêrô, Anrê kể lại cho em nghe: “Ồ, chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mesia, rồi Anrê dẫn em đến gặp Chúa Giêsu. Hôm sau, Chúa Giêsu trẩy đi Galilêa còn Anrê và Phêrô ở lại Bétsaiđa mạn bắc hồ Tibêria.
Nhưng lần khác, đi trên bờ hồ Chúa Giêsu thấy Anrê và Phêrô đang thả lưới vì các ông là những dân chài, Chúa liền bảo họ: - Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi nên kẻ đánh lưới người!
Lập tức họ bỏ lưới và theo Chúa. Lại một lần sau khi giảng ở nhà hội Caphanaum ra, Chúa vào nhà ông Phêrô và Anrê chữa khỏi bệnh cho bà mẹ vợ ông Phêrô.
Còn lần trên núi, bên kia biển Galilêa, dân chúng vây quanh Chúa Giêsu. Thấy họ đói, Chúa Giêsu lại hỏi: - Làm sao kiếm của ăn cho họ được ?
Thánh Anrê thưa: - Đằng kia có đứa trẻ mang năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá nhỏ, nhưng bấy nhiêu thấm vào đâu với số người đông đảo này!
Chúa Giêsu nói: - Cứ bảo họ ngồi xuống. Rồi Người làm phép lạ nhân bánh ra nhiều và phân phát cho mỗi người được ăn no nê. Cũng chính Anrê lúc ở Giêrusalem vì thánh Philipphê xúi giục đã trình bày cho Chúa biết có một số dân ngoại nói tiếng Hy lạp muốn xin gặp Chúa. Lần nữa, khi Chúa Giêsu ở đền thờ đi ra và nói cho các môn đệ biết ngày “tàn” của đền thánh, thì thánh Anrê cùng với thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, đã lợi dụng lúc Chúa ngồi trên núi cây dầu nhìn về thánh đường đến hỏi riêng Chúa: - Xin Thầy hãy nói cho chúng con biêt khi nào việc ấy xảy đến, và có dấu hiệu gì báo trước!
Sau cùng thánh Anrê là một trong lớp mười hai tông đồ được Chúa sai đi giảng đạo. Trong số mười hai tông đồ, thánh Matthêu và thánh Luca kể thánh Anrê sau thánh Phêrô, thánh Máccô lại kể ngài sau ba thánh Phêrô; Giacôbê và Gioan. Tuy nhiên các sách Hy lạp vẫn chủ trương thánh Anrê được Chúa gọi đầu tiên.
Tài liệu Phúc âm chỉ cho chúng ta biết như vậy về thánh Anrê. Còn riêng về quãng đời truyền giáo của thánh nhân, chúng ta không có một văn liệu nào xác đáng. Trừ một đoạn văn rất đẹp ghi lại rất vắn tắt cuộc tử đạo của ngài như sau:
Quan lãnh sự xứ Akhaia truyền trói thánh Anrê vào cây thập giá để ngài chết dần mòn. Dân chúng nhất định không chịu, họ bảo: người này là đấng công chính, là bạn của Thiên Chúa, và là bậc thầy nhân hậu mà phải điệu đi giết à! Nhưng đứng trước thánh giá, thánh nhân kêu lên:
“Ôi! Thánh giá! Ôi sự rỗi từ lâu bạn đã mệt mỏi chờ tôi! Tôi tin tưởng rằng bạn sẵn sàng đón nhận người đầy tớ của Đấng đã chịu treo trên bạn, và tôi sung sướng bước đi theo bạn. Tại sao bạn được dựng lên ở đây, tôi đã nhận biết tất cả bí nhiệm của bạn rồi. Xin bạn hãy nhận lấy kẻ bạn mong chờ, để chính tôi, kẻ ngày đêm thầm ước vẻ đẹp của bạn cũng tìm thấy bạn. Nơi bạn tôi tìm được phần thưởng Thiên Chúa hứa cho tôi. Ôi Thánh giá dịu hiền! Hãy đưa kẻ hèn này về với Thiên Chúa Đấng Cứu chuộc tôi”.
Dân chúng lặp lại những lời ấy cho quan phó lãnh sự nghe và kêu nài:
“Xin ông hãy trả lại cho chúng tôi người công chính, người thánh của Thiên Chúa. Xin đừng đang tâm giết người đẹp lòng Thiên Chúa. Đừng động đến con người hiền lành và đạo đức dường ấy. Đã hai ngày chịu treo nhưng ông ấy vẫn còn sống và luôn thốt ra những lời thánh thiện. Xin quan hãy trả lại chúng tôi con người thánh này để chúng tôi được sống với ông. Xin quan cởi trói người trinh khiết này để mọi gia đình được an hòa, hãy buông tha người hiền nhân này để khắp xứ Akhaia được hưởng nguồn cứu độ. Còn thánh Anrê ngài kêu cả tiếng:
“Lạy Chúa Kitô, xin đừng để đầy tớ Chúa đã được treo lên cây gỗ này vì danh Chúa bị tháo gỡ xuống. Xin chớ để kẻ được diễm phúc thấu hiểu huyền nhiệm thánh giá bị rơi vào mưu gian loài người... Nhưng lạy Chúa Giêsu, Đấng con yêu mến, tin nhận và ao ước được hưởng kiến, xin hãy đón nhận con, vì linh hồn con sắp được giải thoát. Amen”.
Theo sử gia Êusêbiô, thánh Anrê giảng đạo tại Scythia, nhưng theo nhiều tác giả khác, thánh tông đồ lại giảng đạo tại Êthiôpia, mấy xứ về phía nam Hắc hải và Patras thuộc Akhaia.
Nhưng điều phức tạp hơn cả có lẽ là nơi để thi hài thánh nhân. Thánh Gioan Kim khẩu nói rõ rằng không biết. Trái lại, sách tử đạo thư dòng thánh Giêrônimô lại chép ngài làm Giám mục tại Patras và chết ngày 30 tháng 11 mà không rõ thánh nhân chết năm nào. Nhưng năm 357, giáo chủ thành Alexanđria đem hài cốt ngài về Constantinôpôli. Ngoài ra còn rất nhiều nơi tự xưng là giữ được hài cốt thánh Anrê, như miền Fênicia, miền Basilicate, miền Concordia và đảo Chyprô. Vì thế, ngay từ mấy thế kỷ đầu tiên, rất nhiều nhà thờ mang tên thánh Anrê. Ngay ở Rôma năm 475, Đức Giáo Hoàng Simpliciô đã xây và thánh hiến một thánh đường kính thánh Anrê gần đại giáo đường Đức Bà Cả. Và cho đến thời Trung cổ, tại Rôma có hơn 30 nhà thờ dâng kính thánh Anrê. Phá kỷ lục hơn hết là tại nước Anh có hơn 700 thánh đường hay nguyện đường nhận thánh Anrê làm bổn mạng. Riêng tại nước Pháp, cũng như tại Việt Nam, sau thánh Phêrô, thánh Anrê rất được giáo dân tôn sùng và nhận làm bổn mạng.
Giáo hội kính lễ thánh Anrê vào ngày 30 tháng 11 hằng năm.
SUY NIỆM 8: Chân dung Thánh Anrê Tông đồ
(http://longchuathuongxot.vn//TRẦM THIÊN THU)
Ngày 30 tháng Mười Một, Giáo hội Công giáo mừng lễ kính Thánh Anrê Tông Đồ. Ngài là một trong bốn môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu, nhưng ngài ít xuất hiện và cũng ít được nhắc tới.
Thánh Anrê là anh của Thánh Phêrô, gọi là Simon, con ông Giôna. Hai anh em làm nghề đánh cá ở vùng biển Galilê. Trong danh sách các tông đồ, Thánh Anrê thường được nhắc tới ngay sau Thánh Phêrô.
Theo Hy ngữ, tên Anrê có nghĩa là “can đảm” hoặc cái gì đó “nam tính”, diễn tả ý cha mẹ mong muốn nơi con trai của mình. ĐGH Benedicto XVI nói: “Điều ấn tượng là tên Anrê không là tiếng Do Thái, mà là tiếng Hy Lạp, cho thấy sự cởi mở về văn hóa trong gia đình ngài. Ở Galilê có văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp” (Buổi Tiếp Kiến Chung, 14-6-2006).
Cha mẹ đã đặt tên cho con trai lớn là Anrê, tên theo tiếng Hy Lạp, nhưng lại đặt tên con trai thứ là Simôn, tên theo tiếng Aram. Điều đó phản ánh môi trường văn hóa phan trộn giữa Do Thái và dân ngoại tại Galilê.
Khi Chúa Giêsu đi dọc theo biển hồ Galilê thì thấy hai anh em Anrê và Simon (Phêrô) đang quăng chài xuống biển, Ngài nói: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người (Mt 4:18-20).
Trong các Phúc Âm nhất lãm và sách Công Vụ, danh sách 12 Tông đồ luôn được liệt kê thành ba nhóm, mỗi nhóm bốn người. Nhóm thứ nhất nói tên những người gần gũi Chúa Giêsu nhất, trong đó có hai cặp anh em: [1] Phêrô và Anrê, các con của ông Giôna, [2] Giacôbê và Gioan, các con của ông Dêbêđê.
Như vậy, Thánh Anrê là một trong bốn Tông đồ gần gũi với Chúa Giêsu nhất, nhưng Thánh Anrê có vẻ ít gần gũi nhất trong bốn người. Thật vậy, đã vài lần Phêrô, Giacôbê và Gioan được ưu tiên đi với Chúa Giêsu, nhưng không có Anrê. Chẳng hạn khi Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor, có mặt Phêrô, Giacôbê và Gioan, nhưng không có Anrê. Kinh Thánh cho biết rằng Thánh Anrê là một trong các Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ông thấy Chúa Giêsu trước Phêrô. Vì là người theo Chúa Giêsu trước, ông mệnh danh là Protoklete – Tông đồ được gọi đầu tiên.
Thánh Anrê thực sự là con người của niềm tin và hy vọng. Khi nghe Gioan Tẩy Giả gọi Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36), Anrê ngạc nhiên, lúc đó có một môn đệ khác: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: ‘Các anh tìm gì thế?’. Họ đáp: ‘Thưa Thầy, Thầy ở đâu?’. Người bảo họ: ‘Đến mà xem’. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1:37-39).
Như vậy, Anrê đã được tận hưởng giây phút thân mật với Chúa Giêsu. Kinh Thánh cho biết: “Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia’ (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: ‘Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha’ (tức là Phêrô). Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê. Người gặp ông Philípphê và nói: ‘Anh hãy theo tôi’. Ông Philípphê là người Bếtxaiđa, cùng quê với các ông Anrê và Phêrô” (Ga 1:40-44). Thánh Anrê có tinh thần tông đồ khác thường.
Khi chạnh lòng thương dân chúng và muốn cho họ ăn uống, vì lúc đó chiều tối rồi, Chúa Giêsu bảo các môn đệ lo cho họ ăn, ông Philípphê nói: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6:7). Lúc đó, ông Anrê thưa với Chúa Giêsu: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6:9). Và hôm đó, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho khoảng 5.000 người ăn no nê, không kể phụ nữ và trẻ em.
Thánh Anrê rất nhạy bén khi thấy ngay một đứa bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, nhưng ngài cũng rất thực tế khi nhận thấy “bấy nhiêu chẳng thấm vào đâu” so với đám đông người như vậy. Tuy nhiên, Chúa Giêsu biết mình sắp làm gì nên bảo đem số thực phẩm ít ỏi đó cho Ngài.
Một lần khác, một trong các môn đệ thân tín (có thể là Anrê) đã chỉ đền thờ và trầm trồ khen công trình đồ sộ, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mc 13:2).
Sau đó, lúc Đức Giêsu ngồi trên núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi nhỏ: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục thì có điềm gì báo trước” (Mc 13:4). Chúa Giêsu bắt đầu nói với các ông: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói ‘Chính Ta đây!’, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi đầu các cơn đau đớn” (Mc 13:5-8).
Qua đó, chúng ta có thể suy diễn rằng chúng ta không nên ngại hỏi Chúa Giêsu điều gì, dù hỏi nhiều, nhưng chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận giáo huấn của Ngài dành cho chúng ta, chắc chắn có thể có những điều không hợp ý riêng của chúng ta, nhưng đó mới là cách “xin vâng” đẹp Ý Thiên Chúa.
Thánh Anrê còn là nhịp cầu” nối kết những người Do Thái và dân ngoại đi theo Chúa Giêsu. Anrê và Philipphê là người trung gian giữa Chúa Giêsu và người Hy lạp. Khi có những người muốn gặp Chúa Giêsu, ông Anrê và ông Philípphê đến thưa với Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12:23-25).
Chúa Giêsu muốn nói rằng Ngài sẽ gặp nhóm người Hy Lạp, nhưng không đơn giản, vì họ chỉ hiếu kỳ mà thôi. Giờ vinh quang của Ngài sẽ đến bằng cái chết, như hạt lúa mì được gieo vào lòng đất. Cái chết trên Thập Giá của Ngài sẽ đơm hoa kết trái: Hạt lúa mì chết đi là biểu tượng cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá, hạt lúa mì chết đi mới trổ sinh bông hạt là biểu tượng sự phục sinh. Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh và là Ánh Sáng cho mọi dân tộc. Nói cách khác, Chúa Giêsu đã tiên tri về Giáo hội, hóa trái phát sinh từ Cuộc Vượt Qua của Ngài.
ĐGH Benedicto XVI cho biết: “Một số truyền thống cổ coi Thánh Anrê là người trung gian của người Hy Lạp khi gặp Chúa Giêsu, là Tông đồ của người hy Lạp trong những năm sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Họ cho chúng ta biết rằng Thánh Anrê dành phần đời còn lại để rao giảng và làm trung gian cho Chúa Giêsu đối với người Hy Lạp”.
Thánh Phêrô, em trai của Thánh Anrê, đã đi từ Giêrusalem tới Antiôkia và Rôma để thực hiện sứ vụ. Còn Thánh Anrê lại đi rao giảng cho người Hy Lạp. Họ là huynh đệ về huyết thống và cả về mối tương quan giữa Tòa Thánh và Constantinople. Hai Giáo hội vẫn là “chị em” với nhau. Năm 1964, Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã trao thánh tích Thánh Anrê cho Tổng giám mục Chính Thống giáo của GP Patras ở Hy Lạp, nơi Thánh Anrê đã chịu tử đạo. Trước đó thánh tích Thánh Anrê được lưu giữ tại Vatican. Năm 2006, Giáo hội Công giáo, qua ĐHY Roger Etchegaray, đã trao phần thánh tích khác của Thánh Anrê cho Giáo hội Chính thống Hy Lạp.
Đức Thượng Phụ của Giáo hội Constantinople là Bartholomew I đã thăm ĐGH Phanxicô sau khi được bầu làm giáo hoàng. Là người kế vị Thánh Phêrô, ĐGH Phanxicô đã lưu ý vai trò quan trọng của Đức Thượng Phụ Bartholomew I là người kế vị Thánh Anrê và gọi là “người anh em Anrê”. ĐGH Phanxicô vui mừng nói: “Trước mặt mọi người, tôi hết lòng cảm ơn về những điều Đức Thượng Phụ Bartholomaios I đã nói với chúng ta. Xin cảm ơn nhiều! Xin cảm ơn nhiều!”.
Truyền thống cho biết rằng Thánh Anrê tử đạo tại Patras (Patræ), Hy Lạp, thuộc vùng Achaea, phía Bắc duyên hải Peloponnese. Ngài tử đạo bằng cách chịu đóng đinh trên thập giá hình chữ X, quen gọi là “Thập Giá Thánh Anrê”. Còn người em là Thánh Phêrô thì xin được đóng đinh ngược vì cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như Thầy Giêsu. Thánh Anrê là bổn mạng của nước Tô Cách Lan, Nga và Hy Lạp. Quốc kỳ của nước Tô Cách Lan là hình Thập Giá của Thánh Anrê.
Như chúng ta thấy, ở đây là tinh thần Kitô giáo rất sâu sắc, không coi Thập Giá là cực hình nhục nhã mà là phương tiện đến với Đấng Cứu Độ, để hạt lúa mì nảy sinh. Bài học quan trọng: Thập giá của cuộc đời chúng ta sẽ đạt được giá trị nếu chúng ta vui vẻ chấp nhận đó là một phần của Thập Giá Đức Kitô, và coi đó là Ánh Sáng Đức Kitô chiếu tỏa trên chúng ta.
Lạy Thánh Anrê, xin nguyện giúp cầu thay. Xin thúc giục lòng chúng con mau mắn nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa ngay. Amen.
SUY NIỆM 9: ƠN GỌI VÀ SỨ MẠNG Mt 4, 18 - 22
(http://www.tinvuixuanloc.vn//Nt. Anna Nguyễn Thị Nguyện)
Thánh Matthêu thuật lại việc Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên, đang khi các ông đang hành nghề chài lưới, trong số đó có thánh Anrê. Đáp lại lời mời gọi của Chúa: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành lưới người như lưới cá”. Anrê bỏ lại tất cả theo Chúa, Anrê đã tin nhận Đức Giêsu là Đấng Messia và đem anh là Simon Phêrô giới thiệu với Chúa và cả hai trở nên môn đệ của Chúa. Khi được Chúa gọi và trao cho sứ mạng, từ nay cuộc đời của Anrê thay đổi hoàn toàn. Anrê đã dành trọn cuộc đời cho ơn gọi theo Chúa. Từ một dân chài lưới trở thành người rao giảng Tin Mừng của Chúa cho muôn dân. Thánh Anrê đã trung thành với sứ mạng ấy bằng cả cái chết, nhờ đó Tin Mừng cứu độ của Chúa được đến với muôn dân muôn nước. Thánh Anrê rao giảng Tin Mừng tại các nước HyLạp, Nga và Ba Lan. Ngài bị đóng đinh vào thập giá như Thầy của mình, nhưng là thập giá hình chữ x.
Phải chăng mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi và trao cho một sứ mạng. Ơn gọi làm linh mục được găn liền với sứ mạng mục tử của Chúa Kitô; Ơn gọi thánh hiến trong bậc tu trì là sống theo mẫu gương của Chúa và làm chứng cho Nước Trời mai sau. Ơn gọi hôn nhân gắn liền với sứ mạng sinh sản và giáo dục con cái…Và mỗi người chỉ có hạnh phúc thật sự khi sống đúng với ơn gọi và sứ mạng của mình. Một người gia trưởng trong gia đình sẽ tìm thấy niềm vui khi chu toàn bổn phận một người chồng, người cha trong gia đình. Người mẹ cũng gặp được hạnh phúc khi thể hiện sứ mạng làm mẹ trong việc sinh thành dưỡng dục con cái của mình trở nên những đứa con ngoan. Một Linh Mục cũng sẽ tìm được hạnh phúc khi là người mục tử hy sinh cho đoàn chiên, khi thấy những vất vả của mình đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Những người sống đời thánh hiến cũng chỉ tìm được bình an đích thực khi bước theo Chúa Kitô một cách trọn vẹn và chu toàn sứ mạng Chúa trao phó .
Mọi thụ tạo được dựng nên đều tốt lành và hoàn hảo theo tính chất riêng của mỗi loài. Sự trật tự lạ lùng trên trái đất chỉ tồn tại khi muôn loài muôn vật thi hành đúng chức năng của nó: mặt trời chiếu sáng, hoa tỏa hương, muối ướp mặn, biển gợn sóng… Tất cả đang biểu lộ nét đặc thù của mình đồng thời tô điểm cho trái đất sinh tươi hài hòa. Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, được Chúa mời gọi tham dự vào sứ mạng của Chúa là đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Sứ mạng ấy được thể hiện ngay trong bổn phận gắn liền với ơn gọi bậc sống mà Chúa đã an bài cho mỗi người và tìm thấy hạnh phúc ngay trong ơn gọi và sứ mạng riêng biệt của mình.. Tuy nhiên, cuộc sống hôm nay còn nhiều bất trắc và đau khổ, thiên tai, bệnh tật, nghèo đói con người rơi vào bất hạnh và thất vọng. Phải chăng con người đã không sống đúng với phẩm giá cao quí ấy: vì là kiệt tác trong các loài thụ tạo của đấng tạo thành, con người có khả năng nhận biết và yêu mến. Nhờ đó con người có khả năng đáp trả tiếng gọi yêu thương của Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Vì thế con người chỉ sống đúng phẩm giá của mình là yêu thương và chỉ tìm thấy hạnh phúc khi biết sống yêu thương .
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con làm người, làm kitô hữu, Chúa đã mời gọi và trao cho chúng con một sứ mạng. Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Anrê tông đồ xin cho chúng con biết sống xứng đáng với ơn Thiên Chúa đã kêu gọi và chu toàn sứ mạng Chúa trao phó, nhờ đó chúng con tìm được hạnh phúc và niềm vui trong cuộc sống hôm nay và mai sau cũng được thừa hưởng vinh quang Nước Trời.
SUY NIỆM 10: Thánh Anrê con người khiêm tốn
Khi một chiếc tầu hỏa xuyên châu lục chạy vèo qua khung cửa, một giám mục đã già đang nói với một linh mục trẻ vừa mới ra khỏi chủng viện về đời sống đầy những biến cố của ông. Rồi ông quay lại linh mục trẻ và yêu cầu ông này kể lại ơn gọi của mình.
Linh mục kiểu cách đáp lại:
”Ồ, nói ra thì rất đơn giản, tất cả những gì con muốn nói là vì Chúa đã cần đến con.”
Giám mục nhận xét: ”Này anh bạn trẻ, đây là sự trùng khớp thật thú vị: Nếu như tôi còn nhớ, trong Tin Mừng chỉ có một lần Chúa nói Người cần một cái gì đó. Trong Lu-ca 19:34 nhân dịp Người sắp sửa vào Giê-ru-sa-lem một cách vinh quang, Người nói Người cần một con lừa.”
Thánh Kinh có câu: "Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi” (Tv 130, 1). Ai sống khiêm tốn thì sẽ được Thiên Chúa yêu thương và được mọi người quý mến.
"Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Điều Chúa cần nơi chúng ta chính là tấm lòng khiêm tốn thực thi thánh ý Người.
Thánh Anre là một con người như thế. Đầy khiêm tốn và nhiệt huyết. Theo Thánh Kinh Anrê là môn đệ đầu tiên được thánh Gioan giới thiệu đến với Chúa Giêsu. Anre đã không nghĩ cho mình mà ông đã nghĩ đến anh.
Ông đã gặp anh và nói "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia. rồi ông đưa Simon Phêrô đến gặp Đức Giêsu. (Ga l,41-42).
Lần thứ hai chúng ta gặp lại An rê trong Kinh Thánh vài tháng sau.
Một đám đông nghe Chúa giảng suốt ngày. Trời đã xế và Người phải trở về. Đối với một số người. đường đi xa xăm lắm.
Những người đàn bà đã thấm mệt, những đứa trẻ đã lả người.
Họ không còn lương thực. Tông đồ của Chúa Giêsu nghĩ ngợi hoang mang.
Rồi Anrê bước tới, Phúc âm lại bảo "Anrê, em của Phêrô" lại một lần nữa đã giới thiệu một người đến với Chúa Giê-su khi ông nói:
"Đây có một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá..." (Ga 6,9).
Và rỗi lần thứ ba ta gặp lại nhằm vào ngày lễ cuối cùng của cuộc đời Đấng Cứu Thế.
Đức Giêsu vào Yêrusalem vinh dự tràn đầy. Vài người gốc Hy Lạp đến Yêrusalem (Ga 12,20). Họ đến dự lễ Vượt Qua. Họ nghe nói về Giêsu Nazareth. Họ muốn gặp Người.
Và thế là Anrê, không một giây do dự, cùng Philíp đã dẫn những người gốc Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu, và chắc hẳn đó là điều làm Chúa hài lòng.
'Và người ta sẽ từ Phương Đông. Phương Tây, từ Phương Bắc, Phương Nam mà đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" (Lc 13,29).
“Còn Thầy, một khi Thầy được giương lên khỏi mặt đất. Thấy sẽ kéo mọi người lên với Thầy" (Ga 12,32).
Ngoài ba lần ấy, ta không côn gặp lại An rê nữa.
Qua đây ta thấy, Anrê luôn là người giới thiệu kẻ khác cho Chúa Giêsu.
Nhưng nhờ Anre mà Chúa có một người thừa kế di sản của Chúa. Nhờ Anre mà Chúa có thể nhân rộng bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn. Nhờ Anre mà Chúa đã mang tin mừng tới cho dân ngoại.
Xin cho chúng ta biết noi gương thánh Anre luôn sống quảng đại nhưng đầy khiêm tốn. Không khoe trương đánh bóng chính mình nhưng hết mình mang người khác đến với Chúa để nhờ những nỗ lực của chúng ta, Giáo hội có thêm nhiều người làm tông đồ sáng danh Chúa. Amen.
29/11 Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố.
Thứ Sáu tuần 34 thường niên.
"Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến".
Lời Chúa: Lc 21, 29-33
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ thí dụ này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến.
Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Xem cây vả
Suy niệm:
Cây vả là một cây rất thường thấy ở xứ Paléttin.
Khi nó đâm chồi, người ta biết ngay đã vào mùa hè.
Rồi thì nó sẽ ra hoa và kết trái.
Không phải chỉ có cây vả, mọi cây khác cũng vậy (c.29).
Cứ nhìn tình trạng hiện tại của cây, ta biết được điều gì sắp xảy đến.
Nước Thiên Chúa cũng vậy.
Trước khi Nước Thiên Chúa đến sẽ có những dấu hiệu
ở trên trời, dưới đất hay ngoài biển khơi.
Đức Giêsu đã nhắc cho ta về những dấu hiệu đó (Lc 21, 11. 25-26).
Khi bắt đầu đi rao giảng cách đây hai ngàn năm,
Đức Giêsu tuyên bố: Nước Thiên Chúa đã đến gần (Mc 1, 15).
Và Nước ấy đã được khai mạc với chính con người Đức Giêsu.
Lời nói và việc làm của Ngài đã mở ra Nước ấy trên mặt đất.
Như hạt giống, Nước ấy đã không ngừng lớn lên cả ngày lẫn đêm,
đã ảnh hưởng mạnh mẽ như nhúm men trong đống bột,
và đã phải chịu sự tấn công của kẻ thù gieo cỏ lùng vào giữa lúa.
Với sự phục sinh của Đức Giêsu, Nước ấy chắc chắn sẽ đến.
Chắc chắn Nước Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang,
dù chúng ta không biết rõ khi nào, tuy sẽ có những điềm báo trước.
Ngày Nước Thiên Chúa đến cách huy hoàng trên trái đất
sẽ là ngày tận thế, ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét mọi người.
Kitô hữu là người tin vào lời Đức Giêsu.
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua” (c. 33).
Chúng ta chờ đợi, vì chúng ta tin Đức Giêsu sẽ trở lại.
Sau hai ngàn năm chờ đợi và nỗ lực dựng xây,
ngày Đức Giêsu quang lâm đã gần hơn nhiều.
Biết đâu câu nói sau của Đức Giêsu
lại chẳng ứng nghiệm cho chính thế hệ chúng ta:
“Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.” (c. 32).
Không được để mình nguội lạnh và mất đi thái độ chờ đợi.
Không được để chiến thắng tạm thời của sự dữ ở đâu đó
khiến chúng ta mất đi lòng tin,
và những bách hại khiến ta mất đi lòng kiên trì cần thiết (Lc 21, 19).
Nước Thiên Chúa vẫn đến gần hơn mỗi ngày.
Không thiếu dấu chỉ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta phải thấy có biết bao dấu chỉ tích cực, đầy hy vọng,
ngay giữa những khi tưởng như Nước ấy bị xóa sổ, loại trừ.
Đừng để mình rơi vào thái độ bi quan, khoanh tay vì chán nản.
Phải làm sao để ngày tận thế không phải là một ngày buồn,
ngày của những đổ vỡ và mất mát chia ly.
Phải làm sao để ngày ấy là ngày lịch sử nhân loại mở sang trang mới.
Đức Giêsu xuất hiện như Điểm Ômêga, Điểm đến của cả vũ trụ.
Con người và cả vũ trụ đều được hưởng ơn cứu chuộc (Rm 8, 19-23),
và Thiên Chúa Cha được tôn vinh.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Dấu Chỉ Thời Ðại
Người ta vẫn thường nói: có nguyên nhân mới phát sinh ra hậu quả. Trong thế giới vật chất này, chẳng có gì là ngẫu nhiên, có lửa thì có khói, các vật rắn chạm vào nhau sinh ra tiếng động.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc đến nguyên lý đó. Ngài dạy chúng ta phải biết nhìn vào các biến cố xẩy ra trong thời đại để nhận biết rằng Chúa đang đến: "Các con hãy xem cây vả cũng như các cây khác, khi cây đâm chồi, các con biết rằng mùa hè đã gần đến. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xẩy ra, các con hãy biết rằng Nước Thiên Chúa đã gần đến".
Theo Cha Lausade, Thiên Chúa nói với chúng ta bằng hai cách: hoặc bằng Lời Chúa trong Kinh Thánh, hoặc qua các biến cố xẩy đến trong đời sống thường ngày. Ðiều quan trọng là chúng ta phải quan tâm để nhận ra lời nhắn nhủ của Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thường dễ nhận ra Kinh Thánh là Lời Chúa, là giáo huấn của Chúa, mà ít nhận ra các dấu chỉ thời đại cũng là Lời Chúa, là thánh ý Chúa, nói khác đi, chúng ta ít nghe được tiếng Chúa nói với chúng ta qua các tạo vật, qua niềm vui, nỗi buồn, qua cả những lầm lỗi của chúng ta.
Do đó, để có thể nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố, chúng ta cần phải có thái độ lắng nghe và yêu mến. Có những người không bao giờ đặt vấn đề: Tại sao tôi sống? Sống để làm gì? Chết rồi đi đâu? Người Kitô hữu chúng ta biết rõ ý nghĩa của cuộc đời, nhưng cũng cần chăm chú lắng nghe để nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống, vì đó là tiếng gọi của tình yêu mà chỉ những ai yêu mến Chúa mới nhận ra được.
Xin cho chúng ta nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, để chúng ta luôn hân hoan tiến bước và chu toàn thánh ý Chúa mỗi ngày, cho đến ngày chúng ta hưởng nhan Chúa trên Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Cây vả không trái
Cây vả là một loại cây rất thường thấy khắp nơi tại Thánh Ðịa, là một loại cây có tàn che mát, sai trái và thường được trồng trong vườn nho hoặc cũng để mọc cả những nơi đất cát sỏi đá bên vệ đường. Trong Tân Ước, chúng ta thấy cây vả nhiều lần được Chúa Giêsu nhắc tới, như Chúa đã thấy Nathanael ngồi dưới gốc cây vả trước khi Philipphê dẫn đến gặp Ngài, hoặc ví dụ về cây vả trồng trong vườn nho đã ba năm mà không sinh trái. Thánh Mátthêu cũng ghi lại bài giảng trên núi có đoạn viết như sau: "Cứ xem quả thì biết cây, có ai hái được quả nho trong bụi gai hay trái vả trong khóm nho sao?"
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ trên đường đi về Giêrusalem, Ngài nhìn thấy cây vả bên vệ đường. Ngài lên tiếng nguyền rủa cây vả không có trái để nói về tác động linh nghiệm của đức tin. Nhưng điều đặc biệt nhất của cây vả là khi thu đông về thì lá vả rụng hết trơn, cành khô cứng trơ cọng trông như đã chết khô không còn chút sức sống nào, nhưng bắt đầu mùa xuân sang, cây vả lại trổ lá sớm và cành lá sum suê nhất, hơn nữa nó lại sai trái và trái nó ra rất sớm, đàn chim trời hợp lại líu lo trên cành mang lại sinh khí và vui tươi trong thôn xóm.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mượn một hình ảnh tiên báo mùa hè sắp tới khi thấy cây vả cùng các loại cây khác nẩy lộc. Cây vả và những cây khác đâm chồi nẩy lộc là chuyện thường đối với dân cư trong thôn làng, nhưng thật ra nó đã gói ghém một niềm vui tràn trề của một mùa mới sắp đến. Những biến động trong xã hội và thế giới là những dấu chỉ của Nước Chúa đổi mới mọi sự, như chúng ta đã suy niệm trong bài Tin Mừng hôm qua. Nếu từng giây phút của một năm qua chúng ta đã nhớ lại dấu ấn của hồng ân và tình thương của Chúa, thì chúng ta sẽ thấy hồng ân và tình thương ấy lớn lao đến chừng nào.
Ngày cuối cùng của năm phụng vụ sắp kết thúc và chúng ta sắp bước vào mùa Vọng, mùa trông chờ Chúa đến với ta, với vũ trụ và với nhân loại, một trời mới đất mới sẽ đến. Nước Thiên Chúa đang đến gần, mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa và tình thương của Ngài mới bền vững muôn đời.
Lạy Chúa,
Con biết lấy gì tri ân Chúa. Suốt một năm qua biết bao nhiêu biến động đến với con, trong thôn làng con bao người đã được về cùng Chúa trong ánh sáng bất diệt. Nước Chúa, Nước của tình thương, của ơn Chúa, của an bình mà mỗi giây phút đều chung tiếng hoan ca ca tụng Ngài. Xin cho mỗi người chúng con biết nhận ra dấu tích tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con được kể là con dân trong Nước Thiên Chúa đời đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Nước Trời lên ngôi
“Anh em cũng vậy, khi thấy những điều ấy xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Lc. 21, 31-33)
Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo ngay bài mô tả cảnh sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu dùng lối văn khải huyền của Do thái tả cảnh tàn phá thành như những tai họa vũ trụ. Dùng thể văn này. Lu-ca không muốn nói với chúng ta về ngày tận thế. Ông muốn trình bày cho chúng ta về ngày sụp đổ của Giê-ru-sa-lem và thay thế Giê-ru-sa-lem là thời kỳ lên ngôi của nước trời. Sau khi đền thờ sụp đổ, thời đại Hội thánh bắt đầu, thời đại của nước trời bất diệt không bao giờ bị thay thế nữa, thời đại của giao ước mới và đời đời.
Mỗi khi có ngôn sứ đến loan báo tận thế, có lẽ vì chúng ta cần một sứ giả mới. Lúc đó mỗi người hoàn toàn phải tính toán “khi thấy cây cối đâm chồi”, mình phải xem “mùa hè đã đến gần” với mình chưa, vì không có ai khác tính toán thay cho mình được. Vả lại, mỗi người cư xử theo cách riêng của mình, chúng ta không có thể cư xử như họ. Chúng ta cũng không cần biết khi nào mặt trời và các tinh tú rơi xuống đầu chúng ta. Nhưng chúng ta biết chắc mỗi người là một vệ tinh, và dại dột thay, nếu tự mình lại làm cho mình bị nổ tung! Chúng ta còn có một sức mạnh tự động phá hủy khác vượt trên sức rung động của trái đất. Nhưng biết được khi nào những biến cố cuối cùng đó đến thì không quan trọng. Điều quan trọng là chắc chắn chúng sẽ xảy ra, và thế kỷ này chưa hết, thì đa số chúng ta đã qua đi theo với vòng quay của trái đất.
Điều cần thiết phải nhớ là chúng ta sẽ qua đi, nhưng lời Chúa nói không bao giờ qua đi. Nếu lời Chúa tồn tại đời đời, thì chúng ta phải cố gắng lắng nghe để được sống chứ đừng giả điếc làm ngơ kẻo chúng ta phải chết đời đời.
Nếu biết nhớ kỹ bài diễn văn này, một bàigiáo thuyết loan báo cho chúng ta biết tất cả mọi sự hiện tại sẽ có ngày chấm dứt. Vậy tốt nhất chúng ta hãy hết lòng trông cậy và đặt lời Chúa vào tận con tim của mình để sinh nhiều hoa trái trong khi đợi chủ về thu hoạch. Chủ sẽ thưởng công cho chúng ta: “Quả thật, quả thật, Tôi bảo thật các anh em, đến giờ và chính bây giờ những người chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai nghe thì sẽ được sống đời đời” (Ga. 5, 25)
RC
Suy Niệm 5: ĐỨNG THẲNG VÀ NGẨNG CAO ĐẦU (Lc 21, 29-33)
Xem CN 33 TN B
Ở miền bắc nước ta, cứ vào độ tháng 1,2,3 âm lịch, các cây cối thường đâm trồi nẩy lộc sau một thời gian dài ngủ yên trong khí hậu mùa đông. Hình ảnh này báo hiệu cho biết mùa xuân ấm áp đã về để đẩy lui cái lạnh của mùa đông tiết giá.
Trong mùa xuân, người ta thường trồng cây cối. Bởi vì ở vào mùa này, khi trồng, cây không bị chột...
Hôm nay, Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả và các loài cây khác để diễn tả mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Cây vả là thứ cây quen thuộc trong Tin Mừng. Đức Giêsu đã nhắc đến nhiều lần về loại cây này, như: Chúa đã thấy Nathanaen ngồi dưới cây vả trước khi Philipphê dẫn đến gặp Ngài, hoặc thí dụ về cây vả trồng trong vườn nho đã ba năm mà không sinh trái. Thánh Matthêu cũng ghi lại bài giảng trên núi có đoạn như sau: “Cứ xem quả thì biết cây, có ai hái được quả nho trong bụi gai, hay trái vả trong khóm nho sao?”.
Hình ảnh cây vả được Đức Giêsu dùng trong bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu là mùa xuân đến để loan báo lời Chân Lý của Thiên Chúa cho nhân loại. Những ai đón nhận Ngài cũng như Giáo Huấn của Ngài thì sẽ được đâm trồi nẩy lộc như cây cối mùa xuân.
Ai không tin, thì sẽ bị héo úa tàn phai. Nếu cây cối, nó luôn hướng về mặt trời như là sự khao khát cần tiếp nhận ánh sáng để quang hợp thế nào, thì mỗi chúng ta cũng cần phải đứng thẳng trong tư thế của người công chính, để nhạy bén tiếp nhận những lời Chân Lý của Chúa, ngõ hầu được sự sống đời đời như vậy.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đón nhận ơn Chúa trong cuộc sống. Nhạy bén với những dấu chỉ hiện tại. Hướng lòng về những chuyện tương lai. Hành động đón chờ phải là hành động của kẻ đứng thẳng và ngẩng cao đầu trong tư thế tỉnh thức và chờ đợi để đón nhận ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được yêu mến Chúa. Xin cho con được sinh hoa kết quả nhờ được gắn liền với Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
- 28/11 Giờ cứu rỗi đã gần đến
- 27/11 Làm chứng về Chúa
- 26/11 Gắn bó với Chúa từng giây phút
- 25/11 Cho Ði Tất Cả
- 24/11 Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi
- 23/11 Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại
- 22/11 Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa
- 21/11 Ðức Mẹ Dâng Mình Vào Ðền Thờ
- 20/11 Nén bạc sinh lời
- 19/11 Thể hiện hoán cải cách cụ thể