Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
24/01 Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
- Viết bởi Lc 1, 1-4; 4, 14-21
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi.
Chúa Nhật tuần 3 thường niên năm C 2016.
"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này".
LỜI CHÚA: Lc 1, 1-4; 4, 14-21
Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Nkm 8,2-4a.5-6.8-10; 1Cr 12,12-30; Lc 1,1-4; 4,14-21
1. Ghen tỵ
Có hai đệ tử sau nhiều năm luyện tập, được sư phụ cho xuống núi để cứu nhân độ thế. Sau nhiều tháng đi khắp nơi giúp đỡ dân lành, họ trở về núi để tường trình lại cho sư phụ những việc họ đã thực hiện. Sau khi báo cáo, sư phụ thấy đệ tử A làm thật khá, nhưng đệ tử B còn khá hơn. Sự phụ cảm thấy rất hài lòng, liền nói: Hai con làm rất tốt. Ta sẽ ban thưởng cho hai con. Tuy nhiên đệ tử B lập nhiều công trạng hơn, để được công bằng, ta cho đệ tử A xin trước. Nếu đệ tử A xin một thì ta sẽ cho đệ tử B hai. Suy nghĩ giây lát, đệ tử A, trong lòng rất bất mãn, bèn nói: Xin sư phụ cho con chột một con mắt.
Trong câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy thái độ và hành động ghen tỵ của đệ tử A đối với đệ tử B cũng là thái độ và hành động ghen tỵ, thù hiềm của thính giả đối với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ không bằng lòng đối với sự thành công của Chúa Giêsu. Đây là con ông Giuse thợ mộc, nghèo nàn. Tại sao ông ta nói hay như thế. Đối với nhà lãnh đạo tôn giáo thì họ cảm thấy bị đe doạ khi Chúa Giêsu giảng dạy hay. Chúa Giêsu được đưa lên cao, còn họ bị lép vế. Chiến thuật ghen tỵ của họ rất là đơn giản: Tìm cách hạ Chúa Giêsu xuống để họ được đưa lên cao. Thái độ ghen tỵ, hiềm thù của họ đã dẫn đến hành động đả phá. Họ dẫn đưa Người lên triền núi, để xô Người xuống vực thẳm.
Rút từ bài học Phúc Âm và nhìn vào cuộc sống của mỗi người chúng ta nói riêng và xã hội nói chung, chúng ta phải chân nhận rằng lòng ghen tỵ của con người len lỏi khắp nơi trong cuộc sống từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.
Trong gia đình anh chị em ghen tỵ nhau khi cảm thấy rằng mình không được thương yêu hơn anh chị em khác trong gia đình. Nơi nhà trường học sinh này ghen tỵ học sinh khác trong khía cạnh học hành. Nơi xưởng thơ nhân công này cảm thấy không bằng lòng với nhân công khác trong vấn đề tiền lương.
Quả thật, sống trong xã hội ngày hôm nay, chúng ta thường dễ đem chính mình so sánh với người khác. Chúng ta so sánh quần áo, xe cộ, nhà cửa, công danh, sự nghiệp. So sánh để rút ra điều hay điều dở làm cho cuộc sống chính mình và người khác khá hơn là rất tốt. Tuy nhiên so sánh để rồi mang đến thái độ ghen tỵ, hiềm thù, đả phá, đè bẹp, gièm pha người khác vì người khác thành công hơn mình là điều không tốt. Con người ghen tỵ sẽ không tìm thấy chính mình và không có hạnh phúc vì họ luôn ao ước vài tìm kiếm nơi người khác điều mà không phải là của họ.
Ước gì mỗi người nhìn vào chính mình để làm sao chúng ta thay đổi con người cũ đầy ghen tỵ, hiềm thù để mặc lấy con người mới đầy yêu thương, bác ái của Chúa.
2. Đức Giêsu - Tin Mừng cho mọi người
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tin Mừng Luca cho thấy Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, Ngài trở về Galilê, và tiếng tăm Ngài được đồn ra khắp vùng. Ngài bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái, cụ thể ở hội đường làng Nadarét.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
Đức Giêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Ngài làm tất cả dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, cụ thể Ngài đi chịu phép rửa tại sông Yordan, Ngài vào hoang địa ăn chay cầu nguyện, và hôm này Ngài ra đi rao giảng. Dưới tác động của Thánh Thần, Đức Giêsu là người mang tin mừng cho người có tinh thần nghèo, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, cho người mù được sáng, cho người áp bức được giải thoát, và năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người.
Thánh Thần ở trong Hội Thánh như hồn ở trong thân xác. Trong Hội Thánh có nhiều chức vụ, nhưng tất cả đều do Thánh Thần ban tặng và tác động: người làm đầu người làm mắt người làm chân tay. Tất cả đều thuộc về Hội Thánh, và không thể thiếu một chức vụ nào, cũng như một thân xác không thể thiếu một bộ phận nào. Không một bộ phận nào trong thân thể bị thiếu mà lại không ảnh hưởng đến bộ phận khác và toàn thân thể, cũng tương tự vậy những chức vụ trong Hội Thánh.
Ước gì mỗi người đều ý thức Thánh Thần luôn gần gũi, luôn ở với, và luôn hướng dẫn mình cùng Hội Thánh trong mọi hành động.
Đức Giêsu- Tin Mừng
Thiên Chúa chúc lành cho con người, làm tất cả cho con người qua Đức Giêsu.
Có ai hiểu được những người bị tù đầy mong được ngày ra khỏi tù như thế nào? "Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại": một ngày trong tù, lâu như thể ngàn năm ở ngoài. Ở đây người ta nói tới thời gian tâm lý, và qua đó diễn tả mong ước ngày được tự do đến độ nào! Đức Giêsu là người công bố ơn đại xá, được miễn án và ra khỏi tù. Nếu ai hiểu được người mù cực khổ như thế nào, và người mù mong được sáng đến độ nào, sẽ dễ dàng hiểu câu "Đức Giêsu là người làm cho người mù được sáng" có nghĩa gì với người mù. Những người bị áp bức hà hiếp, cực khổ như thế nào, mong được minh oan và được giải thoát đến độ nào! Đức Giêsu là người giải phóng họ.
Người ta có thể bị tù đày nô lệ trong không gian như bị giam cầm trong một nơi chốn nào đó, nhưng người ta cũng có thể bị giam hãm trong một cái nhìn nào đó, có thể bị nô lệ với một thành kiến mà người ta không biết. Đức Giêsu tới, cho người ta nhận ra giá trị chân thực, giúp con người biết tiêu chuẩn chân thực để phán đoán. "Chân lý" giải phóng con người khỏi nô lệ, làm người bị u mê nhận ra sự thật và nhờ đó được tự do.
Tin Mừng cho người nghèo
Tin Mừng Đức Giêsu, không phải mọi người đều nhận ra. Những người Do Thái không nhận ra, nên muốn giết Đức Giêsu. Để nhận ra Đức Giêsu là Tin Mừng, cần phải có con mắt của người nghèo, người thấy mình "còn thiếu", người thấy mình cần được soi sáng, người sẵn sàng và luôn ngóng chờ Thiên Chúa nói với mình.
Những người tự mãn, tự cho mình đã đủ không còn thiếu gì nữa, rất khó đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu. Những người này có thể là những người cho rằng mình đã đạo đức đủ, không nhận ra mình yếu đuối tội lỗi cần Thiên Chúa thương xót và trợ giúp. Họ cũng có thể là những người cho mình có học, không sẵn sàng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu với cuộc sống "bình thường". Cũng có thể họ là những người giầu, và Đức Giêsu không thêm gì cho họ: Ngài không làm cho họ giầu hơn hoặc danh tiếng hơn hoặc có địa vị cao hơn.
"Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của họ" (Mt.5, 3). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, người giầu cũng như người nghèo. Người giầu có nhiều thứ và nhiều bận tâm, nên không còn chỗ và không sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa không yêu thương họ. "Nghèo" như thái độ, là mối phúc thật sự.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đức Giêsu có là Tin Mừng cho bạn không? Xin bạn cho một vài thí dụ cụ thể trong đời bạn.
2. Thánh Thần là ai? Bạn hiểu gì về Thánh Thần?
3. Bạn có thấy ai ganh tị vì không được làm "đầu" hoặc "mắt" trong thân thể (Hội Thánh) không? Tại sao họ như vậy?
3. Sống sứ vụ của Chúa
(Anmai)
Giêsu đã đến trong cuộc đời này. Lời Hứa Cứu Độ đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu. Lời Hứa Cứu Độ ấy được báo trước qua miệng các ngôn sứ. Các ngôn sứ loan báo hình ảnh của Đấng Cứu Độ. Có lẽ rõ nét nhất là hình ảnh của ngôn sứ Isaia, một ngôn sứ quá đau khổ.
Mở sách ngôn sứ Isaia, ở Is 52, 13-53 chúng ta bắt gặp ngay: "Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng." Đọc những dòn tiếp theo, một mảng tối thật u ám nơi cuộc đời của vị ngôn sứ đau khổ này. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa: "Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa." Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi: "Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối." Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát?
Nhìn hình ảnh người tôi tớ như thế này, độc giả sẽ nghĩ ngay trong lòng"Ông Trời đáng ghét của Cựu ước." Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình:"Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa." Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng?
Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: "Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ".
Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một mầu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, bởi lẽ công việc vĩ đại như gánh tội và xoá tội trần gian lại không theo lối nhìn cũng như cách hiểu của con người. Với Thiên Chúa thì khác, người tôi tớ của Thiên Chúa là người khiêm nhường, nhịn nhục và là người yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thư Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại "hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần". Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về "ông Trời đáng ghét của Cựu ước" là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.
Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông: "Tôi tớ của Ta". Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ.
Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông. Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã "xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm". Ai đã thi hành cuộc hy sinh? Thiên Chúa hay người tôi tớ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ "chúng ta": "Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta... Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội... Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v..." Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại!
Ngày hôm nay, người tôi tớ mà Isaia loan báo đó đã trở thành hiện thực nơi cuộc đời ngôn sứ Giêsu. và ngôn sứ Giêsu hôm nay tiến vào hội đường như là việc hết sức bình thường. Những người trong Hội Đường đã trao cho ngôn sứ Giêsu sách Isaia và mở ra, bất chợt bắt gặp lại hình ảnh của người tôi tớ đau khổ cũng như sứ mạng của người ngôn sứ đó Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Sau đó, Chúa Giêsu đã nói với những người ở trong hội đường rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Một lần nữa, Chúa Giêsu khẳng định lại vai trò của Ngài. Ngài đến để đem niềm vui, đem bình an, đem hạnh phúc cho con người.
Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng đã được ông Etra nói với dân sau khi nghe sách Luật mà ông mở ra đọc cho dân: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em."
Vẫn là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Chúng ta sẽ tự hỏi rằng chúng ta có giàu có gì đâu để loan báo cho người nghèo?
Và, có ai hỏi ta, ta cũng sẽ nói rằng tôi nghèo lắm, tôi đâu có gì để mà cho, có gì để mà chia sẻ? Nói như thế mà không biết ngượng.
Thử, lúc nào đó trong lặng thầm, nhìn lại cuộc đời chúng ta xem, chúng ta được Chúa ban cho quá nhiều ơn đó nhưng chúng ta đã không nhận ra.
Có lúc nào đó, người hằng nghiền ngẫm suy tư
Cảm thấy đời ta, chứa chan hồng ân Chúa ban
còn chờ gì nữa? Không vang khúc hát tri ân Ngài?
Lạy Chúa, con xin cảm tạ, Lạy Chúa con xin cảm tạ
Ôi lạ lùng hồng ân Chúa đã ban cho đời!
Chúa ơi, sao con suy thấu tỏ tường?
Ôi, nhiệm mầu tình yêu thánh thiêng dâng cao vời!
Chúa ơi, tình Ngài tuyệt diệu xiết bao
Nghiền ngẫm thử đi sẽ rõ! Những ngày này, những ngày Tết Nguyên Đán cận kề. Giữa dòng đời ngược xuôi đi tìm miếng cơm manh áo, ta hạnh phúc hơn nhiều người đó chứ! Ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng ta đâu nhận ra để rồi ta oán trách Chúa thế này thế kia.
Cứ thử đặt mình vào vai một người di dân xa quê nghèo vì miếng cơm manh áo ta sẽ rõ hơn ai hết. Đi làm tháng vài triệu bạc, thuê căn phòng trọ ọp ẹp gần triệu bạc. Cơm ăn, áo mặc nữa, quay đi quay lại hết tháng phải đóng tiền phòng trọ, tiền điện tiền nước, thử hỏi còn bao nhiêu. Và, những ngày này dắt díu nhau về quê gặp gia đình được dăm ba bữa. Những ngày này, ra các bến xe, ta thấy những người nghèo ngược xuôi để về quê với hai bàn tay chai sạm và bờ vai gầy guộc nhỏ ta mới thấy được Chúa thương ta là dường nào.
Và, nhất là cuộc đời của ta là ta hạnh phúc, ta có Chúa trong đời.
Một chút, một chút thôi một bữa ăn, một chầu karaoke ta có thể làm ấm lòng những người nghèo. Những người nghèo đó ở đâu xa? Những người nghèo đó ngay bên cạnh nhà ta mà bấy lâu nay ta vô tâm vô tình không nhớ đến họ.
Có cái để cho nữa đó chứ! Là chút tấm lòng với những người bất hạnh.
Sứ vụ của Chúa mở ra cho mỗi người chúng ta, chuyện quan trọng là chúng ta có sống sứ vụ mà Chúa đã sống, đã mời gọi chúng ta hay không mà thôi.
4. Cộng đồng
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Sách của Nơkhemia diễn tả cuộc lưu đày của dân Dothái từ Babylon trở về xây lại tường thành Giêrusalem. Khi vua nước Babylon chiếm hữu thành Giêrusalem và đánh đổ nước Giuđa, đã bắt dân Dothái cư ngụ ở Palestine đi làm tôi đòi nô lệ tại Babylon. Sau khi các vua nước Medes và Persians đánh thắng dân thành Babylon vào năm 538 BC, vua Cyrus đã cho phép dân Dothái trở về quê hương. Đúng ra, có 3 nhóm trở về vào 3 thời kỳ khác nhau. Nhóm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của Zerubbabel vào năm 536 BC. Nhóm thứ hai được dẫn dắt bởi Ezra vào năm 458 BC và nhóm sau cùng được Nehemia dẫn về quê hương vào năm 445 BC. Sách của Nehemiah được viết vào trong khoảng thời gian (465-423 BC).
Sách Nơkhemia diễn tả việc ông thư ký Ezra đã quy tụ dân chúng đến lắng nghe sách lề luật của Chúa: "Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật." (Nkm 8,3) Chúng ta biết Sách Luật đã được ghi chép trên các tấm da thuộc hoặc viết trên cuộn giấy Papyrus. Khắc ghi những lề luật và huấn lệnh được truyền tụng qua nhiều đời. Các luật lệ bắt nguồn từ Mười Điều Răn mà Chúa đã truyền cho ông Môisen trên núi Sinai. Dân chúng chăm chú lắng nghe sách Luật từ sớm tới trưa và họ đã vui mừng hân hoan: Bấy giờ ông Ezra chúc tụng Thiên Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: "Amen! Amen! Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Thiên Chúa." (Nkm 8,6). Dân Dothái là dân được tuyển chọn. Họ được Thiên Chúa dẫn dắt qua sự hướng dẫn của các tiên tri và các vị tư tế cùng các bô lão. Họ sống liên kết thành cộng đồng tin thờ Thiên Chúa duy nhất.
Từ xa xưa, dưới thời vua Salômon, dân Dothái đã xây dựng đền thánh để tôn thờ Thiên Chúa. Họ đã có tổ chức xã hội về mọi mặt. Hàng tư tế đã có những nghi thức thánh hiến và dâng lễ toàn thiêu đền tội. Đền thờ là nơi mọi người dân tụ lại làm nên một cộng đồng dân Chúa. Đền thờ là trung tâm của cuộc sống đạo và là trái tim của mọi sinh hoạt. Dân chúng xum họp tại đền thờ để lắng nghe Lời Chúa, giải thích Kinh Thánh và dâng tiến lễ vật đền tạ. Niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất được hun đúc và phát triển qua đời sống cộng đồng. Trải qua lịch sử ngàn năm, đạo Dothái vẫn luôn trung thành với các nghi lễ, giờ cầu nguyện, giữ ngày sabát, tuân giữ các giới răn và huấn lệnh. Ngoài trung tâm đền thờ chính, nhiều nhóm tại địa phương đã xây dựng nhiều Hội đường để cùng tụ họp nghe giảng và học hỏi Kinh Thánh.
Khi ra giảng đạo, Chúa đã đi cùng khắp mọi miền. Có khi Chúa giảng ngoài bãi biển, nơi chân đồi, ngoài cánh đồng, trong tư gia, ngoài đường phố và hôm nay Chúa đã vào Hội đường: "Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh." (Lc 4,15) Nhiều người đi theo Chúa và chăm chú lắng nghe. Chúa giảng với uy quyền và lời Chúa có sức biến đổi tận tâm can. Khi vào Hội đường, Chúa Giêsu đã đứng lên đọc sách Tiên tri Isaia với đoạn này: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." (Lc 4,18-19) Đây là đoạn sách quan trọng nhất nói về Đấng Thiên Sai đã được chính Chúa Giêsu xác nhận: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21). Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã hoàn thành mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài.
Chúa Giêsu đã lập Giáo Hội, khởi đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ, môn đệ và các thân hữu. Giáo Hội phát triển như hạt giống được gieo vào lòng đất, nẩy mầm, lớn lên và sinh nhiều bông hạt. Giáo Hội bao gồm những người cùng lãnh nhận một phép rửa, một đức tin, đức cậy, đức mến và một niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh của Chúa Cha đã trao và hoàn tất qua việc hiến thân mình chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Các tông đồ là những vị đầu tiên ra đi làm nhân chứng cho Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Các nhân chứng sống động được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần đã không ngừng rao giảng và thiết lập các giáo đoàn phụng vụ khắp nơi. Số tín hữu ngày thêm đông đảo và đa dạng. Giáo Hội mở cửa đón nhận mọi thành thành qua Bí tích Rửa Tội và lòng tin ao ước.
Giáo Hội khởi đi từ niềm tin yêu trong lòng người. Niềm tin qui tụ mọi dân, mọi nước, mọi chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá truyền thống. Thánh Phaolô Tông đồ đã dùng những hình ảnh rất cụ thể để diễn tả sự liên kết giữa các thành phần trong Giáo Hội: "Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy." (1 Cr 12,12) Giáo Hội là một xã hội của loài người. Cần có các tổ chức phẩm trật, vai trò nghĩa vụ, mục vụ, phục vụ và cộng đồng tin yêu. Giáo Hội cần có sự hỗ tương trong tất cả các sinh hoạt đời sống. Giáo Hội mỗi ngày thêm đông số các thành viên nên phải kết hợp và gắn bó đoàn kết trong một nguồn sức sống. Kết hợp giống như các nhành nho được liên kết với cây nho là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tả hình ảnh bộ phận của thân thể: "Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một." (1 Cr 12,20)
Chúng ta quan sát một cộng đoàn phụng vụ trong khi cử hành thánh lễ. Mỗi thành viên có trách nhiệm riêng theo chức vụ của mình. Trong tập thể bao gồm: cộng đoàn dân Chúa, các thừa tác viên thánh thể, đọc sách, các em giúp lễ, các vị tiếp tân, ban trật tự, xin tiền, dâng của lễ, ca đoàn và linh mục chủ tế. Mỗi người có một nhiệm vụ cần được chu toàn ăn khớp với nhau. Chúng ta biết rằng những bộ phận xem ra yếu đuối và có vẻ thụ động nhưng đây lại là bộ phận cần thiết nhất, đó là mọi tín hữu tham dự phụng vụ: "Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất." (1 Cr 12,22) Không có cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ không có các cuộc cử hành phụng vụ cách long trọng. Mỗi thành viên đều rất quan trọng tùy theo vai trò của mình, trong đó có các cụ ông cụ bà, các trẻ em và mọi thành phần dân Chúa.
Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Trong niềm tin yêu, chúng ta hỗ trợ và nâng đỡ nhau sống hoàn thiện. Chưa hẳn các linh mục chủ tế là những người đạo đức tốt lành hơn các thành viên khác. Chủ tế nên chu toàn các nghi thức và cử hành thánh lễ cách nghiêm trang và sốt sáng. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, không ai hơn ai. Điều quan trọng là trái tim yêu thương và sự gắn bó với thân thể mầu nhiệm của Chúa: "Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận." (1 Cr 12,27) Các bộ phận trong cơ thể tuần hoàn phát sinh sự sống khoẻ mạnh và cường tráng. Các thành viên trong cộng đồng dân Chúa phải gắn kết yêu thương, đùm bọc và nâng đỡ nhau để chu toàn sứ vụ trong sự hài hoà và thuần thiện.
Chúa Giêsu không đến để kêu gọi nhưng người công chính và thánh thiện, nhưng là những kẻ tội lỗi. Những thành phần yếu bệnh cả hồn lẫn xác cần được sự nâng đỡ chở che và chữa lành. Họ là những bộ phận cần được quan tâm nhất vì: "Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung." (1 Cr 12,26) Chúng ta không thể lên thiên đàng một mình, cần có những anh chị em xung quanh cùng đồng hành dìu dắt và đỡ nâng. Mỗi người đều có bổn phận làm cho thân thể mầu nhiệm được triển nở và phát sinh kết quả đời này và đời sau.
Lạy Chúa, đừng để chúng con bị lạc xa đường lối Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe các huấn lệnh, điều răn, chỉ thị và giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, để chúng con tuân cứ luật pháp của Chúa đêm ngày. Ước mong tên của mỗi chúng con sẽ được ghi vào sổ hằng sống đời đời, vì: "Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa." (Kh 20,15).
5. Lời quyền năng là Thần trí và là sự sống
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Mở cuốn Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. "Thiên Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng..." (x.St 1). Thánh Gioan khởi đầu Tin Mừng bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: " Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Ga 1,1-3).
Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo hội Công giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô (x.MK số 21). Với các bài Thánh Kinh trích đọc trong Chúa Nhật III TN C này, cách riêng bài đọc thứ nhất, Thánh vịnh đáp ca và bài Tin mừng, khiến chúng ta dễ nhận ra chủ đề là Lời Chúa và hiệu năng của Lời.
Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu (x. St 1). "Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống" (Đáp ca). Qua bài trích Tin Mừng thánh Luca của Chúa Nhật III TN C, chúng ta cùng xem xét một vài hiệu quả của Lời được tuyên ban vốn đã được Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 1,21).
Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: "công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa" (Lc 4,18-19).
Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do ...(x.Xh 21,2; Lv 25,1-7). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá (x.Lv 25,8-54). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư...như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố... Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì "ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!", mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.
Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đổi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc (x.1Ga 1,1).
Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, cuộc sống, các hoạt động và những lời giảng dạy của Người. "Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật" (Ga 18,37).
Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta (x.Mc 12,28-34; Mt 5,43-48). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cảnh tình nô lệ.
Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Chúng ta chớ quên rằng khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin (x.Lc 7,18-23).
"Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do"(Ga 8,34-36). Những lời khẳng định trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ sứ mạng của Người. Người đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời.
Sau lời tuyên phán "Ta truyền cho anh: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà" đôi chân của người bất toại được giải phóng.
Nhưng rồi phải đến ngày đôi chân ấy lại bất động vì bệnh tật hay vì tuổi tác. Chính lời truyền phán: " Tội lỗi anh được tha" mới là lời giải thoát người bất toại khỏi cảnh nô lệ, giam cầm. (x.Mc 2,1-12)
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có "quyền năng" vì là thần trí và là sự sống.
6. Đấng Cứu Thế.
Hội đường là nơi tụ họp có tính cách tôn giáo của người Do Thái. Đồng thời, ngày Sabat, tức là ngày nghỉ lễ được cử hành tại hội đường, với việc nghe đọc Thánh Kinh và diễn giảng. Mọi người Do Thái trưởng thành, tức là từ 30 tuổi trở lên đều có thể được đề nghị hay tình nguyện lên đọc và giải thích Kinh Thánh.
Trở về Nadarét lúc này, Chúa Giêsu đã trên 30 tuổi, cho nên Ngài đã tham dự vào sinh hoạt của cộng đồng tại quê nhà. Theo thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu đã nhiều lần giảng dạy trong các hội đường và lời giảng dạy của Ngài hẳn đã có được một sức lôi cuốn và hấp dẫn, vì chẳng bao lâu, tiếng tăm Ngài đã được làn truyền khắp vùng. Tất cả bầu khí phấn khởi này được sử dụng như là phần nhập đề cho Tin Mừng lớn lao, mà Ngài sẽ rao giảng tại hội đường Nadarét, như là một xác định lập trường và công bố chương trình hành động của Ngài. Vậy lập trường ấy như thế nào và chương trình hành động của Ngài ra làm sao?
Tôi xin thưa: Lập trường ấy, chương trình hành động ấy xoay quanh lời loan báo của tiên tri Isaia: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu tấn phong tôi và sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, giải phóng những kẻ bị giam cầm, làm cho người mù được sáng, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Lời loan báo này có nghĩa là thời cứu chuộc đã bắt đầu, và Chúa Giêsu, người đang đọc và cắt nghĩa đoạn tiên tri này, chính là Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu và sai đến để thực hiện ý định cứu chuộc mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Lời giải thích của Chúa Giêsu thật ngắn gọn nhưng lại vô cùng quan trọng, đặt người nghe trước một bối cảnh mới, trước một thời đại mới: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe. Có thể xưa cũng như nay, nhiều người đã chờ đợi ở Vị Cứu Tinh những việc cả thể và lớn lao, những chiến công lừng lẫy và oanh liệt. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người khổ đau, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến và phải thực hiện. Trước mặt Ngài, thời cứu độ là thời tái lập lại trật tự và tình thương giữa người với người.
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu tại hội đường năm xưa chính là một sự thách đố đối với cá nhân mỗi người chúng ta, cũng như đối với toàn thể Giáo Hội, bởi vì cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội có nhiệm vụ tiếp nối sứ mạng cứu độ của Chúa nơi trần gian, thế nhưng cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội đã thực sự tái lập trật tự và tình thương yêu giữa người với người hay chưa?
7. Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm
Hôm nay lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm. Nếu tìm hiểu Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu đã thực thi mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là một bằng chứng xác quyết Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Chẳng hạn về việc Ngài được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, thì tiên tri Isaia đã loan báo:
- Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ ấy là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Chẳng hạn về việc Ngài sinh ra ở Bêlem, thì tiên tri Mikêa đã nói:
- Và ngươi hỡi Bêlem xứ Giuđêa, ngươi không phải là một thành trì nhỏ bé, bởi vì từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị nhà Israel.
Chẳng hạn việc Thánh Gia trốn sang Ai Cập, tiên tri Ôsê đã loan báo:
- Ta sẽ gọi con Ta ra khỏi đất Ai Cập.
Nhất là những biến cố trong quãng đời công khai và cuộc tử nạn của Ngài, cũng đã được ứng nghiệm một cách hết sức đầy đủ, chẳng hạn về cuộc khải hoàn, tiến vào Giêrusalem một cách long trọng, thì tiên tri Giacaria đã mô tả:
- Hỡi Giêrusalem, này vua ngươi đang đến, Ngài cưỡi trên lừa con.
Về cái chết của Ngài, tiên tri Isaia đã công bố:
- Người ta đánh đập Ngài, nhưng Ngài đã bằng lòng chấp nhận, như con chiên yên lặng trước người thợ xén lông.
Và còn nhiều biến cố, còn nhiều sự việc khác nữa, Chúa Giêsu đã thực hiện đúng như lời các tiên tri đã loan báo. Và như chúng ta đã xác quyết: Điều đó chứng tỏ Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Mỗi lời tiên tri là một lời nói trước, về một biến cố nào đó sẽ xảy ra, liên quan đến hành động tự do của Thiên Chúa. Những lời nói trước về Đức Kitô, được Thiên Chúa tỏ bày cho các tiên tri, để rồi chính các tiên tri đã công bố hàng trăm năm về trước cho dân Do Thái.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta phải tin nhận rằng Đức Kitô đã đến với chúng ta, Ngài là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ muôn dân mong đợi, như trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã dẫn chứng lời tiên tri Isaia, để xác quyết rằng Ngài là Thiên Chúa đã đến trong trần gian để cứu chuộc những người nghèo đó, khổ đau và bất hạnh. Hơn thế nữa, chính Chúa Giêsu cũng nói tiên tri về những chuyện sẽ xảy ra và tất cả đều đã được ứng nghiệm. Chẳng hạn Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Giêrusalem: Rồi đây sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào.
Và sự thực đã xảy ra như vậy. Vào năm 70, tướng Titus, người Rôma, đã mang quân vây hãm Giêrusalem. Sau khi đã lọt được vào trong thành, họ đã đốt phá và san bằng thành phố.
Còn chúng ta thì sao? Trong giờ phút quan trọng này, chúng ta cũng đang sống lại những biến cố đã được ứng nghiệm: Thánh lễ là sự giáng sinh, là cái chết và phục sinh của Đức Kitô được lặp lại trên bàn thờ này. Thế nhưng chúng ta có đón nhận lời Chúa cùng với Bí tích Thánh Thể một cách trang nghiêm và sốt sắng, hay chúng ta lại cứng lòng như dân làng Nadarét, để cuối cùng đã xua đuổi Chúa, và tìm cách xô Ngài xuống vực sâu.
8. Xóa nợ cho nhau
('Như Thầy Đã Yêu' – Thiên Phúc)
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho: 'Ngã cứu nhi thượng lương chi ách. Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần'. Nghĩa là: 'Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ. Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo'.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu, rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Đức Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Đức Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hóa.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một năm Toàn Xá, Năm Thánh, năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mừng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan ngùy để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu tỏa ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm tỏa trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; người tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ. Và Năm Đức Tin qua đi trong cuộc đời mà họ không hề nhận được một chút Hồng Ân nào của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Đức Thánh Cha đã kêu gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo. Xin cho chúng con cũng biết xóa nợ cho nhau, không chỉ xóa nợ tiền bạc mà còn xóa đi những bất bình, nghi kỵ, thành kiến, hiểu lầm nhau..., để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen.
9. Thời gian cứu độ đã đến
(Cố Lm. Hồng Phúc)
Chúng ta đều biết rằng Thánh lễ gồm hai phần liên kết chặt chẽ là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Trong Phụng vụ Lời Chúa, Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng lời hằng sống của Chúa. Trong Phụng vụ Thánh Thể, Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt và Máu Thánh của Ngài.
Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa có từ xa xưa trong đạo cũ Do-thái và người khởi xướng ra là một tư tế tên là Esdras, sống vào thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa GS. Trong bài đọc I hôm nay, sách Nohemi kể lại việc ông tập họp dân chúng, mở sách Luật ra đọc và giải thích. Dân chúng nghe, tung hô, rồi phủ phục trước Thiên Chúa cầu nguyện.
Đó là nghi thức Phụng vụ Lời Chúa thường được tổ chức tại Hội đường Do-thái trong ngày Sabba.
Thì, trong bài Phúc Âm, Luca kể lại một nghi thức Phụng vụ đặc biệt tại Hội đường Nagiaret, quê quán của Chúa Giêsu. Trong xóm nghèo Nagiaret, ai cũng biết Ngài là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria. Ngài đã từng sống giữa họ, chia sẻ đời sống của họ. Rồi gần đây, Ngài bỏ họ, bỏ nghề, bỏ làng đi rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ. Danh tiếng đồn thổi khắp nơi. Hôm nay, ngày Sabba lễ nghỉ, họ được tin Ngài trở về làng. Thế là họ ùn ùn kéo đến Hội đường nơi người sẽ giảng, đến vì muốn xem sự việc xảy ra làm sao. Con bác thợ mộc, ít học trở thành một Rabbi!
Người ta trao cho Ngài sách Tiên tri Isaia, Ngài mở đúng vào nơi có chép: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa những tâm hồn xám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng."
Đoạn đó trích ở Isaia, chương 61, tiên báo về Đấng Messia. Đến đây, không có gì lạ. Đoạn ấy dân chúng đã nghe nằm lòng. Sự lạ lớn lao như quả bom nổ là: Người gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: "Hôm nay, Lời Thánh Kinh mà các ông vừa nghe, đã thực hiện." Chưa một tiên tri nào nói như thế hay cả dám nói như thế. Chữ "hôm nay" thật là quan trọng. Lời của Thiên Chúa mà đem áp dụng vào mình, y rằng mình là Thiên Chúa. Họ ngạc nhiên, họ bàn tán, họ châm biếm: Đó là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria đầu xóm kia mà. Trong Hội đường, có lẽ chỉ có một người đàn bà hiểu, một người đang đứng với chị em phụ nữ bên kia tấm chấn song ngăn cách. Đó là Đức Mẹ.
Ngài tuyên bố: Thời gian cứu độ đã đến. Chính Ngài là Đấng "hôm nay" đến để cứu chuộc nhân loại, khai mạc mùa hồng ân cứu rỗi. Ơn cứu chuộc đó, mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận, thì trong bài đọc II, Thánh Phaolô dạy chúng ta phải ăn ở xứng đáng vì "chúng ta là chi thể của Ngài." Mỗi người trong thân phận của mình hãy làm sáng danh Chúa.
Lạy Chúa, "giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa sáng ngời", xin sáng soi con mắt và đường lối con đi.
10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin Mừng nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilê. Trở về Nagiaréth, Người đọc Sách Thánh trong hội đường đúng đoạn nói về Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Tim hôm nay diễn tả: "Rồi Chúa Giêsu đến Nagiaréth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh". Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh hoạt với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh hoạt bình thường của Người. Nếp sinh hoạt này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong Đền Thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: "Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc... Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ". Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi người rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe", Chúa Giêsu muốn nói đến hai điều. Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đoạn Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai: Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đoạn sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có thường xuyên đọc Kinh Thánh không?
2. Bạn tìm gì trong sách Kinh Thánh: khôn ngoan, lịch sử hay thánh ý Thiên Chúa cho đời bạn?
3. Khi đọc Kinh Thánh bạn có nghĩ rằng Chúa đang nói với bạn không?
4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết tâm thực hiện không?
11. Phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần
('Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Người ta kể: "Có ông nhà giàu Do Thái kia có tên là Rabba, nhiều ruộng vườn, gia nhân đầy tớ và thợ làm công. Một hôm có người thợ làm việc cho ông lỡ làm bể một thùng rượu, ông giận dữ mắng, chửi thậm tệ và buộc bồi thường. Bọn thợ đến than phiền với một tiến sĩ luật, vị này khuyên ông Rabba tha cho đám thợ nghèo. Ông Rabba hỏi vị luật sĩ: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ trả lời: "Phải, nếu ông hiểu biết tinh thần luật". Nghe thấy, Rabba tha không đòi đám thợ bồi thường nữa. Có lần khác, đám thợ can đảm than thở thẳng với ông chủ của họ: "Thưa ông, chúng tôi quá nghèo túng, mặc dầu được ông thương cho việc làm và chúng tôi cũng đã làm hết sức như ông thấy, nhưng chúng tôi cũng đói khổ và thiếu thốn mọi sự". Vị tiến sĩ biết chuyện, nói với ông Rabba: "Ông hãy cho họ lãnh lương tháng trước đi, nhưng đừng ghi sổ và sau đó sẽ quên chuyện này". Ông Rabba hỏi: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ luật trả lời: "Phải, nếu ông hiểu tinh thần luật, vì thật ra luật Chúa đòi buộc công bằng, nhưng có chủ đích làm cho con người trở nên tốt lành hơn".
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, mở mắt tinh thần canh tân tâm lòng và sống tốt lành hơn giữa những suy đồi xã hội một cách đích thực. Esdra và Nêhêmia là hai vị lãnh đạo Do Thái đã có công rất lớn trong nỗ lực hồi sinh dân Israel, tái thiết thành Giêrusalem và xây lại đền thờ sau khi họ từ Babylon trở về nước vào năm 537 trước Tây Lịch. Hai tác phẩm mang tên hai vị tường thuật công tác tái thiết cuộc sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo của dân Do Thái trong thời ấy. Chương VIII sách Nêhêmia nêu bật vai trò của Lời Chúa trong công trình tái thiết. Thật vậy, đối với dân Do Thái là dân riêng Chúa chọn, đã nhận được luật lệ Chúa ban, nghĩa là Lời Người nói với họ, thì công trình tái thiết không thể chỉ hạn hẹp trên bình diện vật chất như xây lại nhà cửa đền đài, tổ chức trở lại bộ máy chính trị, kinh tế và các dịch vụ hành chánh của cuộc sống thường ngày, mà còn phải tái thiết cuộc sống tinh thần nữa.
Tái thiết ở đây, trước tiên có nghĩa là trở về với các đòi buộc của Giáo Hội, tuân giữ các luật lệ của Chúa, sống chìm ngập trở lại trong bầu khí đạo hạnh, tin tưởng vững mạnh vào các Lời Chúa hứa vào giao ước và các phúc lành của Chúa. Nói cách khác, dưới ánh sáng Lời Chúa, việc tái thiết đầu tiên mà dân Do Thái phải làm là công cuộc tái thiết cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần bị tội lỗi phá hủy. Vì nếu không thì công cuộc tái thiết vật chất cũng sẽ không giúp dân Do Thái hồi sinh thật sự. Có đền thờ đẹp mà làm gì với tâm lòng con người đầy tràn tội lỗi và xa rời Thiên Chúa. Đây là lý do giải thích tại sao mặc dầu có rất nhiều điều phải làm trong giai đoạn tái thiết, ông Nêhêmia vẫn tổ chức các buổi cử hành Phụng vụ Lời Chúa và dành thời giờ cho việc đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, và toàn dân tán thành việc tái thiết cuộc sống tinh thần do ông đề xướng.
Mặc dầu giờ đây họ cũng đang rách rưới, đói khát cơm bánh, cần đến nhà cửa và công ăn việc làm, nhưng người dân hiểu rằng trong quá khứ, kiểu cách sống tội lỗi sa đọa của họ đã khiến cho Giêrusalem bị đánh chiếm và thành thánh bị phá hủy bình địa, thì giờ đây, chỉ có cuộc sống tâm linh mới giúp họ duy trì những gì họ sẽ xây dựng mà thôi. Nếu không có nếp sống tinh thần mạnh mẽ, nền văn minh vật chất cao, sớm muộn gì cũng dẫn đưa con người đến chỗ diệt vong.
Lịch sử thăng trầm của mỗi dân tộc trên thế giới đều minh xác sự thật này. Sự suy đồi luân lý đạo đức và các giá trị tinh thần là dấu chỉ các bước đầu suy thoái của một xã hội. Do đó phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần là cách thế hữu hiệu nhất giúp duy trì và thăng tiến cuộc sống xã hội. Ngay trên bình diện vật chất, lập trường của ông Nêhêmia là một bài học quí báu cho các vị lãnh đạo tinh thần, cho các cộng đoàn dân Chúa. Công việc cấp thiết nhất luôn luôn là việc đào tạo nhân lực, củng cố tinh thần sống đạo sâu đậm của tín hữu, chớ không phải là xây thêm nhiều nhà thờ và cơ sở cho to, cho lớn, cho đẹp. Các cơ sở cần thiết nhưng chúng không làm nên sức mạnh của cộng đoàn dân Chúa. Nguyên tắc này đã được thánh Phaolô áp dụng như tường thuật trong chương 12 thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
Cộng đoàn này hồi đó bị chia rẽ nội bộ trầm trọng, các cuộc cải vã, tranh chấp giành địa vị xảy ra trong các tầng lớp trong cộng đoàn, thêm vào đó là kiểu cách sống và hành xử đi ngược tinh thần Kitô. Trong các tín hữu có người sống dâm loạn, buông thả các nhân đức Kitô, đặc biệt là đức bác ái bị lãng quên. Để tái tạo sự hiệp nhất giữa các thành phần cộng đoàn và cho thấy tất cả mọi người đều có một chỗ đứng quan trọng và một phận vụ cần thiết đối với cộng đoàn, thánh Phaolô đã dùng lại hình ảnh thân mình và các chi thể là một hình ảnh quen thuộc trong nền văn chương Ai cập, và nhà văn Rôma, Titô Liviô, đã dùng lại để diễn tả nỗ lực của hoàng đế Agrippa làm hòa lại giữa hai nhóm cùng đinh và quý tộc Rôma tranh chấp chống đối nhau. Tuy nhiên, thánh Phaolô không chỉ dùng hình ảnh thân mình và chi thể như một kiểu nói ám chỉ, diễn tả tính cách bổ túc và phối hợp điều hòa giữa các chi thể với nhau trong thân thể con người, mà thánh nhân cũng còn rất thường hay nói đến thân mình thật sự của Chúa Kitô là bí tích Thánh Thể và thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô là cộng đoàn tín hữu, là Giáo Hội. Cộng đoàn tín hữu phải có khả năng diễn tả cho mọi sinh hoạt và kiểu cách sống của mình, những gì được biểu lộ trong bí tích Thánh Thể, nghĩa là diễn tả sự hiệp nhất tinh thần, chia sẻ ơn thánh, thái độ sống tận hiến cho nhau, hòa tan trong nhau và xây dựng cho nhau và với nhau. Điều đó cũng có nghĩa là các tương quan giữa các tín hữu với cộng đoàn và nhiệm vụ mỗi người giữa lòng Giáo Hội, phải được sống như trong bí tích Thánh Thể, phục vụ, hy sinh và tận hiến, chớ không được để cho chủ trương tranh giành địa vị, đòi hỏi quyền lợi như các thái độ vụ lợi trần tục chi phối và hướng dẫn.
Trong viễn tượng và tinh thần đó, mỗi một Kitô hữu đều tìm ra chỗ đứng của mình trong lòng cộng đoàn Giáo Hội mà không bị rơi vào chước cám dỗ coi mình là có nhiều khả năng nhất, tài giỏi nhất và giữ địa vị quan trọng nhất, không có mình thì không xong. Thay vì cố gắng xây dựng vun trồng cộng đoàn Giáo Hội vững mạnh thì lại sống phản chứng, ích kỷ, kiêu căng ngạo mạn để đi đến chỗ trở thành dụng cụ của Satan, đánh phá Giáo Hội, gây chia rẽ kỳ thị khiến cho cộng đoàn Giáo Hội bị thương tích tan rã và suy yếu đi.
Mỗi khi không sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô và không diễn tả những gì được thể hiện qua bí tích Thánh Thể, là người tín hữu chối bỏ ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho nhân loại khi nhập thể làm người, khi bước vào lịch sử và sống giữa lòng xã hội con người. Trong chương 1 và 4, thánh Luca có ý củng cố niềm tin của tín hữu, đặc biệt những người nghi ngờ nền tảng lịch sử của ơn cứu độ. Thánh nhân đề nghị với mọi người theo sát chương trình sống của Chúa Giêsu Kitô, chương trình này hiện thực Lời Thiên Chúa hứa, vĩnh viễn can thiệp vào cuộc sống của con người đã bị tội lỗi biến sự sống trở thành cái chết. Tất cả những động từ thánh Luca dùng trong chương 4,14-21, như giải thoát, chữa lành, trao ban ơn thánh cho con người, diễn tả ơn cứu độ toàn vẹn mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Chúng cũng phải là kiểu cách sống của một Kitô hữu, khi nào và ở đâu có bóng dáng Kitô hữu, thì ở đó bóng tối của sự dữ cũng phải bị đẩy lui. Khi đó, ở con người cũng có cuộc sống sung túc lành mạnh hơn trên thân xác mà nhất là trong tinh thần. Đây là lý do giải thích mọi nỗ lực và mọi sinh hoạt của xã hội trong việc củng cố cuộc sống tâm linh và thăng tiến cuộc sống xã hội cho con người. Tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện, một thân thể có to lớn mập mạp béo tốt đến đâu mà không có tinh thần và tâm trí lành mạnh, thì cũng chỉ là một thân thể bệnh hoạn đáng thương.
12. Xin hãy sai con
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Sau khi nghe giảng về Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Chúa đầy lòng yêu thương, một thính giả không đồng tình với vị giảng thuyết. Đầu óc ông quay cuồng bởi những câu hỏi như:
Làm sao người ta có thể tin Thiên Chúa là Đấng nhân lành khi Ngài nhắm mắt làm ngơ trước cảnh biết bao nhiêu người nghèo khổ, tuyệt vọng, mất phương hướng phải sống trong sầu đau mà không ban cho họ một tin mừng, một tia hy vọng?
Làm sao người ta tin được Thiên Chúa là Cha nhân ái khi có biết bao người phải chịu cảnh giam cầm trong ngục tù vật chất, trong sự trói buộc của các đam mê mà Ngài không ra tay giải thoát?
Thật khó tin có Thiên Chúa là Đấng tốt lành khi Ngài để cho những người mù, nhất là mù tối trong tâm hồn, không được nhìn thấy ánh sáng chân lý.
Và bao nhiêu người bị áp bức, bị gông cùm sao Chúa không giải thoát họ?
Đêm hôm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, ông chợt nhận ra câu đáp của Thiên Chúa từ trong vắng lặng của đêm trường:
- Ta đã ra tay rồi đó, sao con còn trách Ta?
- Ngài ra tay lúc nào đâu? Ngài đã làm gì để cứu vớt những người tuyệt vọng, những người bị giam cầm, những người mù tối, những người bị áp bức?
- Ta đã dựng nên con và đặt con hiện diện giữa lòng đời để con thay Ta mà hành động. Thế sao còn trách Ta?
Có một điều quan trọng nhưng thường bị lãng quên, đó là chúng ta là những cánh tay, là những bàn tay của Thiên Chúa và Ngài hành động, Ngài thực hiện mọi việc qua chúng ta. Thiên Chúa có làm gia tăng số người trên mặt đất thì Ngài cũng thực hiện việc đó qua trung gian một người cha và một người mẹ trong gia đình. Thiên Chúa muốn nuôi dạy cho thiếu nhi nên tốt thì Ngài cũng thực hiện điều đó qua cha mẹ thầy cô.
Xưa kia Thiên Chúa Cha đã nhờ đến Chúa Giê-su để đem Tin Mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem ánh sáng cho người mù tối, trả tự do cho người bị áp bức thế nào, thì hôm nay, Ngài cũng cần đến chúng ta để thực hiện những công việc đó.
Thế là chúng ta phải lựa chọn: Hoặc là chúng ta chấp nhận ở lại trong nhiệm thể Chúa Giê-su, trở thành cánh tay nối dài của Ngài để tiếp tục sứ mạng của Ngài, hoặc là chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su để khỏi bị Ngài sử dụng và sai khiến.
Tờ Times, một tờ báo nổi tiếng nhất thế giới, vào dịp cuối năm có thói quen giới thiệu cho độc giả biết những con người làm nên lịch sử của từng năm. Năm 2004, tờ báo bình chọn tổng thống Bush làm nhân vật quan trọng nhất trong năm. Năm 2005, tờ báo chọn vợ chồng Bill Gates vì những hoạt động từ thiện của hai vợ chồng nầy. Cuối năm 2006 vừa qua, báo Times chọn một nhân vật chẳng ai ngờ, nhân vật đó là, là... "Bạn" (You). Tức là mỗi một người trong quý ông bà anh chị em.
Đúng vậy, đó không phải là chuỵên đùa. Mỗi người trong chúng ta làm nên lịch sử. Thế giới nầy có được đổi mới, có được tiến bộ hay không cũng là nhờ sự cộng tác của từng người, của mỗi một người trong cộng đồng nhân loại.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một hạt cát bé nhỏ vô ích, vì những bãi cát mênh mông được tạo nên bằng những hạt cát bé nhỏ như thế đó.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một giọt nước li ti không nghĩa lý gì, vì cả đại dương bao la cũng được tạo nên bằng những giọt nước li ti như vậy đó.
Hãy nhận ra rằng mình là chi thể của Chúa, là khí cụ cứu rỗi của Ngài. Hãy để Chúa sử dụng chúng ta như khí cụ xây dựng hoà bình của Chúa.
Điều chính yếu và quan trọng là chúng ta hãy hiến dâng đời mình cho Chúa, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, nầy con đây, xin hãy sai con.
Một khi chúng ta đã hành động theo lời sách tiên tri Isaia hôm nay, để cho "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức"..., chúng ta có thể mãn nguyện và nói như Chúa Giê-su hôm xưa rằng: "hôm nay, đã ứng nghiệm nơi tôi đoạn sách mà quý vị vừa nghe".
13. Sống cho người nghèo
(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Mẹ Têrêsa Calcuta đã trở nên mẹ của người nghèo, mẹ của những con người cùng khổ, bất hạnh và bị bỏ rơi. Với cuộc đời luôn sống với người nghèo, cho người nghèo, mẹ càng trở nên cao trọng giữa muôn người trong thế kỷ thứ 20. Mẹ đã được cả thế giới gọi mẹ bằng một tên gọi đầy kính trọng Mẹ Têrêsa Calcutta. Và có lẽ chẳng mấy ai còn nhớ đến tên gọi của mẹ do hai cụ thân sinh đã đặt từ ấu thơ Agnes Gonxha Bojaxhiu.
Trong thánh lễ phong Chân phước cho Mẹ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao mẹ như là một chứng nhân phục vụ theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Ngài nói: "Mẹ Têrêsa không những đã chọn chỗ thấp nhất mà còn muốn đi phục vụ những người hèn mọn nhất của xã hội. Tựa như một người mẹ của những người nghèo. Người nghiêng mình xuống trên những người cùng khổ vì đủ mọi thứ nghèo khổ". Mẹ đã dấn thân đến với người nghèo hầu mong nâng cao phẩm giá họ lên giữa một xã hội còn đầy những kỳ thị chủng tộc, kỳ thị sang hèn, giai cấp... Chính Mẹ đã từng nói: "Cái nghèo khổ nhất trên đời này là bị xua đuổi, không còn được ai đoái hoài đến nữa". Mẹ còn muốn cho công việc của Mẹ được nhân rộng thêm lên, Mẹ đã thành lập hội dòng Thừa sai bác ái với ước nguyện: "Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chị em chúng ta ra đi biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người nghèo".
Lời Chúa hôm nay có thể nói là tin vui cho những người nghèo khổ, những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã chọn người nghèo để dấn thân, để phục vụ. Không phải là Chúa Giêsu khinh bỉ người giầu, người quyền thế mà có thể nói Ngài đến để giúp cho những con người thấp hèn kia được nâng cao, được tôn trọng như những con người giầu có, quyền quý. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nối "không có nơi gối đầu". Mỗi bước chân của Ngài đều hướng đến những người khổ đau. Mỗi ánh mắt của Ngài đều hướng về những con người bất hạnh. Mỗi cái nhìn của Ngài đều chạnh lòng thương những ai đang đau khổ bơ vơ vì bị bỏ rơi, vì thiếu thốn tư bề. Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ vụ của Đấng Messia mà các tiên tri đã loan báo. "Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai". Tất cả những điều đó hôm nay đã ứng nghiệm trong con người Đức Giêsu miền Nagiaret. Thiên Chúa đã nhập thể làm người để nâng con người nên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở lại luôn mãi với nhân trần. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người để yêu thương và ban phát ơn lành. Đấng Thiên Sai đã chọn người nghèo, người cùng khổ để dấn thân phục vụ. Đấng Thiên Sai đã sống một kiếp người trong nghèo khó, thiếu thốn tư bề để cảm thông với những lắng lo của kiếp người truân chuyên.
Đó cũng là sứ điệp mà Lời Chúa muốn nhắn nhủ con người hôm nay. Giữa một xã hội quá chênh lệch giầu nghèo, địa vị. Giữa một xã hội quá phân biệt giai cấp và địa vị. Mức sống của từng giai cấp, địa vị đều khác nhau. Có những người ăn tiêu một bữa ăn bằng tiền lương cả một tháng lao động vất vả của một công nhân quèn. Ở Việt Nam hôm nay có những trường học phổ thông dành cho con nhà giầu, mỗi tháng thu lệ phí mỗi em cả hàng chục triệu đồng, trong khi đó nhiều gia đình phải chật vật để kiếm vài trăm ngàn cho con có cơ hội đến trường, đến lớp. Có những người ốm đau bệnh tật kéo dài cả cuộc đời vì không có tiền trang trải cho viện phí nên đành chấp nhận đau đớn mỗi khi trái gió trở trời, đang khi đó có biết bao người giầu có dư tiền dư của đến nỗi bỏ ra hàng triệu đồng để lột da cho tươi trẻ, và còn khoét thêm má lún đồng tiền để thêm phần duyên dáng thanh cao. Có những người cơm không đủ no, áo không đủ mặc đang khi đó có biết bao người áo chỉ mặc một lần và đồ ăn thức uống vất ngổn ngang quanh nhà.
Giữa một xã hội quá nhiều những thị phi như thế, Chúa đang cần chúng ta hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.
Năm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan đón mừng năm Đức Tin, là dịp để chúng ta nhìn vào cung cách sống phục vụ quên mình của các nhà truyền giáo đã không quản ngại vất vả, gian truân, đói khát, thiếu thốn để vun trồng tin mừng cho quê hương Việt Nam. Chính đời sống yêu thương phục vụ của các nhà truyền giáo và của các bậc cha ông chúng ta ngày xưa đã đánh động những người dân Thăng Long đến nỗi họ đã từng nói với nhau: "Kìa nhìn xem người ky-tô hữu họ yêu thương nhau biết bao". Đó cũng phải là cung cách sống của chúng ta, những con người thời đại hôm nay hãy biết sống quên mình, biết sống phục vụ vì lợi ích anh em để làm chứng cho Chúa. Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen.
14. Công bố năm hồng ân
('Tin Mừng Chúa Nhật')
Sau khi Chúa Giêsu đã lãnh nhận lễ rửa của Gioan và vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài ở lại Giuđê một thời gian rồi quay về Galilê. Nơi đây Ngài bắt đầu một chức vụ mà Luca để dành sáu đoạn trong Phúc Âm ông viết để nói đến. Ông kể ra ba đặc điểm của chức vụ này: được thi hành do quyền năng của Chúa Thánh Thần, danh tiếng Ngài được dồn rộng khắp xứ, cách giảng dạy có uy quyền giữa công chúng.
Nơi đâu tiên Ngài thăm viếng và giảng bài giảng đầu tiên là tại hội đường Nadaret không phải là một làng, nó được gọi là 'Polis' nghĩa một thành hay một thị trấn, và có thể có tới hai mươi ngàn dân. Nadaret tọa lạc trong một vùng đất của sườn đồi của Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. Geoge Ađam Smith diễn ra phong cảnh từ đỉnh đó như sau: "Lịch sử của Israel mở ra trước mặt chúng ta: kia là cánh đồng Edroelon, nơi Đêbora và Barac đã chiến đấu, nơi Giêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi vua Saolê đã thảm bại, và chính nơi này Giosia đã bị giết trong chiến trận. Kia là vườn nho của Na-bốt, chỗ Giêhu giết Giêsaben, kìa nữa là đất Sunem, nơi tiên tri Êlia đã sống, kìa là núi Các-men, nơi tiên tri Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Ba-an, và xanh canh ở đàng xa là Địa Trung Hải và các đảo. Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó, mà lịch sử thế giới cũng mở ea từ trên đỉnh đồi Nagiarét. Có ba con đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thường gia chở nặng hàng háo từ Ai-cập lên tới Đa-mát. Có con đường lớn đi về Phương Đông cho những đoàn doanh thương từ xứ Arabi tới, và cũng có những đoàn quân viễn chinh La-mã tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thương của thế giới chạy qua ngay trước ngọ. Chính nơi đây Chúa Giêsu đã giảng bài quan trọng chứa đựng cả chương trình chức vụ của Ngài hay cũng có thể gọi được là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
Hôm ấy là ngày sabat. Các bà con bạn hữu và những người đồng hương của Chúa Giêsu đều hội họp đông đảo tại nơi thờ phượng chung là hội đường. Tất cả đều nóng lòng muốn được nghe một người mà họ quen biết nhiều, một người mới thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh Thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa. Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đày từ Babylon. Chúa Giêsu đọc xong thì ngồi xuống như cách các giáo sư nhà hội thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài, Ngài tuyên bố Ngài chính là Đấng Mêsia (Cứu Thế) đã được hứa. Lời tiên tri bắt đâu với câu "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi", đem áp dụng cho Ngài, có nghĩa rằng ngài đã được xức dầu tấn phong, không phải bằng dầu thương như các tiên tri, thượng tế hay vua, nhưng bằng Thánh Thần để làm Đấng Được Xức Dầu hay Đấng Kitô của Thiên Chúa. Với tư cách ấy, Ngài sẽ giảng Tin Mừng cho người nghèo về thuộc thể cũng như thuộc linh. Ngài sẽ công bố sự giải póng hco những kẻ bị tù đày vì tội lỗi, và thiết lập những nguyên tắc rồi đây sẽ đem lại sự tự do cho nhân loại. Ngài sẽ giúp cho kẻ bị áp bức được tự do, nghĩa là cởi bỏ những hậu quả và sự độc ác của lòng ích kỷ và tội lỗi. Ngài sẽ rao truyền một thời đại ân điển cho tất cả. Như vậy với những lời mô tả về sự giải póng nô lệ và niềm vui của năm hồng ân, Chúa Giêsu đã diễn đạt tính chất ân điển và phước hạnh của chức vụ Ngài.
Chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng hơn để thấy được dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã vận dụng Kinh Thánh Cựu ước như thế nào cho sứ mệnh cứu thế của Ngài.
Khi Chúa Giêsu giảng dậy trong các nhà hội, thường vẫn có đọc Sách Thánh, như đây là cơ hội duy nhất chúng ta được biết Ngài chọn bản văn. Và những lời đầu tiên được Ngài công bố trong bản văn Thánh "Thần Khí Chúa ngự trên tôi." Người có thể nhận thấy niềm hoan lạc tỏa ra từ giọng nói và nét mặt khi Ngài thốt ra Thần Khí Chúa, lời mà tiên tri Isaia đã ghi lại mà không nắm bắt hết nội dung, còn Ngài thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa. Khi công bố "Thần Khí Chúa", Ngài muốn tôn vinh tác giả Thần Linh, Đấng đã linh hứng lời tiên tri và bây giờ đây hướng dẫn việc thực hiện. Âm thầm và mau mắn, Chúa muốn cho thấy chính Thần Khí Chúa là nguồn gốc sứ mệnh của Ngài và hướng dẫn mọi đường đi nước bước. Ngài dùng chính từ ngữ mà chính Thần Khí đã bảo nhà tiên tri.
Trước những người đồng hương Nagiarét, việc nêu rõ tên như thế này mang lại một tầm quan trọng hơn. Chúa Giêsu đang ở trong làng nơi đã nhiều năm sinh sống, ai cũng biết rõ gia đình Ngài: "Đây không phải là con ông Giuse sao?" Câu nói biểu lộ sự ngạc nhiên thấy con của một người thợ tầm thường lại có được khôn ngoan và quyền năng như thế. Nhưng cũng hé mở cho thấy niềm xác tín rằng một giá trị cao cả như thế không thể do nguồn gốc gia đình mang lại. Chúa Kitô lập tức phải đối đầu với nhóm thính giả gợi ra gia đình thần linh mà Ngài đang thuộc về. Chẳng phải gia đình nhân loại đem lại cho Ngài những danh hiệu cho công trình Ngài đang đảm nhiệm, nhưng là Thần Khí của Đức Chúa. Ít ra các thính giả hiểu rằng Ngài đang nại đến uy quyền thần linh, Ngài tuyên bố giáo ký và hành động của Ngài là do Thiên Chúa đặt định. Ngay lúc này họ chưa có thể nhẫn ra Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến một ngôi vị thần linh khác, vì cho đến lúc này họ chưa hề có được ý tưởng Thần Khí là một Ngôi vị Thiên Chúa. Nhưng ý tưởng này đã bao hàm trong lời nói của Chúa Cứu Thế.
May mắn hơn dân làng Nagiarét, chúng ta biết được nghĩa Chúa Giêsu áp dụng cho lời tiên tri. Chúa Giêsu áp dụng cho Ngôi vị thần linh khác là nguồn gốc và điều khiển sứ mệnh cứu thế của Ngài. Để sứ mệnh của Ngài được điều hành do Thiên Chúa, chỉ cần Ngôi Hai Thiên Chúa làm người hoàn thành cũng đủ, thế nhưng Chúa Giêsu dựa vào sự hiện diện của Đức Chúa trên Ngài. Ngài xác nhận vai trò chủ quản của Thần Khí, và hơn thế, ở phía sau vai trò nguyên thủy tối quan trọng của Chúa Cha, là nguồn gốc của tất cả; vì nếu từ "Thần Khí" hướng về Chúa Thánh Thần, thì từ "Đức Chúa" trong ý của Chúa Giêsu phải quy hướng đặc biệt về Ngôi Cha, và như thế tất cả gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa được gợi lên. Như thế là theo chương trình của Thiên Chúa, Đức Kitô hoạt động nhờ Chúa Thánh Thần là Thần của Chúa Cha, đang ngự trong Ngài.
Cần hiểu đúng ý nghĩa việc Thần Khí ngự trên Đức Giêsu. Lời sấm trong sách tiên tri Isaia cho thấy một sự hiện diện qua việc xức đầu và trao ban một sứ mệnh. Nếu Thần Khí của Đức Chúa ngự trên Ngài là vì Đức Chúa đã xức dầu cho Ngài. Xức dầu là dấu chỉ thánh hiến một người, biệt riêng ra để phục vụ Thiên Chúa và mặc lấy quyền năng do Chúa ban như xưa trong Cựu ước, quyền làm vua, làm tiên tri, làm tư tế.
Chúa Kitô quả quyết Ngài được xức dầu do Đức Chúa, từ Thiên Chúa Cha. Không phải dầu vật chất, nhưng là chính Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Chúa Giêsu được thánh hiến để phục vụ Chúa Cha, chính do Thánh Thần mà Ngài nhận được quyền năng. Danh hiệu Kitô của Chúa Giêsu là do Thánh Thần, vì danh hiệu này theo nguyên ngữ là "Đấng được xức dầu". Vì thế mỗi khi nhắc tới danh hiệu Kitô là nêu ra việc Ngài được Chúa Thánh Thần thánh hiến.
Việc xức dầu là đề hoàn thành một sứ mạng. Khi đọc lời tiên tri, Đức Giêsu loan báo sứ mạng mà Thần Khí Chúa trao cho Ngài thi hành. Điều đáng lưu ý là Ngài cắt ngang ngay giữa câu. Lời sấm ghi: "Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng... Ngài sai tôi công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta." (61,2), Chúa Giêsu ngừng lại sau "Năm hồng ân" và bỏ qua loan báo "ngày báo phục". Ngài không đến để loan báo ngày báo phục của Thiên Chúa, nhưng để công bố năm hồng ân. Như thế chữ cuối cùng "Năm hồng ân" diễn tả phúc lộc của Thiên Chúa phù hợp với chữ đầu tiên "Thần Khí Chúa". Thần Khí Chúa làm cho sứ điệp và công việc của Chúa Giêsu thành dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa. Khi bỏ đi phần báo phục, Chúa Kitô muốn chứng tỏ rằng Chúa Thánh Thần chỉ thông chuyển tình yêu qua Ngài. Có thể coi Chúa Thánh Thần như là hồn của sứ mệnh Đức Giêsu. Chính Chúa Cha giao nhiệm vụ cho Chúa Con, khi thi hành sứ mệnh này, Chúa Thánh Thần đã tác động cho Chúa Con, chính Ngài qua Chúa con "loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ." Khi Chúa Giêsu hăng say rao giảng cho quần chúng, chính Thánh Thần linh động lời Ngài và thấu vào tâm trí người nghe. Chính Chúa Giêsu cũng không đưa ra dấu hiệu nào khác minh chứng cho sứ mệnh của Ngài bằng nại đến ban phát tình thương. Khi Gioan Tẩy giả nóng lòng chờ đợi thiết lập vương quốc thiên sai, từ trong ngục tù sai người hỏi Chúa Giêsu: "Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ đợi đấng nào khác?" Chúa Giêsu trả lời bằng cách nhắc cho vị Tiền Hô lưu ý tới thể hiện tinh thần yêu thương, Thần Khí đã giáng xuống dưới hình chim bồ câu để làm cho dung nhan Đấng Cứu Thế có diện mạo Con Chiên lành. Đừng chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế một quyền năng nào khác ngoài tình yêu được ban phát giờ đây. Để nhắc lại Thần Khí Chúa ngự trên Ngài, Chúa Giêsu trích dẫn chính lời tiên tri Isaia, và kể lại cho Gioan điều mắt thấy tai nghe: "Mù được thấy, què được đi, phong cùi được khỏi, điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo." (Mt 11,4,6)
Chúng ta đã được tháp nhập vào Đức Kitô với Bí tích Rửa tội. Không gì thích hợp hơn để chúng ta áp dụng trong thực tế lời kinh Năm Thánh 2000: "Lạy Cha, xin cho chúng con trong Năm Toàn Xá, biết vâng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, biết trung thành theo Đức Kitô, biết chuyên cần lắng nghe lời Chúa, và năng đến với nguồn mạch ân sủng.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh,
Chỉ có Chúa là Thiên Chúa và là Đấng Tối Cao,
Chúng con xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
Lạy Cha, xin dùng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, làm cho Hội Thánh thêm nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, cách thích hợp trong thời đại mới. Xin dẫn bước chúng con trên khắp nẻo đường trần gian, để rao giảng Đức Kitô bằng tất cả đời sống, và hướng cuộc lữ hành dương thế của chúng con, tiến về thành đô ánh sáng trên trời. Xin cho các môn đệ Đức Kitô được tỏa sáng nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức. Xin cho họ biết liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống bác ái yêu thương. Xin cho họ biết khoan dung với mọi người hầu chính họ cũng được hưởng lòng Cha tha thứ khoan dung..."
15. Năm hồng ân của Chúa.
('Manna')
Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê, Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng. Làm sao Ngài quên được mảnh đất làng quê đã ấp ủ mình, nơi có bà con họ hàng, láng giềng, bè bạn. Hơn nữa Ngài cũng không cắt đứt với tôn giáo của cha ông.
Ngài vẫn là một người Do Thái ngoan đạo, quen lui tới hội đường cùng với dân làng vào ngày sa-bát, để thờ phượng Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Chúng ta cần chiêm ngắm Đức Giêsu đứng đọc Sách Thánh. rồi ngồi xuống giải thích Lời Chúa cho mọi người. Cử chỉ của Ngài thật trang trọng, đỉnh đạc, khi nhận sách, mở sách, cũng như khi cuộn sách để trả lại. Có một bầu khí cầu nguyện sâu lắng ở hội đường.
Mọi người đều chăm chú nghe lời Ngài giảng. Đoạn sách Ngài đọc hôm ấy là của ngôn sứ Isaia. Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình. Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày. Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do.
Đức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này. Ngài thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình. Đây là một hướng đi mà Ngài phải theo đuổi, một chương trình hành động mà Ngài muốn hoàn thành.
Đức Giêsu là người đầy tràn Thánh Thần cách đặc biệt.
Thánh Thần chi phối toàn bộ lời nói, việc làm của Ngài. Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo, nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói.
Ngài được sai đến với những kẻ bị giam cầm bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.
Ngài cho người mù được sáng mắt và thấy trong niềm tin.
Ngài trả lại tự do cho cả người bị áp bức lẫn người gây áp bức bóc lột. Ngài mời gọi cả hai sống thanh thoát như Ngài, sống như con của Cha và anh em của nhau.
Ngài khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ. "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Đức Giêsu.
Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.
Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do, nhưng ít người chịu tin vào Đức Kitô chỉ vì đời tôi đầy sầu muộn, bóng tối và nô lệ. Thậm chí có khi tôi lại là kẻ áp bức anh em, kẻ bịt mắt và giam hãm tha nhân trong ngục tù.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Đức Giêsu. Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời tôi, để ngày hôm nay của Chúa được kéo dài đến tận thế.
Đại Năm Thánh 2000 đã kết thúc, nhưng kết thúc là để tôi bắt đầu sống quảng đại một thiên niên kỷ mới chan chứa hồng ân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha đã mời gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo nhân dịp Năm Thánh 2000. Bạn nghĩ mình có thể làm gì để những người chung quanh được vui tươi hơn, nhẹ nhàng hơn?
Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều xung đột, chiến tranh. Bạn có thể kể ra những cuộc xung đột hay chiến tranh mà bạn biết? Đâu là lý do gây ra chúng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới, trong lòng mọi người.
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối, nhưng vẫn có những đóm sáng rực rỡ:
khi con người ngồi lại gần nhau - để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hòa bình;
khi cả thế giới lo chung một mối lo: bảo vệ trái đất, ngăn chận sida, tận diệt ma tuý;
khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn;
khi trẻ thơ và người già được chăm sóc;
khi hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ;
khi không còn nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da;
khi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho con người sống hạnh phúc;
khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau, liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau, sống trên cùng một hành tinh, dưới mái nhà bầu trời.
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin cho chúng con thấy Ngài nơi nụ cười người ta trao cho nhau trên đường phố, nơi những hy sinh vô vị lợi, và cả nơi những thao thức của ai đó, muốn xây dựng một thế giới huynh đệ hơn.
16. Chúa Giêsu và chỗ đứng của người nghèo hèn
(Lm Phan Kế Sự)
"Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho: kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
Kinh sư Esdra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, khi nhắc lại những ân huệ mà Giavê Thiên Chúa dành riêng cho dân tộc Israel, đã làm cho nhiều người cảm động đến rơi lệ. Qủa vậy, tình yêu của Giavê Thiên Chúa luôn đồng hành và cứu giúp dân chúng trong mọi hòan cảnh, đặc biệt trong những ngày khốn khổ và cùng cực của những ngày là nô lệ dân ngọai. Thiên Chúa đã không bỏ rơi, nhưng trái lại, Ngài hằng thương xót và bảo vệ dân riêng của Ngài, dẫu họ có phản bội và nhiều lần chối bỏ Ngài mà thờ cúng bụt thần của dân ngọai. "Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em."
Khi trở về quê hương của Mình, Chúa Giêsu mặc khải sứ mạng Mình cho chính những người bà con thân yêu của Mình, như là một lời giới thiệu về những việc Mình đã và đang làm cho mọi người. Sứ mạng đó đã được các tiên tri tiên báo, và Ngài chính là Người đến để hòan tất. Ngài cũng chính là đầu của thân thể mầu nhiệm, mà mọi chi thể đều phải lệ thuộc và hướng về. Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi và khỏe mạnh, bởi với Ngài, mọi người đều được Thiên Chúa quan tâm,yêu thương và chăm sóc. "Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận."
Mỗi người chúng ta là một chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa, đặc biệt là những người nghèo. Ngay từ những bài giảng đầu tiên, cho đến những phép lạ, Chúa Giêsu luôn quan tâm đến những ai không có chỗ tựa nương, không có chỗ trông nhờ,không có ai giúp đỡ. Sự xuất hiện của Ngài ở đâu,bất cứ lúc nào, cũng đều là tâm điểm lôi cuốn tất cả mọi người.Ngài đã đồng hành với mọi người bằng những tiêu chí: cùng ăn, cùng ở và cùng sống với những người đói khổ, khó nghèo cả tinh thần lẫn vật chất. Ngài không sống riêng cho mình, nhưng trái lại bị quấy rầy suốt ngày, thậm chí không còn giờ để ăn uống, gia đình cũng tưởng "Ngài đã mất trí".
Năm đức tin, năm mà Giáo Hội muốn tất cả chúng ta trở về nguồn, vừa để học hỏi và đào sâu những Lời Chúa dạy; và cũng để soi dọi lại cách sống của mình có còn thích hợp với những gì Chúa dạy và những gì Chúa muốn cho xứng với bậc mình. Thường chúng ta vẫn tự mãn về cái gốc gác của mình: nào là 50 năm đạo gốc, nào là những chức vụ mình đang mang trên thân mình, nào là những thành tích rỗng tuếch bằng những con số thống kê ảo, nào là những công trình hòanh tráng đã thực hiện cho Giáo Hội.
- Liệu những khoe khoang, khoác lác đó có thực sự thích hợp với cái nhìn và cách sống của Chúa.
- Liệu những con số thống kê có thực sự nói lên những nỗ lực của chính mình hay cũng chỉ là những nhận vơ, cho những khó nhọc và đóng góp của những đồng trinh nhỏ của những bà góa nghèo hằng ngày kiếm được bằng cả cuộc sống cơ cực.
- Liệu cách sống giầu sang khoe mẽ, những thói quen tiêu xài phung phí, những thái độ chơi ngông có thực sự thích hợp với lời giảng dạy như chính Chúa đã sống.
- Liệu những hành động tiêu cực hoặc cách đối xử với anh em mình bằng những thái độ "lọai trừ" có thực sự xứng đáng là những ngừơi đem Chúa Kitô đến cho người khác, hay chỉ là những lời phản chứng đang ngày đêm âm thầm phá họai Giáo Hội.
Lời cầu nguyện:
Lạy Thánh Thần Chúa, xin hãy đến trên tất cả chúng con.Xin hãy làm cho tất cả chúng con trở thành những nhân chứng thực sự của tình thương Chúa giữa trần thế, để trong mọi hòan cảnh, chúng con là những hiện thân đích thực của Chúa.
Xin hãy thanh luyện và thanh lọc khỏi chúng con những gì là giả dối,giả hình và thiếu sót để mỗi người chúng con xứng đáng là những chi thể lành mạnh và có ích trong thân thể mầu nhiệm của Chúa.
Lạy Chúa xin hãy thánh hóa chúng con. Amen.
17. Hợp nhất
Nhìn vào xã hội, chúng ta nhận thấy con người thời nay đang bị giằng co, đang bị lôi kéo bởi hai ước muốn, đều tích cực, đều hợp lý như nhau nhưng chưa bao giờ được dung hòa một cách tốt đẹp.
Thực vậy, từ thẳm sâu cõi lòng, chúng ta đều mong muốn người khác biết đến những tư tưởng, những tài năng của mình, đòi hỏi họ phải tôn trọng và giúp đỡ để chúng ta phát triển được toàn diện con người. Khuynh hướng này có tính cách cá nhân.
Đằng khác, con người lại ước muốn hợp nhất, để xã hội này trở thành một cộng đồng hợp nhất và thương yêu, trong đó, con người không còn phải trải qua những sự trống vắng và cô đơn. Ước mơ này ngày càng trở nên mãnh liệt trong một thế giới bị phân hóa trầm trọng. Đây là một khuynh hướng có tính cách cộng đồng.
Hai ước mơ trên đây càng mãnh liệt bao nhiêu thì lại càng va chạm dữ dội bấy nhiêu, và cho đến nay chưa ai có thể dung hòa được một cách tốt đẹp.
Riêng với những người Công giáo, những người có đức tin, thì sự dung hòa ấy khả dĩ có thể tìm thấy được nơi Đức Kitô và lời Ngài phán dạy. Thực vậy, qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Giêrêmia đã mô tả cái quang cảnh hùng vĩ: Dân Chúa tụ tập để lắng nghe lời Ngài. Esdras đọc và chú giải lời Chúa, còn dân Chúa thì vui mừng đến rơi lệ bởi vì Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài. Cảnh tượng trên đây đã được chính Đức Kitô thực hiện trong Tân ước. Đúng thế, Ngài đến để thực hiện sự hiệp nhất giữa muôn người. Ngài đến để thực hiện những lời hứa đã được tiên báo. Ngài đến để phá vỡ những bức tường ngăn cách, như nghèo đói, bệnh tật và dốt nát. Công cuộc hợp nhất này, cho đến ngày hôm nay, vẫn không ngừng được thực hiện dưới tác động của Chúa Thánh Thần...
Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy chúng ta tìm về gặp gỡ để tạo thành một thân thể, tuy một mà nhiều, tuy duy nhất mà lại đa diện, trong muôn ngàn sắc thái của ơn Chúa. Nếu suy nghĩ chúng ta cũng sẽ nhận thấy nhân loại tự bản tính vốn đa diện: Có Do Thái, có Hy lạp, có nam có nữ, có trắng có đen, nhưng nhờ bí tích Rửa tội, con người đã gặp gỡ, đã hiệp nhất và trở nên một.
Vì thế sự hiệp nhất không phải chỉ là kết quả của những cố gắng giữa người với người, mà hơn thế nữa còn là một ơn Thiên Chúa trao ban. Bởi vì, nếu chỉ cậy dựa vào sức người, chắc chắn chúng ta sẽ thất bại, hay nếu có đạt được thì đó chỉ là một sự hiệp nhất dổm, một sự hiệp nhất giả hiệu mà thôi.
Sự hiệp nhất đích thực chỉ được tìm thấy trong việc lắng nghe và thực thi lời Chúa. Nó là kết quả của một công trình lâu dài, của một nỗ lực không ngừng để tẩy rửa, để tinh luyện tư tưởng dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, hiệp nhất không có nghĩa là phải dẹp bỏ, phải bóp chết các tài năng, các ơn thánh cá nhân. Vườn hoa chỉ đẹp, khi mỗi cánh hoa đều phô diễn trọn vẹn cái sắc thắm của mình. Cũng thế, tất cả các ơn Chúa ban, đều phải được xử dụng để làm vinh danh Chúa và góp phần đem lại lợi ích chung.
Thế nhưng trở ngại vẫn còn đó, nào ích kỷ, nào tự ái, nào kiêu căng. Con đường tiến về hiệp nhất vẫn còn nhiều chông gai và sỏi đá, tuy nhiên, chúng ta chắc chắn sẽ đạt tới đích, nếu như chúng ta luôn trung thành với lời Chúa và với Kinh Thánh.
Ước chi hôm nay chúng ta bắt đầu sống sự trung thành ấy trong chính cuộc sống của mình, bằng cách chấp nhận người khác, để cộng đồng nhân loại sẽ là một vườn hoa đủ màu đủ sắc của Thiên Chúa.
18. Phải nghe bằng ba lỗ tai
Vào thời Chúa Giêsu, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự, là Đền thờ và Hội đường. Đền thờ thì chỉ có một, tức là Đền thờ tại Giêrusalem, nhưng có tới hàng trăm hội đường, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Chúa, chẳng hạn chiên, cừu, bồ câu... Còn hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ. Như chúng ta thấy, nghi thức phụng tự trong hội đường và trong Đền thờ tương ứng với nghi thức phụng tự trong thánh lễ của chúng ta. Nửa phần đầu của thánh lễ tương ứng với nghi thức trong hội đường được gọi là phần phụng vụ Lời Chúa, bao gồm việc nghe đọc các bài Kinh Thánh và áp dụng chúng vào cuộc sống giống như Chúa Giêsu đã chỉ dẫn cho dân Nagiarét trong Phúc Âm hôm nay. Nửa phần sau của thánh lễ tương ứng với nghi thức phụng tự trong đền thờ, được gọi là phụng vụ Thánh Thể, liên quan đến việc dâng hy lễ, giống như Chúa Giêsu đã thực hiện trong bữa Tiệc ly: "Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em" (Lc 22,20)
Giờ đây chúng ta hãy xét một cách sâu sát hơn phần đầu của thánh lễ, tức phần phụng vụ Lời Chúa. Trong phần này nhiệm vụ chính của chúng ta là lắng nghe Kinh Thánh. Vấn đề then chốt ở đây là 'lắng nghe'. Cách đây nhiều năm có một vở kịch ở Broadway tựa là 'Hoàng gia đi săn mặt trời' (The Royal Hunt of the Sun). Vở kịch kể lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Kinh Thánh và bảo ông ta: "Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này". Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Kinh Thánh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ông cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất. Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ: "Vậy thì chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa thế nào đây?" Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng cả ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn.
Trước hết, thế nào là nghe bằng lỗ tai tâm trí?
Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và hơn nữa, làm cho lời ấy sống động y như chúng ta đang nghe chính Chúa nói. Chẳng hạn, thánh Ignatiô Loyola thường nghe Lời Chúa theo kiểu này bằng cách nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do thái để nghe Chúa Giêsu nói. Thánh nhân tưởng tượng ra niềm xúc động khiến giọng nói của Chúa Giêsu nghẹn ngào khi Chúa đọc đến câu: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi", và thánh nhân còn tưởng tượng ra nỗi phấn kích như điện giật lan truyền nơi cộng đoàn tham dự khi Chúa Giêsu tuyên bố "Hôm nay, lời Kinh Thánh trên đã được ứng nghiệm khi anh chị em nghe đọc nó". Như thế, nghe bằng tâm trí tức là không những chỉ hiểu Lời Chúa, mà còn làm cho Lời ấy trở nên sống động như thể nghe từ miệng Chúa nói ra.
Cách thứ hai là lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai trái tim, nghĩa là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim và cố gắng tìm cách áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Cách đây nhiều năm, Charlie Pitts là chủ nhân một công ty xây dựng chuyên xây đường điện ngầm ở Toronto, Canada. Công việc làm ăn của ông càng khuếch trương bao nhiêu thì đời sống cá nhân và gia đình ông càng khốn đốn bấy nhiêu. Ngày nọ, vì thấy tình thế tồi tệ quá, Charlie phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ trong lúc đọc Kinh Thánh, một câu nói đập mạnh vào mắt ông: "Nào người ta được ích gì khi được lời lãi tất cả thế gian, mà lại mất hay thiệt chính mình?" (Lc 9,25). Những lời này như nói trực tiếp với Charlie, như hàm ý bảo ông: "Này Charlie, chính điều ấy đang xảy đến cho ông đó!". Như thế, nghe bằng trái tim tức là ghi khắc Lời Chúa vào trái tim và xét xem có thể áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của chúng ta như thế nào.
Và cách thức lắng nghe Lời Chúa sau cùng là lắng nghe bằng lỗ tai của linh hồn, nghĩa là ngoài việc ghi khắc Lời Chúa vào trái tim, chúng ta còn chuyện vãn với Ngài về lời ấy, đồng thời làm những gì mà Charlie Pitts đã làm. Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta thực hiện những bước cần thiết để làm cho cuộc sống chúng ta phù hợp với Lời Ngài. Chẳng hạn, sau khi Charlie Pitts cầu nguyện về tình trạng sống của ông và bàn luận với vợ xong, ông liền bán toàn bộ công ty của ông trước khi nó huỷ diệt đời sống của ông. Tiếp đó, Charlie bỏ tiền ra mua một khách sạn có bãi sân gôn rồi quản trị nó. Lợi tức của công việc kinh doanh này ông dùng để truyền bá Phúc Âm.
Như thế bước thứ ba trong việc lắng nghe Lời Chúa là tâm sự với Ngài để xem Ngài muốn chúng ta làm gì khi nghe lời đọc trên. Dĩ nhiên, chúng ta không mong Chúa dùng lời nói để đáp trả lại lời nói của chúng ta, vì Ngài thường nói với chúng ta một cách thiêng liêng từ thâm sâu linh hồn ta. Và hơn nữa, không phải là Ngài sẽ luôn luôn đáp lời chúng ta ngay lập tức trong giờ cầu nguyện, mà Ngài thường đáp lời chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, ngoài giây phút chúng ta cầu nguyện. Chẳng hạn, Ngài làm cho chúng ta từ từ cảm nghiệm được niềm ước muốn đang lớn mạnh, khiến ta phải làm một điều gì đó để cải tạo hoàn cảnh hiện tại; Ngài khiến chúng ta tìm ra những ý tưởng về cách thức cải tạo cảnh ngộ chúng ta; hoặc Ngài khiến chúng ta cảm thấy nghiêng chiều về một trong những ý tưởng trên. Nói rõ hơn, nhưng chuyển biến tâm linh này có thể là do Lời Chúa đang âm thầm nói với chúng ta từ sâu thẳm của linh hồn.
Tóm lại, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức: Bằng lỗ tai tâm trí, bằng lỗ tai trái tim và bằng lỗ tai linh hồn. Nói cách khác, chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta; phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta; và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
19. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày 21 tháng 1 (theo giờ Mỹ), Tổng thống Obama và "phó tướng" Biden đã tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 2. Hình ảnh "bộ đôi quyền lực" này đặt tay lên cuốn Kinh Thánh và đọc lời tuyên thệ theo quy định của Hiến pháp là một hình ảnh rất đặc biệt, gây sự chú ý mạnh mẽ.Báo chí đưa tin, khi thực hiện nghi thức tuyên thệ, ông Obama giơ tay phải lên và tay trái đặt lên 2 cuốn Kinh Thánh lịch sử của nhà lãnh đạo nhân quyền huyền thoại Luther King Jr và cố Tổng thống Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của Mỹ. Chánh án Toà Tối cao John Roberts chủ trì nghi thức này. Phó Tổng thống Biden đặt tay lên cuốn Kinh Thánh mà dòng họ của ông sử dụng từ năm 1893. Thẩm phán tòa tối cao Sonia Sotomayor chủ trì lễ tuyên thệ của Biden. (Antoine Nguyễn).
Các nguyên thủ quốc gia, sau khi được toàn dân tín nhiệm qua lá phiếu bầu cử, thường đọc diễn văn quan trọng khởi đầu một nhiệm kỳ mới. Nội dung diễn văn trình bày hành động bao quát nhắm đến lợi ích của đồng bào đang mong đợi.
Tại quê hương Nazaret, Chúa Giêsu đã mượn bản văn của ngôn sứ Isaia để chính thức công bố với đồng hương chương trình hành động của mình: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Người nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe".
Trước đó ít lâu, khi Gioan Tiền Hô nghe nói về hoạt động của Chúa Giêsu, từ trong tù ông đã sai môn đệ đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: "Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng" (Mt 11,4-5). Qua câu trả lời gián tiếp này, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, dấu chỉ hiển nhiên của Đấng thiên sai là hành động chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ, bé mọn, tật nguyền và xấu số. Ngài tự đồng hóa với những người đói khát, rách rưới, trần truồng, bệnh tật, đau yếu, tù tội...Bất cứ những gì đụng chạm đến họ là đụng chạm đến bản thân Ngài. Tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Ngài. Và tất cả những gì chúng ta không làm cho một trong những người bé mọn nhất của nhân loại khổ đau này là đã không làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-45). Sau Công Đồng Vaticanô II, một số thần học gia đã khai triển bản văn này và đặt nổi ba hình thức hiện diện đặc biệt của Đức Kitô: trong Thánh thể (Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25), trong cộng đoàn (Mt 18,20) và trong người nghèo (Mt 25,31-45).(x. ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, trang 32-33).
Chúa Giêsu thực hiện chương trình hoạt động cứu độ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sứ điệp đó, Giáo hội luôn thực thi suốt dòng lịch sử.
1. Sứ điệp và hoạt động cứu độ của Chúa Giêsu
"Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người đã sai tôi đi công bố...". Nội dung của sứ điệp nói lên đầy đủ sứ mệnh Chúa Giêsu sẽ thi hành gồm bốn hoạt động là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho người tù đày, sự sáng mắt cho người mù loà, trả tự do cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy sứ điệp gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Tin Mừng được loan báo là: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã "bị giam cầm" nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công... làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
2. Chúa Thánh Thần, thúc đẩy và hướng dẫn.
Cơ chế xã hội bất công đã tạo nên bao thảm cảnh trong cuộc đời. Người nghèo chính là nạn nhân của những cơ chế bất công. Vấn đề muôn thuở đó vẫn luôn mang tính thời sự. Chúa Giêsu có sứ mạng giải thoát những người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng sứ mạng đó chỉ có thể thực hiện được khi có Thánh Thần hướng dẫn và Chúa Cha ủy thác.
Nhiều lần Tin Mừng nói, Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Từ ngày Truyền Tin, Thiên Thần đã loan báo: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35). Trong cuộc đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng nói rất ít về Người. Dù vậy, chắc chắn đó phải là những ngày Thần Khí Thiên Chúa giúp cho Chúa Giêsu "ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa" (Lc 2,40); "ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến" (Lc 2,52). Khi Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, vai trò của Chúa Thánh Thần thường được nhắc tới dưới hình thức, Chúa Giêsu "được đầy Thánh Thần, được Thánh Thần dẫn đi, được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy". Vào ngày chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Thánh Luca coi đây như là việc "xức dầu", được tấn phong làm "Đấng được xức dầu" (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Xức dầu tấn phong là nghi thức trao ban sứ mệnh, không chỉ là sứ mệnh của ngôn sứ mà còn là sứ mệnh cứu độ của Đấng đến để chu toàn tất cả những gì Lề Luật và các Ngôn Sứ đã nói về Người.
3. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu xác định: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe." Trải suốt Tin Mừng Luca, từ "Hôm nay" xuất hiện tại những đoạn then chốt. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra" (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này" (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (23,43). Ý nghĩa của từ "Hôm nay" mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là "ngày hôm nay" vào lúc Người tại thế, mà còn là "ngày hôm nay" của Giáo Hội nữa.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão...Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:"Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ" (Lumen Gentium, 8). Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là "sự thật giải thoát" (Ga 8,32).
"Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương". (Cánh cửa đức tin, số 13). Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.
20. Đường nẻo Chúa
Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi xin chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ chung quanh lời nói của tiên tri Isaia, mà thánh Luca đã nhắc lại qua đoạn Tin mừng hôm nay:
- Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được rằng: tư tưởng và đường nẻo của Chúa thật khác với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Chúa cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của chúng ta bấy nhiêu.
Thực vậy, chúng ta thường đánh giá người khác qua những biểu hiện bên ngoài, dựa trên quyền lực và giàu sang. Đúng thế, người có tiền thì được yêu mến:
- Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khác tầm. Có nghĩa là ngèo mà ở giữa phố chợ cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở trên rừng trên núi, đèo heo hút gió cũng vẫn có kẻ chịu khó tìm đến. Hay: Thấy người sang bắt quàng làm họ. Miệng nhà giàu có gang có thép. Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
Còn người có quyền, thì được vị nể, trọng kính:
- Lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng.
Bởi đó, người đời thường mơ ước được giàu sang và quyền thế. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại đem Tin mừng đến cho những kẻ nghèo hèn. Trong bài giảng trên núi Ngài còn chúc phúc cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ và bị bách hại. Lần khác, Ngài cũng đã nguyện cầu:
- Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha, vì Cha đã dấu không cho những người thông thái biết những sự mầu nhiệm này, mà lại tỏ ra cho những kẻ bé mọn.
Chúa không phải chỉ nói, mà Ngài còn làm như vậy. Một Đavít nhỏ yếu với vóc dáng của một cậu bé chăn chiên, thế mà Chúa đã cho thắng được Golíat, lên ngai vàng và trở thành một vị vua hùng mạnh, dẫn đưa dân Do Thái tời một thời đại hoàng kim. Một Maria khiêm tốn với thân phận của một nữ tì, thế mà Chúa đã chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế. Và khi Chúa đến, thì ai là những người đầu tiên được diễm phúc đón nhận tin mừng giáng sinh, nếu không phải là những mục đồng, những kẻ chăn chiên vất vả nghèo túng. Rồi những môn đệ được Chúa mời gọi để cộng tác với Ngài trong việc rao giảng Phúc âm là ai nếu không phải là những bác tuyền chài quê mùa và dốt nát.
Chính Chúa cũng vậy. Ngài không đến với binh đội hùng hậu, nhưng đến dưới vóc dáng của một hài nhi bé nhỏ, nghèo túng, không một mái nhà ẩn náu. Vậy tại sao Ngài lại dành Tin mừng và phúc lành cho những kẻ khó nghèo và dành yêu thương cho những người bất hạnh?
Dĩ nhiên có nhiều lý do, nhưng hôm nay tôi chỉ xin đưa ra một lý do rất đơn giản mà thôi. Sở dĩ Chúa hành động như vậy là vì người giàu sang và quyền thế thường hay cậy dựa vào sức riêng của mình, nên rất dễ sinh ra kiêu căng. Mà đã kiêu căng, thì chắc chắn sẽ bị Chúa loại trừ. Trong Kinh thánh, Chúa đã phán:
- Ta chống lại kẻ kiêu căng.
Hay trong lời kinh ngợi khen, Mẹ Maria cũng đã nói:
- Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao nhưng người phận nhỏ.
Vì thế, thánh Gregorio đã nói:
- Kiêu căng là dấu chỉ rõ ràng nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Trái lại, người nghèo hèn và bất hạnh sẽ cảm thấy mình yếu đuối, thấp hèn và thiếu thốn, nên dễ đặt trót niềm tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa, dễ đón nhận Tin mừng và được Chúa chúc phúc.
Muốn bỏ một vật gì vào túi, thì chiếc túi phải rỗng. Nếu túi đã đầy thì làm sao nhét vào cho được. Cũng thế, kẻ kiêu căng chất đầy tâm hồn những tự phụ, tự mãn, tự cao thì đâu còn chỗ cho Chúa nữa. Trong khi đó người nghèo hèn và bất hạnh luôn cảm thấy tâm hồn mình trống để cho tình thương của Chúa hoạt động.
Từ đó, chúng ta đi tới kết luận: người nào coi mình chỉ là một con số không, thì sẽ có đủ chỗ cho Đấng vô cùng. Trái lại, kẻ nào coi mình là vô cùng, thì trước mặt Chúa chỉ là một con số không mà thôi.
21. Lời Chúa
Tác giả tập sách có tựa đề: "Cuộc Săn Đuổi Mặt Trời" kể lại cuộc mạo hiểm của những người lính Hoàng Gia Tây Ban Nha trong thế kỷ XIX đi chiếm thuộc địa bên Nam Mỹ, tại vùng đất mà ngày nay gọi là quốc gia Pe-ru.
Một người trong nhóm đem tặng cho viên tù trưởng trong bộ lạc da đỏ một quyển Kinh Thánh và nói: Đây là quyển sách Thánh, nơi Thiên Chúa nói với con người và ban cho con, những ai lắng nghe được lời Ngài, một sức mạnh phi thường vượt qua được mọi gian nan thử thách và được hạnh phúc trường sinh.
Đón nhận quyển sách,viên tù trưởng kia vui mừng vội mau tìm nơi vắng đưa sách lên tai để lắng nghe Thiên Chúa nói. Nhưng thật là vôi ích, ông cầm lên, đưa xuống đủ cách mà im lặng vẫn hoàn im lặng, không có tiếng Thiên Chúa nào phán cả. Bực mình, viên tù trưởng ném sách đi và lẩm bẩm: Ta bị gạt, ta đã bị gạt.
Có thể ta sẽ cười thái độ ngớ ngẩn của cả hai người, người cho cũng như kẻ nhận. Không chỉ cầm quyển sách Kinh Thánh trong tay là nghe được Lời Chúa. Người cho cũng như người nhận cần phải thực thi một vài điều kiện để giúp cho mình và kẻ khác được nghe Lời Chúa. Bài Phúc Âm của Chúa Nhật III Mùa thường niên được trích từ Phúc Âm thánh Luca, tác giả đã cẩn thận ghi lại như sau:
Kinh thánh là sách bán chạy nhất thế giới, vượt mọi kỷ lục từ xưa đến nay. Kinh thánh được ham mộ vì đó là một cuốn sách chứa đựng kho tàng Lời Chúa, chứa đựng đầy dẫy những bí quyết giúp con người sống ơn gọi làm người của mình, đứng đắn và hạnh phúc. Biết lắng nghe lời Chúa và để cho lời Chúa thấm nhập tấm lòng rồi đem ra thực hiện trong cuộc sống của mình là con người thành công trong nỗ lực sống ơn gọi làm người hạnh phúc. Cũng chính vì thế nên Mẹ Giáo Hội cống hiến Lời Chúa cho tín hữu qua các bài đọc phụng vụ mỗi ngày. Từ sau Công Đồng Vaticano II đến nay, các bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật được phân chia như sau: Hãy Ra Khơi
Chu kỳ A theo Phúc Âm thánh Matthêu.
Chu kỳ B theo Phúc Âm thánh Marcô.
Chu kỳ C theo Phúc Âm thánh Luca.
Còn Tin Mừng theo thánh Gioan thì đặc biệt dùng cho mùa Phục Sinh và mùa phụng vụ khác.
Trong số bốn thánh sử, thánh Luca là người có óc sử gia hơn cả. Trong những câu mở đầu đọan Tin Mừng hôm nay, thánh sử cho biết ngài đã sưu tầm, tra cứu kỹ lưỡng các loại tài liệu truyền miệng cũng như viết tay để viết ra sách Tin mừng.
Là người gốc Siry Antiôkia, thánh sử Luca không thuộc Do Thái giáo. Nghề bác sĩ y khoa khiến thánh sử đặc biệt chú ý đến các phép lạ chữa lành bệnh tật. Thánh sử đã từng là môn đệ của các Tông đồ, bạn đồng hành và cộng sự viên của thánh Phaolô. Vì là người ngoài Do Thái giáo theo Kitô giáo, thánh Luca chú ý viết Tin Mừng cho anh chị em không Do Thái giáo, nên hay cắt nghĩa các tập tục Do Thái để giúp họ hiểu dễ dàng hơn. Thánh sử không chủ ý viết lịch sử cuộc đời Chúa Giêsu mà chỉ kể lại chứng tích lịch sử. Chứng tích lịch sử của Thánh sử Luca nhấn mạnh đến mấy mấu điểm thần học chính yếu sau đây:
Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi cho những người ngoài Do Thái thấy con đường ơn cứu độ. Ngài thuyết giáo lưu động nhưng là hiện thân tình yêu thương Thiên Chúa có đối với loài người, đặc biệt đối với những người tội lỗi, yếu đau, bé nhỏ, bị bỏ rơi, bị khinh miệt ngoài lề xã hội, không tiếng nói, không quyền lợi, bị áp bức, chèn ép, bóc lột và đối xử tàn tệ nhất. Vì thế, ở đâu có bước chân và sự hiện diện của Ngài là ở đó bừng lên ánh sáng cứu độ, niềm an vui và tình yêu thương hòa hợp.
Chúa Giêsu cống hiến ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, không trừ một ai và ngay trong thời điểm của hiện tại, ngày hôm nay trong lúc này và ở đây. Qua Ngài, Thiên Chúa đến thăm và cứu rỗi con người, thế nên mọi người cần phải biết tỉnh thức, chăm chú lắng nghe, nhìn xem và nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu, đón nhận Ngài và sống theo Ngài, vượt qua cái chết để đạt đến cuộc sống Phục Sinh vĩnh cửu mà Thiên Chúa muốn trao ban và dành để cho con người.
Nơi phần hai của bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa thường niên chúng ta thấy thánh sử Luca nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thánh Thần Thiên Chúa trong cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu. Ngài chịu phép thanh tẩy của thánh Gioan Tiền Hô tại sông Giócđan và Thánh Thần Thiên Chúa đã hiện diện trên Chúa Giêsu trong những lúc bị cám dỗ. Thánh Thần Thiên Chúa đã hướng dẫn Chúa Giêsu và giờ đây trong bài giảng đầu tiên tại thành Nagiaréth, Chúa Giêsu cũng được tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Đây là ngày Chúa Giêsu tỏ mình ra cho những người đồng hương của Ngài khi Ngài nói: "Đoạn Sách Thánh hôm nay đã được ứng nghiệm". Chúa Giêsu muốn nói rằng, ơn cứu độc được Thiên Chúa hứa ban ngày xưa, hôm nay hiện diện trong con người của Ngài. Sự hiện diện của ơn cứu rỗi đó không theo quan niệm và tiêu chuẩn của loài người, nhưng là theo chương trình của Thiên Chúa. Ơn cứu rỗi đó nằm trên một bình diện cao cả hơn, rộng lớn hơn và sâu xa hơn. Nó không chỉ hạn hẹp trong một số người hay một dân tộc, lại càng không phải là sự giải phóng về chính trị, kinh tế, văn hóa cấp thời trần thế. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu đem lại cho con người được dành để cho tất cả mọi người tin và chấp nhận Tin Mừng của Ngài, không phân biệt giai cấp, màu da và chủng tộc.
22. Niềm vui
Trong những tuần lễ đầu của mùa thường niên. Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào những sự kiện khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca tường thuật lại sứ vụ rao giảng của Đức Kitô tại hội đường Nagiaréth, chính Đức Kitô đã công bố cho mọi người biết "niềm vui cứu độ" đã khởi sự. Vì "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh em vừa nghe".
Với lời khẳng định này, Đức Kitô chứng tỏ cho thấy Ngài chính là "niềm vui cứu độ"., mà chúng ta là những Kitô hữu đã thực sự tin và đón nhận niềm vui đó chưa? Chúng ta đã làm gì cho niềm vui ấy được triển nở trong thế giới hôm nay?
1. Đức Kitô chính là niềm vui cứu độ
Câu chuyện tư tế Esdras đã nỗ lực canh tân đời sống dân Chúa và củng cố giao ước cũ. Cũng như việc ông đứng đọc Luật Môsê trước mặt con cái Israel, trong bài đọc 1. Đó chỉ là hình ảnh báo trước việc Đức Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Chính Đức Kitô mới là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, Ngài đến để hoàn tất và kiện toàn Lề luật, bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh, Ngài thiết lập giao ước mới, giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người.
Hôm nay tại hội đường, Đức Kitô đã khẳng định Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà tiên tri Isaia đã loan báo.
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo luật ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa".
Đức Kitô đã tự giới thiệu mình là vị ngôn sứ phải đến loan báo "niềm vui cứu độ". Sự hiện diện của Ngài đã khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của năm hồng ấn cứu độ.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần đã được ban xuống ngay trong lời của Đức Kitô, nhờ Thánh Thần mà Lời đã trở thành hiện thực. Người nghèo được ưu ái, kẻ tù đầy được giải phóng, người mù được xem thấy. Những điều này rõ ràng nói lên tình yêu thương của Chúa dành cho những kẻ biết đón nhận Đức Kitô bằng một lòng tin. Đức Kitô đến tái lập trật tự và mặc cho thế giới này một khuôn mặt mới của công bình tình thương và an vui. Cho nên, việc tuyên xưng niềm tin nơi Đức Kitô là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng cứu độ, là chúng ta đón nhận chính niềm vui cứu độ ngay giữa những gì là tang thương và bi đát.
2. Đón nhận niềm vui cứu độ
Trong Tông thư "Khởi đầu thiên niên kỷ mới", Đức Gioan Phaolô II mở ra cho chúng ta một hướng đi tiến vào thiên niên kỷ mới. Đó là "Gặp gỡ Đức Kitô, chiêm ngắm Đức Kitô, bước theo Đức Kitô và làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô".
Đức Kitô đã đem "niềm vui cứu độ" đến thế gian. Ngài biến những đau buồn thành niêm vui nội giới cho chúng ta... Một niềm vui trọn hảo không gì có thể làm lu mờ đi được. Niềm vui đó không chỉ ấp ủ trong lòng mà phải được tuôn trào ra bên ngoài bằng cuộc sống đan kết bởi những việc làm lành thánh.
Như Thánh Phaolô luôn miệng nhắn nhủ tín hữu Philipphê rằng "hãy vui lên", mặc dù chính ông đang bị cầm tù và Giáo Hội đang rơi vào cảnh bị bách hại.
Để được niềm vui đích thực như Thánh Phaolô đã lãnh nhận nơi Đức Kitô. Chúng ta phải biết thay đổi cách sống bằng tình yêu thương, công bằng bác ái. Khi đó chúng ta mới thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Kitô, chiêm ngắm Ngài và bước theo Ngài bằng chính những việc làm tốt đẹp của chúng ta. Bằng không, bóng tối của tội lỗi của ích kỷ sẽ bao phủ cõi lòng, cho dù bên ngoài chúng ta vẫn tỏ ra vui cười, nhưng bên trong sẽ không có được niềm vui bình an. Vì chỉ có Chúa mới là tình yêu và là "niềm vui cứu độ" cho chúng ta, "Đức Kitô là đường là sự thật và là sự sống"... Khi chúng ta có Chúa trong lòng rồi, chính niềm vui sẽ thúc đẩy và biến đổi chúng ta trở thành những chứng nhân cho tình yêu của Đức Kitô bằng việc đem Tin Mừng Cứu độ đến với những người anh em vẫn chưa biết Chúa. Đó chính là cách chúng ta trao ban "niềm vui cứu độ" là chính Đức Kitô...
3. Trao ban niềm vui cứu độ.
Vì chỉ có một Tin Mừng Cứu độ duy nhất cho mọi người mọi thời. Đó là Đức Kitô, trong Ngài Thiên Chúa đã, đang và sẽ còn biểu lộ "niềm vui cứu độ" cho nhân loại. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần mà công cuộc cứu độ của Chúa vẫn đang sinh hoa trái trong Giáo Hội và qua Giáo Hội từ bây giờ cho đến muôn đời.
Khi chúng ta lãnh nhận các bí tích là chúng ta lãnh nhận chính Đức Kitô trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đó là hệ quả của "niềm vui cứu độ" mà chính Đức Kitô đã đem đến để giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể. Nhờ lời rao giảng và giáo huấn của Giáo hội, Đức Kitô tiếp tục thông truyền ánh sáng của Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm.
Một trong những mẫu gương mà chúng ta có thể noi theo chính là Mẹ Maria, khi vừa có trong lòng, Mẹ đã vội vã lên đường đem Chúa đến cho gia đình bà Isave. Chúng ta là những kitô hữu đã được lãnh nhận hồng ân Cứu độ trong ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta cũng phải tiếp tục đem "niềm vui cứu độ" đến cho những anh chị em vẫn chưa biết Chúa, bằng việc rao giảng Tim Mừng và qua chính đời sống thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Ước chi sứ điệp Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta chân nhận và xá tín rằng "Đức Kitô chính là niềm vui cứu độ" duy nhất, hôm qua, hôm nay và mãi mãi...Nhờ Ngài mà tâm hồn mọi người được hoan lạc va bình an, nếu biết mở lòng ra đón nhận thần lương nuôi hồn và mở đôi tay ra để trao ban niềm vui cứu độc cho những ai còn ngồi trong bóng đêm của tội lôi.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết mở lòng đón nhận "niềm vui cứu độ", để rồi niềm vui đó không ngừng triển nở trong tâm hồn chúng con. Amen.
23. Sứ mạng
Sau khi để lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Galilê. Tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Nadarét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Nadarét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người đã am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Nadarét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hômnay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đọi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vụi vừa nghe". Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được b iết, thánh Luca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều Isaia đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn sách Thánh này.Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tật. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lội. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ Isaia đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh tần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời theu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến "linh hồn". Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện,m các trại phong, trai tế bần, trại dưỡng lãi...Ai đã khai hóa cho thế giới "Man di" của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma? Chính là Giáo hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bộn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hứu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoạc xua đuổi hoặc giũ người khác lại cho Chúa Kitô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-ti hữu, chúng ta đi lễ đi nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình yêu.
24. Những bàn tay Kitô giáo
Có một câu truyện cổ tích kể về một tên cướp khét tiếng tại vùng Viễn Đông bị trọng thương và được chở đến một nhà thương của các nhà truyền giáo. Sau một vài tuần tịnh dưỡng và được săn sóc đầy đủ, tên cướp đã được phục hồi hoàn toàn. Tên cướp rất biết ơn các nhà truyền giáo và tự hứa là sẽ không bao giờ ăn cướp của bất cứ Kitô hữu nào. Lời hứa của tên cướp đã được đồn ra và hễ ai gặp tên cướp ấy đều thú rằng, "Tôi là Kitô hữu." Như thế, tên cướp đã gặp vấn đề và hắn thắc mắc làm sao biết được ai là Kitô hữu và ai không phải là Kitô hữu. Hắn đã trở lại nhà thương và hỏi các nhà truyền giáo. Các nhà truyền giáo đã nói với hắn rằng nếu ai là Kitô hữu thì tất nhiên phải biết Kinh Lạy Cha và 10 Giới Răn. Từ hôm đó, ai tự xưng với hắn là Kitô hữu thì đều phải đọc Kinh Lạy Cha và Thập Giới.
Nếu mọi người đang hiện diện nơi đây được hỏi để chứng minh đức tin của mình bằng Kinh Lạy Cha và Thập Giới, tôi không biết có bao nhiêu người sẽ thi đậu, tuy nhiên tôi cho rằng đó không hẳn là bài thi của đức tin.
Bạn có thể đọc Kinh Lạy Cha, Thập Giới, và Kinh Tin Kính, và những bài Thánh Vịnh, thậm chí cả Tám Mối Phúc Thật. Tuy nhiên, tất cả những lời kinh này không đủ để trả lời cho câu hỏi, "Bạn có phải là Kitô hữu không?" Nói như vậy có nghĩa là "Bạn có biết khuôn đúc hóa chính mình theo cuộc sống của Chúa Kitô không? Bạn có cố gắng để sống đời Kitô hữu không? Bạn có trở nên một với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu hay bạn là người xa lạ đối với Thiên Chúa?
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca kể lại cho chúng ta về cuộc cấm phòng của Chúa Giêsu trong hoang địa và bị cám dỗ do ma quỉ, Ngài "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh" (Lc 4:14-15). Chúa Giêsu bắt đầu thu hút dân chúng đến với Ngài để nghe giảng dạy. Sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu được bắt đầu bằng một cách tốt đẹp. "Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét", Thánh Luca tiếp, "là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát" (Lc 4:16). Ngài đứng trước dân chúng và đọc một đoạn sách trong sách Isaiah: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4:18).
Tất cả những con mắt trong hội đường đều tập trung vào Chúa Giêsu, như Thánh Luca đã kể lại. Thêm một lần nữa, Chúa Giêsu lại gây thêm một ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. Sau đó Ngài bắt đầu nói với dân chúng, "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe." Nói một cách khác, "Đoạn văn vừa rồi trích từ trong sách Isia thật ra là nói về tôi. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, và tôi là người được xức dầu để rao giảng cho người nghèo khổ, mùa lòa, và trả tự do cho người bị áp bức. Đi xa hơn một chút nữa trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy rằng "mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người" (Lc 4:19). Nhưng những người vừa mới khen Chúa Giêsu họ đã trở thành một đám côn đồ muốn giết chết Ngài.
Thánh Phaolô đã nhắn nhủ chúng ta rằng chúng ta phải có thái độ giống như của Chúa Kitô. Nói một cách khác, hiểu biết Chúa Kitô đem Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa đến và giải thoát cho nhân loại vẫn chưa đủ. Chúng ta còn phải biết đem Tin Mừng đó thấm nhập vào con người của mình và để cho nó sinh hoa kết quả. Qua đó, chúng ta biết cử xử làm sao với chính mình và với người khác giống như Chúa Kitô.
Thái độ này được diễn tả cách sống động qua một câu truyện nhỏ "Bàn Tay" của tác giả Sylvia Sunderlin.
Vào ngày mừng sinh nhật thứ 100 của người bố chồng, tôi quì bên bố và nắm lấy bàn tay nhợt nhạt và yếu ớt của ông. Bố chồng tôi nghiêng mình về phía tai tôi và nói nhẹ, "Con có một đôi bàn tay tuyệt vời." Những lời khen đó xem như là quá đáng. Tôi vẫn thường cảm thấy xấu hổ với bàn tay của tôi bởi vì nó xấu quá. Các khớp đốt ngón tay thì không còn xinh xắn, ngón tay cái thì bị cong sang một bên, còn ngón trỏ thì bị một cái lồi lên nữa. Nghe bố chồng tôi khen như vậy, tôi thật cảm động và chỉ còn biết thì thào, "Cám ơn bố!"
Những giây phút đó còn vang vọng trong tôi. Thỉnh thoảng, tôi nhìn bàn tay mình, và suy nghĩ rằng bố chồng mình thật hiền lành. Nhưng có lẽ ông đã nói sai... Tuy nhiên, dần dần, tôi bắt đầu quan sát bàn tay của tôi kỹ lưỡng hơn. Tôi bắt đầu khám phá ra những việc nó đang làm.
Nó đang cầm cây bút chì và kim chỉ, cái chổi và cái xẻng, cuốn sách và cây vợt tenis. Trộn bột pha bánh và đốt lên những ngọn nến sinh nhật. Các ngón tay ấn lên ấn xuống trên phím đàn dương cầm và bàn chữ, sử dụng cây cọ để vẽ và chiếc bàn ủi. Bàn tay này đã dùng để chải tóc cho con cái, gạt đi những dòng nước mắt, băng bó vết thương, và vỗ vễ những ai sầu khổ...
Rồi một ngày nọ, tôi nhìn bày tay của tôi và nhận ra chúng thật đẹp đẽ. Bố chồng tôi đã giúp cho tôi nhìn ra cái đẹp mà Thiên Chúa đã muốn tôi phải nhìn: các món quà quí giá từ Ngài, đã được ban cho tôi để phục vụ!
Thái độ của các bạn phải là thái độ của Chúa Kitô để người khác có thể nhìn thấy bàn tay của các bạn đẹp đẽ, là những bàn tay Kitô giáo, được ban tặng để phục vụ.
25. Trở về
(Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
"Đức Giêsu trở về Galilê trong quyền năng của Thánh Thần" (Lc 4:14a).
Đang khi quân Pháp đánh nhau dữ dội với quân Nga, Napôlêon được mật báo sắp có một cuộc đảo chánh tại Pháp nhằm truất phế ông ta. Tức khắc, vị tướng lừng danh khắp cõi Châu Âu vội cải trang, lén lút đem theo vài cận vệ rời khỏi cuộc chiến đang hồi ác liệt để trở về Pháp, nhằm trừng phạt bọn phản loạn và để bảo tồn ngai triều hoàng đế của mình.
Đến một con sông, đoàn người phải thuê một bác chèo đò đưa qua bờ bên kia. Đang lúc sang sông, Napôlêon buộc miệng hỏi lão chèo đò: "Ông có thấy người lính Pháp nào trốn qua khúc sông này không?" Người lái đò, một công dân Pháp, không biết trước mắt mình là hoàng đế Napôlêon đang cải trang, nên vô tình mỉa mai đáp lại: "Tôi chỉ thấy ông và những kẻ theo ông là những người lính Pháp hèn nhát trốn về ngang đây đầu tiên."
Người kể truyện không nói rõ Napôlêon, vị tướng hùng của dân tộc Pháp, kẻ chưa từng nếm mùi chiến bại đã phản ứng thế nào với lão chèo đò dám có những lời khinh thị kia, người viết chỉ kết bằng một câu chua chát: "Đây là một cuộc trở về ê chề nhất trong đời Hoàng đế."
Trước đây, mỗi khi Napôlêon với đoàn quân viễn chinh trở về là những lúc kinh thành Balê tưng bừng náo nhiệt và ngập tràn ánh sáng. Người ta tung hô, múa nhảy, ăn mừng, bởi vì hoàng đế của họ đang mang lại chiến thắng, danh dự, an bình, vinh quang cho đất nước và dân tộc. Thế nhưng, hôm nay Napôlêon đã trở về không phải cho dân hay cho nước, song là cho chính mình-cho chính ngai vàng và quyền bính của mình, mà nghe đâu đang có kẻ đe doạ lật đổ. Hậu quả, vị tướng tài đã phải nhục nhã vô cùng khi nghe câu nói châm biếm của lão chèo đò.
Biến cố trở về của Napôlêon nhắc người ta nhớ đến hình ảnh nổi loạn của dân Do thái ngày xưa trong sa mạc: giữa một cuộc chiến đang hồi ác liệt với đói khát, thiếu thốn, nắng nôi trên con đường tiến về miền đất Chúa hứa, dân Do thái đã trở lòng. Họ muốn quay lui. Họ mơ tưởng đến những nồi súp, miếng thịt, củ hành, tép tỏi bên vùng đất Ai cập, nơi họ từng phải làm nô lệ, tôi đòi. Mơ chưa đủ, họ còn nổi loạn bắt Môisen phải cho phép quay về vùng đất đó. Không tha thiết gì với vùng đất "chảy sữa và mật ong" nữa.
Thế đấy, cả Napôlêon lẫn dân Do thái xưa, tuy khác nhau ở chỗ một bên đang trên đường trở về, một bên mong mỏi và nổi loạn đòi trở về, nhưng cả hai đều có cùng một mục tiêu trần tục và phù vân như nhau. Họ điên cuồng tức giận, bỏ mặc quân lính giữa cuộc chiến đang hồi nóng bỏng để trở về với nồi khoai, nồi thịt nay đầy mai hết, với những thứ mà Thánh Phaolô cho là "việc vàn của xác thịt."
Hôm nay, Phúc Âm Luca cũng nhắc đến việc Đức Giêsu trở về (Lc 4:14). Cuộc trở về này xảy ra ngay sau một cuộc chiến ác liệt: cuộc chiến chống lại cám dỗ của quỉ ma trong sa mạc, suốt 40 ngày đêm liên tiếp.
Nhưng ngay từ khởi đầu, bài Phúc âm đã không nhắc đến việc Chúa Giêsu trở về với những gì liên quan đến xác thịt, nhưng lại nhấn mạnh: "Ngài trở về trong quyền năng của Thần khí." Chúa Giêsu đã trở về trong quyền năng của Thánh Thần vì Ngài đã chiến thắng, vượt qua cuộc cám dỗ gay go về cơm bánh, vinh quang, và uy quyền thế gian. Ngài đã trở về không cho chính mình, song là cho mọi người, những ai cần đến ơn cứu độ.
Con người gồm có xác hồn, một tổng thể của vật chất và linh thiêng, của xác thịt và thần khí. Nhưng theo lời Thánh Phaolô trong thư Galata thì xác thịt và Thần khí luôn chống lại nhau. Nếu phần xác thịt-những đam mê, ham muốn, dục vọng, vật chất-thắng thế thì phần thiêng liêng tất sẽ bị suy yếu. Song nếu phần thiêng liêng hay Thần khí trong ta thắng thế thì sẽ chế ngự được những đòi hỏi của xác thịt.
Đức Giêsu trở về trong Thần khí. Ngài không để cho phần xác thịt là những đam mê vượt thắng. Ngài không quì gối bái lạy Satan để có được một chút vinh quang, danh dự, uy quyền. Ngài không để cho cái bao tử hay đồng tiền vật chất khuất phục mình, khi cương quyết không làm đá hoá bánh, không làm điều trái nghịch với tự nhiên để thoả mãn những tham muốn hay dục vọng riêng tư.
Trái lại, đối với Đức Giêsu, mọi vinh quang, danh dự, hay sự sống đều phải qui hướng về Thiên Chúa, chứ không phải Satan hay cá nhân mình. Đây chính là tinh thần của Đức Kitô. Đây cũng chính là Thần khí mà Ngài đã có khi trở về đất Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng.
Có trở về trong Thánh Thần, tức có hướng lòng lên Thiên Chúa để vươn mình thắng vượt những tham lam, tiền bạc, bất công, và chế ngự những khát vọng uy quyền, xác thịt, danh lợi, thì mới có thể đem Tin Mừng cho người nghèo khó, mới giải phóng cho kẻ tù đày, và mới mở mắt cho người đui mù được. Còn nếu tôi cứ tự cột trói và giam hãm trong đau khổ và lo lắng thái quá về đồng tiền, của ăn, thế giá thì làm sao ta đem được Tin Mừng hay niềm vui cho người khác; có chăng chỉ là tranh chấp, gian dối, và u buồn thôi!
Người ta hay nói "đời là một cuộc trở về." Đúng lắm! Và dưới cái nhìn của con mắt đức tin, mọi người đang trở về quê trời. Đây là một cuộc trở về vinh quang cuối cùng này, tôi vẫn cần luôn những cuộc trở về nho nhỏ, hằng ngày. Rất bình thường, nhưng không kém quan trọng.
Thử hỏi có hôm nào trong cuộc sống mà tôi lại không có một chuyến trở về nào đó: trở về từ sở làm, trở về sau khi đi nhà thờ, trở về sau lúc đi chợ, đi chơi, đi học, đi nhậu, trở về sau những cuộc hẹn hò, tiệc tùng v.v.. Nhưng thử hỏi với lần trở về như vậy, tôi mang theo được điều gì? Tôi mang về bực bội, khó chịu, cay chua, nóng nảy, giận hờn, ghen tuông hay đưa về Thần khí của Đức Kitô, thứ Thần khí hoa trái là mến yêu, vui mừng, bình an, quảng đại, hiền từ, tiết độ.
Chợt giật mình tự vấn: "Không biết mỗi ngày khi về nhà, tôi có đem về niềm vui, sự sống, an bình và thoải mái cho tâm hồn tha nhân, hay vợ chồng con cái của mình chăng?"
Cách nay không lâu, trên tờ báo Catholic Register người ta học thấy có câu chuyện "Trở Về" rất đáng suy tư. Số là anh Jim O'Donnell, một công dân Hoa kỳ 36 tuổi đang làm việc tại Luân Đôn, Anh quốc, cho một nhóm các ngân hàng của Hồng Kông và Shangai. Jim O'Donnell đã gây sửng sốt cho giới doanh thương Hồng Kông, Luân Đôn và cả New York khi tuyên bố rằng anh sẽ về nước, nghỉ việc, mặc dầu khi ấy các ngân hàng vừa tăng lương cho anh với số tiền là 1.650.000 đôla một năm.
Nhiều người thắc mắc tại sao anh Jim không tiếp tục công việc để hưởng số lương bổng mà không ít kẻ nằm mơ cũng chưa thấy được số lẻ của nó. Bạn có biết lý do anh trở về nước không?
Rất lạ! Anh về nước là để cho kịp niên học tại một chủng viện vào mùa Thu 98. Anh muốn đi học để trở thành linh mục. Đúng là anh trở về với tâm hồn của Đức Kitô, với Thần khí của Thiên Chúa, với tinh thần hy sinh những gì thuộc về xác thịt, quyền lợi, sở thích riêng tư, để thực hiện một ước vọng mới là mang Tin mừng, niềm vui và sự sống chân lý cho muôn người.
Xin Chúa cũng ban cho bạn trong những lần trở về với gia đình, cộng đoàn, có được chính Thần khí của Đức Kitô tác động và dẫn lối.
26. Đức Giêsu tại Nadarét
(Lm. PX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tác giả Lc đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại các chặng của TM Mc.
Lc đặt phần 1 của Tin Mừng dưới dấu chỉ là việc mạc khải của Đức Giêsu tại Nadarét; các hoạt động đầu tiên của Người tại Caphácnaum và Galilê đến tiếp vào (Lc 4,14-5,16). Bên trong đoạn này, tác giả bố trí các hoạt cảnh theo nhiều cách: ngài cố tình nêu bật Galilê. Hơn các tác giả Nhất Lãm khác, ngài nhấn mạnh việc Đức Giêsu trở về miền Galilê "trong quyền năng Thánh Thần" (4,14). Ở 4,44, ngài thay thế Galilê bằng Giuđê, nhưng để nói về toàn lãnh thổ của người Do Thái ; đứng đầu các thành phố và làng mạc được loan báo Tin Mừng, ngài đặt Nadarét (4,16); tại Galilê, nơi có vai trò quan trọng là Caphácnaum (4,31 ; 7,1).
Vậy, chỉ có miền Galilê nằm trong nhãn quan của Lc ở đoạn này. Chuyển động không nằm trong việc thay đổi nơi chốn, nhưng trong việc rao giảng về Nước Trời: Bằng việc hoán chuyển vị trí của câu truyện Nadarét, Lc cho thấy rằng con người và sứ mạng của Đức Giêsu mới là ưu tiên (Lc 4,13-30 = Mc 6,1-10; Mt 13,53-58).
2.- Bố cục
Sách Bài đọc gộp vào đây hai bản văn xa nhau ba chương trong TM Lc. Khó mà thấy được ý hướng của sự ghép nối này; có lẽ các chuyên viên Phụng vụ chỉ muốn nối với nhau hai bản văn "mở đầu": mở đầu Tin Mừng theo Lc (1,1-4) và khởi đầu việc rao giảng của Đức Giêsu tại Nadarét (4,14tt).
Bản văn Phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu Tin Mừng (1,1-4);
2) Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15);
3) Thăm viếng Nadarét (4,16-21):
a) Thăm viếng hội đường Nadarét (c. 16),
b) Đọc Kinh Thánh (cc. 17-20),
c) Giảng dạy (c. 21).
3.- Vài điểm chú giải
- Nadarét (16): chính xác là Nadara. Đây là lần duy nhất tác giả Lc gọi quê hương Đức Giêsu bằng cái tên A-ram Nadara (tương tự Mt 4,13), nhưng lại không gọi là "quê hương/quê quán" của Đức Giêsu (khác với Mc 6,1 và Mt 13,54): có lẽ bởi vì Đức Giêsu không sinh ra tại đó (2,4-7), nhất là bởi vì đối với Lc, "quê hương" của Đức Giêsu là toàn thể đất Israel (x. cc. 24-27).
- đứng lên đọc Sách Thánh (16): Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu giảng dạy dựa trên Kinh Thánh. Ta có thể hiểu ngầm rằng ở đây Đức Giêsu đã được ông trưởng hội đường (archisynagôgos) mời đọc và trình bày mộtbản văn Kinh Thánh (như Phaolô và Banaba ở Antiôkhia miền Pisiđia; x. Cv 13,15). Tại Paléttina vào thế kỷ đầu tiên, việc cử hành ngày sabát tại hội đường dường như gồm có việc hát một thánh vịnh, đọc kinh Shema (Đnl 6,4-9; 11,13-21; Ds 15,37-41) và tơphillâh [lời cầu khẩn] (hoặc shơmôneh esrêh = "Mười Tám [lời chúc lành]" và đọc một seder (quyển nghi thức) hay một pârâshâh trích từ tôrah (Lề Luật = Ngũ Thư) và mộtđoạn các Ngôn sứ (haptârâh; x. Cv 13,15). Sau đó là bài diễn giải các bản văn Kinh Thánh đã đọc. Cuộc cử hành chấm dứt bằng lời chúc lành của ông trưởng hội đường và lời chúc lành tư tế (x. Ds 6,24-26).
Tác giả Lc không nhắc đến bài đọc Tôrah, nhưng phải hiểu là có. Ngài chỉ quan tâm hơn đến việc ứng nghiệm các lời sấm Đệ II Isaia và cách sử dụng Cựu Ước theo quan điểm Kitô học.
- cuốn sách ngôn sứ Isaia (17): Người ta yêu cầu Đức Giêsu đọc mộtđoạn Ngôn sứ bằng tiếng Hípri. Tác giả không nói đến Targum, tức dịch bản Hípri ra tiếng Aram, nhưng có thể giả thiết là có, vì vào lúc ấy, người Do Thái dùng tiếng Aram chứ không còn hiểu tiếng Hípri nữa. Sự kiện người ta "trao cho" Đức Giêsu cuốn sách Isaia cho hiểu rằng người ta quy định phải đọc một đoạn văn Isaia, tức là có mộtchu kỳ các bài đọc Ngôn sứ cũng như các bài đọc Lề Luật. Nhưng dường như người đọc có thể chọn (x. câu 17b).
- Thần Khí Chúa ngự trên tôi (18): Bản văn trích Đệ II Isaia trong Lc là mộtđoạn tổng hợp Is 61,1a.b.d; 58,6d; 61,2a. Hai câu bị bỏ là Is 61,1c ở cuối Lc 4,18 ("băng bó những tấm lòng tan nát") và Is 61,2b ở cuối Lc 4,19 ("một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta"). Bỏ Is 61,1c thì không có hậu quả gì đáng kể, nhưng bỏ Is 61,2b là cố tình bỏ đi mộtphương diện tiêu cực của sứ điệp II Is.
- vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi (18): Bản văn cho thấy là chính Thiên Chúa đã cử Thánh Thần xuống trên Đấng Mêsia như mộtchất dầu xức cho Đấng Mêsia, hầu Người lên đường thi hành sứ mạng cứu thế.
- để tôi loan báo Tin Mừng (18): Bản văn Is Hy Lạp không rõ là "để loan báo Tin Mừng" là mục tiêu của "Chúa đã xức dầu" hay là mục tiêu của "Người đã sai tôi". Giáo sư Fitzmyer dịch theo bản gốc Hípri, "he has sent me to preach good news to the poor" (dịch sát là "to announce good news to the poor he sent me").
- người giúp việc hội đường (20): Ngoài ông trưởng hội đường (archisynagôgos), còn có các nhân viên là "các kỳ mục" (prebyteroi, Lc 7,3) và "các người giúp việc" ("người cán sự", NTT) (hypêretês, Cv 13,5) giống như "ông từ nhà thờ, người phụ trách phòng thánh".
- ngồi xuống (20): Khi đọc Kinh Thánh, người ta đứng; còn khi trình bày ý nghĩa bản văn (logos paraklêseôs, Cv 13,15), người ta ngồi.
- chăm chú nhìn Người (20): Động từ atenizein là động từ Lc ưa chuộng (x. Lc 22,56; Cv 1,10; 3,4.12; 6,15; 7,55; 10,4; 11,6; 13,9; 14,9; 23,1). Thường động từ này diễn tả sự trân trọng và tin tưởng (là điểm của bản văn này).
- Hôm nay (21; HL. sêmeron, x. 2,11 [Giáng sinh]; 3,22 [phép Rửa]; 4,21; 5,26 [người bại liệt]; 13,32-33; 19,5.9 [Dakêu]; 23,43 [người trộm lành]): Đây là từ ngữ quan trọng của Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26; 19,9).
- đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh (21): Kiểu nói này tương ứng với kiểu nói "thời kỳ đã mãn của Mc 1,15. Hôm nay, niềm an ủi cho Sion lại được gửi đến cho dân Thiên Chúa (x. Lc 2,25; 7,22).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu Tin Mừng (1,1-4)
Lời mở này phù hợp với quy tắc viết thời tác giả Lc. Qua đoạn văn ngắn ngủi này, chúng ta biết về phương pháp làm việc của tác giả. Hôm nay chúng ta thừa kế vốn hiểu biết về Đức Giêsu từ bao thế hệ. Các thông tin được những con người có lương tâm đánh giá, cân nhắc rồi viết ra. Như thế, đức tin chúng ta không dựa trên những chuyện hoang đường hoặc những chuyện ngụ ngôn do tưởng tượng, nhưng chủ yếu dựa trên các sự kiện lịch sử được đảm bảo bởi các chứng nhân thà đổ máu ra chứ không chịu phủ nhận các sự kiện ấy.
* Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15)
Trong khi các TMNL liên kết khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu với việc Gioan Tẩy Giả bị tù (Mc 1,14; Mt 4,12), Lc lại bắt đầu Tin Mừng của ngài bằng mộttóm tắt; còn chuyện Gioan bị tù đã được ngài đưa lên phía trước (3,19-20). Đoạn tóm tắt này cho mộtcái nhìn tổng quát trên sứ vụ của Đức Giêsu tại Galilê (những tóm tắt: 4,31-32.40-41; 6,17-19; 8,1-3; 19,47-48; 21,37-38). Tuy đoạn tóm này không nhắc tới nội dung lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa hay lời lêu gọi hoán cải, bản văn vẫn chứa ba nét đặc trưng của Lc: (a) Một leitmotiv là "quyền năng Thần Khí" (c. 14). (b) Hoạt động của Đức Giêsu được mô tả trước tiên như mộtviệc "giảng dạy" (c. 15); ta hiểu Đức Giêsu "giảng dạy" dưới quyền năng Thần Khí. (c) Tính phổ quát vẫn được Lc nhấn mạnh nơi câu "được mọi người tôn vinh".
* Thăm viếng Nadarét (4,16-21)
Sau đó, Đức Giêsu "đến Nadara, là nơi Người sinh trưởng". Theo thói quen, Người đi vào hội đường ngày sabát. Qua vài câu đó, Lc nhắc lại những gì ngài đã kể thuộc thời thơ ấu của Đức Giêsu (x. 2,39-40.51-52). Thành này được ngài gọi mộtlần duy nhất ở đây là Nadara, nhưng không được gọi là "quê hương" của Đức Giêsu, có thể vì Đức Giêsu không chào đời tại đây, hoặc đúng hơn, bởi vì ngài coi cả đất Israel là "quê hương" Đức Giêsu (x. cc. 24-27). Trong cuộc cử hành, Người đứng lên để đọc Sách Thánh (c. 16). Theo tập tục, Người đứng lên sau bài đọc Lề Luật (Ngũ Thư) để đọc mộtđoạn sách các Ngôn sứ. Dường như vào thời Đức Giêsu, người ta không quy định rõ mộtchương trình đọc các bản văn Ngôn sứ. Do đó, Đức Giêsu đã chọn đọc Is 61. Bản văn được Lc ghi lại là Is 61,1-2 theo Bản LXX, với một vài sửa đổi.
Đối với các thính giả của Đức Giêsu, bản văn này là lời của mộtngôn sứ, mà họ có thể nói là Người Tôi tớ Đức Chúa với bốn Bài ca trứ danh (Is 42,1-7 có những gặp gỡ rất gần với Is 61,1). Ngài loan báo mộtnăm hồng ân có thể so sánh với năm đại xá theo luật Môsê (Lv 25,8-17), nhưng ở đây không phải là con người nhưng chính Thiên Chúa sẽ can thiệp với ân sủng của Ngài. Còn tự do mà Ngài loan báo không phải là việc tha hoàn toàn các món nợ giữa người Do Thái với nhau, mà là mộtơn cứu độ tuyệt vời thuộc về thời cánh chung, cũng có thể gọi là Nước Thiên Chúa, mộtthời đại được nồng nhiệt chờ mong.
Nghe đọc đoạn sách ấy, niềm hy vọng bùng lên trong các con tim, và tất cả các thính giả của Đức Giêsu chờ đợi bài giảng minh giải bản văn đầy hứa hẹn ấy.
"Người bắt đầu nói với họ: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe»" (4,21). Qua câu này, Đức Giêsu cho thấy chiều hướng của bài giảng của Người. Người sẽ hiện tại hóa nơi bản thân Người nội dung của lời sấm Người vừa đọc. Khi làm như thế, Người đã xử sự như ngôn sứ.
Từ ngữ đầu tiên rất hệ trọng: sự hiện diện của Đức Giêsu chính là mộtgiai đoạn độc đáo trong thời gian cứu độ, được diễn tả bằng "hôm nay". Đức Giêsu áp dụng sấm ngôn Is cho chính mình. Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lấy Thánh Thần như mộtviệc xức dầu đã đưa lại cho Người phận vụ thánh thiêng là làm Đấng Mêsia. Nhưng Người không phải là mộtMêsia như mộtvị vua trần thế; để tránh hiểu lầm, Đức Giêsu không xác định công khai Người là Đấng Mêsia (x. 4,41) và chỉ mạc khải như thế cho riêng các môn đệ (9,18-21). Tại Nadarét, vào lúc bắt đầu sức mạng, Người chỉ nhận mình là như vị ngôn sứ mang Tin Mừng cứu độ. Bản văn Is có lẽ đã cung cấp cho Người dung mạo Người Tôi Tớ của Đức Chúa (Yhwh), và chắc chắn các đề tài cốt yếu của Tin Mừng của Người: ưu tiên cho người nghèo, giải phóng những kẻ bị giam cầm và những người bị áp bức, cho người mù được thấy. Những từ ngữ này cho thấy Đức Giêsu chiếu cố đến những người thấp hèn. Nhưng các từ ngữ này còn cho thấy rõ hơn nữa các đòi hỏi và các ân huệ của Người: kêu gọi làm tâm hồn nghèo hèn, hứa ban sự giải phóng cho những người tội lỗi đang bị sự dữ khống chế, ban khả năng nhìn cho những ai sẽ đi đến với với đức tin (trong cách giải thích cái nhìn theo nghĩa "thiêng liêng" này, Đức Giêsu trung thành với tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2, vị ngôn sứ vừa công bố mộtnăm hồng ân, vừa loan báo ngày báo phục; đây là đề tài truyền thống của các ngôn sứ liên quan đến Ngày của Đức Chúa, mộtngày vừa là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Đức Giêsu không nói đến phán xét. Thật ra sau này Người có ám chỉ nhiều đến phán xét (x. Lc 6,20-26; 9,26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,1-2; 17,22-37; 18,8; 19,11-27), còn ở đây Người chỉ nhìn đến đến sứ mạng trần thế của Người, là "thời gian" ơn cứu độ được ban cho Israel; chính thời gian này được Người gọi là "năm hồng ân của Đức Chúa", thời gian Thiên Chúa chiếu cố đến dân. Nói tóm, tư tưởng của Đức Giêsu ở đây trong Tin Mừng Lc giống với lời Đức Giêsu loan báo trong Mc 1,15 và Mt 4,17, "Nước Trời đã đến gần", người ta có thể đi vào Nước Thiên Chúa nhờ sứ mạng của Đức Giêsu. Tuy nhiên, công thức của Lc chính xác hơn: nó phân biệt thời gian hoạt động của Đức Giêsu và thời gian hoàn tất cánh chung; nó xác định chính xác hơn vai trò của Đức Giêsu, các ân huệ và các đòi hỏi của Người.
Tác giả Lc biết rõ là trước sự cố Nadarét này, Đức Giêsu đã hoạt động ở Caphácnaum và ngài cũng cho biết như thế (4,14-15; 4,23; x. Cv 1,8). Nhưng ngài vẫn muốn đặt truyện này vào ngày khai mạc công việc rao giảng của Đức Giêsu và cho thấy chính Đức Giêsu xác định sứ mạng của Người ngay đầu Tin Mừng. Câu truyện đã xảy ra trong mộthội đường: đó là phương pháp của Đức Giêsu (4,15.33.44; 6,6; 13,10); đó cũng là cách thực hành của các nhà truyền giáo trong các xứ sở ngoại giáo (Cv 9,20; 13,3.14.44; 14,1; 17,1.10.17; 18,4.7.19; 19,8). Tác giả muốn cho thấy rằng sứ điệp cứu độ được bao giờ cũng được ngỏ với người Do Thái trước khởi đi từ Kinh Thánh và trong hành vi phụng tự: Tân Ước hoàn tất Cựu Ước.
+ Kết luận
Qua bản văn Lc, ta thấy Đức Giêsu giới thiệu chương trình hoạt động của Người: Người là Đấng Mêsia được giới thiệu ở phép rửa nay xuất hiện trước công chúng như là vị ngôn sứ có quyền năng Thánh Thần; Người sẽ ưu tiên ngỏ lời với những người nghèo, những người chịu đau khổ, những người bị áp bức; Người mang đến cho họ sự giải phóng thiêng liêng, cho họ thấy chương trình của Thiên Chúa. Đối với Israel, sứ mạng trần thế của Người là thời gian ân sủng, mà họ phải tận dụng "hôm nay". Nay không còn phải là những con người được tha các món nợ và tìm lại được tự do dân sự. Nay chính là Đức Chúa (Yhwh), thân hành đến nơi bản thân Đấng được xức dầu của Ngài, để tha nợ cho nhân loại và giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ sự dữ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sự kiện Kitô giáo chủ yếu dựa trên can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cho thấy Kitô giáo khác mọi tôn giáo khác. Thiên Chúa chúng ta là mộtThiên Chúa của các sự kiện, những sự kiện thực hữu; Ngài không phải là mộtthần tượng hoặc mộttư tưởng thuần túy. Vị Thiên Chúa này lại rất quan tâm đến con người đến độ đi vào trong lịch sử cụ thể của con người. Chính vị Thiên Chúa này hôm nay vẫn đang kêu gọi chúng ta qua Đức Giêsu, con người cụ thể làng Nadarét.
2. Ngay từ đầu, Đức Giêsu liên kết hoạt động của Người với Kinh Thánh, với Lời Chúa. Người khẳng định mạnh mẽ rằng nhờ Người, Thiên Chúa hoàn tất các lời Ngài đã hứa. Như thế, ngay từ đầu đã có câu trả lời về uy quyền của Đức Giêsu, nghĩa là về quyền bính đang đứng đàng sau Người: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi". Đức Giêsu có sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Người cũng khẳng định rằng Thiên Chúa đã sai phái Người. Lời khẳng định này có giá trị cho Người hơn là cho bất cứ ngôn sứ nào, bởi vì Người phát xuất trực tiếp từ Thiên Chúa trong tư cách là Con Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa nói và hành động qua Người, toàn thể công trình của Người là công trình cứu độ và phải được đón tiếp với lòng biết ơn và lòng tin.
3. Tại sao lại có hoàn cảnh của những người nghèo, những người đói khát, những người bị hành hạ, những người đau ốm, tuyệt vọng và mọi kẻ thất thế và phải gánh chịu một số phận gian khổ? Họ không may, trong khi những người khác được may mắn? Có thể có chăng cho họ việc thay đổi số phận, hay là họ cứ phải cam chịu như thế? Phải chăng Thiên Chúa muốn như thế? Đức Giêsu đã loan báo sứ điệp của Người cho những con người như thế. Thiên Chúa không hất hủi họ. Thiên Chúa ở về phía họ và chiếu cố đến họ. Thật ra sứ điệp của Đức Giêsu không phải là mộtchương trình cải cách xã hội. Người không cổ võ việc phân chia đồng đều các của cải. Sứ điệp của Người hướng niềm hy vọng của người nghèo không vào của cải vật chất, nhưng vào Thiên Chúa.
4. Tuy nhiên, chúng ta phải ra sức loại trừ các hoàn cảnh túng quẫn và bất công. Niềm hy vọng Đức Giêsu mang lại không phải là mộtngày nào đó, loài người sẽ đạt tới chỗ loại từ mọi túng quẫn và có thể thiết lập công lý bình đẳng. Sứ điệp của Ngài nói rằng Thiên Chúa sẽ ban cho người nghèo ơn cứu độ trọn vẹn. Đàng khác, chỉ nguyên việc là người nghèo, người sa cơ thất thế, không phải là đã đủ. Một người nghèo mà đặt hết niềm cậy trông nơi của cải trần thế thì vẫn đang lạc đường. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Hội Thánh và nhờ Hội Thánh. Người cứu thế qua các bí tích. Người đến với con người qua các thừa tác viên và qua tất cả các Kitô hữu đã hưởng nhờ hoạt động từ bi thương xót của Người. Chúng ta phải nối dài hoạt động của Đức Kitô ra, bằng cách gieo rắc niềm vui và ánh sáng, thoa dịu các nỗi khốn cùng về thể lý và tinh thần, giải thoát người ta khỏi những nỗi lo sợ khiến tê liệt, đưa người rta ra khỏi sự dốt nát, nâng đỡ người sống trong cô đơn, chế giảm các nỗi hiềm khích...
27. Chú giải của R. Gutzwiller
LỜI TỰA CỦA THÁNH KÝ.
Lời mở đầu Tin mừng của Thánh Luca đưa ra ánh sáng hai ý niệm quan trọng:
1. Tin mừng muốn chuyển đạt một sự xác thực. Điều này được nói rõ như là mục đích riêng của Tin mừng. Sự xác thực này dựa trên những yếu tố khác biệt nhưng trước hết dựa trên chính nội dung của Tin mừng. Tin mừng trước hết không phải là một giáo thuyết, nghĩa là không phải là một kiến trúc trí thức, cũng chẳng phải là một bộ luật với những giới luật và cấm đoán, hay là một vòng hoa gồm những chuyện thần tiên mà một thế hệ sau đã thêu dệt lên chung quanh con người Giêsu; hơn thế Tin mừng càng không phải là một huyền thoại, nói khác đi, là một tư tưởng viết lên thành kịch. Trái lại, trong Tin mừng, các sự kiện thực sự đã được kể lại. Lòng đạo đức đích thực phải khách quan, xây trên những thực tại.
Thiên Chúa là nguyên nhân đầu tiên, và việc Ngài đến trong thế gian này là một việc lớn lao nhất, chính yếu nhất trong các chân lý. Ở đây phát sinh một sự kiện hiển nhiên, có thể sờ thấy đuợc, nhờ đó mà tất cả mọi hoạt động của nhân loại và tất cả các sự vật khác có được một giá trị và một ý nghĩa mới mẻ. Đó là những sự kiện cụ thể mà Tin mừng kể lại.
Tiếp đến là chủ ý nói tới những biến cố xảy ra giữa chúng ta, 'trong môi trường của chúng ta'. Thánh Luca không phải như là một sử gia cố gắng tái lập những biến cố cổ xưa từ nhiều thế kỷ nhờ vào các nguồn mạch. Ngài viết trong chính miền mà những sự việc đã xẩy ra và thuộc về thế hệ chứng nhân của những việc đó.
Những nguồn mạch Ngài múc ra bảo đảm được sự đích thực. Ngài không trực tiếp là Tông đồ hay môn đệ của Đức Giêsu. Ngài cũng chẳng hề được diện kiến Thày hay nghe chính lời Thày. Nhưng những cái Ngài biết, dựa vào những chứng nhân tận mặt, họ làm chứng về những cái họ đã chứng kiến, mà không phải chỉ là đứng ngoài nhìn, nhưng còn được tham gia việc phục vụ Lời Chúa nữa. Nhiệm vụ chính của họ là truyền đạt Tin mừng và tất cả hoạt động của họ đều nhằm vào viễn tượng này. Họ không nói lại lời nào khác mà trao lại 'lời', trao lại 'những lời của Ngôi Lời', những ngôn từ thần linh nhân loại của Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể.
Thánh Luca đã dùng đến nhiều nguồn khác nhau. Ngoài những bản văn chính lục của Matthêu và Máccô, Ngài còn sử dụng những nguồn khác và hơn thế, Ngài đã dùng một số lớn những bằng chứng khẩu truyền. Một khi biết được sự chính xác của trí nhớ người Phương đông cổ xưa, người ta sẽ hiểu được những chuyện kể truyền khẩu được quy định nhanh chóng trong một hình thức cố định được truyền lại hết sức là chính xác.
Cuối cùng, chính Thánh Luca là con người được coi là chắc chắn. Ngài chú trọng đến tất cả những gì được cung cấp từ nguồn ngọn, Ngài không phải là con người dễ tin và nhẹ dạ: là người Hy lạp và là thày thuốc, Ngài là một quan sát viên biết cân nhắc, có tài đánh giá thực tại, không ưa những chuyện mơ mộng và huyền hoặc. Ngài không hài lòng với việc chỉ nhắc lại cái chính yếu thôi, nhưng nhấn mạnh tới các nguồn mạch. Tin mừng của Thánh Luca không bắt đầu như Thánh Máccô bằng cuộc đời công khai của của Chúa Giêsu. Nhưng hơn ai hết, Ngài thuật lại với nhiều chi tiết, những khởi đầu của một sứ điệp lạ lùng: truyền tin, giáng sinh và hơn thế nữa sự mong đợi và sinh nhật của Vị Tiền hô.
Cuối cùng, Ngài quyết định 'cứ tuần tự' kể lại các biến cố, không phải kéo dài từ đầu chí cuối mà sắp xếp theo một lược đồ rõ rệt, một tổng hợp gồm nhiều yếu tố được thích ứng một cách rành mạch, hợp lý.
Như vậy, dưới cái nhìn thế trần, Tin mừng theo Thánh Luca đã làm thành một văn phẩm chính xác. Còn với các tín hữu, chúng ta chỉ biết dưới những lời này Thần Khí Thiên Chúa, Đấng linh ứng cho tác giả Tin mừng, tuy dấu mình, chính Thần khí này là tác giả thực sự của Tin mừng, Đấng ban cho chúng ta niềm chính xác hoàn toàn do sự thật bất-khả-ngộ.
2. Cùng với mục đích của nó, lời tựa này còn cho chúng ta thấy ít nhiều đặc tính cá biệt của Tin mừng. Tác giả là người Hy lạp và là một y sĩ. Hai sự việc này có tầm mức quan trọng đặc biệt: là thày thuốc, Thánh Luca đã chú trọng rất nhiều tới tác động cứu độ và chữa trị của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài đã học lại cho chúng ta cách dồi dào những cử chỉ giúp đỡ và chưã lành bệnh nhân thể xác, khuyên nhủ và thứ tha bệnh nhân tinh thần, những tội nhân.
Vậy hình ảnh Đức Kitô đây mới là dung mạo của Đấng Cứu đời đích thực. Đức Giêsu chữa cả xác lẫn hồn. Qua các cuộc tranh luận, chiến đấu hay qua đau khổ, tử nạn và sống lại hoặc qua sự thảm bại hay chiến thắng, tất cả đều được biến đổi dưới sự từ tâm sáng ngời đầy nhân đạo và lòng bác aí của Ngài.
Thánh Luca không phải là một dân thường như Thánh Máccô hay một nhà tranh luận học thức như Thánh Matthêu, hoặc một thần học gia và một nhà thần bí như Thánh Gioan, nhưng là một y sĩ, hiểu được nỗi thống khổ của con người và sự trợ giúp của Thiên Chúa, hiểu được bệnh tật và việc chữa trị được tội lỗi và ơn tha thứ.
Thánh Luca là người Hy lạp, là dân ngoại chứ không phải là Do thái. Vì thế sứ điệp của Ngài đã làm nổ tung những khuôn khổ chật hẹp của người Do thái. Cái nhìn của Ngài bao gồm cả nhân loại, chân trời của Ngài rộng như vũ trụ. Ngài nhấn mạnh tới yếu tố mới mà Chúa Giêsu đem đến, đó là Tân ước và việc tạo dựng một dân mới của Thiên Chúa; Lời mời gọi được trao đến tất cả mọi người như đã âm vang tới cả hoàn vũ, đến nỗi Giáo Hội phổ quát trở thành công việc của Đấng cứu độ toàn cầu.
Lời tựa ngắn gọn và trọng yếu này thực sự sửa soạn cho yếu tố cấu thành nên mục đích và nguồn gốc của Tin mừng theo Thánh Luca. Vì thế nó cho thấy nơi tác giả thái độ trí thức xứng hợp và việc chuẩn bị nội tâm.
Chúa Giêsu tới, đòi hỏi một sự thay đổi toàn bộ cả bên ngoài lẫn bên trong.. Con người sẵn sàng đáp ứng đòi hỏi đó nếu nó dựa trên sự chính xác và mở rộng ra được những viễn tượng lớn lao và rộng rãi. Mục đích, đặc tính của Tin mừng Luca đã bảo đảm được cả hai điểm đó.
TRỞ VỀ GALILÊ
Trước khi thuật lại một giai đoạn quan trọng trong việc giảng Tin mừng ở Galilêa, Thánh Luca đã viết một dấu nhập nhắn làm nổi bật tất cả hành năng của Chúa Giêsu trong giai đoạn này.
'Chúa Giêsu trở về Galilêa'. Điều này tự nó không hiển nhiên. Hoạt động có tính cách chờ mong Đấng Messia đã được Gioan Tẩy giả mở đầu ở xứ Giuđêa; như vậy, khởi đầu công cuộc giảng Tin mừng ở đó hợp lý biết bao.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn được chuẩn bị để đi vào xứ này bằng bao biến cố xảy ra bên bờ sông Giođan, vì xứ Giuđêa với thủ phủ là Giêrusalem, quê hương riêng của dân Thiên Chúa. Chính ở đây có đền thờ, ở đây các lễ hy sinh được dâng tiến và muôn dân tuôn về đó, ở đây người ta thấy có giai cấp tư tế, các trường phaí bác học và rồi truyền thống các tiên tri cũng được lưu giữ ở đây.
Thế nhưng, trái với sự mong chờ, Chúa Giêsu lại trở về Galilêa. Sau này, Ngài mới lên Giuđêa, ở đó Ngài sẽ đương đầu với các thù địch, sẽ hiến mạng sống mình làm lễ hy sinh và kết thúc công trình cứu độ của Ngài. Nhưng giờ ấy chưa đến.
Trước hết, Ngài muốn thư thả để tiếp tục loan báo Nước Thiên Chúa, đặt nền móng cho Giáo Hội, thu họp những người tin. Ngài thấy xứ Galilêa có số dân chúng sẵn sàng hơn. Nước Thiên Chúa là một hồng ân: vì thế, những người quyền cao chức trọng, những người giàu có, những đầu óc kiêu căng không thể chấp nhận được. Họ ngỡ rằng mình có thể giúp mình được rồi; kẻ tự tin ở sức riêng mình đâu có hy vọng nơi Đấng Cứu Chuộc. Kẻ câỵ dựa vào sức lực riêng mình, thì không biết chuẩn bị để đón nhận ơn sủng.
Từ đây, những nét chính trong bố cục Tin mừng của Thánh Luca đã lộ ra. Xứ Galilêa là điểm khởi hành. Những phân chia chính yếu trong cuốn sách Thánh này được sắp xếp theo những nơi chốn địa dư: phần thứ nhất diễn biến trong xứ Galilêa, phần thứ hai trên đường từ Galilêa đến Giuđêa, phần thứ ba ở ngay trong xứ Giuđêa.
Bên trong hai miền trên, Thánh Luca xen lẫn và phối trí theo một mức độ nào đó, một loạt các biến cố theo thứ tự niên biểu, nhưng chỉ phác hoạ những nét chính, vì đó bao giờ cũng là sự liên tục có tính cách luân lý hơn là vấn đề niên biểu.
'Trong quyền năng của Thánh Thần. Cũng một Thần trí đã đưa dẫn Chúa vào chốn cô tịch, bây giờ lại đưa dẫn Ngài đến giữa loài người. Điều này có ý nói Chúa Giêsu hoàn toàn để cho Thần trí hướng dẫn.
Ai muốn hướng dẫn đời mình chỉ bằng những ý tưởng của riêng mình, và tin tưởng ở cảm hứng của mình thì sẽ không tìm được vị thế đúng đắn của mình trong trật tự cao sang và thánh thiện của Thiên Chúa. Còn người nào biết cầu nguyện, mở cửa lòng mình đón nhận những sự trên cao, hẳn được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, dầu trong cảnh tĩnh mịch hay giữa lòng đại chúng. Chúng ta đã đánh mất tâm tình sẵn sàng để được dẫn dắt như thế, đó là căn cớ của mọi hỗn độn, vô trật tự.
Thánh Thần Thiên Chúa đồng thời cũng tượng trưng cho mầu nhiệm riêng tư thâm tình nhất của Chúa Giêsu. Ngài hoàn toàn thấu suốt bí nhiệm đó, hành động và quyết định của Ngài.
Tin mừng nói về sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Những lời giảng mạnh mẽ của Chúa Giêsu, sức mạnh của các phép lạ Ngài làm hết thảy đều phát xuất từ nguồn phong phú mãnh liệt là Thánh Thần Thiên Chúa. Từ ngữ Hy lạp 'dunamis' gồm có ý tưởng chuyển động. Ở đâu Thần trí Chúa hoạt động, ở đó hẳn sẽ có chuyện lạ. Đây không phải là sự yên nghỉ suông, mà là một hoạt động đang trên đường đi đến hiện thực.
Những khả năng thực hiện việc lớn, khả năng sáng tạo của Thánh nhân không thể đem đồng hoá với hoạt động bên ngoài; đó là một năng động, một năng động tính thực sự, kín múc từ trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhiều vị thánh nhân xác yếu đuối, dễ bị bệnh tật, thế nhưng sức làm việc của các Ngài chưa chắc người khoẻ mạnh cường tráng có thể theo đuợc. Sức mạnh của các Ngài là sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng muốn làm những việc vĩ đại bằng những công cụ mỏng dòn.
'Tiếng tăm Ngài lan ra khắp miền xung quanh'. Vẻ tĩnh mịch của làng Nagiarét, sự cô tịch của vùng hoang địa từ nay thuộc về quá khứ. Chúa Giêsu đã xuất hiện giữa con người. Sứ điệp của Ngài không còn chi bí mật cả: tiên vàn lời kêu gọi được chuyển từ làng này qua làng kia, sau được truyền từ xứ này qua xứ nọ và rồi từ dân này tới dân khác.
Viên đá được ném xuống mặt hồ: những gợn sóng, những vòng đồng tâm cứ lan rộng cho đến khi đụng vào ngưỡng cửa của vĩnh cửu. Một âm điệu mới đã vang lên và sẽ chẳng bao giờ ngưng đọng nữa dù là trong thời gian, dù là trong thế giới bên kia.
Sự lan tràn của Tin mừng này ngay từ khởi đầu, công cuộc giảng phúc âm ở Galilêa đã mang lại cho lần xuất hiện đầu tiên của Chúa Giêsu trước quần chúng một tính chất mạnh mẽ vô địch, một vẻ tươi mát của mùa xuân, của giọt sương mai và niềm vui khi hừng đông xuất đầu lộ diện. Một đàng người ta cảm thấy có sự trao ban, một đàng là sự đón tiếp đầy nhiệt tình hoan hỷ. Những dân cư khiêm tốn, quê mùa, những ngư phủ mộc mạc tỏ ra rất sung sướng vì có một vị tiên tri xuất hiện giữa họ, xuất thân từ giai cấp họ; một người hiểu được họ, biết được nếp sinh hoạt của họ, chia sẻ số phận của họ, đồng thời lại cao cả hơn họ, nói năng rõ ràng, hướng dẫn sáng suốt và hành động vì lòng thương yêu.
'Ngài giảng dạy trong các hội đường của họ'. Chúa Giêsu còn dạy dỗ ở nhiều nơi khác nữa: ở bờ hồ, trên triền núi, trong tư gia; nhưng tiên vàn Ngài năng dạy dỗ trong các hôị đường, bởi chính ở nơi đây, dân chúng tụ tập lại để nghe đọc lề luật và các tiên tri.
Đối vời giáo lý của Thày, lề luật và các tiên tri tượng trưng cho điểm gặp gỡ bề ngoài lẫn bề trong. Nhưng trước hết nhấn mạnh đến giáo huấn. Đấy không phải là điểm quan trọng nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu. Cái chết và Phục sinh của Ngài còn vĩ đại hơn nhiều. Nhưng dầu sao, nếu giáo huấn có được đặt lên hàng đầu thì cũng là để chứng tỏ giá trị của Lời giảng.
Ngài tỏ mình ra như một tiến sĩ luật, bởi vì Ngài công bố quan niệm đúng đắn về luật cũ và về luật mới của Tin mừng.
Chúng ta luôn phải lắng nghe Lời Thiên Chúa để khỏi bị những lời của nhân loại dẫn vào mê lộ. Chính Lời của Thiên Chúa, giáo lý của Chúa Giêsu, chứ không phải khoa học, sẽ giúp giải quyết những bí ẩn tối hậu, và giải đáp những vấn đề thâm sâu nhất.
'Ai nấy đều ca tụng Người". Con người của Ngài, cách Ngài nói, cách Ngài tỏ mình, thái độ, hành năng của Ngài có một cái gì hấp dẫn khó cưỡng lại được. Ai lắng nghe Ngài mà lòng không thành kiến và nội tâm không chai đá thì hẳn phải thán phục và mến yêu Ngài. Vì Ngài có sức bắt buộc phải chọn lựa. Quần chúng xôn xao, nọi người và mỗi người phải chọn lựa cho mình một thái độ theo hay không theo, không ai được kính nhi viễn chi, dửng dưng, trung lập... Một sự hồ hởi nổ tung. Đây là phản ứng đầu tiên. Từ từ sự chống đối manh nha và rồi lớn mạnh thành cả một mặt trận phản kháng. Nhưng ở khởi đầu, thì chỉ có một đám đông dân cư vui mừng hoan hỉ. Mọi người đều vang tiếng hát bài ca mới; Người ta nói đến cuộc khởi hành mới... Thần khí của Chúa Giêsu Kitô làm phát sinh nhiệt tình phấn khởi.
Bằng vài lời đó, công cuộc rao giảng Tin mừng ở Galilêa được phác hoạ như là một giáo lý và hành năng có sức mạnh lớn lao, một khơi động niềm vui và là công trình của Chúa Thánh Thần.
NAGIARÉT
Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ chính thức ở Nagiarét. Thánh ký không muốn nói rằng Chúa Giêsu giảng ở đó lần đầu, vì Ngài có nói đến bản văn viết về Chúa đã giảng dạy ở Caphanaum. Nhất là vì Thánh Luca muốn chứng tỏ bằng một thí dụ, và ngay từ đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu cho thấy lý do hành năng của Ngài đã gây ra sự phân cách, người chấp nhận, kẻ từ bỏ.
Vì thế, quang cảnh tả ở đây cấu thành một thứ lời tựa và mở đầu cho hoạt động của Chúa ở Galilêa, nhờ việc khai triển trình thuật đó cùng với bầu khí của nó.
NHIỆT TÌNH ĐÓN NHẬN.
Trong hội đưỡng, khi hai bài đọc về lề luật và tiên tri chấm dứt, thì một cử toạ có thể đứng lên chú giải bản văn, hoặc là giải thích, hoặc là đưa ra bài giáo huấn xây dựng. Chúa Giêsu cũng làm như thế. Ngài bảo người ta đưa cho Ngài cuốn sách tiên tri Isaia, Ngài đọc bản văn Ngài đã chọn rồi ngồi xuống để giáo huấn. Mọi người chờ đợi với sự kinh ngạc khôn tả. Chúa Giêsu chưa làm gì ở Nagiarét khiến người ta chú tâm đến Ngài. Ngài cũng chẳng là một Ra-bi đã từng tra cứu sách này sách nọ... Bỗng dưng người ta nghe đồn Ngài đã khởi sự giảng dạy trong những thành khác ở xứ Galilêa.
Đây là lần đầu tiên Ngài trở về ngôi làng nơi Ngài sinh trưởng, nơi mà ai nấy đều biết Ngài tỏ tường. Ngài sắp nói gì đây?. Trong bản văn Ngài vừa đọc, tiên tri Isaia mô tả thời cuối cùng kết thúc cuộc lưu đày và mở đầu cho một thời kỳ huy hoàng tương lai, thời kỳ Đấng Cứu Thế xuất hiện. Với một vẻ đơn sơ nhưng trang trọng, Chúa Giêsu đã áp dụng những lời tiên tri vào chính bản thân Ngài cách rất tự nhiên: 'Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các ngươi vừa nghe'.
'Thánh Thần Chúa ngự trên tôi'. Nếu ai có thể nói được điều đó thì hẳn phải là Chúa Giêsu. Không phải Ngài chỉ xem thấy Thần khí ngự xuống trên mình dưới hình thức mắt trần xem thấy được khi chịu phép rửa ở sông Giođan, đến độ nói theo loài người thì hiển nhiên Ngài đã được tràn đầy Thần Linh Chúa. Nhưng nhờ sự kết hợp bản tính Thiên Chúa với bản tính nhân loại nơi một chủ vị, Ngài còn tràn đầy Thần Linh Thiên Chúa đến độ Thần Linh đồng hoá với Thần Trí của Ngài tự nhiên và ngự lại ở trên Ngài không phải trong chốc lát nhưng là cách chủ yếu và thường tồn. Hơn ai hết, Ngài tỏ ra là một người của Thiên Chúa và một người thiêng liêng.
'Người đã xức dầu cho tôi'. Chúa Kitô là dầu tuyệt hảo bởi vì Ngài trổi vượt hơn hết thảy mọi tiên tri, và tỏ mình ra cả về phần Thiên Chúa lẫn phần riêng của Ngài, như chưa từng có vị nào trong số các tiên tri đã làm. Ngài là Lơì của Thiên Chúa đã nhập thể; vì là Dầu, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Đấng Thống trị tối cao, bởi vì Nước của Ngài là Nước Thiên Chúa, Đấng không hề biết giới hạn là gì cả về không gian lẫn thời gian. Ngài là vị Tư Tế đã được hiến thánh bởi vì xét như là Người-Chúa, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, một hiến lễ của Ngài đã có giá trị mang lại hiệu quả và ý nghĩa cho mọi hiến lễ khác. Ngài là Đấng Messia dân Israel mong đợi, nay đã đến rồi.
'Người đã sai tôi'. Một ơn gọi trong Tôn giáo bao giờ cũng kèm theoi một sứ mạng Xức dầu không phải để cho riêng ngươì-được-xức-dầu, nhưng là cho những người mà vị này được phái tới. Tự căn bản, Chúa Giêsu là Đấng được sai đi. Sứ vụ của Ngài là một sự kéo dài việc Ngài sinh ra từ Thiên Chúa: Đấng xuất phát từ Cha qua việc nghĩa tử nay đi vào trần gian để đưa dẫn thế gian về với Cha. Cốt tuỷ của sứ vụ Ngài là như thế đó.
'Đem Tin mừng cho người nghèo khó'. Đây là những người nghèo khó về vật chất, nhưng trước hết là những người nghèo về phần thiêng liêng. Chỉ có ai ý thức được sự khốn khổ của mình mới biết chuẩn bị đón nhận 'Tin mừng' ban phát ân sủng. Chúa Giêsu biết không được sai đến với những kẻ ngỡ rằng mình đã đầy đủ rồi, nhưng là đến với những người đau khổ vì hoàn cảnh của bản thân mình và hoàn cảnh của trần gian. Đối với những người này sứ điệp của Ngài thực là một Tin mừng.
'Loan truyền sự giải thoát cho kẻ tù đày'. Tù đày bề ngoài ở Babilon, rồi được trở về tự do chỉ là một dấu chỉ phớt qua của ý định lớn lao này: 'giải phóng con người khỏi ách tù đày bề trong do tội lỗi và quỷ ma trói buộc. Nói theo nghĩa chặt, đây mới chính là tù đày và giải phóng. Chúa Giêsu là một chiến sĩ giải phóng vĩ đại nhất của loài người. Vì thế tự do là một trong những chân lý chủ yếu, là một trong những yếu tố căn cơ của sứ điệp Kitô giáo. Ở đâu người ta không còn cảm thấy hơi hướng của tự do này, ở đó câu nệ hình thức, lo âu, sợ hãi một lần nữa lại làm cho mọi sự tê liệt, Tin mừng bị bóp méo ngay từ trong bản chất của nó.
'Cho người mù được thấy'. Ở đây cũng lại có ý chí sự mù loà nội tâm, sự tối tăm nghi hoặc đối với những vấn đề trọng đại, đêm đen của tâm hồn vì xa cách ánh sáng Thần Linh. Chúa Kitô soi chiếu trần gian. Nhờ Ngài ánh sáng bừng lên trong tâm trí người đi tìm kiếm; soi sáng tâm hồn bị áp bức, soi sáng đêm đen tội lỗi. 'Người mù loà được xem thấy'. Đức Kitô chỉ cần đụng tay là ánh sáng trở lại với người mù: đây là dấu chỉ mãi mãi mới mẻ về sự soi sáng thật mà Chúa Kitô đã mang đến cho những ai bị mù loà phần linh hồn.
Nhờ ánh sáng mạc khải, ánh sáng của lý trí sẽ trở nên ánh sáng có bản chất đặc biệt cho đến khi nó rạng soi trong ánh sáng vinh quang, không còn pha lẫn chút tăm tối nào nữa. 'ánh sáng của lý trí', 'ánh sáng của mạc khải' và 'ánh sáng của vinh quang' rốt cuộc đều là hoa trái của 'Ánh Sáng Chúa Kitô'.
'Trả tự do cho kẻ bị áp bức'. Đức Kitô đứng về phía những người yếu, phía kẻ cô thế, bị bóc lột, áp bức. Sứ điệp của Ngài có tính cách xã hội. Nhưng, ở đây còn có một cái gì thâm thuý hơn. Quyền lực ma quỷ, Satan, áp bức và đe doạ tâm hồn. Một sự áp bức đè nặng con người và làm cho cuộc sống bị bất ổn. Satan là thủ lĩnh thế gian: đó là lý do tại sao Kitô giáo là một cuộc cách mạng tôn giáo, vì nó lật nhào kẻ muốn chiếm đoạt địa vị không thuộc về mình; thay vào đó là quyền năng tối cao của Thiên Chúa, không áp bức nhưng giải phóng.
'Loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa'. Hừng đông của thời kỳ vĩ đại của ơn cứu độ mở đầu với việc Đức Messia đến. Tất cả mọi năm hoan hỷ của Israel chỉ là điềm báo cho thời tương lai này, thời mà sự vui mừng vô tận phát sinh từ âm hưởng của Tin mừng.
Như thế, khi áp dụng những lời tiên tri vào bản thân mình, Chúa Kitô mô tả con người và sứ vụ của Ngài bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng uy nghiêm đến độ dân chúng nín thở, hồi hộp lắng nghe và cảm kích. Họ ngạc nhiên về sự kiện Ngài dạy dỗ, con người chưa bao giờ học hành ở đâu cả; họ kinh ngạc về cách Ngài dạy dỗ, hoàn toàn khác với lề thói của các thày dạy lề luật họ đã quen; và họ bị những điều Ngài giảng dạy hấp dẫn, vì đây là sứ điệp ban ơn cứu độ, ánh sáng, sự trợ giúp và tự do.
Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược hẳn.
28. Chú giải của Noel Quesson
Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta
Luca khi viết Tin Mừng đã có những người đi trước ngoài. Lúc đó Máccô đã viết Tin Mừng của mình và Luca đã có biết bởi vì ngài đã sử dụng và đôi khi theo khá sát Tin Mừng của Máccô.
Nhưng rõ ràng là có nhiều cách để soạn thảo về cùng một đề tài. Vả lại, không phê phán những người đã viết trước mình, Luca đề ra cho mình cách viết khác, theo phương thức và với những điểm nhấn mạnh của riêng ngài.
Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta
Do đó, như chúng ta, Luca thú nhận mình là một người đã không "thấy" Đức Giêsu: Ngài là một Kitô hữu thuộc "thế hệ thứ hai". Nhưng vì sống rất gần với các biến cố của Đức Giêsu nên ngài đã điều tra... và nhận trách nhiệm truyền đạt lại (đó là Truyền thống) những gì chính ngài đã nhận được. Phần tôi, có phải tôi cũng là một mắt xích truyền đạt Đức Giêsu từ thời này qua thời khác không?
Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc
Luca thừa nhận ý định dạy giáo lý của mình một cách rõ ràng: Người muốn làm cho đức tin của người đọc được vững chắc. Tin Mừng không phải là một điều hư cấu, một huyền thoại. Tin Mừng rất nghiêm túc. Theo gương của Thánh Phaolô, thầy mình, và nhắm đến dân ngoại cải giáo (không phải là người Do Thái), Luca sẽ đề cao một số khía cạnh và giảm nhẹ một số khía cạnh đặc thù của người Do Thái. Tác phẩm của ngài được linh hứng. Nhưng sự Linh hứng của Thiên Chúa không loại trừ vai trò bình thường của các khả năng con người, của các tài năng, của việc tìm tòi của tác giả. Tin Mừng của Thánh Luca là một Tin Mừng độc đáo. Chúng ta hãy tiếp nhận nó như thế.
Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận
Suối nguồn nội tâm của Đức Giêsu chính là Chúa Thánh Thần. Luca sẽ không ngừng lặp lại điều đó: Được thụ thai bởi Chúa Thánh 'Thần (Lc 1,35)... mặc lấy Thần Khí của phép rửa tội (Lc 3,22)... được Thần khí dẫn đưa (Lc 4,l-4,14-4,18)... Nói theo cách của con người, người ta có thể tưởng tượng Đức Giêsu trong sự kết hiệp không ngừng với Đấng vô hình bằng một thứ cầu nguyện liên tục: Người không làm điều gì bởi chính Người. Người sẽ nói như thế (Ga 8,28). Trong Người, về một Hơi Thở là hơi thở của chính Chúa Cha. Trong Người, có một "người nhắc" nói với Người mọi việc Người làm trong sự tự do tuyệt đối. Tôi cũng thế, tôi hãy để cho Thần Khí dần đưa tôi.
Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh
Hơn các thánh sử khác, Luca thường cho biết rằng Đức Giêsu "giảng dạy trong các hội đường" (Lc 4,15; 16,31; 6,6; 13,10) hoặc trong Đền thờ (Lc 19,47; 20,l; 2l,37). Giảng dạy trong hội trường trước hết có nghĩa là chú giải Cựu Ước. Đôi khi chúng ta tự hỏi nội dung các bài giảng của Đức Giêsu là gì. Người mở rộng, đi vào chi tiết, chú giải Kinh Thánh. Tin Mừng của Đức Giêsu, trong sự mới mẻ của Người, dựa vào các lời hứa: của Kinh Thánh một cách sâu xa. Việc Công Đồng đưa Cựu ước vào bài đọc thứ nhất mỗi chủ nhật là một sự đổi mới tìm về một truyền thống cổ xưa! Nhờ có Công Đồng, chúng ta thực hiện lại điều Đức Giêsu đã làm.
Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi
Là Đấng Mêsia của những người nghèo khó, Đức Giêsu không lập dị. Người đến rao giảng không phải ở Giêrusalem, thành phố của các vua và các Thượng Tế; nhưng trong một tỉnh xa xôi và bị coi thường "vùng Galilê của dân ngoại" (Mt 4,15), vùng đất của những người phận nhỏ và nghèo khó. Là Đấng Mêsia và là tư tế, Đức Giêsu không lên Đền Thánh để cử hành các nghi thức thờ phượng, các hy tế, nhưng Người vào trong một Hội đường ở làng quê, nơi khiêm tốn để cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, mà tất cả lời Chúa đều tập trung trên sách thánh. Như thế, Người biểu lộ chức tư tế của Người trước hết thuộc bình diện ngôn sứ. Ngày nay cũng thế, trước tiên chúng ta hiệp thông với Đức Giêsu trong phần đầu tiên này của thánh lễ mà người ta gọi là "phụng vụ Lời Chúa". Đó không phải là một phần nhập đề phụ thuộc và tùy thích. Thánh lễ đã bắt đầu. Đức Giêsu đã "thánh hiến" một lần duy nhất trong cuộc đời Người vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Nhưng Người đã dùng lời" nhiều lần: "Đó là chức tư tế của Người. Thánh Phaolô đã hiểu rõ điều ấy khi ngài được Đức Giêsu Kitô ban ân sủng làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16). Cuốn sách mà Đức Giêsu, ngày hôm đó mang theo, mở ra và đọc luôn trường tồn. Tôi có cuốn sách ấy trong nhà tôi không? Tôi có dành thời gian để đọc không? Kinh Thánh có là một phẩm đặc biệt trong việc đọc sách của tôi không? Gặp đoạn chép rằng: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi". Vì thế Đức Giêsu đã xác định sứ mạng của Người là một sứ mạng của ngôn sứ. Trong ngôn ngữ của Israel, những lời ấy có nghĩa: Tôi là ngôn sứ, tôi được Thiên Chúa gọi đến để nói nhân danh Người, để nói sứ điệp của Người. Và Đức Giêsu đặt mình dưới sự bảo trợ của ngôn sứ lớn nhất Isaia. Qua thủ bản Qumram, người ta biết được rằng ngôn sứ Isaia là một ngôn sứ được sử dụng nhiều nhất vào thời. Đức Giêsu: Thủ bản cổ thất thế giới rõ ràng là các cuộn da, đã được tìm thấy trong một: hang động cách nay vài năm và được bảo quản trong Viện Bảo Tàng Kinh Thánh, ở Gìêrusalem, và trên đó là toàn bộ bản viết tay sách Isaia. Như một sự tình cờ, một tài liệu duy nhất thuộc loại này trong toàn bộ văn chương thế giới đến được với chúng ta vào giữa thời kỳ hiện đại. Phải chăng chỉ do sự tình cờ? Chúng ta xúc động nhận rằng Đức Giêsu đọc sách Isaia đó.
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi
Chúng ta hãy nhận xét thêm một lần nữa từ "xức dầu" được gọi là "chrisma" trong tiếng Hy Lạp, và Đấng được xức dầu được gọi là "christos" do đó mới có danh hiệu Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là Đấng được Thần Khí: Thiên Chúa xức dầu, thâm nhập và thấm nhuần như dầu thấm vào cơ thể. Nơi người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện một cách cụ thể (Côlôsê 2,9).
Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Những từ "loan báo Tin Mừng" dịch từ một động từ Hy Lạp: euaggehsasthai có nghĩa là "truyền bá phúc âm". Isaia đã viết ra từ ấy, mang đến niềm hy - vọng bao la gởi cho những. người bị lưu đầy ở Babylon để loan báo Tin Mừng họ được giải phóng (Is 52,7-61,1). Tin Mừng chính là sự' "giải phóng"... và sự "phục hưng" Giêrusalem. Nhưng một thất vọng to lớn sẽ tiếp nối những loan báo mang tính ngôn sứ của Isaia. Những người "nghèo hèn" tiếp tục bị đàn áp, và bất hạnh. Dần dần, từ "nghèo hèn" trong Kinh Thánh bắt đầu gợi ra không chỉ một điều kiện khó khăn về kinh tế hoặc xã hội, những còn là thái độ nội tâm của người nào còn tìm được chỗ dựa nơi con người khi đối diện với những kẻ quyền thế của thế gian nên phải quay về Thiên Chúa. Luca đặc biệt thích nhấn mạnh đến chủ đề này: Thiên Chúa đã đặc biệt thi ái "những kẻ nghèo hèn "...
Còn bạn là anh chị em tôi, bạn cảm thấy mình bị loại khỏi hạnh phúc theo kiểu của thế gian, bạn là người mà Lời Đức Giêsu nhắm đến trước tiên. Có một hạnh phúc khả dĩ dành cho bạn: Bạn hãy tìm hạnh phúc đó bên cạnh Thiên Chúa.
Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa
Tùy theo tính khí, người ta sẽ còn tiếp tục giải thích bản văn này theo hai hướng trái ngược nhau, nếu như người ta không chịu chấp nhận cả hai: Vấn đề là sự giải phóng vật chất, chính trị và nhân bản... kẻ bị giậm cầm, người mù và người bị áp bức?... hay vấn đề là một sự giải phóng tâm linh hơn?
Chắc chắn rằng Đức Giêsu đã không mở cửa tất cả các nhà tù, không chữa lành mọi người mù và bệnh tật, đã không từ bỏ mọi áp bức khỏi hành tinh chúng ta. Hỡi ôi như thế chẳng hóa ra là một lời hứa vô ích, lừa phỉnh sao? Tuy nhiên trước hết người nghèo hèn động ở hàng đầu tiên để chờ đợi sự giải phóng về vật chất cho họ. Có lẽ chính chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu sẽ có tội nếu chúng ta không "thực hiện" lời tiên tri ấy. Chúng ta phải làm gì để giải phóng anh em chúng ta? Để làm giảm nhẹ những người bệnh tật? Nhưng cũng chắc chắn rằng sự áp bức tệ hại nhất là sự nô lệ nội tâm mà tội lỗi tạo ra trong chúng ta. Từ được dịch ra ở đây bằng từ "giải phóng" hay trả lại tự do chính là từ "aphésis" cũng có nghĩa là "tha thứ" (Lc 1,77-3,3-24,47; Cv 2,38,5,31 v.v...) Vâng, lạy Chúa, xin giải phóng chúng con xin tha thứ chúng con! ôi! trong tầm hồn con, có sự nô lệ khủng khiếp đó, khi con trở nên tù nhân của xác thịt con, của thù hận, tiền bạc, tiện nghi, khoái cảm! Sự giải phóng mà Đức Giêsu đã hứa cũng dành cho chính con.
Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
Ngày nay ở thế kỷ 21, điều đó có liên quan gì với tôi? Thánh Luca sử dụng mười hai lần tiếng "hôm nay" mầu nhiệm và trang nghiêm ấy, trong Tin Mừng của Ngài; từ "Hôm nay" đã sinh ra cho anh em một "Cứu Chúa" cho đến "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" lúc Người bị treo trên thập giá. (Lc 2,11; 3,22; 4,21; 5,26; 12,28; 13,32; 13,33; 19,5; 19,9; 22,34; 22,61; 23,43).
23/01 Thân nhân của Chúa
- Viết bởi Mc 3, 20-21
Thân nhân của Chúa
Thứ Bảy tuần 2 thường niên.
"Những thân nhân của Người nói: Người đã mất trí".
LỜI CHÚA: Mc 3, 20-21
Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được.
Những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: "Người đã mất trí".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Vai trò của gia đình
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về tương quan với Chúa Giêsu và gia đình của Ngài, để từ đó rút ra những bài học thực tiễn về vai trò gia đình đối với con người.
Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình. 33 năm sống kiếp làm người, Ngài đã sống 30 năm với gia đình. Hơn nữa, cũng như bất cứ một người Á Ðông nào, Chúa Giêsu rất xem trọng những mối giây liên hệ thân thuộc: trong ba năm rao giảng công khai, Ngài vẫn tìm dịp trở về thăm làng cũ, và giữa lúc Ngài bận bịu với sứ vụ công khai, bà con thân thuộc của Ngài vẫn tìm đến thăm Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu xem trọng những liên hệ máu mủ và tình bà con xóm giềng, Ngài quý trọng gia đình; Ngài đề cao sự thánh thiêng và bất khả phân ly của giây hôn phối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không lập gia đình; trong ba năm thi hành sứ vụ công khai, Ngài sống xa gia đình, không nhà, không cửa.
Như vậy, đối với Chúa Giêsu, trên cõi đời này, gia đình cũng như mọi thứ định chế khác của loài người đều không phải là những giá trị tuyệt đối. Chỉ có một giá trị tuyệt đối, đó là con người, bởi có con người mới có một vận mệnh vĩnh cửu. Tất cả đều hiện hữu vì con người. Trong Kinh Tin Kính, Giáo Hội tuyên xưng: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trờ xuống thế". Như vậy, ngay cả mầu nhiệm Nhập Thể cũng là vì con người. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng Ngài đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ; nếu Con Thiên Chúa nhập thể là để phục vụ con người, thì huống chi những định chế của xã hội loài người. Tất cả đều hiện hữu vì con người: gia đình cũng như xã hội hiện hữu vì con người, chứ không phải con người vì gia đình và xã hội.
Từ cái nhìn trên đây của Chúa Giêsu về gia đình, chúng ta có thể thấy được vai trò của gia đình và một cách cụ thể mục đích của việc giáo dục trong gia đình. Trong tuyển tập "Giới Luật Yêu Thương", Ðức Cha Bùi Tuần đã có một phân tích sâu sắc về mục đích của việc giáo dục gia đình, Ngài viết:
"Các bậc cha mẹ muốn biết xưa nay mình nhằm mục đích gì trong việc giáo dục con cái, thì hãy xét xem ta thường muốn gì, chờ đợi gì ở con cái. Có phải muốn chúng nên giàu sang không? Có phải chờ đợi ở chúng một lợi lộc vật chất chăng? Không thiếu những cha mẹ nhắm cái đó khi giáo dục con cái. Những hy vọng đó không phải là xấu, nhưng chắc chắn không phải là chính mục đích mà cha mẹ phải nhắm để đưa con cái mình đi tới. Mục đích chính đó là gì?"
Mục đích đó là giúp chúng nên người với tất cả ý nghĩa cao đẹp của nó. Mà nên người trước hết là thực hiện đầy đủ ý nghĩa câu nói quen thuộc: "Con người, đầu đội trời, chân đạp đất". Chân đạp đất là thái độ phải thắng dẹp những lôi cuốn tội lỗi thế tục, là đạp lên trên những gì làm cho mình ra hèn như cát bụi, là đạp lên trên những gì đưa ta xuống đất, xuống địa ngục. Nếu chân đạp đất chỉ những sự phàm trần, thì đầu đội trời chỉ những sự siêu phàm. Ðầu đội trời chi thái độ vươn lên những gì cao thượng, đầu đội trời chỉ sự cố gắng phóng mình tới lý tưởng xa vời, đầu đội trời chỉ sự hướng tâm con người về mục đích ở tận bên kia thế giới, đầu đội trời chỉ nỗ lực băng mình lên cao để tìm về quê hương trên trời.
Những suy tư của Ðức Cha Bùi Tuần gợi lại cho chúng ta câu nói của Chúa Giêsu với cha mẹ Ngài khi hai Ðấng gặp lại Ngài trong Ðền Thờ Yêrusalem: "Cha mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao?" Ðầu đội trời chính là lo việc Cha trên trời, là hướng về trời cao, là sống cho những giá trị vĩnh cửu. Nên người thực sự là sống đúng ý nghĩa ba chữ "đầu đội trời", và đó phải là mục đích của giáo dục gia đình, bất cứ hành động nào đi ngược mục đích ấy đều là phản giáo dục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem đâu là những giá trị đích thực mà chúng ta đang theo đuổi và muốn truyền đạt cho người khác. Nguyện xin Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống soi sáng và hướng dẫn chúng ta.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Người đã mất trí
Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của người hay tin ấy, liền bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. (Mc. 3, 20-21)
Thân nhân của Chúa Giêsu đã không được chiều chuộng cho lắm. Buổi đầu khi Người xuất thân đi rao giảng, nhứng người thân của Chúa đã phải chịu nỗi phiền hà là có liên hệ bà con với một con người kỳ quặc, tự cao. Sau này khi Chúa Giêsu đã có tiếng tăm rồi và bà con muốn tới gặp Người thì lại bị rầy la, khi Người nói: "Ai là anh chị em tôi?"
Phần chúng ta, chúng ta có hạnh phúc vì được kể vào hàng bà con thân thích mới này- chúng ta sung sướng được gọi là anh là chị của Đức Kitô. Nhưng vấn đề Phúc âm hôm nay đặt ra cho ta là hãy tìm xem liệu ta có nét nào giống với đám bà con ấy là những người đã coi Chúa Giêsu như kẻ "phá rối" cần sớm cho vào "nhà nghỉ mát" không?
Tại sao có sự phiền hà này
Ta có thể hiểu thế nào về phản ứng của những thân nhân ấy? Phản ứng này một phần lớn là Do thái độ tự phụ của Chúa Giêsu dám coi mình là "Con Người". Với danh xưng này, Người đòi buộc người ta phải nhìn nhận mình là một nhân vật của Truyền thống có quan hệ thân cận độc nhất vô nhị với Đức Giavê Vì thế, là thân nhân của một con người tự phụ, một anh "ngộ đạo", thì chẳng có gì là vinh quang cả! Tốt hơn là nên coi Người như một người khùng thay vì đưa ra tòa hoặc bịt miệng Người lại.
Còn chúng ta có "giam tù" Người không?
Những thân nhân của Chúa Giêsu có lập trường rõ ràng. Còn ý định của chúng ta lại tế nhị hơn. Hãy coi xem.
Chúng ta không nói rằng Chúa Giêsu đã mất trí. Nhưng chúng ta để trong ngoặc đơn những đòi hỏi gắt gao nhất của Người.Ta có can đảm như thế nào khi làm chứng Người là Thiên Chúa? Ta làm chứng gì về sự Phục sinh của Người?
Chúng ta không muốn bắt Người để tống vào ngục, nhưng chúng ta gác ra một bên những yêu sách quyết liệt nhất của Người: "... Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo ... rồi hãy đến theo Tôi!" - "Phúc thay ai xây dựng hòa bình! Phúc thay ai hiền lành!"
Bôi bác Tin mừng của Đức Kitô, làm méo mó chân dung Người, đòi Phúc âm phải hợp với lý luận, đó chính là một cách thế nào đó đã giam giữ Đức Kitô vậy.
Suy niệm 3: VÌ SỨ VỤ
Có một linh mục tại một đất nước phần thịnh, nhưng khi làm linh mục được 5 năm, ngài đã xin phép bề trên để về Việt Nam phục vụ những bệnh nhân sida, nghiệm ngập, những bạn trẻ cơ nhỡ và trẻ em mồ côi. Khi quyết định của ngài được thông báo cho gia đình, bà cố đã không chấp nhận và cho rằng con mình có vấn đề...!!!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu tất bật lo lắng cho dân chúng, đến nỗi không có thời giờ để nghỉ ngơi và ăn uống. Những việc như: giảng dạy, chữa bệnh, xua trừ Ma Quỷ... Ngài làm mọi việc không xuể, nên đã gọi và chọn các môn đệ để hỗ trợ Ngài trong sứ vụ.
Tuy nhiên, sự nhiệt tình vì sứ vụ khi chăm lo cho người nghèo, bệnh tật, ốm đau thì lại là mối lo của bà con, họ hàng của Ngài khi họ nghe tin đổn thổi Ngài bị mất trí..., vì thế, họ đã đến để tìm cách ngăn cản Ngài.
Thật vậy, trong cuộc sống, chúng ta vẫn thấy xuất hiện đây đó những hình ảnh sống động của Đức Giêsu khi những anh chị em Kitô hữu luôn sống chu toàn bổn phận và sẵn sàng đặt lợi ích của cộng đoàn, gia đình lên trên cá nhân của mình. Luôn đứng về phía người nghèo khổ để nâng đỡ và phụ giúp họ... Luôn coi sứ vụ là chính yếu, nhu cầu cá nhân là phụ thuộc...
Nhưng lẽ ra, theo lối suy nghĩ của người đời thì họ phải được tán dương, chúc tụng mới xứng! Tuy nhiên, điều đó có lẽ có nhưng họa hiếm, ngược lại, có khi chỉ là những lời dè môi bữu mỏ cho rằng: họ bị điên, bị khùng thì mới làm những chuyện như thế!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt sứ vụ lên trên hết mọi chuyện. Nếu có phải khinh thường, chỉ trích, thì chúng ta cũng biết vui chịu để danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa được trị đến. Chỉ khi nào chúng ta trở nên giống Chúa, thì hình ảnh, khuôn mặt của Ngài mới được lộ hiện nơi chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết. Luôn biết trung thành với sứ vụ được trao. Và xin cho chúng con biết đón nhận tất cả, miễn sao anh chị em chúng con được hạnh phúc và Chúa được loan báo. Amen.
22/01 Chúa gọi Nhóm Mười Hai
- Viết bởi Mc 3, 13-19
Chúa gọi Nhóm Mười Hai.
Thứ Sáu tuần 2 thường niên.
"Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người".
LỜI CHÚA: Mc 3, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ.
Mười hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Giáo Hội là một Mầu Nhiệm
Nếu thời Cựu Ước đã có những tiên tri cung đình, chuyên phụ họa cho vua chúa, thay vì nói lời của Chúa; thì ngày nay cũng không thiếu những tiên tri như thế: thay vì nói Lời Chúa, lên tiếng tố cáo bất công, người ta lại chỉ làm tiên tri để công kích và chỉ trích Giáo Hội của mình. Dù sao, đây cũng là dịp để các Kitô hữu suy nghĩ và đào sâu về bản chất của Giáo Hội.
Ðiều cơ bản nhất mà chúng ta cần phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo Hội, đó là Giáo Hội là một mầu nhiệm, do đó chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo Hội vào bất cứ một tổ chức trần thế nào. Giáo Hội không là một thể chế quân chủ chuyên chế hay quân chủ lập hiến. Giáo Hội cũng không hề là một chế độ tập quyền hay Bô lão trị; Giáo Hội lại càng không phải là một chế độ dân chủ. Giáo Hội thiết yếu là một mầu nhiệm, do đó mà không có một tên gọi nào diễn tả và múc cạn mầu nhiệm ấy. Giáo Hội được gọi là Hiền thê của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là Dân Chúa; mỗi kiểu nói này bày tỏ một khía cạnh, nhưng không thể nào nói hết về Giáo Hội.
Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm ấy của Giáo Hội. Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi rao giảng. Ngài trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng: chỉ có các Tông Ðồ mới có quyền trừ quỷ, mới có quyền cử hành các Bí Tích, và chỉ những ai được các ông trao quyền cho mới được cử hành các Bí Tích. Chúa Giêsu trao phó cho các Tông Ðồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả năng và có quyền giải thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa. Trong Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành mối giây hữu hình trong Giáo Hội, Ngài hứa ở với Giáo Hội mỗi ngày cho đến tận thế: như Ngài đã ở với các Tông Ðồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2,000 năm qua, Ngài vẫn tiếp tục ở với và trong Giáo Hội.
Giáo Hội chính là thân thể Chúa Kitô. Thuộc về Giáo Hội chính là chấp nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu được ủy thác cho các Tông đồ và những người mà các ông cắt đặt để thay thế và tiếp tục sứ mệnh của mình. Thuộc về Giáo Hội một cách cụ thể, là đón nhận và sống giáo huấn của chính các Tông đồ được ủy thác cho Giáo Hội và những người kế vị các ông. Giáo Hội không phải là một thể chế dân chủ, nhưng Giáo Hội chưa hề cưỡng bách ai phải gia nhập Giáo Hội; nhưng nếu đã thuộc về Giáo Hội thì không thể không chấp nhận quyền bính của Giáo Hội. Dù vậy, ngay cả khi một Kitô hữu không chấp nhận quyền giáo huấn của Giáo Hội, thì Giáo Hội cũng không phải dùng đến võ lực hoặc nhà tù để đe dọa và trừng phạt.
Hằng năm, Giáo Hội dành một tuần lễ để cầu cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu, một tuần lễ để đi sâu vào mầu nhiệm của Giáo Hội, một tuần lễ để hoán cải. Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con".
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Những kẻ Người muốn
Rồi Người lên núi và gọi những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. (Mc. 3, 13-14)
Để hiểu sâu bài Phúc âm hôm nay, một lần nữa chúng ta còn tìm ra được vài chi tiết khác thánh Maccô muốn làm nổi lên hình ảnh con người Đức Giêsu.
Vì thế, để gây ý thức về tiếng gọi mà mười hai Tông đồ đã nhận được, cũng như về ơn gọi của các ông, thánh Maccô ghi lại rằng: "Người gọi những kẻ Người muốn và Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng."
Những kẻ Người muốn
Có lẽ ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng Chúa Giêsu đã có những sự lựa chọn. Phải chăng Người không đến" kêu gọi những người tội lỗi"? Như thế, theo nguyên tắc, mọi người trong cái nhân loại ốm đau này có lẽ phải được làm tông đồ mới phải!
Người ta giải thích sự Chúa tuyển chọn như sau: lời mời gọi của Chúa diễn ra ỏ hai mức độ, và mỗi người chúng ta đều được gọi hai lần. Tiên vàn là kêu gọi đón nhận đức tin, sám hối, gia nhập Nước Tròi, hưởng ơn cứu độ. Sứ mệnh của Đức Kitô có mục đích tối hậu là làm vang lên tiếng mời gọi của Chúa Cha "Anh em hãy đến!"
Nhưng cũng có tiếng mời gọi khác gởi đến từng người giúp họ xác định vị trí hoạt động, chọn lựa phần đóng góp của mình trong Nhiệm Thể Chúa Kitô: "những người này Chúa đã cho làm tông đồ, những người kia làm tiên tri; người được ơn chữa bệnh, người khác lại được ơn diễn giải". Chúa Giêsu muốn cho tất cả chúng ta, mỗi người giữ một vị trí nhất định.
"Để các ông ở với Người và đi rao giảng"
Nếu chúng ta muốn hiểu biết chức vụ linh mục, hiểu biết linh mục là gì, phải trở lại hai chức năng được Chúa Giêsu gán cho Nhóm Mười Hai là "ở với Người và được sai đi rao giảng".
Nhờ bí tích truyền chúc, linh mục được đặt để ở với Chúa Giêsu. Người ta thường đòi hỏi linh mục sống hòa mình với mọi người, ngang tầm với họ, phục vụ họ. Đòi hỏi linh mục cùng tầm vóc với Chúa Giêsu, ở với Người, thiết tưởng lại không phải là điều tốt hơn và chính đáng hơn sao? Linh mục bỏ ra một chút thời giờ trong ngày dể truyện trò với Chúa Giêsu không phải là điều tốt đẹp sao? Hãy truyện trò với Chúa đã, rồi mới đi ra ngoài! Rồi mới giảng giải và hội họp!.
Suy niệm 3: CHÚNG TA ĐƯỢC MỜI GỌI ĐẾN VÀ Ở VỚI THẦY
Có nhiều người nhìn bộ dạng bên ngoài "rất cốt tu", nhưng kỳ thực họ không hề nghĩ là sẽ đi tu! Hay nhìn những người trông xem ra có vẻ đơn sơ, chất phát, nông dân thì Chúa lại chọn và gọi để trở thành linh mục, tu sĩ của Ngài.
Như vậy, chỉ cần đưa ra một vài hình ảnh, chúng ta cũng nhận thấy rất rõ rằng: ơn gọi tu trì là một mầu nhiệm, vì Chúa chọn và gọi những ai Ngài muốn.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chọn nhóm 12 trở thành môn đệ của Ngài, để họ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Qua danh sách 12 môn đệ, chúng ta thấy không ai là trọn vẹn cả. Ai cũng có những khuyết điểm, thiếu xót, đôi khi những lỗi mắc phải trước, trong, và sau khi ở với Đức Giêsu là những lỗi rất nặng.
Nhưng điều quan trọng đối với các ông là: tập trung quyvào Đức Giêsu. Thầy của các ông như là cái tâm trong một vòng tròn. Nhiều khi vì yếu đuối, nên xao nhãng đi xa tâm của vòng tròn, nhưng khi tỉnh lại và ngộ ra sự yếu đuối, tội lỗi của mình, các ông lại tiếp tục nhập vào vòng tròn đó và hướng về Đức Giêsu là tâm điểm, đích đến của cuộc đời. Vì thế, tuy bất toàn, nhưng các ông ở lại với Ngài, Ngài đã huấn luyện và làm cho các ông xứng đáng là kẻ lưới người như lưới cá trên hành trình loan báo Tin Mừng.
Mỗi người chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giêsu để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi mang trong mình những tâm tư của chính Đấng mà chúng ta đi theo.
Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng thi hành những giáo huấn và lời dạy của Đức Giêsu không, hay nhiều khi chúng ta chỉ có tên tuổi mà không có chất? Chỉ có lượng mà không có phẩm?
Lạy Chúa Giêsu, được trở thành môn đệ của Chúa là một hồng ân. Tuy nhiên, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết làm cho hồng ân ấy triển nở trong cuộc sống thường ngày của mình qua những hoa trái tốt lành. Amen.
21/01 Chúa Giêsu là ai ?
- Viết bởi Mc 3, 7-12
Chúa Giêsu là ai ?.
Thứ Năm tuần 2 thường niên – Thánh Anê, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.
"Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người".
* Anê là một thiếu nữ Rôma, mới từ mười hai đến mười lăm tuổi đã tình nguyện chết vì đức tin khi cuộc bách hại của hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô tới hồi khốc liệt nhất (năm 305).
Đó là sự việc thánh Am-rô-xi-ô đã ghi lại, và là lý do khiến Hội Thánh Rôma tưởng nhớ thánh nữ với hết tình yêu mến.
LỜI CHÚA: Mc 3, 7-12
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm. Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người. Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hiểu biết Chúa Giêsu
Có một giai thoại về Trang Tử như sau: Một hôm, Trang Tử cùng đệ tử đi chơi núi, một người thợ rừng hỏi: "Tại sao cây này không dùng được?", Trang tử liền nói: "Cây này vì bất tài mà được sống lâu". Về đến nhà, nguời thợ bắt con chim không biết gáy để làm tiệc đãi khách. Hôm sau đệ tử hỏi Trang Tử:
- Hôm qua, cái cây trên núi vì bất tài mà sống, con chim hồng vì bất tài mà chết; theo Thầy, Thầy xử trí thế nào?
Trang Tử cười và nói:
- Tài và bất tài đều là quấy cả. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống.
Ðông Phương đề cao sự khôn ngoan ở đời; Tây Phương chịu ảnh hưởng Hy Lạp cũng dạy: con người lý tưởng là con người biết nhiều. Nhưng biết không chỉ là biết sự vật, mà là biết con người, và biết con người không chỉ là một nhận thức suông, mà thiết yếu là đi vào tri giao mật thiết.
Trong Tin Mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu biết như thế. Thánh Marcô trình bày cho chúng ta nhiều phản ứng hay đúng hơn nhiều nhận thức khác nhau về con người Chúa Giêsu. Trước hết là đám đông từ các nơi tìm đến với Chúa Giêsu, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng trong nhận định của Marcô, đám đông chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; đám đông chỉ thấy cái trước mắt là phép lạ, mà không đọc ra được ý nghĩa của phép lạ là dấu chỉ của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo. Nói tắt, đám đông không biết gì về Chúa Giêsu, và đây là lý do tại sao Chúa Giêsu tỏ ra dè dặt đối với đám đông, Ngài thường lẩn tránh họ. Duy chỉ có ma quỷ biết Chúa Giêsu là ai, nhưng biết đối với ma quỷ không đồng nghĩa với tri giao, mà chỉ là thù hận.
Ðặt vào đúng văn mạch, thì Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta nhiều thứ hiểu biết về Chúa Giêsu: ma quỷ biết Chúa Giêsu, nhưng biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; những người Biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người Chúa Giêsu; chỉ có Nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, biết Ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà Chúa Giêsu đang chờ đợi nơi mỗi Kitô hữu. Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Ước gì tâm tình và xác tín của Thánh Phaolô cũng thấm nhập và hướng dẫn chúng ta từng giây phút của cuộc sống.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Khi người ta quá nhiệt tình
Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì xấp mình dưới chân Người và kêu lên: "Ông là Con Thiên Chúa." (Mc. 3, 10-11)
Phúc âm Maccô như ta đã biết, có nhiều chi tiết rất ý vị, tỏ ra ngài có một con mắt tinh tường khi nhìn những sự việc bình thường. Hôm nay Maccô kể lại rằng Chúa Giêsu muốn để khỏi bị đám đông chen lấn, nên đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để Người ngồi ở đó mà giảng dạy và chữa bệnh cho dân. Maccô đã tả lại cảnh huyên náo của đám đông bằng những lời giản dị mà sắc bén: "Họ đổ xô đến để sờ vào Người". Các thánh sử khác chỉ viết nôm na rằng: dân chúng đến với Người; trái lại thánh Maccô nhấn mạnh đến việc người ta chen lấn xô đẩy nhau mà đến.
Những thái độ này có thể giúp ta phân tích lối cư xử của chúng ta. Thực ra chúng ta có nhiệt tình đến với Đức Kitô không?
Hoảng hốt và vội vã
Ta hãy thử phân tách những lúc ta sống vội vã, để biết ta đang đồng hội đồng thuyền với ai, đang chạy theo thần tượng nào.
Chúng ta vội vã để kịp mua được món có lời, để kịp chuyến xe buýt, để mua được tấm vé đi coi tuồng, để làm qua loa cho xong công chuyện của ngày. Chúng ta hối hả đi xem cho được trận đá banh, hay đi nghỉ cuối tuần.
Điều khiến Chúa Giêsu lo lắng bồn chồn ngày nay, hẳn không phải là chuyện người ta hồ hởi đổ xô đến với Người như xưa. Chắc chắn là Người sẽ không sợ bị ngộp thở vì lòng nhiệt thành sốt sắng của các tín hữu.
Cõi lòng ngổn ngang
Không, điều khiến Chúa Kitô phải lo láng buồn phiền, có lẽ vì Người thấy chúng ta đến với Người mà lòng ngổn ngang trăm mối. Vì lo hưởng thụ, mà ta xốn xang chạy khắp đó đây để thỏa mãn cơn đói khát ấy, cả ngày chỉ bận rộn về cái gọi là "những nhu cầu của đời sống hiện đại"! Nói cho cùng, chúng ta đi tới chỗ giống như một cửa tiệm sưu tầm đồ cổ, mà trên quầy đã chất đống những món đồ. Và để quên đi cảm tưởng bị ngộp thở vì cảnh bộn bề ngổn ngang này, ta vội chạy đến vớí những cuộc "săn tìm" mới lạ khác.
Nếu Chúa Giêsu không muốn để người ta chen lấn, xô đẩy Người trong những điều kiện này, thiết tưởng cũng là chuyện thông thường thôi.
Suy niệm 3: ĐI THEO CHÚA VÌ MỤC ĐÍCH GÌ?
Có nhiều thái độ đi theo Đức Giêsu. Có người đi theo Đức Giêsu chỉ vì hiếu kỳ; có người vì trục lợi; lại có người theo vì hiệu ứng đám đông; nhưng cũng có người theo Đức Giêsu vì lòng mến. Tuy nhiên, con số này chỉ là thiểu số, đếm trên đầu ngón tay. Còn lại đa số họ theo Ngài vì thực dụng.
Hôm nay, Bài Tin Mừng thánh Máccô thuật lại việc Đức Giêsu được đám đông lũ lượt đi theo Ngài, đến nỗi Ngài phải ngồi trên một chiếc thuyền mà giảng dạy.
Họ đến với Ngài vì nghe danh tiếng và việc làm của Ngài khá nhiều. Thấy họ, Đức Giêsu lại một lần nữa chạnh lòng thương và ra tay tế độ cho họ bằng việc chữa lành nhiều thứ bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ Ma Quỷ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Chúa để được Ngài chữa lành bệnh tật thiêng liêng và nhất là kín múc được nguồn ân sủng phong phú từ tình yêu của Ngài. Đồng thời cũng biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống của cuộc đời, chứ không chỉ thực dụng trước mắt mà thôi.
Hơn nữa, ngang qua những hành động của Đức Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi chạnh lòng thương đến người anh chị em chúng ta như chính Chúa đã chạnh lòng thương đến ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống và mục đích của cuộc đời. Xin trái tim của Chúa luôn là sự cuốn hút chúng con đến say mê, để chúng con luôn biết rung động trước sự khốn cùng của anh chị em chúng con. Amen.
20/01 Cần làm việc lành
- Viết bởi Mc 3, 1-6
Cần làm việc lành.
Thứ Tư tuần 2 thường niên.
"Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"
LỜI CHÚA: Mc 3, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Phản ứng của Chúa Giêsu
Trong diễn văn đọc trước ngoại giao đoàn bên cạnh Toà Thánh nhân dịp Năm Mới 1996, Ðức Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tố giác các đàn áp Kitô hữu; Ngài nhận định như sau: "Người ta không thể đàn áp mãi hàng triệu tín hữu, nghi ngờ hoặc chia rẽ họ, mà những hành động đó lại không đưa đến những hậu quả tiêu cực, chẳng những đối với uy tín của các quốc gia trên trường quốc tế, mà cả trong nội bộ các xã hội liên hệ; trái lại, những mối quan hệ tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần vào sự hòa hợp mọi thành phần trong xã hội".
Vừa đàn áp, vừa kêu gọi tin tưởng, chỉ có người mù quáng mới không thấy được sự mâu thuẫn trong hành động của mình. Người mù lòa ít ra còn biết mình không thấy, nhưng kẻ mù quáng vốn có mắt, nhưng lại không nhìn thấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: "Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ". Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài không bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối, con người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để không nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ yêu thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần, tội không thể tha thứ được. Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta ghi tạc Lời Chúa để tránh khỏi men giả hình và mù quáng ấy. Xin Ngài cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm để nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta và đáp lại tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng của Chúa. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim luôn biết rung động trước nỗi đau khổ của đồng loại và đôi tay luôn biết rộng mở để săn sóc chữa trị và san sẻ trao ban cho mọi người.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Làm việc lành khi nào?
Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày sa bát không, để tố cáo Người. Đức Giêsu bảo người bại tay: "Anh chỗi dậy, ra giữa đây!" Rồi Người nói với họ: "Ngày sa bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?" Nhưng họ làm thinh. (Mc. 3, 1-4)
Chúa Giêsu và các người Biệt phái đã nhiều lần đối đầu với nhau về vấn đề giải thích Luật. Chúa Giêsu có một cách tiếp cận Luật một cách khá thông thoáng, còn những người Biệt phái chủ trương một sự giải thích chặt chẽ khít khao. Thực ra mỗi bên đều theo đuổi những nguyên tắc và quan điểm riêng, nên không thống nhất được một thang giá trị về công lý. Một bên thì cọi trọng những luật lệ và thực hành cũ kỹ của quá khứ, bên kia lại sẵn sàng thích ứng với hiện tại.
Một vấn đề có tính thời sự
Sự phát triển về cấu trúc lao động trong các xã hội công nghiệp đã dẫn đến một sự quá chuyên biệt và phân cách trong các ngành nghề và hoạt động khác nhau, đồng thời khiến cho những luật về lao động càng rắc rối phức tạp. Kết quả là vì muốn tôn trọng người lao động mà người ta đã phạm phải những sai lầm vô lý, tỉ dụ như trên một công trường xây dựng, người thợ điện không được phép cưa một khúc gỗ cho anh mà phải đem khúc gỗ ấy đến xưởng cưa, ông thầy dạy học không thể cung ứng cho các sinh viên một sinh hoạt ngoài giờ học; những công nhân đã bị người ta rầy la khi làm việc vì đã tỏ ra quá nhiệt tình và đã bày ra thêm một lượng công việc lớn hơn mức trung bình.
Người ta lại phải tự hỏi: khi nào phải làm việc lành? Có phải tôn trọng hay bỏ qua những luật lệ tỉ mỉ này không?
Thí dụ nêu trên về tình hình lao động khiến chúng ta phải nêu lên mấy câu hỏi. Chúa Giêsu liệu có phải giận dữ rảo mắt nhìn ta khi thấy ta đôi khi vì những luật lệ tỉ mỉ này mà làm cho lòng quảng đại khó được thực hiện chăng? Chúng ta xây dựng loại thế giới nào khi chính những con người cần cù lao động lại bị coi như làm hại cho những kẻ lười biếng? Và biết bao người trong chúng ta thường ỷ vào những quy ước, văn bản đã ký, những nỗi lo toan việc chung để thoái thác một đơn thỉnh cầu và xếp lại hồ sơ hay gọi điện thoại đẩy công việc đó cho một người khác?
Phần Chúa Giêsu, Người đã trả lời những câu hỏi này và khi thấy việc lành cần làm thì Người đã làm ngay.
Suy niệm 3: CÓ ĐƯỢC PHÉP LÀM ĐIỀU THIỆN TRONG NGÀY SABÁT KHÔNG?
Khi nói đến Đức Giêsu, hẳn ai ai trong chúng ta cũng đều nghĩ ngay đến một Đức Giêsu nhân từ, hiền hậu và khiêm nhường. Mà quả thật là như vậy, bởi đã có lần Ngài nói: hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường; hay trong các cử chỉ, hành động của Ngài cũng đều toát lên bản chất đó.
Tuy nhiên, chúng ta thấy có những lúc Đức Giêsu rất cương nghị. Chẳng hạn như khi Ngài loan báo cuộc khổ nạn thì Phêrô đứng ra ngăn cản Ngài, Ngài sẵn sàng mắng Phêrô là Satan và đuổi ông xéo lại đằng sau. Hay khi Ngài lên đền thờ Giêrusalem và thấy người ta buôn bán đủ thứ trong đền thờ, Ngài đã nổi nóng và lấy giây bện thành roi đánh đuổi và lật nhào bàn ghế của họ. Tại sao vậy? Thưa vì nếu những gì làm cho con người xa ơn cứu chuộc, hay làm cản trở sứ vụ cứu thế của Ngài thì Ngài không khoan nhượng. Bởi nếu khoan nhượng thì họ bị mất ơn cứu chuộc.
Hôm nay cũng vậy, Ngài tỏ ra buồn bực và mạnh mẽ lên án cách nặng nề những người đang đứng đó với Ngài bởi vì lòng họ hóa ra chai đá, cứng cỏi, nên không thể có một cái nhìn tích cực về những việc làm tốt đẹp, và, như một điều tất yếu, họ khó có thể đón nhận được hồng ân cứu độ vì sự kiêu ngạo đã phủ lấp tâm hồn họ.
Lời Chúa hôm nay cật vấn lương tâm mỗi chúng ta. Liệu có khi nào vì ích kỷ, ghen tương và vụ luật mà chúng ta không thể có một cái nhìn tích cực hay nhìn đúng sự việc tốt lành của anh chị em mình? Hay là chúng ta chỉ tìm cơ hội để thọc gậy bánh xe, làm cho người anh chị em chúng ta khó lòng thi hành điều tốt đẹp mà họ được thúc đẩy để làm?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết nghĩ tốt cho người khác; hay khi muốn sửa lỗi cho ai thì chính mình phải nhìn nhận bản thân cũng có những lỗi đó. Có thế, chúng ta mới trở thành môn đệ thực thụ của Chúa. Amen.
19/01 Cốt lõi của Lề Luật
- Viết bởi Mc 2, 23-28
Cốt lõi của Lề Luật.
Thứ Ba tuần 2 thường niên.
"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".
LỜI CHÚA: Mc 2, 23-28
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?" Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Linh hồn của Lề Luật
Nói về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: "Luật pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.
Vào thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.
Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu; không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại, tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật lệ bất công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành năm 1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.
Là một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân, tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ, đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ lề luật, đó là tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Thiên Chúa phục vụ con người
Vào ngày sa bát Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Các môn đệ Người bắt đầu bứt lúa trong khi đi đường. Nhưng người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giêsu: "Ông coi ngày sa bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!"
Đức Giêsu nói: "Ngày sa bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa bát. Bởi đó con người làm chủ luôn ngày sa bát. (Mc. 2, 23-24. 27-28)
Điều khiến ta ngạc nhiên nhất khi đọc trích đoạn Phúc âm này không phải là việc Chúa Giêsu đặt mình ở trên luật về ngày sa-bát hay là muốn cho truyền thống mang một sắc thái khác, mà đúng hơn là việc Người tỏ cho ta biết rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người.
Ngày sa-bát, ngày của Thiên Chúa
Khi viết tường thuật về việc Chúa tạo dựng trời đất muôn vật, các tác giả theo truyền thống tư tế đã xếp đặt cho công việc tạo dựng này được hoàn tất trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy Chúa nghỉ ngơi: đó là ngàyThiên Chúa dành cho chính mình. Vì thế, "ngày-của-chúa" đó, dân chúng phải sống và làm việc vì Chúa, cho Chúa, và ngày đó vì thế đã trở thành ngày dành cho việc phụng thờ.Cho nên các linh mục là những người phải lo viêc Đền thờ, có giảng giải và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giữ ngày chúa nhật như kiêng việc xác, đi lễ đọc kinh, làm việc đạo đức và từ thiện....thì cũng là điều dễ hiểu và bình thường thôi.
Vậy mà Chúa Giêsu lại nói: "Cái ngày mà anh em coi như thuộc về Thiên Chúa, ngày ấy lại được làm ra vì anh em". Có nghía là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã hướng cuộc sống, sự hiện hữu của mình vì con người.
Một Thiên Chúa phục vụ
Thiên Chúa phục vụ con người, đây không phải là một mạc khải mới mẻ. Tất cả lịch sử của dân được tuyển chọn đều kể lại cho ta hay Đức Giavê đã sẵn sàng phục vụ như thế nào: đem họ ra khỏi Ai cập, đưa họ từ chốn lưu đầy trở về, lập vương quốc cho Đavít... Cả khi họ hối lỗi trở về, thì Chúa vẫn sẵn sàng thứ tha. Vừa thoáng có dấu hiệu của sự hối cải, trở về là Chúa hoan hỉ, và quên đi ngay những đe dọa trừng phạt.
Và đấy chính là điều Chúa muốn khẳng dịnh lại khi nói rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người. Tất cả những gì liên quan tới Chúa, thì Người đã ràng buộc nó vào vận mệnh của chúng ta. Thiên Chúa đã hạ mình phục vụ ta, để ta cũng theo gương Người mà phục người khác như vậy.
Mạc khải này đưa chúng ta đến câu hỏi sau đây: Ta có đi đúng đường khi giữ cũng như bảo người khác giữ ngày của Chúa? Phải chăng ta chỉ nhắc lại suông bằng lời mà không thực hành bằng việc, mạc khải Chúa đã tỏ cho ta là Thiên Chúa phục vụ con người? Phục vụ tha nhân, há chẳng phải là nét cao cả, là điểm nổi bật trong đời sống Kitô hữu, và là con dường hay nhất giúp ta đến và sống với tha nhân sao?
Thiên Chúa phục vụ! Thiên-Chúa-vì-con-người!
Ai đón nhận Tin Mừng này sẽ không còn phải sợ mình không thuộc về Chúa vậy.
Suy niệm 3: TRẢ LẠI CHO LUẬT Ý NGHĨA CỦA NÓ!
Luật ngày Sabát chính là luật quan trọng của người Dothái. Tuy nhiên, vì luật này, mà đã biết bao nhiêu lần giữa Đức Giêsu và người Pharisêu xảy ra tranh cãi, bởi lẽ với Đức Giêsu thì coi luật vì con người, còn với kẻ chống đối Ngài thì cho rằng con người nên công chính vì luật.
Thật vậy, Đức Giêsu không phải là người đến để bãi bỏ lề luật, Ngài đến để kiện toàn. Tuy nhiên, Ngài nhìn và coi luật là thứ yếu, nó chỉ nắm vai trò phục vụ con người, vì vậy, nó không phải là tất cả và mang tính sống còn! Nếu luật đưa ra mà không làm cho con người có giá trị nhân linh trước mặt Chúa và sống tốt với nhau hơn hay không đem lại bình an, hạnh phúc cho người thi hành thì luật đó phải được thay thế.
Việc trung thành giữ luật ngày Sabát mà khiến lòng con người ra trai cứng, dửng dưng trước sự đói khát, khổ sở, hay ốm đau, chết chóc thì hoàn toàn không phù hợp với tinh thần cũng như mục đích nguyên thủy của luật. Không thể hoàn toàn dựa trên luật để đánh giá đồng đều lòng đạo đức của mọi người. Cần phải áp dụng theo từng người, trong những hoàn cảnh nhất định. Vì thế: "Ngày Sabát được tạo ra vì con người, chứ không phải con người cho ngày Sabat" (Mc 2, 27).
Ngày nay, qua lối thực hành đạo của chúng ta, vẫn còn đó những người luôn coi việc giữ luật cách nghiêm ngặt, cứng ngắc là điều nên làm và họ luôn coi đây là chuẩn mực để được coi là đạo đức! Tuy nhiên, khi trở về với những lời giáo huấn và tinh thần của Đức Giêsu, nhất là những việc Ngài làm, thì hẳn chúng ta phải xem lại!
Liệu rằng khi chúng ta làm việc thiện rồi để khoe khoang; hay là nhân danh đạo đức để xử sự bất nhân với anh chị em mình; hoặc tự cho mình là người giữ luật cách trung thành, nhưng lại coi thường, khinh bỉ hay luôn cho mình là người mẫu lý tưởng bắt mọi người phải quy phục thì liệu có phù hợp với giáo huấn của Chúa và cốt lõi của Luật không??? Hay chúng ta đang bị chất tố Pharisêu chỉ đạo lối nhìn và quan điểm để rồi mình trở thành bản sao của nhóm người giả hình thời hiện đại?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết giữ luật vì lòng mến; đồng thời luôn biết yêu thương anh chị em mình bằng một tình yêu chân thành, thiết thực dựa trên đức ái. Amen.
18/01 Cốt lõi của đạo chính là tình thương
- Viết bởi Vinc Ngọc Biển
Cốt lõi của đạo chính là tình thương.
Thứ Hai tuần 2 thường niên.
"Tân lang còn ở với họ".
LỜI CHÚA: Mc 2, 18-22
Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Cốt lõi của đạo
Trong những thập niên gần đây, mặc dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và chính trị lại càng đậm nét hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như chấm dứt, nhưng chiến tranh tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa những người khác tôn giáo với nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn vào thảm cảnh ấy, ai cũng thắc mắc tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những người có tôn giáo lại nhân danh tôn giáo của mình để gây chiến với người khác hay với chính những người đồng đạo của mình? Câu trả lời thật đơn giản: sở dĩ người có tôn giáo có thái độ quá khích và bất khoan nhượng, là vì họ chưa sống đúng cái cốt lõi của đạo. Xét cho cùng, cái cốt lõi của tôn giáo nào cũng là tình thương.
Chúa Giêsu cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề, đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.
Suốt cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.
Chiêm ngắm thái độ của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Trong cuộc sống đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng cách? Ngày Chúa nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay không? Thật ra còn có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không thể không đặt ra để tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái chưa? Tôi có yêu thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của người xung quanh tôi có phải là một tội không?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu thương, rằng cốt lõi của Kitô giáo chính là tình thương.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Thời gian nghỉ lễ
"Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông không ăn chay?" Đức Giêsu trả lời: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được." (Mc. 2, 18b-19)
Trích đoạn Phúc âm này ghép hai mẩu chuyện có vẻ như không ăn ý với nhau: cuộc tranh biện về sự ăn chay và lời kêu gọi canh tân nội tâm. Nhưng thực ra lại có sự hòa hợp rất chặt chẽ. Thời đại cứu độ của Chúa Giêsu mang lại niềm vui. Thời đại này hoàn toàn mới, không thể đi đôi với trật tự cũ thuộc quá khứ. Những thực hành cũ kỹ của Đạo Do thái phải nhường bước cho Tin Mừng đi lên. Chúng ta sẽ đọc hai mẩu chuyện này từ góc độ của việc mừng ngày lễ.
Mừng lễ chính là nhìn lại quá khứ
Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, La Fête des Fous, thần học gia Harvey Cox đã phân tích mối liên hệ của con người với cuộc lễ. Trong cuộc lễ, ông nói, con người tổng hợp quá khứ và loan báo tương lai của mình. Trong một tiệc cưới, người ta làm gì, nếu không phải là gom góp lại cái quá khứ yêu đương của cặp trai gái và rọi chiếu nó vào trong tương lai? Chính bởi vì người ta đã yêu thương nhau và muốn yêu nhau nữa, nên mới dừng lại trong lúc này để nói lên câu "Ta yêu nhau"
Tác giả nói thêm: Cái quá khứ mà người ta tìm lại được trong cuộc lễ đó, đã đưọc gạn lọc, biến đổi và làm cho nên đẹp. Còn lại chỉ là những giờ phút hạnh phúc và dẽ dàng. Chính từ đó mà buôỉ lễ tiệc mới có được vẻ vui chơi nhộn nhịp để người ta ăn uống vui đùa và ca hát.
Cũng là để cho người ta sẵn sàng thăng tiến
Chiều hướng thư hai của buổi lễ là dự phóng cho một tương lai mang nhiều hy vọng. Trong mọi cuộc lễ đều có một ý hưóng làm mới lại. Trong hôn lễ, đôi uyên ương muốn làm mới lại tình yêu thuở ban đầu của họ, muốn lấy lại nghị lực. Cuộc lễ như cung cấp cho người ta một thứ rượu mới.
Rượu mới cần phải đựng trong những bầu da mới mà Chúa Giêsu nói đến trong phần hai của trích đoạn Phúc âm này, mời gọi ta phải trở nên những con người mới để sẵn sàng đi vào tương lai.
Còn những bầu da cũ ám chỉ những con người mà đối với họ ngày lễ lại rất ảm đạm, chỉ khơi lại trong lòng họ những nỗi buồn nhỏ lệ. Họ không thể thấy hạnh phúc mà không đau lòng. Họ không chịu đựng được thứ rượu mới, thứ rượu mang niềm hy vọng cho những ngày mai tốt đẹp. Đúng ra những con người này đã đánh mất ý thức về tương lai.
Tóm lại, điều Chúa đòi hỏi chúng ta hôm nay là chúng ta có còn khả năng mừng lễ không? Chúng ta có thể tìm ôn lại dĩ vãng, cái cũ để rút ra cái mới hầu thăng tiến con người ta không? Nếu có, là chúng ta đã đang đi trên con đường dẫn ta vào dự tiệc Nước Trời rồi đó.
Suy niệm 3: BÊN TRONG THÌ GIÁ TRỊ HƠN BỀ NGOÀI
(Mc 2, 18-22)
Đã rất nhiều lần người Pharisêu dùng biện pháp "nhất tiễn diệt song điêu" để gài bẫy Đức Giêsu. Hôm nay, cũng chiêu thức ấy, họ tìm cách đưa cả thầy lẫn trò vào chòng khi cất tiếng hỏi Đức Giêsu: "Tại sao môn đệ của ông Gioan và người Pharisêu ăn chay, trong khi đó môn đệ của ông lại không ăn chay?".
Họ hỏi Đức Giêsu về lý do tại sao các môn đệ của Ngài không ăn chay, nhưng thực ra họ đang tìm cách trách móc Đức Giêsu! Nếu Đức Giêsu trả lời các môn đệ không cần ăn chay, thì vô hình chung Ngài chống luật Môsê; còn nếu Đức Giêsu thuận theo và yêu cầu các môn đệ ăn chay theo ý của những người Pharisêu, thì quả thực, Ngài đang phủ nhận sự hiện diện của mình, bởi tất cả mọi điều mà dân Israel mong đợi, thì nay Ngài đến, Ngài đang là hiện thân của niềm hy vọng đó. Vậy ăn chay là để mong đợi, nay điều mong đợi đó đã đến, thì không có lý do gì phải ăn chay nữa!
Biết được ý đồ thâm độc của họ, nên Đức Giêsu đã lấy một ví dụ qua hình ảnh vải mới vá vào áo cũ và rượu mới đổ bầu da cũ để thấy được điều nghịch lý nơi câu hỏi của nhóm người Pharisêu. Đây cũng chính là câu trả lời gián tiếp đầy khôn khéo, khiến họ không thể bắt bẻ được Ngài điều gì.
Trong cuộc sống thực tế, có khi chúng ta cũng chẳng khác gì những người Pharisêukhi xưa!
Nhiều khi đọc kinh rất nhiều, nhưng bảo tha thứ cho người làm phiền chúng ta thì không bao giờ! Hay đi lễ thường xuyên, nhưng có khi anh chị em cần đến sự giúp đỡ thì lại là điều xa vời với ta!
Hoặc cũng có những người tham gia hội đoàn này, hội đoàn kia chỉ để chỉ trích và bới bèo ra bọ mà không hề thay đổi lối sống cho tốt hơn!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy chú tâm đến nội dung bên trong hơn là những chuyện bề ngoài. Đừng vì những điều phụ thuộc mà đánh mất đi giá trị của nội dung.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con biết chú trọng đến lối sống đạo hơn là hình thức. Một trái tim biết yêu thương thực sự thay cho hình thức giả tạo trên đầu môi chóp lưỡi. Amen
Vinc. Ngọc Biển
17/01 Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana
- Viết bởi Ga 2, 1-12
Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana.
Chúa Nhật tuần 2 thường niên năm C.
"Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa".
LỜI CHÚA: Ga 2, 1-12
Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến". Mẹ Người nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo". Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum". Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.
{Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.}
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Is 62,1-5; 1Cr 12,4-11; Ga 2,1-11
1. Phép lạ
Đoạn Tin Mừng vừa nghe không nói rõ là tiệc cưới của ai, nhưng chắc chắn là của một người trong họ hàng thân thiết với Chúa, vì người ta thấy có sự hiện diện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ.
Theo tục lệ của người Do Thái, thì đám cưới thường kéo dài tới 7 ngày. Dĩ nhiên khách được mời không bắt buộc phải ở lại dự tiệc suốt 7 ngày. nhưng số người ở lại cho tới hồi kết thúc có lẽ không ít, nên xảy ra nạn thiếu rượu. Thiếu rượu nửa chừng trong một tiệc cưới quả là một tai hoạ. Danh dự của đôi tân hôn có thể bị thương tổn. Như thế, chúng ta có thể tưởng tượng ra nỗi lo âu và cảnh chạy đôn chạy đáo của nhà đám. Đức Maria, mẹ của Chúa Giêsu, với sự nhạy cảm và tinh tế của một người phụ nữ, hẳn đã nhận ra được những sự lục đục diễn ra ở hậu trường của tiệc cưới và hiểu được nỗi khốn quẫn của nhà đám. Dù sao thì Mẹ Maria đã là người đầu tiên lên tiếng về tình trạng này: họ không còn rượu nữa.
Một nhận định vô tư về tình hình hay còn hàm chứa một lời cầu xin? Có thể đây chỉ là một lời tỏ bày, báo động với Chúa Giêsu về nỗi quẫn bách của nhà đám, không nhất thiết Mẹ Maria phải xin một phép lạ. Điều quan trọng hơn ở đây là Mẹ Maria đã đặt Chúa Giêsu trước tình trạng quẫn bách của con người. Nhưng người đọc không thể không sửng sốt trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Này bà, đối với tôi và bà, nào có việc gì. Một câu trả lời xem ra có vẻ cứng cỏi và xa vắng. Các nhà chú giải cắt nghĩa rằng trong một số trường hợp, câu nói này khá thông thường trong các giới Do Thái, và trong ngôn ngữ Hy Lạp, thì có nghĩa là: việc gì đến bà. Câu trả lời cua Chúa Giêsu ngụ ý cho thấy hai người, Người và mẹ Người không ở trên cùng một bình diện. Hành động của Người sẽ vượt lên trên rất xa điều Mẹ Maria có thể nghĩ đến. Tiếng bà dùng ở đây để chỉ Mẹ Maria không hề có nghĩa bất kính, mà chỉ là một kiểu xưng hô theo tập tục của của người Hy Lạp.
Như thế giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria có một sự khác biệt trong tầm nhìn. Đối với Chúa Giêsu phép lạ này bày tỏ vinh quang của Người được thực hiện là theo ý định của Cha Người. Sau cùng phép lạ đã xảy ra, cơn khốn quẫn của nhà đám được giải quyết một cách dư dật quá lòng mong muốn, sáu chum nước lã, mỗi chum chứa hai hoặc ba thùng, biến thành một loại rượu ngon. Nước lã biến thành rượu ngon. Thế nhưng nếu lưu ý chúng ta sẽ thấy, phép lạ đã không diễn ra chỉ bằng một lời phán, nhưng đã khởi sự từ việc nhận ra sự khốn quẫn của người khác, từ công lao khó nhọc của các gia nhân gánh đầy mấy chum nước.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận, dù là trong phép lạ, thì sự tham gia cộng tác của con người cũng vẫn là điều cần thiết.
2. Dấu lạ đầu tiên
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Kitô hữu ngày nay dễ dàng biết rằng Đức Giêsu có thể làm phép lạ hóa nước thành rượu thượng hảo hạng, vì Ngài là Thiên Chúa nhập thể; tuy nhiên những người đồng dự tiệc với Đức Giêsu không hiểu được như vậy. Vì vậy, biến cố Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này đã tác động mạnh mẽ trên những người biết sự việc này. Qua dấu lạ này, người ta và các môn đệ của Đức Giêsu nhận ra Ngài là một con người rất đặc biệt, Ngài là người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến.
"Vạn sự khởi đầu nan". Đức Giêsu bắt đầu sự nghiệp bằng việc rao giảng. Không biết Ngài rao giảng có thành công hơn những thầy dạy khác trong dân Do Thái không? Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu theo sự thỉnh cầu của Đức Mẹ. Tin Mừng Gioan cho thấy Đức Maria là người đầu tiên hy vọng vào Đức Giêsu, tin vào Đức Giêsu! Người ta tin vào Đức Giêsu sau khi thấy dấu lạ Ngài làm, còn Đức Maria tin vào Đức Giêsu trước cả khi Đức Giêsu làm phép lạ. Đức Maria cũng là người biết Đức Giêsu hơn ai khác: Mẹ dám ngỏ lời nhắc nhở Đức Giêsu: "họ hết rượu rồi".
Đức Maria rất tế nhị, Mẹ biết điều làm cho đôi tân hôn bối rối và không biết giải quyết làm sao. Mẹ biết nếu Đức Giêsu biết điều này, Đức Giêsu có thể làm một cái gì đó cho họ; và Mẹ đã không thất vọng. Qua sự kiện này, chúng ta thấy Đức Mẹ hiểu Đức Giêsu đến độ nào! "Ngài nói sao, các anh cứ làm như vậy". Đức Giêsu đã can thiệp như Mẹ tiên đoán. Thật là đúng khi các Kitô hữu tôn Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp, vì ngày xưa Mẹ đã biết, và đã tế nhị can thiệp với Thiên Chúa cho con người, thì nay Mẹ cũng vẫn làm như vậy.
"Qua dấu lạ này, các môn đệ đã tin vào Ngài" (Ga.2, 11). Các môn đệ của Đức Giêsu tin Đức Giêsu là ai? Chắc chắn không phải các môn đệ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể vì lúc đó mầu nhiệm cao siêu này chưa được con người nhận rõ. Có lẽ các môn đệ tin Đức Giêsu là Người từ Thiên Chúa, Người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến để yêu thương và giúp đỡ dân. Cho dù người ta có biết có ý thức hay không, Đức Giêsu vẫn là Thiên Chúa nhập thể. Thế nhưng, điều này các môn đệ chưa ý thức, chưa biết được vào thời điểm đó. Đức Giêsu cũng là người phải khơi dậy và củng cố đức tin của các môn đệ đối với Ngài. Sau này Ngài hỏi các môn đệ: "Người ta bảo Con Người là ai?.... Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?" (Mt.16, 16).
Đức tin của các môn đệ đối với Đức Giêsu mỗi ngày một lớn dần, nhưng không phải là đồng đều đối với tất cả mọi người. Một số môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy nhiều điều khó nghe, đã bỏ Đức Giêsu không theo Ngài nữa: "Lời này chướng quá, ai nghe cho nổi......Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Đức Giêsu nữa" (Ga.6, 60.66). Khủng hoảng đức tin vào Đức Giêsu lên tột đỉnh với biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, nhưng với biến cố Phục Sinh và những lần hiện ra cho các tông đồ, các môn đệ Đức Giêsu tin vào Đức Giêsu mãnh liệt hơn, và biết Ngài là ai rõ ràng hơn sau biến cố Phục Sinh.
Với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra chân tướng của Đức Giêsu: Người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa. Cũng với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra Thánh Thần là ai, sau khi đã nhận ra Đức Giêsu là ai, sau khi nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với họ (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13). Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa; Ngài biến đổi lòng người, Ngài giúp con người tin vào Đức Giêsu.
Theo thánh Phaolô, Thánh Thần làm sinh động Hội Thánh qua những ân sủng của Ngài. Tất cả những gì hay tốt con người có, đặc biệt những gì con người đang phục vụ Giáo Hội, đều đến từ Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để giảng dậy, ban ơn quảng đại để phục vụ anh chị em mình, ban đặc sủng để chữa bệnh. Thánh Thần ở nơi cung lòng mỗi người (Ga.14, 16; 1Cor.3, 16-17).
Thánh Thần đổi mới mọi sự, đổi mới vận mạng một dân thành: thành Yêrusalem không còn bị ruồng bỏ nữa, nhưng được yêu vì. Cũng chính Thánh Thần biến đổi lòng dạ con người, đưa dẫn con người trở về với Thiên Chúa, đưa con người trở về với anh chị em mình. Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn con người, thánh hóa con người, làm cho con người trở nên dễ yêu dễ thương, trở nên xinh đẹp trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người. "Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ" (Is.62, 5).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có cảm nghiệm những gì xảy tới cho những anh em sống xung quanh, liên hệ mật thiết với bạn, và bạn đã xin Thiên Chúa can thiệp không? Xin chia sẻ nếu bạn có điều này.
2. Chỉ với phép lạ biến nước thành bánh, đã đủ cho người ta kết luận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể chưa? Tại sao?
3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ.
3. Ngài là ai?
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu sống một thời gian dài ở Nadarét, như một người bình thường, một người thợ làm vất vả mới có đủ lương thực sống. Sau ba mươi năm trời, nghe tin Gioan làm phép rửa thống hối tại sông Giordan, Đức Giêsu được thúc đẩy để đi chịu phép rửa, rồi Ngài được Thánh Thần dẫn vào sa mạc để ăn chay cầu nguyện, Ngài thấy sứ mạng và bắt đầu ra đi rao giảng, thu tập các môn đồ. Hôm nay Tin Mừng cho thấy Ngài xuất hiện ở tiệc cưới Cana.
Đức Maria tin vào Con mình
Đức Maria cảm thông với đôi tân hôn và những người trong gia đình: nếu hết rượu giữa chừng, người ta sẽ đàm tiếu, và gia đình nghèo này làm sao vượt qua được? Đức Maria nói với Đức Giêsu: "Họ hết rượu rồi". Tại sao Đức Mẹ lại nói với Đức Giêsu? Như thể Đức Mẹ hiểu phản ứng của Đức Giêsu trước những hoàn cảnh như vậy!
Hãy đặt mình vào trường hợp những người ở bên Đức Giêsu và Đức Mẹ lúc đó: họ hiểu gì? Có lẽ họ chẳng hiểu gì! Có thể có người nghĩ: "bà này vô duyên! Họ hết rượu thì kệ họ, con bà làm gì được!" Và Đức Giêsu đã trả lời Đức Mẹ như vậy: "Việc đó có liên quan gì đến bà và tôi?". Tuy vậy, Đức Mẹ vẫn nói với những người giúp việc: "Ngài nói sao cứ làm như vậy". Đức Maria hiểu Đức Giêsu hơn bất cứ ai, dường như Đức Mẹ biết Đức Giêsu sẽ làm một cái gì đó để cứu gỡ cặp hôn nhân và gia đình trong cảnh khốn cùng này. Quá tuyệt thái độ của hai người hiểu nhau ở đây.
Đức Giêsu đã làm điều Ngài đã làm. Phải chăng vì Đức Mẹ, hay cứ bình thường Ngài phản ứng như vậy? Có thể không vì Đức Mẹ, nhưng Đức Mẹ biết Đức Giêsu sẽ phản ứng trước hoàn cảnh như vậy: Ngài vẫn động lòng trước nỗi khổ của con người.
Các môn đồ tin vào Đức Giêsu
Những người giúp việc biết nước đã biến thành rượu. Người chủ tiệc không biết rượu từ đâu có, nhưng các người giúp việc thì biết. Chắc là những người giúp việc ngạc nhiên và thán phục Đức Giêsu.
Ngài là người của Thiên Chúa, vì đã làm được việc phi thường. Các môn đồ đã tin vào Ngài. Ở vào thời điểm này, chưa có ai biết Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì người Do Thái tin Thiên Chúa là Đấng duy nhất, họ chưa biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị. Thiên Chúa là Ba Ngôi chỉ được mặc khải nhờ Đức Giêsu sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết mà thôi.
Niềm tin và sự hiểu biết của các tông đồ mỗi ngày mỗi tăng, và cũng có những khủng hoảng như khi Đức Giêsu mặc khải "mình Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống". Một số môn đồ bỏ đi vì thấy lời của Đức Giêsu chói tai quá (Ga.6, 60.67). Cuộc khủng hoảng cao độ nhất là biến cố Đức Giêsu bị giết trên thập giá. Sau khi Đức Giêsu sống lại, nhờ ơn của Thánh Thần các tông đồ đã nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể.
Hồng ân và đặc sủng đều do Thánh Thần
Thánh Phaolô cho biết, tất cả đều do Thánh Thần, ngay cả hồng ân đức tin: "không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà lại không do Thánh Thần" (1Cor.12, 3).
Tất cả đều từ Thiên Chúa mà đến, đều do một Chúa, đều nhờ Thánh Thần. Ơn phục vụ, ơn khôn ngoan, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định các thần, ơn ngôn ngữ, ơn giải thích, v.v... tất cả đều từ Thiên Chúa, đều do Thánh Thần mà có.
Ơn sủng Thiên Chúa đang bao trùm chúng ta. Chúng ta hiện hữu, ăn uống, nghỉ ngơi, làm việc, sức khỏe, học hành, hiểu biết, v.v.... tất cả đều bởi Thiên Chúa, đều do Thánh Thần. Chúng ta đang sống trong tình yêu. Hãy nhận biết điều đó, để hạnh phúc và cảm tạ Thiên Chúa.
Chính nhờ Đức Giêsu mà chúng ta có tất cả. Đức Giêsu là qùa tặng qúy nhất mà Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta, thì Ngài còn gì với chúng ta nữa! Thiên Chúa là quà tặng qúy nhất mà mỗi người chúng ta có, và không ai có thể tước mất được. Tạ ơn Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có kinh nghiệm về hai người hiểu nhau không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm đó nếu có thể được.
2. Bạn có kinh nghiệm (tin) Thiên Chúa yêu bạn, và sẽ làm điều tốt nhất cho bạn không? Bạn có kinh nghiệm "muốn gì Thiên Chúa cũng chiều" bạn không? Xin chia sẻ nếu có thể được.
3. Điều gì quý nhất với bạn? Bạn hay cầu nguyện để được điều gì nhất? Bạn có hay cầu nguyện xin Chúa ban cho bạn điều bạn cho là qúy nhất không? Nếu không thì tại sao?
4. Bạn có kinh nghiệm "khủng hoảng đức tin" không? Làm sao bạn vượt qua được?
4. Ân sủng
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tất cả là hồng ân. Hồng ân, ân sủng, đặc ân, đặc sủng, quà tặng, tài năng, ân lộc, ân phúc, phúc lộc, thiên tài, an lạc và hạnh phúc đều là những món qùa được trao ban. Người ta thường nói "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Trải qua bao đời, cha ông của chúng ta đã nghiệm ra rằng con người không thể làm chủ toàn diện đời mình. Trước hết, mỗi người đón nhận hồng ân sự sống để được hiện hữu. Mỗi thụ tạo lãnh nhận một kho tàng mầu nhiệm một cách nhưng không. Người hữu thần tin tưởng vào Thượng Đế, Đấng đã tạo dựng và quan phòng vạn vật muôn loài trong trật tự. Người vô thần cắt đứt nguồn gốc sáng tạo và chỉ chú tâm vào nỗ lực của con người hiện tại. Có người nghĩ rằng với khả năng và nỗ lực tu tâm và tu thân, con người có thể quyết định hoàn toàn số mệnh của mình. Là người trí tuệ, chúng ta nên mở rộng tâm trí để học hỏi và trau dồi kiến thức thêm. Quan sát sự sống muôn loài và vũ trụ vạn vật bao la, điều quan trọng là chúng ta hãy khiêm tốn chấp nhận thân phận yếu đuối, mỏng giòn và rất giới hạn của mình.
Phần Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật 2 Thường Niên giúp chúng ta có một xác tín về ân sủng thiêng liêng. Thiên Chúa sáng tạo, dẫn dắt điều khiển sự vận hành của vũ trụ và sự sống của muôn loài. Con người là tạo vật cao quý mà Thiên Chúa đã tác tạo. Mỗi một con người được tựu thai là một tạo vật hoàn toàn mới và duy nhất. Mọi khả năng tiềm tàng về di truyền đã được in ghi trong từng tế bào của mỗi sự sống. Thượng Đế cho con người có ý chí, lý trí, ước muốn, tự do và khả năng để phát triển tới đỉnh cao. Con người có thể dùng khả năng và nỗ lực quyết tâm tu tâm và tu thân để trở nên con người hữu dụng và trọn hảo. Tiên tri Isaia đã diễn tả: "Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Thiên Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay." (Is 62,3) Đấng Tạo Hoá trao ban cho mỗi loài có khả năng truyền sinh giống nòi theo cách thế riêng biệt. Sự sinh sôi nảy nở và tăng triển thêm nhiều sẽ làm tăng vẻ huy hoàng của vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa đã chúc phúc cho mọi loài được tốt đẹp.
Chúng ta thử suy về nguồn sự sống trong con người cụ thể. Trước khi được hiện hữu, chúng ta chỉ là không. Đã có một khoảnh khắc mỗi người được bắt đầu hiện hữu. Mầu nhiệm sự sống khởi đầu từ sự kết hợp giữa mầm sống từ cha và mẹ. Ôi thật bé nhỏ và nhiệm mầu! Chỉ trong tế bào tí ti đó đã ẩn tàng mọi sự. Sự sống đó không chỉ bắt đầu từ cha và mẹ nhưng nó được nối dài từ thuở tạo dựng. Mầm sống đó được truyền sinh qua vô lượng kiếp. Sự sống phát sinh ra sự sống. Vậy sự sống trong chúng ta đã được truyền sinh qua sự sống của muôn thế hệ cha ông. Cha mẹ cộng tác với Tạo Hoá sáng tạo sự sống nơi mỗi con người một cách đặc thù và riêng biệt. Mỗi cá nhân đều có Deoxyribonucleic acid (DNA) khác nhau và dấu chỉ tay cũng khác biệt. Thật lạ lùng!
Người khôn ngoan và trí tuệ là đừng từ chối điều gì mà mình chưa được học hiểu. Vì càng tìm hiểu và học hỏi, chúng ta càng hiện hữu thêm. Chúng ta biết rằng cả kho tàng kiến thức của loài người góp lại cũng chẳng thấm vào đâu so với sự diễn tiến, hiện hữu và sinh tồn của vũ trụ. Nhiều người có trí khôn hiểu biết còn nông cạn, chưa thấu hiểu được lòng người và cũng chẳng thông suốt thế thái nhân tình, nhưng lại phán quyết nhiều điều vô căn cớ. Có người lại mạnh miệng lên tiếng phủ nhận sự hiện hữu của Đấng tác thành mọi sự. Khi không muốn qui phục, người ta chỉ việc đơn giản chối bỏ uy quyền của Thượng Đế và nói rằng mọi sự hiện hữu là tự nhiên mà có. Họ nghĩ rằng những người hữu thần tin vào thượng đế là thiếu trí tuệ và chưa giác ngộ. Đối với họ, thần thánh chỉ như là bánh vẽ hù doạ những người sơ khai và âu trĩ. Có lẽ chính họ còn đang ngồi trong bóng tối của vô minh.
Qua Kinh Thánh mạc khải và quan sát ngắm nhìn sự vạn vần trong vũ trụ, con người nhận ra nguyên nhân cội rễ của muôn loài. Đó chính là nguyên lý nhân quả. Trông quả thì biết cây. Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế. Người đã dùng mọi hình thức cụ thể để tỏ bày sự quan tâm chăm sóc, khế ước yêu thương ràng buộc và sự trung tín trong giao ước. Là Kitô hữu, chúng ta tin và tôn thờ một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương. Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh đôi trai tài gái sắc để diễn tả tình yêu sống động của Đấng Tác Tạo: "Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ." (Is 62,5)
Thánh Phaolô phân tích một cách khá rõ ràng về những đặc sủng mà mỗi người được lãnh nhận: "Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí." (1 Cr 12,4) Quan sát cuộc sống trong bất cứ một nhóm người, một hội, môt tổ chức hay một sinh hoạt chung nào cũng đều có con người có khả năng khác nhau. Mỗi người đều nhận lãnh khả năng để sinh lợi. Thần khí ban cho mỗi người một cách: Người nói tiên tri, kẻ giảng dạy, người được ơn chữa bệnh, kẻ làm phép lạ và người được ơn nói nhiều thứ tiếng... Như trong dụ ngôn về nén bạc, mỗi người đều nhận số vốn khác nhau: Có kẻ nhận 5 nén bạc, người 2 nén và người 1 nén tuỳ theo khả năng. Khả năng, thời gian và tài lực là nguồn vốn của mỗi cá nhân. Điều quan trọng là mỗi người biết dùng tài năng ân sủng của mình để sinh hoa kết trái. Khả năng như hạt giống được trao, chúng ta phải biết gieo vãi, vun trồng và chăm sóc thì khả năng mới phát triển.
Mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư nhưng không thể tách rời. Sống là sống chung, sống cùng và sống với người khác, sự liên đới hỗ tương giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp: "Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung." (1 Cr 12,7) Không ai nhận ân sủng cho riêng mình nhưng đều vì ích lợi chung. Cuộc sống rất đa dạng. Lịch sử loài người phát triển từng bước liên tục và nối dài. Tất cả thành quả của chất xám tri thức đã đặt nền tảng phát minh trong mọi thời. Nhờ trí khôn, con người đã tìm ra được một số những nguyên nhân ẩn tàng trong thiên nhiên. Mỗi sự phát minh mới đều đặt nền tảng trên các định luật đã có trước. Sứ mệnh của con người là phục vụ lẫn nhau trong khả năng của mình. Con người có muôn trùng khả năng chuyên môn và công việc khác nhau để phục vụ công ích. Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng tin vào một Thiên Chúa: "Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa." (1 Cr 12,5)
Chúa Giêsu đầy quyền năng trong ý tưởng, lời nói và việc làm. Chúa đã hiện hữu từ đời đời có uy quyền sáng tạo và biến đổi cả tinh thần lẫn vật chất. Tại tiệc cưới Cana, qua lời khẩn nài của Mẹ Maria, Chúa Giêsu là làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu. Thánh Gioan đã viết: "Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana, miền Galilê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người." (Ga 2,11) Với sự cộng tác của con người, Chúa đã tỏ quyền năng và vinh quang của Ngài. Ngài không khoe khoang hô lớn nhưng chỉ hành động âm thầm qua những việc rất bình thường của gia nhân: Đức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng (Ga 2,7). Chỉ có các gia nhân biết sự việc đã xảy ra cũng giống như các mục đồng nhận diện ra Chúa nơi máng cỏ Belem.
Chúng ta hãy đến cùng Đức Maria, Mẹ là Đấng cầu bầu có thần thế trước tôn nhan Thiên Chúa. Mẹ sẽ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nghe lời của Thân Mẫu Chúa nói với các gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo." (Ga 2,5). Lạy Chúa, Chúa đã biến nước thành rượu ngon, xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con nên khí cụ bình an của Chúa.
5. Họ hết rượu rồi
TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa mến chuộng dân Người. Không những Người sinh xuống thế làm người để ở với chúng ta, Người còn chia sẻ với chúng ta trong mọi niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống hằng ngày. Đó là niềm an ủi và hi vọng của chúng ta. Như hôm nay, Người và Mẹ Người cùng đến dự tiệc cưới.
Tiệc cưới Cana hết rượu phải đối mặt với thất bại và bất hạnh. Nhìn vào tình hình thế giới đầu năm nay ta thấy không khác gì một đám cưới hết rượu. Ta cũng đang đối mặt với thất bại và bất hạnh. Không dám nói với Chúa vì tình hình tồi tệ này là hậu quả của việc ta đã không vâng nghe Lời Chúa, không thực hành Lời Chúa. Ta chỉ còn biết nhờ Đức Mẹ đệ đạt lên Chúa tình trạng thiếu thốn của ta, giống như Người đã đệ đạt nỗi thiếu thốn của đám cưới Cana.
Thưa Mẹ, chúng con đã hết rượu. Thế giới hôm nay đã hết rượu tự do dân chủ. Chúng con chỉ còn thứ nước lã nhạt phèo những lời hứa hẹn suông. Thế giới hôm nay đã cạn hết rượu tài nguyên phong phú. Trái đất chỉ còn là thứ nước lã khô cằn. Rừng cây bị đốn ngả nghiêng. Khoáng sản bị khai thác đến tận cùng. Cả đến bầu khí quyển cũng bị thương tổn nặng nề. Thế giới đã hết rượu hoà bình. Chiến tranh nối tiếp chiến tranh. Chiến tranh nóng dẫn đến chiến tranh lạnh, mở sang chiến tranh khủng bố và miên man với chiến tranh kinh tế. Thương trường trở thành chiến trường khốc liệt. Thiên hạ đã quá chén uống cạn nguồn tài chính nên thế giới hôm nay phải đối mặt với đói nghèo.
Đất nước chúng con đang thiếu rượu. Những người cầm quyền đã uống quá chén quyền lực nên tự do dân chủ chỉ còn là nước lã hứa hẹn nhạt thếch. Những nhóm lợi ích quá chén tham lam nên đa phần dân chúng phải uống thứ nước lã nghèo khổ, túng thiếu. Xã hội chẳng còn một giọt rượu đạo đức, chỉ còn thứ nước lã giả dối, cá nhân, ích kỷ và hưởng thụ.
Cả đời sống tu trì của chúng con cũng đang thiếu rượu trầm trọng. Chúng con không tích trữ đủ rượu lý tưởng nên vào đời tu, thay vì tìm Chúa, chúng con lại biến Chúa thành phương tiện để tìm những thứ khác. Chúng con thiếu rượu yêu mến nên cuộc sống tu trì trở nên bế tắc, giờ kinh giờ lễ trở nên gánh nặng thay vì niềm vui. Thiếu thứ rượu quên mình vì Chúa nên chúng con quên Chúa vì mình. Đã cạn rượu tu đức nên thay vì vào tu viện để tìm quên mình nhưng không biết từ lúc nào chúng con chỉ biết đòi hỏi. Rượu bác ái huynh đệ chưa đủ dùng mà chúng con lại quá chén nên thay vì xây dựng chúng con lại tàn phá cộng đoàn, thay vì nâng đỡ anh em, chúng con lại xét nét bắt bẻ nhau, thay vì quan tâm để giúp nhau thăng tiến, chúng con lại lườm nguýt chành choẹ nhau. Đi tu để thuộc trọn vẹn về Chúa, nhưng hình như chúng con đang thuộc về thế gian. Đi tu để chiến đấu với Ác thần nhưng hình như chúng con đang tùng phục nó. Chúng con đã hết rượu xin Mẹ cầu khẩn Chúa cho chúng con.
Chắc chắn Đức Mẹ sẽ nói với Chúa. Nhưng Đức Mẹ vẫn quay lại dặn dò chúng ta: "Người bảo gì, các con cứ việc làm theo". Sau cùng, Đức Mẹ đưa ta trở lại cốt lõi của vấn đề, đó là trở về với Chúa, phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa ta mới giải quyết được bế tắc của thế giới, của xã hội, của cộng đoàn và của chính bản thân ta.
Hãy xem Chúa bảo ta làm gì. Thật lạ lùng, Chúa bảo các gia nhân múc nước đổ đầy các chum đựng nước rửa chân tay. Sao thế nhỉ?
Múc nước là công việc tầm thường nhất. Qua đó, Chúa muốn bảo chúng ta đừng lo toan những chuyện đội đá vá trời, hãy làm những việc tầm thường nhất, những việc ai cũng chê bỏ, những việc bổn phận hằng ngày. Rượu là bữa tiệc lớn. Nước lã là công việc tầm thường hằng ngày đến chán ngấy. Thế nhưng Chúa bảo chúng ta muốn có rượu ngon ngày lễ trọng, hãy làm những công việc tầm thường, nhàm chán hằng ngày, những việc âm thầm chẳng ai biết đến.
Múc nước là công việc vô ích nhất. Vì tiệc đã gần tàn, người ta đã rửa chân rửa tay từ khi mới vào. Chúa muốn ta làm những việc xem ra vô ích vì Chúa chỉ muốn một điều là ta vâng lời. Vâng lời trọng hơn của lễ. Ý Chúa mới là quan trọng. Công việc chỉ là ta thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Chính thánh ý đem lại niềm vui và hạnh phúc.
Múc nước là việc phục vụ khiêm nhường nhất. Dùng để rửa chân tay cho khách. Chúa muốn chúng ta biết quan tâm đến người khác trong những điều nhỏ nhặt nhất. Trong bài Sách Thánh, Thánh Gioan buộc ta phải cầu nguyện cho người anh em lầm lỗi: "Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin, và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy". Như thế, chúng ta không chỉ xin rượu cho bản thân mà còn phải xin rượu cho nhau nữa. Và Thánh Gioan khích lệ ta cầu xin, hãy "mạnh dạn cầu xin vì Chúa sẽ nhậm lời khi ta xin điều hợp ý Chúa".
Múc nước là việc làm không thể thiếu trong bữa tiệc. Nước rửa chẳng có giá trị gì nhưng lại không thể thiếu. Những việc tầm thường ta làm không đáng kể, nhưng góp phần xây dựng cộng đoàn và xây dựng chính bản thân mình khi ta làm vì Chúa, vì anh em. Khi ta làm mọi việc tầm thường theo ý Chúa, Chúa sẽ làm cho những tầm thường, nhạt nhẽo trở thành thứ rượu ngon cho thế giới, cho cộng đoàn và cho bản thân ta.
Lạy Chúa, xin ban cho thế giới rượu mới bình an và thịnh vượng. Xin ban cho quê hương Việt Nam rượu ngon tự do, dân chủ và hạnh phúc. Xin ban cho Giáo hội Việt Nam rượu đức tin, hiệp nhất và phát triển. Xin ban cho Đan viện chúng con rượu mới thinh lặng cầu nguyện và huynh đệ bác ái. Xin ban cho mỗi người chúng con rượu mới sốt sắng, yêu mến và chỉ tìm một mình Chúa là hạnh phúc đích thực của chúng con. Amen.
6. Tiệc cưới Cana
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cùng với Chúa Giêsu sống những ngày (đầu sứ vụ công khai). Thánh Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người biết: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian" (Phụng vụ Năm A); tiếp đến có ba môn đệ là: Anrê, Phêrô và Philipphê đã bỏ tất cả mọi sự mà đi theo người (Phụng vụ Năm B); có đồ đệ, thầy trò Đức Giêsu đi dự tiệc cưới, tại đây phép lạ đầu tiên xảy ra tại tiệc cưới Cana, khiến nước hóa thành rượu, nhờ sự can thiệp của Rất Thánh Trinh Nữ Maria, (Phụng vụ Năm C). Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, với đức tin sống động, tinh tuyền và kiên vững, chỉ cho chúng ta nguồn gốc của một trong những dấu chỉ, và thực tại của nó, mà chúng ta sẽ được tham dự trong tương lai, nếu chúng ta làm "tất cả những gì Chúa Giêsu, Đấng là Tình Yêu Vĩnh Cửu (biểu tượng của rượu) dạy bảo. Lời dẫn vào Thánh lễ: "Lạy Chúa, toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh, Lạy Chúa Trời cao cả" (Lời nhập lễ). ("Hãy ca ngợi Chúa bằng một khúc ca mới, hỡi hoàn vũ, hãy ca ngợi Chúa, hãy ca ngợi Chúa, tôn vinh danh thánh Người".) (Tv. 95)
Theo Thánh Maximus, Giám mục thành Turin thì Rượu mà Đức Giêsu hóa từ nước thành, chính là Rượu mới của niềm vui đích thực.
Bởi Vị Thiên Chúa theo Phúc Âm mô tả đã được mời đến dự tiệc cưới. Như thế, Con Thiên Chúa đã đi dự tiệc cưới, và bằng sự hiện diện của mình, Ngài đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành Rượu. Ngài đã đến dự đám cưới, theo luật cũ, để chọn trong dân ngoại một người vợ sẽ luôn luôn giữ mình đồng trinh. Ngài không sinh ra từ cuộc hôn nhân của loài người như Kinh Tin Kính chúng ta đọc: "Được sinh ra mà không phải được tạo thành". Ngài đi đến đám cưới, không phải để tham dự một bữa tiệc vui vẻ như bao nhiêu bữa tiệc. Ngài đến để mạc khải một điều kỳ diệu thực sự, hết sức đáng ngưỡng mộ. Ngài đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho rượu ngon nồng. Và khi mọi thực khách đang dự tiệc, bỗng thiếu rượu, Đức Maria, Mẹ Ngài đã nói với Ngài: "Họ hết rượu rồi." Chúa Giêsu, dường như trả lời với vẻ không vui cho lắm: "Hỡi bà, bà muốn tôi điều gì? "... khi trả lời: "Giờ của con chưa đến", chắc chắn đây là lúc Ngài loan báo giờ vinh quang của Ngài nơi cuộc Thương Khó, hoặc chính máu Ngài là rượu đổ ra để trao ban sự sống, và ơn cứu độ cho nhiều người. Mẹ Marie xin một đặc ân hiện tại, còn Chúa Giêsu, Ngài lại chuẩn bị trao ban niềm vui muôn thủa trong tương lai. Tuy nhiên, Thiên Chúa nhân lành đã không ngần ngại trao ban những điều nhỏ mọn cho con người, trong khi chờ đợi những điều lớn xảy đến.
Đức Maria, người mẹ diễm phúc, vì Mẹ là Mẹ thật của ConThiên Chúa, nên Mẹ đã biết trước ý định của Con Mẹ, và thấy trước được điều gì sẽ xảy đến. Đó là lý do tại sao sau khi Mẹ yêu cầu Đức Giêsu, Con Mẹ, Mẹ nhận được câu trả lời: "Việc đó có liên quan gì đến bà và tôi"; Mẹ vẫn căn dặn những gia nhân quản tiệc cưới hãy làm bất cứ điều gì Con Mẹ yêu cầu: "Người bảo sao cứ làm như vậy". Người mẹ thiêng liêng của Chúa Giêsu chắc chắn biết rằng lời chỉ trích của Con Mẹ và Mẹ thấy Con Mẹ, một Vì Thiên Chúa đã không giấu được sự bất bình của một người đàn ông giận dữ nhưng chứa đựng một mầu nhiệm của lòng từ bi cao cả... Vì tiếp theo là nước trong chum bỗng nhiên bắt đầu nhận được sức thánh hóa để có thể chuyển màu sắc, lan tỏa hương vị của một thứ rượu ngon lành, và cùng một lúc thay đổi hoàn toàn bản chất của nó, nước đã hóa thành rượu. Và việc chuyển đổi nước thành một chất khác cho thấy sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa, quyền năng, bởi không ai, ngoại trừ người tạo ra từ không có gì ra nước, có thể chuyển đổi nước thành một cái gì đó khác tức là rượu.
Chúng ta đang tiếp tục hành trình sống của mình trong Năm Đức Tin, tưởng cũng nên nhắc lại Mầu nhiệm Năm Sự Sáng: Thứ Hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu làm phép tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Như vậy là Chúa nhật này, chúng ta xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa, tức là xin ơn Đức Tin.
Thật vậy, khi chiêm ngắm tiệc cưới Cana, nước hóa thánh rượu, loan báo hồng ân mà Chúa Giêsu thực hiện ngay trong Bí tích Thánh Thể và ghi nhớ giờ hiến dâng trên cây Thánh Giá, giờ Chúa trao ban chính thịt máu mình làm của nuôi nhân loại.
Tại Cana, Mẹ Maria đã hiện diện và can thiệp vào trong tiệc cưới. Vào giờ trên Thánh Giá; giờ Chúa Giêsu cử hành tiệc cưới với Giáo hội; Mẹ Maria cũng ở đây trong lúc chúng ta cầu nguyện; Giờ phút này đây, Mẹ cũng hiện diện để giúp đỡ chúng ta sống ơn gọi làm người, dâng hiến đời sống chúng ta hầu mưu ích cho tha nhân.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta xin Mẹ dạy ta học yêu mến Chúa Giêsu, Vị Hôn Phu của Giáo hội mãi mãi và yêu mến Giáo hội, Hiền thê của Chúa Giêsu.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, chúng ta cầu xin Chúa cho chính chúng ta biết để ý đến nhu cầu của anh em; đồng thời cùng nhau thành tâm cầu nguyện cho tất cả mọi người nam cũng như nữ, những người phục vụ Tin Mừng biết sống khiêm nhường phục vụ trong đời sống hàng ngày; và nhất là cầu cho những ai có trái tim khép kín biết mở ra với tha nhân.
7. Gia đình có Mẹ
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Trời có lúc mưa lúc nắng, lúc trong lúc mờ. Đời có lúc thăng lúc trầm, lúc buồn lúc vui. Tình có lúc nồng lúc nhạt, lúc thắm lúc phai.
Nghe sao có vẻ cải lương quá! Ấy thế mà tính chất cải lương kia lại cứ xuất hiện trong cuộc sống con người, nhất là trong cuộc đời hôn nhân. Không hiểu sao người ta hay ngâm nga: "Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở. Đời mất vui khi đã vẹn câu thề." Phải chăng bắt đầu thề ước là bắt đầu xót xa? Ngày lên xe hoa thì cũng chính là ngày ra chiến trận? Mà trong trận chiến này, nếu không khéo, có ngày sẽ bị thương vong.
Đám cưới tại làng Cana mới bắt đầu mà đã có chuyện. Tiệc chưa tàn nhưng rượu lại hết. Nguy quá! Thế thì còn đâu mặt mũi tân gia. Không chừng cô dâu chú rể sẽ phải lục đục với nhau vì nhà anh đã không khéo chuẩn bị, còn nhà em thì cứ mời cho đông vào mà không cho biết trước. Không chừng vết thương trong ngày thành hôn sẽ để lại cơn đau khó tàn cho đôi uyên ương.
Thiếu rượu thì mất vui. Đám cưới mà không vui thì có hơn gì đám ma. Với lại truyền thống xưa nay của dân tộc là "vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi." Vậy mà khi khách chưa say, chất cay đã cạn. Bao nhiêu choé rượu sắm sẵn đều hết sạch. Bẽ mặt mất thôi! Chắc hẳn gia chủ lẫn tân lang và tân nương đang trải qua một phen bối rối, hốt hoảng ghê lắm. Biết tìm đâu ra rượu bây giờ?
Thấy được tình cảnh oái oăm của tân gia, Mẹ Maria đến gặp Con mình và nói: "Họ hết rượu rồi." Đây là lời cầu cứu hay câu mẹ trách con vì đã đem theo mấy ông môn đệ nên mới làm cho người ta hết rượu? Nhưng nếu là câu trách thì tại sao Mẹ lại bảo các người hầu: "Ngài có bảo gì, hãy làm theo"? Câu này hàm chứa một cái nhìn tiên tri là Chúa Giêsu sẽ ra tay để làm một điều gì đó.
Chắc rằng trong suốt 30 năm sống bên Đức Giêsu, Mẹ đã thấy rõ quyền năng và tình nhân ái bao la của con mình đối với những kẻ sa cơ hoạn nạn. Thế nên hôm nay, khi thấy gia đình tân hôn bị rơi vào trường hợp éo le nan giải, Mẹ đã tìm đến với Chúa để xin Ngài ra tay. Nhưng, có một vấn đề khác: nếu như trước đó Đức Giêsu đã từng cứu giúp những người khốn khó thì tại sao vị Thánh Sử lại bảo đây là "dấu lạ đầu tiên"?
Theo văn mạch của Thánh Gioan thì đó là phép lạ đầu tiên mà "Chúa Giêsu đã làm tại Cana xứ Galilê." Thế ra, có thể Ngài đã từng làm dấu lạ ở nơi khác, ví dụ như tại Nazaret, nhưng tại Cana thì đó là lần đầu. Ngoài ra Thánh sử Gioan cũng nhấn mạnh trong câu kết luận rằng Chúa Giêsu đã làm dấu lạ này "để tỏ vinh quang của Ngài cho các môn đệ," những người vừa mới đáp trả lời mời gọi bước theo Ngài được mấy hôm.
Như vậy trước đó, có thể Đức Giêsu đã từng làm dấu lạ, không phải để tỏ vinh quang, nhưng chắc là âm thầm và qua tay Mẹ Maria. Phải chăng Chúa Giêsu đã từng nhờ Đức Mẹ làm trung gian để đem cái này, chuyển cái kia cho những người cùng khốn gian nan, nên Mẹ biết rõ quyền năng và tình thương của Chúa mà chạy đến cầu cứu? Phải chăng, dù là mẹ, Đức Maria vẫn từng làm theo ý Con, và đã thấy người ta nhận được biết bao ân phúc phi thường.
Cho nên trong giờ phút cam go của gia đình có đám, Mẹ đã kêu cầu Đức Giêsu. Và sau đó, Mẹ đã nhắn nhủ các lời khuyên phát xuất từ một lòng tin tưởng vững vàng vào tình yêu tha nhân nơi Con mình. Ngài không thể không chạnh lòng thương xót trước nỗi thống khổ của con người. Và đây cũng là lời nhắn nhủ đầy kinh nghiệm của Đức Maria, người đã từng làm theo lời Chúa và thấy bao kết quả tươi đẹp trong đời.
Ngài có bảo gì thì cứ làm theo. Lời nói biểu lộ lòng xác tín Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp. Mẹ Maria biết chắc Ngài sẽ đáp lời Mẹ xin. Thế mới thấy quyền phép nơi lời cầu bầu của Đức Mẹ hiệu năng dường nào. Không phải là Chúa Giêsu đã từng nói: "Giờ con chưa đến" sao? Vậy mà "Giờ con đã đến" vì lời Mẹ xin. Giáo hội đã có lý khi đưa vào kinh Cầu Đức Bà lời nguyện: "Đức Bà có tài có phép. Cầu cho chúng con" là vậy.
Các Thánh cũng công nhận rằng chẳng có sự gì Mẹ xin cùng Thiên Chúa mà không được. Thánh Antôn từng nói: "Vì Đức Maria là Mẹ, nên lời cầu xin như có sức truyền dạy trước toà Chúa Giêsu. Do đó, khi Mẹ xin gì thì không lẽ Chúa Giêsu lại không nhậm lời." Thánh Ricarđê viết rằng: "Hễ Con quyền phép vô cùng thì Con cũng làm cho Mẹ vô cùng quyền phép. Đó là lẽ đương nhiên. Nhưng Con của Mẹ quyền phép vì bản tính Ngài là Thiên Chúa. Còn Đức Mẹ có quyền phép là nhờ ơn Chúa ban; nghĩa là Thiên Chúa quyền phép vô cùng, phán một lời liền có hết mọi sự. Còn Đức Mẹ quyền phép vô cùng, xin một tiếng liền được hết mọi sự."
Nhờ có Mẹ can thiệp mà Chúa Giêsu đã cứu tiệc cưới tại làng Cana khỏi cảnh bẽ mặt ê chề. Nhờ lời cầu xin của Đức Mẹ mà giờ giải cứu con người khỏi kiếp khổ đau của Chúa Giêsu đã điểm. Nhờ sự khích lệ bảo ban của Mẹ mà con người biết cộng tác với Con Thiên Chúa để mang lại niềm vui của ơn phúc đầy tràn đến muôn tâm hồn.
Hôm nay, giữa trần thế, có biết bao gia đình "sắp hết rượu." Lắm cõi lòng đã mất hẳn niềm vui. Nhiều cuộc tình đã rơi vào bế tắc. "Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" không còn nữa. Làm sao cứu vãn đây?
Nếu đời có Mẹ, người ta sẽ gặp được ơn Chúa. Mời Mẹ đến với gia đình, chẳng bao giờ Mẹ để cho rượu nồng tình thắm bị cạn khô.
Thế nên, hỡi tất cả các gia đình, mới hay cũ, đang an hoà hạnh phúc hay trắc trở lao đao, hãy cậy nhờ và phó thác cho Mẹ Maria. Chắc chắn với Mẹ và qua Mẹ, Chúa Giêsu sẽ tỏ mình ra nơi gia đình anh chị em.
Không phải tình cờ mà Đấng Cứu Thế lại tỏ vinh quang của mình trong một cuộc hôn nhân. Không phải tình cờ mà vinh quang đó lại liên kết âm hưởng với sự hiện diện của Đức Maria. Trái lại, tất cả đã diễn ra trong cùng một mạc khải của Tin Mừng: gia đình có Mẹ là gia đình có Chúa; gia đình có Chúa là gia đình luôn có tình yêu tràn đầy và niềm vui dạt dào.
8. Có Chúa gia đình mới hạnh phúc
(Cố Lm Hồng Phúc)
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu và các môn đệ đi dự một đám cưới ở làng Cana và làm phép lạ cho nước biến thành rượu.
Đây là phép lạ đầu tiên trong 7 phép lạ mà Phúc Âm của Gioan kể lại. Gioan gọi là "dấu chỉ đầu tiên", một bài học bằng việc làm để giúp ta hiểu một mầu nhiệm.
Sau khi được Gioan ban phép Rửa - Đề tài bài Phúc Âm tuần trước- Chúa Giêsu đã kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Họ là Anrê, Gioan, Phêrô, Philiphê và Nathanael. Và hôm nay, Chúa dẫn cả nhóm đi ăn cưới tại làng Cana, cách Nagiaret khoảng 14 cây số, trong một gia đình quen thân, vì có cả Đức Mẹ cũng đến tham dự.
Chúng ta chú ý đến hai điểm mà Phúc Âm nói đến là: Giờ của Chúa và dấu chỉ của Chúa.
1. "Giờ của Ta chưa đến". Có thể rằng trong những ngày dài, những đêm khuya khoắt sống bên cạnh Mẹ dưới mái nhà Nagiaret, Chúa Giêsu đã tỏ cho Mẹ hay về sứ mạng tương lai của mình.
Ngài cho Mẹ hay, Ngài sẽ sống với người nghèo khó, đem tình thương vỗ về ấp ủ, đem Chúa đến cho họ, giúp họ hoán cải cuộc sống tăm tối trở nên như một bửa tiệc cưới. Hôm nay, Đức Mẹ thấy con đem cả nhóm đồ đệ đến dự một đám cưới bình dân, chắc Đức Mẹ nghĩ rằng Giờ con tỏ quyền năng đã đến. Vì thế, với con mắt quán xuyến, với một giác quan nhạy cảm của người phụ nữ, Đức Mẹ biết nhà đám đang bối rối vì rượu đã cạn. Đức Mẹ không ngần ngại đến nói với Chúa, "Con nè, nhà này hết rượu". Một câu nói đơn sơ trong tình mẹ con. Một câu nói đầy tin cậy như một lệnh truyền. Chúa Giêsu trả lời: "Giờ con chưa đến", nghĩa là giờ tỏ vinh quang của Con chưa điểm. Mặc dầu thế, vì Mẹ đã xin thì con làm, Mẹ đã muốn thì Mẹ được như ý.
Mẹ là người tín hữu đầu tiên đã tin vào Chúa và lòng tin làm nên phép lạ, mặc dầu Giờ của Chúa chưa đến. Chúng ta thấy Đức Mẹ hành động cách tự nhiên, quả cảm. Mẹ bảo người giúp việc: "Thầy bảo sao hãy làm đúng vậy".
Và phép lạ đã xảy ra.
2. Dấu chỉ của Rượu. Gioan trình bày các phép lạ của Chúa như những dấu chỉ, những mạc khải bằng việc làm. Phép lạ đó ám chỉ và mạc khải 3 điều:
Trước hết, đó là dấu chỉ quyền năng của Thiên Chúa. Xưa Chúa phán một lời từ cõi hư vô vạn vật xuất hiện, nay biến hóa sự vật đã có, nước hóa rượu, nào có khó gì!
Thứ đến, phép lạ mạc khải rằng Chúa đến khởi đầu một cuộc giao duyên mới: cuộc giao duyên giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Tiệc cưới hôm nay báo hiệu một tiệc cưới mới. Phaolô ví tình yêu liên kết đôi vợ chồng với tình yêu liên kết Chúa Giêsu và Giáo hội (Eph. 5, 25).
Phép lạ hôm nay cũng ám chỉ tình thương của Chúa đối với những ai sống trong bậc vợ chồng. Chúa tham dự tiệc cưới để thánh hóa hôn nhân. Ngày nay, nhiều cuộc hôn nhân cũng thiếu rượu của một mối tình khắng khít vĩnh cửu. Văn hào Taine nói mỉa mai: "Người ta tìm hiểu nhau 3 tuần, yêu nhau 3 tháng, cãi lộn 3 năm rồi chịu đựng nhau 30 năm... để con cái lại trở về cái vòng lẩn quẩn!"
Hôm nay, Chúa đến dự lễ cưới, biến nước lã nên rượu ngon, để thánh hóa hôn nhân. Có Chúa gia đình mới có hạnh phúc, cuộc sống tẻ nhạt biến thành rượu nồng.
9. Họ hết rượu rồi.
('Manna')
Đức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Đám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần. Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu. Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Ngài đã biến nước thành rượu. Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.
Tin Mừng Gioan hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa.
Những dấu lạ vén mở con người Đức Giêsu.
Làm bánh hóa nhiều cho thấy Đức Giêsu là Bánh thật. Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Đức Giêsu là Ánh Sáng. Hoàn sinh Ladarô cho thấy Đức Giêsu là sự Sống Lại.
Dấu lạ ở tiệc cưới Cana cũng cho ta biết Ngài.
Thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo, Đức Giêsu biến nó thành rượu ngon, một lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi.
Ngài biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước. Như thế Ngài đã mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ.
Đức Giêsu cho thấy mình chính là Đấng Mêsia. Ngài đến để thiết lập một trật tự mới dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.
Cựu Ước không làm con người mãn nguyện. Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh.
Đức Giêsu đã dự tiệc cưới ở Cana. Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người. Ngài muốn chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ.
Đừng để Đức Giêsu đứng ngoài hạnh phúc của bạn. Đừng coi Ngài là người ganh ghét với niềm vui bạn có.
Nếu bạn nghe lời Ngài, đổ nước đầy các chum rỗng, bạn sẽ gặp được hạnh phúc vững bền.
Dấu lạ Cana chủ yếu cho ta thấy Đức Giêsu là ai, nhưng Đức Maria cũng có một vai trò đáng kể.
Mẹ hiện diện trong tiệc cưới như thân mẫu Đức Giêsu.
Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể.
"Họ hết rượu rồi": Mẹ chỉ nói với Con như vậy. Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài xin kín đáo. Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ. "Người bảo gì, các anh hãy làm."
Quả thật Đức Giêsu có bảo và các gia nhân có làm, nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện. Qua sự đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này, đức tin của các môn đệ được củng cố và lớn lên.
Hôm nay Mẹ vẫn nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi!
Niềm vui chợt tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan vỡ... Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối.
"Người bảo gì, các con hãy làm": Đó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ chúng ta hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc ngay từ đời này. Theo bạn, thế nào là một con người hạnh phúc? Hạnh phúc đích thực dựa trên những yếu tố nào?
Đâu là những điều đe dọa hạnh phúc bình thường của một người?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
10. Mời Chúa đến nhà
TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại càng khó lắm.
Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.
Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã đến ở giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người. Thiên Chúa còn trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một Thiên Chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình than, Thiên Chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỷ. Và việc Thiên Chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày đầu tiên chung sống.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.
Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong gia đình.
Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì những khuyết điểm không tránh được của mọi người.
Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.
Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia nhân: "Người bảo gì thì phải làm theo". Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.
Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy làm theo Lời Chúa. Đọc Phúc Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình. Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống gia đình trong suốt năm mới này.
Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể đích thật là Đức Kitô sẽ cho ta nếm thử rượu tuyệt ngon trên thiên đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con. Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
2. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
3. Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình chưa?
4. Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi hiểm nguy, thử thách, thất bại?
11. Hãy mời Chúa vào nhà.
('Niềm Vui Chia Sẻ)
Cách đây ít lâu, có một bài báo thú vị của một phụ nữ kể lại việc trang hoàng nhà cửa của gia đình bà. Mọi công việc trang trí đều được vợ chồng tâm đầu ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người trang trí nội thất treo bức hình Chúa Giêsu kích thước khoảng: 40x50 cm vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang lúc tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời Chúa Giêsu: "Bất cứ ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời" (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe theo ý kiến của chồng.
Giờ đây bà nói rằng bà rất vui đã nghe theo ý chồng vì bà nghĩ rằng bức hình Chúa Giêsu đã gây được ảnh hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa nữa. Chẳng bạn ngày nọ có người khách lạ sau khi chăm chú nhìn vào bức hình liền nói với bà: "Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức hình đó không nhìn vào bà đâu, Ngài nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!". Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức hình cũng thốt lên: "Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình an". Tuy nhiên, -người phụ nữ nói thêm – ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên bạn bè khách khứa của tôi là mỗi khi nhìn tấm hình Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn được nâng lên cao.
Cuối cùng, người phụ nữ nói rằng, có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà tâm sự: "Theo ý của tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước nữa".
Thưa anh chị em,
Đôi tân hôn trẻ trong Tin Mừng hôm nay hẳn đồng ý với người phụ nữ trên. Họ đã mời Chúa Giêsu vào nhà họ và Ngài đã làm phép lạ đầu tiên ở đó khi họ thiếu rượu. Nhờ phép lạ hóa nước thành rượu ngon, Chúa Giêsu đã cứu vãn tình thế lúng túng của nhà đám và đem lại niềm vui tràn đầy cho mọi người.
Thực tế mà nói, mỗi cặp vợ chồng thường thiếu một cái gì đó vào một lúc nào đó trong đời sống hôn nhân gia đình: thiếu kiên nhẫn, thiếu hiểu nhau, thiếu thông cảm... và đôi khi thiếu ngay cả tình yêu, như giữa bữa tiệc thiếu rượu vậy. Bạn hết tiền, bạn không có việc làm, bạn thiếu sức khỏe... bạn hãy mời Chúa Giêsu đến, như đôi tân hôn ở Cana, bạn sẽ được giúp đỡ những gì bạn cần để hôn nhân bạn hạnh phúc hơn. Bạn phải làm phần của bạn: bạn phải làm việc nhiều hơn, hy sinh nhiều hơn, suy tín nhiều hơn. Giả sử hôn nhân của bạn điêu đứng vì thiếu kiên nhẫn, bạn hãy bàn hỏi, lập kế hoạch để bạn có thể kiên nhẫn làm sao và khi nào? Rồi – đây là điều quan trọng – bạn hãy xin Chúa Giêsu giúp bạn kiên nhẫn. Bạn thiếu hụt tài chánh ư? Bạn lập kế hoạch làm sổ chi tiêu. Rồi – đây là điều quạn trọng thứ nhất – bạn xin Chúa Giêsu giúp bạn đủ chi tiêu.
Sự sai lầm của các cặp vợ chồng là đã không xin Chúa giúp giải quyết các vấn đề. Đức Cha Tihamer Toth đã hỏi các bạn trẻ: "Các bạn có biết cái tội đầu tiên mà đôi bạn Công giáo đã phạm không? Và Ngài đã trả lời: đó là khi làm đám cưới, các bạn đã mời tất cả, nào là bà con, bạn hữu, phụ dâu, phụ rể, cả thợ trang điểm, thợ may, mời luôn dàn nhạc, mời hết chỉ trừ Chúa Giêsu là không có trong danh sách được mời. Đó là cái tội đầu tiên của đôi tân hôn. Và cái tội đầu tiên nầy là khởi điểm của một cuộc phiêu lưu dẫn đôi bạn trẻ vào một con đường vô định, một con đường đầy bóng tối...".
Một em bé gái mới lên năm, vừa cùng mẹ đọc kinh trước khi ăn cơm. Mẹ em thường ứng khẩu những lời kinh nguyện rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, xin hãy nên vị khách quý của bữa cơm hôm nay". Bà cầu nguyện chưa xong, thì bỗng em bé nhìn mẹ và nói: "Nhưng thưa mẹ, con không muốn Chúa Giêsu làm người khách của chúng ta". Bà mẹ hoảng hốt hỏi lại: "Tại sao lại thế"?. Em bé trả lời: "Vâng, thưa mẹ, là người khác, Chúa chỉ đến một vài lần thôi. Con muốn Chúa Giêsu đến đây và ở lại luôn mãi với chúng ta" (Knight).
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu phải có mặt trong đám cưới của anh chị em, Chúa Giêsu phải là một phần tử của gia đình anh chị em. Ngài sẵn sàng giúp đỡ. Ngài đang chờ anh chị em xin Ngài, như Đức Maria đã làm tại Cana. Tốt nhất anh chị em hãy cầu xin qua Đức Maria những gì anh chị em cần trong đời sống hôn nhân, gia đình của anh chị em. Như vậy sẽ không có gì thiếu nữa.
Giáo dân Châu Âu xưa kia có một câu tục ngữ như thế nầy: "Nếu bạn đi du lịch bằng đường bộ, bạn hãy đọc một kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi du lịch bằng đường biển, bạn hãy đọc hai kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi cưới vợ, lấy chồng, bạn hãy đọc một trăm kinh Kính Mừng". Phải, đời sống hôn nhân gia đình đâu phải chỉ là một chuyến du lịch mà là cả một cuộc hành trình đến mãn đời. Không có sự hiện diện của Chúa, không có Đức Mẹ, vợ chồng khó lòng trung thành với nhau trọn tình vẹn nghĩa thủy chung được, nhất là những khi thiếu rượu nồng tình yêu.
Thiên Chúa nhập thể đã làm đám cưới với nhân loại, vì yêu thương nhân loại, để nhân loại bắt tay nhau. Động cơ của hợp nhất, đầu mối của hạnh phúc lứa đôi là tình thương yêu. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù, chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Đã là bất bình thường thì mọi người phải tìm cách giàn xếp để cùng nhau trở lại tình trạng bình thường là yêu thương nhau, hiêp nhất với nhau. Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong đời sống hôn nhân và gia đình, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của tình yêu. Chúa Giêsu phải có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách, thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến thăm và chúc phúc cho gia đình chúng con. Xin chúc lành cho cánh cửa nhà chúng con. Ước chi những cánh cửa nầy luôn biết mở ra cho kẻ tha phương và người hiu quạnh. Xin chúc lành cho phòng ốc gia đình chúng con, để chúng tràn đầy sự hiện diện của Chúa. Và trên hết, xin Chúa hãy chúc lành cho mỗi người trong gia đình chúng con, để tâm trí chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, đôi tay luôn biết rộng mở cho những kẻ nghèo khó, và trái tim luôn luôn biết hướng về Chúa. Amen.
12. Cana
('Phụng Vụ Chúa Nhật – Chúa Nhật và Lễ Trọng' – McCarthy)
Suy Niệm 1: Khi người ta thiếu rượu
Điều đã xảy ra ở tiệc cưới Cana sớm muộn gì cũng xảy ra trong mỗi cuộc hôn nhân – người ta thiếu rượu. Qua đó chúng ta muốn nói điều gì? Một cuộc hôn nhân mẫu mực bắt đầu bằng một bữa tiệc vui và nồng nhiệt. Đôi tân hôn được bạn hữu vây quanh và những người đến mừng cùng với quà cưới không ngớt lời chúc tụng họ. Hy vọng và mơ ước tràn đầy, họ lên kế hoạch cho tuần trăng mật. Rượu uống thỏa thuê.
Rồi sau tuần trăng mật họ trở về và công việc làm ăn thật sự bắt đầu – sắp xếp nhà cửa và học cách sống chung với một người khác. Lúc ban đầu họ tìm thấy niềm vui to lớn được sống bên nhau. Họ tin rằng tình yêu của họ đã được tiền định trên trời và có ý nghĩa là sẽ kéo dài muôn thuở. Rượu vẫn còn dồi dào.
Nhưng khi con người ở cận kề với một người khác, sẽ có những vấn đề nảy sinh. Căng thẳng xuất hiện. Họ khám phá rằng họ đã không cưới một thiên thần, nhưng một con người đã bị tội lỗi và vị kỷ làm tổn thương. Họ ngạc nhiên về sự nghèo nàn mà họ khám phá nơi người kia. Tuần trăng mật đã hết. Người ta thiếu rượu. Tất cả những gì còn lại là "nước" của một tiềm năng còm cõi.
Những sự việc như thế cũng xảy ra trong chuyên môn, nghề nghiệp và cả trong những ơn gọi như đời sống linh mục hoặc đời sống tu trì. Ở đây cũng hết rượu. Niềm vui, còn lại là nước của thói quen, của sự tẻ nhạt và có thể là sự vỡ mộng. Nhưng chúng ta hãy trở lại với vấn đề hôn nhân.
Giờ đây rượu ban đầu đã cạn, họ phải làm gì? Có những người bị cám dỗ "cạn" theo với rượu: "Không còn gì cho tôi nữa". Thái độ này tưởng chừng có lý nhưng nó bao hàm một tính vị kỷ đáng sợ. Đối với những con người như thế, hôn nhân chỉ là một sự liên kết của hai con người vị kỷ vì thế, trong lúc họ lợi dụng lẫn nhau, họ bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác những hoa quả mà người ta có thể hái và ăn mà không vất vả và bỏ công sức.
Nhưng một cặp vợ chồng phải làm gì? Họ phải biết rằng rượu ban đầu đã cạn. Trong một lúc, họ phải tìm cách xoay xở với nước. Nhưng họ không nên sợ hãi hay thất vọng khi điều đó xảy ra. Họ phải chống trả cơn cám dỗ bỏ rơi mối tương quan và đánh mất chính mình trong một nghề nghiệp hoặc một đời sống xã hội cuồng nhiệt. Điều họ phải làm là phải nỗ lực cải thiện tương quan giữa họ qua đó, họ có thể trưởng thành như những con người khám phá ý nghĩa thật sự của tình yêu. Khủng hoảng ấy có thể trở thành một cơ hội.
Và đây là một điều làm người ta ngạc nhiên: rượu ban đầu cần phải cạn. Nếu không rượu mới không thể đến được tình yêu lúc ban đầu cho dù đẹp và lãng mạn không thể kéo dài được. Chắc chắn nó phải trôi qua. Nhưng trôi qua không phải là một điều xấu. Thật vậy, nó phải trôi qua để một tình yêu mới mẻ và sâu đậm hơn được sinh ra. Tình yêu mới này chủ yếu là đặt người khác đứng trước mình. Người ta phải quên chính mình và tìm thấy niềm vui khi mình yêu thương hơn là khi mình được yêu thương, khi mình cho hơn là khi mình nhận.
Tình yêu là một cuộc phiêu lưu khó khăn. Bước vào hôn nhân là bước vào một trường học tình yêu ở đó mọi người đều là những học viên chậm chạp. Chính vì thế, chúng ta cần có sự hiện diện của Đức Kitô.
Rượu mới không chỉ có ý nghĩa đối với cặp hôn phối mà còn có ý nghĩa đối với mọi người. Điều này có nghĩa là chúng ta phải thay đổi. Đức Kitô phải cảm hóa tâm hồn chúng ta và giúp đỡ chúng ta yêu thương vô vị lợi. Đối với những người tìm kiếm sự giúp đỡ của Người thì phép lạ Cana vẫn còn xảy ra – nước của lòng vị kỷ được biến đổi thành rượu của tình yêu chân chính. Và điều kỳ lạ là rượu nho mới lại ngon hơn rượu nho cũ.
Suy Niệm 2: Một kiểu mẫu của sứ vụ
Thánh Gioan mô tả Đức Maria như người đã tham gia vào lúc Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ của Người (ở Cana), và rồi vào cuối sứ vụ ấy (trên núi Canvariô). Vì thế Đức Maria liên kết với toàn bộ sứ vụ của Người. Người ta chỉ cần nhìn vào Tin Mừng để thấy rằng Mẹ luôn có mặt vào những lúc quan trọng của cuộc đời Người.
Trong lúc Truyền Tin, sứ thần hỏi Mẹ có muốn trở thành Mẹ của Đấng Cứu Chuộc không. Mẹ đã dẹp qua một bên những dự tính của Mẹ và đáp lại đề nghị của Thiên Chúa bằng tiếng "xin vâng" quảng đại. Một đôi khi tác vụ có ý nghĩa là sẵn sàng đặt những kế hoạch của chúng ta qua một bên và đáp lại lời kêu gọi bằng cách giúp đỡ một tay.
Trong lúc đi Thăm Viếng, Mẹ chủ động có sáng kiến. Khi nghe bà Elizabeth, một bà chị họ lớn tuổi đang chờ ngày sinh con, Mẹ đã thăm viếng bà, ở lại với bà cho đến khi đứa bé được sinh ra. Tác vụ một đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến, khi nhìn thấy một nhu cầu và khi đáp ứng nhu cầu đó.
Trong tiệc cưới Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu và sự làm hỏng tiệc cưới của đôi tâm hồn. Mẹ muốn giúp đỡ nhưng biết rằng Mẹ không thể tự mình làm việc đó. Vì thế Mẹ quay lại Con Mẹ và xin Người giúp đỡ, và Người đã thực hiện với sự quảng đại. Có những lúc, tác vụ có nghĩa là nhận ra một nhu cầu và biết rằng chúng ta không thể xử lý một mình.
Vì thế chúng ta cần đưa đến cho những người khác. Nhưng, không phải là đổ trách nhiệm cho người khác.
Trong suốt đời sống công khai, Đức Giêsu luôn được đám đông vây quanh. Đức Maria không biết Người ra sao. Mẹ sợ người ta bắt Người đi. Là một bà mẹ, Mẹ cảm thấy bắt buộc phải giải cứu. Mẹ đã hiểu sai hoàn cảnh. Người luôn chủ động. Người có một việc phải làm và có thể tự mình xử lý. Tác vụ có thể gồm cả việc phạm sai lầm và cảm nghiêm bị sai hỏng, thất bại. Nhưng điều đó không do thiếu quan tâm mà do thiếu hiểu biết.
Trên Núi Canvariô, Đức Maria đứng dưới chân thập giá nhìn Đức Giêsu chết. Dù Mẹ rất muốn cứu Người, nhưng một cách tuyệt vọng, Mẹ không có khả năng làm được điều đó. Một đôi khi trong tác vụ, chúng ta không thể làm được điều gì. Vì thế tác vụ của chúng ta giống như Đức Maria đứng dưới chân thập giá. Một sự hiện diện thinh lặng chịu đựng. Và sự hiện diện chịu đựng và trấn an là cả một thế giới cho người đau khổ. Nó cứu người ấy khỏi viễn cảnh đau buồn phải chết một mình và bị bỏ rơi.
Dù chỉ là những cái nhìn thoáng qua. Nhưng một hình ảnh nổi bật của Đức Maria là một người ân cần tận tuỵ. Trên nhiều phương diện, một bà mẹ điển hình. Đức Maria là một kiểu mẫu của tác vụ. Nhưng vai trò của Mẹ phải luôn luôn được nhìn trong tương quan với vai trò của Con Mẹ. Vai trò của Mẹ giờ đây là vai trò của một người mẹ chăm sóc cho những người đi theo Đức Giêsu.
Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều ở trong tác vụ: đối với những người khác, hoặc ở trong gia đình, hoặc trong một cộng đoàn rộng lớn hơn. Ngay cả công việc chúng ta làm cũng có thể được coi như một tác vụ và một phục vụ. Torng lúc các bà dường như có ơn đặc biệt hơn, tất cả chúng ta đều có khả năng làm tác vụ.
Tác vụ phải có nghĩa là ban tặng những sự vật (như ở tiệc cưới Cana), nhưng thường là sẵn sàng ban tặng chính mình. Chúng ta phải sẵn sàng đón nhận thất vọng, hiểu lầm, thất bại, sự bất lực. Nhưng điều duy nhất chúng ta phải sợ là sự thờ ơ. Những kỹ năng đặc biệt không cần thiết. Vào cuối mỗi ngày, cái còn đọng lại là tình yêu thương. Tác vụ là một sự biểu lộ của tình yêu.
Trong tác vụ, điều chúng ta làm giống việc làm của các gia nhân ở tiệc cưới Cana. Họ chỉ là những người thừa hánh của Đức Giêsu. Họ múc nước đã hoá thành rượu và đem đến cho khách dự tiệc. Kể từ đó, những thừa tác viên của Đức Kitô đã rút ra từ cùng một suối nguồn. Họ chia sẻ những ơn lành của Đức Giêsu cho Giáo Hội người và cho thế giới. Từ sự viên mãn của Người, chúng ta tiếp tục đón nhận và chia sẻ.
13. "Ngài có bảo gì, hãy làm theo!"
('Tin Mừng Chúa Nhật')
Sở dĩ gọi Cana trong miền Galilê là để phân biệt với Cana miền Coelo-Syria. Đây là một làng rất gần Nadaret. Thánh Hiêrônimô, người từng ở Palestine bảo rằng, từ Nadaret ông có thể nhìn thấy Cana. Tại đó đang có một đám cưới, Đức Maria được mời đến dự và giữ một vai trò đặc biệt, chắc liên quan đến việc tổ chức nên bà đã tỏ ra lo lắng khi thấy thiếu rượu. Bà cũng có đủ quyền để ra lệnh cho đầy tớ làm bất cứ điều gì Chúa bảo.
Tại xứ Palestine, lễ cưới là một cơ hội thật sự quan trọng. Theo luật Do thái, lễ cưới của một trinh nữ phải tổ chức vào ngày thứ tư. Điều này rất thú vị, vì nó cho chúng ta căn cứ để tính lui lại: nếu đám cưới nhằm ngày thứ Tư, thì ngày Chúa Giêsu gặp Anrê và Gioan lần đầu tiên phải là ngày sa-bát, và cả hai đều ở với Ngài trọn ngày đó. Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng, dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Họ được đưa theo con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Tại Palestine vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu, và lời nói của họ là luật. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Nhưng đã có trục trặc xảy ra.
Trong đám tiệc của người Do thái, rất cần rượu. Các Rabi vẫn nói: "Không rượu thì không vui". Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng bên Đông phương món rượu thật quan trọng. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn, thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Vì thế Đức Maria đã báo cho Chúa Giêsu biết sự việc này. Mà Chúa Giêsu đã bày tỏ quyền năng của Ngài để cứu gia đình mộc mạc này khỏi bị tổn thương nhục nhã. Ngài đã hành động vì lòng ưu ái, tử tế, thông cảm với những người mộc mạc đơn sơ.
Câu chuyện đã được kể lại cách sống động nên rõ ràng phải là do người đã chứng kiến tận mắt ghi lại, nhưng không phải là ghi lại ngay sau khi xảy ra mà là bảy mươi năm sau, và cũng ghi lại tác dụng của phép lạ ấy: "Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana và bày tỏ vinh quang của Người." Chúa làm phép lạ này bày tỏ vinh quang của Người. Chúng ta cố gắng tìm biết các nguyên tắc bày tỏ tỏ vinh quang này.
- Bước đường cùng khiến người ta quay về với Chúa, cung cấp dịp tiện cho Người hành động, ân huệ của Chúa được ban cho ai thành khẩn kêu cầu Ngài. Dầu có người chê cầu nguyện là mê tín, hay bình thường thì chẳng bao giờ cầu nguyện, nhưng một khi đã lâm vào cảnh khốn cùng, chẳng ai không ngước mắt lên trời mà kêu cầu.
- Đức Maria là người thân trong gia đình này, được mới tới dự tiệc cưới, khi thấy rượu đã hết, biết ngay chủ nhà sẽ rất bối rối, sẽ bị bẽ mặt, và các thực khách sẽ mất vui. Không kể đến địa vị làm mẹ, đến với Đức Giêsu mà cầu khẩn: "Họ hết rượu rồi." Làm mẹ, mà hạ mình cầu cứu con, không phải dễ lắm đâu. Đàng khác chưa biết ý Chúa ra sao, đường đột đưa ra một lời cầu như vậy mà không thăm dò trước có khi rước lấy tai họa. Thế nhưng đến nước này, nếu không kêu cầu Chúa thì còn biết trông cậy vào ai nữa!
Lời cầu nguyện của Đức Maria bị thôi thúc vì hoàn cảnh mà Mẹ đảm trách lấy, là kiểu mẫu cho những lời cầu bầu của chúng ta.
Vì chúng ta thấy lời cầu của Đức Maria là lời cầu "Ý Cha thực hiện" vì Ngài chỉ nói: "Họ hết rượu rồi" chứ không thêm gì vào nữa! Một lời cầu nguyện tốt nhất là "trình lên Chúa các nhu cầu của mình" rồi để Ngài làm theo ý Ngài. Đức Maria đã làm như thế; còn phần chúng ta, ngoài việc trình nhu cầu lên Chúa, thường hay bày thêm cách này cách kia, đôi khi còn đòi Chúa phải làm theo ý của mình. Đức Maria không ép Chúa, Ngài để Chúa tự do địnhh liệu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có người đã làm theo gương Đức Maria, khi Ladarô đau nặng, hai chị em Matta và Maria sai người đi thưa Chúa "người Thày yêu đau nặng."
- Lời cầu nguyện của Đức Maria là lời cầu nguyện hạ mình: đây là lời cầu xin của bà mẹ đối với con. Nếu còn giữ thể diện thì không dễ gì một bà mẹ sẵn lòng hạ mình kêu cầu con; đã thế lại còn nhận được một lời đáp ứng dường như cứng cỏi của Chúa Giêsu: "Thứa bà, chuyện đó can gì đến bà và con, giờ của con chưa đến." Thế nhưng, Đức Maria đã từ bỏ mình trước rồi, chỉ nghĩ đến tình hình khẩn cấp chứ không nghĩ đến thể diện cá nhân. Lời câu xin không kể đến thể diện mình quả là phép mầu để Chúa được vinh hiển. Chẳng những tại đây, do lời cầu của Đức Maria mà Chúa được vinh hiển, mà khắp nơi qua Kinh Thánh đều thấy Chúa làm phép lạ là do có người kêu cầu.
- Này, có một người phong đến gần Ngài thưa: "Lạy Chúa, nếu Chúa ưng, xin cho con được lành mạnh. Chúa giơ tay sờ đến anh phá: Ta muốn, anh được lành sạch. Tức thì người phong được sạch."
- Khi Chúa vào Caphanaum, có một sĩ quan đến thưa Ngài: "Con gái tôi đau gần chết, xin Thày đến đặt tay trên nó, để được sống." Chúa bèn đứng dậy đi theo ông."
- Phêrô hòng chìm xuống nước la lên: "Thầy ơi cứu con với, tức thì Chúa giơ tay ra cứu ông."
- Hai người mù thưa: "Lạy Chúa, xin cho mắt chúng tôi được sáng. Chúa động lòng thương, liền sờ đến mắt và hai người thấy được"
Có thể trưng nhiều hơn, nhưng cũng đủ để thấy Chúa thường hay mượn cớ người ta cầu nguyện để ban ơn, để tỏ bày vinh hiển của Ngài. Nguyện lời cầu của chúng ta cũng giống thế.
Thấy nhà chủ hết rượu Đức Maria trình lên Chúa nhu cầu, thì nhận được một lời đáp ứng không mấy tích cực: "Chuyện đó can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến." Làm thân bà mẹ mà phải hạ mình xin con đã là khó, nay lại nhận được một câu trả lời như thế, rất dễ nản lòng, mất hết cậy trông. Đức Maria không thế, Ngài vẫn bình tĩnh bảo những người giúp việc Đức Giêsu bảo gì cứ làm theo đó. Tại sao Đức Maria biết Chúa sẽ ra lệnh cho các kẻ giúp việc? Đó chỉ do bà tin. Bà chẳng vì cảm xúc mà nghi ngờ điều mình xin, nhưng lấy đức tin mà nắm lấy lời hứa của việc cầu nguyện: "Cứ xin thì được." Chính vì đức tin mà Maria dặn bảo các người giúp việc phải tuân theo lệnh Chúa.
Trình bày nhu cầu xong, phải tin vào lời hứa của Chúa mà chắc chắn mình được nhận lời. Thiếu đức tin thì không bao giờ thấy vinh hiển của Chúa. Các vĩ nhân trong lịch sử thánh đều là những anh hùng đức tin: bởi đức tin, nước Biển Đỏ rẽ đôi, bởi đức tin có thể qua sông Giođan, bởi đức tin có thể đánh lui toán quân của ngoại bang, bởi đức tin có thể khiến thành Giêricô sụp đổ, khiến người mù được sáng, què được đi, kẻ phong được sạch, người chết rồi cũng được sống lại. Có việc nào không bởi đức tin mà tỏ bày vinh quang của Chúa đâu. Thế nên, Chúa từng phán với Matta rằng: "Ta đã chẳng nói với con rằng nếu con tin con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa." Giả như lúc này Đức Maria không dặn bảo những người giúp việc sẵn sàng làm theo lệnh Chúa thì Chúa cũng chẳng bảo họ làm gì nữa, mà dầu có bảo họ cũng chẳng nghe theo. Thế thì đã không có phép lạ nước hóa ra rượu... nhưng vì đức tin của Đức Maria quá lớn, nên phép lạ đã xảy ra.
Sở dĩ chúng ta không được thấy vinh hiển Chúa trong đời sống, không phải vì chúng ta không cầu xin, nhưng vì cầu xin trong sự không tin. Hãy bắt chước Đức Maria, nghĩa là phải lấy đức tin mà nhận điều mình cầu xin dầu hoàn cảnh là thập phần khó khăn, cảm giác thập phần lạt lẽo, nhưng phải làm xong điều gì phải làm như Đức Maria đã từng làm thì Chúa sẽ phải giữ lời Ngài đã hứa mà ban ơn cho ta để tỏ vinh quang Ngài.
Với lòng đầy tin tưởng, Đức Maria nói gì: "Người bảo gì cứ làm theo đó." Phải ghi chặt vào lòng câu nói đó. Vì đó là việc buộc phải làm về phương diện loài người. Nếu ta không chịu vâng phục mà làm theo, vinh quang của Chúa có thể bị cản trở vì bất tuân của loài người. Các bạn có tin Thiên Chúa rẽ đôi nước Biển Đỏ không? Tin chứ, nhưng nếu bất tuân mà không giơ cây gậy lên thì nước Hằng Hải đâu có phân đôi tả hữu; các bạn có tin nước Giođan nhưng chảy không? Tin chứ, nhưng nếu vì bất tuân mà không đặt chân vào dòng sông thì nước không dồn lại thành đống. Bạn có tin Chúa có thể làm sụp đổ tường thành Giêricô không? Tin chứ, nhưng nếu không nghe lời Chúa mà đi vòng quanh thành đủ bảy ngày, thì tường thành không tự nhiên đổ xuống đâu. Người teo tay phải vâng lời Chúa mà giơ tay ra, mới được lành; người phong phải vâng lời Chúa đem thân đến cho thấy tư tế khám nghiệm mới được sạch phong; người mù phải vâng lời Chúa đi xuống ao Silôê mà rửa mới xem thấy được. Trong Kinh Thánh có rất nhiều bằng chứng cho thấy rằng sự vâng phục là điều kiện buộc phải có để Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài.
Trong tiệc cưới, các gia nhân đang bận rộn, vậy mà Chúa bảo họ phải đổ đầy nước vào sáu cái chum đá, thế mà họ vâng lệnh "đổ đầy tới miệng". Rồi tiếp theo lệnh thứ hai: "Bây giờ hãy múc đưa cho người quản tiệc. Họ liền đem cho ông." Chữ 'liền' ở đây rất ý nghĩa, đây chính là thái độ tỏ rõ vinh quang Chúa. Có gì buộc mà họ phải vâng lời Ngài, Ngài đâu có phải là chủ của họ, họ đang bận rộn, gặp lúc thiếu rượu lại còn quýnh lên; lại nữa lời bảo của Chúa chẳng hợp lẽ chút nào: đổ nước vào chum đá đã là phiền hà, lại còn múc đem cho người quản tiệc để làm gì? Bảo làm thế, để làm gì trong tình thế khó khăn này? Thế nhưng gia nhân đã vâng theo không hề phản kháng càu nhàu, Chúa bảo làm gì họ làm thế. Họ đem lại cho Chúa cơ hội hoàn toàn tự do để bày tỏ quyền năng là biến nước thành rượu. Nếu người ta không chịu vâng phục mà đổ nước vào rồi lại múc nước ra, hay tuy là vâng theo, nhưng không trọn vẹn, chỉ để lưng chừng, thì thế nào cũng giảm bớt hay làm bế tắc vinh hiển của Chúa. Thế mới biết vâng lời không cần lý do mới khó làm sao! Nhưng vâng phục không cần lý do quả thực là điều kiện duy nhất của những ai giúp việc Chúa!
Đến với Chúa, chúng ta chỉ có sự cầu xin thì không đủ, cần phải có đức tin nữa; chỉ có đức tin cũng chưa đủ, còn phải có sự vâng phục nữa. Chắc có nhiều người nói mình đã có đức tin rồi, nhưng thử hỏi thật lòng mình đã có vâng phục hoàn toàn chưa. Chúa bảo bạn làm điều gì cứ làm ngay điều đó, đừng nhìn xen hoàn cảnh, đừng đòi lý do, "cứ làm theo đi" một người đi theo Chúa, quả có nhiều bài phải học, mà bài khó học hơn hết là vâng phục, có thể nói rằng hễ ai tiến bộ trong sự vâng phục là có tiến bộ trong đời thuộc linh. Vâng phục là đem chủ quyền của mình mà nhường cho Chúa, để Chúa cai trị, khi nào người môn đệ hoàn toàn vâng phục Chúa, Chúa mới hoàn toàn làm chủ người môn đệ. Phải biết chắc rằng bạn có vâng phục Chúa, Chúa mới vâng phục bạn (nghe lời bạn cầu xin).
14. Dấu chỉ tiệc cưới Cana
('Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Alkasami, một nhà thần bí người Ba Tư qua đời năm 1330, đã viết về tình yêu của Thiên Chúa như sau: "Cái đẹp đích thực, tình yêu đích thực chính là Thiên Chúa. Và tất cả những gì là đẹp, là dễ yêu trên thế giới này đều tỏ lộ trọn vẹn về tình yêu của Ngài. Mỗi lần chúng ta nhận ra một người đẹp, đôi mắt trí tuệ của chúng ta phải hướng vọng lên Chúa và tấm lòng của chúng ta phải hướng về Ngài. Cuộc đời của Kitô hữu phải là mọt cuộc chiêm ngắm triền miên về Ngài. Cuộc đời của Kitô hữu phải là một cuộc chiêm ngắm triền miên vẻ đẹp tuyệt vời là Thiên Chúa, và phải là tiệc cưới tươi vui vì có Chúa Giêsu Kitô là vị hôn phu là rượu mới thơm ngon của thời cứu thế".
Đó là sứ điệp Giáo Hội muốn nhắn gởi chúng ta qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay. Bắt đầu vào thế kỷ thứ XIII trước tây lịch, với tiên tri Môisê, mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel không còn được trình bày trong thứ ngôn ngữ chính trị ngoại giao của Giao ước nữa, mà được diễn tả trong thứ ngôn ngữ của hôn nhân, của liên hệ vợ chồng, của cuộc gặp gỡ đối thoại thân tình và tươi vui như trong một tiệc cưới. Tiên tri Isaia III, một đồ đệ của trường phái Isaia sống vào sau thời lưu đày đã muốn ca tụng các liên hệ thân tình ấy của Thiên Chúa với dân Israel. Các chương từ 56-66 là một bài ca cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã lại đoái nhìn đến Israel và cho họ được trở về quê hương sau 50 năm lưu đày bên Babylon.
Trong Kinh Thánh, thành Giêrusalem bị tàn phá và dân Israel phải sống kiếp lưu đày được giải thích như hâu quả cuộc sống tội lỗi của dân Chúa chọn, vì Israel đã chạy theo tôn thờ các thần linh giả tạo khác, không nhận biết Chúa và không kêu cầu Ngài nữa, nên phải sống kinh nghiệm đắng cay sự làm thinh của Thiên Chúa. Thiên Chúa rút bàn tay đỡ nâng lại và giấu cánh tay phải trong lòng không dang ra trợ lực họ nữa. Nhưng trong chương 62, tiên tri Isaia III cho thấy Thiên Chúa lại bắt đầu ngỏ lời với dân Israel.
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, nếu sự thinh lặng diễn tả cảnh hoang tàn buồn thảm, nếu thinh lặng là sa mạc trống vắng vực thẳm, không có sự sống, thì lời nói diễn tả sức sáng tạo. Thành Giêrusalem được tái thiết và đổi mới lại trở thành người đối thoại với Thiên Chúa y như người nam và người nữ đã từng được chuyện vãn thân tình với Thiên Chúa vào thời khai nguyên vũ trụ. Giêrusalem tái thiết, là dấu chỉ của sự tạo dựng hữu hiệu của Thiên Chúa bị tàn phá vì tội lỗi bất trung của mình. Giêrusalem đã trở thành biểu tượng của con người được Thiên Chúa phục hồi vẻ trong sáng và hình ảnh của Ngài. Và Kinh Thánh diễn tả tình trạng cuộc tái sinh ấy của con người trong ơn thánh Chúa thứ ngôn ngữ của hôn nhân, Giêrusalem không bị bỏ rơi nữa mà trở thành hôn thê của Thiên Chúa, đầu đội vương miện, phẩm giá mới cao trọng của một nữ hoàng và được Thiên Chúa gọi là niền vui của Ta.
Cuộc sống của chúng ta ngày nay tuy chúng ta có lỗi, nhưng Thiên Chúa trao ban cho chúng ta cuộc sống mới và phẩm giá mới là con cái của Ngài. Và còn hơn thế nữa, Thiên Chúa biến đổi chúng ta thành người yêu, niềm vui của Ngài. Qua tường thuật tiệc cưới làng Cana, thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu cũng tỏ lộ con người và sứ mạng của Ngài trong khung cảnh một bữa tiệc cưới. Khác với các thánh sử của ba Phúc Âm nhất lãm hay dùng từ phép lạ, thánh Gioan dùng từ "dấu chỉ". Trong Kinh Thánh, rượu là dấu chỉ của thời cứu thế và của niềm vui mà Đấng Cứu Thế khơi dậy nơi tâm lòng con người. Khi biến đổi nước thành rượu ngon, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thứ rượu hảo hạng của tiệc cưới thời cứu thế mà Thiên Chúa ban cho loài người. Đây là dấu chỉ, qua đó Chúa Giêsu cho thấy trước vinh quang của Ngài để các môn đệ tin vào Ngài. Nhưng trong nhãn quan thần học của thánh Gioan, vinh quang đích thực của Chúa Giêsu sẽ chỉ được tỏ hiện trên thánh giá và trong sự Phục sinh của Ngài mà thôi. Thánh Gioan gọi là giờ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, ngay lúc này đây, dấu chỉ ấy đã bắt đầu tỏ hiện. Lời xin của Mẹ Maria diễn tả cái lo lắng vật chất. Câu trả lời và kiểu cách làm của Chúa Giêsu diễn tả viễn tượng cứu thế trong tương lai. Và cũng giống như đoàn tông đồ, Mẹ Maria được Chúa Giêsu dẫn đưa vào con đường lòng tin, con đường mà mỗi một môn đệ đều phải đi theo, để có thể hiểu biết toàn vẹn bản chất đích thực con người của Chúa Giêsu.
Trong khung cảnh của tiệc cưới Cana, bên cạnh Chúa Giêsu là rượu mới của thời cứu thế, là vị hôn phu của cộng đoàn Giáo Hội và là chủ tiệc Thánh Thể, Mẹ Maria cũng là một dấu chỉ. Mẹ không cho chúng ta thấy một vị Thiên Chúa nghiêm nghị khắc khổ, mà giúp chúng ta hiểu Chúa Giêsu, con Mẹ là vị Thiên Chúa của sự sống, của niềm vui và của tình bạn hữu.
Có rất nhiều Kitô hữu gồm cả các vị lãnh đạo cộng đoàn quan niệm rằng, niềm vui không thể đi đôi với nỗ lực sống nghiêm chỉnh lòng tin Kitô, chỉ có ăn chay hãm mình mới là sống đạo. Chỉ khi chịu đựng những gì nặng nề, nhàm chán và khó chịu, mới có công phúc và mới là sống đạo, còn tươi vui hớn hở không phải là thái độ nghiêm trang kính trọng đối với Thiên Chúa. Quan niệm sai lầm nay khiến cho tín hữu có kiểu sống đạo khô khan, nhăn nhó và phục vụ Thiên Chúa với gương mặt cau có khó thương, chịu đựng hy sinh, tốn kém cho cái dịch vụ thờ phượng như với gương mặt sầu thảm làm sao. Do đó họ không cảm hứng vui lên trong Chúa khi phụng sự Ngài trong tiếng đàn ca.
Dấu chỉ tiệc cưới Cana cho thấy Thiên Chúa yêu thích cho chúng ta sống vui tươi hồn nhiên và trong sáng, bởi vì Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta, chỉ là tin vui thật sự nếu chúng ta có thái độ sống lòng tin thật sự, nếu gương mặt, ánh mắt và cuộc sống chúng ta phản ánh niềm vui đó. Dấu chỉ tiệc cưới Cana dạy cho chúng ta biết rằng, để gặp gở Chúa Kitô chúng ta không cần phải là người thoát tục trở thành thiên thần, nhưng chỉ cần hiểu rõ thành loài người hơn, sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng ta hơn theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô nhập thể. Và để có thể hiện thực ơn gọi làm người, cần phải tập và sống các nhân đức nhân bản mỗi ngày, càng biết sống sâu đậm các nhân đức căn bản tự nhiên, chúng ta càng giống Chúa Giêsu làm người. Đó là nền tảng vững chắc đầu tiên, cần thiết trong cuộc sống ơn gọi Kitô. Thiếu các nhân đức căn bản này, người tín hữu mất quân bình, thường trở thành cuồng tín, có thái độ sống đạo lệch lạc.
Ngoài ra dấu chỉ của tiệc cưới Cana còn dạy cho chúng ta biết rằng, của cải trần gian và các tiện nghi vật chất tự chúng không có gì là xấu xa và nguy hại, chúng chỉ xấu xa nguy hại và đáng khinh, khi chúng khiến cho chúng ta đánh mất đi chất người của mình, và biến chúng ta trở thành ích kỷ hàm hồ, ác độc, bất công và nô lệ chúng. Nhưng thật ra, chỉ có con người là đáng chê trách vì ta trở thành xấu xa và gian tham ác độc chớ không phải của cải. Cũng chính vì thế, nên trong chương 12, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô khuyến khích mọi người hãy biết sử dụng đúng đắn tất cả mọi đặc sủng mà Thiên Chúa rộng ban cho họ. Kẻ ít người nhiều ai cũng nhận được một số đặc sủng tùy theo sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa. Cần tận dụng tất cả mọi ơn đó, tất cả mọi đặc sủng và tài khéo đó mà Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng ta để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho tha nhân và trong cộng đoàn. Chính các đặc sủng khác nhau ấy làm thành sự phong phú của dân Chúa, những ơn Chúa ban đều có mục đích giúp cộng đoàn trở thành vững mạnh.
Tóm lại sống lòng tin Kitô có nghĩa là ý thức được ơn Chúa ban cho chúng ta, là luôn tươi vui tận dụng để phục vụ Thiên Chúa trong thân nhân theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô.
15. Chúa đến mang lại niềm vui và hạnh phúc.
('Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một số người cho rằng Chúa Giêsu đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng đáng bận tâm.
Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Chúa Giêsu còn thiết tha đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa.
Sự kiện xảy ra tại tiệc cưới Cana chứng tỏ điều đó.
Hôm ấy, Chúa Giêsu đến tham dự tiệc cưới tại Cana cốt để đem lại niềm vui cho cô dâu chú rể và chúc lành cho họ được trăm năm hạnh phúc. Chúa Giêsu xem đây là điều quan trọng nên Người không chỉ tham dự một mình mà cùng đi với Mẹ Maria và các môn đệ để cho niềm vui của đôi hôn nhân được tăng lên.
Thế rồi, đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu. Đây là chuyện không may và ngày vui của đôi tân hôn có nguy cơ trở thành ngày rầu rĩ vì cô dâu chú rể sẽ bị gièm pha trách móc, tiệc cưới sẽ để lại ấn tượng đáng buồn trong lòng khách dự tiệc.
Trước tình thế đó, Mẹ Maria tìm đến với Chúa Giêsu để xin Người cứu vãn. Thế là mặc dù "giờ của Người" chưa đến (Ga 2,4), Chúa Giêsu cũng đã thực hiện phép lạ đầu tay, hoá nước thành rượu ngon với số lượng dư dật để đem lại niềm vui cho mọi người.
Sự việc nầy cho thấy hạnh phúc đời nầy của con người là mục tiêu quan trọng mà Chúa Giêsu nhắm tới. Sau nầy, Chúa Giêsu thực hiện nhiều phép lạ khác cũng không ngoài mục tiêu đó.
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người goá phụ Na-in nên Chúa Giêsu đã cho con trai bà đã chết được sống lại, dù bà chưa ngỏ lời van xin. (Lc 7,11-17)
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho hai chị em Mác-ta và Maria ở Bêtania đang sầu thảm vì mất em, Chúa Giêsu đã truyền cho Ladarô chết chôn trong mồ được sống lại. Nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui. (Ga 11, 32-43)
Cũng vì muốn đem lại niềm vui cho hai môn đệ Em-mau đang sống trong ưu phiền thất vọng, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra, cùng đồng hành với các ông, đem lời kinh thánh sưởi ấm tâm hồn sầu muộn của các ông. (Lc 24, 32)
Và rất nhiều phép lạ khác Chúa Giêsu đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, cho người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, cho người đói được ăn, cho người nghèo được nghe Tin Mừng... cũng đều nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Hơn nữa, Chúa Giêsu không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn, nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt nền trên tình yêu thương huynh đệ.
Biết rằng con người sẽ luôn luôn bất hạnh nếu thiếu vắng tình thương, rằng tình thương là yếu tố cốt thiết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho muôn người, nên Chúa Giêsu không ngừng kêu gọi mọi người hãy yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." (Gioan 13, 34).
Người cũng báo trước cho mọi người biết rằng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc chỉ dành riêng cho những ai yêu thương phục vụ người khác, đồng thời cảnh báo rằng khổ hình đời đời trong hỏa ngục là hậu quả phải đến cho những kẻ không sẵn sàng cứu giúp những người khốn khổ quanh mình. (Mt 25, 31-46)
Như thế, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh không còn là chuyện nhỏ nhưng là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giêsu.
Là ki-tô hữu, là cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tay với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an vui.
16. Bình an, êm xuôi là ơn Chúa.
('Cùng Nhau Suy Niệm – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người thường mong Chúa làm phép lạ. Ai cũng muốn nhìn thấy phép lạ. Kẻ cần phép lạ để tin. Kẻ muốn có phép lạ để củng cố lòng tin. Xem ra phép lạ đối với phần đông nhân loại là những chuyện khác thường, những chuyện kinh thiên động địa. Phép lạ là những biến cố xảy ra ngoài tự nhiên tựa như con lừa của Baal biết nói tiếng người. Con gà mái gáy giữa ban ngày. Xem ra phần đông nhân loại đang cần những phép lạ tương tự như vậy rồi mới có thể tin vào sự hiện diện của Chúa.
Thực ra, Thiên Chúa không làm phép lạ để những sự kiện xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Phép lạ đúng nghĩa là Ngài làm cho nó trở lại với trạng thái ban đầu tạo dựng. Ngài làm phép lạ để cho những sự kiện được diễn ra bình thường, không gây xáo trộn. đi sai tới quy luật tự nhiên.
Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa đã nhìn thấy mọi sự Ngài tạo dựng đều tốt đẹp. Ngài đã đặt để những quy luật tự nhiên để muôn loài thọ tạo được lớn lên và phát triển hầu đạt đến đỉnh cao của sự sung mãn. Thế nhưng, tội lỗi đã đi vào thế gian. Tội lỗi đã phá huỷ những trạng thái tốt lành ban đầu, gây xáo trộn cho muôn loại tạo dựng. Sự dữ là nguyên nhân gây nên những xáo trộn trong thế gian. Vì lẽ đó, Thiên Chúa vẫn tiếp tục can thiệp vào thế gian để đưa mọi sự trở về với tình trạng tốt lành ban đầu của tạo dựng.
Phúc âm kể lại rằng có một lần Chúa Giêsu đang ngủ trên con thuyền có các môn sinh. Biển lặng tư bề. Bỗng sóng gió nổi lên như muốn nhận chìm con thuyền. Các môn sinh hốt hoảng. Kẻ cầm chèo. Kẻ giữ buồng. Kẻ chạy tới kêu cầu Chúa. Trong cơn bẫn loạn đó, Chúa đã đứng dậy đe gió biển im lặng. Ngài đã làm phép lạ trước mắt các môn sinh là truyền lệnh cho biển trở về với trạng thái ôn hoà.
Trong suốt ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã chữa lành biết bao người bất hạnh đang bị sự dữ hoành hành. Họ đang bị đau khổ bởi cơn đau của thể xác. Họ đang bị đau khổ bởi nỗi bất hạnh, bởi tai ương dịch bệnh hay ngụp lặn trong thất vọng bởi phải chia ly người thân. Chúa đã làm phép lạ bằng việc xua trừ sự dữ. Chúa chữa lành họ để giúp thân xác họ trở về với tình trạng nguyên tuyền ban đầu. Chúa giúp họ trở về với cuộc sống bình thường như bao người khoẻ mạnh khác.
Hôm nay trong tiệc cưới Cana, tiệc rượu đang diễn ra êm xuôi. Mọi người đều vui vẻ với chén rượu, với nụ cười hân hoan. Tiệc sẽ mất vui nếu thiếu rượu. Tiệc sẽ dở dang nếu rượu dự trữ không đủ cho đến khi tàn tiệc. Tiệc dở dang cũng đồng nghĩa niềm vui không trọn vẹn. Chúa đã làm phép lạ để tiệc rượu diễn ra bình thường. Không gián đoạn bởi thiếu rượu. Chúa đã làm phép lạ để tiệc vui được tiếp diễn đến nỗi người quản tiệc cũng không hay biết. Khách dự tiệc vẫn tiếp tục cuộc vui. Người người vẫn nâng ly rượu mừng trong tiếng cuời, tiếng hoan hô chúc tụng. Xem ra ai cũng thoả mãn với chén rượu nồng nàn. Đôi tân hôn hôm nay đã có một niềm vui trọn vẹn. Ngày hôn lễ được diễn ra một cách êm xuôi. Gia đình họ thật hạnh phúc. Hạnh phúc vì có Chúa và Mẹ Maria cùng hiện diện trong gia đình họ. Hạnh phúc vì nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria mà Chúa đã ban cho gia đình một niềm vui trọn vẹn trong ngày thành hôn.
Ngày hôm nay nhiều gia đình đang đổ vỡ. Có biết bao gia đình đang bị xáo trộn bởi cơm chẳng lành canh chẳng ngọt. Có biết bao gia đình đang ly tán bởi "ông ăn chả, bà ăn nem". Có biết bao gia đình rượu ngon đã cạn chỉ còn đọng lại một chút rượu lạnh nhạt và chua cay. Thiếu rượu nồng của tình yêu nên dẫn đến đổ vỡ, nghi kỵ, hiểu lầm và ghen tương. Ngày hôm nay nhiều gia đình đang bất hoà vì đói nghèo, túng cực. Nhiều gia đình đang thất vọng bởi công việc làm ăn chẳng thuận buồm xuôi gió. Nhiều gia đình đang thiếu tình yêu, thiếu thốn tiền bạc, thiếu cả sự cảm thông và tha thứ đã gây nên biết bao xáo trộn trong các gia đình.
Ước gì mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta cũng biết mời Chúa đến trong gia đình của mình. Hãy dành cho Chúa một vị trí xứng đáng trong gia đình chúng ta. Hãy dâng gia đình cho Chúa. Nếu có Chúa hiện diện, Ngài sẽ tiếp tục gìn giữ gia đình chúng ta trong an bình hạnh phúc. Và trên hết mọi sự, hãy biết sống theo lời dặn của Mẹ Maria: "Người bảo gì anh em hãy làm như thế". Sống theo lời Chúa, gia đình sẽ không thiếu niềm vui, không thiếu rượu ngon của hạnh phúc yêu thương. Sống theo Lời Chúa thể hiện qua sự phó thác tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, và nhất là luôn sống đạo tình thương, mỗi người hãy biết mến thương nhau như chính mình. Nếu mình muốn có hạnh phúc hãy làm cho gia đình mình hạnh phúc. Nếu mình muốn được mọi người tôn trọng hãy biết đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
17. Vị khách.
Có một đôi vợ chồng trẻ được cha mẹ cho ra riêng. Trong khi trang hoàng ngôi nhà mới, họ đã bất đồng với nhau về chỗ để treo bức ảnh Chúa Giêsu. Người chồng thì muốn treo bức ảnh ấy ở một vị trí nổi bật nhất trong nhà. Cuối cùng thì người vợ đành phải nhượng bộ, bởi vì chị bỗng nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán:
- Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
Chính bức ảnh này đã gây được một ấn tượng mạnh đối với gia đình và khách khứa đến thăm.
Ngày kia, một người bạn, sau khi nhìn ngắm bức ảnh đã nói với chị:
- Chúa Giêsu không phải chỉ nhìn vào chị, mà còn nhìn xuyên qua tâm hồn chị.
Người khác thì cho biết:
- Lúc nào tôi cũng cảm thấy gia đình chị luôn bình an.
Chính chị đã tâm sự:
- Một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi, không còn như trước nữa.
Đôi tân hôn tại cana, hẳn sẽ đồng ý với người vợ trong câu chuyện trên, bởi vì họ đã mời Chúa Giêsu đến nơi gia đình họ và Ngài đã làm phép lạ đầu tiên, cho nước lã biến thành rượu ngon, để họ khỏi bị bẽ mặt với khách dự tiệc.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta sẽ thấy được một nhận xét nho nhỏ và thú vị, đó là nhiều lần Ngài đã làm phép lạ ở trong gia đình của dân chúng. Chẳng hạn khi Phêrô mời Ngài đến nhà thì Ngài đã chữa lành cho bà mẹ vợ đang sốt nặng. Cũng tại nhà Giairô, Ngài đã cho con gái ông được sống lại. Khi dùng bữa tại nhà ông Biệt phái, Ngài cũng đã chữa lành cho một bệnh nhân. Đặc biệt là với Giakêu và Matthêu, sự hiện diện của Chúa Giêsu đã làm thay đổi cuộc sống của hai ông, Matthêu thì đã trở nên tông đồ của Chúa. Còn Giakêu thì nhất quyết làm lại đời mình và đền bù những thiệt hại mình đã gây ra.
Từ những hình ảnh trên, chúng ta hãy tự hỏi xem:
- Chúng ta đã thực sự mời Chúa Giêsu vào nhà chúng ta hay chưa?
Một người khách khi bước chân vào nhà chúng ta, liệu họ có nhận ra chúng ta thuộc về Chúa qua cách bài trí trên bàn thờ, trên tường vách, hay là người ấy sẽ bình phẩm:
- Tôi thấy con cái của ông bà là những đệ tử ruột của Lý Hùng, của Thu Hương, của Diễm My... bởi vì khắp nơi trong nhà được dán la liệt hình ảnh của những tài tử này.
Liệu một người khách sau vài ngày viếng thăm và ở lại trong gia đình chúng ta, khi ra về họ sẽ nói:
- Gia đình bạn thực là một gia đình Kitô giáo. Mình không thể nào quên được những lời kinh ban tối và ban sáng, trước và sau mỗi bữa ăn. Cũng như chẳng bao giờ quên được tình thương yêu đầm ấm trong gia đình bạn. Ngoài ra mình cũng nhớ là mình chưa hề nghe những người trong gia đình bạn nói hành nói xấu ai cả.
Như thế, việc mời Chúa Giêsu vào nhà là một bổn phận thật quan trọng của mỗi người chúng ta. Cách thức mời Ngài vào nhà, có thể là bằng việc treo lên bàn thờ một tượng chịu nạn, hay một bức ảnh về Chúa. Có thể là việc kính cẩn đọc kinh tối và sớm, trước và sau mỗi bữa ăn. Nhất là bằng việc đối xử với nhau một cách yêu thương và chân thành, cũng như không bao giờ oán hận và thù ghét ai cả.
Cùng với sự hiện diện của Ngài thì bản thân chúng ta sẽ được đổi mới và gia đình chúng ta sẽ được đầm ấm và hạnh phúc.
18. Hạnh phúc mong manh
('Như Thầy Đã Yêu' – Thiên Phúc)
Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.
Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót, chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động. Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.
Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về "Tiệc cưới Cana". Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của Người.
Theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến 'ngày thứ ba' thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhảy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu: "Họ hết rượu rồi" (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.
Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt: "'Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến" (Ga 2,4). Qua câu này, Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ Maria cũng không hiểu rõ chữ 'Giờ' tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ. Mẹ mong Con làm một điều gì đó: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.
Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy 'Giờ' tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để "Các môn đệ tin vào Người" (Ga 2,11).
Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.
Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành bảy trăm lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.
Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa: "Họ hết rượu rồi".
Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.
Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.
Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu Ước thành rượu ngon của Tân Ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho chúng con một hạnh phúc vững bền.
Xin Mẹ Maria luôn là Đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen.
19. Chúa Giêsu thay đổi tất cả.
Sự náo động chung quanh việc thiếu rượu, cuộc đối thoại đáng kinh ngạc giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria, phép lạ làm sững sờ, sự hài hước ('Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ'), thật là sống động! Biết bao nhiêu hoạ sĩ thích vẽ đám cưới Cana, và chúng ta cũng bị cám dỗ biết mấy là dừng lại ở nơi sự thu hút của đám cưới này.
Nhưng chúng ta đang đọc Tin Mừng của thánh Gioan. Ngài là người kể chuyện tài tình và là thần học gia Tin Mừng đang mặc khải các mầu nhiệm bằng cách tiên phong sử dụng những từ ngữ với một nghệ thuật tinh vi. Bạn hãy nhìn xem các từ 'vinh quang' và 'dấu chỉ' đang chiếu sáng. Bạn hãy xem nước và rượu tương phản nhau biết bao, giờ ('Giờ của tôi chưa đến') và sự bắt đầu ('Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana': tại Cana, khởi đầu các dấu chỉ). Bạn hãy đọc kỹ trang mặc khải này và bạn sẽ gặp được hai câu chính yếu: "Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu"... "Các môn đệ đã tin vào Người".
Mỗi đoạn Tin Mừng thánh Gioan là một lời kêu gọi tin vào một điều mà điều này là một bước tiến gần tới toàn bộ đức tin. Tin vào điều gì ở đây? Đó là Chúa Giêsu thay đổi tất cả. Ngài đến Cana và nước hoá thành rượu. Đây là một 'phép lạ-dấu chỉ'. Chúa Giêsu đến và thế giới được biến đổi: "Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi" (2Cr 5,17). Chúa Giêsu đến trong cuộc sống của chúng ta và nếu chúng ta tin, theo nghĩa rất mãnh liệt của thánh Gioan, thì cuộc sống của chúng ta được biến đổi. Chúng ta đi từ cuộc sống hơi tẻ nhạt đến một cuộc sống mạnh mẽ. Cuộc sống này nhảy múa ca hát và bẻ gãy những bó buộc sai trái: Rượu của Chúa Giêsu Kitô! Ngài nói: rượu mới của ta làm vỡ những bình cũ (Mc 2,22).
Than ôi! Người ta còn có thể nói rằng tôn giáo là rượu ngon của cuộc sống nữa hay không? Chúng ta đã làm cho Kitô giáo trở thành một cái gì buồn tẻ, thật sự không làm cho say sưa. Nước của Cana! Nước trong Thánh Kinh, nước trong thánh Gioan vọt ra, tẩy sạch, biểu tượng của sự sống: nước hằng sống. Nhưng không phải nước tại Cana.
"Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái". Đây là nước mà Chúa Giêsu sẽ biến đổi, nước biểu tượng của một tôn giáo hình thức. Tôn giáo hằng sống của người Do thái trở nên quá tỉ mỉ, giả hình. Đó là căn bệnh của mọi tôn giáo. Cuối cùng người ta tin rằng để làm vui lòng Chúa, chỉ cần thốt lên những câu nói, rửa ráy, làm những việc bề ngoài là đủ.
Tôn giáo của Chúa Giêsu thay đổi tất cả: đó là rượu say đắm của tình yêu. Chúng ta làm Chúa vui lòng nếu các nghi thức của chúng ta là những dấu chỉ và là sự trỗi dậy việc chúng ta trao ban cho tha nhân, nếu chúng ta thay đổi, ít ra là xoa dịu nỗi khổ nhọc của một người anh em thành niềm vui. Chúa Giêsu mang lại khả năng chưa từng có này: từ nay tất cả sẽ có thể là tình yêu. Ngài nói với Mẹ Maria: 'Thưa Mẹ, Mẹ chờ đợi gì ở con? Con sẽ làm hơn thế nhiều khi đã tới giờ!'.
Nhưng ở đây nổ ra khả năng sinh hạ của Mẹ Maria: Mẹ đã sinh hạ ra con trai của Mẹ cho cuộc đời, Mẹ đã sinh hạ con trai đó cho cuộc sống công khai của Ngài, với những phương tiện của một người mẹ của Đấng Duy Nhất: sự kín đáo và niềm tin.
Có gì kín đáo hơn thế? "Họ hết rượu rồi" (Tôi thích câu này 'hết rượu rồi' của các nhà chú giải, thay vì 'còn ít rượu': Chúa Giêsu sẽ không cho thêm rượu, Ngài sẽ cho rượu).
Và đức tin rất mạnh mẽ: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo". Rất ít lời, vừa đủ để sự nhục nhã của một cặp vợ chồng trẻ được biến đổi thành niềm vui. Và để chúng ta muốn xin Mẹ Maria ân sủng của tiệc cưới Cana: cuối cùng chúng ta hãy tin rằng Chúa Giêsu thay đổi tất cả.
20. Chuyện bất ngờ.
Người ta thường bảo:
- Mấy ai học được chữ ngờ.
Có những điều chúng ta không bao giờ nghĩ đến, thì lại xảy ra. Đó cũng là trường họp của đoạn Tin mừng hôm nay. Thực vậy, Chúa Giêsu đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng cách tham dự một đám cười ở Cana và thực hiện phép lạ đầu tiên cũng tại đây.
Là Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại, chúng ta thích Ngài chọn lựa một hoàn cảnh khác, trang trọng hơn để tỏ mình ra cùng thiên hạ.
Đúng thế, chúng ta thử tưởng tượng một vị Giám mục hay một vị Hồng y chẳng hạn như Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, ngay sau khi vừa được tấn phong, đã vội vã cùng với những người thân cận nhất của mình, đi tham dự một đám cưới.
Bữa tiệc kéo dài tới tận khuya thì thiếu rượu, vị Giám mục hay vị Hồng y ấy bèn sai người về lấy những chai rượu lễ, mang tới để đãi khách và kéo dài tiệc vui. Nếu sự thật đã xảy ra như vậy, thì khi nghe biết, chúng ta chỉ còn cách lắc đầu, nhún vai và không thể nào hiểu nổi.
Thế nhưng đối với Chúa Giêsu thì đó lại là một chuyện bình thường. Ngài ngồi giữa đám khách dự tiệc và làm phép lạ đầu tiên, biến nước lã trở thành rượu ngon. Sáu chum đựng nước, chứa từ ba trăm đến bốn trăm lít, đã được chủ tiệc xác nhận là một thứ rượu ngon tuyệt vời. Vậy đâu là mục đích và đâu là ý nghĩa của việc Chúa Giêsu đã làm?
Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu ít khi đề cập đến vấn đề hôn nhân, cũng như về tình yêu gia đình. Tuy nhiên đây chắc chắn phải là một vấn đề thời sự nóng bỏng lúc bấy giờ, bởi vì như chúng ta đã biết lúc bấy giờ quân đội La Mã đang chiếm đóng xứ này. Và cùng với họ, là những xáo trộn về đạo đức và những suy thoái về luân lý.
Hơn thế nữa, xứ Palestine lại nằm giữa những dân tộc ngoại giáo với những quan niệm sai lạc về hôn nhân và gia đình. Hẳn rằng Chúa Giêsu có nhiều lý do để trình bày về đề tài này, nhưng Ngài lại nói rất ít.
Còn chúng ta hôm nay, chúng ta đã bàn bạc, đã viết lách rất nhiều. Nào là sự khủng hoảng của đời sống gia đình. Nào là sự sụp đổ của tình yêu hôn nhân. Nào là những khác biệt tâm lý trong liên hệ vợ chồng...Thế nhưng ngày hôm nay lại có nhiều đổ vỡ trong hôn nhân và gia đình hơn hết.
Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi một tiếng đồng hồ lại có tới cả trăm đôi vợ chồng lôi nhau ra tòa để ly dị. Con số ly tị tăng nhanh và lên tới 50% tại các nước phương tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng thành hôn, thì lại có một cặp thất bại, phải ly dị nhau. Ấy là chưa kể tới biết bao thai nhi đã bị giết chết một cách oan uổng. Mới đây người ta đã xếp Việt Nam chúng ta vào một trong ba nước có con số nạo phá thai cao nhất thế giới...
Còn Chúa Giêsu thì khác. Ngài không nói nhưng Ngài đã làm. Ngài ở giữa đôi tân hôn tại Cana, tham dự đám cưới của họ và thánh hóa mái gia đình họ vừa mới gầy dựng. Hành động khởi đầu cho sứ mạng của Ngài không phải là một thông điệp gửi đến cho toàn thể thế giới, cũng không phải là một cuộc biểu dương lực lượng, nhưng là một đám cưới nhà quê, qua đó Ngài tỏ cho chúng ta biết Ngài chính là suối nguồn đem lại bình an và hạnh phúc, cảm thông và trung thành cho đôi tân hôn.
Đúng thế, hôn nhân không phải chỉ là một giao ước mang tính cách xã hội, mà còn là một bí tích, một sự kết hợp thiêng liêng trong ơn sủng và Đức Kitô chính là sợi dây nối kết họ lại với nhau. Tình yêu của họ là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo hội, như tại Cana Ngài đã giúp cho họ vượt qua mọi khó khăn. Hơn thế nữa, hôn nhân còn là một cơ may để họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc hình thành và giáo dục những người con cái Thiên Chúa.
Có nhìn hôn nhân và gia đình như thế, chúng ta mới tìm thấy được ý nghĩa của cuộc sống lứa đôi và sức mạnhg giúp chúng ta trung thành cùng nhau trong liên hệ vợ chồng, bởi vì Đức Kitô đang ở giữa chúng ta.
21. Hiện diện.
Trong đại hội giới trẻ thế giới tại thủ đô Manila nước Phi Luật Tân (10-15/1/1995), có một sự kiện khá ngộ nghĩnh tương tự như câu chuyện của ông Giakêu tìm cách nhìn xem Chúa Giêsu. Sự kiện đó là: khi xe của Đức Thánh Cha đang di chuyển trên đường phố có hàng triệu người đứng ở hai bên đường chào đón Người, người ta thấy một phụ nữ trèo lên cột điện chờ xe Đức Thánh Cha đi qua để được nhìn thấy Người. Khi được phỏng vấn tại sao lại liều lĩnh thế, chị đã trả lời: "Tôi nghĩ rằng đây là cơ hội duy nhất trong đời tôi có thể nhìn thấy Đức Thánh Cha. Và được nhìn thấy Đức Thánh Cha một lần thôi tôi cũng mãn nguyện rồi". Người phụ nữ này là một người Tin Lành.
Được nhìn thấy Đức Thánh Cha, được Đức Thánh Cha viếng thăm đã trở thành một ước mơ, một niềm vui lớn đối với nhiều người, bất kể lương hay giáo. Điều đó dễ hiểu, bởi sự hiện diện của Đức Thánh Cha là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa chứ chưa phải là chính Thiên Chúa. Người chỉ là sứ giả đi trước để dọn đường cho Thiên Chúa đến với các tâm hồn. Nhưng nếu sự hiện diện của sứ giả Thiên Chúa đã đem lại niềm vui to lớn dường ấy, thì sự hiện diện của chính Thiên Chúa sẽ mang lại niềm vui to lớn đến độ nào?
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay nói đến sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria tại một gia đình có đám cưới ở Cana. Và sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui cho nhà đám, mà còn cứu cho gia đình này khỏi một bàn thua trông thấy. Nhờ các Ngài mà rượu đã hết lại trở nên dư dật. Nhờ các Ngài mà cô dâu chú rể và gia đình nhà đám khỏi bẽ mặt trước các thực khách. Nhờ các Ngài mà niềm vui của ngày cưới được tiếp tục và trọn vẹn.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria không bao giờ là một tai họa, nhưng luôn mang lại ân phúc. Vấn đề là chúng ta có cho các Ngài nhập hộ khẩu vào trong gia đình và trong cuộc đời của mình hay không?
22. Tiệc cưới Cana.
Phép lạ hóa nước ra rượu tại tiệc cưới làng Cana có một ý nghĩa Kitô học rất sâu xa, ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu kết luận của thánh sử Gioan: "Chúa Giêsu tỏ hiện vinh quang của Ngài để các môn đệ tin vào Ngài".
Rượu mới tuyệt hảo và dư đầy là chính Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, là giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước mới thay thế giao ước cũ và trổi vượt hơn giao ước cũ trên tất cả mọi phương diện. Hình ảnh rượu mới được các tiên tri của Cựu ước như Amos và Giêrêmia diễn tả như là dấu chỉ của cuộc sống hạnh phúc, an lành thịnh vượng của dân Thiên Chúa trong thời cứu rỗi.
Ba thánh sử nhất lãm: Marcô, Matthêu và Luca cũng dùng hình ảnh rượu mới để định nghĩa lòng tin. Tin là hoán cải, là từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, mặc lấy Chúa Kitô, mặc lấy giáo huấn của Ngài. Định nghĩa trên đây đã đặc biệt được thánh Phaolô khai triển. Dù giờ của Ngài chưa đến, nhưng Chúa Giêsu đã chiều theo ý Mẹ Ngài, tỏ hiện vinh quang của Ngài để các môn đệ tin. Giờ và vinh quang mà Chúa Giêsu muốn tỏ hiện ra cho các môn đệ ngay từ lúc làm phép lạ cho nước hóa ra rượu tại tiệc cưới Cana chính là giờ thập giá, là cái chết và sự sống lại của Ngài.
Theo thánh sử Gioan, chúng ta chỉ có thể hiểu được bản chất đích thực và sâu xa của vinh quang được bắt đầu thể hiện tại Cana đó dưới ánh sáng của giờ sau hết, nghĩa là lúc Chúa Giêsu bị treo trên thập giá để rồi chết đi và sống lại. Chính qua thập giá với cái chết khổ nhục của mình mà Chúa Giêsu chiến thắng quyền lực tội lỗi và sự dữ. Ngài bẻ gãy cái vòng luẩn quẩn của bạo lực, giải thoát con người khỏi ách gông cùm của sự dữ.
Những dấu chỉ bắt đầu từ dấu chỉ của phép lạ tại tiệc cưới Cana có nhiệm vụ mạc khải mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trên đường tiến lên thập giá. Con đường Chúa Giêsu đi tiềm ẩn và sự chiến thắng vinh quang của Thiên Chúa sẽ được tỏ hiện trong cái chết và sự sống lại của Ngài. Vinh quang của Thiên Chúa đối với loài người được tỏ hiện rõ ràng nhất trên thập giá, qua cái chết của Chúa Giêsu. Thập giá là bảo chứng tuyệt đỉnh của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Trong Chúa Giêsu, vinh quang đó là sự tùng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa Cha để hoàn thành chương trình cứu độ và đổi mới trần gian.
23. Tiệc cưới.
Nếu chúng ta hiểu phép lạ ở Cana theo nghĩa đen, chúng ta sẽ giản lược nó thành một điều kỳ diệu chỉ trong nháy mắt là xong và giới hạn ý nghĩa của nó.
Thật ra, vấn đề không phải ở chỗ quyền năng làm biến đổi nước thành rượu. Chúng ta đã biết làm điều ấy như thế nào – việc ấy xảy ra mỗi năm trong các vườn nho và các nhà máy của chúng ta. Phép lạ có một ý nghĩa sâu xa và rộng lớn hơn và ý nghĩa này có giá trị ở mọi thời đại. Nó còn quan trọng hơn một điều kỳ diệu.
Trong nỗ lực mô tả mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Người. Kinh thánh dùng hình ảnh của hôn phu và hôn thê. Và để mô tả niềm vui mà Thiên Chúa tìm thấy ở giữa dân Người, Kinh Thánh dùng hình ảnh của tiệc cưới.
Bài đọc 1 chứa một sứ điệp về niềm hy vọng của dân Thiên Chúa trong những thời kỳ suy sụp nhất của lịch sử họ. Giêrusalem bị tàn phá và nhiều người dân đi đày qua Babylon. Israen, một thời là tân vương của Thiên Chúa, giờ đây giống như một quả phụ bị lấy mất con. Tuy nhiên, hôn phu của nàng là Thiên Chúa đã không quên nàng. Sẽ có một tiệc cưới mới. Thiên Chúa sẽ phục hưng dân Người.
Lời hứa này đã được thực hiện khi dân chúng trở về từ chốn lưu đày, nhưng đặc biệt hơn khi Đức Giêsu đến. Người ta không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai ở một tiệc cưới. Ở tiệc cưới ấy, người ta thiếu rượu. Cách nói này muốn ám chỉ tôn giáo cũ, giao ước cũ vẫn còn thiếu sót. Đã đến lúc mọi lời hứa phải được thực hiện, cũng là thời kỳ của luật mới và tinh thần mới.
Các ngôn sứ đã nói trước về việc rượu chảy dồi dào trong ngày của Đấng Mêsia. Ở Cana, chính Đức Giêsu đã ban phát rượu ấy. Và mọi người nếm hưởng rượu ấy đều đồng ý rằng rượu này ngon hơn rượu cũ. Chúng ta nhận thấy sự quảng đại tuyệt đối của phép lạ. Sáu cái chum đá, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Chúng ta thoáng thấy lòng ấm áp của Người. Trật tự mới bắt đầu với một hành động xót thương.
Điều Đức Giêsu đã thực hiện ở Cana không phải là một việc làm hời hợt, qua loa. Nó nói lên điều phải xảy ra trong suốt sứ vụ của Người. Hóa nước thành rượu là một biểu tượng của việc Người cần phải thực hiện. Bất cứ nơi nào Người đến, cái cũ được đổi thành cái mới. Người đã đổi nước mắt của bà góa ở Nain thành niềm vui, tính vị kỷ của Giakêu thành sự yêu thương. Trên núi Canvariô, Người đổi sự tuyệt vọng của tên gian phi thành niềm hy vọng. Và trong buổi sáng Phục sinh, Người đổi cái chết thành sự sống.
Sự hiện diện của Người có thể làm thay đổi đời sống của những người đã được tiếp xúc với Người cả khi họ không nhận ra. Và Người tiếp tục làm điều đó cho những ai tin tưởng và đi theo Người. Người biến đổi đời sống chúng ta thành một điều kỳ diệu. Người cho ta tham dự vào đời sống thần linh – không thua gì trạng thái xuất thần do hiệp thông với Thiên Chúa. Nhưng tất cả những điều đó vẫn còn ở lại trên bình diện lý thuyết nếu chúng ta không cảm nghiệm điều đó trong đời sống chúng ta, và nếu Đức Giêsu không hóa nước thành rượu một cách nào đó trong đời sống chúng ta.
Nước là một chất cần thiết và có ích cho sự sống còn của cơ thể. Tuy nhiên, dù nước đem lại sự thỏa mãn nhưng nó không đem lại niềm vui. Mặt khác, rượu làm say sưa và phấn chấn tinh thần.
Phúc cho những người khát khao thứ "rượu" mới mà Đức Giêsu cung cấp. Rượu cũ là lời hứa; rượu mới là sự hoàn thành. Của cải vật chất không đủ. Đức Giêsu đem lại một chiều kích mới cho đời sống. Người mang lại một niềm vui mà thế gian không thể mang lại.
Người yêu cầu các gia nhân múc nước đã hóa thành rượu và đem đến cho người quản tiệc. Đức Giêsu đã dùng những người trung gian để chuyển giao những ơn huệ của Người. Người yêu cầu chúng ta chia sẻ với những người khác các ơn lành mà Người đã chia sẻ với chúng ta.
24. Có Mẹ chở che
Lm. Nguyễn Nguyên
Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi một tiếng đồng hồ lại có tới cả trăm đôi vợ chồng lôi nhau ra tòa để ly dị. Con số ly tị tăng nhanh và lên tới 50% tại các nước phương tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng thành hôn, thì lại có một cặp thất bại, phải ly dị nhau.
Với bối cảnh đó, tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta hãy tái khám phá giá trị và ý nghĩa thiêng liêng cao quý của đời sống hôn nhân, qua việc Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Và qua đó, cho chúng ta một bài học quá rõ ràng: ở đâu có sự hiện diện của Chúa và Mẹ thì niềm vui và hạnh phúc ở đó tràn đầy.
Thật vậy, câu chuyện Tin mừng hôm nay nói đến sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria tại một gia đình có đám cưới ở Cana. Và sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui cho nhà đám, mà còn cứu cho gia đình này khỏi một bàn thua trông thấy. Nhờ các Ngài mà rượu đã hết lại trở nên dư dật. Nhờ các Ngài mà cô dâu chú rể và gia đình nhà đám khỏi bẽ mặt trước các thực khách. Nhờ các Ngài mà niềm vui của ngày cưới được tiếp tục và trọn vẹn.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.
Nếu trong đám cưới ngày xưa đã từng hết rượu, thì sống trong đời hôm nay, có biết bao nhiêu lần chén hạnh phúc của chúng ta đã vơi đi, hay đã cạn hết rồi. Men của tình yêu, của niềm vui, của sự thành công, của sung túc không còn. Ngay cả khi tất cả những điều ấy phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, bằng xương, bằng máu mới có được... Vậy mà chỉ sau một biến cố nào đó, đã mất hết, đã cướp hết, mình hoàn toàn trắng tay, chỉ để lại trong lòng nỗi cô đơn dằn xé, nỗi chán chường đến mức bạt nhược... Những lúc như thế, mỗi người chúng ta cần lắm một lời van xin của Mẹ đến với Chúa "Họ hết rượu rồi", để Chúa an ủi và ban nghị lực, ban đức tin giúp ta có thể vượt qua những đắng cay cồn cào ấy.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria không bao giờ là một tai họa, nhưng luôn mang lại ân phúc. Vấn đề là chúng ta có cho các Ngài nhập hộ khẩu vào trong gia đình và trong cuộc đời của mình hay không?
Hôm nay, chúng ta đã thấy rõ rồi đó, dù bảo rằng "Giờ của con chưa tới" và đám tiệc còn hay hết rượu thì chẳng có liên quan gì đến chúng ta cả Mẹ ơi, thế nhưng, phép lạ vẫn cứ xảy ra thật. Chúa đã biến nước thành rượu thật. Không chỉ thành rượu, mà còn là rượu ngon. Và đám cưới không chỉ cứ tiếp tục vui, mà còn vui hơn.
Vì thế, chúng ta có thể xác quyết rằng: Lời cầu nguyện của Đức Mẹ là lời hiệu nghiệm và có uy lực. Lời đó mang lại giá trị cho đời sống chúng ta. Nó cho thấy Đức Mẹ có quyền năng trong lời chuyển cầu của mình. Lời chuyển cầu hiệu nghiệm và uy lực ấy rất cần cho chúng ta, vì nó mang lại giá trị cho đời sống, mang lại hạnh phúc cho con người, mang lại những phép lạ lớn lao tưởng chừng như không thể xảy ra. Vì thế, khi tôn thờ Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cũng hãy yêu mến Đức Mẹ. Hãy tâm sự với Đức Mẹ, hãy bày tỏ cuộc đời mình với Đức Mẹ. Vì chúng ta thâm tín rằng, chính trên thập giá, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa đã trối Mẹ cho Gioan, và Gioan cho Mẹ. Đấy là lúc chúng ta trở thành con cái Mẹ, lẽ nào Mẹ lại không nhận biết những nhu cầu để giúp đỡ chúng ta sao?. Ngày xưa khi còn tại thế, lời cầu của mẹ đã hiệu nghiệm đến thế, huống chi bây giờ Mẹ đang tột cùng vinh hiển bên cạnh Con Mẹ. Mẹ đang vinh hiển, tràn đầy uy quyền, nắm giữ kho báu ân sủng của Con Mẹ, Mẹ lại tiếc với chúng ta sao?. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
25. Tiệc cưới Cana
Lm. PX. Vũ Phan Long
Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Người biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
1.- Ngữ cảnh
Về đoạn văn Ga 2,1-12, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi sau đây: câu truyện Cana mở ra một phân đoạn mới (gọi là "Sách các dấu lạ", ch. 2–12) hoặc khép lại một bài tựa mang tính tường thuật (1,19–2,12)?
Chúng tôi chọn đặt truyện Cana vào cuối bài tựa tường thuật. Trong ch. 1, sau Bài Tựa (1,1-18), tác giả giới thiệu gương mặt vị Tẩy Giả, vị chứng nhân, "bạn của chàng rể" (3,29), người ban phép rửa để "Người [= Đức Giêsu] được tỏ ra cho dân Ít-ra-en" (1,31). Sứ mạng của Gioan là bày tỏ chân tính thiên sai của Đức Giêsu. Vì lý do này, Anrê và một môn đệ nữa đã đi theo Thầy (1,35-40). Anrê lại đi gặp Simôn và bảo: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia" (1,41); chuyện cũng như thế đã xảy ra với Nathanaen (1,45-51). Tất cả kết thúc tại Cana, với việc chính Đức Giêsu tỏ vinh quang ra (2,11).
Còn có những lý do khác khiến phải đi theo chiều hướng này. Có thể kể ra hai lý do: 1) Cách tính các ngày làm thành một tuần. "Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình" (1,29). "Hôm sau ông Gioan lại đứng đó" (1,35). "Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê" (1,43). Cuối cùng, "ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana miền Galilê" (2,1). Đây đúng là một tuần, và tiệc cưới đã xảy ra vào ngày thứ bảy. 2) Cần ghi nhận việc tác giả tích lũy các danh hiệu Kitô học. Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa" (1,29.36), "Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần" (1,33), là "Rabbi" (1,38.49), là "Đấng Mêsia" (1,41), là "Con Thiên Chúa, vua Ít-ra-en" (1,49). Rõ ràng các danh hiệu này là một tổng hợp việc mạc khải mầu nhiệm Đức Kitô. Điểm tới của cụộc tỏ mình này là Cana: "Đức Giêsu tỏ vinh quang của Người" (2,11). Việc Đức Giêsu tỏ mình ra tương ứng với việc các môn đệ đáp lại: "Và các môn đệ đã tin vào Người" (2,11). Tới đây, cộng đoàn các môn đệ gồm những người tin đã thành hình; Đức Giêsu có thể bắt đầu đời sống công khai.
Vậy có thể coi đây là Dẫn nhập bằng một dấu lạ lịch sử: Truyện Tiệc cưới Cana kết thúc phần Dẫn nhập và đưa vào "Sách các dấu lạ của Đức Giêsu", nên có thể gọi là đoạn văn "làm cầu".
2.- Bố cục
Bài tường thuật được giới thiệu như là một "dấu lạ", nên có thể tìm bố cục theo cách cấu trúc cổ điển của các phép lạ. Nhưng chúng ta có thể tìm ra bố cục theo cấu trúc đồng tâm sau:
A = Phần tường thuật (2,1-3);
B = Các đối thoại (2,4-8):
Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu,
Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn,
Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn;
A'= Phần tường thuật (2,9-11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ngày thứ ba (1): Chi tiết thời gian này có mục đích nối kết phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu với núi Sinai (Xh 19,1.10-11.16) và cuộc Phục Sinh (Ga 2,19-22; x. 7,30; 8,20...).
Như thế, Cana một đàng là phiên bản của những gì đã xảy ra tại núi Sinai, đàng khác, là một lời tiên báo mào đầu cho mạc khải tối hậu phát xuất từ cuộc Phục Sinh của Đức Kitô.
- tại Cana miền Galilê (1a và 11a): Trong Tân Ước, thành này chỉ được Ga nhắc tới (x. cả 21,2). Thông thường người ta nghĩ đến Khirbet Qana, cách Nadarét 15 cây số. Đây là nơi hẻo lánh, không mấy quan trọng.
- Có tiệc cưới: Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần (ba ngày: trường hợp một quả phụ tái giá). Khung cảnh tiệc cưới nối kết câu truyện Cana với đề tài quen thuộc trong Cựu Ước: hôn lễ của Đấng Mêsia với Dân Người. Trong TM IV, Gioan Tiền Hô sẽ giới thiêu Đức Giêsu là chàng rể (3,29); còn trong các TMNL, Đức Giêsu tự coi mình là chàng rể (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34), và đã mô tả Nước Trời như một tiệc cưới (Mt 22,1-14). Cuối cùng, sách Kh cũng vận dụng tới đề tài này để diễn tả sự kết thúc thời hiện tại và sự khai mở thời tương lai (Kh 19,7-9; 21,2; so với Ep 5,22tt). Theo tập tục, chính chàng rể cung cấp rượu (x. c. 10).
- có thân mẫu Đức Giêsu: Đức Trinh Nữ được giới thiệu là "thân mẫu Đức Giêsu", rồi ở c. 4, Đức Giêsu lại gọi mẹ là "bà". Một sự cố tương tự lại xảy ra trên Núi Sọ trong Ga 19,25-27; như vậy, câu truyện Núi Sọ có những điểm chung với câu truyện Cana. Có thể coi hai câu truyện này làm nên một thứ cấu trúc "đóng khung".
- Họ hết rượu rồi (3): Người ta đã muốn coi lời này chỉ là ghi nhận một sự kiện. Tuy nhiên, có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó.
- Thưa bà (gynai) (4): Một người Do Thái gọi mẹ là 'immâ, "mẹ của con". Vì thế danh hiệu "bà" (gynê; femme, woman) được Đức Giêsu dùng mà gọi Đức Maria có vẻ kỳ lạ. Trong thực tế, Đức Giêsu cũng sử dụng danh xưng ấy để gọi các phụ nữ khác trong TM IV (4,21: bà Samari; 20,13: bà Maria Mácđala) và trong các TMNL (Mt 15,28; Lc 13,12). Dù sao, đối chiếu với Ga 19,25-27, danh xưng này không thể có một ý nghĩa tiêu cực. Rất có thể qua tiếng "bà" (E. Farahian đề nghị dịch trong tiếng Ý là "signora"), Đức Giêsu đề ra một cách công khai hơn để gọi mẹ ruột của mình tại nơi công cộng. Ngoài ra, với từ ngữ này, chắc chắn ở bình diện biểu tượng, có một gọi ý đến cuộc tạo dựng: Đức Maria xuất hiện ra như là Evà mới, hoặc hơn nữa, như là đại diện của dân Israel, hoặc tốt hơn nữa, như là Israel đích thật.
- Chuyện đó can gì đến bà và con? (4): dịch sát: "Giữa tôi và bà, nào có việc gì?" (NTT). Ti emoi kai soi (Hp: mah-li wâlâk): Đây là cách diễn tả quen thuộc trong văn chương Hy Lạp, Rô-ma và Sê-mít để diễn tả sự ưng thuận hoặc bất thuận giữa hai hoặc nhiều người. Chỉ có văn cảnh mới giúp thấy rõ các sắc thái của mỗi trường hợp.
- Giờ của con chưa đến (4): Nếu quan tâm tới ý nghĩa của thuật ngữ "Giờ của Đức Giêsu" theo TM Ga, và tới giá trị biểu tượng của rượu, chúng ta sẽ thấy rõ. "Giờ của Đức Giêsu" là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh; còn rượu tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến "Giờ" Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1).
- Rượu (3): Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta các ý nghĩa của "rượu".
* Thời thiên sai và cánh chung:
Các ngôn sứ nói rằng khi Thiên Chúa quy tụ con cái tản mác lưu đày về và cho họ được định cư, rượu và các sản phẩm khác sẽ được ban cho họ dư dật (Am 9,13; Ge 2,24; Gr 31,12; Ge 2,19-16). Rượu này lại có phẩm chất rất tốt (Hs 14,8; Is 25,6; Dcr 9,17). Rượu và sữa được tặng không (Is 55,1). Trong Hs 2,21-22 và Is 62,5, sự phì nhiêu của hoa mầu ruộng đất được ghép vào hình ảnh cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và Dân Ngài. Cuộc hôn nhân này tượng trưng Giao Ước mới ký kết với con cái Israel, được quy tụ về (Ge 31,8-10.31-37). Có hai bản văn trực tiếp mang tính thiên sai, St 27,28-29 và St 49,10-12: Thời đại thiên sai được mô tả bằng một giọng văn đầy hình ảnh: "rượu mới dồi dào" (St 27,28); muốn buộc con lừa, Đấng Mêsia chỉ có dây nho; muốn giặt áo, Người chỉ có rượu; và rượu làm cặp mắt Người ngời sáng (St 49,11-12).
Trong Diễm ca, "rượu" được dùng 8 lần để tượng trưng tình yêu nồng nàn của đôi nam nữ (Dc 1,2-4; 2,4; 4,10; 5,1; 7,3-10; 8,2).
* Rượu và Lời Thiên Chúa:
Trong Cựu Ước, Luật Môsê (hoặc Lời Thiên Chúa) được đặt trong quan hệ với rượu, trong hai đoạn: Gr 23,9 và Cn 9,25. Sự Khôn Ngoan đã dọn tiệc và mời khách, thật ra là Luật Môsê. Theo truyền thống Kinh Thánh, vị hiền nhân là người suy gẫm và đào sâu Torah. Và rượu của sự Khôn Ngoan là Luật Thiên Chúa. Trong Hc 24,17, sự Khôn Ngoan lại tự ví mình với một cây nho (x. Ga 15,1). Như vậy, ta có chuỗi các khái niệm: Torah = Khôn Ngoan = cây nho = rượu.
* Rượu là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích:
a) Truyền thống Do Thái giáo:
Rượu còn được coi như là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích: Vị này được người ta chờ mong như một vị thầy chuyên môn về Luật Môsê (x. Targ Dc 8,12). Còn khi bản Midrash St R 98,9–49,11 nói rằng Đấng Mêsia "... giặt áo mình trong rượu" (St 49,11), điều này có nghĩa là Người sẽ viết lại những câu Luật cho người nhà mình, tức sẽ đề nghị những ý nghĩa và lối giải thích Torah. Còn Người giặt "áo choàng trong máu của nho", có nghĩa là Người sẽ sửa chữa các lối giải thích sai lạc.
b) Tân Ước: x. Mt 5,17.21-22.27-28.31-32.33-34.38-39.43-44. Các TMNL ví giáo huấn của Đấng Mêsia với rượu mới, Đức Giêsu là chàng rể của lễ cưới thiên sai. Rượu mới tượng trưng cho Tin Mừng của Người, Mạc khải của Người; rượu này không thể pha trộn với rượu cũ của Do Thái giáo (Mt 9,14-17; Mc 2,18-22; Lc 5,33-39).
* Giá trị biểu tượng của rượu Cana:
Trong thần học Gioan, Lời của Đức Giêsu là "Sự Thật" (Ga 8,31-32; 18,37; 17,8.14.17..), và điều quan trọng là Lời này được đồng hóa với chính Đức Giêsu: "Thầy là Sự Thật" (14,6; x. 8,32-26). Tin Mừng của Đức Kitô được nhập thể cách rõ ràng nhất nơi bản thân và trong những biến cố liên hệ tới bản thân con người đang loan báo Tin Mừng này, là Ngôi Lời làm người: "Thầy là ánh sáng, bánh ban sự sống, sự sống lại, sự sống...". Vậy, Lời của Đức Kitô là Mạc khải của Người, Tin Mừng của Người.
Chúng ta nói "rượu" tượng trưng Lời Đức Kitô là do những nhận định sau:
1) Cặp mẫu Sinai – Cana:
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Gioan (1,19-2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với chóp đỉnh là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào "ngày thứ ba".
"Ngày thứ ba" của Cana tương ứng hoàn toàn với "ngày thứ ba"của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào "ngày thứ ba", thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào "ngày thứ ba"; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người.
2) Động từ "giữ" (c. 10):
Người quản tiệc nói với tân lang: "... Còn anh, anh lại giữ (HL. tetêrêkas) rượu ngon cho đến mãi bây giờ". Động từ "giữ" là động từ tiêu biểu của từ vựng Gioan khi đề cập đến Lời–Điều răn của Đức Giêsu, và Lời này là Lời của Chúa Cha. Tác giả Gioan đã dùng động từ ấy theo nghĩa này ít ra 25 lần (8,51-52; 14,23; 15,20; 17,6; Kh 3,8 / Kh 3,10 / 14,24 / 1 Ga 2,5 = 8,55 / Kh 1,3; x. 22,7.9 / Kh 2,26 / 1 Ga 2,3; 3,22.24; 5,3 / Kh 12,17 / Kh 14,12. Lưu ý: Mc chỉ dùng 1 lần (Mc 7,9); Mt 3 lần (Mt 27,36.54; 28,4); Lc 1 lần (Cv 15,5).
3) Nước thanh tẩy của tập tục Do Thái:
Rượu Đức Giêsu ban lại lấy từ nước đựng trong các chum dùng vào "việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái" (c. 6). Nước này không phải là nước phàm tục, mà là nước dùng trong nghi lễ, để thanh tẩy các thực khách (x. Mc 7,2-5; Mt 15,2; Lc 11,38-39). Chính nước này được Đức Giêsu biến thành rượu. Điều này có nghĩa là kể từ nay, "việc thanh tẩy" không còn được nối kết với việc giữ Luật Môsê nữa (tượng trưng bằng nước trong sáu chum), mà là với việc giữ Tin Mừng của Đức Kitô, giữ Lời của Người (tượng trưng bằng rượu ngon).
Thật ra, đây là giáo lý của tác giả Ga về việc "thanh tẩy". Các môn đệ được "thanh tẩy" nhờ Lời Đức Giêsu đã loan báo cho họ (15,3). Sứ điệp mạc khải của Đức Kitô là Sự Thật có thể giải thoát các môn đệ khỏi nô lệ tội lỗi (8,32.34-36). Người nào ở lại trong Đức Giêsu, bằng cách đón nhận Tin Mừng của Người (Ga 15,7; 1 Ga 3,6) thì không phạm tội nữa, mà được thánh hóa (1 Ga 3,6). Lời Đức Giêsu giống như một hạt giống (1 Ga 3,9; x. Lc 8,11; 1 Pr 1,23; Gc 1,18; 1 Cr 4,15). Nhờ tác động của Lời, người môn đệ có thể thắng sự dữ và ít sa vào tội lỗi hơn (1 Ga 2,14). Đây là cách Đức Giêsu "xóa bỏ tội trần gian" (1,29): Người "thanh tẩy" con người bằng Lời Sự Thật của Người.
4) Rượu Cana, biểu tượng của mạc khải cánh chung của Đức Kitô:
Rượu Cana không những là hình ảnh của Lời mạc khải của Đức Giêsu, mà còn diễn tả chiều kích cánh chung của Lời này, trong tư cách là Lời tối hậu và vĩnh viễn.
Chẳng hạn Ga 1,45: Philípphê nói với Nathanaen: "Đấng mà Sách Luật Môsê và các Ngôn Sứ nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét". Từ Môsê và các Ngôn sứ, ta chuyển qua Đức Giêsu. Đây là điều đã được nói ở 1,16-17. Dấu lạ Cana là một sự chuẩn nhận mang tính ngôn sứ cho niềm chờ mong cánh chung xoáy vào con người Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu ra lệnh đổ các chum "đầy tới miệng" (c. 7), điều đó không chỉ có nghĩa là đổ nhiều tối đa, nhưng đặc biệt có nghĩa là "hoàn toàn". Sau Đức Kitô, không còn có chuyện "còn nữa", "sau đó" hoặc "thêm nữa". Lời Người làm đầy mức Mạc khải. Lời Người là "nguồn sung mãn" (1,16). Tuy nhiên, sự sung mãn của Đức Kitô được thêm vào cho một mức độ có trước (x. Dt 1,1). Rượu Người cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Nhiệm cục Luật Môsê bị vượt quá về chất lượng bởi Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn "mới" (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là "ngon (tốt)" (HL. kalôn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassô).
Những gì xuất hiện tại Cana là như hình ảnh của một mở đầu, thì được kiểm chứng trong TM IV bởi những mẩu đối thoại khác, trong đó nhắc lại sự cao trọng của Đức Giêsu và những ân ban của Người, so với những nhân vật hoặc những định chế của Cựu Ước: hơn Giacóp (4,12), Môsê (5,46; 6,32-35), Abraham (8,58), Đền Thờ (2,19-21; x. 4,21-23), Gioan Tẩy Giả (1,26-33), như Gioan đã tuyên bố (3,29-30): "... Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi (Hl. elattousthai; từ này cùng một ngữ căn với elassô, 2,10)".
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại "cho đến mãi bây giờ" (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ "cho đến bây giờ" (HL. eôs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô đến.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
5) Quan hệ giữa rượu Cana với "ngày thứ ba" và "Giờ của Đức Giêsu":
Cuối cùng, các thuật ngữ "ngày thứ ba" (c. 1) và "Giờ của Đức Giêsu" đưa lại cho dấu lạ Cana một ý nghĩa cánh chung: cả hai thuật ngữ quy hướng về những biến cố cuối đời của Đấng Cứu thế, về cuộc Khổ Nạn quang vinh của Người.
Yếu tố "rượu" cũng có một vai trò trong chiều hướng cánh chung này. Chúng ta nói rằng "rượu" tượng trưng cho Sự Thật Phúc Âm đã được Đức Giêsu rao giảng, và đã nhập thể nơi chính bản thân Ngôi Lời nhập thể. Thế nhưng lời cuối cùng của sứ điệp này, nghĩa là việc mạc khải hoàn toàn về chân tính của Đức Kitô, chỉ nên rõ khi Đức Giêsu đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). "Vào ngày ấy", các môn đệ biết rằng Đức Giêsu bằng Cha Người trong thần tính (14,20a; x. 10,31-33; 5,18), và Người liên kết họ với Người trong sự hiệp thông với Cha Người (14,20b). Đây là ngày xảy ra Giao Ước Mới được ký kết giữa Thiên Chúa và loài người để tiếp nối và hoàn tất Giao Ước cũ.
Sau Phục Sinh, Tôma nhận biết Đức Giêsu là "Đức Chúa và Thiên Chúa" của ông (20,28); nơi Người, được thực hiện lời hứa thường được các Ngôn sứ nhắc lại: "Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi".
Trong thời của mầu nhiệm Phục Sinh ấy, Mạc khải không còn được truyền đạt bằng dụ ngôn hoặc hình ảnh nữa (16,25). Nay đã được Thánh Thần hướng dẫn (16,13-14), các môn đệ không còn dám hỏi: "Người là ai?" nữa (21,12; x. 16,23). Kể từ nay, các ông biết Người là "Đức Chúa, Kyrios" (21,12).
Lời Phúc Âm (được tượng trưng bằng rượu Cana) nay rực sáng lên nơi Đức Kitô quang vinh.
- Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo (5b): Có lẽ Đức Maria không hiểu những lời Đức Giêsu nói. Mẹ cũng giống như những người khác trong TM IV, ở tại một bình diện hết sức cách biệt với Đức Giêsu. Tuy nhiên, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định.
- Mỗi chum chứa được khoảng hai hoặc ba thùng (6. NTT): Một metrêtês (mesure) khoảng 40 lít (Hp: êpah, éphah).
- Người quản tiệc... không biết rượu từ đâu ra (9c): Dọc theo TM IV, ý tưởng này: 'không biết nguồn gốc Đức Giêsu và Vương quốc của Người (x. 18,36)' tái xuất hiện dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: 3,8; 4,10; 6,41; 9,29.30; 7,26-27 (x. 19,9).
Đức Giêsu vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người khi xảy ra biến cố Khổ Nạn–Chết–Sống lại (x. Ga 7,33-35; 8,21-23; 23,36; 16,5.28). Đây sẽ là một mạc khải vĩ đại có sức soi sáng các tín hữu và làm cho những kẻ không tin phải bẽ mặt (1,51; 2,18-19; 3,11-15; 5,17.20; 6,62; 8,28; 12,32; 14,19-20).
- Còn gia nhân đã múc nước thì biết (9d): Câu này không chỉ là một ghi nhận về sự kiện. Các "gia nhân" là những người đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9).
Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa cho người giữ các điều răn của Người (14,21). Như vậy, Đức Giêsu tỏ mình ra cho ai yêu mến Người bằng cách đưa Lời Người ra thực hành. Người sẽ cùng với Chúa Cha đến lập cư nơi người ấy (14,23). Ai yêu mến Đức Kitô là gia nhân đích thật của Người, Chúa Cha sẽ "quý trọng" (tôn vinh) kẻ ấy (12,26).
Ba thành ngữ sau đây liên hệ với nhau: "phục vụ Đức Kitô – Vâng theo Lời Người – Đức Kitô tỏ mình ra". Ai "phục vụ" Đức Giêsu, "vâng theo điều răn của Người" (và ngược lại), Đức Kitô sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Gia nhân ở Cana đã chứng nghiệm điều trên rõ ràng. Họ được biết "rượu ngon" (= một phương diện của thực tại Đức Kitô) "từ đâu đến", chính là vì họ đã vâng lời Đức Giêsu mà múc nước đổ đầy các chum. Thánh Gioan có nói: "Căn cứ vào điều này chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người" (1 Ga 2,3).
Trong TM IV, hai viễn tượng lịch sử và thần học thường lồng vào nhau. Như vậy, các câu 7c, 8d, 9d đã giới thiệu các "gia nhân" ở Cana như là điển hình cho đời "phục vụ–vâng lời" mà Đức Kitô đòi hỏi trong Giao Ước mới (x. Ga 13,34; 15,14).
- ông gọi tân lang lại và nói...(9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại "cho đến mãi bây giờ".
Trong TM Ga (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm "bạn của tân lang" (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. "được sai đi trước": c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30).
Sách Khải huyền cũng ca tụng lễ cưới của Chiên Con với Giêrusalem mới (19,7-8; 21,2).
Vì tác giả TM trình bày Dấu lạ Cana phỏng theo những truyền thống về Núi Sinai, ta có thể nhớ rằng Giao Ước Sinai đã được trình bày dưới biểu tượng hôn lễ kể từ nền văn chương ngôn sứ (x. Hs 2,16-25; Is 50,1; 54,4-8; 62,4-5; Gr 2,1-2; 3,1-13...). Trong khối Tân Ước có trước Ga, ta có thể kể ra: Mt 22,1-14; 25,1-13 (Các dụ ngôn về Nước Trời như tiệc cưới); Mc 2,18-20 (Đức Giêsu tự giới thiệu như là "Chàng Rể"); 2 Cr 11,2; Ep 5,25-33 (Đức Kitô-Hôn Phu và Giáo Hội-Hiền Thê).
Loại hình ảnh biểu tượng này được dùng rất phổ biến trong truyền thống Do Thái giáo. Chính thánh Âutinh đã viết: "Hôn phu (chú rể) của tiệc cưới ấy là hình ảnh của Đức Chúa hiện thân...".
- Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này (11a): Nhiều nhà chú giải (C.K. Barrett; Olsson) ghi chú rằng tác giả TM coi phép lạ Cana không những như là dấu lạ "đầu tiên", mà còn như điển hình của các dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện. Bởi vì Người đã viết: "Tautên epoiêsan archên tên sêmeiôn Iêsous..." (NAB: Jesus did this as the beginning of his signs; TOB: Tel fut... le commencement des signes de Jésus; NTT: Dấu lạ đầu hết này, Đức Giêsu đã làm...). Từ ngữ archê (khởi đầu, bắt đầu) gây ra một số khó khăn; vì thế người ta đã đưa vào những dị bản, chẳng hạn prôtên (= thứ nhất).
Dường như trong Ga, từ archê không có nghĩa là khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, như trong Lc (3,23; Cv 10,37), cũng không phải là lời rao giảng của Gioan Tiền Hô trong hoang địa (Mc 1,1), thậm chí cũng không phải là lời kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Ga 1,35-51). Nhưng từ ấy có nghĩa là khoảnh khắc chính xác mà Đức Giêsu bắt đầu tỏ mình ra cho các môn đệ (x. Ga 15,27; 16,4; 1 Ga 1,1-3). Vậy việc mạc khải tiệm tiến của Đức Giêsu khởi sự tại Cana miền Galilê, và được tiếp tục dọc theo sách Tin Mừng (x. Ignace de la Potterie). Origiênê gọi dấu lạ Cana là "prohêgoumenon sêmeion", một dấu chỉ "ưu việt". Zerwick & Grosvenor giải thích: "such was the first of the signs that Jesus did; Jesus did this as his initial sign".
Vậy rượu mới ở Cana không chỉ là "dấu lạ đầu tiên", mà cũng còn là "điển hình", "nguyên mẫu" (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm "bày tỏ" vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của "ngày thứ ba", của "Giờ của Đức Giêsu", nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người.
- và bày tỏ vinh quang của Người (11b): Động từ "bày tỏ" (HL. phaneroô; manifester; make clear/visible, show) cũng là động từ tiêu biểu của từ vựng Ga. Tác giả ưu tiên dùng động từ này để nói về "mạc khải" (x. Ga 1,31; 2,11; 3,21; 7,4; 9,3; 17,6; 21,1; 1 Ga 1,2; 2,19; 3,2; 4,9).
Còn ý nghĩa của từ "vinh quang" (HL. doxa) được rút từ Cựu Ước. Theo nghĩa đen, từ Híp-ri kabôd hàm chứa một ý tưởng về "trọng lượng" (động từ kabêd: cân nặng). Theo nghĩa bóng, từ này có nghĩa là "trọng (quan trọng, trọng đại)", nghĩa là "giá trị", "tầm quan trọng" của một hữu thể, "sự tôn kính" mà hữu thể ấy gợi ra; tóm, là "bản tính", "bản lĩnh (nhân cách)" của kẻ ấy, dù kẻ ấy là ai.
Thế mà trong truyền thống Cựu Ước, Đức Chúa (Yhwh) mạc khải "vinh quang" của Ngài ra bằng những biểu lộ bên ngoài của chính bản thân Ngài, nghĩa là xuyên qua "những việc vĩ đại", "những việc kỳ diệu" (= phép lạ) được thực hiện trong cuộc Tạo dựng và trong Lịch sử Dân Ngài (x. Tv 19/18B,2; Ds 14,21.22; Xh 14,18; 16,7; 24,25t; 29,43; 40,34; 1 V 8,10t...). Con người có thể hiểu rõ hơn Đức Chúa là ai hoặc "vinh quang" của Ngài là thế nào, khi suy nghĩ về sự tỏa rạng của bản thân Ngài trong công cuộc tạo dựng và trong lịch sử Dân Thiên Chúa tuyển chọn.
Tại Cana, Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên như một biểu lộ đầu tiên về "vinh quang" của Người, một khởi đầu cho công cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Người. Các tông đồ có hiểu gì chăng?
* Trước Phục Sinh, và chính xác hơn, vào ngay ngày các môn đệ được chứng kiến dấu lạ Cana, dĩ nhiên các ông không thể hiểu thấu bí mật sâu xa của chân tính Đức Kitô. Các ông không thể nắm được tính siêu việt của chân tính này. Cứ cho đi là niềm tin của các ông được khơi lên bởi một phép lạ–dấu chỉ, thì muốn hợp lý, nên suy ra là cũng như đối với Nathanaen, niềm tin ấy có đối tượng là tư cách Mêsia của Đức Giêsu (x. Ga 1,47-50; rồi 7,31; 10,41-42; 12,37-42).
* Sau Phục Sinh, Hội Thánh được soi sáng trọn vẹn về mầu nhiệm Đức Giêsu. Thế là khi nhớ lại những gì đã xảy ra tại Cana, tác giả Gioan (cũng như toàn thể cộng đồng Kitô hữu) đã hiểu rằng, ngay ở dấu lạ đầu tiên này, Đức Giêsu đã bắt đầu tự mạc khải ra như "Hôn Phu thần linh của tiệc cưới thiên sai", tiệc cưới của Giao Ước mới, trong đó sẽ được chứng thực "ngày thứ ba" của Phục Sinh, khi "Giờ của Đức Giêsu"đã đến (x. Ga 14,20).
Phụng Vụ lễ Hiển Linh chú giải thật đúng hình ảnh biểu tượng mang tính ngôn sứ của Cana, khi hát lên Điệp ca của Thánh ca Benedictus: "Tân Nương là Giáo Hội, ngày hôm nay được phối hiệp cùng Đức Kitô, vị Lang Quân thống trị Nước Trời... Nước hóa rượu ngon, làm vui lòng thực khách".
- Các môn đệ đã tin vào Người (11c): Trong TM IV, đề tài "đức tin" là đề tài căn bản. Động từ "tin" (HL. pisteuô có 3 cách dùng:
- tin "ai" (HL. pisteuein tini) nghĩa là chấp nhận lời người ấy là thật: 2,22; 4,21-50; 1 Ga 3,23;
- tin "vào ai" (HL. pisteuein eis tina) hàm ý gắn bó với người ấy: 2,11; 3,16.18.36; 4,39;
- tin "vào danh ai" (HL. pisteuein eis to onoma tinos): đây là cách diễn tả hoàn hảo nhất về đức tin.
Tác giả Gioan là người duy nhất đã dùng cách này trong Tân Ước (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga 5,13). Đây là sự gắn bó với một người theo nội dung của tên người ấy. "Tin vào danh Con Một Thiên Chúa" (Ga 3,18) có nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là "Con Một Thiên Chúa".
- Sau đó (meta touto...) (12a): Một vài tác giả (J.H. Bernard; A. Feuillet) có lý mà cho rằng, trong ngôn ngữ Ga, công thức meta touto (= sau việc ấy; après quoi) có ý nhắm tạo ra một liên hệ lô-gích giữa những gì đi trước và những gì tiếp sau, y như thể đoạn sau là một hậu quả hoặc một minh họa mới của đoạn trước. Tác giả đã dùng 4 lần, luôn luôn trong quan hệ với Đức Giêsu (Ga 2,12; 11,7-11; 19,28). Ý nghĩa rất gần với ý nghĩa của "tauta (hoặc touto) eipôn" (= "khi đã nói những điều ấy xong"; hoặc: "sau khi đã nói những điều ấy") (Ga 7,9; 9,6; 11,18.43; 13,21; 18,1; 20,20-22).
Còn thuật ngữ meta tauta (= sau các biến cố ấy) thì khác: nó chỉ đóng vai trò chuyển mạch về văn chương thôi, một chuyển mạch không xác định, giữa hai đoạn (Ga 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 13,7; 19,38; 21,1).
Vậy, tương quan giữa 2,1-11 và 2,12 là thế nào? Phần tiếp của c. 12 sẽ cho thấy.
- Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum (12bc): Ở đầu bài tường thuật, Đức Trinh Nữ Maria ở một bên, Đức Giêsu và các môn đệ ở một bên, như là hai nhóm đến dự tiệc cưới theo những nẻo đường khác nhau. Nhưng đến cuối bài, Đức Trinh Nữ, các anh em và các môn đệ Đức Giêsu xuất hiện ra như một nhóm duy nhất siết chặt quanh Người. Chắc hẳn tác giả muốn nói rằng họ đã xích lại gần nhau nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, mà Đức Trinh Nữ (c. 5) và các môn đệ (c. 11) đã chứng tỏ. Hơn nữa, trên bình diện đức tin, không có khác biệt giữa bà con họ hàng (thân mẫu và các anh em) và các môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Phần tường thuật (1-3):
Chi tiết thời gian "ngày thứ ba" đánh dấu tuần lễ khai mạc hoạt động của Đức Giêsu; nhưng chi tiết này cũng nhắc lại những sự kiện lớn thuộc lịch sử cứu độ xảy ra vào ngày thứ ba: Đức Chúa tỏ mình ra cho Dân Ngài vào ngày thứ ba trên núi Sinai (Xh 19,10-11; x. 19,16). Nhưng dựa vào Hs 6,2, chi tiết "ngày thứ ba" còn có liên hệ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu ("theo lời Kinh Thánh": Lc 24,46 và 1 Cr 15,4). Có thể nói tác giả Ga minh nhiên thiết lập quan hệ giữa "ngày thứ ba" và "sự chết–sự sống lại" của Đức Giêsu (x. 2,19-22). Trong TM IV, công thức "ngày thứ ba" cũng liên hệ với "Giờ của Đức Giêsu" (x. 2,1-4): đây là kiểu nói để gọi ba biến cố Khổ Nạn – Chết – Sống Lại của Đấng Cứu thế, coi như một thực tại duy nhất (x. 2,4; 7,30; 8,20; 13,1...).
"Tại Cana miền Galilê" (1a và 11a): Đây là một chi tiết địa lý, nhưng hẳn cũng có một lý do thần học. Những người Pharisêu hỏi Nicôđêmô: "Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả!" (7,52). Đấy là điều người ta gọi là "sự mỉa mai thần học của Tin Mừng IV": Cho đến nay, người ta vẫn cho rằng không thể có một ngôn sứ xuất thân từ miền Galilê; thế mà, bây giờ tại Cana miền Galilê, lại xảy ra cuộc tỏ mình đầu tiên của Vị Ngôn sứ siêu đẳng, Đức Giêsu Nadarét, Đấng được nói đến trong Luật Môsê và các Ngôn sứ (Ga 1,45). Vị Ngôn sứ cánh chung (x. Ga 6,14) xuất thân từ Nadarét, một thôn làng mà người ta cho rằng không thể có gì tốt phát sinh từ đó được (Ga 1,46).
Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần. Thân mẫu Đức Giêsu có đến dự: tác giả không gọi tên bà ra, tương tự như ở 19,25-27: Rõ ràng tác giả quan tâm đến vai trò của Đức Trinh Nữ được diễn tả ra bằng các danh hiệu "thân mẫu Đức Giêsu" và "bà" hơn là đến tên thật của bà. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh – Do Thái giáo, Dân Israel thường được hình dung như một "phụ nữ" (x. Is 52,2; Dcr 9,9). Do đó, ta có thể hiểu lý do khiến Đức Giêsu nói với thân mẫu như thế ("Thưa bà"): Đức Giêsu coi thân mẫu chính là hiện thân Dân Israel đã tới thời viên mãn. Ta có thể nói rằng từ ngữ "bà" trong TM Ga tương ứng với hình ảnh "thiếu nữ Sion" được TM Lc gán cho Đức Maria (Lc 1,28; x. Dcr 2,14).
Tác giả TM ghi nhận là sự cố đầu tiên khởi đầu hoạt động công khai của Đức Giêsu là một tiệc cưới. Ngoài việc ghi lại một sự kiện, hẳn tác giả muốn vận dụng hình ảnh "tiệc cưới" nhằm nhắc lại giao ước của Thiên Chúa với Dân Ngài, và đặc biệt gợi tới sự thể hiện cánh chung, khi Thiên Chúa ký kết giao ước với toàn thể nhân loại. Sâu sắc hơn nữa, hình ảnh lễ cưới nhắc lại giao ước của Đấng Mêsia với Dân Người (x. Hs 2,16-25).
Đang giữa tiệc cưới thì hết rượu...
* Các đối thoại (4-8)
(1) Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu
Thân mẫu Người nói: "Họ hết rượu rồi" (3). Có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó. Chỉ có điều là bản văn không đủ rõ để có thể kết luận rằng Đức Maria đã xin một phép lạ (x. Ga 4,47; 11,3.21-22). Nhưng phải trợ giúp thế nào thì bà cũng không rõ. Bà không xin rõ ràng một phép lạ. Có lẽ bà có biết sứ mạng thiên sai của Con mình; nhưng bà có thể chờ đợi phép lạ như chuyện hết sức tự nhiên chăng? Vả lại, hẳn là quá đáng nếu Đức Maria dám xin một phép lạ, lại là phép lạ đầu tiên, để chỉ kéo dài một lễ hội trong làng? Có lẽ ở đây, với tấm lòng vừa đầy sự chú tâm ân cần vừa đầy cảm thương của người phụ nữ, Đức Maria đã kêu đến Đức Giêsu, mà mơ hồ hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ làm "một điều gì đó", rằng Người sẽ can thiệp cách nào đó, mà Mẹ cũng chẳng biết thế nào cả.
Bằng câu nói "Chuyện đó can gì đến bà và con?" (4), Đức Giêsu từ chối không làm "phép lạ" mà Người gán cho Thân mẫu là có ý xin. Nhưng Đức Giêsu lại liên kết điều Thân mẫu xin (cho có rượu) với thuật ngữ "Giờ" khiến độc giả ngờ ngợ là ở đây có những biểu tượng.
"Giờ" của Đức Giêsu là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh, là khoảnh khắc tối hậu trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra; còn rượu, theo truyền thống Do Thái giáo và các Giáo Phụ (vd: thánh Âutinh), tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến "Giờ" Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). Thân mẫu Người nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất (như chẳng hạn, Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thân mẫu nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đó là điểm khác biêt giữa Đức Giêsu và Thân mẫu Người. Nói cách khác, Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất. Đây là một đặc điểm của lời Đức Giêsu rao giảng, mà TM IV minh họa rõ ràng (Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thật ra, tác giả không nói rõ ràng ý nghĩa của "rượu" (x. ngược lại Ga 2,21; 7,39), nhưng ngài có gợi ý để ta coi "rượu" là biểu tượng của Lời Đức Kitô, của Mạc khải, của Luật mới mà Đức Giêsu mang lại, của Tin Mừng của Người.
Đây không phải là một cách giải thích mới. Nhiều Giáo Phụ đã coi "nước" trong các chum ở Cana là hình ảnh của Lề Luật và các Ngôn sứ, được Đức Giêsu biến đổi bằng Tin Mừng của Người. Thánh Âutinh đã viết: "Đức Kitô đã giữ rượu tốt nhất lại cho đến bây giờ, điều ấy có nghĩa là Tin Mừng của Người". Trong số các nhà chú giải hiện đại, Bultmann khẳng định: "Rượu không liên hệ tới một ơn nào của Đức Kitô nói riêng, nhưng đúng hơn tới ơn là chính Đức Giêsu, trong toàn vẹn bản thân của Người, tới Đức Giêsu trong tư cách là Đấng mạc khải...".
Trong thực tế, Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta nhiều ánh sáng.
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Ga (1,19–2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với đỉnh điểm là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào "ngày thứ ba".
"Ngày thứ ba" của Cana tương ứng hoàn toàn với "ngày thứ ba"của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào "ngày thứ ba", thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào "ngày thứ ba"; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người. Động từ "giữ" ("giữ rượu") cũng là động từ tiêu biểu của truyền thống Ga khi nói về Lời – Điều răn của Đức Giêsu. Đàng khác, các chum đựng nước thanh tẩy theo tập tục Do Thái tượng trưng Luật Môsê bất toàn (chỉ có sáu chum), giờ đây đựng rượu tuyệt hảo, có thể giải thích đó là Tin Mừng, là Lời của Đức Kitô: Người "thanh tẩy" con người bằng Lời Sự Thật của Người. Đức Giêsu cho thấy Luật của Người có sự hoàn hảo khi bảo tôi tớ đổ các chum "đầy tới miệng" (c. 7).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là "ngon (tốt)" (HL. kalœn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassœ).
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại "cho đến mãi bây giờ" (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ "cho đến bây giờ" (HL. [h]eœs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô xuất hiện.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
(2) Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Dù bị Đức Giêsu từ chối, dù không hiểu các ý định của Con, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (c. 5b). Câu này khiến ta nghĩ đến lời của Pharaô: "Cứ đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo" (St 41,55). Chúng ta còn nghĩ đến các câu nói của các vị trung gian trong Cựu Ước nói lên lập trường của mình để mời gọi toàn dân chọn Đức Chúa: Tùy hoàn cảnh, vị trung gian ấy có thể là một vị ngôn sứ (Er 19,3-8; 24,3-8 [Môsê]; Gr 42-43,4 [Giêrêmia]), một vị vua (2 V 23,1-3 [Giôsigiahu]; 2 Sb 15,9-15 [Axa]), một thủ lãnh (Gs 1; 24,1-28 [Giôsuê]; Nkm 5,1-13 [Nơkhêmia]; 1 Mcb 13,1-9 [Simôn]), một tư tế (Er 10,10-12 [Étra]), một thiên thần (Lc 1,26-28 [Gabriel]). Vị này đóng vai trò sứ giả giữa Đức Chúa và các anh em mình (Dnl 5,5). Vị này mời gọi chọn lựa, nhưng bắt đầu bằng việc nhận lấy cho mình những yêu cầu của Đấng mà Người đại diện, để làm gương (x. Gs 24,15; Nkm 5,10). Do bản văn Cana gần với bản văn Sinai, chúng ta thấy Thân Mẫu Đức Giêsu có vai trò như Môsê (so sánh Ga 1,3-5 với Dnl 5,5), để rồi tại Sinai, ân ban Lề Luật đã được trao tặng sau khi Dân đã tuyên xưng đức tin; và tại Cana, ân ban rượu mới (biểu tượng của Luật mới được Đức Giêsu mang đến) đã được báo trước và tạo cơ hội cho xảy ra nhờ đức tin của Đức Maria được thông truyền cho các gia nhân.
Bản văn có một chỗ cắt ngang sau lời khuyên của Đức Maria ("Người bảo gì, các anh cứ làm theo"), để tháp vào một đoạn mô tả giúp hiểu những gì xảy ra sau đó: "Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước" (c. 6). Đoạn văn này cung cấp cho độc giả hai thông tin: a) khối lượng nước khá lớn; b) nghi thức thanh tẩy của người Do Thái. Với hai thông tin này, độc giả sẵn sàng để hiểu khá hơn những gì sẽ xảy đến.
(3) Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Đức Giêsu đã bảo những người hầu bàn hai câu: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi" và: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc" (c. 7). Các gia nhân không nói một lời, họ vâng lời thật chính xác, họ "giữ" đúng các lời Đức Giêsu truyền. Trước tiên, họ "làm đầy", đưa đến mức hoàn hảo, những gì còn vơi, những gì chưa hoàn hảo, trong truyền thống cũ. Kế đó, họ múc nước từ những chum đá (tượng trưng Luật cũ bất toàn) đưa cho ông quản tiệc để được chứng thực (nước đã hóa thành rượu hảo hạng). Đấy chính là dấu lạ.
* Phần tường thuật (9-11)
Khi nếm nước đã biến thành rượu, "người quản tiệc... không biết rượu từ đâu ra (c. 9c)", vì ông khơng "làm" các lời Đức Giêsu truyền, ông không "giữ" lời Người. Nhưng "còn gia nhân đã múc nước thì biết" (c. 9d), bởi vì họ đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9). Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa: "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy" (14,21; x. 14,23; 12,26).
"Người quản tiệc mới gọi tân lang lại và nói..." (cc. 9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại "cho đến mãi bây giờ". Trong TM IV (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm "bạn của tân lang" (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. "được sai đi trước": c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay, Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30). Xem thêm Kh 19,7-8; 21,2.
Và tác giả kết luận: "Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này" (c. 11a): Rượu mới ở Cana không chỉ là "dấu lạ đầu tiên", mà cũng còn là "điển hình", "nguyên mẫu" (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm "bày tỏ" vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của "ngày thứ ba", của "Giờ của Đức Giêsu", nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người. "Các môn đệ đã tin vào Người" (c. 11c), nghĩa là gắn bó với Người ấy, trong khi chờ đợi một ngày nào đó sẽ tin "vào danh Người", nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là "Con Một Thiên Chúa".
"Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum và ở lại đó ít ngày" (c. 12). Câu này là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] đưa sang đoạn sau.
+ Kết luận
Được mời đến Cana dự tiệc cưới, Đức Giêsu đã đến trong tư cách người bạn, có các môn đệ cùng đi theo. Thân mẫu Người cũng được mời dự tiệc. Tại đây, Người đã thực hiện "dấu lạ đầu tiên": biến nước thành rượu ngon để cứu chữa một đám cưới. Đối với tác giả Gioan, người đã viết trong Lời Tựa của Tin Mừng: "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời" (Ga 1,1), thì "khởi đầu các dấu lạ" này, nghĩa là các việc kỳ diệu có chức năng chứng thực cho tư cách Mêsia của Người, chính là cách tỏ bày trong thời gian vinh quang vĩnh cửu của Người. Tác giả ghi lại "dấu lạ" này để chúng ta tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để chúng ta tin chúng ta có sự sống đời đời nhờ danh Người (x. Ga 20,30-31).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Rõ ràng là dấu chỉ tiệc cưới, nếu một đàng phong phú ý nghĩa, thì đàng khác cũng rất dị nghĩa. Tiệc cưới, dấu chỉ tự nhiên của niềm vui và niềm hân hoan, bị đe dọa bởi nỗi buồn do hết rượu. Giao ước giữa người nam và người nữ tự nó rất mỏng giòn, và cũng như mọi thực tại dưới ánh mặt trời, nó bị đe dọa bởi bạo chúa khắc nghiệt là sự chết. Tiệc cưới vẫn là một biểu tượng tích cực: nó gợi tới tình yêu, sự chung thủy, sự phong nhiêu, sự sống. Nhưng nó cũng bị đe dọa bởi nỗi buồn, sự thất trung, sự đau khổ. Bản văn Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Người biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
2. Rượu là dấu chỉ của niềm vui của Tin Mừng, của tình yêu, của Thánh Thần, của sinh lực mới tuôn trào ra từ sức mạnh của Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui sẽ đưa lễ cưới khỏi nỗi buồn, khỏi sự chán chường do Lề Luật. Và rượu vừa chan hòa vừa hảo hạng. Đời Kitô hữu không bao giờ thiếu rượu là phúc lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, có ai trong chúng ta dám nghĩ rằng mình đã sống được ngang tầm với phúc lành của Thiên Chúa? Ai dám nói rằng tính ích kỷ không bao giờ lấn lướt tình yêu nơi mình? Ai lại không bị thương tích ngày qua ngày do tội lỗi? Do đó, sự trung thành là một ơn ta phải hết lòng cầu xin. Chính ân huệ dồi dào Thiên Chúa ban giúp ta thắng vượt nỗi lo sợ về các giới hạn của đời sống chúng ta. Chúng ta bị dính cứng vào mặt đất, dễ mệt nhọc, bị đủ thứ sự dữ khống chế, chúng ta mỏng giòn và dễ bị tổn thương, nhưng niềm tin vào Chúa sẽ chiến thắng mọi sự dữ và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
3. Có thể nói lời Đức Maria nói với gia nhân ở Cana là "di chúc thiêng liêng của Mẹ" (A. Serra), bởi vì đó là những lời nói cuối cùng của Mẹ được các tác giả Tin Mừng ghi lại. Đức Maria sẽ không nói nữa, nhưng Mẹ đã nói được điều chính yếu. Mẹ đâu có bổn phận mở cửa sổ khi Đức Kitô có vẻ muốn đóng các cửa ra vào! Trong tư cách là "Mẹ" của Hội Thánh, Mẹ cầu nguyện và chuyển cầu để con cái Mẹ thường xuyên mở lòng ra với các lời của Chúa Giêsu, những lời vừa nặng ý nghĩa vừa có sức giải phóng. Đấy là "những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Hôm nay, chúng ta là những gia nhân của các đám cưới, chúng ta có khôn ngoan đủ để đón nhận lời Mẹ đề nghị chăng?
4. Cha M. Thurian (+1996) đã viết: "Đến cuối bài tường thuật, Đức Maria và các môn đệ làm thành cộng đoàn thiên sai, hợp nhất trong niềm tin vào Con Thiên Chúa đến biểu lộ vinh quang của Người; đó chính là nòng cốt của Giáo Hội đang vây quanh Đức Chúa của mình, mà lắng nghe Lời Người và thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Đức Maria hiện diện với cộng đoàn Giáo Hội này và ta có thể tưởng tượng ra Đức Kitô đang nhìn nhóm vây quanh mình mà nói: 'Đây là Mẹ tôi và đây là anh em tôi; bất cứ ai thực hiện ý muốn của Cha tôi trên trời, thì người ấy là một người anh em, một người chị em, và một người mẹ đối với tôi' (x. Mt 12,49 và các bản văn song song)".
26. Chú giải của Noel Quesson.
Bài trình thuật tiệc cưới ở Cana được Gioan, một nhân chứng trực tiếp, kể lại. Điều đó bảo đảm sử tính của câu chuyện. Nhưng Gioan, cũng như các thánh sử khác trước hết không có ý định mô tả cho chúng ta một đám cưới làng quê vào thời kỳ ấy. Sự kiện lịch sử ấy được suy gẫm lâu dài trong năm, sáu mươi năm trở thành một cơ hội cho Gioan dạy giáo lý với tư cách một nhà thần học. Chúng ta cũng thế, chúng ta phải cố vượt qua tính chất giai thoại của câu chuyện bước vào cách giải thích "tượng trưng" sâu xa: Sự kiện ấy là một "dấu chỉ". Nó có một "ý nghĩ" ẩn giấu.
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê.
Khi Gioan viết những từ "ngày thứ ba" ấy thì trong ngôn ngữ của các Kitô hữu tiên khởi, đó là một lối diễn tả gần như là thuật ngữ và lập tức gợi lại "ngày vinh quang" của Đức Gỉêsu: Ngày sống lại (Mt 16,21 - 17,23 - 20,19; Lc 9,2-18 - 33-24, 7; Cv 10,40).
Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Trong phần đầu Tin Mừng của mình, Gioan chỉ nhắc đến Đức Maria trong trình thuật tiệc cưới ở Cana này và ở phần cuối Tin Mừng lúc Mẹ đứng dưới chân thánh giá...mà không cho biết tên Maria của Mẹ, nhưng chỉ xác định Mẹ trong mối quan hệ với Đức Giêsu... đó là "Mẹ Người "!
Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi." Đức Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến"
Giờ của Đức Giêsu cũng là một cách diễn tả về cuộc khổ nạn (Ga 7,30 - 8,20 - 13,1 - 16,25 - 16,32). Đây là giờ độc nhất, một cách chính xác, đó là giờ Người được vinh quang: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh con bên Cha, xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian" (Ga 17,l-5). Giờ vinh quang của Đức Giêsu diễn ra trong ba giai đoạn: Đó là thập giá, Người được "nâng lên" về mặt thể xác và một cách tưởng tượng... đó là sự sống lại, Người được "nâng lên" bên hữu Chúa Cha... và đó là sự tuôn đổ của Thánh Linh cho các tín hữu... (Ga 3,14 - 8,28 - 12,32 - 17,11 - 17;13 - 17,39). Như thế, người thợ mộc ở Nadarét được mời tham dự tiệc cưới trong một ngôi làng nhỏ lân cận, cho chúng ta khám phá "hữu thể" sâu xa của Người, xuyên qua các lời nói và cử chỉ: Vinh quang của Thiên Chúa ở trên Người. Người nói rằng "Giờ của Người" chưa đến. Nhưng giờ ấy sẽ đến! Khi người ta mời ông Giêsu này đến dự tiệc cưới thì họ đã mời chính Thiên Chúa Tạo Hóa của tình yêu! Một mầu nhiệm ẩn giấu trong lòng của tình yêu đôi lứa.
Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
Bề ngoài kiểu nói ấy xem ra tầm thường. Vả lại, đó chính là một trích dẫn từ Kinh Thành. "Toàn xứ Ai Cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharaô xin bánh ăn. Pharaô nói với mọi người Ai Cập: "Cứ đến với ông Giuse, ông bảo gì, các ông hãy làm theo" (St 41,55). Vua Pharaô nhận biết Giuse có sự khôn ngoan của Thần Khí Thiên Chúa nên đã nhún mình trước mặt Giuse và đã chỉ cho những người nghèo khổ đói khát đến với Giuse như đến với một người có thể lấp đầy sự khốn khổ của họ.
Giờ đây, chính Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính: "Người bảo gì các anh cứ việc làm theo". Ở đó, đang thiếu rượu... và có lẽ, nào ai biết được, "tình yêu' cũng thiếu... Cuộc vượt qua là sự ra khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết: "Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta "không thể còn làm được gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc đó... Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng duy nhất có thể cứu: "Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo".
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết)
Không một chi tiết nào ở đây là bởi sự ngẫu nhiên.
Chúng ta thử hiểu một nửa chữ thôi...
"Sáu chum đá... Người xưa thường thích ý nghĩa tượng trưng của các con số. Bảy là con số của sự hoàn hảo. Bảy kém một là hình ảnh của sự bất toàn.
"Dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái nước dùng để tắm rửa trong việc phụng tự. Những chum đá ấy là dấu chỉ một tình trạng lạc hậu lỗi thời của các tập tục tôn giáo giờ đây đã bị vượt qua. Đức Giêsu đến thay đổi, hoàn tất tôn giáo của người Do Thái. Nước trở thành rượu!
"Họ đổ đầy tới miệng...". Dấu chỉ dư dật, phong phú, tràn đầy mọi ơn lành của Đấng Mêsia mà Đức Giêsu khởi đầu trong "dấu chỉ" đầu tiên này, quả thật là điên rồ và thái quá 600 lít rượu nho! Cả làng sẽ uống say sưa!
"Rượu"... Một biểu tượng xưa của Kinh Thánh (Tl 9,13; Thánh Vịnh 104,15.v...) Trái nho là một sản phẩm rất được ưa chuộng của đất đai: nó làm cho lan tỏa niềm vui và sự sảng khoái, nó làm cho phấn khởi lòng người". Các thời đại của Đấng Mêsia được loan báo bằng các hình ảnh bữa tiệc ở đó rượu chảy thừa mứa: "Đức Chúa sẽ mở tiệc cho mọi dân tộc, một bữa tiệc với thịt béo và rượu nồng"(Isaia 25,6; A-mốt 9,14.; Ôsê 2,16-15,5; Giôen 4,18; Giê-rê-mi-a 3 1., 12; Diễm ca 2,4 v.v...)
Vả lại chúng ta chớ bao giờ quên rằng Gioan viết Tin Mừng của Người khoảng năm mươi hoặc sáu mười năm sau biến cố Cana, vào một thời kỳ mà cộng đoàn Kitô hữu đã hội họp từ nhiều năm rối để dùng bữa ở đó một thứ "rượu'" mầu nhiệm được róc ra. Làm thế nào mà bữa ăn đầu tiên này của Đức Giêsu ở Cana lại không nhắc họ nhớ đến bữa ăn cuối cùng khi Đức Kitô đã biến rượu thành máu của Người... trong sự chờ đợi bữa tiệc quyết định mà Đức Giêsu đã loan báo: "Từ nay Thầy không còn uống thứ rượu nho này cho tới ngày Thầy sẽ uống rượu mới trong Vương quốc của Cha Thầy".
Phúc thay cho những người được mời đến bàn tiệc của Thiên Chúa.
Mỗi lần bạn uống được rượu ngon, bạn hãy nghĩ về Thiên Chúa đã dùng rượu làm một "dấu chỉ" về Người. Thiên Chúa muốn mềm vui. Thiên Chúa không muốn chúng ta thiếu niềm vui, thiếu tình yêu, mỗi thánh lễ là một dấu chỉ về Người, một bí tích. Mỗi thánh lễ là máu của Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Người.
Ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ".
Sự lầm lẫn này có ý nghĩa biết bao: Khi lẫn lộn tân lang với Đức Giêsu, người quản tiệc đã lầm! Trong một vài dòng của Tin Mừng, Gioan Thánh sử sẽ nói rõ ràng rằng "tân lang" đích thực, chính là Đức Giêsu (Ga 3,29).
Chúng ta thấy ở đây điểm then chốt đem lại lời giải thích chủ yếu cho dấu chỉ Cana...". Đây là rượu của tiệc cưới mới, đây là chén của Giao ước mới trong máu ta". Những lời ấy chúng ta biết rõ thường lướt quá nhanh trong trí óc đã quen thuộc của chúng ta. Thánh lễ, mầu nhiệm của tình yêu!
Một truyền thống lâu dài và khả kính của Cựu ước đã giới thiệu Thiên Chúa như tân lang của nhân loại. Isaia trong bài đọc một của chúa nhật này vừa nói với chúng ta "sự ngỏ lời tình yêu" nóng bỏng như một đam mê của người si tình: "Người ta sẽ không còn gọi em "cô gái bị bỏ rơi" nhưng người ta sẽ gọi em là "cô gái được yêu thích", người ta sẽ gọi xứ sở của em là "Tân nương của Ta"... Như một thanh niên cưới một thiếu nữ làm vợ, Đấng đã xây dựng em, sẽ cưới em làm vợ. Như người vợ trẻ là niềm vui của chồng mình cũng thế, em sẽ là niềm vui của Thiên Chúa em" (Isaia 62,1-5; ô8ê 2?21; êdêkien 16,8). Toàn bộ Tân ước đã lấy lại hình ảnh vợ chồng ấy (2 Cr 11,2; Ep 5,25; Kh 21,2 - 22,17 v.v...).
Vả lại như bạn đã nhận thấy, ở tiệc cưới Cana, cô dâu không được kể ra. Không kỳ lạ sao! Chúng ta không gặp một đám cưới bình thường. Nếu Đức Giêsu là Tân Lang thật sư tân nương thật sự là người "phụ nữ" mà Người đã gọi bằng một từ ngữ mang tính tượng trưng sâu sắc: 'Thưa Bà!". Tân nương của Thiên Chúa, chính là Israel chờ đợi "giao ước mới" khi thừa nhận mình không.,còn rượu nữa. Israel ấy, dân tộc được Thiên Chúa cưới trong giao ước mới, rồi đây sẽ là Giáo Hội. Và Đức Maria đại diện cho cả hai: bà là "con gái của Israel" và khuôn mặt của Giáo Hội". Như thế, Tân nương không được nói tên trong tiệc cưới đó chính là chúng ta: Thiên Chúa yêu thương bạn... Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô... trong khi vui cũng như trong lúc buồn!
Chúng ta sống trong một thời đại mà khủng hoảng của tình yêu vợ chồng trở nên bi đát: Tình yêu dường như bị mất phương hướng, người ta ca tụng sự kết hôn tự do, người ta sống chung mà không muốn làm lễ cưới, không muốn mở tiệc mừng tình yêu, không muốn nhận trách nhiệm đối với người khác, đối với con cái sẽ được sinh ra... Biết bao cặp vợ chồng mau chóng lìa tan, lúc mới bắt đầu cũng vui vẻ đấy, nhưng rồi trở nên nhạt nhẽo, tầm thường như nước ốc! Nhưng trong bối cảnh ấy, những cặp vợ chồng vững chắc nhất cũng không tránh khỏi nhận xét bi đát: Họ không còn rượu nữa!". Chính tình yêu đang thiếu thốn. Chỉ Đức Giêsu mới có thể ban lại tình yêu cho chúng ta. Hãy hiệp thông vào chén của Đức Giêsu, uống rượu của Người, chính là uống nơi suối nguồn yêu thương, đã hiến dâng tất cả và yêu thương cho đến cùng" (Ga 13,1).
Trong nhiều thế kỷ, các nhà thần học băn khoăn tìm hiểu cuộc sống nào cao cả hơn, cuộc sống "hôn nhân" hay cuộc sống "độc thân". Tuy nhiên chúng ta chớ nên quên ngôn ngữ của Kinh Thánh nói về một Thiên Chúa - Tình Quân. Chúng ta hãy để cho sự dịu dàng của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta. Nếu bạn đã kết hôn, vợ chồng bạn là "dấu chỉ", nghĩa là "bí tích", "sự biểu lộ" của Tình Yêu Thiên Chúa. Nếu bạn sống độc thân. không phải bạn "không có tình yêu", bạn cũng đã được cưới bởi một tình yêu cao cả nhất phải có! Nhưng bạn sống đời sống hôn nhân, hoặc đời sống độc thân của bạn như thế nào? Vấn đề ở đây không phải là sự thiết lập bí tích hôn nhân trong Tin Mừng. Nhưng đối với những ai hiểu được "dấu chỉ" của tiệc cưới Cana, điều đó chẳng cần thiết hay sao?
Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
Bên ngoài tính giai thoại, ở đây chính Gioan thánh sử cho chúng ta lời giải thích về câu chuyện của ngài: Đức Giêsu bày tỏ căn tính của Người... các môn đệ đã bắt đầu bước vào đức tin... "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người".(Ga 1,14).
16/01 Thày thuốc cho người đau yếu
- Viết bởi Vinc Ngọc Biển
Thày thuốc cho người đau yếu.
Thứ Bảy tuần 1 thường niên.
"Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi".
LỜI CHÚA: Mc 2, 13-17
Khi ấy Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, toàn dân đến cùng Người và Người giảng dạy họ. Khi vừa đi qua, Người thấy ông Lêvi con của Alphê, đang ngồi nơi bàn thu thuế. Người bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông liền đứng dậy theo Người. Và xảy ra là khi Người dùng bữa tại nhà ông, nhiều người thu thuế và tội lỗi cùng đồng bàn với Chúa Giêsu và các môn đệ của Người, vì đã có nhiều kẻ theo Người. Những luật sĩ và biệt phái thấy Người ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo họ: "Những người khoẻ mạnh không cần gì đến thầy thuốc, nhưng là những người đau yếu. Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kêu gọi người tội lỗi
Ơn gọi của Lêvi được coi là khác thường và gây ngạc nhiên hơn ơn gọi của các Tông đồ khác, bởi vì ông là một người tội lỗi công khai. Lêvi sau này được gọi là Matthêu, một trong bốn thánh sử, ông làm nghề thu thuế cho đế quốc Rôma, lúc đó đang cai trị xứ Palestina. Những người làm nghề thu thuế được hưởng lợi tức cao, nhưng bị dân chúng ghét bỏ vì thường xảy ra những vụ gian lận hoặc lạm thu.
Ðối với người Do thái, những người thu thuế là gương mù cần phải tránh xa, xét về phương diện tôn giáo và xã hội, vì hai lý do: thứ nhất, vì họ cộng tác với chính quyền ngoại quốc; thứ hai, vì họ có bàn tay dơ bẩn bởi tiền của dơ bẩn. Ðối với những vị có trách nhiệm về luật Môsê và về phụng tự, thì người thu thuế bị loại trừ khỏi ơn cứu độ, vì họ bị coi như không thể từ bỏ con đường xấu xa, cũng không thể sửa lại những gian lận trong nghề được. Do đó, tiền của người thu thuế dâng cúng vào đền thờ không được nhận; họ không có quyền dân sự, không thể làm thẩm phán hoặc chứng nhân, tất cả những tiếp xúc với họ đều bị coi là nhơ uế.
Nhưng đó không phải là thái độ của Chúa Giêsu, bởi vì Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi. Việc Chúa kêu gọi Lêvi, một người thu thuế tội lỗi và ghi tên ông vào số các Tông đồ, đã bị những người Biệt phái chỉ trích và bị coi như một gương mù: "Sao ông ấy lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi". Chúa Giêsu nghe những lời chỉ trích này và Ngài giải thích: "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, chỉ có người đau ốm mới cần. Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi".
Cũng như thời Chúa Giêsu, ngày nay không thiếu những kẻ giả hình, tự cho mình là nhân đức, thánh thiện, nhưng lại khinh thường kẻ khác. Cần phải sống kinh nghiệm tình yêu thương của Thiên Chúa để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay. Không gì an ủi hơn việc khám phá ra tình thương của Thiên Chúa đối với người tội lỗi. Thiên Chúa đã so sánh mình với vị Mục Tử nhân lành dám bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và khi tìm được Ngài vác nó trên vai đưa về đàn chiên. Việc Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi không có nghĩa là Ngài dung thứ tội lỗi. Tình yêu thương của Thiên Chúa không miễn trừ việc nhìn nhận lỗi lầm của con người, cũng không cho phép con người lạm dụng lòng nhân hậu của Ngài. Chúa Giêsu đã đến để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài thấu hiểu sự yếu đuối của con người và sẵn sàng tha thứ, với điều kiện là con người thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình và trở lại với Ngài.
Hãy để ơn Chúa tha thứ, cứu rỗi và giải thoát chúng ta. Như Lêvi xưa, xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn chỗi dậy theo Chúa, ngay lúc này đây, sợ rằng ơn Chúa qua đi mà không trở lại. "Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, các ngươi đừng cứng lòng nữa".
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Kìa Người đến dùng bữa!
Đức Giêsu lại đi ra bờ biển hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người, và Người dạy dỗ họ. Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lê-vi là con ông An-phê, đang ngồi thu thuế ở đó. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông đứng dậy đi theo Người. (Mc. 2, 13-14)
Chúa Giêsu thường bị những con mắt hay soi bói và đả kích Người bám theo. Mọi cử chỉ của Người đều bị họ rình mò, giải thích và sàng lọc theo luật lệ của những người Pharisiêu. Các kinh sư là những người rất quen với công việc này; và họ cũng thường có cơ hội dễ dàng.
Hạng người rình mò như thế vẫn còn, bởi lẽ tất cả chúng ta tự bản tính vốn dễ dàng xếp loại mọi người, phân cách người lành với kẻ dữ và nhất là muốn dựng lên bức vách ngăn giữa cái gì là khả kính với bất kính, ít nữa là xét theo quy tắc và quan điểm của ta.
Thực ra Giáo hội vẫn còn là một tập hợp những con người đáng trọng cũng có và không đáng kinh cũng có, nơi đây Chúa Giêsu đến cư ngụ, bởi vì ngay lúc ban đầu, từ những con người tội lỗi mà Chúa đã lập nên Giáo hội vậy.
Giáo Hội là một tập hợp đủ thứ
Theo cái nhìn của những người trí thức Mác-xít tích cực, thì Giáo hội thường quy tụ những con người yếu hèn, bất lực trong việc tự giải quyết lấy thân phận con người và xã hội của mình, nên mới chạy đến với những cái nạng gọi là "Thiên Chúa" hay "đức tin" vậy.
Nơi đây có Chúa cư ngụ
Thực ra, hơn nơi nào khác, Chúa Giêsu chỉ thích tìm cư ngụ nơi những con người đã không tìm được ở nơi mình bất cứ một lý lẽ nào để biện minh cho sự công chính của mình, nơi những kẻ không có lấy một sự đáng tôn đáng kính nào khác, ngoài chuyện họ sống trung thực, can đảm và sẵn sàng thú nhận mình là kẻ tội lỗi.
Quả thực, người tội lỗi là người sống trung thực, vì người ấy biết rõ mình. biết nơi mình không có được tất cả sự bền bỉ cần thiết để sống trọn phẩm giá con người, và để được như thế, cần phải có ơn Chúa. Người có tội không gian lận với mình.
Người tội lỗi cũng là người can đảm. Có người đã viết điều này: có can đảm hay không ở tại biết làm cho sự thật phải yên lặng hoặc không làm cho sự thật yên lặng? Quả quyết mình dốt nát hay dấu nhẹm sự ấy, đàng nào can đảm hơn? Tỏ ra run sợ trước Thiên Chúa thánh thiện và siêu phàm, phải chăng kém can đảm hơn là trốn chạy khỏi tôn nhan Người?
Sau cùng con người tội lỗi luôn ở tư thế chuẩn bị sẵn; người ấy biết rõ rằng điều tốt nhất đang ở phía trước, nên sẵn sàng lại lên đường.
Có thế ta mới hiểu được tại sao Chúa Giêsu thích lui tới hạng người này và tại sao chúng ta không được vấp phạm vì hành động của Giáo hội mẹ ta và vì những ai thường đến chung sống với họ vậy.
Suy niệm 3: NHẠY BÉN VỚI TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA
(Mc 2, 13-17)
Ơn gọi luôn luôn đến từ Chúa. Chúa muốn gọi và chọn ai tùy ý Ngài. Tuy nhiên, nếu chỉ có Chúa gọi và con người không đáp trả thì không trở thành một ơn gọi.
Hôm nay, Chúa gọi Mátthêu, người thu thuế. Dù là con người tội lỗi vì mang trong mình cái tội phản quốc, tức là trù dập dân, o ép người đồng hương, để hưởng lợi nhuận trên xương máu của đồng bào.
Tuy nhiên, khi nhận ra mình tội lỗi ngập đầu như vậy, và được Đức Giêsu yêu thương trìu mến chọn và gọi mình, thì Mátthêu đã không ngần ngại thả lỏng cây bút chuyên ghi chép những chuyện phi nhân, bất nghĩa và sẵn sàng buông mình vào bàn tay từ ái của vị Thầy dễ thương để tùy Ngài hướng dẫn, ngõ hầu sau này dùng ngòi bút mới để viết lên những trang Tin Mừng mang đậm tình thương của Thiên Chúa cho nhân loại, mà chính ông là người được yêu thương cách nhiệm mầu và cảm nghiệm cách đặc biệt.
Nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội được Chúa yêu thương, một phần do kiêu ngạo như những người Pharisêu, luôn coi mình là hạng người ưu tuyển, nên không nhạy bén trước tình yêu của Thiên Chúa; mặt khác, không giống như Mátthêu, nhiều khi chúng ta lại quá tự ty đến độ không dám đến với Thiên Chúa vì cho rằng mình không xứng đáng.
Tất cả những lý do đó hoàn toàn không phù hợp với Tin Mừng, vì Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, bởi vì người đau yếu mới cần thầy thuốc, người khỏe mạnh thì không cần.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta hay có thái độ khinh thường những người tội lỗi và tự mãn vì mình là người đạo đức, nhưng không chừng, con cái trong nhà lại bị loại ra ngoài, còn phường tội lỗi và gái điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta!
Xin Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng ta mặc lấy cái nhìn của Chúa, luôn yêu thương những người tội lỗi, đồng thời biết mau mắn đáp trả lời mời gọi của Ngài để ra đi chia sẻ tình thương của Chúa cho anh chị em xung quanh. Amen.
Vinc. Ngọc Biển
15/01 Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác
- Viết bởi Vinc Ngọc Biển
Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác.
Thứ Sáu tuần 1 thường niên.
"Con Người có quyền tha tội dưới đất".
LỜI CHÚA: Mc 2, 1-12
Sau ít ngày, Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum; nghe tin Người đang ở trong nhà, nhiều người tuôn đến đông đảo, đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng, và Người giảng dạy họ. Người ta mang đến cho Người một kẻ bất toại do bốn người khiêng. Vì dân chúng quá đông, không thể khiêng đến gần Người được, nên họ dỡ mái nhà trên chỗ Người ngồi một lỗ to, rồi thòng chiếc chõng với người bất toại xuống. Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, tội lỗi con được tha". Lúc ấy, có một ít luật sĩ ngồi đó, họ thầm nghĩ rằng: "Sao ông này lại nói thế? Ông nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội, nếu không phải là một mình Thiên Chúa". Chúa Giêsu biết tâm trí họ nghĩ như vậy, liền nói với họ: "Tại sao các ông nghĩ như thế? Nói với người bất toại này: "Tội lỗi con được tha" hay nói: "Hãy chỗi dậy vác chõng mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất". - Người nói với kẻ bất toại: "Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà". Lập tức người ấy đứng dậy, vác chõng ra đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy sửng sốt và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Chúng tôi chưa từng thấy như thế bao giờ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chữa người bất toại
Một điểm trong phép lạ chữa người bất toại được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu không nói ngay: "Ta chữa lành cho con", nhưng Ngài nói với người bất toại: "Con đã được tha tội rồi". Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng". Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?" Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: "Trong hai điều: một là bảo người bất toại: "Con đã được tha tội", hai là bảo: "Ðứng dậy, vác chõng mà đi", điều nào dễ hơn". Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: "Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà", lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quý trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở về với tác vụ chính của Chúa Giêsu ngay từ đầu: tác vụ tha tội, hòa giải con người với Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn ý thức về tội lỗi và quý trọng ơn tha thứ qua Bí tích giải tội.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Trước tiên, phải tha thứ
Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, và thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, con đã được tha tội rồi." (Mc. 2, 3-5)
Thường ta đến cầu nguyện với Chúa, mà lòng nặng trĩu những tâm tư; ta có những nỗi khổ của riêng mình, mà còn mang theo những đớn đau của kẻ khác nữa. Ta muốn phô bày tất cả với Chúa... Ta muốn thả tất cả xuống trước mặt Chúa như người xưa đã làm cho người bại liệt nọ vậy.
Hôm ấy người ta đã khiêng đến một người bại liệt. Vấn đề coi như nan giải, vì dân chúng quá đông, đứng bít cả cửa. Nên người ta đã khéo léo tìm cách rỡ mái nhà để thả được người bại liệt xuống và đặt anh nằm trước mặt Chúa Giêsu. Nhưng kìa Chúa Giêsu lại nói với người ấy rằng: "Này con, con đã được tha tội rồi!"
Có những người nghĩ thầm trong bụng
Khi nghe Chúa nói như vậy, người ta sửng sốt và tỏ ra cứng cỏi. Họ lý luận về hai khía cạnh: ông ta tự coi mình là Thiên Chúa, khi nói lời tha tội. Đó là một thái độ tụ kiêu, ngạo ngược. Sau nữa, cho dù có như thế đi chăng, nói rằng sự tha tội có thể chữa lành bệnh tật, thì quả là một kỳ vọng còn phi lý hơn nữa!
Điều mà các kinh sư xưa nghĩ tưởng, thì nhiều người chúng ta hôm nay cũng suy nghĩ như vậy khi nghe Giáo hội giảng dạy. Phải chăng Giáo hội có thể lấy quyền Thiên Chúa mà tha tội - và nếu có đi chăng, thì làm sao chứng minh được rằng ơn tha tội đem lại một tác động hiệu nghiệm thực? Giải đáp trước nhất cho vấn đề của chúng ta phải chăng là ơn tha thứ?
Phải, tiên vàn phải được ơn tha thư!
Người ta sẽ có thể giải thích rộng rãi về tầm quan trọng của ơn tha thứ. Tôi chỉ muốn đè cập đến vấn đề này cách dơn giản bằng cách phân biệt ơn tha thứ và ơn chữa lành. Sự khác biệt này càng rõ nét tùy theo tương quan giữa những người liên hệ. Xin đưa ra một thí dụ: một ông bác sĩ có thể chữa trị cái chân của một con bệnh mà không cần phải yêu mến, ngay cả chuyện trò với người ấy. Cũng thế, mỗi người chúng ta có thể tiếp cận người khác theo chức năng hay nghề nghiệp, có thể tham gia vào xã hội hoàn toàn theo những quy tắc luật lệ của môn khoa học hay ngành nghề mình đã theo đuổi. Nhưng con người có những nhu cầu mà nhiều kiến thức chuyên môn sẽ không có thể thỏa mãn được như giữ được niềm tin trong cuộc sống, mặc dầu con người có những yếu đuối và giới hạn; tin theo nghĩa thông thường ...
Thực vậy, Thiên Chúa có thể ban ơn tha thứ cho con người thế nào thì chúng ta cũng có thể nhân danh Người mà chuyển giao ơn ấy như vậy, hầu nối kết con người với vận mệnh của mình. Ơn tha thứ khiến cho con người được Thiên Chúa doái nhìn và xót thuơng bù đắp cho những thiếu thốn của con người.
Vậy thì, trưỡc tiên là tha thứ, một người có thể sống trong một thân xác bại liệt, nhưng không thể sống thiếu tình thương.
Suy niệm 3: QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC GIÊSU
(Mc 2,1-12)
Đã có lần Đức Giêsu phải than phiền vì dân chúng cứng tin vào Ngài, nhất là khi Ngài trở về quê hương. Chính sự khô cứng làm cho lòng họ trở nên trai đá, vì thế, họ không những không tin vào quyền năng của Đức Giêsu, mà họ còn vấp ngã vì Ngài nữa.
Hôm nay, lại một lần nữa, họ nghi ngờ vì Đức Giêsu lấy quyền của Thiên Chúa để chữa lành bệnh tật và tha tội.
Chuyện xảy ra là: có một người bị bại liệt, và người ta khiêng đến với Đức Giêsu để xin Ngài chữa lành. Thấy lòng tin mãnh liệt của những người khiêng cáng và của chính người bại liệt, Đức Giêsu đã ra tay cứu chữa bệnh tật thể xác và giải phóng hệ lụy phần hồn: "Tội con đã được tha rồi"; "Hãy đứng dậy, vác chõng mà về". Thật là vui mừng và hạnh phúc! Từ nay, anh ta được tung tăng chạy nhảy trên chính đôi chân của mình. Cũng từ nay, anh không bị người đời dè bửu, khinh khi và gán cho mình tội lỗi nên mới bị phạt như vậy nữa!
Cuộc đời của chúng ta nhiều khi không bị đau bệnh phần xác như người bại liệt trong bài Tin Mừng hôm nay, nhưng chắc chắn trong tâm hồn, nhiều khi chúng ta cũng mắc phải những căn bệnh bại liệt:
Bại liệt khi chúng ta khinh thường và rẻ rúng những người nghèo, bệnh tật, ốm đau;
Bại liệt khi chúng ta có những ánh mắt phân biệt, ghen tỵ với anh chị em mình;
Bại liệt khi chúng ta thiếu sự liên đới, tình huynh đệ và vô trách nhiệm;
Bại liệt khi chúng ta thờ ơ với Chúa, nguội lạnh với đời sống đạo...
Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa đến với mình, xin Ngài đụng chạm và chữa lành, để chúng ta được lành sạch.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là kẻ có tội, xin cho chúng con năng đến với Chúa nơi Bí tích Hòa Giải để chúng con được Chúa chữa lành. Amen.
Vinc. Ngọc Biển
- 14/01 Chữa người phong cùi
- 13/01 Tiếp tục rao giảng
- 12/01 Công việc của Chúa Giêsu
- 11/01 Sám hối và tin yêu
- 10/01 Con yêu dấu của Chúa Cha
- 09/01 Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại
- 08/01 Chữa một người phong cùi
- 07/01 Quê hương Nazaret
- 06/01 Chúa Giêsu đi trên mặt biển
- 05/01 Phép lạ Bánh hóa nhiều