Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tòa Thánh không trả lời Thổ Nhĩ Kỳ
Trong cuộc họp báo trưa ngày 15-4-2015, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, đã trả lời câu hỏi của một ký giả nêu lên về phản ứng của Thổ Nhĩ Kỳ đối với những lời ĐTC Phanxicô trong buổi lễ ngày 12-4-2015 gọi đích danh cuộc tàn sát 1,5 triệu người Armeni cách đây 100 năm là ”cuộc diệt chủng đầu tiên trong thế kỷ 20”. Cha nói:
”Những lời của ĐGH Phanxicô về cuộc ”diệt chủng người Arméni phải được xét trong một đường hướng rõ ràng, và trước sau như một, theo hướng đối thoại. ĐGH đã đắn đo trong bài diễn văn của Ngài và nhắc lại điều đã được ĐGH Gioan Phaolô 2 khẳng định. Chúng tôi ghi nhận phản ứng của Thổ nhĩ kỳ nhưng chúng tôi không nghĩ đây là trường hợp để tranh luận hoặc để cãi vã nhau. Bài diễn văn của ĐGH ghi nhận những gì đã xảy ra để có một thái độ thích hợp hầu đạt có một lịch sử tốt đẹp hơn trong tương lai”.
Sau những phản ứng gay gắt của thủ tướng, ngoại trưởng và đại sứ của Thổ nhĩ kỳ cạnh Tòa Thánh, về bài diễn văn của ĐTC, hôm 14-4-2015, đến lượt tổng thống Recep Tayyip Erdogan của Thổ muốn ”lên lớp” cho ĐGH và nói rằng: ”Tôi muốn cảnh giác ĐGH đừng lập lại sai lầm ấy”. Ông cũng kêu gọi hãy tín nhiệm ”các sử gia để tránh nói sảng” và có một cái nhìn tốt về ”các thực tại”.
Hôm trước đó, ngoại trưởng Thổ cho rằng những lời tuyên bố của ĐGH hôm 12-4-2015 là một ”sự vu khống”, không hợp với luật pháp về từ ”diệt chủng”.
Thật ra trong diễn văn đầu thánh lễ ngày 12-4-2015, ĐTC Phanxicô đã trưng dẫn nguyên văn Tuyên ngôn chung của ĐGH Gioan Phaolô 2 và Đức Tổng thượng phụ Karekin II của Giáo Hội Arméni Tông Truyền ký kết tại Etchmiadzin ngày 27-9-2001. Tuyên ngôn này định nghĩa cuộc tàn sát 1,5 triệu người Arméni hồi năm 1915 là ”cuộc diệt chủng đầu tiên trong thế kỷ 20”, và cầu mong mở lại con đường hòa giải giữa dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ và Arméni.
Trong bối cảnh này, cần ghi nhận rằng chính tổng thống Erdogan, tuy phê bình mạnh mẽ, nhưng đã lập lại đề nghị với Arméni thành lập một ủy ban chung gồm các sử gia để nghiên cứu văn khố của hai nước về vấn đề này.
Nghị viện Âu Châu ở Strasbourg sẽ bỏ phiếu ngày 16-4-2015 về một nghị quyết trong đó có những đoạn khẳng định rằng ”Những gì xảy ra từ 1915 đến 1917 trong Đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) gây thiệt hại cho người Arméni là một ”cuộc diệt chủng”. Chính Phủ Thổ nhĩ kỳ phải tôn trọng những cam kết của mình về việc bảo vệ gia sản văn hóa, mở các văn khố của mình và trả lẽ với quá khứ, và Thổ Nhĩ Kỳ cũng như Arméni cần phải bình thường hóa quan hệ với nhau”.
Trong dự thảo nghị quyết, các đại biểu nghị viện Âu Châu lên án mọi tội ác chống lại nhân loại và diệt chủng, đồng thời mạnh mẽ lên án mọi toan tính phủ nhận”.
Tổng thống Erdogan tuyên bố sẽ bỏ ngoài tai bất kỳ nghị quyết nào của Nghị viện Âu Châu về vấn đề ”diệt chủng” (Tổng hợp 15-4-2015)
(G. Trần Đức Anh OP, RadioVatican 15.04.2015)
Biết lắng nghe tiếng nói của nữ giới nhiều hơn trong xã hội và Giáo Hội
Roma - Cần phải biết tái khám phá ra thiên tài nữ giới, biết lắng nghe tiếng nói của họ nhiều hơn, thừa nhận uy tín của tiếng nói đó, và để cho nó thực sự có ảnh hưởng trên cuộc sống của xã hội và của Giáo Hội.
ĐTC Phanxicô đã nói như trên với khoảng 30.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chúng sáng thứ tư hàng tuần hôm qua.
Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói ngài sẽ dành mấy bài giáo lý để trình bầy khiá cạnh chính của đề tài gia đình đó là ơn Thiên Chúa Ban cho nhân loại với việc tạo dựng người nam và người nữ và với bí tích hôn phối. Có hai bài giáo lý nói về sự khác biệt và bổ túc giũa người nam và người nữ, và hai bài giáo lý trình bầy về Hôn Nhân.
Trước hết là một bình luận về trình thuật tạo dựng của sách Sáng Thế. Trong trình thuật này chúng ta đọc thấy rằng sau khi tạo dựng vũ trụ và mọi sinh vật, Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài là tuyệt đỉnh công trình sáng tạo của Ngài: “giống hình ảnh Ngài, nam nữ Thiên Chúa tạo dựng họ” (St 1,27): người nam và người nữ là hình ảnh và giống Thiên Chúa.
Như chúng ta tất cả đều biết, sự khác biệt phái tính hiện diện trong tất cả mọi hình thức của sự sống, trong chiếc thang dài của các sinh vật. Nhưng chỉ nơi người nam và người nữ nó mang theo trong mình hình ảnh và việc giống Thiên Chúa: văn bản kinh thánh lập lại điều này 3 lần trong trong hai câu 26-27. ĐTC giải thích sự kiện này như sau:
Điều này nói với chúng ta rằng không chỉ con người được xét trong chính nó là hình ảnh của Thiên Chúa, mà cả người nam và người nữ như là cặp đôi cũng là hình ảnh của Thiên Chúa. Sự khác biệt giữa nam nữ không phải là sự đối chọi hay phục tùng, nhưng để hiệp thông và truyền sinh, luôn luôn như hình ảnh và giống Thiên Chúa.
Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: kinh nghiệm dậy cho chúng ta biết điều đó: để hiểu biết một các tốt đẹp và lớn lên một cách hài hòa con người cần có sự hỗ tương giữa nam nữ. Chúng ta được dựng nên để lắng nghe nhau và trợ giúp nhau. Chúng ta có thể nói rằng không có việc làm giầu cho nhau trong tương giao này, trong tư tưởng và trong hành dộng, trong các tâm tình và trong công việc làm cũng như trong đức tin – thì cả hai cũng không thể hiểu thấu đáo là nam nữ có nghĩa là gì.
Nền văn hóa tân tiến hiện đại đã mở ra các khoảng không mới, các tự do mới và các sâu thẳm mới cho việc hiểu biết sự khác biệt phong phú này. Nhưng nó cũng đã đem theo nhiều nghi hoặc. Chẳng hạn, tôi tự hỏi cái gọi là lý thuyết giống lại cũng không phải là một biểu lộ của một sự tước đoạt và chịu trận nhằm xóa bỏ sự khác biệt phái tính, bởi vì nó không còn biết đối diện với chính mình nữa hay sao. Phải, chúng ta có nguy cơ đi thụt lùi một bước. Việc lấy mất đi sự khác biệt phái tính thật ra là vấn đề, chứ không phải là giải pháp. Trái lại, để giải đáp các vấn đề tương quan, người nam và người nữ phải nói chuyện với nhau nhiều hơn, lắng nghe nhau nhiều hơn, hiểu biết nhau nhiều hơn, và cộng tác với nhau với tình bạn. Với các nền tảng nhân bản đó, được nâng đỡ bởi ơn thánh Chúa, có thể dư phóng sự hiệp nhất hôn nhân và gia đình cho suốt cuộc đời. Mối dây hôn nhân và gia đình là một chuyện nghiêm chỉnh, và nó nghiêm chỉnh đối với tất cả mọi người chứ không chỉ đối với các tín hữu mà thôi. Tôi muốn khuyến khích các nhà trí thức đừng chạy trốn đề tài này, như thể nó đã trở thành phụ thuôc đối với dấn thân cho một xã hội tự do và công bằng hơn.
Thiên Chúa đã phó thác trái đất cho giao ước của người nam và người nữ: sự thất bại của nó khiến cho thế giới tình yêu thương cằn cỗi đi, và làm cho bầu trời của niềm hy vọng trở thành đen tối. Có các dấu hiệu khiến cho chúng ta âu lo, và chúng ta trông thấy chúng. Trong nhiều điểm tôi muốn chỉ cho thấy hai điều mà tôi tin rằng cần phải dấn thân với nhiều cấp bách hơn. ĐTC nêu lên điểm thứ nhất như sau:
Thật không nghi ngờ rằng chúng ta phải làm nhiều hơn nữa để tạo thuận tiện cho nữ giới, nếu chúng ta muốn tái trao ban sức mạnh lớn hơn cho sự tương giao giữa nam nữ. Thật thế, nữ giới cần phải được lắng nghe nhiều hơn, nhưng tiếng nói của họ cũng phải có sức nặng thực sự hơn, và có một uy tín được thừa nhận nhiều hơn trong xã hội và trong Giáo Hội. Cách thức mà chính Chúa Giêsu đã nhìn nữ giới – nhưng chúng ra nói rằng Phúc Âm là như thế - trong một bối cảnh ít thuận tiện hơn bối cảnh của chúng ta ngày nay, bởi vì vào thời đó phụ nữ chiếm chỗ hạng hai, và Chúa Giêsu đã coi nữ giới trong một cách thức trao ban một ánh sáng mạnh mẽ chiếu soi con đường dẫn đi rất xa, mà chúng ta mới chỉ đi được một đoạn ngắn.
Chúng ta chưa hiểu trong chiều sâu đâu là những điều mà thiên tài nữ giới có thể trao ban, những điều mà phụ nũ có thể cống hiến cho xã hội và cho cả chúng ta nữa, những điều mà họ biết trông thấy với đôi mắt khác, bổ túc cho các tư tưởng của nam giới. Nó là một con đường cần phải đi với nhiều óc sáng tạo và sự táo bạo hơn.
Một suy tư thứ hai liên quan tới đề tài người nam và người nữ được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Tôi tự hỏi không biết cuộc khủng hoảng của lòng tin tưởng tập thể nơi Thiên Chúa, gây ra biết bao sự dữ, khiến cho chúng ta bị bệnh chịu trận trước thái độ không tin và trơ trẽn, cũng không phải gắn liền với cuộc khủng hoảng của giao ước giữa người nam và người nữ hay sao. Thật ra trình thuật kinh thánh, với bức tranh lớn biểu tượng liên quan tới thiên đàng dưới thế và tội tổ tông, nói với chúng ta rằng chính sự hiệp thông với Thiên Chúa được phản ánh trong sự hiệp thông của cặp con người nam nữ, và việc đánh mất đi sự tin tưởng nơi Cha trên trời sinh ra chia rẽ và xung khắc giữa người nam và người nữ.
Từ đó phát xuất ra trách nhiệm lớn của Giáo Hội, của tất cả mọi tín hữu và trước hết của các gia đình tín hữu, đó là phải tái khám phá ra vẻ đẹp trong chương trình tạo dựng mà Đấng Tạo Hóa đã in nơi hình ảnh của Thiên Chúa, cả trong giao ước giữa người nam và người nữ nữa. Trái đất tràn đầy sự hài hòa và tin cậy, khi giao ước giữa người nam và người nữ được sống một cách tốt đẹp. Và nếu người nam và người nữ cùng tìm vẻ đẹp đó giữa nhau và với Thiên Chúa, thì chắc chắn họ sẽ tìm thấy nó. Chúa Giêsu khích lệ chúng ta công khai làm chứng cho vẻ đẹp đó, là hình ảnh của Thiên Chúa.
ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước bắc Mỹ và Âu châu. Cũng có các đoàn hành hương đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Indonesia, Nigeria, Mêhicô, Argentina và Ecuador. ĐTC cầu chúc mọi người có những ngày hành hương bổ ích và ngài xin tín hữu cầu nguyện cho các gia đình.
Với các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC đặc biệt chào các cặp vợ chồng và cùng họ cảm tạ Chúa về sự an bình và niềm vui của các cặp hạnh phúc. Tuy nhiên, cũng có nhiều gia đình và các cặp vợ chồng bị các thử thách của cuộc khủng hoảng và các chia rẽ. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho các gia đình ấy.
Ngài cũng đặc biệt chào một nhóm đại chủng sinh giáo phận Grodno bên Bạch Nga, hành hương Roma nhân mừng ngân khánh đại chủng viện.
Trong số các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào các sinh viên đại học Claretianum nhân Năm Đời Thánh Hiến, các nữ tu dòng Thánh Thể nhân mừng kỷ niệm 300 năm thành lập, cũng như các linh mục Lòng Chúa Thương Xót.
Chào các bạn trẻ, hàng trăm người đau yếu ngồi trên xe lăn, và các đôi tân hôn ĐTC khuyến khích mọi người can đảm làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh trong gia đình, môi trường sống và làm việc mỗi ngày. Ngài xin mọi người đừng quên rằng Lòng Thương Xót Chúa là ơn đẹp nhất Chúa ban nhân loại.
ĐTC xin Thiên Chúa Cha an ủi các anh chị em đau yếu, và ngài nhắn nhủ các đôi tân hôn biết noi gương lòng thương xót Chúa trong cuộc đời tình yêu hôn nhân.
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.
Linh Tiến Khải, Radio Vatican
Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi
VATICAN. Trong sứ điệp nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy xuất hành, ra khỏi bản thân và con người cũ, để tiến bước theo tiếng gọi của Chúa.
Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi lần thứ 52 sẽ được cử hành vào chúa nhật thứ 4 sau lễ Phục sinh, 26-4 tới đây, với chủ đề ”Xuất hành, kinh nghiệm cơ bản về ơn gọi”.
Trong sứ điệp công bố hôm 14-4-2015, ĐTC gợi lại kinh nghiệm xuất hành của Dân Chúa, của các Tổ Phụ trong Cựu Ước, và ngài khẳng định rằng:
”Nơi căn cội của mỗi ơn gọi Kitô có một chuyển động cơ bản của kinh nghiệm đức tin: tin có nghĩa là rời bỏ chính mình, ra khỏi tiện nghi thoải mái và sự cứng nhắc của cái tôi để tập trung cuộc sống của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô; giống như Tổ Phụ Abraham rời bỏ quê hương, lên đường trong niềm tín thác, vì biết rằng Thiên Chúa sẽ chỉ đường cho để tiến về đất mới. Sự ”ra đi” này không phải là sự coi rẻ cuộc sống, tâm tình và nhân tính của mình, trái lại, ai lên đường theo Chúa Kitô thì sẽ tìm được cuộc sống sung mãn, đặt trọn bản thân phụng sự Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã nói: ”Ai từ bỏ gia cư, hoặc anh em, chị em, cha mẹ, hay con cái, đồng ruộng, vì danh Thầy, thì sẽ nhận được gấp trăm và sẽ được sự sống đời đời làm gia sản” (Mt 19,29).
ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”Kinh nghiệm xuất hành chính là mô hình của đời sống Kitô, nhất là những người đón nhận ơn gọi đặc biệt tận hiến phục vụ Tin Mừng. Kinh nghiệm ấy hệ tại thái độ luôn tái hoán cải và biến đổi, luôn luôn tiến bước, đi từ sự chết đến sự sống.. Ơn gọi luôn luôn là một hoạt động của Thiên Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ban đầu của mình, giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ, kéo chúng ta ra khỏi tập quán và sự dửng dưng, phóng chúng ta hướng về niềm vui hiệp thông với Thiên chúa và anh chị em. Vì thế, đáp lại tiếng gọi của Chúa chính là để cho Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ổn định giả tạo của mình để lên đường tiến về Chúa Giêsu Kitô là đích điểm đầu tiên và cuối cùng của đời ta, và là hạnh phúc của chúng ta”.
ĐTC nhận xét rằng ”tiến trình xuất hành hướng về Thiên Chúa và tha nhân như thế làm cho đời sống chúng ta đầy vui mừng và ý nghĩa”. Ngài đặc biệt nhắc nhở điều đó cho các bạn trẻ và nhắn nhủ rằng: ”Các bạn trẻ thân mến, các bạn đừng sợ ra khỏi chính mình và lên đường! Tin Mừng là Lời giải thoát chúng ta, biến đổi và làm cho đời sống chúng ta trở nên tươi đẹp hơn.. Thật là đẹp dường nào khi để cho tiếng gọi của Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên, đón nhận Lời Chúa và bước theo vết của Chúa Giêsu” (SD 14-4-2015)
G. Trần Đức Anh OP
Ý nghiã Cửa Thánh nơi Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công bố Năm Thánh
Vào tối thứ Bảy ngày 11 tháng 4 này, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ trao cho các 'giám quàn' (archpriests) của các Vương Cung Thánh đường chính của thành Roma một bản sao của "Sắc lệnh về Năm Thánh" ("bull of indiction") trong một nghi lễ đơn giản ngay trước chiếc cửa chính cuả đền thánh Phêrô.
Một phó tế sẽ đọc bản sắc lệnh, rồi sau đó một cuộc rước sẽ tiến vào đền thánh cho buổi đọc kinh chiều.
Dù nghi lễ có vẻ đơn giản, nhưng nó tượng trưng cho một biến cố đặc biệt mà kể từ khi được thành lập cho tới nay là đã 2000 năm, Giáo Hội chỉ chứng kiến có 28 dịp như vậy mà thôi.
Ngày nay chúng ta thường hiểu rằng các Năm Thánh được tổ chức mỗi 25 năm một lần, và thế kỷ vừa qua thì số năm thánh đã được công bố nhiều hơn thường lệ, nhưng lịch sử cho biết rằng trong suốt 13 thế kỷ đầu tiên, không hề có một năm thánh nào được công bố, và sau đó thì có khi hàng trăm năm trôi qua mà người ta vẫn không hề được sống trong một năm thánh nào. Chúng ta sẽ có dịp bàn thêm về câu chuyện lịch sử này sau.
Cho nên đây sẽ là dịp thứ 29 mà Giáo Hội bắt đầu những thể thức để chuẩn bị mở cửa Năm Thánh. Ngày xưa người ta sẽ xây tường bít nó lại, và khi tới giờ khai mạc thì sẽ lấy búa đập bể nó ra. Ngày nay người ta chỉ đơn giản niêm phong nó, và Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ trở lại chiếc cửa này vào ngày 8 tháng 12 để mở ra, chính thức khai mạc Năm Thánh Từ Bi.
Việc chiếc Cửa Thánh được mở ra gợi lên khái niệm của sự tha thứ, là trọng tâm chính của một Năm Thánh.
Cửa Thánh luôn đóng lại là dấu vết cuả những việc thực hành cổ xưa của sự sám hối công cộng. Một tội nhân phải thực hiện những việc đền tội công khai trước khi đưọc tha tội.
Tội nhân không được phép đi vào một nhà thờ trước khi hoàn tất việc đền tội, và khi đã làm xong thì họ được long trọng chào đón trở lại qua cánh cửa chính.
Ngày nay, những người hành hương khi bước qua chiếc Cửa Thánh (sẽ mở ra trong suốt Năm Thánh) là đánh dấu việc họ thành tâm hối cải và tái cam kết cho một đời sống đức tin mới.
Nghi thức cho việc mở Cửa Thánh tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô đã là một tập tục có từ năm 1499, khi Đức Giáo Hoàng Alexander VI cửa mở ra vào đêm Giáng sinh bắt đầu Năm Thánh 1500. Lúc đó cánh cửa làm bằng gỗ.
Ngày nay cánh cửa làm bằng đồng, do điêu khắc gia Vico Consorti đúc, được thánh hiến và khai mạc vào ngày 24 tháng 12, 1949 do Đức Giáo Hoàng Piô XII, để công bố Năm Thánh 1950.
Ngày xưa các Giáo Hoàng dùng một cái búa bằng bạc để mở cửa, ý nghiã rằng đó là một công việc rất trọng đại, "bởi vì cánh cửa của công lý và lòng thương xót chỉ có thể mở ra được, là nhờ ở lực lượng của lời cầu nguyện và sự sám hối mà thôi." Nhưng kể từ Năm Thánh 2000, Thánh John Paul không dùng chiếc búa nữa, mà chỉ dùng tay mạnh mẽ đẩy cánh cửa ra.
Chủ đề của tội lỗi và lòng thương xót của Thiên Chúa được minh họa ở 15 trong số 16 khung hình nổi tạo nên chiếc cửa, kể lại những giai đoạn Cựu Ước và Tân Ước, từ sự phạm tội của Adam và Eve, cho đến biến cố Truyền Tin, và sự tích Người Cha Nhân Hậu ( Prodigal Son).
Trên chiếc Cửa Thánh tại đền thánh Phêrô có khắc các huy hiệu của tất cả các vị giáo hoàng đã mở nó ra, vị cuối cùng là thánh John Paul. Huy hiệu cuả Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ được khắc thêm vào sau khi Ngài đóng cửa lại (sau Năm Thánh.)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ trao "sắc lệnh về Năm Thánh" cho tất cả các "giám quản" (archpriests) của các Vương Cung Thánh Đường ở Roma, bao gồm Nhà Thờ Chính Toà cuả Giáo Hội là St. John Lateran, VCTĐ Th. Phaolô Ngoại Thành và VCTĐ Đức Bà Cả. Đó là những Thánh đường có Cửa Thánh được mở ra trong những năm toàn xá.
Trên Thế Giới, còn có một số các Cửa Thánh khác cũng sẽ được mở, đó là Vương cung thánh đường Notre-Dame de Quebec ở Quebec City; đền thờ St. John Vianney ở Ars, Pháp; và Nhà thờ St. James the Great tại Santiago de Compostela, Tây Ban Nha.
Thổ nhĩ kỳ phản đối Tòa Thánh
ANKARA. Chiều ngày 12-4-2015, chính phủ Thổ nhĩ kỳ đã triệu hồi đại sứ cạnh Tòa Thánh để ”tham khảo ý kiến” cũng là để phản đối việc ĐTC dùng từ ”diệt chủng” để gọi cuộc tàn sát gần 1 triệu rưỡi người Arméni do Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ kỳ gây ra cách đây 100 năm.
Đầu thánh lễ sáng chúa nhật 12-4-2015 tại Đền thờ Thánh Phêrô để tưởng niệm 100 năm cuộc tàn sát người Arméni, ĐTC Phanxicô đã lấy lại thành ngữ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 trong tuyên ngôn chung năm 2001 với Đức Thượng Phụ Karekin II của Giáo Hội Arméni Tông Truyền, gọi vụ sát hại mà dân tộc Arméni phải chịu cách đây 100 năm là ”cuộc diệt chủng đầu tiên trong thế kỷ 20”, tiếp đến là các dân tộc khác: Do thái, Kampuchia, Ruanda, Burundi, Bosnia và nhiều nước khác.”
Sau việc này, Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ đã triệu Đức Sứ Thần Tòa Thánh tại Ankara, là Đức TGM Antonio Lucibello, đến để phản đối và bày tỏ sự phẫn nộ của chính phủ Thổ. Tiếp đến vào ban chiều, chính phủ nước này đã triệu hồi đại sứ Thổ cạnh Tòa Thánh là ông Kenan Gursoy.
Thủ tướng Ahmed Davutoglu của Thổ cho rằng với những lời tuyên bố về diệt chủng, ĐGH ”củng cố trào lưu kỳ thị chủng tộc ở Âu châu”, khích động sự oán thù nơi người Arméni”.
Từ lâu chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã dùng mọi phương thức ngoại giao để ngăn cản các nước khác gọi cuộc thảm sát người Arméni là một ”cuộc diệt chủng”.
Hồi năm ngoái, chính phủ Thổ cũng đã triệu hồi đại sứ tại Paris sau khi Pháp tuyên bố nhìn nhận cuộc diệt chủng Arméni. Nhưng ít lâu sau đó vụ này lại êm đi và Đại sứ Thổ trở lại nhiệm sở ở Paris.
Nguồn tin từ Tòa Thánh cho biết sự việc đã rõ ràng và không có thông cáo chính thức nào của Tòa Thánh về vấn đề này và hy vọng tình hình sẽ lắng dịu đi. Hồi năm 2001, chính phủ Thổ cũng đã mạnh mẽ phản đối tuyên ngôn chung của ĐGH Gioan Phaolô 2 và Đức Thượng Phụ Karekin II nói đến cuộc diệt chủng (Tổng hợp 12-4-2015)
G. Trần Đức Anh OP
Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Giáo Hội phải ”nói thẳng nói thật”
VATICAN. Giáo hội phải có can đảm nói thẳng trong tự do.
Đó là lời ĐTC Phanxicô khẳng định trong bài giảng thánh lễ sáng ngày 13-4-2015, tại Nguyện đường Nhà trọ thánh Marta ở Roma. Ngài chú giải bài đọc thứ nhất trong phụng vụ ngày lễ về lời quả quyết của thánh Phêrô và Gioan sau khi bị cầm tù và bị những thượng tế đe dọa, cấm cản không cho các vị nói nhân dân Chúa Giêsu. ĐTC nói:
”Ngày nay sứ điệp của Giáo hội cũng là sứ điệp của hành trình thảng thắn, con đường can đảm theo tinh thần Kitô. Như Kinh Thánh đã nói: hai môn đệ đơn sơ, ít học, đã có can đảm. Lời để dịch từ can đảm, chính là thẳng thắn, nói tự do, không sợ nói sự thật.”
ĐTC cũng giải thích rằng ”chính sự can đảm loan báo như thế là điều phân biệt chúng ta với những kẻ chiêu dụ tín đồ. Chúng ta không quảng cáo, để thu thập thêm những người gia nhập hội tinh thần của chúng ta. Điều mà Kitô hữu làm, chính là loan báo một cách can đảm, loan báo Chúa Giêsu Kitô nhờ Thánh Linh.. Chính Thánh Linh ban sức mạnh cho những người đơn sơ, ít học, như Phêrô và Gioan, sức mạnh can đảm loan báo Chúa Kitô cho đến chứng tá cuối cùng, là cuộc tử đạo” (SD 13-4-2015)
G. Trần Đức Anh OP
Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi
VATICAN. Trong sứ điệp nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy xuất hành, ra khỏi bản thân và con người cũ, để tiến bước theo tiếng gọi của Chúa.
Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi lần thứ 52 sẽ được cử hành vào chúa nhật thứ 4 sau lễ Phục sinh, 26-4 tới đây, với chủ đề ”Xuất hành, kinh nghiệm cơ bản về ơn gọi”.
Trong sứ điệp công bố hôm 14-4-2015, ĐTC gợi lại kinh nghiệm xuất hành của Dân Chúa, của các Tổ Phụ trong Cựu Ước, và ngài khẳng định rằng:
”Nơi căn cội của mỗi ơn gọi Kitô có một chuyển động cơ bản của kinh nghiệm đức tin: tin có nghĩa là rời bỏ chính mình, ra khỏi tiện nghi thoải mái và sự cứng nhắc của cái tôi để tập trung cuộc sống của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô; giống như Tổ Phụ Abraham rời bỏ quê hương, lên đường trong niềm tín thác, vì biết rằng Thiên Chúa sẽ chỉ đường cho để tiến về đất mới. Sự ”ra đi” này không phải là sự coi rẻ cuộc sống, tâm tình và nhân tính của mình, trái lại, ai lên đường theo Chúa Kitô thì sẽ tìm được cuộc sống sung mãn, đặt trọn bản thân phụng sự Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã nói: ”Ai từ bỏ gia cư, hoặc anh em, chị em, cha mẹ, hay con cái, đồng ruộng, vì danh Thầy, thì sẽ nhận được gấp trăm và sẽ được sự sống đời đời làm gia sản” (Mt 19,29).
ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”Kinh nghiệm xuất hành chính là mô hình của đời sống Kitô, nhất là những người đón nhận ơn gọi đặc biệt tận hiến phục vụ Tin Mừng. Kinh nghiệm ấy hệ tại thái độ luôn tái hoán cải và biến đổi, luôn luôn tiến bước, đi từ sự chết đến sự sống.. Ơn gọi luôn luôn là một hoạt động của Thiên Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ban đầu của mình, giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ, kéo chúng ta ra khỏi tập quán và sự dửng dưng, phóng chúng ta hướng về niềm vui hiệp thông với Thiên chúa và anh chị em. Vì thế, đáp lại tiếng gọi của Chúa chính là để cho Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ổn định giả tạo của mình để lên đường tiến về Chúa Giêsu Kitô là đích điểm đầu tiên và cuối cùng của đời ta, và là hạnh phúc của chúng ta”.
ĐTC nhận xét rằng ”tiến trình xuất hành hướng về Thiên Chúa và tha nhân như thế làm cho đời sống chúng ta đầy vui mừng và ý nghĩa”. Ngài đặc biệt nhắc nhở điều đó cho các bạn trẻ và nhắn nhủ rằng: ”Các bạn trẻ thân mến, các bạn đừng sợ ra khỏi chính mình và lên đường! Tin Mừng là Lời giải thoát chúng ta, biến đổi và làm cho đời sống chúng ta trở nên tươi đẹp hơn.. Thật là đẹp dường nào khi để cho tiếng gọi của Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên, đón nhận Lời Chúa và bước theo vết của Chúa Giêsu” (SD 14-4-2015)
G. Trần Đức Anh OP
Đức hồng y Gerhard Ludwig Müller: “Sứ vụ của Giáo hoàng là hiệp nhất thế giới”
WHĐ (12.04.2015) – Trong dịp đến Pháp hồi cuối tháng Ba vừa qua nhân dịp phát hành quyển đầu tiên trong trọn bộ tác phẩm “Đức Giêsu Nazareth, Hình ảnh và Sứ điệp” của nhà thần học Joseph Ratzinger (nhà xuất bản Paroles et Silence – Hồng y Gerhard L. Müller đề tựa), Đức hồng y Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin đã có cuộc trao đổi với nhật báo Công giáo La Croix về chủ đề hôn nhân Kitô giáo và huấn quyền của Giáo hội. Đức hồng y Müller khẳng định: Giáo hội không thể nhìn nhận cuộc hôn nhân thứ hai sau khi hai người đã ly dị.
Sau đây là nội dung cuộc trao đổi:
(Nguồn: La Croix, 29/3/2015)
Đức Thánh Cha bênh vực người nghèo tại Thượng đỉnh Mỹ Châu
VATICAN. Đức Thánh Cha kêu gọi các nước giầu đừng nghĩ rằng để cho người nghèo được hưởng những mảnh bánh vụn rơi từ bàn ăn của mình là đủ rồi.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ Châu kỳ 7, nhóm tại Thành Phố Panama trong hai ngày 10 và 11-4-2015 với sự tham dự của 37 vị nguyên thủ quốc gia, trong đó lần đầu tiên có chủ tịch Raul Castro của Cuba và ông đã có cuộc gặp gỡ lịch sử với tổng thống Barack Obama của Hoa Kỳ.
Sứ điệp của ĐTC đã được ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, tuyên đọc tại Hội nghị, qua đó ngài cầu xin Thiên Chúa cho Hội nghị, ”nhờ sự chia sẻ các giá trị chung, đạt tới những quyết tâm cộng tác trong lãnh vực quốc gia hoặc miền, đương đầu thực tế với các vấn đề và truyền đạt niềm hy vọng”. ĐTC cho biết ngài hoàn toàn đồng ý với chủ đề Hội nghị thượng đỉnh là ”Thịnh vương trong công bằng: thách đố cộng tác tại Mỹ châu”. Ngài viết: ”Tôi xác tín rằng sự sự chênh lệch, phân phối bất công sự giầu sang và tài nguyên, chính là nguồn mạch gây ra những xung đột và bạo lực nơi các dân tộc, vì nó giả thiết rằng sự tiến bộ của một số người được kiến tạo bằng sự nhất thiết hy sinh của những người khác, và để có thể sống xứng đáng, thì phải chiến đấu chống lại người khác. Sự sung túc đạt được như thế là điều bất công từ cội rễ và xúc phạm đến phẩm giá con người”.
ĐTC cũng nhận xét rằng ”thách đố lớn trên thế giới ngày nay là hoàn cầu hóa tình liên đới và tình huynh đệ thay vì thứ hoàn cầu hóa sự kỳ thị và dửng dưng, và bao lâu người ta chưa đạt được một sự phân phối đồng đầu các tài nguyên phong phú, thì sẽ không giải quyết được những tai ương trong xã hội chúng ta” (Xc Evangelii Gaudium 202).
ĐTC ghi nhận trong nhưng năm gần đây nhiều nước đạt được sự tiến bộ kinh tế mạnh mẽ, nhưng vẫn còn nhiều nước khác ở trong tình trạng nghèo đói. Hơn nữa trong các nước đang lên, đa số dân không được hưởng sự tiến bộ kinh tế chung, và thường thường hố chia cách giữa người giầu và người nghèo trở nên sâu rộng hơn. Ngài phê bình lý thuyết sai lầm gọi là ”những giọt nước rơi” và sự ”tràn ra thuận lợi” (Xc Evangelii Gaudium 54): hy vọng những người nghèo nhặt được những mẩu bánh vụn rơi từ bàn ăn của người giàu, đó là điều sai lầm. Cần có những hoạt động trực tiếp bênh vực những người kém may mắn nhất, quan tâm tới những người bé bỏng nhất trong một gia đình, phải là ưu tiên của các chính quyền. Giáo Hội luôn bảo vệ sự thăng tiến con người cụ thể (Centesimus annus 46), chăm sóc các nhu cầu của họ và giúp họ cơ hội phát triển”.
Trong sứ điệp, ĐTC đặc biệt lưu ý vấn đề di cư. Sự chênh lệch quá lớn về cơ hội giữa một số nước khiến cho nhiều người buộc lòng phải rời bỏ quê hương, gia đình của mình, và họ dễ trở thành con mồi cho nạn buôn người và lao động như nô lệ, không được quyền lợi cũng chẳng được công lý... Đó là những tình trạng trong đó nếu chỉ duy trì luật lệ để bảo vệ các quyền căn bản của con người thì không đủ.. Trong những tình trạng ấy, luật lệ mà không có lòng từ bi thương xót, thì không đáp ứng công lý”. (SD 11-4-2015)
Tuyên bố của Hội Nghị Quốc Tế về đào tạo tu sĩ trước thực trạng bách hại các Kitô hữu trên thế giới
Tổng Trưởng Thánh Bộ Tu Sĩ và Các Hiệp Hội Tông Đồ
Tổng Thư ký Thánh Bộ Tu Sĩ và Các Hiệp Hội Tông ĐồJB. Đặng Minh An dịch