Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
26/03 Người đã sống lại thật
- Viết bởi Mt 28, 1-10
Người đã sống lại thật.
Thứ bảy tuần thánh – Ðêm Thánh Vọng Chúa Phục Sinh.
"Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa".
Lời Chúa: Mt 28, 1-10
Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Ðây Ta đã báo trước cho các bà hay".
Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Người đã sống lại thật
1- Một phi thuyền đang du hành trong vũ trụ từ ngày 20/08/1977 để tìm xem có sự sống loài người nào trên các hành tinh không? Phi thuyền bắt đấu thăm dò từ hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh, thiên vương tinh, hải tinh, diêm tinh và phải vượt qua thái dương hệ 40.000 năm nữa mới tới một hành tinh gần nhất. Sau đó phi thuyền phải bay 100 triệu năm nữa mới tới một hành tinh xa hơn. Phi thuyền đem theo một đĩa vàng có thể tồn tại hơn 100 triệu năm để phát ra 106 tín hiệu diễn tả văn hóa loài người đi thăm dò xem có thế giới loài người nào khác đáp lại chăng? Thật là một kỳ công đi tìm sự sống loài người khác, ngoài thế giới loài người trên trái đất này.
2- Đêm Phục sinh này, Đức Giêsu đang đáp lại tín hiệu của loài người đi tìm sự sống xa lạ đó, một sự sống không còn đau khổ, không còn thập giá, không còn mạo gai đinh đóng, lưỡi đòng, không còn nếm dấm chua mật đắng, không còn bị chôn trong mồ, không còn phải chết ở đâu nữa. Đó là sự sống lại của Đức Giêsu. Sự sống lại của Đức Giêsu làm cho thập giá trở nên Thánh giá cứu độ, làm cho mạo gai trở nên triều thiên, lưỡi đòng trở nên lò lửa yêu mến của Thánh Tâm, dấm chua trở nên mật ngọt, cửa mồ phải bật tung ra, chỗ nằm u tối trở nên sáng ngời, sự chết đời đời trở nên sự sống trường sinh.
Bài đọc một sách Sáng Thế cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã biến đổi tối tăm mù mịt, u ám mông quạnh, ra sáng láng chan hòa sức sống tươi mát, rực rỡ như buổi bình minh, thông thoáng như cảnh chiều dương, vạn vật sinh động, vui thỏa, nhuộm muôn mầu ngàn sắc. Đó là cảnh Phục sinh mà Thiên Chúa đã sáng tạo thuở ban đầu. Thiên Chúa đã cho con người sống vương giả trong cảnh trời đất huyền diệu đó như trong vườn thượng uyển của vua nước Trời.
3- Con người được sống vương giả, chính ra càng ngày càng trở nên xứng đáng với sứ mệnh cao cả của Thiên Chúa đã ban cho mình. Trái lại, con người: nhân dục vô nhai, dục vọng vô bờ, lòng tham không đáy, no bụng đói con mắt, thèm thuồng đủ thứ nên đã nếm phải nọc độc của rắn quỷ. Tham thực cực thân, ăn no tức bụng. Nọc độc đã cướp đi sự sống vương giả của con người. Lịch sử đã cho thấy bao nhiêu triều đại đế vương sụp đổ chỉ vì những ông hoàng bà chúa sống vương giả, được voi đòi tiên, ăn chơi trác táng, tranh bá đồ vương, chém giết lẫn nhau. Đức Giêsu nhiều lần đã nói những dụ ngôn về các ông bá hộ như thế, chẳng bao lâu họ phải bỏ mạng: "Đồ ngốc đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi" (Lc. 12, 20). Tổ tiên loài người đã sống mất mạng vì lối sống phú hộ đó. Cain đã giết em, Evà đã kinh hoàng ôm lấy xác con vào lòng đầy đau xót chỉ vì bà đã ham mê nuốt trái cấm đầy quyến rũ ngon ngọt. "Chỉ vì một người đã sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì Thiên Chúa làm qua một Người là Đức Giêsu Kitô sự sống lại được ban dồi dào" (Rm. 5, 12, 17-19).
4- Đêm nay, Đức Giêsu đã phục sinh sự sống dồi dào cho con người, cho chúng ta. Đêm nay Đức Giêsu đã giải phóng con người chúng ta khỏi thần chết như Mosê đã giải phóng cho dân Israel khỏi nô lệ khốn cùng của Ai cập. Israel đã dứt bỏ mọi quyến luyến Ai cập, chỗi dậy theo lệnh Mosê, vâng lời Thiên Chúa vượt qua biển máu, nên Thiên Chúa đã ra tay chôn vùi quân địch đeo bám họ dưới đáy biển máu và đã dẫn đưa họ về sống trong miền đất tự do chảy sữa và mật (Bài đọc 3). Đêm nay, chúng ta cũng phải dứt bỏ mọi quyến luyến tội lỗi, chỗi dậy theo lệnh Giáo hội, vâng lời Thiên Chúa vượt biển chết tội lỗi, thì sẽ được Đức Giêsu giải phóng ta khỏi tà thần, tiêu diệt quỷ dữ, dẫn đưa ta về miền đất phục sinh vinh quang muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, con đã chết và qua phép Rửa tội, Chúa đã cho con được chỗi dậy từ cõi chết. Con xin hết lòng cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm vì đức từ bi Người muôn thuở. Xin Chúa gìn giữ con, ấp ủ con trong nguồn Phục sinh muôn đời của Chúa (2Cr. 3, 1-4; Tv. 117).
(Trích trong 'Xây Nhà Trên Đá' của Lm. ViKiNi)
SUY NIỆM 2: Niềm hy vọng Phục Sinh
Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp và khi nhậu say, anh chửi bới tất cả xóm làng không trừ ai. Người ta tìm hiểu được biết anh có một vợ năm con, đạp xích lô suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn. Các con anh lần lượt bỏ học vì không đủ tiền đóng học phí, nhà anh nằm trên vũng sình lấy và dột nát. Sống trong hoàn cảnh kéo dài tháng này qua năm khác như thế, anh đâm ra thất vọng nên mượn chén rượu giải sầu, nhưng chén rượu càng vơi, thì chén sầu càng đầy ắp. Hiểu được hoàn cảnh của anh, lối xóm kẻ công người của cất lại cho anh căn nhà trên đất liền chắc chắn và kín đáo; lối xóm lại tiếp tục đem đến lon gạo, bó củi, cái nồi, cái dao, cái chén, cái tô. Thế là anh có đủ vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và một căn nhà đàng hoàng bảo đảm cho sức khỏe; các con anh cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí, tất cả đều được đi học trở lại. Quá cảm động trước lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còm đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình anh.
Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: anh Tư còm được phục sinh từ cõi chết của những ngày say sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người.
Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho Phục Sinh bằng ăn năn sám hối, hãm mình đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta sắp mừng lễ Phục Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng hân hoan vì Ngài đã hứa cho chúng ta được Phục Sinh với Ngài. "Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống lại với Ngài". Qua việc lặp lại lời tuyên hứa sau khi chịu phép thanh tẩy trong nghi thức Vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết cho tội nhiều hơn để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn.
Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Chúa Giêsu đã mở ra và Ngài đã bước ra khỏi mồ. Cũng với quyền năng Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời chúng ta sẽ bị lăn đi. Đó có thể là hòn đá của ích kỷ chỉ biết đến lợi riêng của mình. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá ấy đi để biết dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân. Đó có thể là hòn đá tham lam, mê ăn uống đã từng đè nặng tâm hồn và thân xác chúng ta. Đó có thể là hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và anh em. Đó có thể là hòn đá an phận, nhút nhát khiến chúng ta chỉ giữ đạo ngày Chúa Nhật qua việc đọc kinh, xem lễ. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái tích cực hơn.
Mỗi năm khi mừng lễ Phục Sinh, chúng ta chiêm ngưỡn tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và chúng ta đón nhận sức mạnh của Đức Kitô để phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời mình. Để thực sự sống lại với Đức Kitô, trong ngày hôm nay, chúng ta hãy tìm thời giờ sống những giây phút thinh lặng để tìm xem những hòn đá nào cần phải lăn đi, như thiếu trong sạch, lười biếng, không lương thiện, kiêu căng, giận hờn, ghen tương. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời chúng ta, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình mà thôi chưa đủ, mỗi người chúng ta còn có bổn phận giúp thân nhân, bạn hữu và đồng loại cùng hưởng ơn Phục Sinh.
Chúa đã chết cho chúng ta được sống, chúng ta quyết tâm tiếp tục cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm tin và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta xin tận hiến cuộc đời để sống trọn luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Niềm Hy Vọng Phục Sinh
Bài Giảng của ÐTC Gioan Phaolô II
trong Ðêm Vọng Phục Sinh năm 2002
1. "Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng"; và có ánh sáng" (St 1,3).
Một sự bùng nổ của ánh sáng, mà Lời Chúa mang đến từ hư vô, xé toạc màn đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng.
Thánh Tông Ðồ Gioan viết: "Thiên Chúa là ánh sáng, và trong Ngài, chẳng hề có tối tăm" (1Ga 1,5). Thiên Chúa đã không tạo nên bóng tối nhưng là ánh sáng! Và sách Khôn Ngoan, tiết lộ rõ ràng rằng công việc Thiên Chúa luôn có mục đích tích cực, thế nên: "Ngài tạo ra muôn vật để chúng hiện hữu, và các loài trên thế giới loài nào cũng lành mạnh. Và giữa chúng, không thấy loại nào mang nọc độc phá hoại, và dương thế thì tương khắc với cõi âm" (Khôn ngoan 1,14).
Trong đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng, đâm rễ Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm mà theo sau thảm kịch của tội lỗi, tiêu biểu cho sự phục hồi và đăng quang của sự bắt đầu tiên khởi ấy. Ngôi Lời chí thánh tạo ra muôn vật và, trong Chúa Giêsu, đã hóa thành nhục thể cho sự cứu độ chúng ta. Và nếu thân phận của Ađam đầu tiên là trở lại với đất từ nơi đã được tạo thành (x. St 3,19), Ađam cuối cùng đã đến từ trời cao để quay lại đó trong vinh quang, hoa quả đầu mùa của nhân loại mới (x. Ga 3,13; 1Cor 15,47).
2. Một đêm khác nữa thiết lập biến cố nền tảng trong lịch sử Israel: đó là cuộc Xuất Hành kỳ diệu từ Ai Cập, câu chuyện được đọc mỗi năm trong đêm Vọng Phục Sinh long trọng.
"Chúa khiến gió đông thổi lên thật mạnh càn quét mặt biển suốt đêm, làm cho biển cạn hết. Nước rẽ đôi như vậy đã giúp con dân Israel đi thẳng vào lòng biển như đi trên đất khô, với nước dựng như bờ tường hai bên tả hữu họ" (Xuất hành 14,21-22). Dân Chúa được sinh ra trong "phép rửa tội này" nơi Biển Ðỏ, khi họ chứng kiến cánh tay quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng cứu họ khỏi nô lệ để dẫn đưa họ đến miền đất hứa của tự do, công lý và hòa bình.
Ðây là đêm thứ hai, đêm của Xuất Hành.
Lời tiên tri của Sách Xuất Hành ngày hôm nay, cũng được thực hiện cho chúng ta, những người là Dân Israel theo Thần Khí, hậu duệ của Abraham do bởi đức tin (x. Rm 4,16). Trong cuộc Vượt Qua của Ngài, như Môisen mới, Ðức Kitô đã cho chúng ta vượt qua sự nô lệ của tội lỗi để đến với sự tự do của con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta cùng chết với Ðức Giêsu, chúng ta sẽ vươn tới cuộc sống mới, nhờ vào quyền năng của Thánh Thần của Ngài. Phép Rửa của Ngài đã trở nên phép rửa của chúng ta.
3. Cả anh chị em cũng sẽ nhận được phép Rửa này, phép Rửa đưa chúng ta vào trong cuộc sống mới, những tân tòng thân mến từ nhiều quốc gia: từ Albania, Trung Quốc, Nhật Bản, Ý, Ba Lan, và Cộng Hòa Dân Chủ Congo. Hai người trong số anh chị em, một bà mẹ Nhật Bản và một bà mẹ Trung Quốc, mỗi người mang theo với mình một cháu bé, như thế, trong cùng một nghi thức này, cả mẹ lẫn con đều cùng được rửa tội.
"Trong đêm cực thánh này", khi Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết, anh chị em cũng sẽ cảm nhận một cuộc "xuất hành" thiêng liêng: hãy bỏ lại phía sau cuộc đời trước đây của anh chị em và tiến vào "miền đất của sự sống". Ðây là đêm thứ ba, đêm của sự Phục Sinh. 4. "Ðêm diễm phúc của tất cả các đêm, được Thiên Chúa chọn để thấy Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết!" Chúng ta hát lên những lời này trong lời Công Bố Phục Sinh vào đầu buổi Canh Thức long trọng, Mẹ của mọi đêm Canh Thức.
Sau đêm thảm kịch của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, khi "quyền lực của tối tăm" (Lc 22,53) dường như thắng thế trên Ðấng là "ánh sáng thế gian" (Ga 8,12), sau cái yên lặng bao trùm của Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, trong đó Ðức Kitô, sau khi hoàn tất công việc của Ngài trên trần gian, nghỉ ngơi trong mầu nhiệm của Chúa Cha và mang sứ điệp của sự sống vào trong cõi âm, cuối cùng chiêm ngắm đêm trước "ngày thứ ba", mà theo Thánh Kinh, Ðấng Mêsia sẽ trỗi dậy, như chính Ngài thường báo trước cho các môn đệ của Ngài.
"Ðêm thật hồng phúc, khi thiên đàng giao duyên cùng thế gian và con người được hòa giải với Thiên Chúa!" (Công Bố Phục Sinh).
5. Ðây là đêm của các đêm, đêm của đức tin và hy vọng. Trong khi tất cả đang chìm trong bóng đêm, Thiên Chúa - Ánh Sáng - vẫn chiêm ngắm. Cùng với Ngài, những người hy vọng và tín thác nơi Ngài cũng chiêm ngắm.
Lạy Ðức Mẹ, đây thật là đêm của Mẹ! Khi những ánh sánf cuối cùng của ngày Sabát tắt dần, và hoa quả của lòng Mẹ nằm trong lòng đất, trái tim của Mẹ cũng chiêm ngắm! Ðức tin của Mẹ và hy vọng của Mẹ nhìn tới trước. Ðàng sau tảng đá nặng nề, đức tin và hy vọng của Mẹ đã thấy trước ngôi mộ trống không; đàng sau màn đêm dày đặc, đức tin và hy vọng của Mẹ đã le lói buổi ban mai của sự Phục Sinh.
Lạy Mẹ, xin cho chúng con cũng chiêm ngắm trong sự yên lặng của đêm nay, tin tưởng và hy vọng vào Lời Thiên Chúa. Như thế chúng con sẽ gặp, trong sự viên mãn của ánh sáng và cuộc sống, Ðức Kitô, hoa quả đầu mùa của sự sống lại, đấng hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho đến muôn đời. Allêluia!
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
(Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Ðặng Minh An)
25/03 Thủ phạm giết Chúa
- Viết bởi Ga 18, 1 - 19, 42
Thủ phạm giết Chúa.
Thứ Sáu tuần thánh. Kỷ Niệm Cuộc Khổ Nạn Của Chúa
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Lời Chúa: Ga 18, 1 - 19, 42
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa lại: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây". C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi". C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!" C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?" C. Ông đáp: S. "Tôi không phải đâu".
C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói". C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?" C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?" C. Ông chối và nói: S. "Tôi không phải đâu". C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?" C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì". C. Họ đáp: S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan". C. Philatô bảo họ: S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông". C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả". C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?" C. Philatô đáp: S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này". C. Philatô hỏi lại: S. "Vậy ông là Vua ư?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi". C. Philatô bảo Người: S. "Chân lý là cái gì?" C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?" C. Họ liền la lên: S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba". C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. "Tâu Vua Do-thái!" C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án". C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. "Này là Người". C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!" C. Philatô bảo họ: S. "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông". C. Người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa". C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. "Ông ở đâu đến?"
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn". C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa". C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. "Đây là vua các ngươi". C. Nhưng họ càng la to: S. "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!" C. Philatô nói: S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?" C. Các thượng tế đáp: S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa". C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'". C. Philatô đáp: S. "Điều ta đã viết là đã viết". C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy". C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. "Hỡi Bà, này là con Bà". C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. "Này là Mẹ con". C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. "Ta khát!" C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. "Mọi sự đã hoàn tất". C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thủ phạm giết Chúa
Từ đầu Mùa Chay đến nay, cuốn phim "Cuộc Thương Khó Của Chúa Kitô" của đạo diễn Mel Gibson đã được công chiếu trên khắp nước Mỹ, rồi đến các nước ở Âu Châu và cả tại Trung Đông nữa. Cuốn phim đã ghi vào lịch sử điện ảnh là phim đắt khách nhất và đạt doanh thu kỷ lục, chỉ vì cuốn phim đã gây tranh cãi về tính cách "bài Do Thái". Chính nhà đạo diễn Mel Gibson đã khẳng định rằng: "Bộ phim của tôi nói về đức tin, đức cậy, đức mến và sự tha thứ. Đó là nội dung sứ điệp của bộ phim. Tôi không có tinh thần bài Do Thái, tinh thần bài Do Thái không phải là tinh thần Kitô, mà là một tội lỗi". Trả lời cho câu hỏi: "Ai đã giết chết Chúa Giêsu?", Mel Gibson nói: "Câu trả lời chính là tất cả chúng ta đã giết chết Chúa Giêsu. Tôi là kẻ đầu tiên có phần trách nhiệm trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chịu đánh đòn "vì những tội lỗi của chúng ta". Ngài chịu thương tích vì những lỗi phạm của chúng ta, nhưng những vết thương của Ngài đã chữa lành chúng ta".
Đó là sứ điệp chính của bộ phim. Bộ phim không nhằm quy trách nhiệm cho ai là kẻ đã giết chết Chúa Giêsu".
Nhà đạo diễn nhìn nhận rằng bộ phim của ông có những cảnh "quá bạo lực" và ông giải thích rằng ông có ý làm như vậy để nhằm gây phản ứng nơi khán thính giả, nhằm giúp họ hiểu được tầm mức hy sinh cao cả của Chúa Giêsu. "Tôi muốn làm cho khán thính giả hiểu được rằng có một người đã chịu đựng được những hành hạ đến mức tận cùng như thế, mà vẫn còn có thể yêu thương và tha thứ. Tôi hy vọng bộ phim sẽ cổ võ suy tư, làm cho khán thính giả trở về với nội tâm, suy nghĩ về chính bản thân mình".
Thưa anh chị em,
Khi cử hành cuộc tưởng niệm Chúa Giêsu bị trên trên Thập giá, Giáo Hội không chỉ nhắc nhớ đến một biến cố lịch sử đã xảy ra hơn 2000 năm nay, nhưng còn nhắc nhở đến trách nhiệm của mỗi người trong chúng ta về cái chết của Chúa Giêsu.
Thật vậy, dưới cái nhìn lịch sử, chúng ta lên án một Giuđa đã phản nộp Thầy, một Philatô nhát đảm, vì sợ mất chức quyền mà vội vàng kết án tử hình cho Chúa, một Phêrô hèn yếu đã chối bỏ Thầy, một đám đông vô ơn bạc nghĩa đã hò hét đòi đóng đinh Chúa, dầu biết rằng Chúa chẳng có tội gì để phải chịu một cái án quái gở đó...
Thế nhưng, cái chết của Chúa không chỉ là một biến cố lịch sử, nhưng đó còn là một Mầu nhiệm Cứu Độ, trải dài hết từ thế hệ này đến thế hệ khác. Và nó mang một chiều kích phổ quát, có giá trị cứu rỗi cho hết mọi người tin và Danh Chúa Kitô. Do đó, nó được hiện tại hoá trong mọi thời gian. Và vì thế cái chết trên Thập giá của Chúa Kitô có trách nhiệm của chúng ta.
Chúng ta đã tuyên xưng rằng: "Ngài đã chịu vì chúng ta và để cứu chuộc chúng ta", nghĩa là vì tội lỗi của chúng ta mà Ngài phải chịu treo lên. Tội lỗi của chúng ta chính là những tiếng reo hò đòi đóng đinh, là những sự xỉ vả, là lời phản bội, là lời tuyên án Chúa.
Do đó, khi tưởng niệm cái chết của Chúa hôm nay, Giáo Hội cũng thiết tha kêu gọi các tín hữu hãy đấm ngực ăn năn, nhận phần trách nhiệm của mình, để rồi, như một Phêrô "ra ngoài ăn năn khóc lóc" có nghĩa là chúng ta phải tháo gỡ cái án tử hình của Chúa, bằng cách thay đổi nếp sống cũ, trở về với Chúa. Xa tránh những lối sống thấp hèn, trở về lối sống con cái của Chúa, và thân thưa với Chúa như anh trộm sám hối bên Thập giá của Chúa: "Lạy Chúa Giêsu, khi vào Nước Chúa, xin nhớ đến con." Amen.
SUY NIỆM 2: Thập Giá Đức Kitô.
Trong tập hồi ký, một người Do Thái từng ở trại tập trung thời Đức Quốc xã bên Ba Lan có kể lại câu chuyện sau: Những người lính Đức Quốc xã treo cổ hai người Do Thái và một thiếu niên trước sự chứng kiến của tất cả trại viên. Hai người đàn ông chết tức khắc vì kiệt sức, nhưng cơn hấp hối của cậu thiếu niên kéo dài cả nửa tiếng đồng hồ. Nhìn thấy cảnh tượng đó, một trại viên đứng sau tôi đã thốt lên: "Thiên Chúa đang ở đâu?". Khi người thiếu niên đang cố gắng vùng vẫy trong vòng giây thắt cổ, tôi lại nghe một người khác thốt lên: "Bây giờ Chúa ở đâu?". Và, tôi nghe từ tận đáy tâm hồn tôi: "Ngài đang ở đây, Ngài đang bị treo cổ kia".
"Bây giờ Thiên Chúa đang ở đâu?". Mỗi lần bóng tối của Thập giá làm dấy lên trong chúng ta câu hỏi như thế, chúng ta nghe vọng lên từ nỗi đớn đau của chúng ta câu trả lời duy nhất là: "Ngài đang có mặt đó". Ngài đang có mặt đó, bởi vì Ngài là Tình yêu. Chỉ có Tình yêu mới có thể đi đến tận cùng của khoan dung và tha thứ. Thập giá vẫn mãi mãi là tột đỉnh của sự độc ác dã man của con người, sự độc ác dã man đó càng bộc lộ, thì tình yêu Thiên Chúa càng bày tỏ.
Lý luận thông thường không thể hiểu cạn được tại sao một Thiên Chúa lại có thể chịu treo trên Thập giá. Nhưng đó lại là sức mạnh, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, bởi vì đó là sức mạnh và sự khôn ngoan của tình yêu. Dù tội lỗi con người có ngập tràn, dù sự độc ác của con người có chất ngất, Thiên Chúa vẫn yêu thương và tha thứ.
Thập giá không chỉ là biểu trưng của sự độc ác và tội lỗi con người, mà còn là vẻ đẹp của chính tình yêu Thiên Chúa. "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài. Ngài không sai Con Ngài đến để luận phạt thế gian, những để thế gian nhờ Con Một Ngài mà được cứu thoát". Đó phải là xác tín của chúng ta khi ngắm nhìn Thập giá Chúa Giêsu. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta khước từ. Không có tình yêu nào cao cả hơn.
Vì yêu thương chúng ta, Ngài chấp nhận chịu treo trên Thập giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài trải qua mọi khốn cùng của kiếp người. Không phải đinh sắt đã đóng Ngài vào Thập giá, mà chính là tình yêu. Đó là tất cả vẻ đẹp cao vời của Thập giá. Thập giá là nơi ngự trị của Thiên Chúa. Chính trong những nơi cơ cực, nghèo hèn, bỉ ổi và đớn đau nhất mà sự hiện diện của Thiên Chúa lại càng mãnh liệt hơn. Chính từ Thập giá mà tiếng gọi yêu thương của Ngài càng thắm thiết hơn.
Từ trên Thập giá, Chúa Giêsu ôm trọn từng nỗi khổ đau của con người. Nhìn ngắm Thập giá của Ngài, đôi mắt chúng ta càng phải mở rộng ra để nhận thấy bao nỗi thống khổ cơ cực của những người chung quanh. Lúc đó, Thập giá không còn vắng bóng Thiên Chúa mà trái lại là điểm xuất phát của những nghĩa cử yêu thương, từ đó tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ bừng dậy.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Bài Suy Niệm của ÐTC Gioan Phaolô II
trong Buổi Ði Ðàng Thánh Giá
Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2002
(Ga 18,1-19,42)
1. Crucem tuam adoramus, Domine! - Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Ở cuối của lời cầu xúc động này về cuộc Vượt Qua của Ðức Kitô, tia nhìn của chúng ta vẫn hướng về Thánh Giá. Chúng ta suy niệm trong đức tin mầu nhiệm cứu độ được mạc khải cho chúng ta. Khi chết đi, Ðức Giêsu vén lên bức màn trước mắt chúng ta, và giờ đây Thánh Giá đứng thẳng trên thế giới trong tất cả sự huy hoàng của nó. Sự yên lặng đem lại an bình của Ðấng mà sự dữ thế gian đã treo lên Cây này đang hé lộ ra hòa bình và yêu thương. Trên Thánh Giá, Con Người đã chết, mang theo với Ngài gánh nặng của mọi khổ đau và bất công nhân thế. Trên đồi Golgotha, Ðấng, mà qua cái chết của Ngài đã cứu rỗi thế giới, chết vì chúng ta.
2. "Họ sẽ nhìn ngắm Ðấng mà họ đã đâm thâu qua" (Ga 19,37).
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh chứng kiến những lời các tiên tri được nên trọn, những lời mà Thánh Sử Gioan, một chứng nhân tận mắt, đã thấy được sự chính xác khi suy niệm trong lòng, Thiên Chúa làm người, Ðấng vì yêu thương đã chấp nhận hình phạt nhục nhã nhất mà bao nhiêu chủng tộc và các nền văn hóa ngày nay đang chứng kiến. Khi tia nhìn của họ được dẫn dắt bởi cảm nhận sâu sắc của đức tin, họ nhận ra trong Ðấng Bị Ðóng Ðinh một "chứng nhân" vô địch của yêu thương.
Từ Thánh Giá, Ðức Giêsu gom lại thành một dân tộc, Dân Do Thái và Dân Ngoại, hiển thị ý chí của Cha Ngài trên trời muốn tạo ra một gia đình duy nhất cho nhân loại được tụ họp dưới Danh Ngài.
Trong nỗi đau tê tái của Người Ðầy Tớ Thống Khổ, chúng ta đã nghe tiếng kêu khải hoàn của Thiên Chúa Trỗi Dậy. Ðức Kitô trên cây Thánh Giá là nhân loại mới đã được chuộc khỏi gánh nặng của tội lỗi và sự chết. Bất chấp những bóp méo và ngộ nhận của lịch sử, có thể có, chúng ta biết rằng nếu bước theo chân của Người Nazarét bị đóng đinh này, chúng ta sẽ đạt được mục đích. Giữa những xung đột của một thế giới thống trị bởi ích kỷ và thù hận, chúng ta, như những tín hữu, được kêu gọi để công bố vinh quang của Yêu Thương. Hôm nay, Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta làm chứng cho vinh quang của Ðức Kitô bị đóng đinh.
3. Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Vâng, chúng con thờ lạy Ngài, Lạy Chúa, Ðấng đã bị treo lên Thánh Giá giữa trời và đất, Ðấng Trung Gian duy nhất của ơn cứu độ chúng con. Thánh Giá Ngài là bích chương của vinh quang chúng con!
Chúng con thờ lạy Ngài, Con của Ðức Trinh Nữ Rất Thánh, đang đứng bất khuất bên cạnh Thánh Giá, can đảm chia sẻ trong lễ hy sinh cứu chuộc của Ngài.
Qua Gỗ Thánh Giá trên đó Ngài bị đóng đinh, niềm vui đã đến với toàn thế giới - propter Lignum venit gaudium in universo mundo. Hôm nay chúng con tất cả nhận thức hơn về điều này khi tia nhìn của chúng con được nâng về phía sự kỳ diệu khôn tả của sự Phục Sinh của Chúa. "Chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa, Lạy Chúa, chúng con tán tụng và thờ lạy sự Phục Sinh thánh thiện của Ngài!".
Với những tình cảm này, anh chị em thân mến, tôi gỡi đến anh chị em lời chúc Phục Sinh với phép lành Tòa Thánh.
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
(Bản dịch Việt Ngữ của J.B Ðặng Minh An)
KHUÔN MẶT NGƯỜI TÔI TỚ
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu chết. Việc tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu không phải là ôn lại một kỷ niệm trong quá khứ, nhưng để chiêm ngắm việc Người chịu chết để ta khám phá ra Tình Vô tận mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Cái chết của Chúa Giêsu không phải như cái chết của một ông vua, một nhà lãnh tụ của quốc gia, của một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử của loài người. Cái chết Chúa Giêsu là cái chết của Người Con Một, Người Con Duy Nhất của Thiên Chúa.
Giáo hội như muốn mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng, từ các trang trí cho đến những bài ca phụng vụ, tất cả đều đưa chúng ta vào cõi thinh lặng. Thinh lặng để nhìn ngắm Chúa Giêsu trên Thập Giá, thinh lặng để lắng nghe tiếng nói từ Thập Giá. Thập Giá vẫn mãi mãi là một mầu nhiệm. Tại sao điều đó có thể xảy ra cho Thiên Chúa? Tại sao Con Một Thiên Chúa lại có thể chịu chết treo trên Thập Giá?
Cái chết của Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa : Đó là cái chết được báo trước : "Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Kinh sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết chết Người." (Mc 10, 33-34). Đó là cái chết vì yêu mến Chúa Cha, để vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu chịu chết để tiêu diệt thần chết là ma quỷ và sự dữ.
Chúa Giêsu chịu chết vì tội lỗi của nhân loại, vì yêu thương và muốn cứu chuộc nhân loại. Nhờ sự chết của Chúa, loài người được giao hòa với Thiên Chúa. Nhờ sự chết của Chúa, con người được sống và được tham dự vào sự phục sinh của Người. Thật vậy, Chúa chịu chết để cho con người được hưởng vinh quang trong Nước Trời.
Cho dù có phải hy sinh, tủi nhục, đau khổ, bị bỏ rơi, Chúa vẫn sẵn sàng đi trọn con đường đau thương, vẫn trung thành vác thập giá và nhất là phải chết trên thập giá.
Trên thập giá, Chúa Giêsu trở nên "Chiên Thiên Chúa đến gánh tội trần gian" (Ga 1,29), mang lấy tội lỗi nhân loại nơi thân mình Người. "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người." (2 Cr 5,21)
Thiên Chúa đã chết vì tội chúng ta. Thiên Chúa đã phải trả giá quá đắt để cứu loài người khỏi chết. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế đó! Vậy mà tôi vẫn vô tâm !
Về cuộc tử nạn và cái chết của Chúa Giêsu, thiết tưởng chúng ta chỉ nên giữ thinh lặng. Trong thinh lặng, chúng ta mới cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu. Và trong cái nhìn ấy chúng ta mới nghe được chính tiếng nói của Ngài. Chỉ có kẻ đau khổ mới có thể đưa chúng ta vào nỗi khổ đau của họ. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể đưa chúng ta vào những nỗi khổ đau của Ngài. Sự thinh lặng đưa chúng ta vào mầu nhiệm của khổ đau.
Trong hai người cùng chịu treo trên Thập Giá bên cạnh Chúa Giêsu, một người đã không ngừng lên tiếng kêu gào rửa xả, trong khi đó kẻ được mệnh danh là trộm lành chỉ biết thốt lên lời van xin cứu vớt. Ðối với chúng ta, điều đó thật là phải lẽ, xứng với tội lỗi chúng ta. Kẻ trộm lành quả thực đã đi sâu vào mầu nhiệm của Thập Giá, ông đã nhận ra thân phận tội lỗi của mình.
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá trước tiên là một bày tỏ về bộ mặt tội lỗi của nhân loại. Mãi mãi Thập Giá vẫn là biểu trưng của sự độc ác của con người. Ðó là đỉnh cao trí tuệ của con người trong việc sáng chế ra những phương thế để hành hạ nhau, để loại trừ nhau, để chém giết nhau. Ðó là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại.
Nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta chỉ có thể đấm ngực ăn năn về chính tội lỗi của mình mà thôi. Thập Giá của Chúa Giêsu vẫn luôn có đó để chiếu rọi vào thân phận tội lỗi của con người. Thập Giá không chỉ là mạc khải về tội lỗi của con người, nhưng tội lỗi còn là mặt trái của một nguồn ánh sáng vô biên.
Ðó là ánh sáng của tình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá là biểu tỏ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Có lẽ người trộm lành đã hiểu được điều đó khi ông quay nhìn sang Chúa Giêsu trên Thập Giá. Trong ánh mắt của Chúa Giêsu, người trộm lành chỉ có thể thấy bừng lên tình yêu nhân từ và tha thứ khi được tình yêu Chúa Giêsu chiếu dọi vào. Bên cạnh Chúa Giêsu, người trộm lành được ôm ấp với cái nhìn trìu mến và tha thứ của Ngài.
Ta còn được mời gọi nhìn thấy chính cây giá gỗ, trên đó Đức Giêsu chịu đóng đinh như là một dụng cụ nhục hình và tử hình. Thập giá là hình phạt tiêu biểu mà Lề Luật dành cho người phạm trọng tội. Vì thế, Thập Giá là biểu tượng cho công lí của con người.
Ấy vậy mà, người chịu đóng đinh là chính Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vô tội, Đấng công chính hoàn hảo; vì thế, sự công chính của con người chỉ là giả tạo, gian dối và chỉ có vẻ bề ngoài.
Nơi Thập Giá, Đức Kitô muốn giải thoát ta một cách chính xác khỏi sự công chính giả tạo nhân danh Lề Luật, sự công chính bề ngoài đến từ chính chúng ta, để trao ban cho chúng ta sự công chính của chính Ngài, sự công chính đích thật của con Thiên Chúa.
Nơi Thập Giá, Đức Kitô mang vào mình mọi "bệnh hoạn tật nguyền" của chúng ta, để làm cho chúng ta trở nên lành mạnh, nên công chính cách nhưng không, như bài ca về "Người Tôi Tớ Đau Khổ" đã loan báo. Vì thế, trên tất cả, nơi thập giá của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi nhìn ra trong tín thác và bình an thẳm sâu "Khuôn Mặt đích thật" của chính Thiên Chúa.
Và rồi khi khám phá ra khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, ta thấy một Tình Yêu vô tận đã yêu thương ta. Nhận ra như vậy, ta lại sống như thế nào đó cho xứng đáng với sự hy sinh tột cùng của Tình Yêu vô tận đó.
Huệ Minh
24/03 Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ
- Viết bởi Ga 13, 1-15
Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ.
Thứ Năm tuần thánh – Thánh lễ Tiệc Ly.
"Ngài yêu thương họ đến cùng".
Lời Chúa: Ga 13, 1-15
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ
Mẹ Têrêsa thành Calcutta có lần kể lại câu chuyện nầy:
Một hôm có một thiếu nữ tìm đến xin gia nhập Dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ. Theo luật dòng, ngày đầu tiên khi mới đến, tất cả những ai muốn sống trong dòng, cũng đều được mời sang nhà hấp hối – tức là nhà tiếp đón những người sắp chết. Vì thế, cô thiếu nữ nầy được mời sang nhà hấp hối. Mẹ Têrêsa nói với cô ấy:
"Con đã nhìn thấy linh mục dâng Thánh lễ chứ? Con đã thấy ngài sờ đến Thánh Thể với biết bao chăm chú và yêu thương. Con cũng hãy đi và làm như thế tại nhà hấp hối, bởi vì con sẽ tìm thấy Chúa Giêsu trong thân thể những người anh em khốn khổ đó".
Cô thiếu nữ ra đi... Một thời gian sau, cô trở lại với một nụ cười rạng rỡ có lẽ chưa bao giờ trông thấy. Cô vui vẻ thốt lên với Mẹ Têrêsa: "Thưa Mẹ, con đã sờ được thân thể Chúa trong suốt ba tiếng đồng hồ".
Mẹ Têrêsa mới hỏi lại sự thể đã diễn ra như thế nào? Cô ta đáp? "Thưa Mẹ, con vừa đến nhà hấp hối thì thấy người ta mang đến một người vừa ngã xuống một hố sâu, mình mẩy đầy những vết thương và bùn đất hôi thối... Con đã đến và con đã tắm rửa cho anh ta. Con biết rằng làm như thế là chạm đến thân thể của Đức Kitô".
Thưa anh chị em, Thánh lễ là trung tâm của cuộc sống và cuộc sống hằng ngày là một Thánh lễ nối dài. Đức Kitô không chỉ muốn chúng ta gặp gỡ nhau trong Thánh lễ mà còn muốn chúng ta gặp gỡ Ngài qua tất cả mọi sinh hoạt và gặp gỡ khác trong cuộc sống. Từng cuộc gặp gỡ với tha nhân, nhất là những người nghèo hèn nhất, phải là một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
Ngay trong bữa tối Thứ Năm Thánh nầy, trước khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Việc nầy làm nổi bật một ý nghĩa lớn của Bí tích Thánh Thể, đó là Thánh Thể là bí tích phục vụ. Thánh Thể là phương thế Chúa Giêsu chọn để thể hiện ý muốn phục vụ của Ngài. Để phục vụ, Ngài phải trả một giá rất đắt. Để phục vụ, Ngài đã tự hiến làm lễ vật giao hoà, làm Chiên Vượt Qua chịu sát tế vì sự sống của thế giới. Để phục vụ, Ngài chấp nhận trở nên lương thực cho loài người sử dụng. Thiên Chúa đã trở nên phương thế phục vụ sự sống của con người. Vì "Ngài yêu thương chúng ta đến tận cùng".
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phục vụ như Ngài. Bởi vì, một khi đã đồng hoá mình với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, chúng ta phải sống như Ngài. Nếu không sẵn lòng phục vụ thì đó là dấu chứng chúng ta không thực lòng tham dự Thánh Thể. Không phục vụ là chưa gặp được Chúa Giêsu thật, chưa đón nhận Ngài, chưa thật sự nên một với Ngài. Trái lại, phục vụ là dấu sự sống của Chúa Giêsu Thánh Thể đã thực sự biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta nên một con người mới.
Để làm gương mẫu phục vụ cụ thể, Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ và mời gọi chúng ta hãy rửa chân cho nhau: "Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà con rửa chân cho anh em, thì anh em phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em".
Trong xã hội Do Thái, chỉ có đầy tớ, nô lệ rửa chân cho chủ. Ở đây, Thầy lại rửa chân cho trò. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa đi rửa chân cho con người, mà lại là con người tội lỗi. Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho Phêrô, kẻ chối Thầy; rửa chân cho tất cả những người còn lại là "những kẻ sẽ bỏ Thầy mà trốn chạy hết".
Ngài làm như vậy để được gì? Không được gì cả! Chỉ để minh chứng một Thiên Chúa là như thế đó: một Thiên Chúa "đến để phục vụ con người và hiến mạng sống để cứu chuộc con người". Một Thiên Chúa thay vì tiêu diệt bọn tội lỗi, lại quỳ xuống trước mặt họ, hôn chân họ. Một Thiên Chúa thay vì trả thù, lại đã đổ máu để minh chứng sự tha thứ yêu thương. Một Thiên Chúa thật lạ lùng! Một đạo lý ngược đời, một con đường khó bước theo. Thế nhưng, Ngài đã làm và kêu gọi chúng ta cũng làm y như vậy: "Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ. Ai muốn làm lớn thì phải làm tôi tớ mọi người".
Ở đời, người ta dễ dàng quỳ xuống trước người quyền quý, sang trọng, vì người ta còn hy vọng ở một sự ban bố lợi lộc. Người ta dễ dàng quỳ xuống trước một người đẹp để xin bố thí một chút tình yêu. Và quỳ xuống trước một người thánh thiện để cầu mong một ân huệ. Tất cả những cái quỳ xuống đó là để van xin cho mình, để có lợi cho mình. Nhưng mấy ai quỳ xuống trước kẻ thù, quỳ xuống trước người ốm đau, bệnh tật, quỳ xuống rửa chân lở loét của những người phong cùi!
Còn Chúa Giêsu, Ngài quỳ xuống trước tội nhân. Ngài muốn cái gì đây? Là Thiên Chúa, có khi Ngài còn thiếu thốn gì chăng? Là kẻ ban phát tình yêu, không lẽ Ngài lại thiếu thốn để độ phải van xin? Không, Ngài không van xin gì cả. Quỳ xuống trước mặt con người chỉ vì Ngài quý trọng con người. Ngài yêu thương con người. Ngài muốn cho con người được sống và sống thật hạnh phúc. Khi con người biết sống cho người khác được hạnh phúc là họ đã theo gương rửa chân của Chúa. đây là bài học sống cho người Kitô hữu. Nơi Chúa Giêsu, tình yêu đã chiến thắng tội lỗi của con người, đã vượt lên trên tội lỗi, để phục vụ đến độ hy sinh mạng sống mình cho chính tội nhân.
Anh chị em thân mến, muốn phục vụ như Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải hiến thân như Ngài. Đây là điều khó, điều thường làm chúng ta hoảng sợ, chùn chân không dám đi tới cùng. Nhất là hiến thân vì anh em, rửa chân cho anh em. Tuy nhiên, dù chưa dám làm hoặc chưa làm được, ít nhất chúng ta cũng phải thừa nhận ra rằng; phục vụ và hiến thân là những đòi hỏi không thể thiếu của Bí tích Thánh Thể.
Do đó, trong cuộc sống mỗi ngày, nhất là những khi dự Tiệc Thánh Thể, chúng ta hãy để cho những đòi hỏi đó day dứt trong lòng chúng ta, day dứt như một vết thương không bao giờ lành, khiến cho chúng ta không bao giờ dám an tâm trong hững hờ vị kỷ với mọi người anh em.
SUY NIỆM 2: Bí tích Thánh Thể
Tại một ngôi làng nhỏ bên Tây Đức, trước năm 1940 là nơi gặp gỡ của các danh họa Âu Châu, nhưng kể từ thế chiến thứ hai, nó trở thành nhà tù giam giữ những phạm nhân của Đức Quốc xã, có mặt một Phó tế được phong chức linh mục tại đây. Sau khi chết, ngài để lại chúc thư "Tình yêu và đền bù". Thế rồi 15 năm sau, nhà tù đó biến thành Dòng kín Carmel, các nữ tu đến đó để sống cho lý tưởng tình yêu và đền bù.
Tình yêu chính là ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể. Trong Bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã quỳ gối rửa chân cho các Tông đồ và cũng trong Bữa tiệc ly Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể cũng như loan báo về cái chết của Ngài. Phêrô đại diện các Tông đồ đã có lý khi khước từ Chúa Giêsu rửa chân cho ông vì đây là công việc của tôi tớ trong nhà. Theo tục lệ người Do Thái, trước khi vào bàn ăn tôi tớ trong nhà phải đi rửa chân cho khách. Chúa Giêsu đã muốn thực hiện cử chỉ ấy để thực thi chính điều Ngài đã nói: Con Người không đến để được hầu hạ, những để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhiều người.
Cử chỉ yêu thương mà Chúa Giêsu đã làm cho các Tông đồ là một quyết tâm sống trọn ý nghĩa yêu thương của Ngài, cũng như người tôi tớ không sống cho mình mà cho người khác. Nhưng Ngài chưa lấy làm đủ, Ngài còn biểu lộ tình yêu qua hình ảnh một miếng bánh trao ban để ở mãi với con người. Bị bẻ ra và tiêu tan, Chúa Giêsu đã sống đến cùng những đòi hỏi của yêu thương. Thánh Gioan đã tóm gọn cuộc sống Chúa Giêsu qua câu: "Ngài đã yêu các kẻ thuộc về Ngài và đã yêu đến cùng", nghĩa là sẵn sàng sống chết cho người mình yêu. Tình yêu đến cùng ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện qua cái chết trên Thập giá, và Ngài còn muốn tái diễn hàng ngày dưới hình dạng Bánh và Rượu trong bí tích Thánh Thể. Cũng như tôi tớ chỉ sống và chết cho người khác, chiếc bánh chỉ hiện hữu để được ăn, được hao mòn, được tiêu tán. Dưới hình thức lương thực, Chúa Giêsu muốn thể hiện tình yêu của Ngài đối với chúng ta; tiếp nhận Ngài qua bí tích Thánh Thể, chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài; ăn uống Ngài, chúng ta cũng được mời gọi nên giống Ngài và san sẻ sự sống của Ngài cho người khác.
Sống và chết cho người khác, nên một với Ngài là thực hiện sứ mệnh của Ngài tức là phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Sứ mệnh phục vụ ấy Chúa Giêsu muốn truyền lại cho chúng ta qua Bí tích Truyền chức Linh mục là người được ủy thác để lặp lại lời của Chúa Giêsu. "Các con hãy làm việc này, mà nhớ đến Ta". Làm việc này không những là cử hành Bí tích Thánh Thể để Chúa Giêsu luôn ở mãi giữa nhân loại, mà còn chu toàn sứ mệnh phục vụ của Ngài. Không chỉ riêng linh mục, nhưng tất cả những ai nhờ phép rửa được tháp nhập vào sự sống Đức Kitô, nghĩa là mọi kitô hữu trong lời nói và hành động cũng yêu thương và chết để nhớ đến Ngài. Mỗi cử chỉ và hành vi bác ái đều là một nghĩa cử tưởng nhớ đến Chúa Giêsu, đều là một tiếp tục, hay đúng hơn là một hiến lễ được dâng trên bàn thờ.
Tưởng nhở việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể và truyền chức linh mục trong ngày thứ năm tuần thánh, chúng ta nhớ đến cách đặc biệt các linh mục. Xin Chúa ban cho các ngài luôn trung thành với sứ mệnh phục vụ. Xin cho tình yêu Chúa luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta để chúng ta cũng sống yêu thương và phục vụ.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Bí Tích Thánh Thể.
Bài Giảng của ÐTC Gioan Phaolô II
trong Thánh Lễ Tiệc Ly (Thứ năm Tuần Thánh năm 2002)
1. "Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1).
Những lời trong bản văn Tin Mừng vừa được công bố nhấn mạnh rõ ràng bầu khí Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Những lời này cho chúng ta một cái nhìn thấu suốt bên trong điều Ðức Kitô cảm nhận "trong đêm bị phản bội" (1Cor 11,23), và những lời này linh hứng chúng ta tham gia sốt sắng với lòng cảm tạ của mỗi người trong nghi thức long trọng mà chúng ta đang cử hành.
Chiều nay, chúng ta bắt đầu cuộc Vượt Qua của Ðức Kitô, biến cố hình thành nên giây phút bi đát và chung cuộc cho sự hiện diện trần thế được chuẩn bị và mong đợi từ lâu của Ngôi Lời. Ðức Giêsu đã đến giữa chúng ta không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ, và Ngài mang trên vai những thăng trầm và hy vọng của nhân sinh trong mọi thời đại. Tiên đoán trước cách nhiệm mầu về lễ hy sinh trên Thánh Giá, tại phòng Trên Gác, Ngài muốn ở lại với chúng ta trong hình bánh và rượu, và ký thác cho các môn đệ cũng như những người tiếp bước các ngài sứ mạng và quyền năng để làm sống mãi kỷ niệm sống động và rõ nét về biến cố đó trong bí tích Thánh Thể.
Việc cử hành này, vì vậy, lôi cuốn cách nhiệm mầu tất cả chúng ta và đưa chúng ta vào Tam Nhật Thánh, thời gian trong đó chúng ta cũng sẽ học từ Ðấng "là Thầy và là Chúa" để "giang cánh tay chúng ta ra" và đi ra bất cứ nơi đâu chúng ta được kêu gọi thực thi di chúc của Cha trên trời.
2. "Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy" (1Cor 11,24-25)
Với lệnh truyền thúc giục chúng ta lặp lại cử chỉ của Ngài, Ðức Giêsu hoàn tất việc thiết lập Bí Tích của Bàn Thờ. Khi Ngài rửa chân xong cho các môn đệ, một lần nữa, Ngài mời gọi chúng ta hãy bắt chước Ngài: "Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con" (Ga 13,15). Bằng cách này, Ngài thiết lập một sự liên kết thân mật giữa bí tích Thánh Thể, bí tích của quà tặng hy sinh của Ngài, và huấn lệnh yêu thương khiến ta chào đón và phục vụ anh chị em mình.
Việc dự phần vào bàn tiệc của Chúa không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị em chung quanh ta. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói "Amen" trước Mình và Máu Thánh Chúa. Khi làm như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là "rửa chân" cho anh chị em mình, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng "đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ" (Phil 2,7).
Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Ngài kêu gọi theo Ngài. Chính tình yêu của Ngài, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.
3. "Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình" (1Cor 11,29).
Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.
Truyền thống của Giáo Hội luôn nhấn mạnh đến sự liên kết giữa bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Tôi cũng muốn tái xác nhận điều này trong Thư Gởi Cho Các Linh Mục Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm nay, bằng cách mời gọi các linh mục trên hết hãy tái khám phá vẻ đẹp của Bí Tích Thứ Tha. Chỉ có cách này các ngài mới có thể giúp các tín hữu, những người được phó thác cho sự chăm sóc mục vụ của các ngài, tái khám phá Bí Tích này.
Bí tích Hòa Giải tái tạo lại cho những người đã chịu phép rửa tội ân sủng thánh thiện mà họ đánh mất do những tội trọng, và làm cho họ xứng đáng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Hơn thế nữa, qua cuộc đối thoại trực tiếp xảy ra thông thường khi cữ hành bí tích này, bí tích này còn đáp ứng nhu cầu truyền thông cá nhân, một điều mà ngày nay, càng ngày càng trở nên khó khăn như một hệ quả của bước tiến cuồng nhiệt của xã hội kỹ thuật.
Qua hành động soi sáng và kiên nhẫn của mình, cha giải tội có thể đem hối nhân vào trong sự hiệp thông sâu sắc với Ðức Kitô, sự hiệp thông do Bí Tích này phục hồi và Bí Tích Thánh Thể đưa đến mức đầy hoa trái.
Cầu mong sao cho sự tái khám phá Bí Tích Hòa Giải giúp tất cả các tín hữu tiến gần đến bàn tiệc Mình và Máu Thánh Chúa trong niềm kính trọng và với lòng sốt mến.
4. "Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1)
Chúng ta hãy trở lại Phòng Trên Gác trong tinh thần! Nơi đây chúng ta tìm thấy lại chính chúng ta trong đức tin chung quanh Bàn Thờ của Chúa, khi chúng ta cử hành Bữa Tiệc Ly. Lặp lại những cử chỉ của Ðức Kitô, chúng ta công bố rằng cái chết của Ngài đã cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và tiếp tục mạc khải niềm hy vọng về một tương lai của ơn cứu độ cho những người nam, người nữ của mọi thời đại và của mọi nơi chốn.
Các linh mục được kêu gọi để tiếp tục nghi thức mà, dưới hình bánh và rượu, thể hiện lễ hy sinh của Ðức Kitô, trung thực, thật sự và thiết thực, cho đến ngày sau hết. Tất cả các Kitô hữu được mời gọi để trở nên những đầy tớ khiêm hạ và tế nhị của anh chị em họ, để hợp tác trong ơn cứu độ của họ. Chính là nhiệm vụ của mỗi tín hữu phải công bố qua chính cuộc sống của họ rằng Con Thiên Chúa đã yêu thương chính họ "đến cùng". Chiều nay, trong sự yên lặng đầy nhiệm mầu, đức tin chúng ta được nuôi dưỡng.
Hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng con công bố cái chết của Ngài: Lạy Chúa, Ðầy lòng biết ơn, chúng con đã nếm niềm vui sự phục sinh của Ngài. Ðầy lòng tín thác, chúng con cam kết sống trong niềm trông mong Ngài lại đến trong vinh quang. Hôm nay và mãi mãi, Lạy Chúa Kitô, Ðấng Cứu Chuộc chúng con. Amen!
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
23/03 Dung mạo kẻ phản bội
- Viết bởi J.Y.G
Dung mạo kẻ phản bội.
Thứ Tư tuần thánh.
"Con Người ra đi như đã được ghi chép sẵn từ trước, nhưng khốn thay cho kẻ sẽ làm cho Ngài bị phản nộp".
Lời Chúa: Mt 26, 14-25
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" Chúa Giêsu đáp: "Các con hãy vào thành đến với một người kia, và nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". Các môn đệ làm như Chúa Giêsu đã truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: "Thưa Thầy, có phải con không?" Người trả lời: "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"
Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có phải con chăng?" Chúa đáp: "Ðúng như con nói".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Dung mạo kẻ phản bội
Trong hai ngày qua, thứ Hai và thứ Ba Tuần Thánh, và hôm nay nữa, thứ Tư Tuần Thánh, chúng ta được nghe nhắc đến dung mạo của một người đồ đệ phản bội Chúa là Giuđa Iscariốt. Sự phản bội này không phải là một điều bất ngờ, và lại càng không phải là điều bất ngờ đối với Chúa Giêsu, Ðấng đã biết trước mọi sự sẽ xảy ra cho Ngài như thế nào. Giuđa đã đi đến việc phản bội Chúa, có lẽ vì ông ta đã để cho sự quan tâm về lợi lộc vật chất dần dần chiếm hết chỗ trong tâm hồn và đã để cho sự hăng say theo Chúa lúc ban đầu bị phai lạt đi. Chúa Giêsu không còn là Thầy, là Chúa và là tất cả của cuộc đời ông nữa, nhưng là một món hàng mà Giuđa đem bán cho những kẻ muốn giết Ngài với giá tiền ba mươi đồng, mức giá trị của một người nô lệ đáng khinh.
Giuđa đã âm mưu nộp Chúa cho các thượng tế và đã thành công giấu ý định này không cho các môn đệ khác biết, nhưng Giuđa đã không thể nào giấu điều đó với Chúa Giêsu được. Chúa biết hết nhưng Ngài vẫn đối xử tốt với Giuđa cho đến cùng. Chúa không bỏ qua những dịp may để giúp Giuđa hồi tâm. Trước hết là bữa tiệc vượt qua giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Dĩ nhiên, là người thủ quĩ, Giuđa thản nhiên tham dự vào bữa tiệc, mặc dù đoạn Phúc Âm không nói ra. Tinh thần hiệp thông của bữa tiệc không thức tỉnh Giuđa nổi. Rồi những lời của Chúa: "Một người trong các con sẽ nộp Thầy", và Giuđa chắc chắn được nghe rõ nhưng không làm cho Giuđa giật mình tỉnh ngộ. Rồi sự buồn phiền của các môn đệ khác trong bữa tiệc cũng không có tác dụng gì trên ý định của Giuđa muốn nộp Chúa Giêsu. Thấy các môn đệ lần lượt hỏi Chúa xem có phải là họ hay không, thì Giuđa cũng làm theo như vậy. Tệ hơn nữa, Giuđa dùng từ ngữ không còn ý nghĩa kính trọng đối với Chúa Giêsu trong câu hỏi đặt ra cho Chúa, vì trong khi các môn đệ khác gọi Thầy là Chúa với lòng kính trọng, thì Giuđa dùng một từ ngữ chỉ dành riêng cho một người tầm thường là Rabbi (thưa thầy). Kể từ khi chấp nhận mức giá trị đặt Chúa ngang hàng như một người tôi tớ chỉ đáng giá ba mươi đồng bạc, Giuđa xem như đã mất đi niềm tin vào Chúa như là Ðấng Cứu Rỗi. Giuđa không còn muốn trở lui, không còn muốn rút lại âm mưu nộp Chúa cho đến khi quá trễ. Khi Chúa bị kết án tử hình, thì Giuđa hối hận đi tự tử, như được kể lại nơi đầu chương 27 Phúc Âm thánh Mátthêu.
Phần Chúa Giêsu, Ðấng đã so sánh mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm con chiên lạc, Ngài vẫn kính trọng thể diện của Giuđa, không nói thẳng thừng, không vạch mặt nêu tên Giuđa cho mọi người biết, nhưng âm thầm tạo dịp để thức tỉnh lương tâm Giuđa. Và lời cảnh tỉnh mạnh mẽ nhất là khi Chúa Giêsu tuyên bố: "Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho người nào nộp Con Người, thà rằng người đó đừng sinh ra thì hơn". Chúng ta không nên hiểu lời cảnh tỉnh này như một lời kết án Giuđa phải hư mất mãi mãi. Không phải như vậy, lời cảnh tỉnh mạnh mẽ của Chúa nhằm làm nổi bật sự khốn cùng của người phản bội Chúa, một sự khốn cùng mà người phản bội tự ý đi vào vì ngoan cố không chịu quay trở về. Sống mà phản bội Chúa, chối bỏ ơn cứu rỗi của Chúa một cách có ý thức và ngoan cố, thì tệ hơn là không sống, không sinh ra trên trần gian này. Không phải tất cả mọi người đều biết khám phá và đáp trả tình yêu của Chúa đối với họ, thời nào cũng vậy, cũng có những người không nhìn nhận tình yêu Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để con sống trong tự phụ mù quáng. Xin đừng để con bị những lợi lộc vật chất làm cho con trở nên ngoan cố chống lại Chúa. Xin cho con biết noi gương thánh Phaolô tông đồ quay về với Chúa và dùng phần cuộc đời còn lại cộng tác chặt chẽ với ơn Chúa, đến độ có thể nói như Ngài: "Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay. Ơn Chúa đã không trở nên vô ích nơi tôi. Ước được như vậy".
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Giuđa mưu phản.
"Cả người thân con hằng tin cậy,
Đã cùng con chia cơm sẻ bánh,
Mà nay cũng giơ gót đạp con".
Thánh vịnh 40 là một trong những lý do mà các kitô hữu tiên khởi đưa ra trong cố gắng tìm hiểu về biến cố Giuđa phản bội: "Khi ấy một trong nhóm mười hai tên là Giuđa Iscariot đi gặp các Thượng tế mà nói: "các ngài cho tôi bao nhiêu, tôi sẽ nộp ông ấy cho các ngài".
Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là Lễ Vượt Qua cuối cùng Chúa Giêsu cử hành với các môn đệ. Mỗi năm người Do Thái thời Chúa Giêsu long trọng mừng lễ Vượt Qua để tưởng niệm biến cố Thiên thần Chúa vượt qua cửa nhà người Do Thái có bôi máu chiên để không giết con đầu lòng của họ, khởi đầu cho cuộc giải phóng họ khỏi ách nô lệ và khai mào cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa. Chúa Giêsu đã có ý định dùng môi trường và ý nghĩa của lễ Vượt Qua này để thiết lập Thánh Thể, nói lên ý nghĩa Ngài là Con Chiên mới sẽ hiến thân chịu chết và đổ máu trên Thập giá để giải phóng và cứu rỗi không những dân Do Thái, mà cả nhân loại. Nhưng soạn giả Matthêu không che dấu một biến cố khác xẩy ra cùng lúc với ngày trọng đại này đó là Giuđa, một trong nhóm mười hai mưu phản Thày. Đấy là biến cố gây chấn động dữ dội nơi cộng đoàn kitô tiên khởi chính vì cố đưa ra để tìm hiểu những bí ẩn bên trong dẫn đến ý định bán nộp Thày cho Giuđa. Ngoài lý do tìm thấy trong câu Tv 40 mang ý nghĩa tôn giáo, người ta cũng phân tách con người Giuđa được các soạn giả bốn sách Tin Mừng nhận xét, là con người tham lam, biển lận, ăn cắp của chung. Có người còn cho rằng Giuđa thuộc một đảng chính trị quá khích chủ trương dùng bạo lực để chống lại ách đô hộ của người Rôma; y theo Chúa Giêsu vì thấy Ngài có quyền năng làm nhiều phép lạ hy vọng Ngài sẽ dùng quyền năng đó để đánh đuổi ngoại xâm. Giuđa thất vọng khi thấy Ngài chọn con đường dẫn tới cái chết Thập giá để kết thúc sự nghiệp giải phóng và cứu rỗi của Ngài. Chính sự thất vọng ấy đưa đến bất mãn, và quyết định nộp Thày. Có người chủ trương rằng Giuđa không có ý định giết chết Chúa Giêsu, nhưng qua việc giải nộp Ngài trong tay quân Rôma, Giuđa hy vọng dồn Ngài vào chân tường, buộc Ngài phải chống cự để tự vệ và do đó đánh đuổi quân Rôm ra khỏi bờ cõi. Nếu như thế ngoài tội nộp Thày phản bạn, Giuđa còn vấp phải một lầm lỗi khác là muốn cưỡng bách Chúa Giêsu hành động theo ý riêng mình.
Để hiểu trọn ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không thể dừng lại ở những lỗi lầm của Giuđa, nhưng cần phải hội tụ chú ý vào vai chính là Chúa Giêsu. Trước tiên ngài cố gắng đến cùng để cảnh tỉnh và giải thoát Giuđa khỏi những ý nghĩ mù quáng và đen tối: vì thế Ngài đã cảnh cáo ý bằng một lời mạnh mẽ: "Con Người ra đi như đã viết về Ngài, nhưng khốn cho người đó, kẻ làm cho Con Người bị nộp. Thà rằng người ấy đừng sinh ra thì hơn". Rồi Chúa Giêsu cũng gọi đích danh Giuđa là người sẽ nộp Ngài. Nhưng lời cảnh cáo và sự vạch mặt chỉ tên đó cũng không làm cho Giuđa tỉnh thức và cũng không ngăn cản y tự nhảy xuống vực thẳm tội lỗi. Tuy nhiên, mặc cho hành động phản bội của Giuđa, Chúa Giêsu vẫn tiến hành việc lập Bí tích Thánh Thể, dấu chỉ của lòng yêu thương đến cùng. Tình yêu đáp lại tình yêu là chuyện thường tình, nhưng tình yêu đáp lại hận thù mới là hành động của một vĩ nhân.
Xin Chúa đánh động tâm hồn chúng ta, để chúng ta tiến vào ba ngày thánh tưởng niệm việc lập Bí tích Thánh Thể, cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá của Chúa, để Mùa chay này thực sự biến đổi con tim và cuộc sống của chúng ta.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Giuđa phản bội.
Bấy giờ một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế mà nói: "Quí vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi đây sẽ nộp ông ấy cho quí vị." Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ đó hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu. (Mt. 26, 14-16)
Có nhiều sứ điệp Tin mừng thật nặng nhọc khi phải đọc, tuy không nhiều, sứ điệp mà chúng ta đọc lại hôm nay là một trong những nố đó. Không thể không nặng nề khó chịu khi đọc đến đoạn phản bội của Giu-đa. Người ta tưởng tượng ra sự độc ác và không hiểu tại sao con người đó có thể sa đọa đến thế. Cách cư xử của hắn quá đồi tệ, ti tiện, không còn một chút phẩm giá con người.
Tuy nhiên, xin đừng coi đó là gương mù quá lẹ như vậy, vì gương mù đó xảy ra quá dễ dàng. Dù xấu đến đâu, lịch sử về Giu-đa vẫn mang tính chất nhân loại, nó vẫn có trong con người. Cần phải đọc lại nó để xem xét chính con tim của chúng ta cũng như con tim của mọi người không phải là không thấm nhiễm sự xấu và tội lỗi đâu. Ta thấy cái cảnh phản bội nặng nề khó đọc đó chính là vì ta thấy diễn tả nó trong bản văn. Nếu Giu-đa thiệt tình chơi cái trò này cho ngay thẳng, nghĩa là chống đối Chúa Giêsu ra mặt, khai chiến với Người rõ ràng, thì người ta cảm thấy dễ chịu hơn, ít nặng nề hơn. Nhưng không, Giu-đa diễn cái trò vòng vo quanh co. Hắn thực là kẻ phản bội. Chính đó là cái nặng nề khi phải thấy nó xảy ra.
Về phần Đức Giêsu, cách cư xử của Người có gì làm chúng ta ngạc nhiên không? Người biết rõ môn đệ nào và hắn âm mưu gì.
Nếu chúng ta ở địa vị Người, chúng ta có lẽ đã nổi giận tái mặt đi và tống cổ Giu-đa ra khỏi nhà ngay lập tức. Đức Giêsu đã hành động hoàn toàn khác. Người đã cho kẻ phản bội một cơ hội cuối cùng. Một lần nữa, Người chia sẻ bánh ăn với hắn. Không phải Đức Giêsu đã đẩy Giu-đa ra cửa. Chính Giu-đa đã quyết định ra đi phản bội và đi tự tử treo cổ chết.
Sẽ hoàn toàn khác, nếu Giu-đa thời đó đã ăn năn trở lại, thì Giu-đa sẽ không còn bị gọi là Giu-đa phản bội nữa, mà ngày nay còn được gọi là thánh Giu-đa. Hắn đã không ăn năn. Hắn từ chối tình bạn thân thiết với Thầy mình. Chính vì lý do đó mà đã để lại một lịch sử buồn sầu đen tối.
J.Y.G
22/03 Bóng đêm tội lỗi
- Viết bởi J.Y.G
Bóng đêm tội lỗi.
Thứ Ba tuần thánh.
"Một người trong các con sẽ nộp Thầy... Trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần".
Lời Chúa: Ga 13, 21-33. 36-38
Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: "Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy". Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: "Hỏi xem Thầy nói về ai đó". Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: "Thưa Thầy, ai vậy?" Chúa Giêsu trả lời: "Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó". Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: "Con tính làm gì thì làm mau đi". Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối. Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: "Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được", nay Thầy cũng nói với các con như vậy".
Simon Phêrô hỏi Người: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, nay con chưa thể theo tới đó được, nhưng sau này con sẽ theo Thầy".
Phêrô thưa lại: "Tại sao con lại không theo Thầy ngay bây giờ được! Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy". Chúa Giêsu nói: "Con liều mạng sống vì Thầy ư? Thật, Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bóng đêm tội lỗi.
Bóng đêm đồng lõa với tội ác: Bao nhiêu cuộc hôi họp để toan tính những hành vi hắc ám thường được tổ chức về đêm: nương theo đêm tối, những tên hành nghề trộm cướp mới mạnh tay hành động; những cuộc vui chơi trác táng, những mối tình vụng trộm cũng thường xẩy ra vào đêm. Bóng đêm cũng đã chứng kiến một cuộc bán Thày phản bạn được Tin Mừng thuật lại: Khi ấy, Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ, tâm hồn Ngài xao xuyến... Giuđa nhận chiếc bánh từ tay Chúa Giêsu trao, ăn xong, y đứng dậy ra đi, bấy giờ là đêm tối.
Dưới ngòi bút của Gioan, ánh sáng và bóng tối mang một ý nghĩa thật đặc biệt. Nhưng ở đây bóng tối được sử dụng để diễn tả đúng hoàn cảnh và tâm trạng của Giuđa trong âm mưu đen tối của y nơi đoạn Tin Mừng hôm nay. Bóng đêm luôn ngự trị khi con người chủ ý quay lưng lại với Chúa Giêsu, bóng đêm luôn xâm chiếm tâm hồn khi con người nghe theo sự xúi giục của sự dữ hơn là lời mời gọi của Thiên Chúa. Bóng đêm luôn giữ phần thắng khi hận thù, gian tham bóp chết sức mạnh của tình yêu. Bóng đêm xâm chiếm cõi lòng khi con người khước từ tình yêu Thiên Chúa như trường hợp của Giuđa. Trước khi Giuđa đứng dậy bỏ bàn tiệc thân hữu để đi vào bóng đêm, Chúa Giêsu đã dùng mọi phương thế để cảnh tỉnh Giuđa: trước tiên là lời tiên báo công khai: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: một trong các ngươi sẽ nộp Ta", nhưng Giuđa giả điếc làm ngơ không nghe lời cảnh tỉnh ấy. Tiếp đến, Chúa Giêsu chấm bánh trao cho Giuđa, đó là một cử chỉ thân tình, nhưng Giuđa đã ăn miếng bánh ấy không chút rung động, đến độ thánh Gioan diễn tả hậu quả trái ngược: "Ăn miếng bánh rồi, Satan đã nhập vào y". Sau cùng, Chúa Giêsu dóng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cuối cùng qua câu nói: "Ngươi tính làm gì, thì làm mau đi", câu này ngụ ý rằng âm mưu của ngươi, Ta đã biết, làm sao một môn đệ lại có thể âm mưu phản Thày". Tuy nhiên, những lời nói và cử chỉ thân tình ấy đã không cầm chân được Giuđa khỏi tiến vào bóng đêm tội lỗi.
Ngày thứ ba tuần thánh, khi đưa ra một Giuđa cứng lòng bướng bỉnh, tiến vào bóng đêm của phản bội, của tội lỗi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để chấp nhận lời cảnh tỉnh và nhất là đón nhận những cử chỉ thân tình yêu thương của Chúa Giêsu, để bừng sống dậy nhập đoàn những người đã và đang thực hiện một cuộc cách mạng tình thương mà Ngài đã khởi xướng khi tuyên bố: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu hiến mạng sống vì bạn hữu", "Ta ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các con".
Ước gì sự hiến thân chết vì tình yêu trên Thập giá của Chúa dẫn chúng ta từng bước thoát khỏi bóng đêm của tội lỗi để tiến vào ánh sáng của Chúa Nhật Phục Sinh.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Sự vấp ngã của Giuđa và Phêrô
Chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu và đi sâu vào tâm tư Chúa trong giây phút quan trọng này, có hai đặc điểm quan trọng được nêu bật ở đây: Ngài là một vị Thiên Chúa nhập thể làm người như chúng ta; là con người, Chúa Giêsu xúc động mạnh mẽ, tâm hồn xao xuyến sâu xa trước cuộc Thương Khó sắp trải qua, trước sự không hiểu và sắp phản bội của các đồ đệ, của Giuđa phản bội và của Phêrô tự phụ chối Chúa. Là một vị Thiên Chúa, Chúa Giêsu ý thức rõ ràng điều sắp xảy ra cho mình và gọi đó là việc tôn vinh Thiên Chúa. Giờ tử nạn là giờ tôn vinh, Thiên Chúa được tôn vinh, chính Chúa được tôn vinh và con người được tôn vinh, được hòa giải với Thiên Chúa, được lãnh nhận sự sống đời đời.
Nơi chương17 sau đó, Chúa Giêsu nói rõ ra nội dung chính của việc tôn vinh này như sau: "Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha theo quyền năng Cha đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật và nhận biết Ðấng Cha sai đến là Giêsu Kitô. Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm". Chúa Giêsu ý thức rõ ràng về chương trình Thiên Chúa Cha muốn thực hiện, Chúa muốn thực hiện điều đó cách hoàn hảo, nhưng đồng thời ý thức rõ ràng điều tệ hại mà các môn đệ của Ngài đang liều sa vào. Giuđa sắp phản bội, Phêrô sắp chối bỏ Ngài, nên Chúa xao xuyến sâu xa.
Nhưng tội lỗi của con người không thể làm hư chương trình của Thiên Chúa. Cho đến tận cùng, Chúa làm những gì có thể làm được để thức tỉnh người tội lỗi. Chúa hành xử với mỗi người một cách khác nhau, ngấm ngầm, âm thầm với Giuđa và công khai với Phêrô. Nhưng quyết định cuối cùng vẫn là quyết định tự do của con người. Giuđa mở tâm hồn, đón nhận Satan, từ bỏ ánh sáng, tự ý bước vào trong tối tăm và càng ngày càng lún sâu vào đó cho đến mức tuyệt vọng, vì trong tâm hồn ông không còn chút tình yêu nào đối với Chúa nữa. Phêrô cũng sẽ sa ngã, nhưng tình yêu Chúa nơi ông giúp ông ăn năn trở lại, bắt gặp cái nhìn của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con trở về cùng Chúa, đừng bao giờ thất vọng về những lỗi lầm đã phạm, nhưng biết học lấy bài học của sự sa ngã để tiến lên mãi.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Khổ đau của Đức Giêsu
Đức Giêsu nói thế rồi, tâm thần Người xao xuyến. Người tuyên bố:
"Thật, Thầy bảo thật anh em:
có một người trong anh em sẽ nộp Thầy". (Ga. 13, 21)
Đức Giêsu chịu nhiều đau khổ, nhưng người ta tự hỏi, đau khổ lớn nhất có phải là đòn đánh, mạo gai, cơn hấp hối hay bị đóng đinh trên thập giá? vì còn nhiều thứ đau khổ khác nữa.
Thứ đau khổ con tim và linh hồn mới thực sự cực khổ hơn bất cứ đau khổ thể xác nào. Người ta đau khổ thể xác mà trái tim vẫn có thể hạnh phúc, như các thánh tử đạo, bị cực hình thân xác, nhưng tâm hồn vẫn hân hoan. Khi bị đau khổ tâm hồn và tâm tư, thì không còn cách nào được sung sướng.
Đức Giêsu đã bị một ông tông đồ bán: đó là Giu-đa. Người cũng bị tông đồ cả là Phê-rô chối bỏ. Người còn bị tất cả các môn đệ bỏ trốn. Đó không phải là những lúc đau khổ lớn nhất sao?
Đau khổ cực dữ nhất không phải là thứ đau khổ làm cho kêu la lớn nhất. Đau khổ thấm thía sâu sắc không phải là thứ đau khổ kêu gào trên mái nhà. Đau khổ lớn nhất cũng như niềm vui to nhất thường là câm lặng.
Đức Giêsu biết một bạn thân nộp Người. Người đã không vạch mặt chỉ tên. Trái lại, Người đã rất kín đáo bảo Giu-đa đi làm công việc như thường để không một môn đệ nào biết. Những đau khổ đó càng dằn vặt dữ tợn khi người ta muốn đối diện với chúng một mình.
Bị Giu-đa bán nộp, tiếp theo đó Đức Giêsu còn phải đối diện với sự phản bội của Phê-rô. Người biết rõ thế. Phê-rô lại chẳng biết gì, ông không thể tưởng tượng mình sa ngã xuống hố sâu đến thế. Đức Giêsu không phiền trách ông chút nào. Người sẵn sàng chịu đau khổ do những bạn nghĩa thiết của Người và tất cả mọi người, dù họ đầy những yếu đuối. Còn chúng ta có noi gương Người không?
Khi người ta chịu đau khổ vì những người thân yêu, thì chính là dấu người ta yêu chân thật.
J.Y.G
21/03 Yêu là cho đi
- Viết bởi J.Y.G
Yêu là cho đi.
Thứ Hai tuần thánh.
"Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta".
Lời Chúa: Ga 12, 1-11
Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania, nơi Ladarô đã chết được Người cho sống lại. Tại đây người ta dọn bữa cho Người ăn. Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người. Bấy giờ Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Hương thơm toả đầy nhà. Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?" Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó. Vậy Chúa Giêsu nói: "Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta. Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu".
Có đám đông người Do-thái biết Người đang ở đó, nên tuôn đến, không những vì Chúa Giêsu, mà còn để thấy Ladarô, kẻ đã chết được Người cho sống lại. Thế là các Thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, vì tại ông mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Yêu là cho đi.
Một đôi vợ chồng nghèo nhưng yêu thương nhau tha thiết. Mỗi người sở hữu một vật quý giá: Della có mái tóc đen huyền dài và đẹp, nàng rất quý nó và hãnh diện về nó. Còn Jim chỉ có chiệc đồng hồ vàng, đó là kỷ vật duy nhất của cha anh trối lại. Một ngày lễ Giáng sinh, Della quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Jim sợi dây đồng hồ thật đẹp. Hôm ấy về đến nhà, Jim ngỡ ngàng nhìn Della khi thấy nàng tóc ngắn, vì không biết phải làm gì với món quà là bộ lược bằng xà cừ rất đẹp mà anh đã bán chiếc đồng hồ để mua tặng nàng. Della và Jim đã cho nhau tất cả những gì mình có, họ đã hy sinh tất cả cho nhau.
Vào đầu tuần thánh, Giáo Hội cũng nhắc đến hai người bạn của Chúa Giêsu, cũng như Della và Jim, họ đã cho Chúa Giêsu tất cả những gì mình có. "Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania... Ở đố người ta thiết tiệc Ngài. Có Marta phục dịch, Lazarô là một trong những người đồng bàn với Ngài. Maria lấy bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm xức lên chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau chân Ngài".
Một lần nữa, Tin Mừng cho chúng ta gặp lại Marta và Maria. Tuy lần ghé trước Marta đã nghe Chúa Giêsu nói chỉ có một việc cần đó là lắng nghe lời Chúa. Nhưng lần này, Marta cũng chẳng đừng được, đã biết cuộc hội ngộ với Chúa Giêsu thành một yến tiệc, bởi lẽ theo chị, nấu những món ăn thiết đãi Chúa và các môn đệ là để tỏ lòng hiếu khách, nhất là tỏ lòng biết ơn Chúa đã cải tử hoàn sinh cho Lazarô. Phần Maria còn đi xa hơn: chị lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau. Qua cử chỉ ấy chúng ta thấy rõ chiều sâu mối tình của chị đối với Chúa Giêsu. Một tình không tính toán khiến chị sử dụng dầu thơm quý giá mà theo ước tính của Giuđa có thể lên tới 300 đồng bạc tức 300 ngày công. Mối tình khiêm nhu, vì theo tục lệ thời đó, chủ nhà hay bất cứ phần tử nào trong gia đình thường xức thuốc thơm trên đầu người khách để tỏ lòng quí mến, nhưng Maria khiêm tốn nghĩ mình chỉ đáng xức dầu thơm vào chân Thày thôi. Mối tình tự hạ, thể hiện qua việc lấy tóc mình để lau chân Chúa. Chúa Giêsu chấp nhận cử chỉ nói lên lòng kính trọng, yêu thương của Maria, cũng như vui lòng ngồi vào bàn tiệc do Marta khoản đãi.
Với mẫu gương yêu mến của Marta và Maria đối với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn để ôn lại, để chấp nhận và để đáp lại mối tình bao la của Thiên Chúa đã thí ban người Con Một vì phần rỗi nhân loại, cũng như để đáp lại mối tình của Chúa Giêsu đã sẵn lòng đón nhận cái chết ô nhục vì tình yêu đối với Chúa Cha và đối với mỗi người chúng ta.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu
Ðoạn Tin Mừng trên gợi lên trong chúng ta nhiều ý nghĩ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu luôn luôn là một dấu gây mâu thuẫn. Nhiều người tin Chúa, mến Chúa, thương Chúa, mà cũng có nhiều người khác dèm pha, chống đối và muốn loại trừ. Những kẻ thuộc nhóm ủng hộ Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay là những người dọn tiệc đãi Chúa ở Bêtania là Lazarô, là Maria - người lấy dầu thơm xức chân Chúa. Những kẻ chống đối Chúa hay sắp đi vào con đường chống đối Ngài là các thượng tế ganh tị, là Giuđa Iscariốt - người thủ quĩ của nhóm môn đệ chung quanh Chúa Giêsu. Chúng ta hãy quan sát thêm thái độ của những kẻ chống đối Ngài, các thượng tế, những người lãnh đạo của dân Do Thái và là những kẻ được dân chúng kính nể như những trí thức và đạo đức. Nhưng phải chăng đây là cái vẻ bên ngoài, vì bên trong tâm hồn xem ra như chứa đầy những chuyện xấu xa, mưu mô, ganh tị, tham quyền, sợ dân bỏ họ mà theo Chúa Giêsu? Vì thế, họ có ý định giết luôn cả Lazarô, xóa bỏ luôn cả dấu chỉ hiển nhiên của Thiên Chúa quyền năng hiện diện giữa con người.
Quyền năng Thiên Chúa được thể hiện nơi dấu lạ cho Lazarô đã chết được sống lại. Ghét Chúa, những thượng tế kia muốn xóa bỏ cả những dấu chỉ, những chứng tá về Chúa để lương tâm họ được yên, không còn bị quấy rầy nữa. Chúng ta có hành xử giống như những vị thượng tế Do Thái này hay không, hay chúng ta hành xử giống như Giuđa Iscariốt. Giuđa chưa phản bội Chúa, nhưng đang trên đường phản bội Chúa với những hành động xấu được nhắc đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ham mê tiền của, lấy của công để lo cho tư lợi riêng, lạm dụng danh nghĩa người nghèo, miệng nói lo cho người nghèo nhưng hành động ngược lại. Ðây là tội mà ngày nay có thể gọi là kinh doanh trên sự nghèo cùng của anh chị em.
Hơn nữa, khi phê bình hành động tốt lành của cô Maria, xức dầu thơm nơi chân Chúa như là một việc làm phí của, thì Giuđa cho thấy tâm địa hẹp hòi của mình, Giuđa xem đồng tiền lợi lộc vật chất trọng hơn chính Chúa Giêsu và mối tương quan thân thiện với Ngài. Thường tình, nếu là bạn tốt với nhau, thì khi một người sắp ra đi, kẻ ở lại phải làm vừa ý người ra đi, để nói lên lòng quí mến của mình, nhưng Giuđa đã không hành xử như vậy với Chúa Giêsu. Là một trong mười hai tông đồ sống bên cạnh Chúa, chắc chắn Giuđa đã nghe nói đến sự ra đi đầy đau thương của Ngài tại Giêrusalem, nhưng Giuđa xem ra lãnh đạm vô tâm, vô tình với biến cố, vả lại Giuđa đã công kích hành động tốt của Maria, cho đó là một việc làm phung phí, vô ích. Giuđa đã mất đi ý thức bén nhạy để phán đoán điều gì tốt, điều gì không. Giuđa xét đoán không theo sự việc khách quan mà theo tâm tình hèn hạ của mình. Tâm hồn Giuđa thì xấu, nên xét việc tốt cũng thành xấu. Chúng ta có hành xử đúng như vậy hay không.
Lạy Chúa, đoạn Tin Mừng hôm nay là lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu giúp chúng con xét mình. Xin cho con khiêm tốn đến cùng Chúa để Chúa giúp con từ bỏ tinh thần của con hiện tại và quyết chí canh tân. Xin cho con biết đặt Chúa vào chỗ đứng mà Chúa đáng được như vậy trong đời sống con. Xin Chúa giúp con hiểu và thực hành đời sống con.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Dấu thân ái
Ở đó người ta dọn bữa ăn tối thiết đãi Đức Giêsu; Cô Mac-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quí giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau, cả nhà sực mùi thơm. (Ga. 12, 2-3)
Giu-đa đã chướng tai gai mắt về Ma-ri-a đổ bao nhiêu dầu thơm xức chân Đức Giêsu. Có lẽ chúng ta cũng thấy chướng mắt như vậy. Lọ dầu giá ba trăm đồng gần bằng tiền lương công nhân cả năm, ai trong chúng ta sẵn lòng cho người khác như vậy? Ai đã làm được thế? Chỉ có một cách duy nhất giải thích cử chỉ đó: Cô yêu mến Đức Giêsu.
Khi yêu, người ta có thể cho tất cả. Yêu chân thật thì làm tất cả. Người ta cho thứ tốt nhất và không tính toán giá trị bao nhiêu. Tình yêu chân thật không hẹp hòi, không tính toán, yêu là tất cả.
Chúng ta quả quyết hoàn toàn tự nguyện yêu mến Thiên Chúa và chúng ta có cảm tình nhiều với tất cả mọi người sống với chúng ta. Cần phải chứng thực điều đó qua mấy câu hỏi sau đây: Chúng ta cho những người ta yêu cái gì? Chúng ta đã cống hiến bao nhiêu thời gian cho họ? Chúng ta có sẵn sàng chịu sạch bách hết trọi để đem lại hạnh phúc cho họ không?
Đức Giêsu đã yêu mến chúng ta đến hiến cả mạng sống cho chúng ta, có thể nói yêu đến điên cuồng. Nhưng người ta có thể yêu mà không điên cuồng một chút nào ư? Nếu chúng ta không có thể điên cuồng một chút đối với những người chúng ta nói yêu họ, thì chỉ là yêu nửa vời. Nếu chúng ta không có thể điên cuồng một chút để biểu lộ lòng yêu mến Thiên Chúa, nếu thỉnh thoảng chúng ta không làm những cử chỉ khác thường, thì chúng ta chỉ yêu nửa vời.
Nếu phải vạch trần con tim của chúng ta xem, nếu họ bao bọc chúng ta làm cho chúng ta được hạnh phúc cho riêng mình, khi đó chúng ta mới tỏ lòng yêu họ và yêu Chúa, thì như thế là thứ tình yêu như Giu-đa.
J.Y.G
20/03 Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu
- Viết bởi Lc 22,14-23,56
Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu.
Chúa Nhật Lễ LÁ năm C 2016.
"Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Lời Chúa: Bài Thương Khó: Lc 22,14-23,56 (bài dài)
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.
Đến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa". C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!" C. Đoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Đành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!" C. Rồi Chúa nói: J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin". C. Ông thưa Người: S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết". C. Nhưng Người đáp: J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy". C. Và Người bảo các ông: J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?" C. Các ông thưa: S. "Không thiếu gì cả". C. Vậy Người nói: J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất". C. Các ông thưa Người: S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây". C. Và Người bảo: J. "Đủ rồi". C. Đoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Đến nơi, Người bảo các ông: J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ". C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ". C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?" C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?" C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: J. "Thôi, đủ rồi". C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm". C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. "Cả ông này cũng theo hắn". C. Nhưng ông chối và nói: S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy". C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó". C. Nhưng Phêrô đáp: S. "Này anh, đâu có phải tôi". C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. "Đúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa". C. Phêrô đáp: S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?" C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó". C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. "Nếu ông là Đấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay". C. Người trả lời: J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". C. Mọi người đều hỏi lại: S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?" C. Người đáp: J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa". C. Bấy giờ họ nói: S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói". C. Đoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua". C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. "Ta không thấy người này có tội gì". C. Nhưng họ cố nài rằng: S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây". C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi". C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!" C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi". C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Đám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?" C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi".
C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". C. Đối lại, tên kia mắng nó rằng: S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?" C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha". C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. "Ông này quả thật là người công chính". C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.
Đứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Đoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ LÁ – Năm C 2016
Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14 – 23,56
1. Lễ Lá
Hôm nay bắt đầu tuần thánh, một tuần lễ trọng đại nhất trong năm phụng vụ và Chúa nhật lễ Lá là Chúa nhật khởi đầu cho cuộc thương khó của Chúa. Chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.
Điểm thứ nhất đó là tại sao Chúa lại phải chịu đau khổ như thế? Tôi xin thưa đó là vì quyền lực của Satan. Chúng ta có thể nói cuộc tử nạn chính là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và Satan, giữa sự thiện và sự ác. Hẳn chúng ta còn nhớ: Khi Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, thánh Luca đã kết thúc biến cố ấy bằng câu: Ma quỷ rút lui để chờ dịp khác. Thì nay dịp khác ấy đã đến. Ma quỷ chiếm hữu cõi lòng Giuđa, tên phản bội. Ma quỷ sàng gạn Phêrô và các môn đệ như sàng gạo. Và cuộc hấp hối trong vườn Cây Dầu được mô tả như là giờ của quyền lực tối tăm đã đến.
Điểm thứ hai, đó là Chúa Giêsu dùng thứ khí giới nào để chiến thắng? Thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng hai thứ khí giới quen thuộc. Trước hết là sự cầu nguyện. Người sấp mình xuống đất cầu nguyện và mô hôi chảy ra hoà lẫn với máu. Tiếp đến là lòng nhân từ tha thứ. Người niềm nở đón chào tên phản bội. Người chữa lành đứa đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai, Người quay lại nhìn Phêrô vừa mới chối Người ba lần. Người an ủi những phụ nữ đang than khóc, Người tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá, Người hứa ban nước thiên đàng cho người kẻ trộm. Và lời cuối cùng là một lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha.
Điểm thứ ba đó là sự vô tội của Chúa Giêsu. Thực vậy, Philatô đã tuyên bố: Ta không thấy người này có tội gì. Hêrôđê cũng nhận thấy như vậy, nên đã truyền đem trả Ngài lại cho Philatô. Các phụ nữ Giêrusalem cũng không cầm được nước mắt. Còn người trộm lành thì xác quyết: Người này có làm điều gì trái đâu. Và sau khi Chúa đã chết, viên đội trưởng Lamã cũng kêu lên: Người này là người công chính. Còn dân chúng vừa ra về vừa đấm ngực ăn năn vì đã đổ máu người vô tội. Phải, Người là con chiên vô tội đã gánh lấy tội thế gian cũng như tội của mỗi người chúng ta. Vì vậy thánh Alphongsô đã nói: Tuần thánh là tuần của tình yêu, chúng ta hãy đem hết tình yêu để sống những ngày trọng đại này. Hãy trở về cùng Chúa vì Người đang chờ đợi ta và tha thứ cho ta.
Tại một ngôi thánh đường ở bên Đức, người ta còn thấy một pho tượng thánh giá cuộc tội đặc biệt. Chúa bị treo trên thập giá nhưng một tay thì bị đóng đinh còn một tay thì thòng xuống. Số là trước đây có một tội nhân đã hết lòng sám hối quỳ trước pho tượng này. Ông ăn năn nhưng không biết Chúa có tha thứ cho hay không. Thì bỗng nhiên một cánh tay Chúa rút ra khỏi lỗ đinh và ôm chầm lấy cổ ông trong bộ điệu yêu thương và tha thứ. Cánh tay ấy vẫn còn như vậy cho đến hôm nay. Hãy đến với Chúa trong tuần thánh này vì Ngài đang chờ đợi để tha thứ.
2. Cô đơn và im lặng.
Qua bài thương khó vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nỗi cô đơn và sự im lặng của Chúa Giêsu.
Trước hết là nỗi cô đơn. Càng về cuối đời, Chúa Giêsu càng bị lẻ loi cô đơn. Dân chúng và những người thân đều từ bỏ Ngài và giờ đây, cả các môn đệ cũng từ bỏ Ngài. Chúa Giêsu cô đơn trong vườn Cây Dầu. Ngài lại càng cô đơn hơn nữa trong lúc bị bắt bởi vì các môn đệ đều trốn chạy. Trước thượng hội đồng, Chúa Giêsu chẳng có một ai để bênh vực mà chỉ toàn thấy những kẻ cáo gian Ngài. Trong khi đó, ở bên ngoài, ông Phêrô đã chối Chúa. Ngay cả Đức Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi Ngài, chỉ còn lại mấy người phụ nữ trung thành, nhưng họ cũng chỉ đứng tự đàng xa.
Tiếp đến là sự im lặng của Chúa Giêsu. Trước toà án phần đạo, Chúa Giêsu chỉ trả lời vị thượng tế có một lần. Trước toà án phần đời, Chúa Giêsu chỉ trả lời Philatô có một lần. Và trên cây thập giá, theo sự ghi nhạn của thánh Marcô, Chúa Giêsu cũng chỉ thốt lên có một lời.
Thế nhưng sự cô đơn và im lặng của Chúa Giêsu đã đứa tới một hậu quả thật bất ngờ, đó là lời tuyên xưng của viên đội trưởng Lamã: Quả thực người này là Con Thiên Chúa. Với lời tường thuật đơn sơ và mộc mạc, thánh Marcô cho chúng ta thấy: Chân lý tự bản chất vốn giản dị, chứ không màu mè phức tạp. Không phải cứ nói nhiều, nói hay mà người ta có thể làm sáng tỏ chân lý. Cũng như không phải cứ sơn phết cho thật màu mè mà người ta tạo được một bức hoạ tuyệt vời. Chúng ta sẽ lầm khi nghĩ rằng với những sách vở và những bài thuyết trình sâu sắc, hấp dẫn với những công trình khảo cứu hoàn bị, chúng ta có thể đem đến cho mọi người tất cả những câu trả lời về Đức Kitô.
Không. Đức Kitô không phải là một mớ những lý thuyết, những tư tưởng, nhưng Ngài là một con người mà chúng ta cần phải gặp gỡ, phải chiêm ngưỡng và phải tìm hiểu để rồi dần dần khám phá ra những châh lý về Ngài.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận cụ thể như thế này. Đức Kitô không phải chỉ là một cái gì chúng ta nói, chúng ta rao giảng, chúng ta tuyên xưng ngoài môi ngoài miệng, nhưng Ngài cần phải được bén rễ sâu trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta.
Điều đó có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải sống đức tin hay mói một cách cụ thể hơn, chúng ta có bổn phận phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng Ngài bằng hành động và bằng cả cuộc đời chúng ta.
3. Tuần Thánh
Tuần Thánh, Giáo Hội cho con cái mình được dịp dự những ngày cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu ở trần gian. Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá được mở đầu bằng nghi thức làm phép lá và rước lá. Trong nghi thức này, cộng đoàn dân Chúa được nghe đọc bài Tin Mừng tường thuật lại việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem với tư cách của Đấng Mêsia. Hình ảnh Chúa Giêsu cưỡi trên lưng lừa khiến người ta nhớ lại lời sấm ngôn nói về Đấng Mêsia được ghi lại trong sách ngôn sứ Dacaria: "Này thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò, vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa vẫn còn theo mẹ".
Hình ảnh dân chúng reo hò tung hô Chúa Giêsu cũng gợi nhớ đến cuộc lễ đăng quang của vua Salomon được ghi lại trong sách các vua quyển thứ nhất: "Hãy đưa các bề tôi của Chúa Thượng đi theo các ngươi để Salomon, con ta, cỡi con la cái của ta rồi đưa nó xuống Ghikhô, ở đấy tư tế Sađốc và ngôn sứ Natan sẽ xức dầu phong nó làm vua Israel. Các ngài sẽ rúc tù và và tung hôn vua Salomon muôn năm".
Qua việc công khai vào thành một cách long trọng như thế, Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng Mêsia và là vua của dân Israel. Tuy nhiên, Người không xây dựng vương quốc bằng cách đánh nam dẹp bắc hay bằng cách phát triển các sức mạnh kinh tế, mà bằng cách thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha trong vai trò người tôi tớ trung thành đã được ngôn sứ Isaia mô tả trong bốn bài ca của ông. Cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem này chỉ là bước khởi đầu cho cuộc thương khó mà Chúa Giêsu phải trải qua để chiến thắng sự dữ và sự chết, mở ra cho loài người lối đi đến cõi phúc bất diệt bên Thiên Chúa.
Phụng vụ thánh lễ dẫn chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu bằng cách cho chúng ta nghe đọc bài ca thứ ba của ngôn sứ Isaia viết về những nỗi khổ đau mà người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa phải gánh chịu: "Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, tôi không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ". Kế đó là bài trích thư thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Philipphê nói về sự từ bỏ mình và cái chết tủi nhục mà Chúa Giêsu sẽ đón nhận để mang lại ơn cứu độ cho thế gian. Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự.
Cao điểm của phần phụng vụ Lời Chúa là bài Thương Khó Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng này, Giáo Hội mời gọi chúng ta thông dự vào những giờ phút linh thiêng cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu. Chúng ta không nghe đọc bài Thương Khó nhưng nghe một câu chuyện bi hùng xảy ra trong lịch sử. Chúng ta nghe và đồng thời chúng ta cũng hòa mình vào cuộc Thương Khó ấy; chúng ta có mặt bên cạnh Chúa Giêsu trong mọi diễn tiến đau thương đang xảy ra. Lịch sử cứu độ trải dài đến chúng ta và chúng ta đón nhận lịch sử cứu độ ấy ngay tại đây và ngay lúc này. Chúng ta không làm người chứng kiến lịch sử cứu độ nhưng chúng ta làm người sống và lãnh nhận hiệu quả của ơn cứu độ.
Con đường cứu thế mà Chúa Giêsu đi qua là một con đường dài khởi sự từ biến cố nhập thể, ấp ủ và hình thành trong ba mươi năm sống ẩn dật, thực hiện từng bước trong ba năm ra đi rao giảng, tiến đến cao điểm trong tuần khổ nạn, hoàn tất bằng cái chết khổ nhục và việc sống lại hiển vinh. Đó là một con đường hẹp và đầy gian nan. Con đường này không dành cho những ai lười biếng hoặc nhát đảm nhưng dành cho những ai chuyên chăm và trung thành.
Hàng năm, Giáo Hội tạo cơ hội cho chúng ta sống bốn mươi ngày của mùa Chay để giúp chúng ta vượt qua những ươn lười và hèn yếu của mình, nhờ chuyên tâm cầu nguyện, chúng ta có dịp rà soát lại con người mình, nhận ra những lỗi phạm và những thiếu sót của mình để sửa đổi và bổ khuyết. Chúng ta cũng có dịp xem lại những tương quan của mình với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính bản thân chúng ta. Chúng ta thấy được mình đã xây dựng các mối tương quan đó như thế nào, chặt chẽ hay lơ là, chân tình hay giả dối, cẩn trọng hay tắc trách. Nhờ thực hành những việc hy sinh hãm mình, chúng ta tập tự chủ, tập chiến thắng thói quen nuông chiều bản thân, tập chế ngự các thói hư tật xấu của mình. Chúng ta cũng có dịp thông cảm với những yếu đuối của người khác, tập bao dung tha thứ cho những lầm lỗi mà người khác lỗi phạm đến chúng ta, tập nâng đỡ người khác vượt qua những thói hư tật xấu của họ, nhờ rộng tay giúp đỡ những người nghèo khổ về mặt vật chất hoặc tinh thần, chúng ta nhận ra rằng mình cũng là một người nghèo khổ cần được Thiên Chúa và anh chị em ra tay giúp đỡ. Chúng ta cũng có dịp để nhận ra giá trị đích thực của những người khác dù họ là những người cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Chúng ta học được giá trị của sự chia sẻ qua lại. Chúng ta cung cấp cho người khác những cái chúng ta có và nhận lại từ họ những cái chúng ta còn thiếu. Bốn mươi ngày tập luyện đã qua đi, nhưng chặng đường trước mắt chúng ta vẫn còn dài. Hết bốn mươi ngày mùa Chay, không có nghĩa là chúng ta có quyền nghỉ ngơi thoải mái để bù lại những ngày gian khổ hy sinh. Cuộc chiến đấu để thắng vượt bản thân và sự dữ vẫn kéo dài đến giây phúc cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Tuần thánh mà chúng ta sắp bước vào nói lên tính cách quyết liệt của cuộc chiến này. Chúng ta bước vào Tuần Thánh vì chúng ta đã tập tành được trong bốn mươi ngày mùa Chay. Hãy theo Chúa Giêsu để Người tiếp tục dạy ta biết sống thế nào cho phù hợp với Thánh Ý Chúa Cha. Hãy theo Chúa Giêsu để Người dạy ta cách từ bỏ bản thân. Chết đi trong tinh thần vâng phục và sống lại nhờ tín thác hoàn toàn vào quyền năng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con hăng hái bước vào Tuần Thánh, không phải chỉ bằng việc tham dự đầy đủ các lễ nghi, nhưng còn bằng việc thông dự thật sự vào những khổ đau của Chúa, để con học được bài học yêu thương và vâng phục mà đem ra thực hành suốt cả đời con, xin cho con đừng ngơi nghỉ bao lâu còn đóng đinh với Chúa trên thập giá.
4. Cái chết giúp sự thật hiển lộ
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Sau ba năm Đức Giêsu rao giảng, không ít người đã tin vào Ngài; tuy nhiên niềm tin vào Đức Giêsu của những người này tối đa cũng tương tự như niềm tin của các tông đồ khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế. Họ cho rằng Đức Giêsu là một vị thầy, hơn nữa có thể là một tiên tri, và cao nhất có thể là Đấng Kitô Vua (Ga.6, 15; Mc.8, 29; 11, 9-10). Vào thời điểm đó, người ta không thể biết khác hơn được. Còn đối với những người không tin Đức Giêsu, những kẻ khó chịu hoặc bực tức vì Ngài trổi trang hơn họ, Đức Giêsu đơn thuần chỉ là một con người bình thường như bao người. Những người này không chỉ bất đồng ý kiến với Đức Giêsu, không chỉ khó chịu và bực tức mà còn muốn giết Đức Giêsu nữa (Mc.3, 6).
Vào thời cuối của ba năm rao giảng, Đức Giêsu đã nhiều lần nói những điều có thể làm cho Ngài phải bị ném đá. Chẳng hạn Ngài nói Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5.7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Thiên Chúa là một (Ga.10, 30). Vào cuối đời, Ngài có những câu nói "gây mất lòng" nhiều người. Càng vào cuối đời, càng có ít người theo Ngài, vì những lời khó có thể hiểu và chấp nhận được, chẳng hạn: "chính tôi là bánh hằng sống. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!" (Ga.6. 35). Những lời nói tương tự không chỉ làm Đức Giêsu "mất người" mà còn gây thêm có nhiều người thù địch với Ngài, thậm chí còn làm cho những người muốn giết Ngài có đủ bằng cớ và hậu thuẫn. Chẳng hạn, Ngài nhận mình là Thiên Chúa: "chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp nhưng vì một lời phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa" (Ga.10, 33).
Gần lễ Vượt Qua, âm mưu giết Đức Giêsu trở nên rõ ràng nên Ngài lui về Galilê. Vì thế, thời điểm Lazarô chết không có mặt Đức Giêsu tại đó. Sau đó khi Ngài muốn lên Giêrusalem thì các tông đồ đã ngăn cản. Tông đồ Thomas đã động viên các bạn: "nào chúng ta cùng lên Yerusalem để cùng chết với thầy" (Ga.11, 16). Đức Giêsu cũng biết Ngài sẽ bị giết nếu Ngài lên Giêrusalem vào thời điểm này, tuy nhiên Ngài vẫn cứ lên. Ngài không muốn trốn chạy cái chết. Ngài đã phải chọn lựa giữa sống và chết một cách cụ thể qua việc có lên Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua này hay không. Cuối cùng Ngài đã chọn lên Giêrusalem cho dù cái chết đang chờ đón Ngài.
Ở Giêrusalem, Ngài vẫn làm điều Ngài vẫn thường làm: "ban ngày Ngài giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm Ngài và các tông đồ ra vườn dầu để ngủ" (Lc.21, 37). Hôm nay Ngài vào Giêrusalem và được dân chúng đón rước như vị Thiên Sai. Ngài chấp nhận biến cố này vì biết thời điểm đặc biệt của Ngài đã đến: thời điểm Ngài được tôn vinh cũng là thời điểm Ngài chết trên thập giá. Cái chết của Ngài có thể được thấy trước vì nó cũng theo quy luật của xã hội: người ta ghét Ngài đến độ muốn giết Ngài (Mc.14, 1).
Lúc khởi đầu người ta muốn giết Ngài vì Ngài đã dám suy nghĩ và nói ngược lại những người có thế lực (Mc.3, 6; 14, 1; 14, 53-59); nhưng khi vị thượng tế hỏi Đức Giêsu và Đức Giêsu trả lời: "rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và đến trên mây trời" thì họ không cần phải sắp đặt chứng cớ để giết Đức Giêsu như trước nữa, vì Đức Giêsu đã phạm một tội vô cùng lớn mà mọi người Do Thái một khi biết đều phải xử tử Đức Giêsu, vì là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62-64). Đức Giêsu đầu tiên bị người ta ghen ghét mà muốn giết, rồi khi đã bị bắt và xét xử với chứng cớ được xếp đặt trước, Ngài lại nói Ngài ngang hàng với Thiên Chúa; như vậy trước công nghị Do Thái, Đức Giêsu bị kết án tử hình vì tội tôn giáo: lộng ngôn xúc phạm đến Thiên Chúa. Trên thập giá Đức Giêsu nói: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết" (Lc.23, 34); thật vậy, không biết nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu, thì kết án Ngài là chuyện tất nhiên.
Để giết được Đức Giêsu một cách hợp pháp, người Do Thái phải đem Đức Giêsu sang tòa Roma. Vào thời người Do Thái bị đô hộ, quyền xử tử thuộc về thẩm quyền người Roma. Đức Giêsu đã bị gán cho tội chính trị "xưng vương". Nếu không gán cho Đức Giêsu tội chính trị thì Philatô đã không kết án tử hình Đức Giêsu. Philatô biết Đức Giêsu bị oan, nhưng vì sợ mất chức nên đã kết án Ngài. Nếu không kết án Đức Giêsu, Philatô có thể bị người Do Thái tố cáo với hoàng đế Roma vì đã buông tha người xưng vua phất cờ khởi nghĩa. Nếu vậy, Philatô phải giải thích, phải biện luận, và sẽ gặp nhiều phiền phức, và hậu quả sẽ là không được hoàng đế tin tưởng nữa, vì vậy Philatô đã kết án tử hình Đức Giêsu thuận theo ý của người Do Thái.
Nếu Đức Giêsu chỉ là một con người, Đức Giêsu xứng đáng lãnh án tử. Thực vậy, khi Đức Giêsu còn sống, nào ai biết Đức Giêsu là người có nguồn gốc thần linh, vì đâu là chứng cớ để người ta có thể tin như vậy! Chỉ khi Đức Giêsu chết và sống lại, người ta mới nhận ra những gì Đức Giêsu nói và cho mình là, là chân thực. Như vậy, chỉ sau biến cố Đức Giêsu Phục Sinh, các tông đồ mới biết chân tướng của Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu là kẻ lộng ngôn phạm thượng, thì Thiên Chúa đã chẳng phục sinh Ngài, còn nếu Ngài đã sống lại, nghĩa là những điều Ngài đã nói là đúng, là chân lý. Nghĩa là, Ngài và Thiên Chúa là một, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài có trước Abraham.
Khi còn sống đời dương thế, Đức Giêsu khó có thể thoát chết, vì chân tướng của Ngài chỉ có thể được thấy rõ sau khi Ngài sống lại. Đức Giêsu bị hiểu lầm mà bị kết án tử hình, vì không ai biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị, vì không ai có thể tưởng rằng Thiên Chúa có thể nhập thể làm người. Sau khi Ngài sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra ý nghĩa của những lời Ngài đã nói mà khi Ngài còn đang sống các ông chẳng hiểu gì. Ngài là Đấng có nguồn gốc thần linh, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một, Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn tại sao người ta giết Đức Giêsu?
2. Có cách nào giúp Đức Giêsu thoát chết không? Tại sao Đức Giêsu không dùng nó?
5. Con lừa.
Hôm nay, Chúa Giêsu cưỡi trên lưng một con lừa để tiến vào thành Giêrusalem giữa những tiếng tung hô vạn tuế. Chính vì thế, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh con lừa.
Đối với nhiều người, hình ảnh con lừa chẳng phải là một hình ảnh hấp dẫn, bởi vì lừa là một con vật đần độn và ưa nặng. Tuy nhiên, trong một bài thơ, Chesterton diễn tả một chú lừa đã quan sát vẻ xấu xí của mình và tự nhủ:
"Chắc hẳn tôi đã được sinh ra khi mảnh trăng nhuốm máu, khi cá lượn trên không, lúc cây rừng cất bước và cây vả trổ gai. Ôi chiếc đầu kỳ quái, tiếng kêu ghê tởm, đôi tai khác nào cặp cánh lạc loài và dáng đi kỳ cục nhất trong các loài động vật bốn chân. Thế nhưng, tôi cũng có giờ của tôi chứ. Một giờ thật oanh liệt và êm dịu, khi bên tai tôi văng vẳng tiếng reo hò và ngành thiên tuế chập chờn dưới bước chân tôi đấy".
Và chú lừa đã thốt lên:
"Quí vị cứ cười nhạo tôi đi, nhưng nên nhớ rằng tôi đã được chọn trong tất cả thú vật trần gian, để cõng trên mình Đấng Cứu Độ nhân loại".
Mặc dù chúng ta thường nhạo báng giống lừa, nhưng các nhân vật trong Kinh Thánh lại ngợi khen chúng. Lừa là một giống vật hiền hoà, khác hẳn với loài ngựa, là giống vật dành cho chiến tranh. Tiên tri Giacaria đã tiên báo: Đấng Messia, tức là Đấng Thiên Sai, sẽ cưỡi trên lưng lừa mà tiến vào thánh Giêrusalem.
Và hôm nay, Chúa Giêsu đã thực hiện lời tiên báo ấy. Làm như thế, Ngài đã chu toàn hai điều xác quyết sau đây: Điều xác quyết thứ nhất, Ngài xác nhận mình là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia của dân Do Thái. Điều xác quyết thứ hai, Ngài mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng thiên sai của Ngài là gì?
Vào thời Chúa Giêsu, việc mạc khải này có thể dẫn tới những hiểu lầm tai hại. Thực vậy, có nhiều người nghĩ rằng sứ mạng của Đấng Thiên Sai hệ tại việc đoàn kết dân chúng lại, để đánh đuổi quân xâm lược Rôma ra khỏi đất nước họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu cưỡi trên lưng con vật hiền lành mà tiến vào thành Giêrusalem. Hành động này đi ngược lại với ý tưởng trên. Đồng thời còn cho thấy Đấng Thiên Sai không phải là một ông vua chinh chiến, bắt kẻ thù phải làm nô lệ cho mình.
Ngài đến và đã quỳ gối rửa chân cho thần dân của Ngài, chứ không phải là để ngồi trên ngai vàng, rồi bắt mọi người phải hầu hạ mình. Ngài đoàn kết dân chúng sau lưng mình, không phải là để đi giao tranh với các dân tộc khác, nhưng liên kết họ để chiến đấu chống lại nghèo khổ, đói khát, thu hận và mọi hình thức bất công.
Ngài đến không phải để kết án, nhưng để tha thứ. Ngài đến không phải để phá đổ những giấc mơ của dân chúng, nhưng để làm cho những giấc mơ ấy trở thành hiện thực bằng một phương cách lạ lùng nhất. Ngài không cưỡng bức, nhưng kêu mời chúng ta bước theo Ngài.
Thế nhưng, chúng ta có đáp trả lời mời gọi ấy hay không, thì đó là việc làm riêng tư của mỗi người chúng ta. Còn giờ đây, chúng ta hãy vui mừng và cùng với các tín hữu ở khắp mọi nơi, hãy tung hô Chúa: Vạn tuế Đấng Nhân Danh Chúa mà đến.
6. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trong trình thuật Đức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách đấng Mêsia, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Máccô và Luca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên 'con lừa con chưa ai cỡi bao giờ'. Hình ảnh Đức Giêsu khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: "Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!... Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ" (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như "Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân" (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10:3; 1:14; 1Sm 25:23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. "Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!". Đức Giêsu tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mêsia chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18:36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết 'Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ' chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham sát tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: "Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu... rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo... Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: "Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh"... Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi..." I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa 'thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay...' và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: "Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống..." Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh 'cỡi lừa' này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3:14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mêsia hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mêsia, 'Đấng ngự đến nhân danh Chúa' phải là như thế, không thể nào khác được!
Lạy Đấng Mêsia hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: "sỏi đá cũng sẽ kêu lên!" Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! Amen.
7. Con người tham sống sợ chết
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Chuyện kể rằng: Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục".
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh".
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống".
Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người thề sống chết cho nhau nhưng khi đối diện với cái chết, họ cũng tìm trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Thế nên, là người thường dễ quên lời hứa, dễ thất hứa, thất tín và thất trung. Con người thường dễ mất uy tín khi những lời mình nói mà không làm. Thực tế, con người chỉ dễ dàng hứa trong lời nói xuông mà rất khó thực hiện những lời đã hứa. Nhất là khi phải hy sinh tiền bạc, thời giờ, công sức, và càng khó hơn khi phải hy sinh tính mạng mình để thực thi chữ tín trong cuộc sống.
Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.
Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử, nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà bỏ quên lời hứa với nhân dân.
Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy, Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì "yêu cho đến cùng".
Chúa Giêsu Ngài biết những kẻ mà Ngài thi ân sẽ quay lưng chống lại Ngài. Ngài cũng biết rõ các đồ đệ sẽ bỏ rơi Ngài trong lúc nguy nan. Ngài cũng biết số đông theo Ngài sẽ dừng lại để một mình Ngài vác thập giá cô đơn trên đường lên Núi Sọ. Thế nhưng, Ngài vẫn can trường, vẫn bước đi cho đến cùng của tình yêu tự hiến hy sinh.
Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường... ; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giêsu luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: "để mọi sự được nên trọn".
Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng "Giờ" để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu.
Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Người, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng điều quan yếu là chúng ta hãy luôn nhận ra tình yêu của Chúa để biết tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta. Amen.
8. Tại làm sao Chúa chết ? Chúa chết để làm gì ?
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phụng vụ Chúa nhật này gồm hai phần thật là khác biệt: trước tiên, là phúc lành, sắp đặt và rước Lá tưởng nhớ lại cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu Kitô tiến vào thành Giê-ru-sa-lem và thực hiện lời tiên tri của Dacaria: "Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ."(x. Dc 9, 9). Sau đó, Phụng Vụ của Giáo Hội cử hành Hy Tế Thánh Lễ, với bài đọc Tin Mừng thật dài về cuộc Khổ Nạn của Chúa chúng ta (có nhiều nơi hát) dẫn chúng ta bước ngày vào Tuần Thánh, tuần lễ thiêng liêng nhất của Năm Phụng vụ. Sau khi chúng ta tung hô Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta đồng hành với Chúa Cứu Thế trong sự thống khổ, lo sợ, đau thương suốt Tuần Thánh mà Ngài muốn hoàn tất trong việc cứu chuộc chúng ta.
Sau khi đọc tường trình đầy đủ về sự Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa theo Thánh Luca. Chúng ta hãy đặt câu: Một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Những kẻ chịu trách nhiệm về sự chết của Chúa Giêsu dựa trên những lý do gì?
Phaolô trong những lá thư đầu của ngài, viết vào khoảng năm 50, cung cấp cơ bản cũng một tường thuật về án tử của Chúa Kitô y như trong các sách Tin Mừng. Ngài nói "những người Do thái đã giết Chúa Giêsu" (1 Tx 2:15). Về những biến cố xảy ra tại Giêrusalem không bao lâu trước lúc ngài đến, chắc chắn Phaolô biết rõ hơn chúng ta là những người đương thời, đã một thời gian kiên trì phê chuẩn và bênh vực án tử của người Nagiaret.
Không thể đọc những tường thuật về sự Thương Khó mà không biết mọi sự xảy ra trước. Nếu đọc Bốn sách Tin Mừng, chúng ta có thể nói trong mỗi trang thể hiện rõ ràng sự khác biệt tôn giáo ngày càng lớn giữa Chúa Giêsu và một nhóm quyền thế người Dothái (Biệt Phái, Tiến Sĩ Luật, Kinh Sư) về sự giữ ngày sa bát, thái độ đối với những kẻ tội lỗi và những người thu thuế, và về sự trong sạch và sự không trong sạch.
Tin Mừng Gioan từ cuối chương 4 cho đến chương 13 được đọc trong tuần thứ IV và thứ V Mùa Chay cho chúng ta thấy rõ sự tương phản này. Vậy làm sao người ta có thể nghĩ rằng sự tương phản này cuối cùng không đóng một vai trò nào, và nghĩ rằng những người lãnh đạo Do thái đã quyết định tố cáo Chúa Giêsu cho Philatô-hầu như trái với ý muốn của họ, chỉ vì sợ một sự can thiệp quân sự của người Roma?
Philatô không phải là một người quan tâm với sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Kitô, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.
Từ những tường thuật về sự chết của Chúa Giêsu hiện diện trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác (tuy muộn hơn và mâu thuẩn về mặt lịch sử), một sự nổi lên: truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Kitô. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng, nếu có hành động nào, họ đã chối rằng hành động đó, từ viễn ảnh Dothái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô là một án bất công.
Như vậy, đối với câu hỏi, "tại sao Chúa Giêsu bị kết án tử? " sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn giữa hai sự được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Như vậy kết luận chúng ta phải rút từ những nhận xét lịch sử này, là các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thũ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.
Chúng ta hãy gạt ra một bên bây giờ những vấn đề lịch sử, và hãy dành một lúc để chiêm ngưỡng Người. Giáo hội muốn mỗi người chúng ta phải nói thêm cho việc này là lịch sử không nói tất cả mọi sự và không nói cả sự cần thiết trọng yếu này. Bằng đức tin, Giáo hội muốn cho chúng ta biết rằng tất cả chúng ta có trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh: "Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ Trời xuống thế...Người chịu đóng đanh vào Thập giá vì chúng tôi" (Kinh Tin Kính). Tất cả chúng ta đã phạm tội, nên Chúa phải chết, trách nhiệm thuộc về chúng ta.
Chúa Giêsu đã làm sao trong sự Thương Khó? Phẩm giá siêu nhân, sự kiên nhẫn vô cùng. Không một cử chỉ hay lời nói chối bỏ điều Người đã rao giảng trong Tin Mừng của Người, cách riêng các mối phúc. Và không có gì nơi Người giống sự khinh bỉ sự đau khổ đầy kiêu căng của người khắc kỷ.
Trước đau khổ và độc ác, Người run và đổ mồ hôi máu tại Giệtsêmanim, người kêu lên nỗi đau buồn của Người trên thánh giá:" Lạy Chúa con, Lạy Chúa con, nhân sao Chúa bỏ con?"
Người chết đương khi xin sự tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người. Ngài đã thinh lặng, một sự thinh lằng siêu phàm: "Đức Chúa Giêsu vẫn làm thinh" (Mt 26:63). Người làm thinh trước Caipha, Người làm thinh trước quan Philatô, Người làm thinh trước vua Hêrôđê, kẻ hy vọng thấy Người làm một phép lạ (x. Lời Chúa 23:8). Bị nguyền rủa Người không nguyền rủa lại." Thơ Thứ Nhất của Phêrô nói về Người (2:23)
Sự thinh lặng chỉ bị phá vỡ một lúc trước khi sự chết "tiếng kêu lớn" từ trênThánh giá sau đó Chúa Giêsu tắt thở. Điều này làm cho viên đại đội trưởng Roma thú nhận: "Thật người này là Con Thiên Chúa."
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết.
9. Con đường Thập Giá
(Lm. Đaminh Trần Quang Hiền)
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực... để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
10. Tình yêu đáp lại hận thù
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: "Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con". Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
11. Chúc tụng Đức Vua
('Manna')
Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người, Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Đức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ. Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu, chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Đức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế, ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ.
Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay giúp ta nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu.
Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe. Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc. Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi...
Tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào. Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức, trông chờ Đức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh. Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu, các bà theo sau than khóc.
Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ. "Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng": Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Pascal viết: "Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận thế." Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn nhân loại hôm nay không?
Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau nào lớn nhất? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
12. Tính chất hiện tại của Bí Tích Thánh Thể
(Achille Degeest: Lc 22,14-23,56)
Bài tường thuật của thánh Luca về Tiệc Ly cho thấy ở khoảnh khắc quan trọng nhất lịch sử Đức Kitô, diễn ra một biến cố rất quan trọng: Giao Ước cũ kết thúc, Giao Ước mới bắt đầu. Đức Giêsu ăn mừng lễ Vượt Qua theo luật Do Thái quy định, và nói rõ lần này là lần cuối cùng Người mừng lễ đó. Tới khi nào Chúa lại ăn mừng lễ, lúc đó sẽ là lễ Vượt Qua mới. Người khởi sự bằng việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Ngôn từ sử dụng ở đây dễ hiểu: bánh và rượu trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Này là Mình Ta... Các tông đồ không có một ý niệm gì về Lời Chúa, Chúa nói sao các ông nghe và nhớ đúng thế, lúc đó các ông không hiểu gì về ý nghĩa tượng trưng. Các ông không hiểu cũng như chúng ta ngày nay không hiểu, các ông ghi nhớ rằng, Đức Giêsu đưa ra bánh và rượu, Chúa nói đó là Mình và Máu Người, Chúa bảo các ông sau này hãy làm lại việc ấy để nhớ đến Người. Các ông chỉ biết nghe và hiểu theo nghĩa đen. Niềm tuân phục của các tông đồ đối với lệnh truyền của Đức Kitô sẽ làm phát sinh thực tại kỳ diệu là Thánh Lễ của chúng ta. Đoạn Phúc Âm vượt lên trên bất cứ chú giải nào. Chúng ta nêu ra hai điểm:
1) Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta.
Nhớ, theo một nghĩa Cựu Ước, là tưởng niệm một biến cố làm đổi mới và hiện tại hoá tương quan Thiên Chúa với nhân loại. Thiên Chúa vượt khỏi tầm thời gian. Người hiện hữu và hành động trong hiện tại cũng như hằng có và hành động trong quá khứ. Tương quan giữa Giao Ước Thiên Chúa với nhân loại luôn mãi có tính chất hiện tại. Chỉ con người mới có quá khứ và hiện tại. Khi con người cử hành nghi lễ để nhớ đến một hành vi của Thiên Chúa, con người hiệp thông với một hành vi thần linh trong hiện tại của mình. Đức Giêsu đã muốn rằng bí tích Thánh Thể phải hiện thực trong hiện tại của mỗi người để nhớ đến Chúa.
2) Tay kẻ nộp Ta... Chúa loan báo sự phản bội của Giuđa trong tiệc Vượt qua Do Thái hay trong bừa Tiệc Ly?
Người ta nghiêng về thuyết Chúa loan tin ấy trong tiệc Vượt qua. Dẫu sao, ở đây chúng ta đứng trước một trong những vực thẳm tâm lý con người. Sự thiết lập bí tích Thánh Thể là một hành vi thần diệu, nhưng kèm theo một sự phản Thày của Giuđa và một cuộc cãi vã giữa các môn đệ, vì sau khi tranh luận để nhận diện ai là kẻ bán Thày, các ông xoay ra cãi nhau để biết trong anh em ai là người đáng được coi là lớn nhất. Tất cả chúng ta dễ sinh ra nhỏ nhen hèn hạ. Chúng ta cố gắng dẹp bỏ những chuyện ti tiện, nhất là trong những Thánh Lễ của chúng ta.
13. Rước Lá: Lc 19,28-40
('Niềm Vui Chia Sẻ')
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người.
Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: "Hoan hô Con Vua Đavit" có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tong trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!"
Thưa anh chị em,
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà thôi.
Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta.
Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Bài Thương Khó: Lc 22,14-23,56.
ĐÁM ĐÔNG DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá".
Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét... tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh).
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá...
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài...
Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn...
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.
14. Người tôi tớ khổ đau của Giavê
('Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Trong một ngôi nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một thập giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng. Đó là tượng thập giá tha tội, tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh có cánh tay phải rời khỏi thập giá và hạ thấp xuống. Người ta có kể rằng dưới chân cây thánh giá này, có một người tội lỗi đến với cha xứ. Tuy ông xưng thú mọi tội lỗi với lòng thống hối ăn năn, cha giải tội lưỡng lự không biết có nên tha cho ông không, vì thấy ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm nghị bảo ông: "Tôi ban phép giải tội cho ông nhưng mà trong tương lai thì phải để ý". Ông ta hứa với cha xứ là sẽ cố gắng sửa mình và tránh mọi tội lỗi. Nhưng vì yếu đuối quá, sau một thời gian ông lại tìm đến xưng tội, Lần này thì cha xứ nói với ông giọng quả quyết: "Tôi ban phép giải tội cho ông lần này nữa là lần cuối cùng đó nghe". Vài tháng trôi qua, ông lại tìm đến cha xứ và quỳ xuống chân cha năn nỉ: "Thưa cha, con thống hối đến tận đáy tâm lòng. Lần nào con cãng nhất quyết giữ lời hứa, nhưng con yếu đuối quá, xin cha tha tội cho con một lần nữa". Cha xứ đáp: "Đâu có thể đùa giỡn với Chúa được. Tôi không ban phép giải tội cho ông nữa". Khi đó cha nghe có tiếng nấc nghẹn ngào. Từ trên thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu hạ xuống làm phép tha tội trên đầu người tín hữu thống hối. Rồi Chúa Giêsu nói với vị linh mục: "Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải con". Và cũng từ ngày ấy, bàn tay của Chúa Giêsu chịu đóng đinh ở trong tư thế ban phép xá giải.
"Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc con". Lời ấy chính Chúa Giêsu đã nói với mỗi người trong chúng ta trong Tuần Thánh, với biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem, để sau đó vài ngày chịu đóng đinh và chết trên thập giá, hầu trao ban sự sống mới cho chúng ta.
Chương 50,4-7, sách ngôn sứ Isaia là một trong bốn bài ca miêu tả người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa. Trong tuyền thống Kitô, người tôi tớ Giavê là danh hiệu ám chỉ người hiến hoàn toàn cuộc sống mình để phụng sự Thiên Chúa và Lời Ngài, luôn kiếm tìm thi hành ý của Thiên Chúa cho dù có phải chịu đau khổ và bắt bớ đi nữa. Do đó trong lịch sử chú giải Kinh Thánh, khi thì người tôi tớ đó được đồng hóa với ngôn sứ Isaia, khi thì là Giêrêmia, khi khác nữa lại là Đấng Cứu Thế toàn dân Israel. Tuy nhiên, các chương sách Isaia II, tức các chương từ 40-55, đề cập đến cảnh sống lưu đày bên Babylon của dân Israel, do đó có thể bài ca này ám chỉ cách sống đày ải khổ đau của dân Do Thái. Để miêu tả cảnh khổ đau này, bài ca trên đây dùng kiểu nói diễn tả nỗi khổ nhục thê thảm của kiếp sống lưu đày: Đưa lưng cho người ta đánh đòn, ám chỉ hình phạt dành cho người ngu dại bị coi như đồng hạng với thú vật; giơ má cho người ta vặt râu, ám chỉ đến danh dự và lột mất phẩm giá của một người; chường mặt cho người ta phỉ nhổ, ám chỉ mọi hành động xúc phạm và khinh rẻ phẩm giá của một người cũng như sự sống của một người. Tất cả cảnh sống trên đây diễn tả cảnh sống nhục nhã, bị khinh miệt và khổ đau dân Do Thái phải chịu trong thời lưu đày.
Tuy nhiên trong tình trạng sống buồn thương ấy, dân Do Thái vẫn ý thức được sự can thiệp của Thiên Chúa. Bởi vì thực ra, chỉ có Thiên Chúa là có thể biến đổi được tình trạng sống khổ đau ấy trở thành suối nguồn trao ban ơn cứu độ cho họ. Qua đau khổ, Thiên Chúa giáo dục cho con người biết sống thái độ sẵn sàng đón nhận thánh ý Ngài. Khi chấp nhận sống lưu đày, dân Israel chấp nhận tự thanh tẩy chính mình khỏi mọi bất trung và tội lỗi đã sai phạm. Họ cảm nghiệm được sâu xa hơn Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và dùng mọi biến cố lịch sử để làm ích lợi cho con người.
Trong thời Tân Ước, người tôi tớ khổ đau ấy là hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế chịu khổ nạn và đóng đinh. Thánh Giá xem ra là dấu chỉ của ơn cứu độ và ơn thánh Ngài ban cho con người. Khi tuyệt đối trung thành với thánh gia, chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, đến sẵn sàng chấp nhận khổ đau và cái chết khổ nhục trên thánh giá. Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của khổ đau.
Trong chương 2,6-11 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô dùng tước hiệu người tôi tớ ấy để nói về Chúa Kitô. Khi nhập thể làm người, Chúa Kitô đã đi ngược lại lộ trình mà Ađam đã đi xưa kia. Nếu Ađam là hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã từ chối địa vị thụ tạo của mình và muốn trở thành Thiên Chúa, nên phá hủy chương trình Thiên Chúa có đối với loài người trong thời tạo dựng. Thì giờ đây, từ địa vị Thiên Chúa, Đức Giêsu hạ mình làm người, chấp nhận khổ nhục y như một tên nô lệ, một người tôi tớ để trao ban cho loài người cuộc sống hạnh phúc thần thiêng. Con đường Thiên Chúa đi là đại lộ kinh hoàng, là con đường của khổ đau và thập giá, là con đường của khiêm hạ và thất bại. Nhưng nó là con lộ duy nhất dẫn đến ơn cứu độ.
Thật vậy, thánh giá khổ nhục và khiêm hạ đánh đổ được kiêu căng tội lỗi đã khiến con người xa rời Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình. Nhưng con đường khiêm hạ được Thiên Chúa can thiệp và đảm bảo với biến cố Phục sinh. Thiên Chúa đã đặt để Chúa Kitô, Ađam mới trong chốn vinh quang, trong nơi danh dự mà Ađam loài người xưa kia đã không đạt tới được. Nội dung con đường trao ban ơn cứu độ ấy được ghi lại trong trình thuật của bốn Phúc Âm, nó là phần nòng cốt được biên soạn ra trước tiên và sau này được các thánh sử khai triển theo hướng thần học riêng của mình.
Trong chương 22,14-23,56 thánh Luca trình bày cuộc khổ nạn như một trận chiến quyết liệt cuối cùng của Satan, như là phần kết thúc các cám dỗ nó đã khởi sự trước khi Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời. Kết thúc trình thuật ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc, thánh Luca viết trong chương 4,13: "ma quỷ rời bỏ Ngài để trở lại vào thời điểm đã định". Cuộc khổ nạn là thời điểm Satan trở lại để lại vào giao đấu với Chúa Giêsu lần cuối cùng. Ngoài ra, trong nhãn quan thần học của thánh sử Luca, cuộc khổ nạn cũng ghi lại chặng cuối cùng, đồng thời là đạt đỉnh con đường loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu khởi đầu từ Galilê và kết thúc tại Giêrusalem.
Cuộc khổ nạn cũng là lúc diễn tả rõ rệt nhất các nét đặc thù trong gương mặt của Chúa Giêsu. Theo thánh sử Luca, trước hết là tinh thần cầu nguyện. Chúa Giêsu đã gia tăng lời cầu nguyện trong những ngày và những giây phút cuối đời của Ngài. Lời cầu hấp hối kéo dài trong vườn cây Dầu trước khi Chúa Giêsu bị bắt là chứng tích rõ ràng nhất. Càng phải đương đầu với thử thách bắt bớ và khổ đau, Chúa Giêsu càng tín thác tha thiết kết hợp với Thiên Chúa Cha cho dù Ngài có cảm tưởng Thiên Chúa làm thinh và cũng đã bỏ rơi Ngài.
Tiếp đến là lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu Kitô đối với những người tội lỗi. Chúa Giêsu thương chữa tên đầy tớ thầy thượng phẩm bị chém đứt tai. Nhân từ thương xót với thánh Phêrô đã chối Ngài ba lần, Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô nhân từ, thương xót. Đối với những người đã đóng đinh Ngài: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Nhân từ thương xót với người ăn trộm bị xử cùng lúc với Ngài: "Hôm nay ngươi sẽ ở cùng Ta trên Thiên Đàng".
Sau cùng thánh sử Luca nêu bật thái độ vâng lời triệt để của Chúa Giêsu đối với thánh ý của Thiên Chúa Cha. Theo thánh sử, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không do con người muốn, mà nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Thánh Luca chỉ qui tội cho giới lãnh đạo Do Thái mà thôi, ngay cả quan tổng trấn Philatô cũng được thánh sử châm chước. Nghĩa là theo quan điểm thần học, Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ do Thiên Chúa Cha hoạch định, do đó cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá là điểm tới thành toàn. Chúa Giêsu phải chết không phải do một định mệnh dã man và khắt khe, cũng không phải do quyết định của một người trần gian nào khác, vì Ngài muốn tuân hành thánh ý và chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chương trình cứu độ ấy được thành toàn trên thập giá và qua cái chết hiến dâng đền tội của Chúa Giêsu Kitô, người tôi tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa.
15. Vui lòng vâng phục thánh ý Chúa
('Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Với Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị, vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này".
Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: "Hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp, "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng.
Với ý nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại.
Hôm nay trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại sao.
16. Bài Giảng của ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
(Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá năm 2005 cho Giới Trẻ).
Cha phải nói với chúng con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã dạy cha.
Chiều nay, cha mời gọi chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều quan trọng nhất đối với cuộc sống kitô hữu của chúng ta: hãy chọn Chúa Giêsu giữa nhiều đối tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù Người chịu treo trên thập giá, Người bị bỏ rơi, dù Người bị sỉ nhục, và bị giết chết...
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên gương mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn không ngừng bị bôi nhọ cho đến ngày tận thế, bấy giờ không ai có thể bôi nhọ Người nữa, vì Người trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người.
Chúng ta chọn lựa Chúa Giêsu, dù có những tiếng kêu mời khác: tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện nghi, của lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời gọi của danh vọng và địa vị, của các loại tình cảm và đam mê. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều hoa trái và hoa trái các con tồn tại (Ga 15, 16).
Khi nói như thế, Chúa Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình yêu của Người đi bước trước: Chúa Giêsu yêu chúng ta trước, chứ không phải chúng ta yêu Người trước. Như lời kinh Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh và như lời thánh Phaolô, Người đã sống lại cho chúng ta được nên công chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí Phục Sinh của Người, thông phần sự sống thần linh của Người...
Khi nói với các môn đệ không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu không cố ý nói rằng các con đừng chọn Thầy, đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn mời gọi hãy theo Thầy, hãy từ bỏ mọi sự vác thập giá mà theo Thầy. Và đã có biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự mà theo Người.
Đứng trước những khó khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng là phải chọn lựa, như trường hợp có nhiều người bỏ Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với Người: lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã hỏi nhóm Mười Hai: "các con cũng muốn bỏ đi hay sao?" Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay cho nhóm Mười Hai: "Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6, 67-69).
Các con sẽ nói với Chúa Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy, chúng con mới có những lời ban sự sống đời đời. Các con chọn Chúa Giêsu; Các con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của Người, chọn Tin Mừng của Người không? Lời của Người vẫn còn chướng tai đối với nhiều người hôm nay. Giáo huấn của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo thủ đó! Muốn vâng nghe lời Người, đôi lúc các con phải lội ngược dòng sông!
Theo bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám đông người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa Barraba, và họ đã chọn ông. Còn Chúa Giêsu, thì họ để cho bị lôi đi đánh đòn, và giết chết. Các con có dám nói ngược lại với đám đông không? Các con có dám chọn Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế gian tìm cách loại bỏ Người? Các con có sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà đã bỏ Chúa. Nhưng tất cả những ai đã bỏ Chúa rồi sẽ thất vọng, vì thế gian này qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại. Chỉ có Chúa mới là Tương Lai đích thực của loài người.
17. Giờ chiến thắng vinh quang
(Lm Ignatio Trần Ngà)
Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh, được vinh quang.
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi bị kết án, bị đòn vọt, đinh sắt, lưỡi đồng, gai nhọn và cuối cùng là cái chết thảm thương trên thập giá.
Nhìn lên thập giá, người ta chỉ thấy ô nhục và đau thương, thất bại cay đắng! Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Ngài gọi đây là giờ Ngài được tôn vinh? Nghe có vẻ ngược đời.
Đối với người không suy xét, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại, một thất bại rất chua chát đắng cay; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng oanh liệt vô cùng.
Đây là chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Đối diện với cuộc kết án bất công, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh Ngài, đứng trước những vị lãnh đạo tôn giáo muốn diệt mình cho bằng được, đứng trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết hung dữ bạo tàn... Chúa Giêsu vẫn không mảy may oán hận! Ngài chiến thắng sự hận thù lẽ ra phải có bằng lòng bao dung vô bờ bến. Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy thương xót, vẫn yêu thương họ bằng trái tim nhân hậu... Rồi Ngài sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, nên trước khi nhắm mắt tắt hơi, Ngài tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Ngài. "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm".
Đây là sự chiến thắng tính khiếp nhược, chiến thắng lòng tham sinh uý tử bằng một sự dũng cảm rất cao cường. Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Ngài không bị khuất phục bởi cái chết. Ngài đã đứng dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Ngài đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là chiến thắng trên sự đau đớn thể xác và đau khổ trong tinh thần. Là người ai cũng sợ khổ, sợ đau. Ai cũng tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp một cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng nỗi sợ hãi đau đớn của kiếp người.
Qua cách thức Ngài đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Ngài nao núng; không một đau khổ nào làm cho Ngài khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Ngài nổi giận hay mất bình an; không một khó khăn nào làm cho Ngài lùi bước... Cả cái chết cũng không làm Ngài khiếp sợ mà thoái thác sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài. Ngài thắng được bản năng tham sinh úy tử; Ngài chiến thắng bản năng sợ khổ, sợ khó, sợ đớn đau; Ngài thắng được bản năng muốn được an toàn, muốn được sung sướng hạnh phúc; Ngài thắng được lòng thù hận lẽ ra phải có khi người ta bị sỉ nhục và đối xử tàn ác và rất dã man... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua mọi thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Đó là chiến thắng vĩ đại nhất không còn chiến thắng nào lớn lao hơn.
Lạy Chúa Giêsu Ki-tô, Ngài vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ yếu hèn bạc nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng mà phản bội lại tình yêu cao vời của Chúa.
18. Giờ cứu độ
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc đời Chúa Giêsu dường như luôn chuẩn bị cho Giờ của Thiên Chúa. Giờ cứu độ. Giờ mà chính Chúa sẽ hiến mình làm của lễ dâng mình cho Chúa Cha và để cứu độ trần gian. Chúa đã từng nói "chính vì Giờ này mà Ta đến trong thế gian". Và cuộc đời của Chúa Giêsu dường như lúc nào cũng có bóng thập giá. Thập giá đã thấp thoáng ngay từ ngày Chúa sinh ra. Hêrôđê đã kết án tử cho Chúa. Trong suốt ba năm rao giảng tin mừng, bóng thập giá luôn lấp ló trên mọi hành trình Chúa đi qua.
Nét đẹp nơi Chúa Giêsu khi phải đối diện với Giờ cứu độ chính là thái độ cương quyết dấn thân của Chúa Giêsu. Ngài không chùn bước. Ngài không sờn lòng. Ngài vẫn mạnh dạn tiến về phía trước. Ngài đã từng nhiều lần mời gọi các môn đệ: "nào chúng ta cùng lên Giêrusalem". Ngài biết rằng ở đó có thập giá, có khó khăn, có đau khổ đến với Ngài. Nhưng Ngài vẫn tiến bước, vì đó là sứ vụ của Ngài. Đó cũng là điều đẹp lòng Chúa Cha. Dầu trên hành trình này, Ngài đã tiến bước trong cô đơn. Dầu chẳng ai đủ can đảm theo Ngài, nhưng Chúa Giêsu vẫn phải uống chén đắng để vui lòng Chúa Cha.
Trong tin mừng hôm nay, thánh Luca đã miêu tả Chúa Giêsu thật sự cô đơn trong 12 giờ cuối cùng của cuộc đời. Các môn đệ ngủ vùi trong vườn cây Dầu và bỏ chạy khi đối diện với gian nguy. Các thành viên của thượng hội đồng Do Thái chống đối, âm mưu làm hại, môn đệ Giuđa phản bội, và cố gắng của Phêrô đã cố đi cho tới bên trong dinh thượng tế, nhưng đáng tiếc, ông không bênh vực Thầy mà đã chối bỏ Thầy mình, không chỉ một lần mà là 3 lần, dù rằng ông đã được nhắc trước về những gì sẽ đến với ông. "Ngay trong đêm nay khi gà chưa kịp gáy con đã chối Thầy 3 lần".
Nhưng vượt lên trên sự bỏ rơi của các môn đệ, sự cô lập của các thế lực thù địch đó là thái độ bình thản của Chúa Giêsu trước các biến cố. Ngài hoàn toàn tự do để có thể lẩn tránh hay đón nhận. Ngài có thể khước từ chén đắng, nhưng Ngài đã đón nhận trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha. Tuy nhiên khi giờ đã đến, Ngài vẫn cảm thấy hãi hùng, xao xuyến. Ngài sợ hãi, vì viễn tượng chết vẫn vượt qúa những dự phóng của con người nên Ngài đã phải cầu nguyện. Cầu nguyện trong cô đơn, sợ hãi đến nỗi mồ hôi máu bịn rịn nơi thân thể Ngài. Qua đây ta thấy rõ hơn nhân tính của Ngài. Vì con người là yếu tố bất định trong lịch sử. Do đó Chúa Giêsu cũng không thể biết được ngày mai ra sao. Dòng đời sẽ xô đẩy Ngài đi đến đâu. Thực vậy, nếu Ngài biết thì không còn là con người nữa. Tất cả những gì đang diễn ra, Ngài đều phải cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha. Đây quả là giờ của đau khổ, giờ của hãi hùng, giờ bị mọi người khước từ. Đây quả là chén đắng của cuộc đời. Chén chua chát bị ruồng bỏ, của nhạo báng, của cái chết, đến nỗi Ngài đã nại đến quyền năng vô biên của Cha: "Cha có thể làm mọi sự, xin cho con khỏi uống chén này", nhưng khi hiểu được đâu là thiên ý Ngài lại tiếp tục bình thản "xin đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha".
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bóng tối của lòng người, khi chúng ta nuôi dưỡng hận thù, tìm cách hãm hại anh em. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện bị trù dập và cô lập giữa xã hội mà công bình bác ái đã không còn công minh. Đồng tiền và quyền lực đã làm cán cân công lý bị bẻ gẫy. Người công chính, kẻ lương thiện vẫn là nạn nhân của bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nỗi chà đạp lương tri và nhân phẩm của bản thân và đồng loại. Con người ngày nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng mình để kết án tử hình người khác, nhất là các thai nhi vô tội. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để loại trừ những đứa con trong lòng mình một cách dửng dưng đáng sợ. Con người chỉ vì lòng tham, chỉ vì tính ghen tỵ, chỉ vì thói kiêu căng giả hình vẫn đang tìm cách làm hại cuộc đời của nhau. Bao lâu chúng ta còn nuôi dưỡng những ý đồ bất chính, những thủ đoạn gian tham, những ích kỷ nho nhen là bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và loại trừ. Và như thế, Đức Kitô vẫn lại phải chịu những bản án bất công mà con người dành cho Chúa. Đức Kitô vẫn tiếp tục bị cô đơn và khước từ giữa dòng đời này.
Hôm nay ngày khởi đầu tuần thương khó, mỗi người chúng ta hãy rà xét lại lối sống của mình để ăn năn thống hối về lời nói việc làm của mình, dù là vô tình hay hữu ý đã và đang gây đau khổ cho người khác. Nguyện xin Đức Giêsu, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta ban ơn tha thứ và giúp chúng ta chỉnh sửa lại lối sống của mình cho xứng với lòng ăn năn sám hối. Amen.
19. Chiến thắng của tình yêu
(McCarthy)
Suy Niệm 1. NỖI ĐAU CỦA ĐỨC GIÊSU VÀ CỦA CHÚNG TA
Một buổi tối, một người đi làm bằng xe tháng ở Luân Đôn vội vã trở về nhà. Khi nhìn thấy Vương Cung Thánh Đường Wesminter, tự nhiên anh ta được lôi kéo đi vào trong đó. Anh không thể giải thích được nguyên nhân tại sao, bởi vì anh đã bỏ đạo từ lâu. Vừa bước vào toà nhà, anh hoảng hốt khi nhận thấy cây thánh giá treo từ trên mái vòm. Anh sửng sốt khi nhìn vào người đàn ông ở trên thánh giá, bị tra tấn, bỏ rơi, và đã chết. Anh đã từng nhìn thấy những bức hình khủng khiếp của những người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em bị giết chết ở Bosnia, họ cũng đã bị bỏ rơi. Ở những nơi khác, anh đã được xem bức hình của những người dân bị đói lả, hốc hác, với từng đàn ruồi bò trên mặt họ, với những đôi mắt nhìn trừng trừng, không còn chờ đợi sự giúp đỡ nào nữa, mà chỉ còn chờ đợi cái chết.
Người đàn ông này ngồi xuống và nhìn chằm chằm vào cây thánh giá trong một lúc. Dần dần, ý nghĩa nội tại của cây thánh giá đã tự mặc khải cho anh ta. Qua nhân vật bị tra tấn và đã chết trên cây thánh giá, anh bắt đầu nhận ra được sự chịu đựng nỗi đau đớn về tâm lý và thể lý của một bà mẹ đang than khóc cái chết của những đứa con trai bà ở Bosnia, của một đứa trẻ đang đói lả ở Châu Phi, của những ông bố bà mẹ đau khổ vì đứa con thân yêu của họ bị chết vì tai nạn. Dường như tất cả nỗi đau của nhân loại đều tập họp ở đây, và đã được người đàn ông trên cây thánh giá biến thành của mình.
Thế rồi anh ta nhìn ra xung quanh, và thấy những người đàn ông và phụ nữ đang im lặng cầu nguyện. Dường như họ chứa đựng một điều bí mật quý giá nào đó. Trong Vương Cung Thánh Đường này, họ cảm thấy thoải mái với chính mình như ở trong nhà. Thế rồi anh nhìn thấy một bà cụ già tiến lại gần một cây thánh giá được đặt gần gian cung thánh. Lúc hôn xong những vết thương của Đức Kitô, bà cụ quay trở ra, sau khi đã được khích lệ và an ủi nhờ tình yêu vĩ đại đó.
Trong lúc quan sát, dường như tâm trí và cõi lòng của anh được nâng lên cao, để đưa vào một thực tại khác. Lần đầu tiên trong cuộc đời, anh biết cầu nguyện. Cây thánh giá không nói nhiều về cái chết, cho bằng ca ngợi tình yêu thương, sự sống và niềm hy vọng. Cây thánh giá của sự khủng khiếp đã trở thành cây thánh giá của niềm hy vọng, thân thể bị tra tấn trở thành thân thể của sự sống mới, những vết thương rộng toang hoác trở thành nguồn gốc của ơn tha thứ, chữa lành và hoà giải. Cuối cùng, khi anh rời khỏi ngôi thánh đường, và hoà mình vào dòng xe cộ đang lưu thông buổi tối, anh cảm thấy được bình an với chính mình và với thế giới.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu không phải là một vở kịch, mà có thật, và được Người tự do chọn lựa. Người đã phải chịu đựng nỗi đau bị các bạn hữu của mình bỏ rơi. Người đã phải chịu đựng nỗi đau bị Giuđa –một người trong số họ phản bội. Người đã phải chịu đựng nỗi sợ hãi và cơn hấp hối trong vườn cây dầu, và Người không hề được một ai nâng đỡ trong suốt cơn hấp hối của Người.
Người là đối tượng của một hàng rào gồm những lời tố cáo gian ác. Người đã phải chịu đựng những lời xỉ vả, những trận đòn, khạc nhổ, chế nhạo, những trận đòn roi, mạo gai và những cây đinh xuyên thấu da thịt. Người đã phải chịu đựng nỗi ô nhục vì bị kết án đến chết, giống như một tên tội phạm. Khi sắp chết, Người vẫn còn phải chịu đựng thêm những lời chế nhạo, xỉ vả, và giễu cợt. Ai có thể thăm dò được hết chiều sâu của những điều mà Người đã phải chịu đựng?
Chúng ta có thể tìm được sự bình an, bằng cách liên kết nỗi đau khổ của Đức Giêsu. Không có nỗi cô đơn, đói khát, bị áp bức, khai thác, tra tấn, tù tội, bạo lực hoặc đe doạ nào mà Đức Giêsu đã không phải chịu đựng. Bởi vì Thiên Chúa đã trở thành Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, trong và thông qua Đức Giêsu, nên không một người nào có thể phải hoàn toàn bị cô độc trong nỗi đau khổ của mình.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu đem lại lòng can đảm, sức mạnh và niềm hy vọng cho tất cả những người đau khổ. Điều này có nghĩa là chúng ta không còn cô độc nữa.
Suy Niệm 2. LÀM CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ
Trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá, các môn đệ của Đức Giêsu đã hoàn toàn nhận ra được lòng tin của họ nơi Người và lòng trung thành đối với Người. Điều làm cho việc bày tỏ sự ủng hộ của họ càng trở nên đáng khen hơn, đó là vì hành động này được thực hiện trong sự nghiến răng cay đắng chống đối của người Pharisêu. Khi một số người Pharisêu đến phản đối Đức Giêsu, Người phán rằng: "Họ mà làm thinh, thì chính những viên sỏi đá cũng sẽ kêu lên".
Có những cơ hội đòi hỏi một sự minh chứng công khai. Đây là một trong những trường hợp này. Đây là trường hợp duy nhất, mà Đức Giêsu chấp nhận một điều gì đó tương tự cảnh được dân chúng sùng bái như một vị anh hùng. Người biết rằng các môn đệ của Người có quyền và có nhu cầu được công khai diễn tả lòng tin của họ nơi Người. Nhưng người ta lại nghi ngờ về lời cam kết của các môn đệ. Không phải là người ta nghi ngờ về sự chân thành của họ, nhưng đó là một sự đáp ứng của công chúng, và khi dân chúng hùa theo như vậy, thì thường có tính cách ồn ào hơn là có chiều sâu.
Thật dễ dàng trong việc làm chứng cho Đức Giêsu ở nơi đây, trong nhà thờ. Chúng ta đang ở giữa những người cùng vây cánh với chúng ta. Nhưng không phải là chuyện dễ dàng, để làm chứng cho Người trong một thế giới hững hờ và đôi khi còn thù địch nữa.
Có những lúc chúng ta cần phải tuyên xưng lòng tin của mình nơi Đức Giêsu một cách công khai. Và có những khi hoàn cảnh đòi buộc chúng ta phải làm như vậy.
Những viên đá sẽ không biết nói ra. Chỉ có con người mới có thể làm được điều đó. Chúng ta đừng nên giữ im lặng nữa, khi có một tiếng kêu đòi hỏi chúng ta phải nói ra: lời nói ủng hộ, để bảo vệ một người nào đó, mà sự đóng góp của họ đang bị quên lãng; hoặc lời nói lên sự thật, ở nơi nào mà người ta cố tình nói dối. Nhưng nói ra không phải là điều dễ dàng. Giữ im lặng thì dễ dàng hơn và an toàn hơn nhiều.
Như vậy, chúng ta hãy cẩn thận, trong khi tuyên xưng lòng tin của mình vào Đức Kitô ở nơi đây, trong nhà thờ, sao cho chúng ta không phớt lờ hoặc chối từ Người tại nơi công cộng. Đức Giêsu nói với chúng ta "Bất cứ kẻ nào tuyên xưng về Ta trước mặt những người khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người đó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời".
Chúng ta có thể rút ra được nguồn cảm hứng từ các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Trong Tin Mừng, họ được biết đến như là những người không e ngại trong việc thừa nhận những hoài nghi, nhu cầu và sự thiếu lòng tin của mình. Tuy nhiên, trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá đầu tiên, họ đã mạnh mẽ và gan dạ trong việc làm chứng cho Đức Giêsu.
Xin Chúa rủ lòng thương xót trên chúng ta, là những người môn đệ nhút nhát và đầy sợ hãi của Người, và ban cho chúng ta lòng can đảm, để cuộc sống của chúng ta có thể mang lời chứng về lòng tin mà chúng ta tuyên xưng.
20. Sứ điệp tình yêu
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tuần lễ này, tôi đọc say mê cuốn sách "Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin" của tác giả An Thiện Minh. Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Nihil Obstat. Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, Imprimatur. Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình phát hành.
Cuốn sách viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
1. Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn, có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người. Các môn đệ ở đâu ? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu? Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
2. Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn.
a. Đau khổ về thân xác Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.
b. Đau khổ về tinh thần Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào !. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền ! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
3. Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39). Theo thánh ý Chúa Cha, "Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá"( Pl 2,8).
4. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu: bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ. Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô ( Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1; Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24). Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa "vì mọi người và cho mọi người" chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người. Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
5. Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra "Con Người" đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ và bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ và đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống.(x.sđd, trang 232-269). Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ. Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người. Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu. Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
21. Vua vào thành: Lc 19,28-40
Thành Giêrusalem chỉ cách Giêrikhô khoảng 27km, giờ đây Chúa Giêsu đã gần tới đích của Ngài. Giêrusalem điểm cuối cùng của hành trình đang ở trước mặt Ngài. Các ngôn sứ có thói quen mà họ vẫn thường áp dụng, là khi lời nói không đủ tác động, khi dân chúng không muốn tiếp nhận, không muốn hiểu sứ điệp đã được công bố, thì các vị có hành động đặc biệt để đặt sứ điệp của mình vào một bức tranh mà ai cũng nhìn thấy. Chúng ta gặp những hành động ngôn sứ đặc biệt như thế ở 1Vua 11,29-31; Giêrêmia 13,1-11; Êdêkien 4,1-3; 5,1-4. Giờ đây Chúa Giêsu đang dự định vào thành Giêrusalem một cách đặc biệt, đến nỗi chính hành động đó sẽ là lời tuyên bố không thể lầm lẫn rằng Ngài chính là Đấng Mêsia, là vị vua được Thiên Chúa xức dầu. Chúng ta ghi nhận một số điểm cụ thể về việc vào thành Giêrusalem.
1. Công việc được chuẩn bị kỹ càng. Đó không phải là hành động tức thời, đột xuất. Chúa Giêsu không để mọi sự cho đến phút cuối. Ngài đã thương lượng trước với chủ của con lừa: "Chúa cần dùng nó", đó là một mật khẩu đã chọn từ trước.
2. Đó là một hành động thách thức đầy vinh hiển, đầy can đảm. Vào thời điểm này, người ta đã treo giá cái đầu của Chúa Giêsu rồi (Ga 11,57). Theo lẽ thường tình, nếu Ngài có lên Giêrusalem, Ngài cũng nên đi kín đáo và ẩn mình trong chỗ bí mật nào đó ở ngoại thành. Nhưng không thế Ngài vào thành một cách long trọng, công khai, khiến toàn dân phải chú ý và Ngài trở nên trung tâm của sân khấu. Chúng ta phải nín thở khi nghĩ đến một con người mà đầu đã bị treo giá, bị đặt ngoài vòng pháp luật, lại hiên ngang cỡi lừa vào trong thành khiến mọi người phải chú ý vào mình, quả thật không thể mô tả hết được mức độ can đảm của Chúa Giêsu.
3. Đó là cách quả quyết xưng vương, là việc làm ứng nghiệm hoàn toàn bức hoạ tiên tri trong Dacaria. Trong việc này Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến vương quyền đặc biệt của Ngài. Ở Palestine, con lừa không phải là con vật hèn hạ như ở các nước khác, nhưng là một con vật sang trọng. Các vua cỡi ngựa khi đi đánh giặc, còn trong lúc thái bình thì các người cỡi lừa. Như vậy, bằng hành động này, Chúa Giêsu đã ngự giá như một vị vua đến với dân mình trong hoà bình và yêu thương. Ngài không đến như một anh hùng chiến thắng như dân chúng từng trông mong chờ đợi.
4. Đó là một lời kêu gọi sau cùng. Chúa Giêsu đến trong hành động này, khác nào với hai tay giơ ra, nài xin dân Ngài rằng "Ngay cả trong lúc này các ngươi cũng không muốn nhận Ta làm vua các ngươi sao?". Trước khi sự ghen ghét của loài người vùi dập Ngài, một lần nữa, Ngài vẫn cứ kêu mời nhân loại tiếp nhận tình yêu của Ngài.
22. Baraba và Đức Giêsu.
('Niềm Vui Chia Sẻ')
Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là "Baraba". Baraba là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên một con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích thực của con người. Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ của chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ nào.
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến,
Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá "Hoan hô con Vua Đavít" có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!"
Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng theo Chúa như một người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác hơn.
23. Bóng tối và niềm tin
(Peter Feldmeier - Lm GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
"Ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con." (Mc 15,34).
Bước vào tuần thánh, chúng ta dấn bước theo Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, Chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào và tung hô, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên núi sọ. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng bỗng chốc họ đã trở mặt. Tất cả đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm đốn mạt nhất.
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình tiến vào Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là nơi có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là kinh thành biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là nơi chốn của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó nơi họ là cả một sự phẫn nộ đượm tính căm thù. Giuđa bán đứng vị tôn sư đáng mến. Trò phản thầy. Các đầu mục tôn giáo thì quá gian ác đã dàn dựng một phiên tòa rùng rợn. Các môn sinh thân thiết nhất đã vội quên thầy của mình. Họ đã ngủ vùi trong mệt mỏi chán chường và cuối cùng đã tháo chạy. Phêrô thẳng thừng chối bỏ người Thầy đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu, cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới, và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo từ ngữ Aram, có nghĩa là " con của Cha". Họ đã chọn một người "con" với một quá khứ đan kín tội ác, và đòi kết án người "Con" duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai mọi tội lỗi khủng khiếp của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của thập giá là một chứng tá và là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà giáo hội đọc lên trong phụng vụ lễ lá hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời đó. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau " Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau... anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở " Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ". Bài Thánh Thi đã mô tả Thập Gía như là cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm của Chúa Giêsu. Và kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là "Thiên Chúa đã tôn vinh Người... mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa".
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập Gía. Đức Giêsu đã tự nguyện hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ, cho đến chết và chết trên Thập Gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (Sáng thế 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân ( 3,5t). Hệ quả là sự sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu- Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại một chân trời mới của ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa, liên kết với nhau. Chúa Giêsu như là Ađam mới, và cũng là một người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá chính mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, đó là tình trạng sống kiếp nô lệ và tiến nhận cái chết, để cứu chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi chúng ta gẫm suy việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước tất cả những gì sẽ xảy ra. Nếu quả thật Đức Giêsu đã biết, và Ngài không thể có một chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Ngài trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu tuôn đổ đến mức thảm thiết như thế? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) " Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con"? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài phải gào thét lên một cách não nuột "Cha ơi, sao cha bỏ rơi con"? Thánh Phaolô đã viết: Vì Đức Kitô đã hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của mầu nhiệm thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Nhưng, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi loài người chúng ta, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối giữa những tăm tối nhất khi bị treo thân trên Thập giá. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế không, khi chúng ta bị mất mát, chìm lặng trong bóng tối của kinh khiếp? Khi gặp những thất bại cay đắng, bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào những chán chường và tuyệt vọng... chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và trên thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta gặp phải. Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Ngài đi vào lộ trình lên Giêrusalem, và thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
24. Suy niệm của Noel Quesson.
CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU
Cái chết của Chúa đã làm đổi thay thế giới, làm xúc động bao tâm hồn và cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Bao kiệt tác đã lấy cái chết của Chúa làm chủ đề. Một họa sĩ đã vẽ cảnh tháo đinh, đưa xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập giá. Đặc điểm của bức họa là người trong cảnh đều có khuôn mặt quen thuộc của những người cùng thời với họa sĩ. Và người đang tháo đinh ở Chúa ra chính là họa sĩ. Người ta hỏi họa sĩ về chuyện này, ông cắt nghĩa: Tôi đã từng đóng đinh Chúa vào Thập giá, đinh sắt là tội của tôi. Cần phải tháo gỡ những chiếc đinh tội lỗi ra khỏi thân xác của Chúa.
Để tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi, Chúa đón nhận tất cả một cách ý thức và chủ động.
Chẳng những bằng lời nói, Chúa còn chuẩn bị đi vào khổ nạn bằng hành động. Chúa lập phép Thánh Thể, dùng một lối khác diễn tả tình yêu vĩnh cửu Người dành cho nhân thế. Chúa dùng chính thịt máu làm của nuôi chúng ta, đó cũng như nói tình yêu và cái chết của Chúa đem lại sự sống muôn đời cho tâm hồn người ta.
Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn hoàn toàn đơn độc. Cái chết cũng đơn độc, và khi Chúa Giêsu mang thân phận con người, Chúa không muốn thoát khỏi số phận đó. Trong vườn Cây Dầu, Chúa không biết chia sẻ đau buồn với ai. Bao nhiêu âu lo chồng chất mà không ai hiểu, hay an ủi một lời. Chúa để ba môn đệ thân tín gần chỗ Người cầu nguyện, nhưng ba lần Chúa trở lại đều thấy họ ngủ say. Trên thập giá nhìn xuống, Chúa thấy mình hoàn toàn trơ trọi, bên Người chỉ còn Gioan, Mẹ Maria và vài phụ nữ. Chính Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng như xa vắng, vì thế Chúa thốt lên lời cầu nguyện như một tiếng than van: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con!".
Chúa Giêsu bị kết tội trước tòa đạo cũng như trước tòa đời. Hội đồng công nghị, cơ quan tối cao của Do Thái giáo kết án Chúa vì đã tự xưng là Con Thiên Chúa. Trong khi Philatô, Tổng trấn đại diện Đế quốc La mã xử Chúa vì đã nhân danh mình là Vua. Còn Chúa Giêsu, thay vì chối bỏ những lời cáo buộc, Người chỉ bình thản quả quyết mình là Con Thiên Chúa và là Vua. Nhưng cả hai danh hiệu này không phải có ý nghĩa như những người tố giác đã hiểu. Chúa là Con Thiên Chúa toàn năng. Người đã từng làm nhiều phép lạ, nhưng không làm gì để tự bảo vệ và thoát khỏi tay địch thù. Chúa không phải vị Vua như mọi người mong chờ. Chúa là Con Thiên Chúa, là Tình yêu tột đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng chết vì người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi tâm hồn bằng tình yêu mà xét xử nhân loại cũng theo luật Tình yêu. Chỉ khi ta nhìn Chúa chết trên thập giá, ta mới hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua như thế nào.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra tội lỗi và thật lòng sám hối, chiến thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi đinh chúng con đã đóng vào chân tay Chúa.
25. Một vài ý suy niệm
Về cuộc THƯƠNG KHÓ CHÚA GIÊSU
Ý CHA ĐƯỢC NÊN TRỌN (Lc 22,39-46)
Khu vực nội thành Giêrusalem rất nhỏ nên không có những khu vườn rộng rãi. Nhiều người giàu sang có những khu vườn riêng ở ngoại thành, trên sườn núi Ôliu. Có người bạn nào đó đã cho Chúa Giêsu sử dụng một khu vườn như vậy và nay Chúa Giêsu đi tới đó để một mình chiến đấu trận quyết liệt. Chúa Giêsu chỉ mới 33 tuổi và không ai muốn chết ở tuổi này. Ngài hiểu rõ tử hình đóng đinh trên thập tự là thế nào. Ngài đã từng chứng kiến việc đó. Ngài ở trong cơn hấp hối. Danh từ Hy Lạp dùng ở đây chỉ về một người nào phải chiến đấu với tâm hồn đầy kính sợ. Đây chính là điểm mấu chốt và là chỗ ngoặt trong đời sống Chúa Giêsu. Ngài vẫn còn có thể tháo lui. Ngài có thể từ chối thập giá. Sự cứu rỗi nhân loại đang treo trên cán cân khi Con Thiên Chúa kịch liệt chiến đấu trong vườn Giệtsimani và Ngài đã chiến thắng.
Một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng đã nói về nhạc phẩm "Đêm Xưa" của Chopin rằng: "Tôi phải nói cho anh về điều đó. Chopin đã bảo Liszt và Liszt đã bảo tôi. Trong bản nhạc này tất cả là u sầu và khổ não, ôi biết bao u sầu khổ não, cho tới khi người ta bắt đầu nói với Chúa, bắt đầu cầu nguyện, bấy giờ mọi sự đều tốt đẹp". Chúa Giêsu cũng thế, Ngài vào vườn Giệtsimani trong tối tăm. Ngài ra khỏi vườn trong ánh sáng bởi Ngài đã nói chuyện với Chúa Cha. Ngài vào vườn Giệtsimani trong cơn hấp hối, Ngài trở ra trong chiến thắng, với sự bình an trong tâm hồn, bởi Ngài đã nói chuyện với Chúa Cha. Thật hoàn toàn có sự khác biệt được thể hiện qua âm điệu của một người khi nói: "Ý Cha được nên trọn".
1. Người đó có thể nói bằng một giọng hoàn toàn khuất phục như một kẻ đã nằm bất lực dưới một sức mạnh phi thường. Mấy lời đó nghe như tiếng chuông báo tử cho hy vọng.
2. Người đó có thể nói bằng giọng của một kẻ bại trận, đầu hàng. Mấy lời đó nghe như tiếng của kẻ thú nhận thất bại.
3. Người đó có thể nói bằng giọng của kẻ bị thất vọng hoàn toàn khi thấy giấc mộng của mình không thể thành sự thật. Đó là những lời tiếc xót và cũng chất chứa uất hận, tệ hơn nữa là biết mình không thể làm gì trong tình trạng đó.
4. Người đó có thể nói bằng giọng hoàn toàn tin cậy. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm. Ngài đang nói với một Đấng là Cha. Ngài đang nói với Chúa Cha là Đấng hằng bao bọc nâng đỡ Ngài dù Ngài đang trên thập tự. Ngài chịu khuất phục, nhưng là khuất phục một tình yêu không rời bỏ Ngài. Việc khó nhất của đời sống là chấp nhận điều mà chúng ta không thể hiểu, nhưng chúng ta cũng có thể làm điều đó nếu chúng ta tin chắc vào tình yêu Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nói như vậy, và khi chúng ta có thể nói như vậy, chúng ta có thể nhìn lên và hoàn toàn tin cậy mà thưa rằng "Lạy Chúa, xin cho ý Ngài được nên trọn".
CÁI HÔN CỦA KẺ PHẢN BỘI (Lc 22,47-53)
Giuđa đã tìm ra cách nộp Chúa để các nhà cầm quyền bắt Ngài khi dân chúng vắng mặt. Hắn biết rằng ban đêm Chúa thường đến khu vườn trên đồi và hắn dẫn các tay sai của Toà Công Luận tới đó. Viên đội trưởng của Đền Thờ cũng gọi là sagan, là một sĩ quan có trách nhiệm giữ an ninh trật tự cho Đền Thờ, còn các thầy đội coi Đền Thờ được đề cập đây là những sĩ quan có trách nhiệm thi hành lệnh bắt Chúa Giêsu. Khi một môn đệ gặp rabbi quý mến thì chàng đặt tay phải mình lên vai trái của thầy và hôn thầy. Cái hôn giữa môn đệ với thầy yêu quý này là cái hôn mà Giuđa đã dùng làm dấu hiệu để phản thầy mình. Có bốn thành phần khác nhau liên hệ trong việc truy bắt này. Hành động và phản ứng của họ rất có ý nghĩa.
1. Giuđa, kẻ phản bội. Hắn là con người đã bỏ Thiên Chúa và đi liên hiệp với Satan. Chỉ khi nào người ta bỏ Chúa ra ngoài đời sống và rước Satan vào lòng mình thì người đó mới có thể bán Chúa Giêsu.
2. Những người Do Thái đến bắt Chúa Giêsu. Họ là những người mù loà đối với Thiên Chúa. Khi Chúa nhập thể, đến thế gian thì họ chỉ có một ý nghĩ là làm thế nào để mau treo Ngài lên cây thập tự. Từ lâu họ đã chọn con đường riêng của họ, bịt tai trước tiếng gọi của Chúa, nhắm mắt trước sự dẫn dắt của Ngài, đến nỗi sau cùng khi Ngài ngự đến thì họ không thể nhận biết. Thật đáng sợ khi người ta trở nên mù và điếc đối với Chúa.
3. Các môn đệ. Họ là những người bỏ Chúa. Thế giới của họ đã sụp đổ, họ tin chắc thôi thế là hết. Điều sau cùng mà họ còn nhớ được lúc đó là Thiên Chúa, trí óc họ chỉ còn suy nghĩ đến một điều là tình trạng khủng khiếp đang vây bủa họ. Hai điều xảy ra cho người quên Chúa và bỏ Chúa ra ngoài cuộc sống của mình. Một là người ấy rất sợ hãi và hoàn toàn rối loạn tâm thần; hai là người ấy mất năng lực đối diện với đời sống và thích nghi với cuộc sống. Trong giờ thử thách, đời sống sẽ bị tiêu huỷ nếu thiếu Chúa.
Chỉ khi nào con người biết cúi đầu xuống trước mặt Chúa, bấy giờ người ấy mới có thể nói năng và hành động như người chiến thắng được.
ĐƯỜNG LÊN ĐỒI GÔNGÔTHA (Lc 23,26-31)
Khi một tên tù đã bị kết án đóng đinh trên thập tự, thì hắn bị lôi ra khỏi toà án và giao cho bốn người lính Rôma. Cây thập hình của hắn được đặt lên vai hắn, hắn phải vác nó đến pháp trường bằng con đường dài nhất trong lúc một tên lính đi trước hắn mang tấm bảng ghi rõ tội trạng để điều đó trở thành một sự khủng khiếp cho người nào còn có ý muốn phạm thứ tội tương tự như hắn. Họ đã làm điều đó cho Chúa Giêsu, Ngài bắt đầu vác thập tự của mình (Ga 19,17), nhưng sức nặng của nó vượt quá sức lực của Ngài nên Ngài không thể vác đi được nữa. Palestine là một xứ bị chiếm đóng, nên mọi người dân đều có thể tức khắc bị xung vào công tác phục dịch chính phủ Rôma. Dấu hiệu của sự ép buộc đó là khi thấy có lưỡi giáo Rôma đặt nhẹ lên vai người nào thì người đó phải phục dịch. Khi Chúa Giêsu đã ngã quỵ dưới sức nặng của cây thập tự thì viên đội trưởng Rôma nhìn quanh tìm kiếm một người để vác thập giá đó. Bấy giờ có một người tên là Simon quê ở Kyrênê xa xôi, đang từ vùng quê đi vào thành. Chắc chắn ông là người Do Thái đã suốt đời chắt chiu dành dụm để có thể dự một Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Lưỡi giáo Rôma đã chạm vai ông, tức khắc, dù muốn hay không, ông cũng đành vác cây thập tự của người tử tù. Chúng ta thử tưởng tượng lúc bấy giờ Simon đã nghĩ gì? Ông đã đến Giêrusalem để thực hiện hoài bão của đời mình, thế mà ông phải vác cây thập tự lên đồi Gôngôtha. Lòng ông hẳn chứa đầy cay đắng đối với quân Rôma và đối với tên tử tù ngày là kẻ khiến ông bỗng dưng phải liên luỵ vào tội của hắn. Nhưng nếu chúng ta đọc thêm một số chi tiết, thì sẽ biệt câu chuyện không chấm dứt ở đây. J.A.Robertson coi đó là một trong những chuyện cảm động nhất của Tân Ước, Máccô tả rõ Simon là cha của Alecxandơ và của Ruphô (Mc 15,21). Bạn không thể nhận diện một người bằng tên các con của người đó trừ khi các con đó rất được quen thuộc trong cộng đồng của người mà bạn viết thư cho. Mọi người đều công nhận rằng Máccô đã viết Phúc Âm của ông cho Hội Thánh tại Rôma. Giữa ác lời chào ở cuối thư, ông viết rằng "Xin hãy chào thăm Ruphô, người được chọn của Chúa, và chào thăm mẹ người cũng là mẹ tôi" (Rm 16,13). Như vậy trong Hội Thánh Rôma có Ruphô, một Kitô hữu quý báu đến nỗi Phaolô gọi người đó là một trong những kẻ được chọn của Chúa, với một bà mẹ rất yêu dấu đối với Phaolô, đến nỗi ông gọi bà là mẹ của ông trong đức tin. Rất có thể Ruphô này là Ruphô con của Simon ở Kyrênê, mẹ chàng là vợ ông Simon ấy. Rất có thể khi Simon nhìn thấy Chúa Giêsu, bao nhiêu cay đắng của ông đã biến thành ngạc nhiên và sau cùng ông đã tin, đã trở thành Kitô hữu và gia đình ông đã cung cấp cho Hội Thánh những tâm hồn quý giá nhất. Có thể Simon nghĩ rằng ông đến đó để thực hiện một ước vọng của đời sống, ông đang chuẩn bị mọi sự để mừng Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem, nhưng ông đã phải vác thập giá cho một phạm nhân, thật hoàn toàn trái ngược với ý muốn của mình, nhưng khi ông nhìn xem Ngài, thì nỗi buồn bực của ông đã trở thành nỗi ngạc nhiên và niềm tin, và trong sự việc mà thoạt đầu ông coi như một điều sỉ nhục đó đã cho ông gặp được chính Cứu Chúa của đời ông.
Theo sau Chúa Giêsu là một đám phụ nữ khóc thương Ngài. Ngài quay lại bảo họ đừng khóc vì Ngài, nhưng hãy khóc cho chính mình. Những ngày khủng khiếp sắp xảy đến. Trong gia đình người Do Thái không có thảm kịch nào cho người vợ bằng cuộc hôn nhân không con, vì không con là lý do đủ mạnh để ly dị. Nhưng sẽ đến một ngày mà người đàn bà son sẻ lại vui mừng vì không con. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nhìn thấy trước sự tàn phá thành này là thành đã nhiều phen và hiện giờ vẫn còn đang từ chối lời mời gọi của Chúa. Câu 31 là câu châm ngôn, có thể dùng trong nhiều trường hợp. Ở đây nó có nghĩa là nếu họ làm điều này cho một người vô tội thì một ngày kia, họ sẽ còn làm gì nữa cho những kẻ có tội?
TẠI ĐÓ CHÚNG ĐÓNG ĐINH NGÀI (23,32-38)
Khi đã tới chỗ đóng đinh, tội nhân đặt thập giá nằm xuống đất. Thường thì thập giá giống hình chữ T, không có phần nhô lên trên để có thể dựa đầu. Nó khá thấp, đến nỗi chân của tội nhân chỉ cách xa mặt đất độ 6-8 tấc. Có một nhóm phụ nữ nhân đức ở Giêrusalem thường tới chỗ tội nhân và tặng một chén rượu pha thuốc mê có tác dụng làm tê liệt những cảm giác đau đớn ghê gớm đó. Họ đến tặng Chúa Giêsu chén rượu và Ngài từ chối (Mt 27,34). Ngài quyết định nếm tới tận cùng vị cay đắng nhất của sự chết, với một tâm trí minh mẫn và giác quan tinh tường. Hai tay phạm nhân bị căng ra trên đà ngang của thập giá, đinh đóng xiên qua hai bàn tay. Thường hai bàn chân thì không đóng đinh, nhưng được buộc sơ vào thập giá. Ở lưng chừng có một miếng gỗ nhô ra để đỡ sức nặng thân thế phạm nhân, kẻo các đinh xé rách toạc hai bàn tay. Rồi thập giá được dựng thẳng đứng, cắm vào lỗ sâu. Sự khủng khiếp của tử hình đóng đinh nằm ở chỗ cơn đau đớn rất dữ dội, nhưng lại không giết chết ngay, phạm nhân bị để cho chết đói, chết khát dần dưới sức nóng của mặt trời ban trưa và giá lạnh của đêm trường. Có nhiều phạm nhân bị đóng đinh sống ngắc ngoải đến cả một tuần lễ trên thập giá, sau cùng chết trong cơn điên cuồng.
Quần áo của tử tù thuộc về bốn tên lính áp giải phạm nhân ra pháp trường. Mỗi người Do Thái có năm loại trang phục: áo trong, áo ngoài, dây thắt lưng, khăn đội đầu và giầy dép. Bốn thứ chia cho bốn tên, còn lại chiếc áo choàng bên ngoài, áo đó dệt thành một tấm không có đường nối (Ga 19,23-24). Nếu cắt nó ra để chia thì làm hỏng cả áo, vì thế bọn lính ngồi ngay dưới chân thập giá gieo súc sắc, bắt thăm chiếc áo đó. Tên tử tù có hấp hối bao lâu cũng chẳng có nghĩa lý gì với bọn này.
Tấm bảng gắn trên đầu thập giá chính là bảng chữ mà người lính mang đi trước tội nhân qua các đường phố đến nơi hành hình.
Chúa Giêsu đã nói nhiều lời tuyệt diệu, nhưng có lẽ câu tuyệt diệu nhất mà Ngài nói là "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không hiểu việc họ làm. Sự tha thứ trong Kitô giáo thật sự là một sự lạ lùng. Khi Stephanô bị ném đá chết, ông cũng cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ" (Cv 7,60). Không có điều gì đáng yêu, cũng không có gì hiếm cho bằng sự tha thứ của người Kitô hữu. Khi nào tinh thần thiếu tha thứ đe doạ biến lòng chúng ta thành cay đắng, hãy nhớ lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, xin tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài và lời Phaolô dặn dò các bạn hữu "Hãy ở lại với nhau cách nhân từ, đầy lòng thương xót, tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho anh em trong Chúa Kitô vậy" (Ep 4,32).
LỜI HỨA THIÊN ĐÀNG (Lc 23,39-43)
Chủ ý của nhà cầm quyền là họ đóng đinh Chúa ở giữa hai tên cướp khét tiếng. Họ làm như vậy để sỉ nhục Ngài trước mặt cả dân chúng, liệt Ngài vào hạng trộm cướp. Người ta đã nói nhiều về tên trộm biết hoán cải. Hắn được gọi bằng những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Có một chuyện kể hắn là một thứ Robin Hood của Do Thái, ăn trộm của người giàu để phân phát cho người nghèo. Có chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giêsu còn nhỏ được gia đình đem sang Ai Cập, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con một thủ lãnh đảng cướp thấy con trẻ Giêsu dễ thương qua, nên người đó không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói "Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên giây phút này nhé". Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giêsu khi còn nhỏ, nay gặp lại Ngài trên thập giá trên đồi Gôngôtha. Lần này thì Chúa Giêsu đã cứu anh ta.
Parađi là từ trong tiếng Ba Tư có nghĩa là "Một khu vườn rào kín". Khi vị vua Ba Tư muốn đặc biệt tôn trọng một bầy tôi nào của ông thì người ấy được cùng dạo mát với vua trong vườn thượng uyển. Chúa Giêsu đã hứa cho tên trộm cướp ăn năn đó một sự gì quý hơn là sự bất tử. Ngài hứa cho hắn vinh dự được làm bạn của Ngài trong vườn thượng uyển trên trời.
Trên hết mọi điều khác, chắc chắn câu chuyện này cho chúng ta biết rằng không bao giờ là quá trễ để trở lại với Chúa. Về các việc khác, chúng ta có thể nói "Thì giờ để làm việc đó đã qua rồi". "Bây giờ tôi đã quá lớn tuổi, không làm được việc đó". Nhưng không bao giờ chúng ta có thể nói như thế về sự trở lại với Chúa. Bao lâu trái tim còn đập, bấy lâu lời kêu gọi của Chúa Giêsu vẫn còn hiệu lực đối với chúng ta. Sự thật vẫn chính xác là hơi thở còn thì vẫn còn hy vọng.
NGÀY DÀI CHẤM DỨT (Lc 23,44-49)
Trong đoạn Kinh Thánh này, mỗi câu đều có nhiều ý nghĩa.
1. Có sự tối tăm khủng khiếp khi Chúa Giêsu tắt thở. Dường như mặt trời cũng không thể nhìn xem việc gớm ghiếc mà tay loài người vừa làm ra. Thế giới bao giờ cũng tối tăm khi con người tìm cách loại bỏ và khai trừ Chúa Kitô.
2. Màn trong Đền Thờ xé ra làm đôi. Đây là tấm màn ngăn Nơi Cực Thánh, là nơi có sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa nơi không ai được phép vào trừ vị thượng tế, và ông chỉ được vào mỗi năm một lần trong ngày Đại Lễ Chuộc Tội. Chúng ta hạnh phúc mà nói rằng con đường vào nơi Thiên Chúa hiện diện một cách bí nhiệm, bấy lâu nay ngăn cách với loài người, thì nay đã được mở toang cho mọi người. Trái tim của Chúa bấy lâu giữ kín nay được phơi bày ra cho loài người. Sự Giáng Sinh, đời sống và sự chết của Chúa Giêsu đã xé đôi bức màn bấy lâu nay che giấu Chúa khỏi loài người. Chúa Giêsu đã phán: "Ai thấy Ta là thấy Cha" (Ga 14,9). Nơi thập giá, loài người đã được nhìn thấy cao điểm của tình yêu Thiên Chúa như họ chưa hề thấy trước đó bao giờ.
3. Chúa Giêsu đã kêu lên một tiếng lớn. Cả ba sách Phúc Âm đều nói về tiếng kêu lớn này (Mt 27,50; Mc 15,37). Gioan thì không nói đến tiếng kêu lớn ấy, nhưng ông cho biết Chúa Giêsu khi chết đã nói: "Mọi việc đã hoàn tất". (Ga 19,30). Trong tiếng Hy Lạp và tiếng Aram thì "mọi việc đã hoàn tất" chỉ gồm trong một từ mà thôi. Cho nên mọi việc đã được trọn vẹn và tiếng kêu lớn cũng là một mà thôi, và Chúa Giêsu thật đã chết với tiếng kêu chiến thắng trên môi. Ngài đã không nói thì thầm "Thế là hết" như một người bị hành hạ đến nỗi phải quỳ gối xuống và bị buộc phải chấp nhận sự thua bại. Ngài kêu lớn như một người chiến thắng, đã thắng đối thủ trong trận cuối cùng và đã đưa một công tác vĩ đại tới chỗ kết thúc tối hậu đầy vẻ vang. "Đã xong" đó là tiếng kêu của Chúa Cứu Thế, Đấng chịu đóng đinh, nhưng là Đấng toàn thắng.
4. Chúa Giêsu chết với lời cầu nguyện trên môi. "Lạy Cha, con xin trao phó linh hồn con trong tay Cha". Câu này có trong Thánh Vịnh 31,5 với tiếng "Cha" được thêm vào. Câu này là lời cầu nguyện trước nhất mà mỗi bà mẹ Do Thái dậy cho con mình đọc trước giờ đi ngủ, trước khi bóng tối ghê rợn đổ xuống: "Con trao phó linh hồn con trong tay Chúa". Chúa Giêsu đã nói câu đó tha thiết hơn nhiều vì Ngài đã bắt đầu với tiếng Cha, dù trên thập giá Chúa Giêsu đã chết như đứa con nằm ngủ trong cánh tay Cha mình.
5. Viên đội trưởng và đám dân chúng đã xúc động sâu xa khi chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết của Ngài đã thực hiện điều mà khi sống Ngài đã không thể làm, tức là làm tan vỡ những tấm lòng sắt đá của loài người. Lời phán của Ngài trước đó giờ đây được ứng nghiệm "Khi Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta". Ngay lúc Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì sức thu hút của thập giá đã bắt đầu thực hiện.
26. Những bất ngờ – Ga 12, 12-16.
Bài thương khó chúng ta vừa nghe, đã ghi lại một chuỗi những diễn biến thật bất ngờ. Thực vậy, mới chỉ một tuần trước, các vị lãnh đạo tôn giáo còn tỏ ra dè dặt với Chúa Giêsu, thì hôm nay họ ra mặt tố cáo Ngài, đích thân bắt bớ Ngài, công khai xách động quần chúng ghét bỏ Ngài, cương quyết tiêu diệt Ngài.
Mới ngày nào đông đảo dân chúng đã tràn ra đường để đón rước Ngài, chúc tụng Ngài là Con vua Đavid, thì hôm nay họ kéo nhau vào sân tổng trấn Philatô, hò hét và yêu cầu giết chính Đấng mà họ mới hoan hô. Bây giờ họ coi Ngài xấu xa nguy hiểm còn hơn một tên cướp.
Mới chỉ vài giờ trước, mười hai tông đồ đã được rước lễ bởi chính tay Chúa Giêsu, đã được phong chức giám mục bởi chính Trái Tim Ngài, đã được dạy dỗ bởi chính miệng Ngài, bây giờ tất cả đều thay đổi kẻ thì bán Thầy, kẻ thì bỏ Thầy, kẻ thì chối Thầy. Thế nhưng trong cái bối cảnh sụp đổ kinh hoàng ấy, chúng ta thấy xuất hiện những người tốt mới thật bất ngờ.
Đúng vậy, đâu có ngờ trên quãng đường nặng nhọc, kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa Giêsu lại là một người đi qua đường.
Đâu có ngờ trong giây phút đen tối nhất, kẻ tuyên xưng Chúa được Chúa phong thánh và đưa vào thiên đàng lại là một tên trộm bị đóng đanh bên phải Ngài.
Đâu có ngờ trong cảnh sụp đổ của niềm tin, kẻ đã chúc tụng Chúa và tin vào sự công chính của Ngài lại là một sĩ quan ngoại đạo đã vâng lệnh đóng đinh Ngài.
Đâu có ngờ trong lúc bối rối đầy sợ sệt, kẻ đã ra mặt chôn cất Ngài và dâng cho Ngài ngôi mộ của mình lại là một nghị viện.
Trước đây tất cả những người ấy kể như xa Chúa, nhưng trong hoàn cảnh bi đát nhất của Chúa, họ đã xuất hiện như những người tốt, và đó là một sự xuất hiệt đầy bất ngờ. Tuy nhiên cái bất ngờ nhất đối với chúng ta đó là những lựa chọn của Chúa Giêsu.
Thực vậy, Ngài có thể tránh khỏi cuộc tử nạn, nhưng Ngài đã tự nạp mình. Ngài có thể lợi dụng dịp may đông đảo quần chúng qui tụ với sự hiện diện của các cấp chính quyền và tôn giáo, để làm một vài phép lạ gây uy tín cho đạo và lấy lại thanh thế cho chính mình, nhưng Ngài đã yên lặng.
Ngài có thể đổi lòng đám đông đang chống đối Ngài một cách điên cuồng, thành làn sóng người nhiệt thành ủng hộ Ngài, nhưng Ngài cam lòng chịu đựng cô đơn.
Ngài có thể khiến muôn vàn thiên thần từ trời xuống, để bênh vực Ngài, nhưng Ngài đã để mình bị hành hạ, xỉ vả và kết án. Ngài như kẻ quá yếu, và yếu một cách ngu dại. Ngài như kẻ bị thua và thua một cách đầy nhục nhã. Thế nhưng Ngài thực sự mạnh mẽ khi vượt thắng mọi thử thách đớn đau, để luôn trung thành với tình yêu.
Dù như bị Chúa Cha bỏ rơi, Ngài vẫn mến yêu cậy tin phó thác và Ngài đã kêu lên: Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con ở trong tay Cha. Dù bị bao người hành hạ, xỉ vả, Ngài vẫn yêu thương họ và Ngài đã cầu nguyện: Lạy Cha xin tha cho họ vì họ lầm không biết. Tình yêu của Ngài đã thắng vì tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, mạnh hơn tất cả mọi tội lỗi nhân loại và chính Tình yêu ấy đã cứu chuộc loài người.
27. Lễ lá.
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời thánh Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa như lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
28. Cuộc Thương Khó.
Winston Churchill, cố thủ tướng Anh Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô ủng hộ của dân chúng không phải là bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa kia, có một lần sau khi nói chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện diện hoan hô thủ tướng, một người bạn đã hỏi: "Thưa thủ tướng, ngài không cảm thấy xúc động vì 10 ngàn người đã đến nghe ngài nói chuyện sao?" Churchill trả lời: "Không hẳn thực sự là như thế. Một trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên".
Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt đầu Tuần Thương Khó bằng việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272 đã viết: "Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự Toàn năng của Ngài một cách hết sức mầu nhiệm trong sự tự nguyện chịu nhục... nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự ác". Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá là "quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người".
Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau trong cùng một căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính sợ Thiên Chúa. Còn người em bất lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ tội như cướp của, giết người. Người anh khuyên răn mãi mà người em vẫn chẳng thay đổi tính nết. Một đêm nọ người em chạy về nhà với quần áo dính đầy máu. Nó tự thú với người anh: "Tôi đã giết người". Vài phút sau căn nhà bị cảnh sát bao vây và hai anh em đã biết rằng không còn cách nào trốn thoát được. "Tôi không có ý giết nó", người em sợ hãi nói, "Tôi cũng không muốn chết". Vào lúc ấy cảnh sát đang gõ cửa. Người anh bèn nảy ra ý tưởng: anh thay đổi quần áo của mình cho người em, và mặc lấy bộ quần áo còn đang dính đầy vết máu của người em. Cảnh sát xông vào nhà bắt người anh, bỏ tù, và chờ ngày bị kết án tử hình. Sau cùng, người anh đã hy sinh chết thế cho em mình.
Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy sinh của người anh vì thương em, chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu được diễn tả trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của tình yêu, tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta.
Thánh Phaolô đã viết: "Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người... Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá".
29. Hoan hô - Đả đảo.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: "Hoan hô con vua Đavid", "Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến". Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: "Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu".
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô "vạn tuế" để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.
30. Ơn cứu chuộc.
Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết vào ngày Thứ Sáu, chúng ta quen gọi là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hay ngày Thứ Sáu chịu nạn. Xưa kia người ta cho ngày thứ sáu chịu nạn là một ngày đáng ghét hơn bất cứ ngày nào khác trong năm, bởi lẽ ngày hôm đó có một người vô tội đã bị kết án tử hình và đã bị giết chết một cách rất tàn nhẫn, bất công. Vì sự kiện đó người ta đã định nghĩa ngày Thứ Sáu chịu nạn là "Thêm một người vô tội được ghi tên vào trang sổ dài trong lịch sử nhân loại, cuốn sổ của biết bao nhiêu người bị tố cáo một cách oan uổng, bị đánh đập, bị hành hạ tàn nhẫn, và có khi bị giết chết". Theo ý nghĩa này thì quả thật ngày Thứ Sáu chịu nạn là một ngày xấu xa, một ngày đen đũi.
Nhưng đối với chúng ta, ngày Thứ Sáu chịu nạn không phải là một ngày đáng ghét, chúng ta phải nghĩ ngược lại, ngày đó là một ngày đáng ghi nhớ, một ngày có ý nghĩa thật tốt đẹp và hoàn toàn cao cả, một ngày tốt đẹp hơn hết mọi ngày, bởi vì ngày đó là ngày Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc chúng ta, là ngày mở ra một trang sử mới của loài người.
Quả thực, không phải Chúa Giêsu đã chịu thua trước bạo lực, trước rủi ro hay số phận, cái chết của Ngài không phải là một sự thất bại, thua cuộc, nhưng là một sự nghiệp anh hùng và cao quý, vì chỉ có cái chết của Ngài mới có đủ khả năng đền bù tội nguyên tổ và mọi tội lỗi của con người một cách cân xứng, bởi vì tội phạm đến trời thì chỉ trời mới tha được. Hơn nữa, muốn cứu chuộc chúng ta, thật ra Chúa Giêsu đâu có cần phải xuống thế, phải nghèo khổ, phải nhục nhã, phải bị giết chết một cách tức tưởi như vậy, nhưng tất cả những sự ấy Ngài đã lãnh nhận chỉ vì Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến cùng, yêu thương không bờ bến.
Như vậy, không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã đổ máu ra chết cho tất cả chúng ta, nhưng cũng không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã chết một cách vô ích cho chúng ta nếu chúng ta không muốn tham dự vào công lênh cứu chuộc của Ngài bằng nỗ lực riêng của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã làm bật lên mạch nước, nhưng chúng ta cần cúi xuống mà uống, nguồn mạch Chúa Giêsu sẽ vô ích nếu chúng ta không muốn uống. Nói rõ hơn, ơn cứu chuộc đòi hỏi chúng ta một nghĩa vụ, đó là chúng ta phải cộng tác với ơn Chúa, như thánh Âu tinh đã nói: "Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta".
Thực vậy, khi bị treo trên thập giá, trước khi thở hơi cuối cùng, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: "Mọi sự đã hoàn tất". Như vậy, công việc cứu chuộc của Chúa đã xong, nhưng công việc của chúng ta thì chưa xong, chúng ta còn phải luôn luôn kiện toàn đời sống của mình, từ đó chúng ta mới hiểu câu nói của thánh Phaolô: "Tôi bổ khuyết nơi tôi những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô". Vì thế, chúng ta hãy nhớ hai điều: Thứ nhất, người thế gian thường xét đoán theo hiệu quả, còn Chúa thì đoán xét theo cách thức người ta chu toàn và kiện toàn bổn phận Chúa trao. Nói cách văn hoa, ở đời này, tất cả chúng ta đều là những diễn viên trên sân khấu trần gian, khi màn bi hài kịch cuộc đời hạ xuống, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã giữ vai trò gì mà chỉ hỏi chúng ta đã diễn xuất thế nào về vai trò được trao cho. Thứ hai, khi chấm dứt cuộc sống ở trần gian, có hai câu hỏi được đặt ra: người đời sẽ hỏi: "Người ấy để lại những gì?", Còn thiên thần thì hỏi: "Người ấy đem đi được những gì?". Điều đó có nghĩa là trong cuộc hành trình trên trần gian, chúng ta có thể đem theo mình nhiều thứ, nhưng khi đến trước tòa Thiên Chúa, chỉ còn những việc thiện đi theo chúng ta mà thôi.
Tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc nhở chúng ta: hãy ý thức hơn về ơn cứu chuộc, hãy thấm nhập ơn cứu chuộc vào chính tâm hồn mình, và hãy sống ơn cứu chuộc trong đời sống hằng ngày. Ước mong chúng ta hãy dành nhiều thời giờ trong Tuần Thánh này để suy nghĩ về ơn cứu chuộc của Chúa và sự cộng tác của mỗi người chúng ta để hoàn thành cuộc đời mình. Cụ thể, trong những ngày cuối cùng của Mùa Chay này, ngoài việc cầu nguyện, suy ngắm sự thương khó Chúa, ăn chay để tỏ lòng thống hối, chúng ta còn phải xưng thú tội lỗi để tháo những chiếc đinh nhọn ra khỏi tay chân Chúa.
Đinh nhọn đây có thể là những thù hận và vu cáo bất công như những người đầu mục Do Thái đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là sự khiếp nhược chối bỏ Thầy hay phản bội nộp Thầy như các môn đệ Chúa đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là những sự độc ác vô lương tâm như tên trộm bên trái Chúa đã chê trách Chúa trên cây thập giá. Đinh nhọn cũng còn là những sự dửng dưng, thậm chí hùa theo kẻ mạnh để làm khổ người thân yếu cô thế như đám đông dân chúng đã la to: "Đóng đinh nó vào thập giá..."
Ngày nay chung quanh chúng ta không thiếu những người đau khổ là hiện thân của Chúa Giêsu trên thập giá. Họ chính là những người mắc bệnh nan y mà không tiền chữa trị, hoặc là những người đang chịu đựng những lời khích bác và vu khống bất công của những kẻ thù giấu mặt mà không ai động viên an ủi. Họ cũng chính là những người đang gặp đau khổ như què quặt, đui mù, đi xin ăn mà không biết ngày mai sẽ ra sao...
Chúng ta có thể làm gì? Hãy cảm thông với họ như các phụ nữ gặp gỡ Chúa trên đường thập giá, hãy giúp đỡ họ như ông Si-mon vác đỡ thập giá Chúa, như bà Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt, hãy bênh vực công lý như người trộm lành bên hữu Chúa, hãy giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy như hai môn đệ xưa đã tháo đinh và cất xác Chúa xuống khỏi thập giá...
Tóm lại, chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ, vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu xa nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra những khổ đau của anh em chung quanh. Càng suy niệm về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
31. Trung thành với lời tung hô.
Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Với thái độ tung hô vạn tuế của dân chúng trong ngày hôm nay, chúng ta đã xác tín Đức Kitô là vị vua phải đến để kiến tạo hòa bình, để trả lại cho con người sự tự do hầu có thể phát triển toàn diện nhân phẩm của mình. Ngài là niềm hy vọng của những kẻ nghèo khó, bất hạnh và khổ đau, Ngài là niềm an ủi của những kẻ bị bóc lột, bị bạc đãi, bị xúc phạm và bị ném ra bên ngoài xã hội.
Đồng thời chúng ta tuyên xưng Ngài là vị lãnh đạo, xử dụng tình thương làm khí cụ để xây dựng một xã hội loài người trên công bình.
Nếu tham dự vào cuộc rước kiệu trong Chúa nhật lễ lá với lời hoan hô chúc tụng Chúa Giêsu là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến, thì chúng ta có bổn phận phải tiếp tục bước theo Ngài.
Bởi vì con đường Ngài đã đi cũng phải là con đường chúng ta bước theo, mặc dầu chúng ta biết con đường này là con đường sỏi đá, con đường gai góc, con đường thập giá. Chính con đường này sẽ dẫn chúng ta tới đỉnh đồi Canvê, để rồi qua những khổ đau và nhất là qua cái chết trên thập giá, chúng ta cũng sẽ được tiến đến cuộc chiến thắng Phục sinh.
Vì thế, có người đã viết về sự liên quan giữa Chúa nhật lễ lá và ngày thứ sáu tuần thánh như sau:
- Giữa Chúa nhật lễ lá và ngày thứ sáu tuần thánh có một sự phản ảnh cho cuộc đời người Kitô hữu.
Thực vậy, hôm nay chúng ta tung hô chúc tụng Chúa, nhưng ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét đóng đinh Chúa vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương Ngài, nhưng ngày mai có thể chúng ta sẽ ghét bỏ Ngài. Hôm nay chúng ta hân hoan, nhưng ngày mai chúng ta lại buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, nhưng ngày mai chúng ta lại gian ác. Hôm nay chúng ta tin tưởng, nhưng ngày mai chúng ta lại thất vọng.
Phải, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu tuần thánh, là cả một đời người tín hữu được phản chiếu.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng này, một diễn giả đã dùng hình ảnh cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi, tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá, như hoan hô chúc tụng Chúa, yêu thương, hân hoan, hiền hòa và tin tưởng. Thế nhưng mỗi lần nêu lên một điểm tiêu cực của ngày thứ sáu tuần thánh cũng như của chính cuộc sống như: Oán ghét, hoài nghi, gian ác, buồn phiền và khước từ Chúa, thì diễn giả ấy liền tước bỏ phần lá xanh, và chỉ để lại chiếc cọng của nó mà thôi.
Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã trở thành một bó roi cỏ để dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Ước chi tuần thánh là thời gian chúng ta được hướng dẫn để tiếp tục bước theo những dấu chân cuối cùng của Chúa Giêsu nơi dương thế, để chúng ta luôn trung thành gắn bó với đấng chúng ta tuyên xưng hôm nay: Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến.
32. Cuộc khổ nạn.
Trong suốt ba năm, Đức Giêsu đã đi từ ngôi làng này đến ngôi làng khác, làm việc lành, giảng dạy, và chữa bệnh cho dân chúng. Khi đi đến bất cứ nơi đâu, Đức Giêsu cũng đều được đám đông vây quanh lắng nghe và tìm kiếm nhiều điều nơi Người. Đây là ba năm mà Người đã hoạt động một cách trọn vẹn và tích cực ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, Đức Giêsu vẫn ở thế chủ động. Người đã đi đây đi đó ít nhiều theo ý của Người.
Nhưng khi Người giao nộp mình vào tay kẻ thù trong Giệtsimani (Người bị một trong những môn đệ của Người giao nộp), thì tất cả thế chủ động của Người chấm dứt. Điều này tượng trưng cho một điểm xoay chuyển trong sứ vụ của Người. Kể từ đây, Người bắt đầu phải chịu đựng đau khổ. Và đó là lúc bắt đầu cuộc khổ nạn của Người. Từ thời điểm đó, Người không còn làm chủ những điều đang diễn tiến nữa. Bấy giờ, các sự việc được thực hiện nhắm vào Người, hơn là do người.
Từ đó, Người bị ngăn chặn, giam giữ và giải đến cho Hêrôđê, Cai pha, Philatô thẩm vấn, đánh đập, đội mão gai, bắt vác thánh giá, lột quần áo, đóng đinh, bị chế nhạo... và cuối cùng, Người đã chịu chết. Đức Giêsu đã hoàn tất sứ vụ của Người, không chỉ bằng những hành động của Người, mà đặc biệt hơn, còn bằng những điều người ta làm cho Người nữa – bằng cuộc khổ nạn của Người. Chúng ta phải hiểu rõ một điều: Chúa Cha không ném Người vào tay những kẻ độc ác. Đức Giêsu đã chịu chết một cách tự nguyện. Người đã hiến mạng sống của Người.
Nhiều lúc, cuộc sống của chúng ta được xác định bằng những điều xảy đến với chúng ta, hơn là những việc chúng ta thực hiện: theo một ý nghĩa rất thật, thì đâu chính là cuộc khổ nạn của chúng ta. Nếu chúng ta có thể thực sự chấp nhận được cuộc khổ nạn này, cũng như những hành động của chúng ta, thì điều đó sẽ dẫn đến sự cứu độ cho chúng ta.
Điều quan trọng là nhận ra phạm vi mà chúng ta hoạt động. Khi còn bé, chúng ta chỉ biết trông cậy vào "lòng thương xót" của những người lớn. Trong hành trình cuộc đời, chúng ta còn có số phận, sự phản bội, những rủi ro, đủ mọi loại bệnh tật, mất mát tình bạn, thất bại trong các tương quan, thất vọng đối với người bạn đời hoặc con cái, cái chết của những người thân yêu, công việc làm ăn vất vả v.v...
Tất nhiên, chúng ta cũng có những lúc vui vẻ và những giai đoạn được sống an bình. Nhưng sự thật là vẫn có nhiều điều vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Đó là những yếu tố làm nên kiếp người. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có sự chọn lựa trong cách thức đáp trả lại những gì mà cuộc sống gửi đến chúng ta. Cách đáp trả này có thể làm nên con người chúng ta, hoặc bẻ gãy chúng ta.
Đức Giêsu vẫn tồn tại với tư cách là chính bản thân Người, đầy sức mạnh, trong sạch, và tốt đẹp. Chúng ta sẽ trở thành con người nào, nếu cảnh mất mát, khủng hoảng, hoặc những sự tước đoạt thì giờ đã lấy đi của chúng ta vẻ bên ngoài thành công, tầm quan trọng cá nhân, thậm chí ngay cả nhân cách nữa?
Câu chuyện Cuộc Khổ Nạn chứng tỏ cách thế Đức Giêsu đáp trả lại những điều xảy đến với Người. Người đã chấp nhận tất cả cảnh bạo lực, biến đổi chúng, và chuyển chúng thành tình yêu và ơn tha thứ. Đây là sự chiến thắng của tình yêu vượt lên trên tất cả những sức mạnh tàn phá. Không có gì ngoài tình yêu nơi Đức Giêsu. Ngay cả khi người ta đóng đinh vào tay chân Người. Người vẫn yêu thương. Điều này giúp chúng ta suy nghĩ đến những lúc chúng ta trải qua cảnh khó khăn.
33. Vụ án.
Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai ngàn năm rồi. Thế mà hồ sơ vụ án kể như chưa kết thúc. Một số người trong chúng ta vẫn chưa hiểu thấu hết nội dung cũng như bối cảnh lịch sử của "vụ án" này. Bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ mọi chi tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài thương khó này là chúng ta lật lại hồ sơ của vụ án Chúa Giêsu. Đề nghị mỗi người ngày hôm nay cũng như những ngày trong Tuần Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ hơn và xác tín hơn nữa ý nghĩa và giá trị cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.
Trước hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm. Ngài lần lượt bị đưa ra xét xử trước tòa án Do thái, tòa án Philatô, tòa án Hêrôđê, rồi trở lại tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo Chúa đến các tòa án này để xem người ta xét xử Chúa ra sao.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa án để xét xử, Chúa Giêsu đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín thời đó, nhưng lại có ác cảm với Chúa Giêsu. Theo một số sử gia, chính Anna là người có trách nhiệm lớn nhất trong vụ án này. Ông muốn điều tra Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác được gì, vì Chúa Giêsu chỉ một mực giữ thái độ im lặng. Bực tức, ông truyền áp giải Chúa sang Caipha, là con rể ông, đang làm thượng tế năm ấy. Caipha nổi tiếng là một nhà chính trị có tài. Tức khắc ông cho triệu tập 72 thành viên của Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều người đứng lên tố cáo Chúa. Những lời tố cáo của họ đều xoay quanh những vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho rằng Chúa đã lộng ngôn phạm thượng khi công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem; đã vi phạm nhiều lần luật ngày Sabát; đã không giữ những tục lệ truyền thống tổ tiên để lại... Trước những lời tố cáo đó, Chúa Giêsu chỉ im lặng, không hề biện hộ một lời nào. Cuối cùng, Caipha đưa ra một câu hỏi có tính quyết định. Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải là "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa" không? Tôn trọng tư cách thượng tế của quan tòa, Chúa trả lời: "Đúng như lời ngài nói", tức là Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức Caipha xé áo bên ngoài từ cổ tới bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do thái, để phản ứng lại lời nhận tội mà ông cho là lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa". Theo luật Do thái: "Hễ ai nói phạm thượng thì người đó đáng chết". Số phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã được quyết định: Ngài bị kết án tử hình.
Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự đồng ý của chính quyền Rôma. Nên sáng sớm ngày hôm sau, họ áp giải Chúa tới tổng trấn Philatô, là một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, người Do thái đã phơi bày hết ác tâm của họ. Để Philatô chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã đổi những lời tố cáo từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị, nghĩa là họ dứt khoát muốn Philatô giết Chúa như một kẻ tội phạm chính trị chống lại đế quốc Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng: khi hỏi Chúa Giêsu thì họ giải thích danh hiệu Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên Chúa; còn khi tố cáo trước tòa Philatô, thì họ lại giải thích bằng danh hiệu vua, để lôi kéo Philatô vào trò chơi gian ác của họ. Nhưng Philatô trả lời họ rằng: ông không thấy người này có gì đáng kết tội. Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại một luận điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.
Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, Philatô muốn gỡ mình ra khỏi trò chơi nguy hiểm này. Ông thảy trái banh cho Hêrôđê, tức là ông yêu cầu đưa Chúa Giêsu qua cho Hêrôđê xét xử để tránh mọi phiền phức. Hêrôđê từ lâu đã mong gặp Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà thôi. Thấy Chúa Giêsu ông mừng lắm. Nhưng rồi ông thất vọng vì Chúa Giêsu không đáp ứng điều gì ông trông đợi. Để trả thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà chế diễu Chúa, rồi ông truyền trao trả Chúa Giêsu lại cho Philatô. Philatô lại phải nát óc tìm cách thoát thân: làm sao một đàng vừa để trấn an, làm hài lòng những người tố cáo quá khích; đàng khác lại vừa không kết án bất công người vô tội. Nên ông tuyên bố rằng: ông chẳng thấy có điều gì để kết án người này. Vậy ông cho đánh đòn Chúa một trận rồi tha về. Đánh đòn rồi dân Do thái vẫn khăng khăng gào thét dữ dội hơn, đòi kết án tử hình Chúa. Thế là Philatô sợ hãi, hèn nhát rửa tay thanh minh mình vô tội trong việc đổ máu Chúa và ông buông xuôi trao Chúa cho họ hành động theo ý họ. Họ bắt Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh vào thập giá. Và Chúa đã chết trên thập giá.
Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và Hêrôđê là những nhà cầm quyền chính trị, không tìm thấy điều gì để kết án Chúa. Chỉ có giới lãnh đạo Do thái muốn giết Chúa mà không cần tội trạng nào cả. Vì thế, trách nhiệm chính trong vụ giết người này là giới lãnh đạo Do thái, đúng như Chúa đã báo trước.
Nói theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm nay, rõ ràng vụ án Chúa Giêsu không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo: Chúa Giêsu chết không phải vì xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là Con Thiên Chúa. Và đó chính là ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa, nên cái chết của Ngài có ý nghĩa vô cùng, cái chết của Ngài có giá trị cứu chuộc mọi người. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã nói: "Máu của Chúa đổ ra để muôn người được cứu độ". Lẽ ra loài người phải chết vì đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa đã dủ lòng thương, sai Con Ngài đến để chết thay cho chúng ta.
34. Vào thành.
Trong một trung tâm cải tạo tại Hoa kỳ, người ta có thể đọc bài thơ vô danh như sau:
Tôi đã kêu xin Thiên Chúa cho tôi sức mạnh để đạt thành công, Ngài đã khiến tôi trở thành yếu đuối để tôi học vâng lời trong khiêm tốn. Tôi đã xin cho được sức vóc để làm những việc trọng đại, Ngài đã cho tôi tật nguyền để tôi làm những điều tốt lành hơn. Tôi đã xin Chúa cho tôi của cải giàu sang để được sung sướng, Ngài đã cho tôi cái nghèo khó để tôi biết sống khôn ngoan. Tôi đã xin được chức quyền để mọi người kiêng nể kính trọng và Ngài đã cho tôi sự yếu đuối để tôi cảm thấy tôi cần đến Thiên Chúa.
Tôi đã xin có bạn đường để khỏi phải sống lẻ loi, Ngài đã cho tôi một con tim để yêu thương hết mọi người. Tôi đã kêu xin những điều khiến cho cuộc đời tôi vui sướng, Ngài đã cho tôi cuộc sống. Để tìm vui trong mọi sự, tôi đã không nhận được gì trong số những điều tôi kêu xin cùng Thiên Chúa, nhưng tôi đã nhận được những gì tôi hy vọng. Các lời nguyện không thành, lời của tôi đã được khứng nhận và tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian.
Lời cầu nguyện của người vô danh trên đây cho chúng ta thấy một cái nhìn khác về cuộc đời và các giá trị đích thực vượt xa nhãn quang chúng ta hiểu. Sứ điệp Mẹ Giáo hội muốn nhắn gởi chúng ta qua Phụng vụ Chúa nhật lễ lá đó là biết nhận ra các chiến thắng của Chúa Giêsu và của tình yêu trong những thất bại ê chề bề ngoài của một người tử tội. Ngôn sứ Isaia và bài ca thứ ba trong bốn bài ca trình bày gương mặt của người tôi tớ khổ đau, nó diễn tả kinh nghiệm bị bắt bớ mà ngôn sứ phải gánh chịu là người loan báo Lời Chúa cho những kẻ thất vọng. Ngôn sứ nêu gương sống tin yêu và hy vọng khi nhẫn nhục chịu đựng cảnh đối xử.
Qua đó, bài ca nêu bật các đặc thái sau đây của người tôi tớ Giavê:
Thứ nhất người tôi tớ được đưa vào trong khung trời mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận thực hiện ơn cứu độ Thiên Chúa muốn ban cho dân Ngài.
Thứ hai để thực hiện chương trình ấy theo ý muốn và nhãn quan của Thiên Chúa, người tôi tớ sống đón nhận thánh ý của Ngài mà không phản đối cũng không chần chừ tìm cách thoái thác và viện dẫn lý do.
Thứ ba tuy là người vô cùng khôn ngoan, người có Lời Chúa trong mình, người tôi tớ chứng nhận mọi xỉ nhục, mọi khinh bỉ. Bị xỉ nhổ, bị đánh đòn như người điên dại và không còn phẩm giá gì nữa và nhất là không chấp nhận dàn xếp lèo lái để tránh né cái khó khăn và khổ đau xuất phát từ sứ mệnh đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha.
Thái độ sống đó của người tôi tớ khổ đau diễn tả cách hành xử siêu việt khác hẳn cách hành xử kiêu căng hiếu chiến của loài người. Cách hành xử đấy đưa nhân loại vào vòng bạo lực không có lối thoát.
Rồi trong bài đọc II Chúa nhật Lễ lá trong thơ gởi giáo đoàn Philipphê thánh Phaolô đã mời gọi tín hữu hãy noi gương cách hành xử của Chúa Giêsu Kitô và sống theo tinh thần của Ngài, tinh thần của người tôi tớ đau khổ. Thánh Phaolô đã lấy lại bài ca diễn tả lại lòng tin của cộng đoàn tiên khởi vào Chúa Kitô. Bài ca nêu bật bản tính Thiên Chúa và cuộc sống đời đời của Chúa Kitô trong liên hệ với Thiên Chúa Cha và nhấn mạnh đến ý nghĩa cuộc đời dương thế và bản tính nhân loại của Ngài. Đó là một bài khảo luận Kitô học súc tích. Từ ngữ nòng cốt trình bày mấu điểm thần học căn bản trên đây là sự từ bỏ trọn vẹn, đổ hết ra làm cho trống rỗng đi.
Tuy phận mình là Thiên Chúa, khi nhập thể làm người để hiện thực chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã lột bỏ mọi vinh quang siêu việt thần thiêng của Ngài. Chúa đã đổ hết bản tính Thiên Chúa của Ngài, đã trở thành trống rỗng hoàn toàn để chia sẻ thân phận yếu hèn thấp kém và tội lỗi vong thân của con người.
Chúa Giêsu đã ra khỏi chính mình để hoàn toàn sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha là Đấng đã dùng chính cái chết và thập giá của con Ngài để trao ban ơn cứu rỗi cho nhân loại. Chính thái độ khiêm hạ vô cùng và tự hủy bỏ mình đó đã khiến Thiên Chúa Cha tôn vinh Chúa Kitô và trao ban trở lại cho Ngài mọi phẩm giá cao trọng và một quyền bính trên trời dưới đất. Phẩm giá cao trọng và quyền năng ấy trong cách hành xử của Thiên Chúa không phải là kết quả sức mạnh của con người, mà là hoa trái của khổ đau và nhục nhã khiêm cung.
Chúa Giêsu Kitô được đặt làm Chúa và là Đấng Cứu thế. Người đã từ bỏ điều kiện Thiên Chúa của mình để sống như người phàm, như người tôi tớ đau khổ. Từ nay trở đi loài người chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua chính cuộc đời của Chúa Giêsu và thập giá. Thập giá giúp chúng ta tẩy rửa lòng tin của mình khỏi mọi thần tượng do chính chúng ta đã tạo ra trong cuộc đời mình. Thiên Chúa của thập giá là một người Thiên Chúa tự lột bỏ, tự đổ dốc hết phẩm giá cao vời của mình đi để chia sẻ thân phận tội lỗi khốn cùng của con người.
Thiên Chúa của thập giá không phải là một vị Thiên Chúa luôn kéo chúng ta ra khỏi lòng cuộc sống trần gian và thế giới này, nhưng Ngài là Đấng bước vào trong lịch sử con người để yêu thương, hoán cải và trao ban cho lịch sử loài người một ý nghĩa. Khi trở thành người anh em của chúng ta, Ngài cống hiến cho chúng ta sự hiệp thông thần linh của Ngài và kêu mời chúng ta trở thành anh chị em với nhau.
Trong tuần lễ đặc biệt sắp tới này, chúng ta hãy xin Chúa giúp cho chúng ta được theo Chúa cho đến cùng trên con đường thập giá Chúa đã đi qua.
35. Cuộc Thương Khó
Chúa Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ cho nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu. Khi nghĩ về cuộc thương khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu.
Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là tội lỗi. Vì đau khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ cho nhau bằng mọi hình thức. Đồng thời phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác ái. Rất nhiều đau khổ ở thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công gây ra. Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một số nguyên tắc luân lý:
1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh phúc của người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích tốt, và những mục đích đó phải có một giá trị cao hơn sự thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội lỗi theo đường lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh của chính quyền, xung khắc với sự tự do của con người. Và sự đau khổ đã đến như một hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn sứ mạng dù phải chấp nhận sự đau khổ và cái chết trên thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của người hèn nhát.
2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho người khác, nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhân loại: "Không ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng tôi tự ý hiến mạng sống mình".
Thiên Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên Chúa. "Con người thường là những hợp tác viên vô ý thức của thánh ý Chúa, nhưng con người cũng có thể chủ ý hợp tác vào kế hoạch của Ngài bằng hành động, lời cầu nguyện, và bằng cả những đau khổ của mình".
3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi nó hủy diệt chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản tính Thiên Chúa của Ngài khi chết trên thập giá. Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài rơi vào hận thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho đau khổ trở thành giá trị. Con đường khổ giá từ Giêrusalem lên núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu chính là con đường của tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: "Khi gắn bó với tình thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong trái tim nhân tính của mình, Chúa Giêsu "đã yêu thương họ đến cùng", "bởi vì không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì những người mình yêu thương". Bởi vậy, trong đau khổ và trong khi chết, nhân tính của Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và tuyệt hảo của tình thương thần linh của Ngài muốn cứu vớt mọi người".
Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta nhìn vào thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó:
Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của ta và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: "Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa".
36. Suy niệm của R. Gutzwiller (Lc 23, 26-49)
ĐƯỜNG LÊN CAN VÊ (23, 26-32)
Khi hoạ lại cho chúng ta con đường khổ giá Thánh Luca không trực tiếp đả động gì đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, như việc Ngài ngã xuống đất, những lăng nhục Ngài phải chịu... Cái nhìn của ông hướng về những người chung quanh Chúa.
1. Simon quê Xyrênê
Ông Simon quê Xyrênê là một người chúng ta không rõ tông tích, ông bất ngờ qua đường lúc Đức Giêsu đang vác thập giá. Không phải ông tự ý vác đỡ thập giá Chúa, nhưng bị người ta ép buộc. Ấy thế nhưng truyền thống lại dạy rằng: chính cái cử chỉ bị áp đặt ấy đã đem lại cho ông ơn cứu độ. Sự kiện ấy vẫn hằng tái diễn trong cuộc sống của nhân loại. Một sự đau khổ nào đâu đột nhiên ập tới hoàn toàn bất ngờ, và phải vác thập giá mà chưa có chuẩn bị chi hết: một căn bệnh đột nhiên ập đến hoặc là thất bại về tiền bạc, những vất vả trong gia đình, những khó khăn trong nghề nghiệp, những khủng hoảng trong cuộc sống hôn nhân, những thảm hoạ chính trị, những đối xử bất công... Ban đầu người ta ở thế phòng thủ, thế nhưng rồi chống cự cũng chẳng ích chi, và dù muốn dù không người ta vẫn phải đưa vai ra đỡ lấy thập giá. Nếu người ta tiếp xúc với Đức Kitô như thể đồng thời những liên hệ thuần tuý bên ngoài sẽ dần đổi thành sự thâm hiểu bên trong. Như thế, một giáo hữu bình thường sẽ trở thành một Kitô hữu nhiệt thành, những xác tín về mặt lý thuyết sẽ biến thành sự thông dự cụ thể, nguyên tắc sẽ thành thực hành và khuôn mặt cuộc đời sẽ thay đổi khiến người ta đi đến chỗ coi giờ phút đáng nguyền rủa là giây phút đáng mừng rỡ và là lúc phải dâng lời cảm tạ Thiên Chúa thay vì dấy lên ngỗ nghịch với Người. Những người theo gót Simon sẽ còn tiếp tục qua bao thế hệ
2. Những người phụ nữ
Thái độ của các phụ nữ than khóc Chúa Giêsu coi như đáng quí hơn, vì các bà công khai đến bên Chúa và bày tỏ tâm tình chia sẻ sự đau khổ của Người. Thế nhưng Chúa Kitô đã không khen ngợi lại còn khiển trách các bà. Ước chi họ đừng than khóc Người, mà hãy than khóc chính bản thân mình. Không phải Người đáng cho họ khóc thương, nhưng chính họ mới là kẻ đáng thương khóc. Thứ thương hại chỉ dựa trên tình cảm mà thôi chẳng nghĩa lý gì cả.
Nước mắt cá sấu chẳng giá trị gì. Không nên khóc thương người phải chịu đau khổ khi mà đau khổ đó đưa đến hạnh phúc. Kẻ hoang phí đời mình, không lưu tâm chi đến cùng đích tối hậu, chỉ lo những việc trần thế, đó mới là kẻ đáng cho chúng ta thương hại. Có khi việc kết hợp với Đức Kitô có thể coi như thuần tuý là của cảm giác. Việc đó không có giá trị đối với Đức Giêsu: thứ thương hại do tình cảm là cái gì mau qua chóng hết. Người không thèm thứ đó. Đó là những bộ tịch chẳng báo bổ gì. Kẻ nào chỉ lấy cảm giác mà suy gẫm sự thương khó Chúa thời sẽ chẳng hiểu được ý nghĩa bao nhiêu. Qua các thế hệ sẽ mãi mãi còn vô số phụ nữ theo Chúa trên đường lên núi Canvê. Đối với những người đó có lẽ người ta không còn nghe thấy lời ngăm đe của Chúa Kitô: 'Nếu cây tươi còn bị xử như vậy thì gỗ khô sẽ ra sao?'.
3. Chúa Kitô
Đi sâu vào trong cuộc Khổ nạn, Đức Kitô chẳng còn nghĩ đến mình nữa. Lúc này đây Người thực sự bị trao nộp cho những mưu kế thủ đoạn của họ như bất cứ con người bị khổ đau cùng cực nào, hầu như Người hoàn toàn bị chìm ngập trong chính bản thân mình. Từ nay tư tưởng Người vươn cao hơn nữa, vượt khỏi những người thân cận và phút giây hiện tại. Cái nhìn của Người hướng về những mục đích sau cùng. Ở đây cũng như bữa tiệc ly và trước pháp đình của người Do thái Người chiêm ngưỡng thấy –bên kia cái kết cuộc của riêng mình- cái kết cuộc của Giêrusalem và của thế giới. Người nhìn thấy cái hoạ tai cuối cùng: thời mà người ta nói với núi non: hãy đổ xuống đè chúng tôi và nói với gò nổng rằng: hãy che lấp chúng tôi đi. Giả như Israel tiếp nhận Người là Đấng Cứu Thế thì có lẽ lịch sử thế giới đã diễn biến theo chiều hướng khác hẳn. Nhưng Israel đã nhất định khai trừ Người, đó là lý do khiến cho Israel bị diệt vong và Giêrusalem bị phá huỷ, điềm tiên báo những biến cố vĩ đại khi xảy ra cùng tận thế giới. Chỉ có ở đó, ý nghĩa của con đường Canvê mới tỏ lộ, chỉ có ở đó, sức mạnh canh tân tiềm tàng trong việc huỷ mình và chỉ có ở đó sự sống Chúa Kitô ban xuống qua cái chết của Người mới được tỏ hiện. Ở đây thái độ độc nhất của Người là thái độ của người công chính, chính Người là Đấng cho chúng ta thấy sự vĩ đại đích thực, Đấng mà người Xyrênê đã buộc lòng bước theo và những kẻ khác không hiểu. Chỉ kẻ nào biết lắng nghe các tư tưởng và tâm tình thâm sâu nhất của Chúa Giêsu mời là người đồng hành với Người thực sự trong suốt chặng đường thánh giá của Người.
TRÊN KHỔ GIÁ (23, 33-43)
Qua trình thuật trên, Thánh Luca không trình bày gì về những đau khổ thể xác hay tinh thần Đức Kitô phải chịu. Thánh Sử chú trọng đến việc trình bày Đức Giêsu như một Đấng đem lại ơn cứu thoát, là Đấng Cứu Thế thực sự và vì thế số đông đã ghét bỏ Ngài.
Sự đối kháng: Sự đối kháng này xảy ra ngay trong khi đóng đinh Chúa. Đức Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, bị đối xử ngang hàng với hai tên gian phi, một tên bên hữu, một tên bên tả Ngài, (Thánh Luca ghi rõ sự kiện này) hành hạ phạm nhân rồi, họ mới đem đi xử tử. Chính Israel dân Ngài, đã lên án loại trừ Ngài, và đối với họ, phải làm như thế mới rảnh mắt. Ngay cả các lý hình cũng chia chác áo xống Ngài. Phần còn lại, chúng sẽ bắt thăm. Nhưng ta còn thấy sự đối kháng cũng xuất hiện trong ngôn ngữ nữa. Các thành viên của Hội đồng nhạo cười Ngài, họ cố ý nhạo báng cười chê Đấng Xức dầu, Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Tất nhiên Ngài là Đấng Thiên Sai làm sao được khi mà cái chết của Ngài trên thập giá quá đủ. Họ rêu rao như thế và đang khi trông chờ một đấng khác, họ loại trừ, tẩy chay người mà họ đóng đinh. Binh lính cũng hành động như vậy. Họ cũng chế diễu Vua dân Do thái và vương quyền Ngài. Philatô cũng tỏ dấu khinh khi Ngài qua việc ông cho viết tấm bảng treo trên thập giá với hàng chữ mỉa mai: 'Vua dân Do thái' và sau hết sự đối kháng còn phát khởi từ câu hỏi: 'Nếu ông là Đức Kitô của Thiên Chúa, hãy cứu lấy mình và chúng tôi nữa'. Đó là một lời xúc phạm ghê gớm của một kẻ cùng chịu một án với Ngài. Ơn cứu thoát do cây thập tự luôn luôn gặp phải nhẫn tâm, đối kháng và chối từ. Con người quan niệm cứu thoát bao hàm thoải mái, mạnh khoẻ, hứng thú, đầy sức sống, tất cả những gì đối nghịch với Thập giá. Vì thế ơn cứu thoát bắt nguồn từ cây Thập giá đối với con người là một thách đố đối nghịch mà con người không thể lý hoà được. Tuy nhiên Đức Kitô đã dùng Thập tự như là khí cụ cứu thoát được đặt trên bình diện khác và sẽ được hoàn tất trong những thời gian khác. Ở đây điều gì được thực hiện vô hình trong lãnh vực tâm hồn và siêu nhiên thì đối với con người là một nghịch lý nguy hiểm, và sẽ chỉ hoàn tất ở trên trời cách nhãn tiền, cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi thế Thập giá hẳn là một giá trị đảm bảo của Đức Giêsu Cứu Thế.
Giải đáp: Thánh Luca đã trình bày lối giải đáp của Đức Kitô qua hai câu nói sau. Câu thứ nhất Chúa nói với mọi người. Đó là lời trối khi hấp hối: 'Lạy Cha xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm'. Không một lời than trách không một tiếng rủa nguyền, nhưng đầy lòng tha thứ và còn khẩn nài Cha trên trời thứ tha... Đức Giêsu chết với tư cách là Đấng Cứu Thế. Ngài phó nộp sự sống Ngài để chuộc lại nhân loại, và lời cầu xin cuối cùng là xin cho mọi người được ơn cứu thoát.
Họ không biết việc họ làm. Vì nếu họ hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của giờ cứu thoát này, nhận biết một nhân loại mới đang phát sinh, một Giáo Hội đang khai mở, nhận ra giai đoạn từ gian nan đến cứu thoát, từ cái chết đến sự sống thì hẳn họ sẽ không hành động như thế. Thái độ vô tri sâu xa ấy có tội chăng. Không nên đề cập đến vấn nạn này. Một điều chắc là họ không biết và vì đó Đấng bị lên án, đang khi bị hành xử vẫn luôn bênh vực những kẻ lên án và hành xử Ngài. 'Nemo contra Deum nihi Deus solus". (không ai chống nổi Thiên Chúa trừ một mình Ngài). Ở đây phải hiểu Thiên Chúa đối nghịch lại mình để biện hộ bênh đỡ con người. Ân sủng con Thiên Chúa đối nghịch với sự công thẳng của Chúa Cha như thế để ân sủng vượt trên hẳn lề luật và sức mạnh, tình yêu phải thắng vượt công lý nghiêm nhặt.
Câu nói thứ hai Chúa nói với một người thôi. Người này cũng bị treo trên Thập giá đã ghé nhìn Đức Giêsu khẩn nài Ngài. Hắn là một trong hai tội phạm: 'Lạy Đức Giêsu, khi Ngài đến trong nước của Ngài'. Chính tên trộm này là kẻ duy nhất nói đến vinh quang Chúa, vào lúc Ngài hạ mình chịu nạn và chỉ có hắn mới nhận ra nơi Người bị hành quyết đây thực là một vị Vua. Chính hắn tuyên cáo tội mình: 'Phần chúng ta, như thế này là đích đáng vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm'. Và hắn tuyên dương sự vô tội của Đức Kitô, 'nhưng ông này, ông không hề làm điều gì sai trái'. Ngoài ra, hắn còn công bố rằng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Nơi người này đã có một đức tin vững mạnh, kèm theo một cái nhìn về vĩnh cửu nữa. Vì thế hắn sẽ được cứu thoát. Đức Giêsu lên tiếng đáp lại: 'Quả thật, tôi bảo anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi'. Vì tội mà cửa đóng kín lại, nhờ ơn cứu độ mà nay được mở ra, tội lỗi bị ơn cứu độ vượt thắng. Nhân loại sa ngã và lầm lạc giờ đây bắt đầu trở lại. Sự lầm lạc đã đi đến chỗ cùng đường. Phải quay đầu trở lại, phải bước qua một khúc quanh dứt khoát. Chính con người bị lên án vì tội lỗi mình lại là người đầu tiên được bước đi trên con đường mới đó. Trong cuộc sống, tội đã phạm không phải là yếu tố quyết định, nhưng chính là Đức tin có dẫn đến Đức Kitô và đem lại ân sủng mới là yếu tố quyết định. Nhìn lại mình để nhận ra lỗi lầm mình phạm là một điều kiện tiên quyết để quay về, cải tạo đích thực và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô và nhờ Ngài được hưởng ơn cứu thoát.
Như thế qua trình thuật Chúa chịu đóng đinh trên cây Thập giá, Thánh Luca cho ta thấy hai câu nói của Chúa đã làm đảo ngược sự tối tăm và thê thảm của những tiếng 'phản kháng': Một lời Ngài 'nài' xin lòng nhân từ thương xót của Chúa Cha và một lời 'chấp nhận' Ngài nói với người tội lỗi ăn năn xin tha thứ. Ơn cứu độ vinh thăng sự dữ. Đấng hấp hối chính là Đấng Cứu chuộc thế gian.
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU (23, 44-49)
Việc hạ mình thế là hoàn tất. Dẫu vậy Người phải được đưa lên cao trước khi tắt thở. Với một lối trình bày thật đơn giản của trình thuật, cái chết ấy được kể lại như một biến cố chủ chốt, mang một tầm cỡ vĩ đại chưa từng thấy.
1. Biến cố xảy ra
Tối tăm bao trùm toàn cõi đất. Khi Đức Kitô sinh ra, ánh sáng ngập đánh tan đêm tối; mà khi chết, ánh sáng lại tối sầm lại, bởi vì ánh sáng đến thế gian giải ánh sáng trong đêm đen Belem giờ đây tắt ngúm trên đồi Gongôta u tối. Qua các phép lạ Ngài đã làm chứng tỏ Ngài có chủ quyền trên thiên nhiên, thì chính thiên nhiên cũng chứng tỏ chủ quyền ấy của Ngài trong giờ Ngài hấp hối. Từ khởi nguyên đã có Ngôi Lời và lời sáng tạo đầu tiên là: 'Hãy có ánh sáng'. Qua cái chết, Ngôi Lời đã trở về với im lặng. Đó là lý do tại sao tối tăm bao trùm trên cõi đất. Israel chiếm hữu được ánh sáng mạc khải. Họ đã khai trừ ánh sáng mạc khải ấy khi cho giết chết Đấng Thiên Sai; cái bóng đen bề ngoài của thiên nhiên chỉ là biểu tượng cho cái u tối của tinh thần bên trong.
'Màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa'. Hy tế của Giacaria trong đền thờ báo trước về Đức Giêsu. Cái chết của Đức Giêsu, biểu hiệu hy tế duy nhất và tối cao của nhân loại, nói lên đích đáng cái cùng tận của những hy tế tôn thờ của Israel. Màn rách làm đôi có nghĩa là những lễ nghi phụng vụ đó chẳng còn giá trị nữa, hoàn toàn bị phá bỏ. Bức rèm nặng nề che đậy Nơi Cực Thánh và tách biệt Nơi Cực Thánh ấy khỏi đền Thánh. Qua cái chết, Đức Giêsu đích thân về trời, dâng chén hy tế bằng chính máu Ngài, như thư Do thái chỉ thấy Đền Thánh; Nơi Cực Thánh ở dưới thế này không còn lý do tồn tại nữa, bởi vì đền thờ thực sự của toà nhà thiêng liêng là Giáo Hội cũng như nơi Cực Thánh chân thực trên trời được Đức Kitô mở ra, từ đây thay thế cho những biểu trưng rồi. Sự ngăn cách giữa trời và đất giữa Giáo Hội trần thế với Giáo Hội trên trời hoàn toàn không còn nữa. Bức màn đã trở thành vô dụng. Chỉ có một Thánh điện duy nhất của Chúa không ngăn cách cũng chẳng tách biệt.
Đức Giêsu kêu lớn tiếng: 'Lạy Cha, Con phó linh hồn con trong tay Cha'. Đó không phải là cơn hấp hối dai dẳng và ghê sợ, cũng không phải là sự suy nhược dần dần do bất lực hoàn toàn nhưng đó là một tiếng kêu lớn. Cuộc đời kết thúc bằng một lời cuối, đầy vẻ oai nghi. Suốt đoạn đường vác cây Thập Giá và khi ở trên đồi Canvê Chúa đã ngỏ lời với những người chung quanh, thì những lời sau cùng của Ngài lại thưa với Chúa Cha. Ngài chết đang khi cầu nguyện. Đó không phải là lời thốt ra trong cơn tuyệt vọng, cũng không phải là kêu la thê thảm của kẻ hấp hối nhưng là tiếng nói trang trọng của Đấng trở về chỗ ngụ cư của mình. Đó cũng là lời của Thánh-Vịnh-Gia thốt lên đang khi nép mình nơi Chúa xin thoát khỏi mọi hiểm nguy thế trần và nhân loại. Đức Giêsu đến từ Cha và lại trở về cùng Cha. Vòng tròn của đời sống khép kín lại, chu trình đã hoàn tất. Hơi thở thật êm dịu và trang trọng chiếu rọi trên sự phân cách và cái chết kia.
2. Hiệu quả
Ta thấy có sự phản tỉnh trong số những người đứng chung quanh chứng kiến. Không còn nhạo báng cười chê nữa. Trước nhất là Viên bách quản ngoại đạo, ông là chứng tá hàng đầu. Đó là điều ít nhất người ta trông chờ được ở ông. Những người cuối hết đã bắt đầu trở thành người đầu hết và những người đầu hết đã trở thành những người cuối hết. Giáo Hội của những người ngoại đạo và những người Do thái khai mào ngay dưới chân Thập Giá. Người ngoại giáo ca ngợi Thiên Chúa, xét dưới khía cạnh rất sâu xa, vì ông tuyên xưng cái chết kia không phải là một việc đầy tội ác của loài người, nhưng là kỳ công nói lên Thiên Chúa luôn thi ân giáng phúc. Cái chết đó mang một chiều kích siêu nhân loại. Nên phải ca khen Thiên Chúa đã sai một người như thế đến cho nhân loại. Viên bách quản nhận ra Đức Giêsu là một người công chính. Dầu vậy Ngài vẫn bị hành xử như một tên gian phi và đầy tội ác. Phán quyết đã đổi thay. Đứng sau viên bách quản Rôma là thế giới dân ngoại, họ nhờ vào Đức Kitô mà tìm được con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Dân chúng tự đấm ngực. Những người đã vây quanh cây Thập Giá giờ đây quay về nhà mình, lòng ngậm ngùi xúc động, nửa ngờ nửa tin. Nhưng họ tuyên nhận rằng họ không phải là những nhân chứng suông mà thôi, mà còn chịu trách nhiệm về cái chết kia nữa. Họ nhận mình có lỗi. Họ trở lại Giêrusalem mà tâm hồn cũng quay trở về và thực tình sám hối, kết quả đầu tiên của thập giá Chúa Kitô là khơi dậy lòng sám hối. Còn các bà, thánh ký cho ta biết rất đơn giản: họ là những người đã đi theo Ngài từ Galilê, họ chứng kiến cuộc hành hình từ đầu chí cuối. Họ là những chứng nhân câm, im hơi lặng tiếng. Các bà theo Chúa Kitô không phải chỉ hiểu theo nghĩa bên ngoài, tức là theo Ngài trong sứ vụ công khai và phong phú của Ngài trên núi Galilê khi Ngài lâm nạn thảm sầu tại đồi Gôngôtha nhưng họ theo Ngài với một lòng trung thành thẳm sâu tức là họ theo Ngài đến phút chót đời Ngài. Ở đây, Tin mừng khen ngợi lòng kiên vững của họ. Họ là những chứng nhân trung thành tiên khởi vì họ đã kể lại những gì họ đã chứng kiến cho tất cả những ai không được xem thấy.
Trình thuật về cái chết của Đức Kitô không phải là một trình thuật đau xót hay than trách đắng cay nhưng là bài tường thuật một biến cố lớn, đánh dấu một kỷ nguyên mới thực sự bắt đầu và bài tường thuật này mang một tầm mức rộng lớn vô cùng. Thiên nhiên và lịch sử làm chứng và con người phản tỉnh quay đầu trở lại. Thập giá đứng vững giữa lòng vũ trụ, giữa dòng lịch sử và số phận nhân loại.
37. Đấng vô tội phải chết
(Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Vừa tảng sáng, hội đồng các niên trưởng trong dân nhóm họp cùng với các thượng tế và luật sĩ. Họ cho điệu Đức Giêsu đến để tra vấn... Mọi người cùng hỏi: "Ông là Con Thiên Chúa ư?" Ngài đáp: "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa." Nghe thế, nộ khí bừng lên, họ đồng thanh la lớn: "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta đã nghe từ miệng hắn." Đoạn tất cả bọn họ chỗi dậy và giải Ngài đến Philatô (Lc 22:66-23:1).
Các thượng tế và luật sĩ phải đưa Đức Giêsu đến Philatô bởi vì lúc bấy giờ người Do thái không có quyền lên án tử cho bất cứ ai nếu như không được chính quyền Rôma chuẩn y. Nhưng sau khi hè nhau kéo Chúa đến trước mặt quan tổng trấn, họ lại không dám tố Ngài tội lộng ngôn, vì biết như thế sẽ thất bại chua cay. Philatô sẽ cho là chuyện mê tín tôn giáo, không thuộc phạm vi xét xử của ông ta. Thế nên, để có sức thuyết phục, họ không chơi đòn tôn giáo, song là chính trị.
Chắc hẳn người Do thái còn nhớ có lần Philatô cho diễn quân vào thành Giêrusalem với các cờ hiệu có hình hoàng đế dẫn đầu. Luật Do thái cấm mang hình tượng các thần ngoại vào khuôn viên thành thánh, vì như thế là một sự sỉ nhục tôn giáo. Thời bấy giờ, hoàng đế Cêsarê được xem như một vị thần. Thế nên các vị tổng trấn trước đây, mỗi lần có cuộc diễn quân vào thành, đều cho cất bức hình của hoàng đế khỏi cờ hiệu. Nhưng đến thời Philatô, ông đã chẳng coi luật lệ tôn giáo của người Do thái ra gì, nên trong một cuộc diễn hành vào thành ban đêm, Philatô nhất quyết cho quân lính mang tượng hoàng đế đi đầu, bất chấp sự chống đối kịch liệt của người Do thái.
Khi biết Philatô không chú trọng lắm đến vấn đề tôn giáo, hội đồng người Do thái đã tố cáo Đức Giêsu về ba điểm thuộc phạm vi chính trị: thứ nhất, "Tên này, chúng tôi bắt gặp đã xúi dân nổi loạn;" thứ hai, "Tên này ngăn cản việc nộp thuế cho hoàng đế Cêsarê;" thứ ba, "Tên này xưng mình là vua" (Lc 23:2).
Cả ba điều tố cáo đều dối trá. Họ biết thế. Nhưng khi mục đích đã mù quáng lầm lạc thì phương thế đúng sai nào có quan hệ gì. Miễn sao đạt được như ý mới thôi.
Dầu rất nhạy bén với bản chất hay làm loạn của người Do thái, và dầu đã thẳng tay trừng trị những kẻ dấy loạn, "hoà máu với lễ tế của họ" (Lc 13:1), Philatô đã không bị hoả mù chính trị che mắt.
Rõ ràng Philatô thấy Đức Giêsu vô tội (Lc 23:14). Có ít nhất bốn lần ông ta tìm cách tránh né việc lên án tử cho Đức Giêsu. Lần thứ nhất, ông bảo người Do thái hãy tự giải quyết lấy chuyện nội bộ tôn giáo của mình (Gn 19:6). Lần thứ hai, ông trao vụ án qua cho Hêrôđê xét xử. Lần thứ ba, ông muốn thuyết phục người Do thái tha cho Đức Giêsu theo như quy định cho phép ông thi hành trong mỗi dịp lễ lớn. Lần thứ tư, ông đưa giải pháp dung hoà: đánh Giêsu một trận nên thân rồi thả về (Lc 23:15-23).
Muốn giết Chúa mà quan tổng trấn cứ đòi tha. Thấy ba lá bài chính trị không đi tới đâu, người Do thái quay sang con tẩy cuối cùng: "Nếu ông tha cho tên ấy là ông thất nghĩa với hoàng đế. Ai xưng mình là vua, tất làm phản với Hoàng đế" (Ga 19:12). Theo luật công bình của đế quốc Rôma, mỗi địa phương đều có quyền khiếu nại với hoàng đế về tình trạng cai trị của các quan chức Rôma. Thế nên, khi thấy chiếc ghế tổng trấn của mình bị áp đảo, khi mà tình hình vinh thân phì gia bị đe doạ, Philatô lập tức đầu hàng. Bên ngoài rất hùng, nhưng bên trong rất hèn. Công lý đã bị lợi ích cá nhân vùi dập. Bản án được thông qua. Chúa Giêsu vô tội mà phải chết.
Nhưng nếu chỉ thế thôi thì chẳng có gì lạ lắm, vì như hôm nay, vẫn còn biết bao người vô tội phải mang án tử. Biết bao tù nhân phải lên ghế điện cách oan uổng. Biết bao thai nhi bị ném vào thùng rác cách vô tình và vô trách nhiệm. Song điều đáng nói ở đây là Đức Giêsu, Đấng vô tội, đã tự nguyện chấp nhận cái chết bất công đó để giải án bất nhân cho con người.
Bản án càng nói lên tính chất hàm hồ, giả dối, ác độc, ghen tị, ích kỷ nơi con người bao nhiêu càng làm nổi bật tình thương cứu độ nơi thập giá của Đức Kitô bấy nhiêu. Sự sống của ơn cứu độ đã thật sự tuôn trào từ thập giá. Những chứng từ sau đây đã khẳng định điều đó:
Thứ nhất, lời kêu van thống thiết "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm" (Lc 23:34) đã phát ra từ miệng Đức Giêsu trên khổ giá. Một nhà chú giải Kinh thánh nhận xét: "Chúa Giêsu đã nói nhiều câu tuyệt vời, nhưng câu 'xin tha cho chúng' trên thánh giá là một trong những câu tuyệt vời nhất." Thiên Chúa đã can thiệp bằng cách đón nhận khổ đau để tha thứ tội lỗi con người.
Từ Thánh giá lời hứa Nước Trời cũng được trao ban. Đức Giêsu nói với [người trộm lành]: "Hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta" (Lc 23:43). Như thế, ơn cứu độ đã linh nghiệm. Loài người được ơn thoát khỏi án chết để tiến vào cõi sống.
Thánh Luca cũng ghi nhận: đoàn lũ dân chúng khi nhìn lên thánh giá, chứng kiến cảnh Chúa Giêsu trút hơi thở đã đấm ngực ăn năn. Cả viên bách quản cũng phải thốt lên: "Đúng thật, ông này là người công chính" (Lc 23:47). Như thế, lời Chúa Giêsu nói "Khi được giương cao lên mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta" đã được ứng nghiệm. Người ta đã nhận ra Đức Giêsu là ai. Và khi tin nhận ra Ngài, họ có được sự sống đời đời nơi tâm hồn (Ga 3:15).
Thế đấy, Đức Giêsu-như lời vị tông đồ dân ngoại xác quyết-Đấng không hề biết tội, nhưng vì ta, Ngài đã tình nguyện trở thành tội nhân và gánh chịu hậu quả của tội là sự chết ô nhục trên Thập giá. Vậy, chúng tôi nài xin anh em hãy mau làm hoà và trở về cùng Thiên Chúa. Vì "đây là thời đại sủng; đây là ngày cứu độ" (2 Cr 5:20 – 6:2).
38. Ông này là ai vậy?
('Manna')
Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
39. Xin đừng theo ý con: Mc 11, 1-10
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón rước vào thành, giữa tiếng hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa, đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ. Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án. Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và bước theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này. Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài. Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn. Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con. Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát. Đôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng. Đức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng. Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không? Đức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như bao người trên mặt đất: bị xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những người đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
Bạn có nhận ra thập giá của một người trong gia đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì để giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
40. Thập Giá
Khi một vị quốc trưởng đến thăm một nước bạn, ông sẽ được tiếp đón một cách chính thức với hai mươi bốn phát đại bác, theo đúng với nghi lễ ngoại giao. Khi một vị tướng lãnh tới thăm một đơn vị của mình, ông sẽ được tiếp đón theo nghi lễ quân cách với ban nhạc dàn chào. Cả hai cách tiếp đón này đều được hoạch định một cách tỉ mỉ và kỹ càng với những chi tiết cần thiết, nhờ đó cuộc tiếp đón được bảo đảm an ninh cũng như được thêm phần trang trọng.
Thế nhưng ngay hôm nay, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem một cách long trọng, lại chẳng có một chương trình, hay một nghi lễ nào cả.
Ngày nay, các vị quốc trưởng thường đi máy bay phản lực, hay ngồi trong những chiếc xe sang trọng với một đoàn tùy tùng đông đảo. Trong khi đó, Chúa Giêsu chỉ ngồi trên lưng một con lừa, chung quanh Ngài là đám đông dân chúng đầy nhiệt tình và hăng say. Họ trải áo xuống đường, tay cầm cành lá và miệng không ngừng hô lớn:
- Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Chúa trên các tầng trời.
Đúng lý ra, các thày cả thượng phẩm và những viên chức thay mặt dân chúng đã phải tiếp đón Ngài, thì họ lại hậm hực tức rtối và tìm cách giết hại Ngài và ngăn chặn mối nhiệt tình của dân chúng. Nhưng Chúa Giêsu đã bình tĩnh và ôn tồn trả lời:
- Nếu hôm nay họ thinh lặng, thì những hòn đá này sẽ kêu lên.
Chúa Giêsu là vua và Giêrusalem là thành trì của Ngài. Ngài đến để tiếp nhận. Cho dù mấy ngày sau, Ngài có bị đóng đanh vào thập giá, thì Ngài cũng vẫn sẵn sàng tiếp nhận vì tình thương yêu.
Từ những sự việc kể trên, chúng ta nhận thấy: vinh quang và đau khổ dường như là hai cái gì luôn đi song song với nhau trong cuộc sống của Ngài, thế nhưng cả hai đều chứng tỏ quyền năng vô song của Ngài.
Ngài mãi mãi là vua giữa những tiếng tung hô, cũng như giữa những lời nhạo báng. Ngài mãi mãi là vua giữa những tiếng chúc tụng Hosana, cũng như giữa những tiếng hò hét: Đóng đanh nó vào cây thập giá. Ngài mãi mãi là vua với những cành lá tung hô, cũng như với mạo gai trên đầu. Và sự thật này vẫn còn tiếp diễn cho đến tận cùng thời gian.
Tại một thành phố nọ, người ta xây một rạp chiếu bóng hiện đại bên cạnh một ngôi thánh đường cổ. Sự kiện này như muốn nói với chúng ta rằng: Chân lý ngàn đời luôn ở bên cạnh những dối trá trần gian.
Hình ảnh cây thập giá bên cạnh những hình ảnh quảng cáo rực rỡ, Đức Kitô bên cạnh những chàng cao bồi và tướng cướp. Tình thương của Ngài bên cạnh những đồi trụy và sa đọa. Phải chăng đó cũng chính là kinh nghiệm Hosana và đóng đanh nó vào cây thập giá, mà Chúa Giêsu đã trải qua.
Nhưng dù sao chăng nữa, vượt lên trên mọi bối cảnh, mọi không gian và thời gian, Chúa Giêsu mãi mãi vẫn là vua.
Điều quan trọng chúng ta cần phải xác tín trong ngày hôm nay, đó là dù hỏa ngục có gào thét thì cũng không thể làm cho vương quyền của Chúa bị chao đảo. Dù hoàn cảnh có đen tối đến đâu chăng nữa, thì cũng không thể làm lu mờ địa vị của Chúa.
Hãy đón nhận Chúa, không phải bằng nghi lễ ngoại giao hay nghi lễ quân cách, nhưng bằng những tình cảm chân thành của cõi lòng. Mặc dù bên ngoài, Ngài có bị đánh đòn, bị đội mạo gai và bị đóng đanh vào thập giá, thì Ngài vẫn là vua của tâm hồn chúng ta, bởi vì Ngài đã tự ý chấp nhận tất cả vì yêu thương chúng ta và để cứu chuộc chúng ta, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, đã chấp nhận cái chết tủi nhục, để chúng ta, những con người phải chết, được sống muôn đời.
41. Cám dỗ
Nhà đạo diễn Mỹ Mác-tin Co-sê đã thực hiện một cuốn phim, có tựa đề là "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu", dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng một tựa đề của Ni-kót Ka-gian-da-kít. Cuốn phim này đã gây nhiều phẫn nộ trong giới Kitô giáo, bởi vì nó đã bóp méo hoàn toàn khuôn mặt lịch sử của Chúa Giêsu, như người ta có thể đọc thấy qua các sách Tin Mừng. Nhà đạo diễn Mỹ này đã bóp méo như thế nào? Ông đã tưởng tượng ra một cuộc tình vô cùng éo le của Chúa Giêsu, để rồi khi thoi thóp hấp hối trên thập giá, Ngài còn phải trải qua cơn cám dỗ cuối cùng, đó là muốn bỏ cuộc để trở về sống với người tình Mai Đệ Liên.
Sự thật hoàn toàn không phải như vậy. Chúng ta hãy ôn lại những giờ phút sau cùng của Chúa Giêsu như bài Tin Mừng đã thuật lại, để thấy được đâu là cơn cám dỗ cuối cùng của Ngài và đâu là tâm tình đích thực của Ngài.
Sau khi Philatô tuyên án tử hình Chúa Giêsu, binh lính Rôma đã bắt Ngài vác thập giá đi đến nơi gọi là Núi Sọ. Tại đây, chúng đóng đinh và treo Ngài lên giữa hai tên trộm cướp. Trong ba giờ liền, Ngài đã phải quằn quại trên thập giá, lãnh nhận tất cả những xỉ nhục, khinh bỉ, nhạo báng của con người.
Trong khi đó, Thiên Chúa vẫn giữ thinh lặng. Cơn cám dỗ trong giờ phút ấy thật là kinh khủng, bởi vì Chúa Giêsu đã giảng dạy: "Hãy yêu thương thù địch của ngươi". Và lúc này đây kẻ thù đã hành hạ Ngài một cách đau đớn, bỉ ổi, làm sao có thể yêu thương kẻ thù như thế được? Đàng khác, khi giảng dạy, Chúa Giêsu cũng luôn nhấn mạnh đến lòng tín thác vào Thiên Chúa. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa lại để kẻ thù giết Ngài mà không làm gì để giải thoát Ngài. Làm sao có thể tin tưởng nơi một Thiên Chúa như thế? Đó là cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu phải trải qua trong những giờ phút cuối đời của Ngài, chứ không phải là cơn cám dỗ về cuộc tình mà nhà đạo diễn Mỹ đã tưởng tượng ra.
Chúa Giêsu đã đối phó với cơn cám dỗ ấy thế nào? Sự đối phó của Ngài vẫn luôn luôn là: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Đó là lời đầu tiên của Ngài khi vừa bị treo lên thập giá. Đó là phản ứng của Ngài đối với cơn cám dỗ thứ nhất: Ngài vẫn yêu thương và tha thứ, ngay cả những kẻ phản bội, thù ghét và loại bỏ Ngài.
Rồi để đáp trả lại cơn cám dỗ thứ hai, Chúa Giêsu hướng về Cha Ngài và nói: "Lạy Cha, trong tay Cha, con xin phó thác hồn con". Với niềm tín thác trước sau như một, cũng như sự vâng lời tùng phục tuyệt đối của một người con hiếu thảo đối với Cha, Chúa Giêsu đã nói lên những lời đó rồi cúi đầu trút hơi thở cuối cùng.
Như vậy, chúng ta có thể nói: cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một bản tình ca đối với Thiên Chúa và con người. Cái chết của Ngài là tột đỉnh của tình yêu ấy. Tình yêu của một Thiên Chúa yêu thương con người. Viên sĩ quan điều khiển cuộc hành quyết Ngài, đứng dưới chân thập giá, chứng kiến cái chết của Ngài, ông đã cảm nhận được điều đó và ông đã thốt lên: "Quả thực, người này là Con Thiên Chúa".
Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã nêu cao tấm gương xây dựng hòa bình. Ngài đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài. Cũng vậy, con người chỉ có thể xây dựng hòa bình nếu biết thực sự tha thứ cho nhau. Nhưng hai ngàn năm qua, nhân loại vẫn chưa hưởng được hòa bình thực sự, bởi vì nhân loại chưa đón nhận hay chưa sống đầy đủ Tin Mừng của Chúa Giêsu. Đối với chúng ta, nếu chúng ta sống theo Tin Mừng của Chúa, chúng ta sẽ có được sự bình an đích thực trong tâm hồn và sống an hòa với mọi người.
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Tuần Thánh, tuần lễ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu ở trần gian, tuần lễ diễn lại cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa. Nếu có ai đó nói rằng: yêu là điên dại, thì trong số những người điên dại này, điên dại theo ý nghĩa cao thượng và cao quí, người điên dại nhất chính là Chúa Giêsu. Ngài chỉ biết yêu thương, yêu thương tất cả mọi người, kể cả những con người xem ra không đáng cho Ngài yêu thương, thế mà Ngài vẫn quan tâm đến họ, vẫn yêu thương họ. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, cả trong những lúc gặp nguy hiểm, và cuối cùng đã hy sinh đến chết chỉ vì tình yêu thương. Chúa Giêsu quả thật là một người điên dại của thế giới.
Mỗi Chúa nhật chúng ta họp nhau để phụng thờ và tôn vinh Đấng yêu thương điên dại này. Ngài đã chấp nhận mọi hiểm nguy, Ngài đã bị thương tích, Ngài đã chịu hình phạt cuối cùng trên thập giá vì yêu thương thế giới, một thế giới luôn mơ tưởng đến tình yêu, nhưng mãi sống trong hận thù. Chúng ta phụng thờ Chúa như một người vì quá yêu thương để chiến bại. Nhưng Ngài vẫn sống để ban sức mạnh cho tất cả những ai sẵn sàng chấp nhận đi theo con đường tình yêu điên dại này: yêu anh, yêu chị, yêu em, yêu quê hương, yêu đồng loại, và yêu tất cả mọi người. Đó là con đường của tình yêu, và cuối cùng, tình yêu sẽ thắng.
42. Đón tiếp
Tin Mừng hôm nay trình bày Đức Giêsu được dân Do thái đón tiếp vào thành Giêrusalem như một vị anh hùng, như một vị vua. Tại sao Ngài lại được đón tiếp như thế? Phải chăng Ngài là người sẽ mang lại cho họ tự do và hạnh phúc? Điều gì họ đang mong ước và trông đợi? Nêu ra những vấn nạn đó để mỗi người rút ra cho chính bản thân bài học từ nơi Đức Giêsu. Ngài đã được dân chúng tiếp đón vào thành và cũng chính Ngài đang tiến vào thành để đón tiếp, đón nhận cuộc khổ nạn. Dẫu Ngài đã biết trước.
Trong tâm tình đó chúng ta cùng với Đức Giêsu tiến vào thành để được đón tiếp và đồng thời cũng đón nhận và chia sẻ cuộc vượt qua với Ngài.
Đức Giêsu được người Do thái đón tiếp rất là nồng hậu. Họ trải áo, bẻ cành lá trải trên đường và dành cho Ngài những lời tán dương, chúc tụng "hoan hô, tung hô con vua Đavid". Vì sao Ngài được vinh dự đó? Thưa, vì họ hy vọng ông Giêsu là người sẽ giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ Rôma, mang lại cho họ một cuộc sống tự do hạnh phúc, giàu sang. Quí ông bà còn nhớ khi ông Bill Cliton vào thăm Việt Nam? Việt Nam đã đón tiếp ông ra sao? Oi! Nào là bao nhiêu câu chuyện được bàn cãi, tranh luận từ giới trí thức cho tới giới bình dân ít học, từ giới báo chí đến giới làm ăn xem ông đến để làm gì và sẽ làm gì cho Việt Nam. Mục đích sâu xa nhất của sự kiện ông đến Việt Nam và được đón tiếp đặc biệt không có gì khác hơn là Việt Nam mong ông giúp mình để phát triển đất nước trở nên giàu mạnh.
Trong cuộc sống đời thường của mỗi người cũng thế. Chúng ta đã tiếp đón biết bao nhiêu người và đón tiếp bằng nhiều cách. Thế nhưng, tiếp đón không có nghĩa là giúp người gặp hoàn cảnh khó khăn để họ khỏi làm phiền mình, tiếp đón cũng không có nghĩa là để giữ lịch sự với người khác và tiếp đón càng không có nghĩa người được tiếp đón sẽ mang lại cho mình một mối lợi gì đó. Vậy, ta nên có một thái độ tiếp đón không tính toán vụ lợi, không mưu toan ích lợi cá nhân hẹp hòi, nhưng nên có một con tim luôn cởi mở để có thể tiếp đón hết mọi người không phân biệt quyền thế hay hèn yếu, giàu sang hay nghèo khổ. Nếu không tiếp đón chỉ là cho đi những thứ dư thừa hầu ru ngủ những đòi hỏi của lương tâm mình mà thôi.
Trang Tin Mừng không chỉ dừng lại việc mô tả Đức Giêsu được dân thành Giêrusalem đón tiếp. Nhưng sâu xa hơn, tiếp tục mời gọi mỗi người cùng với Đức Giêsu chấp nhận, đón nhận những khổ đau mà Ngài đang tiến bước vào thành để tiếp nhận. Dẫu Ngài biết trước sẽ xảy đến với Ngài. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài tiến bước vào thành một cách trung kiên.
Trong bối cảnh sống hôm nay, con người đang đánh mất dần tinh thần đón nhận những thử thách, gian nan, bệnh tật, đau khổ đến với mình. Nói thế không có nghĩa là đề cao đau khổ, tâng bốc bệnh tật vì chính nó nhưng nên biết rằng cuộc sống trần gian không thể nào đáp ứng được tất cả những khát vọng, và làm thỏa mãn mọi ước muốn. Chúng ta đón nhận bệnh tật, đau khổ, thử thách như là một điều phải có không thể thiếu trong đời sống mình, để làm nảy sinh những giá trị tốt đẹp hơn. Đức Giêsu phải tiến bước vào thành đón nhận khổ đau mới đạt tới vinh quang. "Hạt lúa mì xuống đất không thối đi thì nó vẫn là nó mà thôi".
Đức Giêsu trong suốt cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã đón nhận thử thách, đau khổ... đặc biệt là Ngài đón nhận cuộc khổ nạn mà đỉnh cao là cái chết thập giá. Ta không thể cảm nghiệm được nỗi đau của Đức Giêsu ở mức độ nào khi Ngài bị treo trên thập giá, "Thức đêm mới biết đêm dài". Thế nhưng, không phải vì Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài đón nhận đau khổ một cách dễ dàng. Chắc chắn nơi Đức Giêsu có một sự đấu tranh giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa sức sống và sự chết. Nhưng chính vì tâm tình vâng phục và nhất là vì tình yêu, nên Ngài đón nhận chúng một cách can đảm và trung kiên như thế.
Người Kitô hữu đón nhận thử thách, đau khổ, bệnh tật là điều cần có, nhưng nếu nhìn dưới ánh mắt quá bi quan, nó sẽ dồn ta vào chân tường, đẩy ta vào đường cùng không lối thoát.
Cuộc đời của mỗi người, ai cũng gặp những thử thách, bệnh tật, đau khổ. Nhưng hãy nhìn lên thập giá Đức Giêsu để có thể sẵn sàng đón nhận những trắc trở khó khăn mà mình gặp. Đành rằng khi ta thức đêm mới biết đêm dài như thế nào. Xin quí ông bà nhớ cho, người Kitô hữu đón nhận và sống theo Tin Mừng không phải là người không bao giờ biết mệt, nhưng dù biết mệt mỏi vẫn can trường đón nhận, sống theo Tin Mừng. Đó mới đích thực là người Kitô hữu.
Trước khi kết thúc bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay. Xin được trao lại quí ông bà đôi câu hỏi để mỗi người cùng tiếp tục tự vấn con tim của mình.
Mỗi người xử sự thế nào khi tiếp một người nghèo, một người bệnh tật? Hơn thế nữa, trong bối cảnh hôm nay chúng ta có thể cùng với Đức Giêsu chấp nhận, đón nhận những trở ngại, thử thách gian nan để cùng với Ngài can đảm tiến bước vào thành không chút sợ hãi được chăng?
Để kết thúc xin cùng nhìn lên Đức Maria, Ngài đã cùng với Đức Giêsu tiến bước vào thành đón nhận cuộc khổ nạn cho đến chân đồi Canvê. Xin Mẹ luôn đồng hành, để ta có thể can đảm tiến bước vào thành, chấp nhận và đón nhận những thử thách, bệnh tật, đau khổ mà mỗi ngày gặp phải.
43. Chúc tụng
Trong nghi thức của Chúa nhật lễ Lá hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại bài Tin Mừng theo thánh Luca tường thuật lại việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Messia. Hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên mình lừa khiến người ta nhớ lại lời sấm ngôn nói về Đấng Messia được ghi lại trong sách Giacaria: "Nào thiếu nữ Sion hãy vui mừng hoan hỷ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy vui sướng reo hò, vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Người là Đấng chính trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa vẫn còn theo mẹ".
Hình ảnh dân chúng hò reo tung hô Chúa Giêsu cũng được nhắc đến trong sách Các Vua quyển I. Qua việc công khai vào thành cách long trọng như thế, Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng Messia và là vua của dân Israel. Tuy nhiên, Người không xây dựng vương quốc mà họ muốn đánh nam dẹp bắc, hoặc bằng cách phát triển các sức mạnh kinh tế mà bằng cách tuân hành theo thánh ý Thiên Chúa Cha, một vai trò tôi tớ trung thành đã được ngôn sứ Isaia miêu tả trong bốn bài ca của ông.
Cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem chỉ là bước khởi đầu cho cuộc thương khó mà Chúa Giêsu phải trải qua để chiến thắng sự dữ và sự chết, mở ra cho loài người lối đi đến cõi phúc bất diệt bên Thiên Chúa Cha.
Phụng vụ thánh lễ nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong Chúa nhật hôm nay được ngôn sứ Isaia viết về người tôi tớ đau khổ trung thành của Thiên Chúa phải chịu: "Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi không che mặt khi bị mắng nhiếc xỉ nhục".
Kế đó là bài trích thơ thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Philipphê nói về sự từ bỏ và cái chết tủi nhục mà Chúa Giêsu sẽ đón nhận để mang lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu Kitô không nghĩ mình là Thiên Chúa, không nhất thiết phải duy trì địa vị ngang hàng với Chúa Cha, Ngài đã trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống như phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại luôn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự.
Cao điểm của phần Phụng vụ Lời Chúa là bài thương khó Chúa Giêsu được thuật lại trong Tin Mừng theo thánh Luca. Bài Tin Mừng hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta tham dự vào những giờ phút linh thiêng cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu. Chúng ta không nghe đọc bài thương khó như nghe một câu chuyện bi hùng đã xảy ra trong lịch sử, nhưng chúng ta nghe và đồng thời cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó của Ngài. Chúng ta có mặt bên cạnh Chúa Giêsu ở mọi diễn tiến đau thương đang xảy ra. Lịch sử cứu độ đã xảy dài đến chúng ta và chúng ta đón nhận Tin Mừng ấy ngay tại đây và ngay lúc này. Chúng ta không là người chứng kiến lịch sử cứu độ, nhưng chúng ta là người sống và lãnh nhận hiệu quả của ơn cứu độ.
Con đường cứu thế mà Chúa Giêsu đi qua là một con đường dài, khởi đi từ biến cố Nhập thể, ấp ủ và hình thành trong 30 năm sống ẩn dật được thực hiện từng bước trong ba năm rao giảng để tiến đến cao điểm của cuộc khổ nạn và hoàn tất bằng cái chết tủi nhục và việc sống lại hiển vinh. Đó là một con đường hẹp và đầy gian nan, con đường này không giành cho những ai lười biếng hoặc nhát đảm, nhưng giành cho những ai kiên tâm và dám dấn thân.
Hằng năm, Giáo Hội tạo cơ hội cho ta sống 40 ngày Mùa Chay để giúp chúng ta vượt qua những ươn lười và hèn yếu của mình, nhờ chuyên tâm cầu nguyện chúng ta có dịp rà xét lại con người của mình, nhận ra những lỗi phạm và thiếu sót của mình để sửa đổi và bổ khuyết. Chúng ta cũng có dịp xem lại những tương quan của mình với Thiên Chúa, với anh em và với chính bản thân chúng ta. Chúng ta thấy được mình đã xây dựng những mối tương quan đó như thế nào, chặt chẽ hay lỏng lẻo, chân tình hay giả dối.
Nhờ thực hành các việc hy sinh hãm mình chúng ta tập tự chủ, tập chế ngự các thói quen nuông chiều bản thân, tập chế ngự các thói hư tật xấu của mình. Qua đó chúng ta cũng có dịp thông cảm với những yếu đuối của người khác, tập bao dung tha thứ cho những lỗi lầm mà người khác xúc phạm đến chúng ta. Tập nâng đỡ người khác vượt qua được những thói hư tật xấu của họ. Nhờ rộng tay giúp đỡ những người nghèo khổ vật chất và tinh thần, chúng ta nhận ra rằng mình cũng là người nghèo khổ cần được Thiên Chúa và anh chị em ra tay giúp đỡ. Chúng ta cũng cần phải nhận ra gía trị đích thực của những người khác, dù họ là những con người cần sự trợ giúp của chúng ta. Chúng ta học được giá trị của sự chia sẻ qua lại, chúng ta cung cấp cho người khác những cái chúng ta có và nhận lại từ họ những cái chúng ta còn thiếu.
Bốn mươi ngày tập luyện đã qua đi nhưng chặng đường trước mắt chúng ta vẫn còn dài. Hết 40 ngày Mùa Chay không có nghĩa là chúng ta được quyền nghỉ ngơi để bù lại những ngày gian khổ hy sinh. Cuộc chiến đấu để vượt thắng bản thân và sự dữ vẫn kéo dài đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Tuần Thánh mà chúng ta sắp bước vào nói lên những quyết liệt của cuộc chiến này. Chúng ta hãy bước vào Tuần Thánh với những gì chúng ta đã tập tành được trong 40 ngày Mùa Chay. Hãy theo Chúa Giêsu để Người tiếp tục dạy ta cách sống thế nào cho phù hợp thánh ý Chúa Cha. Hãy theo Chúa Giêsu để Người dạy ta cách từ bỏ bản thân, chết đi trong tinh thần vâng phục và sống lại nhờ tín thác hoàn toàn vào niềm tin của Chúa Kitô Phục sinh mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính.
44. Vâng theo ý Cha
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Ngài tiến vào thành trong tiếng reo hò vang dội của dân chúng. Họ trải áo của mình xuống để lót đường cho Chúa đi. Tay cầm nhành lá thiên tuế vẫy chào. Miệng vang hò reo mừng: "Hoan hô con vua Đavít", "Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến".
Sự kiện Chúa vào thành làm cho dân chúng vui mừng và hy vọng. Họ mong ước từ lâu được nhìn thấy Chúa đến với họ trong cương vị của một vị vua, đến để giải thoát họ khỏi ách thống trị của đế quốc Lamã thời bấy giờ.
Còn Đức Giêsu, Ngài đến với tư cách gì, và, sứ mạng của Ngài ra sao?
1. Đức Giêsu đến để thực thi thánh ý Thiên Chúa Cha
Theo Tin Mừng Gioan thì: "lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa" (Ga 1,1). Thánh Gioan muốn xác quyết thật rõ ràng rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, vì thế Ngài luôn hướng về với Đấng mà Ngài đã từ đó mà đến trong thế gian này.
Điều này được chính Đức Giêsu minh định khi nói với Đức Mẹ và thánh Giuse lúc 12 tuổi, khi các ngài tìm thấy Chúa trong đền thờ, Ngài nói: cha mẹ không biết là con phải thi hành ý của Cha con sao?
Điều này đã được chính Chúa Cha giới thiệu với mọi người khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: "Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con" (Lc 3, 22). Khởi đầu sứ vụ cứu rỗi, Đức Giêsu đã chịu cám dỗ (x. Mt 4,1-11). Satan dù thất bại, nhưng vẫn luôn chờ đợi thời cơ (x. Lc 4,13). Sự kiện này cho chúng ta thấy: Satan sẽ không ngừng cám dỗ Đức Giêsu sử dụng chức quyền để vụ lợi, để đề cao chính mình, để tranh thủ quyền lực thế gian, và mục đích cuối cùng của nó là loại bỏ sứ mạng Thiên Sai trong tư cách là Người Tôi Tớ của Giavê. Nhưng giờ đã đến, giờ phải bỏ thế gian để về cùng Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu đã vào vườn Giệtsimani cầu nguyện. Ngài đã linh nghiệm trước những đau khổ mà mình sẽ phải chịu để cứu độ nhân loại, nên Ngài toát mồ hôi máu, và, cũng với tư cách là Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê, bằng lời cầu nguyện tại vườn Cây Dầu, Đức Giêsu bày tỏ sự tùng phục tuyệt đối ý định của Thiên Chúa Cha (x. Mc 14,36), bởi vì lương thực của Ngài chính là làm theo ý Chúa Cha.
Như vậy, việc Đức Giêsu vào thành Giêrrusalem là để khởi đầu cuộc thương khó và thực hiện ý định cứu độ nhân loại qua sự vâng phục trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha trong sứ vụ Thiên Sai của Người Tôi Trung.
2. Đức Giêsu vào thành Giêrrusalem để chịu chết
Sứ mệnh cứu độ của Người Tôi Trung đã đến, Đức Giêsu nhất quyết lên Giêrusalem để chịu chết như lời Ngài đã tiên báo với các môn đệ: "Thày đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại" (x. Mt 16, 21).
Đức Giêsu biết trước điều đó, nhưng vì Ngài đến để thực thi sứ mạng của Chúa Cha: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người" (Ga 4,34). Và, "Chén Cha ta trao, lẽ nào ta không uống". Ngài đã chấp nhận cái chết, để cho chúng ta được sống, như lời thánh Phaolô đã nói: "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Nhờ Người mang những vết thương của anh em mà anh em đã được chữa lành" (1Pr 2,24).
Hôm nay, Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Ngài đã thực sự sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời" (Ga 12, 23-25). Ngài đã chấp nhận đi theo con đường khổ nạn để đến vinh quang.
3. Sứ điệp Lời Chúa cho con người hôm nay
Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay nhắc nhớ mỗi người chúng ta luôn hướng Thiên nhằm tìm thánh ý Thiên Chúa để thi hành. Chỉ khi nào chúng ta làm mọi sự theo thánh ý Chúa, thì khi đó ta mới được cứu độ. Đồng thời cũng phải hướng tha để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Con đường đó là con đường vâng phục; khiêm nhu và phục vụ; con đường của hạt lúa; con đường của khổ giá. Nói chung, con đường đó là con đường hẹp, con đường từ bỏ ý riêng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sẵn sàng từ bỏ ý riêng của con để thay vào đó là ý Chúa. Xin cho con biết khiêm tốn và nhạy bén để nhận ra thánh ý Chúa mà thi hành. Xin cho biết dấn thân phục vụ và sẵn sàng chấp nhận tất cả vì phần rỗi của anh chị em con. Và, xin cho con được vác thập giá mình mà theo Chúa lên đồi Canvê, để được sống với Ngài trong vinh quang Phục sinh. Amen.
45. Con Chiên vô tội
(Cố Lm Hồng Phúc)
Hôm nay bắt đầu Tuần Thánh, tuần trọng đại nhất trong năm và Chúa nhật Lễ Lá là Chúa nhật khởi đầu sự Thương Khó Chúa. Hôm nay, Giáo hội bắt đầu đọc lại cuộc Thương Khó Chúa Giêsu theo Thánh Luca. Chúng ta có thể nói rằng Luca đã chia thành 3 ý tưởng chính:
Một là người đặt câu hỏi: Vì sao đời của Chúa lại đến nông nỗi này? Và người đã đi tìm nguyên do sâu xa: Đó là quyền lực ma quỉ. Cuộc tử nạn là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và ma quỉ, giữa sự thiện và sự ác. Khi Chúa Giêsu chịu ma quỉ cám dỗ trong rừng vắng, Luca kết thúc câu chuyện bằng một câu: "Ma quỉ rút lui để chờ dịp khác" (4, 18). Thì nay dịp ấy đã đến. Ma quỉ vào trong lòng tên phản bội là Giuđa (22, 3). Ma quỉ muốn sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo (22, 31), và cuộc đau thương trong vườn Giệtsimani được mô tả như là giờ của quyền lực tối tăm đã đến.
Trong cuộc giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tăm tối ấy, Luca cho ta thấy Chúa đã dùng hai thứ khí giới Ngài quen dùng. Trước hết là sự cầu nguyện. Ngài sấp mình xuống cầu nguyện, mồ hôi chảy hòa với máu (22, 40-44). Rồi Ngài tỏ ra nhân từ tha thứ, Ngài đón tên phản bội, Ngài chữa lành đứa đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai, Ngài quay lại nhìn Phêrô vừa chối thầy, Ngài an ủi những phụ nữ khóc than, Ngài cầu cho những kẻ đóng đinh, hứa Thiên đàng cho người ăn trộm, và lời cuối cùng là một lời phó thác: "Con xin phó linh hồn con trong tay cha" (23, 46).
Sau cùng, qua tất cả tường thuật của Luca về cuộc tử nạn, chúng ta thấy nổi bật lên sự vô tội của Chúa. Philatô tuyên bố: Ta không thấy tội gì nơi người này (23, 4), Herođê cũng không thấy Ngài có tội gì, nên dạy đem trả lại cho Philatô (23, 11). Các người phụ nữ Gierusalem cũng không cầm được nước mắt (23, 27-31). Người trộm lành trên thập giá cũng nói lên rằng: "Ông không làm điều gì trái!" (23, 41). Và sau khi Chúa chết, người đội trưởng cũng kêu: "Người này là người công chính" (23, 42), và dân chúng ra về đấm ngực ăn năn vì đã đổ máu một người vô tội.
Ngài là Con Chiên vô tội đã gánh lấy tội lỗi thế gian, tội của chúng ta hết thảy.
Thánh Anphongsô nói: "Tuần Thánh là tuần của Tình yêu, chúng ta hãy đem hết tình để sống những ngày Thánh này. Chúng ta hãy trở về với Chúa. Chúa đang chờ ta và tha thứ cho chúng ta".
Tại một ngôi Thánh đường ở bên Đức người ta còn thấy một pho tượng Thánh giá chuộc tội đặc biệt: Chúa bị treo trên thập giá, nhưng một tay thì còn bị đóng đinh vào thập tự giá, còn tay kia lại buông rũ xuống thân mình. Số là trước đây có một người có tội đã hết lòng sám hối ăn năn đến quì trước pho tượng này. Ông ăn năn nhưng vẫn còn run sợ không biết Chúa có tha cho không? Thì bỗng nhiên, một cánh tay Chúa rút ra khỏi lỗ đinh và ôm chầm lấy cổ ông trong một bộ điệu yêu thương và tha thứ và cánh tay ấy còn thấy ngày nay nơi pho tượng lịch sử.
Chúa cũng đang chờ chúng ta để tha thứ! Chúng ta hãy đến với Chúa trong tuần trọng đại này.
46. Chiến thắng
Mỗi năm, vào ngày này, Giáo Hội đọc lại bài thương khó của Đức Giêsu. Khi nghe bài đọc này, chúng ta được nhắc nhở về sự nhút nhát của các môn đệ đã từng đi theo Người, mà lại từ bỏ Người trong giây phút gay go nhất, về sự thâm độc của những nhà lãnh đạo tôn giáo, đã bày mưu giết Người, và về sự tàn nhẫn của quân lính đã hành hình Người. Chúng ta cần được nhắc nhở những điều này, bởi vì chúng ta có quan hệ với họ. Nhưng đó không phải là mục đích của bài đọc thương khó, qua đó, chúng ta phải lắng nghe quá nhiều tin xấu.
Bài đọc này không nhấn mạnh đến những tin xấu đó, mà nhấn mạnh đến Đức Giêsu, nhân vật trung tâm của câu chuyện. Chúng ta đang nhớ đến lòng trung thành, đức can đảm, và lòng nhân ái tuyệt đối của Đức Giêsu. Ngược lại với cảnh tối tăm của đồi Canvê, lòng nhân ái của Người lại càng tỏa sáng ra trên vạn vật nhiều hơn. Ngày chết của Người không được gọi là "Ngày thứ sáu buồn thảm", nhưng là "Ngày thứ sáu tốt đẹp". Yếu tố làm cho ngày đó trở thành tốt đẹp chính là nhờ tình yêu của Đức Giêsu. "Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của người dám hiến mạng sống mình vì bạn hữu". Tuần này, chúng ta đang nhớ đến tình yêu đó.
Các Kitô hữu tiên khởi đã nhìn vào cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu như là cuộc chiến thắng của sự thất bại. Nhờ Kinh thánh, họ đã đi đến chỗ thấu hiểu được rằng đây chính xác là cách Đức Giêsu chiến thắng và đi vào vinh quang của Người. Không thể tách rời vinh quang với cuộc thương khó của Người.
Xét về bề mặt, thì dường như thể đó là sự thất bại của Đức Giêsu. Nhưng thật ra, đó không là sự thất bại, mà là cuộc chiến thắng, chiến thắng của sự tốt lành vượt lên trên sự dữ, của tình yêu vượt lên trên lòng hận thù, của ánh sáng vượt lên trên bóng tối, và của sự sống vượt lên trên cái chết.
Câu chuyện về cuộc thương khó cho thấy cách thế Đức Giêsu đáp trả những gì người ta làm cho Người. Người đã nhận lấy tất cả cảnh bạo lực, biến đổi nó, và xoay chuyển thành tình yêu thương và sự tha thứ. Đây chính là chiến thắng của tình yêu vượt lên trên tất cả những sức mạnh hủy diệt. Nơi Người, không có gì cả, mà chỉ có tình yêu. Ngay cả khi người ta đóng đinh tay chân Người, thì Người vẫn cứ yêu thương. Suy nghĩ về điều này sẽ mang lại ích lợi, khi chúng ta đang phải trải qua thời kỳ khó khăn.
Thật là niềm an ủi cho chúng ta, khi biết rằng chính Đức Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ. Tuy nhiên, nỗi đau khổ của Người sẽ bị lãng phí, nếu Người không chịu đựng đau khổ vì tình yêu. Không phải nỗi đau khổ của Đức Giêsu cứu độ thế gian, mà chính nhờ tình yêu của Người. Bất cứ ai giả vờ yêu mến nỗi đau khổ đều là kẻ điên rồ. Đau khổ là điều gì đó mà bạn nên hết sức tránh né. Tuy nhiên, chúng ta lại vui mừng được chịu đau khổ vì người mình yêu thương. Chính tình yêu của chúng ta đã đem lại ý nghĩa cho nỗi đau khổ của chúng ta. Đức Giêsu là vị Mục Tử nhân hậu đã chịu chết vì yêu thương đàn chiên của Người.
Nếu chỉ đơn thuần chịu đựng đau khổ mà thôi, thì chẳng làm được gì cho linh hồn của chúng ta, ngoại trừ việc chất thêm gánh nặng. Chính nhờ tinh thần mà chúng ta mang vác gánh nặng của mình. Tất cả than và gỗ trên thế giới này đều không thể sử dụng được, nếu không có ngọn lửa.
Không phải việc chịu đựng đau khổ mới giải thoát được thế giới, nhưng là tình yêu. Thiên Chúa không muốn chúng ta phải đau khổ, nhưng Người muốn tình yêu của chúng ta. Tuy nhiên, tình yêu không tránh khỏi việc mang lại đau khổ. Nhưng tình yêu còn đưa đến niềm vui vĩ đại nữa. Người Kitô hữu không được chấp nhận đau khổ, mà phải biến đau khổ thành sự thánh thiện. Chính tình yêu làm cho nỗi đau khổ trở nên thánh thiện.
47. Làm chứng
Trong ngày Chúa nhật lễ lá, các môn đệ của Đức Giêsu đã hoàn toàn nhận ra được lòng tin của họ nơi Người và lòng trung thành đối với Người. Điều làm cho việc bày tỏ sự ủng hộ của họ càng trở nên đáng khen hơn, đó là vì hành động này được thực hiện trong sự nghiến răng cay đắng chống đối của người Pharisêu. Khi một số người Pharisêu đến phản đối Đức Giêsu, Người phán rằng: "Họ mà làm thinh, thì chính những viên sỏi đá cũng sẽ kêu lên". Có những cơ hội đòi hỏi một sự minh chứng công khai. Đây là một trong những trường hợp này. Đây là trường hợp duy nhất, mà Đức Giêsu chấp nhận một điều gì đó tương tự cảnh được dân chúng sùng bái như một vị anh hùng. Người biết rằng các môn đệ của Người có quyền và có nhu cầu được công khai diễn tả lòng tin của họ nơi Người. Nhưng người ta lại nghi ngờ về lời cam kết của các môn đệ. Không phải là người ta nghi ngờ về sự chân thành của họ, nhưng đó là một sự đáp ứng của công chúng, và khi dân chúng hùa theo như vậy, thì thường có tính cách ồn ào hơn là có chiều sâu. Thật dễ dàng trong việc làm chứng cho Đức Giêsu ở nơi đây, trong nhà thờ. Chúng ta đang ở giữa những người cùng vây cánh với chúng ta. Nhưng không phải là chuyện dễ dàng, để làm chứng cho Người trong một thế giới hững hờ và đôi khi còn thù địch nữa.
Có những lúc chúng ta cần phải tuyên xưng lòng tin của mình nơi Đức Giêsu một cách công khai. Và có những khi hoàn cảnh đòi buộc chúng ta phải làm như vậy.
Những viên đá sẽ không biết nói ra. Chỉ có con người mới có thể làm được điều đó. Chúng ta đừng nên giữ im lặng nữa, khi có một tiếng kêu đòi hỏi chúng ta phải nói ra: lời nói ủng hộ, để bảo vệ một người nào đó đang bị đối xử bất công ; lời nói khen ngợi một người nào đó, mà sự đóng góp của họ đang bị quên lãng ; hoặc lời nói lên sự thật, ở nơi nào mà người ta cố tình nói dối. Nhưng nói ra không phải là điều dễ dàng. Giữ im lặng thì dễ dàng hơn và an toàn hơn nhiều. Như vậy, chúng ta hãy cẩn thận, trong khi tuyên xưng lòng tin của mình vào Đức Kitô ở nơi đây, trong nhà thờ, sao cho chúng ta không phớt lờ hoặc chối từ Người tại nơi công cộng. Đức Kitô nói với chúng ta "Bất cứ kẻ nào tuyên xưng về Ta trước mặt những người khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người đó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời". Chúng ta có thể rút ra được nguồn cảm hứng từ các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Trong Tin Mừng, họ được biết đến như là những người không e ngại trong việc thừa nhận những hoài nghi, nhu cầu và sự thiếu lòng tin của mình. Tuy nhiên, trong ngày Chúa nhật lễ lá đầu tiên, họ đã mạnh mẽ và gan dạ trong việc làm chứng cho Đức Giêsu. Xin Chúa rủ lòng thương xót trên chúng ta, là những người môn đệ nhút nhát và đầy sợ hãi của Người, và ban cho chúng ta lòng can đảm, để cuộc sống của chúng ta có thể mang lời chứng về lòng tin mà chúng ta tuyên xưng.
48. Yêu cho đến cùng
('Như Thầy Đã Yêu' – Thiên Phúc)
Tại nhà thờ chính tòa Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá nổi tiếng được chạm trổ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ đinh và vòng ra phía trước như ôm một con người.
Tương truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thứ tha tội lỗi. Nhưng vì tội ông quá lớn, quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng tay âu yếm để bày tỏ lòng Chúa khoan dung hải hà.
Trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Chúa Giêsu đã bày tỏ tấm lòng yêu thương con người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Hôm nay, Người quyết định bước vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến. Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người.
Nhưng trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo trước: "Quỉ rút lui để chờ dịp khác". Dịp ấy hôm nay đã đến. Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung, tham của này, dùng cái hôn nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo để Phêrô thì chối Thầy, còn các ông khác thì bỏ trốn. Vườn Giệtsimani quả thật là nơi giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tối tăm, giữa sự thiện và cái ác. Người dùng phương thế hữu hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường như trong cuộc chiến nội tâm của Người rất căng thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người khỏi uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất.
Thế nhưng, Người vẫn nhân từ thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hòa ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc Người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.
Cuối cùng, Người đã hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Sinh thời Người đã nói: "Không có tình yêu nào cao quí bằng người hy sinh mạng sống vì bạn hữu". Người đã yêu thương con người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết: "Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1b).
Lạy Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Chúa Cha và cũng vì yêu chúng con mà Chúa đã sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ nay cũng biết yêu Chúa hơn yêu bản thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không mong phần thưởng nào khác.
Xin cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ của cuộc đời chúng con, và vững bước theo Chúa trên đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu toàn thánh ý Chúa. Amen.
49. Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
ĐỨC GIÊSU ĐỐI DIỆN CÁI CHẾT
Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức Giêsu vào thành Giêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Giêsu vào thành Giêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Thành công và thất bại trên đời
Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét, Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành công và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Giêrusalem. Cha mẹ Đức Giêsu cũng vẫn lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. "Hôm nay Ngài có lên Giêrusalem không?" Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Giêsu: nếu Ngài lên Giêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ mới đặt câu hỏi!
Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã nói: "không thành công cũng thành nhân". Vấn đề chính là thái độ hay cách cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời.
Đức Giêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết
Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Giêrusalem dịp này, dù rằng đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Giêrusalem thì nói: "Chúng ta cùng lên Giêrusalem để cùng chết với Ngài" (Ga.11, 8.16). Cổ ngữ có câu: "tránh voi chẳng xấu mặt nào". Tại sao Đức Giêsu không "khôn" một chút?
Đức Giêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp người ta tới bắt Ngài: "xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được nên trọn?" (Mt.26, 53). Đức Giêsu đã không biến đá thành bánh để ăn, Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận "thân phận con người" đến cùng trong mọi trường hợp.
Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc sống thường ngày không?
Dâng hiến chính mình
Đức Giêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì tình yêu "đối với con người", nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.
Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người mình yêu. Yêu như Đức Giêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống. "Tình yêu mạnh hơn sự chết". Sự dữ bất lực trước tình yêu.
Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem "ai là người lớn nhất trong họ" nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hòa. Đức Giêsu dạy các tông đồ: "ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ". Đức Giêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi nên giống Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là thử thách lớn nhất của kiếp người, theo ý riêng bạn?
2. Theo bạn, các tông đồ nên thánh qua những việc nào và bằng cách nào?
3. Bạn có tuyệt vọng bao giờ chưa? Mong ước nào không thành sự đến nỗi bạn tuyệt vọng? Làm sao bạn vượt qua được?
4. Bạn đã yêu và được yêu bao giờ chưa? Làm sao bạn biết người ta yêu bạn?
50. Tin và không tin
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Thưa quý ông bà và anh chị em,
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội bước vào Tuần Thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép và kiệu lá, tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem được người Do Thái tung hô: Hoan hô con vua Davit! Trong suốt Tuần Thánh cũng là tuần lễ Gíao hội theo sát Đức Giêsu trong những ngày cuối cùng của Ngài cho đến khi bước vào cuộc khổ nạn. Khung cảnh ngày lễ hôm nay mang màu sác tương phản, lúc đầu lễ là một cuộc rước tưng bừng theo hình ảnh cuộc rước của dân Do Thái ngày xưa khi Đức Giêsu công khai vào thành Giêrusalem trong tư cách là Vua Mesia, ngay sau đó các bài đọc và bài Tin Mừng lại kể về cuộc thương khó của Người. Trong trình thuật cuộc thương khó cho thấy những người Do Thái đồng hương của Chúa, họ tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu vì họ không tin Ngài là Đấng Mesia - Con Thiên Chúa, trong khi đó chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài thì những người dân ngoại lại tin nhận Ngài là người công chính.
Những người Do Thái họ muốn loại trừ Chúa Giêsu vì thấy Đức Giêsu không như họ nghĩ và Ngài đã không đáp ứng những điều họ muốn, những người này không chấp nhận một vị Thiên Chúa mà lại khiêm nhu mang gương mặt của một người đầy tớ như bài đọc thứ nhất mô tả. Trong khi họ chờ đợi một Đấng Mesia oai phong, bách chiến bách thắng, thì Isaia lại nói về một tôi tớ khiêm hạ, đưa lưng cho kẻ đánh mình, và đưa má cho kẻ giật râu, không tránh né những lời nhạo cười phỉ nhổ.
Hình ảnh người tôi tớ của Thiên Chúa đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng đã đến và sống theo tinh thần của một người tôi tớ phục vụ, và cư xử nhân từ tha thứ, trong khi đó người Do Thái lại muốn một Thiên Chúa phảỉ trừng phạt hết những kẻ mà họ cho xấu xa, như quân La Mã để đem lại sự độc lập và thịnh vượng cho đất nước, họ không chấp nhận Đức Giêsu giao du tiếp xúc với người thu thuế và tội lỗi, họ muốn một Thiên Chúa phải đáp ứng ngay lập tức những thứ họ cần. Chính vì Đức Giêsu đã không như họ mong đợi, nên những người Do Thái đã muốn mượn tay Philatô để loại trừ Ngài.
Để thực hiện ý đồ này, những người lãnh đạo Do Thái đã không ngần ngại vu khống bịa chuyện, xuyên tạc để có cớ lên án Chúa Giêsu. Những người Do Thái cho là Chúa Giêsu nói phạm thượng khi Ngài xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng đến từ Thiên Chúa và làm những việc của Thiên Chúa, họ cho rằng Chúa Giêsu lộng ngôn khi dám tuyên bố tha tội cho người mù và người bại liệt, và là người vô đạo khi vi phạm trầm trọng luật nghỉ việc ngày Sabat. Từ những xung khắc ban đầu hoàn toàn chỉ là những vấn đề liên quan đến niềm tin tôn giáo và những cáo buộc về tôn giáo tại dinh Caipha, thì sáng hôm sau, vì nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu, những người Do Thái đã dẫn Chúa Giêsu đến dinh Philatô và bịa ra những vấn đề chính trị xã hội để cáo buộc Ngài, và vu cho Ngài như là một tội phạm chính trị: Tên này đã xúi dân làm loại, đã tự xưng mình là vua, đã ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế La-mã.
Bài tường thuật cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã trở thành nạn nhân của con người và trở thành trò chơi cho các thế lực và như quả bóng trên sân chính trị của con người. Tất cả những việc làm vì yêu thương của Chúa đối với dân chúng, thì giờ đây lại bị coi như là những thứ để họ đùa cợt, trong khi quan Philatô không tìm ra tội gì nơi Chúa Giêsu thì những người Do Thái lại đòi giết Ngài, Philatô muốn phủi trách nhiệm của mình không chỉ bằng việc rửa tay để cho rằng mình là người vô can, mà ông còn chuyển giao Đức Giêsu cho vua Hêrôđê để khỏi mang trách nhiệm. Vua Hêrôđê, đùa cợt coi thường và còn thách thức Chúa Giêsu làm vài phép lạ để xem cho vui, và khi không được như ý muốn, thì ông cho rằng Chúa Giêsu là một người điên và trả lại cho Hêrôđê. Mặc dù việc làm này cho thấy Chúa Giêsu trở thành như quả bóng bị đá qua đá lại giữa những người có thế lực, như Thánh Luca lại cho thấy, nhờ Chúa Giêsu mà Hêrôđê và Philatô đã trở nên thân thiết với nhau xóa bỏ được sự thù hằn đã lâu.
Từ sự căm thù, mà những thượng tế và luật sĩ đã cố tình muốn đưa Đức Giêsu đến cái chết, mặc dù Philatô đã mượn cả Hêrôđê để cho thấy Chúa Giêsu là người vô tội, nhưng các thượng tế và luật sĩ vẫn muốn loại trừ Ngài, và đánh đổi Ngài để lấy một tên trộm cướp giết người tên là Baraba. Cuối cùng Philatô cũng phải chiều theo ý họ, giao Đức Giêsu vào tay họ để họ thỏa mãn cái ác của mình và đem đi đóng đinh. Kế hoạch của người Do Thái đến đây đã thành công, kẻ mà họ muốn loại trừ đã ở trong tay họ, cái ác đã thắng thế và càng ngày càng đi đến tột cùng, họ điên cuồng gào thét, họ hả hê thỏa mãn vì thành công của mình là đã loại trừ được Đức Giêsu bằng việc đóng đinh Ngài vào thập giá và đứng dưới chân thập giá để nhạo cười thách thức Người: nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.
Còn về phía Chúa Giêsu, Ngài đã im lặng và đón nhận tất cả những sự độc ác và gian dối mà con người đang trút xuống trên Ngài, với lòng tin vào quyền năng và sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác, của Thiên Chúa trên ma quỷ, của tình yêu thương trên hận thù. Trên cây thập giá khi mà tay chân bị đóng chặt vào cây gỗ, đau đớn đến tột cùng vì sư phản bội của các môn đệ, sự bội bạc tráo trở vô ơn của dân chúng, và sự độc ác dã man của con người, Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa Cha để xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân loại cho những người gây ra cái chết cho mình, cho những kẻ đang nhạo cười Người: Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc họ làm. Chính khi ở trên cây thập giá Chúa Giêsu đã làm cho tình yêu thương trổ sinh hoa trái là sự tha thứ, và chính lúc bị treo, bị mọi người từ chối, thì viên sĩ quan người Rôma lại nhận ra kẻ tử tội mà ông vừa mới hành hình là Người Công Chính, là Con Thiên Chúa. Viên sĩ quan này đã tin vì đã chứng kiến từ đầu của bản án và thấy ở nơi Đức Giêsu sự nhân từ và tha thứ, điều mà ông chưa bao giờ thấy ở nơi các tử tội khác.
Thưa quý ông bà và anh chị em, không phải chỉ có người Do Thái ngày xưa họ muốn loại trừ Chúa Giêsu, mà ngày nay thế giới và con người cũng vẫn đang muốn tìm mọi cách để loại trừ Ngài. Trong Tông Thư Cánh cửa Đức tin, Đức Thánh Cha Benedictô cũng cho thấy thế giới ngày hôm nay vẫn đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, ra khỏi thế giới và ra khỏi tâm hồn họ. Con người ngày nay dường như họ sợ Thiên Chúa ngăn cản lối sống buông thả dễ dãi của họ, họ sơ Thiên Chúa đòi họ phải sống nghèo khó thay vì chạy theo lối sống vật chất hưởng thụ, họ sợ Thiên Chúa đòi họ phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy thay vì trả thù trả đũa, cấm vận, và người ta không muốn chấp nhận một Thiên Chúa đòi con người phải từ bỏ phải hy sinh và dám sống theo ngài, chính vì thế mà người ta tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống họ.
Không chỉ những người vô thần hoặc thế giới đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa, mà ngay những người mang danh là Kitô hữu, cũng đang xa rời Ngài, vì cho rằng Đức Kitô gây cản trở cho tự do của họ. Chính vì thế, nhiều người tín hữu ngày nay mang danh là Kitô hữu nhưng lại không thực hành niềm tin của mình, không hiểu biết về Thiên Chúa và không yêu mến Ngài, và cũng không có Chuá trong tâm hồn, vì nhiều người đã lười biếng không đón nhận Ngài vào tâm hồn, không muốn để cho lời Ngài hướng dẫn mình, họ sống một đời sống tôn giáo khô khan, không tham dự nghi lễ hoặc chỉ tham dự một cách hời hợi cho qua lần.
Chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự đặt cho mình cầu hỏi: tôi có còn tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không và tôi sẽ phải làm gì để tuyên xưng và diễn tả đức tin ấy trong cuộc sống hiện tại của tôi?
Cầu chúc cho mọi người có những ngày Tuần Thánh thật sốt sáng, theo sát Đức Giêsu trên con đường yêu thương và dành những phút thinh lặng trong ngày để chiêm ngắm về một tình yêu đến cùng mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Amen.
51. Cùng theo Chúa
(Lm. Nguyễn Nguyên)
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu bằng việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao cành lá "Hoan hô con Vua Đavít" có vẻ giống một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc đời Chúa Giêsu.
Thật vậy, khi cho chúng ta nghe lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu, không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa một vòng quanh nhà thờ hay trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng theo Chúa khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều. Tin mừng cho thấy không một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Bước vào tuần thánh, người tín hữu kytô chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kytô trên con đường thập giá. Những nẻo đường không phải lúc nào cũng thuận lợi, êm ái. Vì luôn có đó những thánh giá - đời cũng như đạo.
Đúng như vậy, bước đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá hôm nay, cho dù chúng ta không bị đòn vọt, tù tội, không có mão gai, không bị đóng đinh vào tay chân, không bị lưỡi đòng đâm thâu, nhưng cũng không kém phần khốc liệt. Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải đối diện với nỗi đau đớn của sự phản bội, vu khống, bội bạc của những người đang cùng sống với chúng ta. Thậm chí, có khi sự vô ơn, bội bạc đó còn đến bởi những người thân yêu nhất của chúng ta, những người cùng chung chăn chung gối, anh chị em trong một nhà, con cái, bạn bè...
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta đặt vật chất, danh vọng và thú vui là trên hết, còn ta lại chọn Chúa và đặt Chúa làm giá trị cao nhất là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà không muốn sinh con, người ta dễ dàng "khóc", và lớn tiếng kêu gọi "chia sẻ" khi thấy những nạn nhân của sóng thần, thiên tai, nhưng lại cho phép và cổ võ việc giết những con người vô tội, vô phương chống cự, đó là những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, hay những người già yếu, bệnh tật. Còn ta, ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm trong việc sinh và giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta xem lường gạt và dối trá như đút lót, tham nhũng, hay đơn giản hơn, việc "quay" bài của các em học sinh là điều bình thường, còn ta, ta sống chân thật chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Như vậy, bước vào Tuần thương khó, giáo hội mời gọi mỗi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính - đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rũ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác. Tuy nhiên, để có thể bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, chúng ta phải chấp nhận đi ngược với suy nghĩ, với cách sống của con người hôm nay, và lúc ấy người kitô hữu chúng ta sẽ cảm thấy mình như cô đơn, như đang đứng bên lề của xã hội.
Thế nhưng, cho dù vậy, chúng ta cũng không được phép nản lòng, thối chí, bởi vì chúng ta tin rằng, chúng ta không vác thập giá một mình, chúng ta có Đức Giêsu, người Thầy, người bạn, và là Chúa của chúng ta cùng vác với chúng ta. Và nếu chúng ta dám đi trọn con đường thập giá với Ngài, thì chắc chắn, cuối cùng chúng ta cũng sẽ được cùng Ngài hưởng trọn niềm vui của cuộc Phục Sinh vinh hiển. Xin Chúa Giêsu, Đấng đã từng chịu đau khổ thêm sức cho mỗi người chúng ta, để chúng ta cùng chết với Chúa nhờ đó mai sau được cùng Người phục sinh vinh hiển. Amen.
52. Ba nỗi đau khổ
(Lm. Mark Link)
"Chúa Giêsu đã chịu đau khổ trong ba phương cách như chúng ta chịu về tinh thần, thể xác và tâm linh"
Trong thời thế chiến II, linh mục Titus Brandsma làm viện trưởng một đại học tại Hòa Lan. Ngài bị Đức Quốc Xã đem về trại tập trung ở Dachau. Nơi đây, ngài bị biệt giam trong một chiếc cũi nhốt chó cũ kỹ. Bọn lính gác mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như chó mỗi lần chúng đi ngang qua. Cuối cùng ngài bị chết vì bị tra tấn. Bọn lính kia đâu có ngờ rằng ngay giữa cơn thử thách, vị linh mục ấy vẫn tiếp tục viết nhật ký giữa những dòng chữ in trong quyển sách kinh cũ của ngài. Ngài kể lại rằng, sở dĩ ngài có thể chịu đựng được nỗi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ như thế. Trong một bài thơ ngỏ gởi Chúa Giêsu, ngài viết: "Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa. Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan. Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi. Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con." (Kilian Healy, Walking with God).
Sự thống khổ của Chúa Giêsu được chúng ta đặc biệt nhắc lại trong ngày hôm nay đã từng là nguồn sức mạnh cho rất nhiều người trong lịch sử. Giống như linh mục Brandsma, những người này sẽ không bao giờ chịu đựng nổi sự đau đớn nếu họ không biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ như vậy, và Ngài hiện đang nâng đỡ họ trong giây phút thử thách.
Khi nhìn lại sự thống khổ của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người đã chịu đau khổ dưới cả ba hình thức khác nhau.
Trước hết là đau khổ tinh thần. Chúa Giêsu chịu đau khổ này trong vườn Cây Dầu, Người đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến thử thách trước mặt, đồng thời Người rất đau khổ khi các môn đệ phản bội và bỏ Người chạy trốn hết. Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm sự đau khổ tinh thần này, tỉ như một cậu bé 15 tuổi bỏ nhà ra đi đã mô tả sự đau khổ tinh thần của mình trong cuộc phỏng vấn của tạp chí Parade như sau: "Tôi không bao giờ thực sự có được một mái nhà, tôi không bao giờ được thực sự nhìn thấy người cha của tôi. Tôi luôn cô độc... Tôi cảm thấy có gì sái quấy nơi tôi. Chắc là tôi tệ lắm. Tôi cảm thấy mình không hiện hữu, vì chẳng có ai yêu mến tôi." Trong lúc đau khổ tinh thần như thế, chúng ta chỉ còn một nguồn an ủi duy nhất, đó la biết rằng chính Chúa Giêsu từng bị đau khổ như thế trước chúng ta, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong khi bị thử thách.
Tiếp đến, Chúa Giêsu từng bị đau khổ nơi thể xác. Người bị đánh đập tàn bạo, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Và chúng ta, ít nhiều cũng đã từng chịu những đau đớn phần xác. Đây là loại đau đớn mà bác sĩ Sheila Cassidy đã phải gánh chịu khi ở Chile vào đầu thập niên 1970. Cô là một bác sĩ y khoa và đã phạm một lỗi lầm tai hại là đã chữa lành vết thương cho một phần tử chống đối chính phủ. Cảnh sát đã bắt cô và tra tấn buộc cô phải khai tên những người dính líu đến phong trào chống đối.
Giống như Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, cô cũng bị căng thây trong bốn ngày. Nhớ về sự thử thách ấy cô viết:
"Tôi cảm nghiệm được một cách mơ hồ về sự đau đớn mà Chúa Giêsu từng chịu. Trong suốt cơn thử thách, tôi luôn luôn cảm thấy Người ở đó, và tôi nài xin Người giúp tôi được kiên vững."
Cũng thế, trong giờ phút chịu đau đớn thể xác, chúng ta thường chỉ còn nguồn an ủi là biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau đớn như thế, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong cơn thử thách này.
Và cuối cùng, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cũng từng chịu đau đớn về tâm linh. Tỉ như, khi Người bị treo bơ vơ trên thập giá, dường như chính Chúa Cha cũng đã ruồng bỏ Người. Chúa Giêsu cầu xin: "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao Ngài lại bỏ rơi con" (TV 22:1). Tất cả chúng ta cũng từng gặp đau khổ tâm linh giống như Người. Nhiều lần, chúng ta cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Đây là sự đau đớn mà Walter Ciszel, vị linh mục người Hoa Kỳ đã từng chịu khi bị cầm tù ở Nga suốt 23 năm. Có lúc, tâm linh ngài bị suy sụp đến mức gần như tuyệt vọng. Nhưng thay vì đầu hàng, ngài lại biết noi gương Chúa Giêsu trên thập giá, hướng về Thiên Chúa Cha trong cơn thử thách. Cha Walter Ciszel viết:
"Tôi thưa với Chúa rằng, hiện giờ mọi khả năng của tôi đều cạn kiệt và chỉ còn Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của tôi... Tôi chỉ có thể mô tả lại cảm nghiệm này giống như một sự 'phó mặc'"
Vào lúc bấy giờ, lần đầu tiên, cha Ciszel hiểu được những lời cuối cùng trên thập giá của Chúa Giêsu: "Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha" (Lc. 23:46). Về sau, cha Ciszel nói rằng chính quyết định phó thác ấy đã giúp ngài kiên định và sống sót.
Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba sự đau đớn mà con người có thể gặp phải. Người đau đớn tinh thần vì bị các môn đệ phản bội. Người đau đớn thể xác vì bị tra tấn, và sau cùng Người đau đớn tâm linh khi cảm thấy bị Chúa Cha bỏ rơi. Đây chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu trao lại cho chúng ta, để khi gặp bất cứ đau khổ nào, chúng ta cũng biết hướng về Chúa Giêsu. Người hiểu được sự đau khổ của chúng ta và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Từ đó, chúng ta hãy trở lại câu chuyện mở đầu nói về Cha Brandsma. Khi gặp đau đớn dưới bất cứ hình thức nào, không có gì tốt hơn là chúng ta hãy lập lại những lời mà Cha Brandsma đã cầu nguyện với Chúa Giêsu: "Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa. Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan. Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi. Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con."
53. Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, hôm xưa và hôm nay
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Qua bài thương khó năm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta vô vàn đau khổ mà Đức Giê-su Ki-tô phải chịu vì tội lỗi chúng ta. Người ta đua nhau lên án Chúa Giê-su, xô đẩy Người vào chỗ chết.
Trước hết, "các thượng tế và kinh sư tìm cách thủ tiêu Chúa Giê-su" (Lc 22,2).
Biết trước những khổ đau hết sức khủng khiếp sắp giáng xuống trên mình, Chúa Giê-su "lâm cơn xao xuyến bồi hồi", Người cầu nguyện khẩn thiết với Chúa Cha. Người kinh hoàng đến nỗi "mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất" (Lc 22,44).
Dù vậy, cả ba môn đệ thân tín được Chúa Giê-su đem theo Người vào vườn Dầu vẫn say ngủ li bì, không màng gì đến nỗi thống khổ Thầy mình đang chịu (Lc 22,45).
Kế đó, Giu-đa dẫn đầu một đám đông mang gươm giáo gậy gộc đến bắt Chúa Giê-su như bắt một tên gian ác (Lc 22,47). Các môn đệ còn lại bỏ trốn. Sau đó, Phê-rô theo Người xa xa nhưng rồi cũng đã chối bỏ Chúa đến ba lần. (Lc 22, 57. 58. 59). "Những kẻ canh giữ Đức Giê-su thì nhạo báng đánh đập Người" (Lc 22, 63). Còn "các thượng tế và kinh sư thì tố cáo Người dữ dội" (Lc 23, 10).
"Cả vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu" (Lc 23, 11).
Về phần mình, Phi-la-tô muốn tha cho Chúa Giê-su, nhưng dân chúng lại đòi: "Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!"
Khi Phi-la-tô tỏ ý muốn tha Chúa Giê-su lần thứ hai, thì dân chúng "cứ một mực la lớn: "Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!
"Lần thứ ba, ông Phi-la-tô biện minh rằng Chúa Giê-su không làm gì nên tội đáng phải chết, thì "họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội" (Lc 23, 20-23).
Thế là rốt cuộc, ông Phi-la-tô phải trao Chúa Giê-su cho họ. Họ bắt Người vác thập giá đến pháp trường.
Rồi khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái" (Lc 23, 33)
Các thủ lãnh, cả lính tráng cũng cười nhạo Người. Ngay cả một trong hai tên gian phi cùng chịu án thập giá với Chúa Giê-su cũng nhục mạ Người dù Người đang bị treo thân trên thập giá. (Lc 23,39)
Hôm nay, Chúa Giê-su vẫn còn tiếp tục chịu khổ hình
Trước muôn vàn đau thương Chúa Giê-su phải chịu; trước bao lăng nhục, nhạo cười, phỉ nhổ trút lên Chúa Giê-su, những người con cái Chúa có đem lại cho Người một chút an ủi nào chăng hay đang đồng lõa với đám dân vô ơn để lăng nhục Người?
Biết bao lần con cái Chúa đã vô tình hùa theo quân nhạo báng để phỉ nhổ Chúa Giê-su khi gây ra những điều tai tiếng khiến cho khuôn mặt của Giáo Hội và Chúa Giê-su bị lem luốc thảm hại.
Biết bao lần con cái Chúa đã quất những lằn roi xé thịt vào thân mình Chúa khi họ gây ra đau khổ hay thương tích cho người khác.
Biết bao lần con cái Chúa đã thọc sâu lưỡi đòng vào tim Chúa khi chạy theo xa hoa, lạc thú mà bỏ rơi bao người cùng khổ quanh mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Khổ nạn Chúa chịu hôm xưa chắc chắn ít nhức nhối đau thương như khổ nạn mà Chúa đang chịu hiện nay.
Nỗi đau của Chúa càng tăng thêm vạn lần hơn khi chính con cái trong nhà lại trở thành những tên đao phủ, những người hành hình Chúa cách tàn bạo bằng vô vàn tội lỗi dưới mọi hình thức của mình.
Biết đến bao giờ chúng con mới cảm thương những đớn đau Chúa chịu do tội chúng con gây ra và biết rằng đã đến lúc phải dừng tay lại, đừng tiếp tục hành hình Chúa nữa?
19/03 Người Công Chính
- Viết bởi Mt 1, 16. 18-21. 24a
Người Công Chính
Thứ bảy tuần 5 mùa Chay – THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".
* Thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria, có sứ mạng "chăm sóc Đức Giêsu như một người cha". Nhưng Chúa đã muốn người chủ Thánh Gia ở Nagiarét tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh, thân thể của Chúa Kitô. Đức Maria là Mẹ của Hội Thánh thì thánh Giuse là Đấng che chở Hội Thánh.
Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thánh Giuse, người đi trong đêm tối
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Trong các bức vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ Thánh Giuse đưa Ðức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập. Bầu trời đen thẫm, một vài tia chớp lóe lên ở cuối chân trời vừa soi đường cho Thánh Giuse, vừa báo hiệu cơn giông bão sắp tới. Ðức Maria bồng Chúa Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa. Cả người, cả lừa như lẩn vào màn đêm. Bức tranh không chỉ đẹp ở nét vẽ gợi cảm mà còn đẹp về ý nghĩa. Ngắm nhìn bức tranh, tôi thấy hiện lên cả cuộc đời Thánh Giuse, một đời bước đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối đức tin, Ngài đã sống chung với Ðức Maria và Chúa Giêsu, những con người của huyền nhiệm. Một người bình thường đã là một thế giới huyền bí. Một con người của huyền nhiệm lại càng sâu xa bí ẩn hơn bội phần. Ði bên những huyền nhiệm cũng như đi trong đêm tối, Thánh Giuse không hiểu gì hết. Không hiểu mà vẫn phải đón nhận. Không hiểu mà vẫn phải tin, phải yêu. Không hiểu mà vẫn phải đồng hành hết suốt cuộc đời. Thánh Giuse giống như một người lính canh, được cấp trên giao cho một chiếc hộp đóng kín. Người lính canh chỉ có nhiệm vụ canh giữ mà không được phép mở ra. Trong hộp có gì? Có thể là một kho tàng quí giá. Nhưng cũng có thể chỉ là một chiếc hộp rỗng không. Không biết, nhưng vẫn phải canh giữ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối im lặng. Ngài đi trong sự im lặng của Ðức Maria người bạn yêu quí. Trước những mầu nhiệm cao cả, Ðức Maria đã lặng thinh không nói. Ngài đi trong sự im lặng của Ðức Giêsu. Thiên Chúa làm người là một mầu nhiệm ẩn giấu vì Ðức Giêsu không hề hé lộ thân phận. Ngài đi trong sự im lặng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ trực tiếp nói với Ngài. Chỉ có vài lần mà chỉ là những tiếng vọng mơ hồ giữa đêm khuya trong giấc ngủ, vẫn là ngôn ngữ của im lặng. Ngài đi trong im lặng của chính mình. Im lặng đáng sợ nhất là khi phải đối đầu với nguy hiểm, với nghi ngờ, với những vấn đề hệ trọng của đời sống. Im lặng khó hiểu. Khi những gì thân thiết nhất trong đời trở nên bí ẩn, cách xa. Im lặng nguy hiểm. Nó có thể đốn ngã cây cổ thụ, làm chao đảo những niềm tin vững mạnh nhất.
Trong cả 4 Phúc Âm không thấy ghi lại lời nào của Thánh Giuse. Ngài bước đi trong âm thầm lặng lẽ. Thánh Giuse đã đi trong đêm tối lãng quên. Ngài bị lãng quên trong một làng quê nhỏ bé, trong thân phận nghèo hèn của bác thợ mộc. Người ta không bao giờ nhắc đến Ngài. Nếu có nhắc đến cũng chỉ để chê bác ái, dè bĩu, hạ thấp thân phận của Ðức Giêsu: "Giêsu con của bác Giuse thợ mộc tầm thường ấy mà. Có làm gì nên chuyện". Ngài bị lãng quên luôn luôn ở phía sau, luôn luôn chìm trong bóng tối.
Phúc Âm kể về Ðức Maria, sách Tông đồ Công vụ kể về Ðức Maria. Nhưng từ khi Ðức Giêsu khôn lớn không ai nói gì về Thánh Giuse nữa. Ngài chìm vào đêm tối quên lãng. Ngài luôn luôn đóng vai phụ, như hình ảnh người dắt lừa đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối thử thách thân phận nghèo hèn. Sống trong im lặng và lãng quên, nhưng những thử thách Ngài phải đương đầu lại rất cam go. Rất hiền lành, nhưng phải đương đầu với Hêrôđê hung hãn. Mình giữ mình chưa xong, lại còn phải che chở cho một hài nhi sơ sinh và một sản phụ yếu ớt. Nhưng những thử thách khốn khó về thể lý, dù cam go thế nào cũng còn chịu được, những thử thách đức tin mới thật là khủng khiếp. Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa ư? Ðức Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa ư? Thật khó mà tin được. Sao Con Thiên Chúa quyền uy dường ấy lại bé nhỏ yếu ớt nghèo hèn thế này? Sao Vua Trời vinh hiển lại phải trốn chạy một ông vua trần thế. Các thử thách làm cho đêm tối càng đen hơn, càng dày hơn, càng sâu hơn.
Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách còn nặng nề nhưng Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardis nói "Người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm. Ban đêm người bơi lội vùng vẫy làm dao động mặt nước biển có ánh sáng lóe lên chung quanh mình".
Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm lóe lên ánh sáng soi bước cho chân Ngài đi.
Ði trong đêm tối đức tin. Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Ðêm đen lắm nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa và cứ bước đi với Chúa.
Trong đêm tối im lặng, Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phần mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.
Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng, khiêm nhường phục vụ. Khiêm nhường sâu thẳm. Ngài cũng có tâm tình như thánh Gioan Tẩy Giả: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Trong đêm tối thử thách Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào lời Chúa, hoàn toàn phó thác cho Chúa, để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.
Lạy Thánh Giuse, con cũng đang đi trong đêm đen. Xin hãy thắp lên trong con những ngọn đèn của Thánh Cả, soi đường cho con đi đến nơi bình an.
SUY NIỆM 2: Người Công Chính
"Ông Giuse, bạn bà là kẻ công chính và không muốn làm ố danh bà, nên đã định bỏ bà cách kín đáo".
Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của vị thánh mà Giáo hội mừng kính hôm nay: Thánh Giuse, bạn Ðức Trinh Nữ Maria, bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
Ðược Tân Ước gọi là "công chính", Thánh Giuse không những là người đã giữ đức công bình và trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng và một người cha.
Ðược gọi là "công chính", theo ý nghĩa của Kinh Thánh, là được Thiên Chúa công chính hóa, được Thiên Chúa cho tham dự vào sự công chính, sự thánh thiện của Người. Vì thế, người được công chính hóa xứng đáng để Thiên Chúa yêu thương, thương yêu thật sự vì Thiên Chúa không bao giờ đóng kịch, giả vờ như người nào đó đáng được thương yêu nhưng trong thực tế không phải thế.
Trong chiều hướng tư tưởng này, gọi thánh Giuse là kẻ công chính, Kinh Thánh muốn nói là: Ngài được Thiên Chúa công chính hóa và được Thiên Chúa yêu thương vì thật sự Ngài xứng đáng. Lần giở lại những trang Tân Ước có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay những đặc tính làm cho Ngài xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương.
Trước tiên, là đặc tính hoàn toàn vâng phục Thánh ý Chúa. Trong trường hợp cuộc đời Thánh Giuse, Tân Ước diễn tả Thiên Thần là người thông báo cho Ngài biết ý Chúa. Vì thế, nghe lời Thiên Thần truyền, Thánh Giuse đã bỏ ý định ly dị Ðức Maria cách kín đáo. Ngược lại, Giuse đã trỗi dậy ngay trong đêm khuya để đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập cũng như đem Con Trẻ và Mẹ Người về nước Israel, đến sinh sống tại thành Nagiaréth và âm thầm nhưng ân cần lấy sức lao động nuôi sống gia đình trải qua những tháng năm dài sau đó.
Tiếp đến Tân Ước nhắc đến Thánh Giuse trong biến cố thất lạc và tìm gặp Ðức Giêsu trong đền thánh. Qua đó chúng ta khám phá ra một đặc tính khác của Ngài hay nói đúng hơn một đặc tính mà các thánh ký viết Phúc Âm chú ý nhấn mạnh nơi Thánh Giuse: Không một lời nói nào của Ngài được ghi lại trong Tân Ước. Nhưng Thánh Giuse đã hùng hồn nói trong hành động, những hành động xem ra vô lý và đầy nguy hiểm, nhưng Ngài đã khiêm tốn, can đảm và kiên trì làm để thực hiện hoàn toàn thánh ý của Thiên Chúa.
Qua đó, Thánh Giuse xứng đáng là chủ gia đình của Nagiaréth, một gia đình thánh thiện, vì gồm ba tâm hồn luôn sẵn sàng lắng nghe và thực hành những gì Thiên Chúa muốn. Và cũng qua đó, Thánh Giuse trở nên công chính, được Thiên Chúa thực sự yêu thương.
Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa đã trao tặng Thánh Giuse cho gia đình Nagiaréth và đặc biệt cho Giáo Hội Việt Nam. Nhờ lời cầu bàu cho Thánh cả Giuse, xin Chúa chúc lành cho những người chồng, cho những người cha, giúp họ can đảm và kiên tâm chu toàn bổn phận trong gia đình. Xin Chúa cũng chúc lành cho mọi gia đình và Giáo Hội Việt Nam, giúp mọi người sống xứng đáng với ơn gọi làm chứng nhân cho tình yêu Chúa.
(Trích trong 'Lẽ Sống' – R. Veritas)
SUY NIỆM 3: Trung Thành Với Thánh Ý Thiên Chúa
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Cả Giuse, mặc dù thánh nhân chỉ xuất hiện vài lần trong các sách Tin Mừng. Nhưng chừng ấy cũng đủ để Giáo Hội có cơ sở để tôn vinh Người trong vai trò cha nuôi của Chúa Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria.
Thánh Giuse là mẫu người thầm lặng ít nói. Các sách Tin Mừng không ghi lại lời nào của Người, ngay cả lúc tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, thì cũng chính Ðức Maria là người lên tiếng nói với Chúa Giêsu. Thánh Giuse ít nói nhưng người chăm chú lắng nghe các lệnh truyền của Chúa và mau mắn làm theo, nhiều khi các lệnh truyền ấy có vẻ ngang trái bất ngờ. Khi nhận Ðức Maria làm vợ và đưa Mẹ về nhà mình; khi đem gia đình trốn sang Ai Cập; khi hồi hương trở về Nazareth, thánh Giuse luôn luôn trung thành với thánh ý Thiên Chúa mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Hễ Thiên Chúa gọi thì Người lắng nghe; Thiên Chúa nói thì Người vâng lời. Thánh Giuse đúng là một người sống đức tin bằng hành động, không lý luận, không thắc mắc, tâm hồn và thân xác Người luôn sẵn sàng dâng hiến để thánh ý Thiên Chúa được thi hành. Và quả thật, nhờ sự cộng tác đắc lực của thánh Giuse, mà kế hoạch nhập thể của Chúa Giêsu được diễn ra hết sức tốt đẹp. Không đòi hỏi được tuyên dương, thánh Giuse đã làm trọn sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó cho Người.
Lạy Thánh Cả Giuse, nhiều khi con ham nói mà ít chịu lắng nghe tiếng Thiên Chúa, ham suy luận mà ít chịu vâng phục cách triệt để thánh ý Thiên Chúa. Xin thánh nhân dạy con biết noi gương Người, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng và biết sống đức tin bằng hành động. Xin thánh nhân nâng đỡ những người cha trong gia đình để họ sống trọn sứ mạng làm chồng, làm cha. Xin thánh nhân phù trợ Giáo Hội Việt Nam trong vai trò hướng dẫn những người Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô giữa lòng dân tộc.
SUY NIỆM 4: Khủng hoảng gia đình
Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh đến vai trò của gia đình trong cuộc sống của mọi người chúng ta. Theo Công đồng, thì gia đình chính là trường học đầu tiên dạy chúng ta những bài học làm người. Thực vậy, mỗi khi nghĩ về gia đình tôi thường cảm thấy một cái gì thật êm đẹp và ấm cúng, những điều mà bà mẹ dạy cho con khi nó còn ngồi trên gối, những bài học mà người cha đã chỉ bảo cũng như những kỷ niệm, những mẫu gương của đời sống gia đình. Tất cả những cái đó sẽ không bao giờ tàn phai trong cõi lòng chúng ta. Một khi cá nhân đã được canh tân, thì xã hội và Giáo Hội cũng được mang lấy một bộ mặt mới. Chính vì vậy gia đình đã góp một phần rất lớn vào công cuộc xây dựng một Giáo Hội thánh thiện và một xã hội lành mạnh. Gia đình là viên gạch, là nền tảng cho xã hội, gia đình là một tế bào sống của Giáo Hội hay nói một cách khác, gia đình chính là một Giáo Hội được thu nhỏ lại.
Thế nhưng hơn bao giờ hết, hiện nay gia đình lại rơi vào một tình trạng khủng hoảng trầm trọng và bị lung lay đến tận gốc rễ. Nào là tình yêu bị đe doạ với những bộ luật cho phép được ly dị, xoá bỏ những hôn nhân trong đời. Nào là những thai nhi không được bảo đảm với những phương thuốc ngừa thai và phá thai. Bên Âu châu, vợ chồng thay đổi nhau như thay đổi áo. Có những cô đào đã trải qua bảy tám đời chồng mà vẫn chưa tìm thấy một nơi để dừng lại. Cha mẹ thì đau khổ vì con cái, nhưng con cái lại cảm thấy bực bội trước những cấm đoán của cha mẹ. Giữa cha mẹ và con cái có một vực thẳm ngăn cách mà không có lấy một nhịp cầu thông cảm. Con cái nhiều lúc cảm thấy ngột ngạt trong bầu khí gia đình vì những sự la hét, chửi bới của cha mẹ, để rồi thoát ly gia đình, đi bụi đời, sống một cuộc sống lang thang, để rồi giết hại đời minh trong những vui thú tệ hại như cần sa, như ma tuý. Nếu chịu khó ngồi xuống và trong yên lặng hãy suy nghĩ về thực trạng đó, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều lý do tạo nên. Nhưng trong giây phút này tôi chỉ muốn nêu lên một lý do chính yếu đó là thiếu sự nhường nhịn.
Thực vậy, bá nhân bá tánh, mọi người đều có một tính tình riêng, và hơn thế nữa nhân vô thập toàn, mọi người đều có những sai lỗi của mình. Nơi đó trong một nếp sống chung, không thể nào tránh khỏi những bực bội, những buồn phiền, những sai lỗi của người khác. Ngay như đến Thánh gia cũng không thoát khỏi cái định luật chung ấy: Bấy giờ Giuse nhận thấy Maria mang thai không bởi hành động của mình. Sự kiện này đã làm cho Giuse đau khổ không ít, chắc hẳn Giuse cũng đã trải qua những đêm không ngủ để tìm hiểu, để đặt ra những câu hỏi và tìm lấy những câu trả lời, Giuse đã âm thầm chịu đựng. Nếu như chúng ta, thì sẽ phải làm cho ra lẽ. Và trong sự ghen tương, chúng ta sẽ đánh đập người vợ ấy một trận nên thân, rồi đuổi người vợ ấy về với cha mẹ, hay lôi người vợ ấy ra toà để ly thân, ly dị, vì chúng ta không thể chấp nhận được một sự chia sẻ tình yêu như vậy, và chắc hẳn gia đình chúng ta sẽ tan rã. Chính trong sự yên lặng và nhường nhịn, Giuse đã tìm ra chân lý, Giuse đã hiểu được sự thật, Giuse đã vượt qua cơn sóng gió, để rồi chấp nhận và yêu thương Maria như người bạn trăm năm của mình.
Kinh nghiệm bản thân cũng cho ta thấy, một sự nhịn là chín sự lành: Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa chẳng đời nào khê. Chính sự nhường nhịn ấy sẽ tạo nên tình yêu và một bầu khí ấm cúng trong gia đình. Làm sao mà người chồng có thể còn bực tức trước một cử chỉ yêu thương như thế: chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười hớn hở thưa anh giận gì. Chúng ta hãy học cùng thánh Giuse để biết yêu thương nhường nhịn lẫn nhau, giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái. Đồng thời chúng ta hãy xin Thánh Giuse sửa đổi những sai lỗi trong gia đình chúng ta.
Có một người vợ trẻ âm thầm chịu đựng những đau khổ do một ông chồng chơi bời trác táng gây nên ông ta bỏ nhà ra đi không kể ngày và đêm. Người vợ trẻ ấy chỉ còn biết tìm an ủi trong việc tíao dục đứa con duy nhất và xin thánh Giuse hoán cải người chồng của mình. Một buổi tối ông ta trở về nhà nghe thấy có tiếng nói chuyện. Ông ta nhìn qua khe cửa và thấy được một cảnh tượng cảm động: Người vợ đang dạy đứa con cầu nguyện: Con hãy cầu xin cho ba con, người mà má hằng yêu thương và con cũng sẽ yêu thương, con hãy xin thánh Giuse hướng dẫn ba con. Ông ta vô cùng xúc động trước cảnh tượng đó và đã dứt khoát trở về với mái ấm gia đình. Chúng ta cũng hãy xin thánh Giuse phù trợ cho gia đình chúng ta.
SUY NIỆM 5: Suy Niệm về Thánh Giuse
(Cao Huy Hoàng)
Tháng 3 về, chúng ta cùng tạ ơn Thánh Giuse là Đấng bảo trợ mỗi gia trưởng chúng ta trong thời gian qua, và còn sẽ bảo trợ chúng ta trong suốt cuộc đời làm chồng, làm cha, làm ông nội, ông ngoại.
Tỏ lòng tri ân ấy, Chúa không muốn chúng ta chỉ nói lên bằng lời, mà còn phải nói lên bằng cuộc sống gia trưởng theo mẫu gương gia trưởng nhân đức của Ngài. Vì thế, suy niệm về những ngày đời thánh thiện của Thánh Giuse, làm bài học quí giá cho mỗi gia trưởng là thật cần thiết.
Đón nhận nhau trong đức tin
Thiên Chúa đã chọn Thánh Giuse cộng tác vào chương trình cứu chuộc, chương trình mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại, nên có thể nói, người được Thiên Chúa chọn hẳn phải là một người đủ phẩm cách đẹp lòng Thiên Chúa. Và điều đẹp lòng Chúa nhất là Tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Quả thật, nếu đức tin của Mẹ Maria được thể hiện bằng sự khiêm tốn và vâng phục để Thiên Chúa thực hiện mầu nhiệm nhập thể: "Nầy tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như Lời sứ thần truyền. Xin hãy thành sự trong tôi, như Lời Ngài đã phán", thì Thánh Giuse âm thầm không nói gì, không trả lời gì, mà Ngài chỉ làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà: 'Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần'. Điều Thánh Giuse đã làm là một câu trả lời "vâng phục" bằng "đức tin" hùng hồn nhất (x. Rm 1,5; 16,26; 2Cr 10,5-6).
Thế thì, Lời chúc của Elizabet dành cho Mẹ Maria "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,45) cũng chính là lời mà mọi miệng lưỡi phải chúc tụng Thánh Giuse như vậy.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã đón nhận và thực hiện thánh ý của Thiên Chúa là đón nhận nhau, và cả hai cùng đón nhận Phôi Thai Đấng Cứu Thế bằng một đức tin. Từ đó, làm thành một cộng đoàn mới của Thiên Chúa, trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse đón Đức Maria về làm vợ trong lúc Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, quả là một gương đức tin hùng hồn vào Thiên Chúa quyền năng: Thiên Chúa chọn cho Giuse một người vợ. Thiên Chúa chọn cho Maria một người chồng. Thiên Chúa chọn cho Đấng Cứu Thế những người làm Cha Mẹ. Vì quả thực, nếu để tự Giuse chọn, có lẽ Giuse không chọn Maria, vì ngại những tiếng đời dị nghị. Nhưng việc ấy không xảy ra theo ý của Giuse, mà đã xảy ra ngược lại theo ý của Thiên Chúa.
Còn chúng ta, có tin rằng Thiên Chúa đã tham gia vào việc chọn lựa của mình không? Có nhiều người đã sống với nhau bao nhiêu năm rồi, mới ngộ ra là có bàn tay Thiên Chúa định liệu cho việc của Chúa nơi gia đình mình. Có nhiều người cho là chuyện ông trời xe định, nồi nào vung nấy. Nhưng thiết tưởng đức tin công giáo đòi hỏi chúng ta phải xác tín ngay từ buổi đầu của cuộc hôn nhân rằng Thiên Chúa tham dự vào việc tuyển chọn cho mình một người bạn đời theo ý Chúa. Và từ ấy, cuộc sống của vợ chồng trải ra trong sự quan phòng của Thiên Chúa, để tiếp tục công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa và tiếp tục thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Chỉ trong đức tin, cuộc sống của hôn nhân mới có đủ nghị lực để vượt qua những thử thách và bền vững cho đến cùng.
Như vậy, việc đón nhận nhau trong đức tin là bài học trước tiên của đời sống gia đình công giáo. Đón nhận một người bạn đời về chung sống với nhau nên nghĩa vợ chồng, đón nhận con cái Chúa ban trong ánh sáng đức tin, có thể nói là đón nhận tình yêu Thiên Chúa, hồng ân của Thiên Chúa nhằm đến việc thực hiện chương trình mạc khải của Thiên Chúa nơi gia đình là: Tình yêu và cứu độ.
Nhìn lại đời sống gia đình chúng ta, mỗi người có thể suy xét lại và trả lời trước mặt Chúa, rằng ngày ấy con yêu nàng, con cưới nàng làm vợ, có phải vì Đức Tin là để có một gia đình nhằm thực hiện chương trình của Chúa, hay có một gia đình thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta đã đón nhận nhau vì Chúa hay vì ta? để sống cho Thiên Chúa hay cho chúng ta?
Thánh thiện trong đức cậy
Mẹ Maria đã tin tưởng và ký thác toàn thân mình cho Thiên Chúa để Ngài thực hiện ơn cứu độ, thì thánh Giuse cũng cậy trông hoàn toàn vào sức mạnh của Thiên Chúa để vượt thắng những nguy cơ làm mất đi vẻ đẹp tinh tuyền thánh thiện của gia đình Con Thiên Chúa. Việc giữ đức khiết tịnh cho mình và cho người bạn đời, thiết tưởng phải việc ưu tiên hơn cả. Bởi vì thánh ý của Thiên Chúa đã khởi đầu bằng việc Con Thiên Chúa làm người trong lòng một trinh nữ. Và trinh nữ ấy đã khấn nguyện giữ mình đồng trinh đến trọn đời. Như thế, đời sống gia đình của Thánh Giuse, Mẹ Maria và Con Thiên Chúa phải là một đời sống tinh tuyền tuyệt đối nơi cả ba con người.
Với loài người, thì không thể, nhưng với Thiên Chúa thì việc gì cũng có thể. Và chúng ta tin rằng, đức cậy trông nơi Thánh Giuse phải là tuyệt hảo. Chính vì đức trông cậy và nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa, mà Thánh Giuse vượt thắng những yếu hèn của đời người, gìn giữ được đức công chính, vẻ đẹp nguyên tuyền của mình trong trắng thanh cao như nhành huệ, đồng thời bảo bọc được sự đồng trinh trọn đời của người bạn đời chí thiết.
Hình ảnh người con mà đức tin cho biết là "Con Thiên Chúa" trong gia đình, có thể nói là yếu tố quan trọng vào bậc nhất trong việc hình thành đức cậy trông nơi Thánh Giuse. Người "con làm việc của Cha trên trời" và "càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan" là hoa trái của đức cậy trông mà Thánh Giuse đã miệt mài ký thác.
Gia đình chúng ta hôm nay quên nhắm đến hạnh phúc do sự công chính, thánh thiện mang lại, mà chỉ nhắm đến hạnh phúc do những giá trị trần thế ban phát cho. Thật đáng trách cho mỗi gia trưởng chúng ta, khi không hướng gia đình đến đời sống thánh thiện thuần khiết, lại còn vướng vào những trào lưu tục hóa làm mất đi vẻ thánh thiện nguyên tuyền của hôn nhân công giáo. Thêm vào đó, lại không hướng niềm cậy trông vào Chúa mà lại đặt hy vọng nơi những thực tại hão huyền.
Chu toàn trách nhiệm trong đức mến
Hoa trái của Đức tin là đức mến. Đức Mến thôi thúc thánh Giuse chu toàn vai trò làm chồng làm cha trong gia đình. Từ việc đưa vợ về làm sổ bộ, lo cho vợ sinh nở, đưa vợ con trốn sang Ai cập, hồi cư, cắt bì và đặt tên cho con, dâng con vào đền thờ, tìm con khi lạc mất, cùng vợ con kiếm có cái ăn cái mặc... tất cả đều được thể hiện với tình yêu mến.
Chúa Giêsu lớn lên và trưởng thành mặt nhân tính trong cung lòng Mẹ Maria, thực ra trong trái tim yêu thương của Mẹ Maria và trong tấm lòng từ ái của Cha Thánh Giuse. Cả hai đầy tình yêu thương và tính trách nhiệm.
Tình thương đích thực bắt nguồn từ Thiên Chúa, và cụ thể nơi vợ chồng Maria, Giuse: Tình thương đó là hy sinh cho người mình yêu được hạnh phúc. Sự hy sinh ấy bao gồm cả tự do, ý chí, sự sống, thời gian và tất cả những gì tưởng như mình phải được, cũng bằng lòng mất đi. Sự hy sinh ấy được thể hiện với lòng khiêm cung, lịch sự, khoan dung, nhẫn nại. Và sự hy sinh ấy chính là nét họa bản tính của Thiên Chúa trong tâm hồn mỗi con người có lòng yêu mến Ngài.
Cả Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria đều đã thắm đẫm tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu nhau bằng tình yêu của Thiên Chúa, nên việc chu toàn trách nhiệm với đứa con được sinh ra cũng chính là chu toàn trách nhiệm mà Thiên Chúa giao phó trong nhiệm cuộc của Ngài.
Tình mến không vị kỷ. Tình mến không huênh hoang. Tình mến không nóng nảy.... là tình mến của Thánh Giuse. Tình mến chứa chan sự công chính thánh thiện, tràn đầy niềm hân hoan, vẻ dịu dàng, nét khiêm tốn là tình mến của Thánh Giuse. Tình mến ấy phải là tình mến chuẩn mực cho các gia trưởng hôm nay.
Nghĩ về mình, có thể có đôi người trong chúng ta đang được niềm vui mừng vì đã theo gương nhân đức của Thánh Giuse trong đời sống gia đình, nhưng thiết tưởng, đa số trong chúng ta chưa chọn lấy tình mến chuẩn mực của Ngài làm tiêu chí sống đời vợ chồng gia đình. Thật đáng tiếc.
Tháng 3 lại về, tháng kính Thánh Giuse, cho chúng ta một cơ hội nhìn vào gương sống của thánh quan thầy các gia trưởng mà suy nghĩ về:
* Mầu nhiệm gia đình, trước tiên, phải xác tín gia đình là một mầu nhiệm trong nhiệm cuộc sáng tạo và cứu rỗi nhân loại.
* Đức tin của chúng ta, Đức tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng, đã chọn lựa và chỉ định cho chúng ta người bạn đời, để sống với nhau mà thực hiện thánh ý Chúa.
* Đức trông cậy của chúng ta, đức trông cậy duy nhất nơi sức mạnh của Thiên Chúa mới giúp chúng ta sống công chính thánh thiện và bình an hạnh phúc.
* Đức mến của chúng ta, đức mến phải được mặc lấy lòng khoan dung từ bi nhân hậu của Thiên Chúa mà chu toàn bổn phận Chúa giao phó trong sứ mệnh sáng tạo và cứu rỗi ngay trong chính gia đình mình.
Nguyện xin Thánh Giuse cầu thay nguyện giúp cho mỗi gia trưởng chúng con biết noi gương nhân đức Ngài, mà thăng hoa cuộc lữ hành trần thế của chúng con trên đường công chính.
SUY NIỆM 6: Suy Niệm về Thánh Giuse
(ĐGH Gioan Phaolô II)
Anh chị em rất thân mến,
Ngày 19 tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse. Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ trình bày cho chúng ta vị thánh vĩ đại này như là gương mẫu để noi theo, và như là Ðấng bảo vệ để chúng ta cầu khẩn.
Trước hết, thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta. Như Tổ Phụ Abraham, thánh Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, dựa trên "Lời Ngài" đã phán, mà không nhìn thấy được rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.
Hơn nữa, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục, một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn khuất. Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân. Ngược lại, thật là cần thiết biết bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.
Thánh Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế, đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai trị hay phục vụ như thế nào. Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành. Nhất là tôi nghĩ đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse. Tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực hiện "tình cha thiêng liêng".
Nguyện xin thánh Giuse, vị thánh mà dân Kitô tin tưởng khẩn cầu, luôn hướng dẫn những bước tiến của đại gia đình Thiên Chúa. Xin thánh nhân hãy đặc biệt trợ giúp cho những ai đang chu toàn vai trò làm cha tự nhiên hoặc thiêng liêng. Xin thánh Giuse hãy cùng đồng hành với những lời khẩn cầu của chúng ta và xin Mẹ Maria khẩn cầu cùng Chúa cho chúng ta, Mẹ là vị hôn thê đồng trinh của thánh Giuse và là Mẹ của Ðấng Cứu Chuộc.
+ Gioan Phaolô II
(bản dịch của Nguyễn Việt Nam)
18/03 Ðường chân lý
- Viết bởi Ga 10, 31-42
Ðường chân lý.
Thứ sáu tuần 5 Mùa Chay.
"Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".
Lời Chúa: Ga 10, 31-42
Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?"
Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa".
Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".
Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ðường chân lý
Ðây là lần thứ hai những người Do Thái muốn ném đá Chúa Giêsu vì Người xưng mình là Con Thiên Chúa. Sự xung khắc giữa hai bên, một bên vì sự thật, bên kia vì mê muội, càng ngày càng gia tăng. Chúa Giêsu cương quyết thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó cho Người bất chấp mọi nguy hiểm, kể cả nguy cơ bị giết chết. Người Do Thái cũng nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu vì họ cho Người phạm thượng. Cuộc đối kháng sẽ đi đến cao trào vào ngày lễ Lá khi Chúa Giêsu công khai vào thành Giêrusalem với tư cách là Ðấng Mêsia. Về phía các đối thủ của Chúa Giêsu, họ cũng lập một kế hoạch để trừ khử Người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người Do Thái khăng khăng buộc tội Chúa Giêsu, họ cho rằng Người đã nói phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa. Họ không thèm đếm xỉa đến những việc tốt lành Chúa Giêsu đã thực hiện, cũng không thèm nghe những lời người khác làm chứng về Chúa Giêsu để xét xem Người có phải là Ðấng Mêsia hay không? Càng đối chất với Chúa Giêsu, họ càng trở nên ương ngạnh, ngoan cố. Vì tự ái và để bảo vệ tư lợi, họ không còn quan tâm đến tính cách khách quan của sự kiện, đầu óc họ bây giờ chỉ còn một ý nghĩ duy nhất chiếm ngự đó là phải khử trừ Chúa Giêsu bằng bất cứ giá nào. Sự giận dữ nung đốt lòng họ, biến họ thành những kẻ gian ác, như hình ảnh những tá điền hung dữ mà Chúa Giêsu đã mô tả trong các dụ ngôn Người giảng dạy trước đây.
Người xưa có nói: "Giận mất khôn", người Do Thái vì giận Chúa nên không còn kể gì sự khôn ngoan hay rồ dại nữa. Ðã biết bao lần Chúa Giêsu nhắc đến Chúa Cha. Người cố tình nhắc đi nhắc lại nhiều lần để mong họ thức tỉnh mà suy xét lại. Biết họ giận dữ, Người vẫn tiếp tục nói, không phải Chúa muốn chọc giận họ mà là muốn họ ăn năn sám hối và được cứu rỗi. Sứ mạng Chúa Cha đã trao phó cho Người, Người phải thi hành đến cùng. Chúa Giêsu càng thiết tha giảng dạy cho họ, họ càng tức điên lên, Chúa Giêsu càng nói họ càng tức giận và cuối cùng, không dằn được cơn giận họ đành tóm lấy Chúa Giêsu để trừng trị cho hả dạ. May thay, Chúa Giêsu đã lánh ra khỏi chỗ họ mà đi sang bên kia sông Giordan.
Khung cảnh bên kia sông Giordan lắng dịu và khách quan hơn, ở đó có nhiều người đến với Chúa Giêsu, những người này là những người thành tâm thiện chí, họ muốn tìm ra sự thật về vị Thầy Giêsu mà dân chúng xôn xao bàn tán bấy lâu. Dư luận nói tốt về Người cũng có, mà dư luận nói xấu về Người cũng chẳng thiếu, họ bình tâm đứng giữa hai luồng dư luận và để tìm hiểu những lời ông Gioan đã nói về Chúa Giêsu, họ tin vào sự chân thật của ông Gioan, bởi ông được mọi người công nhận là một ngôn sứ đích thực. Ông đã nói nhiều điều về Chúa Giêsu, và những điều đó đã xảy ra đúng như lời ông nói. Lời chứng của một người chân thật thì phải là một sự thật, thế thì chắc chắn Chúa Giêsu phải là Ðấng Mêsia mà Kinh Thánh đã từng tiên báo. Dù có nhiều điều họ chưa hiểu tường tận, nhưng dựa vào lời chứng của Gioan, họ đã tin vào lời Chúa Giêsu và họ đã tìm đến với Người. Tấm lòng rộng mở của họ đã dẫn họ đến với sự thật.
Hai cách hành xử của hai nhóm người trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây là những gợi ý quý báu cho chúng ta khi phải nhận định đánh giá các nguồn dư luận quanh ta hàng ngày về Chúa Giêsu. Là những người yêu chuộng sự thật, chắc chắn chúng ta biết mình sẽ chọn con đường nào để đạt tới chân lý, để đến với Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn chân lý và là nguồn sự khôn ngoan. Xin ban cho con một trí óc luôn bình tâm sáng suốt, một con tim luôn khách quan vô tư, để con có thể nhận xét mọi người mọi việc quanh con và tìm ra sự thật mà đến với Chúa. Xin cho con cũng biết tích cực làm chứng cho sự thật mà mình đã xác tín.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Sống theo Chúa.
Có người hỏi chị Lubich: "Làm sao chị có thể theo dõi hàng trăm ngàn người trên thế giới? Làm sao chị có thể hướng dẫn những người theo cùng một linh đạo?" Chị mỉm cười trả lời: "Tôi không theo dõi ai cả. Tôi chỉ theo Chúa từng giây phút và nếu tôi sống theo Chúa thì những người khác sẽ theo tôi".
Bí quyết sống của chi Lubich thật ra được gợi hứng từ nếp sống của chính Chúa Giêsu. Ngài đã không nói suông, nhưng đã hành động, đã thi ân cho những ai thành tâm, tìm đến với Ngài. Ngài đã sống điều Ngài giảng dạy và luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa. Ngài đã như nài nỉ những kẻ không tin Ngài rằng: "Nếu các người không thể tin những lời Ta nói thì ít ra hãy tin những việc Ta làm".
Trong các cuộc tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu đã mạc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan giữa Ngài và Chúa Cha: "Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha". Nhưng người Do Thái không thể hoặc không muốn tin vào Chúa, họ vẫn khăng khăng coi Ngài chỉ là một con người, do đó họ đã lượm đá ném Chúa vì cho Ngài lộng ngôn khi dám xưng mình là Thiên Chúa. Những người Do Thái này đã quá chìm sâu trong tội lỗi của họ. Họ vui lòng với những gì đang làm, họ không cảm thấy cần đến ơn cứu rỗi.
Người Kitô chúng ta ngày nay cũng có thể bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục: chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu như một con người, một nhà cách mạng xã hội không hơn không kém. Chúng ta có thể bị cám dỗ lượm đá ném Chúa và những gì liên hệ đến Ngài.
Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã nhắn nhủ: "Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi người khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ họ tốt đẹp hơn cả, con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. Đó là trách nhiệm của người kitô hữu; không được làm ngơ để người khác ném đá Chúa... Mỗi phút giây, con đang thực hiện chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Bị dồn vào chân tường
Người Do-thái lại lấy đá ném Đức Giêsu. Người bảo họ: "Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi". Người Do-thái đáp: "Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một việc phạm thượng: Ông là người thường mà lại tự cho mình là Thiên Chúa." (Ga. 10, 31-33)
Một ông bạn nói, khi bị dồn vào chân tường thì chưa chắc đã xấu. Câu nói hóm hỉnh đó tiết lộ một kinh nghiệm nội tâm đặc biệt. Người ta có thể hiểu dễ dàng rằng toàn diện con người ông sẵn sàng sống với mọi biến cố.
Chính con người khi hoàn toàn bị dồn vào chân tường và thấy bất lực trước những biến cố, thì ý nghĩa của những biến cố đó giúp chúng ta thoát khỏi ngõ bí. Ai không sống trải qua cái cảm giác cùng cực và đối diện kinh khủng trước cái chế diễu của người thân yêu, của người tình tự tử hay một sự im lìm nặng nề, thì đó có phải là người của Thiên Chúa không?
Chính trong những lúc đặc biệt đó, chúng ta cảm nghiệm được sự nghèo khó tột độ thực sự của con người chúng ta. Người ta có thể muốn từ chối sự yếu đuối của mình, điều đó thường dẫn đến thất vọng, trái lại, người ta có thể biến nó thành bàn nhảy nhảy vọt tới hy vọng như lời thánh Phao-lô nói: "Chính lúc tôi yếu, là lúc tôi mạnh" (2Cor. 12, 10).
Hiểu câu nói trên theo kiểu loài người, thì người ta phải kêu lên là nghịch lý. Nhưng theo ngôn sứ Giê-rê-mi-a, thì người ta có thể nói: "Đấng thấu suốt tâm can tôi. Chính Ngài tôi phó trót mọi nỗi khúc mắc của tôi". Vì "cái điều điên dại trước mắt kẻ lý trí, lại trở nên khôn ngoan trước mắt Thiên Chúa".
Khi chúng ta khiêm nhường nhận ra sự nghèo khó của chúng ta và dâng sự khổ đó lên Đấng toàn năng, thì đó là cách diễn tả chân thực về nhu cầu cần thiết của chúng ta phải trông cậy vào Thiên Chúa. Chính nhờ thế, Thiên Chúa có thể hành động giúp chúng ta. Chúng ta chẳng có thể cho mình giàu, nhưng ước mong nên giàu nhờ Thiên Chúa ban.
Mùa chay kêu mời chúng ta ăn năn trở về cùng Thiên Chúa, Đấng đợi chờ mỗi người chúng ta trở về với Ngài, với con tim khó nghèo. Muốn thực hiện được như vậy, có cần phải bị dồn vào chân tường không?
C.G
17/03 Niềm tin và lý trí
- Viết bởi C.G
Niềm tin và lý trí.
Thứ năm tuần 5 Mùa Chay.
"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".
Lời Chúa: Ga 8, 51-59
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Niềm tin và lý trí
Trong cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chàng Hải Âu Kỳ Diệu, tác giả kể về một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được ước mơ lướt cánh tung trời. Chàng bay tới những vùng mà các con chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới. Sau chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trở lại với bầy, chàng kể cho bầy chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe chàng nói, lòng chợt dậy lên khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện ước mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.
Khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái về thế giới của Thiên Chúa, họ đã chế nhạo Người, cho rằng Người bị quỉ ám nên mới ăn nói lung tung như thế. Chúa Giêsu vẫn không nản lòng, và vẫn tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của mình, một lần nữa. Người dùng danh xưng Hằng Hữu để khẳng định rằng mình từ Thiên Chúa mà đến. Câu nói ấy đã khiến người Do Thái phẫn nộ và định ném đá Người.
Ðược sống mãi không phải chết là ước mơ muôn thuở của con người, thế nhưng khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái rằng nếu họ tuân giữ Lời Người dạy bảo thì họ sẽ khỏi phải chết, họ lại chế nhạo Người là bị quỉ ám. Nếu xét thêm mặt ngoài của sự kiện thì quả thật họ là người có lý. Họ lý luận như sau: "Bây giờ chúng tôi biết chắc là ông bị quỉ ám. Ông Abraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy. Thế mà ông lại nói: ai tuân giữ lời tôi thì sẽ không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Abraham hay sao?" Họ lý luận rất chặt chẽ, nhưng chính cái chặt chẽ ấy lại là một sợi xích cột chặt họ lại khiến họ không thể cất cánh bay cao. Họ có lý nhưng tổ phụ Abraham ngày xưa đã chẳng lý luận gì khi nghe theo lời Giavê Thiên Chúa kêu gọi mà từ bỏ quê cha đất tổ để ra đi. Những người Do Thái có lý nhưng theo lối lý luận của con người. Thiên Chúa thì không dựa theo lý lẽ của con người để thực hiện công việc của mình, Thiên Chúa làm theo cách của Ngài. Những ai muốn nhận ra chương trình của Thiên Chúa thì cũng phải tập nhìn mọi sự theo cách nhìn của Ngài. Những người Do Thái không muốn nhìn như thế, họ nhìn vào Chúa Giêsu và họ chỉ thấy đó là một con người tuổi chưa đầy năm mươi mà dám khoác lác nói rằng mình đã thấy tổ phụ Abraham, lại còn dám xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa nữa. Họ không thể chấp nhận thái độ cao ngạo và phạm thượng ấy. Họ phải ném đá kẻ ngông cuồng này. Quả đúng như lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người. Người đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1, 9-11).
Cũng như tình yêu, đức tin không dựa trên lý lẽ. Lý trí có thể đưa chúng ta đến bên bờ của đức tin, rồi để mặc chúng ta ở đấy. Không phải lý trí bỏ rơi chúng ta nhưng lý trí không thể giúp chúng ta vượt qua được mép bờ huyền nhiệm của đức tin. Ðứng trên mép bờ huyền nhiệm ấy, tác động thích hợp duy nhất là yêu mến và phó thác. Tổ phụ Abraham đã yêu mến Thiên Chúa và đã phó thác mọi sự cho Ngài và đã được toại nguyện. Ðức Maria cũng đã khẳng định tương tự. Các thánh cũng hành động như thế; còn chúng ta, chúng ta hành động ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: "Ai tuân giữ Lời Ta thì sẽ không bao giờ phải chết". Con không thể hiểu được lời này bằng lý luận mà chỉ có thể và sống lời ấy với tâm tình yêu mến và hoàn toàn phó thác vào Chúa mà thôi.
Lạy Chúa, xin hãy gia tăng đức tin cho con. Con tin nhưng xin Chúa thương trợ giúp cho sự cứng lòng kém tin của con.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Xét đoán mù quáng.
Khi mới về xứ Ars chỉ vỏn vẹn 300 người, cha Vianney đã khởi sự xây dựng giáo xứ bằng cầu nguyện, hy sinh, hãm mình. Dần dần giáo dân từ nhiều xứ tuôn đến để nghe Ngài dạy giáo lý và để xưng tội với Ngài. Các linh mục đồng nghiệp đều biết cha Vianney trước đây rất tầm thường và học hành rất dốt, cho nên vì ghen tương đã trình lên Đức cha địa phận rằng nhiều lần cha Vianney đã giải sai các nguyên tắc thần học luân lý. Nghe thế, Đức cha cho gọi cha Vianney đến và giao cho cha một số trường hợp tội khó giải để cha giải trên giấy tờ rồi nộp lại cho Đức cha. Vài ngày sau, cha làm xong đem nộp và được các nhà chuyên môn khen là giải đáp đúng và khôn ngoan.
Các linh mục đồng nghiệp của cha Ars đã xét đoán theo tiêu chuẩn tự nhiên của lý trí, cộng thêm lòng ghen tỵ. Những xét đoán sai lầm đó càng làm cho các ngài mù quáng tinh thần nhiều hơn. Đó cũng là thái độ của những người Do Thái, không tin Chúa, không chấp nhận chân lý mạc khải như được kể lại trong Tin Mừng hôm nay.
Trong cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mạc khải thêm về thân thế của Ngài, về nếp sống của những ai tin nhận Ngài: "Ai giữ lời Ta thì muôn đời sẽ không phải chết". Với cái nhín và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa: "Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám". Một vị Thiên Chúa đã bị con người bôi nhọ, chụp mũ. Con người dễ tin theo những sự thật khác hơn sự thật của Chúa. Vả lại, sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ganh tỵ hám danh.
Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã viết: "Đức Kitô là Sự thật, không phải báo chí là sự thật, không phải truyền thanh, truyền hình là sự thật, con theo loại sự thật nào? Giàu hay nghèo, sang hay hèn, khen hay chê, không sao cả. Chấp nhận tiến trên đường hy vọng hồng phúc về ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Không nhượng bộ xác thịt, không nhượng bộ lười biếng, không nhượng bộ ích kỷ. Con không thể gọi đen là trằng, xấu là tốt, gian là ngay được".
Trên con đường canh tân của Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy dừng lại xét mình về thái độ của chúng ta trước những chân lý mạc khải và trước chính Đức Kitô, Đấng đang thôi thúc chúng ta tiến trên đường tin, cậy, mến.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Trí nhớ hạn hẹp
Đức Giêsu đáp:
"Nếu tôi tôn vinh chính mình,
vinh quang của tôi chẳng là gì cả.
Đấng tôn vinh tôi chính là Chat tôi,
Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông.
Các ông không biết Người;
Còn tôi, tôi biết Người.
Nếu tôi nói là tôi không biết Người
Thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông
Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người. (Ga. 8, 54-55)
Trong một xã hội có cơ cấu tổ chức như xã hội chúng ta, mọi thứ trôi theo cuộc sống buộc chúng ta phải giữ trọn nhiều giao kèo, khế ước, hợp đồng. Chúng có nhiều loại, nhiều kiểu khác nhau. Thứ này thì lâu dài như khế ước kết hôn. Thứ khác thì ngắn hạn, như giao kèo mua bán. Dù là thứ nào, hai bên hợp đồng phải tự ràng buộc mình giữ đúng lời nói hay ký kết và tôn trọng sự cam kết của mình. Được như thế, người ta gọi là trung tín. Rất đáng trách kẻ bê trễ hay quên tôn trọng những lời cam kết của mình đối với phía cho vay mượn. Sự quên lãng hay bê trễ luôn là một sức nặng đè lên đời sống cá nhân.
Có thể chúng ta cũng có thứ trí nhớ hạn hẹp đó chăng? Có thể lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng hạn hẹp như vậy! Đã có lần trong lịch sử đời ta, Thiên Chúa đã can thiệp để ấn ký một giao ước đời đời giữa Ngài với chúng ta, như Thiên Chúa đã nói với Áp-ra-ham: "Và ngươi, ngươi sẽ giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi từ đời này tới đời kia". Mỗi người chúng ta nhờ bí tích Rửa tội, đã ký kết một bản giao kèo với Thiên Chúa, một giao ước được ấn ký long trọng tuyên thệ dứt khoát và đời đời trong máu thánh Đức Giêsu Kitô.
"Chúa đã luôn nhớ lời minh ước của Ngài". Thánh vịnh đã ca tụng Chúa như vậy. Vâng, Thiên Chúa luôn luôn trung thành và không bao giờ quên lời cam kết của Ngài đối với chúng ta. Còn chúng ta thì sao?
Noi gương Thiên Chúa, chúng ta phải trung thành nhắc nhở chúng ta nhớ đến minh ước tình yêu đã nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Bội ước, bất trung, nếu chúng ta không tôn trọng lời đã cam kết.
Đức Giêsu Kitô dạy chúng ta hôm nay: người nhận biết Thiên Chúa phải sống lời minh ước. "Tôi biết Ngài và giữ lời Ngài" (c. 55). Sống lời Chúa mỗi ngày, chúng ta sẽ được lời Chúa soi sáng, đó là dấu chỉ bảo đảm chắc chắn nhất về lòng trung thành của chúng ta đối với minh ước của Chúa. Lúc đó Thiên Chúa sẽ rất gần gũi với chúng ta. Chúng ta sẽ không còn sợ có một trí nhớ hạn hẹp chóng quên lời giao ước.
C.G