Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thánh lễ an táng Đức Hồng y Pell tại Australia
Sáng ngày 02 tháng Hai năm 2023, Đức Hồng y George Pell, nguyên Tổng giám mục Sydney và nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế của Tòa Thánh, đã được an táng tại Nhà thờ chính tòa giáo phận Sydney, Australia, nơi ngài làm Tổng giám mục trong 13 năm, từ năm 2001 đến năm 2014.
Đức Hồng y Pell đã qua đời tại Roma, ngày 10 tháng Giêng vừa qua, vì cơn đau tim, trên đường bình phục sau cuộc giải phẫu cổ xương đùi. Đức Hồng y Giovanni Battista Re, Niên trưởng Hồng y đoàn, cùng các hồng y khác đã cử hành thánh lễ an táng Đức Cố Hồng y tại Đền thờ thánh Phêrô, ngày 14 tháng Giêng sau đó, và cuối thánh lễ Đức Thánh cha Phanxicô đã cử hành nghi thức tiễn biệt.
Thánh lễ an táng tại Sydney do Đức Tổng giám mục Anthony Fisher, đương kim Tổng giám mục Giáo phận Sydney, cử hành cùng với các giám mục khác, trước sự tham dự của các tín hữu ngồi chật nhà thờ chính tòa, và hàng trăm người khác tham dự bên ngoài, qua các màn hình lớn và qua trực tuyến.
Cũng có hàng chục người khác biểu tình chống đối, vì lập trường của Đức Hồng y Pell bênh vực lập trường của luân lý Công giáo không chấp nhận những hành vi đồng tính luyến ái.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Tổng giám mục Fisher, Dòng Đa Minh, nhắc lại rằng Đức Hồng y Pell là tác giả của khoảng 12 cuốn sách, trong đó có ba cuốn nhật ký ngài viết trong thời gian bị cầm tù. Đức Tổng giám mục nói: “Đó là một thành quả tốt lành của 404 ngày ở tù vì những tội ác mà Đức Hồng y không hề phạm, do chiến dịch của các cơ quan truyền thông, cảnh sát và chính trị, để trừng phạt Đức Hồng y, bất kể ngài có tội hay không. Cả sau khi Tòa án tối cao của Australia đồng thanh tha bổng Đức Hồng y, vẫn có một số người tiếp tục phỉ báng ngài. Nhưng nhiều người quý chuộng gia sản của người rất ảnh hưởng này của Giáo hội trong lịch sử đất nước chúng ta”.
Cựu Thủ tướng Tony Abbot, bạn của Đức Hồng y Pell và là cựu chủng sinh, đã mô tả cuộc bách hại Đức Hồng y Pell là “một cuộc đóng đanh tân thời. Đức Hồng y bị biến thành “con dê tế thần cho chính Giáo hội”. Đức Hồng y Pell là cột thu lôi cho những bất đồng về vấn đề Giáo hội Công giáo, có bị buộc tội đúng về những vụ lạm dụng tính dục trẻ em trong quá khứ hay không”.
Sau thánh lễ, Đức Hồng y Pell đã được an táng tại tầng hầm Nhà thờ chính tòa Sydney, như các vị tiền nhiệm của ngài.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Dòng Phanxicô tại Thánh địa phản đối vụ phá hoại tượng Chúa Giêsu
Các vị lãnh đạo Dòng Phanxicô phản đối và lên án vụ xúc phạm và phá hoại tượng Chúa Giêsu tại Nhà thờ Chúa Chịu Đánh Đòn, tọa lạc tại Chặng thứ I trên chặng đường Thánh Giá ở Cổ thành Jerusalem, sáng ngày 02 tháng Hai vừa qua, do một người Do thái cực đoan thực hiện.
Thông cáo cho biết, thủ phạm đã đập tượng Chúa và bôi bẩn mặt tượng, trước khi bị người coi cổng Đền thánh bắt giữ và sau đó cảnh sát đến bắt thủ phạm giải đi.
Đây là vụ phá hoại và xúc phạm thứ năm xảy ra trong những tuần lễ gần đây. Trong tuần qua, một số du khách đã bị một nhóm người Do thái giáo cuồng tín tấn công. Nhóm này đi vào Cửa Mới, gần trụ sở Dòng Phanxicô và phá hoại, quăng các bàn ghế và ly tách, biến khu vực Kitô thành một bãi chiến trường.
Cách đây khoảng hai tuần, nghĩa trang Kitô giáo ở Jerusalem đã bị xúc phạm và phá hoại. Thủ phạm đã viết câu: “Giết chết người Kitô” trên tường một đan viện ở khu vực của người Armeni và phá hoại nơi được dùng như nhà thờ, tại trung tâm Ma’alot của các tín hữu Maronit.
Thông cáo mang chữ ký của cha Francesco Patton, Bề trên Dòng Phanxicô tại Thánh địa, cha Alberto Joan Pari, Tổng thư ký của dòng tại đây. Hai vị khẳng định rằng: “Chúng tôi lo âu theo dõi và mạnh mẽ lên án sự gia tăng những hành vi oán ghét và bạo lực chống cộng đoàn Kitô tại Israel. Không phải tình cờ mà việc hợp thức hóa sự kỳ thị và bạo lực trong dư luận quần chúng và trong bối cảnh chính trị của Israel được biểu lộ, của những vụ oán ghét và bạo lực chống cộng đoàn Kitô.
“Chúng tôi chờ đợi và yêu cầu chính phủ Israel cũng như lực lượng an ninh hành động quyết liệt để bảo đảm an ninh cho mọi cộng đoán, bảo vệ các nhóm tôn giáo thiểu số, và để bài trừ nạn tôn giáo cuồng tín, những hiện tượng bất bao dung trầm trọng này, những tội ác oán ghét, những hành vi phá hoại trực tiếp chống các Kitô hữu tại Israel”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Công giáo và Tin lành Đức tiếp tục mất tín hữu
Hiện tượng tín hữu Công giáo và Tin lành rời bỏ Giáo hội tiếp tục gia tăng mạnh tại Đức.
Hôm 31 tháng Giêng vừa qua, Phân bộ tư pháp của Thượng viện ở thủ đô Berlin cho biết cách đây 30 năm, có 30% dân Berlin là thành viên của Giáo hội Tin lành và Công giáo, nhưng nay chỉ còn 20%. Và từ năm 2019 đến năm 2021, tỷ số này suy giảm từ 24,1 xuống còn 21.9%.
Giáo hội Công giáo ở bang Berlin-Brandenburg, vùng thủ đô Liên bang Đức, hồi cuối năm 2021 có 506.739 thành viên, và Tổng giáo phận Berlin của Công giáo có 279.021 tín hữu.
Việc suy giảm này là kết quả của những vụ các tín hữu làm đơn xin ra khỏi Giáo hội của mình. Tổng cộng trong chín tháng đầu năm ngoái, 2022, có 18.018 người dân Berlin làm đơn xin ra khỏi Giáo hội liên hệ: Tin lành mất 9.466 tín hữu, và Giáo phận Công giáo Berlin mất 8.442 tín hữu. Để ra khỏi Giáo hội của mình, đương sự phải nộp đơn xin nơi tòa án khu vực và trả lệ phí hành chánh 30 Euro.
Trong những ngày trước đây, Bang Bắc Rhein-Westfalen, miền bắc Đức, đã công bố con số những người xin ra khỏi Giáo hội Tin lành và Công giáo trong năm ngoái (2022) là 223.509 người, tăng 44% so với năm 2021 trước đó, một con số kỷ lục. Trong năm 2021, có 155.322 người tại bang này rời bỏ Tin lành và Công giáo.
Tại bang này có những thành phố lớn như Koeln, Bonn, Dusseldorf, Dortmund và Muenster.
Cho đến nay, nhiều người trong giới Công giáo Đức cho rằng vì những vụ lạm dụng tính dục nơi một số giáo sĩ, tạo ra khủng hoảng cho Giáo hội và vì thế cần cải tổ Giáo hội qua Con đường Công nghị, với những mục tiêu dân chủ hóa Giáo hội, bãi bỏ luật độc thân, truyền chức thánh cho nữ giới, và thay đổi luân lý tính dục của Giáo hội. Nhưng những đối tượng Công giáo muốn đạt tới qua cuộc cải tổ, các Giáo hội Tin lành tại Đức đều đã có từ lâu, nhưng số tín hữu Tin lành rời bỏ Giáo hội lại nhiều hơn Công giáo. Vì thế, nguyên do sâu xa của hiện tượng này có thể là vì nhiều người xin ra khỏi Giáo hội liên hệ để khỏi đóng thuế cho Giáo hội của họ. Tiền thuế này tương đương với 8 hoặc 9% tiền thuế lương bổng công dân đóng cho Nhà nước.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đất nước và Giáo hội Nam Sudan và cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha
Nam Sudan rộng gấp đôi Việt Nam, với hơn 654.000 cây số vuông, nhưng dân số chỉ có 13 triệu 800.000 người thuộc nhiều bộ tộc khác nhau, trong đó 7 triệu 200.000 người là tín hữu Công giáo, chiếm 52% dân số, và thuộc 7 giáo phận, trong đó có 124 giáo xứ và 780 giáo họ, do 10 giám mục coi sóc, với sự cộng tác của 300 linh mục giáo phận và dòng. Có 35 tu huynh và 218 nữ tu.
Nội chiến
Nam Sudan được độc lập hồi tháng Bảy năm 2011, nhưng chỉ hai năm sau thì xảy ra nội chiến. Phe của Tổng thống Salva Kiir, thuộc bộ tộc Dinka và phe của Phó tổng thống Riek Machar, thuộc bộ tộc Nuer, trở thành kẻ thù của nhau. Hai bộ tộc này đông đảo nhất. Nội chiến lan nhanh trong nước, kèm theo những cuộc thanh lọc chủng tộc và các hành vi bạo lực kinh khủng.
Tính đến năm 2018, là năm có hiệp định đình chiến đầu tiên, đã có khoảng 400.000 người chết và hàng triệu người di tản.
Đức Thánh cha Phanxicô đặc biệt quan tâm đến nội chiến tại Nam Sudan. Hồi tháng Tư năm 2019, đã có cuộc tĩnh tâm tại Nhà trọ thánh Marta ở nội thành Vatican, nơi ngài cư ngụ. Tham dự có các vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị cao nhất của Nam Sudan, và do Đức Tổng giám mục Justin Welby, Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo tổ chức. Cuối cuộc tĩnh tâm đó, Đức Thánh cha đã quì gối hôn chân các lãnh tụ, một cử chỉ bất ngờ, có lẽ để biểu lộ lòng biết ơn đối với những quyết tâm hòa bình mà hai bên đã ký kết vài tháng trước đó hồi năm 2018. Mỗi tham dự viên cuộc tĩnh tâm được tặng một cuốn Kinh thánh mà tất cả đều được mời ký vào, trên đó có ghi sứ điệp: “Hãy tìm kiến điều nối kết. Vượt thắng điều chia rẽ”.
Khi giã từ, Đức Thánh cha bày tỏ ý muốn và ý định sớm đến Nam Sudan cùng với Đức Tổng giám mục Welby. Bốn năm đã trôi qua từ ngày đó, chậm trễ vì xảy ra đại dịch Covid-19 và trong thời gian đó, các phe tiếp tục đánh nhau ở Nam Sudan. Nay ước muốn của Đức Thánh cha và hai vị lãnh đạo Anh giáo và Tin lành Trưởng lão Ecosse mới thành tựu, với cuộc hành hương chung của các vị tại Nam Sudan.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha kết thúc chuyến viếng thăm tại Congo
Sáng thứ Sáu, ngày 03 tháng Hai vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã kết thúc ba ngày viếng thăm tại Cộng hòa Dân chủ Congo, với cuộc gặp gỡ Hội đồng Giám mục nước này, rồi lên đường sang Nam Sudan, chặng thứ hai trong chuyến tông du thứ 40 của ngài tại nước ngoài.
Lúc 6 giờ 30 sáng, Đức Thánh cha cử hành thánh lễ riêng tại nguyện đường Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Kinshasa. Lúc gần 8 giờ, Đức Thánh cha giã từ nhân viên Tòa Sứ thần, cám ơn các ân nhân của Tòa Sứ thần, trước khi tới trụ sở Hội đồng Giám mục Congo, chỉ cách đó 200 mét.
Đức Thánh cha gặp gỡ Hội đồng Giám mục Congo
Lúc 8 giờ 30, Đức Thánh cha gặp gỡ các giám mục Congo, chủ chăn của hơn 52 triệu tín hữu Công giáo thuộc 48 giáo phận toàn quốc. Cuộc gặp gỡ diễn ra cách đơn sơ. Sau lời chào mừng của Đức cha Chủ tịch Marcel Utembi Tapa, Tổng giám mục Giáo phận Kisangani, Đức Thánh cha ngỏ lời với các giám mục hiện diện.
Huấn dụ của Đức Thánh cha
Lên tiếng trong dịp này, Đức Thánh cha nhắn nhủ các giám mục tăng cường cuộc sống gần gũi, gắn bó với Chúa, và loan báo lời ngôn sứ giải thoát cho dân.
Giáo hội Congo sinh động
Mở đầu, Đức Thánh cha ca ngợi Giáo hội Công giáo tại Congo Dân chủ như “một Giáo hội trẻ trung, sinh động, vui tươi, được linh hoạt nhờ ước muốn truyền giáo, loan báo Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Đức Giêsu là Chúa. Giáo hội anh em là một Giáo hội hiện diện trong lịch sử cụ thể của dân tộc này, ăn rễ sâu rộng trong thực tại, giữ vai chính về bác ái; một cộng đoàn có khả năng thu hút và thông truyền lòng hăng say. Vì thế, cũng như những rừng xanh của đất nước anh em, với bao nhiêu “dưỡng khí”, xin cám ơn anh em vì anh em là một buồng phổi mang lại hơi thở cho Giáo hội hoàn vũ!”
Giáo hội đương đầu với nhiều khó khăn
Đức Thánh cha cũng nói đến những vấn đề Giáo hội tại Congo đang gặp phải, những đau khổ, cơ cực, và nhiều khi lo sợ và nản chí của dân tộc. “Đó là khuôn mặt của một Giáo hội chịu đau khổ vì dân, một con tim hồi hộp đập theo nhịp sống của dân chúng, với những vui mừng và sầu muộn”. Ngài nói: “Cùng với anh em, tôi thấy Chúa Giêsu đau khổ trong lịch sử của dân tộc này, bị đóng đinh và áp bức, bị tàn phá vì bạo lực không chừa một ai, bị ghi đậm vì đau khổ của người vô tội, buộc lòng phải sống với dòng nước đục ngầu của tham nhũng và bất công làm ô nhiễm xã hội” ...
Trong bối cảnh trên đây, Đức Thánh cha đặt câu hỏi: “Làm thế nào thi hành sứ vụ trong hoàn cảnh như thế?” và ngài nghĩ đến Giêrêmia, vị ngôn sứ được kêu gọi sống sứ vụ của mình trong một thời điểm bi thảm của lịch sử Israel, giữa những bất công, những tội ác kinh tởm và đau khổ. Ngôn sứ đã dấn thân loan báo rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Người và tiếp tục dự phóng hòa bình, cả trong những tình cảnh có vẻ đã hư mất và không thể phục hồi.” Ngôn sứ đã đích thân sống sứ vụ đó, cảm nghiệm sự gần gũi của Thiên Chúa, để có thể loan báo hy vọng. Cả sứ vụ giám mục của anh em cũng sống giữa hai chiều kích đó: gần gũi Thiên Chúa và loan báo hy vọng cho dân.
Sống gần gũi Thiên Chúa
Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Đối với chúng ta là những người đã nhận được ơn gọi trở thành mục tử của Dân Chúa, điều quan trọng là dựa trên sự gần gũi của Chúa, được thể hiện qua đời sống cầu nguyện. Chỉ nhờ thế, dân Chúa được ủy thác cho chúng ta mới đến gần Đấng là Mục Tử Nhân Lành; chỉ như thế, ta mới trở thành mục tử, vì nếu không có Chúa, chúng ta không thể làm được gì (Xc 15,5). Ước gì đừng xảy ra là chúng ta nghĩ mình tự đủ cho mình, để rồi coi chức vị giám mục như cơ hội để leo lên những địa vị xã hội và thi hành quyền bính. Nhất là, ước gì tinh thần thế tục đừng lẻn vào chúng ta, nó làm ta giải thích sứ vụ theo những tiêu chuẩn tiện ích lợi lộc cho mình, làm cho chúng ta trở nên lạnh lùng và xa cách trong việc quản lý những gì được ủy thác cho chúng ta, lợi dụng vai trò của mình, thay vì phục vụ người khác, và không còn chăm sóc tương quan không thể thiếu được, tương quan kinh nguyện khiêm tốn thường nhật nữa”.
Đức Thánh cha nhắn nhủ rằng: “Anh em giám mục thân mến, chúng ta hãy vun trồng sự gần gũi Thiên Chúa để trở thành những chứng nhân đáng tin cậy của Chúa và là người loan báo tình thương của Chúa nơi dân chúng. Qua chúng ta, Chúa muốn xức cho dân bằng dầu an ủi và hy vọng!”.
Loan báo lời ngôn sứ cho dân
Điểm thứ hai Đức Thánh cha nhắn nhủ các giám mục Congo, dựa theo kinh nghiệm của ngôn sứ Giêrêmia: Sau khi nhận được Lời yêu thương và an ủi của Thiên Chúa, Giêrêmia được kêu gọi trở thành “ngôn sứ cho các dân nước” (Xc Gr 1,5), được sai đi mang ánh sáng tới nơi tối tăm, làm chứng trong một môi trường bạo lực và tham nhũng, được Lời Chúa nung nấu như một ngọn lửa thiêu đốt từ bên trong thúc đẩy người ra ngoài”.
Đức Thánh cha nói: “Căn tính giám mục của chúng ta là: được Lời Chúa thiêu đốt, ra đi gặp gỡ Dân Chúa với lòng nhiệt thành tông đồ!” ... “Giống như ngôn sứ Giêrêmia, cả anh em cũng được kêu gọi làm cho tiếng nói ngôn sứ của anh em được nghe thấy, để lương tâm mọi người được gọi hỏi và mỗi người có thể giữ vai chính trong tinh thần trách nhiệm về một tương lai mới. Vì thế, cần nhổ bỏ những cây độc hại của oán ghét và ích kỷ, oán hận và bạo lực; phá hủy những bàn thờ hiến tế cho tiền bạc và tham nhũng; xây dựng một cuộc sống chung dựa trên công lý, sự thật và an bình; và sau cùng, vun trồng những hạt giống tái sinh, để Congo ngày mai thực sự là điều Chúa mơ ước: một phần đất được chúc lành và hạnh phúc, không bao giờ còn bị bạo hành, áp bức và đẫm máu.”
Tuy nhiên, Đức Thánh cha lưu ý rằng “đây không phải là hoạt động chính trị. Lời ngôn sứ Kitô nhập thể trong bao nhiêu hoạt động chính trị và xã hội, nhưng nhiệm vụ của các giám mục và các mục tử nói chung không phải là làm chính trị, nhưng là loan báo Lời Chúa, để thức tỉnh các lương tâm, để tố giác sự ác, để sưởi ấm tâm hồn những người mệt mỏi và không hy vọng. Đó là loan báo, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng bằng sự gần gũi, và làm chứng tá: gần gũi trước tiên các linh mục, lắng nghe các nhân viên mục vụ, khích lệ tinh thần đồng hành để cùng nhau làm việc. Và làm chứng nhân, vì các mục tử phải đáng tin cậy trước tiên và trong mọi sự, và đặc biệt trong sự vun trồng tình hiệp thông, trong đời sống luân lý và trong việc quản trị tài sản. Theo nghĩa này, điều thiết yếu là biết xây dựng sự hòa hợp, không đưa mình lên bệ cao, không gay gắt, nhưng nêu gương về sự nâng đỡ, tha thứ cho nhau, cùng nhau làm việc, như những gương mẫu về tình huynh đệ, hòa bình và tinh thần đơn sơ theo Tin mừng. Đừng bao giờ xảy ra điều này: trong khi dân đói khổ, không ai có thể nói về anh em rằng “Họ là những người không chăm lo, người thì ra cánh đồng riêng của mình, người khác thì lo việc riêng” (Xc Mt 22,5). Xin vui lòng đừng làm như thế, những vụ áp-phe chúng ta hãy để ra ngoài vườn nho của Chúa! Chúng ta là những mục tử, những người phục vụ dân, chứ không phải là những nhà kinh doanh!”
Cám ơn
Cuối bài chia sẻ, Đức Thánh cha đã cám ơn tất cả các giám mục và những người đã chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của ngài, và nhận định rằng: các giám mục đã phải làm việc hai lần, vì cuộc viếng thăm đầu tiên của ngài tại Congo bị hủy bỏ. Đức Thánh cha nói: “Tôi biết rằng anh em có lòng từ nhân đối với Giáo hoàng! Xin chân thành cám ơn anh em!”
Đức Thánh cha cũng nhắc đến Đại hội Thánh Thể toàn quốc Congo sẽ cử hành vào tháng Sáu tới đây, tại Lubumbashi và mong ước rằng: “Sự hiện diện của Chúa Giêsu, Mục Tử hiền lành và khiêm tốn, Người đã chiến thắng sự ác và sự chết, biến đổi đất nước rộng lớn này và luôn luôn là niềm vui và hy vọng của anh em!”.
Cuộc gặp gỡ của Đức Thánh cha kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha. Ngài còn chụp hình lưu niệm chung với các giám mục, trước khi ra phi trường quốc tế N’djili của thành Kinshasa, lúc quá 10 giờ. Tại đây đã có Tổng thống Congo và các quan chức chính phủ hiện diện để tiễn biệt Đức Thánh cha.
Máy bay của hãng Ita Airways cất cánh lúc 10 giờ 50, chở Đức Thánh cha, đoàn tùy tùng và 75 ký giả quốc tế tiếp tục hành trình hướng về thành Juba, thủ đô Nam Sudan, cách đó hơn 2.260 cây số về hướng đông bắc.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha gặp gỡ các linh mục, tu sĩ và chủng sinh Congo
Đức Thánh cha Phanxicô nhắn nhủ các linh mục và tu sĩ Congo xa tránh tinh thần trần tục, vượt thắng những cám dỗ trái ngược với sứ vụ tông đồ, và hãy luôn vun trồng sự huấn luyện, chuẩn bị tinh thần để đáp ứng sứ mạng được trao phó.
Đức Thánh cha đưa ra những lời khuyên trên đây, trong buổi gặp gỡ các linh mục, tu sĩ và chủng sinh tại Congo.
Chiều thứ Năm, ngày 02 tháng Hai vừa qua, Đức Thánh cha đã đến Nhà thờ chính tòa Đức Bà Congo, cách Tòa Sứ thần Tòa Thánh 3,6 cây số để gặp gỡ các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và chủng sinh.
Nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Kinshasa được xây cất hồi năm 1947, khi đất nước này còn là thuộc địa của Vương quốc Bỉ.
Đến nơi vào lúc 4 giờ 30 chiều, Đức Thánh cha được Đức Hồng y Fridolin Ambongo và cha sở giáo xứ đón tiếp và cùng tiến vào thánh đường. Ngài dừng lại tại khu mộ của các vị Tổng giám mục trước đây, tại nhà nguyện bên hông nhà thờ, trước khi tiến lên bàn thờ trong khi ca đoàn hát thánh ca.
Hiện diện trong cuộc gặp gỡ, có hàng ngàn đại diện giáo sĩ và tu sĩ toàn quốc Congo, ngồi chật thánh đường, cùng với hàng chục giám mục.
Cuộc gặp gỡ diễn ra dưới hình thức một buổi phụng vụ Lời Chúa, bắt đầu với lời chào phụng vụ và lời chào mừng, giới thiệu của Đức Hồng y Tổng giám mục sở tại, lời nguyện của Đức Thánh cha, và lần lượt một linh mục, một nữ tu và một chủng sinh trình bày chứng từ.
Bài huấn dụ của Đức Thánh cha
Trong huấn dụ sau bài đọc Tin mừng của ngày lễ Dâng Chúa vào Đền thánh, Đức Thánh cha đã nói đến sứ mạng phục vụ dân Chúa của các “linh mục và nữ tu, là những thừa sai đã cảm nghiệm niềm vui cuộc gặp gỡ giải thoát với Chúa Giêsu và cống hiến niềm vui ấy cho tha nhân”.
Đức Thánh cha nói:
Sứ mạng phục vụ dân Chúa
“Chúng ta hãy nhớ điều này: chức linh mục và đời sống thánh hiến sẽ trở nên khô cằn nếu chúng ta sống các sứ mạng này để “sử dụng” dân Chúa, thay vì phục vụ dân. Đây không phải là một nghề để kiếm chác hoặc để có một địa vị xã hội, và càng không phải để “thu xếp”, lo cho gia đình gốc gác của mình, nhưng là sứ mạng trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô, của tình yêu vô điều kiện, sự tha thứ nhờ đó Chúa muốn hòa giải chúng ta, dấu chỉ sự cảm thương của Chúa muốn chăm sóc những người nghèo. Chúng ta được kêu gọi cống hiến mạng sống vì anh chị em, mang Chúa Giêsu cho họ, là Đấng duy nhất chữa lành những vết thương của tâm hồn”.
Ba lời khuyên của Đức Thánh cha
Cụ thể hơn, Đức Thánh cha nói rằng: “Để sống ơn gọi ấy của chúng ta, chúng ta luôn có những thách đố phải đương đầu, những cám dỗ cần chiến thắng. Tôi muốn dừng lại vắn tắt ba điểm này, đó là sự tầm thường trong đời sống tâm linh, tiện nghi trần tục, và sự hời hợt.
Trước tiên là: cần thắng tình trạng tầm thường về tâm linh.
“Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền thánh, theo Đông phương Kitô giáo, cũng được gọi là “lễ gặp gỡ”, nhắc nhớ chúng ta về ưu tiên trong cuộc sống là gặp gỡ Chúa, đặc biệt trong kinh nguyện bản thân, vì tương quan với Chúa là nền tảng hoạt động của chúng ta. Chúng ta đừng quên rằng bí quyết của mọi sự là kinh nguyện, vì sứ vụ và việc tông đồ của chúng ta, trước tiên không phải là hoạt động của chúng ta, không chỉ tùy thuộc các phương thế phàm nhân. Có lẽ anh chị sẽ nói với tôi: đúng vậy, nhưng những công tác phải làm, sự khẩn cấp mục vụ, những vất vả vì hoạt động tông đồ, và sự mệt mỏi có nguy cơ làm cho chúng ta không còn thời giờ và năng lực đủ cho việc cầu nguyện. Vì thế, tôi muốn chia sẻ vài lời khuyên:
Trước tiên, chúng ta hãy trung thành với nhịp độ phụng vụ kinh nguyện trong ngày, từ thánh lễ cho tới sách nguyện. Việc cử hành thánh lễ hằng ngày là con tim của đời sống linh mục và tu sĩ. Phụng vụ các giờ kinh giúp chúng ta cầu nguyện với Giáo hội và đều đặn: đừng bao giờ chúng ta lơ là.
Một lời khuyên khác, đó là chúng ta không thể chỉ giới hạn vào việc đọc các kinh, nhưng mỗi ngày cần dành một thời gian khẩn trương cho việc cầu nguyện, để tâm sự lòng với lòng cùng Chúa: một lúc thờ lạy và suy gẫm Lời Chúa, kinh Mân côi; một cuộc gặp gỡ thân mật với Đấng chúng ta yêu mến trên hết mọi sự. Và đừng chểnh mảng việc xưng tội...
Thách đố thứ hai là chiến thắng cám dỗ sống tiện nghi thoải mái, một cuộc sống, trong đó ta xếp đặt mọi sự và tiến hành theo tập quán, sống lê lết không còn phấn khởi hăng say. Nhưng làm như thế, ta đánh mất con tim của sứ vụ đi ra ngoài cái tôi để gặp gỡ anh chị em, thực hành nhân danh Chúa, nghệ thuật gần gũi. Thật là một nguy cơ lớn gắn liền với sự phàm tục, đặc biệt trong bối cảnh nghèo đói và đau khổ, lợi dụng vai trò của mình để thỏa mãn các nhu cầu của chúng ta. Thật là buồn khi ta co cụm vào mình, trở nên những công chức lạnh lùng về tinh thần. Khi ấy, thay vì phụng sự Tin mừng, thì ta lo quản trị tài chánh và tiến hành một số vụ áp-phe lợi lộc cho mình. Thật là gương mù khi điều đó xảy ra trong cuộc sống của một linh mục hay tu sĩ, thay vì là gương mẫu về sự điều độ và tự do nội tâm. Và thật là đẹp khi ta rạng ngời trong cuộc sống độc thân như dấu chỉ sự sẵn sàng hoàn toàn vì Nước Trời! Trái lại, nhiều khi xảy ra nơi chúng ta những tật xấu mà chúng ta muốn nhổ bỏ nơi những người khác và trong xã hội. Xin anh chị em hãy cảnh giác đối với tinh thần tiện nghi thế tục.
Thách đố sau cùng là chiến thắng cám dỗ về cuộc sống hời hợt. Nếu dân Chúa mong được tìm tới và an ủi bằng Lời Chúa, thì cần có những linh mục và tu sĩ được chuẩn bị, được huấn luyện và hăng say đối với Tin mừng. Một hồng ân đã được đặt trong tay chúng ta, và thật là tự phụ khi nghĩ mình có thể sống sứ vụ mà Chúa kêu gọi chúng ta thi hành, mà không làm việc mỗi ngày và không tự huấn luyện thích đáng, trong đời sống thiêng liêng cũng như trong việc chuẩn bị thần học. Dân chúng không cần những công chức thánh hoặc những người có bằng cấp sống xa dân. Chúng ta phải đi vào trọng tâm mầu nhiệm Kitô, đào sâu đạo lý, học hỏi và suy gẫm Lời Chúa, và đồng thời cởi mở đối với những lo âu của thời nay, những vấn đề ngày càng phức tạp thời nay, để hiểu cách thức làm sao giúp đỡ con người. Vì thế, việc huấn luyện của hàng giáo sĩ không phải là điều tùy ý. Tôi đã nói điều đó với các chủng sinh, nhưng điều này có giá trị đối với tất cả mọi người. Việc huấn luyện là con đường luôn phải tiến hành, suốt đời.
Sau bài giảng của Đức Thánh cha, cộng đoàn còn cầu nguyện theo những ý chỉ khác nhau, trước khi đọc kinh Lạy Cha và Đức Thánh cha ban phép lành cho mọi người.
Giã từ Nhà thờ chính tòa sau một giờ gặp gỡ, Đức Thánh cha trở về Tòa Sứ thần Tòa Thánh để gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên, vào lúc 6 giờ 30 chiều.
ĐTC gặp gỡ hàng chục ngàn bạn trẻ và giáo lý viên của CHDC Congo
Trong buổi gặp gỡ giới trẻ và giáo lý viên Congo vào sáng thứ Năm ngày 2/2/2023, Đức Thánh Cha nói với họ rằng tương lai nằm trong tay họ và kêu gọi họ nói "không" với tham nhũng. Đức Thánh Cha cũng chỉ cho họ thấy cầu nguyện, cộng đồng, trung thực, tha thứ và phục vụ là năm yếu tố để xây dựng hòa bình và một tương lai khác.
Sáng thứ Năm ngày 2 tháng 2, Đức Thánh Cha bắt đầu ngày thứ ba của chuyến viếng thăm tại CHDC Congo và Nam Sudan, với buổi gặp gỡ các bạn trẻ và giáo lý viên tại Sân vận động các vị Tử đạo.
Sân vận động nằm ở khu vực Lingwala của thủ đô Kinshasa, được xây dựng từ tháng 10 năm 1988 và hoàn tất vào tháng 10 năm 1933. Cho đến trước năm 1997, sân này có tên là Kamanyola. Hiện nay sân mang tên của 4 chính trị gia đã bị treo cổ vào ngày 1 tháng 6 năm 1966 tại khu vực có nhà máy, vì bị buộc tội âm mưu chống lại nhà độc tài Mobutu. Sân có 80.000 chỗ ngồi và chủ yếu được sử dụng cho các cuộc họp quốc tế, các sự kiện thể thao hoặc văn hóa.
Khi đến sân vận động, Đức Thánh Cha đã đi xe mui trần vòng quanh sân để chào các bạn trẻ giữa tiếng reo vui của họ.
ĐTC gặp gỡ giới trẻ và giáo lý viên CHDC Congo
Mở đầu buổi gặp gỡ, Đức cha Timothée BODIKA, Chủ tịch Ủy ban Giám mục đặc trách Tông đồ Giáo dân đã chào mừng Đức Thánh Cha. Ngài giới thiệu với Đức Thánh Cha các bạn trẻ Congo đang nỗ lực làm việc để góp phần biến đổi xã hội bằng cách làm thấm nhuần các giá trị Tin Mừng vào đời sống xã hội, bất chấp vô số thách thức, bao gồm nạn thất nghiệp, sự khó khăn trong việc tiếp cận với môi trường giáo dục, tình trạng mất an ninh và bạo lực, đặc biệt là ở miền đông nước Cộng hòa Dân chủ Congo.
Chứng từ của một bạn trẻ
Trong chứng từ tiếp sau đó, một bạn trẻ chia sẻ với Đức Thánh Cha rằng họ là những người trẻ thiếu vắng Hòa bình; chiến tranh để lại những hậu quả cho việc giáo dục và đào tạo người trẻ, cả về đời sống lẫn đức tin; nhiều người trẻ buộc phải gia nhập các nhóm vũ trang. Bạn cũng chia sẻ mong muốn của người trẻ Congo là sống tốt, xây dựng xã hội tốt hơn, nhưng có những khó khăn từ bản thân cũng như xã hội ngăn cản họ. Bạn hy vọng lời cầu nguyện và lời huấn dụ của Đức Thánh Cha giúp họ là những Kitô hữu tốt và công dân lương thiện.
Xen kẽ giữa các chứng từ là những vũ điệu truyền thống của Congo, một nét văn hoá không thể thiếu trong đời sống của dân tộc này.
Chứng từ của một giáo lý viên
Trong chứng từ thứ hai, một giáo lý viên nói rằng ở Châu Phi, và ngay tại Congo, đời sống đức tin được lan truyền hay bị ngăn chặn, phần lớn tùy thuộc vào chứng tá, lòng nhiệt thành và hành trang được chuẩn bị của các giáo lý viên. Tuy nhiên, hoạt động dạy giáo lý đối mặt với những thách thức như thiếu nhân sự, tài chính, người trẻ bị khích động bởi bạo lực, tìm kiếm cuộc sống lạc thú và dễ dàng... Bạn mong ước các giáo lý viên sẽ luôn ý thức hơn về trách nhiệm của mình trong việc loan báo niềm hy vọng và dấn thân để làm chứng cho lời mình loan báo.
Năm ngón tay: năm thành phần cốt yếu để xây dựng tương lai tốt đẹp và hoà bình
Trong diễn văn đáp từ, Đức Thánh Cha mời gọi các bạn trẻ suy nghĩ về đôi bàn tay của mình, những đôi bàn tay độc đáo như mỗi người trong họ là kho báu độc nhất vô nhị, không thể lặp lại và không thể so sánh: đôi bàn tay này của tôi để làm gì? Để xây dựng hay phá hủy, để cho đi hay gom góp, để yêu thương hay ghét bỏ? Đó là chọn lựa của các bạn cho tương lai và hoà bình mà đất nước còn thiếu. Và Đức Thánh Cha chia sẻ với các bạn trẻ và các giáo lý viên 5 điểm quan trọng, là thành phần cốt yếu để xây dựng tương lai tốt đẹp và hoà bình.
Ngón cái: cầu nguyện
Trước hết, ngón tay cái, ngón gần trái tim nhất, tượng trưng cho kinh nguyện, là động lực trong cuộc sống của chúng ta. Đức Thánh Cha nói: "Cầu nguyện là thành phần đầu tiên, thành phần cơ bản cho tương lai, bởi vì chỉ tự mình chúng ta không thể thực hiện được. Chúng ta không toàn năng, và khi chúng ta nghĩ rằng mình toàn năng, chúng ta sẽ thất bại thảm hại." Do đó, "chúng ta cần đâm rễ sâu trong cầu nguyện, trong việc lắng nghe Lời Chúa. Cầu nguyện là điều giúp chúng ta tăng trưởng mỗi ngày một cách sâu sắc, sinh hoa trái và biến đổi bầu khí ô nhiễm mà chúng ta hít thở thành khí oxy mang lại sự sống."
Lời cầu nguyện sống động
Nhưng chúng ta cần lời cầu nguyện sống động. Đức Thánh Cha nhắc các bạn trẻ đừng trò chuyện với Chúa Giêsu như một thực thể xa vời và xa cách, như người khiến chúng ta sợ hãi, nhưng như một người bạn thân thiết nhất, người đã hy sinh mạng sống vì chúng ta. "Vì thế đừng sợ cầm lấy Thánh Giá trên tay và ôm vào ngực, trao những giọt nước mắt của các con cho Chúa Giêsu, và đừng quên chiêm ngắm khuôn mặt của Người, khuôn mặt của một Thiên Chúa trẻ trung, sống động và phục sinh! Vâng, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ, Người đã biến Thánh giá thành cây cầu dẫn đến sự phục sinh. Vì vậy, mỗi ngày hãy giơ tay lên ngợi khen và chúc tụng Người; hãy nói với Người những hy vọng trong lòng các con, hãy chia sẻ với Người những bí mật thầm kín nhất của cuộc đời: những người các con yêu thương, những vết thương các con mang trong lòng, những giấc mơ các con giữ trong tim. Hãy kể cho Người về khu phố, hàng xóm, thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp của các con, đất nước của các con."
Khi chúng ta cầu nguyện, Đúc Thánh Cha nói, chúng ta để cho Chúa can thiệp vào cuộc sống của chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh bình an của Người, là Chúa Thánh Thần, động lực của hòa bình, là sức mạnh thực sự của hòa bình. Đây là lý do tại sao cầu nguyện là vũ khí mạnh mẽ nhất hiện có. Nó mang đến cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng của Chúa, luôn mở ra những khả năng mới và giúp vượt qua nỗi sợ hãi.
Ngón trỏ: cộng đoàn
Ngón trỏ được dùng để chỉ cho người khác một điều gì đó. Và Đức Thánh Cha giải thích rằng những người khác là cộng đoàn. Đây là thành phần thứ hai để xây dựng tương lai. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các bạn trẻ "đừng để tuổi trẻ của mình bị hủy hoại bởi sự cô đơn và khép kín. Hãy luôn suy nghĩ cùng nhau và các con sẽ hạnh phúc, bởi vì cộng đoàn là cách để chúng ta cảm thấy hài lòng về bản thân, để trung thành với ơn gọi thực sự của mình." Và ngài cảnh giác họ về "cám dỗ loại trừ một ai đó vì họ có nguồn gốc khác với các con; hãy cảnh giác với chủ nghĩa vùng miền, chủ nghĩa bộ lạc, hay bất cứ điều gì khiến các con cảm thấy an toàn trong nhóm của các con nhưng đồng thời lại không quan tâm đến đời sống cộng đồng."
Xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn từ tha nhân, cộng đoàn
Đức Thánh Cha hỏi các bạn trẻ: "Đã bao giờ các con nói chuyện với những người từ các nhóm khác chưa hay luôn khép kín trong nhóm của mình? Các con đã bao giờ lắng nghe câu chuyện của người khác, đã biết được nỗi đau của họ chưa?" Ngài nói tiếp: "Tất nhiên, lên án ai đó thì dễ dàng hơn là hiểu họ; nhưng con đường mà Thiên Chúa chỉ ra để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thì lại đi từ tha nhân, từ tập thể, từ cộng đồng. Đó là xây dựng Giáo hội, mở rộng tầm nhìn, nhìn thấy tha nhân trong mọi người, quan tâm chăm sóc người khác."
Thật buồn khi thấy những người trẻ dành hàng giờ trước điện thoại
Trước cám dỗ của lối sống ảo trên các mạng xã hội, Đức Thánh Cha nhận định rằng sống ảo thôi chưa đủ, chúng ta không thể hài lòng với việc giao tiếp với những người ở xa, thậm chí là giả mạo. "Chúng ta không thể chạm đến cuộc sống bằng một ngón tay trên màn hình. Thật buồn khi thấy những người trẻ dành hàng giờ trước điện thoại và rồi nếu các con nhìn vào khuôn mặt của họ, các con thấy rằng họ không cười, ánh mắt của họ có vẻ mệt mỏi và chán chường." Ngài nhắn nhủ: "Không gì và không ai có thể thay thế được sức mạnh mà chúng ta có được khi ở bên nhau, ánh sáng của đôi mắt, niềm vui của sự chia sẻ! Nói chuyện và lắng nghe nhau là điều cần thiết... Vì vậy, mỗi ngày hãy cố dành thời gian ở bên nhau và cảm nghiệm vẻ đẹp của việc ngạc nhiên bởi những câu chuyện và trải nghiệm của họ."
Và Đức Thánh Cha mời gọi các bạn trẻ nắm tay nhau và tưởng tượng mình là một Giáo hội, một dân tộc duy nhất, nhận ra mình có liên kết và phụ thuộc nhau và phúc lợi sẽ được gia tăng nhờ tập thể, mình được bảo vệ bởi người khác, mình có trách nhiệm với người khác và nhận ra mình là người không thể thiếu và có trách nhiệm đối với Giáo hội và đất nước.
Ngón giữa: sự trung thực
Ngón giữa, ngón cao nhất, nhắc chúng ta về điều cốt yếu, quan trọng để xây dựng tương lai, đó là sự trung thực! Đức Thánh Cha nói: "Trung thực có nghĩa là không bị vướng vào cạm bẫy của tham nhũng.
“Đừng để cho sự ác thắng được mình; nhưng hãy lấy thiện để thắng ác”
Để đánh bại căn bệnh ung thư tham nhũng dường như đang phát triển và không bao giờ dừng lại, Đức Thánh Cha nhắc lại lời thánh Phaolô: “Đừng để cho sự ác thắng được mình; nhưng hãy lấy thiện để thắng ác” (Rm 12,21), Ngài nhắc lại chứng tá của Floribert Bwana Chui, mười lăm năm trước, khi mới 26 tuổi, đã bị giết ở Goma vì đã chặn đường vận chuyển thực phẩm hư hỏng có thể gây hại cho sức khỏe của mọi người. Anh có thể dễ dàng nhắm mắt làm ngơ; không ai có thể phát hiện ra, thậm chí là anh có thể kiếm được lợi nhuận. Nhưng, vì anh là một Kitô hữu, anh đã cầu nguyện. Anh nghĩ đến người khác và anh chọn con đường lương thiện, nói không với sự dơ bẩn của tham nhũng. Đó là ý nghĩa của việc không chỉ giữ cho đôi tay của các con trong sạch, nhưng cả con tim trong sáng.
Ngón áp út: sự tha thứ
Ngón áp út là ngón yếu nhất, theo Đức Thánh Cha, nó nhắc nhở chúng ta rằng những mục tiêu mang lại cho chúng ta sự thỏa mãn lớn nhất trong cuộc sống, trên hết là tình yêu, đạt được qua sự yếu đuối, mệt mỏi và khó khăn.
Đức Thánh Cha nhắc rằng trong những lúc yếu đuối và trong những lúc khủng hoảng, sức mạnh giúp chúng ta tiến lên chính là sự tha thứ giúp chúng ta tiến lên. "Bởi vì tha thứ có nghĩa là có thể bắt đầu lại. Tha thứ không có nghĩa là quên đi quá khứ; nó có nghĩa không đầu hàng trước sự việc lặp đi lặp lại."
Để tạo ra một tương lai mới, chúng ta cần tha thứ và đón nhận sự thứ tha. Đức Thánh Cha mời các bạn trẻ nghĩ về những người đã xúc phạm mình, và trước mặt Chúa, hãy tha thứ cho họ.
Ngón út: sự phục vụ
Cuối cùng, như ngón út, ngón bé nhỏ nhất, chúng ta có thể nghĩ điều mình làm chỉ là giọt nước trong đại dương. Nhưng Đức Thánh Cha nhấn mạnh, chìa khóa ở đây là sự phục vụ. Chính sự nhỏ bé, việc trở nên nhỏ bé của chúng ta đã thu hút Thiên Chúa.
Đừng bao giờ nản lòng!
Điều cuối cùng Đức Thánh Cha mời gọi những người trẻ và các giáo lý viên là "đừng bao giờ nản lòng! Ngài khích lệ họ khi sầu buồn, khi mất can đảm, hãy cầm lấy Phúc âm và nhìn vào Chúa Giêsu, Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh.
Sau khi cùng đọc kinh Lạy Cha và nhận lãnh phép lành từ Đức Thánh Cha, các bạn trẻ đã tặng Đức Thánh Cha các món quà lưu niệm.
Kết thúc buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần để nghỉ trưa trước khi tiếp tục các hoạt động vào ban chiều: gặp gỡ các Giám mục, linh mục và tu sĩ và sau đó, gặp gỡ riêng các tu sĩ dòng Tên.
Hồng Thủy - Vatican News
Bài giảng có nhất thiết phải ngắn gọn không?
Đức Phanxicô trong một thánh lễ ở nhà nguyện Thánh Marta
Ý kiến của linh mục dòng Đa Minh Franck Dubois, giám tập Tu viện Strasbourg (Bas-Rhin), Pháp, người giảng thường xuyên trên chương trình “Ngày của Chúa” và của giáo sư khoa hùng biện người Pháp Luc Desroche.
Ngày thứ sáu 20 tháng 1, trong buổi tiếp kiến với những người dự khóa học phụng vụ tại Viện Giáo hoàng Saint-Anselme Athenaeum, Đức Phanxicô xin các linh mục giới hạn bài giảng của họ trong mười phút, không hơn. Ngài nhấn mạnh: “Bài giảng không phải là bài diễn văn trong hội nghị, nó là bí tích” (1), ngài cho một số bài giảng là “thảm họa”.
la-croix.com, Gilles Donada và Malo Tresca, 2023-01-23
“Chúng ta không được bắt các giáo dân làm con tin”
Linh mục dòng Đa Minh Franck Dubois, giám tập Tu viện Strasbourg (Bas-Rhin), người giảng thường xuyên trên chương trình “Ngày của Chúa”
“Lẽ tự nhiên, tôi sẽ trả lời trước hết bài giảng phải sắc bén, như thế bài giảng sẽ phải khá ngắn. Tôi cũng nghĩ đây là một khía cạnh rất văn hóa… Chắc chắn câu hỏi được đặt ra sẽ khác nhau, ở Pháp và ở các quốc gia khác, có thể có những quốc gia có khuynh hướng giảng dài hơn. Điều tôi thấy không hay là giáo dân có cảm tưởng họ đang bị làm con tin – trừ trường hợp ngoại lệ – họ sẽ không đi ra khỏi nhà thờ hoặc bày tỏ sự không bằng lòng của họ trước bài giảng của chúng ta!
Giáo dân chịu đựng người giảng, và việc chúng ta giới hạn thời gian giảng có thể là một dấu hiệu tôn trọng họ. Trong các thánh lễ trong tuần, tôi cố gắng giới hạn bài giảng trong ba phút và ngày chúa nhật bảy phút, dù dĩ nhiên là không phải lúc nào tôi cũng tôn trọng. Bên cạnh thì giờ, còn có nhiều tiêu chuẩn khác tạo nên một ‘bài giảng hay’. Chẳng hạn, phải cẩn thận để không rơi vào lối chú giải hàn lâm: chúng ta có thể triển khai một số bối cảnh trong Kinh Thánh, nhưng không kể lại và cũng không nên diễn giải nó!
Theo tôi, một bài giảng nên cấu trúc qua ba thời điểm mạnh: thứ nhất, một cái móc (kỹ thuật kể một câu chuyện nhỏ thường có tác dụng khá tốt), tiếp theo là một yếu tố suy tư về học thuyết – về mầu nhiệm nhập thể, về Chúa Ba Ngôi, sự sống lại… những nguyên tắc cơ bản của đức tin, mà chúng ta có thể không làm cách này hay cách khác -, và cuối cùng là từ một thực tế để liên hệ với cuộc sống hàng ngày, bằng cách đặt câu hỏi, đưa ra những thách thức… Chắc chắn chúng ta không giảng để làm cho giáo dân có mặc cảm tội lỗi, nhưng để đánh thức họ, làm cho họ tự hỏi!
Bài giảng nói lên một cái gì đó về người giảng, nó lộ ra rất nhiều. Vì thế phải có một cân bằng đúng khi giảng, không rơi vào tình trạng thiếu chính trực. Chính quan điểm của người giảng đưa đến những rủi ro: phô bày, đè bẹp, thao túng bằng cách chuyển đảo lời Chúa, tạo ảnh hưởng, gây sốc hoặc làm tổn thương những chủ đề tế nhị có thể liên quan đến đạo đức, học thuyết đạo đức… Điều này đòi hỏi phải tế nhị nhưng không lấy đi khía cạnh thô tháp và gây phiền của Tin Mừng. Lời của người rao giảng thực sự có thể cảm hóa và xây dựng, cũng như nó có thể thách thức hoặc phá hủy.
Có những đề xuất về việc đào tạo bài giảng ở Pháp, nhưng tôi nghĩ chúng ta vẫn còn chỗ để cải thiện. Đức Phanxicô thường nói về tầm quan trọng của việc chuẩn bị bài giảng qua bản văn và qua cầu nguyện để không làm người nghe chán. Ngài cũng nói đến khuynh hướng toàn cầu của hàng giáo sĩ, linh mục hay phó tế, những người phải biết và yêu mến giáo dân, cũng như yêu lời Chúa đủ để truyền tải thông điệp của mình mà không rơi vào chủ nghĩa hình thức quá mức hoặc thờ ơ thô kệch.”
Chất lượng của bài giảng cũng quan trọng như thời gian
Giáo sư khoa hùng biện Luc Desroche
“Tám trong số mười người dùng Internet đã trả lời cuộc khảo sát của chúng tôi về đề tài ‘Người Pháp nghĩ gì về bài giảng?’ – được thực hiện vào tháng 3 năm 2021, chúng tôi gom được hơn 10.000 phản hồi – họ cho biết họ không thể tập trung nghe giảng quá mười phút. Nhưng không nên dùng chỉ số thời gian làm chỉ số tuyệt đối. Đôi khi chúng ta muốn kéo dài các bài giảng của mình hai mươi phút, trong khi chúng ta cúp ngay bài giảng của người khác ngay phút đầu tiên của họ.
Điều quan trọng trên hết là nội dung và cấu trúc bài giảng. Chúng ta thiết lập mối liên hệ cụ thể nào giữa lời nói và cuộc sống hàng ngày? Chúng ta muốn giáo dân đem thông điệp chính yếu nào khi họ về nhà? Trong khi thảo luận với các linh mục, tôi nhận ra nhiều linh mục không trả lời được câu hỏi này… Chẳng hạn cấu trúc chặt chẽ ở hai hoặc ba điểm giúp giáo dân dễ hiểu phần thông điệp chính hơn. Trong chương trình đào tạo, chúng tôi dựa trên sáu tiêu chuẩn, một trong các tiêu chuẩn này có nguồn gốc từ Cổ đại.
Các logo nhằm mục đích để mọi người, cả những người trẻ nhất đều hiểu được bài giảng. Đạo đức mời gọi chúng ta chân thành trong cách diễn tả. Tôi muốn quy chiếu vào “tiếng nói của linh mục”: giọng nói trong trẻo, chậm rãi hơn, không liên quan gì đến cách diễn tả thông thường. Tiêu chuẩn thứ ba là cảm xúc: chúng ta muốn truyền cảm xúc gì liên hệ đến bài giảng cho giáo dân? Niềm vui tìm lại con chiên đi lạc, đồng xu bị mất, giận dữ trước sự từ chối của kẻ có tội, nỗi buồn của Chúa Kitô ở ngôi mộ của ông Ladarô? Nhiều linh mục không thoải mái với câu hỏi về cảm xúc này và không xem trọng nó. Họ thích núp trong những chuyện về trí tuệ hơn.
Ba tiêu chuẩn sau được giáo sư tâm lý học Albert Mehrabian ở Đại học California chính thức hóa. Nó nói về ngôn ngữ lời nói và giọng nói: chúng ta nói gì và nói như thế nào. Và ngôn ngữ hình ảnh: ánh mắt, cử chỉ, tư thế. Làm thế nào để thiết lập mối liên hệ với giáo dân khi chúng ta chúi mũi vào bài soạn sẵn? Trau dồi tài hùng biện, cách diễn tả thường bị hiểu lầm. Một số người tức tối cho rằng đó là thao túng. Chúng ta không được nhầm lẫn giữa tài hùng biện, vốn là một nghệ thuật trong phục vụ, ở đây là Tin Mừng, và ngụy biện tìm cách thuyết phục bất kỳ ai về bất cứ điều gì…
Đôi khi giáo dân bị hiểu lầm khi đề cập đến bài giảng: nó thuộc lãnh vực thiêng liêng. Vậy mà giáo dân là người đầu tiên nghe giảng! Đề cập đến vấn đề chất lượng bài giảng là chủ đề nhạy cảm với linh mục: vì nhận xét nào cũng ảnh hưởng đến cá nhân họ. Chúng ta quên rằng kỷ luật này đã được Giáo hội ban hành từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 19. Ngày nay chỉ có ba chủng viện trong số hơn mười lăm chủng viện tôi liên hệ còn dạy môn này. Tuy nhiên, nhu cầu là rất lớn. Gần đây một linh mục tâm sự với tôi: ‘Bài giảng lễ là thánh giá hàng tuần của tôi’”.
- Không phải là một trong bảy bí tích được Giáo hội công giáo chính thức công nhận, nhưng “vì bản chất phụng vụ, bài giảng cũng mang một ý nghĩa bí tích: Chúa Kitô hiện diện trong cộng đoàn tụ họp lại để nghe Lời Ngài và do đó cũng hiện diện trong Bài giảng của thừa tác viên. (…)”, nhắc lại Hướng dẫn về Bài giảng (2010) của Bộ Giáo lý Đức tin, được tông huấn Verbum domini của Đức Bênêđictô XVI đề cập đến.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Nghi thức zaïrois, mô hình phụng vụ độc đáo thích ứng với văn hóa châu Phi
Hình ảnh thánh lễ theo nghi thức zaïrois tháng 12 năm 2019 tại Vatican
fr.aleteia.org, I.Media, 2023-01-30
Ngày thứ tư 1 tháng 2, Đức Phanxicô sẽ cử hành thánh lễ tại sân bay Ndolo của thủ đô Kinshasa, Cộng hòa Dân chủ Congo và sẽ phối hợp với các yếu tố của nghi thức zaïrois.
Phụng vụ này có được là nhờ Công đồng Vatican II. Việc xây dựng nghi thức này đòi hỏi gần hai thập kỷ làm việc và đối thoại giữa Rôma và tòa giám mục zaïrois. Nếu có một số đặc thù còn tồn tại ở một số giáo phận có truyền thống lâu đời như nghi thức Ambrosian ở Milan, thì bây giờ nghi thức zaïrois đại diện cho một trường hợp độc đáo về hội nhập văn hóa của phụng vụ công giáo trên quy mô quốc gia.
Các giai điệu của nghi thức này, lồng ghép các yếu tố đặc trưng của văn hóa châu Phi vào phụng vụ công giáo la-mã đã vang lên hai lần dưới mái vòm của Đền thờ Thánh Phêrô ngày 1 tháng 12 năm 2019 và gần đây hơn, ngày 3 tháng 7 năm 2022, trong một thánh lễ được cử hành trước cộng đồng người Congo ở Rôma, để bù đắp cho chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Congo bị hoãn lại vì lý do sức khỏe của ngài.
“Hội nhập văn hóa Phụng vụ”
Tổng giám mục Vittorio Francesco Viola, thư ký Thánh Bộ Phụng tự nhắc lại mối liên hệ thường được Đức Phanxicô nhắc đến giữa “sự dấn thân cho việc tân phúc âm hóa” và “sự hội nhập văn hóa của phụng vụ”. Ngày 20 tháng 6-2022, ngài đã lên tiếng trong một hội nghị giới thiệu ấn bản tiếng Pháp quyển sách của nữ tu Rita Mboshu Kongo, Đức Phanxicô và Sách lễ Rôma cho các giáo phận Zaïre được nhà xuất bản Vatican phát hành.
Tổng giám mục Vilola, tu sĩ dòng Phanxicô người Ý giải thích: “Dù hoàn toàn theo thánh lễ Rôma, nhưng Sách lễ này mô tả những thích nghi đặc biệt: tưởng nhớ tổ tiên khi bắt đầu cử hành, sám hối sau bài giảng, nghi thức chúc bình an sau hành vi sám hối”.
Trong một thư gởi nhân dịp giới thiệu sách, Đức Phanxicô mô tả nghi thức zaïrois, còn được gọi là “nghi thức Congo”, là “mẫu mực cho các Giáo hội khác trong việc tìm kiếm một cách cử hành phụng vụ thích hợp để mang lại sự chín muồi của thành quả phúc âm hóa các nền văn hóa và hội nhập văn hóa của Phúc Âm”.
Tiếng vang đến tận Amazon
Tổng giám mục Viola nhắc lại: “Nghi thức zaïrois gợi ý cho ý tưởng về một nghi thức dành riêng cho Amazon, chủ đề được đưa ra trong Thượng Hội đồng Giám mục năm 2019 để tìm một phụng vụ có thể đáp ứng cho nỗ lực hội nhập văn hóa của các dân tộc bản địa.”
Ngài xác định hội nhập văn hóa là “biên giới mới” của cuộc cải cách phụng vụ do Công đồng gây ra. Trong Công đồng Vatican II, trên thực tế Hiến chế Sacrosanctum concilium đã mở ra khả năng thích ứng phụng vụ với các nền văn hóa địa phương, bằng cách xác định Giáo hội “không muốn, ngay cả trong phụng vụ, áp đặt hình thức cứng nhắc của một nghi thức duy nhất: nhưng ngược lại, Giáo hội vun trồng phẩm chất và năng khiếu của nhiều dân tộc khác nhau”.
Với điều kiện là sự thống nhất của nghi thức la-mã phải được bảo vệ, những khác biệt hợp pháp và sự thích ứng với sự đa dạng của các hội đồng sẽ được thừa nhận.
Các nghị phụ công đồng trong văn bản được đa số công nhận, 2.158 phiếu thuận trên 19 phiếu chống ghi rõ: “Với điều kiện là sự thống nhất của nghi thức la-mã phải được bảo vệ, những khác biệt hợp pháp và sự thích ứng với sự đa dạng của các hội đồng, các vùng, các dân tộc, đặc biệt là trong các cơ quan truyền giáo sẽ được thừa nhận, ngay cả khi các sách phụng vụ sẽ được xem lại.”
Hiện tại, nghi thức zaïrois vẫn là minh họa cụ thể duy nhất được áp dụng cho việc hội nhập văn hóa phụng vụ có thể thực hiện được. Tổng giám mục ghi nhận, nghi thức Amazon vẫn còn “trên biển cả” cho biết hành động cụ thể cho đến nay là thành lập một ủy ban để phản ánh tính khả thi của một tiến trình như vậy.
Hiệp thông với Rôma để không trở thành tà phái
Trong những năm sôi sục về mặt tri thức và phụng vụ sau Công đồng Vatican II, các giám mục Congo quan tâm đến việc hiệp thông trọn vẹn với giáo hoàng: “Là người công giáo, việc tôn thờ Thánh Thể mà chúng tôi cử hành theo nghi thức zaïrois phải biện minh cho nguồn gốc tông đồ của nó. Nếu không, chúng tôi sẽ trở thành tà phái.”
Vì thế bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã và vẫn đóng vai trò trung tâm trong việc hỗ trợ những nỗ lực này. Từ năm 1969 đến năm 1988, hồng y Joseph-Albert Malula (1917-1989), tổng giám mục giáo phận Kinshasa trong 25 năm đã hướng dẫn đối thoại thường xuyên và mạnh mẽ. Ngài là nhân vật trung tâm của Giáo hội hậu thuộc địa ở Châu Phi được Đức Gioan XXIII bổ nhiệm làm thành viên của ủy ban phụng vụ chuẩn bị cho Công đồng Vatican II, và sau đó cùng với các đồng nghiệp người Congo của mình xác định một phương pháp để “tìm một khuôn khổ Châu Phi và zaïrois” trong Công đồng Vatican II theo Sách Lễ Rôma do Đức Phaolô VI phát hành.
Nghi thức này đã phát triển, giống như cơ thể con người sinh ra và cần phát triển
Một công việc chậm chạp kéo dài gần hai thập kỷ đã được triển khai theo yêu cầu của giám mục địa phương năm 1969, và năm 1988 Sách lễ Rôma cho các giáo phận Zaïre mới được chấp nhận. Các thánh bộ Phụng tự và Giáo lý Đức tin đã đặc biệt nghiên cứu các cử hành tiến hành theo thử nghiệm, ad experimentum. Vào những năm 1980, chính hồng y Joseph Ratzinger đã đến tại chỗ để quan sát việc áp dụng phụng vụ này và đưa ra những nhận xét của mình.
Trong nghiên cứu của sơ thần học gia Rita Mboshu Kongo, sơ cho thấy “việc tiếp nhận và thích nghi phụng vụ công đồng ở Congo với một số người là “hiếu kỳ” và theo một số người khác, là “lý do để thức tỉnh”. Nghi thức zaïrois thực sự đã bị lãng quên ở một số giáo xứ và một số giáo phận, đặc biệt là vì sự phức tạp về sắc tộc và ngôn ngữ của đất nước rộng lớn này.
Sơ Rita nói thêm: “Nghi thức này đã phát triển, giống như cơ thể con người được sinh ra và cần phát triển, chính đặc điểm tiến hóa này đã làm chúng ta nghiên cứu lịch sử, để hiểu đó không phải là công việc thử nghiệm của truyền giáo lần thứ hai cho Congo.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Thánh cha gặp các tổ chức từ thiện tại Congo
Hoạt động cuối cùng của Đức Thánh cha Phanxicô chiều ngày 01 tháng Hai vừa qua, tại thủ đô Congo, cũng diễn ra tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh: đó là cuộc gặp gỡ lúc 6 giờ 30 chiều, với đại diện của 6 tổ chức từ thiện bác ái hoạt động tại Congo Dân chủ. Đó là tổ chức Telema Ongenge, Những người Phong cùi ở nhà thương dela Rive, Hội Fasta, Trung Tâm Giấc Mơ, những người câm điếc ở làng Bondeko, người mù thuộc các trường học Ngọn lửa nhỏ thuộc Phong trào Focolare, Tổ ấm, và sau cùng là các nữ đan sĩ dòng Trappiste ở Mvanda.
Hoạt động của các tổ chức này được trình bày vắn tắt cho Đức Thánh cha, trước khi ngài ngỏ lời với mọi người.
Huấn từ của Đức Thánh cha
Lên tiếng trong dịp này, Đức Thánh cha ca ngợi và khích lệ các hoạt động từ thiện âm thầm của các tổ chức bác ái ở Congo. Ngài nói: “Điều làm tôi chú ý nhiều, đó là anh chị em không chỉ kể ra các vấn đề xã hội, không liệt kê bao nhiêu dữ kiện nghèo đói, nhưng đặc biệt anh chị em nói về lòng yêu mến người nghèo. Cám ơn anh chị em vì cái nhìn biết nhận ra Chúa Giêsu nơi những người anh chị em bé nhỏ nhất. Cần phải tìm kiếm và yêu mến Chúa nơi những người nghèo và trong tư cách là các Kitô hữu, chúng ta phải chú ý vì nếu chúng ta xa cách người nghèo thì có một cái gì không ổn, khi một tín hữu xa cách những người được Chúa Kitô yêu thương đặc biệt.
Đức Thánh cha cũng nhắn nhủ rằng: Anh chị em là những người yêu mến đất nước này và tận tụy đối với dân chúng, những điều anh chị em làm thật là tuyệt vời, nhưng không chút dễ dàng, những điều anh chị em kể cho tôi thật là cảm động, về những người đau khổ bị người ta đối xử trong sự lãnh đạm, dửng dưng, phải sống lang thang trên các đường phố, có nguy cơ bị bạo hành và lạm dụng tính dục, trong khi họ đang cần tình thương và sự săn sóc.
Đức Thánh cha nhắc nhở rằng thật là bõ công khi dấn thân làm điều thiện: mặc dù sự bé nhỏ của chúng ta, Chúa Giêsu chịu đóng đanh vẫn muốn chúng ta ở cạnh Ngài để nâng đỡ thảm trạng của thế giới. Tiếp đến, đức bác ái đòi sự gương mẫu, làm gương, đó là lối sống theo Tin mừng. Vì thế, cần có sự đáng tin cậy, cần sự trong sáng, minh bạch, đặc biệt trong việc quản lý tài chính và quản trị các dự án, đồng thời cũng cần dấn thân cung cấp các dịch vụ thích hợp và có chất lượng.
Đức Thánh cha nói thêm rằng: Cần có sự sáng suốt, nhìn xa trông rộng. Điều quan trong là những công việc thiện, ngoài việc đáp ứng các nhu cầu cấp thiết, còn phải lâu bền, không chỉ trợ giúp nhất thời mà thôi, nhưng còn phải nhắm đến viễn tượng dài hạn, kéo dài trong thời gian, chứ không chấm dứt với những người khởi xướng.
Cuộc gặp gỡ kết thúc lúc 7 giờ 30, với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA