Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
10/10 Con đường yêu Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Con đường yêu Chúa.
Thứ Ba tuần 27 thường niên.
"Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".
Lời Chúa: Lc 10, 38-42
Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".
Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lắng Nghe và Chiêm Niệm
Ngày nay, những tiện nghi do tiến bộ kỹ thuật mang lại đang tạo ra một nền văn hóa mới đặt tính hiệu năng và khả năng tiêu thụ lên hàng đầu bậc thang giá trị: người được đánh giá cao là người tài giỏi, giầu có, làm ra tiền và có khả năng tiêu thụ cao. Trong một nền văn minh như thế, dĩ nhiên những giá trị luân lý, tôn giáo hoặc bị đưa xuống thành thứ yếu, hoặc bị quên lãng và ngay cả bị chà đạp. Ðây là một thách đố lớn lao đối với Giáo Hội. Giáo Hội qua các Kitô hữu hiện diện như một dấu chỉ của cuộc sống mai hậu và những giá trị siêu việt, nhưng liệu các Kitô hữu có còn đủ thức tỉnh và can đảm làm chứng cho những giá trị siêu việt ấy không hay chính họ cũng chiều theo cám dỗ chạy theo dòng đời, thỏa hiệp với những sức mạnh tăm tối đang xói mòn những giá trị luân lý đạo đức và loại bỏ chiều kích thiêng liêng ra khỏi cuộc sống con người?
Tin Mừng hôm nay có thể được lắng nghe và suy niệm với nỗi thao thức ấy. Chúa Giêsu hẳn không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Marta tất bật với việc tiếp đãi khách, và một của Maria ngồi bên chân khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên ân cần. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Marta. Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản mà con người phải có đối với Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe và chiêm niệm.
Hơn bao giờ hết, sự hiện diện của những người hiến dâng cho việc cầu nguyện và chiêm niệm là một trong những kho tàng quí giá nhất của thời đại chúng ta, để nhắc nhở cho thế giới rằng cuộc sống con người không chỉ giản lược vào điều mà thánh Phaolô gọi là chuyện ăn, chuyện uống, tôn thờ cái bụng, và rằng cuộc sống chỉ có giá trị và đứng vững vì chính chiều kích siêu việt, thiêng liêng của nó.
Trong một bài nói chuyện với các nữ tu của một Dòng Kín tại Mêhicô năm 1979, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao sự hy sinh của họ như sau:
"Cuộc sống của chị em quan trọng hơn bao giờ hết; sự hiến thân trọn vẹn của chị em đầy tính thời sự. Trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất, hỡi các nữ tu thân mến, các chị lại dấn thân vào các tu viện Kín để làm chứng cho những giá trị mà các chị sống cho. Các chị là những chứng nhân của Chúa cho thế giới ngày nay; với lời cầu nguyện, các chị đang thổi một luồng sinh khí mới vào trong Giáo Hội và con người ngày nay".
Những lời của Ðức Gioan Phaolô II không chỉ đề cao chứng từ của các Tu sĩ chiêm niệm, mà còn nhắc nhở cho các Kitô hữu về chính chứng từ của sự cầu nguyện của họ. Có những người hiến thân trọn vẹn cho sự cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không phải là độc quyền của một số người, mà phải là hơi thở cho tất cả những ai có niềm tin. Có những giây phút dành cho việc cầu nguyện đã đành, nhưng người Kitô hữu phải sống thế nào để biến cả cuộc sống của họ thành lời cầu nguyện. Chiêm niệm không chỉ là hoạt động dành riêng cho một số người hay một số giờ hoặc một số nơi nhất định. Chiêm niệm chính là thái độ tìm kiếm, lắng nghe và suy niệm bao trùm mọi sinh hoạt của người Kitô hữu.
Nguyện xin Chúa nung nấu sự khát khao trong tâm hồn chúng ta, để chúng ta luôn hướng về Ngài, tìm kiếm Ngài và kết hiệp với Ngài trong mọi sự. Nguyện xin Mẹ Maria là Ðấng luôn cất giữ và suy niệm mọi sự trong lòng, hướng dẫn chúng ta trong thái độ cầu nguyện và chiêm niệm của Mẹ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Lao Ðộng Và Cầu Nguyện
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Mácta đáng cho ta suy nghĩ thêm. Các nhà chú giải đề ra hai điểm. Trước hết Chúa Giêsu không có ý định giảm giá trị của công việc tiếp rước Chúa mà Mácta đang làm nhưng Ngài cảnh tỉnh Mácta về nguy hiểm Mácta đang lao vào, đó là thái độ ganh tị, thái độ muốn tách rời Maria ra khỏi Chúa Giêsu; kế đến Chúa Giêsu làm nổi bật một điểm tốt mà Maria đã biết rút ra từ hoàn cảnh, đó là đến ngồi bên Chúa lắng nghe và nói: "Việc lắng nghe Chúa có ưu tiên hơn, vì con người không sống nguyên bởi bánh mà thôi, nhưng còn do bởi lời Thiên Chúa phán ra. Vì thế, hãy tìm nước Thiên Chúa trước rồi mọi sự khác sẽ được ban cho dư đầy". Chúa Giêsu không đề ra một lựa chọn giữa một trong hai điều: hoặc làm việc, thái độ của Mácta; hoặc chiêm niệm, thái độ của Maria, để rồi chỉ chấp nhận một thái độ duy nhất của Maria mà thôi.
Không có sự đối nghịch giữa hoạt động và chiêm niệm trong đời sống người Kitô, bởi vì cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch là lời Chúa và cùng hướng đến một mục tiêu là phục vụ nước Chúa.
Việc lắng nghe lời Chúa được hướng đến hành động và hành động cần được nuôi dưỡng bởi lời Chúa. Ðây là hai khía cạnh của mối phúc thật: lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Mối phúc thật này đã được Chúa Giêsu tuyên bố khi Ngài trả lời với người nữ từ trong dân chúng cất tiếng chúc tụng mẹ, cũng như trả lời cho những kẻ báo tin cho Chúa biết là có mẹ và anh em Chúa đang chờ, thì lúc đó Chúa Giêsu trả lời: "Nhưng phúc thật cho những ai lắng nghe lời Chúa và tuân giữ lời ấy; những kẻ đó mới là mẹ Ta và anh em Ta". Hai chị em Mácta và Maria nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô cũng như cho mọi người Kitô thuộc mọi thời đại về hai thái độ luôn bổ túc cho nhau, để tiếp nhận nước Chúa được hiện diện nơi chính Chúa Giêsu Kitô. Không phải chỉ cầu nguyện chiêm niệm không mà thôi; cũng không phải chỉ có hoạt động vì hoạt động. Nhưng chiêm niệm và hoạt động phải là hai chiều kích hòa hợp với nhau của cùng một trách vụ, đây là hai yếu tố không thể nào thiếu vắng của việc theo Chúa. Trong những hoàn cảnh cụ thể và tùy theo mỗi hoàn cảnh cụ thể, mà người đồ đệ của Chúa thực hiện việc hòa hợp cụ thể này giữa cầu nguyện và hoạt động. Thật là sai lầm to nếu ta muốn canh tân xã hội mà không cần cầu nguyện, nghĩa là không cần lắng nghe lời Chúa, không đối thoại với Ngài. Ðể hoạt động của chúng ta có thể trổ sinh kết quả, người đồ đệ của Chúa cần dành thời giờ im lặng để lắng nghe lời Chúa và đối thoại với Ngài. Trong ý nghĩa này, chiêm niệm là phần tốt hơn mà Maria đã chọn, nhưng không phải là phần tách rời ra khỏi việc làm, không ăn thua gì đến việc làm. Ðức tin chúng ta phải là đức tin có sức tác động qua đức bác ái, đàng khác cầu nguyện không làm cho người đồ đệ xa lạ với cuộc sống và những vấn đề của con người. Nhưng ngược lại, cầu nguyện làm cho người đó được thêm sức mạnh để hoạt động biến đổi xã hội, ngõ hầu Thiên Chúa được tôn vinh và con người được hạnh phúc.
Lạy Chúa,
Xin giúp con hiểu và thành công hòa hợp được hai yếu tố không thể tách rời của đời sống Kitô đích thực này là làm việc và cầu nguyện. Ước chi mọi việc con làm đều phát xuất từ cầu nguyện, từ việc lắng nghe lời Chúa và được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa, sức mạnh được trao ban trong những giây phút con trở về lắng nghe Chúa nói.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Hành động và chiêm niệm
Chúa đáp: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc. 10, 41-42)
Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Luca kể lại biến cố trong bữa cơm gia đình ấm cúng giữa Đức Giêsu, Matha và Maria, ông đặc biệt lưu ý đến vấn đề chiêm niệm và hành động, không phải chỉ có chiêm niệm hay hành động riêng rẽ.
Chắc hẳn, Đức Kitô không muốn đối lập Maria với Matha. Người chỉ ghi nhận những ưu tiên, nhưng không lên án những hành động của Matha. Cả hai chị em đều mến Chúa bằng nhau! nhưng mỗi người mỗi vẻ. Matha thích hành động, chị cảm thấy cần thiết đón khách chu đáo đàng hoàng mới tỏ ra lòng mến khách, quý khách. Cho nên, chị cần chuẩn bị nhiều thứ.... như vậy rất có lý! nhưng chị quá lo lắng bối rối nhiều chuyện quá. Chúa đã lưu ý chị thế! Chắc chắn là cần thổi nấu, sắp đĩa bát, dọn bàn ăn! quá lo lắng, áy náy không hợp với lúc này! Điều quan trọng chính là họp mặt, gặp gỡ nhau, trao đổi tâm sự hơn là mâm cao cỗ đầy.
Maria, cô ngồi bên chân Thầy rất mến, ngây ngất lắng nghe Người không ngớt! Hai người nói gì với nhau? bản văn không nói gì đặc biệt. Có phải nói về cái chết sắp tới của Người như đã nói với các Tông Đồ, về mọi thứ đau khổ Người mong chờ và chấp nhận để cứu chuộc loài người chăng? Cũng có thể Người nói với Maria về ý nghĩa ngược đời của tám mối phúc thật, về hạnh phúc nước trời. Khó với tới và những đòi hỏi vượt sức loài người của đức ái Kitô giáo! Không ai biết được câu chuyện đó như thế nào! nhưng Maria rất ham thích lắng nghe! Khi người ta yêu, người ta không chán nghe người yêu nói.
Matha bất bình như mọi người hoạt động bất bình với những người chiêm niệm: không làm gì nhưng lại rất hoạt động và hoạt động đúng nhất. Đức Giêsu đã đặt lại những giá trị, Người nói: “Tội nghiệp Matha, chị làm cũng được, Thầy khen chị, cám ơn chị, nhưng hãy tin Thầy đi, chị không biết rằng chị cần thấy: lúc chúng ta ngồi với nhau để chia vui sẻ buồn là tốt nhất, là lịch duyệt và dễ thương nhất! chị thử coi tình yêu chứng tỏ bằng những cử chỉ chị làm lúc này, không thể bằng ánh mắt chăm chú biểu lộ lòng yêu mến đối với sự hiện diện của Thầy được!
Không cần tiếng khua nồi niêu bát dĩa... nhưng cần thinh lặng hết lòng yêu mến tôn thờ”.
GF
Suy niệm 4:
Nếu ở Việt Nam mỗi năm có khoảng mười hai ngàn người chết vì tai nạn giao thông,
thì ở Nhật có ba mươi ngàn người tự sát trong năm qua.
Tai nạn giao thông lắm khi do vội vã, không làm chủ được tốc độ.
Tự sát do áp lực của công việc quá lớn, do căng thẳng, do sợ bị khiển trách.
Xem ra cuộc sống hối hả đã dẫn đến nhiều cái chết thương tâm.
Nhiều người chết bất ngờ vì bệnh tim mạch.
Con người hôm nay có nhiều tiện nghi hơn, nhiều thú vui hơn ngày xưa,
nhưng lại thiếu sự thanh thản, bình an, trầm lắng.
Trong bài diễn văn ngày 20-08-2006 tại Castel Gandolfo,
Đức Thánh Cha đã cảnh báo về nguy hiểm khi làm quá nhiều công việc.
Ngài trích lời thánh Bênêđictô: bị quá tải thường dẫn đến sự chai đá của con tim,
tinh thần bị thương tổn, trí khôn bị mất và ơn Chúa bị phân tán.
Ngài khẳng định lời nhắc nhở này cũng áp dụng cả cho ngài và cho mọi người.
Không được đánh mất mình trong công việc :
đó là tâm niệm của người lãnh đạo trên một tỉ người Công Giáo khắp thế giới.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một giây phút thư giãn của Đức Giêsu.
Trên con đường nay đây mai đó của một người rao giảng,
Đức Giêsu cũng có lúc dừng chân.
Một ngôi làng quen thuộc, một mái nhà ấm cúng, một bữa ăn ngon,
tất cả như một ốc đảo xanh tươi đem lại cho Thầy trò hạnh phúc
sau những vất vả, nhọc mệt, hiểm nguy và thiếu thốn.
Hầu chắc ngôi làng này ở Bêtania, gần Giêrusalem.
Hai chị em Mácta và Maria đã được nhắc đến trong Tin Mừng Gioan.
Mácta là người đón khách và nấu nướng (Ga 11, 20; 12, 2),
còn Maria thì hay phủ phục dưới chân Đức Giêsu (Ga 11, 32; 12, 3).
Những nét này ta lại thấy trong bài Tin Mừng hôm nay theo Luca.
Mácta vẫn là người ra đón Chúa, Maria vẫn là người ngồi duới chân Chúa.
Một người thiên về hoạt động, một người có vẻ trầm hơn.
Nhưng cả hai đều được Đức Giêsu quý mến (Ga 11, 5).
Chúng ta cần chiêm ngắm cuộc chia sẻ của Đức Giêsu với chị Maria.
Chị ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Người (c.39).
Đức Giêsu là người nói và chị Maria là người nghe.
Ngài có thể đã chia sẻ với chị về đời sống nội tâm và việc tông đồ của ngài.
Được chia sẻ và có người nghe mình chia sẻ là một hạnh phúc.
Còn chị Maria thì sung sướng được ngồi nghe trong tư thế của một môn đệ.
Người ta có cảm tưởng chị có thái độ thụ động khi nghe.
Thật ra để lắng nghe cần tích cực mở tai và mở lòng.
Lắng nghe Lời Chúa là cần trước khi đem ra thực hành.
Mácta đón Chúa vào nhà,
còn Maria đón Lời Chúa vào tâm hồn mình.
Có thể định nghĩa cầu nguyện là ngồi và lắng nghe Chúa nói.
Một số người tưởng cầu nguyện là phải nói thật nhiều cho Chúa nghe.
Thật ra Chúa muốn bày tỏ cho ta những ước mơ của ngài về ta,
nên ta cũng cần dành khoảng lặng cho ngài.
Nghệ thuật đối thoại cũng là nghệ thuật thinh lặng lắng nghe.
Trong khi Maria ngồi nghe Chúa nói,thì Mácta tất bật dưới bếp.
Mácta bối rối về nhiều chuyện phục vụ (peri pollên diakonian, c. 40).
Chị sợ bữa ăn không được chuẩn bị chu đáo và kịp thời.
“Em con để con phục vụ một mình”: chị thấy cô đơn trong công việc.
“mà Thầy không quan tâm sao?”: chị nghĩ lẽ ra Thầy nên để ý chuyện ấy.
“Xin Thầy bảo em giúp con một tay”: chị muốn Maria xuống bếp giúp chị.
Mácta thật là người tốt, chị muốn tiếp đãi Đức Giêsu đàng hoàng.
Nhưng có lẽ chị quên rằng Maria cũng đang tiếp đãi Đức Giêsu,
và ngài rất vui với cách tiếp đãi đó.
Nếu đưa Maria xuống bếp phụ cho chị, thì Thầy Giêsu nói chuyện với ai?
Chúng ta cũng dễ say mê làm việc của Chúa, đến nỗi quên cả việc gặp Chúa.
Có khi chúng ta coi trọng hiệu quả của công việc ta làm cho Chúa
mà quên dành giờ cho Chúa.
Cầu nguyện là ở với Chúa, nghỉ ngơi bên Chúa,
sống tình bạn với Chúa như hai người ngồi bên nhau.
Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận nhắc ta đặt Chúa lên trên việc-của-Chúa.
Đức Giêsu thông cảm với nỗi căng thẳng, âu lo của Mácta
thể hiện trên khuôn mặt và giọng nói của chị.
Ngài nhẹ nhàng gọi tên chị hai lần : “Mácta, Mácta ơi !”
“Chị băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá!” (peri polla, c.41).
Câu này ngài cũng muốn nói với từng người chúng ta.
Chúng ta cũng lo nhiều chuyện, gánh nhiều trách nhiệm.
“Chỉ có một chuyện cần mà thôi”: ngài mời ta tập trung vào một chuyện cần.
Lo nhiều chuyện làm ta bị phân tán.
“Maria đã chọn phần tốt nhất” :
ngồi dưới chân Chúa là một chọn lựa nghiêm chỉnh giữa những công việc bề bộn.
Đặt Chúa lên trên và lên trước mọi việc khác là một chọn lựa không dễ dàng.
Dù sao Mácta là một thánh nữ, được Giáo Hội kính nhớ trong Phụng vụ.
Chúng ta phải làm Mácta, tận tụy với việc của Chúa, không phải việc của mình,
như thế ta sẽ bình an hơn khi thất bại, khiêm tốn hơn khi thành công.
Chúng ta phải làm Mácta, nhưng không được lo lắng, bôn chôn.
Chúng ta làm mọi việc trong an tĩnh, thư thái, vui tuơi, hài hước,
bởi lẽ Chúa chẳng đòi ta làm quá sức mình.
Chúng ta phải làm Mácta, đảm đang lo nhiều việc, nhưng không được tự hào,
coi thường những người thiếu khả năng, bệnh tật,
hay đánh giá người khác dựa trên hiệu quả công việc.
Chúng ta phải làm Mácta, nhưng không cần ai để ý (c.40).
không coi việc mình làm là quan trọng hơn việc người khác,
vì biết rằng Chúa ban cho mỗi người mỗi việc để phục vụ cho toàn thân.
Cuộc sống hôm nay khiến ta khó làm Maria.
Nhưng phải cố dành giờ để làm Maria mỗi ngày.
Phải thu xếp để được làm Maria, để có người thay mình làm Mácta.
Nghe lời Chúa sẽ dẫn tới hành động: đó là xây nhà trên đá.
Cuối cùng đời sống chúng ta là kết hợp của Mácta và Maria :
vừa đón Chúa như Mácta, vừa tiếp Chúa như Maria,
vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa,
vừa hoạt động, vừa chiêm niệm,
nhưng lúc nào cũng hướng về Chúa.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người. Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
09/10 Người Samaritanô nhân hậu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Người Samaritanô nhân hậu.
Thứ Hai tuần 27 thường niên.
"Ai là anh em của tôi?"
Lời Chúa: Lc 10, 25-37
Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông". "Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Người Samaritanô Nhân Hậu
Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử với con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Nhiều người đã đi qua..., cuối cùng có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phỏng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế: bàn tay của mình đưa ra để mong tìm được sự nâng đỡ của người khác mà không gặp được.
Người Samaritanô nhân hậu được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay là chính Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, các tư tế, lêvi có lý do của họ: họ đã sống đúng luật, tuy nhiên luật đã giết chết lòng yêu thương của con người vì trọng mặt chữ mà thôi. Chúa Giêsu đã vượt qua luật lệ và hướng dẫn tâm hồn con người lên cao, đi vào chiều sâu của bác ái. Ngài đã đến với từng con người, Ngài không đứng xa nhìn con người đương đầu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Như người Samaritanô nhân hậu, Ngài đến gần bên con người, Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy trắc ẩn, cảm thông, Ngài cúi xuống băng bó các vết thương của họ và còn tình nguyện trả nợ cho họ bằng giá máu của Ngài khi chấp nhận chết trên Thập giá để cứu sống và đưa họ về quê trời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi theo gương mẫu của người Samaritanô nhân hậu là hình ảnh của chính Chúa. Chung quanh chúng ta còn biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau của đồng loại.
Nguyện xin Chúa kiện cường lòng bác ái của chúng ta, một lòng bác ái biết tìm đến, dừng lại và xoa dịu những nỗi khổ đau của người khác; một lòng bác ái vị tha, không bị lấm bẩn bởi bản tính ích kỷ trục lợi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Biến Ðổi Tâm Hồn
Chủ đề chính của đoạn Phúc Âm trên đây là tình yêu thương đối với người lân cận và chủ đề được nhắc đến do bởi hai câu hỏi của luật sĩ: "Tôi phải làm sao để được sống đời đời?" và "Ai là người anh em tôi?"
Chúa Giêsu đã để cho chính luật sĩ phải trả lời cho câu hỏi thứ nhất: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời?", và vị luật sĩ đã trả lời đúng trăm phần trăm, dựa trên chính lời Kinh Thánh mà ông đã biết nằm lòng. Và nếu đã biết rõ như vậy rồi thì đâu còn lý do gì để hỏi Chúa Giêsu nữa. Không cần phải luật sĩ mới trả lời cho câu hỏi này, mọi thành phần dân Chúa đều có thể trả lời. Vấn đề là nơi câu hỏi thứ hai: "Ai là người anh em tôi?" Sự hiểu biết thông thái của luật sĩ làm ông ta lúng túng vì hẳn thật vào thời Chúa Giêsu có nhiều trường phái luật sĩ khác nhau đã cố gắng trả lời cho câu hỏi này, nhưng chưa có câu trả lời nào thỏa đáng cả. Có trường phái cho rằng người lân cận mà luật Môisen buộc phải yêu thương là cha mẹ, bạn bè, người đồng hương. Như thế, nhà luật sĩ có lý do để hỏi Chúa Giêsu: "Ai là anh em tôi?", ông muốn biết những giới hạn của tình thương đối với anh chị em để rồi từ đó xác định những bổn phận cần phải tuân giữ. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari nhân hậu để giúp cho luật sĩ biết là không có giới hạn nào cho tình thương đối với anh chị em và bất cứ ai cần trợ giúp thì người đó là anh chị em của mình. Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đặt lại vấn đề như sau: "Ai trong số những kẻ qua đường là người anh em của kẻ bị cướp?", và dĩ nhiên luật sĩ cũng đã trả lời đúng: "Thưa là kẻ có lòng thương xót người ấy".
Giải quyết vấn đề trên bình diện tri thức hiểu biết xem ra rất dễ, chỉ cần một chút hướng dẫn như Chúa Giêsu đã làm trong dụ ngôn thì ta có thể biết được câu trả lời cho vấn đề, nhưng để vào nước Chúa không phải chỉ có biết mà thôi, cũng không phải chỉ nói Lạy Chúa, Lạy Chúa mà thôi, nhưng còn phải thực hành, phải làm nữa, phải thực hiện lời dạy của Chúa và phải làm ngay không được chần chờ.
"Hãy đi và làm như vậy!" xem ra Chúa Giêsu không muốn vị luật sĩ ở lại để tranh luận lý thuyết với Chúa mãi mãi mà hãy dấn thân hành động, vì thế liền sau câu trả lời thứ hai của vị luật sĩ, Chúa Giêsu khuyến khích ngay: "Hãy đi và làm như vậy!"
Khi phải hành động giúp đỡ anh chị em, chúng ta thường hay có thái độ chần chờ, tìm sự chân thành lý do để tránh né để khỏi phải cho đi, để khỏi phải làm ngay công việc bác ái phải làm. Vì thế, vấn đề là luôn luôn phải sẵn sàng phục vụ, vấn đề bắt đầu từ tâm hồn của chúng ta trước, vì phải có tâm hồn yêu thương, cần canh tân chính mình trước. Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đã đổi lại viễn tượng, đã đổi lại câu hỏi của luật sĩ, câu hỏi không còn là: "Ai là anh em ta?" nhưng là: "Ai là anh em của người bị nạn?"
Khi tâm hồn chúng ta đã được biến đổi rồi, đã có đầy tình yêu Chúa rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn mệnh lệnh yêu thương của Chúa hơn, sẽ yêu thương như Chúa, yêu thương không giới hạn, không tính toán, yêu thương cả đến hy sinh mạng sống mình. Không có tình yêu này to lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương. Vấn đề không phải là biết: "Ai là anh em của tôi?" nhưng vấn đề là biến đổi tâm hồn chúng ta để chúng ta trở thành người lân cận, người anh em của tất cả những anh chị em chung quanh chúng ta.
Lạy Chúa, xin giúp con canh tân chính tâm hồn mình trước và giúp con trở thành người lân cận của tất cả mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Ai là người thân cận của tôi?
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sồng đời đời làm gia nghiệp?”Người đáp: “Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: “ngươi hãy yêu mến Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi, và người thân cận như chính mình.” (Lc.10, 25-27)
Đây là vấn đề chính luôn luôn được đặt ra qua các thời đại: Ai là người thân cận của tôi? Chính ở điều này, Đức Kitô đã hoàn thành một cuộc cách mạng vĩ đại. Người sắp cho ông luật sĩ một bài học sáng giá về bác ái qua một dụ ngôn rất ý nghĩa và rõ nét.
Ông đã hỏi Ngài: “Ai là người thân cận của tôi?”Đức Kitô đã giải đáp vấn đề cho chúng ta biết cách thực hiện ai là người thân cận của chúng ta. Trong những người chung quanh tôi, những người tôi gặp, ai là anh chị em tôi? Đức Kitô nói: “Một người nào đó đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch và đánh nhừ tử người ấy rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết bên lề đường. Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi! cũng thế, một thầy lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, bỏ tránh qua bên kia mà đi! nhưng một người Samari đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương, ông lại gần lấy dầu rượu băng bó vết thương người ấy, đặt lên lừa, đưa về quán trọ mà săn sóc, lấy tiền nhờ chủ quán cứu chữa bệnh nhân!
Một người Samari nào đó chẳng quen biết, thuộc dân tộc ly giáo với Do-thái, họ không thờ Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem nhưng ở núi Garidim! Thế mà ông đã lo chăm sóc cho một người cùng khổ hoạn nạn cướp bóc đánh đập và gánh lấy trách nhiệm cứu chữa. Ông không cần biết đó là ai, dân mình hay dân khác, bạn hay thù! không kể đến tốn phí bao nhiêu! ông chỉ thấy đó là một người cần giúp đỡ. Bác ái không từ bỏ một ai trong bất cứ một hoàn cảnh nào, nơi nào, thuộc hạng nào! bác ái có mặt mọi nơi, nơi nào có khổ sở cần xoa dịu giúp đỡ là có bàn tay êm ái nâng đỡ, có lòng tận lực chi trả, có lời an ủi âm thầm tâm sự, thông cảm mọi cảnh éo le, chia sẻ mọi cuộc sống ngoài lề xã hội, băng bó những xung đột, âu yếm những người bị bỏ rơi, hy vọng làm sáng lên những nơi đen tối, chia vui cho những nơi bị xáo trộn, bất ổn.
Bác ái hiện diện khắp nơi, nơi nào có tiếng nhân loại kêu cùng khổ là có con tim đến tiếp cứu, đến biến đổi nó lên tươi sáng. Bác ái hiện diện trên mọi trận tuyến, bạn cũng như thù, tương trợ lẫn nhau trong khắp thế giới. Lúc đó và chỉ như thế, chúng ta mới là anh chị em thân cận với nhau.
GF
Suy niệm 4:
Trong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)
vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.
Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu
về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).
Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.
Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.
Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận:
“Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,
với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,
và người thân cận như chính mình” (c. 27).
Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).
Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.
Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,
nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.
Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.
Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.
Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi ?”
Ngài đã trả lời bằng một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó ngài mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.
Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.
Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.
Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.
Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.
Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?
Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi.
Cả hai đều phản ứng như nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi (cc. 31-32).
Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.
Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,
vì sách Lêvi (21, 1-3) cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.
Một người Samari là nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân.
Hầu chắc nạn nhân này là một người Do Thái,
vì không có chi tiết nào cho thấy anh ta là dân ngoại cả.
Giữa dân Do Thái và dân Samari vốn có mối hiềm thù từ lâu.
Người Samari này cũng thấy nạn nhân như hai người trước,
nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.
Anh thấy bằng trái tim mình, vì thế anh chạnh lòng thương (c. 33).
điều mà hai người trước không có.
Chính sự thúc đẩy của trái tim đã khiến anh làm một loạt hành động cụ thể:
lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,
đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,
trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần (cc. 34-35).
Lòng thương xót thật sự khiến anh chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,
và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.
Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù biết đó là một người Do Thái kẻ thù của mình,
người Samari đã làm một phép lạ lớn.
Đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,
và biến anh ấy, kẻ thù của mình, trở thành người thân cận với mình.
Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới
của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.
Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị này: “Theo ông,
trong ba người, ai đã trở nên người thân cận với kẻ bị nạn ?” (c. 36).
Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.
Trước khi giúp một người,
tôi không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.
Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.
Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó đang cần chúng ta.
Giúp đỡ cụ thể là cách tạo ra người thân cận
Càng giúp nhiều, ta càng có nhiều người bạn thân.
Vị luật sĩ đã hỏi Đức Giêsu phải làm gì (c. 25).
Kể xong dụ ngôn, Đức Giêsu trả lời: Hãy đi và hãy làm như vậy (c. 37).
Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…
Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,
thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.
Yêu những người nghèo như chính mình, yêu cả những ai đã làm khổ mình.
Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
08/10 Tá điền trổ sinh hoa trái
- Viết bởi Mt 21, 33-43
Tá điền trổ sinh hoa trái.
Chúa Nhật 27 thường niên năm A.
– Kính trọng thể lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI.
Chúa Nhật 27 thường niên năm A.
Lời Chúa: Mt 21, 33-43
"Ông sẽ cho người khác thuê vườn nho".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: "Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?" Các ông trả lời, "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi". Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: "Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!" Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".
Kính trọng thể lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI.
"Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai".
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ".
Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận. Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Is. 5, 1-7; Pl. 4, 6-9; Mt. 21, 33-43
SUY NIỆM LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv. 1, 12-14; Gl. 4, 4-7; Lc. 1, 26-38
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Hoa trái
Câu chuyện những người tá điền nổi loạn chính là diễn tiến của lịch sử cứu độ.
Thực vậy, vườn nho tượng trưng cho Nước Thiên Chúa. Nước ấy khởi đầu được trao cho một số người, nhưng vì sự tráo trở và tàn ác của họ, nên nước ấy đã được cất khỏi họ để trao cho dân tộc khác, biết làm trổ sinh hoa trái.
Trong dòng lịch sử, Thiên Chúa đã chọn cho Ngài một dân riêng, đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, dẫn đưa họ vượt qua biển Đỏ ráo chân, nuôi sống họ bằng manna từ trời xuống và sau cùng ký kết với họ một giao ước của tình thương và trung thành, cũng như cho họ được định cư nơi miền đất hứa. Thế nhưng, họ lại luôn bất trung và thất tín, để rồi Thiên Chúa đã phải gởi đến với họ các tiên tri hầu cảnh tỉnh họ. Tuy nhiên các tiên tri này đều bị họ bạc đãi và giết đi. Cuối cùng, Thiên Chúa đã phải gởi chính Con của mình, nhưng Người Con duy nhất ấy cũng đã bị họ giết chết như một tên tội phạm. Bởi đó, Thiên Chúa đã phải loại bỏ dân riêng của Ngài để thiết lập một dân mới, đó là Hội Thánh.
Dụ ngôn của Chúa Giêsu dĩ nhiên là một lời cảnh cáo đối với những người Do Thái đương thời. Đồng thời cũng là một lời cảnh cáo đối với chính người Kitô hữu chúng ta.
Thực vậy, chúng ta đã lãnh nhận Nước Thiên Chúa, chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu độ. Thế nhưng, ơn cứu độ ấy đã đem lại những hoa trái nào cho cuộc đời chúng ta? Nho thật hay nho dại? Điều chính trực hay chỉ toàn những sự gian ác?
Điều đã xảy ra với dân Do Thái cũng có thể xảy ra với chúng ta, nếu như chúng ta lặp lại thái độ và nếp sống của họ ngày xưa. Ơn cứu độ được ban nhưng không. Tuy nhiên, nó cũng có thể trở thành hòn đá làm cho chúng ta vấp ngã, trở thành bản án cho chính bản thân chúng ta, khi nó không sinh hoa kết qua theo như lòng mong ước của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta không thay đổi nếp sống của chúng ta, thì trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ bị loại bỏ như dân Do Thái thuở trước, để rồi Nước Thiên Chúa sẽ được ban cho những người khác biết đâm bông và kết trái.
2. Vườn nho
Qua dụ ngôn những người tá điền nổi loạn chúng ta thấy ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa đã rào giậu và chăm sóc cho vườn nho của mình. Còn những tá điền nổi loạn chính là dân Do Thái, dân tộc đã được Thiên Chúa chọn lựa và trao ban cho muôn vàn hồng ân. Còn các đầy tớ được sai đến là các tiên tri. Nhờ các tiên tri mà Thiên Chúa biểu lộ thánh ý của Ngài cho họ, thế nhưng họ đã đối xử dã man và tàn bạo đối với những người được Thiên Chúa sai đến. Nào là đánh đập, nào là giết đi.
Sau cùng ông chủ đã phải sai phái chính người con trai duy nhất của mình đến với họ, để tỏ cho họ thấy lòng nhân từ thương xót vô biên của Ngài, nhất là sau những biến cố đáng buồn đã xảy ra. Người con duy nhất này là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô, Đấng đã bị họ giết chết trên thập giá. Cái chết khổ đau này làm cho Ngài liên tưởng tới lời thánh vịnh 118: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường, đó là việc Thiên Chúa đã làm và thực lạ lùng dưới mắt chúng ta. Tảng đá góc tường là nơi câu móc những bức tường của toà nhà, nó nắm giữ một vai trò, một vị trí rất quan trọng.
Cuối cùng Thiên Chúa đã phải bỏ rơi dân Do Thái, để chọn cho mình một dân riêng mới, đó là Giáo Hội, để đem lại cho Ngài nhiều hoa trái.
Câu chuyện trên cũng làm cho chúng ta nhớ tới hinh ảnh vườn nho của tiên tri Isaia. Vườn nho này được chủ hết sức chăm sóc với hy vọng sẽ có được những trái nho đặc biệt, thế nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, khiến cho chủ phải nổi giận: Còn việc gì nữa mà Ta đã không làm cho vườn nho của Ta. Ta mong ước có được những trái ngon trái ngọt, vậy tại sao nó chỉ cho toàn những trái chua trái dại?
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng tâm hồn chúng ta chỉ là một cây nho cằn cỗi? Thiên Chúa cũng đã đổ xuống cho chúng ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, thế mà con người chúng ta vẫn không thể đâm bông kết trái. Có lẽ chúng ta cần phải dừng lại, để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống, trước khi nó đã quá muộn.
Nếu như chúng ta trung thành phụng sự Chúa, thì chúng ta không có chi phải lo buồn sầu khổ. Trái lại, nếu chúng ta đã có những thái độ và một nếp sống như dân Do Thái ngày xưa, thì chắc hẳn, trong giờ phút sau hết, Thiên Chúa cũng sẽ loại bỏ chúng ta và trao ban Nước Trời cho những người khác là những người biết đâm bông và kết trái.
3. Thợ vườn nho
Dụ ngôn những thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại các dụ ngôn Chúa dùng để tỏ lộ thân thế của Ngài là Đấng Thiên Sai. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Chúa Giêsu, khi bị dân Ngài loại bỏ.
Như thường lệ Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ các thực tại mà Ngài nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm vườn nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi vắng xa, chẳng hạn như ra nước ngoài, và để quan lý mùa màng, họ sai những đầy tớ đến với những người thợ làm vườn. Theo luật Do Thái, nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, thì thửa đất ấy sẽ thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này làm cho chúng ta hiểu được lý luận của các thợ làm vườn nho: Đứa con thừa tự đây rồi, nào hãy giết nó đi và chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, người con thừa tự mà chết, đất sẽ thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ.
Qua dụ ngôn này và qua đoạn kế tiếp với hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: Chính Ngài là người con bị bọn thợ làm vườn nho giết đi, chính Ngài là viên đá góc bị thợ xây loại bỏ.
Một cách quyết liệt, dụ ngôn đã đưa ra câu hỏi sau đây: Làm sao giới hữu trách của dân Do Thái lại đi tới chỗ loại bỏ Đấng thiên sai? Tôi xin thưa vì họ đã buông thả theo bản năng chiếm hữu của họ. Chủ vườn nho là Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất của họ. Thế nhưng tinh thần chiếm hữu của họ hệ tại việc áp đặt quan niệm riêng của họ về lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc của họ để lên ngôi thống trị thế giới. Các vị tiên tri đã đến để nhắn nhủ họ, nhưng tất cả đều bị họ giết chết, và sau cùng họ đã đi tới chỗ loại bỏ Đấng Thiên Sai, Con Một của Thiên Chúa. Thay vì phục vụ cho lề luật và dân chúng thì họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ của lề luật và của dân chúng.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ của Tin Mừng, của chân lý hay không? Làm thế nào để phục vụ Phúc Âm mà không chiếm hữu? Tôi xin thưa bằng cách để cho tinh thần Phúc Âm thấm nhập vài cải tạo chúng ta, chứ chúng ta không đọc Phúc Âm, rồi sau đó ngồi sắp xếp Phúc Âm theo ý riêng của chúng ta. Ngày xưa các thầy thông luật đã lèo lái niềm trông đợi của dân chúng tới những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay cũng không thiếu gì những người muốn lợi dụng Phúc Âm để quảng cáo cho một hệ thống chính trị hay một quan niệm xã hội. Chúng ta không có quyền sử dụng và dùng Phúc Âm vào một mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Đức Kitô. Nhiều người muốn chiếm hữu Phúc Âm để mưu cầu lợi ích riêng tư, để rồi cuối cùng đã đi đến chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Tin Mừng mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá góc là Đức Kitô, Đấng chúng ta tìm kiếm và yêu mến, chứ không nên lèo lái Ngài và Tin Mừng của Ngài vào những ý đồ riêng tư của mình.
4. Những tá điền khác
(Barbara E. Reid – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ông chủ sẽ trao vườn nho cho những tá điền khác.” (Mt 21,41)
Những tá điền khác: Họ là ai?
Năm năm trước đây, tại một số quốc gia vùng Ả rập, nhiều cuộc bạo loạn xảy ra, để biểu thị quyền lực hoặc để lật đổ chế độ. Một vài nơi đã thành công trong việc xóa bỏ chính quyền cũ và thành lập chính phủ mới. Một số cuộc cách mạng kết thúc khá ôn hòa, nhưng nhiều nơi những cuộc lật đổ gây nhiều đổ máu và tang tóc. Các biến cố này có nhiều nét tương đồng so với bối cảnh của dụ ngôn được Tin Mừng hôm nay thuật lại. Dụ ngôn đề cập đến cuộc lật đổ của các tá điền đối với ông chủ vườn nho.
Quá bức xúc vì mình không có đất đai để canh tác cũng chẳng có quyền hành gì, những tá điền đã nổi loạn chống lại những sứ giả ông chủ sai tới. Họ còn giết cả đứa con của ông chủ, người có quyền thừa tự, để mong tiếm quyền sở hữu vườn nho về cho mình. Câu 40 trong dụ ngôn đưa ra một câu hỏi khá hóc búa “Trước tình thế đó, ông chủ sẽ xử trí ra sao?”. Câu trả lời, là ông sẽ ra lệnh trừng phạt họ một cách nghiêm khắc. Bạo lực sẽ phải trả giá bằng bạo lực, có khi còn dữ dội hơn. Các tá điền chắc chắn sẽ bị tru diệt một cách không thương tiếc. Chúng ta có thể đọc dụ ngôn này theo một góc nhìn khác, nếu nhìn vào sự vô vọng nơi các tá điền khi họ muốn lật đổ ông chủ, và đòi quyền sở hữu vườn nho dành cho mình.
Theo cái nhìn truyền thống khi đọc dụ ngôn này, chúng ta có những hình ảnh và tình tiết mang tính biểu trưng để so chiếu. Vườn nho biểu thị cho dân Israel, các tá điền là những lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu, ông chủ vườn là chính Thiên Chúa, các sứ giả mà ông chủ sai tới là các ngôn sứ trong cựu ước, và người con của ông chủ chính là Đức Giêsu. Dụ ngôn mà ngôn sứ Isaia nói tới, như được trình thuật trong bài đọc thứ nhất cũng có nhiều nét ẩn dụ tương đồng như vậy. Tuy nhiên, phần kết nơi hai dụ ngôn thì hoàn toàn khác nhau. Trong trình thuật của Isaia, ông chủ vườn nho thất vọng vì vườn nho không sinh hoa trái, và ông đã ra lệnh hủy diệt vườn nho.
Nơi dụ ngôn của Đức Giêsu, vườn nho không bị tiêu hủy, nhưng được trao phó cho những người quản lý mới. Trong cả hai dụ ngôn, điểm quy chiếu là vườn nho cần phải được chăm sóc để cho trái trăng, và những tá điền đương thời đã không làm được điều này. Một điểm nhấn khác, là nếu dụ ngôn phác vẽ một hình ảnh biểu trưng về lịch sử cứu độ, thì “Người Con” được ông chủ gửi tới, là chính Đức Giêsu đấng Messia. Đây là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa tặng ban, là chính Đấng mà nhân loại vẫn luôn ngong ngóng đợi chờ. Món quà đó không thể bị tước mất khỏi tay ông chủ. Nếu chủ vườn nho là chính Thiên Chúa, và ngay cả cái chết xảy ra nơi người Con là điều không thể tránh khỏi khi con người nhẫn tâm chống lại Ngài, thì lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn dàn trải và đổ xuống trên ta đến vô tận, đem lại cho chúng ta những cơ hội để thống hối, hơn là đưa ra một phán quyết hủy diệt cuối cùng.
Trong mạch văn của Tin Mừng Mathêu, dụ ngôn nhắm đến các đầu mục Do thái giáo, những con người đang kình chống Đức Giêsu. Dụ ngôn cũng chỉ dẫn ra điều cần thiết, là phải có những vị lãnh đạo mới. Thế nhưng, những tá điền khác, hay các vị lãnh đạo tôn giáo khác là ai? Một số cắt nghĩa rằng, họ là những người mà ông chủ sẽ tín nhiệm để thay thế các tá điền cũ, tức là Thiên Chúa sẽ thiết lập “một Hội Thánh mới, thay thế cho Israel cũ, trải rộng đến các dân ngoại”. Cách cắt nghĩa này rất dễ bị chống đối. Mathêu viết cho các Kitô hữu gốc Do Thái và theo họ, các đầu mục của Israel cũ sẽ được thay thế bằng các lãnh đạo mới, cũng gốc Do thái. Những người theo Đức Giêsu thời đó, vẫn nghĩ rằng các môn đệ của Đức Giêsu, chủ yếu là những Kitô hữu gốc Do thái, sẽ là những “tá điền khác”. Họ cố đấu tranh để chứng tỏ điều đó, dù họ có liên hệ gốc gác với dân vùng Judea hoặc gốc Pharisiêu chăng nữa.
Dụ ngôn cũng đặt ra một câu hỏi nhức nhối đối với những ai đang nắm quyền lãnh đạo thuộc bất cứ một tổ chức nào, một định chế nào, hay một quốc gia nào. Nếu những người lãnh đạo không giúp đem lại thiện ích cho các thành viên thuộc quyền , họ phải được thay thế bằng những người khác, những người có khả năng làm nảy sinh hoa trái cho những ai dưới quyền mình. Theo mạch văn của đoạn Tin Mừng, chẳng còn kỳ vọng gì nơi những người lãnh đạo hiện tại. Cũng chẳng mong họ hối hận, và làm cho vườn nho sinh trái. Dụ ngôn cũng ghi nhận rằng mùa hái nho đã đến gần - tức là thời điểm cánh chúng đang đến. Đó là thời điểm quyết định không còn chờ đợi một sự thay đổi nào nũa, và tất cả đều hướng tới một quyết định chung thẩm cuối cùng. Tin Mừng gọi mời chúng ta, phải chú tâm đến các vị lãnh đạo, làm sao để họ biết cách lo cho thiện ích chung được phát sinh cách dồi dào. Đồng thời chúng ta cũng cố gắng thực hiện những phương cách ôn hòa, không gây bạo lực để thay đổi lãnh đạo, ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ thời điểm nào, khi cần thiết phải thực hiện.
5. Tá điền và vườn nho
Nếu ruộng lúa, nương khoai, khóm trúc và con trâu là những hình ảnh quen thuộc của người Việt Nam, thì người Do Thái cũng có những hình ảnh thân thương đối với họ, đó là đàn chiên và vườn nho.
Thực vậy, Chúa Giêsu sinh ra là người Do Thái, cũng đã thừa hưởng nền văn hóa con chiên và cây nho ấy. Ngài đã dùng những hình ảnh quen thuộc đó để nói lên quan điểm của Ngài đối với mối tương giao giữa Thiên Chúa và Israel, cũng như mối tương giao giữa bản thân Ngài đối với các tín hữu của mình…
Chẳng hạn trong Tin Mừng theo thánh Gioan thì Chúa Cha là người trồng nho, bản thân Ngài là cây nho còn các môn đệ là ngành nho. Điều Ngài muốn truyền dạy là chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Ngài.
Thế nhưng trong Tin Mừng theo thánh Matthêu thì hình ảnh cây nho hay nói đúng hơn hình ảnh vườn nho được khai thác cho một đề tài khác.
Chúa Giêsu đã nói tới lòng tốt của ông chủ vườn nho không những sẵn sàng thuê mướn mọi người, nhất là những kẻ thất nghiệp, kém may mắn, mà còn trả công đồng đều cho cả những kẻ làm việc ít giờ nhất.
Ngài cũng đã nói tới những tá điền, là những người quản lý có trách nhiệm canh tác vườn nho để giao nộp hoa lợi cho chủ. Nhưng họ đã phản bội, đã đánh đập các sứ giả và đã giết chết chính người con của chủ. Để rồi, chủ đã phải lấy lại vườn nho mà trao cho người khác quản lý, tức là Giáo Hội.
Hôm nay, khi đọc lại dụ ngôn này, chúng ta sẽ ung dung tự nhủ: Do Thái là Do Thái và Giáo Hội là Giáo Hội Chúa đã trao đoàn chiên cũng như vườn nho của Ngài cho Giáo Hội, người quản lý cuối cùng mà Chúa đã chọn, vì thế không còn gì phải lo sợ: Làm thế nào mà Giáo Hội lại có thể giết hại các tôi tớ Chúa và cướp đoạt vườn nho Chúa được.
Thế nhưng chúng ta không nên lạc quan với những nhận định trừu tượng và lý thuyết trên đây mà phải nhìn vào thực tại trước mắt: Và thực tại trước mắt cho thấy Giáo Hội chính là chúng ta. Cộng đoàn dân Chúa, gồm những con người bằng xương bằng thịt, mới chỉ được mời gọi và được ban ơn sủng để nên thánh, hay nên hoàn thiện, nhưng thực tế thường chưa thánh, chưa hoàn thiện, do đó vẫn còn có thể có những kẻ lười biếng không chịu làm việc trong vườn nho, tệ hơn nữa vẫn còn có thể có những kẻ hung ác đánh đập, hành hạ và thậm chí giết hại những người tôi trung của Chúa, những người làm vườn tốt, để chiếm lấy vườn nho cho mình. Chính những ngôn ngữ chúng ta thường dùng cũng tố cáo sự chiếm đoạt có khi là vô ý thức đó.
Thực vậy, chúng ta chẳng thường nói: Con chiên của tôi, nhà thờ của tôi, giáo xứ của tôi, Giáo Hội của tôi. Trong khi đúng ra phải nói là con chiên của Chúa, nhà thờ của Chúa, giáo xứ của Chúa, Giáo Hội của Chúa.
Nhìn vào vườn nho Chúa, chúng ta thấy không thiếu những cây nho cành lá xum xuê mà chẳng sinh được một trái. Cũng chẳng thiếu những cành nho khô héo èo uột vì chỉ còn dính hờ vào thân cây.
Điều đáng buồn hơn nữa là cũng chẳng thiếu gì những tá điền, những người quản lý đã chiếm đoạt vườn nho Chúa làm gia nghiệp riêng của mình. Họ mặc sức khai thác tùy theo ý muốn, miễn sao có lợi cho mình. Không thiếu những kẻ chỉ lo rào dậu, xây tường và kiến tạo những bồn đạp nho, nhưng lại chẳng chăm sóc gì đến cây nho, khiến vườn nho Chúa mọc lên những cỏ dại và gai góc.
6. Câu chuyện vườn nho, câu chuyện đời ta
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.
Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con. Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người các con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong thánh ý Chúa.
Tiếc là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.
Các con, sinh viên học sinh thân mến,
Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường, luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của sự thành công.
Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.
Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?
2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ xứng hợp không?
3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách nhiệm đó không?
7. Sống bằng tình yêu
Anh chị em thân mến.
Trong câu chuyện lịch sử "Chiếc nỏ thần", để lại một dấu ấn trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam.
Thục Phán An Dương Vương được Thần Kim Quy tặng cho chiếc nỏ có sức công phá cực kỳ, không ai có thể chống lại được. Nhờ chiếc nỏ mà trong nước được an bình.
Ông có cô con gái tên Mỵ Châu, được chàng Trọng Thuỷ con của Triệu Đà thuộc nước lân bang đến cưới. Mọi việc hết sức tốt đẹp, mối duyên của đôi trẻ ngày càng nồng ấm.
Một hôm Trọng Thuỷ xin về thăm cha của mình. Ít ngày sau thì chiến tranh kéo đến. Nhìn thấy đoàn quân đến từ xa, An Dương Vương không lo lắng gì, ông mỉm cười tự tin, vì đã có chiếc nỏ thần trong tay. Giặc càng ngày càng gần, đến lúc cần thiết, ông mới dùng đến nỏ thần. Nhưng bất ngờ thay, chiếc nỏ không còn công hiệu như xưa, đội quân của ông không phòng thủ nỗi với sức tấn công dũng mạnh của quân thù. Oâng cùng với cô con gái thân yêu tìm đường thoát thân. Nhưng càng chạy thì nghe tiếng của địch quân ngày càng gần. Nhìn lại thì ông thấy chính đứa con mà ông yêu thương nhất lại là người làm ông thất vọng nhất. Chính cô đã để lại dấu hiệu trên đường cho giặc đuổi theo. Oâng cũng hiểu ra: chính vì đứa con mà ông yêu thương, nên kẻ thù mới lợi dụng tình yêu thương đó, cưới con ông và tráo đỗi nỏ thần, khiến cho ông phải đi vào chỗ chết. Ông yêu thương con gái mình, nên cũng rất mực yêu thương chàng rể. Nhưng những gì mà ông yêu thương đã phản bội lại ông, làm cho ông phải chết. Nếu như ông có quyền trở lại ông sẽ đối xử với chàng rể như thế nào?
Khi lòng tham đã lên ngôi, thì tình yêu thương không còn hiệu quả nữa mà bị phản bội. Lòng tham làm cho con người trở nên tàn ác, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn làm sao lòng tham đạt được như ý muốn.
Đó là những gì của con người. Nhưng Thiên Chúa không để cho sự ác ngự trị mãi được, sự ác không thể tồn tại, ngay cả trong con người đang làm ác cũng không thể chấp nhận được cái ác.
Những người thời đó không thể chấp nhận được việc làm của những người trong dụ ngôn, hành động không có nhân tính.họ đã quên đi những gì người khác làm cho họ, họ cũng quên đi những gì họ đang có là từ đâu mà đến. Họ càng không muốn nhớ đến thời khó khăn trước đó như thế nào và làm sao mà họ thoát khỏi khó khăn như thế. Giờ đây họ chỉ còn nhìn thấy cái lợi vật chất. Họ tìm cách chiếm đoạt mà không cần biết đến cảm nghĩ của người khác như thế nào, cũng không cần biết đến hậu quả ra sao. Họ không nhìn thấy được tình yêu thương chung quanh họ, thì làm sao họ có thể sống trong tình yêu được.
"Nước Thiên Chúa sẽ lấy khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm trổ sinh hoa lợi".
Một câu nói mạnh mẽ mà Chúa Giêsu thốt lên để cảnh báo cho những người không biết đến tình nghĩa, không nhìn thấy người khác, cũng không nhận ra được chính mình.
Câu cảnh báo cho người xưa cũng là lời cảnh báo cho những người hôm nay, cho chúng ta. Mỗi người được bao bọc trong tình yêu thương, được Thiên Chúa ưu ái, ban cho một hoàn cảnh sống thật tốt đẹp. Nhưng nhìn lại, chúng ta có biết cảm tạ hồng ân Chúa, hay mỗi ngày chúng ta đòi hỏi nhiều hơn, bất mãn nhiều hơn, toan tính để được nhiều hơn cái không phải là của mình. Càng không chấp nhận được khi những gì là của mình mà bị bắt buộc phải chia cho người khác. Nên nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta giống như những người trong dụ ngôn, muốn loại trừ người khác, ngay cả tiêu diệt người khác bằng mọi cách, để có thể hưởng trọn những gì mình muốn. Những lúc đó chúng ta cũng giống như chàng Trọng Thuỷ vô tâm, đứng trước một tình yêu chân thành nhưng không biết tận hưởng, mà chọn lấy nguồn lợi riêng tư để bước vào con đường chết. Nếu chúng ta nhận ra hồng ân Chúa trong đời sống và biết cảm tạ bằng những gì trong cuộc sống đời thường, để biết chu toàn mà đền đáp hồng ân Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa soi sáng cho mỗi người, để biết nhận ra Chúa là nguồn tình yêu, mà biết sống xứng đáng để đền đáp tình yêu thương của Chúa.
8. Chúng ta được trao phó canh tác vườn nho của Thiên Chúa
(An Phong)
Câu chuyện giữa Thiên Chúa với con người là một câu chuyện tình. Tình yêu thương được trao ban, nhưng không được đón nhận; tình yêu thật quảng đại, nhưng lại bị phản bội cách trắng trợn. Giu-đa lấy cái hôn để nộp Thầy, đó là một sự phản bội lại tình yêu thương làm cho Chúa Giêsu đau lòng biết bao. Tình yêu của Thiên Chúa thật bao la; và sự phản bội tình yêu đó lại là cái gì hết sức phũ phàng. Không có gì đẹp bằng tình yêu, nhưng cũng không có gì ghê gớm hơn tình yêu bị phản bội.
Trong một xã hội "đấu đá nhau", những trò đời đã nhiều lúc trở nên khủng khiếp lắm rồi; nhưng khi "trò đời" lại diễn ra nơi chính bầu khí của tình yêu, trong gia đình chẳng hạn, thì nó lại trở nên khủng khiếp thế nào: cha mẹ lợi dụng con cái; con cái bất hiếu, bạc đãi cha mẹ, con cái giết cha mẹ cũng có… Quả thật, chính sự phản bội trong tình yêu là một đòn chí mạng khiến con người bị gục ngã. Bao nhiêu bà mẹ đã từng hy sinh mọi sự cho con cái, nhưng rồi cuối đời, những năm tháng về già, đã gục ngã vì sự phản bội, vì sự bất hiếu của đứa con cưng.
Chúng ta được trao phó cho mảnh vườn của Thiên Chúa, cha mẹ được Thiên Chúa trao phó cho một gia đình để chăm sóc; linh mục cũng được Thiên Chúa trao pho cho đoàn chiên; các người có trách nhiệm với dân tộc, với cộng đoàn giáo xứ, với các hội đoàn... đều là những người được Thiên Chúa trao phó vườn nho của Ngài. Cuộc sống này là vườn nho của Thiên Chúa và mỗi người chúng ta là những người làm vườn nho của Thiên Chúa.
Câu chuyện về sự phản bội của tình yêu cho chúng ta thấy rằng Tình yêu cũng chính là cái giá con người phải trả lại cho Thiên Chúa. Ông chủ ban "người con" như một lời mời gọi cuối cùng của tình yêu cho những người tá điền của mình. Không có gì thật sự là tốt đẹp mà không cần trả giá đâu. Sự trả giá ở đây chỉ là lòng trung thành, là mở lòng ra để đón nhận chủ quyền của Thiên Chúa chứ không phải muốn giành lấy gia sản của Người để hưởng thụ cho chính mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã trả giá cho đời sống chúng con,
không phải là trả một món nợ nào khác,
nhưng là món nợ của tình thương,
món nợ nặng nề nhất và cay đắng nhất.
Xin cho chúng con biết nhận ra
chúng con cũng mắc nợ nhau trong tình yêu thương
và cũng biết chấp nhận hy sinh vì tình yêu thương.
9. Tìm kiếm sự khôn ngoan
(Lm. Anmai)
Ba bài đọc trong Thánh lễ hôm nay như sợi chỉ đỏ xuyêt suốt nói về sự khôn ngoan, nói về sự lựa chọn của con người trong cuộc đời này về sự khôn ngoan.
Sách các Vua quyển thứ nhất trong chương 3 mà chúng ta nghe đấy nói cho chúng ta nghe về một chuyện thật là buồn cười. Là một vị vua, lẽ ra Salômôn phải xin cho được mình được sống lâu trăm nghìn tuổi để ngồi trên ngai mà trị vì dân chúng, lẽ ra Salômôn xin cho mình được của cải đầy dư để mà lên mày lên mặt với dân chúng, với các dân các nước lân bang, lẽ ra vua Salômôn phải xin cho tất cả những kẻ thù của vua phải chết đi, phải biến mất đi khỏi nhan của vua để mà vua được ngồi trên ghế trị vì đất nước được thoải mái, lẽ ra và lẽ ra Salômôn xin nhiều điều như một số vị vua khác đã làm đó là là cho mình được thê thiếp đầy nhà đầy cửa để phục vụ cho những ham muốn của mình, xin cho mình được quân binh dũng mãnh để đối phó với thù trong giặc ngoài nhưng rồi Salômôn xin với Thiên Chúa cho ông được tài phân biệt để xét xử.
Nếu vội vã, chúng ta sẽ cho rằng Salômôn là một người nông cạn, thiếu suy nghĩ vì xin cái gì không xin, xin tiền tài vật chất không xin mà xin cái gì đó nó chẳng có giá trị gì về vật chất cả, nó là cái chi chi đấy: tài phân xử. Xem ra cái chuyện ông xin là chuyện vô ích, chẳng cần xin thì ai ai cũng có tài phân xử cả. Chẳng cần ơn cũng có thể phân xử vậy mà ông lại xin. Như thế có vô ích không?
Chúng ta nhìn lại đời thường của chúng ta. Chuyện phân xử hình như nó dính liền với cuộc đời của chúng ta, dính liền với thái độ sống của chúng ta.
Sáng sớm, mới mở mắt thức giấc, chúng ta phải đứng trước một chuyện phân xử mà chúng ta không biết đó thôi đó là chúng ta có tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta qua một đêm yên ổn hay không? hay là chúng ta dửng dưng trước cái ơn của Chúa đấy. Cứ tưởng là bình thường nhưng chẳng bình thường chút nào cả vì đã có nhiều và nhiều người sau khi ngủ một đêm thì lại tiếp tục ngủ giấc ngủ ngàn thu chứ không hề thức dậy chi cả. Sau khi tạ ơn ấy, chúng ta có chịu trao phó cuộc đời, có dâng ngày sống trong tay Chúa hay là chúng ta lại dâng ngày sống trong tay chúng ta, trong sự quyết định không đâu vào đâu của chúng ta. Phân xử đấy chứ! Ai bảo là không phân? Hoặc chúng ta đặt để cuộc đời chúng ta trong tay Chúa, trong sự quan phòng theo thánh ý Thiên Chúa, hoặc chúng ta đặt để cuộc đời chúng ta trong tay của chúng ta, trong quyết định của chúng ta?
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, một bông hoa, một tiếng cười hay ngược lại?
Và rồi trải dài suốt cả ngày sống, chúng ta đước trước không biết bao nhiêu là điều phải lựa chọn, bao nhiêu là điều phải phân xử.
Đứng trước một sự cãi vả, một cuộc tranh chấp, chúng ta phải lựa chọn cái gì? Lựa chọn sự thua thiệt hay sự hơn người khác?
Đứng trước một quyết định về một mầm sống, chúng ta quyết định để hay là phá?
Đứng trước một con người thấp cổ bé họng, một con người nghèo khổ túng cực, chúng ta yêu thương họ hay phỉ báng?
Đứng trước một người giàu thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một người nghèo thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một con người tạm gọi là tội lỗi, khiếm khuyết, yếu đuối thì chúng ta sẽ xử họ như thế nào?
Và rồi, cuối ngày, trước khi đi vào giấc ngủ, chúng ta có kiểm điểm lại qua một ngày sống chúng ta được không biết bao nhiêu là ơn lành của Chúa để chúng ta tạ ơn Chúa hay là chúng ta lại tỏ thái độ dửng dưng trước bao nhiêu ân huệ mà Chúa dành cho ta? Chúng ta lại có khiêm tốn để trao phó cuộc đời chúng ta trong tay Chúa qua giấc ngủ mà chúng ta sắp chìm vào hay không?
Đó là chuyện thường ngày nhất mà chúng ta thường gặp. Chúng ta phải có thái độ để lựa chọn. Nhiều Thánh vịnh cũng đã nhắc nhở chúng ta về sự lựa chọn, đơn cử Thánh vịnh 90 (Tv 90, 5-12) vẫn nhắc nhớ chúng ta:
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Ngài thịnh nộ, chúng con phải mạng vong,
nổi trận lôi đình: thấy mà khủng khiếp!
Tội chúng con, Thánh Nhan đều soi tỏ.
Chúa nổi xung, đời chúng con tàn tạ.
kiếp sống thoảng qua: một tiếng thở dài.
Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh,
trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên?
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Thế đấy! Con người vẫn bé cái lầm là cứ tưởng rằng mình là chúa, là chủ của cuộc đời nhưng xin thưa rằng mạnh giỏi lắm thì chừng tám chục mà thôi. Tất cả những tài sản, những nổ lực, những cố gắng mà mình bao nhiêu năm đổ mồ hôi sôi con mắt tìm kiếm sẽ giao lại cho người khác. Ngay cái căn nhà, cái biệt thự, cái villa cao cấp mà mình đang trú ngụ đấy sẽ về tay người khác khi mà chúng ta đã khuất rồi.
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe đấy là đỉnh điểm nhắc nhở chúng ta về sự khôn ngoan, sự lựa chọn khôn ngoan mà Chúa Giêsu đã nói cho dân chúng, Chúa Giêsu cũng đã nói với mỗi người chúng ta: "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng bán đi tất cả những gì mình có để mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy".
Chúa nhắc cho chúng ta căn tính, căn cốt và cùng đích của cuộc đời chúng ta đó là Nước Trời. Cuộc đời này chỉ là đời tạm mau qua chóng tàn, là cuộc lữ hành về quê trời thôi chứ không phải là vĩnh cửu để rồi chúng ta bám, chúng ta víu vào? Bé cái lầm là cái điều cần chúng ta lại không tìm, điều không cần chúng ta lại ấp ủ? Phải chăng là chúng ta thiếu khôn ngoan, chúng ta thiếu cân nhắc, chúng ta thiếu phân xử như Salômôn?
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma Ngài cũng đã nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người chúng ta theo ý định của Người. Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang".
Thiên Chúa quan phòng, Thiên Chúa yêu thương và Thiên Chúa đã tuyển chọn, hiến thánh mỗi người chúng ta nhưng chúng ta làm sao đấy? Chúng ta cứ luẩn quẩn trong con người hay hư nát của chúng ta? trong cái con người nay còn mai mất của chúng ta mà chúng ta không tìm kiếm những sự cao siêu trên trời như Thánh Phaolô đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta.
Thấy điều gì hay, điều gì phải, điều gì tốt chúng ta cũng nên bắt chước và hôm nay chúng ta cũng bắt chước vua Salômôn để rồi chúng ta không xin Chúa cho chúng ta giàu sang phú quý, thành công, bằng này cấp nọ hơn người khác nhưng xin cho chúng ta cũng như ông: xin ơn khôn ngoan, xin ơn biện phân để chúng ta biết đếm tháng ngày chúng ta sống để ngõ hầu tâm trí của chúng ta được khôn ngoan. Chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta khôn ngoan lựa chọn thái độ sống của những người tìm kiếm Nước Trời chứ không phải tìm kiếm cái thế gian mau qua chóng tàn và phù vân này.
Nguyện xin Chúa là Chúa của sự khôn ngoan đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta luôn khôn ngoan chọn lựa thái độ sống phù hợp với thánh ý Chúa.
10. Dù con người bất trung, Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tiếp theo dụ ngôn “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con vào làm vườn nho (x. Mt 21, 28-32). Đức Giê-su kể cho thượng tế và kỳ lão nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” (x. Mt 21, 33-43). Quả thật, Vườn nho của Chúa là nhà Israel, Thiên Chúa đã tuyển chọn và coi như một vườn nho đặc tuyển được Chúa chăm sóc, bảo vệ, (“Bài ca vườn nho” – Is 5, 1-7) là một bằng chứng: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích” (Is 5, 7). Tình yêu của ông chủ với vườn nho, hay cụ thể là mối tình giữa Thiên Chúa với Dân Ngài thật đậm đà, thắm thiết. Thiên Chúa đã không tiếc gì đối với dân: “Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho” nhưng hỡi ôi, “nó lại sinh toàn nho dại” (Is 5, 2).
Điều gì phải đến sẽ đến, ông chủ “sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó” (Is 5, 5-6). Ngụ ý nói: “Thiên Chúa trông mong Israel thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5, 7). Theo lẽ thường, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống Israel. Nhưng Thiên Chúa “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9). Nên, mới giao vườn nho cho những tá điền chăm sóc (x. Mt 21, 33-43).
Gọi vào làm vườn nho và chăm sóc vườn nho là sáng kiến của Thiên Chúa. Ngài đã chọn dân Israel. Ngài tin tưởng và ban cho dân những điều kiện để sống xứng đáng trong Vương Quốc của Ngài. Ngài gọi dân vào làm vườn nho thể thiện tương quan đặc biệt giữa Ngài với dân. Việc trồng nho lấy quả, ép rượu, theo truyền thống Kinh Thánh là dấu hiệu của niềm vui phồn thịnh.
Thiên Chúa lấy tình yêu mà chăm sóc dân Chúa để nó sinh nhiều trái tốt, là sống công chính hoan lạc trong tình yêu. Cây nho sinh trái, thể hiện tình yêu từ Thiên Chúa xuống với con người, trung thành với lề luật Chúa là đáp lại tình yêu ấy. Yêu thương con người là sáng kiến của Thiên Chúa, vì Ngài đã chủ động yêu thương. Thảm kịch đối với dân được chọn là khước từ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, cho dù bao lần Ngài dùng miệng các tiên tri không ngừng mời gọi dân hoán cải, thậm trí sai chính Con của Ngài đến kêu gọi, dân chúng vẫn chọn sự bất trung với Thiên Chúa, ngược đãi với Con Ngài.
Chúa Giêsu lấy lại và tiếp tục lời than của Thiên Chúa trong Isaia (x. Is 5, 1-7). Chính ở đó chúng ta gặp được chìa khóa cho dụ ngôn. Tại sao Thiên Chúa “trồng một vườn nho” và Thiên Chúa đến tìm những “hoa quả “ nào?
Những tá điền không trồng nho và chăm sóc vườn nho vì thương yêu vườn nho, nhưng vì lợi ích riêng của chính mình. Thiên Chúa thì khác. Ngài dựng nên con người và lập giao ước với con người, không phải vì lợi ích cho Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương và ích lợi cho con người mà thôi. Những hoa quả được trông đợi từ con người là tình yêu đối Thiên Chúa và sự công bình đối với những kẻ bị áp bức: tất cả là vì con người, chứ không phải cho Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel, đồng thời phác họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại chúng ta. Chúng ta có thể trách cứ dân Israel hay cha ông họ là những tá điền sát nhân, vì chẳng những từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa mà còn giết hại chính Con Một Ngài. Coi chừng câu nói: “Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”(Mt 21,38) lại là của chính chúng ta. Bởi lẽ, ngày hôm nay chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài bởi những người xưng mình là Kitô hữu, hay là có khi phản Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho dội lên không bằng lời thì cũng ít nhất bằng những việc làm trong xã hội tục hóa ngày nay. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ.
Chúng ta tự hỏi: Tôi đã chuẩn bị thế nào để Chúa Kitô sống trong tôi? Tôi đáp trả tình yêu vô biên của Chúa dành cho tôi bằng cách nào? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô chăng?
Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín. Tình yêu của Ngài mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung của con người. Ngài tiếp tục sai chính Con Một Ngài đến trao nộp vì chúng ta để bảo đảm cho tới cùng tình yêu trao ban cứu độ thế gian.
Lịch sử nhân loại được hoàn tất nhờ cái chết trên Thập giá. Nhờ cái chết, Chúa Giêsu đã tiêu diệt sự dữ. Nhờ phục sinh, Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng sức mạnh của tình yêu, Người đã tiêu diệt hận thù. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc ” (Mt 21, 42), đền thờ Thiên Chúa được phục hồi. Vườn nho trở nên Vương Quốc của Giao Ước Mới, vì Nước Trời không bị phá hủy, từ nay “ Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (Mt 21, 43).
Ông chủ vườn nho nói: “Chúng sẽ nễ con Ta” (Mt 21, 37). Giờ đây, Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với chúng ta trong Bí tích Mình và Máu Người. Ta có hiểu sự cao trọng lúc này không? Ta có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính mà Chúa Cha mong đợi không?
Hôm nay chúng ta đọc lại lịch sử Dân Chúa chọn để lên án sự loại bỏ Đức Kitô do Chúa Cha sai đến. Nhưng cũng ý thức về sự khốn cùng của chúng ta khi loại bỏ “viên đá góc”, lúc chúng ta có ý xây dựng thế giới này theo tiêu chí của chúng ta, tự coi mình là những ông chủ vườn nho của Chúa.
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Amen” (Lời nguyện Nhập lễ).
11. Người thợ làm vườn nho
(‘Suy Niệm Hằng Ngày’)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại dụ ngôn “Người thợ làm vườn nho”. Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để giúp người nghe dễ hiểu điều Ngài muốn nói về Nước Trời.
Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Thiên Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai phái các tiên tri đến dạy dỗ họ.
Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm nom săn sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng.
Mỗi người chúng ta hôm nay cũng là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, đó là những tài năng tinh thần, là của cải vật chất, để ta sinh thêm hoa lợi và mang về cho Người..
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của ta, là để ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho ta các tài năng là để ta sinh lợi cho phần rỗi của mình. Nếu ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác.
Sẽ đến ngày ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó cho ta. Sẽ đến ngày ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc ta đang làm hôm nay.
***
Lạy Chúa! Xin cho con biết cộng tác vào vườn nho của Chúa, để làm trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện và làm cho Nước Chúa được nhiều người biết đến. Amen.
12. Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.
Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành nho (x. Ga 15). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh… thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra hoa, kết trái.
Đề hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thi Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.
Quản lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước... Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội thánh này Hội thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định (x.Rm 13,1)
Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại các ngài.
Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác.
Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo DoThái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.
Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).
13. Trở thành người thợ có trách nhiệm trong vườn nho của Chúa
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Dịp tháng 5/2014, khi Trung Quốc đem giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, đã tạo nên một làn sóng phản đối dữ dội ở mọi tầng lớp người dân. Tại các khu công ngiệp, công nhân đã phản ứng một cách thái quá, và trút sự căm thù xuống trên chính các công ty của mình, nơi mình đang làm việc để kiếm sống. Công nhân đã xông vào các công ty Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan đập phá, đốt xưởng. Ở Bình Dương, công nhân tràn vào nhà máy để phá và hôi của của công ty. Họ hể hả vì lấy được những món hàng từ trong công ty. Có những người không ngại ngùng để đưa mặt mình vào ống kiếng khi bị quay cảnh cướp của ấy. Hậu quả là công ty phải đóng cửa, công nhân không còn chỗ làm việc, những người ăn cắp bị ghi hình phải ra hầu tòa, phải đem đồ đến trả lại cho công ty trong sự xấu hổ. Sự kiện trên cho thấy rằng hầu như công nhân làm việc trong công ty từ trước đến nay không hề tỏ ra có trách nhiệm với công ty và làm việc thiếu lòng yêu mến đối với công việc và nơi mình làm việc nên mới xảy ra những sự việc đáng tiếc như thế. Cuối cùng, người thì bị đuổi việc, kẻ thì ở tù, còn Chính phủ bị bắt vạ phải bồi thường cho các công ty đó.
Thưa quý OBACE, khi làm việc mà người thợ không cảm thấy mình có trách nhiệm với công việc, thì chính họ sẽ biến mình thành kẻ phá hoại. Cũng vậy, khi họ làm việc mà không có lòng yêu mến thì cũng không khác gì kẻ nô lệ, và có khi biến mình thành kẻ cướp, kẻ ăn cắp ngay trong công việc của mình. Sự kiện nên trên không chỉ xảy ra ngày nay, mà cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu cũng đã kể một câu chuyện tương tự.
Có một chủ nhà có một vườn nho, ông chăm sóc, rào giậu chung quanh, xây bồn ủ nho. Ông cho tá điền canh tác rồi trẩy đi xa. Đối với người Do Thái ngày xưa, vườn nho là một tài sản lớn, người ta yêu quý vườn nho như là con cái, là gia nghiệp của mình. Vì thế, khi trao vườn nho lại cho tá điền canh tác, ông chủ đã hết sức tin tưởng, trao phó cả cơ nghiệp của mình cho những tá điền này. Tuy nhiên, bọn tá điền đã bộc lộ ý đồ muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Khi ông sai đầy tớ đến thu hoa lợi, bọn tá điền đã đánh đập, nhục mạ, giết chóc đầy tớ. Đã nhiều lần chúng đối xử với ông chủ và với những người được sai đến như thế, nhưng ông chủ vẫn hết sức khoan dung và kiên nhẫn với bọn tá điền. Cuối cùng, ông đã sai chính con trai duy nhất của ông đến, bọn tá điền đã bộc lộ rõ âm mưu chiếm đoạt vườn nho khi chúng bàn với nhau: Đứa con thừa tự đây rồi, nào ta giết nó đi và đoạt lấy gia tài của nó.
Israel chính là vườn nho của Thiên Chúa, là gia nghiệp của Chúa được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn. Ngài hết mực yêu thương Israel như đã được diễn tả qua bài ca về vườn nho trong sach Isaia: Tôi xin hát tặng bạn thân tôi bài ca về vườn nho của mình. Bạn tôi có một vườn nho màu mỡ trên sườn đồi, anh vun tưới cày cuốc và trồng vào đó những giống nho tốt. Anh dồn hết bao công sức cũng như kỳ vọng vào vườn nho này, nhưng nó lại không đáp lại sự mong đợi của anh, nó sinh ra trái nho chua nho dại. Vì thế, ông sẽ để cho nó bị tan hoang, heo rừng vào phá phách, cỏ dại mọc um tùm. Bài ca này nói lên tâm trạng và sự chờ đợi của Thiên Chúa nơi dân Israel. Ngài mong họ trổ sinh hoa trái yêu thương, hành động công bình, nhưng họ lại sinh ra những quả gian ác, những trái bất công. Kể câu chuyện trên, Chúa Giêsu đã muốn nhắm tới các thượng thế và luật sĩ. Họ chính là những tá điền được Thiên Chúa trao cho trông coi, canh tác vườn nho là Israel, nhưng những người này đã không làm tốt trách nhiệm của mình, còn đối xự tệ bạc với Thiên Chúa là ông chủ và muốn biến vườn nho Israel làm của riêng mình.
Những người trước đây được sai đến để thu hoa lợi là các ngôn sứ, những vị này được sai đến để giúp Israel điều chỉnh lại cuộc sống, kêu gọi thay lối sống gian tà bằng sống công bình bác ái, nhưng các ngôn sứ đã bị các tá điền là các thượng tế và luật sĩ tìm cách loại trừ, nhục mạ. Sau cùng, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu đến với họ, thì họ đã đối xử với người con ấy không khác gì những tá điền trong câu chuyện. Họ hành hạ, giết chết Ngài và quăng xác ra khỏi vườn nho. Trong câu chuyện, Chúa Giêsu cho thấy sẽ đến ngày Thiên Chúa là ông chủ sẽ loại trừ họ, đuổi họ khỏi vườn nho và trao vườn nho cho những người thợ trung thành, có trách nhiệm, hết lòng yêu mến làm việc và sinh hoa lợi cho Thiên Chúa.
Vườn nho ngày xưa đã đã bị bỏ hoang và Thiên Chúa đã thiết lập nên vườn nho mới là Giáo Hội, được trao cho những tá điền mới. Chúng ta là giống nho mới được tháp nhập vào thân cây nho là Đức Giêsu, được trồng trong mảnh vườn của Giáo Hội, được chính Thiên Chúa làm chủ canh tác và các cộng tác viên của Ngài là các thừa tác viên được tuyển chọn để chăm sóc cho vườn nho. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng là những tá điền được Thiên Chúa tín nhiệm trao cho việc chăm sóc vườn nho của Chúa. Vì thế, với trách nhiệm và với hết lòng yêu mến, chúng ta được mời gọi làm việc liên lỉ để sinh thật nhiều hoa trái tốt cho Chúa.
Là cành nho, chúng ta sẽ phải sinh trái nào? Thánh Phaolô đã chỉ cho chúng ta trong bài đọc hai: Trong mọi hoàn cảnh, hãy biết tạ ơn Thiên Chúa và không ngừng giải bày những tâm tình nguyện xin. Tạ ơn vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, cho chúng ta được nhận biết Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài, được tôn thờ Ngài, được hưởng ơn cứu độ. Đây chính là niềm vui đầy tràn trong tâm hồn và được biểu lộ ra bên ngoài. Dù cuộc sống bên ngoài còn nhiều khó khăn, thử thách cũng không thể làm vơi cạn niềm vui thánh thiện trong tâm hồn của chúng ta. Kế đến, phải sinh những hoa trái là: Sự chân thật cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì anh em hãy để ý mà thực hành.
Như vậy, với tính cách là những cây nho được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và vun trồng trong vườn nho Hội Thánh, chúng ta cần phải biết tận dụng cơ hội Chúa ban để sinh hoa kết trái trong cuộc đời của mình. Cần phải sinh những hoa trái như Thiên Chúa mong muốn và kỳ vọng nơi mỗi chúng ta. Điều Chúa mong đợi nhất nỗi người là sinh những hoa trái ngọt ngào yêu thương. Hãy dâng tặng cho Chúa lòng yêu mến, biết ơn của mình bằng sự gắn bó, trung thành với Chúa, với giới răn, lề luật của Chúa. Hãy bày tỏ lòng biết ơn qua việc dâng thánh lễ mỗi ngày. Hãy sinh những hoa trái là những việc lành, việc tốt cho gia đình, cho lối xóm và cho cả xã hội này. Đừng bao giờ trở thành những trái chua, trái đắng cho nhau. Hãy mạnh dạn loại bỏ những trái tham lam, ích kỷ, nhỏ nhen, và hãy trao cho nhau những hoa quả ngọt ngào yêu thương. Khi mỗi người cùng trổ sinh những hoa trái như thế, chúng ta sẽ làm biến đổi xã hội này và thế giới này, và cuộc sống cộng đoàn, xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Trong tư cách là những người thợ được Thiên Chúa tín nhiệm trao phó cho vườn nho của Ngài, mỗi người tùy theo địa vị và ơn gọi của mình, hãy làm việc với hết khả năng, hết sức lực và nhất là hãy làm việc với tất cả tinh thần trách nhiệm và lòng yêu mến để đem lại nhiều hoa trái cho Chúa. Chúng ta được sai vào vườn nho rộng lớn là cả giáo hội, để ở nơi đây, chúng ta có bổn phận làm cho Tin Mừng được lan tỏa đến khắp nơi và đến với hết mọi người. Chung quanh chúng ta còn nhiều người chưa biết Chúa và Giáo Hội, chưa nghe nói về Tin Mừng Cứu độ. Chúng ta sẽ phải là những người giới thiệu hoa trái ngọt ngào này cho tất cả mọi người, để họ cũng được hưởng nếm niềm vui cứu độ của Chúa.
Là người thợ trong vườn nho là giáo hội địa phương tức là giáo xứ, hãy là những thành viên có trách nhiệm và có lòng yêu mến. Vì từ nơi môi trường giáo xứ, chúng ta được sinh ra trong đức tin, được nuôi dưỡng bằng ân thánh của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua thánh lễ được cử hành nơi đây. Cũng ở nơi môi trường giáo xứ, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc qua các chủ chăn là những người được sai đến phục vụ cộng đoàn. Hãy hết lòng chung tay góp sức, xây dựng cộng đoàn vườn nho địa phương. Hãy mạnh dạn bỏ đi những tự ái, cái tôi bè phái, chia sẽ để góp phần xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Đừng bao giờ có tham vọng loại trừ người khác và biến vườn nho này thành của riêng mình, bắt người khác làm theo ý mình, nhưng cần phải làm theo ý Chúa.
Là những người được trao cho chăm sóc vườn nho là các gia đình, các bậc làm cha mẹ sẽ phải trở thành những người có trách nhiệm làm cho vườn nho của gia đình mình trổ sinh hoa trái tốt lành. Hãy chăm sóc nhiều hơn cho những mầm nho là con cái được lớn lên trong bầu khí đạo đức của gia đình, của cha mẹ qua các giờ kinh sớm tối, qua gương sáng của cha mẹ. Hãy kịp thời uốn nắn để con cái được lớn lên trưởng thành về nhân cách cũng như trưởng thành trong đời sống đức tin, trở thành những Kitô hữu tốt, nhiệt thành.
Xin Chúa cho mỗi người ý thức trách nhiệm Chúa trao ban, để chúng ta chu toàn tốt nhiệm vụ của mình, cộng tác và làm cho vườn nho của Chúa ngày càng được mở rộng trên khắp mặt đất này. Amen.
14. Vườn nho của Chúa
(John W. Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Tôi những mong trái tốt, mà sao vườn nho chỉ sinh nho dại” (Is 5,4).
Trong thơ văn Kinh Thánh, vườn nho là biểu trưng cho người được yêu. Ngôn sứ Isaia đã vay mượn hình ảnh của một vườn nho để hát một bài ca dâng tặng người yêu. Bài ca đó miêu tả việc Thiên Chúa yêu thương săn sóc dân của Ngài. Tuy nhiên cung điệu bài ca mau chóng chuyển thành lời ca thán người được yêu, như Isaia đã mô tả, vì vườn nho được săn sóc ân cần, nhưng chỉ sinh ra nho dại. Cuối cùng nó đã bị bỏ rơi và trở nên hoang tàn. Đức Chúa phán “Ta sẽ chặt phá hàng dậu cho vườn nên tan hoang. Ta sẽ đập đổ các tường bao, cho vườn bị giày xéo. Ta sẽ biến mảnh vườn thành đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, cho gai góc mọc um tùm, và ta sẽ truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa xuống”.
Thế thì, vườn nho sản sinh loại hoa trái nào? Isaia đã viết rằng, loại giống nho tốt đã được chọn lựa để gieo trồng, nhưng nó chỉ cho ra nho dại. Hạn từ trong tiếng Do Thái khi nói về nho dại, có một nguồn gốc mang ý nghĩa “hư hỏng, hôi thối”. Câu văn trong tiếng Hy lạp, nho dại còn mang chở thêm ý nghĩa là “gai góc” như trong trình thuật của Isaia. Như vậy vườn nho thay vì cho trái thơm trái ngọt, nó chỉ cho trái hư thối hay chỉ sản sinh gai góc. “Thiên Chúa kỳ vọng sự ngay chính, nhưng Ngài chỉ thấy toàn là đổ máu. Ngài chờ đợi sự chính trực, nhưng chỉ nghe tiếng khóc than” (Is 5,7). Vườn nho này chẳng còn giá trị gì. Tuy nhiên, những người thợ làm vườn có thể cải tạo và vun xới cho vườn nho. Vì thế, Isaia cũng nói về một viễn cảnh tương lai khi vườn nho sẽ xanh tốt trở lại, lúc mà “Giacóp sẽ bén rễ, Israel sẽ trổ nụ đơm bông, và mặt đất sẽ đầy tràn hoa trái (Is 27,6).
Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng, Đức Giêsu trở lại với vườn nho. Hình như vườn nho bây giờ đang sản sinh những trái tốt, và ông chủ chuẩn bị cho thu hoạch. Cho dù vấn đề nho dại hay gai góc không còn được nói tới, nhưng vườn nho lại nảy sinh một vấn đề khác. Ông chủ giao phó vườn nho cho các tá điền chăm sóc và đi xa. Khi mùa gặt đến, ông sai những gia nhân đến gặp họ để thu gom hoa lợi. Nhưng các tá điền bắt các đầy tớ, đánh đập người này, ném đá người khác, thậm chí còn giết chết họ. Vườn nho ở đây là biểu trưng cho dân Israel, đang mang chở những hoa trái tốt lành, như Isaia đã tiên báo. Đồng thời, Đức Giêsu khai mở một viễn ảnh rộng lớn hơn, đó là Nước Thiên Chúa đang đến. Ông chủ vườn nho là chính Thiên Chúa, là người yêu trong dụ ngôn của Isaia, nhưng có những nhân vật mới xuất hiện so với vườn nho trong cựu ước, đó là các tá điền và những gia nhân của ông chủ.
Theo mạch văn trong Mt 21,45, các tá điền là những thượng tế và biệt phái, những người đã không được ủy thác sứ mạng thu gom hoa lợi khi mùa gặt đến. Họ không phải là những cây nho đã sinh ra trái xấu, nhưng dụ ngôn nói về họ như là những con người phản bội ông chủ, không đem hoa lợi về cho ông chủ khi ông sai phái những sứ giả đến vườn nho. Những đầy tớ được gửi tới là hình tượng ám chỉ các ngôn sứ trong cựu ước, giống như Isaia, mà những bài tình ca viết cho họ cũng chẳng làm sao lay động được con tim của họ, giống như tâm tưởng gian ác và chai lỳ của những tá điền. Sau khi đã sai gửi những đầy tớ, ông chủ gửi chính người con của mình đến với họ và nghĩ rằng “Họ sẽ kính trọng đứa con của ta”. Nhưng trớ trêu thay, các tá điền đã quyết định giết luôn anh ta để tiếm quyền sở hữu gia tài. Thế rồi Chúa Giêsu đưa ra câu hỏi “Khi ông chủ đến, ông sẽ hành xử thế nào đối với những tá điền như thế?” Các đầu mục Do Thái và người Pharisiêu trả lời, nhưng dường như họ không biết câu trả lời đó chính là tự kết án họ “Ông chủ sẽ tru diệt bọn chúng, và sẽ trao vườn nho cho người khác canh tác để đến mùa sẽ thu hoa lợi”. Đức Giêsu đồng ý với câu trả lời. Người nói với họ “Quả thật, tôi bảo các ngươi, nước Thiên Chúa sẽ được cất khỏi các ngươi và được trao cho một dân khác có thể làm sinh hoa lợi cho Vương quốc này”.
Bởi vì các tá điền không phải biểu trưng cho toàn dân, nên những người Israel vẫn còn là hình tượng của vườn nho được Chúa yêu thương, mà dụ ngôn của Isaia đã miêu tả. Nhưng vườn nho sẽ được giao cho những tá điền khác, tức là giao cho một dân khác để có thể đem lại trái trăng cho vương quốc nước trời.
Những người theo Đức Giêsu, hình thành một dân mới, gồm cả người Do Thái và dân ngoại. Nhưng họ có thực sự là những tá điền của vườn nho này hay không, còn tùy thuộc vào kết quả sinh lợi của vườn nho. Điểm nhấn của dụ ngôn không phải là vườn nho sẽ bị bỏ hoang như Isaia đã mô tả, nhưng là cần phải chăm sóc chu đáo những trái nho mà vườn nho đã sản sinh. Một cách mặc nhiên, chúng ta hiểu là trong dụ ngôn của Đức Giêsu, vườn nho đang cho những trái tốt. Đức Giêsu không hát lên một bài ca chiến thắng về những hoa trái mà vườn nho mang lại. Ngài cũng không đá động đến sự trổi trang nơi các môn đệ Ngài, nhưng Ngài cũng gợi nhắc lại bài ca tình yêu về vườn nho của Isaia cho nhóm độc giả rộng lớn hơn. Vườn nho được trải rộng. Mọi người chúng ta đều được đón mời đến làm vườn nho cho Chúa. Hơn nữa, có khi tâm hồn chúng ta ngập tràn trái nho dại, chúng ta cần phải đổi mới và sản sinh những trái nho thơm ngọt cho Vương quốc Nước Trời.
15. Tôi tớ hay kẻ tiếm quyền?
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Dụ ngôn các thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại dụ ngôn Chúa Giêsu tạo ra để tỏ bày thân thế của Ngài là Đấng Messia. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Đức Kitô bị dân Người loại bỏ và chung quanh có những môn đệ mà lòng tin phát sinh khó khăn và hiện còn mỏng manh. Như thường lệ, Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ thực tại mà Người nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi xa, ra cả nước ngoài và để việc quản lý mùa màng lại cho những phái viên họ sai đến với các thợ làm nho. Theo luật Do thái nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, đất ấy thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này cho ta hiểu lý luận của các thợ vườn nho: Con thừa tự đấy, giết nó đi, chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, con thừa tự mà chết, đất thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ. Qua dụ ngôn này, và trong đoạn nói tiếp nhắc lại hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho hiểu rằng chính Ngài là người con trai bị thợ làm vuờn nho giết đi và là viên đá góc. Trong tâm trí người đọc sách phúc âm vào thời Mt viết ra, cũng như trong tâm trí chúng ta, tất cả câu chuyện kết thúc bằng việc Chúa Con sống lại, để giải cứu gia tài Ngài, là toàn thể nhân loại và đã trở thành viên đá chính trong việc xây dựng nước trời. Dụ ngôn này đặt ra cách quyết liệt câu hỏi sau đây: Làm sao các người hữu trách dân Do thái lại đã tới chỗ loại bỏ Đấng Messia?
1) Họ đã hướng theo bản năng chiếm hữu. Chủ vườn nho là hình ảnh Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất và Cha của dân tộc Do thái. Việc các lãnh tụ của dân chiếm hữu nằm ở chỗ họ áp đặt quan niệm riêng và lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc được chọn để đạt tới chỗ thống lãnh thế giới. Các vị tiên tri đã đến và chính Con Thiên Chúa cũng đã đến để nhắc nhủ rằng, lề luật thuộc riêng mình Thiên Chúa và dân không phải là sở hữu của những kẻ cai trị, nhưng là của Thiên Chúa mà thôi. Họ đã giết các tiên tri và cuối cùng đã giết luôn Con Thiên Chúa. Họ đã tới chỗ loại bỏ Đấng Messia bởi vì thay vì phục vụ lề luật và dân, họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ lề luật và dân. Một câu hỏi: liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ Chân lý?
2) Làm thế nào để phục vụ Chân lý Phúc Âm mà không chiếm hữu? Bằng cách hãy để cho Phúc Âm thâm nhập và cải tạo chúng ta, chứ không phải đọc rồi sắp xếp Phúc Âm theo ý chúng ta. Ngày xưa các thày thông luật lèo lái sự trông mong của dân đến những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay, phải chăng không có những nhà trí thức xử dụng Phúc Âm để quảng bá hệ thống chính trị của họ, các quan niệm về xã hội của họ dầu cho đó là bảo thủ hay là cách mạng? Người ta không có quyền cư xử như chủ nhân Phúc Âm và dùng Phúc Âm như mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Chúa Giêsu Kitô trong đức tin. Nhiều người tiếm hữu Phúc Âm mưu lợi cho ý tưởng của họ, như các ký lục ngày xưa tiếm hữu lề luật, cuối cùng đi tới chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Phúc Âm mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá sống động là Chúa Giêsu Kitô, Đấng chúng ta lắng nghe, tìm kiếm và yêu mến. Không ai làm chủ Đức Kitô, chúng ta tất cả đều phục vụ cho Phúc Âm của Ngài mà chúng ta chỉ là người lãnh nhận.
16. Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện với chúng ta
(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Nếu Chúa Giêsu đã đến trái đất này cùng một cách như Người đã đến lần đầu tiên, bạn thử nghĩ xem Người sẽ được tiếp bạn ra sao? Sự tiếp đón ngày hôm nay của chính xứ sở bạn có khác với những gì đã xảy ra ở Giudea vào những thế kỷ trước không?
Chúa Giêsu đã đến thế gian sau những lời tiên báo của một loạt các tiên tri trong kỷ nguyên Cựu Ước nhưng chúng đã bị dân chúng thời đó coi thường và phớt lờ đi. Họ đã xử sự giống như những người nô lệ trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể trong bài Phúc âm hôm nay. Những nô lệ này đã đối xử cách đáng xấu với những người làm công mà chủ sai đến lấy phần thu của ông. Thật kinh tởm, khi người khi chủ sai chính con trai của ông, vì ông hy vọng rằng họ sẽ nể ông, nhưng họ đã giết luôn đứa con trai của ông.
Chúng ta không cần phải tưởng tượng gì thì cũng nhận ra người con mà dụ ngôn nhắc đến chính là Chúa Giêsu. Hôm nay có gì mới không? Chúa Giêsu sẽ đến đổi mới thế giới đau khổ và tàn tệ mà Người đã chịu đựng hai mươi thế kỷ trước không?
Không phải tưởng tượng nhưng chúng ta cần đức tin để trả lời cho câu hỏi này. Theo đức tin công giáo của chúng ta, sự thật là Chúa Giêsu đang đến giữa chúng ta,đặc biệt là nơi người hất hủi, bị khinh bỉ và những phần tử nghèo nàn cơ cực trong xã hội của chúng ta.
Chúa Giêsu đến trong ngôi vị của một thai nhi trong dạ mẹ. Người đang cố gắng để được sinh ra một lần nữa vào trong thế giới của chúng ta, nhưng phong trào phá thai đang loại bỏ Người bằng cách huỷ diệt Người ngay tại nơi được coi là cung thánh an toàn nhất trên mặt đất này, là nơi dạ người mẹ. Có phải Thiên Chúa Cha sẽ nói như người chủ đất hôm nay: “Chắc họ sẽ kính trọng con trai ta”.
Theo lịch sử, Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bethlehem, âm vang cái tên thành phố. Bên trong câu chuyện nhẹ nhàng ở Bethlehem là một thú nhận bi thảm về gia đình Thánh: “ Không có phòng cho họ nơi quán trọ”. Thật ra, Mẹ Maria và Thánh Giuse là những người dân nhập cư. Họ từ Nazareth, một nơi phương Bắc xa xôi. Cho dù Chúa Giêsu đã sinh ra nơi thành phố của tổ tiên là Bethlehem, người cũng đã bị đối xử như một người ngoại quốc. Các quán trọ có thật đã chật chỗ không? Hay đơn giản hơn là họ đã không được tiếp đón? “Không có phòng cho họ”.
Ngày hôm hay Chúa Giêsu vẫn còn cố gắng để được chúng ta tiếp đón trong những người dân nhập cư đến với đất nước của chúng ta, những người con cái Chúa này bị loại bỏ như những người ngoại quốc, cho dù họ đã đến một miền đất giống như tất cả trái đất đều thuộc về Thiên Chúa là Cha của họ.
Đời sống công khai của Chúa Giêsu đầy dẫy những chống đối vì những lời rao giảng và giáo huấn của người. Sự thương xót của Người dành cho dân nghèo và người đau ốm làm dâng cao sự căm phẫn bởi vì Người đã làm những công việc tốt lành vào ngày Sabath. Lời hứa về Thánh Thể của Người đòi hỏi những người lắng nghe Người một là chấp nhận người, hai là loại bỏ Người. Nhiều người đã xoay lưng và bỏ đi. Sự loại bỏ biến thành oán ghét, và oán ghét làm cho điên cuồng, họ đã đóng đinh Chúa Giêsu như là một tội nhân.
Có phải đây là một cú nhảy đức tin quá nhiều để chúng ta nhìn về Chúa Giêsu trong một đội nhân không? Nếu như thế, ít nhất chúng gta không nhớ lời Chúa Giêsu đã tha thứ cho trộm lành có lòng hối cải và tha thứ cho những người đã đóng đinh Người ư? “Họ không biết việc họ làm?” Chúng ta có biết việc chúng ta đang làm cho chúng ta thích phạt và khuyến khích một hành động dẫn chúng ta tới tình trạng dã man không?
Một dụ ngôn Chúa Giêsu đã nói khi xưa vẫn có ý nghĩa với chúng ta hôm nay nếu chúng ta khiêm nhường đủ để cho nó thách đố chúng ta bằng những vấn nạn giống như nhiều người đồng hương của chúng ta, chúng ta yếu ớt trong việc tìm kiếm Chúa trong tha nhân.
17. Có một chủ vườn kia
“Chủ vườn” là từ quan trọng trong dụ ngôn này, cùng với một từ khác tương ứng với từ đó: “hoa trái”. Người chủ vườn này muốn có những hoa trái đặc biệt. Với lòng quan tâm chăm sóc, ông trồng một vườn nho và mong đợi một mùa thu hoạch tốt đẹp, nhưng các tá điền không có vẻ gì là hoạt động cả. Chủ vườn sai đầy tớ tới: tá điền giết chết họ. Thế là chủ vườn thực hiện một hành vi điên rồ: ông sai chính con trai của mình đến và con trai ông cũng bị giết.
Chúng ta biết rằng người con trai này chính là Chúa Giêsu, nhưng vườn nho này là vườn nho nào? Những thợ làm vườn nho là ai? Chúng ta phải làm gì trong câu chuyện này?
Từ một vườn nho ở trên một sườn đồi, dụ ngôn kể chuyện những tương quan giữa Thiên Chúa và con người, điều mà Tin Mừng gọi là Nước Trời: “Ta sẽ là Chúa của các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta”, Chúa đã nói như thế. Đây là món quà đẹp nhất của Thiên Chúa, ông chủ của mọi sự, người thầy của mọi sự.
Thiên Chúa mong ước ban Nước Trời cho chúng ta. Là tình yêu Thiên Chúa muốn làm cho tất cả mọi người thành một dân tộc của tình yêu. Điều này muốn nói lên hai điều luôn luôn liên kết với nhau một cách chặt chẽ: một dân tộc gồm những con cái được Thiên Chuá yêu thương và yêu thương Thiên Chúa; một dân tộc gồm những người anh em yêu thương nhau. Đó là vườn nho và đó là những mùa hái nho.
Để thực hiện dự định vĩ đại này, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc nhỏ làm hạt giống, làm men, đó là Israel. Ngài đã giao phó vườn nho của Ngài, tức là dự án về Nước trời cho dân tộc này.
Thất vọng. Được các vị lãnh đạo tôn giáo dẫn dắt tồi, Israel không sử dụng cho đúng những đặc ân của mình. Chúa sai đến cho Israel những sứ ngôn, những tiên tri, nhưng nước này không nghe họ. Coi thường chủ vườn, các tá điền xấu tin rằng họ có thể một mình làm chủ vườn nho của Chúa. Họ chăm sóc vườn nho không tốt bởi vì các ân sủng của Thiên Chúa chỉ sinh hoa kết quả với Thiên Chúa mà thôi.
Trong một nhiệt tình yêu thương tối hậu, Thiên Chúa sai Con Trai của Ngài để dạy cho các thợ làm vườn nho biết cách làm cho vườn nho của Chúa sinh lợi, biết cách sống vì Nước Trời như thế nào. Nhưng hết rồi, vào cuối Tin Mừng, Chúa Giêsu nhận thấy rằng chính Ngài cũng không được lắng nghe, các nhà lãmh đạo dân chúng muốn bóp nghẹt tiếng nói của Ngài.
Thế rồi Ngài đưa ra một lời đe doạ hoàn toàn không khoan nhượng cho những ai tự xem mình là những người được ưu tiên vĩnh viễn, những người chủ của các ân sủng của Thiên Chúa. Cho tới lúc đó, Chúa thường đe doạ họ và thậm chí sửa phạt họ một cách nghiêm khắc, nhưng không hề có ai dám nói với họ rằng Thiên Chúa sẽ giao phó vườn nho của Ngài cho những người khác. Dầu sao thì đây cũng chính là ý nghĩa của dụ ngôn ghê gớm này mà những từ cuối cùng rơi xuống như một cái máy chém: “Nước Trời sẽ được cất khỏi các ngươi và sẽ được trao cho dân khác làm cho trổ sinh hoa trái”,
Lời đe doạ đã được thực hiện, người Kitô hữu tiếp tục sự nghiệp của người Do thái. Điều này không xoá bỏ sự vĩ đại của dân tộc đã được chọn đầu tiên và vẫn là một dân tộc được chọn này (Rm 11, 28-29). Dân Do thái vẫn tiếp tục loan báo Đấng Tối Cao bằng đức tin sâu xa và thường rất anh hùng của họ. Tiếp theo sau và cùng với dân Do thái chúng ta nên giòng mạc khải Do thái –Kitô giáo. Và dụ ngôn này phải làm cho chúng ta suy nghĩ về sự vĩ đại và trách nhiệm của chúng ta. Thật là một sứ mạng nặng nề! Sống tình yêu, loan truyền tình yêu khắp nơi, tạo ra những kết quả thực sự của Nước Trời. Chúng ta có xứng đáng không? Người Kitô hữu và những nhà lãnh đạo tín hữu có tỏ ra trên khắp thế giới như là những tá điền tốt, những thợ làm vườn nho tốt của ông chủ duy nhất của vườn nho hay không?
18. Hành động và phản ứng.
Những người Biệt phái không sẵn sàng trở lại. Đó là một thái độ thụ động. Nhưng đi xa hơn, họ bước sang hành động quyết định chống lại Đức Kitô. Trong ngụ ngôn thợ làm vườn nho, Thày chí thánh đã mô tả cho chúng ta như sau: Israel là một dân gồm những mục tử và nông dân. Các dụ ngôn Phúc âm là những hình ảnh thu nhặt trong đời sống đồng áng. Trước kia nơi các tiên tri và các thánh vịnh, quốc gia này đã được so sánh với một vườn nho được Thiên Chúa vun trồng săn sóc đặc biệt. Chúa chờ hái lượm những chùm nho chĩu nặng tức là mong thấy bay tỏa hương thơm đạo đức và lòng tùng phục Thiên Chúa. Nhưng ít khi Chúa mãn nguyện. Bây giờ, khi Chúa đến, giờ quyết định của dân tộc đã điểm.
Đó là giờ quyết định thực sự! Bổn phận mà Israel chu toàn lại bị coi như là một cố gắng vô ích sao? Quả thực các vị thủ lãnh dân tộc có một đời sống tôn giáo nông cạn khô khan. Ngoài ra họ bắt đầu công kích Chúa, mặc dầu Ngài đã góp công phục hưng quốc gia. Cha ông họ đã giết các tiên tri, những thừa sai của Thiên Chúa, còn chính họ là con cái lại quyết định giết Chúa.
Theo phương diện lịch sử, giờ quyết định đã điểm vì tất cả quá khứ của Israel hướng về ngay vị cứu tinh xuất hiện. Tất cả những hy vọng quy về vị cứu tinh là tột đỉnh mong đợi. Đây Chúa Cứu Thế đã đến và số phận dân tộc đã biểu lộ. Các thủ lãnh đều có trách nhiệm về điều đó. họ tự quyết chống lại Ngài, vì họ muốn một vị khác đáp lại những đòi hỏi sai lầm của họ. Họ không những đã từ chối, nhưng nhất là công kích đầy căm phẫn nữa. Đấng phải đến cho họ sự phục sinh, lại bị chính họ xử tử.
Lời Chúa đòi p hải có lập trường vững chắc, nhất là khi hành động. Ngược lại với lời nhân loại, lời Chúa bắt phải dấn thân. Người ta có thể gạt bỏ những ý tưởng triết học, gạt bỏ hệ thống suy luận của một tư tưởng gia hay những tác phẩm của văn sĩ. Người ta ít chú ý đến những thứ đó, nên một năm khó lòng mua được một số sách, do đó nhiều khi sách vở phải bán theo giá giấy. Trái lại lời Chúa, tiếng gọi và đòi hỏi, đòi phải chọn lựa khi nghe biết. Không chú ý đến lời Chúa là phủ nhận lời Chúa và như vậy là gạt Chúa sang một bên. Làm như thế tức là tiến thêm một bước nữa về sự dữ. Trong khi chối từ những gì đem lại ơn cứu độ, người ta tự ý hướng về tình trạng khai trừ. Kitô giáo, không phải chỉ loan báo những chân lý để bàn luận hay xác định lập trường tùy tiện. Thiên Chúa mời gọi chúng ta, muốn chúng ta dấn thân phục vụ Ngài. Vì thế từ chối có nghĩa là nổi loạn. Lời Chúa là nền tảng cho đời sống. Ai chối bỏ là chối bỏ chính Chúa: Hòn đá không ở một nơi, nhưng theo Đức Kitô, hòn đá đó sẽ nghiến nát ai chối bỏ nó để ở lại giữa loài người.
Tình trạng cuộc sống không bất động: mỗi hành động nhân loại đều được Thiên Chúa đáp ứng cách khác nhau. Thực ra, Ngài không chỉ sửa phạt, Ngài sẽ không tiêu diệt những ai từ chối, nhưng đôi khi Ngài chịu đựng để biến đổi sự dữ thành sự lành. Trước hành động của kẻ thù, Ngài phản ứng lại theo đức công bình và nhất là phản ứng theo lòng yêu thương.
Adam từ chối Thiên Chúa đã gọi mình, nên đánh mất Thiên Đàng, nhưng đồng thời ông lại được hứa Đấng Cứu Thế. Lỗi phạm, nhờ ơn sủng biến thành lỗi có phúc. Đại hồng thủy đưa đến giao ước với Noe. Tháp Babel biểu thị sự chia rẽ nhân loại, cũng biểu thị ơn gọi của Abraham là người biến Israel thành dân duy nhất của Chúa. Việc bán Giuse sang Ai Cập trở nên sự cứu độ cho anh em. Pharaon cứng lòng đưa dân Chúa đến việc ký kết giao ước với Thiên Chúa. Lịch sử tiếp tục thể hiện cho tới lúc Israel từ chối Đức Kitô, đóng đanh Chúa họ trên núi Calvariô. Sự thất bại tuyệt đối đã được ân sủng tác động để hình thành giao ước mới với toàn thể nhân loại, và hy tế cứu độ của Chúa. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, máu các vị tử đạo không ngừng trở nên hạt giống làm trổ sinh những kitô hữu mới. Cho tới ngày chung cuộc, việc xuất hiện người chống lại Đức Kitô sẽ kêu mời Đức Kitô tái giáng. Trái đất bị chúc dữ sẽ báo hiệu một thế giới mới, để tất cả tăm tối sẽ bị ánh sáng toàn thắng. Tất cả sự chết sẽ bị sự sống thống trị, tội lỗi sẽ bị ơn sủng chế ngự. Hòn đá bị thợ ném đi, được Chúa can thiệp để trở nên hòn đá góc. Và nước Chúa được ban cho một dân tộc ưu tú mới, vườn nho được phó thác cho những người thợ mới; những người ấy nhờ tác động của ơn sủng, sẽ gặt hái hoa trái chín mọng do ơn Chúa. Vậy, những hầm rượu và kho lẫm Thiên Chúa được tràn đầy phong phú, rồi những kẻ ưu tú được lệnh trao hoàn cho Ngài. Tất cả biến thành ơn sủng.
19. Chủ vườn nho
Số phận của những kẻ chống lại chủ vườn nho sẽ như thế nào?
Mặc dù đoạn Tin Mừng không nói rõ, nhưng chúng ta cũng thấy được qua câu trả lời của những người nghe Chúa Giêsu:
- Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ đến mùa, họ sẽ nộp phần hoa lợi.
Từ câu trả lời này, chúng ta bước vào lãnh vực siêu nhiên. Vậy số phận của những kẻ chống lại Thiên Chúa sẽ như thế nào? Chúa Giêsu cũng đã từng lên tiếng về vấn đề này:
- Viên đá bị thợ xây loại bỏ, sẽ trở thành viên đá góc tường. Hễ ai vấp ngã trên viên đá này, thì kẻ ấy sẽ bị dập nát và hễ viên đá này đè lên ai, thì kẻ ấy sẽ bị tan xương.
Câu nói này làm cho chúng ta liên tưởng tới lời cảnh cáo của Chúa Giêsu được gửi tới cho Phaolô trên con đường đi Đamas:
- Khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Kinh nghiệm đau thương này đã được thực hiện qua giòng thời gian nơi các dân tộc cũng như nơi những cá nhân.
Trước hết là nơi các dân tộc.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình. Trường hợp thứ nhất, đó là trường hợp của dân Do Thái.
Trong Cựu ước, họ là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và yêu thương cách đặc biệt. Thế nhưng mỗi khi họ quay lưng chống lại Ngài, bằng cách sống bê tha tội lỗi và nhất là quì gối thờ lạy những thần tượng nhảm nhí, thì lập tức đất nước họ bị quân thù dày xéo còn bản thân họ thì bị đi lưu đày, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trong Tân ước, họ là một dân tộc được nghe những lời Ngài truyền dạy và được thấy những việc kỳ diệu Ngài đã làm, thế nhưng cõi lòng họ vẫn chai đá, để rồi những lời Chúa cảnh cáo chỉ là như một thứ nước đổ đầu vịt mà thôi. Họ chống đối Chúa, họ vu oan cho Chúa và sau cùng họ đã giết chết Chúa một cách ô nhục trên thập giá. Nhưng rồi sau đó vào năm 70, thủ đô Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa dưới sức mạnh của quân đội La Mã do tướng Titus chỉ huy. Còn bản thân họ thì phải rời bỏ quê hương, tản mát khắp bốn phương trời, mãi cho đến năm 1950, nhờ áp lục quốc tế, họ mới được trở về khôi phục lại đất nước, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trường hợp thứ hai là nước Pháp trong cuộc cách mạng vào năm 1789. Những kẻ khởi xướng cho cuộc cách mạng này đã bài xích Giáo hội, chối bỏ Thiên Chúa, coi lý trí là thần tượng tuyệt đối có thể giải quyết được mọi vấn đề. Thế nhưng hậu quả mà cuộc cách mạng này đã đem lại như thế nào thì lịch sử đã cho chúng ta thấy: máy chém mọc lên ở khắp nơi, rồi cướp của giết người xảy ra ở khắp chốn, đến nỗi chịu không nổi cảnh tượng hỗn độn vô trật tự ấy, Robespierre đã phải truyền dán trên khắp các ngả dường những tấm bích chương với hàng chữ: Nhân dân Pháp tin vào Thiên Chúa. Quả thực, khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Bây giờ xuống tới lãnh vực cá nhân, số phận của những kẻ chối bỏ Thiên Chúa cũng không hơn gì. Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất là trường hợp của Mirabeau. Ông là người đi tiên phong cho cuộc cách mạng Pháp, hăng hái đả phá Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau đó, ông đã phải đau khổ và tuyệt vọng, nhất là khi phải đối đầu với cái chết. Ông đã chết bằng một cái chết đớn đau và điên khùng.
Trường hợp thú hai là trường hợp của Voltaire. Suốt đời, ông đã tìm cách hạ bệ Thiên Chúa và Giáo hội. Chính ông vào năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã hết thời. Đúng hai mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết một cách thê thảm, tru tréo như một con chó dại, đến nỗi bà giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ có thể chết, thì cũng không chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn còn mãi, nhưng khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Từ những sự việc cụ thể xảy ra cho cá nhân cũng như cho dân tộc, tôi muốn đi tới một kết luận:
- Xe trước đã đổ, thì xe sau phải coi chừng.
Xem người phải nghĩ đến thân, bẳng không, nếu cứ bình chân như vại, đắm chìm trong tội lỗi, chắc chắn số phận chúng ta cũng sẽ không hơn gì bởi vì chủ vườn nho sẽ triệt hạ hết những kẻ xằng bậy và sẽ trao vườn nho cho người khác. Như thế có nghĩa là Nước Trời sẽ bị cất khỏi bàn tay chúng ta, đề rồi chúng ta sẽ bị trầm luân muôn kiếp.
20. Làm việc
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa, được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sữ vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu như Elia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá điền làm vườn nho. Bài Tin Mừng cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác biết đết. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là “vị thiên thần dễ tính” kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: “Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khoẻ ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tới những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên nước trời.
21. Loại bỏ
Trước đây, có một nhân vật đã nhìn vào lịch sử nhân loại và đưa ra những con số như sau: từ năm 1496 BC, trước công nguyên, tới năm 1861 AD, trong 3358 năm, đã có 227 năm hoà bình, và 3130 năm chiến tranh. Như vậy cứ 13 năm chiến tranh, mới có một năm hoà bình. Trong ba thế kỷ, 16, 17 và 18 đã có 286 cuộc chiến xảy ra ở Âu Châu. Từ năm 1500 BC, trước công nguyên, tới năm 1860 AD, đã có hơn 8000 hiệp ước về hoà bình đã được ký kết.
Nhận xét trên đây về tình trạng của nhân loại đã được đưa ra hơn một thế kỷ rồi, chưa kể đến hai cuộc thế chiến, những cuộc chiến tranh kéo dài về ý thức hệ, chủng tộc và khủng bố ở thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Thế kỷ 20 sẽ được coi như thời đại mưu sát khổng lồ sinh mạng con người.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về vườn nho với những hành động bạo lực, bắt bớ, đánh đập, ném đá và giết người của các tá điền. Trong Cựu Ước, vườn nho là hình ảnh của dân Thiên Chúa, dân Do Thái, như đã được diễn tả trong sách tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Irael”. Trong cái nhìn của Tân Ước, khi Chúa Giêsu nói với các thầy thượng tế và kỳ lão rằng: “Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái”. Chúng ta phải nghĩ đến hình ảnh vườn nho là cả nhân loại, gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới.
William Barclay đã cắt nghĩa dụ ngôn những tá điền sát nhân trong ba chiều hướng: chủ vườn nho là Thiên Chúa, những tá điền làm thuê là những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái, những người đầy tớ và con trai ông chủ là những sứ giả, các tiên tri và Chúa Giêsu Kitô.
Thiên Chúa trong vai trò ông chủ vườn nho rất tin tưởng vào những tá điền để trao cho họ sứ mạng trông coi vườn nho. Ngài rất kiên nhẫn và bao dung, gửi các tiên tri và sứ giả đến qua bao nhiêu thế kỷ để nhắc nhở và khuyên bảo, nhưng cũng đã bị đối xử tàn bạo. Sau cùng, Ngài gửi chính con trai đến, rồi cũng bị giết chết. Đến lúc này mới là phán quyết của Thiên Chúa trao vườn nho lại cho các dân tộc khác.
Những người tá điền làm vườn nho trong bài Phúc Âm là những người bạo lực và ích kỷ. Họ đã giết bao nhiêu sứ giả và các tiên tri của Thiên Chúa gửi đến kêu gọi xây dựng một xã hội hoà bình, công chính và thương yêu.
Họ là những ai trong thời đại chúng ta? Họ là những chủ nhân làm giầu qua việc sản xuất vũ khí tối tân, thúc giục chiến tranh trên thế giới thay vì giúp đỡ những quốc gia kém mở mang chống lại nghèo đói, bệnh tật và bất công. Họ nâng đỡ những chế độ độc tài để bóc lột dân chúng vì quyền lợi riêng tư của họ. Họ là những chủ nhân bóc lột sức lao động của công nhân với tiền lương rẻ mạt ở những nước kém phát triển…
Năm 1492, Columbus thả buồm ra biển khơi. Ông đã cập vào quần đảo của người Hispaniola, giữa Cuba và Puerto Rico, với dân số 100.000 người. Thổ dân da đỏ niềm nở ra chào đón những nhà thám hiểm của Phương tây. Columbus đã nhìn thấy họ đeo những nữ trang bằng vàng và báo cáo cho vua Ferdinand biết rằng vũ khí của thổ dân này rất đơn sơ, chỉ cần một nhóm lính Tây Ban Nha được trang bị vũ khí cẩn thận, cũng có thể bắt ép họ làm nô lệ trong những mỏ vàng để phục vụ cho ngân khố của Tây Ban Nha. Trong 15 năm, sự cai trị của Tây Ban Nha đã làm giảm dân số của người Hispaniola từ 100.000 xuống còn 15.000 người. Những việc lao nhọc dã man đã đè nặng trên những người nô lệ của Tân Thế Giới này là một hình thức diệt chủng tàn bạo phát xuất từ những nền văn minh trọn hảo. Những người lính phục vụ trung thành đã kiếm được rất nhiều tài sản và đồn điền.
Một ngày kia, chàng thanh niên tên là Bartolomeo de las Casas đã nghe một bài giảng của linh mục dòng Đaminh. Ngài đã nói những sự đối xử tàn bạo đó đối với người khác là ghê tởm, trái với đạo lý của Kitô giáo. Những người địa chủ Tây Ban Nha cười nhạo ngài, nhưng de cas Casas đã ăn năn trở lại. Anh trao trả tự do cùng với đất đai cho những người nô lệ. Sau này, anh đi tu trở thành linh mục, và lễ thụ phong của linh mục Bartolomeo là thánh lễ truyền chức đầu tiên ở Tân thế Giới.
Bartolomeo phục vụ như một linh mục của những người cai trị Tây Ban Nha, nhưng ngài rất thương mến những người thổ dân da đỏ. Ngài nói rằng những hạt lúa mì đã được trồng xuống, chăm nom, và gặt hái bởi những người nô lệ đã tạo nên tấm bánh được bẻ ra trong Bí tích Thánh Thể. Khi ngài bẻ bánh, ngài nhìn thấy máu của những người nô lệ chảy xuống.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải trở nên những người đầy tớ của Thiên Chúa. Phải xây dựng vườn nho bằng tình yêu thương và sự hy sinh chính thân mình cho tha nhân, như chính Ngài đã cầm lấy tấm bánh bẻ ra và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta”.
Để xây dựng trật tự xã hội phải lấy chính nhân phẩm con người như một tạo vật “giống hình ảnh của Thiên Chúa” làm trọng tâm như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Chính từ giá trị con người mới phát sinh ra giá trị xã hội, chứ không phải từ giá trị xã hội mà có giá trị con người”.
Phải trở về với những giá trị Kitô giáo để kiến tạo hoà bình. Một tác giả tôi không nhớ tên đã khuyên rằng: “Những giá trị giống như những dấu tay. Không ai giống nhau. Nhưng bạn để lại chúng trên mọi sự bạn hành động”. Phải, thời đại này đã để lại những giá trị của mình khắp nơi trên thế giới qua những nhãn hiệu Coca-Cola, kẹo chewing-gum, sách báo phim ảnh khiêu dâm, tự do tình dục, mãi dâm, nhạc rock’n’roll, rap-talk, tiền đôla, xe hơi Cadillacs, điện thoại cầm tay, computers, phi thuyền không gian, vũ khí nguyên tử, phá thai, an tử và trợ tử… Tất cả những điều này nói lên những giá trị của thời đại văn minh hiện nay. Thật đáng tiếc! Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi nền văn minh này là “văn hoá của sự chết”!
22. Loại bỏ
Vở ca nhạc kịch (opera) “Miss Saigon” là một bản phóng tác từ câu chuyện ngắn “Madam Butterfly” của văn sĩ John Luther Long vào năm 1898 đăng trên tạp chí “Thế Kỷ”. Một câu chuyện cũ được đưa vào trong bối cảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong màn thứ nhất, một cô gái bán bar yêu một chàng lính Mỹ GI. Họ kết hôn với nhau, thề hứa yêu thương trọn đời. Hết nhiệm kỳ, chàng bó buộc phải rời nàng trở về Mỹ, nhưng hứa sẽ trở lại khi chiến tranh chấm dứt. Nàng là một cô gái nhà quê đơn sơ, vô tội và chịu đựng. Tình yêu của nàng dành cho chàng lính Mỹ hoàn toàn vô điều kiện, yêu thương hết lòng. Chàng lính Mỹ trở về nước mà không biết rằng vợ đang mang thai, một bé trai. Nàng âm thầm dấu kín và hết sức bảo vệ người con trong khi chịu đựng mọi tủi nhục.
Màn thứ hai giới thiệu một cơ quan phục vụ nhằm đi tìm những người lính Mỹ GI, cha của những trẻ em Mỹ lai. Khi câu chuyện tiếp diễn, chàng lính Mỹ đã kết hôn lần nữa ở Mỹ. Anh rất hạnh phúc, mặc dù anh vẫn mơ ước gặp lại Miss Saigon. Nhân viên thiện nguyện tìm được anh. Anh phải nói cho vợ biết về Miss Saigon và đứa con trai. Anh và vợ cùng đi về Việt Nam để sắp xếp vấn đề cho êm thắm. Miss Saigon đã gặp vợ của anh, cô quá xúc động không nói lên lời, chỉ xin vợ anh đưa đứa bé về Mỹ và tạo cho nó một đời sống mới mà nàng không thể làm được.
Màn kết thúc, Miss Saigon mặc quần áo đẹp cho con trai nàng, một đứa bé khôi ngô tuấn tú, để trao lại cho ba nó và mẹ ghẻ. Trong giây phút lưu luyến yêu thương nhất nàng hôn con và nói “Xin con đừng quên mẹ, sau này con sẽ hiểu”. Đứa bé trai bước đi theo ba nó và mẹ ghẻ với vòng tay mở rộng. Miss Saigon biến mất sau bức màn. Đùng!!! Một phát súng đã nổ. Nàng đã tự tử chết; chàng lính Mỹ GI chạy vội vào trong, ôm nàng lên, anh rên rỉ đau khổ…
Nhà văn John Bradshaw đã nói lên phản ứng cá nhân của ông đối với vở ca nhạc kịch Miss Saigon như sau: “Thình lình, ông bật khóc nức nở trong phần kết thúc của bi kịch, ông bắt đầu xúc động vì vở kịch đưa ông vào câu chuyện yêu thương và hận thù của chính cuộc đời ông, đám cưới đổ gẫy của cha mẹ ông, nỗi đau thời thơ ấu của ông. Ông bắt đầu đồng hoá mình với đứa bé vô tội trong số phận thảm thương do cuộc tình của cha mẹ. Ông nghĩ về những người ông đã yêu, và đặc biệt là người đã bỏ ông! Ông nhớ mãi nỗi đau thương đó! Nó giống như một người nào đó đã đóng một cái đinh sắt khổng lồ vào giữa lồng ngực của ông. Chỉ trong một giây phút ông có thể cảm thấy mất thở vì đã bị từ chối…”
Ông nghĩ về thân phận đau khổ của mẹ mình. Làm thế nào người phụ nữ 26 tuổi lại có thể một thân mình nuôi được ba người con. Bà lao động vất vả để nuôi gia đình. Bà lại là một người Công giáo đạo đức. Đức tin không cho phép bà tái hôn. Từ lúc cha của Bradshaw bỏ bà ra đi, bà chưa bao giờ đụng vào một người đàn ông nào. Bradshaw nói: “Thật là một đức tin khó tả! Một lời đoan hứa cho những niềm tin. Và cũng thật đau khổ khủng khiếp khi bà bị từ chối!”
Chúa Giêsu cũng đã bị từ chối. Đây là điều bản văn Thánh Kinh đã nói với chúng ta: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Chúa Giêsu đã trích lại lời Thánh Vịnh 118:22-23 để áp dụng cho chính Ngài.
Con người khi bị từ chối, bỏ rơi, thường rất tuyệt vọng và đau khổ như trong trường hợp của Miss Saigon. Chúa Giêsu cũng rất đau khổ, nhưng không tuyệt vọng. Trong cùng một hoàn cảnh giống như con người nhưng Ngài đã tìm thấy niềm hy vọng. Chúa Giêsu Đấng đã bị từ chối, nhưng đã trở nên Đấng Cứu Thế. Và Thánh Kinh kết luận: “Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”.
Đây chính là điểm mang lại niềm hy vọng cho tất cả những ai có cảm giác bị từ chối, và bị loại bỏ. Nó được tìm thấy ý nghĩa trong tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Nó mang lại hy vọng khi chúng ta đặt tất cả sự nghi ngờ và lo sợ trên bàn thờ của Thiên Chúa và xin Ngài chữa lành những thương tích của chúng ta.
23. Hãy trả tiền thuê của bạn
Trong cuộc sống có rất nhiều sự bất công, đôi khi họ đạp lên cả lẽ phải và sự công chính để thực hiện mưu đồ điều ác của mình. Hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta về người chủ nhà làm mọi cách có thể để vườn nho của ông sản xuất trái nho. Rồi ông giao cho tá điền thuê, nhưng kết quả là một sự thiệt hại về cả vật chất lẫn tinh thần. Nó được thể hiện rỏ nhất khi chủ nhà sai những đầy tớ đến thu phần hoa lợi, thì những tá điền bắt các đầy tớ mà đánh đập và giết chết. Không những thế, khi chủ nhà lại sai chính con ông thì họ cũng giết cậu. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông chủ nhà sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và cho những tá điền khác thuê vườn nho mà họ biết chia phần hoa lợi.
Bài học trong câu chuyện thật dễ hiểu đối với thính giả thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do Thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết các sứ giả của Thiên Chúa và đóng đinh chính con của Ngài chết trên thập giá.
Ngày hôm nay, có nhữngtá điền mới trong vườn nho của Ngài, những công dân mới trong nước Thiên Chúa đó chính là chúng, những người được lựa chọn, những người được mời gọi. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải trả một loại "tiền thuê", một loại "dịch vụ", một loại "nợ" về ân huệ gia nhập dân Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa muốn không phải vì Ngài thiếu. Nhưng Ngài muốn là lòng biết ơn của ta đối với Đấng đã cưu mang, điều đó được thể hiện qua việc chúng ta tuân giữ lề luật của Ngài. Thực vậy, mọi sự mà các giới răn đòi hỏi chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa, ngay như những hoa lợi mà chủ nhà đòi hỏi đã thuộc về của ông.
Khi Thiên Chúa trao vườn nho cho mỗi người, thì chúng ta phải có bổn phận đáp trả sao cho xứng đáng, có thể chúng ta đang là những tá điền gian ác, bất công... Chúng ta có những hành động đó vì những cám dỗ nơi của cải trần gian, danh lợi thế tục mà chúng ta bị che mờ, bị mù quang cứ lao đầu như con thiêu thân làm hết chuyện ác này đến điều ác khác
Các giới răn là tiền lương, tiền thuê, tiền thuế, nếu bạn muốn gọi là thế, mà chúng ta phải trả cho bổn phận trong nước Thiên Chúa. Ở đây, bây giờ, bạn hãy xin Ngài giúp bạn thi hành sự trả nộp đó, nghĩa là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài với lòng biết ơn và yêu mến.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra mình đang là những ta điền trong vườn nho của Chúa, để con biết được thân phận hèn mọn của mình mà ca tụng Chúa mỗi ngày trong đời con. Amen.
24. Hãy trả tiền thuê của bạn
Đức Giáo Hoàng Piô X lãnh đạo Giáo hội công giáo từ năm 1904 đến năm 1914. Chúng ta kính nhớ Ngài về việc làm thăng tiến nền giáo dục công giáo, khuyến khích rước lễ lần đầu vào tuổi sớm hơn, và đời sống thánh thiện của Ngài. Ngày nay chúng ta tôn kính Ngài là thánh Piô X. Khi làm cha phó ở Tombolo, Italia, Ngài đã lưu ý đến nhiều thanh niên không biết đọc biết viết. Do đó họ không kiếm được địa vị hay công việc thích hợp. Vị giáo hoàng tương lai tuyên bố: “Chúng ta sẽ mở trường học đêm. Trường sẽ chia ra hai nhóm: một nhóm do các giáo viên địa phương hứơng dẫn, là nhóm khá hơn gồm những người đã biết đôi chút. Tôi sẽ phụ trách những người khó dạy hơn”. Các thanh niên rất thích thú, nhưng một người trong nhóm họ đã muốn biết: “làm thế nào chúng ta có thể trả chi phí về việc này?”. Vị linh mục thánh thiện giải thích: “Bạn đừng lo. Tiền học là chỗ bạn không chửi thề”.
Để tỏ cho chúng ta biết nước Thiên Chúa giống như cái gì, Chúa Giêsu vừa kể cho chúng ta về người chủ nhà làm mọi cách có thể để vườn nho của ông sản xuất trái nho. Rồi ông giao cho tá điền thuê. Khi chủ nhà sai những đầy tớ đến thu phần hoa lợi, thì những tá điền bắt các đầy tớ mà đánh đập và giết chết. Chủ nhà lại sai chính con ông thì họ cũng giết cậu. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông chủ nhà sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và cho những tá điền khác thuê vườn nho mà họ biết chia phần huê lợi.
Ý nghĩa câu chuyện thật rõ ràng đối với thính giả thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết các sứ giả của Thiên Chúa và đóng đinh chính con của Ngài chết trên thập giá.
Rồi Thiên Chúa kêu mời những người ngoài Do thái, là bạn và tôi, làm những tá điền mới trong vườn nho của Ngài, làm công dân mới trong nước Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải trả một loại “tiền thuê”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Thiên Chúa. Những thanh niên trong câu chuyện cảm thấy họ hàm ơn linh mục trẻ, thánh Piô X tương lai, vì họ được làm thành viên trong lớp học của Ngài. Tất cả điều Ngài đòi hỏi là họ không được kêu tên Chúa vô cớ. Trong khi làm cho chúng ta nên thành viên của nước Ngài, thì tất cả điều Thiên Chúa đòi hỏi là chúng ta tuân giữ lề luật của Ngài. Thực vậy, mọi sự mà các giới răn đòi hỏi chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa, ngay như những hoa lợi mà chủ nhà đòi hỏi đã thuộc về của ông.
Trong giới răn thứ nhất, Thiên Chúa đòi hỏi phải tôn thờ sùng phụng. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa ngay chính và qua thánh lễ này. Đấng tối cao có quyền đòi hỏi tôn vinh Ngài. Một ngày trong tuần đòi hỏi tôn vinh Thiên Chúa, Ngài đòi hỏi thánh hóa ngày đó như phần đền đáp lại của bổn phận trong nước Ngài. Thiên Chúa đã giao quyền bính cho cha mẹ và thầy dạy chúng ta. Bởi vì các Ngài thay mặt Chúa nên các Ngài đang được chia sẻ cho một số người được quyền năng tạo dựng những con người mới. Đấng tối cao che chở bảo vệ phái tính. Mọi của cải tùy thuộc Thiên Chúa. Trộm cắp là lấy mất cái gì nơi Thiên Chúa.
Các giới răn là tiền lương, tiền thuê, tiền thuế, nếu bạn muốn gọi là thế, mà chúng ta phải trả cho bổn phận trong nước Thiên Chúa. Ở đây, bây giờ, bạn hãy xin Ngài giúp bạn thi hành sự trả nộp đó, nghĩa là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài với lòng biết ơn và yêu mến.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
25. Tá điền và vườn nho
Có một bản tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả tự do lạm thời, nhờ hạnh kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha mẹ, nên em này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử tốt đẹp như năm người con khác trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ nuôi cũng như anh chị em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em cảm nhận được tình yêu thương chân thành trong gia đình mới.
Một hôm, em được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với lời nhắn nhủ là “hãy trở về nhà trước 11 giờ khuya”. Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ nuôi của em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới nhà. Không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ nuôi chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để cha mẹ không phải lo lắng đợi chờ con nữa”.
Sáng hôm sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ nuôi ở nhà, và bất ngờ, người thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến lại đập đầu người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận và người cha nuôi của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ thốt lên một lời: “Nó đã giết chết người vợ thân yêu của tôi. Đây là một hành động vô ơn tột cùng”.
Sự việc trên có thể giúp chúng ta phần nào hiểu thấu được dụ ngôn: “Người tá điền và vườn nho” được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là thái độ vô ơn tột cùng của những người giữ vườn nho đáng trách, họ đã khước từ và giết hại những người làm mà ông chủ sai đến, rồi cuối cùng họ cũng giết chết luôn cả người con của ông chủ.
Thái độ vô ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, qua đó nhắc nhở chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với Thiên Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha thứ những lỗi tầm của chúng ta, một khi chúng ta biết trở về với Ngài.
Mặt khác, Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài, để chúng ta làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp. Hơn nữa, Ngài đã không ngừng sai những sứ giả của Ngài đến để nhắc nhở chúng ta tích cực chăm sóc vườn nho cho Ngài. Vì thế chúng ta phải có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng, có thể thay vì dâng cho Ngài những chùm nho ngon ngọt, thì chúng ta lại có những thái độ thù nghịch chống lại Ngài, chống lại Thiên Chúa, chống lại những sứ giả mà Ngài đã sai đến với chúng ta.
Vậy, thử hỏi còn điều gì có thể làm được cho con người mà Thiên Chúa đã không làm để cứu rỗi, để hướng dẫn và ban hơn nữa cho chúng ta hay không?
Chính Ngài đã sai Con Một Ngài đến cứu rỗi chúng ta, và hy vọng con người sẽ không giết hại Con Ngài, nhưng sẽ tắng nghe lởi Người: “Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời Ngài”.
Thật thế những kẻ vô tâm, bất nhân bất nghĩa đã làm việc bất nhân, thay vì dâng lời cảm lạ Thiên Chúa thì lại giết chết Con Thiên Chúa, giết chết người ân nhân vĩ đại của cuộc đời mình. Xin Chúa ban ơn biến đổi cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết tắng nghe liếng Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ khẩn cầu Chúa ban cho mỗi người chúng con được bắt chước gương sống của Mẹ: Khiêm tốn, vâng phục, chấp nhận thưa “xin vâng” với Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài truyền”. Nhất là chúng con xin Mẹ giúp cho mỗi người chúng con luôn luôn sống trong thái độ biết ơn Thiên Chúa, cố gắng hết mình để làm vườn nho mà Ngài đã trao phó cho mỗi người chúng con, để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Xin Thiên Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
26. Được và mất
Chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” kể rằng: Một hôm, lừa đang gặm cỏ, bỗng thấy Sói phi nước đại phóng tới. Lừa giả bộ đi khập khiễng. Khi Sói đến gần, hỏi nó vì sao bị thọt chân, thì Lừa trả lời:
- Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc gai.
Rồi Lừa đề nghị Sói trước khi ăn thịt mình hãy nhổ gai ra đã, để khỏi bị gai đâm.
Sói tin lời, Lừa giơ cao chân để Sói soi mói kỹ lưỡng các móng chân Lừa. Lừa thừa cơ đạp mạnh vào mõm Sói rồi bỏ chạy.
Sói bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.
- Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ chuyên ăn thịt, chứ đâu dạy ta làm thày lang!
Nếu chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng ta một bài học, thì chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” muốn nói với chúng ta: Kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh hậu quả bi thảm.
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn “Những người thợ làm vườn nho”. Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng tinh thần, của cải vật chất, để chúng ta đem hoa lợi về cho Người. Thiên Chúa còn tôn trọng chúng ta, Người để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc, theo sáng kiến riêng của mỗi người. Thánh Matthêu viết: “Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa”. Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.
Khốn thay, có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá điền ấy đã ngược đãi và sát hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm chí, đến lần thứ ba chúng giết luôn cả con trai ông. Họ làm như thế là để chiếm lấy gia tài của chủ. Hậu quả là: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”.
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để chúng ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để chúng ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của chúng ta, là để chúng ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho chúng ta các tài năng là để chúng ta sinh lợi cho phần rỗi mình. Nếu chúng ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác. Nỗi bất hạnh ấy chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!
Sẽ đến ngày chúng ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó. Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc chúng ta đang làm hôm nay. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm, hay đã cản trở không cho người khác làm”.
27. Tá điền vườn nho
Nhân cơ hội các thượng tế và các kỳ lão chất vấn Chúa Giêsu về việc Người lấy quyền nào mà đánh đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để nói với các ông như những lời cảnh giác về sự cứng lòng của họ. Dụ ngôn tá điền gian ác là một trong ba dụ ngôn ấy.
Như đã nói ở trên, câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu kể trực tiếp nhắm vào các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho là dân riêng của Chúa. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Cuối cùng ngay cả Người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá. Họ nghĩ rằng chỉ khi làm như thế họ mới chiếm đoạt được trọn quyền thừa kế và hưởng lợi lộc từ vườn nho.
Ý nghĩa cụ thể của dụ ngôn là như thế. Nhưng chúng ta cần nội tâm hóa câu chuyện để có thể lắng nghe được tiếng gọi của Thiên Chúa dành cho chính mình chứ không phải chỉ cho những người xa lạ ở vào những thời đại xa xưa.
Như ông chủ trao phó vườn nho cho các tá điền, Thiên Chúa cũng tín nhiệm trao phó cho ta chăm sóc những vườn nho của Người. Vườn nho ấy là chính cuộc đời của riêng ta, là những cộng đoàn mà ta phải phục vụ, là những trách nhiệm mà ta phải hoàn thành.
Như ông chủ vườn nho đã dựng hàng rào, đã xây tháp canh để bảo vệ vườn nho, đã lắp đặt máy ép nho để giúp cho công việc của tá điền được dễ dàng, nhờ đó họ có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Khi trao cho ta những nhiệm vụ, Thiên Chúa cũng ban cho ta phương tiện là những ân huệ cần thiết để chúng ta thực hiện tốt công việc được trao.
Trao vườn nho rồi, ông chủ đi xa một thời gian. Ông tin tưởng các tá điền sẽ làm cho vườn nho sinh hoa kết trái. Thiên Chúa cũng tin tưởng ở chúng ta khi trao cho chúng ta những trách nhiệm. Người không trực tiếp giám sát chúng ta như những anh công an. Người cũng không phải là một ông chủ chuyên chế áp đặt tự do và giết chết sáng kiến của chúng ta. Người tôn trọng chúng ta như những người trưởng thành và để chúng ta tự do làm việc. Người tin tưởng ở tinh thần trách nhiệm của chúng ta.
Sau một thời gian vắng nhà, khi trở về, ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoa lợi của vườn nho. Sẽ tới ngày chúng ta cũng phải tính sổ với Thiên Chúa về những công việc được trao phó. Người hỏi chúng ta về hoa trái của những công việc đã được trao. Người hỏi chúng ta về tinh thần trách nhiệm.
Những người tá điền đã giết chết các tôi tớ của ông chủ. Hành vi này tượng trưng cho sự khước từ Thiên Chúa của chúng ta. Có thể chúng ta đã từng loại trừ Thiên Chúa vì nghĩ rằng Người là một ông chủ hà khắc, hay đòi hỏi, hay quấy nhiễu con người.
Thay vì tiêu diệt các tá điền, ông chủ lại sai thêm các đầy tớ khác. Điều này nói lên lòng nhân từ và sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người không trừng phạt chúng ta khi chúng ta phản nghịch và chống lại Người, nhưng Người ban cho ta nhiều cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm và để trả lời cho tiếng gọi của Người.
Không nhận ra được lòng nhân từ của ông chủ, những người tá điền lại giết chết cả những anh đầy tớ này. Đó chính là thái độ cố chấp sống trong tội lỗi của chúng ta. Tội lỗi là sự bất tuân lệnh của Thiên Chúa, là cố ý chống lại Thiên Chúa, cố ý đi ra khỏi con đường của Người.
Không ngã lòng, ông chủ còn sai con trai mình đến với những người tá điền. Và họ cũng giết chết luôn cả anh con trai này. Họ bàn bạc với nhau rằng: Phải giết anh con trai thừa tự này đi để chúng ta chiếm lấy vườn nho. Thì ra tội lỗi của những người tá điền không phải là không làm cho vườn nho sinh hoa kết trái mà là muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Thiên Chúa đã dùng mọi phương cách để cứu vớt con người. Người đã chơi ván bài chót là liều hy sinh chính Con Một của Người để thức tỉnh con người. Nhưng con người luôn muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình để có thể sử dụng cuộc đời, để định đoạt mọi sự theo ý mình muốn. Chúng ta làm việc này việc khác không phải vì quyền lợi của Thiên Chúa mà chỉ vì ích lợi của bản thân mình. Chúng ta muốn chiếm đoạt những gì thuộc về Thiên Chúa để làm của riêng mình.
Chính trong ý nghĩa nói trên mà câu chuyện dụ ngôn cũng là câu chuyện của đời thường và câu chuyện của ngày xưa cũng là câu chuyện của ngày hôm nay. Hàng ngũ lãnh đạo Do thái giáo ngày xưa đã loại trừ và đã giết chết Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để chỉ cho họ con đường về Trời. Vụ án giết Con Thiên Chúa vẫn còn kéo dài qua mọi thời cho tới ngày hôm nay. Và lý hình giết con Thiên Chúa có thể là mỗi người chúng ta. Điều đó thật là đáng sợ.
28. Siêng năng làm việc
(Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa. Những người làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được chuyển sang cho một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công Giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu như Ê-li-a, Ê-li-sa, I-sa-i-a,
Giê-rê-mi-a, Gio-an Tiền Hô... cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá điền làm vườn nho.
Bài Tin Mừng cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác biết đến. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là "vị thiên thần dễ tính" kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: "Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường". Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giả biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: "Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu". Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hàng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thât vui tươi hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên Nước Trời.
29. Những sợi dây và những chiếc cầu
(Mark Link)
Chủ đề: “Dụ ngôn chủ vừơn nho là một bản tóm lược lịch sử Chúa cứu độ chúng ta”.
Chiếc cầu treo Melrose bắc trên sông Niagara ở Nữu Ước nối liền Gia Nã Đại và Hiệp Chủng Quốc. Người ta nói rằng chiếc cầu này đã được thiết kế như sau:
Trước tiên người ta thả một cái diều cho nó bay ngang qua sông. Cái diều đó được cột vào một sợi dây, tiếp theo, sợi dây này được cột lại vào một sợi thừng và đến lượt sợi thừng này lại được cột vào một sợi cáp bằng thép. Như thế, dây cáp bằng thép này được dùng để giúp cho phần còn lại của chiếc cầu đứng vững.
Câu chuyện cầu Melrose thừơng được dùng để minh hoạ cho thấy các sự việc lớn lao thường được khởi đầu bằng những việc rất khiêm tốn.
Thuật kể chuyện rất phổ biến ngay từ khi con người biết liên kết từ với nhau để tạo thành câu. Thời xưa rất ít người biết đọc hoặc viết. Khi muốn dạy một điều gì quan trọng, người ta thường dựng lên một câu chuyện về điều muốn dạy, nhờ thế không những dễ học mà còn dễ nhớ nữa.
Có lẽ Chúa Giêsu đã kể chuyện nhiều hơn phần lớn các Tôn Sư khác. Câu chuyện Ngài kể được gọi là dụ ngôn. Có người đã khéo léo mô tả dụ ngôn như là một câu chuyện bàn về thế trần hàm chứa một ý nghĩa thiên quốc. Nhằm mục đích thực tiễn hoàn toàn, các dụ ngôn của Chúa Giêsu thừơng là một trong hai dạng sau: dụ ngôn “Cửa sổ” và dụ ngôn “kiếng soi mặt”.
Dụ ngôn “cửa sổ” là một chuyện đơn sơ nói về Chúa hay về Nứơc Chúa. đây là một “cửa sổ bằng lời nói” qua đó chúng ta có thể hiểu rõ hơn về Thiên Chúa hoặc Nước Chúa. Dụ ngôn dạng này thường bắt đầu với những từ sau: “Nước Trời giống như...”
Một ví dụ về dụ ngôn dạng “Cửa sổ” là câu chuyện con chiên lạc của Chúa Giêsu. Câu chuyện này so sánh mối quan tâm của người mục tử đối với một con chiên lạc và sự quan tâm của Cha Ngài đối với kẻ tội lỗi. Người mục tử ra đi tìm kiếm con chiên lạc đường. Khi tìm thấy nó, ông đã không cột chiên con vào một cái dây rồi trừng phạt nó mà lại âu yếm đặt nó trên vai mang về nhà. Chủ ý Chúa Giêsu là tỏ cho thấy Cha Ngài trên trời cư xử với kẻ tội lỗi cũng y hệt như thế. Như thế các dụ ngôn dạng “cửa sổ” là những câu chuyện giúp chúng ta hiểu rõ Thiên Chúa và Nước Ngài.
Còn ngược lại các dụ ngôn dạng “kiếng soi” là những câu chuyện có tác dụng như “chiếc gương soi bằng lời” Nghĩa là, chúng giúp chúng ta hiểu rõ chính mình. Chúa Giêsu đã xây dựng các dụ ngôn này khéo léo đến nỗi các nhân vật trong dụ ngôn đại diện cho cả đám cử toạ đang nghe Ngài. Nói cách khác, đám người đang nghe Chúa Giêsu có thể nhận ra chính mình là một trong những nhân vật được nêu ra trong dụ ngôn.
Dụ ngôn chủ vườn nho hôm nay là một ví dụ rất hay thuộc dạng này, Chúa Giêsu ám chỉ trực tiếp và đặc biệt đến các trưởng tế và biệt phái. Hãy nhìn vào các nhân vật đóng vai trong dụ ngôn sẽ thấy ngay Chúa Giêsu có ý định để cho các nhân vật này đại diện đám người nào trong cuộc sống thực tế ngoài đời.
Dĩ nhiên, Chủ vườn nho không ai khác hơn là ngoài Thiên Chúa. vườn nho, theo như bài đọc thứ nhất hôm nay cho thấy, là dân tộc Israel. Tá điền vườn nho là các vị lãnh đạo Israel. Nhóm đầy tớ đầu tiên được chủ vườn sai đến là các tiên tri thuở xưa được Chúa phái đến với Israel. Nhóm nô lệ thứ hai là các tiên tri kế tiếp cũng do Chúa phái đến với Israel. Con trai chủ vườn, tức kẻ bị giết, là Chúa Giêsu. Đám nông gia tá vườn mới mà chủ vườn giao vườn nho lại là các Tông Đồ của Chúa Giêsu. Họ là các nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
Phần cuối dụ ngôn, không được trưng ra trong bài đọc hôm nay kể lại rằng: “Các tư tế và biệt phái đều hiểu rằng Chúa Giêsu đang nói về họ”. Nói cách khác, họ nhìn vào dụ ngôn “kiếng soi” này và trông thấy chính mình. nhưng thay vì hoán cải, họ vẫn cứ tiếp tục bước đi trong đường nẻo sai lạc của mình.
Điều này dẫn chúng ta đến một vấn nạn quan trọng, phải chăng Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này chỉ nhằm tác động đến các trưởng tế và biệt phái mà thôi không? Hoàn toàn không phải thế. Ngài còn nhắm cả đến chúng ta nữa. Như thế dụ ngôn này nói lên với chúng ta điều gì? Tôi xin đưa ra bốn điểm sau:
- Trước hết, dụ ngôn tóm lược toàn bộ Thánh Kinh nói về ơn cứu độ, nêu rõ những qui chiếu rõ rệt về Giao ước và Giao ước mới. Lần giao ước vườn đầu tiên ám chỉ đến Cựu ước. Lần giao vườn thứ hai ám chỉ đến Tân ước.
- Thứ đến, dụ ngôn này xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. nhân vật cuối cùng được sai đến với các tá điền không phải là một đầy tớ nào khác mà chính là con trai của chủ vườn.
- Thứ ba, dụ ngôn xác nhận các Tông Đồ của Chúa Giêsu là những nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
- Cuối cùng, dụ ngôn nói với chúng ta về lòng nhẫn nại mà Chúa dành cho chúng ta cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với Chúa.
Chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá vườn thay đổi đường lối. Khi ông ta thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ.
Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế. Cha trên trời của chúng ta vô cùng kiên nhẫn. Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử. Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Như thế, dụ ngôn hôm nay không chỉ nói với các trưởng tế và biệt phái thời Chúa Giêsu mà còn nói với chúng ta nữa. Dụ ngôn tóm lược câu chuyện Thánh Kinh về ơn cứu độ, cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, các Tông đồ Chúa là những vị lãnh đạo mới của dân Chúa, và cuối cùng dụ ngôn ấy còn dạy chúng ta về lòng kiên nhẫn lớn lao của Chúa dành cho chúng ta, đồng thời trách nhiệm riêng chúng ta phải chịu trước mặt Ngài.
Chúng ta hãy kết thúc bằng một tư tưởng có tính cách cầu nguyện mà Richard Wilson viết ra cách đây nhiều năm. Tư tưởng này được viết thành những vần thơ trữ tình như sau:
Đức Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Ngài chỉ cho thiên hạ cũng như chỉ cho bạn và tôi
Cách thức sự việc xảy ra như thế nào.
Ngài đã dùng bầu trời
Ngài đã dùng biển cả
Ngài đã dùng chim muông
Ngài đã dùng cây cối
Ngài đã dùng bất cứ những gì Ngài có thể trông thấy,
Ngài là Người kể chuyện à?
Phải, Chúa Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Đó là phương cách Ngài dùng
Chỉ cho thiên hạ, cho bạn cho tôi
Biết sự việc sẽ xảy ra thế nào.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
30. Hãy làm nảy sinh nhiều hoa lợi cho chủ mình
(Lm Ansgar Phạm Tĩnh)
Tại sao những người tá điền lại nhẫn tâm"bắt các đầy tớ [của ông chủ]: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ [và còn dám cả gan]... bắt lấy [con trai của ông], quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi" như vậy thưa bạn (Mt. 21:35,39)?
Bạn nghĩ thử mà xem, khi kiếm người trông nom và quản lý tài sản trong một thời gian dài và nhất là khi phó thác số tài sản lớn của mình trong tay của người đó thì ông chủ nhất định phải khôn khéo lựa chọn những người có lý lịch trong sạch, có uy tín và thật đáng tín nhiệm chứ! Chắc chắn ông phải điều tra kỹ lắm! Thế thì tại sao những người tá điền này lại trở thành những tên sát nhân độc ác như vậy? Chắc có nhiều lý do lắm. Thế nhưng theo tôi, lý do chính khiến cho những người tá điền chất phác này trở thành những tên sát nhân ác tâm như vậy là bởi vì họ không có HOA LỢI để nộp cho chủ.
Tôi và bạn, chúng mình đều là những tá điền, là những người quản lý trong vườn nho của ông chủ tốt lành là Thiên Chúa. Nhiệm vụ của chúng mình là phải làm sản sinh ra nhiều HOA LỢI cho Ngài.
Tôi hỏi thật bạn nhé! Bạn đã làm ra nhiều HOA LỢI cho ông chủ của bạn hay chưa?
Sống trong ơn gọi hôn nhân, bạn được ông chủ trao cho công việc quản lý một vườn nho trong đó toàn là những giống nho tốt, đó là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, cháu chắt của bạn... Nhiệm vụ của bạn là phải làm cho những cây nho này trổ sinh hoa trái ngon ngọt và sinh thật nhiều HOA LỢI cho Ngài.
· Khi cha mẹ, vợ chồng biết hy sinh, biết dành thời gian để chăm sóc, dạy dỗ và gần gũi với nhau và với con cái và khi con cái biết kính trọng, vâng lời, và thảo hiếu với cha mẹ... thì lúc đó bạn đang tạo cho những cây nho trong vườn một sức đề kháng rất mạnh. Sức đề kháng này còn mạnh hơn là những loại thuốc trừ sâu. Khi có được sức đề kháng tốt như vậy, những cây nho này chắc chắn sẽ không bị sâu rầy tấn công. Chắc chắn chúng sẽ mang lại thật nhiều HOA LỢI cho chủ.
· Khi vợ chồng sống hòa thuận, yêu thương, kiên nhẫn, tha thứ, giúp đỡ nhau, trung tín với lời thề hứa "suốt đời chung thuỷ với nhau, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bịnh hoạn... Là lúc đó bạn đang tạo ra những luồng gió mát và ấm áp kích thích những cây nho đơm bông kết trái thật xum xuê. Như thế là ông chủ sẽ thu được nhiều HOA LỢI!
· Khi bạn học hỏi giáo lý, học hỏi Kinh Thánh, tham gia vào những sinh hoạt của các hội đoàn trong giáo xứ, đến giúp đỡ và thăm viếng những người già nua, cô đơn, bịnh tật...là những lúc bạn đem thứ phân bón tốt nhất bón cho những cây nho trong vườn của ông chủ. Nhờ những thứ phân bón của yêu thương và bác ái này, những cây nho sẽ đem lại nhiều HOA LỢI cho chủ hơn!
Nếu bạn đang sống trong ơn gọi tu trì thì bạn và tôi chúng mình được ông chủ trao cho công khá nặng nề đấy! Chúng mình phải đứng trên những tháp canh, làm công tác bảo vệ vườn nho, trông coi những bồn đạp nho và làm đốc thúc công nhân làm việc để nhờ vậy HOA LỢI của ông chủ càng ngày càng gia tăng.
· Khi chúng mình "ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối" (2 Cor. 6:6) và khi tôi và bạn "ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại... lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau... duy trì sự hiệp nhất... bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với [anh chị em trong cộng đoàn với nhau]" (Eph. 4:2-3) là lúc đó chúng mình đang đem những thứ men tốt nhất trộn vào trong bồn nho. Nhờ khối lượng men thượng hảo hạng này, bồn nho sẽ sản xuất ra những giọt rượu thật trong, thật thơm, thật ngon và tuyệt hảo.
· Khi bạn và tôi trung tín trong ơn gọi tận hiến, cố gắng phấn đấu sống thánh thiện "không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn... hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ..." (Ti. 1:7-8) thì lúc đó chúng mình đang làm cho bầu không khí trong công xưởng làm nho của chủ vui tươi hơn, làm cho công nhân phấn khởi hơn, và nhờ thế số lượng rượu sẽ gia tăng đáng kể. Như vậy ông chủ chắc chắn sẽ thu được nhiều HOA LỢI.
Bạn thân mến, nếu tôi và bạn, chúng mình không biết làm sinh HOA LỢI cho ông chủ thì... căng đấy!
Bạn có tin rằng khi không có hoa lợi nộp cho chủ, chúng mình sẽ lâm vào cảnh "đói ăn vụng túng làm liều." Lúc đó tôi và bạn không chừng sẽ trở thành những tên sát nhân còn nhẫn tâm và ác ôn hơn là những tên tá điền trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay!
Nếu chúng mình thấy chưa có HOA LỢI để nộp cho ông chủ thì hãy nhanh tay lên, phải khẩn trương lên, bạn và tôi vẫn còn thời gian để làm cho HOA LỢI của ông chủ nảy sinh thêm. Đừng để cho ông chủ nổi giận và "tru diệt bọn chúng [mình], và cho các tá điền khác canh tác vườn nho" (Mt. 25:41).
Chúng mình hãy cầu nguyện cho nhau để bạn và tôi sẽ trở thành những người quản lý thông minh và khôn khéo, biết làm cho hoa lợi của ông chủ nảy sinh gấp bội. Làm được như vậy chắc chắn ông chủ sẽ rất hài lòng!
Tôi bảo đảm, nếu chúng mình làm nảy sinh nhiều HOA LỢI cho vườn nho của Chúa thì Ngài sẽ tươi cười và nói với chúng mình trong ngày sau hết: "Khá lắm! hỡi [những] đầy tớ tài giỏi và trung thành!... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ [các] anh!" (Mt. 25:21).
***** LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI *****
1. Kinh Mân Côi
Trong một vài phút vắn vỏi này, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ về kinh Mân Côi.
Trước hết kinh Mân Côi là một cuốn Tin Mừng rút gọn.
Thực vậy, ngày xưa việc học hỏi Kinh Thánh chưa được phổ biến rộng rãi. Đó là việc dành riêng cho những nhà chuyên môn. Chẳng hạn vào thế kỷ thứ 9, chỉ các tu sĩ mới đọc 150 thánh vịnh của vua Đavít để thưa chuyện với Chúa. Còn dân chúng thì không có đủ phương tiện và thời gian để học hỏi và thấu triệt những tâm tình của thánh vịnh để mà cầu nguyện. Vì thế người ta đã nghĩ phải làm thế nào để mọi tín hữu có thể dễ dàng đọc kinh hầu thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa.
Thế là người ta dựa vào 150 Thánh vịnh mà lập ra kinh Mân Côi gồm 150 kinh Kính Mừng. Những kinh ấy được lặp đi lặp lại mà không hề cảm thấy nhàm chán vì chúng được dựa trên nền tảng Lời Chúa. Ban đầu để khỏi quên 150 kinh, người ta phải dùng đá sỏi, hạt đỗ. Và sau này người ta đã xâu lại thành từng chuỗi. Hơn thế nữa, hai mươi mầu nhiệm của kinh Mân Côi đã tóm tắt tất cả Tân Ước và những biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Giêsu. Cho nên, chúng ta cũng có thể nói kinh Mân Côi là một bản tóm lược đời sống của Chúa Giêsu nơi trần gian. Kinh Mân Côi là một cuốn Phúc Âm rút ngắn.
Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức được Mẹ ưa thích.
Chính Mẹ đã nhiều lần nhắn nhủ con cái Mẹ siêng năng chăm chỉ lần chuỗi. Tương truyền rằng thánh Đaminh đã phải vất vả đi chinh phục những người theo bè rối Albigeois ở miền nam nước Pháp, nhưng tất cả những cố gắng của ngài đều vô ích. Cuối cùng thánh nhân đã chạy đến nhờ cậy Mẹ và được Mẹ ban cho một phương thế hữu hiệu đó là kinh Mân Côi. Nhờ kinh Mân Côi mà thánh Đaminh đã chiến thắng bè rối và dẫn đưa nhiều người lầm đường lạc lối trở về cùng Hội Thánh.
Năm 1511, kinh Mân Côi đã giúp cho đoàn quân Công giáo chiến thắng tại vịnh Lépante. Để kỷ niệm chiến thắng này, Giáo Hội đã thiết lập lễ Mân Côi vào ngày 7.10 mỗi năm.
Trong thế kỷ 19 và 20, nhiều lần Mẹ đã hiện ra. Tại Lộ Đức, Mẹ đã bảo chị Bernadette lần chuỗi để cầu nguyện cho nhân loại và những kẻ tội lỗi. Năm 1917 tại Phatima, Mẹ đã truyền cho chúng ta ba mệnh lệnh, trong đó có việc siêng năng lần hạt Mân Côi. Và chính Ngài vào ngày 13.10.1917 đã tuyên bố: Ta là Mẹ Mân Côi. Mẹ cũng cho chúng ta hay: Phanxicô sẽ được lên trời, miễn là phải lần hạt nhiều trước đã. Như thế chúng ta thấy, kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành, cho bản thân, gia đình, xã hội cũng như Giáo Hội.
Và qua dòng thời gian, các Đức Giáo Hoàng luôn nhắc nhủ và khuyến khích chúng ta chăm chỉ lần chuỗi, nhất là mỗi khi Giáo Hội gặp phải những gian nan thử thách, để xin Mẹ nâng đỡ và chở che. Kinh nghiệm cũng cho thấy: Người giáo dân Việt Nam, mặc dù hiểu biết về Kinh Thánh, về giáo lý không được bao nhiêu, nhưng nhờ việc siêng năng lần chuỗi mà đức tin luôn kiên vững qua muôn vàn sóng gió. Noi gương các bậc cha ông chúng ta hãy thành kính dâng lên Mẹ những đoá hồng tươi xinh, đó là những lời kinh Mân Côi chân thành, để xin Mẹ nâng đỡ, phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
2. Lễ Mẹ Mân Côi (Lc 1,26-38)
(‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
"Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên".
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: "Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước", vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà". Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà". Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: "Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
"Hỡi Maria đừng sợ". Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: "Vui và Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
3. Niềm vui cứu rỗi
Cái tin mà Chúa Giêsu đem xuống trần gian là một tin mừng, cho nên đạo của chúng ta là đạo của niềm vui.
Thực vậy, đọc lại Kinh Thánh chúng ta nhận thấy trong suốt dòng lịch sử, dân Do Thái luôn sống trong vui mừng và hy vọng, chờ đón ngày Đấng Cứu Thế xuất hiện ngay giữa lòng dân tộc và giải thoát họ. Trong cuộc hành trình tiến về miền đất hứa, mỗi khi họ gặp phải khó khăn hoạn nạn, thì Thiên Chúa hằng ở bên và nâng đỡ họ, để họ được sống trong niềm vui mừng và hy vọng. Nội dung những lời rao giảng của các tiên tri mà Thiên Chúa gởi đến với họ đều kêu gọi họ hãy hân hoan vui mừng vì Chúa sẽ đến cứu độ họ: Vui lên Sion này ánh sáng huy hoàng. Vinh danh Giavê đang tràn lan khắp nơi. Vui ca lên nào thiếu nữ Sion, vì Đấng cứu độ rất oai hùng, Ngài ngự trong nhà ngươi.
Theo quan niệm Do Thái thì cá nhân không phải chỉ là một con người riêng biệt, mà còn là hiện thân của tổ tiên. Những người quá cố vẫn đang sống và hiện diện qua hình hài của con cháu họ. Do đó mỗi người đều liên kết khắng khít với cha ông, với tổ tiên, với gia đình, với họ hàng và với cả dân tộc mình. Vì thế, lời mời gọi người thiếu nữ Sion hãy vui mừng cũng chính là lời mời gọi được gởi đến cho cả một tập thể dân tộc Người Nữ sẽ sinh ra một Adong mới. Ngài sẽ đến phá tan mọi xiềng xích tội lỗi.
Lời mời gọi ấy Thiên Chúa cũng muốn gởi đến cho cả một dân tộc mới của Ngài, đến cho những người tin vào tình yêu của Ngài. Kinh Kính mừng là lời chào hân hoan mà thiên sứ Gabriel đã dành cho Mẹ Maria, cũng chính là lời mời gọi cho toàn thể Giáo Hội cũng như cho mỗi người chúng ta là hãy vui lên vì đã được Chúa cứu độ.
Kinh Kính mừng chính là lời chào mang lại Tin Mừng bởi vì Tin Mừng đã được khởi đầu từ đó. Với hai tiếng xin vâng đầy tin tưởng và phó thác, Mẹ đã cưu mang Chúa, Đấng đem lại niềm vui cho nhân loại. Lời chào mừng của sứ thầy Gabriel cũng được Thiên Chúa gởi đến với mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên điều quan trọng đó là thái độ đáp lại của chúng ta. Liệu chúng ta có sẵn sàng xin vâng, có sẵn sàng mang Đức Kitô trong tâm hồn và trong cuộc sống của mình hay không? Liệu chúng ta có chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa hay không? Chấp nhận tình yêu của Chúa là chấp nhận đi vào niềm vui ơn cứu độ. Chúng ta có biết rằng mỗi lần đọc kinh Mân Côi là một lần chúng ta đi vào niềm vui của Mẹ, niềm vui có Chúa ở cùng hay không?
4. Cùng Mẹ xin vâng
(Lm. Anmai)
Trong số các lễ nhớ Đức Maria, ngoài lễ Đức Mẹ Lộ Đức và lễ Đức Bà Camêlô, còn có lễ Đức Mẹ Mân Côi, do Đức Giáo Hoàng Gregorio XIII thành lập năm 1573. Nhưng để biết nguồn gốc của lễ này trước hết phải tìm hiểu lịch sử Kinh Mân Côi “Rosario”. Từ Rosario phát xuất từ chữ Latinh “Rosarium” có nghĩa là vườn hồng, khóm hồng, tràng hoa hồng, hoặc chuỗi hoa hồng, và cũng còn gọi là Kinh Mân Côi.
Sở dĩ gọi là “chuỗi hoa hồng” hay “tràng hoa hồng” là vì nó bao gồm nhiều hạt. Mỗi một hạt là một kinh Kính Mừng. Khi đọc nó giống như một đóa hồng tín hữu dâng kính Mẹ Thiên Chúa. Rồi nó cũng được gọi là Kinh Mân Côi, vì Mân là tên của một loại ngọc, Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí lạ. Kinh Mân Côi là “Kinh Ngọc”, là “chuỗi ngọc Mân và ngọc quí lạ”. Mỗi một kinh Kính Mừng dâng lên Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phước, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là ngọc Mân, ngọc đẹp quí lạ tín hữu dâng lên Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi trước kia người ta ít lưu tâm đến, nhưng từ khi Đức Mẹ ban ơn lạ lùng cho Đạo Binh Thánh Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Lépante vào năm 1571, Đức Thánh Cha Piô V đã cho phổ biến lễ này một cách rộng rãi trong Hội Thánh toàn cầu. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã giải thích tầm quan trọng của lễ Mân Côi trong rất nhiều thông điệp Ngài ban bố. Đến nay, người Kitô hữu trên toàn thế giới đã mừng lễ này cách rất sốt sắng và tôn kính đặc biệt đối với lễ Mân Côi.
Mẹ Maria với hai tiếng xin vâng đã góp tay vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu và hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa.Thánh lễ Mân Côi cũng nối kết những biến cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu: “Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh”.
Thư gửi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô gợi lại niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như chúng ta nghe: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! “ Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”. Thánh Phaolô khẳng định lại ơn cứu độ đến tự nơi Chúa Giêsu để rồi những ai tin vào Ngài thì không còn sống nô lệ cho tội lỗi nữa mà là được cứu thoát.
Đấng Cứu Độ trần gian mà Thánh Phaolô nhắc đó cũng đã được các ngôn sứ, người này người kia trong Cựu Ước nói đến. Đặc biệt, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả cũng đã loan báo nhưng rồi mấy ai đón nhận. Không ai đón nhận bởi vì họ không tin Đấng Cứu Độ trần gian đến trần gian qua người phụ nữ nhỏ bé. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đó đến trong uy quyền, đến trong vinh quang và sẽ làm cho dân tộc của họ được vinh quang nhưng Chúa đến khác với suy nghĩ của họ.
Trong niềm tin sâu thẳm của lòng mình, Mẹ Maria đã đón nhận Đấng Cứu độ trần gian. Trang Tin Mừng quá quen thuộc chúng ta nghe thánh Luca thuật lại lời xin vâng đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian vào trong đời mình. Mẹ tin và hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thánh ý của Chúa.
Ngày hôm nay, lời xin vâng được mở ra, được bỏ ngõ với biết bao nhiêu biến cố bi thương trong đời của Mẹ. Phải nói rằng quá sức chịu đựng của một cô gái như Mẹ. Không còn gì nhục nhã cho bằng khi phải đón nhận, khi phải đồng hành, khi cùng với con chịu đau khổ trên hành trình thương khó và bi thương nhất là cái chết trên thập giá.
Nhưng, niềm tin ấy của không dừng trên đỉnh đồi Canvê mà còn tiếp tục sau khi chôn con yêu của mình. Sách Công Vụ Tông Đồ cũng vừa kệ lại niềm tin của Mẹ khi các tông đồ bấn loạn, người đi về nhà, kẻ chán nản vì Thầy của mình đã chết. Không chỉ đơn thuần là Thầy mà là người mà cả cuộc đời mình tín thác, mình trao phó, thậm chí bỏ cả vợ cả con, cả gia đình để theo mà nay đã chết nên chẳng còn gì để mất cả. Các môn đệ tán loạn nhưng may mắn Mẹ đã giữ vững niềm tin ấy để quy tụ các môn đệ cùng quay trợ lại nơi các ông trú ngụ để cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau giữ vững niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian.
Niềm tin đó chính Mẹ đã giữ, giữ từ ngày xin vâng lời sứ thần cho đến khi Chúa Giêsu ra đi.
Tràng chuỗi Mân Côi mà ngày nay đoàn con cùng suy niệm chính là cùng nhau suy niệm niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Mừng Mẹ Mân Côi là mừng niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Không phải mừng lễ Mẹ như là mừng một biến cố, ghi dấu một kỷ niêm nhưng lại một lần nữa ta cùng nhau chiêm ngưỡng niềm tin của Mẹ. Và, cũng không phải chỉ để chiêm ngưỡng nhưng là để cùng nhau sống niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như Mẹ đã sống.
Cách riêng, trong năm Đức Tin này, một lần nữa, cơ hội, dịp để chúng ta soi chiếu niềm tin của chúng ta vào Đấng Cứu Độ trần gian như thế nào? Dĩ nhiên, niềm tin ấy cũng như cơn sóng xô của cuộc đời. Niềm tin ấy cũng có lúc mãnh liệt, cũng có lúc cảm thấy mệt nhoài với những đau khổ trong đời. Thế nhưng, nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui thì những đau khổ mà ta phải chịu đó cũng chẳng thấm vào đâu so với tất cả những nỗi đau của Mẹ Maria. Và, Mẹ Maria cũng đau chưa bằng chính Chúa Giêsu con của Mẹ phải chấp nhận đau khổ đến hiến mạng sống của mình để đem lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu, trong tất cả nỗi đau của mình, Ngài đã vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá.
Ngày mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng đi với Mẹ Maria hành trình cuộc đời của Chúa Giêsu từ nhập thể, nhập thế và chết trên cây thánh giá. Nhìn như vậy, chiêm ngắm như vậy, suy niệm như vậy để cùng Mẹ dâng lên Chúa mọi đau thương thử thách của cuộc đời.
Dĩ nhiên với bản tính mỏng dòn non yếu và phận người tội lỗi, chúng ta khó có thể đi theo Chúa trên con đường thập giá. Nhưng, khi cùng đồng hành với Mẹ, có Mẹ trong cuộc đời, chúng ta sẽ cảm thấy thập giá đời của ta nó nhẹ nhàng và thanh thản hơn.
Hãy cùng với Mẹ Maria và thưa với Chúa hai tiếng xin vâng như Mẹ để tất cả mọi khổ đau của đời ta nên nhẹ nhàng. Hãy cùng xin vâng như Mẹ để niềm tin của chúng ta ngày mỗi ngày trao phó cuộc đời của chúng ta càng thêm mạnh đủ để chúng ta bắt chước như Mẹ mở toang cuộc đời của ta cho Chúa vào để Chúa hành động trong ta.
5. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Chuỗi Mân Côi mà người Kitô hữu dùng nó mỗi ngày để cầu nguyện là những lời kinh tuyệt hảo. Chuỗi Mân Côi giúp người kitô hữu nhờ Mẹ đến với Chúa Giêsu. Chuỗi Mân Côi giúp chúng ta khám phá công cuộc cứu chuộc nhiệm mầu của Thiên Chúa, khám phá tình thương bao la mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta. Nhân dịp mừng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cùng nhau suy gẫm về tràng hạt Mân Côi và xin Đức Mẹ giúp chúng ta thêm siêng năng chạy đến Đức Mẹ bằng chuỗi kinh Mân Côi.
Kinh Mân Côi được xuất hiện sớm nhất khoảng thế kỷ XII với hình thức suy niệm Năm Sự Vui và Năm Sự Mừng. Đến thế kỷ XIII - XIV, các tu sĩ dòng Phanxicô và dòng Tôi Tớ Đức Mẹ cổ động suy niệm Năm Sự Thương. Thánh Đaminh (1172 - 1221) được coi như người mà Đức Mẹ dùng để truyền bá lần chuỗi Mân Côi, và nhờ các tu sĩ trong dòng hoàn thành chuỗi với 150 kinh Mân Côi (song hành với 150 thánh vịnh) kèm theo nhiều câu suy niệm. Cuối cùng, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thêm vào Năm Sự Sáng. Kinh Mân Côi tuy đơn sơ, bình dân đến nỗi có người coi thường như thể là hình thức cầu nguyện chỉ dành cho những người nhà quê ít học đọc và cầu nguyện.
Sức mạnh của Kinh Mân Côi, sự kỳ diệu của Kinh Mân Côi được thể hiện ở tính lịch sử ngày lễ Mẹ Mân Côi 07 tháng 10 hàng năm được Đức Giáo Hoàng Piô V, xuất thân từ dòng Đaminh lập ra vào năm 1572 để kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Công Giáo trên dân Thổ Nhĩ Kỳ ở vịnh Lepanto ngày 07.10.1571, nhờ sự bầu cử của Mẹ, mà là sức mạnh, chống trả cám dỗ, hoán cải tâm hồn, bảo vệ hạnh phúc gia đình, xây dựng hoà bình thế giới.
Vào khoảng thế kỷ 16, anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Họ đi từ vùng Trung Đông sang Á Châu đến Ấn Độ. Đi đến đâu họ chiến thắng đến đó. Họ đổ bộ lên Âu Châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Người Ý bắt đầu lo lắng và khiếp sợ. Lo sợ vì khả năng của mình không thể đối đầu với một đoàn quân thiện chiến như thế. Lo sợ thủ đô của Giáo Hội Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Âu châu cũng bị đe doạ. Trước hoàn cảnh nguy kịch ấy, Đức Giáo Hoàng Piô V lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, Ngài kêu gọi mọi người cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng. Kết quả bất ngờ là ngày 7 tháng10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Trong Tông Huấn " Lòng sùng kính Đức Bà Maria" (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: "Kinh Mân Côi là Kinh Tin Mừng". Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được kết nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng chính yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu nhiệm Chúa Giêsu, trải dài từ biến cố sinh ra tại Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ,...Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ đầu tiên, hoàn hảo nhất của Đức Kitô. Mẹ đã thông hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường ấy.
Thánh Bênađô nói: "Kinh Mân Côi có sức xua đuổi ma quỷ, làm cho hoả ngục phải run sợ trước thánh danh Chúa Giêsu và Đức Maria". Thánh Gioan Kim Khẩu thì nói: "Thiên Chúa cai trị vũ trụ, nhưng dường như Người chịu thua những ai lấy Kinh Mân Côi mà cầu nguyện".
Có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vactican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội. Vì qua những lời kinh trong kinh Mân Côi, những biến cố chính của cuộc đời Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta và giúp chúng ta hiệp thông sống động với Chúa Kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hàng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ theo nhịp sống của con người" (Gioan Phaolô II, 29. 10.1978).
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: "Khi gia đình không được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hoá bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông..".
Kinh Mân Côi là lời kinh dễ đọc, dễ dùng, nhưng có tác dụng rất thực tế và rất sâu. Trước hết, xét về số lượng lời kinh, đọc ít cũng được, đọc nhiều cũng được. Có người chỉ đọc mười kinh, năm mươi, một trăm, hai trăm kinh,....Đọc ở nhà cũng được, khi đi đường cũng được. Lúc sắp ngủ cũng được, khi thức dậy cũng được; khi mệt nhọc cũng được, lúc khoẻ mạnh cũng đuợc.
Mức độ cơ bản nhất của việc đọc kinh Mân Côi là tay cầm tràng hạt mà lòng nghĩ tới Chúa, nghĩ tới Đức Mẹ. Nhờ kinh Mân Côi, chúng ta tiếp xúc với Mẹ Maria, với Chúa Giêsu. Có khi chỉ là một tiếp xúc của lòng muốn. Có những con người rất yếu đuối và hay chia trí, đầu óc bị chi phối bởi trăm công nghìn việc, cầm tràng hạt với thiện chí muốn gặp Chúa. Có những con người rất cao siêu thanh thoát, tay cầm tràng hạt mà tâm hồn say sưa ngây ngất kết hiệp với Chúa. Đối với những tâm hồn đạo đức thánh thiện, các kinh kính mừng là những nốt nhạc đệm cho bài tình ca của linh hồn.
Lần chuỗi Mân Côi là đọc lại lời kinh Chúa Giêsu dạy (Lạy Cha), lập lại lời chào của thiên thần (Kinh Mừng) liên lĩ. Kinh Mân Côi là một phương tiện hữu hiệu nhất để cổ võ các tín hữu dấn thân chiêm niệm mầu nhiệm Kitô giáo. Kinh Mân Côi cũng là và luôn luôn là lời kinh của gia đình và cho gia đình. Lời kinh này đã một thời hết sức thân thiết với các gia đình Kitô giáo và hẳn đã làm cho các gia đình xích lại gần nhau...Cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi cho con cái và hơn thế nữa, với con cái, dạy dỗ chúng từ thuở ấu nhi biết dừng lại mỗi ngày để cầu nguyện là một trợ giúp thiêng liêng mà ta không thể hạ giá."
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Ý thức sự kỳ diệu của của Kinh Mân Côi, chúng ta hãy cầm lấy lại Chuỗi Mân Côi với lòng tin tưởng, tái khám phá Kinh Mân Côi dưới ánh sáng của Tin Mừng, và để nhờ Mẹ biến đổi chúng ta thành những người con ngoan của Chúa.
Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi sống đời đức tin tốt hơn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ, xin cho chúng con siêng năng và bền lòng lần chuỗi Mân Côi để tiếp tục sống đức tin như các bậc tiền nhân đã sống. Amen.
6. Đức Mẹ Mân Côi
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
1. Tràng hạt Mân Côi
Tất cả chúng ta điều rất quen thuộc với tràng hạt Mân Côi, bởi vì tràng hạt Mân Côi luôn đi đôi với lời kinh Kính Mừng, vốn là một trong những kinh mà chúng ta học và đọc ngay trong gia đình từ thời thơ ấu.
Từ «Mân Côi» phát xuất từ tiếng La-tinh Rosarium, có nghĩa là vườn hoa hồng. Thật là đẹp và đầy ý nghĩa, khi nhìn tràng Mân Côi quen thuộc, nhỏ bé và đơn sơ của chúng ta như là một vườn hoa hồng. Và như thế, tràng hạt Mân Côi mà chúng ta dùng để đọc kinh hàng ngày chính là một vườn hoa hồng, mỗi hạt kinh là một đóa hoa hồng, kính dâng lên Đức Maria, Mẹ của chúng ta. Và ai chúng ta cũng biết, hoa hồng là biểu tượng của lòng mến, của tình yêu. Vậy, chính khi chúng ta lần hạt, là chúng ta dâng hoa cho Đức Mẹ với lòng cảm mến và yêu thương của người con thảo. Với tâm tình này, chúng ta nhận ra rằng, cấu tạo của tràng Mân Côi cũng thật là hay và đầy ý nghĩa, vì tràng hạt có tâm điểm là ảnh Đức Mẹ.
2. Kinh Kính Mừng
Mỗi lời kinh Mân Côi là một đóa hoa hồng diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Mẹ. Thật vậy, vì đó chính là ý nghĩa sâu xa của phần thứ nhất trong kinh Kính Mừng:
Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giê-su con lòng bà gồm phúc lạ.
«Kính Mừng» có nghĩa là chúng ta ca mừng Đức Mẹ một cách kính cẩn ; và lời ca mừng này một phần đến từ lời ca mừng của sứ thần Gabrien, khi ngài đến gặp Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin, mà bài Tin Mừng của ngày lễ hôm nay thuật lại cho chúng ta: “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28)
Và phần còn lại của lời ca mừng Đức Mẹ trong kinh Kính Mừng, đến từ lời ca mừng của bà Elizabet, trong biến cố Đức Mẹ thăm viếng: “Em được chúc phúc (nghĩa là có phúc lạ), hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (nghĩa là cũng có phúc lạ)” (Lc 1, 42).
Thế mà, chúng ta không thể ca tụng Mẹ với cả tâm hồn, nếu chúng ta không yêu mến Mẹ, và chúng ta không thể yêu mến Mẹ, mà không ca tụng Mẹ. Bởi vì, nếu không có lòng mến, lời ca tụng chỉ là giả tạo, hay chỉ có trên môi miệng, chứ không chân thật, không phát xuất từ con tim. Chính tâm tình ca mừng Đức Mẹ với lòng cảm mến, sẽ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận những ơn huệ mà Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, và cũng chính thái độ ca mừng này sẽ giải thoát chúng ta khỏi thái độ ngược lại là đóng kín, ghen tị và vô ơn, vốn rất tai hại cho mình và cho người khác. Như vậy, khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta dùng lại lời của Sứ Thần Gabriel và lời của bà Elizabeth để ca tụng Đức Mẹ với lòng cảm mến; và chỉ sau khi ca tụng Mẹ, chúng ta chúng ta mới xin ơn:
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.
Trong lời cầu xin với Đức Mẹ, chúng ta tự nhận mình là “kẻ có tội”. Nếu chúng ta đọc lời này với sự chân thành của con tim, thì chắc chắn Mẹ đã cảm thương chúng ta rồi. Giống như khi còn bé, mỗi khi chúng ta thành tâm nhận lỗi, là cha mẹ đã bao dung và ôm chúng ta vào lòng rồi. Hơn nữa, Mẹ được ban ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, chính là để chăm lo cho chúng ta, bao dung chúng ta, chia sẻ cho chúng ta và cầu bầu cho chúng ta.
Lời cầu xin của chúng ta cũng thật là kín đáo và khiêm tốn. Thật vậy, chúng ta xin Mẹ cầu cho chúng ta, khi nay và trong giờ lâm tử. Kín đáo, vì chúng ta không xin điều gì đặc biệt, chỉ xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta thôi. Khiêm tốn, vì chúng ta ý thức về thân phận phải chết của chúng ta. Khi nay và trong giờ lâm tử, chúng ta đâu có biết còn bao xa, và chúng ta cũng không biết mình sẽ lâm tử như thế nào. Đọc lời nguyện xin này, dù chúng ta đang làm gì, ở độ tuổi nào, gặp khó khăn thử thách ra sao, chúng ta cũng được mời gọi chuẩn bị cho giờ lâm tử. Và chắc chắn, Mẹ không chỉ cầu bầu cho chúng ta, nhưng còn ôm chúng ta vào lòng để đưa chúng ta đi, đi trên đường đời và đi ngang qua sự chết để về Quê Trời, xum họp với Mẹ và những người thân yêu trong Nhà của Thiên Chúa.
Tóm lại, ca tụng rồi mới xin ơn, đó chính là qui tắc mà kinh Kinh Mừng dạy cho chúng ta, khi chúng ta cầu nguyện trong mọi trường hợp. Và để ca tụng, chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban cho mình và cho người khác nữa.
3. Đức Mẹ Mân Côi
Chúng ta hãy trở lại nhìn ngắm một lần nữa tràng hạt của chúng ta. Như chúng ta đã nói, tràng hạt Mân Côi có trung tâm là ảnh Đức Mẹ, nhưng ảnh Đức Mẹ lại hướng tới Thập Giá của Đức Ki-tô. Thật vậy, Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng, phác họa lại cho chúng ta toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô, từ lúc được hoài thai trong cung lòng Đức Mẹ, cho đến cuộc Thương Khó, chết trên Thập Giá, và sau đó sống lại và lên trời.
Trong năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ kính nhớ Đức Mẹ, vì những ân huệ lớn lao Mẹ đã nhận được, chẳng hạn Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ hồn xác lên trời, Đức Mẹ Nữ Vương, hay vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Đức Mẹ, chẳng hạn, Sinh Nhật Đức Mẹ, Đức Mẹ Dâng Mình, Lễ Truyền Tin, Đức Mẹ Thăm viếng, Lễ Giáng Sinh, hoặc vì những ơn huệ đặc biệt Đức Mẹ ban cho loài người chúng ta hay cho riêng một Hội Dòng, chẳng hạn Đức Mẹ Phù Hộ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Dòng Tên.
Nhưng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, mà chúng ta mừng kính không chỉ một ngày, nhưng suốt một tháng, có điểm này đặc biệt, so với tất cả các lễ khác: đó là lễ Đức Mẹ Mân Côi tôn vinh sự gắn bó sâu xa và trọn vẹn của Mẹ đối với ngôi vị và cuộc đời của Đức Giê-su, từ lúc ngài được hoài thai trong lòng dạ của Mẹ, cho đến khi Ngài chịu đóng đinh trên Thập Giá, và sau đó Phục Sinh và Lên Trời. Thế mà, tất cả những ơn huệ lớn lao mà Mẹ nhận được đều đến từ tương quan thiết thân của Mẹ với Đức Ki-tô. Thật ra trong lời ca mừng của lời kinh Kính Mừng, chúng ta đã tôn vinh sự gắn bó của Mẹ với Đức Ki-tô rồi, đi đọc: “Con lòng bà gồm phúc lạ”.
Như vậy, khi chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ Mân Côi, là chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ đón nhận Đức Ki-tô vào cung lòng và vào cuộc sống của mình, là chiêm ngắm Đức Mẹ đi theo và gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô đến cùng. Và đó cũng chính là ơn gọi Ki-tô hữu của chúng ta: đó là đón nhận Đức Ki-tô, vốn là Đường là Sự Thật, là Sự Sống và là Ánh Sáng vào cuộc đời của chúng ta, vào trong gia đình của chúng ta, vào trong cộng đoàn và Hội Dòng của chúng ta.
* * *
Đức Mẹ cầu bầu, phù hộ và ban ơn cho chúng ta về nhiều phương diện của cuộc sống, nhưng Đức Mẹ đặc biệt chăm sóc, phù hộ chúng ta trong cách thức chúng ta đón nhận, hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô đến cùng, và Mẹ phù hộ chúng ta, trước tiên là bằng cách dạy dỗ chúng ta, ngang qua chính đời sống của Mẹ.
7. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
(‘Tin Vui Xuân Lộc”)
Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được Giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời. Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Amen.
8. Kinh Kính Mừng, lời kinh cầu cho Hòa Bình
(Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)
1. Kinh Kính Mừng
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc"
Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: " Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc". Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.
Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì "Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời... và trong giờ lâm tử".
Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với "Đức Maria đầy ơn phúc". Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: "Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi". Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.
2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: "Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết".
Thánh Bênađô nói: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ".
Còn thánh Bônaventura nói: "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng".
Theo thánh Montfort "Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi".
Thánh Anphongsô "Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng".
Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: "Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày". Và nhất là: "Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình".
3. Lời kinh cầu cho hòa bình
Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm nay, năm 2014, Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.
Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.
Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.
Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.
9. Xin Vâng
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ. Hai tiếng "Xin Vâng" thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng "Xin Vâng" có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng "Xin Vâng" của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng "Xin Vâng" với thiên thần, Đức Giêsu cũng nói "Xin Vâng" với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng "Xin Vâng", Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng "Xin Vâng", Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng "Xin Vâng" có ảnh hưởng tới cả cuộc đời
Hai tiếng "Xin Vâng" nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, nhưng ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời thánh vịnh: "Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này Con đến để làm theo ý Cha". Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây thánh giá: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi".
Cũng vậy, khi nói tiếng "Xin Vâng" với thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai Cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: "Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà". Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói "không" với chính mình. Để một lần nói "Xin Vâng với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói "không" với chính mình. Tiếng "Vâng" lớn thành hình nhờ những tiếng "không" nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng "Xin Vâng" với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn. Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng “Xin Vâng” như Mẹ. Amen.
10. Mẹ Mân Côi
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.
Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.
Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,
Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.
Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.
Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.
Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.
Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.
Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.
Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.
Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.
Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.
Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.
11. Lá sầu riêng
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như:
“Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”.
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con:
“Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện “Lá sầu riêng” của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?”.
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh”.
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản “lá sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: “Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.
12. Nhớ Lời Mẹ Dặn
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hồi nhỏ tôi rất thích những lời ru của mẹ. Lời ru êm đềm đưa tôi vào giấc ngủ. Lớn lên tôi lại càng thích thú lời ru ấy, vì nó chất chứa bao lời dạy của mẹ gửi cho con qua lời ru à ơi.
Vâng, có lẽ mỗi người chúng ta đều có những ấn tượng về những lời dạy của mẹ. Lời dạy của mẹ không chỉ dạy con lúc tuổi thơ mà có khi theo con đi suốt cuộc đời. Lời mẹ sẽ mãi mãi là kim chỉ nam cho con bước vào đời.
Ngày xưa Phùng Quán khi còn nhỏ đã từng nói dối, thế mà lời mẹ dạy đã theo ông suốt cuộc đời. Đến nỗi khi đã trưởng thành ông vẫn không quên “Lời mẹ dặn”:
“Tôi mồ côi cha năm hai tuổi/
Mẹ tôi thương tôi không lấy chồng…/
Ngày ấy tôi mới lên năm/
Có lần tôi nói dối mẹ/
Hôm sau tưởng phải ăn đòn /
Nhưng không mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc…
Con ơi...trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
Mới lên năm mà Phùng Quán vẫn nhớ như in lời mẹ dặn. Lời mẹ dặn từ thuở nhỏ đã trở thành kim chỉ nam cho đời sống của mình, đến nỗi có người hỏi Phùng Quán: “Bé ơi, bé yêu ai nhất?” Phùng Quán trở lời: “Bé yêu những người chân thật”.
Hóa ra làm người phải sống chân thật và còn phải yêu người chân thật. Vì họ là người không dối lòng, có sao nói vậy, chẳng quanh co giả dối:
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc
Chân lý tưởng như đơn giản nhưng để sống được nó thật là khó. Vì nhiều người luôn sống ngược lại với ý nghĩ của mình, không dám nói thật ý nghĩ của mình. Có khi vui mà dối lòng không cười được. Khi buồn lại nén lòng mà cười để mong làm vui lòng người khác. Sống dối lòng như thế con người dần dà bị biến thành một kẻ dối trá! Một người dối trá. Trăm người dối trá. Triệu người dối trá. Một xã hội người dối trá!
Thế nên, làm người chân thật thì phải:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Và cho dù có được bổng lộc hay hiểm nguy cũng không được sống dối với lòng mình.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Và rồi lời mẹ dặn vẫn ghi tạc trong ông:
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Cuộc đời người tín hữu cũng có một người mẹ. Một người mẹ luôn dặn chúng ta sống sao cho nên người. Lời Mẹ dặn thật đơn sơ: “Người bảo gì, các con cứ làm như vậy”. Làm theo Lời Chúa là để cho ý Chúa thực hiện trong cuộc đời mình. Làm theo lời Chúa là đi ngược lại với lời dẫn dụ ngọt ngào của ma quỷ. Làm theo lời Chúa là tránh xa mưu chước ma quỷ.
Cách thức để có thể thực hiện lời Chúa chính là siêng năng lần hạt Mân Côi. Đây còn là vũ khí mà Mẹ dặn chúng ta mang theo bên mình để có thể chiến thắng cám dỗ. Đây là vũ khí đã đẩy lùi sự dữ để mang lại an bình cho Giáo hội thời Thập Tự Chinh. Đây là vũ khí đã mang lại hòa bình cho thế giới trong chiến tranh lần thứ nhất của thế kỷ 20. Đây là vũ khí đã lập lại trật tự cho thế giới. Đây cũng là vũ khí đã cứu vớt biết bao linh hồn nhờ trung thành sống theo lời Mẹ dạy,
Hôm nay ngày lễ Mẹ Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng lần hạt Mân Côi theo lời Mẹ dặn. Vì kinh Mân Côi sẽ mang đến cho chúng ta một kho tàng ân phúc của Chúa. Kinh Mân Côi chính là chìa khóa vạn năng để chúng ta mở kho ân sủng vô biên của Chúa.
Theo Chân Phước Alan cho rằng: 'Sau Hy Tế trong Thánh Lễ, một Hy Tế cao trọng nhất, cùng những kỷ niệm sống động của những đau khổ của Chúa Kytô, thì không còn loại sùng kính nào tốt hơn, đem ích lợi nhiều cho các Linh Hồn bằng Kinh Mân Côi, một kinh cũng nhắc lại những kỷ niệm và diễn lại cuộc đời, sự đau khổ của Chúa Giesu Kytô'.
Đức Pi-ô X: “Nếu muốn gia đình được yên lành hạnh phúc thì các con hãy lần hạt Mân Côi mỗi buổi tối trong gia đình các con”.
Đức Gioan XXIII: “Kinh Mân Côi phải trở nên như hơi thở của mọi tâm hồn, đồng thời cũng là kinh riêng của các gia đình Công Giáo”.
Mỗi người chúng ta đều ao ước hòa bình. Mỗi người chúng ta đều mong cho gia đình chúng ta được thuận hòa, cho cuộc đời bình yên. Thiết nghĩ phương thế để chúng ta nhận lãnh ơn Chúa không gì hữu hiệu bằng lời kinh Mân Côi.
Xin cho chúng ta biết siêng năng lần hạt Mân Côi và nhờ Kinh Mân Côi chúng ta được soi sáng sống theo lời Mẹ dặn chúng ta: “Người bảo gì anh em hãy làm theo như vậy”. Amen.
13. Kinh Mân Côi
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.
Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.
Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào khoảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.
Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.
Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.
Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.
Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.
14. Lời kinh gần gũi cuộc sống
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Phụng vụ bước vào tháng Mân côi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mân côi. Tràng hạt Mân côi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay” “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mân côi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng.
Chuỗi Mân Côi trong tiếng Latinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mân côi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Đức Mẹ. Bằng chuỗi Mân côi, Giáo hội trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.
Kinh Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng
Chuỗi Mân côi thật cao quí, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.
Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Thế kỷ 16, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.
Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan... Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêxa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: - Anh có thường lần chuỗi không?
Anh trả lời:- Thưa không.
Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: - Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa”.
Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói: - Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: - Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.
Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.
Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau: - Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác.
2. Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.
Chuỗi hạt Mân côi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính mừng là “…lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” (ĐGH Phaolô VI, Rosamrum Virginis Mariae, số 18).
Chuỗi Mân côi lần lượt diễn tả:
- Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.
- Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
- Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.
- Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
Vì thế, Chuỗi Mân côi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Giáo hội.
Thánh Gioan Phaolô II nói: “ Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó...”.
Đức Thánh Cha Lêô XIII là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mân côi. Ngài đã thiết lập tháng Mân côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân côi”.
Cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.
Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo: Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI viết:Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII khuyên nhủ các bạn trẻ: Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
- Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Thánh Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.
Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.
Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua kinh Mân côi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô V đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các thánh vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”.
3. Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân côi”, một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”.
Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh … thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.
Kinh Mân côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.
Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
15. Kinh Mân Côi
Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm, nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ, đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người nhà quê không biết chữ xin vào tu bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông buồn phiền chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được hát kinh nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có tuổi, nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ học và chuyên tâm lần hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: “Vi không biết chữ, nên con chẳng ngợi khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các thầy khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn sơ thành thật của ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo choàng lộng lẫy, nhưng mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng Maria... Ông đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như vậy?” Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì con mới đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố đọc nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời”. Nói xong Mẹ biến đi, để thầy dòng không biết chữ ở lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.
Từ đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh truyền của Mẹ bằng cách siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên cho Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ nâng đở và phù trợ chúng ta luôn mãi.
16. Hiệu quả của Kinh Mân Côi
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại.
Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo Hội.
Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi, đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.
Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20. Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima và kinh Mân côi.
Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế giới được an vui, để Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ lần hạt Mân côi.
17. Maria, người Nữ Thánh Thể
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.
Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.
Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách để thưa “Xin Vâng” với Chúa trong đau khổ không?.
2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” nên đã múc nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu?
3) Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng “Xin Vâng” để thực hiện không?
18. Hành trình đức tin của Đức Maria
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:
“Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
19. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris”.
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi Mân Côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.
20. Tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời
(Lm. Vinh Sơn Trần Minh Hòa)
1. Vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Các cụ ngày xưa hay dạy con cháu trong việc giữ đạo rằng: tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời. Ở đây, các cụ không ngụ nói việc đeo hay trưng bày tràng chuỗi Mân Côi nhưng là việc cầu nguyện bình dân bằng Mân Côi trong đời sống người kitô hữu. Tại sao việc lần chuỗi Mân Côi mang đến một hiệu quả cao siêu như vậy? Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Thật vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay cho thấy, Đức Mẹ có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ. Bài sách công vụ cho biết Mẹ Maria có chỗ đứng quan trọng trong Hội Thánh sơ khai. Mẹ là thành phần của Hội thánh nhưng là thành phần trổi vượt. Sau biến cố Chúa tử nạn, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã giúp Hội thánh khỏi những khó khăn ban đầu qua hành vi chuyên cần cầu nguyện chung với các tông đồ (x. Cv 1,14). Mẹ Maria đã trở nên mẫu gương cầu nguyện cho mọi người noi theo.
Tiếp đến, thư Galát đã gián tiếp nhắc đến vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ. Thiên Chúa muốn cứu độ con người nhưng lại chấp nhận một phương thế rất khiêm hạ. Đó là chấp nhận cho Con mình là Chúa Giêsu sinh làm con một người trinh nữ, là Đức trinh nữ Maria. Chúa Giêsu đã đến để chuộc những ai sống dưới lề luật, để mỗi người được làm con Chúa. Nhờ Mẹ Maria chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu mà mọi người có cơ hội được làm con Thiên Chúa và có thể kêu lên với Chúa là Apba có nghĩa là Cha ơi.
Cuối cùng, bài Tin Mừng theo thánh Luca đã trình thuật biến cố truyền Tin. Đức Maria được Thiên thần Gariel chào chúc là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mẹ Maria được chào chúc như vậy bởi vì Mẹ đã và đang sống đẹp lòng Chúa, đang sống theo ý Chúa và nhất là Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Chúa Giêsu, ngôi lời Thiên Chúa nhập thể. Mẹ càng đẹp lòng Thiên Chúa hơn nữa khi Mẹ thưa lời xin vâng với sứ thần: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Chính giây phút thưa lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thưa lời xin vâng, Mẹ đã chấp nhận liên đới mật thiết với Chúa Giêsu khi thành công cũng như chuỗi ngày thất bại, khi chia vui với thực khách ở tiệc cưới Cana cũng như lúc sẻ buồn với Chúa Giêsu và Hội thánh ở trên núi sọ. Mẹ cũng liên đới mật thiết với Hội thánh vì khi nhận lời trăng trối của Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ đã nhận thánh Gioan, đại diện cho toàn thể Hội thánh là con của mẹ. Nhờ thế, Mẹ đã hiệp công cứu chuộc với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình cứu độ. Mẹ có sức chuyển cầu hiệu quả cho những ai cậy trông vào Mẹ, cách riêng cho những ai chuyên chăm lần chuỗi Mân Côi.
2. Tràng chuỗi Mân Côi đưa tôi về trời.
Lần chuỗi Mân Côi là việc đạo đức bình dân không xếp trên thánh lễ, các bí tích và giờ kinh phụng vụ vì các việc trên là phụng vụ và là việc tôn thờ chính thức của Hội thánh. Tuy nhiên, việc lần chuỗi Mân Côi lại có một hiệu quả đặc biệt cho ơn cứu độ của mỗi người. Tại sao như vậy? Trước hết, Đức Maria có thế giá đặc biệt khi chuyển cầu cho con cái mình và kinh Mân Côi là lời Kinh được chính Đức Mẹ tỏ bày cho con cái mình. Vào thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo Anbidoa Miền Nam nước Pháp. Nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh Dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V đã tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi giáo tại vịnh Lêpăng vào đầu thế kỷ 16. Vào đầu thế kỷ 20, trong biến cố ở Fatima, Mẹ Maria đã khuyên dạy con cái mình siêng năng lần hạt Mân Côi để thế giới được hòa bình, mọi người được bình an.
Kế đến, lời kinh Mân Côi là bảng tóm Phúc Âm. Đây là kinh nguyện đầy nét Thánh Kinh được tập trung vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, chuỗi Mân Côi hướng rõ ràng về Đức Kitô. Thật vậy, kinh kính mừng là lời ca tụng Đức Kitô không ngừng: Kính chào bà đầy ơn phúc và con lòng bà gồm phúc lạ. Kinh lạy cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy để các tông đồ và người tín hữu biết cầu nguyện. Các ngắm vui, thương mừng, sáng diễn tả cô đọng mầu nhiệm của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho tới khi hoàn tất chương trình cứu độ và các ý nguyện giúp người đọc sống theo gương Chúa Giêsu. Kinh sáng danh là lời vinh tụng ca tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi cả sáng: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, kinh Mân Côi là kinh dễ thực hành cho mọi tín hữu trong mọi hoàn cảnh phù hợp cho một em bé cũng như cho cả Đức Giáo Hoàng. Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ kinh nghiệm của Ngài trong việc thực hành kinh Mân Côi được trích trong tông huấn Rosarium Virginis Mariae như sau: “Chuỗi Mân Côi là lời kinh tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó …Đã bao nhiêu năm qua, tôi đã lãnh nhận không biết bao nhiêu ân sủng từ Đức Trinh Nữ nhờ kinh Mân Côi”.
Ước mong mỗi khi chúng ta tin nhận thế giá bầu cử của Mẹ trong chương trình cứu độ. Chúng ta năng chạy đến Mẹ qua lần chuỗi hằng ngày, để chính Mẹ giúp mỗi người ngày càng gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu hơn.
21. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
(‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
22. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)
(‘Nút Vòng Xoay’ - ĐGM. Giuse Vũ duy Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường……? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.
23. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
(‘Với Cả Tâm Tình’ của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
24. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: “Tôi đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!”
Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:
“Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.
Thưa anh chị em,
Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: “Hãy chạy đến với Mẹ Maria”.
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông…”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin rằng: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta. Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của con người” (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong Tông Huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Kinh Mân Côi là kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ… những giá trị “nên xác thịt” nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi được gởi tới cho tất cả mọi người.
Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường ấy.
Như thế, thưa anh chị em,
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về với Giáo Hội.
Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của ngài.
Đối với chúng ta cũng thế, không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa. Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.
25. Mẹ Đầy Ơn Phước
(‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giờ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”.
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
26. Phương thuốc thần diệu
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của con người đều do một cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau... là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân...” (Rôma 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi Mân Côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi Mân Côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
* Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công; khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi...
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn xin vâng: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Luca 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giêsu. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phao-lô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:
“Đức Giêsu Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự...” (Philíp 2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu...” (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình.
27. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân... “ (Rôma 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là “đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”. (Rm 5, 19)
Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu...” (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! “ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
28. Kinh Mân Côi và Phúc Âm
(Lc 11,15-26)
Kinh Mân Côi là một việc đạo đức xuất phát từ Phúc Âm. Đúng thế, trước hết là những lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa đã truyền dạy cho các môn đệ.
Còn kinh kính mừng là gì nếu không phải là lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi lại. Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu nhiệm chúng ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ Tin Mừng và cuộc đời của Chúa.
Có một thời người ta đã không lần hạt như ngày nay, thay vì 15 mầu nhiệm, người ta đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm, nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một mầu nhiệm, từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh quang của Mẹ Maria, cũng như cho đến ngày tận thế. Chắc hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm cho kinh Mân Côi trở nên phức tạp và dài dòng.
Ngày nay chúng ta qui tụ lại thành 15 ngắm, tượng trưng cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược Tin Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói cách khác, đó chính là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa ươm mơ và thực hiện trong dòng thời gian. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng, vì vậy kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trợt trạt ngoài miệng, nhưng còn là một lời kinh để cho chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã rùng mình khiếp sợ. Nhưng thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những mầu nhiệm, mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ từng chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm đã gợi lên. Cũng không cần phải dừng lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy niệm theo đúng nghĩa của nó.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn chúng ta chỉ cần mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thập giá, lần từng bước tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy nghĩ tới thập giá cuộc đời chúng ta là những hy sinh, những gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Và như vậy cũng đã đủ lắm rồi.
Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, xét đoán dựa vào những kết quả đã thu lượm được. Trái lại, Ngài là một người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy thiện chí và sự cố gắng của mỗi người chúng ta. Như vậy không có nghĩa là bảo chúng ta không cần tiến tới sự trọn lành và thánh thiện.
Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một lời kinh thích hợp với thời đại chúng ta. Trong đời sống không ai trong chúng ta lại chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là dấu chỉ chúng ta đau yếu hay sắp chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên, chúng ta không ngừng lập lại lời kinh Lạy Cha và kinh kính mừng để lấy lại sức sống cho tâm hồn.
Bởi đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ đó chúng ta có đủ sức chịu đựng những khổ đau và thắng vượt được những cám dỗ trong cuộc sống.
29. Tôi là nữ tỳ của Chúa
(‘Manna’)
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo.
Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương.
Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35).
Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư.
Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con.
Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được.
Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác.
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có.
Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin.
“Phúc cho em là kẻ đã tin...” (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không?
Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ, tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
30. Chuỗi Mân Côi
1. Suy niệm về tràng chuỗi Mân Côi
Mân Côi là một bộ kinh để cầu nguyện với Mẹ Maria gồm 200 kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa suy gẫm 20 biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria. Cứ đọc 10 kinh Kính Mừng thì đồng thời suy gẫm một biến cố. 20 biến cố ấy được chia làm 4 nhóm:
a) Năm sự vui: gồm 5 biến cố trong cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu.
b) Năm sự sáng: gồm 5 biến cố trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu.
c) Năm sự thương: gồm 5 biến cố trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
d) Năm sự mừng: gồm 5 biến cố vinh quang (Đức Giêsu phục sinh và lên trời, Thánh Thần hiện xuống, Thiên Chúa ân thưởng và tôn vinh Mẹ Maria).
20 biến cố ấy là những biến cố cốt yếu trong Tin Mừng, nên có người nói chuỗi Mân Côi là một Tin Mừng được tóm gọn. Vì thế, đọc kinh Mân Côi hay lần chuỗi là một hình thức đặc biệt để suy gẫm Tin Mừng, theo kiểu miệng đọc tâm suy. Miệng thì đọc các kinh Kính Mừng kính Mẹ Maria, tâm thì suy niệm những biến cố của Tin Mừng, chủ yếu là những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu. Như thế, đọc kinh Mân Côi không chỉ là cầu nguyện với Mẹ Maria, mà còn là suy gẫm về Đức Giêsu và cầu nguyện với Ngài.
Trong kinh Mân Côi, ta thấy có sự liên kết hết sức chặt chẽ giữa Đức Giêsu và Mẹ Maria. 20 biến cố của kinh Mân Côi đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới Mẹ Maria. Chẳng hạn các biến cố của năm sự thương có vẻ như chỉ là biến cố của Đức Giêsu, nhưng trong thực tế Mẹ Maria luôn luôn theo dõi hoặc có mặt một cách âm thầm trong đó. Những biến cố ấy ảnh hưởng rất sâu đậm đối với cuộc đời Mẹ, và một cách nào đó cũng là những biến cố quan trọng trong cuộc đời Mẹ. Những đau khổ của Đức Giêsu đều trở thành đau khổ của Mẹ, vì thấy người mình yêu bị đau khổ, và vì không ai yêu Đức Giêsu bằng Mẹ. Trong những đau khổ ấy, Mẹ cũng đau khổ không kém gì Đức Giêsu, chỉ khác ở chỗ người đau khổ trong thực tế, còn người đau khổ trong tâm hồn.
2. Tại sao Mẹ Maria chỉ cho chúng ta cách cầu nguyện bằng kinh Mân Côi?
Truyền thuyết trong Giáo Hội cho rằng kinh Mân Côi đã được chính Mẹ Maria truyền dạy cho thánh Đa-minh, và khi hiện ra tại Fa-ti-ma (Bồ Đào Nha), Đức Mẹ cũng khuyên các Ki-tô hữu năng lần chuỗi Mân Côi. Chắc chắn Mẹ Maria không vì muốn người ta ca tụng tung hô mình mà khuyên họ tôn sùng trái tim mình và năng đọc kinh Mân Côi. Và cũng chắc chắn rằng không phải hễ ai ca tụng Mẹ, năng đọc kinh Mân Côi thì Mẹ sẽ đặc biệt ưu ái đối với người ấy vì người ấy ca tụng Mẹ. Nếu Mẹ Maria khi còn sống đã khiêm nhường hết mực, thì khi lên trời và làm Nữ Vương thiên đàng, chắc chắn Mẹ cũng vẫn khiêm nhường như vậy, thậm chí còn khiêm nhường cách hoàn hảo hơn nữa. Vì thế, ta không thể xét đoán theo tâm lý ham được khen ngợi của con người để nghĩ tương tự cho Mẹ Maria.
Chủ yếu trong việc truyền kinh Mân Côi cho loài người là Mẹ muốn con người nên thánh thiện, hoàn hảo và nhờ đó cá nhân được hạnh phúc, xã hội được bình an trật tự, có công bằng bác ái, chứ không phải để Mẹ được tung hô khen ngợi. Nhưng trong thực tế, không có một mẫu gương nào trên đời đáng cho mọi người suy gẫm và bắt chước để nên thánh thiện cho bằng Đức Giêsu và Mẹ. Nên vì ích lợi của con người, Mẹ đã không ngần ngại đưa mình ra làm gương để con cái bắt chước.
Thật vậy, trong gia đình, người mẹ lấy mình ra làm gương cụ thể cho con cái bắt chước, thiết tưởng chẳng có gì là quá đáng hay mang tính kiêu căng, mà trái lại là một phương pháp sư phạm rất khôn ngoan. Vì đối với đứa con, chẳng có gì gần gũi, thân thiện và cụ thể cho bằng người mẹ. Chẳng có gương mẫu nào cụ thể dễ bắt chước cho bằng gương của mẹ. Nếu vì ngại đưa mình ra làm gương nên đã đưa ra một gương khác xa vời và kém xa mình cho con cái, thì thiết tưởng làm như thế không phải là khôn ngoan, cũng chẳng phải là khiêm nhường. Cốt tủy của khiêm nhường là tinh thần tự hủy, không đặt nặng cái tôi, chứ không phải là hành vi tự hạ bên ngoài. Tự hạ bên ngoài mà vẫn còn quan trọng hóa cái tôi thì không phải là khiêm nhường. Chính khi tự lấy mình ra làm gương mẫu vì nhắm ích lợi của con cái mình, Mẹ Maria càng chứng tỏ Mẹ không đặt nặng cái tôi của mình.
3. Cách đọc kinh Mân Côi cho có ích lợi
Điều cốt tủy của kinh Mân Côi không phải là đọc cho đủ các kinh Kính Mừng cho bằng việc chiêm ngắm các biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria để noi gương và bắt chước. Nếu miệng đọc các kinh Kính mừng còn tâm trí chiêm ngắm và suy nghĩ 20 biến cố cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria, thì các kinh Kính mừng giúp ta hạn định được số thời gian bằng nhau cho việc chiêm ngắm mỗi biến cố. Nếu mỗi ngày ta đều đọc một chuỗi Mân Côi, thì nhờ năng chiêm ngắm Đức Giêsu và Mẹ Maria trong các biến cố cuộc đời các Ngài, mà ngày qua ngày, ta dần dần trở nên giống các Ngài trong quan niệm, tư tưởng, lời nói và hành động.
Theo các nhà tâm lý học, tự kỷ ám thị là một phương pháp tự giáo dục vừa đơn giản, dễ dàng lại vừa hữu hiệu. Không nói tới những ơn ích siêu nhiên, chỉ bàn tới khía cạnh tâm lý tự nhiên thì kinh Mân Côi vốn là một phương pháp tự kỷ ám thị rất khôn ngoan, có khả năng biến đổi bên trong con người một cách từ từ nhưng hữu hiệu. Điều quan trọng là có một khuôn mẫu tốt đẹp nào đó để tưởng tượng và nghĩ tới thường xuyên. Ngày này qua ngày khác, con người làm như thế sẽ được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy. Điều quan trọng của tự kỷ ám thị không phải là nghĩ tới khuôn mẫu ấy lâu giờ, mà là năng nghĩ tới khuôn mẫu ấy. Người chăm chỉ đọc kinh Mân Côi thì ngày nào cũng chiêm ngưỡng cách hành xử khuôn mẫu của Đức Giêsu và Mẹ Maria, nên sẽ được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy một cách vô thức, không cần phải cố gắng nhiều.
4. Còn khía cạnh siêu nhiên của kinh Mân Côi nữa
Nhưng kinh Mân Côi không chỉ là một phương pháp tự kỷ ám thị để tự giáo dục và thánh hóa mình cách hữu hiệu theo phương pháp tâm lý tự nhiên. Nó còn là một phương tiện bảo đảm để kéo ơn Chúa xuống nữa, vì chính Đức Mẹ đã hứa ban dồi dào ơn thánh cho những ai năng đọc kinh ấy. Như thế, kinh Mân Côi vừa là một phương pháp tâm lý tự nhiên, vừa là một phương thế siêu nhiên do chính Đức Mẹ giới thiệu để nên thánh. Vì thế, kinh Mân Côi thật là một cách cầu nguyện tuyệt vời đầy kết quả mà người Ki-tô hữu khôn ngoan cần phải biết sử dụng để nên thánh và kéo ơn lành xuống cho mình.
31. Kính Đức Mẹ Môi Khôi
Kinh Môi Khôi, lời kinh đơn giản nhưng phong phú
Anh chị em thân mến,
Người Việt Nam chúng ta được tiếng là kính mến Đức Mẹ, nhất là kính mến Mẹ qua việc lần chuỗi Môi khôi. Điều này rất tốt và rất đúng đắn, vì việc lần chuỗi tôn kính Mẹ Maria là một lối cầu nguyện đơn giản và hiệu quả, một lối cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa, một con đường dẫn đến với Chúa. Lối cầu nguyện này không chỉ dành cho người bình dân ít học, mà cho cả các bậc thông thái thánh nhân, cả nam lẫn nữ. Lời kinh này đã có nguồn gốc lâu đời trong kinh nguyện của Hội Thánh, ngay cả trước thời thánh Đaminh. Ước gì tháng Môi khôi hàng năm, nhất là năm nay, là một dịp cho chúng ta hiểu cặn kẻ hơn, nhất là không coi thường giá trị của lời kinh đang phổ biến trong Hội thánh. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Nguồn gốc: như trên đã nói, kinh Môi Khôi đã được phổ biến lâu đời trong Hội Thánh; dù vậy phải chờ đến tk 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra dạy cho cách thức lần chuỗi và ngắm 15 Sự mầu nhiệm như ngày hôm nay.
Ngày lễ Đức Mẹ Môi Khôi khởi đầu có nguồn gốc là ngày lễ Đức Mẹ chiến thắng, do biến cố Đức Mẹ phù trợ Hội thánh vượt qua cuộc xâm lăng của quân Hồi giáo thời Đức Piô V, Người đã kêu gọi tín hữu toàn cầu lần chuỗi cầu nguyện cho Hội thánh thoát khỏi cuộc xăm lăng này; vì thế đạo binh thánh giá đã chiến thắng quân Hồi giáo đông gấp hai lần tại vịnh Lépante năm 1571.
b/. Ý nghĩa và hiệu quả: Danh từ Môi khôi, Mai khôi, Mân côi, nguyên ngữ chữ Hán là hoa hồng. Hoa hồng là nữ hoàng của muôn hoa, lại còn chỉ Tình yêu nữa. Gọi Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Môi khôi, là Hội thánh có ý ca tụng Mẹ là Người Phụ Nữ vừa cao đẹp, vừa tôn quí. Mẹ chính là là Hoa Hồng tuyệt mỹ, bất diệt đầy tình yêu, đã và đang chia sẻ thân phận con người chúng ta trong cuộc hành trình về quê hương thật là Nước Trời.
Lịch sử Hội thánh cho thấy việc lần chỗi Môi khôi đem lại nhiều kết quả tốt đẹp lớn lao. Nhiều vị thánh và tín hữu nhờ kinh Môi Khôi mà nên thánh hay đạt được ý nguyện. Thánh Đaminh đã kêu gọi mọi tín hữu trong Hội thánh lần chuổi, nhờ đó đánh tan được bè rối Albigeois bên nước Pháp. Theo lời kêu gọi của ĐGH, các tín hữu đã lần chuỗi mà chiến thắng quân Hồi giáo tại vịnh Lepante như nói ở trên. Nhiều lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức (1858), hiện ra ở Fatima, Bồ Đào Nha (1917), trên tay Mẹ luôn cầm tràng chuỗi Môi Khôi. Các Đức Giáo Hoàng đã ra nhiều thông điệp ca tụng khuyến khích việc lần hạt Môi Khôi. Các ngài dù hết sức bận rộn công việc hàng ngày, vẫn năng đọc kinh Môi Khôi như vị Giáo hoàng thân yêu vừa mới qua đời của chúng ta, Đức Gioan Phaolô 2. Ai gặp ngài, luôn thấy ngài cầm tràng hạt trên tay.
c/. Kinh Môi Khôi là lối cầu nguyện đơn giản, hiệu quả và phong phú, dành cho hết mọi người: đơn giản vì vừa dễ nhớ và dễ thực hành; phong phú vì khi ngắm 15 Sự là ta suy niệm đủ các mầu nhiệm TC, để khi ta vừa đọc, ta vừa tôn vinh, cảm tạ, thờ phượng, yêu mến TC qua Người Mẹ thần thánh, Đức Trinh Nữ Maria. Suy ngắm 15 Sự MK cũng được gọi là suy ngắm Tin Mừng rút ngắn. Kinh MK còn là lời kinh của mọi người, vì nó không chỉ dành cho giới bình dân, mà ngay cả giáo sư tiến sĩ Louis Pasteur, nhà bác học lừng danh và là vị cứu tinh của nhân loại trong tk 20, vậy mà ông vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Chúng ta nghỉ làm sao?
d/. Suy niệm: * Có người cho rằng lần chuỗi Môi Khôi là kinh nguyện của đàn bà, con trẻ, của mấy ông thầy tu.... Điều này đi ngược lại truyền thống của Hội Thánh, vì đây là lời kinh phổ biến từ lâu, nhất là lời kinh do chính Đức Mẹ dạy nữa. Nếu ta vẫn chưa tin, hãy cầm chuỗi lên, cùng lần với Đức Mẹ, nhất là hãy thử lần chuỗi bằng trái tim, bằng cả tấm lòng yêu mến như Đức Mẹ Mễ Du dạy, hãy làm thử xem sao?
32. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?
(Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Maria, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Maria nói chung, theo như tác giả Luca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ…, những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
33. Kinh Mân Côi góp phần xây dựng nhân loại mới
(Lm. FX. Đào Trung Hiệu)
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng Kinh Mân Côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: "Đi được ba chuỗi năm chục". Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số.
Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng Kinh Mân Côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn.
Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức...
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh.
Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: "Bác ơi ! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!".
Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: "Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi".
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng.
Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp.
Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: "Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp"
Êm đềm mà thấm lâu...
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường Kinh Mân Côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua... đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh "Kính Mừng" quen thuộc, chính là lời chào mừng "Ave: Mừng vui lên" của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời chào "Ave" ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào "Đấng đầy ơn sủng", chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
"Chữ E-va Mẹ đảo vần, Thành A-ve gửi bình an cho đời".
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng". Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: "Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: "Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ".
Đọc kinh "Kính Mừng", ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới "cao hơn, nhanh hơn, xa hơn". Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại...
Cũng vậy, qua những lời "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", chúng ta chiêm ngưỡng một "kỷ lục tuyệt hảo" của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh "Kính Mừng" không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử. Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.
34. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau...
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ… người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc... Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
35. Tại sao chúng ta đọc kinh Mân Côi?
(ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay. Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại máu A, B, C, D,… Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,…, và phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada… Vì thế, đây cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi, chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết được vấn đề - rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra. Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh, bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình. Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những người xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi
Để em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ trên cao sẽ thương tình
Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.
36. Đức Chúa Ở Cùng Bà
(‘Manna’)
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã.
Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an
để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin,
lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương.
Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời,
và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ
vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương
được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng,
để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa.
Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời,
Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh,
nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ,
vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng
và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42)
vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia.
Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc
vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa
và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ,
để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc:
“Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời,
vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa,
và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu,
nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài:
“Mẹ tôi và anh em tôi là những ai
nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống,
chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay.
Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn,
mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
37. Tháng Mân Côi: nhớ lời Đức Mẹ nhắn nhủ
(ĐGM GB. Bùi Tuần 10/2001)
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự” (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: “Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.
38. Thánh Mẫu Mân Côi
Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII, Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế cho 150 Thánh vịnh. Các mầu nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc Âm rút gọn của người bình dân, bởi vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân Côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.
Chuỗi Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường đi Tây Ban Nha, hai thánh Đaminh và Bênađô chẳng may bị sa vào tay quân cướp. Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.
Cũng chính thánh Đaminh, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân Côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân Côi. Chẳng hạn Kinh Mân Côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan... Chuỗi Mân Côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi.
Vậy khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song của kinh Mân Côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước Trời.
39. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
“Hãy xin thì sẽ được”
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.
Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống chàng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nòi được là thi vị hơn nhiều.
Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là Chapel- nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.
Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.
Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các Tu sĩ mỗi ngày đọc đủ 150 kinh dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp nhận, khi Người hiện ra với Thánh ĐaMinh vào thế kỷ XIII. thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và Dòng của Ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Lần chuỗi không phải là việc đọc kinh một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự VUI để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự THƯƠNG để theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm nhiệm năm sư MỪNG để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở lộ Đức và Fatima.
Tại rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng Thánh nữ Catherine Labouret: con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Đức Mẹ.
Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Benrnadetta đến quì tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong một bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đóc kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy em Phanxicô phải lần hạt mới được về Thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy la phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỉ, nhất là để nhở Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa, ad Jesum per Mariam. Amen.
40. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: “Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên 'chiều kích Thánh Mẫu' của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng”. Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.
Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ
Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng, Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.
“Các con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33)
Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: “Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế”(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria, nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng”. Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư, La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ: “phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi”. Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời. Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần. “Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ…”
Lễ Mân Côi nói gì cho nhân loại
Lễ Mân Côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria. Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Giacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: “Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”.
Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi.
Chuỗi Mân Côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu.
“Lạy Chúa, …… xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình Thập giá, và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh” (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Đức Mẹ Mân Côi).
41. Mai Khôi: bông hồng đẹp, viên ngọc quí
(Lm. An-rê Đỗ xuân Quế)
Mân Côi, Văn Côi, Môi Khôi, Mai Khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai Khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.
Chuỗi Mai Khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính Mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính Mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính Mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai Khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
Nguồn gốc chuỗi Mai Khôi
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai Khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho thánh Đaminh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau là thánh Đaminh đã lập ra chuỗi Mai Khôi. Vì thế, trong dòng Đaminh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho thánh Đaminh.
Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đaminh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo Công giáo. Thánh Đaminh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai Khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai Khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.
Hai tu sĩ dòng Đaminh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai Khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đaminh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai Khôi và thành lập các hội Mai Khôi.
Nguồn gốc Lễ Mai Khôi
Ngày Chúa nhật 07/10/1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai Khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai Khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai Khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai Khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.
Ý nghĩa của Chuỗi Mai Khôi và Lễ Mai Khôi
Trên đây là nguồn gốc của Chuỗi Mai Khôi và Lễ Mai Khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai Khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai Khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.
Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai Khôi và lễ Mai Khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.
42. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi
“Hãy canh tân đời sống và lần chuỗi mỗi ngày”
Câu hỏi gợi ý
1. Đức Maria có vai trò gì trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?
2. Đức Maria và việc lần hạt Mân Côi.
3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Ki-tô.
Suy tư gợi ý
1. Vai trò của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:
a) Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do thái khác khi sắp đến tuổi lấy chồng, Maria cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít. Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Maria đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
b) Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy vị trí của Đức Maria giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.
c) Bài đọc 2 của Thư Galát của Thánh Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).
2. Đức Maria và việc lần hạt Mân côi.
a) Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Ki-tô và cũng là của Đức Maria, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời “xin vâng – fiat!” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.
b) Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày.” (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).
c) Thánh Đaminh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”.
Còn cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”
3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Ki-tô.
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ “gương mẫu” nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Cha đã đổ tràn ân sủng của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng Tình Thương và Quyền Năng của Cha!
Lạy Chúa Giêsu Ki-tô, Chúa đã sinh ra từ một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Maria và Thánh Giu-se, đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Maria, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Ki-tô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng con.
43. Mưa nắng đời thường
Lạy Mẹ Maria, đời người ai cũng có lúc đẫm một chút mưa rồi lại một chút nắng - tất cả còn nguyên vẹn trong con như nỗi nhớ niềm thương...
Con có thói quen đọc kinh Truyền Tin ngay sau khi dâng ngày sáng. Buổi sáng hôm nay cũng thế. Con tung chăn ngồi bật dậy dâng ngày sống cho Chúa và đọc kinh Truyền Tin. Ngoài sân những hạt mưa bụi lất phất bay. Mây đen chắc nhiều lắm, đã năm giờ, trời vẫn còn tối mịt. Mưa bụi trở nên nặng hạt rồi lớn dần. Gần một giờ đồng hồ sau, hạt mưa lại nhẹ nhàng, mong manh...
Cuộc sống của một ngày mới lại bắt đầu. Ngoài kia, chị bán hàng đã bày hàng ở chợ. Những em bé và những người bán dạo vẫn cất lên trong trẻo hoặc khàn đục tiếng rao. Cô công nhân và bác nông dân đã vội vã ra khỏi nhà Và con cảm nhận, vầng tráng họ có lẽ bây giờ đã lấm tấm những giọt nước trong, chắc hẳn không phải giọt nước mưa vô tình để lại...!
Lạy Mẹ dấu ái, mưa đó rồi lại nắng. Chín giờ rưởi ngọn nắng đã lên cao như bù lại buổi bình minh không có. Và dù nắng hay mưa, cuộc sống vẫn tấp nập, vẫn ồn ào. Nó vẫn mang trong mình bao nhiêu nhịp thở của nhân loại, có khi hạnh phúc, có khi buồn thương
Con vào nhà thờ dâng thánh lễ đầu ngày. Nâng cao dĩa thánh mà như thấy cả sự sống nhân loại oằn nặng trên tay mình. Bởi nhận ra sự oằn nặn ấy, mà từng ngày trong thánh lễ, con đã dâng, và sẽ dâng trong hy tế của Chúa Giêsu là niềm vui của người hạnh phúc, dâng những ưu tư về cuộc nhân sinh đang giăng mắc đầy những cảnh đời nghiệt ngã. Con đã và sẽ dâng những mảnh đời rất thực: đó là chính bản thân con, là anh chị em tín hữu và của biết bao nhiêu đồng loại chung quanh. Con đã làm và sẽ làm như thế đến nhịp thở sau cùng của mạng sống con.
Lạy Mẹ Maria, cuộc đời dẫu có mưa, có nắng - tất cả dệt trong con thành nỗi nhớ niềm thương dâng tiến Mẹ.
Nhưng con hiểu mưa nắng không chỉ là hiện tượng của thời tiết đổi thay, mà mưa nắng vẫn rơi trong lòng của cả một kiếp làm người nữa.
Kiếp sống con người có vui, có khổ, có khóc, có cười. Là Mẹ Thiên Chúa, định luật cuộc đời, Mẹ cũng không thoát khỏi. Đọc lại những trang Tin mừng, con cảm nhận sâu xa về niềm đau và nỗi vui của Mẹ. Vừa được báo tin Mẹ sẽ làm mẹ Thiên Chúa, thì sau đó lại bị thánh Giuse hiểu lầm bởi bào thai đang lớn dần. Vui chưa trọn với ngày Con Chúa sinh ra, đã phải khăn gói lên đường di tản vì bạo vương Hêrôđê tìm giết. Khi người con ấy lên mười hai tuổi, có lần lại phải tìm con thất lạc. Và hơn hết mọi đau khổ, biến cố Canvariô đã làm Mẹ tan nát cõi lòng. Nhưng niềm đau lớn thì nỗi vui cũng lớn. Chắc Mẹ đã vui nhiều trong niềm tin vào Con của Mẹ phục sinh. Là Mẹ Thiên Chúa, để đạt tới đỉnh vinh quang, Chúa cũng không để Mẹ đứng ngoài đau khổ. Con hiểu mầu nhiệm cuộc đời là như thế: Có nỗi vui và nỗi buồn làm tăng giá trị.
Mẹ đã xin vâng để rồi tiếp sau đó là cả một đời chấp nhận, không ồn ào, không than vãn. Niềm vui hay nỗi buồn Mẹ đều ghi sâu và suy niệm. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Mẹ không xem thường những biến cố rơi vào giữa đời người, nhưng Mẹ cũng không quan trọng hóa chúng. Mẹ đón nhận cách tự nhiên bằng lòng tin vào sự quan phòng của Chúa. Mẹ đã nội tâm hóa tất cả, đã suy niệm trong lòng tất cả, và Mẹ đã đọc trong mỗi biến cố sự nhiệm mầu mà Chúa muốn tỏ bày nơi Mẹ. Mẹ vĩ đại không nhờ vào sự vĩ đại, lớn lao nơi những công trình trần thế. Nhưng Mẹ vĩ đại chỉ có một điều duy nhất: lắng nghe tiếng lòng. Ở đó, trong im lặng, nơi hoan vu của sa mạc đời mình, Mẹ đã nhận ra ý Chúa. Tiếng nói tự cõi lòng không cất lên chỉ trong một thời, một buổi, mà âm vang cả cuộc đời của Mẹ, vì Mẹ đã giữ kỹ các điều ấy trong lòng1, và mỗi ngày tiếng ấy càng thôi thúc Mẹ khẳng định rõ lời xin vâng bằng chính đời sống của Mẹ.
Vâng! Mẹ là như thế: Tất cả vì tình yêu Thiên Chúa. Hôm nay trong đời sống hiện tại, có khi mưa có khi nắng, mỗi chúng con, dù sống ơn gọi tu trì hoặc sống ơn gọi giữa đời, đều có những ưu tư, khắc khoải trong mỗi trách nhiệm khác nhau của mình. Chúng con biết rằng khi cố gắng chu toàn trách vụ là chúng con cố tạo hạnh phúc cho đời mình. Vì niềm vui không đến tự nhiên nhưng nó phải đến sau vất vả phải không Mẹ. Mưa nắng cuộc đời Mẹ đã đi qua, Mẹ đã cảm nếm, và Mẹ nêu gương cho chúng con khi biết vâng lời chịu đựng. Ngày mỗi ngày dẫu có những lo toan, vất vả, những giọt mưa hay những sợi nắng đan chéo trong đời, chúng con sẽ ấm lòng khi ngước trông lên Mẹ, và học lấy gương của Mẹ.
Thưa Mẹ con muốn lắng nghe tiếng nói của lòng mình. Tiếng nói mà ngoài Chúa ra, chỉ có con là người thứ hai được hiểu. Mưa hay nắng của cuộc đời sẽ làm tiếng nói ấy có giá trị hơn. Vì nếu nhịp sống cứ bình lặng mỗi ngày như nhau có lẽ sẽ buồn chán lắm và con cũng chẳng đọc được giá trị đời mình. Tiếng nói đó sẽ giúp con hiểu ý nghĩa của từng cơn mưa, đợt nắng rơi vào hồn con. Con sẽ được biết và càng biết nhiều hơn nếu mưa trở thành vũ bão, và nắng trở thành nóng rát quay cuồng trong con. Chỉ có quay về với lòng mình, con mới có đủ sức đón nhận. Chúa sẽ nói cho con và nói nhiều lắm khi con biết xua đi những ồn ào của cõi lòng con. Chúa an ủi con. Ngài âu yếm nhìn con và hướng về Mẹ mà bảo: Này là con Bà. Chúa sẽ giải thích cho con hiểu về thánh ý của Ngài: Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta. Trên quảng đường đầy mưa, đầy nắng đó, có Chúa cùng con song hành. Ngài không đánh con đau khi con sai trái, nhưng Ngài nâng con dậy mỗi khi con quỵ ngã. Ngài luôn ở bên con vì Ngài đã hứa rất nhiều lần: Ta sẽ ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế!. Mẹ ơi, con nhớ ngày xưa thiên thần cũng đã từng nói với mẹ: Chúa Trời ở cùng Bà. Vâng! Giống như Mẹ, mỗi người chúng con hôm nay đang mang Chúa trong cuộc đời mình. Nhận ra mình đang mang Chúa - một Giêsu đi qua thập giá để đến vinh quang mới là điều hệ trọng. Mẹ ơi, con hiểu ý nghĩa cuộc đời là khi con chấp nhận ý Chúa dù thương đau hay hạnh phúc.
Lạy Mẹ Maria, đời người ai lại không có lúc đẫm một chút mưa rồi một chút nắng - tất cả còn nguyên vẹn trong con như nỗi nhớ niềm thương. Xin dâng lên Mẹ tất cả. Xin bàu cử cho chúng con trước mặt người Con yêu dấu của Mẹ. Amen.
44. Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi
(ĐGM. Bùi Tuần)
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
45. Một phép lạ vĩ đại chưa từng xảy ra!
(Lm. Nguyễn Hữu Thy)
1. Fatima, 13.10.1917
Tại ngọn đồi Cova da Iria ở Fatima, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa đã hiện ra lần thứ sáu với ba trẻ chăn chiên: Lucia (10 tuổi), Francisco (7 tuổi) và Jacinta (6 tuổi). Nhưng nhiều người cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra chỉ là trò hề, do ba đứa trẻ nhà quê bịa đặt ra để gạt gẫm người khác hay do thủ đoạn của những người lớn đứng phía sau giật dây để nhắm tới một mục đích chính trị hay kinh tế nào đó. Chính bà mẹ Lucia cũng hoàn toàn nghi ngờ, đến nỗi bà còn đánh đập con gái mình vì cho rằng Lucia nói dối.
Để đánh tan sự nghi ngờ và bất tín của thiên hạ, nhất là để mọi người tin nhận biến cố Fatima là sự thật, trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917, Vị Thiên Nữ đã hứa là vào ngày 13.10.1917 sẽ có một phép lạ vĩ đại xảy ra trước sự chứng kiến của mọi người. Lời hứa này còn được Vị Thiên Nữ nhắc lại vào ngày 19.08.1917 và vào ngày 13.09.1917.
Vâng, trong lần hiện ra vào ngày 13.09. 1917, sự thông báo của Vị Thiên Nữ về một phép lạ vĩ đại sẽ xảy ra vào ngày 13 tháng 10 tới, cũng được ba trẻ nói cho mọi người hay. Vì thế đúng vào ngày đó, đã có khoảng từ 50.000 đến 70.000 người tấp nập đổ xô về Fatima, trong số họ, gồm có đủ mọi hạng người, từ các tín hữu, những người tò mò, cho đến cả những người nghi ngờ chống đối.
2. Nhiều phóng viên của những tờ báo lớn ở Bồ Đào Nha đã đến lấy tin
Họ đều có mặt trong lần hiện ra hôm đó. Nhưng có lẽ những phóng viên này chỉ muốn đến để để soạn sửa cho bản tin ăn khách sẽ được đăng ở trang nhất trên các tờ báo của họ trong số ra ngày mai với tít lớn: “Sự thất bại ê chề của hiện tượng Fatima”, hay: “Nhân loại văn minh của thế kỷ XX vẫn còn bị những chuyện hoang đường lừa đảo”, kèm theo những bài bình luận đầy giọng mỉa mai châm biếm tôn giáo, nếu như phép lạ đã được loan báo trước, không xảy ra.
Nhưng vào ngày 13.10.1917, mọi sự đã xảy ra hoàn toàn khác với ý nghĩ của những nhà báo này: Phép lạ cả thể đã thực sự xảy ra; mặt trời đã quay cuồng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người có mặt hôm đó.
3. Một vị giáo sư là chứng nhân hiện tượng lạ lùng hôm đó
Ở đây, chúng ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học tự nhiên đại học Coimbra, kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó. Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự chú ý của mọi người:
“Hôm đó, tôi đến nơi vào giữa trưa. Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt, mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập cả cảnh vật. (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều. Trong vài giây lát trước đó, mặt trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bổng chốc nó chiếu sáng qua đám mây. Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô hình nào đó cuốn hút vậy. Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời. Nó trông giống như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi nhưng không làm lóa mắt. (…) Nhưng mặt trời vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che khuất sau một đám mây. Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu trời. Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động rất nhanh. Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi sao. Cái đĩa lửa quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt hôm đó bỗng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh. Mặt trời cứ tiếp tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời, nó tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa không lồ. (…) Tất cả những hiện tượng này tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả. Tôi cũng hoàn toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.”
4. Phải chăng đám đông bị thôi miên?
Về phép lạ mặt trời quay, có lẽ sẽ có người sẽ cắt nghĩa ngay rằng vì đã được báo từ trước, và đám đông đã đến Fatima với một tâm trạng quá nóng lòng hồi hộp chờ đợi. Vì thế, khi có một hiện tượng bất bình thường nào đó nơi mặt trời xảy ra, họ đã vội cho là phép lạ, và rồi sự công nhận đó cứ lan tỏa ra nhanh trong đám đông một cách vô ý thức như một dòng điện vậy, tương tự như phản ứng của các khán giả ngồi xem đá banh trong một sân vận động khi có cầu thủ đá thủng lưới đối phương.
Nhưng sự cắt nghĩa đó sẽ hoàn toàn trở nên buồn cười và không thể đứng vững được khi sự kiện cụ thể xảy ra trong thực tế, đó là người ta có thể quan sát và nhìn thấy được phép lạ mặt trời quay trong chu vi rộng 1550 cây số vuông.
Rất nhiều nhân chứng đã từ xa chứng kiến được phép lạ mặt trời, lại là những người vô tín ngưỡng, những người đã từng phê bình và cười chê những khách đến Fatima hôm đó như những kẻ “nhẹ dạ cả tin”.
Trong số những người quan sát được phép lạ mặt trời từ xa, chứ không có mặt tại Fatima, đã cho ý kiến như sau:
Linh mục Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54km. Tất cả đều tưởng ngày tận thế đã đến.
Cha Lourenco tường thuật lại như sau:
“Tôi nghĩ rằng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia. Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả. Mặt trời vào lúc bấy giờ, trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của mình, và bổng chốc, nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa. Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm tận. Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại; còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường. Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…
Lúc bấy giờ có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười nhạo những người tới Fatima là “những kẻ ngu ngốc”, cốt chỉ để xem một đứa bé gái nhà quê. Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời. Ông ta bắt đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.”
5. Một hiện tượng không thể cắt nghĩa được
Qua sự trình bày của tất cả mọi nhân chứng có mắt hôm đó khi xảy ra phép lạ mặt trời quay, người ta có thể nói được rằng phép lạ cả thể đó có bốn đặc điểm khác nhau:
1. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào một vật sáng chói lọi, mà họ cho là mặt trời, chứ họ không cần phải đeo kính râm hay bất cứ phương tiện bảo vệ mắt nào cả.
2. Vừng sáng chói lọi đó đã tỏa ra những tia sáng mầu sắc rực rỡ xuống trên mặt đất, đến nỗi mọi cảnh vật đều bị nhuộm mầu hết.
3. Vừng sáng chói lọi rực rỡ đó rơi xuống trên đám đông.
4. Chỉ trong vòng mấy phút mà cả vùng đất Fatima đang bùn lầy dơ bẩn bổng chốc trở thành khô cứng, và áo quần của đám đông trên dưới 60.000 người từng bị cơn mưa cả buổi sáng làm ướt đẫm, cũng hoàn toàn khô ráo bình thường.
Đúng vậy, chỉ trong vòng khoảng 10 phút đồng hồ mà cả mặt đất lầy lội cũng như quần áo ướt át của đám đông bổng chốc khô ráo hoàn toàn. Đó quả là một điều đã minh nhiên nói lên rằng ngoài phép lạ siêu nhiên ra, không thể tìm ra được lời giải thích theo phương diện tự nhiên được.Chúa Nhật: Lc 1, 26-38
+ Chúa Nhật 08/10/2017 – Tá điền trổ sinh hoa trái.
08/10 – Chúa Nhật 27 thường niên năm A.
– Kính trọng thể lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI.
Chúa Nhật 27 thường niên năm A.
Lời Chúa: Mt 21, 33-43
"Ông sẽ cho người khác thuê vườn nho".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: "Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?" Các ông trả lời, "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi". Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: "Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!" Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".
Kính trọng thể lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI.
"Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai".
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ".
Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận. Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Is. 5, 1-7; Pl. 4, 6-9; Mt. 21, 33-43
SUY NIỆM LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv. 1, 12-14; Gl. 4, 4-7; Lc. 1, 26-38
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Hoa trái
Câu chuyện những người tá điền nổi loạn chính là diễn tiến của lịch sử cứu độ.
Thực vậy, vườn nho tượng trưng cho Nước Thiên Chúa. Nước ấy khởi đầu được trao cho một số người, nhưng vì sự tráo trở và tàn ác của họ, nên nước ấy đã được cất khỏi họ để trao cho dân tộc khác, biết làm trổ sinh hoa trái.
Trong dòng lịch sử, Thiên Chúa đã chọn cho Ngài một dân riêng, đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, dẫn đưa họ vượt qua biển Đỏ ráo chân, nuôi sống họ bằng manna từ trời xuống và sau cùng ký kết với họ một giao ước của tình thương và trung thành, cũng như cho họ được định cư nơi miền đất hứa. Thế nhưng, họ lại luôn bất trung và thất tín, để rồi Thiên Chúa đã phải gởi đến với họ các tiên tri hầu cảnh tỉnh họ. Tuy nhiên các tiên tri này đều bị họ bạc đãi và giết đi. Cuối cùng, Thiên Chúa đã phải gởi chính Con của mình, nhưng Người Con duy nhất ấy cũng đã bị họ giết chết như một tên tội phạm. Bởi đó, Thiên Chúa đã phải loại bỏ dân riêng của Ngài để thiết lập một dân mới, đó là Hội Thánh.
Dụ ngôn của Chúa Giêsu dĩ nhiên là một lời cảnh cáo đối với những người Do Thái đương thời. Đồng thời cũng là một lời cảnh cáo đối với chính người Kitô hữu chúng ta.
Thực vậy, chúng ta đã lãnh nhận Nước Thiên Chúa, chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu độ. Thế nhưng, ơn cứu độ ấy đã đem lại những hoa trái nào cho cuộc đời chúng ta? Nho thật hay nho dại? Điều chính trực hay chỉ toàn những sự gian ác?
Điều đã xảy ra với dân Do Thái cũng có thể xảy ra với chúng ta, nếu như chúng ta lặp lại thái độ và nếp sống của họ ngày xưa. Ơn cứu độ được ban nhưng không. Tuy nhiên, nó cũng có thể trở thành hòn đá làm cho chúng ta vấp ngã, trở thành bản án cho chính bản thân chúng ta, khi nó không sinh hoa kết qua theo như lòng mong ước của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta không thay đổi nếp sống của chúng ta, thì trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ bị loại bỏ như dân Do Thái thuở trước, để rồi Nước Thiên Chúa sẽ được ban cho những người khác biết đâm bông và kết trái.
2. Vườn nho
Qua dụ ngôn những người tá điền nổi loạn chúng ta thấy ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa đã rào giậu và chăm sóc cho vườn nho của mình. Còn những tá điền nổi loạn chính là dân Do Thái, dân tộc đã được Thiên Chúa chọn lựa và trao ban cho muôn vàn hồng ân. Còn các đầy tớ được sai đến là các tiên tri. Nhờ các tiên tri mà Thiên Chúa biểu lộ thánh ý của Ngài cho họ, thế nhưng họ đã đối xử dã man và tàn bạo đối với những người được Thiên Chúa sai đến. Nào là đánh đập, nào là giết đi.
Sau cùng ông chủ đã phải sai phái chính người con trai duy nhất của mình đến với họ, để tỏ cho họ thấy lòng nhân từ thương xót vô biên của Ngài, nhất là sau những biến cố đáng buồn đã xảy ra. Người con duy nhất này là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô, Đấng đã bị họ giết chết trên thập giá. Cái chết khổ đau này làm cho Ngài liên tưởng tới lời thánh vịnh 118: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường, đó là việc Thiên Chúa đã làm và thực lạ lùng dưới mắt chúng ta. Tảng đá góc tường là nơi câu móc những bức tường của toà nhà, nó nắm giữ một vai trò, một vị trí rất quan trọng.
Cuối cùng Thiên Chúa đã phải bỏ rơi dân Do Thái, để chọn cho mình một dân riêng mới, đó là Giáo Hội, để đem lại cho Ngài nhiều hoa trái.
Câu chuyện trên cũng làm cho chúng ta nhớ tới hinh ảnh vườn nho của tiên tri Isaia. Vườn nho này được chủ hết sức chăm sóc với hy vọng sẽ có được những trái nho đặc biệt, thế nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, khiến cho chủ phải nổi giận: Còn việc gì nữa mà Ta đã không làm cho vườn nho của Ta. Ta mong ước có được những trái ngon trái ngọt, vậy tại sao nó chỉ cho toàn những trái chua trái dại?
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng tâm hồn chúng ta chỉ là một cây nho cằn cỗi? Thiên Chúa cũng đã đổ xuống cho chúng ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, thế mà con người chúng ta vẫn không thể đâm bông kết trái. Có lẽ chúng ta cần phải dừng lại, để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống, trước khi nó đã quá muộn.
Nếu như chúng ta trung thành phụng sự Chúa, thì chúng ta không có chi phải lo buồn sầu khổ. Trái lại, nếu chúng ta đã có những thái độ và một nếp sống như dân Do Thái ngày xưa, thì chắc hẳn, trong giờ phút sau hết, Thiên Chúa cũng sẽ loại bỏ chúng ta và trao ban Nước Trời cho những người khác là những người biết đâm bông và kết trái.
3. Thợ vườn nho
Dụ ngôn những thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại các dụ ngôn Chúa dùng để tỏ lộ thân thế của Ngài là Đấng Thiên Sai. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Chúa Giêsu, khi bị dân Ngài loại bỏ.
Như thường lệ Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ các thực tại mà Ngài nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm vườn nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi vắng xa, chẳng hạn như ra nước ngoài, và để quan lý mùa màng, họ sai những đầy tớ đến với những người thợ làm vườn. Theo luật Do Thái, nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, thì thửa đất ấy sẽ thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này làm cho chúng ta hiểu được lý luận của các thợ làm vườn nho: Đứa con thừa tự đây rồi, nào hãy giết nó đi và chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, người con thừa tự mà chết, đất sẽ thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ.
Qua dụ ngôn này và qua đoạn kế tiếp với hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: Chính Ngài là người con bị bọn thợ làm vườn nho giết đi, chính Ngài là viên đá góc bị thợ xây loại bỏ.
Một cách quyết liệt, dụ ngôn đã đưa ra câu hỏi sau đây: Làm sao giới hữu trách của dân Do Thái lại đi tới chỗ loại bỏ Đấng thiên sai? Tôi xin thưa vì họ đã buông thả theo bản năng chiếm hữu của họ. Chủ vườn nho là Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất của họ. Thế nhưng tinh thần chiếm hữu của họ hệ tại việc áp đặt quan niệm riêng của họ về lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc của họ để lên ngôi thống trị thế giới. Các vị tiên tri đã đến để nhắn nhủ họ, nhưng tất cả đều bị họ giết chết, và sau cùng họ đã đi tới chỗ loại bỏ Đấng Thiên Sai, Con Một của Thiên Chúa. Thay vì phục vụ cho lề luật và dân chúng thì họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ của lề luật và của dân chúng.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ của Tin Mừng, của chân lý hay không? Làm thế nào để phục vụ Phúc Âm mà không chiếm hữu? Tôi xin thưa bằng cách để cho tinh thần Phúc Âm thấm nhập vài cải tạo chúng ta, chứ chúng ta không đọc Phúc Âm, rồi sau đó ngồi sắp xếp Phúc Âm theo ý riêng của chúng ta. Ngày xưa các thầy thông luật đã lèo lái niềm trông đợi của dân chúng tới những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay cũng không thiếu gì những người muốn lợi dụng Phúc Âm để quảng cáo cho một hệ thống chính trị hay một quan niệm xã hội. Chúng ta không có quyền sử dụng và dùng Phúc Âm vào một mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Đức Kitô. Nhiều người muốn chiếm hữu Phúc Âm để mưu cầu lợi ích riêng tư, để rồi cuối cùng đã đi đến chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Tin Mừng mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá góc là Đức Kitô, Đấng chúng ta tìm kiếm và yêu mến, chứ không nên lèo lái Ngài và Tin Mừng của Ngài vào những ý đồ riêng tư của mình.
4. Những tá điền khác
(Barbara E. Reid – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ông chủ sẽ trao vườn nho cho những tá điền khác.” (Mt 21,41)
Những tá điền khác: Họ là ai?
Năm năm trước đây, tại một số quốc gia vùng Ả rập, nhiều cuộc bạo loạn xảy ra, để biểu thị quyền lực hoặc để lật đổ chế độ. Một vài nơi đã thành công trong việc xóa bỏ chính quyền cũ và thành lập chính phủ mới. Một số cuộc cách mạng kết thúc khá ôn hòa, nhưng nhiều nơi những cuộc lật đổ gây nhiều đổ máu và tang tóc. Các biến cố này có nhiều nét tương đồng so với bối cảnh của dụ ngôn được Tin Mừng hôm nay thuật lại. Dụ ngôn đề cập đến cuộc lật đổ của các tá điền đối với ông chủ vườn nho.
Quá bức xúc vì mình không có đất đai để canh tác cũng chẳng có quyền hành gì, những tá điền đã nổi loạn chống lại những sứ giả ông chủ sai tới. Họ còn giết cả đứa con của ông chủ, người có quyền thừa tự, để mong tiếm quyền sở hữu vườn nho về cho mình. Câu 40 trong dụ ngôn đưa ra một câu hỏi khá hóc búa “Trước tình thế đó, ông chủ sẽ xử trí ra sao?”. Câu trả lời, là ông sẽ ra lệnh trừng phạt họ một cách nghiêm khắc. Bạo lực sẽ phải trả giá bằng bạo lực, có khi còn dữ dội hơn. Các tá điền chắc chắn sẽ bị tru diệt một cách không thương tiếc. Chúng ta có thể đọc dụ ngôn này theo một góc nhìn khác, nếu nhìn vào sự vô vọng nơi các tá điền khi họ muốn lật đổ ông chủ, và đòi quyền sở hữu vườn nho dành cho mình.
Theo cái nhìn truyền thống khi đọc dụ ngôn này, chúng ta có những hình ảnh và tình tiết mang tính biểu trưng để so chiếu. Vườn nho biểu thị cho dân Israel, các tá điền là những lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu, ông chủ vườn là chính Thiên Chúa, các sứ giả mà ông chủ sai tới là các ngôn sứ trong cựu ước, và người con của ông chủ chính là Đức Giêsu. Dụ ngôn mà ngôn sứ Isaia nói tới, như được trình thuật trong bài đọc thứ nhất cũng có nhiều nét ẩn dụ tương đồng như vậy. Tuy nhiên, phần kết nơi hai dụ ngôn thì hoàn toàn khác nhau. Trong trình thuật của Isaia, ông chủ vườn nho thất vọng vì vườn nho không sinh hoa trái, và ông đã ra lệnh hủy diệt vườn nho.
Nơi dụ ngôn của Đức Giêsu, vườn nho không bị tiêu hủy, nhưng được trao phó cho những người quản lý mới. Trong cả hai dụ ngôn, điểm quy chiếu là vườn nho cần phải được chăm sóc để cho trái trăng, và những tá điền đương thời đã không làm được điều này. Một điểm nhấn khác, là nếu dụ ngôn phác vẽ một hình ảnh biểu trưng về lịch sử cứu độ, thì “Người Con” được ông chủ gửi tới, là chính Đức Giêsu đấng Messia. Đây là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa tặng ban, là chính Đấng mà nhân loại vẫn luôn ngong ngóng đợi chờ. Món quà đó không thể bị tước mất khỏi tay ông chủ. Nếu chủ vườn nho là chính Thiên Chúa, và ngay cả cái chết xảy ra nơi người Con là điều không thể tránh khỏi khi con người nhẫn tâm chống lại Ngài, thì lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn dàn trải và đổ xuống trên ta đến vô tận, đem lại cho chúng ta những cơ hội để thống hối, hơn là đưa ra một phán quyết hủy diệt cuối cùng.
Trong mạch văn của Tin Mừng Mathêu, dụ ngôn nhắm đến các đầu mục Do thái giáo, những con người đang kình chống Đức Giêsu. Dụ ngôn cũng chỉ dẫn ra điều cần thiết, là phải có những vị lãnh đạo mới. Thế nhưng, những tá điền khác, hay các vị lãnh đạo tôn giáo khác là ai? Một số cắt nghĩa rằng, họ là những người mà ông chủ sẽ tín nhiệm để thay thế các tá điền cũ, tức là Thiên Chúa sẽ thiết lập “một Hội Thánh mới, thay thế cho Israel cũ, trải rộng đến các dân ngoại”. Cách cắt nghĩa này rất dễ bị chống đối. Mathêu viết cho các Kitô hữu gốc Do Thái và theo họ, các đầu mục của Israel cũ sẽ được thay thế bằng các lãnh đạo mới, cũng gốc Do thái. Những người theo Đức Giêsu thời đó, vẫn nghĩ rằng các môn đệ của Đức Giêsu, chủ yếu là những Kitô hữu gốc Do thái, sẽ là những “tá điền khác”. Họ cố đấu tranh để chứng tỏ điều đó, dù họ có liên hệ gốc gác với dân vùng Judea hoặc gốc Pharisiêu chăng nữa.
Dụ ngôn cũng đặt ra một câu hỏi nhức nhối đối với những ai đang nắm quyền lãnh đạo thuộc bất cứ một tổ chức nào, một định chế nào, hay một quốc gia nào. Nếu những người lãnh đạo không giúp đem lại thiện ích cho các thành viên thuộc quyền , họ phải được thay thế bằng những người khác, những người có khả năng làm nảy sinh hoa trái cho những ai dưới quyền mình. Theo mạch văn của đoạn Tin Mừng, chẳng còn kỳ vọng gì nơi những người lãnh đạo hiện tại. Cũng chẳng mong họ hối hận, và làm cho vườn nho sinh trái. Dụ ngôn cũng ghi nhận rằng mùa hái nho đã đến gần - tức là thời điểm cánh chúng đang đến. Đó là thời điểm quyết định không còn chờ đợi một sự thay đổi nào nũa, và tất cả đều hướng tới một quyết định chung thẩm cuối cùng. Tin Mừng gọi mời chúng ta, phải chú tâm đến các vị lãnh đạo, làm sao để họ biết cách lo cho thiện ích chung được phát sinh cách dồi dào. Đồng thời chúng ta cũng cố gắng thực hiện những phương cách ôn hòa, không gây bạo lực để thay đổi lãnh đạo, ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ thời điểm nào, khi cần thiết phải thực hiện.
5. Tá điền và vườn nho
Nếu ruộng lúa, nương khoai, khóm trúc và con trâu là những hình ảnh quen thuộc của người Việt Nam, thì người Do Thái cũng có những hình ảnh thân thương đối với họ, đó là đàn chiên và vườn nho.
Thực vậy, Chúa Giêsu sinh ra là người Do Thái, cũng đã thừa hưởng nền văn hóa con chiên và cây nho ấy. Ngài đã dùng những hình ảnh quen thuộc đó để nói lên quan điểm của Ngài đối với mối tương giao giữa Thiên Chúa và Israel, cũng như mối tương giao giữa bản thân Ngài đối với các tín hữu của mình…
Chẳng hạn trong Tin Mừng theo thánh Gioan thì Chúa Cha là người trồng nho, bản thân Ngài là cây nho còn các môn đệ là ngành nho. Điều Ngài muốn truyền dạy là chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Ngài.
Thế nhưng trong Tin Mừng theo thánh Matthêu thì hình ảnh cây nho hay nói đúng hơn hình ảnh vườn nho được khai thác cho một đề tài khác.
Chúa Giêsu đã nói tới lòng tốt của ông chủ vườn nho không những sẵn sàng thuê mướn mọi người, nhất là những kẻ thất nghiệp, kém may mắn, mà còn trả công đồng đều cho cả những kẻ làm việc ít giờ nhất.
Ngài cũng đã nói tới những tá điền, là những người quản lý có trách nhiệm canh tác vườn nho để giao nộp hoa lợi cho chủ. Nhưng họ đã phản bội, đã đánh đập các sứ giả và đã giết chết chính người con của chủ. Để rồi, chủ đã phải lấy lại vườn nho mà trao cho người khác quản lý, tức là Giáo Hội.
Hôm nay, khi đọc lại dụ ngôn này, chúng ta sẽ ung dung tự nhủ: Do Thái là Do Thái và Giáo Hội là Giáo Hội Chúa đã trao đoàn chiên cũng như vườn nho của Ngài cho Giáo Hội, người quản lý cuối cùng mà Chúa đã chọn, vì thế không còn gì phải lo sợ: Làm thế nào mà Giáo Hội lại có thể giết hại các tôi tớ Chúa và cướp đoạt vườn nho Chúa được.
Thế nhưng chúng ta không nên lạc quan với những nhận định trừu tượng và lý thuyết trên đây mà phải nhìn vào thực tại trước mắt: Và thực tại trước mắt cho thấy Giáo Hội chính là chúng ta. Cộng đoàn dân Chúa, gồm những con người bằng xương bằng thịt, mới chỉ được mời gọi và được ban ơn sủng để nên thánh, hay nên hoàn thiện, nhưng thực tế thường chưa thánh, chưa hoàn thiện, do đó vẫn còn có thể có những kẻ lười biếng không chịu làm việc trong vườn nho, tệ hơn nữa vẫn còn có thể có những kẻ hung ác đánh đập, hành hạ và thậm chí giết hại những người tôi trung của Chúa, những người làm vườn tốt, để chiếm lấy vườn nho cho mình. Chính những ngôn ngữ chúng ta thường dùng cũng tố cáo sự chiếm đoạt có khi là vô ý thức đó.
Thực vậy, chúng ta chẳng thường nói: Con chiên của tôi, nhà thờ của tôi, giáo xứ của tôi, Giáo Hội của tôi. Trong khi đúng ra phải nói là con chiên của Chúa, nhà thờ của Chúa, giáo xứ của Chúa, Giáo Hội của Chúa.
Nhìn vào vườn nho Chúa, chúng ta thấy không thiếu những cây nho cành lá xum xuê mà chẳng sinh được một trái. Cũng chẳng thiếu những cành nho khô héo èo uột vì chỉ còn dính hờ vào thân cây.
Điều đáng buồn hơn nữa là cũng chẳng thiếu gì những tá điền, những người quản lý đã chiếm đoạt vườn nho Chúa làm gia nghiệp riêng của mình. Họ mặc sức khai thác tùy theo ý muốn, miễn sao có lợi cho mình. Không thiếu những kẻ chỉ lo rào dậu, xây tường và kiến tạo những bồn đạp nho, nhưng lại chẳng chăm sóc gì đến cây nho, khiến vườn nho Chúa mọc lên những cỏ dại và gai góc.
6. Câu chuyện vườn nho, câu chuyện đời ta
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.
Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con. Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người các con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong thánh ý Chúa.
Tiếc là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.
Các con, sinh viên học sinh thân mến,
Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường, luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của sự thành công.
Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.
Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?
2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ xứng hợp không?
3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách nhiệm đó không?
7. Sống bằng tình yêu
Anh chị em thân mến.
Trong câu chuyện lịch sử "Chiếc nỏ thần", để lại một dấu ấn trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam.
Thục Phán An Dương Vương được Thần Kim Quy tặng cho chiếc nỏ có sức công phá cực kỳ, không ai có thể chống lại được. Nhờ chiếc nỏ mà trong nước được an bình.
Ông có cô con gái tên Mỵ Châu, được chàng Trọng Thuỷ con của Triệu Đà thuộc nước lân bang đến cưới. Mọi việc hết sức tốt đẹp, mối duyên của đôi trẻ ngày càng nồng ấm.
Một hôm Trọng Thuỷ xin về thăm cha của mình. Ít ngày sau thì chiến tranh kéo đến. Nhìn thấy đoàn quân đến từ xa, An Dương Vương không lo lắng gì, ông mỉm cười tự tin, vì đã có chiếc nỏ thần trong tay. Giặc càng ngày càng gần, đến lúc cần thiết, ông mới dùng đến nỏ thần. Nhưng bất ngờ thay, chiếc nỏ không còn công hiệu như xưa, đội quân của ông không phòng thủ nỗi với sức tấn công dũng mạnh của quân thù. Oâng cùng với cô con gái thân yêu tìm đường thoát thân. Nhưng càng chạy thì nghe tiếng của địch quân ngày càng gần. Nhìn lại thì ông thấy chính đứa con mà ông yêu thương nhất lại là người làm ông thất vọng nhất. Chính cô đã để lại dấu hiệu trên đường cho giặc đuổi theo. Oâng cũng hiểu ra: chính vì đứa con mà ông yêu thương, nên kẻ thù mới lợi dụng tình yêu thương đó, cưới con ông và tráo đỗi nỏ thần, khiến cho ông phải đi vào chỗ chết. Ông yêu thương con gái mình, nên cũng rất mực yêu thương chàng rể. Nhưng những gì mà ông yêu thương đã phản bội lại ông, làm cho ông phải chết. Nếu như ông có quyền trở lại ông sẽ đối xử với chàng rể như thế nào?
Khi lòng tham đã lên ngôi, thì tình yêu thương không còn hiệu quả nữa mà bị phản bội. Lòng tham làm cho con người trở nên tàn ác, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn làm sao lòng tham đạt được như ý muốn.
Đó là những gì của con người. Nhưng Thiên Chúa không để cho sự ác ngự trị mãi được, sự ác không thể tồn tại, ngay cả trong con người đang làm ác cũng không thể chấp nhận được cái ác.
Những người thời đó không thể chấp nhận được việc làm của những người trong dụ ngôn, hành động không có nhân tính.họ đã quên đi những gì người khác làm cho họ, họ cũng quên đi những gì họ đang có là từ đâu mà đến. Họ càng không muốn nhớ đến thời khó khăn trước đó như thế nào và làm sao mà họ thoát khỏi khó khăn như thế. Giờ đây họ chỉ còn nhìn thấy cái lợi vật chất. Họ tìm cách chiếm đoạt mà không cần biết đến cảm nghĩ của người khác như thế nào, cũng không cần biết đến hậu quả ra sao. Họ không nhìn thấy được tình yêu thương chung quanh họ, thì làm sao họ có thể sống trong tình yêu được.
"Nước Thiên Chúa sẽ lấy khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm trổ sinh hoa lợi".
Một câu nói mạnh mẽ mà Chúa Giêsu thốt lên để cảnh báo cho những người không biết đến tình nghĩa, không nhìn thấy người khác, cũng không nhận ra được chính mình.
Câu cảnh báo cho người xưa cũng là lời cảnh báo cho những người hôm nay, cho chúng ta. Mỗi người được bao bọc trong tình yêu thương, được Thiên Chúa ưu ái, ban cho một hoàn cảnh sống thật tốt đẹp. Nhưng nhìn lại, chúng ta có biết cảm tạ hồng ân Chúa, hay mỗi ngày chúng ta đòi hỏi nhiều hơn, bất mãn nhiều hơn, toan tính để được nhiều hơn cái không phải là của mình. Càng không chấp nhận được khi những gì là của mình mà bị bắt buộc phải chia cho người khác. Nên nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta giống như những người trong dụ ngôn, muốn loại trừ người khác, ngay cả tiêu diệt người khác bằng mọi cách, để có thể hưởng trọn những gì mình muốn. Những lúc đó chúng ta cũng giống như chàng Trọng Thuỷ vô tâm, đứng trước một tình yêu chân thành nhưng không biết tận hưởng, mà chọn lấy nguồn lợi riêng tư để bước vào con đường chết. Nếu chúng ta nhận ra hồng ân Chúa trong đời sống và biết cảm tạ bằng những gì trong cuộc sống đời thường, để biết chu toàn mà đền đáp hồng ân Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa soi sáng cho mỗi người, để biết nhận ra Chúa là nguồn tình yêu, mà biết sống xứng đáng để đền đáp tình yêu thương của Chúa.
8. Chúng ta được trao phó canh tác vườn nho của Thiên Chúa
(An Phong)
Câu chuyện giữa Thiên Chúa với con người là một câu chuyện tình. Tình yêu thương được trao ban, nhưng không được đón nhận; tình yêu thật quảng đại, nhưng lại bị phản bội cách trắng trợn. Giu-đa lấy cái hôn để nộp Thầy, đó là một sự phản bội lại tình yêu thương làm cho Chúa Giêsu đau lòng biết bao. Tình yêu của Thiên Chúa thật bao la; và sự phản bội tình yêu đó lại là cái gì hết sức phũ phàng. Không có gì đẹp bằng tình yêu, nhưng cũng không có gì ghê gớm hơn tình yêu bị phản bội.
Trong một xã hội "đấu đá nhau", những trò đời đã nhiều lúc trở nên khủng khiếp lắm rồi; nhưng khi "trò đời" lại diễn ra nơi chính bầu khí của tình yêu, trong gia đình chẳng hạn, thì nó lại trở nên khủng khiếp thế nào: cha mẹ lợi dụng con cái; con cái bất hiếu, bạc đãi cha mẹ, con cái giết cha mẹ cũng có… Quả thật, chính sự phản bội trong tình yêu là một đòn chí mạng khiến con người bị gục ngã. Bao nhiêu bà mẹ đã từng hy sinh mọi sự cho con cái, nhưng rồi cuối đời, những năm tháng về già, đã gục ngã vì sự phản bội, vì sự bất hiếu của đứa con cưng.
Chúng ta được trao phó cho mảnh vườn của Thiên Chúa, cha mẹ được Thiên Chúa trao phó cho một gia đình để chăm sóc; linh mục cũng được Thiên Chúa trao pho cho đoàn chiên; các người có trách nhiệm với dân tộc, với cộng đoàn giáo xứ, với các hội đoàn... đều là những người được Thiên Chúa trao phó vườn nho của Ngài. Cuộc sống này là vườn nho của Thiên Chúa và mỗi người chúng ta là những người làm vườn nho của Thiên Chúa.
Câu chuyện về sự phản bội của tình yêu cho chúng ta thấy rằng Tình yêu cũng chính là cái giá con người phải trả lại cho Thiên Chúa. Ông chủ ban "người con" như một lời mời gọi cuối cùng của tình yêu cho những người tá điền của mình. Không có gì thật sự là tốt đẹp mà không cần trả giá đâu. Sự trả giá ở đây chỉ là lòng trung thành, là mở lòng ra để đón nhận chủ quyền của Thiên Chúa chứ không phải muốn giành lấy gia sản của Người để hưởng thụ cho chính mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã trả giá cho đời sống chúng con,
không phải là trả một món nợ nào khác,
nhưng là món nợ của tình thương,
món nợ nặng nề nhất và cay đắng nhất.
Xin cho chúng con biết nhận ra
chúng con cũng mắc nợ nhau trong tình yêu thương
và cũng biết chấp nhận hy sinh vì tình yêu thương.
9. Tìm kiếm sự khôn ngoan
(Lm. Anmai)
Ba bài đọc trong Thánh lễ hôm nay như sợi chỉ đỏ xuyêt suốt nói về sự khôn ngoan, nói về sự lựa chọn của con người trong cuộc đời này về sự khôn ngoan.
Sách các Vua quyển thứ nhất trong chương 3 mà chúng ta nghe đấy nói cho chúng ta nghe về một chuyện thật là buồn cười. Là một vị vua, lẽ ra Salômôn phải xin cho được mình được sống lâu trăm nghìn tuổi để ngồi trên ngai mà trị vì dân chúng, lẽ ra Salômôn xin cho mình được của cải đầy dư để mà lên mày lên mặt với dân chúng, với các dân các nước lân bang, lẽ ra vua Salômôn phải xin cho tất cả những kẻ thù của vua phải chết đi, phải biến mất đi khỏi nhan của vua để mà vua được ngồi trên ghế trị vì đất nước được thoải mái, lẽ ra và lẽ ra Salômôn xin nhiều điều như một số vị vua khác đã làm đó là là cho mình được thê thiếp đầy nhà đầy cửa để phục vụ cho những ham muốn của mình, xin cho mình được quân binh dũng mãnh để đối phó với thù trong giặc ngoài nhưng rồi Salômôn xin với Thiên Chúa cho ông được tài phân biệt để xét xử.
Nếu vội vã, chúng ta sẽ cho rằng Salômôn là một người nông cạn, thiếu suy nghĩ vì xin cái gì không xin, xin tiền tài vật chất không xin mà xin cái gì đó nó chẳng có giá trị gì về vật chất cả, nó là cái chi chi đấy: tài phân xử. Xem ra cái chuyện ông xin là chuyện vô ích, chẳng cần xin thì ai ai cũng có tài phân xử cả. Chẳng cần ơn cũng có thể phân xử vậy mà ông lại xin. Như thế có vô ích không?
Chúng ta nhìn lại đời thường của chúng ta. Chuyện phân xử hình như nó dính liền với cuộc đời của chúng ta, dính liền với thái độ sống của chúng ta.
Sáng sớm, mới mở mắt thức giấc, chúng ta phải đứng trước một chuyện phân xử mà chúng ta không biết đó thôi đó là chúng ta có tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta qua một đêm yên ổn hay không? hay là chúng ta dửng dưng trước cái ơn của Chúa đấy. Cứ tưởng là bình thường nhưng chẳng bình thường chút nào cả vì đã có nhiều và nhiều người sau khi ngủ một đêm thì lại tiếp tục ngủ giấc ngủ ngàn thu chứ không hề thức dậy chi cả. Sau khi tạ ơn ấy, chúng ta có chịu trao phó cuộc đời, có dâng ngày sống trong tay Chúa hay là chúng ta lại dâng ngày sống trong tay chúng ta, trong sự quyết định không đâu vào đâu của chúng ta. Phân xử đấy chứ! Ai bảo là không phân? Hoặc chúng ta đặt để cuộc đời chúng ta trong tay Chúa, trong sự quan phòng theo thánh ý Thiên Chúa, hoặc chúng ta đặt để cuộc đời chúng ta trong tay của chúng ta, trong quyết định của chúng ta?
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, một bông hoa, một tiếng cười hay ngược lại?
Và rồi trải dài suốt cả ngày sống, chúng ta đước trước không biết bao nhiêu là điều phải lựa chọn, bao nhiêu là điều phải phân xử.
Đứng trước một sự cãi vả, một cuộc tranh chấp, chúng ta phải lựa chọn cái gì? Lựa chọn sự thua thiệt hay sự hơn người khác?
Đứng trước một quyết định về một mầm sống, chúng ta quyết định để hay là phá?
Đứng trước một con người thấp cổ bé họng, một con người nghèo khổ túng cực, chúng ta yêu thương họ hay phỉ báng?
Đứng trước một người giàu thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một người nghèo thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một con người tạm gọi là tội lỗi, khiếm khuyết, yếu đuối thì chúng ta sẽ xử họ như thế nào?
Và rồi, cuối ngày, trước khi đi vào giấc ngủ, chúng ta có kiểm điểm lại qua một ngày sống chúng ta được không biết bao nhiêu là ơn lành của Chúa để chúng ta tạ ơn Chúa hay là chúng ta lại tỏ thái độ dửng dưng trước bao nhiêu ân huệ mà Chúa dành cho ta? Chúng ta lại có khiêm tốn để trao phó cuộc đời chúng ta trong tay Chúa qua giấc ngủ mà chúng ta sắp chìm vào hay không?
Đó là chuyện thường ngày nhất mà chúng ta thường gặp. Chúng ta phải có thái độ để lựa chọn. Nhiều Thánh vịnh cũng đã nhắc nhở chúng ta về sự lựa chọn, đơn cử Thánh vịnh 90 (Tv 90, 5-12) vẫn nhắc nhớ chúng ta:
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Ngài thịnh nộ, chúng con phải mạng vong,
nổi trận lôi đình: thấy mà khủng khiếp!
Tội chúng con, Thánh Nhan đều soi tỏ.
Chúa nổi xung, đời chúng con tàn tạ.
kiếp sống thoảng qua: một tiếng thở dài.
Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh,
trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên?
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Thế đấy! Con người vẫn bé cái lầm là cứ tưởng rằng mình là chúa, là chủ của cuộc đời nhưng xin thưa rằng mạnh giỏi lắm thì chừng tám chục mà thôi. Tất cả những tài sản, những nổ lực, những cố gắng mà mình bao nhiêu năm đổ mồ hôi sôi con mắt tìm kiếm sẽ giao lại cho người khác. Ngay cái căn nhà, cái biệt thự, cái villa cao cấp mà mình đang trú ngụ đấy sẽ về tay người khác khi mà chúng ta đã khuất rồi.
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe đấy là đỉnh điểm nhắc nhở chúng ta về sự khôn ngoan, sự lựa chọn khôn ngoan mà Chúa Giêsu đã nói cho dân chúng, Chúa Giêsu cũng đã nói với mỗi người chúng ta: "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng bán đi tất cả những gì mình có để mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy".
Chúa nhắc cho chúng ta căn tính, căn cốt và cùng đích của cuộc đời chúng ta đó là Nước Trời. Cuộc đời này chỉ là đời tạm mau qua chóng tàn, là cuộc lữ hành về quê trời thôi chứ không phải là vĩnh cửu để rồi chúng ta bám, chúng ta víu vào? Bé cái lầm là cái điều cần chúng ta lại không tìm, điều không cần chúng ta lại ấp ủ? Phải chăng là chúng ta thiếu khôn ngoan, chúng ta thiếu cân nhắc, chúng ta thiếu phân xử như Salômôn?
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma Ngài cũng đã nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người chúng ta theo ý định của Người. Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang".
Thiên Chúa quan phòng, Thiên Chúa yêu thương và Thiên Chúa đã tuyển chọn, hiến thánh mỗi người chúng ta nhưng chúng ta làm sao đấy? Chúng ta cứ luẩn quẩn trong con người hay hư nát của chúng ta? trong cái con người nay còn mai mất của chúng ta mà chúng ta không tìm kiếm những sự cao siêu trên trời như Thánh Phaolô đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta.
Thấy điều gì hay, điều gì phải, điều gì tốt chúng ta cũng nên bắt chước và hôm nay chúng ta cũng bắt chước vua Salômôn để rồi chúng ta không xin Chúa cho chúng ta giàu sang phú quý, thành công, bằng này cấp nọ hơn người khác nhưng xin cho chúng ta cũng như ông: xin ơn khôn ngoan, xin ơn biện phân để chúng ta biết đếm tháng ngày chúng ta sống để ngõ hầu tâm trí của chúng ta được khôn ngoan. Chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta khôn ngoan lựa chọn thái độ sống của những người tìm kiếm Nước Trời chứ không phải tìm kiếm cái thế gian mau qua chóng tàn và phù vân này.
Nguyện xin Chúa là Chúa của sự khôn ngoan đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta luôn khôn ngoan chọn lựa thái độ sống phù hợp với thánh ý Chúa.
10. Dù con người bất trung, Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tiếp theo dụ ngôn “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con vào làm vườn nho (x. Mt 21, 28-32). Đức Giê-su kể cho thượng tế và kỳ lão nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” (x. Mt 21, 33-43). Quả thật, Vườn nho của Chúa là nhà Israel, Thiên Chúa đã tuyển chọn và coi như một vườn nho đặc tuyển được Chúa chăm sóc, bảo vệ, (“Bài ca vườn nho” – Is 5, 1-7) là một bằng chứng: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích” (Is 5, 7). Tình yêu của ông chủ với vườn nho, hay cụ thể là mối tình giữa Thiên Chúa với Dân Ngài thật đậm đà, thắm thiết. Thiên Chúa đã không tiếc gì đối với dân: “Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho” nhưng hỡi ôi, “nó lại sinh toàn nho dại” (Is 5, 2).
Điều gì phải đến sẽ đến, ông chủ “sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó” (Is 5, 5-6). Ngụ ý nói: “Thiên Chúa trông mong Israel thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5, 7). Theo lẽ thường, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống Israel. Nhưng Thiên Chúa “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9). Nên, mới giao vườn nho cho những tá điền chăm sóc (x. Mt 21, 33-43).
Gọi vào làm vườn nho và chăm sóc vườn nho là sáng kiến của Thiên Chúa. Ngài đã chọn dân Israel. Ngài tin tưởng và ban cho dân những điều kiện để sống xứng đáng trong Vương Quốc của Ngài. Ngài gọi dân vào làm vườn nho thể thiện tương quan đặc biệt giữa Ngài với dân. Việc trồng nho lấy quả, ép rượu, theo truyền thống Kinh Thánh là dấu hiệu của niềm vui phồn thịnh.
Thiên Chúa lấy tình yêu mà chăm sóc dân Chúa để nó sinh nhiều trái tốt, là sống công chính hoan lạc trong tình yêu. Cây nho sinh trái, thể hiện tình yêu từ Thiên Chúa xuống với con người, trung thành với lề luật Chúa là đáp lại tình yêu ấy. Yêu thương con người là sáng kiến của Thiên Chúa, vì Ngài đã chủ động yêu thương. Thảm kịch đối với dân được chọn là khước từ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, cho dù bao lần Ngài dùng miệng các tiên tri không ngừng mời gọi dân hoán cải, thậm trí sai chính Con của Ngài đến kêu gọi, dân chúng vẫn chọn sự bất trung với Thiên Chúa, ngược đãi với Con Ngài.
Chúa Giêsu lấy lại và tiếp tục lời than của Thiên Chúa trong Isaia (x. Is 5, 1-7). Chính ở đó chúng ta gặp được chìa khóa cho dụ ngôn. Tại sao Thiên Chúa “trồng một vườn nho” và Thiên Chúa đến tìm những “hoa quả “ nào?
Những tá điền không trồng nho và chăm sóc vườn nho vì thương yêu vườn nho, nhưng vì lợi ích riêng của chính mình. Thiên Chúa thì khác. Ngài dựng nên con người và lập giao ước với con người, không phải vì lợi ích cho Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương và ích lợi cho con người mà thôi. Những hoa quả được trông đợi từ con người là tình yêu đối Thiên Chúa và sự công bình đối với những kẻ bị áp bức: tất cả là vì con người, chứ không phải cho Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel, đồng thời phác họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại chúng ta. Chúng ta có thể trách cứ dân Israel hay cha ông họ là những tá điền sát nhân, vì chẳng những từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa mà còn giết hại chính Con Một Ngài. Coi chừng câu nói: “Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”(Mt 21,38) lại là của chính chúng ta. Bởi lẽ, ngày hôm nay chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài bởi những người xưng mình là Kitô hữu, hay là có khi phản Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho dội lên không bằng lời thì cũng ít nhất bằng những việc làm trong xã hội tục hóa ngày nay. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ.
Chúng ta tự hỏi: Tôi đã chuẩn bị thế nào để Chúa Kitô sống trong tôi? Tôi đáp trả tình yêu vô biên của Chúa dành cho tôi bằng cách nào? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô chăng?
Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín. Tình yêu của Ngài mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung của con người. Ngài tiếp tục sai chính Con Một Ngài đến trao nộp vì chúng ta để bảo đảm cho tới cùng tình yêu trao ban cứu độ thế gian.
Lịch sử nhân loại được hoàn tất nhờ cái chết trên Thập giá. Nhờ cái chết, Chúa Giêsu đã tiêu diệt sự dữ. Nhờ phục sinh, Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng sức mạnh của tình yêu, Người đã tiêu diệt hận thù. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc ” (Mt 21, 42), đền thờ Thiên Chúa được phục hồi. Vườn nho trở nên Vương Quốc của Giao Ước Mới, vì Nước Trời không bị phá hủy, từ nay “ Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (Mt 21, 43).
Ông chủ vườn nho nói: “Chúng sẽ nễ con Ta” (Mt 21, 37). Giờ đây, Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với chúng ta trong Bí tích Mình và Máu Người. Ta có hiểu sự cao trọng lúc này không? Ta có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính mà Chúa Cha mong đợi không?
Hôm nay chúng ta đọc lại lịch sử Dân Chúa chọn để lên án sự loại bỏ Đức Kitô do Chúa Cha sai đến. Nhưng cũng ý thức về sự khốn cùng của chúng ta khi loại bỏ “viên đá góc”, lúc chúng ta có ý xây dựng thế giới này theo tiêu chí của chúng ta, tự coi mình là những ông chủ vườn nho của Chúa.
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Amen” (Lời nguyện Nhập lễ).
11. Người thợ làm vườn nho
(‘Suy Niệm Hằng Ngày’)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại dụ ngôn “Người thợ làm vườn nho”. Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để giúp người nghe dễ hiểu điều Ngài muốn nói về Nước Trời.
Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Thiên Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai phái các tiên tri đến dạy dỗ họ.
Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm nom săn sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng.
Mỗi người chúng ta hôm nay cũng là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, đó là những tài năng tinh thần, là của cải vật chất, để ta sinh thêm hoa lợi và mang về cho Người..
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của ta, là để ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho ta các tài năng là để ta sinh lợi cho phần rỗi của mình. Nếu ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác.
Sẽ đến ngày ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó cho ta. Sẽ đến ngày ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc ta đang làm hôm nay.
***
Lạy Chúa! Xin cho con biết cộng tác vào vườn nho của Chúa, để làm trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện và làm cho Nước Chúa được nhiều người biết đến. Amen.
12. Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.
Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành nho (x. Ga 15). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh… thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra hoa, kết trái.
Đề hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thi Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.
Quản lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước... Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội thánh này Hội thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định (x.Rm 13,1)
Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại các ngài.
Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác.
Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo DoThái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.
Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).
13. Trở thành người thợ có trách nhiệm trong vườn nho của Chúa
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Dịp tháng 5/2014, khi Trung Quốc đem giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, đã tạo nên một làn sóng phản đối dữ dội ở mọi tầng lớp người dân. Tại các khu công ngiệp, công nhân đã phản ứng một cách thái quá, và trút sự căm thù xuống trên chính các công ty của mình, nơi mình đang làm việc để kiếm sống. Công nhân đã xông vào các công ty Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan đập phá, đốt xưởng. Ở Bình Dương, công nhân tràn vào nhà máy để phá và hôi của của công ty. Họ hể hả vì lấy được những món hàng từ trong công ty. Có những người không ngại ngùng để đưa mặt mình vào ống kiếng khi bị quay cảnh cướp của ấy. Hậu quả là công ty phải đóng cửa, công nhân không còn chỗ làm việc, những người ăn cắp bị ghi hình phải ra hầu tòa, phải đem đồ đến trả lại cho công ty trong sự xấu hổ. Sự kiện trên cho thấy rằng hầu như công nhân làm việc trong công ty từ trước đến nay không hề tỏ ra có trách nhiệm với công ty và làm việc thiếu lòng yêu mến đối với công việc và nơi mình làm việc nên mới xảy ra những sự việc đáng tiếc như thế. Cuối cùng, người thì bị đuổi việc, kẻ thì ở tù, còn Chính phủ bị bắt vạ phải bồi thường cho các công ty đó.
Thưa quý OBACE, khi làm việc mà người thợ không cảm thấy mình có trách nhiệm với công việc, thì chính họ sẽ biến mình thành kẻ phá hoại. Cũng vậy, khi họ làm việc mà không có lòng yêu mến thì cũng không khác gì kẻ nô lệ, và có khi biến mình thành kẻ cướp, kẻ ăn cắp ngay trong công việc của mình. Sự kiện nên trên không chỉ xảy ra ngày nay, mà cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu cũng đã kể một câu chuyện tương tự.
Có một chủ nhà có một vườn nho, ông chăm sóc, rào giậu chung quanh, xây bồn ủ nho. Ông cho tá điền canh tác rồi trẩy đi xa. Đối với người Do Thái ngày xưa, vườn nho là một tài sản lớn, người ta yêu quý vườn nho như là con cái, là gia nghiệp của mình. Vì thế, khi trao vườn nho lại cho tá điền canh tác, ông chủ đã hết sức tin tưởng, trao phó cả cơ nghiệp của mình cho những tá điền này. Tuy nhiên, bọn tá điền đã bộc lộ ý đồ muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Khi ông sai đầy tớ đến thu hoa lợi, bọn tá điền đã đánh đập, nhục mạ, giết chóc đầy tớ. Đã nhiều lần chúng đối xử với ông chủ và với những người được sai đến như thế, nhưng ông chủ vẫn hết sức khoan dung và kiên nhẫn với bọn tá điền. Cuối cùng, ông đã sai chính con trai duy nhất của ông đến, bọn tá điền đã bộc lộ rõ âm mưu chiếm đoạt vườn nho khi chúng bàn với nhau: Đứa con thừa tự đây rồi, nào ta giết nó đi và đoạt lấy gia tài của nó.
Israel chính là vườn nho của Thiên Chúa, là gia nghiệp của Chúa được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn. Ngài hết mực yêu thương Israel như đã được diễn tả qua bài ca về vườn nho trong sach Isaia: Tôi xin hát tặng bạn thân tôi bài ca về vườn nho của mình. Bạn tôi có một vườn nho màu mỡ trên sườn đồi, anh vun tưới cày cuốc và trồng vào đó những giống nho tốt. Anh dồn hết bao công sức cũng như kỳ vọng vào vườn nho này, nhưng nó lại không đáp lại sự mong đợi của anh, nó sinh ra trái nho chua nho dại. Vì thế, ông sẽ để cho nó bị tan hoang, heo rừng vào phá phách, cỏ dại mọc um tùm. Bài ca này nói lên tâm trạng và sự chờ đợi của Thiên Chúa nơi dân Israel. Ngài mong họ trổ sinh hoa trái yêu thương, hành động công bình, nhưng họ lại sinh ra những quả gian ác, những trái bất công. Kể câu chuyện trên, Chúa Giêsu đã muốn nhắm tới các thượng thế và luật sĩ. Họ chính là những tá điền được Thiên Chúa trao cho trông coi, canh tác vườn nho là Israel, nhưng những người này đã không làm tốt trách nhiệm của mình, còn đối xự tệ bạc với Thiên Chúa là ông chủ và muốn biến vườn nho Israel làm của riêng mình.
Những người trước đây được sai đến để thu hoa lợi là các ngôn sứ, những vị này được sai đến để giúp Israel điều chỉnh lại cuộc sống, kêu gọi thay lối sống gian tà bằng sống công bình bác ái, nhưng các ngôn sứ đã bị các tá điền là các thượng tế và luật sĩ tìm cách loại trừ, nhục mạ. Sau cùng, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu đến với họ, thì họ đã đối xử với người con ấy không khác gì những tá điền trong câu chuyện. Họ hành hạ, giết chết Ngài và quăng xác ra khỏi vườn nho. Trong câu chuyện, Chúa Giêsu cho thấy sẽ đến ngày Thiên Chúa là ông chủ sẽ loại trừ họ, đuổi họ khỏi vườn nho và trao vườn nho cho những người thợ trung thành, có trách nhiệm, hết lòng yêu mến làm việc và sinh hoa lợi cho Thiên Chúa.
Vườn nho ngày xưa đã đã bị bỏ hoang và Thiên Chúa đã thiết lập nên vườn nho mới là Giáo Hội, được trao cho những tá điền mới. Chúng ta là giống nho mới được tháp nhập vào thân cây nho là Đức Giêsu, được trồng trong mảnh vườn của Giáo Hội, được chính Thiên Chúa làm chủ canh tác và các cộng tác viên của Ngài là các thừa tác viên được tuyển chọn để chăm sóc cho vườn nho. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng là những tá điền được Thiên Chúa tín nhiệm trao cho việc chăm sóc vườn nho của Chúa. Vì thế, với trách nhiệm và với hết lòng yêu mến, chúng ta được mời gọi làm việc liên lỉ để sinh thật nhiều hoa trái tốt cho Chúa.
Là cành nho, chúng ta sẽ phải sinh trái nào? Thánh Phaolô đã chỉ cho chúng ta trong bài đọc hai: Trong mọi hoàn cảnh, hãy biết tạ ơn Thiên Chúa và không ngừng giải bày những tâm tình nguyện xin. Tạ ơn vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, cho chúng ta được nhận biết Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài, được tôn thờ Ngài, được hưởng ơn cứu độ. Đây chính là niềm vui đầy tràn trong tâm hồn và được biểu lộ ra bên ngoài. Dù cuộc sống bên ngoài còn nhiều khó khăn, thử thách cũng không thể làm vơi cạn niềm vui thánh thiện trong tâm hồn của chúng ta. Kế đến, phải sinh những hoa trái là: Sự chân thật cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì anh em hãy để ý mà thực hành.
Như vậy, với tính cách là những cây nho được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và vun trồng trong vườn nho Hội Thánh, chúng ta cần phải biết tận dụng cơ hội Chúa ban để sinh hoa kết trái trong cuộc đời của mình. Cần phải sinh những hoa trái như Thiên Chúa mong muốn và kỳ vọng nơi mỗi chúng ta. Điều Chúa mong đợi nhất nỗi người là sinh những hoa trái ngọt ngào yêu thương. Hãy dâng tặng cho Chúa lòng yêu mến, biết ơn của mình bằng sự gắn bó, trung thành với Chúa, với giới răn, lề luật của Chúa. Hãy bày tỏ lòng biết ơn qua việc dâng thánh lễ mỗi ngày. Hãy sinh những hoa trái là những việc lành, việc tốt cho gia đình, cho lối xóm và cho cả xã hội này. Đừng bao giờ trở thành những trái chua, trái đắng cho nhau. Hãy mạnh dạn loại bỏ những trái tham lam, ích kỷ, nhỏ nhen, và hãy trao cho nhau những hoa quả ngọt ngào yêu thương. Khi mỗi người cùng trổ sinh những hoa trái như thế, chúng ta sẽ làm biến đổi xã hội này và thế giới này, và cuộc sống cộng đoàn, xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Trong tư cách là những người thợ được Thiên Chúa tín nhiệm trao phó cho vườn nho của Ngài, mỗi người tùy theo địa vị và ơn gọi của mình, hãy làm việc với hết khả năng, hết sức lực và nhất là hãy làm việc với tất cả tinh thần trách nhiệm và lòng yêu mến để đem lại nhiều hoa trái cho Chúa. Chúng ta được sai vào vườn nho rộng lớn là cả giáo hội, để ở nơi đây, chúng ta có bổn phận làm cho Tin Mừng được lan tỏa đến khắp nơi và đến với hết mọi người. Chung quanh chúng ta còn nhiều người chưa biết Chúa và Giáo Hội, chưa nghe nói về Tin Mừng Cứu độ. Chúng ta sẽ phải là những người giới thiệu hoa trái ngọt ngào này cho tất cả mọi người, để họ cũng được hưởng nếm niềm vui cứu độ của Chúa.
Là người thợ trong vườn nho là giáo hội địa phương tức là giáo xứ, hãy là những thành viên có trách nhiệm và có lòng yêu mến. Vì từ nơi môi trường giáo xứ, chúng ta được sinh ra trong đức tin, được nuôi dưỡng bằng ân thánh của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua thánh lễ được cử hành nơi đây. Cũng ở nơi môi trường giáo xứ, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc qua các chủ chăn là những người được sai đến phục vụ cộng đoàn. Hãy hết lòng chung tay góp sức, xây dựng cộng đoàn vườn nho địa phương. Hãy mạnh dạn bỏ đi những tự ái, cái tôi bè phái, chia sẽ để góp phần xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Đừng bao giờ có tham vọng loại trừ người khác và biến vườn nho này thành của riêng mình, bắt người khác làm theo ý mình, nhưng cần phải làm theo ý Chúa.
Là những người được trao cho chăm sóc vườn nho là các gia đình, các bậc làm cha mẹ sẽ phải trở thành những người có trách nhiệm làm cho vườn nho của gia đình mình trổ sinh hoa trái tốt lành. Hãy chăm sóc nhiều hơn cho những mầm nho là con cái được lớn lên trong bầu khí đạo đức của gia đình, của cha mẹ qua các giờ kinh sớm tối, qua gương sáng của cha mẹ. Hãy kịp thời uốn nắn để con cái được lớn lên trưởng thành về nhân cách cũng như trưởng thành trong đời sống đức tin, trở thành những Kitô hữu tốt, nhiệt thành.
Xin Chúa cho mỗi người ý thức trách nhiệm Chúa trao ban, để chúng ta chu toàn tốt nhiệm vụ của mình, cộng tác và làm cho vườn nho của Chúa ngày càng được mở rộng trên khắp mặt đất này. Amen.
14. Vườn nho của Chúa
(John W. Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Tôi những mong trái tốt, mà sao vườn nho chỉ sinh nho dại” (Is 5,4).
Trong thơ văn Kinh Thánh, vườn nho là biểu trưng cho người được yêu. Ngôn sứ Isaia đã vay mượn hình ảnh của một vườn nho để hát một bài ca dâng tặng người yêu. Bài ca đó miêu tả việc Thiên Chúa yêu thương săn sóc dân của Ngài. Tuy nhiên cung điệu bài ca mau chóng chuyển thành lời ca thán người được yêu, như Isaia đã mô tả, vì vườn nho được săn sóc ân cần, nhưng chỉ sinh ra nho dại. Cuối cùng nó đã bị bỏ rơi và trở nên hoang tàn. Đức Chúa phán “Ta sẽ chặt phá hàng dậu cho vườn nên tan hoang. Ta sẽ đập đổ các tường bao, cho vườn bị giày xéo. Ta sẽ biến mảnh vườn thành đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, cho gai góc mọc um tùm, và ta sẽ truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa xuống”.
Thế thì, vườn nho sản sinh loại hoa trái nào? Isaia đã viết rằng, loại giống nho tốt đã được chọn lựa để gieo trồng, nhưng nó chỉ cho ra nho dại. Hạn từ trong tiếng Do Thái khi nói về nho dại, có một nguồn gốc mang ý nghĩa “hư hỏng, hôi thối”. Câu văn trong tiếng Hy lạp, nho dại còn mang chở thêm ý nghĩa là “gai góc” như trong trình thuật của Isaia. Như vậy vườn nho thay vì cho trái thơm trái ngọt, nó chỉ cho trái hư thối hay chỉ sản sinh gai góc. “Thiên Chúa kỳ vọng sự ngay chính, nhưng Ngài chỉ thấy toàn là đổ máu. Ngài chờ đợi sự chính trực, nhưng chỉ nghe tiếng khóc than” (Is 5,7). Vườn nho này chẳng còn giá trị gì. Tuy nhiên, những người thợ làm vườn có thể cải tạo và vun xới cho vườn nho. Vì thế, Isaia cũng nói về một viễn cảnh tương lai khi vườn nho sẽ xanh tốt trở lại, lúc mà “Giacóp sẽ bén rễ, Israel sẽ trổ nụ đơm bông, và mặt đất sẽ đầy tràn hoa trái (Is 27,6).
Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng, Đức Giêsu trở lại với vườn nho. Hình như vườn nho bây giờ đang sản sinh những trái tốt, và ông chủ chuẩn bị cho thu hoạch. Cho dù vấn đề nho dại hay gai góc không còn được nói tới, nhưng vườn nho lại nảy sinh một vấn đề khác. Ông chủ giao phó vườn nho cho các tá điền chăm sóc và đi xa. Khi mùa gặt đến, ông sai những gia nhân đến gặp họ để thu gom hoa lợi. Nhưng các tá điền bắt các đầy tớ, đánh đập người này, ném đá người khác, thậm chí còn giết chết họ. Vườn nho ở đây là biểu trưng cho dân Israel, đang mang chở những hoa trái tốt lành, như Isaia đã tiên báo. Đồng thời, Đức Giêsu khai mở một viễn ảnh rộng lớn hơn, đó là Nước Thiên Chúa đang đến. Ông chủ vườn nho là chính Thiên Chúa, là người yêu trong dụ ngôn của Isaia, nhưng có những nhân vật mới xuất hiện so với vườn nho trong cựu ước, đó là các tá điền và những gia nhân của ông chủ.
Theo mạch văn trong Mt 21,45, các tá điền là những thượng tế và biệt phái, những người đã không được ủy thác sứ mạng thu gom hoa lợi khi mùa gặt đến. Họ không phải là những cây nho đã sinh ra trái xấu, nhưng dụ ngôn nói về họ như là những con người phản bội ông chủ, không đem hoa lợi về cho ông chủ khi ông sai phái những sứ giả đến vườn nho. Những đầy tớ được gửi tới là hình tượng ám chỉ các ngôn sứ trong cựu ước, giống như Isaia, mà những bài tình ca viết cho họ cũng chẳng làm sao lay động được con tim của họ, giống như tâm tưởng gian ác và chai lỳ của những tá điền. Sau khi đã sai gửi những đầy tớ, ông chủ gửi chính người con của mình đến với họ và nghĩ rằng “Họ sẽ kính trọng đứa con của ta”. Nhưng trớ trêu thay, các tá điền đã quyết định giết luôn anh ta để tiếm quyền sở hữu gia tài. Thế rồi Chúa Giêsu đưa ra câu hỏi “Khi ông chủ đến, ông sẽ hành xử thế nào đối với những tá điền như thế?” Các đầu mục Do Thái và người Pharisiêu trả lời, nhưng dường như họ không biết câu trả lời đó chính là tự kết án họ “Ông chủ sẽ tru diệt bọn chúng, và sẽ trao vườn nho cho người khác canh tác để đến mùa sẽ thu hoa lợi”. Đức Giêsu đồng ý với câu trả lời. Người nói với họ “Quả thật, tôi bảo các ngươi, nước Thiên Chúa sẽ được cất khỏi các ngươi và được trao cho một dân khác có thể làm sinh hoa lợi cho Vương quốc này”.
Bởi vì các tá điền không phải biểu trưng cho toàn dân, nên những người Israel vẫn còn là hình tượng của vườn nho được Chúa yêu thương, mà dụ ngôn của Isaia đã miêu tả. Nhưng vườn nho sẽ được giao cho những tá điền khác, tức là giao cho một dân khác để có thể đem lại trái trăng cho vương quốc nước trời.
Những người theo Đức Giêsu, hình thành một dân mới, gồm cả người Do Thái và dân ngoại. Nhưng họ có thực sự là những tá điền của vườn nho này hay không, còn tùy thuộc vào kết quả sinh lợi của vườn nho. Điểm nhấn của dụ ngôn không phải là vườn nho sẽ bị bỏ hoang như Isaia đã mô tả, nhưng là cần phải chăm sóc chu đáo những trái nho mà vườn nho đã sản sinh. Một cách mặc nhiên, chúng ta hiểu là trong dụ ngôn của Đức Giêsu, vườn nho đang cho những trái tốt. Đức Giêsu không hát lên một bài ca chiến thắng về những hoa trái mà vườn nho mang lại. Ngài cũng không đá động đến sự trổi trang nơi các môn đệ Ngài, nhưng Ngài cũng gợi nhắc lại bài ca tình yêu về vườn nho của Isaia cho nhóm độc giả rộng lớn hơn. Vườn nho được trải rộng. Mọi người chúng ta đều được đón mời đến làm vườn nho cho Chúa. Hơn nữa, có khi tâm hồn chúng ta ngập tràn trái nho dại, chúng ta cần phải đổi mới và sản sinh những trái nho thơm ngọt cho Vương quốc Nước Trời.
15. Tôi tớ hay kẻ tiếm quyền?
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Dụ ngôn các thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại dụ ngôn Chúa Giêsu tạo ra để tỏ bày thân thế của Ngài là Đấng Messia. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Đức Kitô bị dân Người loại bỏ và chung quanh có những môn đệ mà lòng tin phát sinh khó khăn và hiện còn mỏng manh. Như thường lệ, Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ thực tại mà Người nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi xa, ra cả nước ngoài và để việc quản lý mùa màng lại cho những phái viên họ sai đến với các thợ làm nho. Theo luật Do thái nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, đất ấy thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này cho ta hiểu lý luận của các thợ vườn nho: Con thừa tự đấy, giết nó đi, chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, con thừa tự mà chết, đất thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ. Qua dụ ngôn này, và trong đoạn nói tiếp nhắc lại hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho hiểu rằng chính Ngài là người con trai bị thợ làm vuờn nho giết đi và là viên đá góc. Trong tâm trí người đọc sách phúc âm vào thời Mt viết ra, cũng như trong tâm trí chúng ta, tất cả câu chuyện kết thúc bằng việc Chúa Con sống lại, để giải cứu gia tài Ngài, là toàn thể nhân loại và đã trở thành viên đá chính trong việc xây dựng nước trời. Dụ ngôn này đặt ra cách quyết liệt câu hỏi sau đây: Làm sao các người hữu trách dân Do thái lại đã tới chỗ loại bỏ Đấng Messia?
1) Họ đã hướng theo bản năng chiếm hữu. Chủ vườn nho là hình ảnh Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất và Cha của dân tộc Do thái. Việc các lãnh tụ của dân chiếm hữu nằm ở chỗ họ áp đặt quan niệm riêng và lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc được chọn để đạt tới chỗ thống lãnh thế giới. Các vị tiên tri đã đến và chính Con Thiên Chúa cũng đã đến để nhắc nhủ rằng, lề luật thuộc riêng mình Thiên Chúa và dân không phải là sở hữu của những kẻ cai trị, nhưng là của Thiên Chúa mà thôi. Họ đã giết các tiên tri và cuối cùng đã giết luôn Con Thiên Chúa. Họ đã tới chỗ loại bỏ Đấng Messia bởi vì thay vì phục vụ lề luật và dân, họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ lề luật và dân. Một câu hỏi: liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ Chân lý?
2) Làm thế nào để phục vụ Chân lý Phúc Âm mà không chiếm hữu? Bằng cách hãy để cho Phúc Âm thâm nhập và cải tạo chúng ta, chứ không phải đọc rồi sắp xếp Phúc Âm theo ý chúng ta. Ngày xưa các thày thông luật lèo lái sự trông mong của dân đến những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay, phải chăng không có những nhà trí thức xử dụng Phúc Âm để quảng bá hệ thống chính trị của họ, các quan niệm về xã hội của họ dầu cho đó là bảo thủ hay là cách mạng? Người ta không có quyền cư xử như chủ nhân Phúc Âm và dùng Phúc Âm như mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Chúa Giêsu Kitô trong đức tin. Nhiều người tiếm hữu Phúc Âm mưu lợi cho ý tưởng của họ, như các ký lục ngày xưa tiếm hữu lề luật, cuối cùng đi tới chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Phúc Âm mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá sống động là Chúa Giêsu Kitô, Đấng chúng ta lắng nghe, tìm kiếm và yêu mến. Không ai làm chủ Đức Kitô, chúng ta tất cả đều phục vụ cho Phúc Âm của Ngài mà chúng ta chỉ là người lãnh nhận.
16. Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện với chúng ta
(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Nếu Chúa Giêsu đã đến trái đất này cùng một cách như Người đã đến lần đầu tiên, bạn thử nghĩ xem Người sẽ được tiếp bạn ra sao? Sự tiếp đón ngày hôm nay của chính xứ sở bạn có khác với những gì đã xảy ra ở Giudea vào những thế kỷ trước không?
Chúa Giêsu đã đến thế gian sau những lời tiên báo của một loạt các tiên tri trong kỷ nguyên Cựu Ước nhưng chúng đã bị dân chúng thời đó coi thường và phớt lờ đi. Họ đã xử sự giống như những người nô lệ trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể trong bài Phúc âm hôm nay. Những nô lệ này đã đối xử cách đáng xấu với những người làm công mà chủ sai đến lấy phần thu của ông. Thật kinh tởm, khi người khi chủ sai chính con trai của ông, vì ông hy vọng rằng họ sẽ nể ông, nhưng họ đã giết luôn đứa con trai của ông.
Chúng ta không cần phải tưởng tượng gì thì cũng nhận ra người con mà dụ ngôn nhắc đến chính là Chúa Giêsu. Hôm nay có gì mới không? Chúa Giêsu sẽ đến đổi mới thế giới đau khổ và tàn tệ mà Người đã chịu đựng hai mươi thế kỷ trước không?
Không phải tưởng tượng nhưng chúng ta cần đức tin để trả lời cho câu hỏi này. Theo đức tin công giáo của chúng ta, sự thật là Chúa Giêsu đang đến giữa chúng ta,đặc biệt là nơi người hất hủi, bị khinh bỉ và những phần tử nghèo nàn cơ cực trong xã hội của chúng ta.
Chúa Giêsu đến trong ngôi vị của một thai nhi trong dạ mẹ. Người đang cố gắng để được sinh ra một lần nữa vào trong thế giới của chúng ta, nhưng phong trào phá thai đang loại bỏ Người bằng cách huỷ diệt Người ngay tại nơi được coi là cung thánh an toàn nhất trên mặt đất này, là nơi dạ người mẹ. Có phải Thiên Chúa Cha sẽ nói như người chủ đất hôm nay: “Chắc họ sẽ kính trọng con trai ta”.
Theo lịch sử, Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bethlehem, âm vang cái tên thành phố. Bên trong câu chuyện nhẹ nhàng ở Bethlehem là một thú nhận bi thảm về gia đình Thánh: “ Không có phòng cho họ nơi quán trọ”. Thật ra, Mẹ Maria và Thánh Giuse là những người dân nhập cư. Họ từ Nazareth, một nơi phương Bắc xa xôi. Cho dù Chúa Giêsu đã sinh ra nơi thành phố của tổ tiên là Bethlehem, người cũng đã bị đối xử như một người ngoại quốc. Các quán trọ có thật đã chật chỗ không? Hay đơn giản hơn là họ đã không được tiếp đón? “Không có phòng cho họ”.
Ngày hôm hay Chúa Giêsu vẫn còn cố gắng để được chúng ta tiếp đón trong những người dân nhập cư đến với đất nước của chúng ta, những người con cái Chúa này bị loại bỏ như những người ngoại quốc, cho dù họ đã đến một miền đất giống như tất cả trái đất đều thuộc về Thiên Chúa là Cha của họ.
Đời sống công khai của Chúa Giêsu đầy dẫy những chống đối vì những lời rao giảng và giáo huấn của người. Sự thương xót của Người dành cho dân nghèo và người đau ốm làm dâng cao sự căm phẫn bởi vì Người đã làm những công việc tốt lành vào ngày Sabath. Lời hứa về Thánh Thể của Người đòi hỏi những người lắng nghe Người một là chấp nhận người, hai là loại bỏ Người. Nhiều người đã xoay lưng và bỏ đi. Sự loại bỏ biến thành oán ghét, và oán ghét làm cho điên cuồng, họ đã đóng đinh Chúa Giêsu như là một tội nhân.
Có phải đây là một cú nhảy đức tin quá nhiều để chúng ta nhìn về Chúa Giêsu trong một đội nhân không? Nếu như thế, ít nhất chúng gta không nhớ lời Chúa Giêsu đã tha thứ cho trộm lành có lòng hối cải và tha thứ cho những người đã đóng đinh Người ư? “Họ không biết việc họ làm?” Chúng ta có biết việc chúng ta đang làm cho chúng ta thích phạt và khuyến khích một hành động dẫn chúng ta tới tình trạng dã man không?
Một dụ ngôn Chúa Giêsu đã nói khi xưa vẫn có ý nghĩa với chúng ta hôm nay nếu chúng ta khiêm nhường đủ để cho nó thách đố chúng ta bằng những vấn nạn giống như nhiều người đồng hương của chúng ta, chúng ta yếu ớt trong việc tìm kiếm Chúa trong tha nhân.
17. Có một chủ vườn kia
“Chủ vườn” là từ quan trọng trong dụ ngôn này, cùng với một từ khác tương ứng với từ đó: “hoa trái”. Người chủ vườn này muốn có những hoa trái đặc biệt. Với lòng quan tâm chăm sóc, ông trồng một vườn nho và mong đợi một mùa thu hoạch tốt đẹp, nhưng các tá điền không có vẻ gì là hoạt động cả. Chủ vườn sai đầy tớ tới: tá điền giết chết họ. Thế là chủ vườn thực hiện một hành vi điên rồ: ông sai chính con trai của mình đến và con trai ông cũng bị giết.
Chúng ta biết rằng người con trai này chính là Chúa Giêsu, nhưng vườn nho này là vườn nho nào? Những thợ làm vườn nho là ai? Chúng ta phải làm gì trong câu chuyện này?
Từ một vườn nho ở trên một sườn đồi, dụ ngôn kể chuyện những tương quan giữa Thiên Chúa và con người, điều mà Tin Mừng gọi là Nước Trời: “Ta sẽ là Chúa của các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta”, Chúa đã nói như thế. Đây là món quà đẹp nhất của Thiên Chúa, ông chủ của mọi sự, người thầy của mọi sự.
Thiên Chúa mong ước ban Nước Trời cho chúng ta. Là tình yêu Thiên Chúa muốn làm cho tất cả mọi người thành một dân tộc của tình yêu. Điều này muốn nói lên hai điều luôn luôn liên kết với nhau một cách chặt chẽ: một dân tộc gồm những con cái được Thiên Chuá yêu thương và yêu thương Thiên Chúa; một dân tộc gồm những người anh em yêu thương nhau. Đó là vườn nho và đó là những mùa hái nho.
Để thực hiện dự định vĩ đại này, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc nhỏ làm hạt giống, làm men, đó là Israel. Ngài đã giao phó vườn nho của Ngài, tức là dự án về Nước trời cho dân tộc này.
Thất vọng. Được các vị lãnh đạo tôn giáo dẫn dắt tồi, Israel không sử dụng cho đúng những đặc ân của mình. Chúa sai đến cho Israel những sứ ngôn, những tiên tri, nhưng nước này không nghe họ. Coi thường chủ vườn, các tá điền xấu tin rằng họ có thể một mình làm chủ vườn nho của Chúa. Họ chăm sóc vườn nho không tốt bởi vì các ân sủng của Thiên Chúa chỉ sinh hoa kết quả với Thiên Chúa mà thôi.
Trong một nhiệt tình yêu thương tối hậu, Thiên Chúa sai Con Trai của Ngài để dạy cho các thợ làm vườn nho biết cách làm cho vườn nho của Chúa sinh lợi, biết cách sống vì Nước Trời như thế nào. Nhưng hết rồi, vào cuối Tin Mừng, Chúa Giêsu nhận thấy rằng chính Ngài cũng không được lắng nghe, các nhà lãmh đạo dân chúng muốn bóp nghẹt tiếng nói của Ngài.
Thế rồi Ngài đưa ra một lời đe doạ hoàn toàn không khoan nhượng cho những ai tự xem mình là những người được ưu tiên vĩnh viễn, những người chủ của các ân sủng của Thiên Chúa. Cho tới lúc đó, Chúa thường đe doạ họ và thậm chí sửa phạt họ một cách nghiêm khắc, nhưng không hề có ai dám nói với họ rằng Thiên Chúa sẽ giao phó vườn nho của Ngài cho những người khác. Dầu sao thì đây cũng chính là ý nghĩa của dụ ngôn ghê gớm này mà những từ cuối cùng rơi xuống như một cái máy chém: “Nước Trời sẽ được cất khỏi các ngươi và sẽ được trao cho dân khác làm cho trổ sinh hoa trái”,
Lời đe doạ đã được thực hiện, người Kitô hữu tiếp tục sự nghiệp của người Do thái. Điều này không xoá bỏ sự vĩ đại của dân tộc đã được chọn đầu tiên và vẫn là một dân tộc được chọn này (Rm 11, 28-29). Dân Do thái vẫn tiếp tục loan báo Đấng Tối Cao bằng đức tin sâu xa và thường rất anh hùng của họ. Tiếp theo sau và cùng với dân Do thái chúng ta nên giòng mạc khải Do thái –Kitô giáo. Và dụ ngôn này phải làm cho chúng ta suy nghĩ về sự vĩ đại và trách nhiệm của chúng ta. Thật là một sứ mạng nặng nề! Sống tình yêu, loan truyền tình yêu khắp nơi, tạo ra những kết quả thực sự của Nước Trời. Chúng ta có xứng đáng không? Người Kitô hữu và những nhà lãnh đạo tín hữu có tỏ ra trên khắp thế giới như là những tá điền tốt, những thợ làm vườn nho tốt của ông chủ duy nhất của vườn nho hay không?
18. Hành động và phản ứng.
Những người Biệt phái không sẵn sàng trở lại. Đó là một thái độ thụ động. Nhưng đi xa hơn, họ bước sang hành động quyết định chống lại Đức Kitô. Trong ngụ ngôn thợ làm vườn nho, Thày chí thánh đã mô tả cho chúng ta như sau: Israel là một dân gồm những mục tử và nông dân. Các dụ ngôn Phúc âm là những hình ảnh thu nhặt trong đời sống đồng áng. Trước kia nơi các tiên tri và các thánh vịnh, quốc gia này đã được so sánh với một vườn nho được Thiên Chúa vun trồng săn sóc đặc biệt. Chúa chờ hái lượm những chùm nho chĩu nặng tức là mong thấy bay tỏa hương thơm đạo đức và lòng tùng phục Thiên Chúa. Nhưng ít khi Chúa mãn nguyện. Bây giờ, khi Chúa đến, giờ quyết định của dân tộc đã điểm.
Đó là giờ quyết định thực sự! Bổn phận mà Israel chu toàn lại bị coi như là một cố gắng vô ích sao? Quả thực các vị thủ lãnh dân tộc có một đời sống tôn giáo nông cạn khô khan. Ngoài ra họ bắt đầu công kích Chúa, mặc dầu Ngài đã góp công phục hưng quốc gia. Cha ông họ đã giết các tiên tri, những thừa sai của Thiên Chúa, còn chính họ là con cái lại quyết định giết Chúa.
Theo phương diện lịch sử, giờ quyết định đã điểm vì tất cả quá khứ của Israel hướng về ngay vị cứu tinh xuất hiện. Tất cả những hy vọng quy về vị cứu tinh là tột đỉnh mong đợi. Đây Chúa Cứu Thế đã đến và số phận dân tộc đã biểu lộ. Các thủ lãnh đều có trách nhiệm về điều đó. họ tự quyết chống lại Ngài, vì họ muốn một vị khác đáp lại những đòi hỏi sai lầm của họ. Họ không những đã từ chối, nhưng nhất là công kích đầy căm phẫn nữa. Đấng phải đến cho họ sự phục sinh, lại bị chính họ xử tử.
Lời Chúa đòi p hải có lập trường vững chắc, nhất là khi hành động. Ngược lại với lời nhân loại, lời Chúa bắt phải dấn thân. Người ta có thể gạt bỏ những ý tưởng triết học, gạt bỏ hệ thống suy luận của một tư tưởng gia hay những tác phẩm của văn sĩ. Người ta ít chú ý đến những thứ đó, nên một năm khó lòng mua được một số sách, do đó nhiều khi sách vở phải bán theo giá giấy. Trái lại lời Chúa, tiếng gọi và đòi hỏi, đòi phải chọn lựa khi nghe biết. Không chú ý đến lời Chúa là phủ nhận lời Chúa và như vậy là gạt Chúa sang một bên. Làm như thế tức là tiến thêm một bước nữa về sự dữ. Trong khi chối từ những gì đem lại ơn cứu độ, người ta tự ý hướng về tình trạng khai trừ. Kitô giáo, không phải chỉ loan báo những chân lý để bàn luận hay xác định lập trường tùy tiện. Thiên Chúa mời gọi chúng ta, muốn chúng ta dấn thân phục vụ Ngài. Vì thế từ chối có nghĩa là nổi loạn. Lời Chúa là nền tảng cho đời sống. Ai chối bỏ là chối bỏ chính Chúa: Hòn đá không ở một nơi, nhưng theo Đức Kitô, hòn đá đó sẽ nghiến nát ai chối bỏ nó để ở lại giữa loài người.
Tình trạng cuộc sống không bất động: mỗi hành động nhân loại đều được Thiên Chúa đáp ứng cách khác nhau. Thực ra, Ngài không chỉ sửa phạt, Ngài sẽ không tiêu diệt những ai từ chối, nhưng đôi khi Ngài chịu đựng để biến đổi sự dữ thành sự lành. Trước hành động của kẻ thù, Ngài phản ứng lại theo đức công bình và nhất là phản ứng theo lòng yêu thương.
Adam từ chối Thiên Chúa đã gọi mình, nên đánh mất Thiên Đàng, nhưng đồng thời ông lại được hứa Đấng Cứu Thế. Lỗi phạm, nhờ ơn sủng biến thành lỗi có phúc. Đại hồng thủy đưa đến giao ước với Noe. Tháp Babel biểu thị sự chia rẽ nhân loại, cũng biểu thị ơn gọi của Abraham là người biến Israel thành dân duy nhất của Chúa. Việc bán Giuse sang Ai Cập trở nên sự cứu độ cho anh em. Pharaon cứng lòng đưa dân Chúa đến việc ký kết giao ước với Thiên Chúa. Lịch sử tiếp tục thể hiện cho tới lúc Israel từ chối Đức Kitô, đóng đanh Chúa họ trên núi Calvariô. Sự thất bại tuyệt đối đã được ân sủng tác động để hình thành giao ước mới với toàn thể nhân loại, và hy tế cứu độ của Chúa. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, máu các vị tử đạo không ngừng trở nên hạt giống làm trổ sinh những kitô hữu mới. Cho tới ngày chung cuộc, việc xuất hiện người chống lại Đức Kitô sẽ kêu mời Đức Kitô tái giáng. Trái đất bị chúc dữ sẽ báo hiệu một thế giới mới, để tất cả tăm tối sẽ bị ánh sáng toàn thắng. Tất cả sự chết sẽ bị sự sống thống trị, tội lỗi sẽ bị ơn sủng chế ngự. Hòn đá bị thợ ném đi, được Chúa can thiệp để trở nên hòn đá góc. Và nước Chúa được ban cho một dân tộc ưu tú mới, vườn nho được phó thác cho những người thợ mới; những người ấy nhờ tác động của ơn sủng, sẽ gặt hái hoa trái chín mọng do ơn Chúa. Vậy, những hầm rượu và kho lẫm Thiên Chúa được tràn đầy phong phú, rồi những kẻ ưu tú được lệnh trao hoàn cho Ngài. Tất cả biến thành ơn sủng.
19. Chủ vườn nho
Số phận của những kẻ chống lại chủ vườn nho sẽ như thế nào?
Mặc dù đoạn Tin Mừng không nói rõ, nhưng chúng ta cũng thấy được qua câu trả lời của những người nghe Chúa Giêsu:
- Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ đến mùa, họ sẽ nộp phần hoa lợi.
Từ câu trả lời này, chúng ta bước vào lãnh vực siêu nhiên. Vậy số phận của những kẻ chống lại Thiên Chúa sẽ như thế nào? Chúa Giêsu cũng đã từng lên tiếng về vấn đề này:
- Viên đá bị thợ xây loại bỏ, sẽ trở thành viên đá góc tường. Hễ ai vấp ngã trên viên đá này, thì kẻ ấy sẽ bị dập nát và hễ viên đá này đè lên ai, thì kẻ ấy sẽ bị tan xương.
Câu nói này làm cho chúng ta liên tưởng tới lời cảnh cáo của Chúa Giêsu được gửi tới cho Phaolô trên con đường đi Đamas:
- Khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Kinh nghiệm đau thương này đã được thực hiện qua giòng thời gian nơi các dân tộc cũng như nơi những cá nhân.
Trước hết là nơi các dân tộc.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình. Trường hợp thứ nhất, đó là trường hợp của dân Do Thái.
Trong Cựu ước, họ là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và yêu thương cách đặc biệt. Thế nhưng mỗi khi họ quay lưng chống lại Ngài, bằng cách sống bê tha tội lỗi và nhất là quì gối thờ lạy những thần tượng nhảm nhí, thì lập tức đất nước họ bị quân thù dày xéo còn bản thân họ thì bị đi lưu đày, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trong Tân ước, họ là một dân tộc được nghe những lời Ngài truyền dạy và được thấy những việc kỳ diệu Ngài đã làm, thế nhưng cõi lòng họ vẫn chai đá, để rồi những lời Chúa cảnh cáo chỉ là như một thứ nước đổ đầu vịt mà thôi. Họ chống đối Chúa, họ vu oan cho Chúa và sau cùng họ đã giết chết Chúa một cách ô nhục trên thập giá. Nhưng rồi sau đó vào năm 70, thủ đô Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa dưới sức mạnh của quân đội La Mã do tướng Titus chỉ huy. Còn bản thân họ thì phải rời bỏ quê hương, tản mát khắp bốn phương trời, mãi cho đến năm 1950, nhờ áp lục quốc tế, họ mới được trở về khôi phục lại đất nước, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trường hợp thứ hai là nước Pháp trong cuộc cách mạng vào năm 1789. Những kẻ khởi xướng cho cuộc cách mạng này đã bài xích Giáo hội, chối bỏ Thiên Chúa, coi lý trí là thần tượng tuyệt đối có thể giải quyết được mọi vấn đề. Thế nhưng hậu quả mà cuộc cách mạng này đã đem lại như thế nào thì lịch sử đã cho chúng ta thấy: máy chém mọc lên ở khắp nơi, rồi cướp của giết người xảy ra ở khắp chốn, đến nỗi chịu không nổi cảnh tượng hỗn độn vô trật tự ấy, Robespierre đã phải truyền dán trên khắp các ngả dường những tấm bích chương với hàng chữ: Nhân dân Pháp tin vào Thiên Chúa. Quả thực, khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Bây giờ xuống tới lãnh vực cá nhân, số phận của những kẻ chối bỏ Thiên Chúa cũng không hơn gì. Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất là trường hợp của Mirabeau. Ông là người đi tiên phong cho cuộc cách mạng Pháp, hăng hái đả phá Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau đó, ông đã phải đau khổ và tuyệt vọng, nhất là khi phải đối đầu với cái chết. Ông đã chết bằng một cái chết đớn đau và điên khùng.
Trường hợp thú hai là trường hợp của Voltaire. Suốt đời, ông đã tìm cách hạ bệ Thiên Chúa và Giáo hội. Chính ông vào năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã hết thời. Đúng hai mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết một cách thê thảm, tru tréo như một con chó dại, đến nỗi bà giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ có thể chết, thì cũng không chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn còn mãi, nhưng khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Từ những sự việc cụ thể xảy ra cho cá nhân cũng như cho dân tộc, tôi muốn đi tới một kết luận:
- Xe trước đã đổ, thì xe sau phải coi chừng.
Xem người phải nghĩ đến thân, bẳng không, nếu cứ bình chân như vại, đắm chìm trong tội lỗi, chắc chắn số phận chúng ta cũng sẽ không hơn gì bởi vì chủ vườn nho sẽ triệt hạ hết những kẻ xằng bậy và sẽ trao vườn nho cho người khác. Như thế có nghĩa là Nước Trời sẽ bị cất khỏi bàn tay chúng ta, đề rồi chúng ta sẽ bị trầm luân muôn kiếp.
20. Làm việc
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa, được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sữ vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu như Elia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá điền làm vườn nho. Bài Tin Mừng cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác biết đết. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là “vị thiên thần dễ tính” kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: “Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khoẻ ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tới những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên nước trời.
21. Loại bỏ
Trước đây, có một nhân vật đã nhìn vào lịch sử nhân loại và đưa ra những con số như sau: từ năm 1496 BC, trước công nguyên, tới năm 1861 AD, trong 3358 năm, đã có 227 năm hoà bình, và 3130 năm chiến tranh. Như vậy cứ 13 năm chiến tranh, mới có một năm hoà bình. Trong ba thế kỷ, 16, 17 và 18 đã có 286 cuộc chiến xảy ra ở Âu Châu. Từ năm 1500 BC, trước công nguyên, tới năm 1860 AD, đã có hơn 8000 hiệp ước về hoà bình đã được ký kết.
Nhận xét trên đây về tình trạng của nhân loại đã được đưa ra hơn một thế kỷ rồi, chưa kể đến hai cuộc thế chiến, những cuộc chiến tranh kéo dài về ý thức hệ, chủng tộc và khủng bố ở thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Thế kỷ 20 sẽ được coi như thời đại mưu sát khổng lồ sinh mạng con người.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về vườn nho với những hành động bạo lực, bắt bớ, đánh đập, ném đá và giết người của các tá điền. Trong Cựu Ước, vườn nho là hình ảnh của dân Thiên Chúa, dân Do Thái, như đã được diễn tả trong sách tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Irael”. Trong cái nhìn của Tân Ước, khi Chúa Giêsu nói với các thầy thượng tế và kỳ lão rằng: “Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái”. Chúng ta phải nghĩ đến hình ảnh vườn nho là cả nhân loại, gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới.
William Barclay đã cắt nghĩa dụ ngôn những tá điền sát nhân trong ba chiều hướng: chủ vườn nho là Thiên Chúa, những tá điền làm thuê là những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái, những người đầy tớ và con trai ông chủ là những sứ giả, các tiên tri và Chúa Giêsu Kitô.
Thiên Chúa trong vai trò ông chủ vườn nho rất tin tưởng vào những tá điền để trao cho họ sứ mạng trông coi vườn nho. Ngài rất kiên nhẫn và bao dung, gửi các tiên tri và sứ giả đến qua bao nhiêu thế kỷ để nhắc nhở và khuyên bảo, nhưng cũng đã bị đối xử tàn bạo. Sau cùng, Ngài gửi chính con trai đến, rồi cũng bị giết chết. Đến lúc này mới là phán quyết của Thiên Chúa trao vườn nho lại cho các dân tộc khác.
Những người tá điền làm vườn nho trong bài Phúc Âm là những người bạo lực và ích kỷ. Họ đã giết bao nhiêu sứ giả và các tiên tri của Thiên Chúa gửi đến kêu gọi xây dựng một xã hội hoà bình, công chính và thương yêu.
Họ là những ai trong thời đại chúng ta? Họ là những chủ nhân làm giầu qua việc sản xuất vũ khí tối tân, thúc giục chiến tranh trên thế giới thay vì giúp đỡ những quốc gia kém mở mang chống lại nghèo đói, bệnh tật và bất công. Họ nâng đỡ những chế độ độc tài để bóc lột dân chúng vì quyền lợi riêng tư của họ. Họ là những chủ nhân bóc lột sức lao động của công nhân với tiền lương rẻ mạt ở những nước kém phát triển…
Năm 1492, Columbus thả buồm ra biển khơi. Ông đã cập vào quần đảo của người Hispaniola, giữa Cuba và Puerto Rico, với dân số 100.000 người. Thổ dân da đỏ niềm nở ra chào đón những nhà thám hiểm của Phương tây. Columbus đã nhìn thấy họ đeo những nữ trang bằng vàng và báo cáo cho vua Ferdinand biết rằng vũ khí của thổ dân này rất đơn sơ, chỉ cần một nhóm lính Tây Ban Nha được trang bị vũ khí cẩn thận, cũng có thể bắt ép họ làm nô lệ trong những mỏ vàng để phục vụ cho ngân khố của Tây Ban Nha. Trong 15 năm, sự cai trị của Tây Ban Nha đã làm giảm dân số của người Hispaniola từ 100.000 xuống còn 15.000 người. Những việc lao nhọc dã man đã đè nặng trên những người nô lệ của Tân Thế Giới này là một hình thức diệt chủng tàn bạo phát xuất từ những nền văn minh trọn hảo. Những người lính phục vụ trung thành đã kiếm được rất nhiều tài sản và đồn điền.
Một ngày kia, chàng thanh niên tên là Bartolomeo de las Casas đã nghe một bài giảng của linh mục dòng Đaminh. Ngài đã nói những sự đối xử tàn bạo đó đối với người khác là ghê tởm, trái với đạo lý của Kitô giáo. Những người địa chủ Tây Ban Nha cười nhạo ngài, nhưng de cas Casas đã ăn năn trở lại. Anh trao trả tự do cùng với đất đai cho những người nô lệ. Sau này, anh đi tu trở thành linh mục, và lễ thụ phong của linh mục Bartolomeo là thánh lễ truyền chức đầu tiên ở Tân thế Giới.
Bartolomeo phục vụ như một linh mục của những người cai trị Tây Ban Nha, nhưng ngài rất thương mến những người thổ dân da đỏ. Ngài nói rằng những hạt lúa mì đã được trồng xuống, chăm nom, và gặt hái bởi những người nô lệ đã tạo nên tấm bánh được bẻ ra trong Bí tích Thánh Thể. Khi ngài bẻ bánh, ngài nhìn thấy máu của những người nô lệ chảy xuống.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải trở nên những người đầy tớ của Thiên Chúa. Phải xây dựng vườn nho bằng tình yêu thương và sự hy sinh chính thân mình cho tha nhân, như chính Ngài đã cầm lấy tấm bánh bẻ ra và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta”.
Để xây dựng trật tự xã hội phải lấy chính nhân phẩm con người như một tạo vật “giống hình ảnh của Thiên Chúa” làm trọng tâm như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Chính từ giá trị con người mới phát sinh ra giá trị xã hội, chứ không phải từ giá trị xã hội mà có giá trị con người”.
Phải trở về với những giá trị Kitô giáo để kiến tạo hoà bình. Một tác giả tôi không nhớ tên đã khuyên rằng: “Những giá trị giống như những dấu tay. Không ai giống nhau. Nhưng bạn để lại chúng trên mọi sự bạn hành động”. Phải, thời đại này đã để lại những giá trị của mình khắp nơi trên thế giới qua những nhãn hiệu Coca-Cola, kẹo chewing-gum, sách báo phim ảnh khiêu dâm, tự do tình dục, mãi dâm, nhạc rock’n’roll, rap-talk, tiền đôla, xe hơi Cadillacs, điện thoại cầm tay, computers, phi thuyền không gian, vũ khí nguyên tử, phá thai, an tử và trợ tử… Tất cả những điều này nói lên những giá trị của thời đại văn minh hiện nay. Thật đáng tiếc! Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi nền văn minh này là “văn hoá của sự chết”!
22. Loại bỏ
Vở ca nhạc kịch (opera) “Miss Saigon” là một bản phóng tác từ câu chuyện ngắn “Madam Butterfly” của văn sĩ John Luther Long vào năm 1898 đăng trên tạp chí “Thế Kỷ”. Một câu chuyện cũ được đưa vào trong bối cảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong màn thứ nhất, một cô gái bán bar yêu một chàng lính Mỹ GI. Họ kết hôn với nhau, thề hứa yêu thương trọn đời. Hết nhiệm kỳ, chàng bó buộc phải rời nàng trở về Mỹ, nhưng hứa sẽ trở lại khi chiến tranh chấm dứt. Nàng là một cô gái nhà quê đơn sơ, vô tội và chịu đựng. Tình yêu của nàng dành cho chàng lính Mỹ hoàn toàn vô điều kiện, yêu thương hết lòng. Chàng lính Mỹ trở về nước mà không biết rằng vợ đang mang thai, một bé trai. Nàng âm thầm dấu kín và hết sức bảo vệ người con trong khi chịu đựng mọi tủi nhục.
Màn thứ hai giới thiệu một cơ quan phục vụ nhằm đi tìm những người lính Mỹ GI, cha của những trẻ em Mỹ lai. Khi câu chuyện tiếp diễn, chàng lính Mỹ đã kết hôn lần nữa ở Mỹ. Anh rất hạnh phúc, mặc dù anh vẫn mơ ước gặp lại Miss Saigon. Nhân viên thiện nguyện tìm được anh. Anh phải nói cho vợ biết về Miss Saigon và đứa con trai. Anh và vợ cùng đi về Việt Nam để sắp xếp vấn đề cho êm thắm. Miss Saigon đã gặp vợ của anh, cô quá xúc động không nói lên lời, chỉ xin vợ anh đưa đứa bé về Mỹ và tạo cho nó một đời sống mới mà nàng không thể làm được.
Màn kết thúc, Miss Saigon mặc quần áo đẹp cho con trai nàng, một đứa bé khôi ngô tuấn tú, để trao lại cho ba nó và mẹ ghẻ. Trong giây phút lưu luyến yêu thương nhất nàng hôn con và nói “Xin con đừng quên mẹ, sau này con sẽ hiểu”. Đứa bé trai bước đi theo ba nó và mẹ ghẻ với vòng tay mở rộng. Miss Saigon biến mất sau bức màn. Đùng!!! Một phát súng đã nổ. Nàng đã tự tử chết; chàng lính Mỹ GI chạy vội vào trong, ôm nàng lên, anh rên rỉ đau khổ…
Nhà văn John Bradshaw đã nói lên phản ứng cá nhân của ông đối với vở ca nhạc kịch Miss Saigon như sau: “Thình lình, ông bật khóc nức nở trong phần kết thúc của bi kịch, ông bắt đầu xúc động vì vở kịch đưa ông vào câu chuyện yêu thương và hận thù của chính cuộc đời ông, đám cưới đổ gẫy của cha mẹ ông, nỗi đau thời thơ ấu của ông. Ông bắt đầu đồng hoá mình với đứa bé vô tội trong số phận thảm thương do cuộc tình của cha mẹ. Ông nghĩ về những người ông đã yêu, và đặc biệt là người đã bỏ ông! Ông nhớ mãi nỗi đau thương đó! Nó giống như một người nào đó đã đóng một cái đinh sắt khổng lồ vào giữa lồng ngực của ông. Chỉ trong một giây phút ông có thể cảm thấy mất thở vì đã bị từ chối…”
Ông nghĩ về thân phận đau khổ của mẹ mình. Làm thế nào người phụ nữ 26 tuổi lại có thể một thân mình nuôi được ba người con. Bà lao động vất vả để nuôi gia đình. Bà lại là một người Công giáo đạo đức. Đức tin không cho phép bà tái hôn. Từ lúc cha của Bradshaw bỏ bà ra đi, bà chưa bao giờ đụng vào một người đàn ông nào. Bradshaw nói: “Thật là một đức tin khó tả! Một lời đoan hứa cho những niềm tin. Và cũng thật đau khổ khủng khiếp khi bà bị từ chối!”
Chúa Giêsu cũng đã bị từ chối. Đây là điều bản văn Thánh Kinh đã nói với chúng ta: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Chúa Giêsu đã trích lại lời Thánh Vịnh 118:22-23 để áp dụng cho chính Ngài.
Con người khi bị từ chối, bỏ rơi, thường rất tuyệt vọng và đau khổ như trong trường hợp của Miss Saigon. Chúa Giêsu cũng rất đau khổ, nhưng không tuyệt vọng. Trong cùng một hoàn cảnh giống như con người nhưng Ngài đã tìm thấy niềm hy vọng. Chúa Giêsu Đấng đã bị từ chối, nhưng đã trở nên Đấng Cứu Thế. Và Thánh Kinh kết luận: “Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”.
Đây chính là điểm mang lại niềm hy vọng cho tất cả những ai có cảm giác bị từ chối, và bị loại bỏ. Nó được tìm thấy ý nghĩa trong tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Nó mang lại hy vọng khi chúng ta đặt tất cả sự nghi ngờ và lo sợ trên bàn thờ của Thiên Chúa và xin Ngài chữa lành những thương tích của chúng ta.
23. Hãy trả tiền thuê của bạn
Trong cuộc sống có rất nhiều sự bất công, đôi khi họ đạp lên cả lẽ phải và sự công chính để thực hiện mưu đồ điều ác của mình. Hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta về người chủ nhà làm mọi cách có thể để vườn nho của ông sản xuất trái nho. Rồi ông giao cho tá điền thuê, nhưng kết quả là một sự thiệt hại về cả vật chất lẫn tinh thần. Nó được thể hiện rỏ nhất khi chủ nhà sai những đầy tớ đến thu phần hoa lợi, thì những tá điền bắt các đầy tớ mà đánh đập và giết chết. Không những thế, khi chủ nhà lại sai chính con ông thì họ cũng giết cậu. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông chủ nhà sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và cho những tá điền khác thuê vườn nho mà họ biết chia phần hoa lợi.
Bài học trong câu chuyện thật dễ hiểu đối với thính giả thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do Thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết các sứ giả của Thiên Chúa và đóng đinh chính con của Ngài chết trên thập giá.
Ngày hôm nay, có nhữngtá điền mới trong vườn nho của Ngài, những công dân mới trong nước Thiên Chúa đó chính là chúng, những người được lựa chọn, những người được mời gọi. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải trả một loại "tiền thuê", một loại "dịch vụ", một loại "nợ" về ân huệ gia nhập dân Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa muốn không phải vì Ngài thiếu. Nhưng Ngài muốn là lòng biết ơn của ta đối với Đấng đã cưu mang, điều đó được thể hiện qua việc chúng ta tuân giữ lề luật của Ngài. Thực vậy, mọi sự mà các giới răn đòi hỏi chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa, ngay như những hoa lợi mà chủ nhà đòi hỏi đã thuộc về của ông.
Khi Thiên Chúa trao vườn nho cho mỗi người, thì chúng ta phải có bổn phận đáp trả sao cho xứng đáng, có thể chúng ta đang là những tá điền gian ác, bất công... Chúng ta có những hành động đó vì những cám dỗ nơi của cải trần gian, danh lợi thế tục mà chúng ta bị che mờ, bị mù quang cứ lao đầu như con thiêu thân làm hết chuyện ác này đến điều ác khác
Các giới răn là tiền lương, tiền thuê, tiền thuế, nếu bạn muốn gọi là thế, mà chúng ta phải trả cho bổn phận trong nước Thiên Chúa. Ở đây, bây giờ, bạn hãy xin Ngài giúp bạn thi hành sự trả nộp đó, nghĩa là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài với lòng biết ơn và yêu mến.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra mình đang là những ta điền trong vườn nho của Chúa, để con biết được thân phận hèn mọn của mình mà ca tụng Chúa mỗi ngày trong đời con. Amen.
24. Hãy trả tiền thuê của bạn
Đức Giáo Hoàng Piô X lãnh đạo Giáo hội công giáo từ năm 1904 đến năm 1914. Chúng ta kính nhớ Ngài về việc làm thăng tiến nền giáo dục công giáo, khuyến khích rước lễ lần đầu vào tuổi sớm hơn, và đời sống thánh thiện của Ngài. Ngày nay chúng ta tôn kính Ngài là thánh Piô X. Khi làm cha phó ở Tombolo, Italia, Ngài đã lưu ý đến nhiều thanh niên không biết đọc biết viết. Do đó họ không kiếm được địa vị hay công việc thích hợp. Vị giáo hoàng tương lai tuyên bố: “Chúng ta sẽ mở trường học đêm. Trường sẽ chia ra hai nhóm: một nhóm do các giáo viên địa phương hứơng dẫn, là nhóm khá hơn gồm những người đã biết đôi chút. Tôi sẽ phụ trách những người khó dạy hơn”. Các thanh niên rất thích thú, nhưng một người trong nhóm họ đã muốn biết: “làm thế nào chúng ta có thể trả chi phí về việc này?”. Vị linh mục thánh thiện giải thích: “Bạn đừng lo. Tiền học là chỗ bạn không chửi thề”.
Để tỏ cho chúng ta biết nước Thiên Chúa giống như cái gì, Chúa Giêsu vừa kể cho chúng ta về người chủ nhà làm mọi cách có thể để vườn nho của ông sản xuất trái nho. Rồi ông giao cho tá điền thuê. Khi chủ nhà sai những đầy tớ đến thu phần hoa lợi, thì những tá điền bắt các đầy tớ mà đánh đập và giết chết. Chủ nhà lại sai chính con ông thì họ cũng giết cậu. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông chủ nhà sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và cho những tá điền khác thuê vườn nho mà họ biết chia phần huê lợi.
Ý nghĩa câu chuyện thật rõ ràng đối với thính giả thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết các sứ giả của Thiên Chúa và đóng đinh chính con của Ngài chết trên thập giá.
Rồi Thiên Chúa kêu mời những người ngoài Do thái, là bạn và tôi, làm những tá điền mới trong vườn nho của Ngài, làm công dân mới trong nước Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải trả một loại “tiền thuê”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Thiên Chúa. Những thanh niên trong câu chuyện cảm thấy họ hàm ơn linh mục trẻ, thánh Piô X tương lai, vì họ được làm thành viên trong lớp học của Ngài. Tất cả điều Ngài đòi hỏi là họ không được kêu tên Chúa vô cớ. Trong khi làm cho chúng ta nên thành viên của nước Ngài, thì tất cả điều Thiên Chúa đòi hỏi là chúng ta tuân giữ lề luật của Ngài. Thực vậy, mọi sự mà các giới răn đòi hỏi chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa, ngay như những hoa lợi mà chủ nhà đòi hỏi đã thuộc về của ông.
Trong giới răn thứ nhất, Thiên Chúa đòi hỏi phải tôn thờ sùng phụng. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa ngay chính và qua thánh lễ này. Đấng tối cao có quyền đòi hỏi tôn vinh Ngài. Một ngày trong tuần đòi hỏi tôn vinh Thiên Chúa, Ngài đòi hỏi thánh hóa ngày đó như phần đền đáp lại của bổn phận trong nước Ngài. Thiên Chúa đã giao quyền bính cho cha mẹ và thầy dạy chúng ta. Bởi vì các Ngài thay mặt Chúa nên các Ngài đang được chia sẻ cho một số người được quyền năng tạo dựng những con người mới. Đấng tối cao che chở bảo vệ phái tính. Mọi của cải tùy thuộc Thiên Chúa. Trộm cắp là lấy mất cái gì nơi Thiên Chúa.
Các giới răn là tiền lương, tiền thuê, tiền thuế, nếu bạn muốn gọi là thế, mà chúng ta phải trả cho bổn phận trong nước Thiên Chúa. Ở đây, bây giờ, bạn hãy xin Ngài giúp bạn thi hành sự trả nộp đó, nghĩa là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài với lòng biết ơn và yêu mến.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
25. Tá điền và vườn nho
Có một bản tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả tự do lạm thời, nhờ hạnh kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha mẹ, nên em này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử tốt đẹp như năm người con khác trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ nuôi cũng như anh chị em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em cảm nhận được tình yêu thương chân thành trong gia đình mới.
Một hôm, em được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với lời nhắn nhủ là “hãy trở về nhà trước 11 giờ khuya”. Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ nuôi của em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới nhà. Không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ nuôi chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để cha mẹ không phải lo lắng đợi chờ con nữa”.
Sáng hôm sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ nuôi ở nhà, và bất ngờ, người thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến lại đập đầu người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận và người cha nuôi của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ thốt lên một lời: “Nó đã giết chết người vợ thân yêu của tôi. Đây là một hành động vô ơn tột cùng”.
Sự việc trên có thể giúp chúng ta phần nào hiểu thấu được dụ ngôn: “Người tá điền và vườn nho” được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là thái độ vô ơn tột cùng của những người giữ vườn nho đáng trách, họ đã khước từ và giết hại những người làm mà ông chủ sai đến, rồi cuối cùng họ cũng giết chết luôn cả người con của ông chủ.
Thái độ vô ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, qua đó nhắc nhở chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với Thiên Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha thứ những lỗi tầm của chúng ta, một khi chúng ta biết trở về với Ngài.
Mặt khác, Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài, để chúng ta làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp. Hơn nữa, Ngài đã không ngừng sai những sứ giả của Ngài đến để nhắc nhở chúng ta tích cực chăm sóc vườn nho cho Ngài. Vì thế chúng ta phải có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng, có thể thay vì dâng cho Ngài những chùm nho ngon ngọt, thì chúng ta lại có những thái độ thù nghịch chống lại Ngài, chống lại Thiên Chúa, chống lại những sứ giả mà Ngài đã sai đến với chúng ta.
Vậy, thử hỏi còn điều gì có thể làm được cho con người mà Thiên Chúa đã không làm để cứu rỗi, để hướng dẫn và ban hơn nữa cho chúng ta hay không?
Chính Ngài đã sai Con Một Ngài đến cứu rỗi chúng ta, và hy vọng con người sẽ không giết hại Con Ngài, nhưng sẽ tắng nghe lởi Người: “Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời Ngài”.
Thật thế những kẻ vô tâm, bất nhân bất nghĩa đã làm việc bất nhân, thay vì dâng lời cảm lạ Thiên Chúa thì lại giết chết Con Thiên Chúa, giết chết người ân nhân vĩ đại của cuộc đời mình. Xin Chúa ban ơn biến đổi cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết tắng nghe liếng Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ khẩn cầu Chúa ban cho mỗi người chúng con được bắt chước gương sống của Mẹ: Khiêm tốn, vâng phục, chấp nhận thưa “xin vâng” với Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài truyền”. Nhất là chúng con xin Mẹ giúp cho mỗi người chúng con luôn luôn sống trong thái độ biết ơn Thiên Chúa, cố gắng hết mình để làm vườn nho mà Ngài đã trao phó cho mỗi người chúng con, để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Xin Thiên Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
26. Được và mất
Chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” kể rằng: Một hôm, lừa đang gặm cỏ, bỗng thấy Sói phi nước đại phóng tới. Lừa giả bộ đi khập khiễng. Khi Sói đến gần, hỏi nó vì sao bị thọt chân, thì Lừa trả lời:
- Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc gai.
Rồi Lừa đề nghị Sói trước khi ăn thịt mình hãy nhổ gai ra đã, để khỏi bị gai đâm.
Sói tin lời, Lừa giơ cao chân để Sói soi mói kỹ lưỡng các móng chân Lừa. Lừa thừa cơ đạp mạnh vào mõm Sói rồi bỏ chạy.
Sói bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.
- Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ chuyên ăn thịt, chứ đâu dạy ta làm thày lang!
Nếu chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng ta một bài học, thì chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” muốn nói với chúng ta: Kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh hậu quả bi thảm.
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn “Những người thợ làm vườn nho”. Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng tinh thần, của cải vật chất, để chúng ta đem hoa lợi về cho Người. Thiên Chúa còn tôn trọng chúng ta, Người để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc, theo sáng kiến riêng của mỗi người. Thánh Matthêu viết: “Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa”. Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.
Khốn thay, có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá điền ấy đã ngược đãi và sát hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm chí, đến lần thứ ba chúng giết luôn cả con trai ông. Họ làm như thế là để chiếm lấy gia tài của chủ. Hậu quả là: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”.
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để chúng ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để chúng ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của chúng ta, là để chúng ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho chúng ta các tài năng là để chúng ta sinh lợi cho phần rỗi mình. Nếu chúng ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác. Nỗi bất hạnh ấy chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!
Sẽ đến ngày chúng ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó. Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc chúng ta đang làm hôm nay. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm, hay đã cản trở không cho người khác làm”.
27. Tá điền vườn nho
Nhân cơ hội các thượng tế và các kỳ lão chất vấn Chúa Giêsu về việc Người lấy quyền nào mà đánh đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để nói với các ông như những lời cảnh giác về sự cứng lòng của họ. Dụ ngôn tá điền gian ác là một trong ba dụ ngôn ấy.
Như đã nói ở trên, câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu kể trực tiếp nhắm vào các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho là dân riêng của Chúa. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Cuối cùng ngay cả Người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá. Họ nghĩ rằng chỉ khi làm như thế họ mới chiếm đoạt được trọn quyền thừa kế và hưởng lợi lộc từ vườn nho.
Ý nghĩa cụ thể của dụ ngôn là như thế. Nhưng chúng ta cần nội tâm hóa câu chuyện để có thể lắng nghe được tiếng gọi của Thiên Chúa dành cho chính mình chứ không phải chỉ cho những người xa lạ ở vào những thời đại xa xưa.
Như ông chủ trao phó vườn nho cho các tá điền, Thiên Chúa cũng tín nhiệm trao phó cho ta chăm sóc những vườn nho của Người. Vườn nho ấy là chính cuộc đời của riêng ta, là những cộng đoàn mà ta phải phục vụ, là những trách nhiệm mà ta phải hoàn thành.
Như ông chủ vườn nho đã dựng hàng rào, đã xây tháp canh để bảo vệ vườn nho, đã lắp đặt máy ép nho để giúp cho công việc của tá điền được dễ dàng, nhờ đó họ có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Khi trao cho ta những nhiệm vụ, Thiên Chúa cũng ban cho ta phương tiện là những ân huệ cần thiết để chúng ta thực hiện tốt công việc được trao.
Trao vườn nho rồi, ông chủ đi xa một thời gian. Ông tin tưởng các tá điền sẽ làm cho vườn nho sinh hoa kết trái. Thiên Chúa cũng tin tưởng ở chúng ta khi trao cho chúng ta những trách nhiệm. Người không trực tiếp giám sát chúng ta như những anh công an. Người cũng không phải là một ông chủ chuyên chế áp đặt tự do và giết chết sáng kiến của chúng ta. Người tôn trọng chúng ta như những người trưởng thành và để chúng ta tự do làm việc. Người tin tưởng ở tinh thần trách nhiệm của chúng ta.
Sau một thời gian vắng nhà, khi trở về, ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoa lợi của vườn nho. Sẽ tới ngày chúng ta cũng phải tính sổ với Thiên Chúa về những công việc được trao phó. Người hỏi chúng ta về hoa trái của những công việc đã được trao. Người hỏi chúng ta về tinh thần trách nhiệm.
Những người tá điền đã giết chết các tôi tớ của ông chủ. Hành vi này tượng trưng cho sự khước từ Thiên Chúa của chúng ta. Có thể chúng ta đã từng loại trừ Thiên Chúa vì nghĩ rằng Người là một ông chủ hà khắc, hay đòi hỏi, hay quấy nhiễu con người.
Thay vì tiêu diệt các tá điền, ông chủ lại sai thêm các đầy tớ khác. Điều này nói lên lòng nhân từ và sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người không trừng phạt chúng ta khi chúng ta phản nghịch và chống lại Người, nhưng Người ban cho ta nhiều cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm và để trả lời cho tiếng gọi của Người.
Không nhận ra được lòng nhân từ của ông chủ, những người tá điền lại giết chết cả những anh đầy tớ này. Đó chính là thái độ cố chấp sống trong tội lỗi của chúng ta. Tội lỗi là sự bất tuân lệnh của Thiên Chúa, là cố ý chống lại Thiên Chúa, cố ý đi ra khỏi con đường của Người.
Không ngã lòng, ông chủ còn sai con trai mình đến với những người tá điền. Và họ cũng giết chết luôn cả anh con trai này. Họ bàn bạc với nhau rằng: Phải giết anh con trai thừa tự này đi để chúng ta chiếm lấy vườn nho. Thì ra tội lỗi của những người tá điền không phải là không làm cho vườn nho sinh hoa kết trái mà là muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Thiên Chúa đã dùng mọi phương cách để cứu vớt con người. Người đã chơi ván bài chót là liều hy sinh chính Con Một của Người để thức tỉnh con người. Nhưng con người luôn muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình để có thể sử dụng cuộc đời, để định đoạt mọi sự theo ý mình muốn. Chúng ta làm việc này việc khác không phải vì quyền lợi của Thiên Chúa mà chỉ vì ích lợi của bản thân mình. Chúng ta muốn chiếm đoạt những gì thuộc về Thiên Chúa để làm của riêng mình.
Chính trong ý nghĩa nói trên mà câu chuyện dụ ngôn cũng là câu chuyện của đời thường và câu chuyện của ngày xưa cũng là câu chuyện của ngày hôm nay. Hàng ngũ lãnh đạo Do thái giáo ngày xưa đã loại trừ và đã giết chết Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để chỉ cho họ con đường về Trời. Vụ án giết Con Thiên Chúa vẫn còn kéo dài qua mọi thời cho tới ngày hôm nay. Và lý hình giết con Thiên Chúa có thể là mỗi người chúng ta. Điều đó thật là đáng sợ.
28. Siêng năng làm việc
(Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa. Những người làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được chuyển sang cho một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công Giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu như Ê-li-a, Ê-li-sa, I-sa-i-a,
Giê-rê-mi-a, Gio-an Tiền Hô... cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá điền làm vườn nho.
Bài Tin Mừng cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác biết đến. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là "vị thiên thần dễ tính" kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: "Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường". Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giả biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: "Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu". Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hàng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thât vui tươi hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên Nước Trời.
29. Những sợi dây và những chiếc cầu
(Mark Link)
Chủ đề: “Dụ ngôn chủ vừơn nho là một bản tóm lược lịch sử Chúa cứu độ chúng ta”.
Chiếc cầu treo Melrose bắc trên sông Niagara ở Nữu Ước nối liền Gia Nã Đại và Hiệp Chủng Quốc. Người ta nói rằng chiếc cầu này đã được thiết kế như sau:
Trước tiên người ta thả một cái diều cho nó bay ngang qua sông. Cái diều đó được cột vào một sợi dây, tiếp theo, sợi dây này được cột lại vào một sợi thừng và đến lượt sợi thừng này lại được cột vào một sợi cáp bằng thép. Như thế, dây cáp bằng thép này được dùng để giúp cho phần còn lại của chiếc cầu đứng vững.
Câu chuyện cầu Melrose thừơng được dùng để minh hoạ cho thấy các sự việc lớn lao thường được khởi đầu bằng những việc rất khiêm tốn.
Thuật kể chuyện rất phổ biến ngay từ khi con người biết liên kết từ với nhau để tạo thành câu. Thời xưa rất ít người biết đọc hoặc viết. Khi muốn dạy một điều gì quan trọng, người ta thường dựng lên một câu chuyện về điều muốn dạy, nhờ thế không những dễ học mà còn dễ nhớ nữa.
Có lẽ Chúa Giêsu đã kể chuyện nhiều hơn phần lớn các Tôn Sư khác. Câu chuyện Ngài kể được gọi là dụ ngôn. Có người đã khéo léo mô tả dụ ngôn như là một câu chuyện bàn về thế trần hàm chứa một ý nghĩa thiên quốc. Nhằm mục đích thực tiễn hoàn toàn, các dụ ngôn của Chúa Giêsu thừơng là một trong hai dạng sau: dụ ngôn “Cửa sổ” và dụ ngôn “kiếng soi mặt”.
Dụ ngôn “cửa sổ” là một chuyện đơn sơ nói về Chúa hay về Nứơc Chúa. đây là một “cửa sổ bằng lời nói” qua đó chúng ta có thể hiểu rõ hơn về Thiên Chúa hoặc Nước Chúa. Dụ ngôn dạng này thường bắt đầu với những từ sau: “Nước Trời giống như...”
Một ví dụ về dụ ngôn dạng “Cửa sổ” là câu chuyện con chiên lạc của Chúa Giêsu. Câu chuyện này so sánh mối quan tâm của người mục tử đối với một con chiên lạc và sự quan tâm của Cha Ngài đối với kẻ tội lỗi. Người mục tử ra đi tìm kiếm con chiên lạc đường. Khi tìm thấy nó, ông đã không cột chiên con vào một cái dây rồi trừng phạt nó mà lại âu yếm đặt nó trên vai mang về nhà. Chủ ý Chúa Giêsu là tỏ cho thấy Cha Ngài trên trời cư xử với kẻ tội lỗi cũng y hệt như thế. Như thế các dụ ngôn dạng “cửa sổ” là những câu chuyện giúp chúng ta hiểu rõ Thiên Chúa và Nước Ngài.
Còn ngược lại các dụ ngôn dạng “kiếng soi” là những câu chuyện có tác dụng như “chiếc gương soi bằng lời” Nghĩa là, chúng giúp chúng ta hiểu rõ chính mình. Chúa Giêsu đã xây dựng các dụ ngôn này khéo léo đến nỗi các nhân vật trong dụ ngôn đại diện cho cả đám cử toạ đang nghe Ngài. Nói cách khác, đám người đang nghe Chúa Giêsu có thể nhận ra chính mình là một trong những nhân vật được nêu ra trong dụ ngôn.
Dụ ngôn chủ vườn nho hôm nay là một ví dụ rất hay thuộc dạng này, Chúa Giêsu ám chỉ trực tiếp và đặc biệt đến các trưởng tế và biệt phái. Hãy nhìn vào các nhân vật đóng vai trong dụ ngôn sẽ thấy ngay Chúa Giêsu có ý định để cho các nhân vật này đại diện đám người nào trong cuộc sống thực tế ngoài đời.
Dĩ nhiên, Chủ vườn nho không ai khác hơn là ngoài Thiên Chúa. vườn nho, theo như bài đọc thứ nhất hôm nay cho thấy, là dân tộc Israel. Tá điền vườn nho là các vị lãnh đạo Israel. Nhóm đầy tớ đầu tiên được chủ vườn sai đến là các tiên tri thuở xưa được Chúa phái đến với Israel. Nhóm nô lệ thứ hai là các tiên tri kế tiếp cũng do Chúa phái đến với Israel. Con trai chủ vườn, tức kẻ bị giết, là Chúa Giêsu. Đám nông gia tá vườn mới mà chủ vườn giao vườn nho lại là các Tông Đồ của Chúa Giêsu. Họ là các nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
Phần cuối dụ ngôn, không được trưng ra trong bài đọc hôm nay kể lại rằng: “Các tư tế và biệt phái đều hiểu rằng Chúa Giêsu đang nói về họ”. Nói cách khác, họ nhìn vào dụ ngôn “kiếng soi” này và trông thấy chính mình. nhưng thay vì hoán cải, họ vẫn cứ tiếp tục bước đi trong đường nẻo sai lạc của mình.
Điều này dẫn chúng ta đến một vấn nạn quan trọng, phải chăng Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này chỉ nhằm tác động đến các trưởng tế và biệt phái mà thôi không? Hoàn toàn không phải thế. Ngài còn nhắm cả đến chúng ta nữa. Như thế dụ ngôn này nói lên với chúng ta điều gì? Tôi xin đưa ra bốn điểm sau:
- Trước hết, dụ ngôn tóm lược toàn bộ Thánh Kinh nói về ơn cứu độ, nêu rõ những qui chiếu rõ rệt về Giao ước và Giao ước mới. Lần giao ước vườn đầu tiên ám chỉ đến Cựu ước. Lần giao vườn thứ hai ám chỉ đến Tân ước.
- Thứ đến, dụ ngôn này xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. nhân vật cuối cùng được sai đến với các tá điền không phải là một đầy tớ nào khác mà chính là con trai của chủ vườn.
- Thứ ba, dụ ngôn xác nhận các Tông Đồ của Chúa Giêsu là những nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
- Cuối cùng, dụ ngôn nói với chúng ta về lòng nhẫn nại mà Chúa dành cho chúng ta cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với Chúa.
Chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá vườn thay đổi đường lối. Khi ông ta thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ.
Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế. Cha trên trời của chúng ta vô cùng kiên nhẫn. Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử. Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Như thế, dụ ngôn hôm nay không chỉ nói với các trưởng tế và biệt phái thời Chúa Giêsu mà còn nói với chúng ta nữa. Dụ ngôn tóm lược câu chuyện Thánh Kinh về ơn cứu độ, cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, các Tông đồ Chúa là những vị lãnh đạo mới của dân Chúa, và cuối cùng dụ ngôn ấy còn dạy chúng ta về lòng kiên nhẫn lớn lao của Chúa dành cho chúng ta, đồng thời trách nhiệm riêng chúng ta phải chịu trước mặt Ngài.
Chúng ta hãy kết thúc bằng một tư tưởng có tính cách cầu nguyện mà Richard Wilson viết ra cách đây nhiều năm. Tư tưởng này được viết thành những vần thơ trữ tình như sau:
Đức Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Ngài chỉ cho thiên hạ cũng như chỉ cho bạn và tôi
Cách thức sự việc xảy ra như thế nào.
Ngài đã dùng bầu trời
Ngài đã dùng biển cả
Ngài đã dùng chim muông
Ngài đã dùng cây cối
Ngài đã dùng bất cứ những gì Ngài có thể trông thấy,
Ngài là Người kể chuyện à?
Phải, Chúa Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Đó là phương cách Ngài dùng
Chỉ cho thiên hạ, cho bạn cho tôi
Biết sự việc sẽ xảy ra thế nào.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
30. Hãy làm nảy sinh nhiều hoa lợi cho chủ mình
(Lm Ansgar Phạm Tĩnh)
Tại sao những người tá điền lại nhẫn tâm"bắt các đầy tớ [của ông chủ]: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ [và còn dám cả gan]... bắt lấy [con trai của ông], quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi" như vậy thưa bạn (Mt. 21:35,39)?
Bạn nghĩ thử mà xem, khi kiếm người trông nom và quản lý tài sản trong một thời gian dài và nhất là khi phó thác số tài sản lớn của mình trong tay của người đó thì ông chủ nhất định phải khôn khéo lựa chọn những người có lý lịch trong sạch, có uy tín và thật đáng tín nhiệm chứ! Chắc chắn ông phải điều tra kỹ lắm! Thế thì tại sao những người tá điền này lại trở thành những tên sát nhân độc ác như vậy? Chắc có nhiều lý do lắm. Thế nhưng theo tôi, lý do chính khiến cho những người tá điền chất phác này trở thành những tên sát nhân ác tâm như vậy là bởi vì họ không có HOA LỢI để nộp cho chủ.
Tôi và bạn, chúng mình đều là những tá điền, là những người quản lý trong vườn nho của ông chủ tốt lành là Thiên Chúa. Nhiệm vụ của chúng mình là phải làm sản sinh ra nhiều HOA LỢI cho Ngài.
Tôi hỏi thật bạn nhé! Bạn đã làm ra nhiều HOA LỢI cho ông chủ của bạn hay chưa?
Sống trong ơn gọi hôn nhân, bạn được ông chủ trao cho công việc quản lý một vườn nho trong đó toàn là những giống nho tốt, đó là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, cháu chắt của bạn... Nhiệm vụ của bạn là phải làm cho những cây nho này trổ sinh hoa trái ngon ngọt và sinh thật nhiều HOA LỢI cho Ngài.
· Khi cha mẹ, vợ chồng biết hy sinh, biết dành thời gian để chăm sóc, dạy dỗ và gần gũi với nhau và với con cái và khi con cái biết kính trọng, vâng lời, và thảo hiếu với cha mẹ... thì lúc đó bạn đang tạo cho những cây nho trong vườn một sức đề kháng rất mạnh. Sức đề kháng này còn mạnh hơn là những loại thuốc trừ sâu. Khi có được sức đề kháng tốt như vậy, những cây nho này chắc chắn sẽ không bị sâu rầy tấn công. Chắc chắn chúng sẽ mang lại thật nhiều HOA LỢI cho chủ.
· Khi vợ chồng sống hòa thuận, yêu thương, kiên nhẫn, tha thứ, giúp đỡ nhau, trung tín với lời thề hứa "suốt đời chung thuỷ với nhau, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bịnh hoạn... Là lúc đó bạn đang tạo ra những luồng gió mát và ấm áp kích thích những cây nho đơm bông kết trái thật xum xuê. Như thế là ông chủ sẽ thu được nhiều HOA LỢI!
· Khi bạn học hỏi giáo lý, học hỏi Kinh Thánh, tham gia vào những sinh hoạt của các hội đoàn trong giáo xứ, đến giúp đỡ và thăm viếng những người già nua, cô đơn, bịnh tật...là những lúc bạn đem thứ phân bón tốt nhất bón cho những cây nho trong vườn của ông chủ. Nhờ những thứ phân bón của yêu thương và bác ái này, những cây nho sẽ đem lại nhiều HOA LỢI cho chủ hơn!
Nếu bạn đang sống trong ơn gọi tu trì thì bạn và tôi chúng mình được ông chủ trao cho công khá nặng nề đấy! Chúng mình phải đứng trên những tháp canh, làm công tác bảo vệ vườn nho, trông coi những bồn đạp nho và làm đốc thúc công nhân làm việc để nhờ vậy HOA LỢI của ông chủ càng ngày càng gia tăng.
· Khi chúng mình "ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối" (2 Cor. 6:6) và khi tôi và bạn "ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại... lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau... duy trì sự hiệp nhất... bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với [anh chị em trong cộng đoàn với nhau]" (Eph. 4:2-3) là lúc đó chúng mình đang đem những thứ men tốt nhất trộn vào trong bồn nho. Nhờ khối lượng men thượng hảo hạng này, bồn nho sẽ sản xuất ra những giọt rượu thật trong, thật thơm, thật ngon và tuyệt hảo.
· Khi bạn và tôi trung tín trong ơn gọi tận hiến, cố gắng phấn đấu sống thánh thiện "không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn... hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ..." (Ti. 1:7-8) thì lúc đó chúng mình đang làm cho bầu không khí trong công xưởng làm nho của chủ vui tươi hơn, làm cho công nhân phấn khởi hơn, và nhờ thế số lượng rượu sẽ gia tăng đáng kể. Như vậy ông chủ chắc chắn sẽ thu được nhiều HOA LỢI.
Bạn thân mến, nếu tôi và bạn, chúng mình không biết làm sinh HOA LỢI cho ông chủ thì... căng đấy!
Bạn có tin rằng khi không có hoa lợi nộp cho chủ, chúng mình sẽ lâm vào cảnh "đói ăn vụng túng làm liều." Lúc đó tôi và bạn không chừng sẽ trở thành những tên sát nhân còn nhẫn tâm và ác ôn hơn là những tên tá điền trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay!
Nếu chúng mình thấy chưa có HOA LỢI để nộp cho ông chủ thì hãy nhanh tay lên, phải khẩn trương lên, bạn và tôi vẫn còn thời gian để làm cho HOA LỢI của ông chủ nảy sinh thêm. Đừng để cho ông chủ nổi giận và "tru diệt bọn chúng [mình], và cho các tá điền khác canh tác vườn nho" (Mt. 25:41).
Chúng mình hãy cầu nguyện cho nhau để bạn và tôi sẽ trở thành những người quản lý thông minh và khôn khéo, biết làm cho hoa lợi của ông chủ nảy sinh gấp bội. Làm được như vậy chắc chắn ông chủ sẽ rất hài lòng!
Tôi bảo đảm, nếu chúng mình làm nảy sinh nhiều HOA LỢI cho vườn nho của Chúa thì Ngài sẽ tươi cười và nói với chúng mình trong ngày sau hết: "Khá lắm! hỡi [những] đầy tớ tài giỏi và trung thành!... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ [các] anh!" (Mt. 25:21).
***** LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI *****
1. Kinh Mân Côi
Trong một vài phút vắn vỏi này, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ về kinh Mân Côi.
Trước hết kinh Mân Côi là một cuốn Tin Mừng rút gọn.
Thực vậy, ngày xưa việc học hỏi Kinh Thánh chưa được phổ biến rộng rãi. Đó là việc dành riêng cho những nhà chuyên môn. Chẳng hạn vào thế kỷ thứ 9, chỉ các tu sĩ mới đọc 150 thánh vịnh của vua Đavít để thưa chuyện với Chúa. Còn dân chúng thì không có đủ phương tiện và thời gian để học hỏi và thấu triệt những tâm tình của thánh vịnh để mà cầu nguyện. Vì thế người ta đã nghĩ phải làm thế nào để mọi tín hữu có thể dễ dàng đọc kinh hầu thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa.
Thế là người ta dựa vào 150 Thánh vịnh mà lập ra kinh Mân Côi gồm 150 kinh Kính Mừng. Những kinh ấy được lặp đi lặp lại mà không hề cảm thấy nhàm chán vì chúng được dựa trên nền tảng Lời Chúa. Ban đầu để khỏi quên 150 kinh, người ta phải dùng đá sỏi, hạt đỗ. Và sau này người ta đã xâu lại thành từng chuỗi. Hơn thế nữa, hai mươi mầu nhiệm của kinh Mân Côi đã tóm tắt tất cả Tân Ước và những biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Giêsu. Cho nên, chúng ta cũng có thể nói kinh Mân Côi là một bản tóm lược đời sống của Chúa Giêsu nơi trần gian. Kinh Mân Côi là một cuốn Phúc Âm rút ngắn.
Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức được Mẹ ưa thích.
Chính Mẹ đã nhiều lần nhắn nhủ con cái Mẹ siêng năng chăm chỉ lần chuỗi. Tương truyền rằng thánh Đaminh đã phải vất vả đi chinh phục những người theo bè rối Albigeois ở miền nam nước Pháp, nhưng tất cả những cố gắng của ngài đều vô ích. Cuối cùng thánh nhân đã chạy đến nhờ cậy Mẹ và được Mẹ ban cho một phương thế hữu hiệu đó là kinh Mân Côi. Nhờ kinh Mân Côi mà thánh Đaminh đã chiến thắng bè rối và dẫn đưa nhiều người lầm đường lạc lối trở về cùng Hội Thánh.
Năm 1511, kinh Mân Côi đã giúp cho đoàn quân Công giáo chiến thắng tại vịnh Lépante. Để kỷ niệm chiến thắng này, Giáo Hội đã thiết lập lễ Mân Côi vào ngày 7.10 mỗi năm.
Trong thế kỷ 19 và 20, nhiều lần Mẹ đã hiện ra. Tại Lộ Đức, Mẹ đã bảo chị Bernadette lần chuỗi để cầu nguyện cho nhân loại và những kẻ tội lỗi. Năm 1917 tại Phatima, Mẹ đã truyền cho chúng ta ba mệnh lệnh, trong đó có việc siêng năng lần hạt Mân Côi. Và chính Ngài vào ngày 13.10.1917 đã tuyên bố: Ta là Mẹ Mân Côi. Mẹ cũng cho chúng ta hay: Phanxicô sẽ được lên trời, miễn là phải lần hạt nhiều trước đã. Như thế chúng ta thấy, kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành, cho bản thân, gia đình, xã hội cũng như Giáo Hội.
Và qua dòng thời gian, các Đức Giáo Hoàng luôn nhắc nhủ và khuyến khích chúng ta chăm chỉ lần chuỗi, nhất là mỗi khi Giáo Hội gặp phải những gian nan thử thách, để xin Mẹ nâng đỡ và chở che. Kinh nghiệm cũng cho thấy: Người giáo dân Việt Nam, mặc dù hiểu biết về Kinh Thánh, về giáo lý không được bao nhiêu, nhưng nhờ việc siêng năng lần chuỗi mà đức tin luôn kiên vững qua muôn vàn sóng gió. Noi gương các bậc cha ông chúng ta hãy thành kính dâng lên Mẹ những đoá hồng tươi xinh, đó là những lời kinh Mân Côi chân thành, để xin Mẹ nâng đỡ, phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
2. Lễ Mẹ Mân Côi (Lc 1,26-38)
(‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
"Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên".
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: "Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước", vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà". Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà". Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: "Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
"Hỡi Maria đừng sợ". Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: "Vui và Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
3. Niềm vui cứu rỗi
Cái tin mà Chúa Giêsu đem xuống trần gian là một tin mừng, cho nên đạo của chúng ta là đạo của niềm vui.
Thực vậy, đọc lại Kinh Thánh chúng ta nhận thấy trong suốt dòng lịch sử, dân Do Thái luôn sống trong vui mừng và hy vọng, chờ đón ngày Đấng Cứu Thế xuất hiện ngay giữa lòng dân tộc và giải thoát họ. Trong cuộc hành trình tiến về miền đất hứa, mỗi khi họ gặp phải khó khăn hoạn nạn, thì Thiên Chúa hằng ở bên và nâng đỡ họ, để họ được sống trong niềm vui mừng và hy vọng. Nội dung những lời rao giảng của các tiên tri mà Thiên Chúa gởi đến với họ đều kêu gọi họ hãy hân hoan vui mừng vì Chúa sẽ đến cứu độ họ: Vui lên Sion này ánh sáng huy hoàng. Vinh danh Giavê đang tràn lan khắp nơi. Vui ca lên nào thiếu nữ Sion, vì Đấng cứu độ rất oai hùng, Ngài ngự trong nhà ngươi.
Theo quan niệm Do Thái thì cá nhân không phải chỉ là một con người riêng biệt, mà còn là hiện thân của tổ tiên. Những người quá cố vẫn đang sống và hiện diện qua hình hài của con cháu họ. Do đó mỗi người đều liên kết khắng khít với cha ông, với tổ tiên, với gia đình, với họ hàng và với cả dân tộc mình. Vì thế, lời mời gọi người thiếu nữ Sion hãy vui mừng cũng chính là lời mời gọi được gởi đến cho cả một tập thể dân tộc Người Nữ sẽ sinh ra một Adong mới. Ngài sẽ đến phá tan mọi xiềng xích tội lỗi.
Lời mời gọi ấy Thiên Chúa cũng muốn gởi đến cho cả một dân tộc mới của Ngài, đến cho những người tin vào tình yêu của Ngài. Kinh Kính mừng là lời chào hân hoan mà thiên sứ Gabriel đã dành cho Mẹ Maria, cũng chính là lời mời gọi cho toàn thể Giáo Hội cũng như cho mỗi người chúng ta là hãy vui lên vì đã được Chúa cứu độ.
Kinh Kính mừng chính là lời chào mang lại Tin Mừng bởi vì Tin Mừng đã được khởi đầu từ đó. Với hai tiếng xin vâng đầy tin tưởng và phó thác, Mẹ đã cưu mang Chúa, Đấng đem lại niềm vui cho nhân loại. Lời chào mừng của sứ thầy Gabriel cũng được Thiên Chúa gởi đến với mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên điều quan trọng đó là thái độ đáp lại của chúng ta. Liệu chúng ta có sẵn sàng xin vâng, có sẵn sàng mang Đức Kitô trong tâm hồn và trong cuộc sống của mình hay không? Liệu chúng ta có chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa hay không? Chấp nhận tình yêu của Chúa là chấp nhận đi vào niềm vui ơn cứu độ. Chúng ta có biết rằng mỗi lần đọc kinh Mân Côi là một lần chúng ta đi vào niềm vui của Mẹ, niềm vui có Chúa ở cùng hay không?
4. Cùng Mẹ xin vâng
(Lm. Anmai)
Trong số các lễ nhớ Đức Maria, ngoài lễ Đức Mẹ Lộ Đức và lễ Đức Bà Camêlô, còn có lễ Đức Mẹ Mân Côi, do Đức Giáo Hoàng Gregorio XIII thành lập năm 1573. Nhưng để biết nguồn gốc của lễ này trước hết phải tìm hiểu lịch sử Kinh Mân Côi “Rosario”. Từ Rosario phát xuất từ chữ Latinh “Rosarium” có nghĩa là vườn hồng, khóm hồng, tràng hoa hồng, hoặc chuỗi hoa hồng, và cũng còn gọi là Kinh Mân Côi.
Sở dĩ gọi là “chuỗi hoa hồng” hay “tràng hoa hồng” là vì nó bao gồm nhiều hạt. Mỗi một hạt là một kinh Kính Mừng. Khi đọc nó giống như một đóa hồng tín hữu dâng kính Mẹ Thiên Chúa. Rồi nó cũng được gọi là Kinh Mân Côi, vì Mân là tên của một loại ngọc, Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí lạ. Kinh Mân Côi là “Kinh Ngọc”, là “chuỗi ngọc Mân và ngọc quí lạ”. Mỗi một kinh Kính Mừng dâng lên Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phước, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là ngọc Mân, ngọc đẹp quí lạ tín hữu dâng lên Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi trước kia người ta ít lưu tâm đến, nhưng từ khi Đức Mẹ ban ơn lạ lùng cho Đạo Binh Thánh Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Lépante vào năm 1571, Đức Thánh Cha Piô V đã cho phổ biến lễ này một cách rộng rãi trong Hội Thánh toàn cầu. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã giải thích tầm quan trọng của lễ Mân Côi trong rất nhiều thông điệp Ngài ban bố. Đến nay, người Kitô hữu trên toàn thế giới đã mừng lễ này cách rất sốt sắng và tôn kính đặc biệt đối với lễ Mân Côi.
Mẹ Maria với hai tiếng xin vâng đã góp tay vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu và hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa.Thánh lễ Mân Côi cũng nối kết những biến cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu: “Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh”.
Thư gửi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô gợi lại niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như chúng ta nghe: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! “ Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”. Thánh Phaolô khẳng định lại ơn cứu độ đến tự nơi Chúa Giêsu để rồi những ai tin vào Ngài thì không còn sống nô lệ cho tội lỗi nữa mà là được cứu thoát.
Đấng Cứu Độ trần gian mà Thánh Phaolô nhắc đó cũng đã được các ngôn sứ, người này người kia trong Cựu Ước nói đến. Đặc biệt, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả cũng đã loan báo nhưng rồi mấy ai đón nhận. Không ai đón nhận bởi vì họ không tin Đấng Cứu Độ trần gian đến trần gian qua người phụ nữ nhỏ bé. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đó đến trong uy quyền, đến trong vinh quang và sẽ làm cho dân tộc của họ được vinh quang nhưng Chúa đến khác với suy nghĩ của họ.
Trong niềm tin sâu thẳm của lòng mình, Mẹ Maria đã đón nhận Đấng Cứu độ trần gian. Trang Tin Mừng quá quen thuộc chúng ta nghe thánh Luca thuật lại lời xin vâng đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian vào trong đời mình. Mẹ tin và hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thánh ý của Chúa.
Ngày hôm nay, lời xin vâng được mở ra, được bỏ ngõ với biết bao nhiêu biến cố bi thương trong đời của Mẹ. Phải nói rằng quá sức chịu đựng của một cô gái như Mẹ. Không còn gì nhục nhã cho bằng khi phải đón nhận, khi phải đồng hành, khi cùng với con chịu đau khổ trên hành trình thương khó và bi thương nhất là cái chết trên thập giá.
Nhưng, niềm tin ấy của không dừng trên đỉnh đồi Canvê mà còn tiếp tục sau khi chôn con yêu của mình. Sách Công Vụ Tông Đồ cũng vừa kệ lại niềm tin của Mẹ khi các tông đồ bấn loạn, người đi về nhà, kẻ chán nản vì Thầy của mình đã chết. Không chỉ đơn thuần là Thầy mà là người mà cả cuộc đời mình tín thác, mình trao phó, thậm chí bỏ cả vợ cả con, cả gia đình để theo mà nay đã chết nên chẳng còn gì để mất cả. Các môn đệ tán loạn nhưng may mắn Mẹ đã giữ vững niềm tin ấy để quy tụ các môn đệ cùng quay trợ lại nơi các ông trú ngụ để cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau giữ vững niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian.
Niềm tin đó chính Mẹ đã giữ, giữ từ ngày xin vâng lời sứ thần cho đến khi Chúa Giêsu ra đi.
Tràng chuỗi Mân Côi mà ngày nay đoàn con cùng suy niệm chính là cùng nhau suy niệm niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Mừng Mẹ Mân Côi là mừng niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Không phải mừng lễ Mẹ như là mừng một biến cố, ghi dấu một kỷ niêm nhưng lại một lần nữa ta cùng nhau chiêm ngưỡng niềm tin của Mẹ. Và, cũng không phải chỉ để chiêm ngưỡng nhưng là để cùng nhau sống niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như Mẹ đã sống.
Cách riêng, trong năm Đức Tin này, một lần nữa, cơ hội, dịp để chúng ta soi chiếu niềm tin của chúng ta vào Đấng Cứu Độ trần gian như thế nào? Dĩ nhiên, niềm tin ấy cũng như cơn sóng xô của cuộc đời. Niềm tin ấy cũng có lúc mãnh liệt, cũng có lúc cảm thấy mệt nhoài với những đau khổ trong đời. Thế nhưng, nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui thì những đau khổ mà ta phải chịu đó cũng chẳng thấm vào đâu so với tất cả những nỗi đau của Mẹ Maria. Và, Mẹ Maria cũng đau chưa bằng chính Chúa Giêsu con của Mẹ phải chấp nhận đau khổ đến hiến mạng sống của mình để đem lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu, trong tất cả nỗi đau của mình, Ngài đã vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá.
Ngày mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng đi với Mẹ Maria hành trình cuộc đời của Chúa Giêsu từ nhập thể, nhập thế và chết trên cây thánh giá. Nhìn như vậy, chiêm ngắm như vậy, suy niệm như vậy để cùng Mẹ dâng lên Chúa mọi đau thương thử thách của cuộc đời.
Dĩ nhiên với bản tính mỏng dòn non yếu và phận người tội lỗi, chúng ta khó có thể đi theo Chúa trên con đường thập giá. Nhưng, khi cùng đồng hành với Mẹ, có Mẹ trong cuộc đời, chúng ta sẽ cảm thấy thập giá đời của ta nó nhẹ nhàng và thanh thản hơn.
Hãy cùng với Mẹ Maria và thưa với Chúa hai tiếng xin vâng như Mẹ để tất cả mọi khổ đau của đời ta nên nhẹ nhàng. Hãy cùng xin vâng như Mẹ để niềm tin của chúng ta ngày mỗi ngày trao phó cuộc đời của chúng ta càng thêm mạnh đủ để chúng ta bắt chước như Mẹ mở toang cuộc đời của ta cho Chúa vào để Chúa hành động trong ta.
5. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Chuỗi Mân Côi mà người Kitô hữu dùng nó mỗi ngày để cầu nguyện là những lời kinh tuyệt hảo. Chuỗi Mân Côi giúp người kitô hữu nhờ Mẹ đến với Chúa Giêsu. Chuỗi Mân Côi giúp chúng ta khám phá công cuộc cứu chuộc nhiệm mầu của Thiên Chúa, khám phá tình thương bao la mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta. Nhân dịp mừng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cùng nhau suy gẫm về tràng hạt Mân Côi và xin Đức Mẹ giúp chúng ta thêm siêng năng chạy đến Đức Mẹ bằng chuỗi kinh Mân Côi.
Kinh Mân Côi được xuất hiện sớm nhất khoảng thế kỷ XII với hình thức suy niệm Năm Sự Vui và Năm Sự Mừng. Đến thế kỷ XIII - XIV, các tu sĩ dòng Phanxicô và dòng Tôi Tớ Đức Mẹ cổ động suy niệm Năm Sự Thương. Thánh Đaminh (1172 - 1221) được coi như người mà Đức Mẹ dùng để truyền bá lần chuỗi Mân Côi, và nhờ các tu sĩ trong dòng hoàn thành chuỗi với 150 kinh Mân Côi (song hành với 150 thánh vịnh) kèm theo nhiều câu suy niệm. Cuối cùng, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thêm vào Năm Sự Sáng. Kinh Mân Côi tuy đơn sơ, bình dân đến nỗi có người coi thường như thể là hình thức cầu nguyện chỉ dành cho những người nhà quê ít học đọc và cầu nguyện.
Sức mạnh của Kinh Mân Côi, sự kỳ diệu của Kinh Mân Côi được thể hiện ở tính lịch sử ngày lễ Mẹ Mân Côi 07 tháng 10 hàng năm được Đức Giáo Hoàng Piô V, xuất thân từ dòng Đaminh lập ra vào năm 1572 để kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Công Giáo trên dân Thổ Nhĩ Kỳ ở vịnh Lepanto ngày 07.10.1571, nhờ sự bầu cử của Mẹ, mà là sức mạnh, chống trả cám dỗ, hoán cải tâm hồn, bảo vệ hạnh phúc gia đình, xây dựng hoà bình thế giới.
Vào khoảng thế kỷ 16, anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Họ đi từ vùng Trung Đông sang Á Châu đến Ấn Độ. Đi đến đâu họ chiến thắng đến đó. Họ đổ bộ lên Âu Châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Người Ý bắt đầu lo lắng và khiếp sợ. Lo sợ vì khả năng của mình không thể đối đầu với một đoàn quân thiện chiến như thế. Lo sợ thủ đô của Giáo Hội Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Âu châu cũng bị đe doạ. Trước hoàn cảnh nguy kịch ấy, Đức Giáo Hoàng Piô V lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, Ngài kêu gọi mọi người cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng. Kết quả bất ngờ là ngày 7 tháng10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Trong Tông Huấn " Lòng sùng kính Đức Bà Maria" (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: "Kinh Mân Côi là Kinh Tin Mừng". Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được kết nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng chính yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu nhiệm Chúa Giêsu, trải dài từ biến cố sinh ra tại Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ,...Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ đầu tiên, hoàn hảo nhất của Đức Kitô. Mẹ đã thông hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường ấy.
Thánh Bênađô nói: "Kinh Mân Côi có sức xua đuổi ma quỷ, làm cho hoả ngục phải run sợ trước thánh danh Chúa Giêsu và Đức Maria". Thánh Gioan Kim Khẩu thì nói: "Thiên Chúa cai trị vũ trụ, nhưng dường như Người chịu thua những ai lấy Kinh Mân Côi mà cầu nguyện".
Có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vactican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội. Vì qua những lời kinh trong kinh Mân Côi, những biến cố chính của cuộc đời Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta và giúp chúng ta hiệp thông sống động với Chúa Kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hàng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ theo nhịp sống của con người" (Gioan Phaolô II, 29. 10.1978).
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: "Khi gia đình không được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hoá bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông..".
Kinh Mân Côi là lời kinh dễ đọc, dễ dùng, nhưng có tác dụng rất thực tế và rất sâu. Trước hết, xét về số lượng lời kinh, đọc ít cũng được, đọc nhiều cũng được. Có người chỉ đọc mười kinh, năm mươi, một trăm, hai trăm kinh,....Đọc ở nhà cũng được, khi đi đường cũng được. Lúc sắp ngủ cũng được, khi thức dậy cũng được; khi mệt nhọc cũng được, lúc khoẻ mạnh cũng đuợc.
Mức độ cơ bản nhất của việc đọc kinh Mân Côi là tay cầm tràng hạt mà lòng nghĩ tới Chúa, nghĩ tới Đức Mẹ. Nhờ kinh Mân Côi, chúng ta tiếp xúc với Mẹ Maria, với Chúa Giêsu. Có khi chỉ là một tiếp xúc của lòng muốn. Có những con người rất yếu đuối và hay chia trí, đầu óc bị chi phối bởi trăm công nghìn việc, cầm tràng hạt với thiện chí muốn gặp Chúa. Có những con người rất cao siêu thanh thoát, tay cầm tràng hạt mà tâm hồn say sưa ngây ngất kết hiệp với Chúa. Đối với những tâm hồn đạo đức thánh thiện, các kinh kính mừng là những nốt nhạc đệm cho bài tình ca của linh hồn.
Lần chuỗi Mân Côi là đọc lại lời kinh Chúa Giêsu dạy (Lạy Cha), lập lại lời chào của thiên thần (Kinh Mừng) liên lĩ. Kinh Mân Côi là một phương tiện hữu hiệu nhất để cổ võ các tín hữu dấn thân chiêm niệm mầu nhiệm Kitô giáo. Kinh Mân Côi cũng là và luôn luôn là lời kinh của gia đình và cho gia đình. Lời kinh này đã một thời hết sức thân thiết với các gia đình Kitô giáo và hẳn đã làm cho các gia đình xích lại gần nhau...Cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi cho con cái và hơn thế nữa, với con cái, dạy dỗ chúng từ thuở ấu nhi biết dừng lại mỗi ngày để cầu nguyện là một trợ giúp thiêng liêng mà ta không thể hạ giá."
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Ý thức sự kỳ diệu của của Kinh Mân Côi, chúng ta hãy cầm lấy lại Chuỗi Mân Côi với lòng tin tưởng, tái khám phá Kinh Mân Côi dưới ánh sáng của Tin Mừng, và để nhờ Mẹ biến đổi chúng ta thành những người con ngoan của Chúa.
Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi sống đời đức tin tốt hơn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ, xin cho chúng con siêng năng và bền lòng lần chuỗi Mân Côi để tiếp tục sống đức tin như các bậc tiền nhân đã sống. Amen.
6. Đức Mẹ Mân Côi
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
1. Tràng hạt Mân Côi
Tất cả chúng ta điều rất quen thuộc với tràng hạt Mân Côi, bởi vì tràng hạt Mân Côi luôn đi đôi với lời kinh Kính Mừng, vốn là một trong những kinh mà chúng ta học và đọc ngay trong gia đình từ thời thơ ấu.
Từ «Mân Côi» phát xuất từ tiếng La-tinh Rosarium, có nghĩa là vườn hoa hồng. Thật là đẹp và đầy ý nghĩa, khi nhìn tràng Mân Côi quen thuộc, nhỏ bé và đơn sơ của chúng ta như là một vườn hoa hồng. Và như thế, tràng hạt Mân Côi mà chúng ta dùng để đọc kinh hàng ngày chính là một vườn hoa hồng, mỗi hạt kinh là một đóa hoa hồng, kính dâng lên Đức Maria, Mẹ của chúng ta. Và ai chúng ta cũng biết, hoa hồng là biểu tượng của lòng mến, của tình yêu. Vậy, chính khi chúng ta lần hạt, là chúng ta dâng hoa cho Đức Mẹ với lòng cảm mến và yêu thương của người con thảo. Với tâm tình này, chúng ta nhận ra rằng, cấu tạo của tràng Mân Côi cũng thật là hay và đầy ý nghĩa, vì tràng hạt có tâm điểm là ảnh Đức Mẹ.
2. Kinh Kính Mừng
Mỗi lời kinh Mân Côi là một đóa hoa hồng diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Mẹ. Thật vậy, vì đó chính là ý nghĩa sâu xa của phần thứ nhất trong kinh Kính Mừng:
Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giê-su con lòng bà gồm phúc lạ.
«Kính Mừng» có nghĩa là chúng ta ca mừng Đức Mẹ một cách kính cẩn ; và lời ca mừng này một phần đến từ lời ca mừng của sứ thần Gabrien, khi ngài đến gặp Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin, mà bài Tin Mừng của ngày lễ hôm nay thuật lại cho chúng ta: “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28)
Và phần còn lại của lời ca mừng Đức Mẹ trong kinh Kính Mừng, đến từ lời ca mừng của bà Elizabet, trong biến cố Đức Mẹ thăm viếng: “Em được chúc phúc (nghĩa là có phúc lạ), hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (nghĩa là cũng có phúc lạ)” (Lc 1, 42).
Thế mà, chúng ta không thể ca tụng Mẹ với cả tâm hồn, nếu chúng ta không yêu mến Mẹ, và chúng ta không thể yêu mến Mẹ, mà không ca tụng Mẹ. Bởi vì, nếu không có lòng mến, lời ca tụng chỉ là giả tạo, hay chỉ có trên môi miệng, chứ không chân thật, không phát xuất từ con tim. Chính tâm tình ca mừng Đức Mẹ với lòng cảm mến, sẽ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận những ơn huệ mà Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, và cũng chính thái độ ca mừng này sẽ giải thoát chúng ta khỏi thái độ ngược lại là đóng kín, ghen tị và vô ơn, vốn rất tai hại cho mình và cho người khác. Như vậy, khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta dùng lại lời của Sứ Thần Gabriel và lời của bà Elizabeth để ca tụng Đức Mẹ với lòng cảm mến; và chỉ sau khi ca tụng Mẹ, chúng ta chúng ta mới xin ơn:
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.
Trong lời cầu xin với Đức Mẹ, chúng ta tự nhận mình là “kẻ có tội”. Nếu chúng ta đọc lời này với sự chân thành của con tim, thì chắc chắn Mẹ đã cảm thương chúng ta rồi. Giống như khi còn bé, mỗi khi chúng ta thành tâm nhận lỗi, là cha mẹ đã bao dung và ôm chúng ta vào lòng rồi. Hơn nữa, Mẹ được ban ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, chính là để chăm lo cho chúng ta, bao dung chúng ta, chia sẻ cho chúng ta và cầu bầu cho chúng ta.
Lời cầu xin của chúng ta cũng thật là kín đáo và khiêm tốn. Thật vậy, chúng ta xin Mẹ cầu cho chúng ta, khi nay và trong giờ lâm tử. Kín đáo, vì chúng ta không xin điều gì đặc biệt, chỉ xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta thôi. Khiêm tốn, vì chúng ta ý thức về thân phận phải chết của chúng ta. Khi nay và trong giờ lâm tử, chúng ta đâu có biết còn bao xa, và chúng ta cũng không biết mình sẽ lâm tử như thế nào. Đọc lời nguyện xin này, dù chúng ta đang làm gì, ở độ tuổi nào, gặp khó khăn thử thách ra sao, chúng ta cũng được mời gọi chuẩn bị cho giờ lâm tử. Và chắc chắn, Mẹ không chỉ cầu bầu cho chúng ta, nhưng còn ôm chúng ta vào lòng để đưa chúng ta đi, đi trên đường đời và đi ngang qua sự chết để về Quê Trời, xum họp với Mẹ và những người thân yêu trong Nhà của Thiên Chúa.
Tóm lại, ca tụng rồi mới xin ơn, đó chính là qui tắc mà kinh Kinh Mừng dạy cho chúng ta, khi chúng ta cầu nguyện trong mọi trường hợp. Và để ca tụng, chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban cho mình và cho người khác nữa.
3. Đức Mẹ Mân Côi
Chúng ta hãy trở lại nhìn ngắm một lần nữa tràng hạt của chúng ta. Như chúng ta đã nói, tràng hạt Mân Côi có trung tâm là ảnh Đức Mẹ, nhưng ảnh Đức Mẹ lại hướng tới Thập Giá của Đức Ki-tô. Thật vậy, Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng, phác họa lại cho chúng ta toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô, từ lúc được hoài thai trong cung lòng Đức Mẹ, cho đến cuộc Thương Khó, chết trên Thập Giá, và sau đó sống lại và lên trời.
Trong năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ kính nhớ Đức Mẹ, vì những ân huệ lớn lao Mẹ đã nhận được, chẳng hạn Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ hồn xác lên trời, Đức Mẹ Nữ Vương, hay vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Đức Mẹ, chẳng hạn, Sinh Nhật Đức Mẹ, Đức Mẹ Dâng Mình, Lễ Truyền Tin, Đức Mẹ Thăm viếng, Lễ Giáng Sinh, hoặc vì những ơn huệ đặc biệt Đức Mẹ ban cho loài người chúng ta hay cho riêng một Hội Dòng, chẳng hạn Đức Mẹ Phù Hộ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Dòng Tên.
Nhưng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, mà chúng ta mừng kính không chỉ một ngày, nhưng suốt một tháng, có điểm này đặc biệt, so với tất cả các lễ khác: đó là lễ Đức Mẹ Mân Côi tôn vinh sự gắn bó sâu xa và trọn vẹn của Mẹ đối với ngôi vị và cuộc đời của Đức Giê-su, từ lúc ngài được hoài thai trong lòng dạ của Mẹ, cho đến khi Ngài chịu đóng đinh trên Thập Giá, và sau đó Phục Sinh và Lên Trời. Thế mà, tất cả những ơn huệ lớn lao mà Mẹ nhận được đều đến từ tương quan thiết thân của Mẹ với Đức Ki-tô. Thật ra trong lời ca mừng của lời kinh Kính Mừng, chúng ta đã tôn vinh sự gắn bó của Mẹ với Đức Ki-tô rồi, đi đọc: “Con lòng bà gồm phúc lạ”.
Như vậy, khi chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ Mân Côi, là chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ đón nhận Đức Ki-tô vào cung lòng và vào cuộc sống của mình, là chiêm ngắm Đức Mẹ đi theo và gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô đến cùng. Và đó cũng chính là ơn gọi Ki-tô hữu của chúng ta: đó là đón nhận Đức Ki-tô, vốn là Đường là Sự Thật, là Sự Sống và là Ánh Sáng vào cuộc đời của chúng ta, vào trong gia đình của chúng ta, vào trong cộng đoàn và Hội Dòng của chúng ta.
* * *
Đức Mẹ cầu bầu, phù hộ và ban ơn cho chúng ta về nhiều phương diện của cuộc sống, nhưng Đức Mẹ đặc biệt chăm sóc, phù hộ chúng ta trong cách thức chúng ta đón nhận, hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô đến cùng, và Mẹ phù hộ chúng ta, trước tiên là bằng cách dạy dỗ chúng ta, ngang qua chính đời sống của Mẹ.
7. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
(‘Tin Vui Xuân Lộc”)
Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được Giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời. Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Amen.
8. Kinh Kính Mừng, lời kinh cầu cho Hòa Bình
(Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)
1. Kinh Kính Mừng
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc"
Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: " Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc". Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.
Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì "Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời... và trong giờ lâm tử".
Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với "Đức Maria đầy ơn phúc". Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: "Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi". Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.
2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: "Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết".
Thánh Bênađô nói: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ".
Còn thánh Bônaventura nói: "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng".
Theo thánh Montfort "Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi".
Thánh Anphongsô "Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng".
Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: "Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày". Và nhất là: "Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình".
3. Lời kinh cầu cho hòa bình
Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm nay, năm 2014, Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.
Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.
Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.
Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.
9. Xin Vâng
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ. Hai tiếng "Xin Vâng" thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng "Xin Vâng" có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng "Xin Vâng" của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng "Xin Vâng" với thiên thần, Đức Giêsu cũng nói "Xin Vâng" với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng "Xin Vâng", Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng "Xin Vâng", Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng "Xin Vâng" có ảnh hưởng tới cả cuộc đời
Hai tiếng "Xin Vâng" nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, nhưng ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời thánh vịnh: "Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này Con đến để làm theo ý Cha". Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây thánh giá: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi".
Cũng vậy, khi nói tiếng "Xin Vâng" với thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai Cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: "Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà". Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói "không" với chính mình. Để một lần nói "Xin Vâng với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói "không" với chính mình. Tiếng "Vâng" lớn thành hình nhờ những tiếng "không" nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng "Xin Vâng" với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn. Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng “Xin Vâng” như Mẹ. Amen.
10. Mẹ Mân Côi
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.
Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.
Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,
Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.
Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.
Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.
Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.
Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.
Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.
Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.
Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.
Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.
Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.
11. Lá sầu riêng
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như:
“Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”.
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con:
“Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện “Lá sầu riêng” của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?”.
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh”.
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản “lá sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: “Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.
12. Nhớ Lời Mẹ Dặn
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hồi nhỏ tôi rất thích những lời ru của mẹ. Lời ru êm đềm đưa tôi vào giấc ngủ. Lớn lên tôi lại càng thích thú lời ru ấy, vì nó chất chứa bao lời dạy của mẹ gửi cho con qua lời ru à ơi.
Vâng, có lẽ mỗi người chúng ta đều có những ấn tượng về những lời dạy của mẹ. Lời dạy của mẹ không chỉ dạy con lúc tuổi thơ mà có khi theo con đi suốt cuộc đời. Lời mẹ sẽ mãi mãi là kim chỉ nam cho con bước vào đời.
Ngày xưa Phùng Quán khi còn nhỏ đã từng nói dối, thế mà lời mẹ dạy đã theo ông suốt cuộc đời. Đến nỗi khi đã trưởng thành ông vẫn không quên “Lời mẹ dặn”:
“Tôi mồ côi cha năm hai tuổi/
Mẹ tôi thương tôi không lấy chồng…/
Ngày ấy tôi mới lên năm/
Có lần tôi nói dối mẹ/
Hôm sau tưởng phải ăn đòn /
Nhưng không mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc…
Con ơi...trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
Mới lên năm mà Phùng Quán vẫn nhớ như in lời mẹ dặn. Lời mẹ dặn từ thuở nhỏ đã trở thành kim chỉ nam cho đời sống của mình, đến nỗi có người hỏi Phùng Quán: “Bé ơi, bé yêu ai nhất?” Phùng Quán trở lời: “Bé yêu những người chân thật”.
Hóa ra làm người phải sống chân thật và còn phải yêu người chân thật. Vì họ là người không dối lòng, có sao nói vậy, chẳng quanh co giả dối:
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc
Chân lý tưởng như đơn giản nhưng để sống được nó thật là khó. Vì nhiều người luôn sống ngược lại với ý nghĩ của mình, không dám nói thật ý nghĩ của mình. Có khi vui mà dối lòng không cười được. Khi buồn lại nén lòng mà cười để mong làm vui lòng người khác. Sống dối lòng như thế con người dần dà bị biến thành một kẻ dối trá! Một người dối trá. Trăm người dối trá. Triệu người dối trá. Một xã hội người dối trá!
Thế nên, làm người chân thật thì phải:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Và cho dù có được bổng lộc hay hiểm nguy cũng không được sống dối với lòng mình.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Và rồi lời mẹ dặn vẫn ghi tạc trong ông:
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Cuộc đời người tín hữu cũng có một người mẹ. Một người mẹ luôn dặn chúng ta sống sao cho nên người. Lời Mẹ dặn thật đơn sơ: “Người bảo gì, các con cứ làm như vậy”. Làm theo Lời Chúa là để cho ý Chúa thực hiện trong cuộc đời mình. Làm theo lời Chúa là đi ngược lại với lời dẫn dụ ngọt ngào của ma quỷ. Làm theo lời Chúa là tránh xa mưu chước ma quỷ.
Cách thức để có thể thực hiện lời Chúa chính là siêng năng lần hạt Mân Côi. Đây còn là vũ khí mà Mẹ dặn chúng ta mang theo bên mình để có thể chiến thắng cám dỗ. Đây là vũ khí đã đẩy lùi sự dữ để mang lại an bình cho Giáo hội thời Thập Tự Chinh. Đây là vũ khí đã mang lại hòa bình cho thế giới trong chiến tranh lần thứ nhất của thế kỷ 20. Đây là vũ khí đã lập lại trật tự cho thế giới. Đây cũng là vũ khí đã cứu vớt biết bao linh hồn nhờ trung thành sống theo lời Mẹ dạy,
Hôm nay ngày lễ Mẹ Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng lần hạt Mân Côi theo lời Mẹ dặn. Vì kinh Mân Côi sẽ mang đến cho chúng ta một kho tàng ân phúc của Chúa. Kinh Mân Côi chính là chìa khóa vạn năng để chúng ta mở kho ân sủng vô biên của Chúa.
Theo Chân Phước Alan cho rằng: 'Sau Hy Tế trong Thánh Lễ, một Hy Tế cao trọng nhất, cùng những kỷ niệm sống động của những đau khổ của Chúa Kytô, thì không còn loại sùng kính nào tốt hơn, đem ích lợi nhiều cho các Linh Hồn bằng Kinh Mân Côi, một kinh cũng nhắc lại những kỷ niệm và diễn lại cuộc đời, sự đau khổ của Chúa Giesu Kytô'.
Đức Pi-ô X: “Nếu muốn gia đình được yên lành hạnh phúc thì các con hãy lần hạt Mân Côi mỗi buổi tối trong gia đình các con”.
Đức Gioan XXIII: “Kinh Mân Côi phải trở nên như hơi thở của mọi tâm hồn, đồng thời cũng là kinh riêng của các gia đình Công Giáo”.
Mỗi người chúng ta đều ao ước hòa bình. Mỗi người chúng ta đều mong cho gia đình chúng ta được thuận hòa, cho cuộc đời bình yên. Thiết nghĩ phương thế để chúng ta nhận lãnh ơn Chúa không gì hữu hiệu bằng lời kinh Mân Côi.
Xin cho chúng ta biết siêng năng lần hạt Mân Côi và nhờ Kinh Mân Côi chúng ta được soi sáng sống theo lời Mẹ dặn chúng ta: “Người bảo gì anh em hãy làm theo như vậy”. Amen.
13. Kinh Mân Côi
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.
Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.
Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào khoảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.
Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.
Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.
Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.
Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.
14. Lời kinh gần gũi cuộc sống
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Phụng vụ bước vào tháng Mân côi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mân côi. Tràng hạt Mân côi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay” “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mân côi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng.
Chuỗi Mân Côi trong tiếng Latinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mân côi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Đức Mẹ. Bằng chuỗi Mân côi, Giáo hội trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.
Kinh Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng
Chuỗi Mân côi thật cao quí, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.
Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Thế kỷ 16, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.
Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan... Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêxa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: - Anh có thường lần chuỗi không?
Anh trả lời:- Thưa không.
Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: - Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa”.
Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói: - Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: - Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.
Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.
Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau: - Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác.
2. Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.
Chuỗi hạt Mân côi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính mừng là “…lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” (ĐGH Phaolô VI, Rosamrum Virginis Mariae, số 18).
Chuỗi Mân côi lần lượt diễn tả:
- Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.
- Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
- Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.
- Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
Vì thế, Chuỗi Mân côi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Giáo hội.
Thánh Gioan Phaolô II nói: “ Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó...”.
Đức Thánh Cha Lêô XIII là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mân côi. Ngài đã thiết lập tháng Mân côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân côi”.
Cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.
Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo: Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI viết:Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII khuyên nhủ các bạn trẻ: Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
- Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Thánh Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.
Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.
Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua kinh Mân côi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô V đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các thánh vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”.
3. Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân côi”, một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”.
Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh … thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.
Kinh Mân côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.
Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
15. Kinh Mân Côi
Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm, nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ, đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người nhà quê không biết chữ xin vào tu bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông buồn phiền chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được hát kinh nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có tuổi, nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ học và chuyên tâm lần hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: “Vi không biết chữ, nên con chẳng ngợi khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các thầy khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn sơ thành thật của ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo choàng lộng lẫy, nhưng mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng Maria... Ông đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như vậy?” Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì con mới đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố đọc nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời”. Nói xong Mẹ biến đi, để thầy dòng không biết chữ ở lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.
Từ đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh truyền của Mẹ bằng cách siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên cho Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ nâng đở và phù trợ chúng ta luôn mãi.
16. Hiệu quả của Kinh Mân Côi
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại.
Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo Hội.
Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi, đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.
Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20. Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima và kinh Mân côi.
Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế giới được an vui, để Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ lần hạt Mân côi.
17. Maria, người Nữ Thánh Thể
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.
Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.
Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách để thưa “Xin Vâng” với Chúa trong đau khổ không?.
2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” nên đã múc nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu?
3) Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng “Xin Vâng” để thực hiện không?
18. Hành trình đức tin của Đức Maria
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:
“Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
19. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris”.
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi Mân Côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.
20. Tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời
(Lm. Vinh Sơn Trần Minh Hòa)
1. Vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Các cụ ngày xưa hay dạy con cháu trong việc giữ đạo rằng: tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời. Ở đây, các cụ không ngụ nói việc đeo hay trưng bày tràng chuỗi Mân Côi nhưng là việc cầu nguyện bình dân bằng Mân Côi trong đời sống người kitô hữu. Tại sao việc lần chuỗi Mân Côi mang đến một hiệu quả cao siêu như vậy? Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Thật vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay cho thấy, Đức Mẹ có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ. Bài sách công vụ cho biết Mẹ Maria có chỗ đứng quan trọng trong Hội Thánh sơ khai. Mẹ là thành phần của Hội thánh nhưng là thành phần trổi vượt. Sau biến cố Chúa tử nạn, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã giúp Hội thánh khỏi những khó khăn ban đầu qua hành vi chuyên cần cầu nguyện chung với các tông đồ (x. Cv 1,14). Mẹ Maria đã trở nên mẫu gương cầu nguyện cho mọi người noi theo.
Tiếp đến, thư Galát đã gián tiếp nhắc đến vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ. Thiên Chúa muốn cứu độ con người nhưng lại chấp nhận một phương thế rất khiêm hạ. Đó là chấp nhận cho Con mình là Chúa Giêsu sinh làm con một người trinh nữ, là Đức trinh nữ Maria. Chúa Giêsu đã đến để chuộc những ai sống dưới lề luật, để mỗi người được làm con Chúa. Nhờ Mẹ Maria chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu mà mọi người có cơ hội được làm con Thiên Chúa và có thể kêu lên với Chúa là Apba có nghĩa là Cha ơi.
Cuối cùng, bài Tin Mừng theo thánh Luca đã trình thuật biến cố truyền Tin. Đức Maria được Thiên thần Gariel chào chúc là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mẹ Maria được chào chúc như vậy bởi vì Mẹ đã và đang sống đẹp lòng Chúa, đang sống theo ý Chúa và nhất là Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Chúa Giêsu, ngôi lời Thiên Chúa nhập thể. Mẹ càng đẹp lòng Thiên Chúa hơn nữa khi Mẹ thưa lời xin vâng với sứ thần: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Chính giây phút thưa lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thưa lời xin vâng, Mẹ đã chấp nhận liên đới mật thiết với Chúa Giêsu khi thành công cũng như chuỗi ngày thất bại, khi chia vui với thực khách ở tiệc cưới Cana cũng như lúc sẻ buồn với Chúa Giêsu và Hội thánh ở trên núi sọ. Mẹ cũng liên đới mật thiết với Hội thánh vì khi nhận lời trăng trối của Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ đã nhận thánh Gioan, đại diện cho toàn thể Hội thánh là con của mẹ. Nhờ thế, Mẹ đã hiệp công cứu chuộc với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình cứu độ. Mẹ có sức chuyển cầu hiệu quả cho những ai cậy trông vào Mẹ, cách riêng cho những ai chuyên chăm lần chuỗi Mân Côi.
2. Tràng chuỗi Mân Côi đưa tôi về trời.
Lần chuỗi Mân Côi là việc đạo đức bình dân không xếp trên thánh lễ, các bí tích và giờ kinh phụng vụ vì các việc trên là phụng vụ và là việc tôn thờ chính thức của Hội thánh. Tuy nhiên, việc lần chuỗi Mân Côi lại có một hiệu quả đặc biệt cho ơn cứu độ của mỗi người. Tại sao như vậy? Trước hết, Đức Maria có thế giá đặc biệt khi chuyển cầu cho con cái mình và kinh Mân Côi là lời Kinh được chính Đức Mẹ tỏ bày cho con cái mình. Vào thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo Anbidoa Miền Nam nước Pháp. Nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh Dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V đã tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi giáo tại vịnh Lêpăng vào đầu thế kỷ 16. Vào đầu thế kỷ 20, trong biến cố ở Fatima, Mẹ Maria đã khuyên dạy con cái mình siêng năng lần hạt Mân Côi để thế giới được hòa bình, mọi người được bình an.
Kế đến, lời kinh Mân Côi là bảng tóm Phúc Âm. Đây là kinh nguyện đầy nét Thánh Kinh được tập trung vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, chuỗi Mân Côi hướng rõ ràng về Đức Kitô. Thật vậy, kinh kính mừng là lời ca tụng Đức Kitô không ngừng: Kính chào bà đầy ơn phúc và con lòng bà gồm phúc lạ. Kinh lạy cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy để các tông đồ và người tín hữu biết cầu nguyện. Các ngắm vui, thương mừng, sáng diễn tả cô đọng mầu nhiệm của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho tới khi hoàn tất chương trình cứu độ và các ý nguyện giúp người đọc sống theo gương Chúa Giêsu. Kinh sáng danh là lời vinh tụng ca tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi cả sáng: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, kinh Mân Côi là kinh dễ thực hành cho mọi tín hữu trong mọi hoàn cảnh phù hợp cho một em bé cũng như cho cả Đức Giáo Hoàng. Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ kinh nghiệm của Ngài trong việc thực hành kinh Mân Côi được trích trong tông huấn Rosarium Virginis Mariae như sau: “Chuỗi Mân Côi là lời kinh tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó …Đã bao nhiêu năm qua, tôi đã lãnh nhận không biết bao nhiêu ân sủng từ Đức Trinh Nữ nhờ kinh Mân Côi”.
Ước mong mỗi khi chúng ta tin nhận thế giá bầu cử của Mẹ trong chương trình cứu độ. Chúng ta năng chạy đến Mẹ qua lần chuỗi hằng ngày, để chính Mẹ giúp mỗi người ngày càng gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu hơn.
21. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
(‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
22. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)
(‘Nút Vòng Xoay’ - ĐGM. Giuse Vũ duy Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường……? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.
23. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
(‘Với Cả Tâm Tình’ của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
24. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: “Tôi đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!”
Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:
“Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.
Thưa anh chị em,
Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: “Hãy chạy đến với Mẹ Maria”.
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông…”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin rằng: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta. Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của con người” (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong Tông Huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Kinh Mân Côi là kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ… những giá trị “nên xác thịt” nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi được gởi tới cho tất cả mọi người.
Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường ấy.
Như thế, thưa anh chị em,
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về với Giáo Hội.
Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của ngài.
Đối với chúng ta cũng thế, không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa. Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.
25. Mẹ Đầy Ơn Phước
(‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giờ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”.
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
26. Phương thuốc thần diệu
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của con người đều do một cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau... là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân...” (Rôma 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi Mân Côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi Mân Côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
* Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công; khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi...
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn xin vâng: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Luca 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giêsu. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phao-lô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:
“Đức Giêsu Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự...” (Philíp 2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu...” (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình.
27. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân... “ (Rôma 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là “đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”. (Rm 5, 19)
Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu...” (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! “ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
28. Kinh Mân Côi và Phúc Âm
(Lc 11,15-26)
Kinh Mân Côi là một việc đạo đức xuất phát từ Phúc Âm. Đúng thế, trước hết là những lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa đã truyền dạy cho các môn đệ.
Còn kinh kính mừng là gì nếu không phải là lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi lại. Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu nhiệm chúng ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ Tin Mừng và cuộc đời của Chúa.
Có một thời người ta đã không lần hạt như ngày nay, thay vì 15 mầu nhiệm, người ta đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm, nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một mầu nhiệm, từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh quang của Mẹ Maria, cũng như cho đến ngày tận thế. Chắc hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm cho kinh Mân Côi trở nên phức tạp và dài dòng.
Ngày nay chúng ta qui tụ lại thành 15 ngắm, tượng trưng cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược Tin Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói cách khác, đó chính là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa ươm mơ và thực hiện trong dòng thời gian. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng, vì vậy kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trợt trạt ngoài miệng, nhưng còn là một lời kinh để cho chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã rùng mình khiếp sợ. Nhưng thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những mầu nhiệm, mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ từng chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm đã gợi lên. Cũng không cần phải dừng lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy niệm theo đúng nghĩa của nó.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn chúng ta chỉ cần mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thập giá, lần từng bước tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy nghĩ tới thập giá cuộc đời chúng ta là những hy sinh, những gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Và như vậy cũng đã đủ lắm rồi.
Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, xét đoán dựa vào những kết quả đã thu lượm được. Trái lại, Ngài là một người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy thiện chí và sự cố gắng của mỗi người chúng ta. Như vậy không có nghĩa là bảo chúng ta không cần tiến tới sự trọn lành và thánh thiện.
Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một lời kinh thích hợp với thời đại chúng ta. Trong đời sống không ai trong chúng ta lại chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là dấu chỉ chúng ta đau yếu hay sắp chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên, chúng ta không ngừng lập lại lời kinh Lạy Cha và kinh kính mừng để lấy lại sức sống cho tâm hồn.
Bởi đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ đó chúng ta có đủ sức chịu đựng những khổ đau và thắng vượt được những cám dỗ trong cuộc sống.
29. Tôi là nữ tỳ của Chúa
(‘Manna’)
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo.
Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương.
Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35).
Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư.
Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con.
Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được.
Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác.
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có.
Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin.
“Phúc cho em là kẻ đã tin...” (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không?
Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ, tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
30. Chuỗi Mân Côi
1. Suy niệm về tràng chuỗi Mân Côi
Mân Côi là một bộ kinh để cầu nguyện với Mẹ Maria gồm 200 kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa suy gẫm 20 biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria. Cứ đọc 10 kinh Kính Mừng thì đồng thời suy gẫm một biến cố. 20 biến cố ấy được chia làm 4 nhóm:
a) Năm sự vui: gồm 5 biến cố trong cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu.
b) Năm sự sáng: gồm 5 biến cố trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu.
c) Năm sự thương: gồm 5 biến cố trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
d) Năm sự mừng: gồm 5 biến cố vinh quang (Đức Giêsu phục sinh và lên trời, Thánh Thần hiện xuống, Thiên Chúa ân thưởng và tôn vinh Mẹ Maria).
20 biến cố ấy là những biến cố cốt yếu trong Tin Mừng, nên có người nói chuỗi Mân Côi là một Tin Mừng được tóm gọn. Vì thế, đọc kinh Mân Côi hay lần chuỗi là một hình thức đặc biệt để suy gẫm Tin Mừng, theo kiểu miệng đọc tâm suy. Miệng thì đọc các kinh Kính Mừng kính Mẹ Maria, tâm thì suy niệm những biến cố của Tin Mừng, chủ yếu là những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu. Như thế, đọc kinh Mân Côi không chỉ là cầu nguyện với Mẹ Maria, mà còn là suy gẫm về Đức Giêsu và cầu nguyện với Ngài.
Trong kinh Mân Côi, ta thấy có sự liên kết hết sức chặt chẽ giữa Đức Giêsu và Mẹ Maria. 20 biến cố của kinh Mân Côi đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới Mẹ Maria. Chẳng hạn các biến cố của năm sự thương có vẻ như chỉ là biến cố của Đức Giêsu, nhưng trong thực tế Mẹ Maria luôn luôn theo dõi hoặc có mặt một cách âm thầm trong đó. Những biến cố ấy ảnh hưởng rất sâu đậm đối với cuộc đời Mẹ, và một cách nào đó cũng là những biến cố quan trọng trong cuộc đời Mẹ. Những đau khổ của Đức Giêsu đều trở thành đau khổ của Mẹ, vì thấy người mình yêu bị đau khổ, và vì không ai yêu Đức Giêsu bằng Mẹ. Trong những đau khổ ấy, Mẹ cũng đau khổ không kém gì Đức Giêsu, chỉ khác ở chỗ người đau khổ trong thực tế, còn người đau khổ trong tâm hồn.
2. Tại sao Mẹ Maria chỉ cho chúng ta cách cầu nguyện bằng kinh Mân Côi?
Truyền thuyết trong Giáo Hội cho rằng kinh Mân Côi đã được chính Mẹ Maria truyền dạy cho thánh Đa-minh, và khi hiện ra tại Fa-ti-ma (Bồ Đào Nha), Đức Mẹ cũng khuyên các Ki-tô hữu năng lần chuỗi Mân Côi. Chắc chắn Mẹ Maria không vì muốn người ta ca tụng tung hô mình mà khuyên họ tôn sùng trái tim mình và năng đọc kinh Mân Côi. Và cũng chắc chắn rằng không phải hễ ai ca tụng Mẹ, năng đọc kinh Mân Côi thì Mẹ sẽ đặc biệt ưu ái đối với người ấy vì người ấy ca tụng Mẹ. Nếu Mẹ Maria khi còn sống đã khiêm nhường hết mực, thì khi lên trời và làm Nữ Vương thiên đàng, chắc chắn Mẹ cũng vẫn khiêm nhường như vậy, thậm chí còn khiêm nhường cách hoàn hảo hơn nữa. Vì thế, ta không thể xét đoán theo tâm lý ham được khen ngợi của con người để nghĩ tương tự cho Mẹ Maria.
Chủ yếu trong việc truyền kinh Mân Côi cho loài người là Mẹ muốn con người nên thánh thiện, hoàn hảo và nhờ đó cá nhân được hạnh phúc, xã hội được bình an trật tự, có công bằng bác ái, chứ không phải để Mẹ được tung hô khen ngợi. Nhưng trong thực tế, không có một mẫu gương nào trên đời đáng cho mọi người suy gẫm và bắt chước để nên thánh thiện cho bằng Đức Giêsu và Mẹ. Nên vì ích lợi của con người, Mẹ đã không ngần ngại đưa mình ra làm gương để con cái bắt chước.
Thật vậy, trong gia đình, người mẹ lấy mình ra làm gương cụ thể cho con cái bắt chước, thiết tưởng chẳng có gì là quá đáng hay mang tính kiêu căng, mà trái lại là một phương pháp sư phạm rất khôn ngoan. Vì đối với đứa con, chẳng có gì gần gũi, thân thiện và cụ thể cho bằng người mẹ. Chẳng có gương mẫu nào cụ thể dễ bắt chước cho bằng gương của mẹ. Nếu vì ngại đưa mình ra làm gương nên đã đưa ra một gương khác xa vời và kém xa mình cho con cái, thì thiết tưởng làm như thế không phải là khôn ngoan, cũng chẳng phải là khiêm nhường. Cốt tủy của khiêm nhường là tinh thần tự hủy, không đặt nặng cái tôi, chứ không phải là hành vi tự hạ bên ngoài. Tự hạ bên ngoài mà vẫn còn quan trọng hóa cái tôi thì không phải là khiêm nhường. Chính khi tự lấy mình ra làm gương mẫu vì nhắm ích lợi của con cái mình, Mẹ Maria càng chứng tỏ Mẹ không đặt nặng cái tôi của mình.
3. Cách đọc kinh Mân Côi cho có ích lợi
Điều cốt tủy của kinh Mân Côi không phải là đọc cho đủ các kinh Kính Mừng cho bằng việc chiêm ngắm các biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria để noi gương và bắt chước. Nếu miệng đọc các kinh Kính mừng còn tâm trí chiêm ngắm và suy nghĩ 20 biến cố cuộc đời Đức Giêsu và Mẹ Maria, thì các kinh Kính mừng giúp ta hạn định được số thời gian bằng nhau cho việc chiêm ngắm mỗi biến cố. Nếu mỗi ngày ta đều đọc một chuỗi Mân Côi, thì nhờ năng chiêm ngắm Đức Giêsu và Mẹ Maria trong các biến cố cuộc đời các Ngài, mà ngày qua ngày, ta dần dần trở nên giống các Ngài trong quan niệm, tư tưởng, lời nói và hành động.
Theo các nhà tâm lý học, tự kỷ ám thị là một phương pháp tự giáo dục vừa đơn giản, dễ dàng lại vừa hữu hiệu. Không nói tới những ơn ích siêu nhiên, chỉ bàn tới khía cạnh tâm lý tự nhiên thì kinh Mân Côi vốn là một phương pháp tự kỷ ám thị rất khôn ngoan, có khả năng biến đổi bên trong con người một cách từ từ nhưng hữu hiệu. Điều quan trọng là có một khuôn mẫu tốt đẹp nào đó để tưởng tượng và nghĩ tới thường xuyên. Ngày này qua ngày khác, con người làm như thế sẽ được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy. Điều quan trọng của tự kỷ ám thị không phải là nghĩ tới khuôn mẫu ấy lâu giờ, mà là năng nghĩ tới khuôn mẫu ấy. Người chăm chỉ đọc kinh Mân Côi thì ngày nào cũng chiêm ngưỡng cách hành xử khuôn mẫu của Đức Giêsu và Mẹ Maria, nên sẽ được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy một cách vô thức, không cần phải cố gắng nhiều.
4. Còn khía cạnh siêu nhiên của kinh Mân Côi nữa
Nhưng kinh Mân Côi không chỉ là một phương pháp tự kỷ ám thị để tự giáo dục và thánh hóa mình cách hữu hiệu theo phương pháp tâm lý tự nhiên. Nó còn là một phương tiện bảo đảm để kéo ơn Chúa xuống nữa, vì chính Đức Mẹ đã hứa ban dồi dào ơn thánh cho những ai năng đọc kinh ấy. Như thế, kinh Mân Côi vừa là một phương pháp tâm lý tự nhiên, vừa là một phương thế siêu nhiên do chính Đức Mẹ giới thiệu để nên thánh. Vì thế, kinh Mân Côi thật là một cách cầu nguyện tuyệt vời đầy kết quả mà người Ki-tô hữu khôn ngoan cần phải biết sử dụng để nên thánh và kéo ơn lành xuống cho mình.
31. Kính Đức Mẹ Môi Khôi
Kinh Môi Khôi, lời kinh đơn giản nhưng phong phú
Anh chị em thân mến,
Người Việt Nam chúng ta được tiếng là kính mến Đức Mẹ, nhất là kính mến Mẹ qua việc lần chuỗi Môi khôi. Điều này rất tốt và rất đúng đắn, vì việc lần chuỗi tôn kính Mẹ Maria là một lối cầu nguyện đơn giản và hiệu quả, một lối cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa, một con đường dẫn đến với Chúa. Lối cầu nguyện này không chỉ dành cho người bình dân ít học, mà cho cả các bậc thông thái thánh nhân, cả nam lẫn nữ. Lời kinh này đã có nguồn gốc lâu đời trong kinh nguyện của Hội Thánh, ngay cả trước thời thánh Đaminh. Ước gì tháng Môi khôi hàng năm, nhất là năm nay, là một dịp cho chúng ta hiểu cặn kẻ hơn, nhất là không coi thường giá trị của lời kinh đang phổ biến trong Hội thánh. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Nguồn gốc: như trên đã nói, kinh Môi Khôi đã được phổ biến lâu đời trong Hội Thánh; dù vậy phải chờ đến tk 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra dạy cho cách thức lần chuỗi và ngắm 15 Sự mầu nhiệm như ngày hôm nay.
Ngày lễ Đức Mẹ Môi Khôi khởi đầu có nguồn gốc là ngày lễ Đức Mẹ chiến thắng, do biến cố Đức Mẹ phù trợ Hội thánh vượt qua cuộc xâm lăng của quân Hồi giáo thời Đức Piô V, Người đã kêu gọi tín hữu toàn cầu lần chuỗi cầu nguyện cho Hội thánh thoát khỏi cuộc xăm lăng này; vì thế đạo binh thánh giá đã chiến thắng quân Hồi giáo đông gấp hai lần tại vịnh Lépante năm 1571.
b/. Ý nghĩa và hiệu quả: Danh từ Môi khôi, Mai khôi, Mân côi, nguyên ngữ chữ Hán là hoa hồng. Hoa hồng là nữ hoàng của muôn hoa, lại còn chỉ Tình yêu nữa. Gọi Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Môi khôi, là Hội thánh có ý ca tụng Mẹ là Người Phụ Nữ vừa cao đẹp, vừa tôn quí. Mẹ chính là là Hoa Hồng tuyệt mỹ, bất diệt đầy tình yêu, đã và đang chia sẻ thân phận con người chúng ta trong cuộc hành trình về quê hương thật là Nước Trời.
Lịch sử Hội thánh cho thấy việc lần chỗi Môi khôi đem lại nhiều kết quả tốt đẹp lớn lao. Nhiều vị thánh và tín hữu nhờ kinh Môi Khôi mà nên thánh hay đạt được ý nguyện. Thánh Đaminh đã kêu gọi mọi tín hữu trong Hội thánh lần chuổi, nhờ đó đánh tan được bè rối Albigeois bên nước Pháp. Theo lời kêu gọi của ĐGH, các tín hữu đã lần chuỗi mà chiến thắng quân Hồi giáo tại vịnh Lepante như nói ở trên. Nhiều lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức (1858), hiện ra ở Fatima, Bồ Đào Nha (1917), trên tay Mẹ luôn cầm tràng chuỗi Môi Khôi. Các Đức Giáo Hoàng đã ra nhiều thông điệp ca tụng khuyến khích việc lần hạt Môi Khôi. Các ngài dù hết sức bận rộn công việc hàng ngày, vẫn năng đọc kinh Môi Khôi như vị Giáo hoàng thân yêu vừa mới qua đời của chúng ta, Đức Gioan Phaolô 2. Ai gặp ngài, luôn thấy ngài cầm tràng hạt trên tay.
c/. Kinh Môi Khôi là lối cầu nguyện đơn giản, hiệu quả và phong phú, dành cho hết mọi người: đơn giản vì vừa dễ nhớ và dễ thực hành; phong phú vì khi ngắm 15 Sự là ta suy niệm đủ các mầu nhiệm TC, để khi ta vừa đọc, ta vừa tôn vinh, cảm tạ, thờ phượng, yêu mến TC qua Người Mẹ thần thánh, Đức Trinh Nữ Maria. Suy ngắm 15 Sự MK cũng được gọi là suy ngắm Tin Mừng rút ngắn. Kinh MK còn là lời kinh của mọi người, vì nó không chỉ dành cho giới bình dân, mà ngay cả giáo sư tiến sĩ Louis Pasteur, nhà bác học lừng danh và là vị cứu tinh của nhân loại trong tk 20, vậy mà ông vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Chúng ta nghỉ làm sao?
d/. Suy niệm: * Có người cho rằng lần chuỗi Môi Khôi là kinh nguyện của đàn bà, con trẻ, của mấy ông thầy tu.... Điều này đi ngược lại truyền thống của Hội Thánh, vì đây là lời kinh phổ biến từ lâu, nhất là lời kinh do chính Đức Mẹ dạy nữa. Nếu ta vẫn chưa tin, hãy cầm chuỗi lên, cùng lần với Đức Mẹ, nhất là hãy thử lần chuỗi bằng trái tim, bằng cả tấm lòng yêu mến như Đức Mẹ Mễ Du dạy, hãy làm thử xem sao?
32. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?
(Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Maria, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Maria nói chung, theo như tác giả Luca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ…, những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
33. Kinh Mân Côi góp phần xây dựng nhân loại mới
(Lm. FX. Đào Trung Hiệu)
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng Kinh Mân Côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: "Đi được ba chuỗi năm chục". Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số.
Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng Kinh Mân Côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn.
Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức...
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh.
Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: "Bác ơi ! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!".
Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: "Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi".
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng.
Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp.
Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: "Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp"
Êm đềm mà thấm lâu...
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường Kinh Mân Côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua... đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh "Kính Mừng" quen thuộc, chính là lời chào mừng "Ave: Mừng vui lên" của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời chào "Ave" ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào "Đấng đầy ơn sủng", chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
"Chữ E-va Mẹ đảo vần, Thành A-ve gửi bình an cho đời".
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng". Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: "Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: "Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ".
Đọc kinh "Kính Mừng", ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới "cao hơn, nhanh hơn, xa hơn". Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại...
Cũng vậy, qua những lời "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", chúng ta chiêm ngưỡng một "kỷ lục tuyệt hảo" của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh "Kính Mừng" không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử. Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.
34. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau...
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ… người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc... Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
35. Tại sao chúng ta đọc kinh Mân Côi?
(ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay. Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại máu A, B, C, D,… Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,…, và phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada… Vì thế, đây cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi, chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết được vấn đề - rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra. Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh, bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình. Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những người xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi
Để em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ trên cao sẽ thương tình
Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.
36. Đức Chúa Ở Cùng Bà
(‘Manna’)
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã.
Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an
để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin,
lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương.
Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời,
và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ
vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương
được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng,
để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa.
Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời,
Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh,
nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ,
vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng
và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42)
vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia.
Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc
vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa
và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ,
để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc:
“Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời,
vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa,
và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu,
nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài:
“Mẹ tôi và anh em tôi là những ai
nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống,
chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay.
Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn,
mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
37. Tháng Mân Côi: nhớ lời Đức Mẹ nhắn nhủ
(ĐGM GB. Bùi Tuần 10/2001)
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự” (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: “Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.
38. Thánh Mẫu Mân Côi
Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII, Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế cho 150 Thánh vịnh. Các mầu nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc Âm rút gọn của người bình dân, bởi vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân Côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.
Chuỗi Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường đi Tây Ban Nha, hai thánh Đaminh và Bênađô chẳng may bị sa vào tay quân cướp. Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.
Cũng chính thánh Đaminh, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân Côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân Côi. Chẳng hạn Kinh Mân Côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan... Chuỗi Mân Côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi.
Vậy khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song của kinh Mân Côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước Trời.
39. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
“Hãy xin thì sẽ được”
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.
Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống chàng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nòi được là thi vị hơn nhiều.
Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là Chapel- nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.
Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.
Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các Tu sĩ mỗi ngày đọc đủ 150 kinh dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp nhận, khi Người hiện ra với Thánh ĐaMinh vào thế kỷ XIII. thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và Dòng của Ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Lần chuỗi không phải là việc đọc kinh một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự VUI để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự THƯƠNG để theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm nhiệm năm sư MỪNG để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở lộ Đức và Fatima.
Tại rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng Thánh nữ Catherine Labouret: con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Đức Mẹ.
Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Benrnadetta đến quì tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong một bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đóc kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy em Phanxicô phải lần hạt mới được về Thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy la phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỉ, nhất là để nhở Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa, ad Jesum per Mariam. Amen.
40. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: “Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên 'chiều kích Thánh Mẫu' của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng”. Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.
Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ
Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng, Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.
“Các con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33)
Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: “Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế”(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria, nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng”. Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư, La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ: “phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi”. Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời. Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần. “Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ…”
Lễ Mân Côi nói gì cho nhân loại
Lễ Mân Côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria. Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Giacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: “Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”.
Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi.
Chuỗi Mân Côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu.
“Lạy Chúa, …… xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình Thập giá, và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh” (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Đức Mẹ Mân Côi).
41. Mai Khôi: bông hồng đẹp, viên ngọc quí
(Lm. An-rê Đỗ xuân Quế)
Mân Côi, Văn Côi, Môi Khôi, Mai Khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai Khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.
Chuỗi Mai Khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính Mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính Mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính Mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai Khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
Nguồn gốc chuỗi Mai Khôi
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai Khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho thánh Đaminh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau là thánh Đaminh đã lập ra chuỗi Mai Khôi. Vì thế, trong dòng Đaminh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho thánh Đaminh.
Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đaminh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo Công giáo. Thánh Đaminh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai Khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai Khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.
Hai tu sĩ dòng Đaminh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai Khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đaminh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai Khôi và thành lập các hội Mai Khôi.
Nguồn gốc Lễ Mai Khôi
Ngày Chúa nhật 07/10/1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai Khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai Khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai Khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai Khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.
Ý nghĩa của Chuỗi Mai Khôi và Lễ Mai Khôi
Trên đây là nguồn gốc của Chuỗi Mai Khôi và Lễ Mai Khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai Khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai Khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.
Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai Khôi và lễ Mai Khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.
42. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi
“Hãy canh tân đời sống và lần chuỗi mỗi ngày”
Câu hỏi gợi ý
1. Đức Maria có vai trò gì trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?
2. Đức Maria và việc lần hạt Mân Côi.
3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Ki-tô.
Suy tư gợi ý
1. Vai trò của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:
a) Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do thái khác khi sắp đến tuổi lấy chồng, Maria cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít. Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Maria đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
b) Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy vị trí của Đức Maria giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.
c) Bài đọc 2 của Thư Galát của Thánh Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).
2. Đức Maria và việc lần hạt Mân côi.
a) Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Ki-tô và cũng là của Đức Maria, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời “xin vâng – fiat!” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.
b) Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày.” (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).
c) Thánh Đaminh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”.
Còn cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”
3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Ki-tô.
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ “gương mẫu” nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Cha đã đổ tràn ân sủng của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng Tình Thương và Quyền Năng của Cha!
Lạy Chúa Giêsu Ki-tô, Chúa đã sinh ra từ một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Maria và Thánh Giu-se, đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Maria, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Ki-tô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng con.
43. Mưa nắng đời thường
Lạy Mẹ Maria, đời người ai cũng có lúc đẫm một chút mưa rồi lại một chút nắng - tất cả còn nguyên vẹn trong con như nỗi nhớ niềm thương...
Con có thói quen đọc kinh Truyền Tin ngay sau khi dâng ngày sáng. Buổi sáng hôm nay cũng thế. Con tung chăn ngồi bật dậy dâng ngày sống cho Chúa và đọc kinh Truyền Tin. Ngoài sân những hạt mưa bụi lất phất bay. Mây đen chắc nhiều lắm, đã năm giờ, trời vẫn còn tối mịt. Mưa bụi trở nên nặng hạt rồi lớn dần. Gần một giờ đồng hồ sau, hạt mưa lại nhẹ nhàng, mong manh...
Cuộc sống của một ngày mới lại bắt đầu. Ngoài kia, chị bán hàng đã bày hàng ở chợ. Những em bé và những người bán dạo vẫn cất lên trong trẻo hoặc khàn đục tiếng rao. Cô công nhân và bác nông dân đã vội vã ra khỏi nhà Và con cảm nhận, vầng tráng họ có lẽ bây giờ đã lấm tấm những giọt nước trong, chắc hẳn không phải giọt nước mưa vô tình để lại...!
Lạy Mẹ dấu ái, mưa đó rồi lại nắng. Chín giờ rưởi ngọn nắng đã lên cao như bù lại buổi bình minh không có. Và dù nắng hay mưa, cuộc sống vẫn tấp nập, vẫn ồn ào. Nó vẫn mang trong mình bao nhiêu nhịp thở của nhân loại, có khi hạnh phúc, có khi buồn thương
Con vào nhà thờ dâng thánh lễ đầu ngày. Nâng cao dĩa thánh mà như thấy cả sự sống nhân loại oằn nặng trên tay mình. Bởi nhận ra sự oằn nặn ấy, mà từng ngày trong thánh lễ, con đã dâng, và sẽ dâng trong hy tế của Chúa Giêsu là niềm vui của người hạnh phúc, dâng những ưu tư về cuộc nhân sinh đang giăng mắc đầy những cảnh đời nghiệt ngã. Con đã và sẽ dâng những mảnh đời rất thực: đó là chính bản thân con, là anh chị em tín hữu và của biết bao nhiêu đồng loại chung quanh. Con đã làm và sẽ làm như thế đến nhịp thở sau cùng của mạng sống con.
Lạy Mẹ Maria, cuộc đời dẫu có mưa, có nắng - tất cả dệt trong con thành nỗi nhớ niềm thương dâng tiến Mẹ.
Nhưng con hiểu mưa nắng không chỉ là hiện tượng của thời tiết đổi thay, mà mưa nắng vẫn rơi trong lòng của cả một kiếp làm người nữa.
Kiếp sống con người có vui, có khổ, có khóc, có cười. Là Mẹ Thiên Chúa, định luật cuộc đời, Mẹ cũng không thoát khỏi. Đọc lại những trang Tin mừng, con cảm nhận sâu xa về niềm đau và nỗi vui của Mẹ. Vừa được báo tin Mẹ sẽ làm mẹ Thiên Chúa, thì sau đó lại bị thánh Giuse hiểu lầm bởi bào thai đang lớn dần. Vui chưa trọn với ngày Con Chúa sinh ra, đã phải khăn gói lên đường di tản vì bạo vương Hêrôđê tìm giết. Khi người con ấy lên mười hai tuổi, có lần lại phải tìm con thất lạc. Và hơn hết mọi đau khổ, biến cố Canvariô đã làm Mẹ tan nát cõi lòng. Nhưng niềm đau lớn thì nỗi vui cũng lớn. Chắc Mẹ đã vui nhiều trong niềm tin vào Con của Mẹ phục sinh. Là Mẹ Thiên Chúa, để đạt tới đỉnh vinh quang, Chúa cũng không để Mẹ đứng ngoài đau khổ. Con hiểu mầu nhiệm cuộc đời là như thế: Có nỗi vui và nỗi buồn làm tăng giá trị.
Mẹ đã xin vâng để rồi tiếp sau đó là cả một đời chấp nhận, không ồn ào, không than vãn. Niềm vui hay nỗi buồn Mẹ đều ghi sâu và suy niệm. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Mẹ không xem thường những biến cố rơi vào giữa đời người, nhưng Mẹ cũng không quan trọng hóa chúng. Mẹ đón nhận cách tự nhiên bằng lòng tin vào sự quan phòng của Chúa. Mẹ đã nội tâm hóa tất cả, đã suy niệm trong lòng tất cả, và Mẹ đã đọc trong mỗi biến cố sự nhiệm mầu mà Chúa muốn tỏ bày nơi Mẹ. Mẹ vĩ đại không nhờ vào sự vĩ đại, lớn lao nơi những công trình trần thế. Nhưng Mẹ vĩ đại chỉ có một điều duy nhất: lắng nghe tiếng lòng. Ở đó, trong im lặng, nơi hoan vu của sa mạc đời mình, Mẹ đã nhận ra ý Chúa. Tiếng nói tự cõi lòng không cất lên chỉ trong một thời, một buổi, mà âm vang cả cuộc đời của Mẹ, vì Mẹ đã giữ kỹ các điều ấy trong lòng1, và mỗi ngày tiếng ấy càng thôi thúc Mẹ khẳng định rõ lời xin vâng bằng chính đời sống của Mẹ.
Vâng! Mẹ là như thế: Tất cả vì tình yêu Thiên Chúa. Hôm nay trong đời sống hiện tại, có khi mưa có khi nắng, mỗi chúng con, dù sống ơn gọi tu trì hoặc sống ơn gọi giữa đời, đều có những ưu tư, khắc khoải trong mỗi trách nhiệm khác nhau của mình. Chúng con biết rằng khi cố gắng chu toàn trách vụ là chúng con cố tạo hạnh phúc cho đời mình. Vì niềm vui không đến tự nhiên nhưng nó phải đến sau vất vả phải không Mẹ. Mưa nắng cuộc đời Mẹ đã đi qua, Mẹ đã cảm nếm, và Mẹ nêu gương cho chúng con khi biết vâng lời chịu đựng. Ngày mỗi ngày dẫu có những lo toan, vất vả, những giọt mưa hay những sợi nắng đan chéo trong đời, chúng con sẽ ấm lòng khi ngước trông lên Mẹ, và học lấy gương của Mẹ.
Thưa Mẹ con muốn lắng nghe tiếng nói của lòng mình. Tiếng nói mà ngoài Chúa ra, chỉ có con là người thứ hai được hiểu. Mưa hay nắng của cuộc đời sẽ làm tiếng nói ấy có giá trị hơn. Vì nếu nhịp sống cứ bình lặng mỗi ngày như nhau có lẽ sẽ buồn chán lắm và con cũng chẳng đọc được giá trị đời mình. Tiếng nói đó sẽ giúp con hiểu ý nghĩa của từng cơn mưa, đợt nắng rơi vào hồn con. Con sẽ được biết và càng biết nhiều hơn nếu mưa trở thành vũ bão, và nắng trở thành nóng rát quay cuồng trong con. Chỉ có quay về với lòng mình, con mới có đủ sức đón nhận. Chúa sẽ nói cho con và nói nhiều lắm khi con biết xua đi những ồn ào của cõi lòng con. Chúa an ủi con. Ngài âu yếm nhìn con và hướng về Mẹ mà bảo: Này là con Bà. Chúa sẽ giải thích cho con hiểu về thánh ý của Ngài: Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta. Trên quảng đường đầy mưa, đầy nắng đó, có Chúa cùng con song hành. Ngài không đánh con đau khi con sai trái, nhưng Ngài nâng con dậy mỗi khi con quỵ ngã. Ngài luôn ở bên con vì Ngài đã hứa rất nhiều lần: Ta sẽ ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế!. Mẹ ơi, con nhớ ngày xưa thiên thần cũng đã từng nói với mẹ: Chúa Trời ở cùng Bà. Vâng! Giống như Mẹ, mỗi người chúng con hôm nay đang mang Chúa trong cuộc đời mình. Nhận ra mình đang mang Chúa - một Giêsu đi qua thập giá để đến vinh quang mới là điều hệ trọng. Mẹ ơi, con hiểu ý nghĩa cuộc đời là khi con chấp nhận ý Chúa dù thương đau hay hạnh phúc.
Lạy Mẹ Maria, đời người ai lại không có lúc đẫm một chút mưa rồi một chút nắng - tất cả còn nguyên vẹn trong con như nỗi nhớ niềm thương. Xin dâng lên Mẹ tất cả. Xin bàu cử cho chúng con trước mặt người Con yêu dấu của Mẹ. Amen.
44. Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi
(ĐGM. Bùi Tuần)
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
45. Một phép lạ vĩ đại chưa từng xảy ra!
(Lm. Nguyễn Hữu Thy)
1. Fatima, 13.10.1917
Tại ngọn đồi Cova da Iria ở Fatima, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa đã hiện ra lần thứ sáu với ba trẻ chăn chiên: Lucia (10 tuổi), Francisco (7 tuổi) và Jacinta (6 tuổi). Nhưng nhiều người cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra chỉ là trò hề, do ba đứa trẻ nhà quê bịa đặt ra để gạt gẫm người khác hay do thủ đoạn của những người lớn đứng phía sau giật dây để nhắm tới một mục đích chính trị hay kinh tế nào đó. Chính bà mẹ Lucia cũng hoàn toàn nghi ngờ, đến nỗi bà còn đánh đập con gái mình vì cho rằng Lucia nói dối.
Để đánh tan sự nghi ngờ và bất tín của thiên hạ, nhất là để mọi người tin nhận biến cố Fatima là sự thật, trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917, Vị Thiên Nữ đã hứa là vào ngày 13.10.1917 sẽ có một phép lạ vĩ đại xảy ra trước sự chứng kiến của mọi người. Lời hứa này còn được Vị Thiên Nữ nhắc lại vào ngày 19.08.1917 và vào ngày 13.09.1917.
Vâng, trong lần hiện ra vào ngày 13.09. 1917, sự thông báo của Vị Thiên Nữ về một phép lạ vĩ đại sẽ xảy ra vào ngày 13 tháng 10 tới, cũng được ba trẻ nói cho mọi người hay. Vì thế đúng vào ngày đó, đã có khoảng từ 50.000 đến 70.000 người tấp nập đổ xô về Fatima, trong số họ, gồm có đủ mọi hạng người, từ các tín hữu, những người tò mò, cho đến cả những người nghi ngờ chống đối.
2. Nhiều phóng viên của những tờ báo lớn ở Bồ Đào Nha đã đến lấy tin
Họ đều có mặt trong lần hiện ra hôm đó. Nhưng có lẽ những phóng viên này chỉ muốn đến để để soạn sửa cho bản tin ăn khách sẽ được đăng ở trang nhất trên các tờ báo của họ trong số ra ngày mai với tít lớn: “Sự thất bại ê chề của hiện tượng Fatima”, hay: “Nhân loại văn minh của thế kỷ XX vẫn còn bị những chuyện hoang đường lừa đảo”, kèm theo những bài bình luận đầy giọng mỉa mai châm biếm tôn giáo, nếu như phép lạ đã được loan báo trước, không xảy ra.
Nhưng vào ngày 13.10.1917, mọi sự đã xảy ra hoàn toàn khác với ý nghĩ của những nhà báo này: Phép lạ cả thể đã thực sự xảy ra; mặt trời đã quay cuồng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người có mặt hôm đó.
3. Một vị giáo sư là chứng nhân hiện tượng lạ lùng hôm đó
Ở đây, chúng ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học tự nhiên đại học Coimbra, kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó. Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự chú ý của mọi người:
“Hôm đó, tôi đến nơi vào giữa trưa. Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt, mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập cả cảnh vật. (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều. Trong vài giây lát trước đó, mặt trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bổng chốc nó chiếu sáng qua đám mây. Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô hình nào đó cuốn hút vậy. Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời. Nó trông giống như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi nhưng không làm lóa mắt. (…) Nhưng mặt trời vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che khuất sau một đám mây. Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu trời. Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động rất nhanh. Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi sao. Cái đĩa lửa quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt hôm đó bỗng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh. Mặt trời cứ tiếp tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời, nó tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa không lồ. (…) Tất cả những hiện tượng này tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả. Tôi cũng hoàn toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.”
4. Phải chăng đám đông bị thôi miên?
Về phép lạ mặt trời quay, có lẽ sẽ có người sẽ cắt nghĩa ngay rằng vì đã được báo từ trước, và đám đông đã đến Fatima với một tâm trạng quá nóng lòng hồi hộp chờ đợi. Vì thế, khi có một hiện tượng bất bình thường nào đó nơi mặt trời xảy ra, họ đã vội cho là phép lạ, và rồi sự công nhận đó cứ lan tỏa ra nhanh trong đám đông một cách vô ý thức như một dòng điện vậy, tương tự như phản ứng của các khán giả ngồi xem đá banh trong một sân vận động khi có cầu thủ đá thủng lưới đối phương.
Nhưng sự cắt nghĩa đó sẽ hoàn toàn trở nên buồn cười và không thể đứng vững được khi sự kiện cụ thể xảy ra trong thực tế, đó là người ta có thể quan sát và nhìn thấy được phép lạ mặt trời quay trong chu vi rộng 1550 cây số vuông.
Rất nhiều nhân chứng đã từ xa chứng kiến được phép lạ mặt trời, lại là những người vô tín ngưỡng, những người đã từng phê bình và cười chê những khách đến Fatima hôm đó như những kẻ “nhẹ dạ cả tin”.
Trong số những người quan sát được phép lạ mặt trời từ xa, chứ không có mặt tại Fatima, đã cho ý kiến như sau:
Linh mục Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54km. Tất cả đều tưởng ngày tận thế đã đến.
Cha Lourenco tường thuật lại như sau:
“Tôi nghĩ rằng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia. Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả. Mặt trời vào lúc bấy giờ, trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của mình, và bổng chốc, nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa. Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm tận. Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại; còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường. Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…
Lúc bấy giờ có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười nhạo những người tới Fatima là “những kẻ ngu ngốc”, cốt chỉ để xem một đứa bé gái nhà quê. Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời. Ông ta bắt đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.”
5. Một hiện tượng không thể cắt nghĩa được
Qua sự trình bày của tất cả mọi nhân chứng có mắt hôm đó khi xảy ra phép lạ mặt trời quay, người ta có thể nói được rằng phép lạ cả thể đó có bốn đặc điểm khác nhau:
1. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào một vật sáng chói lọi, mà họ cho là mặt trời, chứ họ không cần phải đeo kính râm hay bất cứ phương tiện bảo vệ mắt nào cả.
2. Vừng sáng chói lọi đó đã tỏa ra những tia sáng mầu sắc rực rỡ xuống trên mặt đất, đến nỗi mọi cảnh vật đều bị nhuộm mầu hết.
3. Vừng sáng chói lọi rực rỡ đó rơi xuống trên đám đông.
4. Chỉ trong vòng mấy phút mà cả vùng đất Fatima đang bùn lầy dơ bẩn bổng chốc trở thành khô cứng, và áo quần của đám đông trên dưới 60.000 người từng bị cơn mưa cả buổi sáng làm ướt đẫm, cũng hoàn toàn khô ráo bình thường.
Đúng vậy, chỉ trong vòng khoảng 10 phút đồng hồ mà cả mặt đất lầy lội cũng như quần áo ướt át của đám đông bổng chốc khô ráo hoàn toàn. Đó quả là một điều đã minh nhiên nói lên rằng ngoài phép lạ siêu nhiên ra, không thể tìm ra được lời giải thích theo phương diện tự nhiên được.
07/10 Mừng vui đích thực
- Viết bởi Lc 1, 26-38
Mừng vui đích thực.
Thứ bảy đầu tháng, tuần 26 thường niên - Lễ Đức Mẹ Mân Côi. Lễ nhớ.
"Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai".
* Ngày 7 tháng 10 năm 1571, Tây Phương thoát khỏi sự đe dọa của quân Thổ Nhĩ Kỳ nhờ chiến thắng ở vịnh Lê-pan-tô. Người ta cho rằng chiến thắng đó là kết quả của Kinh Mân Côi.
Ngày nay, mừng lễ này không có nghĩa là mừng biến cố xa xưa đó, nhưng là nhắc nhở việc suy niệm các mầu nhiệm nhập thể, thương khó và phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa cũng như khám phá ra vị trí của Đức Trinh Nữ Maria trong mầu nhiệm cứu độ.
LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ".
Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận. Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ðức Maria, Bông Hoa Hường Mầu Nhiệm
Nói đến Lễ Mai Khôi là nói đến hoa. Những bông hoa muôn màu muôn sắc dâng trước toà Mẹ. Những bông hoa kinh nguyện sốt sắng kết dệt nên những lời ca tụng Mẹ. Những bông hoa hi sinh, bác ái muốn toả hương dưới chân Mẹ. Những bông hoa nói lên lòng yêu mến của con cái đối với Mẹ hiền. Những bông hoa cũng cố gắng diễn tả phần nào nét đẹp của Mẹ. Thật vậy, giữa ngàn hoa, Ðức Ma-ri-a nổi bật như bông hoa cao quí xinh đẹp nhất. Ðẹp đến độ “đẹp lòng Thiên Chúa”. Trình thuật Truyền tin cho ta thoáng thấy vài nét đẹp của Người.
Người có nét đẹp đơn sơ.
Ðơn sơ trong khung cảnh làng quê Na-da-rét. Ðơn sơ trong nếp sống thôn nữ đạm bạc. Nhất là đơn sơn trong tâm hồn giản dị. Sự đơn sơ trong tâm hồn được bộc lộ qua những suy nghĩ trong sáng, những phát biểu thật thà, thẳng thắn trình bày với thiên sứ hoàn cảnh cụ thể của bản thân. Ðơn sơ trong vâng phục. Khi đã hiểu rõ ý định của Thiên Chúa chỉ đơn sơ thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tâm hồn đơn sơ của Người chiếu toả như viên ngọc trong suốt không một tì ố.
Người có nét đẹp khiêm nhường.
Khiêm nhường trong nếp sống ẩn dật nơi làng quê nhỏ bé. Khiêm nhường trong nhận thức về bản thân. Thật vậy, khi nghe thiên thần chúc tụng Người “Ðầy Ơn Phúc”, Ðức Ma-ri-a thật sự ngạc nhiên. Bản thân Người không dám nhận danh hiệu cao đẹp ấy. Khiêm nhường trong tâm hồn biểu lộ trong lời nói. Khi đã chấp nhận chương trình của Thiên Chúa, Ðức Ma-ri-a vẫn khiêm tốn xưng mình là “Nữ tỳ của Thiên Chúa”. Thật khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường càng tô thêm vẻ đẹp tuyệt vời nơi Người.
Người có nét đẹp từ bỏ.
Từ bỏ là vượt lên trên. Từ bỏ khiến con người trở nên cao đẹp, thanh thoát. Từ bỏ của cải đã khó. Từ bỏ bản thân khó hơn. Từ bỏ ý riêng mới thật cam go khốc liệt. Ðức Ma-ri-a đã có chương trình riêng: sống đời trinh nữ. Ðó là một chương trình đẹp. Nhưng khi biết chương trình của Thiên Chúa, Người đã sẵn sàng từ bỏ chương trình riêng. Nhờ từ bỏ chương trình riêng mà chương trình của Chúa được thực hiện. Nhờ từ bỏ bản thân mà Người đón nhận được chính Thiên Chúa.
Thiên Chúa rất lớn lao, chẳng trời đất nào dung chứa cho đủ. Bao lâu cái tôi còn cồng kềnh, bấy lâu tâm hồn chưa thể đón nhận được Thiên Chúa. Chỉ khi từ bỏ mình đến tận cùng, đến không còn một chút gì riêng tư dành cho bản thân, tâm hồn mới có thể đón nhận được Thiên Chúa. Khi trút bỏ chính mình, Ðức Ma-ri-a được đầy tràn Thiên Chúa. Không còn thuộc về mình, Người trọn vẹn thuộc về Thiên Chúa. Người là chiếc bình rỗng không nên Người đón nhận được “đầy ơn phúc” của Chúa.
Người diễn tả nét đẹp của Thiên Chúa.
Lời “Xin vâng” Ðức Ma-ri-a thốt lên nơi làng quê Na-da-ét vang vọng lời xin vâng của Ngôi Hai nhập thể làm người. Sự khiêm nhường của Người diễn tả sự khiêm nhường của Thiên Chúa xuống thế làm người. Sự từ bỏ của Người phần nào phản ánh sự từ bỏ của Ðức Giê su Kitô “vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân” (Pl 2, 6-7).
Ðức Ma-ri-a là bông hoa phần nào diễn tả được nét đẹp của Thiên Chúa vì Người là tác phẩm của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần “rợp bóng trên Mẹ” nên Mẹ sống dưới sự che chở của Thánh Thần, theo ơn hướng dẫn của Thánh Thần và sống trong tình yêu của Thánh Thần.
Lạy Nữ Vương Rất Thánh Mai Khôi xin cầu cho chúng con biết noi gương Mẹ.
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
SUY NIỆM 2: Kinh Kính Mừng
Ngoài vô số những ơn lành mà Mẹ đã cho riêng mỗi người, thì trong những lần hiện ra, món quà mà Mẹ đưa từ trời xuống, lần nào cũng chỉ là một cỗ tràng hạt mân côi. Đơn giản thế thôi, nhưng ta phải biết nghĩ chứ! Chắc chắn đây phải là một món quà vô cùng cao quý. Mẹ yêu ta vô cùng, cho quà ta, Mẹ phải chọn món quà gì quý giá nhất để cho. Đúng vậy! Ta hãy mở món quà ấy ra xem.
Lớp quà thứ nhất
Gồm 20 ngắm. 20 chặng trong hành trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, Đấng đến trần gian để cứu nhân loại tội lỗi. 20 chặng ấy là giải nghĩa chữ Yêu một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất. Mở đầu mỗi chục kinh là một biến cố thể hiện tình yêu; là một dấu ấn diễn nghĩa Tình Yêu mà Đấng Cứu Thế đã thực hiện vì con người và cho con người. Mở ra dấu ấn ấy để mời gọi ta bước vào hiện tại hoá dấu ấn ấy; để ta được hoà chung, được bơi lội trong đại dương ơn phúc mà Đấng Cứu Thế đã làm. Bỏ quên những ràng buộc của vật chất, linh hồn ta được linh thao, để hít thở nguồn ơn cứu độ.
Lớp quà thứ hai
Đàng sau sự kiện mà Chúa Giêsu đã làm, là bắt đầu bằng một kinh Lạy Cha, lời kinh cầu nguyện duy nhất mà Chúa Giêsu đã dạy. Lời kinh ấy là một nhắc nhở quan trọng về căn tính của mình. Mình từ Thiên Chúa mà ra và Ngài yêu thương ta vô cùng, hơn cả tình mẹ yêu con. Và Ngài chính là Cha dấu ái của ta và của mọi người. Cũng vì thế, tất cả đồng loại sống quanh mình đều là anh em ruột thịt của mình, không có ai là kẻ thù của mình cả.
Lớp quà thứ ba
Là mười kinh Kính Mừng. Lời “Kính mừng Maria” mà ta đọc đó chính là lời chào của Sứ Thần Gabriel đã chào Đức Maria trong buổi gặp gỡ truyền tin. Lời chào ấy được lặp đi lặp lại, để như một nhắc nhớ quan trong cho mỗi người: Thiên Chúa hết lòng muốn cứu chuộc nhân loại, và trước tiên, là chính người đang cất giọng đọc câu kinh ấy. Món quà quý báu ấy, Mẹ đem từ Trời xuống, quý vô vàn, được đưa tận tay cho mỗi người. Ô hay! Sao người lại rất hay từ chối?
Câu hỏi gợi ý:
1* Bạn có nhìn thấy tình thương lớn lao vô cùng của Chúa, khi bạn lần hạt không?
2* Bạn có nhìn thấy vẻ cao quý vô cùng của món quà mà Đức Mẹ đem đến cho bạn không?
(Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm - ‘Tập San Tĩnh Tâm Giáo Phận Long Xuyên – 10 & 11/2011’)
SUY NIỆM 3: Mẹ Ðầy Ơn Phước
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Ðức Maria, Ðấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Ðấng đầy ơn phước, Ðấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Ðức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Ðây là tôi tớ Ta, Ðấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Ðấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Ðấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Ðấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Ðặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Ðặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Ðấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”.
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Ðấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Hành trình đức tin của Đức Maria
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
SUY NIỆM 5: Chiếc thang kỳ diệu
Tháng mười, tháng dấu ái thân thương, tháng ngọt ngào và vui sướng của nhiều tâm hồn. Lý do đơn giản. Tháng mười, tháng Đức Mẹ Mân Côi, tháng tăng thêm cho ta vô vàn sinh lực thần thiêng, tháng của tình mẫu tử mở ngỏ, trao ban. Mẹ đã trao ban tràng chuỗi mân côi mầu nhiệm, để như vũ khí trao tay cho người chiến sĩ cát bụi đầy yếu đuối, có thể chiến đấu và đạt chiến thắng, trước những ngã tấn công bắt hồn của vương quyền bóng tối, như nấc thang nhẹ nhàng, dịu dàng và thênh thang dìu ta trở về cội nguồn ơn cứu độ, là cuộc thương khó thấm đẫm tình yêu hy sinh cứu chuộc của Chúa Giêsu. Vào đó, để ta hiện đại hóa ơn sủng cứu độ của Ngài, cho chính đời ta. Vào tháng mười, tháng hồng phúc vô bờ là ta bơi trong đại dương tình yêu của trái tim Mẹ thiên quốc.
Và vì thế, nhắc đến tháng mười, những Kitô hữu trên thế giới không thể nào quên ngày 13 ấn tượng, với phép lạ vĩ đại lạ lùng và rực sáng giữa không trung trên bầu trời Fatima hôm nào, với cả hàng triệu đôi mắt mở to chứng kiến, trong sự ngỡ ngàng đến tột cùng. Trong những lần hiện ra ở Fatima, Mẹ không ngừng nhắc nhở mọi người phải siêng năng lần hạt. Chuỗi mân côi, như một báu vật, được gởi đến từ chốn thiên đàng cao sang, như một di sản phi vật thể vô giá, mà người Mẹ, để lại cho những đứa con của mình. Mẹ thương con vô cùng, nên Mẹ đã trao chuỗi hạt mân côi cho con. Rất trân trọng con hãy cầm lấy. Vì:
1/ Chuỗi mân côi là thanh bảo kiếm để che chở đời ta: Quanh ta, trên mỗi bước chân, ma quỷ luôn giăng đầy cạm bẫy. Hãy cầm lấy thanh bảo kiếm, ơn Mẹ sẽ che chở cho ta. Lời kinh đơn sơ ta đọc, Mẹ sẽ giúp ta sáng suốt để thoát khỏi những cạm bẫy ấy. Lời kinh miệng ta đọc, tình yêu Chúa trìu mến trong tim sẽ giúp ta nhận được ân sủng từ trời cao, giúp ta khỏi phải hụt chân vấp ngã trên con đường xây tương lai.
2/ Chuỗi mân côi, là chiếc thang diệu kỳ: Giữa trần đời ô trọc, cộng với kẻ nội thù là xác thịt, luôn muốn lôi kéo ta đi xuống, bỏ quên mất hạnh phúc vĩnh hằng, tràng chuỗi mân côi, sẽ tăng sức cho ta. Mẹ đã hứa như thế nếu ta siêng năng thực hành. Mỗi lời kinh ta vang lên là mỗi bước sẽ giúp ta bước lên cao hơn, thoát khỏi hố sâu đầm lầy, đưa ta tới gần Chúa hơn, gần chân lý hơn. Chuỗi mân côi ta đọc, sẽ giúp ta mở mắt để nhận ra được: mình là một kẻ được yêu thương, qua cuộc đời bi thương của Chúa. Và như thế, sẽ đưa ta vào sâu hơn trong biển tình thương của Thiên Chúa.
Gợi ý suy niệm:
1- Khi thấy bạn bị vấp ngã, sầu buồn, lo lắng. Bạn có biết tìm giải pháp bằng việc lần hạt không?
2- Đã có lần nào, bạn kêu cầu Đức Mẹ, qua việc lần hạt mà bị từ chối chưa?
(‘Tập San Tĩnh Tâm Giáo Phận Long Xuyên – 10/2010’)
SUY NIỆM 6: Chờ Ðợi
Theo tâm lý thông thường, ai cũng sợ phải chờ đợi, ai cũng sợ phải xếp hàng cả ngày. Ít hay nhiều, sự chờ đợi nào cũng là một cực hình. Nhưng mâu thuẫn thay, chúng ta lại thường biến cuộc đời thành một thứ đợi chờ, thành những phòng đợi triền miên...
Cả tuần lễ, ai cũng mong được đến ngày thứ Bảy, Chúa Nhật để được nghỉ ngơi. Chúa Nhật này đến, chúng ta lại chờ đợi Chúa Nhật khác đến. Tháng này đến, chúng ta lại chờ tháng sau. Năm này đến, chúng ta lại chờ năm sau...
Lên xe, chúng ta mong đến đích điểm. Khi đến nơi, chúng ta lại thấp thỏm mong ra về. Vào rạp chiếu bóng, nhiều người thường vội vàng đứng dậy trước khi cuốn phim chấm dứt: họ làm như thể vào rạp chiếu bóng là chỉ để mau đến giây phút ra về. Ði dự thánh lễ, dù lễ chưa xong, đã có kẻ muốn vội vàng đứng lên ra về: họ làm như thể chỉ đến nhà thờ để mong cho đến giây phút tan lễ. Vừa ra khỏi nhà, đã chờ mong để quay trở lại, nhưng khi vào nhà thì lại đợi đến lúc đi ra.
Với sự nóng lòng chờ đợi giây phút sẽ tới này, chúng ta sống như thể cuộc đời không có sự liên hệ với những giây phút hiện tại. Chúng ta biến cuộc đời thành một thứ phòng đợi, đợi hết cái này đến điều kia, đợi cả những điều sẽ không bao giờ xảy đến.
Tháng Mười là tháng dành riêng để tôn kính Mẹ Maria với tràng chuỗi Mân Côi và cùng với Mẹ, sống mầu nhiệm cứu rỗi trong từng phút giây của cuộc sống.
Ơn cứu rỗi không là một biến cố của quá khứ hoặc là một biến cố sẽ đến mà là một sự kiện đang diễn ra trong từng phút giây của cuộc sống. Mẹ Maria quả thực là mẫu gương cho chúng ta trong thái độ tiếp nhận ơn cứu rỗi. Thời gian đối với Mẹ không là những tháng ngày chờ đợi, mà là những tích tắc của từng khoảnh khắc đang đến với Mẹ. Với hai tiếng “Thưa, xin vâng!”, Mẹ đón nhận giây phút hiện tại như một món quà cao quý nhất Thiên Chúa trao ban.
Cùng với Mẹ sống lại mầu nhiệm của ơn cứu rỗi, chúng ta hãy đón nhận Ðấng đang đến, Ðấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Chúng ta hãy đón Ngài trong phút giây hiện tại này đây với tất cả tin tưởng phó thác.Chúa trao ban với chúng ta nhiệm vụ để thi hành trong phút giây này đây. Chúng ta hãy hoàn tất với tất cả cố gắng của chúng ta. Chúa trao ban cho chúng ta niềm vui của phút giây này đây, hãy tận hưởng như thể sẽ không còn một niềm vui nào khác.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – R. Veritas)
SUY NIỆM 7: Lễ Mân Côi
Thế giới ngày nay là thế giới của tiện ích. Vì thế, người ta thường kết hợp nhiều lợi ích vào trong một cái. Dầu gội đầu cũng 2 trong 1. Điện thoại di động, vừa để nghe gọi, vừa để chụp hình, vừa là vi tính, năm sáu thứ trong một. Trong ngày lễ hôm nay, xin được giới thiệu một thứ; rất nhỏ bé, rất gọn, rất đơn sơ nhưng lại ẩn chứa bốn, năm lợi ích trong một: mà những lợi ích ấy toàn là những lợi ích to lớn. Đó là cỗ tràng hạt Mân Côi. Đây là món quà được đưa xuống từ Trời. Chỉ vì tình thương da diết với con cái mà người Mẹ với tước hiệu Nữ Vương Thiên Đàng, đã muốn gởi tặng từng người con.
1- Đó là mốt món quà thật nhỏ, thật xinh. Nhỏ, để người nào cũng có thể cất giữ trong người trong mọi giây phút. Nhỏ, bởi đó là một lời kinh rất dễ đọc, bất cứ ai cũng có thể thuộc. Vì lời kinh ấy chính là lời chào ngắn gọn của sứ thần Gabrien, khi truyền tin cho Trinh Nữ Maria.
2- Tuy nhỏ, nhưng việc lần hạt ấy, lại có thể làm được một điều diệu kỳ. Mỗi chục kinh, lại có ghi lại một chặng đường cứu độ của Chúa Giêsu. Và vì vậy, khi vừa đọc chục kinh, vừa suy gẫm chặng đường cứu độ của Chúa Giêsu, là ta mở được chiếc van, để ơn thánh của Chúa chảy tràn xuống trên linh hồn ta; và ta được đưa vào để hòa nhập với cuộc đời bình thường nhưng thánh thiện, cũng như cuộc thương khó và sự sống lại vinh quang của Ngài. Ta dần dần trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu.
3- Khi ta cầm trí lần hạt, Mẹ Maria sẽ hiện diện bên ta; để giúp ta xua tan đi những lo lắng, buồn khổ trong đời, giúp hồi sinh một con tm đang tan tác, chán chường. Mẹ ở bên ta, để phá tan sự tuyệt vọng lụn bại đang đè chết hồn ta. Và làm bừng lên một niềm hy vọng mới. Đưa ta ra khỏi cơn giông tố chán chường, tăm tối và cho ta nhìn được ánh sáng của niềm vui giữa cuộc đời.
4- Với lời kinh Mân Côi ta đọc, Mẹ sẽ đến bên ta, để tăng cho ta sức mạnh, hầu có thể chiến đấu với ma quỷ, là kẻ thù ẩn mặt, nhưng lại suốt ngày kè kè bên ta. Trước những hiểm độc của cám dỗ, ta thường dễ sập bẫy, thua trận. Vì thế, nếu không có Mẹ phù trợ, nâng đỡ, ta khó có hy vọng chiến thắng, vượt qua.
4- Với kinh Mân Côi, ta đọc mỗi ngày thì một niềm vui mới tràn dâng trong ta. Vì ta biết chắc một điều: Mẹ sẽ cứu ta trong giờ lâm tử. Đó cũng là điều hợp lý thôi. Vì khi siêng năng lần hạt, ta sẽ được giữ gìn, để luôn sống với tư cách của một người con ngoan của Chúa. Và phần thưởng cuối cùng cho một đứa con ngoan là điều Chúa Giêsu đã hứa từ trước.
Gợi ý suy niệm
1- Mỗi tuần, bạn lần hạt được mấy lần?
2- Bạn đã lần nào cảm nghiệm được hồng ân mà Đức Mẹ ban cho bạn qua việc lần hạt chưa?
(Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm - ‘Tập San Tĩnh Tâm Giáo Phận Long Xuyên số 10 & 11/2012’)
06/10 Lắng nghe và sám hối
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Lắng nghe và sám hối.
Thứ sáu đầu tháng, tuần 26 thường niên.
"Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy".
Lời Chúa: Lc 10, 13-16
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi. "
Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục. "Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nguy cơ của những tiện nghi vật chất
Có một hiện tượng chung tại các nước đang phát triển, đó là người dân nghèo từ thôn quê đổ xô ra thành thị. Tại đô thị dễ tìm được công ăn việc làm, đời sống nhiều tiện nghi, thú tiêu khiển cũng nhiều hơn. Nhưng hiện tượng đô thị hóa nào cũng có mặt trái của nó: người dân đưa nếp sống thôn dã lên thành thị, giao thông tắc nghẽn, việc buôn bán lấn chiếm vỉa hè, trật tự công cộng không được tôn trọng, và trầm trọng hơn vẫn là đời sống luân lý đạo đức xuống cấp, nạn phạm pháp gia tăng.
Thời Cựu Ước, các Tiên tri đã không ngừng lên tiếng cảnh cáo dân chúng về cuộc sống đồi bại tại các đô thị. Chúc dữ các đô thị vốn là một đề tài quen thuộc trong lời rao giảng của các Tiên tri. Dường như có hai lý do khiến các Tiên tri lên án các đô thị: Một đàng các Tiên tri muốn nhắc nhở dân chúng về cuộc sống du mục trong sa mạc, tại đó họ đã nghe được tiếng Chúa và đã kết ước với Ngài, cuộc sống càng đơn giản, con người càng dễ kết thân với Chúa; nhưng đàng khác, nhận thấy cuộc sống đồi bại của các thành phố ngoại giáo trong vùng, các tiên tri muốn cảnh cáo dân chúng về mối nguy cơ có thể chạy theo một cuộc sống như thế. Sự đồi bại nguy hiểm nhất mà các Tiên tri không ngừng lên án một cách gắt gao, đó là việc tôn thờ ngẫu tượng và nếp sống vô luân của thị dân, điển hình nhất là của các đô thị sa đọa là Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn.
Trong Tin Mừng hôm nay, theo truyền thống các tiên tri Cựu Ước, Chúa Giêsu cũng nêu đích danh ba thành phố có nếp sống sa đọa nằm dọc theo bờ hồ, đó là Cozazin, Betsaiđa và Capharnaum. Những tiện nghi vật chất khiến con người dễ trở thành câm điếc trước Lời Chúa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình, do đó, cô đơn vốn là điều con người sợ nhất, thành ra đi vào quan hệ với người khác là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Cuộc sống đô thị với nếp sống ồn ào náo nhiệt của nó dễ tạo cho con người cái cảm tưởng rằng ở đó họ dễ đi vào quan hệ với người đồng loại.
Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, cuộc sống càng xô bồ, con người càng dễ rơi vào cô đơn. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể mang lại bí quyết cho sự thông hiệp đích thực của con người, nghĩa là giúp cho con người ra khỏi nỗi cô đơn của mình; bí quyết đó chính là Lời của Ngài. Thật thế, khi con người sống kết hiệp với Chúa, thì dù có sống một mình, nó cũng sẽ không cảm thấy cô đơn; lại nữa, khi sống kết hiệp với Chúa, con người sẽ cảm thấy được thúc đẩy để đến với anh em của mình. Con người không thể kết hiệp với Chúa mà có thể khước từ người anh em của mình, và ngược lại, bất cứ một quan hệ chân thành nào với người anh em, cũng luôn gia tăng sự kết hiệp con người với Thiên Chúa.
Dù muốn hay không, những thay đổi trong cuộc sống do kinh tế thị trường mang lại không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Thật ra, cuộc sống đức tin không phải là một sinh hoạt phụ trong cuộc sống chúng ta; đức tin phải là chiều kích bao trùm toàn bộ cuộc sống của chúng ta: chúng ta là Kitô hữu trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống. Niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là Thánh Lễ Chúa Nhật, một vài sinh hoạt trong khuôn viên giáo đường, một số kinh kệ trong gia đình, chứ không ăn nhập gì đến cuộc sống mỗi ngày; niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là một món đồ trang điểm cho cuộc sống và cần thiết cho một số dịp nào đó trong năm, chứ không liên hệ gì đến đòi hỏi công bằng bác ái, liên đới mà chúng ta phải thực thi hằng ngày.
Nguyện cho Lời Chúa luôn là động lực thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta trong mọi sinh hoạt và quan hệ hằng ngày của chúng ta, để trong khi mưu cầu cho cuộc sống, chúng ta luôn tìm gặp Chúa trong tha nhân và trong mọi biến cố.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Nghe hay khước từ
“Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy, mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” (Lc. 10, 16)
Hôm qua Đức Giêsu đã ban một số huấn lệnh cho các môn đệ đi truyền giáo. Trường hợp gặp thất bại, hãy đến nơi khác. Đức tin không cưỡng bức ai. Đàng khác, dù muốn hay không, nước Thiên Chúa vẫn đến! Người ta có thể khước từ nhưng sẽ có ngày họ sẽ gia nhập, vì đó là thành ý Thiên Chúa. Chính Ngài định đoạt ngày giờ, chứ không phải người ta. Ước mong họ sẽ tin cậy vào Ngài. Họ nghe lời Chúa không tùy thuộc vào tài khéo léo thuyết phục của loài người.
Chính Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, cũng không thành công khi thuyết phục mọi người tin vào sứ điệp chân chính và cần thiết của Người. Bản tính nhân loại của Người như đã che lấp mọi may mắn làm cho người ta tin Người. Ba thành Kho-ra-zim, Bét-sai-đa và Ca-pha-na-um Người kể tên ra đây, là những vùng hoạt động của Người, được đặc biệt hưởng những ân huệ lời Người và tận tình cứu giúp của Người. Họ sẽ giầu có, phong phú biết bao về tinh thần, nếu họ lắng nghe và sống theo lời Người. Nhưng khốn thay! Họ đã cùng túng và thảm bại vì đã từ chối lời Người kêu gọi. Nếu các thành dân ngoại khác như Sô-đô-ma, Ti-a và Si-đôn đã được may mắn gặp gỡ Đức Kitô thì họ đã mặc áo nhặm ngồi trên tro tàn tỏ lòng ăn năn sám hối lâu rồi.
Chúa không chúc dữ đâu! Người chỉ than phiền về sự đui mù và vô ơn của mọi người, như Người khóc thương thành Giê-ru-sa-lem đã ruồng bỏ Người. Khi nghe những lời đau khổ của Đức Giêsu như thế, người ta không khỏi nghĩ đến những nước, những tỉnh thành, làng xã trong quá khứ đã nhận được dồi dào ơn lành và ánh sáng của Đức Kitô, nay họ đã ruồng bỏ Người, trong ngày phán xét, chúng ta sống hối hận chừng nào!
Hôm nay nghe các ngôn sứ của Đức Kitô, chính là nghe chính Đức Kitô. Nếu khước từ các Ngài là khước từ chính Người. Để lời khiển trách của Đức Giêsu xưa đem lại phúc lợi cho chúng ta, mỗi người và tất cả chúng ta hãy vui vẻ đón nhận lời Người để nghiêm chỉnh, thẳng thắn hồi tâm trở về với Đức Kitô. Đừng để lời cảnh giác của Người như tiếng vang ngoài tai rồi biến tan theo mây khói, thật khốn cho chúng ta!
GF.
Suy niệm 3:
Tin Mừng hôm nay kể lại một kinh nghiệm không vui của Đức Giêsu,
Kinh nghiệm của một người tận tụy với công việc tông đồ
nhưng sau thời gian dài chờ đợi, kết quả lại không như ý.
Đức Giêsu là người vùng Galilê, hẳn Ngài yêu vùng đất này.
Ngài thường lui tới những thành phố quanh Hồ Galilê.
Khoradin, Bếtsaiđa, Caphácnaum nằm trong số đó.
Ngài đã rao giảng nhiều về sám hối (7, 36-50; 13, 1-5; 19, 1-10),
và Ngài cũng làm bao phép lạ kèm theo để gọi mời hoán cải.
Có thể nhiều người bị đánh động khi nghe lời Ngài giảng
và bị thu hút bởi các phép lạ Ngài làm.
Nhưng đối với Đức Giêsu, như thế vẫn chưa đủ.
Tất cả vẫn chỉ là hời hợt của cảm xúc bên ngoài.
Điều Ngài đòi hỏi là biến đổi tận căn bên trong cuộc sống.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtsaiđa!
Đức Giêsu đau đớn thốt lên như thế khi phải so sánh hai thành phố trên
với hai thành phố dân ngoại tội lỗi là Tia và Xiđôn (Is 23; Ed 26-28).
Hai thành phố ở Galilê chẳng đổi gì mấy dù đã biết Ngài từ lâu.
Dân ở đây sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn trong cuộc phán xét.
Thành phố Caphácnaum cũng chẳng khá hơn,
dù đây là nơi Đức Giêsu hay lui tới để phục vụ (Lc 4, 23. 31-37 ; 7,10).
Ngài đặt thẳng câu hỏi với thành phố này về tương lai của nó (c. 15).
Đừng mong được nâng đến tận trời, nhưng sẽ bị xuống tận âm phủ!
Đức Giêsu có kinh nghiệm về thất bại trong việc tông đồ.
Ngài cũng nhắc các môn đệ về chuyện đó (Lc 10, 10-12).
Không được tiếp đón, bị từ khước, không được người ta nghe (c.16),
thậm chí có khi bị bách hại, bị vu khống, bị giết chết.
Đó là những điều người môn đệ tín trung vẫn thường gặp,
vì Thầy của họ đã trải qua và vượt qua.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói chuyện với các thành phố,
những nơi thân quen, đã mang dấu chân Ngài.
Ngài lấy làm tiếc vì những gì Ngài làm chưa thấm vào bề sâu,
chưa tạo ra được những thay đổi nơi lòng thành phố.
Một sám hối thật sự không phải chỉ là một sám hối cá nhân,
nhưng là sám hối nơi sinh hoạt của cả một thành phố.
Nếu hôm nay Ngài đến với thành phố của chúng ta Ngài sẽ nói gì?
Ngài có chỗ không ở mọi nơi người Kitô hữu đang sống,
đang làm việc, đang học hành, đang vui chơi, đang cầu nguyện?
Sám hối là trả lại chỗ cho Ngài trong mỗi góc phố vắng,
là giữ cho thành phố xanh-sạch-đẹp theo nghĩa thiêng liêng nhất.
Ước gì chúng ta biết xây dựng quanh ta
những khoảng không gian tràn ngập sự hiện diện của Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.
để khi thấy con, người ta phải nói:
“vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt.”
Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,
con sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một đấng tốt hơn con nhiều.
“Mong sao bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”
Con muốn sống thật tốt, để người ta có thể nói:
“nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến ngần nào ?”
(Chân phước Charles Foucauld).
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
05/10 Tiếp tục sai bảy mươi hai người rao giảng
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tiếp tục sai bảy mươi hai người rao giảng.
Thứ năm đầu tháng, tuần 26 thường niên.
"Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy".
Lời Chúa: Lc 10, 1-12
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi". Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: "Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần". Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tinh Thần Nghèo Khó Ðích Thực
Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:
Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta?
Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp:
Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này?
Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói:
Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của những con người được tái sinh.
Trong thực tế, người Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó, Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.
Thế nhưng, làm thế nào để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.
Hơn bao giờ hết, người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó. Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá cao độ cho Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Rao Giảng Và Chữa Lành Bệnh Tật
Chúng ta vừa đọc lại bài tường thuật của thánh sử Luca nói về việc Chúa sai nhóm mười hai Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật. Ðây là cuộc sai đi trước biến cố phục sinh để thực tập, để chuẩn bị cho cuộc sai đi quyết định sau phục sinh, khi đó Chúa sẽ nói với các ông một cách vĩnh viễn: "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thầy. Vậy, các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18-20).
Hai lần sai đi này, trước và sau Phục Sinh, trước và sau biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, rất quan trọng và bổ túc cho nhau. Nếu lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh, mà không có lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh thì người ta dễ dàng rơi vào cám dỗ quả quyết rằng, những đồ đệ của Chúa Giêsu tự bày việc cho mình để thành lập cộng đoàn Giáo Hội do sáng kiến riêng chứ không phải do ý muốn của Chúa Giêsu . Ngược lại, nếu lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh mà không có lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh thì người ta cũng dễ dàng rơi vào cám dỗ khác nữa, cho rằng Chúa Giêsu đã thất bại trong dự án của Ngài sau khi bị giết chết trên thập giá. Nhưng các sách Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta hai lần sai đi trước và sau Phục Sinh, và điều này làm nổi bật ý định của Chúa Giêsu. Vượt qua giới hạn của thời gian, Chúa đã kêu gọi, huấn luyện và sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian nhờ những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho.
Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử nhân loại đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. Hơn nữa, chúng ta thấy tác giả Phúc Âm thánh Luca mô tả sứ mệnh của các tông đồ được Chúa sai đi bằng hai cụm từ rao giảng và chữa lành bệnh tật. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Người đồ đệ của Chúa khi làm công việc của Chúa là công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Khi làm công việc này không thể nào lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em chung quanh. Nhà thờ để thờ Thiên Chúa, nhà thương chăm sóc bệnh nhân, nhà săn sóc người cao niên, nhà học tập cho người trẻ, nhà ở cho người nghèo, nhà cứu trợ cho anh chị em gặp nạn, đó là những nhà, những loại công tác nằm trong sứ mệnh của người đồ đệ của Chúa.
Lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội cho thấy những đồ đệ của Chúa còn luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa: rao giảng và chữa lành, mặc dù không thiếu những sai sót lỗi lầm mà giờ đây những đồ đệ chân thật của Chúa không ngần ngại ăn năn xin tha thứ và dốc quyết thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho chúng con quyền năng của Chúa để chúng con được canh tân và dấn thân nhiều hơn nữa, để chu toàn tốt hơn sứ mệnh Chúa đã trao phó cho trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin Chúa hãy thương hiện diện với chúng con và cùng hoạt động với chúng con luôn mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Đừng ảo tưởng
Sau đó Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Người bảo các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Lc. 10, 1-2)
Đừng ảo tưởng! truyền giáo, theo Đức Kitô, chính là không ngừng nghỉ. Ngay từ đầu các môn đệ đã được chỉ định rõ rệt. Thầy đã nói từng chi tiết những gì các ông trông đợi trước khi sai các ông đi. Đi từng hai đến các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Trước hết, các môn đệ cần phải xác tín rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Muốn có số thợ gặt sẵn sàng và có hiệu quả, phải cầu nguyện tận lực xin tuyển mộ được những thợ gặt chân chính và chắc chắn để đi loan truyền sứ điệp của Đức Kitô.
Số thợ tuyển mộ thì ít, họ như chiên ở giữa sói rừng! họ không được phép giơ tay năm ngón chỉ trỏ kiêu hãnh để áp đặt sứ điệp bằng bạo lực hay bất cứ thứ gì như thế. Nhưng chỉ đề nghị, rất trong sáng, an bình và tự do, không một chút bó buộc nào cả.
Những người truyền giáo nghèo khó, trơ trụi không trang bị những phương tiện gì to lớn của loài người, như tiền của tài năng, trù ếm, ảo thuật, không được dính bén những gía trị quan trọng quyền thế của trần tục, của bảo hiểm dưới đất, của an toàn vật chất, tuy không khinh bỉ chúng, nhưng không để chúng lôi kéo mình vịn lý do cần thiết.
Đối với Đức Kitô, những lời chào hỏi dọc đường là không cần thiết. Hãy trực tiếp đến nơi để rao giảng thì tốt hơn. “Đừng chào ai dọc đường” cũng có nghĩa là “hãy đi thẳng đến mục đích”. “Trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này”, đó là đem niềm vui đến cho họ, rồi đừng để mất giờ, hãy chữa bệnh tật cho họ và nói cho họ biết: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”.
Đó là những chỉ dẫn thật chính xác, rất ngắn gọn và cô đọng, đáng cảm phục biết bao một tinh thần trung thực vĩ đại! Người ta chấp nhận hay từ chối sứ điệp không phải dài dòng lý sự bắt người ta phải kính trọng. Người còn nói: “Nếu người ta không tiếp đón, hãy đi nơi khác”.
Người truyền giáo cần hành động chứ không van xin than thở.
GF
Suy niệm 4:
Đức Giêsu sai các môn đệ của mình đi trước,
từng hai người một, vào mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến.
Sứ mạng dọn đường này không dễ chút nào.
Đức Giêsu biết rõ những hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ.
“Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3).
Chiên con trở nên hình ảnh của người môn đệ,
yếu đuối, không có khả năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn.
Chính Đức Giêsu cũng là Chiên Con được Thiên Chúa sai đi.
Chính Ngài cũng “như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).
Người môn đệ được sai vào thế giới mãi mãi thấy mình mong manh,
trước thế lực tưởng như không thể thắng nổi của sự dữ.
Nhưng người môn đệ lại không được trang bị nhiều:
không túi tiền, không bao bị, không giầy dép,
dù đó là những điều bình thường thiết yếu cho một cuộc hành trình.
Chính vì thế họ buộc lòng phải cậy dựa vào người khác.
Mà không phải ai cũng có lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận.
Như thế là chấp nhận liên tục bấp bênh,
liên tục cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nhà của các tín hữu là nơi hoạt động của người môn đệ.
Căn nhà là nơi các môn đệ được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn.
Họ sống gần gũi như người trong nhà, như người thợ làm việc.
Nếp sống giản dị và siêu thoát của họ phải được bày tỏ
qua việc chấp nhận mọi đồ ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8),
cũng như việc không đi tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7).
Ngoài ra các thành phố cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12).
Nhưng dù là vào một căn nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8),
thái độ của người môn đệ đều rất tích cực và thân thiện.
Họ chúc bình an, chữa bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Họ cũng khiêm tốn chấp nhận bị từ chối,
khi ơn bình an không được đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe.
Những lời dặn dò của Đức Giêsu ngày xưa, bây giờ vẫn còn giá trị.
Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay.
Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần,
với những thứ bệnh mới của thời đại được coi là văn minh.
Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng.
Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố.
Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín,
và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc ?
Làm sao nói về Đấng Vô Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình ?
Người môn đệ hôm nay vẫn phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống,
như xưa các môn đệ xưa đã sống chung, ăn chung,
và làm việc như một người thợ để phục vụ.
Giáo Hội vẫn cần xin nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
04/10 Bí Quyết Trẻ Trung
- Viết bởi J.Y.G
Bí Quyết Trẻ Trung.
Thứ Tư tuần 26 thường niên – Thánh Phanxicô Assisi. Lễ nhớ.
Ngày Trung Thu. Cầu cho thiếu nhi.
"Chúa đã giấu các điều ấy cùng kẻ khôn ngoan thông thái, và đã tỏ bày ra cho những kẻ bé mọn".
* Thánh nhân sinh năm 1182 tại Assisi. Từ ngày trở lại, gặp Chúa Kitô ở nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô cho tới ngày từ trần ở Poóc-ti-un-cu-la (1226), thánh nhân -con người được mệnh danh là Người Nghèo thành Assisi- cùng với các anh em tu sĩ của mình sống nghèo khó, rảo khắp nơi loan báo tình yêu của Thiên Chúa. Người cũng đặt nền tảng cho ngành nữ đan sĩ của Dòng và huynh đoàn giáo dân hãm mình. Người còn tha thiết với việc giảng thuyết cho những người chưa tin. Suốt đời, thánh nhân không có bận tâm nào khác ngoài mối bận tâm theo Đức Giêsu trong tinh thần vui tươi, đơn sơ, tha thiết phục vụ Hội Thánh và dịu dàng yêu thương maọi người.
LỜI CHÚA: Mt 11, 25-30
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy.
"Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bí Quyết Trẻ Trung
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.
Sống cách chúng ta trên 7 thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh trẻ trung. Chưa có vị thánh nào trong Giáo Hội được nhắc nhở, yêu mến như thánh nhân. Chưa có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật cho bằng thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách mạng ca tụng cho bằng thánh nhân.
Sứ điệp của thánh nhân siêu việt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện thân của tuổi trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi luôn biết giữ một tâm hồn tươi trẻ. “Tuổi tác không phải là điều kiện thể lý cho bằng bầu khí của tâm hồn”. Có lẽ thánh nhân không phải là người đã nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn ngài đã sống theo châm ngôn ấy.
Ngài biết giữ mãi cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng cách chống cự lại các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo lắng, không buồn giận.
Những khám phá của khoa học tâm lý ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống một cách trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ, các nhà tâm lý học khuyên chúng ta như sau:
- Hãy tập yêu thích những gì không quá đắt giá.
- Hãy tập yêu thích việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc.
- Hãy tập yêu thích những thức ăn thanh đạm.
- Hãy tập yêu thích tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn rã của trẻ em.
- Hãy tập yêu thích trồng trọt, làm việc tay chân.
- Hãy tập yêu thích ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà cũng như cảnh tuyết rơi.
- Hãy tập yêu thích những nhu cầu đơn giản nhất.
- Hãy tập yêu thích công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc.
- Hãy tập yêu người, dù người không giống ta.
Không khí, ánh sáng, mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những yếu tố cần thiết để tạo cho bầu không khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó không là những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp trong bài ca vạn vật của thánh Phanxicô Assisi?
Một tâm hồn luôn luôn tươi trẻ: đó không chỉ là một bí quyết để được hạnh phúc trên đời này, nhưng còn là một đòi hỏi đối với người Kitô. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống chúng. Ta nói thật với các con: nếu các con không đón nhận nước Trời như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Một Vị Thánh Khó Nghèo (Lc 9, 57-62)
Nói về một vị thánh, đề cập đến cuộc đời của một con người là để hiểu biết về người đó: ca ngợi, bắt chước, noi gương người đó trong những việc làm tốt của họ. Thánh Phanxicô Assise là vị thánh của tình yêu. Người là một con người triệt để, vui tươi, trung thực. Cái trung thực của Người đã trở nên nét đẹp nhất của vị thánh thời danh. Sử gia Joseph Lortz đã từng nói:” Điều mà thế kỷ XX thiếu nhiều nhất là tính trung thực”. Thánh Phanxicô Assise là người đã làm rõ nét và sự nổi bật nét trung thực của con người. Chính sự thực tế, bền bỉ, sâu sắc của con người thánh Phanxicô Assise đã nói lên tình yêu của Ngài đặt nơi đâu? Ngài luôn muốn họa lại hình ảnh của một Giêsu Nagiarét khó nghèo, một vị vua tình yêu cao vời, nhưng lại sống chân thực không hoa mỹ, không hời hợt, không lòe loẹt. Thánh nhân đã sống hết mình, đã sống con người thực nhất của mình. Ngài đã tự ví mình như “một người điên kiểu mới giữa thế gian”.
Phanxicô điên vì Ngài nhìn thấy tình yêu của Thiên Chúa chan hòa khắp nơi, khắp chốn, khắp trời đất, khắp vũ trụ, nhưng tất cả đều xoay chung quanh Chúa Kitô. Vì chính Chúa Kitô là trung tâm của tất cả mọi sự trên trời dưới đất, trung tâm của lịch sử cứu rỗi con người. Thánh Phanxicô Assise muốn kéo mọi người lại với Chúa Giêsu vì Người là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi loài thọ sinh ( Col 1, 15-17).
Vào khoảng năm 1182, thánh nhân được sinh ra tại Assise trong một gia đình đạo đức. Cha Ngài là ông Bênađô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng. Mẹ Ngài là bà Pica, một bà mẹ nổi tiếng đạo hạnh. Cả hai ông bà đã hun đúc Phanxicô trở thành vị thánh nổi tiếng thời danh. Thánh nhân đã được cảm hóa bởi câu Kinh Thánh:” Lạy Cha chúng tôi ở trên trời “. Bị bắt, bị cầm tù một năm, bị lâm trọng bệnh và được chữa lành, thánh nhân đã cảm nghiệm sâu xa lời Thiên Chúa. Ngài quyết định bỏ tất cả, sống cuộc đời hoàn toàn nghèo khó để nên giống Chúa Kitô năm 1206. Bị Cha già phản đối, dù rằng hiếu thảo là trên hết, nhưng Phanxicô Assise không dám chống lại ý Chúa. Ngài đã bán tất cả của cải của mình, phân phát cho những người nghèo khó và chỉ khoác trên mình một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi đi loan báo Tin Mừng cho Thiên Chúa. Con đường của Chúa huyền diệu. Ngài được chính Thiên Chúa thúc đẩy thành lập Dòng Anh em hèn mọn, khó nghèo. Rồi, Ngài lui về Alverne, một nơi cô tịnh, hoang sơ thuộc phía bắc Assise để suy niệm, ăn chay, cầu nguyện. Lúc xuất thần, thánh nhân nhìn thấy thiên thần Sêraphim và một cây thánh giá. Tỉnh dậy, Ngài thấy được Chúa in năm dấu thánh trên thân xác Ngài lúc đó vào năm 1224. Hai năm sau đó, Ngài lâm bệnh nặng. Trước khi ra đi về với Chúa, Ngài đã khuyên nhủ anh em trong Dòng:” Hãy sống khó nghèo và sống đức tin sâu xa vào Hội Thánh Chúa”. Ngày 04/10/1226, thánh nhân ra đi về với Chúa trong sự an bình và thánh thiện tuyệt vời. Đức Thánh Cha Grêgoriô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.
Thánh Phanxicô đã sống khó nghèo tuyệt đối. Ngài muốn bắt chước Chúa, muốn noi gương đức Mẹ để sống cuộc đời khó nghèo. Do đó, Ngài đã kéo mọi người, kéo mọi vật, mọi thụ tạo lại gần Thiên Chúa. Ngài đã gọi nhân đức nghèo là” Bà Chúa nghèo”, Ngài đã gọi Mặt Trời là Anh Mặt Trời, Mặt Trăng là chị Mặt Trăng, thần chết là chị chết vv…Ngài muốn nói lên một thực tế là tất cả đều do Tình Yêu của Thiên Chúa. Trong Đức Kitô, mọi sự, mọi vật, mọi loài, kể cả con người đều hòa quyện nơi Tình Yêu của Chúa và như thế, tất cả đều trở nên bài ca tình yêu muôn thuở, cảm tạ tri ân Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin Chúa ban cho chúng con được bắt chước đời sống khó nghèo của thánh Phanxicô Assise mà biết lướt thắng vinh hoa phú quý để càng ngày càng gia tăng lòng yêu mến Chúa và cảm thông chia sẻ với anh chị em nghèo khó. Amen.
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
SUY NIỆM 3: Cần trở nên bé mọn
Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người; Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự thật của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt, nhưng từ phía con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái, tự cao, cho mình thuộc một nhóm nhỏ tách rời khỏi đại đa số dân chúng.
Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm Biệt Phái đang đứng trong hành lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo và chống đối Chúa. Họ đến với Chúa bằng con đường của sự thông hiểu về luật Môsê; họ cho rằng chỉ cần am tường lề luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như trong truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.
Con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là Ngài, mà mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". Nếu cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, con người sẽ không gặp được Thiên Chúa, nhưng nếu để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, con người có thể đạt tới sự thông hiệp với Thiên Chúa và được cứu rỗi: "Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mạc khải cho những người bé mọn".
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc Âm, để cảm nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Ðức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người. Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp mọi thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không có ý loại bỏ những bậc thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái rằng họ sẽ không đến được với Chúa, không có đủ điều kiện để lãnh nhận mạc khải của Chúa. Tuy nhiên, không thiếu những trường hợp có sự hòa hợp giữa thông thái và đức tin Kitô giáo. Thánh Tôma Tiến sĩ là một điển hình. Nói chung, thái độ khiêm tốn để Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để lắng nghe Lời Chúa với tâm hồn khiêm tốn, mến yêu. Xin cho chúng ta biết sống theo sự soi sáng của Thánh Thần để đến với Chúa và anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Kinh nghiệm thiêng liêng
Con người có thể khước từ Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người, không bao giờ ngưng mời gọi con người trở về lãnh nhận ân sủng và sự thật Người ban cho nhưng không: "Hết thảy những ai mệt mỏi và vất vả hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ, ủi an". Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt một ai, nhưng từ phiá con người, khi đáp lại lời mời gọi của Chúa, mỗi người chúng ta có thể có một trong hai thái độ: thái độ đơn sơ, khiêm tốn đón nhận Chúa để cho Ngài hướng dẫn dạy dỗ; hoặc ngược lại, thái độ tự cao của kẻ cho mình là khôn ngoan, không cần đến Thiên Chúa.
Những kẻ khôn ngoan thông thái mà Chúa Giêsu nhắm đến trong đoạn Tin Mừng trên đây là những người biệt phái tinh thông Lề Luật và lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo của dân Israel. Có thể nói, những kẻ khôn ngoan thông thái này đến với Chúa bằng con đường hiểu biết, nhất là sự thông thái Lề Luật Môsê. Họ nghĩ rằng chỉ cần am tường những Lề Luật của Môsê là họ có thể đến với Thiên Chúa. Họ ỷ lại vào sự hiểu biết và sự tự phụ cho mình biết rõ Thiên Chúa, nhưng thật ra, họ đang xa lìa Ngài.
"Lạy Cha, con chúc tụng Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã giấu những điều đó ngoài những kẻ khôn ngoan thông thái, nhưng lại mạc khải cho chúng con, những kẻ bé mọn". Mỗi người chúng ta cần trở nên bé nhỏ đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm để cảm mến và sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Ðức tin Kitô hướng ta đến gặp một con người cụ thể, một vì Thiên Chúa chấp nhận đến với con người. Ðức tin Kitô không dựa trên những lý lẽ thần học cao siêu. Ðức tin là một hồng ân cần được khiêm tốn đón nhận hơn là kết quả của cuộc sống sưu tầm trí thức.
Thánh Têrêsa Avila tuy không được học hành nhiều nhưng có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa. Thánh nữ đã trình bày những kinh nghiệm thiêng liêng của mình cách tốt đẹp đến độ Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố thánh nữ là tiến sĩ của Giáo Hội, bởi vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp các thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đoạn Tin Mừng hôm nay không có ý nói là Chúa Giêsu hoàn toàn loại bỏ những nhà thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh rằng những ai ỷ lại vào sự hiểu biết thông thái của mình, thì sẽ không đến được với Thiên Chúa. Không thiếu những trường hợp có sự hài hòa giữa sự thông thái và đức tin Kitô như thánh Thomaso thành Aquino. Trong mọi trường hợp, thái độ khiêm tốn chấp nhận để cho Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Lạy Chúa,
Xin thương mở rộng tâm hồn cho con được lắng nghe Lời Chúa với hết lòng khiêm tốn và biết ơn. Xin thương giúp con sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần để đến với Chúa và anh chị em một cách dễ dàng và sâu xa hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Đường lối cư xử của Chúa
Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mắc khải cho những người bé mọn.” (Mt. 11, 25)
Không giống như mọi người
Thiên Chúa không hành động như phần đông người ta, không suy nghĩ như họ, không xét đoán theo cùng tiêu chuẩn như họ.
Đối với phần đông, quy luật chung vẫn là: “Mạnh được yếu thua.” Người giầu có nhiều cơ may thăng tiến, kẻ nghèo thì họa chăng mới được, người khôn ngoan thông thái được mọi người kính trọng, hạng thứ dân ít học vốn bị coi thường. Kẻ có tiền, có quyền giống như: “Miệng quan có gang có thép.” Kẻ trắng tay lý lẽ cũng không. Ai có địa vị, người ấy có quyền ăn quyền nói, kẻ thấp hèn lên tiếng chẳng ai nghe.
Nhưng đối với Chúa lại khác hẳn, kẻ làm đầu phải trở lên người rốt hết, người rốt hết sẽ lên kẻ đứng đầu. Người mạnh trở lên yếu, kẻ yếu được lên mạnh, những bậc khôn ngoan thông thái đã bị giấú không cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, trong khi những kẻ bé mọn lại được Chúa mặc khải cho những thực tại tuyệt vời ấy.
Lời tiên báo cho những kẻ bé mọn.
Khi thấy những người khôn ngoan thông thái bịt tai không nghe những lời giáo huấn của Chúa, còn những kẻ bé mọn lại dễ dàng tiếp nhận, Chúa Giêsu trong trạng thái hứng khởi, liền cất tiếng ngợi khen Cha.
Những kẻ bé mọn mà Phúc Âm nói đến ở đây, ta có thể gặp họ ở khắp nơi. Đó là những con người ít được học hành. Những người chẳng có địa vị cao trong xã hội, những người không thành đạt mấy trong cuộc đời, những người sống khiêm tốn. Họ có được sự nhạy bén để mở lòng ra đón nhận những sự thuộc về Chúa, một sự nhạy bén mà những người khác không có.
Nhưng những kẻ bé mọn của Phúc Âm cũng có thể là những người khôn ngoan và thông thái chân thật. Tuy nhiên không phải bất cứ người khôn ngoan thông thái nào cũng là chân thật cả. Mà chỉ có những ai không vênh vang kiêu hãnh về sự hiểu biết và khôn ngoan của mình mới là những người khôn ngoan thông thái chân thật. Chỉ có những người ấy mới có được tâm hồn của những kẻ bé mọn vậy.
J.Y.G
03/10 Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa.
Thứ Ba tuần 26 thường niên.
“Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem”.
Lời Chúa: Lc 9, 51-56
Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người.
Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?”
Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Và các Ngài đi tới một làng khác.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ra khỏi chính mình
Ðể lại một tên tuổi, có được một danh thơm tiếng tốt, đó vốn là ước mơ chung của mọi người. Tuy nhiên, được người khác trân trọng nhắc nhớ và mến thương hay không là tùy cách sống của mỗi người. Nói chung, cuộc đời hy sinh cho người khác, dù chỉ là hy sinh âm thầm cũng luôn được nhớ đến. Phải chăng đó không là ao ước của cố nhạc sĩ Văn Cao khi ông nói: "Tôi không đi qua tôi, tôi để lại gì? Tôi sẽ để lại gì nếu tôi chỉ khư khư giữ cho riêng mình? Nhưng nếu tôi có ra khỏi tôi, có trao ban chính mình, thì điều tôi để lại chính là bản thân tôi; bản thân tôi tìm gặp đã đành, mà đó cũng là quà tặng tôi để lại cho đời".
Có thể đó cũng là ý nghĩa chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng hôm nay. Nếu mỗi tác giả Tin Mừng có một sợi chỉ xuyên suốt nối kết các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu, thì theo sự trình bày của thánh Luca, sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời Chúa Giêsu chính là cuộc hành trình lên Giêrusalem. Với thánh Luca, cuộc đời Chúa Giêsu là một hành trình ra đi không ngừng để đạt tới đích điểm là Giêrusalem, nơi gặp gỡ chung cục giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo Do thái cũng như chính quyền Roma. Giêrusalem là cao điểm của cuộc song đấu giữa quyền lực sự dữ và tình yêu diễn ra trong con người Chúa Giêsu. Giêrusalem, xét cho cùng, chính là cái chết đang chờ đợi Chúa Giêsu; đi lên Giêrusalem có nghĩa là giáp mặt với cái chết, là đi đến tận cùng của thân phận làm người.
Nếu đã đón nhận cái chết như tột đỉnh của cuộc hành trình, thì dĩ nhiên điều kiện tiên quyết của người ta ra đi là phải kiên nhẫn trước thất bại. Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ của Ngài bài học về sự kiên nhẫn trước thất bại ấy khi các ông bị những người Samari khước từ. Giacôbê và Gioan tưởng có thể sai khiến lửa từ trời xuống để tiêu diệt những kẻ chống các ông; tuy nhiên, trung thành với giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu nhắc nhở cho các ông bài học về yêu thương nhẫn nại mà họ phải có ngay cả với kẻ thù của mình.
Ra đi, hay nói theo ngôn ngữ của Văn Cao "đi qua khỏi mình" chính là biết thắng vượt những chướng ngại do lòng ích kỷ và hận thù có thể giăng mắc trên lối đi. Cái chết chỉ thực sự có ý nghĩa và giá trị khi nó là một cái chết vì yêu thương; cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu như vậy cũng là một cuộc hành trình của yêu thương. Chỉ có yêu thương mới giúp con người thắng vượt được chính mình, chỉ có yêu thương mới giúp con người nhìn xuyên suốt qua bên kia thất bại, khổ đau.
Cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu là một cuộc hành trình không ngừng. Cùng với Ngài, chúng ta luôn được mời gọi từ giã con người cũ tội lỗi và ích kỷ để tiến về con người mới của ân sủng và yêu thương. Chông gai thử thách vẫn luôn có đó, nhưng chúng ta tin rằng có Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta và phần thưởng đang chờ đợi chúng ta chính là niềm vui được lớn lên và tìm gặp lại bản thân mỗi ngày một cách sung mãn hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Cái Chết Trên Thập Giá
Tin Mừng hôm nay hẳn mời gọi chúng ta lặp lại niềm tín thác của chúng ta vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa. Thánh Luca, tác giả của đoạn Tin Mừng hôm nay nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu như một cuộc hành trình tiến về Giêrusalem mà cao điểm là cái chết trên thập giá. Tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn cho nên có gặp thù nghịch chống đối trong suốt cuộc hành trình cũng là chuyện bình thường đối với Chúa Giêsu, nhưng các môn đệ của Chúa Giêsu chưa thể hiểu tại sao Thầy mình phải gặp phải những chống đối như thế. Phản ứng của hai thánh Gioan và Giacôbê là điển hình, hai vị thánh này không thể chấp nhận được sự kiện người dân tại một làng Samaria nọ không đón tiếp Ngài. Các ngài chỉ mong cho lửa từ trời xuống để tiêu diệt cái dân phản nghịch này. Chúa Giêsu quở trách các ngài, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho các môn đệ biết rằng điều kiện đầu tiên để làm môn đệ Ngài là phải có thái độ kiên nhẫn trước sự chống đối, thù nghịch và thẳng thắn nói chung. Ðây là dịp để các môn đệ hiểu được ý nghĩa của những bài dụ ngôn về nước Trời, đặc biệt là các bài dụ ngôn về hạt giống, về cỏ lùng và lúa tốt. Hạt giống được gieo vãi ngay cả trên đất xấu, hạt giống được gieo vãi ngay cả trên cỏ lùng, hạt giống phải chịu thối đi trong lòng đất; dù có được gieo vãi trong những điều kiện không thuận lợi, hạt giống vẫn mọc lên và sinh nhiều bông hạt.
Hình ảnh của hạt giống gợi lên cho chúng ta lịch sử của Giáo Hội. Giáo Hội được tẩy trần và sinh hoa kết trái ngay giữa những cơn bách hại đẫm máu nhất. Giáo Hội từng được thanh luyện và trưởng thành khi gặp chống đối và thù nghịch. Thái độ thỏa hiệp có thể mang lại cho Giáo Hội một vài đặc ân và dễ dãi, nhưng chắc chắn những thiệt hại và mất mát mà Giáo Hội phải chịu thì không gì có thể bù lại được. Giáo Hội có đáng tin hay không? Giáo Hội có thật sự đi lại cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu hay không? Hay giữa những chống đối, thù nghịch và thử thách, Giáo Hội vẫn tỏ ra trung thành với Ðấng khi bị treo trên thập giá đã lặng thinh và phó thác cho Thiên Chúa. Hạt lúa có gieo vào lòng đất mới thối đi và lớn lên sinh nhiều bông hạt, đó là định luật của cuộc sống Giáo Hội và của người môn đệ Chúa Kitô.
Ước gì giữa những khổ đau, chống đối và thù nghịch, chúng ta vẫn luôn nhận ra được bàn tay quan phòng kỳ diệu của Chúa, đó là ơn trọng đại mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa ban cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Đi sang làng khác
Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. Người sai mấy sứ giả đi trước, họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. (Lc. 9, 51-52)
Với lòng quả cảm, Đức Giêsu nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, vì Người biết rõ sắp tới ngày chịu nạn chịu chết. Người sẵn sàng vâng theo thánh ý Cha Người, nên không bao giờ lùi bước. Người không sống cho chính mình, trái lại sống phụng vụ thánh ý Cha với tấm lòng vui vẻ của người con thảo. Người gởi sứ giả đi trước dọn đường đi qua Sa-ma-ri-a, họ hận thù với dân Do-thái.
Dân Sa-ma-ri-a bị coi là kẻ ly giáo đối với thành thánh Giê-ru-sa-lem kể từ khi họ xây đền thờ trên núi Ga-ri-dim. Cả hai dân tộc đều khinh ghét nhau, nên những đoàn hành hương khi đi ngang qua ranh giới, đều phải chịu những quẫy nhiễu đủ thứ. Những Tông Đồ bị từ chối không cho qua làng Sa-ma-ri-a để lên Giê-ru-sa-lem.
Gia-cô-bê và Gio-an nổi khùng, muốn dùng biện pháp mạnh thiêu đốt làng đó ngay lập tức. Các ông nói với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không”. Người ta có thể nghĩ xem Đức Kitô, Đấng nhân lành xử thế nào đối với sự chống đối của các môn đệ. Người cần cho các ông một bài học nhân lành về thái độ ngạo ngược này, và chỉ cho các ông phải lấy lửa nào mà đốt tật xấu của mình đi. Đức Kitô đã nhìn Gia-cô-bê và Gio-an với giọng khiển trách ngay thẳng, hẳn tâm can Người khá thất vọng không biết đến chừng nào các ông hiểu được một chút lời dạy của Người: cần kiên trì đến bao giờ đối với các ông và với mọi người khác. Dầu đang sống với chính Người, đang nghe chính Người nói, đang nhìn thấy chính Người hành động, các ông vẫn chưa nuốt được ý nghĩa cần thiết phải có thời giờ chờ đợi cho mọi thứ ăn năn trở về, không nên dùng sức mạnh cưỡng bách Thiên Chúa xâm nhập vào những con tim loài người. Chúng ta cũng giống như các môn đệ đó, muốn một Giáo Hội bị xé nát do nhiều Kitô hữu tự lên án phạt vạ tuyệt thông nhau, đối xử tệ với những người trễ nải, hay bất mãn với những gánh nặng của Giáo Hội đề ra. Họ còn chống đối cả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa.
Đức Kitô chỉ nói đơn giản rằng: “Chúng ta đi sang làng khác”.
GF
Suy niệm 4:
Sống là lên đường. Hai lần tiên báo về cái chết sắp đến
cho thấy Đức Giêsu biết rõ con đường mình sắp đi,
và những gì sẽ xảy ra ở cuối đường (Lc 9, 22. 44).
Bị bắt, bị nộp, bị loại bỏ, bị giết chết,
là những điều tự nhiên ai cũng gớm ghét, sợ hãi và muốn né tránh.
Đức Giêsu cũng vậy, vì Ngài mang trọn phận người như ta.
“Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem” (c. 51).
Lên Giêrusalem là một quyết định đắn đo và nghiêm túc,
cũng là một chọn lựa tự do và can đảm của Đức Giêsu,
bởi lẽ lên đó là chấp nhận đối diện với cái chết bi đát.
Giêrusalem là trung tâm hoạt động của các nhà lãnh đạo Do Thái giáo,
những người đang âm mưu bắt được Đức Giêsu để thủ tiêu.
Muốn được sống yên thân, Đức Giêsu chỉ cần đừng lên thành đô ấy,
chỉ cần giới hạn hoạt động của mình ở Galilê.
Lên Giêrusalem trong tình thế dầu sôi lửa bỏng như bây giờ
là làm một cuộc Xuất Hành mới (Lc 9, 31), đầy bất trắc hiểm nguy.
Nhưng Đức Giêsu không sợ đến với nơi Cha muốn mình đến:
“Hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi,
vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được” (Lc 13, 33).
Giêrusalem là nơi Đức Giêsu hiến mình qua cái chết vì vâng phục,
nhưng Giêrusalem cũng là nơi Ngài được phục sinh và rước lên trời (c. 51).
Tin Mừng Luca coi việc lên Giêrusalem như một hành trình dài (9, 51-19, 27).
Ngài cố ý đi ngang qua vùng đất của người Samari.
Giữa người Do Thái và người Samari có sự xung khắc.
Người Do Thái khinh người Samari, người Samari thù người Do Thái.
Chính vì thế khi biết nhóm Thầy trò lên đường đi Giêrusalem dự lễ,
người dân một ngôi làng Samaria đã từ chối tiếp đón.
Giacôbê và Gioan, từng được Thầy gọi là con của thiên lôi (Mc 3, 17),
đã muốn xin cho mình được chia sẻ quyền năng trừng phạt của Thầy.
Họ muốn làm như ngôn sứ Êlia ngày xưa (2 V 1, 10. 12),
“khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy bọn chúng” (c. 54).
Nhưng Thầy Giêsu, người dẫn đầu, đã quay lại quở mắng hai ông.
Ngài chẳng bao giờ dùng quyền lực để trừng phạt kẻ từ chối mình.
Ngài sống điều Ngài đã giảng cho các môn đệ (Lc 6, 29).
Làm sao có thể giết người khác chỉ vì họ không đón nhận mình?
Quyền lực của Thiên Chúa không đe dọa, không áp đặt,
cũng không bóp chết tự do mà Ngài đã ban cho con người.
Sự bao dung của Đức Giêsu cho ta thấy sự bao dung của Thiên Chúa.
Chúng ta có thể học được nhiều điều từ thái độ này.
Như các môn đệ, chúng ta cũng thích thi thố quyền lực.
Chúng ta cũng thích dùng lửa khi có lửa trong tay.
Chúng ta không chấp nhận một Kitô giáo có vẻ yếu đuối, chịu lép vế.
Thầy Giêsu và các học trò đã đi sang làng khác (c. 56).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa, xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại, chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội, làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con, không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế, chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
02/10 Tâm tình trẻ thơ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tâm tình trẻ thơ.
Thứ Hai tuần 26 thường niên – Các thiên thần hộ thủ. Lễ nhớ.
"Các thiên thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời".
* Các thiên thần được ơn gọi trước hết là để chiêm ngưỡng ánh huy hoàng của thánh nhan Thiên Chúa và không ngừng ca hát ngợi khen Người. Nhưng theo Kinh Thánh, Chúa cũng trao cho các thiên thần sứ mạng hiện diện bên cạnh con người để giúp đỡ con người. Ngày lễ kính các thiên thần bản mệnh nhắc cho ta nhớ lại điều đó.
LỜI CHÚA: Mt 18, 1-5. 10
Khi ấy, các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời.
Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tâm tình trẻ thơ
Hôm nay, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện của một người bạn thiết thân của chúng ta nhất, đó là vị thiên thần bản mệnh của chúng ta. Mỗi người chúng ta từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ, đều được Thiên Chúa cắt cử một vị thiên thần để che chở, gìn giữ chúng ta, bằng một cách thế chúng ta không chờ đợi mà cũng chẳng tưởng tượng được, đây là chân lý mà Giáo Hội muốn nhắc nhở và mời gọi chúng ta đào sâu trong ngày hôm nay. Mỗi người chúng ta đều có một vị thiên thần luôn sát cánh để nhắc nhở, chỉ bảo, hướng dẫn và gìn giữ chúng ta trong từng đường đi nước bước của chúng ta, nhắc nhở chúng ta điều đó Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đi vào mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu vượt lên trên mọi dự đoán tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu mà Giáo Hội mừng kính hôm qua đã tìm được một bí quyết hạnh phúc và mở ra cho chúng ta một con đường nên thánh đơn sơ nhất, đó là hãy chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương. Thảm kịch lớn nhất của con người hẳn phải là không cảm nhận hay không muốn đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, trái lại ai đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, người đó sẽ thấy rằng cuộc sống của họ là một chuỗi những phép lạ.
Theo định nghĩa thông thường phép lạ là một biến cố hay một thứ hiệu quả xem ra nghịch với định luật khoa học, và do đó được gán cho các nguyên nhân siêu nhiên. Giáo Hội tin ở phép lạ nhưng lại chỉ nhận phép lạ ở một biến cố nào mà khoa học không thể lý giải được mà thôi. Ðây là tiêu chuẩn được áp dụng một cách khắt khe tại Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Ðức.
Từ hơn một trăm năm qua mặc dù không biết bao nhiêu người tuyên bố cảm nhận được cảm kích của Chúa, Giáo Hội chỉ nhìn nhận với con số bốn mươi lăm trường hợp được xem là phép lạ thực sự, sau khi ủy ban y khoa quốc tế tuyên bố không thể giải thích được sự lành bệnh theo phương diện y khoa, ít có người trong chúng ta được may mắn là đối tượng của một phép lạ như thế. Tuy nhiên, nếu hiểu phép lạ theo một ý nghĩa rộng rãi hơn như là một sự can thiệp quan phòng trường kỳ của Chúa vào cuộc sống mỗi ngày của mỗi người chúng ta, thì có thể nói đức tin sẽ cho chúng ta thấy được vô số phép lạ mà Chúa đang thực hiện trong từng biến cố và từng giây phút trong cuộc sống của chúng ta. Phép lạ không chỉ là những sự kiện lạ lùng ở bên ngoài của những sự kiện khoa học; phép lạ không những diễn ra trong những trung tâm thánh mẫu nổi tiếng; phép lạ là từng hơi thở, là từng nhịp tim của chúng ta; phép lạ là từng tia sáng mặt trời hay từng cơn gió, hạt mưa từng ngày; phép lạ là mỗi cuộc gặp gỡ chúng ta đang có với mỗi người; phép lạ mọi nơi và mọi lúc, bởi vì Thiên Chúa luôn hiện diện bên trong chúng ta mọi nơi và mọi lúc.
Các thiên thần không chỉ là những vị có cánh đến từ trời cao, các ngài ở bên cạnh chúng ta giây phút này đây, các ngài không ngừng hiện diện với chúng ta để nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, các ngài không ngừng gợi lên trong chúng ta những tâm tình trong sạch và cao quí, và xua đuổi khỏi chúng ta những tư tưởng ám muội, bất chính, để chúng ta lắng nghe tiếng nói của các ngài, chính là để tiến bước trên đường ngay nẻo chính và chúng ta sẽ được hạnh phúc đích thực.
Với đoạn Tin Mừng được đề nghị cho chúng ta suy niệm trong ngày kính nhớ các thiên thần bản mệnh hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ. Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống; trẻ thơ khi nói đến những chuyện thần tiên, thế giới của người lớn cũng còn là thế giới thần tiên, bởi vì mỗi người đều có một vị thiên thần hộ mệnh gìn giữ, bao bọc và hướng dẫn; thế giới ấy sẽ thật sự thần tiên khi con người luôn biết lắng nghe sự hướng dẫn của vị thiên thần bản mệnh ấy, và cảm nhận được tình yêu bao bọc chở che của Chúa. Hãy để cho Thiên Chúa yêu thương, còn gì đơn sơ bằng bí quyết hạnh phúc ấy.
Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí để cho chúng ta luôn biết để cho vị thiên thần bản mệnh hướng dẫn, hầu cảm nhận được tình yêu của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Vâng nghe các thiên thần
”Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 18,10)
Suy niệm: “Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta, mạng lưới này tuy vô hình, nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho ta yêu chuộng giây phút chóng qua hơn sự sống vĩnh cửa, khuyến dụ ta chạy theo sự vô định hơn chân lý, nó bảo ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi" (Triết gia Raissa Maritain). Khắc tinh của ma quỷ là các hiệp sĩ thiên thần hộ thủ, những người bạn thân vô hình được Thiên Chúa sai đến ở bên cạnh, hộ giúp ta đêm ngày. Vai trò của các ngài là giúp ta phá đi mạng lưới ảo tưởng, đưa ta đến môi trường của sự thật giải thoát của Tin Mừng Nước Trời. Các ngài nhắc nhở ta cài “phần mềm” sự sống vĩnh cửu trong mọi việc ta làm, phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân trong mọi dự tính đời ta.
Mời Bạn: Các hiệp sĩ vô hình ấy chu toàn nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó hay không tùy thuộc nơi thái độ của bạn. Nếu bạn ngoan ngoãn vâng theo sự soi sáng hướng dẫn của các ngài, dù phải trầy da tróc vẩy, bạn sẽ thoát vòng vây của quỷ ma và đạt đến cùng đích đời mình là hạnh phúc muôn đời bên Chúa.
Sống Lời Chúa: Tập lắng nghe tiếng nhắc nhở của thiên thần hộ thủ, và ngoan ngoãn làm theo, dù phải hy sinh ý riêng, sở thích riêng của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã sai các thiên thần hộ thủ nâng đỡ chúng con trên hành trình đi về quê trời. Xin cho chúng con biết vâng theo sự hướng dẫn của các ngài, và cảnh tỉnh trước những hiểm họa do ma quỷ, xác thịt và thế gian đang cản trở bước đường của chúng con. Amen.
(Trích trong ‘nguoitinhuu.com’)
Suy niệm 3 :
Bài Tin Mừng hôm nay vừa nói đến trẻ nhỏ,
vừa nói đến những kẻ bé mọn trong cộng đoàn.
Ai là những kẻ bé mọn trong cộng đoàn ?
Đó là những người tin vào Đức Giêsu (Mt 18, 6),
nhưng đức tin của họ còn non yếu, mong manh.
Đức Giêsu đã nặng lời với ai làm cho một kẻ bé mọn sa ngã.
“Thà cột cối đá lớn vào cổ và ném nó dưới biển còn hơn.”
Rõ ràng Đức Giêsu quý những kẻ bé mọn trong cộng đoàn.
Ngài không muốn họ bị tổn thương vì gương mù gương xấu.
Câu cuối của bài Tin Mừng là một lời nhắc nhở nữa.
“Anh em chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này” (c. 10).
Lý do Đức Giêsu đưa ra khá đặc biệt:
“Vì các thiên thần của họ ở trên trời
không ngừng thấy khuôn mặt của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Như thế ngay cả những người bé mọn cũng có thiên thần riêng.
Người bé mọn có thể lầm lạc, sa ngã,
nhưng không vì thế mà họ bị coi thường hay khinh miệt.
Thiên thần của họ vẫn ở gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho họ.
Thật thú vị khi người Kitô hữu tin mình có một thiên thần hộ thủ.
Thánh Basiliô viết: “Mỗi tín hữu đều có một thiên thần hộ thủ,
để bảo trợ và hướng dẫn đến sự sống đời đời.”
Vị thiên thần này vừa được phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa,
vừa đồng hành suốt đời với từng người cho đến nơi quê thật.
Thiên thần hộ thủ là một quà tặng của lòng nhân hậu Chúa.
Là sứ giả được Chúa sai,
thiên thần là sự hiện diện của Chúa với từng người chúng ta.
Thiên thần đã bảo vệ ông Lót (St 19),
đã cứu Agar và con của bà (St 21, 17),
đã giữ tay Abraham không cho cụ giết con (St 22, 11).
Một vị thiên thần ban đêm đã cứu Phêrô khỏi tù ngục (Cv 12, 15).
Như thế thiên thần là bạn đường bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ.
Khi sống trong một bầu khí vắng bóng Thiên Chúa,
con người khó tin vào những thực tại vô hình.
Các thiên thần có khi chỉ là những hình trang trí nơi hang đá,
hay những bức tượng thạch cao đặt hai bên bàn thờ.
Chúng ta khó tin mình được trợ giúp bởi một thiên thần có thật,
và không dám tin mình đáng quý đến thế,
để Chúa ban cho mình một người hướng đạo và đỡ nâng.
Làm sao để chúng ta ra khỏi sự cô quạnh của chính mình,
khi chấp nhận niềm tin vào thiên thần hộ thủ?
Làm sao để ta cảm được hoạt động kín đáo của người trong đời ta?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề ; có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy ; có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi. Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi. Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước. Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con cũng gặp được sự hiện diện của Chúa
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm 4:
Phá kỷ lục là ước mơ của các vận động viên.
Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng, của châu lục và thế giới?
Để phá kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó.
Chỉ cần chạy nhanh hơn một phần ngàn giây,
nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét,
cũng đủ để làm một kỷ lục đứng vững nhiều năm bị phá đổ.
Nhưng không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục.
Các nước cũng tranh nhau xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó.
Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một cuộc đua tranh xem ai đứng đầu.
Có những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ.
Nhưng cũng có những cuộc đua tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt.
Các môn đệ vẫn loay hoay với một câu hỏi trong đầu:
“Trong các ông, ai là người lớn nhất ?” (c. 46).
Thầy Giêsu muốn dạy cho họ một bài học rất gợi hình,
nên đem một em nhỏ đến và trân trọng đặt em đứng bên cạnh (c. 47)
Thầy đồng hóa mình với em nhỏ yếu đuối và không có địa vị ấy:
ai tiếp đón em này là tiếp đón chính Thầy.
Thầy cũng cho biết, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Thiên Chúa (c. 48).
Như thế một em nhỏ bình thường là con đường dẫn ta gặp gỡ Đức Giêsu,
và gặp gỡ chính Thiên Chúa siêu việt.
Để tiếp đón Thiên Chúa và Đức Kitô trong đời,
ta phải sẵn sàng tiếp đón những người yếu kém và nhỏ bé nhất trong xã hội.
Khi các môn đệ bị ám ảnh bởi chuyện làm lớn
thì Thầy Giêsu đem lại cho họ một em nhỏ,
và cho thấy sự cao trọng lớn lao của em trong cái nhìn của Thiên Chúa.
Câu trả lời của Thầy đã rõ: kẻ nhỏ nhất chính là người lớn nhất trong anh em.
Vượt ra khỏi sự tranh chấp trong nhóm,
bây giờ các môn đệ lại phải đối diện với một người trừ quỷ ở ngoài nhóm.
“Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng chúng con đi theo Thầy.”
Tại sao một người ở ngoài nhóm lại dám lấy danh Thầy mà trừ quỷ?
Lẽ ra việc dùng danh Thầy phải là độc quyền của chúng con.
Người ấy không được chiếm lấy sự thành công và tăm tiếng
mà chỉ những ai theo Thầy như chúng con mới được hưởng.
Các môn đệ đã có thái độ cục bộ và bè phái.
Họ cần cởi mở và khoan dung hơn với những người ngoài.
Danh Thầy Giêsu là quà tặng cho cả thế giới, chứ không cho riêng môn đệ.
Ai cũng có thể đến múc lấy sức mạnh từ Danh ấy và sẻ chia.
Thầy Giêsu mời các môn đệ bước ra khỏi sự hẹp hòi khép kín,
để vui vẻ kính trọng một người tuy không thuộc nhóm mình,
nhưng làm được những việc mà có khi mình không làm nổi (Lc 9, 40).
Danh Giêsu được tôn vinh: đó là điều chúng ta nhắm tới.
Chúng ta chỉ mong sức mạnh của Danh này làm thế giới được trừ quỷ.
Chỉ mong ai đó đang ở ngoài nhóm và đang trừ quỷ nhờ Danh Giêsu,
sẽ có ngày trở thành người môn đệ trong nhóm.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến,
và tin tưởng vào thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen,
những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi.
Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý
ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha,
xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,
xin cho chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
01/10 Người con vâng lời thực sự
- Viết bởi Mt 21, 28-32
Người con vâng lời thực sự.
Chúa Nhật 26 thường niên năm A.
"Nó hối hận và đi làm. Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông".
Lời Chúa: Mt 21, 28-32
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!" Nó thưa lại rằng: "Con không đi". Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: "Thưa cha, vâng, con đi". Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất".
Chúa Giêsu bảo họ: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Ed. 18, 25-28; Pl. 2, 1-11; Mt. 21, 28-32
1. Trở lại
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đặt chúng ta trước một người cha hiền lành và nhân hậu truyền bảo hai người con của mình đi làm vườn nho. Thực vậy, hình ảnh người cha này chính là hình ảnh Thiên Chúa của Đức Kitô, hoàn toàn trái ngược với hình ảnh Thiên Chúa mà các thượng tế đã giới thiệu cho người Do Thái.
Đúng thế, người ta thường hay vẽ ra một Thiên Chúa thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán, khác hẳn với hình ảnh Thiên Chúa do Đức Kitô mạc khải, là một người cha nhân từ và tha thứ. Ngay cả lệnh truyền của Ngài cũng chỉ là một lời mời gọi: Hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha.
Thái độ của hai người con cũng trái ngược nhau một cách đặc biệt. Hình ảnh hai người con có lẽ đã diễn tả được tính chất mâu thuẫn của hai quan niệm biết Chúa và sống đạo.
Người con thứ nhất khẳng định tự do của mình bằng tiếng không với cha anh. Nhưng sau đó, anh đã suy nghĩ lại và đã quy thuận, đặt tự do của mình phục vụ lợi ích chung của gia đình qua việc thi hành ý muốn của cha. Có một sự giằng co trong chọn lựa của anh. Để thực thi ý muốn của cha, anh đã phải can đảm từ bỏ cách sử dụng tự do theo tính tự phát của cái tôi ích kỷ, của những sở thích, những dục vọng đi ngược lại với hạnh phúc chung của gia đình xã hội.
Trái lại người con thứ hai từ đầu đến cuối đã tỏ ra bất nhất, vô trách nhiệm đối với ích lợi chung và chỉ biết có mình. Câu trả lời của anh ta: Thưa cha vâng, thật ra chỉ là một câu nói hình thức, dửng dưng, máy móc nhằm mục đích đánh lừa người cha. Anh ta không yêu mến cha mình và do đó cũng tỏ rõ mình là người ích kỷ, không thể yêu thương bất cứ một ai khác. Vì tình yêu không ở trong những điệu bộ khách sáo, đầu môi chót lưỡi mà phải đi vào hành động đi vào việc làm.
Trong thực tế, phần đông chúng ta đều cảm thấy khó mà thực thi ý Chúa bởi vì nó ngược với sở thích vị kỷ cá nhân của mình. Thái độ tránh né vốn là thái độ thường tình, nhất là khi gặp phải khổ đau và thử tháchy. Phải chấp nhận sự trăn trở, giằng co, chiến đấu với bản thân rồi mới nhìn ra thánh ý Chúa và can đảm thực hành. Giá trị cuộc đời chúng ta chủ yếu là nhờ sự phản tỉnh và quay trở lại cùng Chúa.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy còn đầy dẫy những chuyện bê bối, tiêu cực, chẳng hạn, vấn đề tham nhũng, trộm cắp và những tội phạm hình sự. Có lúc ở rất gần chúng ta, ngay bên trong giáo xứ và biết đâu, ngay bên trong bản thân chúng ta. Thử hỏi chúng ta phải làm gì? khoanh tay lên án theo kiểu Pharisêu hay kiên trì hành động, làm cho tình trạng nói không với Chúa, trở thành tình trạng nói có với Chúa, bằng một lòng xác tín vào tình thương tha thứ của Ngài. Bởi vì Ngài luôn luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, nếu chúng ta biết sám hối quay trở về với Ngài.
2. Thực thi ý Chúa
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đã trao ban cho con người sự tự do. Và với sự tự do này, con người có thể bước theo Chúa nhưng cũng có thể quay lưng chống lại Ngài. Con người có thể vâng theo thánh ý Chúa nhưng cũng có thể từ khước đường nẻo của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là Thiên Chúa sẽ xử sự với chúng ta tuỳ theo việc chúng ta có hay không thực thi thánh ý Ngài, chứ không tuỳ thuộc vào lời nói của chúng ta.
Trong hai người con, người được coi là đã thực thi ý định của cha không phải là người đã mau mắn trả lời vâng trước lệnh truyền của cha, nhưng trong hành động thì lại không làm. Mà chính là người tuy đã trả lời không, nhưng trong thực tế lại đi làm điều người cha truyền dạy.
Trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như thời nay, vẫn có những hạng người tỏ ra ngoan đạo, công chính, siêng năng với các việc đạo đức, kinh hạt, nhà thờ nhà thánh. Lời nói thì đầy vẻ thuần phục đối với các giáo huấn của Chúa, nhưng trong hành động lại chẳng có chút vẻ gì là ưng thuận đối với điều Chúa truyền dạy. Những người bề ngoài xem ra dễ bảo, nhưng thực chất lại là người khó dạy. Họ đã có thể đánh lừa được dư luận vì cái mau mắn bên ngoài của họ.
Trong xã hội thời Chúa Giêsu, những người này tượng trưng nơi hàng tư tế, đầu mục, nhóm biệt phái và thông luật. Tuy đánh lừa được dư luận, nhưng thực ra, họ đã đánh mất chỗ của họ trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Thế vào chỗ của họ lại là những người thu thuế, những gái điếm, những người mà ai cũng biết là đang vị phạm ý Chúa, được bày tỏ trong lề luật và trong giới răn của Ngài. Họ là những người qua lối sống của mình, đã nói không trước lệnh truyền của Chúa. Nhưng một lúc nào đó, những người này đã nhận ra sự sai trái của mình, đã biết hối cải và đi làm điều Chúa truyền dạy. Họ là những người đã được giáo huấn và những việc làm của Ngài lay động, làm thức tỉnh, thay đổi hẳn cuộc sống. Họ là người đàn bà xứ Samaria, đã gặp Chúa bên giếng nước; là ông Giakêu, được Chúa viếng thăm; là bà Maria, đã xức dầu cho Chúa; là tên trộm cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa; là tất cả những kẻ tội lỗi biết hối cải. Vấn đề chính yếu là làm theo ý Chúa.
Thế nhưng, người ta lại thường hay tự mãn với một nhãn hiệu, một dấu chỉ bên ngoài nào đó. Chẳng hạn vốn tự hào là người công giáo ngoan đạo, chúng ta khó mà nghĩ đến việc trở lại, mở rộng cửa tâm hồn đón nhận cái mới, cái bất ngờ, cái chưa được nghe biết bao giờ.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy trở ngại lớn nhất trên đường vào Nước Trời không phải là tội lỗi mà là sự ngủ mê giữa những tiêu chuẩn đạo đức được chúng ta dựng nên, sự sợ hãi phải đặt lại vấn đề những cái đã là chúng ta đã xác tín. Tuy nhiên, có đặt lại vấn đề như thế, chúng ta mới nhận biết được thánh ý Chúa và mới đi đúng con đường Chúa muốn chúng ta đi.
3. Dám nói, dám làm
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài thơ viết rằng:
Hãy nhớ nhé!
- Nếu không làm được... thì đừng hứa.
- Nếu không chắc... thì đừng nói.
- Nếu không thương, không yêu... thì đừng gieo hi vọng.
Bởi vì:
- Tình yêu là cảm xúc, là lí trí của con tim.
Vậy nên:
- Đừng nhẫn tâm giẫm lên con tim người khác...!
Nhưng đáng tiếc con người lại thích hứa mà lại không đủ ý chí để làm. Thích nói mà không đủ quảng đại để thực thi lời nói. Thế nên, giữa lời hứa và việc thực hiện vẫn còn một khoảng cách rất gần và cũng rất xa, vì nó tùy ở tại lòng người.
Trong cuộc đời dường như ai cũng từng hứa hẹn, và rồi cũng từng thất hứa. Vì cuộc sống vốn nhiều bất trắc khó lường. Rất nhiều giấc mơ dang dở. Rất nhiều mộng ước vỡ tan. Cuộc đời không bình phẳng mà lấm gập ghềnh trái ngang. Thế nên, vẫn còn đó những giấc mộng không thành, và vẫn còn đó những lời hứa chìm vào quên lãng theo dòng thời gian.
Đôi khi những lời hứa của chúng ta chỉ là “lời nói gió bay”, vì nói cho vui, vì cũng chẳng ai quan tâm tới lời hứa của chúng ta. Tuy nhiên, cũng có những lời hứa mang đến cho người khác hy vọng, niềm tin,nghị lực để đứng vững trong cuộc sống. Có những lời hứa là động lực để người ta phấn đấu, hay đơn giản chỉ là niềm vui nho nhỏ khi được quan tâm, yêu thương...
Người ta càng đặt nhiều niềm tin vào những lời hứa thì càng dễ hụt hẫng khi người khác thất hứa. Hy vọng càng nhiều thì nỗi thất vọng sẽ càng lớn...
Tại sao lại phải hứa khi biết rõ mình chẳng bao giờ thực hiện được lời hứa?
Tạo sao phải gieo vào lòng nhau những hy vọng để rồi chính mình lại lấy đi hy vọng đó?
Có biết bao cô gái tin vào lời hứa của chàng trai mà nhẹ dạ trao thân để rồi ôm hận mãi mãi.
Có biết bao chàng trai đã từng thất vọng vì bạn gái bội thề.
Có biết bao người quá tin người mà ôm nợ, ôm hận thiên thu.
Có biết bao người đã từng hứa từ bỏ rượu chè, cờ bạc, ngoại tình... nhưng hứa đó rồi lại quên, vẫn chứng nào tật ấy!
Có biết bao lần chúng ta cũng hứa với Chúa rất nhiều nhưng lại chẳng bao giờ thực hiện. Hứa đó rồi quên. Hứa chừa tội mà tội vẫn cứ phạm. Phạm tội không chỉ một lần mà rất nhiều lần trong cuộc sống.
Chúa Giêsu luôn đề cao người dám thực hiện lời hứa. Có thể là muộn màng nhưng vẫn còn tốt hơn là người nói mà không làm. Nói mà không giữ lấy lời như lâu đài xây trên bờ cát, sóng xô, gió cuốn thì nào ích gì?
Con người luôn có lầm lỡ. Điều quan yếu là biết nhận lỗi và sửa lỗi. Tựa như người con thứ đã từng quay lưng với lời mời gọi của cha mẹ, nhưng anh ta đã hối hận và sửa sai. Nhưng đáng trách là người con cả, chỉ nói mà không làm. Hứa cuội mà không thực hiện. Đó là con người không đáng tin trong cuộc sống.
Năm xưa, Quí Tử đi sứ nước Tấn có mang thanh bảo kiếm, qua thăm vua nước Từ.
Vua nước Từ ngó hoài thanh kiếm ra dáng yêu thích lắm, lòng tuy muốn xin mà miệng chẳng tiện nói ra....
Qúi Tử vì còn phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa tặng vua Từ thanh kiếm được, nhưng trong lòng đã thầm hứa cho, khi đi sứ xong!
Sau khi xong việc, về thăm vua nước Từ thì vua Từ đã mất!!! Quí Tử liền tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân vua Từ. Các người hầu ngăn lại:
- Bảo kiếm này là Báu Vật của nước nhà, không phải là món quà có thể tặng được!!! Mong tướng quân suy xét kỹ việc này....
- Lần ghé trước đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuy chưa nói ra, nhưng lòng dường như rất yêu thích. Ta vì còn phải đi sứ thượng quốc, chưa dâng được. Tuy vậy trong lòng ta đã hứa cho. Vua Từ nay đã mất, ta vẫn giữ lời hứa mình vì nếu không, ta đã tự dối tâm mình. Tiếc kiếm mà thất hứa, dối tâm... người liêm không bao giờ làm!!!
Nói xong, Quí Tử tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân của Từ Vương!
Sứ quân nói: “Vua tôi không có dặn việc này, tôi thiệt không dám nhận kiếm.”
Quí Tử bèn treo kiếm vào cành cây ở mộ vua Từ, rồi đi.
Người nước Từ ai cũng khen Quí Tử đã không quên lời hứa, ngay cả với người đã mất!!
Ước gì chúng ta luôn là người đáng tin với anh em khi dám thực thi lời hứa, cho dù có chịu thiệt thòi vẫn không chối bỏ lời hứa. Xin cho chúng ta cũng biết lắng nghe và thực thi lời Chúa, cho dù vì thực thi lời Chúa mà chúng ta có thể thua thiệt đời này nhưng chúng ta sẽ có một gia tài vô cùng to lớn trên quê trời. Amen.
4. Ngôn hành như nhất
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Vào năm 1992, tại tiểu bang Georgia - Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là "cười ra nước mắt".
Một bà mẹ 73 tuổi bị chính đứa con trai của mình kiện vì bà không trả cho anh ta tiền công sửa chiếc xe tải của bà. Sau đó, bà mẹ đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp dụng câu tục ngữ: "Thương con cho roi cho vọt".
Vào ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613 đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.
Trả lời cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau: "Nguyên cáo đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuyên nhủ, an ủi, v.v... Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị cáo". Bà Ar-gut còn viết tiếp:
"Như một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi".
Đó là nỗi đau của một bà mẹ bị con khước từ. Nó đã không còn nhận bà là mẹ. Nó đòi bà phải trả tiền như bao khách hàng khác. Chính trong nỗi đau đó, Bà mẹ Argus hối tiếc vì đã không dạy con từ nhỏ nên mới lãnh lấy hậu quả hôm nay.
Và hôm nay trong số những người trẻ sì ke ma túy, ăn chơi thác loạn, rửa tiền của cha mẹ đều thuộc diện cha mẹ lo làm ăn, thiếu quan tâm giáo dục con cái, và điều tệ hại nhất là nuông chiều con cái quá mức đến hư thân. Sinh con ra ai cũng mong con mình tài đức, hiếu thảo hiền ngoan, nhưng để được vinh dự đó, không thể cho nó lớn lên một cách tự nhiên, cẩu thả lười biếng và vô độ ngay từ nhỏ, mà con cái chỉ có thể lớn lên thành người từ sự giáo dục cẩn trọng của cả cha lẫn mẹ.
Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: "Uốn cây uốn thuở còn non - Dạy con dạy thuở còn thơ". Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng "ngôn hành bất nhất", khiến con cái học đòi tính "nói một đàng làm một lẻo", thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.
Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.
Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện "ba phải", dạ vâng rồi lại không làm.
Người con đầu là hình ảnh anh em lương dân. Họ không theo đạo nhưng họ lại sống ăn ngay ở lành. Họ sống theo lề luật của Thượng Đế được ghi khắc trong lương tâm. Họ là người ngoại đạo "nhưng tin có Chúa ở trên cao". Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng "Ông Trời có mắt".
Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa.
Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo...
Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: "không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết "ngôn hành như nhất" để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen.
5. Rất cần cho một lần hoán cải
(Anmai)
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe sao mà nó hay quá! thiết thực quá! và cũng rất đời thường quá. Câu chuyện trong trang Tin Mừng Chúa Giêsu kể hôm nay, thật sinh động, thiết thực và lôi cuốn người nghe. Thiết thực, sinh động, lôi cuốn nhất là với những bậc làm cha làm mẹ. Làm cha làm mẹ thì có cái quyền trên con cái của mình. Khi có quyền thì cha mẹ cũng có cái quyền sai khiến con mình mà đặc biệt là sai đi làm công việc nhà, công việc trong gia đình vì con cái phải đồng trách nhiệm trong gia đình của mình. Và sự thật, kết quả hết sức là buồn cười vì nó ngược lại với cái nghĩ, cái sự vâng lời từ ban đầu giữa hai người con.
Làm cha làm mẹ, ai ai cũng khó chịu với cái cách của người con thứ nhất: ban đầu bảo không đi nhưng rồi lại đi. Còn người con thứ hai thì ngược lại: bảo đi nhưng lại không đi. Chuyện cũng hết sức là thường tình với bậc cha mẹ, đó là cha mẹ thích người con vâng lời hơn là người con không vâng lời. Vấn đề Chúa muốn nói lên trong câu chuyện này đó là thái độ, là tâm tình hoán cải của người con thứ nhất.
Vấn đề hoán cải chúng ta được nghe rất rõ trong sách ngôn sứ Edêkien: "Đây Chúa phán: Các ngươi đã nói rằng: 'Đường lối của Chúa không chính trực'. Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết".
Vậy thì ai là người cần hoán cải? Những người sống tốt, sống công chính thì chẳng cần phải hoán cải. Chỉ những ai phạm tội, những ai vấp ngã, những ai yếu đuối thì mới cần hoán cải để được sống.
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta. Chắc có lẽ, không ai trong chúng ta dám nhận rằng mình là người hoàn thiện, là người công chính. Trái lại trong chúng ta, ai cũng rất cần được một lần hoán cải để nhận được sự sống, ơn cứu độ từ Thiên Chúa.
Thật buồn cười! Bao nhiêu lần xúc phạm đến Chúa, xúc phạm đến anh chị em đồng loại, chúng ta cảm thấy xấu hổ, chúng ta cảm thấy ăn năn thống hối và quyết chừa cải, nhưng rồi con người yếu đuối chúng ta lại vấp ngã. Như Thánh Phaolô đã trải lòng ra cho chúng ta: "Điều tôi biết là tốt thì tôi lại không làm, điều tôi biết là xấu thì tôi lại cứ làm!". Trong thâm tâm của chúng ta luôn luôn có sự giằng co giữa điều thiện và điều ác. Chẳng ai trong chúng ta muốn phạm tội, chẳng ai trong chúng ta muốn làm điều ác cả, nhưng sao mà ác quỷ nó cứ thúc đẩy chúng ta.
Chúng ta nhớ, trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi mà chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại đấy, con người phạm nhiều tội lắm nhưng mà Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta hai thứ tội căn bản, hai loại người mà xã hội Do Thái thường hay kết án đó là gái điếm và thu thuế!
Chẳng cần phải định nghĩa, ai ai trong chúng ta cũng biết bản chất của gái điếm là gì rồi! Có thể, chẳng ai muốn làm điếm cả nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy, vì yếu đuối nên mới làm cái nghề nhục nhã này. Biết là tội đấy nhưng hình như không còn lối thoát, không còn cách nào khác để rồi phải chấp nhận sống trong cái tội đáng chê đáng ghét này.
Thu thuế! Nói đến chuyện thuế má thì ở thời đại nào cũng không mấy ai thích đóng thuế cả. Thoạt đầu, thuế chính là trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trên đất nước mình sống, nhưng chính trong cái cách thu thuế, nộp thuế không minh bạch sao ấy, đã để lại trong mắt mọi người cái nhìn không thiện cảm về người thu thuế, nào là tham lam, gian dối, và thu vén thật nhiều cho riêng mình v.v...
Chúa Giêsu nói với thượng tế và kỳ lão đấy nhưng thật sự Chúa đang nói với mỗi người chúng ta: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông". Chúa Giêsu muốn nói lên rằng những người gái điếm và thu thuế đó sẽ vào Nước Thiên Chúa trước chúng ta vì sao? Vì họ biết hoán cải.
Trở lại vấn đề, tất cả nó nằm ở chính sự hoán cải. Dù tội lỗi như thế nào, xấu xa kinh khủng như hai hạng người tệ hại nhất mà người Do Thái lên án và ghét bỏ đi chăng nữa nhưng biết hoán cải thì cũng sẽ được cứu. Tệ hại nhất như đứa con ban đầu thoạt nghe là bất hiếu, là không vâng lời đi chăng nữa nhưng sau đó biết hoán cải thì cũng sẽ làm hài lòng người cha của mình hơn.
Hoán cải! Nói thì dễ nhưng thật sự nó không phải là hành vi đơn giản, dễ dàng. Mấy ai trong chúng ta đã hoán cải dù biết rằng mình cần phải hoán cải để được cứu. Lý do: Muốn hoán cải thì điều kiện cương quyết, điều kiện căn cốt nhất đó chính là thái độ phải nhìn ra chính mình, nhìn thẳng vào cái tôi của mình nhưng điều này thật khó làm trong tiến trình hoán cải.
Trước hết, ai ai cũng bảo thủ, ai ai cũng muốn bảo vệ cái danh dự của mình, không muốn cho ai biết cái xấu, cái khuyết điểm của mình thì làm sao mà hoán cải được. Điều này rất khó vì ai ai cũng mang trong mình một cái vỏ bọc bề ngoài rất kiên cố và sợ người khác biết được cái vỏ bọc bên trong của mình, sợ xấu hổ.
Kế đến là mình có nhận ra đó là điều xấu, đó là điều dở cần phải khắc phục hay không? Điều này cần phải được huấn luyện, được giáo dục để có một lương tâm ngay thẳng, một lương tâm trong sáng, một lương tâm đích thực. Một người nào đó sống trong một lương tâm mù quáng thì không thể nào nhận ra những lầm lỗi của mình cả.
Muốn có được được những điều ấy, muốn thực hành một cuộc hoán cải cuộc đời mình thì điều kiện cần thiết nhất mà mỗi người chúng ta phải có đó chính là thái độ khiêm nhường. Càng khiêm nhường bao nhiêu thì càng dễ hoán cải bấy nhiêu. Mà thực tế, chúng ta thấy những người kiêu ngạo thì khó có thể thay đổi con người mà thậm chí càng ngày càng lún sâu trong tội mà người kiêu ngạo đã phạm.
Nói về sự khiêm nhường, Thánh Phaolô đã nhắc cho chúng ta trong đoạn thư gửi giáo đoàn Philipphê mà cộng đoàn chúng ta vừa nghe: "Anh em chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô".
Trong Đức Kitô như thế nào? Xin thưa: "Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá".
Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn vào gương Đức Giêsu và sống như Đức Giêsu đã sống. Ngài nói, Ngài dạy chúng ta nhưng chính Ngài đã sống: "Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Đức Kitô". "Tôi không muốn biết điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập giá" (1 Cr 2,2).
Nếu chúng ta mặc lấy trong mình sự khiêm hạ thì chúng ta sẽ dễ dàng hoán cải đời mình, nếu chúng ta kiêu căng thì không bao giờ sửa mình được.
Phận người chúng ta mang trong mình biết bao nhiêu là yếu đuối, biết bao nhiêu là đổ vỡ nên cần lắm sự hoán cải. Nếu không hoán cải thì những người sống chung quanh chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta sẽ rất vất vả vì chúng ta, thế nên chúng ta rất cần đến ơn hoán cải nơi mỗi người chúng ta.
Ít nhiều trong chúng ta vẫn thường cư xử với với Chúa, với anh chị em đồng loại mà gần nhất là với cha, với mẹ, với chồng, với con, với thành viên trong cộng đoàn chúng ta theo kiểu người con thứ hai là bề ngoài thì dạ dạ vâng vâng đấy nhưng thực chất thì chẳng bao giờ thì hành cái lời dạ dạ vâng vâng. Ước gì chúng ta nhìn lại hình ảnh của người con đầu là dù bề ngoài có khó chịu, có không vâng phục nhưng sau đó hồi tâm, hoán cải và thi hành điều Chúa, điều mà cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em đồng loại muốn nơi chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã vâng phục và vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá giúp chúng ta sống tâm tình khiêm nhường sâu thẳm để chúng ta hoán cải cuộc đời chúng ta hầu mong sau cõi tạm này, chúng ta được cứu như những cô gái điếm và những người thu thuế biết hoán cải và được Chúa hứa Nước Trời như vậy. Amen.
6. Cải thiện cuộc sống
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm. Vì mọi người đều mắc phải lầm lỗi nên bất cứ ai cũng cần phải sám hối và sửa mình. Mắc phải lầm lỗi thì không đáng lên án, nhưng thái độ ngoan cố không nhận lỗi, không ăn năn hối hận và chìm đắm trong tội là điều tai hại và rất đáng tiếc. Thế nên, hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học rất quan trọng giúp chúng ta ăn năn phục thiện để trở thành người tốt.
Để cụ thể hoá bài học của mình, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn sau đây: Một người cha có hai con. Sáng hôm ấy, ông đếnvới đứa con thứ nhất và bảo nó: "Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha". Nó ương ngạnh trả lời: "Không! Con không đi!". Người cha buồn lòng lặng lẽ quay sang đứa khác, mời nó ra vườn làm việc với ông. Cậu nầy dạ dạ vâng vâng: "Con sẽ đi!", nhưng rồi không thấy tăm hơi đâu cả. Sau đó, người con thứ nhất hồi tâm lại, thấy được sai trái của mình nên hối hận vác cuốc ra đồng cùng làm với cha.
Thế là người con thứ nhất, dù ban đầu có phần ương bướng, nhưng biết xét lại, biết nhận ra lỗi mình và có quyết tâm sửa chữa nên đáng tuyên dương. Khi nói với các thượng tế và kỳ lão rằng: "Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông", Chúa Giêsu có ý chê trách những người nầy vì không biết ăn năn sửa lỗi đồng thời ngợi khen những người tội lỗi biết sám hối ăn năn sửa mình.
Chúa Giêsu còn đặc biệt tỏ lòng yêu mến đốivới những người biết hối cải qua câu chuyện người cha nhân lành và đứa con phung phá. Khi người con hoang đã phá sạch cả nửa gia tài với bọn đàng điếm nhưng rồi biết hồi tâm lại, biết thống hối ăn năn và quyết tâm chỗi dậy trở về cùng cha thì người cha quên hết mọi lầm lỗi của nó, chạy ra ôm hôn nó, tiếp đón nó với tất cả tình yêu thương.
* Vào những năm kinh tế còn khó khăn, gia đình ông Tư sắm được một chiếc xe máy Honda đời 67. Ông ra công bảo quản nó rất chu đáo; ngày ngày tỉ mỉ lau chùi từng chân căm, rồi lại dành ra cả tấm mền để trùm cả chiếc xe cho khỏi bụi. Ông cưng xe hơn cưng con, chẳng cho ai đụng đến. Nếu xe bị trầy, ông vô cùng xót xa. Nếu xe có gì trục trặc, dù rất nhẹ, ông phải đưa ra thợ sửa chữa liền. Trong khi đó, bản thân ông mang nhiều tật xấu, thói hư, bị hàng xóm láng giềng chê cười xa lánh, thì ông chẳng quan tâm sửa mình.
Bản thân con người quý hơn xe cộ cả triệu lần, nhưng khi bản thân hư hỏng, xuống cấp… nhiều người không cho là quan trọng! Xe hư, máy hư thì lo sửa liền, còn người hư thì cứ để mặc. Cứ để hư cho đến chết thì thôi! Thật là điều phi lý.
Khi mặt mày chúng ta lem luốc vì lọ nghẹ hay dầu mỡ, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa cho sạch sẽ ngay. Khi thấy áo quần dơ bẩn và rách rưới, chúng ta sẽ thay áo khác liền. Khi cơ thể chúng ta dơ dáy và bốc mùi hôi, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa ngay không trì hoãn.Vậy thì khi tâm hồn chúng ta lem luốc, dơ bẩn vì tội lỗi thói hư, lẽ nào chúng ta lại cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác sao?
Trong công nghệ thông tin hay sản xuất hàng tiêu dùng, việc cải tiến chất lượng sản phẩm là vấn đề sinh tử của các công ty. Châm ngôn của các nhà phát minh và chế tạo là: “Cải tiến hay là chết.” Thế nên người ta không ngừng rà soát lại những nhược điểm của sản phẩm và phải khắc phục bằng mọi giá trước khi tung ra thị trường.
Giá trị con người vượt xa giá trị hàng hoá cả triệu lần. Ước gì trong lĩnh vực đạo đức, mỗi người cũng rà soát lại những khuyết điểm của mình để cải thiện cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa. Nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn giúp sức cho chúng ta thực hiện được công cuộc cải thiện tối cần thiết nầy.
7. Nói và làm
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Trong hai người, ai đã làm theo ý của cha mình?” (Mt 21,31).
Khác với các dụ ngôn khác, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dường như không đưa ra một vấn đề hóc búa hoặc khó trả lời. Người cha nói với cả hai người con ra vườn nho làm việc. Người con thứ nhất nói không, nhưng sau đó nó thay đổi và đi làm. Người con thứ hai nói vâng nhưng rồi lại không đi. Có vẻ như không khó khăn gì để trả lời câu hỏi của Đức Giêsu “Ai trong hai người đã làm theo ý của cha mình? Chắc chắn, câu trả lời của chúng ta, là đứa con lúc đầu tuy đã từ chối, nhưng sau đó lại thi hành mệnh lệnh của cha. Đối với não trạng văn hóa cổ xưa thì không phải vậy. Theo các bản văn ban đầu, người ta lại đánh giá người con thứ hai cao hơn, bởi vì nó nói có, cho dù sau đó nó không đi. Trong một nền văn hóa mà người ta trọng hình thức bên ngoài, thì có lẽ đứa con thứ hai đã mauchóng đáp trả lời mời gọi của cha,sẽ được trọng thị và tán thưởng hơn, cho dù xét về khía cạnh khác thì nó đáng xấu hổ vì đã không thực hiện lời hứa. Vào thời bấy giở, hình ảnh đứa con thưa vâng vẫn tốt hơn là đứa con công khai bất tuân lời cha, cho dù sau đó , nó hối hận và đi làm.
Theo mạch văn trong Tin mừng Matthêu, Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn để trực tiếp công kích thái độ của các lãnh đạo tôn giáo thời Ngài. Họ là những người cố tình công khai chống đối Đức Giêsu, không tin tưởng vào Ngài và thách đố quyền bính của Ngài. Đức Giêsu đã dùng một kỹ thuật giống như ngôn sứ Nathan đã sử dụng khi đến gặp Đavit, để nói cho nhà vua về tội mà ông đã phạm với bà Bát Seva, vợ của tướng quân Urigia. Nathan kể câu truyện về một gã nhà giầu đã tước đoạt con bê duy nhất của người hàng xóm nghèo sống bên cạnh nhà mình (2Sm 12, 1-12). Nathan gợi nhắc Đavit hãy đưa ra một phán quyết đối với tên nhà giàu gian tham ấy, và cuối cùng đó cũng chính là phán quyết dành cho chính nhà vua.
Tương tự như vây, dụ ngôn của Đức Giêsu cũng nhắc nhở những người lãnh đạo tôn giáo thời Ngài hãy hối cải, để làm sao những điều họ nói, họ giảng dạy tương hợp với những gì họ thực hành. Trước đó, Đức Giêsu cũng cảnh báo các môn đệ là không phải chỉ nói suông “Lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng còn phải thực hiện thánh ý của Thiên Chúa (Mt 7,21-27). Trong Mt 23,3Đức Giêsu cũng cảnh báo đám đông cũng như các môn đệ đừng làm theo những gì mà các người biệt phái và ký lục đã nêu gương, bởi vì họ chỉ nói nhưng không thực hành. Bài Tin mừng hôm nay vén mở ra một chân trời hy vọng để chờ đón họ: Vẫn còn thời gian để họ biết quay trở về, và thực hiện những gì tương thích với lời họ giảng dạy.
Chúa Giêsu đã kết thúc dụ ngôn bằng một lời nhắc nhở mạnh mẽ hầu có thể làm lay động trái tim chai lỳ của các vị lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ “ Tôi nói cho các ông biết, phường tội lỗi và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Câu nói này không nhằm chỉnh sửa các môn đệ. Nó cũng không có dụng ý nêu bật sự tương phản giữa cái gì xấu nhất và cái gì tốt nhất mà chúng ta có thể nghĩ tưởng ra. Đích nhắm của Chúa Giêsu bắn thẳng vào các đầu mục Do thái giáo. Họ là những người có nhiệm vụ đưa dẫn kẻ khác vào Nước Trời, nhưng liệu họ có thực hiện được hay không. Chính những kẻ vẫn bị cho là nhỏ bé và thấp kém nhất, lại là những người trước tiên sẽ được vào Nước Trời, khi họ biết hối cải và tin vào Thiên Chúa.
Chúng ta rất dễ nhận ra sự khác biệt giữa lời nói và việc làm, nơi phong cách sống của một ai đó. Chúng ta rất dễ phê phán người Pharisiêu trong Tin Mừng hôm nay, hay những vị lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu, và thấy họ cần phải sửa đổi. Nhưng rất khó để chúng ta can đảm nhìn lại cuộc sống của chính chúng ta xem những điều chúng ta nói, chúng ta giảng dạy có đi đôi với việc chúng ta thực hành cụ thể hay chưa. Nói rằng tôi đang theo Đức Giêsu, thì quả là khá dễ dàng, nhưng để thực hiện những giáo huấn của Ngài không phải là chuyện giản đơn. Khi chúng ta tự nhủ với lòng mình, ví dụ tôi cần phải cầu nguyện, nhưng trong thực tế, liệutôi có dành đủ thời gian và chọn những nơi chốn thích hợp để thực hành việc đó hay không. Chúng ta nói, chúng ta quan tâm đến người nghèo, nhưng trong thực tế, chúng ta đã thực hiện một cách cụ thể ra sao?
Cũng may mắn thay, việc thực hiện một cách tương thích giữa lời nói và việc làm không phải là một gánh nặng chỉ đè nặng trên vai chúng ta mà thôi. Sự vâng phục của Đức Giêsu trên Thập giá vẫn mãi là gương mẫu để soi dẫn cho ta. Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô đã nói đến sự vâng phục này. Ngài đã tự biến mình ra không, và diễn tả một tình yêu sâu tận dành trao cho Thiên Chúa. Ngài trở nênkhuôn mẫu nội tâm, bơm thêm sức mạnh, giúp chúng ta không những chỉ nói vâng, nhưng còn biết thực hiện bằng những việc làm cụ thể. Sự vâng phục của Đức Giêsu sẽ soi sáng, giúp chúng ta canh tân đổi mới mỗi ngày, gọi mời chúng ta biết mở lòng để hoán cải, và giúp cho những con người hèn mọn bé nhỏ nhất có thể vào được Vương quốc Nước Trời khi biết thực hiện theo chỉ huấn này.
8. Ngôn hành bất nhất
(‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc, đòi đi theo. Mẹ bảo:
- Con ở nhà rồi mẹ về làm thịt lợn cho con ăn!
Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt. Vợ nói:
- Tôi nói đùa nó đấy mà!
Thầy Tăng Tử bảo:
- Nói đùa thế nào? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư?
Tăng Tử nói xong làm thịt lợn cho con ăn.
***
Chỉ vì một lời hứa bông đùa của người vợ, mà thày Tăng Tử phải quyết định làm thịt lợn cho con ăn.
Kẻ sĩ là như vậy đó! Người có nhân cách là thế đó! Một lời nói không đi đôi với việc làm là một lời nói vô giá trị.
Hôm nay Đức Giêsu kể dụ ngôn người cha sai con đi làm vườn nho. Người con thứ hai nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Người con thứ nhất từ chối, về sau hối hận nên lại di. Đức Giêsu muốn ám chỉ các thượng tế và kỳ mục là người con thứ hai. Họ cho mình là chu toàn lề luật, đạo đức hơn người, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không làm. Họ bắt kẻ khác tuân giữ luật lệ nhưng chính họ lại tránh né. Họ chất lên vai dân chúng gánh nặng mà chính họ cũng không thể mang nổi. Tệ hơn nữa, họ đã tự mãn đến độ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến.
Trái lại, người con thứ nhất được ví như các người thu thế và những cô gái điếm. Họ là những người tội lỗi công khai, bị lọai ra khỏi hội đường và bị gạt ra bên lề xã hội. Nhưng họ đã thành tâm hối cải và tin vào Đức Giêsu là Cứu Chúa của họ. Vì thế, Người đã tuyên bố một câu đầy kinh ngạc cho các nhà lãnh đạo Do thái giáo: “Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).
Như thế Nước Thiên Chúa là của những kẻ có niềm tin. Tin vào Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, tin vào Người là Con Người được Cha sai đến. Niềm tin ấy chỉ đáng tin khi nó được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Thánh Giacobe khẳng định: “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” (Gc 2,26). Đức tin không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, nhưng còn phải chứng minh bằng việc làm. Vì hành động cụ thể thuyết phục hơn lời nói suông. Những công trình trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông.
Đức Giêsu không bao giờ rao giảng những gì mà Người đã không thực hiện trước. Người dạy các môn đệ tránh xa thứ men giả hình của Pharisiêu, là thái độ “ngôn hành bất nhất”, vì “họ nói mà không làm”. Người đã từng tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Người hằng làm theo thánh ý Cha, và mong muốn chúng ta cũng hãy làm như vậy: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7,21).
***
Lạy Chúa, xin cho những lời chúng con tuyên xưng cũng sẽ là những thực hành của chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con chỉ biết có một điều, là chúng con đang thi hành thánh ý Chúa. Amen.
9. Công chính hoá
(Lm Vũ Đình Tường)
Bản tính con người thích chọn con đường bất chính, gian tà bởi con đường bất chính là con đường dễ bước vào. Con đường bất chính dễ bước vào khó ra. Nó là con đường khó khăn, gian khổ, khó nhai, khó nuốt nhưng nhiều người ham muốn, tự nguyện bước vào. Vì sao? Vì con đường đó thuộc về trần gian, phần thưởng của nó là vật chất, thấy được, sờ được, thưởng thức được ngay tại thế. Chính vì những cảm xúc mãnh liệt đó mà nó có nhiều đệ tử ngày đêm mong tìm cảm giác lung linh. Hút thuốc vào cảm thấy tê tái tức thì. Uống rượu vào tức khắc nhận ra chất say tê tê mạch máu, kích thích làn da, thớ thịt. Thắng bài bạc thấy tiền ngay, mắt sáng rỡ trông thấy. Rình rập biết rõ đường đi nước bước nhà người tạo cảm xúc lo sợ, hy vọng lẫn lộn, lòng tự nhủ, của ngươi trong tủ sắp là của ta trong túi. Cảm xúc mãnh liệt đó làm xáo trộn luân lí, làm lú lẫn tâm hồn, làm lờ mờ lí trí nên dễ buông thả cuộc đời, lăn xả vào cuộc chơi. Chính vì lăn xả vào nên không gì kiềm chế, ngăn cản, thắng cho chậm lại. Bất kể lời ca thán, khuyên bảo, van lơn của thân nhân và coi thường an toàn cho bản thân cũng vì lí đo đang lăn xả vào.
Đường ăn chơi dễ vào khó ra bởi bước chân vào cuộc là đánh ván bài xả láng. Ván bài xả láng cướp mất cuộc đời, làm nhụt ý chí tiến thân, phá tan quyết tâm và lấp lối tương lai. Thứ đến xã hội loài người rất khắt khe với người đánh ván bài xả láng. Họ không chấp nhận và thiếu thứ tha nên người muốn bước chân ra khỏi dòng thác lôi cuốn luôn có những mắt xích trói chặt đời họ, ngăn cản đường tiến trong tương lai. Hơn nữa người lăn xả vào cuộc chơi thí mạng, bán sức khoẻ và tuổi xuân cho cuộc chơi nên tinh thần mất minh mẫn, nhụt chí, cơ hội trẻ trung không còn để tiến thân. Vì những lí do đó mà một khi đã bước vào, khó giật lùi, khó bước ngược lại. Muốn thoát ra đời kéo lùi, giật ngược lại vì nó đâu muốn mất thành viên trung thành của chúng. Nó chỉ sa thải khi thành phế thải, khi không còn gì cống hiến cho cuộc chơi. Thành phần phế thải, chỗ chứa sẽ là đầu đường xó chợ, nơi ẩn thân, sống dật dờ, lây lất, chờ ngày về lòng đất mẹ.
Nói đến công chính hoá là nói đến điều gì đó chưa công chính nhưng đang trên đường tiến đến công chính. Như vậy công chính là bước cuối cùng của con đường giúp ta nên thánh. Ngoài Chúa ra không còn con đường công chính nào bởi vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Vì Chúa là Đấng công chính nên phải bước đi trên con đường công chính để đến với Chúa. Ngoài con đường đó ra không còn lối tắt, ngã rẽ nào khác. Chỉ có một lối đi duy nhất mà Đức Kitô vạch ra cho những ai ước ao bước đi trên con đường đó. Vì thông cảm yếu đuối của thân phận làm người. Vì tình yêu Chúa cao vời. Vì Ngài là Đấng giầu từ bi nhân hậu, Ngài không loại bỏ, không kết án ai nhưng tạo cho con người cơ hội trở về.
Tiên tri Êdêkiel nói rõ con đường đó là từ bỏ đường gian tà, lối xảo trá,
Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết Ed18,28
Giáo huấn của tiên tri Êdêkiel được thánh Mathêu 21,28-32 nhắc lại trong dụ ngôn hai người con. Người thứ nhất từ chối lời cha kêu gọi sau đó hối hận đi làm. Người thứ hai vâng dạ nhưng không làm. Dụ ngôn kết luận người con thứ nhất đã làm theo ý cha mình. Anh hối hận vì đã cãi lại lời cha, hối hận vì đặt ý riêng mình trên ý cha.
Con đường giúp trở nên công chính hoá là con đường thống hối, ăn năn. Thống hối, ăn năn trên lí thuyết chỉ là thống hối bằng môi mép. Thống hối thực sự phải đến từ tấm lòng, chính tấm lòng giúp con người thành tâm trở về với Chúa.
Để từ bỏ con đường bá đạo, lối sống bất chính. Người ta cần phải có gì để lấp vào khoảng trống vừa từ bỏ trong đời. Nếu không có gì lấp vào sẽ không thể từ bỏ được vì con đường cũ sẽ tìm cách trở lại. Chỉ có cách duy nhất tránh ngựa tìm đường cũ là tìm cho nó một con đường mới. Con đường mới phải khác con đường cũ, ngược với lối sống, cách sinh hoạt cũ. Con đường khác, trái nghịch với bá đạo là chính đạo. Nghịch với con đường bất chính là công chính. Đường chính đạo, lối công chính ngoài Chúa ra còn ai có. Cách duy nhất trở về đường lành là sống thực thi đường lối Chúa. Con đường công chính giúp con người sống thánh thiện, trở nên tốt lành hơn, trọn hảo hơn.
10. Chúa Nhật 26 TN A
Con cha thì giống Cha. Là Kitô hữu chúng ta phải nghe và làm theo Lời Chúa. Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Đó là: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói "có" ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói "không", rồi sau đó anh đã đi làm theo ý Cha. Phải chi có người con thứ ba nói đi làm ngay là đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy! Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hạng hạng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa, khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
Lời hứa không bao giờ thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời: "Thưa cha, vâng ạ". Nhưng rồi anh không làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Các tín hữu của Chúa Kitô thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói là làm ngay.
Ngày nay, người ta thường nói: "Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay". Chúng ta cần để cho Lời Chúa "đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay". Nhiều khi chỉ nghe Lời Chúa bằng đôi tai thôi - tai này lọt qua tai kia là hết hay nhiều khi người khác để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ,... Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên quan gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm,... Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi chiều cấu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được đến "đôi tay", nghĩa là được người Kitô hữu đem ra thực hành xung quanh tha nhân. Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.
Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người Kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun vén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: "Hỡi anh em, ta đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự" (1Ga 3,18).
Chúa Giêsu không thích những người sống giả hình, Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình, nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. "Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16). Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?Đức tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17).
Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là Có chứ không phải là Có khi Không. Ngài đã thưa với Chúa Cha: "Này con xin đến để thi hành Thánh Ý Cha" (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha một cách hoàn hảo và nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết làm theo thánh ý Chúa. Amen.
11. Dụ ngôn hai người con Chúa
(Trích: http://www.tgpsaigon.net)
Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài trong Chúa Nhật hôm nay vẫn là vườn nho. Tư tưởng của Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng Mt 21,28-32 tiếp nối hình ảnh vườn nho, nghĩa là nước trời, Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại. Câu chuyện thánh Matthêô tường thuật có tính cách dí dỏm, thú vị, giúp mọi người hiểu được ý Chúa muốn nói. Người Cha trong trích đoạn Mt 21,28-32 là Thiên Chúa nhân từ, giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng xót thương đối với con người, nhất là những con người tội lỗi, yếu đuối. Người cha một hôm nói với đứa con cả: "Con ơi, nay ra làm vườn nho giúp cha nhé". Đây không phải là một lệnh truyền,một lời bắt buộc, nhưng chỉ là một lời mời gọi.
Câu chuyện ngắn gọn,nhưng nói lên tất cả ý nghĩa của sứ điệp Tin Mừng muốn đề cập tới. Thái độ của hai người con quả thực trái ngược nhau. Cái nghịch lý ở đây là người con cả nói "không", nhưng sau đó nghĩ lại và đi làm vườn nho theo lợi ích chung của gia đình. Người con cả đã biết hy sinh lợi ích riêng để sống quảng đại, cởi mở và đặt ích lợi chung của gia đình lên trên. Còn người con thứ nhanh nhảu đáp lại lời mời của cha "vâng, con sẽ đi". Lời đáp trả hết sức mạnh mẽ và quả quyết ấy chỉ là một lời lừa dối cha. Người con thứ thưa "vâng" để nhằm mập mờ đánh lận con đen. Vâng, nhưng không làm, sẽ đi, nhưng không đi. Thái độ của người con thứ thật ích kỷ, anh ta không hề thương yêu cha chứ đừng nói đến yêu thương anh em trong gia đình và người ở ngoài xã hội. Người con cả xác định lập trường của mình, nói lên sự tự do của con người mình, nhưng cuối cùng người con cả đã biết vượt lên tất cả để chọn lựa điều có ích nhất. Hành động của người con cả là cả một sự chọn lựa giằng co, đòi hỏi sự quả cảm và tình thương. Chính vì có lòng tốt, con tim nhậy cảm, ánh mắt biết nói, nên người con cả đã làm theo ý cha của mình. Còn người con thứ chỉ sống trên đầu môi chóp lưỡi, giả bộ nói vâng,nhưng trong tận đáy lòng của anh đã hàm chứa lời từ khước rất quyết liệt: không. Người con cả đã biểu lộ thái độ của mình ra bằng hành động. Người con thứ nói nhưng không làm. Điều này rất phù hợp với lời Chúa Giêsu: "Không phải tất cả những ai kêu lạy Chúa!, lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Chúa". Thánh ý Chúa phải được thể hiện qua thái độ vâng phục, tuân theo đường lối Chúa. Nói cách khác là chấp nhận Chúa Giêsu là cùng đích, là gia nghiệp của mình.
Chúa Giêsu không phân biệt bất cứ người nào dù họ là Do Thái, Hy Lạp, La Mã, dù họ là ở trong hay ngoại giáo. Chúa Giêsu khẳng định: Những người đĩ điếm và thu thuế sẽ vào nước trời trước các ngươi. Chúa Giêsu đã nói: "Không phải những người lành mạnh cần thầy thuốc, nhưng là những kẻ ốm đau". Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa nhân hậu hay thương xót, thứ tha, cảm thông, chia sẻ khác với quan niệm của những người biệt phái, luật sĩ, kỳ mục, thượng tế đã quan niệm Thiên Chúa như một vị quan tòa ác nghiệt, thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán. Thái độ của bọn biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật là thái độ ích kỷ, giả hình, làm bộ. Họ thích khoe khoang, tự mãn về một thứ đạo bề ngoài mà họ nghĩ ra. Cái đạo được họ áp đặt bởi trăm ngàn lề luật, nhưng lề luật do họ nặn ra, bày đặt để bắt buộc người khác làm, thực hiện chứ họ thì hoàn toàn không làm gì hết như Chúa Giêsu đã từng nói: một ngón tay họ cũng không muốn lay thử. Thái độ của họ là thái độ tự kiêu, tự mãn, phô trương: ra đường ưa thích người khác tung hô, chào hỏi. Áo thênh thang, tua áo dài, thẻ kinh rổn rẻn... Đạo như thế là đạo bề ngoài, đạo nông cạn, hời hợt. Chúa Giêsu đã không dựa trên công đức của con người, dựa trên địa vị, chức vụ của con người để thưởng phạt, tất cả đều do tình thương nhưng không của Chúa. Chìa khóa dẫn vào nước trời là sự vâng phục Thiên Chúa và hoán cải, thống hối, ăn năn.
- Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là "Vâng" và "Không". Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói "vâng" mà không làm đâu có giá trị bằng nói "không" mà lại làm.
- Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
- Con người chúng ta có thể thay đổi từ "vâng" sang "không" và từ "không" sang "vâng". Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói "không" với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại "xin vâng"; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa "xin vâng" thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành "không".
- Trong lịch sử Giáo Hội, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói "không" với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa "xin vâng". Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn mời gọi chúng con làm vườn nho cho Chúa. Chúa muốn chúng con bước vào mối thân tình với Chúa trong những chia sẻ bổn phận của Cha như của con. Nhưng chúng con hoặc vì chưa cảm nghiệm được sự cao quý, hoặc chưa thể hiện được tinh thần trách nhiệm. Đã nhiều lần chúng con từ chối. Chúng con ngại nói lời xin vâng vì sợ thiệt thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng lắng nghe lời của Chúa không chưa đủ, mà còn phải làm theo ý của Chúa. Amen.
12. Vâng lời
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho!”
Nghe câu chuyện dụ ngôn này, tôi vẫn hay thắc mắc về ý nghĩa của việc ‘đi làm vườn nho’ vì đôi khi nó không rõ ràng lắm. Từ lâu tôi đã nghĩ thật đơn giản: sống lành thánh, làm các việc lành phước đức, thi hành các việc tồng đồ, truyền giáo… tức là ‘làm trong vườn nho’ của Chúa rồi còn gì! Sau này tôi mới phát hiện ra khái niệm này xem ra không ổn khi áp dụng vào trường hợp cụ thể của hai người con trong dụ ngôn: đứa vâng ngoan trước lời kêu mời của người cha nhưng đã không đi, còn đứa ngang bướng rốt cuộc rồi lại ‘đi làm vườn nho’. Qua câu chuyện này tôi thấy hình như Đức Giê-su đã suy nghĩ rất khác: Người không phân thính giả thành hai loại ‘người vâng’ hay ‘người không vâng’, nhưng ngay trong mỗi thính giả vốn đã sẵn biện chứng ‘vâng và không vâng’, rốt cuộc họ vẫn được đánh giá qua việc ‘đi làm vườn nho’ mà thôi. Nhưng làm vườn nho hệ tại ở điều gì, theo tâm tưởng của Đức Giê-su?
Thói thường thì ai cũng hiểu là lời nói không trọng hơn việc làm. Khi sử dụng cùng một khái niệm này Đức Giê-su đã cho thấy: đối với Nước Thiên Chúa, sống tội lỗi như ‘những người thu thuế và những cô gái điếm…’, hoặc sống lương thiện công chính như các thượng tế và kỳ mục trong dân (đối tượng chính của dụ ngôn) vẫn chỉ là những lời nói ngang bướng hay vâng ngoan. Người còn cho thấy rõ, điều quan trọng hơn chính là ‘thi hành ý muốn của người cha‘, đó là ‘đi làm vườn nho’, tức là tin và tiếp nhận sứ điệp kêu gọi sám hối mà Gio-an Tiền Hô đã khởi sự và Đức Giê-su tiếp tục kêu mời. Như thế Người chỉ cho thấy một điều làm đảo lộn tất cả: ‘đường công chính’ hệ tại ở việc thi hành sám hối hơn là ở việc có sống ngay lành hay không; “Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy”. Sám hối đây chưa hẳn là đã sửa đổi được mình, cho dầu nỗ lực vươn tới là dấu chỉ cần thiết của chân thành sám hối, nhưng chính yếu hệ tại ở việc đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho. Sứ điệp của Gio-an “Hãy sám hối!”, tức là hãy cải tà qui chính trong nội dung luân lý, đã được chính Đức Giê-su cập nhật: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ!” tức là tin vào Đức Ki-tô Giê-su mạc khải tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Sứ điệp này quả chất chứa một nội dung rất Tin Mừng! Trong số những người thu thuế và gái điếm tin vào Gio-an không phải tất cả đều đã đổi đời hoàn lương, nhưng tất cả họ đều đã khám phá ra và đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa và tin vào Tin Mừng. Chính ở điểm này mà họ trở nên hơn hẳn các thượng tế và kỳ mục, tức các đấng bậc được coi là vị vọng trong dân, vì họ đã trở nên ‘công chính’ theo Tin Mừng; “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Như thế rõ ràng là để vào được Nước Trời, điều kiện quan trọng hơn cả là, thông qua sám hối những lỗi lầm đã phạm, mỗi người nhận ra tình yêu cứu độ Thiên Chúa đang tuôn đổ trên mình, và khiêm tốn mở lòng đón nhận. Các Pha-ri-sêu đã không thể đạt tới được sự công chính ấy; “Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”
Nếu quả là như thế thì cuộc sống mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều chất chứa cả hai phần: nói và làm. Riêng phần ‘nói’ nhiều lúc có thể là vâng ngoan, vì đã giữ đạo tử tế, đã làm các việc lành phước đức, đã có không ít các nỗ lực tu thân tích đức, sống bác ái, tông đồ phục vụ v.v…, nhưng đồng thời cũng có những hồi ngang ngược vì các yếu đuối lỗi lầm đã phạm. Nhưng cho dầu đã ‘nói’ thế nào đi nữa, thì lúc này đây, điều quan trọng hơn hết đối với mọi người vẫn phải là ‘đi làm vườn nho’, tức là khiêm tốn nghe lời kêu gọi sám hối của Gio-an để thật lòng tin vào Tin Mừng cứu độ mà Đức Ki-tô Giê-su đã mang lại. Có thể tôi ‘đi làm vườn nho’ vì tôi vốn ngoan hiền, và như thế là tuyệt vời vì tôi nói và tôi đi làm, nhưng cũng có lúc (và có lẽ trường hợp này còn nhiều hơn!) tôi đã từng nói ‘không đi’ nhưng rồi trong tác động của ân sủng tôi đã ‘… hối hận, nên lại đi’.
Đối với Tin Mừng trường hợp sau này có vẻ lại càng ý nghĩa hơn, vì sự ngang bướng rõ ràng dẫn tới hối hận, và trở thành động lực thúc đẩy ‘đi làm vườn nho’. Chính các yếu đuối lầm lỡ đã phạm có thể giúp ta dễ dàng hơn khám phá ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, để rồi… ‘sám hối và tin vào Tin Mừng’. Và như thế vô hình chung đã biến ‘Con không đi!’ ngang bướng trở thành cho ta ‘tội hồng phúc’, như thánh Âu-tinh đã từng diễn đạt cảm nghiệm của riêng ngài. Đáng lý ra toàn bộ cuộc sống Ki-tô hữu ngay từ đầu đã phải trọn vẹn là ‘vâng con đi’ và ‘đi làm vườn nho’, bởi vì qua Bí Tích Thánh Tẩy lãnh nhận họ đã công khai nói lên điều đó. Tuy nhiên thực tế cuộc sống cho thấy ngay cả nơi các Ki-tô hữu vẫn luôn tồn tại một ‘biện chứng’ giữa ‘vâng và không’, đúng như nội dung của dụ ngôn ‘hai người con’. Và vì không một ai nằm ngoài qui luật biện chứng này nên sám hối và lãnh nhận Bí Tích Cáo Giải vẫn luôn phải chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của tất cả mọi Ki-tô hữu trải qua các thời đại. Phải chăng thái độ ‘sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ’ mà cao điểm được diễn đạt nơi tòa giải tội, mới chính là việc ‘đi làm vườn nho’ của mỗi người chúng ta, và qua đó chúng ta được trở nên công chính?
Hơn ai hết, vì là Linh Mục nên tôi đã phải luôn nói ‘vâng’ với lời kêu mời sám hối và đón nhận lòng Chúa xót thương, thế nhưng hơn bất cứ ai khác, tôi phải biến lời ‘vâng’ này thành hành động: mau mắn lên đường ‘đi làm vườn nho’ Tin Mừng của Chúa. Chính tôi cũng cần sám hối không ngừng!
Lạy Cha từ nhân, cha không ngừng mời gọi con, cũng như mời gọi hết thảy mọi người, ‘đi làm vườn nho’ của Cha, vườn nho của đón nhận lòng từ ái và xót thương bao la. Rất có thể con đã tự cho mình là đứa con vâng ngoan vì ơn gọi tu sĩ và linh mục mà Cha đã ban cho con suốt trong những năm tháng dài đời con, nên đôi lúc con thấy không cần phải đi thêm nữa. Con đã từng đáp lại tiếng Cha mời gọi bằng câu thưa: “lạy Chúa, con đây”, thế nhưng vẫn luôn có nguy cơ ‘nhưng rồi lại không đi’. Xin cho con ít quan tâm hơn tới ‘nói’ và tập trung hơn vào ‘đi làm’ trong vườn nho của sám hối và đón nhận trọn vẹn lòng thương xót cứu độ của Cha. Amen.
13. Nói và làm
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo nói về “đổi mới tư duy”, Ông thường ký tên NVL. Nhiều người nghĩ đơn giãn đó là 3 chữ viết tắt tên của ông, (tên của ông nếu viết tắt thì đúng là 3 mẫu tự đó), như nhiều tác giả thường làm như vậy, nhưng khi được hỏi vì sao ông không ký tên trọn vẹn mà lại chỉ viết tắt, ông nói bút hiệu NVL của ông nó có nghĩa là “nói và làm”.
Đọc những bài báo đó, không biết chúng có thay đổi được gì thực tế xã hội không, nhưng chúng phản ánh một xã hội mà nhiều người đang có trách nhiệm trực tiếp trong guồng máy xây dựng xã hội thời điểm đó đang lâm cơn bệnh “nói nhiều làm ít”, thậm chí “nói mà không làm”, và còn hơn thế nữa, “nói một đàng làm một nẻo”.
“Nói nhiều làm ít” là thứ bệnh phóng đại, phô trương.
“Nói mà không làm” là thứ bệnh nói dốc, nói láo.
“Nói một đàng làm một nẻo” là thứ bệnh lường gạt, thủ đoạn, thâm độc.
Cách sống “nói và làm” kiểu đó sẽ đưa đến một xã hội phi đạo đức, vì đạo đức không thể cùng tồn tại với giả hình và bịp bợm.
Một con người chân chính bao giờ cũng coi trọng Việc làm hơn Lời nói. Bởi chỉ bằng những hành động thực tế mới chứng tỏ được mình suy nghĩ có đúng không, có ý chí thể hiện những suy nghĩ tâm huyết thành hành động thực tế hay không. Và chính điều đó cho biết anh là ai, là người có đáng tin cậy hay không. (…)
Vậy mà cho đến nay, căn bệnh khoa trương thích Nói nhiều Làm ít vẫn còn tồn tại trong xã hội chúng ta. Có lẽ căn bệnh này cũng là anh em chí cốt của căn bệnh thành tích và háo danh ở không ít các cấp, các ngành trong xã hội chúng ta. Điều này làm hạn chế tầm nhìn, không dám nhìn thẳng vào sự thật và nói đúng sự thật. Chỉ muốn đề cao thành tích mà không dám nhìn tới cội nguồn của khuyết điểm, càng không dám nhận trách nhiệm đúng mức về khuyết điểm, nhất là trách nhiệm cá nhân. Chính điều đó làm cho xã hội trì trệ, không bứt phá lên được trước những cơ hội mới cũng như thách thức mới. (Dân Trí).
Đối với xã hội trần gian còn như thế, huống cho là đối với Tôn Giáo. Không ai có thể là bậc chân tu tháng ngày miệt mài kinh kệ nhưng lại lạnh lùng trước những nỗi thống khổ của bá tánh.
Để “nói đúng” và ‘làm đúng”.
Để “Nói và làm” cho đúng, điều trước tiên, là cần phải nhận biết đâu là “đường công chính”. Không nhận biết đâu là “đường công chính”, thì không thể suy nghĩ và hành động đúng được.
Trong Tin Mừng hôm nay, những thượng tế và kỳ mục Do Thái chính là những người “sai lầm” từ cơ bản, họ không nhận ra đâu là “đường công chính”. Không có nền tảng sự thật thì dựa vào đâu để nói và làm hợp với lẽ phải được?
“Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy” (Mt.21,32).
Những thượng tế và kỳ mục không tin vào Gio-an, và từ đó, cũng không tin vào Chúa Giêsu, vì Gio-an làm chứng về Chúa Giêsu.
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. (Ga.1,29).
Và như vậy, tiếng kêu gọi sám hối của Gio-an không được những thượng tế và kỳ mục đón nhận, đơn giãn, vì họ không thấy họ sai lầm. Họ đang lầm đường lạc lối mà họ vẫn nhất quyết mình đang đi trên đường công chính.
“Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”(Ga.21,32).
Họ là những người mù mà vẫn tự cho mình là sáng mắt.
“Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tôi các ông vẫn còn!”. (Ga.9,41).
“Sáng mắt”, đối với Tin Mừng, là “nhận biết” Chúa Giêsu, nhận ra “đường công chính”, và nhận ra Thiên Chúa đích thật.
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy." (Ga 14,6)
Chính nhờ Chúa Giêsu, con người mới nhận ra trọn vẹn Tình Yêu Thiên Chúa. Nhận ra ý muốn Thiên Chúa.
Nhưng các thượng tế và kỳ mục đã “mù” đến mức loại trừ Chúa Giêsu. Họ giảng dạy cho dân về Giới Luật Thiên Chúa, nhưng lại loại trừ Thiên Chúa, vì đường lối Thiên Chúa không như lòng họ mong muốn!
Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng:
Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật của phàm nhân. (Mt.15,7-9).
Đúng theo “Thánh ý Chúa”.
Người Ki-tô chân chính luôn luôn tự hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. - “Ý muốn Thiên Chúa” chính là lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các nghe hãy vâng nghe lời Người!” (Mt.17,5).
Vâng nghe Lời Chúa, là thực hành theo thánh ý Chúa, làm theo Lời Chúa dạy. Là thực thi Giới Luật Yêu Thương của Chúa Giêsu – Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta". (Mc.3,31-35).
“Bản án” dành cho những người chỉ biết “nói mà không làm”.
Đại diện điển hình cho những người “nói mà không làm” trong Tin Mừng, đó là những người Pha-ri-sêu và cả những nhà thông luật. Điệp ngữ “khốn cho các ngươi… Khốn cho các ngươi…” được lập đi lập lại nhiều lần cho thấy mức độ quan trọng của lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với những hạng người này.
Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà…
Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa…
Khốn cho cả các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào…
Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản… (Lc.11,37-52).
Đừng noi theo những hành vi của họ!
Trong cuộc sống, Xưa và Nay, Đạo và Đời, ta luôn gặp những người “Nói mà không làm”, nổi bật nhứt, là những người có chức việc cao, có quyền lực lớn!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. (Mt.23,1-12).
Năm 2000, có mùa lũ lớn, một thầy tu cấp cao đã lớn tiếng hô hào tín đồ của mình hãy chia sẻ cơm áo cho những người đang gặp bất hạnh. Khi mùa lũ qua đi, trong một bữa tiệc, có người hỏi: - “Thưa ngài, ngài có đi đến nơi nào trong vùng lũ lụt vừa qua không?”. Vị thầy tu khả kính cười đáp: - “Tôi không biết lội!”. Có thể đây chỉ là một câu nói đùa, nhưng cũng... rất có ý nghĩa!
Thật ra, trong cuộc đời có biết bao người “thành đạt” mà không cần làm những gì mình nói, nhờ biết ứng xử “khôn ngoan”, thí dụ mấy quan nịnh thần, khéo uốn ba tấc lưỡi thôi, thì được thăng quan tiến chức, ngồi không hưởng bát vàng, xoa tay nhìn đời lòng ung dung tự tại: - “Âu cũng là số phận!”.
Thế nên, núp ẩn đằng sau những ngôn ngữ từ thiện, bác ái, yêu thương, rất nhiều khi có những việc làm hoàn toàn có mục đích ngược lại!
Trong Cổ Học Tinh Hoa, có câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được “. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy gì nữa. Thôi, các ngươi cứ cho tôi, sau này tôi có giàu, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
Ngày 15 tháng 9 năm 2011, nhà xuất bản Vatican, Giuseppe Costa đã tổ chức triển lãm 600 tác phẩm của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI.
Cuộc triển lãm được trình bầy cho Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo, nhưng cũng đã được mở ra cho các du khách tại Vatican và ngày 24 tháng 9 tại trụ sở của nhà xuất bản Herder tại Freiburg.
Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi rất cảm động và khá ngạc nhiên được thấy số lượng các sách vở tôi đã viết. Hy vọng của tôi là những lời tôi viết trong đó không chỉ đến và đi, nhưng giúp cho các độc giả nam và nữ tìm được hướng đi của họ."
“Nói và làm” vì Đạo Hiếu.
Đạo hiếu dạy ta phải biết vâng lời cha mẹ. Một đứa con hiếu thảo luôn là đứa con biết vâng lời cha mẹ, luôn muốn làm cha mẹ vui lòng.
Thiên Chúa là Cha, và mọi người là con cái Thiên Chúa và là anh em với nhau. Đức Tin của chúng ta gói trọn trong Giới Luật Yêu Thương “Kính Chúa yêu người”. Tất cả những gì chúng ta nói và tất cả những gì chúng ta làm đều nhắm đến mục đích làm “sáng danh Chúa và phục vụ anh em”.
Đạt được điều đó, chúng ta sẽ là những đứa con ngoan trong Gia Đình Thiên Chúa.
Một đứa con ngoan luôn tuân theo “Giới Luật Thiên Chúa”, “Nói và Làm” những gì Thiên Chúa đã dạy.
"Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời" (Mt 7,21).
Lạy Chúa,
Lời Chúa dạy quá cao siêu,
Con nói thì nhiều, làm được bao nhiêu!
Xin tha thứ những điều con thiếu,
Đỡ nâng con, lạy Chúa Tình Yêu. Amen.
14. Sám hối là khởi điểm
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.
Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.
Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.
Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.
Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?
2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?
3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách?
15. Người vâng lời Thiên Chúa
Anh chị em thân mến,
Thánh Augustinô, sinh năm 534, tại Targas, xứ Algêrie, Phi Châu, trong một gia đình giàu có, nhưng thiếu đạo đức. Mẹ là bà thánh Mônica, một gương mẫu các bà mẹ công giáo về việc sống đạo và việc giáo dục con cái bằng đời sống và bằng cầu nguyện nữa... Từ nhỏ, Augustinô có tư chất thông minh khác người, đã được theo học khoa hùng biện tại Carthage ; nhưng tại đây ngài đã lây nhiễm các thói hư tật xấu ở đời. Lời dạy dổ của Mẹ, giáo lý đã học đuợc từ nhỏ, Augustinô đã bỏ ngoài tai. Augustinô hầu như đã mất đức tin, ngài còn theo lạc thuyết Manê nữa. Ngài hầu như đã trả lời không khi được Chúa gọi vào làm vuờn nho cho Chúa. Vì sống trong tội lỗi, tâm hồn của ngài luôn bị dày vò, không hề được sự bình an... Sau đó ngài được mời sang Rôma để làm giáo sư khoa hùng biện. Đây cũng là ý Chúa, nhờ đó ngài đuợc giao tiếp thường xuyên với thánh Giám mục Ambrosiô, và cũng từ đây ngài đã trở lại với niềm tin và đã chấp nhận đi vào làm trong vườn nho của Chúa, mặc dù một khoảng thời gian dài ngài đã từ chối lời mời gọi của Chúa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Ta thử nhìn tới ba hạng người đã đáp lại lời Chúa gọi vào làm vườn cho Thiên Chúa:
* Trả lời không với Thiên Chúa, nhưng sau đó lại đã đi làm: Thánh Phaolô chính là hình ảnh và là một tấm gương sáng về điễm này. Khi chưa biết Chúa và chưa tin vào Chúa, bằng mọi cách, Phaolô đã chống lại Chúa và những ai tin nơi Chúa; nhưng trên đuờng đi Damas, Phaolô đã gặp Chúa... Phaolô đã ăn năn và được biến đổi tận gốc rễ. Từ nay cho đến chết, Phaolô luôn luôn thưa vâng với Thiên Chúa ... Câu chuyện của thánh Augustinô mà ta vừa nghe ở trên, cũng là tấm gương về hạng người này...
* "Thưa vâng" với Thiên Chúa, nhưng sau đó lại không đi:
Các luật sĩ, pharisêu và các kỳ lão Do thái, họ có thái độ giống như người con thứ hai. Họ tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ nghe lời Gioan Tẩy giả kêu gọi ăn năn sám hối. Họ thấy người thu thuế, gái điếm, tội lỗi ăn năn hối cải; nhưng họ lại tự phụ vì cho mình công chính hơn mấy hạng nguời trên, nên không cần ăn năn sám hối; dù bề ngoài họ rất tôn trọng lời giảng của Gioan, tôn kính Thiên Chúa...
* Chúa Giêsu luôn lúc nào cũng "thưa vâng" với Thiên Chúa: Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế, từ khi sinh ra cho đến cuối đời, trong lời nói cũng như trong hành động, lúc nào cũng thưa vâng với Chúa Cha. Người chính là khuôn mẫu hoàn hảo của nhân loại,vì đã luôn lúc nào cũng dâng hiến tất cả vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Vì vậy thánh Phaolô đã nói: (Phil 2, 6-8): "Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập giá..."
b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa xem ra chỉ trích gay gắt, trước hết là nhóm các thượng tế, kỳ lão, pharisêu; họ tuởng mình là công chính "bằng việc nói mà không làm". Ngày hôm nay, Chúa cũng muốn nói thẳng với những ai, nói một đàng mà làm một nẻo, nếu không muốn nói là trái ngược... Còn trong đạo thì sao? Thực ra con số người thực hiện Lời Chúa còn khá khiêm tốn. Nhiều lần Chúa muốn nói thẳng với ta: "không phải cứ thưa lạy Chúa, lạy Chúa là được cứu rổi, mà chỉ những ai thi hành Ý Chúa Cha mà thôi..." Vậy người tuân phục Thiên Chúa chính là người thi hành chứ không nói suông. Ở đây Chúa nhấn mạnh việc làm, không phải là lời nói...
Câu chuyện: Anh Rmah Nguc, là người làng Plei-ia-ba, huyện Đức Cơ, bộ tộc Jrai, sinh năm 1966, được rửa tội từ nhỏ. Cha anh cũng là công giáo gốc, từng là người đi giúp đồng đạo thời Đức Cha Kim Paul Seizt... Sau năm 1975, tôn giáo và ngay cả những nét văn hóa như tiếng coòng chiêng, cũng bị kết tội là mê tín. Cha anh vì quá sợ hải nên... bỏ chuyện đạo qua một bên. Rmah Nguc lớn lên và hòa nhập nhanh vào đời sống xã hội. Các người lãnh đạo chú ý đến vì sự thông minh và hoạt bát của anh. Học xong lớp 9, R. Nguc được đưa đi học sơ cấp sư phạm để về làm hiệu truởng trường tiểu học của cả huyện. Chỉ mới 20 tuổi, anh đã được kết nạp đảng. Một vị lãnh đạo cho biết: "Thằng R. Nguc đã được đưa vào kế hoạch đào tạo để làm bí thư đảng ủy xã". Là hiệu trưởng, anh đã sống hết mình cho học sinh. Năm 1990, cha anh mất, anh quyết tâm trở lại với Chúa. Dần dần cấp lãnh đạo biết anh là người công giáo, họ gọi anh lên cảnh cáo, đe dọa đủ cách, nhưng anh trả lời: "tôi theo đạo từ nhỏ, nên tôi phải giữ." Thế là tự nhiên anh bị cho nghỉ việc, mất cả lương bổng, kể cả thâm niên...Anh bị người ta đuổi việc. Lúc đầu dĩ nhiên anh phải buồn...nhưng nhờ vậy, anh có nhiều giờ học giáo lý, đọc Thánh kinh... Ngày hôm nay (2002), nhà anh là là nơi giáo dân Jrai lui tới cầu nguyện. Có những buổi học giáo lý dành cho các ami (các bà mẹ), các ama (ông bố) và Lắc-ai (ca đoàn)...Rõ ràng anh Rmah Nguc, không vâng giữ lời Chúa chỉ bằng môi miệng; anh còn đem nó ra thực hành nữa...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi tất cả mọi người tham gia vào công việc của Chúa muốn thực hiện nơi trần gian (gọi là làm việc trong vườn nho của Chúa), là đem ơn cứu độ, đem lại hạnh phúc và sự sống đến cho mọi người. Ai đón nhận và tích cực thi hành chứ không chỉ nói suông mới là người tuân phục Thiên Chúa và thuộc về Chúa, là con cái Chúa. Ta là hạng người nào đây? Ta có tích cực cộng tác với Chúa, với Hội thánh để lo làm việc trong vườn nho Chúa, hay chỉ nói suông mà thôi?
16. Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa nhật XXVI thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi gặp được lòng nhân lành của Thiên Chúa tình thương. Quả thật, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán: "Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ" (Os 6, 6; Mt 9, 13). "Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống" (Ez 33,11). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở cho hết những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui khôn tả là cả thiên đàng sẽ vui mừng (x. Lc 15,10).
Chỉ có Thiên Chúa không qui kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là "Cha đầy tình thương xót" (2 Cr 1,3), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn, luôn muốn điều tốt cho con cái. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa thương xót sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.
Trách nhiệm của con người
Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta. Nên chúng ta không được hành động nửa vời: vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Tiên tri Ezekiel cảnh báo: " Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết " (Ed 18, 28).
Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói "vâng", "tôi biết", "tôi thực hành giáo lý" mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói "không" với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.
Chúa Giêsu lên án các thượng tế và kỳ lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21, 31). Các thượng tế và kỳ lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, nên họ sẽ không dung tha cho Chúa Giêsu: ít ngày sau, chính họ là những kẻ sẽ lên án tử cho Người. Đúng, sự đồi bại của kẻ công chính sẽ dẫn đến cái chết, thậm chí dẫn đến cái chết của những người vô tội, như Hêrôđê dẫn đến cái chết của các thánh Anh Hài!
Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước
Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: "Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước" (Mt 21, 31).. Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ.
Những người thu thuế, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Roma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.
Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện... như Maria Madalêna, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).
Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào nước Thiên Chúa trước: "Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài" (Mt 21, 32).
Hoán cải không bao giờ là muộn.
Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì Không phải mọi kẻ nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa", là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời" (Mt 7, 21).
Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho (x.Mt 21, 32). Qua đó, Chúa mở mắt những người Do Thái để họ hiểu rằng khi khép kín lòng mình trong sự bất chính và sai lầm của chính họ là một sự từ chối Nước Trời.
Họ nói "vâng" với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói "vâng" nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gưỡng về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch: những người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói "không" với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói "có", nên Chúa Giêsu tuyên bố: "Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi" (Mt 21, 43).
Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói "có" ... " Con không đi'. Nhưng sau hối hận và đi làm" (Mt 21, 29).
17. Tôi khám phá ra 3 điều khác lạ
(Lm. Trần Nguyên)
1. Bài Tin mừng hôm nay không khởi đầu như thường lệ bằng câu: "Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng", nhưng: "Khi ấy Đức Giêsu nói với các Thượng tế và các trưởng lão trong dân rằng".
Vào thời Đức Giêsu, các Thượng tế và trưởng lão đại diện cho toàn thể giới lãnh đạo tôn giáo và xã hội Do Thái. Họ cho mình là rường cột của niềm tin chính thống và nền tảng của xã hội. Đức Giêsu đồng hoá họ với người con trưởng: Nói mà không làm.
2. Đức Giêsu đảo lộn trật tự tôn giáo và xã hội. Ngài đồng hoá những người thâu thuế và các cô gái điếm với người con thứ hai: Ban đầu từ chối, nhưng sau đó hối hận và làm theo ý cha mình.
Bài Tin mừng không thuật lại phản ứng của những người đối thoại với Đức Giêsu. Nhưng sự so sánh của Ngài phải nói là rất táo bạo, phải được gọi là một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn bậc thang giá trị: Hạ giới lãnh đạo, hạ những người chốp bu xuống và nâng những người tội lỗi, nâng hạng người bị xã hội khinh thường lên.
3. Người Cha là chủ vườn nho. Ông không sai những đầy tớ, những người làm công lao động trong vườn nho của mình, nhưng sai chính những người con.
Ba điều khác lạ trong bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta, những kitô hữu của ngàn năm thứ ba, sống Lời Chúa thế nào?
1. Đức Giêsu muốn trực diện và nói thẳng với mỗi người chúng ta: Không phải mang nhãn hiệu kitô hữu với giấy chứng Rửa tội, không phải mỗi ngày đọc kinh, mỗi Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ là đương nhiên sẽ được giấy vào Nước Trời. Nhưng phải chấp nhận và hành động theo Tin Mừng, phải tuyên xưng và sống niềm tin, phải nối đạo với đời.
2. Mỗi thánh nhân đều có một dĩ vãng. Mỗi tội nhân đều có một tương lai. Không vì một dĩ vãng đen tối mà nằm lì trong vũng tội. Hãy noi gương những người thâu thuế và các cô gái điếm để biết lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Tin mừng và thống hối, canh tân đời sống. Không bao giờ quá trễ và phải khởi sự ngay trong ngày hôm nay.
3. Chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, là những người con được Chúa trao trách nhiệm làm việc trong vườn nho của Ngài. Mỗi người chúng ta phải rao truyền và sống Tin mừng: Trong mỗi hành động, chúng ta phải là chứng nhân của niềm tin kitô; qua mỗi lời nói, bằng mỗi câu chuyện, chúng ta phải an ủi, nâng đỡ tinh thần và chia sẻ kinh nghiệm của đức tin, cậy, mến cho nhau.
18. Hối hận nên lại đi
(‘Manna’)
"Người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông."
Lời nói của Đức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, pharisêu, những người đáng kính vì đạo đức và học thức, những người đáng trọng vì chức vụ.
Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi lại có thể qua mặt các bậc đáng kính như vậy?
Đức Giêsu đã soi sáng trước bằng một dụ ngôn.
Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Đứa con cả từ chối, sau hối hận nên lại đi.
Con thứ tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo. Họ tuyên bố mình sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật. Tiếc thay chính sự đạo đức của họ lại làm cho họ tự mãn và khép kín đến nỗi không thể tin vào Đức Giêsu và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa.
Đứa con cả tượng trưng cho những người tội lỗi, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Đời sống của họ là một sự nhơ nhuốc đáng buồn. Nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ khiêm tốn và dễ dàng hoán cải trước lời mời của Gioan. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Đức Giêsu và gặp được ơn cứu độ trước nhiều người khác.
Đi làm hay không đi làm vườn nho đồng nghĩa với tin hay không tin vào Đức Giêsu.
Niềm tin có khả năng biến đổi cuộc sống.
Niềm tin thực sự luôn chuyển thành hành động.
"Chúng tôi phải làm gì, dân chúng hỏi Đức Giêsu, để được gọi là làm việc của Thiên Chúa?"
"Làm việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài sai đến"
Đó là câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 6,28-29).
Tin là một việc làm, một dấn thân nghiêm túc.
Niềm tin vào Đức Giêsu đòi hỏi một sự hoán cải và từ bỏ.
Giới lãnh đạo Do Thái Giáo sợ tin vào Đức Giêsu. Họ sợ mất chỗ đứng và quyền lợi, sợ phải thay đổi quan niệm của họ về Thiên Chúa.
Kitô giáo là tôn giáo của lòng tin.
Lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17).
Lòng tin không phải chỉ là một tuyên xưng ngoài miệng nhưng là một tuyên xưng bằng cuộc sống: "Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm ý Cha Thầy" (Mt 7,21).
Tôi phải tránh lối giữ đạo hình thức: có tiếng là Kitô hữu, nhưng lại không thuộc về Đức Kitô, bởi có một khoảng cách rất xa giữa điều tôi tuyên xưng và điều tôi sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa là điều tốt, nhưng chưa đủ nếu không sống Lời Chúa. Bạn lượng giá thế nào về việc sống Lời Chúa của bạn trong đời thường đầy bon chen?
Bạn nghĩ gì về việc anh Giuse Nguyễn Đức Minh xin hiến thân xác anh cho y học? Bạn có coi đó là một hành vi đức tin cụ thể không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
19. Một đường cái quan
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Dụ ngôn hai người con trai là một truyện kể mà các phần tương ứng với ý tưởng Thiên Chúa muốn diễn ta. Chúa cố thử cho người ta hiểu điều sau đây: những người Biệt phái ưng thuận thi hành lề luật, nhưng đến cuối họ không đón nhận Đấng Messia được lề luật loan báo, thái độ ấy khiến họ thụt lùi sau những người tội lỗi. Những người này tuy không tuân giữ lề luật, nhưng cuối cùng đã biết đặt lòng tin vào Đấng được xức dầu của Thiên Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Hai người con trai là người thu thuế và người Biệt phái, người thì tuân giữ lề luật của Môisê, kẻ thì không. Những người thu thuế tuân giữ được ý định tối hậu của lề luật là tin vào Đấng Kitô cùng hoán cải vào đời sống; người biệt phái vì từ chối không chịu tin vào Chúa Giêsu cũng từ chối không hoán cải theo Phúc Âm. Kết cục người thu thế thi hành thánh ý Thiên Chúa, còn người Biệt phái thì không. Thông thường trong Phúc Âm khi một dụ ngôn nói thẳng cho người Do thái cũng kèm theo ý định giảng dạy cộng đoàn Kitô hữu. Do đó dụ ngôn hai người con trai cũng nói cho những ai trong Giáo Hội ngày nay buông mình mang lấy não trạng “chính nhân” giống như người Biệt phái. Chính cho chúng ta ngày nay mà lời khuyến cáo cần phải thi hành thánh ý Thiên Chúa, chứ không được dựa cậy vào những việc tuân giữ bề ngoài được thốt ra. Câu ngắn ngủi trung tâm của truyện kể được Chúa Giêsu tạo ra là: Ai là kẻ đã làm theo ý muốn của Cha? Ý muốn của Thiên Chúa ở đây là gì?
1) Ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta tin vào Con Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc loài người. Nhưng cần nhấn mạnh điểm này: dụ ngôn đòi chúng ta hãy dấn bước lên đường vì đức tin chứ không buộc chúng ta phải đến nơi rồi. Khi nghe dạy ra vườn nho, một trong hai đứa con cuối cùng đã đi. Câu ấy có nghĩa là dấn bước, đi tới một mục tiêu. Trong đời sống đức tin luôn luôn phải lên đường. Chúng ta chưa bao giờ đến đích cả. Vào lúc Chúa Giêsu phán dạy ngụ ngôn, các người nghe Ngài nói ngay cả các môn đệ, không thể nào đạt tới một đức tin trọn vẹn, họ chưa có đủ các yếu tố. Chúa Giêsu chưa đưa các môn đệ vượt qua mọi giai đoạn dẫn đến lời tuyên xưng đức tin mà họ sẽ công bố sau ngày Hiện xuống. Nhưng điều quan trọng ở chỗ nào? Ở chỗ khởi sự tin với những ánh sáng ta có và với tất cả thiện chí ta có.
2) Làm cách nào để luôn tiến bước trong cuộc sống đức tin? Bằng cách tự hoán cải không ngừng. Tự hoán cải là không làm theo ý của mình, nhưng làm theo ý của Thiên Chúa. Thực thi thánh ý Thiên Chúa có nghĩa là sống thực sự là Kitô hữu không ở trong lời nói nhưng trong việc làm, không những ở các việc đạo đức, nhưng trong cụ thể đời sống. Đức tin tuyên xưng trong tâm trí cần phải thấm nhập cụ thể cách sống và xử sự của chúng ta. Nếu tính ích kỷ của chúng ta phản ứng lại đòi hỏi ấy, đó cũng là việc thường tình và cũng thường tình nếu thoạt tiên đôi khi chúng ta cảm thấy cám dỗ khước từ lời Thiên Chúa dạy. Thiên Chúa không xét đoán chúng ta căn cứ vào cơn cám dỗ hay phản ứng thoạt tiên ấy. Ngài xét đoán chúng ta “tại chỗ”, nghĩa là những gì cuối cùng chúng ta làm khi tuân theo ý Ngài. Phúc cho Kitô hữu nào đi theo con đường trực tiếp ấy mà đến Nước Trời!
20. Vâng lời và hành động
Chúng ta luôn thấy trong cuộc sống có sự mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, có sự xung khắc giữa quyền bính và sự vâng phục trong nhiều lãnh vực của đời sống: trong gia đình, trong lớp học, trong nhà máy, trong chính quyền quốc gia và địa phương. Sự đấu tranh đó có quá nhiều khía cạnh mà chúng ta không thể nhắc đến được tất cả cũng như tìm cách giải quyết. Tuy nhiên chúng ta có thể đề ra một vài gợi ý.
Phần nhiều tùy thuộc ở cách thế, thời gian và nơi chốn mà lệnh truyền được ban ra. Cung giọng, vẻ mặt, cách xử sự góp một phần đáng kể có lẽ người cha trong câu chuyện Chúa Giêsu kể đã ra lệnh với cung giọng cộc cằn độc tài. Có lẽ không bao giờ ông tâm sự và chia sẻ với các con ông trong khi có những quyết định. Điều thực tế này rất thường có ngay trong đời sống giáo xứ, trong đời sống Giáo hội nói chung. Quyền bính và trách nhiệm được chia sẻ nhiều hơn thì sự đấu tranh phải giảm đi.
Dĩ nhiên, trên hết chúng ta coi như người ra lệnh hay những chỉ dẫn, thì có trí thông minh, khả năng hiểu biết và kinh nghiệm hơn.Trong câu truyện Chúa Giêsu kể, người con thứ nhất nói là anh ta đi làm, nhưng không đi làm. Người con thứ hai nói không đi làm và rồi lại đi làm.
Lúc đó Đức Giêsu quay lại phía các người chất vấn và hỏi họ: "Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của Cha?". Họ chỉ có thể đồng loạt trả lời: "đứa thứ nhất". Đâu còn gì rõ ràng hơn, con người xứng danh được phán xét theo hành động họ làm, không theo ý hướng hay thay đổi của họ.
Khi thuật lại dụ ngôn này cho cộng đoàn, thánh sử Mt muốn biện hộ cho một Giáo Hội mở rộng vòng tay đón tiếp những người thu thuế, gái điếm đã hoán cải Ngài cảnh giác các Kitô hữu, xưa cũng như nay, chống lại một thứ tôn giáo bề mặt chỉ biết lải nhãi: "Lạy Chúa, lạy Chúa" nhưng không bao giờ "thi hành ý Cha".Ngược lại, những người mà Do Thái giáo chính thức coi là đáng khinh bỉ và vô phương cứu chữa, những "người thu thuế" và "đĩ điếm", những người tội lỗi công khai xem ra rất xa đường "công chính", lại đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như họ đã đón nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: họ đã "hối cải và tin vào lời Ngài".
Thật là tuyệt vời nếu chúng ta nói rằng: "Con sẽ làm hay con cố gắng làm" và rồi thực tế là đã cố gắng làm việc đó.Có một người con như thế thật đẹp lòng Chúa biết bao. Thiên Chúa không chỉ cần ta hành động trong cuộc sống, mà Ngài con muốn mỗi người chúng ta vừa biết vâng lời như đứa con thứ hai, vừa biết thực hành như đứa con thứ nhất.
Lạy Chúa, mẫu gương vâng lời và thực hành tuyệt vời là chính Con Thiên Chúa, Đấng đã vâng lời Cha trên trời cho tới chết, xin cho chúng con cũng vâng theo và thực thi ý Chúa mỗi ngày trong đời sống chúng con. Amen.
21. Trong dự định của Thiên Chúa, sự chết dẫn đến sự sống
(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Một học sinh đã thức khuya và dậy thật sớm để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển vào trường trung học. Một nhạc công violon tập dợt nhiều tháng để trình diễn bản concerto đầu tiên dành cho violin của nhạc sĩ tài danh Mendelssohn. Một vận động viên đã chạy một đoạn đường khá dài mỗi ngày, ông thực hiện đó mỗi ngày để tham dự vào một giải chạy marathon.
Có phải Thiên Chúa giống như thế không? Có phải Người đã thực tập trước khi Người sáng tạo thực ư? Có phải bây giờ Người phải chịu đựng để mang vũ trụ đến một chung cục hoà điệu không? Có phải Thiên Chúa đang lớn dần lên và phát triển thành một điều gì quyền lực hơn bây giờ không? Dĩ nhiên là không rồi. Thiên Chúa hoàn hảo. Người không thể lớn lên và không thể thay đổi gì nơi thần tính của Người. Nhưng sự nhập thể lại là một chuyện khác.
Người Con Thiên Chúa, có tự đời đời và ngang bằng với Cha Người trong mọi sự, đã không do dự để trở thành một con người nhân loại. Trong lúc vẫn còn là thần linh, Người trở thành giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Những lời mà thánh Phaolô đã can đảm dùng để miêu tả sự Nhập Thể thì đáng chú ý như chính sự kiện: “Chúa Giêsu đã tự làm trống rỗng chính mình và mặc lấy hình hài của một nô lệ, được sinh ra trong nòi giống con người”. Chúa Giêsu trở thành con người để tuân theo Thánh Ý Cha của Người, để hoàn tất chương trình của Cha Người là cứu độ chúng ta. Chúa Giêsu giống như người con trong dụ ngôn, nói “vâng” khi Thiên Chúa Cha sai Người đi vào vườn nho của thế gian để làm việc hầu cứu độ chúng ta và Người giống như đứa con thứ, Chúa Giêsu đã đi thật sự. Chính vì điều này mà “Người đã trở nên sự vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Chúa Cha đã đáp lại hành động phi thường này bằng việc đưa Người Con tới sự sống Phục sinh. Chúa Cha không muốn Con của Người phải trải qua cái chết trong một cách như vậy, để rồi rơi vào quên lãng ngay cả trong bản tính nhận loại của Người nữa. Không. Chúa Cha muốn tán tụng Chúa Con và “ban cho Người một danh hiệu vượt trên hết mọi danh hiệu”. Nhưng điều kiện cho sự tán tụng này là, hay nói chính xác hơn, nguyên nhân của sự tán tụng này là Người đã vâng lời cho đến chết. Thánh Phaolô đã tuyên bố cách rõ ràng: “Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết” và bởi vì điều này mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người. Chúng ta sẽ thấy từ: “Bởi vì” đã được viết hoa.
Không phải việc Chúa Giêsu chết và sống lại là một điều gì giống như anh chàng điên tự đập đầu mình rồi sau đó cảm thấy tốt hơn nếu không làm như thế nữa. Chân lý này mầu nhiệm Vượt Qua, dự định của Thiên Chúa Cha là biến những nơi đau buồn nên con đường để đến với niềm vui, sự khiêm tốn biến thành lời ca tôn vinh và cái chết biến đổi thành sự sống đời đời.
Mầu nhiệm Vượt Qua là con đường của Chúa, không chỉ vì một mình Chúa Giêsu mà cả chúng ta nữa. Chúng ta bước vào trong cuộc đụng chạm với Mầu Nhiệm Vượt Qua trong phép rửa tội, nơi mà chúng ta đã chết cho tội và sống lại với một sự sống mới thánh thiện trong Đức Kitô. Chúng ta cử hành mầu nhiệm Vượt Qua trong mỗi thánh lễ: chúng ta tuyên xưng “Chúa Kitô đã chết đi, đã sống lại và sẽ đến một lần nữa”. Từ hy tế Thánh Thể chúng ta kéo sức mạnh xuống để sống theo ý nghĩa của bí tích rửa tội. Giống như Đức Kitô, chúng ta phải vâng theo ý muốn của Thiên Chúa trong mọi sự, ngay cả cái chết nữa. Trong cung cách chúng ta đang sửa soạn cho cuộc kiểm tra cuối cùng, chúng ta thực hiện việc thông dự vào sự hoà hợp phong phú của thiên đàng và chúng ta cố gắng chiến đấu để ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn. Cung cách của Thiên Chúa là mầu nhiệm Vượt Qua, có vẻ lạ lùng đối với một số người, hoặc có vẻ thiên vị, nhưng Thiên Chúa đã dẫn Con của người qua Mầu nhiệm Vượt Qua. Chúng ta sẽ thấy sự khôn ngoan và niềm vui khi thông dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô.
22. Lời nói đi đôi với việc làm
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Hôm nay, Thánh sử Matthêu kể cho chúng ta nghe một câu chuyện khá thú vị:
Một người cha có hai người con. Một hôm ông nói với hai con: “Hôm nay, hai con đi làm vườn nho cho cha nghe!”Hai người con đã đáp lại bằng hai thái độ khác nhau: Người con thứ nhất đã dùng tiếng “không”để đáp lại lời mời gọi của cha. “không, con không đi”. Nhưng sau đó, anh ta nghĩ lại, rồi quyết định đi làm vườn nho như ý cha muốn.
Ngược lại, người con thứ hai, ngay từ đầu đã tỏ ra lễ phép và vâng phục. Anh ta đáp lại: “Thưa cha, vâng ạ!”, nhưng đó chỉ là câu nói lừa bịp đối với cha, vì anh ta không đi làm vườn nho như ý cha muốn. Anh chỉ nói mà không làm.
Thưa anh chị em,
Ai cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Chúa muốn nói với chúng ta: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có”ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy!
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hàng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời; “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi lại không đi làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Đạo Kitô dạy các tín hữu thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là người đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói làm là làm ngay.
Thưa anh chị em,
Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Người Kitô hữu chúng ta vẫn có nguy cơ rơi vào một thứ “duy tâm”nào đó. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều người chỉ nghe Lời Chúa bằng tai thôi- tai này lọt qua tai kia là hết- Nhiều người khác đã để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên hệ gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi cầu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được “đến đôi tay”, nghĩa là được người kitô hữu đem ra thực hành ở giữa chợ, ở trường học, ở cơ quan, và cả ở những nơi giải trí… Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.
Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun quén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, chia sẻ cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Thời Chúa Giêsu, những người Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình- nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Ngày nay cũng vậy: có Pharisiêu thời xưa thì cũng có Pharisiêu ngày nay: dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, tự chước chuẩn cho mình.
Kitô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Chúa Giêsu đã định nghĩa Kitô hữu là “ánh sáng cho thế giới”. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là CÓ chứ không phải khi CÓ khi KHÔNG. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành ý Chúa Cha một cách hoàn hảo để nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.
23. Làm theo ý Chúa
Thiên Chúa luôn muốn cho chúng ta những điều tốt đẹp nhất. Khi Chúa muốn ai đi làm một công việc gì thì chắc rằng điều đó có lợi cho loài người nói chung và bản thân người đó nói riêng. Do đó, chúng ta phải vâng lệnh và thi hành theo chương trình của Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Dụ ngôn hai người con cho chúng ta hiểu về đời sống đạo đức đích thực được thể hiện qua việc làm chứ không phải bằng lời nói suông.
Cả hai người này đều là con của Chúa. Ở đây không chú trọng đến tình trạng đạo đức của mỗi người con đó, cũng không để ý đến lời nói, nhưng quan tâm đến việc họ không làm hay sẽ làm. Thật ra, Chúa thường sai tôi đi làm công việc cho Chúa dưới hình thức nào, có bao giờ hiện ra gọi đích danh tôi không? Nếu Chúa hiện ra bảo tôi đi làm "vườn nho" chắc chắn tôi đã nói vâng và đi làm ngay, không dám chậm trễ. Tuy nhiên, Chúa không sai tôi trực tiếp mà sai tôi gián tiếp qua các vị bề trên, qua lời Kinh thánh, qua lương tâm, qua bổn phận trong cuộc sống. Ý Chúa thể hiện trong Mười Điều Răn, trong Tám mối phúc, trong lời giảng dạy của linh mục, bề trên, những câu giáo lý, hay qua những biến cố trong cuộc sống... Qua những gì đã hoặc sẽ xảy đến, tôi có thể đoán biết được mình là người thế nào, có những tính tốt hay tật xấu nào, cần phải làm gì... để xứng đáng là người con của Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, cả hai người con đều được mời gọi đi làm cho Chúa, một người xem ra không vâng lời nhưng biết hối lỗi và làm theo ý Chúa, một người xem ra công chính nhưng lại không thi hành giáo huấn của Chúa. Có thể nói, cả hai đứa con này là tiêu biểu cho hai hạng người được Chúa mời làm vườn nho của Chúa. Có người nói "vâng" nhưng lại lười cố gắng, bỏ thi hành lời Chúa; có người nói "không" nhưng biết suy nghĩ và hối hận về sự vô lối của mình nên đã thay đổi cuộc sống và tin theo Chúa. Chúa không xét bề ngoài nhưng xét từ trong lòng mỗi người, vì thế Chúa có thể chọn những tội nhân làm môn đệ và ban cho ơn cứu độ, trong khi một số người biệt phái cứng lòng không nhận ra Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta phải xét mình hằng ngày để hiểu rõ tấm lòng của mình đối với Chúa. Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt thứ hạng nào trong xã hội, vấn đề là mỗi người có làm, có sống theo lời Chúa dạy hay không.
Trong dụ ngôn này, người con thứ nhất nói: "con không đi", cho thấy sự từ chối, bất tuân của kẻ tội lỗi, nhưng sau đó biết suy nghĩ lại, quyết tâm thay đổi và tuân phục thiên Chúa. Ngược lại, có những kẻ ngôn hành bất nhất, tỏ ra đạo đức nhưng chỉ là mồ mả tô vôi, không thi hành luật Chúa như lời họ nói. Khi Gioan Tẩy Giả đến làm phép rửa, nhiều tội nhân đến sám hối và chịu phép rửa, trong khi các kỳ lão, Biệt Phái lại từ chối lời mời gọi của Chúa, họ đã cứng lòng, bỏ qua mọi lời khuyên của Chúa. Những người mệnh danh là công chính này đã không nhận thấy thân phận yếu đuối nhiều lầm lỗi của mình. Phần chúng ta, chúng ta có hoán cải và lắng nghe tiếng Chúa luôn luôn không? Rất nhiều lần tôi chứng kiến ơn trở lại của người khác mà tôi có động lòng, từ bỏ lối sống cũ, mặc lấy Chúa kitô cách trọn hảo hơn trước không?
Chúng ta phải mau mắn thưa vâng và thi hành mọi lời Chúa dạy theo bậc sống, theo bổn phận của mình. Chúng con sẽ nổ lực thực hiện những gì mình hứa làm, nếu chúng con lỡ vấp phạm thì sớm ăn năn để được ơn tha thứ. Chúng ta có thể cầu nguyện, giúp đỡ những người khô khan, tội lỗi để họ trở về với Chúa và đến lượt họ khi trở nên sốt sắng sẽ là lời nhắc nhở chúng ta sống đạo tốt hơn.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con vốn là những kẻ tội lỗi, bất xứng trước mặt Chúa, nhưng Chúa không chấp tội chúng con, Ngài chỉ muốn con nhận ra được tình thương của Ngài và làm theo ý Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết sống cho Chúa một cuộc đời mới để xứng đáng với tình thương của Chúa hơn và mai sau được Chúa thưởng trên Thiên Đàng vinh phúc.
24. Lời mời gọi cứu rỗi
(của Đức Ông Trần Văn Khả)
Bài Phúc âm theo thánh Matthêô 21,28-32 cần được đọc trong bối cảnh của những cuộc tranh luận cuối cùng giữa Chúa Giêsu và các người Pharisiêu và nhóm thù địch khác chống lại Chúa, và các cuộc này đưa tới sự căm thù và việc Chúa Giêsu bị lên án tử trên thập giá.
Ngoài ra đoạn Phúc Âm này cũng cần được đọc chung với bài sách Ngôn sứ Êdêkien (Ed 18,25-28, bài đọc thứ I Chúa nhật 26 Thường niên) về việc Thiên Chúa kêu mời người tội lỗi trở lại. Và đây là chủ đề của Chúa nhật thứ 26 hôm nay.
Trong mạch văn của Phúc âm thánh Matthêô, dụ ngôn Hai người con (Mt 21,28-32), cùng với Dụ ngôn những người tá điền vườn nho (Mt 21,33-41), và lời giáo huấn về viên đá góc tường bị loại bỏ (Mt 21,42-46), là những dụ ngôn và giáo huấn nhắm vào các tư tế và những người biệt phái và thái độ cứng cỏi của họ không chấp nhận lời mời gọi cứu rỗi của Thiên Chúa, qua con người và các phép lạ của Chúa Giêsu Kitô. Những người biệt phái đã hiểu rõ Chúa Giêsu nói những dụ ngôn này ám chỉ về mình, nên đã tìm cách bắt Chúa và loại trừ Chúa (xc Mt 21,45-46). Trước đó, họ chất vấn Chúa lấy quyền nào mà đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi khuông viên đền thờ (xc. Mt 21,23-27). Để trả lời họ, không những Chúa làm cho họ cứng họng im lặng, mà còn cho họ thấy sự cứng cỏi trong thái độ đối với Chúa, cũng như với lời kêu gọi thống hối ăn năn. Như vậy, không những Chúa Giêsu cho cho họ biết Ngài là ai, mà còn đòi buộc chấp nhận Ngài là vị cứu rỗi duy nhất.
Trở lại với bản văn của dụ ngôn Hai người con, chúng ta có đưa ra mấy nhận xét sau đây để có thể hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn và từ đó có những áp dụng cụ thể cho đời sống đức tin của mình.
Trước tin, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với chính những người hỏi Chúa. Chúa bắt họ tự vấn về thái độ phải có đối với lời mời gọdi thống hối và trở về, tức là đối với chính Chúa Kitô: "Các ông nghĩ sao?"
Tiếp theo, Chúa dùng hình ảnh vườn nho, rất quen thuộc với người biệt phái và các tư tế, để nói lên thái độ của người môn đệ đối với Nước Trời, tức là với Chúa Kitô. Họ thuộc về vườn nho đó, hay không thuộc về vườn nho đó; thế nào là thuộc về vườn nho đó hay không thuộc về vườn nho đó, là ở trong vườn nho đó hay ở ngoài vườn nho đó? Có người mang tiếng thuộc về vườn nho, ở trong đó, nhưng lại thực sự không thuộc về, không ở trong đó.
Sau cùng là hình ảnh trái ngược giữa nhóm người biệt phái và những người tội lỗi. Hình ảnh này thường thấy trong Phúc âm thánh Matthêô. Những người biệt phái tưởng là thuộc về, là ở trong vườn nho Thiên Chúa, vì là thành phần nồng cốt; nhưng thực ra họ bị phán quyết là đã bị loại ra ngoài (Mt 6,2.5.16; 7,21). Còn những người thu thuế, đĩ điếm, tội lỗi, thì lại được tuyên bố là thuộc về, là ở trong vườn nho (xc. 9,10-13), Lý do chỉ là vì một bên không có, một bên có điều kiện cần của việc thuộc về này: đó là tâm tình thống hối trở về (xc. Mt 5,20; 7,21)
Đó là tóm lược giáo huấn của Gioan Tẩy Giả gửi tới mọi người và dọn đường cho Chúa Kitô tới (Mt 3,1tt;11,12). Đó là sự công chính do Gioan rao giảng: thống hối trở về để tin nhận Chúa Kitô.
Hôm nay khi đọc và suy niệm bài Phúc Âm này, chúng ta cũng đang được Chúa Giêsu Kitô hỏi chúng ta: con nghĩ sao về Ta? Về lối sống đạo của con trong liên hệ với Ta? Về sự công chính mà con tưởng con đang có và từ đó tự nhủ thầm về phần phúc thiên đàng mai sau? Và chúng ta hãy tự kiểm thảo cách thành thực đức tin của chúng ta trước mặt Chúa trong lương tâm của ta.
25. Thực hành đường lối Chúa
(John W. Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Vậy mà các anh lại nói, đường lối của Thiên Chúa không ngay thẳng” (Ez 18,25).
Nữ ca sỹ Frank Sinatra đã cất lên bài hát “Tôi đã làm theo đường lối của tôi, và cứ thế, tôi sẽ tiếp tục thực hiện, nhiều hơn, nhiều hơn nữa”. Đây là một quan niệm khá phổ biến. Con người có tự do. Vì thế, chúng ta dễ xác tín vào cuộc sống của chúng ta và cứ thực hiện, cứ sống theo cách thế của mình, theo lương tâm, theo tài năng của mình và cũng chẳng cần màng đến giá trị của chúng ta ra sao nữa. Nhưng đến một lúc nào đó, Chúa mời gọi chúng ta đi theo đường lối Chúa, thì cách tốt nhất, là chúng ta hãy sống theo con đường mà Chúa đã vạch dẫn, giống như Đức Giêsu đã thực hiện, khi Ngài dấn bước vào cuộc hành trình Thập giá.
Tiên tri Ezêkiel nói cho dân Israel về đường lối của Thiên Chúa, một cách rất rõ nét. Đó là một lối đường ngay thẳng và tốt lành. Đồng thời trong đường lối đó, Thiên Chúa cũng trao phó cho con người trách nhiệm để họ ý thức về những tội lỗi của chính mình. Dường như hơi kỳ lạ, là dân chúng phản kháng, chống lại tuyên bố trên. Họ cho rằng họ chẳng có trách nhiệm gì hết. Chính vì thế Ezêkiel đã khơi lại lời ca thán của dân khi họ nói “Đường lối của Thiên Chúa quả thật, không ngay thẳng chút nào”. Với sự ngạc nhiên, Thiên Chúa đáp trả khi vặn hỏi lại dân “Có phải đường lối của Ta không ngay thẳng, hay chính đường lối của các ngươi không ngay thẳng?”.
Lời phàn nàn của dân chúng dường như phát nguồn từ một não trạng cứng ngắc nơi những con người hay tự mãn, luôn cho mình là ngay lành và chân chính. Nhưng khi kẻ ngay chính từ bỏ sự ngay chính của họ, hay những con người tốt lành bỏ xa con đường tốt lành mà họ đang dấn bước, thì hậu quả sẽ ra sao? Thiên Chúa phán quyết một cách nghiêm khắc “Khi người ngay chính bỏ con đường ngay thẳng của họ và phạm những tội bất chính, nó sẽ chết. Cũng thế, khi một người gian ác từ bỏ tội lỗi họ đã gây nên mà tuân giữ các lệnh truyền của ta, và thi hành điều chính trực công minh, chắc chắn nó sẽ sống và không phải chết. Sự hoán cải và trở nên công chính là tâm điểm nơi phán quyết của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ cân nhắc sự hối lỗi của chúng ta và Ngài sẽ đổi ý định giáng phạt. Kiên trung đi theo đường ngay nẻo chính là điều trọng yếu, chứ không phải chỉ khẳng định là mình đã sống chính trực trong quá khứ một cách nhất thời mà thôi. Vì thế, những ai biết suy xét, biết thay đổi đời sống, biết đoạn tuyệt với những sai phạm, họ sẽ được sống, và không phải chết.
Đường lối của Thiên Chúa luôn là đường ngay chính, cho dù lối đường này nhiều khi có vẻ đánh đố và làm chúng ta kinh ngạc, đặc biệt khi chúng ta không hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa sâu xa như thế nào. Chúng ta có thể cứng đầu cứng cổ cho rằng, lối đường của Thiên Chúa không ngay thẳng. Nhưng ngay cả khi chúng ta cố tình chống lại lối đường của Thiên Chúa, thì đường lối của Ngài vẫn luôn là cách thế tuyệt vời nhất để biểu tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với con người. Đức Giêsu chính là nguyên mẫu cho chúng ta. Ngài đã trọn vẹn đi theo đường lối của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã bắt đầu bài thánh thi ca tụng Đức Giêsu, bằng việc khuyến mời giáo đoàn Philip hãy có “cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” giống như Đức Giêsu đã thực hiện. Ngài xin anh chị em tín hữu “Hãy sống khiêm nhường, luôn coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích riêng cho cá nhân, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”. Theo Thánh Phaolô, cách thái này chính là lối bước trọn lành mà đức Giêsu đã vạch dẫn , và trên nẻo đường này, sự vâng phục Thiên Chúa luôn phải được thực thi cách triệt để.
Qua cách thái mà Chúa Giêsu đã thực hiện, Thánh Phaolô muốn ngỏ trao cho chúng ta một sứ điệp: “Đức Giêsu đã nêu gương cho ta, đã tự nguyện biến mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, sống kiếp phàm nhân. Khi mang thân phận con người, Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến chết và chết trên Thập tự”. Đây là con đường dẫn đến núi sọ và huyệt đá. Đây cũng chính là con đường mà trong vườn cây dầu, Đức Giêsu đã khiếp sợ khi phải đối diện, đến mức độ Ngài đã khẩn xin Chúa Cha cất mình tránh khỏi con đường đó. Tuy nhiên Ngài đã chấp nhận dấn bước trong khiêm tốn, trong vâng phục và hy sinh cho đến chết. Lẽ tất nhiên, nhiều lúc chúng ta cũng có thái độ giống như đám đông ngày xưa. Họ đã la toáng lên và nói với Ezêkiel “ Đường lối của Thiên Chúa chẳng ngay thẳng chút nào”. Sự cố chấp này trái ngược hẳn với thái độ của Đức Giêsu, Đấng luôn khiêm tốn và vâng phục cách triệt để. Họ phản kháng như thế không phải là để tra hỏi xem đường lối của Thiên Chua như thế nào, không giống như Đức Giêsu đã hành xử. Cũng không phải là họ nài xin Thiên Chúa thực hiện nơi họ một lối đường khác. Không phải thế. Chính họ đã phản kháng, ngoan cố chống lại Thiên Chúa và đường lối của Ngài. Khi chúng ta chối từ con đường mà Thiên Chúa đã vạch dẫn, chính là lúc chúng ta đang chống lại Ngài, và đang tìm cách để đào thoát cũng như xa tránh Ngài.
Tuy vậy, như Ezêkiel đã mô tả, ngay khi chúng ta đang tìm cách né tránh đường lối Thiên Chúa, Ngài vẫn còn tạo cho chúng ta cơ hội để giúp ta sám hối và quay trở về. Động thái khoan dung này được biểu tỏ qua dụ ngôn của Thánh Mathêu trong phụng vụ hôm nay với hình ảnh về hai người con. Trong dụ ngôn, đứa con thứ đã thưa không với cha, nhưng sau đó nó suy nghĩ lại và thay đổi quyết định, trong khi đứa thứ nhất nói có, nhưng lại không đi làm vườn nho cho cha nó. Nếu chúng ta là chính đứa con đã từng nói không với Thiên Chúa là Cha của chúng ta, chúng ta vẫn còn cơ hội để thay đổi. Ngay cả như đứa con thứ nhất tuy đã thưa vâng nhưng lại không đi, nó cũng vẫn có thể sám hối và đổi thay . Chúng ta hay thích làm theo ý chúng ta, thế thì tại sao, chúng ta lại không cố gắng tìm kiếm và thi hành theo đường lối của Thiên Chúa. Điều đó tùy thuộc vào thái độ nội tâm nơi mỗi người.
26. Nói vâng với Thiên Chúa chính là thay đổi ngay lập tức
Một người bạn nói với tôi: -Việc biểu dương những kẻ mại dâm làm tôi bực mình. Cha sở của chúng tôi luôn trưng dẫn bản văn này: “Những cô gái mại dâm sẽ vào Nước Trời trước các con”.
Tôi đã sửa lại: Tin Mừng không nói “sẽ vào trước các con” mà là “vào trước các con”. Chúa Giêsu không dành một sự ưu tiên về mặt lý thuyết cho tất cả các cô gái mại dâm! Ngài nhận thấy một điều đó là trong số các thính giả của Ngài, những cô gái mại dâm là những người đầu tiên tin vào Ngài và trở lại đạo.
Người bạn của tôi ngập ngừng.
- Tôi làm vui lòng Chúa Giêsu nếu tôi là một tên vô lại chính cống hơn là một người suy nghĩ chín chắn hay sao?
Tôi đã thấy nhiều người Kitô hữu vấp phải khó khăn này, nhất là sau một bài giảng trong đó người ta đã hành hạ họ. Chắc chắn họ không để ý rằng họ phản ứng hơi giống như những người Pharisêu mà Chúa Giêsu dành dụ ngôn hai người con cho họ.
Hai người con nhận cùng một lời mời gọi. Đây là chi tiết chủ yếu: cho dầu hoàn cảnh và cuộc sống của chúng ta như thế nào, Thiên Chúa vẫn dành cho chúng ta lời mời gọi cơ bản và cũng một lời đề nghị đó. Những khác biệt giữa chúng ta có thể là lớn, nhưng chúng rất hời hợt so với sự chọn lựa sâu xa của chúng ta; trả lời vâng hoặc không cho Chúa Giêsu Kitô.
Khi hai người con nghe: “Hôm nay con ra làm vườn nho cho cha nhé”, một người nói vâng, nhưng anh ta không đi. Người kia nói không, nhưng “nghĩ lại” anh ta lại đi. Hãy ghi nhớ hai tiếng mấu chốt: hôm nay và nghĩ lại, và bạn hãy nghĩ đến những người vây quanh Chúa Giêsu lúc Ngài nói điều này. Chính Ngài là lời mời gọi của Thiên Chúa, lời mời gọi mạnh mẽ nhất: “Hôm nay, hãy lắng nghe Ta trong khi lắng nghe Con Ta”.
Cho tới lúc đó một số người tin rằng họ nói vâng với Thiên Chúa nhưng thực tế họ nói không với Ngài. Họ không biết thực sự người ta nói vâng với Thiên Chúa như thế nào. Trên quan điểm này những người Pharisêu gống y như những cô gái mại dâm. Tất cả những người ấy đều đứng trước cơ may lớn lao là cuối cùng có thể nói vâng với Thiên Chúa ngay lập tức (vào ngày hôm nay): họ chỉ cần lắng nghe Chúa Giêsu là đủ. Những người mại dâm chớp lấy cơ may này, trong khi người Pharisêu bình chân như vại.
Làm sao giải thích một phản ứng khác biệt đến thế được? Tất cả đều nằm trong điều này: “nghĩ lại”. Để nói vâng với Thiên Chuá, phải bắt đầu bằng việc thấy rằng chúng ta đang nói không với Ngài. Thú nhận điều đó không phải là điều dễ dàng. Có một nguy cơ rình rập những người tốt nhất, những kẻ có nhiều nỗ lực như người Pharisêu: tin rằng mình ở gần Thiên Chúa đến độ không nghĩ đến hoán cải, thay đổi. Đối với những người mại dâm, tiếng không của họ nói với Thiên Chúa lớn đến nỗi họ không ngần ngại khi họ đã hiểu họ có thể nói vâng với Ngài ngay lập tức. Chúng ta, người con cả! Chúng ta nói biết bao nhiêu lần Amen... nhưng chúng ta không nhúc nhích.
- Thế thì phải làm người luật sĩ hoặc kẻ mại dâm?
- Không, mà là khám phá ra chúng ta là những luật sĩ và những người mại dâm. Dù là ngươì này hay người khác, tức là những kẻ tội lỗi. Khi chúng ta ý thức về điều đó, chúng ta có cơ may làm người con thứ hai, người con của tiếng vâng thực sự.
27. Thái độ vâng phục
(‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc lên mười sáu tuổi, hai mươi tuổi ông theo Đảng Cộng Sản, lúc hai mươi ba tuổi thì trở lại đạo Kitô, hai mươi bốn tuổi làm phóng viên cho tuần báo New York, sau khi nghỉ phóng viên đến hai mươi sáu tuổi từ bỏ mọi sự cuốn gói đi theo Chúa.
Thomas Merton đến ở nhà Dòng Kentucky và trở thành tu sĩ sống đời chiêm niệm. Trong tập sách tự thuật về "Cuộc Đời Của Mình", Thomas mô tả lại những bước đầu tiên của cuộc trở lại như sau:
Lúc đó tôi vừa mới xong trung học và đang dùng xe lửa để đi thăm khắp nơi Âu Châu với một cuộc sống khá phung phí. Một hôm nằm trong khách sạn, tôi chợt ý thức về những tội lỗi của mình, tất cả mọi sự qua đi thật nhanh. Tôi như được soi sáng để nhìn biết sự khốn cùng của tâm hồn tôi. Tôi nhất định thoát ra khỏi hoàn cảnh này, khỏi những ồn ào và lần đầu tiên Thomas Mertin đã ý thức là mình đã có kinh nghiệm cầu nguyện, cầu nguyện để xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc.
Bài Phúc Âm hôm nay xem ra như người con thứ nhất nói không đi rồi lại đi, anh ta có một thái độ thay đổi cách tự động máy móc. Nhưng trong thực tế, trong đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta, cần phải có thời gian cùng với những lời cầu nguyện, xin Chúa thương nâng đỡ chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi hoàn cảnh hiện tại là đang sống trong tội lỗi, đam mê của xác thịt. Mỗi người cần phải ăn năn trở lại, cần phải thưa vâng với Lời Chúa mời gọi, vì không ai có thể nói là mình đã hoàn toàn thưa vâng với Chúa.
Mỗi người đều cảm thấy nhiều khó khăn làm mình khó trở lại, khó chấp nhận với hoàn cảnh hiện tại của mình, cảm thấy trống vắng và muốn thay đổi, cảm thấy có một sự không ổn nào đó trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Đó là bước đầu tiên của tiến trình trở lại cùng Chúa. Rồi một biến cố nào đó đánh động và mở ra một quyết định, một bất ngờ như Thomas Mertin đang ở trong khách sạn, bất ngờ cảm thấy sự khốn cùng của mình và muốn vượt ra khỏi sự khốn cùng ấy.
Nói theo ngôn ngữ thần học thì đây là giây phút của ân sủng đánh động, mời gọi chúng ta trở về với Ngài để đời sống chúng ta được ăn khớp với lời dạy của Chúa. Cuối cùng cần phải có một quyết định cụ thể để thực hiện một việc làm theo hướng đi mới. Mỗi ngày chúng ta cần cầu nguyện nhiều và tiếp xúc thân mật với Chúa để xin Chúa ban ơn soi sáng cho chúng ta có một quyết định dứt khoát theo đúng hướng đi mà Chúa muốn chúng ta tiến bước. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần trở về với Chúa và thưa với Chúa "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa".
Xin Chúa soi sáng giúp con nhận ra thánh ý Chúa trong những việc làm hàng ngày, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của con và xin Chúa ban cho con được ơn can đảm chu toàn đến cùng, xin Chúa gìn giữ mỗi người trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
28. Sẵn sàng tin
1) Ý nghĩa thứ nhất của dụ ngôn:
Do Thái và lương dân đều có những thái độ khác nhau, giống như thái độ của hai anh em đề cập trong dụ ngôn. Những người trước nài xin vâng rồi bỏ đi, và giờ quyết định họ sẽ bị kết án. Còn lương dân bị gạt bỏ, sau tìm thấy đường về với nước Chúa. Lối giải thích phổ biến này có vẻ hữu lý, nhưng chưa đi vào điểm cốt yếu. Không thể quả quyết về lương dân rằng họ đã từ chối từ nguyên tắc. Nói chung, thái độ của những người đại diện ưu tú của họ chứng tỏ rằng, họ là những người đang tìm hiểu và nhận biết đấng thần linh là lẽ sống của họ. Nhưng theo lời chú giải riêng của Đức Kitô, Ngài đã hướng dụ ngôn này theo một ý nghĩa khác.
Có những nhà chú giải thấy ở đó sự giải thích về tương quan giữa lý thuyết và thực tế. Bản văn tin mừng chỉ có những người trong lý thuyết không chấp nhận, nhưng lại chấp nhận trên thực tế. Song giải thích này cũng bất toàn, vì lời chối từ của người đầu tiên không dựa trên những nhận định lý thuyết mà phát sinh từ một tâm tính cục cằn và bất nhã. Những người khác thấy trong dụ ngôn của Chúa sự đối lập giữa thực tại và vẻ bên ngoài. Người con thứ hai hình như vâng lời, nhưng thực tế lại bất phục. Trong lúc người có một tâm hồn tốt đẹp, nhưng bên ngoài lại khó thương. Lối giải thích này cũng vô ích nếu ta đào sâu bản văn, vì yếu tố cốt yếu không phải là tình trạng cố hữu, cũng không phải là thái độ trung thực núp trong vẻ bên ngoài giả dối. Yếu tố cốt yếu chính là sự hoán cải tình cảm, chính là một ý hướng canh tân, một tình trạng cải hóa của con người: nghĩa là hối hận về một thái độ sai lạc và sau khi đã ý thức, họ ước muốn thay đổi. Đây là điều thấy hiện rõ trong lời Chúa: “Rồi sau anh hối hận và đi làm”.
Theo lời quả quyết của Chúa Giêsu, dụ ngôn này nói về những điểm khác nha giữa những người biệt phái và luật sĩ, những người thu thuế và những kẻ khác, những người lãnh đạo tinh thần của Israel sống mãi trong một thái độ vị kỷ, làm họ xa Thiên Chúa. Chỉ biết chấp nhận lời Chúa, họ trung thành với Môisen, với đức tin, và với những đòi hỏi, như đứa con thứ nhất trung thành với ý cha. Còn khi những giới luật Thiên Chúa không còn đáp ứng với những nguyện vọng cá nhân của họ, họ không còn tha thiết nữa. Qua việc làm của Gioan Tẩy giả xưa, Chúa đòi hỏi việc thống hối, kêu gọi hoán cải tâm hồn và cuộc sống, thì họ không lo gì đến. Còn những người phần thu có lẽ đã lầm lạc, có lẽ hành động trái với thiên ý, nhưng khi họ nghe thấy tiếng gọi của Chúa Giêsu, họ hối cải và đạt tới nước Chúa. Trung thành đích thực nghĩa là sẵn sàng trả lời tiếng gọi của Chúa. Người ta không thể tự khép mình mãi trong một hình thức cuộc sống, vì họ phải thay đổi ngay nếu tiếng gọi từ cao đòi hỏi. “Các ông đã không thống hối để tin vào Gioan tẩy giả”. Đó là lời mắng trách mà Chúa Giêsu nêu ra cho bọn Biệt Phái.
2) Ý nghĩa thứ hai của dụ ngôn.
Những chú giải khác đem tới kết luận khác nhau. Một lối chú giải sai lạc chỉ nêu cao ý nghĩa lịch sử. Dụ ngôn được áp dụng theo dự phóng của thời đại cho thái độ khác nhau của Do Thái và lương dân, biệt phái và phần thu. Lối giải thích lịch sử đó khá xa xôi với đòi hỏi quan trọng nhất. Vì như thế, dụ ngôn chỉ áp dụng cho kẻ khác chứ không cho chính mình.
Dụ ngôn có một ý nghĩa khác nếu ta thấy trong đó có một đòi hỏi phải sẵn sàng tin tưởng. Trong trường hợp này, con người cảm thấy tâm hồn bị khích động rồi nhận ra một đòi hỏi khắt khe rằng: cần phải thuộc về Giáo Hội và phê bình những ai ở ngoài Giáo Hội, rồi sẽ ngoan cố bịt tai không chịu nghe thấy tiếng gọi của Ngài. Vô tình người ta tự cho mình đang đi đúng đường và sống trong tình trạng thiện hảo. Lòng tự tin sai lạc này biến thành cảm giác tự mãn: trong lúc kết án Biệt phái thì người ta lại trở nên giống họ! Ở đây trái lại, Đức Kitô mạnh mẽ mời gọi những ai nghe theo tiếng Ngài phải thống hối, biến đổi, sẵn sàng thay đổi hay hoán cải cuộc sống theo lệnh Thiên Chúa. Thái độ chính đáng duy nhất là tâm hồn sẵn sàng đón nhận đức tin, luôn luôn chú ý nghe và vâng lời, không tự ý điều hòa cuộc sống, nhưng đặt tất cả trong bàn tay Thiên Chúa. Những người có tín ngưỡng giữ đạo theo vẻ bên ngoài, với thời gian sẽ không được chấp nhận vào nước Chúa. Những kẻ khác, bề ngoài có vẻ theo một đường xấu, nhưng trong thâm tâm nhận biết sự sai lạc của tâm hồn mình rồi hoán cải, chính họ sẽ được cứu rỗi. Vậy dụ ngôn này đề phòng chống lại thái độ cứng lòng trong tâm hồn, sự kiêu hãnh tôn giáo, sự an bình giả tạo bên trong và đòi hỏi chúng ta phải nghe Thiên Chúa để theo tiếng gọi của Ngài. Con người phải hoán cải và để cho người ta hoán cải không ngừng, bởi vì từ một thái độ sai lạc, họ sẽ lầm lạc vào đường xấu. Cho dù bên ngoài, tất cả xem ra tốt đẹp. Thật là kỳ cục khi thấy Chúa Giêsu yêu thích những kẻ phần thu hơn những bọn Biệt Phái và Luật sĩ. Hẳn thái độ đó phải là dịp tội cho Do Thái. Nhưng sở dĩ như thế, vì Chúa Giêsu thấu suốt thâm tâm nhân loại. Một tội nhân ý thức về tội tính của mình và hối cải khi được ơn sủng đánh động, còn giá trị hơn một người mộ đạo chỉ muốn sống trong vẻ đạo đức của mình, và vì kiêu ngạo không nghe thấy tiếng gọi siêu nhiên. Hiểu như thế, dụ ngôn bày tỏ sự nghiêm trọng và thái độ cứng rắn đặc biệt đối với những ai ở bên trong. Dụ ngôn khiển trách thái độ hoán cải giả trá và thái độ bất mãn ban đầu. Khi con người đi từ thái độ chấp nhận đến từ chối, thì đó là thái độ đáng thương hại. Vì thực ra, phải đi từ từ chối đến chấp nhận mới hợp lý. Con người mà luôn luôn liều lĩnh chối bỏ Thiên Chúa, cũng sẽ phải tỏ ra luôn sẵn sàng hối cải cách trung thực nhất. Đó là điều mà dụ ngôn này bàn tới.
29. Vâng phục Thiên Chúa
Anh chị em thân mến.
Một lần nọ, người chủ ruộng dẫn con trâu đến mảnh đất để cày, con trâu và người chủ làm việc suốt buổi sáng. Đến trưa người chủ thả trâu cho nghỉ ngơi và ăn cỏ, còn người chủ cũng ăn uống lấy sức. Con trâu đang nằm nhơi cỏ, thì bỗng đâu có con cọp xuất hiện làm cho trâu hốt hoảng, nhưng cọp trấn an trâu và nói: thân mi to lớn, với sức khoẻ phi thường, tại sao mi phải lệ thuộc con người yếu đuối và chịu sự điều khiển như thế? Con trâu trả lời: con người tuy nhỏ bé, yếu đuối, nhưng họ có trí khôn, nên sức mạnh không làm gì được trí khôn của họ. Cọp mới hỏi trâu trí khôn là gì mà ghê thế? Trâu bảo cọp hãy đến hỏi con người. Cọp mới đến gần con người xin cho xem trí khôn. Con người bảo là để quên ở nhà, anh bảo cọp chờ anh ta về nhà lấy cho nó xem. Nhưng anh ta chợt suy nghĩ và bảo cọp. Mi hãy để ta trói mi lại, chứ nhở khi về lấy trí khôn cho mi xem, mi sợ và bỏ trốn thì sao? Cọp bị chạm tự ái, nên để cho người trói lại. Vừa trói xong, anh ta lấy một cây to đến bên cọp và đánh cho đến khi cọp không còn sức vùng vẫy nữa, anh ta bảo: trí khôn của ta đây nầy. Con trâu nhìn thấy thế và mỉm cười cho cọp.
Con trâu nhận ra được sức mạnh của con người nên nó vâng phục và không cưỡng lại, nên nó được an toàn và được sức mạnh đó bảo vệ nó. Còn con cọp, không biết được thực chất như thế nào nên nó bị sức mạnh đó tiêu diệt nó.
Hai người con trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy, họ không phải là những người bốc đồng hay thay đổi. Nhưng người con thứ nhất biết suy nghĩ và nhận ra được giá trị đích thực của cuộc sống, anh nhận ra được sức mạnh của tình yêu thương nơi người cha, nên anh hối hận và quay trở về với tình yêu thương và thi hành những gì mà người cha bảo anh làm. Còn người con thứ hai, chỉ sống hời hợt bên ngoài, anh tưởng nghĩ có thể lấy lòng người cha bằng cử chỉ bên ngoài; anh đã lầm, người cha rất buồn và có lẽ cũng đang chờ đợi anh hành động theo như những gì mình đã nói. Người thi hành ý muốn của cha, mới là người vâng lời cha thực sự, chứ không phải người nói khác nhưng thực hành hoàn toàn khác là có giá trị.
Ngôn hành bất nhất là những gì thường thấy nơi con người. Khi con người chỉ biết có chính mình mà không biết đến người khác, khi đó lời nói và hành động khó mà đi đôi với nhau được.
Những gì là thường tình của con người, những gì là của câu chuyện ngày xưa, nó có phải là những gì của mỗi người trong chúng ta ngày hôm nay không?
Nhiều lần trong cuộc sống, mỗi người chỉ nhìn thấy chính mình, nhìn thấy những gì mình có, những gì mình làm được, để rồi mang niềm tự hào đến tự phụ kiêu căng. Khi đó, Thiên Chúa không còn hiện diện và không có giá trị cho cuộc sống, vì khi đó chỉ có tài năng sức lực con người là trên hết. Thiên Chúa dường như phải thi hành để trả lại cho con người những gì đã ban ra. Những lúc đó, chúng ta giống như con cọp trong rừng, không biết mình cũng không biết người, không giá trị của mình như thế nào. Nếu cứ ngoan cố trong những ý nghĩ và suy tư của mình như thế, thì số phận của chúng ta không khác gì số phận con cọp bao nhiêu.
Nhưng nếu trong cuộc sống, chúng ta nhận ra quyền năng Chúa, chúng ta cũng nhận ra được những giới hạn của chính mình, để biết quay trở về và vâng phục thánh ý Chúa thì hạnh phúc biết bao.
Những lần chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh, những lời cầu nguyện chân thành, cùng với những việc làm tốt đẹp mà chúng ta nhìn thấy nhu cầu cần thiết của người khác và đáp ứng cho họ. Đó là những lần chúng ta thi hành thánh ý Chúa bằng cả lời nói và việc làm. Cũng có những lúc chúng ta thấy bất mãn trong cuộc sống, muốn bỏ cuộc, muốn buông trôi tất cả, muốn hành động cho thỏa cơn nóng giận, nhưng chợt kịp suy nghĩ và ngưng ngay lại, vì nhận ra đây là những điều không đẹp lòng Chúa. Đó là những lúc chúng giống như người con thứ nhất, nói không rồi chợt hối hận để sẳn sàng thi hành những gì đẹp lòng Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho mỗi người để biết nhận ra Chúa trong đời sống, đồng thời cũng biết nhận ra những yếu đuối của chính mình để biết quay trở về với tình yêu Chúa.
30. Nói và Làm
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha với hai thái độ khác nhau.
- Người con thứ nhất: Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.
- Người con thứ hai: Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng tế Kinh sư Pharisiêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta có thái độ "ngôn hành bất nhất", "nói mà không làm", “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả. Người con thứ hai ám chỉ những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.
Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.
Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống.
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.
- Nói ít làm nhiều.
Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.
- Nói nhiều làm ít.
Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. (x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, ĐGM Vũ Duy Thống).
Nói và làm, hai thái độ sống
Sau câu hỏi, Chúa Giêsu xác định một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu không chịu nghe lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối. Có hạng người nói không làm và hạng người làm không nói.
- Người nói mà không làm. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.
- Người không nói nhưng lại làm. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.
Những bài học
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.
- Việc làm quan trọng hơn lời nói.
Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nổi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật sĩ Biệt phái Kinh sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
- Hãy làm một cách khiêm tốn.
Những người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải "đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài" để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisiêu "ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy".
Khi phê phán người Pharisiêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: "Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy... Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo... Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy... Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh" (Mt 6,1-6). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.
Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen.
31. Tuân theo ý Chúa
Có một ông công chức, khi về hưu, đã mua mấy mẫu đất ở miền quê để làm một thửa vườn rộng. Thế nhưng, ông thấy mình không thể đảm đương hết mọi công việc, nên ông đã đi thuê người giúp việc.
Đầu tiên, một chàng thanh niên tới và ông đã hỏi:
- Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả lời:
- Tôi có biết chút ít.
Ông ta chỉ dẫn cho anh:
- Anh hãy lấy những hạt giống này, ngâm vào nước âm ấm cho qua một đêm, rồi mới đem gieo trồng.
Thế nhưng anh đã phản đối và cho rằng đó không phải là một cách thức tốt.
Sáng hôm sau, một chàng thanh niên khác đến xin việc, ông ta cũng hỏi:
- Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả lời:
- Tôi không biết nhưng rất vui lòng được học.
Ông ta cũng chỉ cho anh cách ươm cây và anh đã vâng theo làm như vậy. Cuối cùng ông ta cắt nghĩa:
- Đây là giống bạch đàn không dễ gieo trồng. Nếu không ngâm vào nước ấm trong một đêm thì hạt sẽ khó mà nẩy mầm.
Và chàng thanh niên đã thú nhận:
- Tôi không biết lý do nhưng tôi nghĩ rằng ông có kinh nghiệm hơn tôi nên ông bảo sao thì tôi làm như vậy.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Một số người có quyền và có bổn phận bảo cho người khác điều phải làm. Chẳng hạn người cha trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, có quyền và có bổn phận đó. Còn hai người con của ông tiêu biểu cho chúng ta, là những người có bổn phận phải làm, phải thi hành, phải vâng theo.
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, luôn có sự xung khắc giữa quyền bính và sự vâng phục trong nhiều lãnh vực của đời sống. Chẳng hạn như nơi gia đình, trường học, nhà máy, chính quyền và có khi ngay cả nơi Giáo Hội, là gia đình của Thiên Chúa.
Riêng với chúng ta, những người có bổn phận phải vâng nghe, chúng ta hãy coi những người ra lệnh hay chỉ dẫn là những người có khả năng và hiểu biết hơn chúng ta. Nhất là đối với cha mẹ trong gia đình.
Như chúng ta cũng đã thấy cha mẹ là những người thay mặt Chúa để nuôi dưỡng giáo dục chúng ta, vì thế dưới một góc độ nào đó, thì vâng lời cha mẹ cũng chính là vâng lời Chúa. Nhờ lời chỉ bảo và hướng dẫn của các ngài, chúng ta sẽ trở nên những con người tốt lành như ca dao đã bảo:
- Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Qua câu chuyện Chúa Giêsu kể hôm nay, người con thứ nhất nói là mình không đi làm, nhưng sau anh đã nghĩ lại và đã vâng theo lệnh cha. Còn người con thứ hai nói làmình sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Thật là tuyệt vời nếu như có người con thứ ba nói rằng: Con sẽ làm hay con sẽ cố gắng làm và thực tế là anh đã chu toàn công việc người cha trao phó.
Chính Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta bởi vì Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết chu toàn thánh ý Chúa, nhất là khi thánh ý ấy được biểu lộ qua những lời chỉ dạy và hướng dẫn của cha mẹ, của những người bề trên chúng ta hay không?
32. Thánh ý Chúa
Với lời mời gọi: Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha, chúng ta cùng nhau xét lại thái độ của chúng ta đối với thánh ý Thiên Chúa.
Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta.
Rất có thể khi nghe biết được lời mời gọi ấy, chúng ta đã mau mắn xin vâng, nhưng rồi sau đó lại chẳng hề làm điều Chúa truyền dạy. Chúng ta chỉ nói mà không làm, chỉ ước muôn mà không dám chấp nhận mạo hiểm và dấn thân. Đó là trường hợp của người con thứ trong dụ ngôn, tượng trưng cho các thượng tế và kỳ mục.
Cũng có thể là khi nghe biết được lời mời gọi của Chúa, chúng ta đã từ chối, nhưng rồi sau đó chúng ta hối hận, nên đã đi làm. Đó là trường hợp của người con trưởng, tượng trưng cho những kẻ thu thuế và gái điếm.
Khi so sánh các thượng tế và kỳ mục cới những kẻ thu thuế và gái điếm, mà chân lý lại thuộc vào hạng người thứ hai này, thì rõ ràng cuộc đấu tranh giữa Chúa Giêsu và giai cấp lãnh đạo tôn giáo thời báy giờ đã đi tới chỗ quyết liệt.
Qua đó chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu rất ghét sự giả hình của những kẻ nói mà không làm: họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, hay làm ngược lại những gì mình đã nói: họ nói vậy mà không phải vậy đâu. Đồng thời Ngài luôn yêu thích sự thành thật của những người làm theo ý muốn Chúa Cha..
Đây không phải là lần thứ nhất Chúa Giêsu để cao giá trị của việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Ngài cũng đã từng khẳng định:
- Không phải những ai nói rằng lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, chỉ những ai chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đấng ngự ở trên trời, thì mới được vào mà thôi.
Các thượng tế và kỳ lão đã làm rất nhiều việc, nào là cầu kinh, nào là dâng tiến lễ vật, nào là chăm sóc và hướng dẫn cộng đoàn Dân Chúa, không thể trách cứ họ được điều gì trong việc tuân giữ lề luật. Về phương diện này, họ là những mẫu gương sáng chói.
Thế nhưng, họ có thực sự làm những việc ấy vì Chúa và cho Chúa không? Các việc ấy có giúp họ tìm kiếm và thức thi thánh ý Chúa không? Hay chỉ giúp họ tìm kiếm chính mình, tạo cho họ niềm tin vào công đức của mình mà chểnh mảng với những đòi hỏi của lời Chúa, đó là sám hối và tin vào Phúc Âm, đó là thực thi những lệnh truyền của Tin mừng.
Họ có thể trung thành với mọi hình thức tôn giáo, nhưng lại không làm theo ý muốn của Chúa. Do đó, truớc mặt Chúa, họ chẳng làm được việc gì.
Trái lại, kẻ thu thuế và gái điếm, khi đã tin nhận Chúa Giêsu và đón nhận sứ điệp của Ngài mà trở về cùng Thiên Chúa, thì họ thực sự là những người đã làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Hậu quả là họ sẽ được vào Nước Trời trước những vị kia.
Với chúng ta thì sao? Ngày hôm nay, Chúa muốn nói gì với tôi và tôi phải làm gì để đáp trả lời mời gọi của Chúa?
Như những người đi rừng phải chú ý tới những tiếng động hết sức nhỏ, nhờ đó biết được sự có mặt của một người hay một vật nào khác. Cũng vậy, tôi phải chú ý tới những tín hiệu rất nhỏ mà Chúa gửi đến qua những người tôi gặp gỡ, qua những biến cố xảy ra chung quanh tôi.
Tôi tìm dấu chân Ngài và tôi lắng nghe tiếng nói của Ngài trong những sự việc rất tần thường của cuộc sống. Tôi không cần phải lìa bỏ thế gian để đi tìm kiến Chúa, bởi vì Ngài có mặt ở đó, ngay giừa lòng cuộc đời chúng ta.
Người không đòi hỏi tôi phải làm những công việc rạng rỡ. Như các thượng tế và kỳ mục, có thể tôi đã làm rất nhiều, nhưng lại bỏ qua một việc chính yếu, đó là thực thi công bằng bác ái.
Như thánh nữ Têrêsa, tôi muốn đi trên con đường nhỏ, tôi muốn làm những công việc tầm thường một cách phi thường vì lòng yêu mến Chúa. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở thành những con én, góp phần làm nên mùa xuân của Giáo Hội, hay trở thành những Têrêsa nhỏ, làm mưa hoa hồng xuống cho nhân loại.
33. Nói làm
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con: Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha. Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết: người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.
Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pharisêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất”: nói mà không làm.
Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pharisêu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pharisêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi được Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy: những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.
Chúng ta biết: từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói: “Ăn vóc học hay”: ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng dựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì lấy gì minh chứng cho sự hiểu biết ấy? Biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗ trợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xã hội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.
Câu nói: “Năng thuyết bất năng hành”: hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn cần phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.
Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hay là “chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?
34. Biết nhìn lại mình
Một trong những khả năng độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người là khả năng hồi tâm. Nghĩa là con người biết nhìn lại những lời nói hay những việc làm của mình. Nhìn lại để thấy đâu là những điều tốt cần phát huy và đâu là những điều chưa tốt cần phải sửa chữa.
Người con thứ nhất trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay, đã biết sử dụng một cách tuyệt vời khả năng ấy. Lúc đầu khi nghe người cha kêu đi làm vườn nho thì nó trả lời: "Con không đi. Nhưng sau đó nó đã biết hối hận và đi làm". (Mt 21,29). Ngược lại đứa con thứ hai thì nhanh chóng đáp lời cha. Tuy vậy, đáng tiếc là nó lại không đi.
Hình ảnh đứa con thứ nhất Chúa Giêsu muốn nói đến là những người được coi là tội lỗi nhưng biết thật lòng ăn năn sám hối. Còn hình ảnh đứa con thứ hai chính là những thượng tế và các kỳ lão trong dân Do thái thời ấy. Bên ngoài thì họ làm ra vẻ rất ngoan ngoãn. Nhưng thực chất họ không những không đón nhận những lời chỉ dạy của các tiên tri mà cũng chẳng đón nhận Người cũng như những lời dạy bảo của Người. Đến nỗi một lần nọ Chúa Giêsu đã nói: "Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác,và nói:"Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi." (Mt 11, 16-19).
Chúng ta thường nghe nói: "Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại". Cho nên Chúa Giêsu đã tuyên bố với các ông ấy: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21, 31b). Bởi lẽ: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21). Như thế, không phải là Chúa Giêsu nhượng bộ hay dung túng cho những người được coi là tội lỗi này. Nhưng quan trọng là vì họ đã biết hối hận, sửa đổi lại cách sống sai trái của mình.
Là con người yếu đuối không ai là không có những lần sai lỗi. Điều quan trọng là sau những lần lầm lỗi đó chúng ta có biết nghe lời Chúa để quay đầu lại hay không. Augustinô là một trong những mẫu gương sống động cho chúng ta.
Hãy biết trân trọng và sử dụng sao cho có hiệu quả ơn độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người chúng ta. Đó là khả năng hồi tâm và biết sửa đổi.
35. Không và có
Một chàng thanh niên đang đi kiếm mấy món hàng cần dùng trong siêu thị, anh để ý thấy một bà cụ cứ chăm chú nhìn mình. Thoạt tiên, anh phớt lờ, nghĩ rằng chẳng có gì và tiếp tục đi kiếm hàng. Khi anh đến quầy tính tiền, lại gặp bà cụ đang đứng ở đó. Anh lịch sự nhường cho bà đứng xếp hàng phía trước anh. “Xin cậu thứ lỗi”, bà nói, “Tôi thành thật xin lỗi đã nhìn chăm chú vào cậu, vì trông cậu rất giống người con trai của tôi vừa mới qua đời”. Động lòng trước bà cụ đáng thương, chàng thanh niên nói: “Thật đáng tiếc, má à. Con có thể làm được gì để giúp má không”? Bà cụ mỉm cười trả lời: “Cậu biết cái gì làm cho má cảm thấy an ủi hơn không? Con trai của má thường đi sắm đồ chung với má. Khi má ra về, cậu ấy thường nói: “Tạm biệt, Má”, Cậu có thể nói như vậy giống như con trai của má đang đứng ở đây với má thêm một lần nữa được không?” - “Được chứ, con rất vui vẻ nói mà, đâu có sao!” chàng thanh niên đơn sơ trả lời.
Sau khi gom tất cả mọi món đồ từ quầy tính tiền đặt vào bao, bà cụ ra về. Chàng thanh niên lớn tiếng chào, “Tạm biệt, Má!” Bà cụ mỉm cười, quay lại vẫy tay từ biệt. Rồi chàng thanh niên lấy những món đồ đã chọn từ trong giỏ để lên quầy tính tiền. Cô thâu ngân tính toán, rồi đưa hóa đơn cho anh. Tổng cộng là 140 đôla. Chàng thanh niên giật mình: “Xin lỗi cô, cái hoá đơn đâu có đúng. Tôi chỉ mua có vài món hàng. Nó chưa đến 25 đôla”. Cô thâu ngân liền đáp: “Má của anh đã nói với tôi rằng anh sẽ trả cho bà mà”. Chàng thanh niên lịch sự đã không biết đến những khía cạnh phức tạp, đen tối của trái tim con người. Ngay cả những người già cũng có thể lừa đảo bằng những lời gian dối quanh co!
Con người là tạo vật phức tạp. Phức tạp trong trái tim. Phức tạp trong đời sống. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói lên sự phức tạp trong trái tim con người qua dụ ngôn hai người con. Người cha thương lượng với hai anh em về việc đi làm trong vườn nho. Một người từ chối không đi làm, nhưng đã đi. Người kia chấp nhận đi làm, nhưng lại không đi!
Trong cuốn “The Cultural World of Jesus”, John J. Pilch nói rằng một nhà truyền giáo ở Trung Đông đã thường dùng dụ ngôn hai người con để chia sẻ Phúc Âm với những người dân làng nơi ông đến thăm viếng, và hỏi họ: “Người con nào tốt hơn?” Đại đa số đã trả lời người con thứ hai thưa vâng nhưng đã không đi làm vườn nho là người con tốt hơn. Sự trả lời của người con này đã làm vinh danh và kính trọng người cha. Đây là điều người cha muốn được nghe. Đối với người Trung Đông, danh giá là chủ yếu, còn việc người con có đi làm hay không chỉ là vấn đề phụ thuộc.
John Pilch nói tiếp: “Hãy nhớ rằng đời sống ở Trung Đông là đời sống cộng đồng. Giá trị chủ yếu của nền văn hoá này là danh giá cần phải được công bố công khai. Câu chuyện đối thoại giữa người cha và hai người con trong dụ ngôn này không xảy ra ở nơi riêng tư, nhưng ở nơi công cộng, dưới sự quan sát và lắng nghe của nhiều người trong làng. Giống như con cháu của họ ngày nay, những người dân làng Trung Đông trong dụ ngôn ưa thích người con biết kính trọng người cha mặc dù không vâng lời hơn là người con bất kính nhưng vâng lời”.
Trong nền văn hoá Trung Đông, đối với John Pilch, danh dự của người cha được quần chúng xác nhận qua lời tuyên bố công khai của con cái. Người con thưa vâng đã trả lời một cách kính trọng, và trong sự phán đoán của quần chúng, lệnh của người cha có giá trị, danh dự của ông được bảo vệ. Ngược lại, người con thưa không đã phỉ báng và công khai hạ nhục uy tín của người cha. Nhưng John Pilch cũng xin lưu ý ở điểm này: “Chúa Giêsu đã không hỏi người con nào thể hiện danh giá của người cha? Người hỏi: “Người con nào đã làm theo ý muốn của người cha?” Những người Trung Đông hiện đại cũng chấp nhận phán đoán của khán giả lắng nghe lời Chúa: “Người con thứ nhất”, là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Họ nhìn nhận tầm quan trọng của sự vâng lời, nhưng cũng coi trọng cả danh dự nữa”.
Sự phức tạp trong dụ ngôn này là điều rắc rối trong trái tim của con người. Người con thứ nhất thật lòng không muốn đi, thưa không, nhưng nghĩ lại đã ân hận vì làm sỉ nhục danh giá của cha, đành đổi ý, ra đi làm việc. Còn người con thứ hai chỉ muốn giữ danh giá bề ngoài cho cha, thưa vâng cho qua chuyện, rồi không giữ lời hứa. Hứa bằng lời nói thôi cũng chưa đủ, phải có hành động cụ thể.
36. Không và có
Một linh mục phó xứ quyết định mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa nhật. Sau thánh lễ 8 giờ sáng, ngài yêu cầu giáo dân ở lại để trình bày ý tưởng về nhóm học Thánh Kinh. Sau khi cắt nghĩa chương trình, ngài hỏi, “Quý ông bà anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên mở khoá học Thánh Kinh trong họ đạo vào mỗi tối Chúa nhật không?” Có tất cả 54 người giơ tay đồng ý, tán thành ý tưởng đạo đức này. Sau đó, trở về nhà xứ, ngài trình bày với cha xứ về sự hưởng ứng nhiệt liệt của giáo dân đối với dự tính của ngài.
Cha xứ đã lắng nghe, rồi nhẹ nhàng nói: “Có lẽ cha nên đặt lại câu hỏi”. Sáng Chúa nhật tuần sau, cũng sau thánh lễ, ngài xin giáo dân ý kiến, và đặt lại câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ dự buổi học Thánh Kinh tối nay?” Thật tuyệt vọng, cha phó đã đếm được bốn người giơ tay.
Đối với lời mời gọi đi làm vườn nho của Thiên Chúa, hôm nay chúng ta cũng tự hỏi mình, chúng ta là người con nào? Sự phức tạp trong tâm hồn của con người còn có thể tạo ra nhiều thái độ hơn nữa. Xin nêu lên 4 thái độ điển hình:
1. Thưa không với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã đi làm: Theo John Pilch, những người thu thuế và đĩ điếm đã có thái độ giống như người con thứ nhất. Lúc ban đầu họ đã nói không với Thiên Chúa, nhưng khi Gioan Tẩy giả rao giảng, họ đã sám hối, trở lại và hành động vui lòng Thiên Chúa.
Thánh Phaolô là một gương sáng. Khi Phaolô mới nghe biết về Chúa Kitô, về Phúc Âm và những môn đệ của Người, ông đã chống lại họ bằng mọi cách. Phaolô hoàn toàn cự tuyệt, bắt bớ và huỷ diệt Phúc Âm cùng Giáo Hội của Người. Tuy nhiên điều này hoàn toàn vô ích. Một ngày nọ, Đức Kitô đã gặp ông trên đường đi Damascus. Phaolô đã sám hối, thay đổi, và trở thành một con người mới, với trái tim và tinh thần mới. Phaolô đã sống suốt cuộc đời còn lại để thưa vâng với Thiên Chúa.
2. Thưa vâng với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã không đi làm: Theo John Pilch, các thầy thượng tế và các bậc kỳ lão Do Thái đã có thái độ giống như người con thứ hai. Họ thích tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ đã nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan tẩy giả và nhìn thấy những người thu thuế, tội lỗi ăn năn trở lại. Họ làm bộ ưng thuận bằng những lời lẽ tôn vinh và kính trọng Thiên Chúa, nhưng đã không thể hiện điều gì trong cuộc sống.
Trong cuốn tiểu thuyết “The Fall” của Albert Camus, có một cảnh diễn tả một chàng luật sư đáng kính đang bước đi trên đường phố Amsrerdam. Anh nghe rõ một tiếng kêu la giữa đêm tối. Anh nhận ra một người đàn bà đã ngã xuống đất, đang bị đẩy xuống dòng sông, và đang kêu la xin cầu cứu. Rồi những tư tưởng chợt đến trong tâm trí: “Dĩ nhiên tôi phải ra tay giúp đỡ, nhưng… một luật sư nổi tiếng lại can dự vào vụ này? Những người liên can đến vụ này là ai?..., Và sự nguy hiểm cho tính mạng mình là gì? Sau cùng, ai biết được chuyện gì đang xảy ra ở đó. Vào lúc anh đang chần chờ suy tính thì đã quá trễ. Anh tiếp tục bước đi, và tạo ra đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự thất bại, không hành động của mình. Nhưng, Camus, trong một hàng chữ bi đát đã kết luận như sau: “Anh ta đã không đáp trả tiếng kêu xin cầu cứu. Đó là con người của anh?”
3. Nhất quyết thưa không với Thiên Chúa:
Đây là loại người có thái độ cương quyết nói không với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến cuối đời, trong cả lời nói lẫn hành động. Họ sống cả cuộc đời từ chối và chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa.
4. “Con Người” luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa:
Con Người luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến phút cuối, trong lời nói cũng như hành động, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người đã dâng hiến tất cả mọi vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Người là khuôn mẫu hoàn hảo của chúng ta.
Người đã được thánh Phaolô diễn tả bằng những đoạn tuyệt vời nhất trong lá thư gửi cho tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi làm vườn nho nước trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi chúng ta một sự lựa chọn triệt để: “Để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành động nữa”. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có thái độ giống Chúa Giêsu: một tiếng “thưa vâng” trong lời nói và hành động suốt cuộc đời.
37. Có và không
Một em bé ba tuổi cả ngày nghịch ngợm không ngoan ngoãn nên bà mẹ phạt bé phải đi ngủ sớm. Chú bé bỏ vào phòng không một lời phản đối, nhưng chỉ ít phút sau, chú ta đi ra với một con thú nhồi bông, con heo đất và một ít quần áo... Thằng bé nói: "Con bỏ nhà đi đây". Ba nó hỏi: "Vậy thì con làm gì khi bị đói?" "Con sẽ về nhà để ăn". "Ồ, vậy khi hết tiền rồi con làm gì?" "Thì con về nhà xin thêm". "Vậy quần áo bẩn hết rồi con làm sao?" "Con mang về cho mẹ giặt". Nhiều người cũng vội nói, vội quyết định hoặc nói mà không làm theo đường lối của mình.
Dụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn rất dễ hiểu. Đó là câu chuyện hai người con làm vườn nho cho cha. Một người trong họ hứa đi, nhưng thay đổi không đi; còn người kia nói không đi, nhưng thay đổi ý định của mình nên đi làm. Chúa Giêsu hỏi: "Các con nghĩ sao? Ai là người làm theo ý người cha?" (Mt 21,28,31). Dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng có thể trả lời được là người con đã thay đổi ý định của mình nói không đi rồi đi làm vườn nho cho người cha.
Những người lãnh tụ tôn giáo là những người Chúa Giêsu đã hỏi họ và họ cũng biết họ khó mà chấp nhận những giáo lý của Chúa Giêsu, vì họ khó thay đổi cõi lòng để làm theo ý Thiên Chúa. Cho nên Chúa Giêsu đã phải thốt nên: "Thật ta bảo thật cho các ngươi biết những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi." (Mt 21,31) Tại sao? Bởi vì những người lãnh tụ tôn giáo tự cho mình luôn luôn đúng, không sai lầm bao giờ nên họ không cần thay đổi và tin ai khác. Nói cách khác là họ sẽ không bao giờ để Chúa thay đổi họ. Còn những người thu thuế, cao bồi du đãng và gái ăn chơi, họ nhận ra những gì họ cần phải thay đổi để sống tốt hơn trong mỗi ngày sống của họ.
Đây cũng là một bài học cho mỗi người chúng ta, vì nhiều lúc chúng ta cũng trở nên những người tự mãn. Như tự cho mình là người Kitô hữu ngoan đạo, là người biết những gì Chúa mong đợi. Chúng ta cũng dễ dàng rơi vào tình trạng là Chúa không còn gì để nói với chúng ta nữa. Và rồi chúng ta nhìn thấy mình giống như những người tự cho mình là người công chính, thượng tế và luật sĩ trong bài Phúc Ân hôm nay.
Có người biết tất cả mọi câu trả lời về mọi khía cạnh về thần học. Nhớ hết đoạn nào, câu nào trong Thánh Kinh, và tất cả những bài Thánh Vịnh một cách thuộc lòng và có thể viết lại tất cả những bài nguyện kinh ban sáng, trưa và tối không khó khăn chút nào. Nhưng chưa đủ, họ mới chỉ có nói. Họ cần thi hành Thánh ý Chúa Cha, cần đi làm vườn nho của Ngài. Sự cản trở lớn nhất cho việc Nước Chúa đến là do chính những người chỉ chuyên môn chúc tụng Chúa bằng môi miệng, nhưng không thực hành qua việc làm. Nếu chỉ bằng lời nói có thể cứu được nhân loại thì trần gian này chính là thiên đàng. Rất nhiều Kitô hữu chỉ sống đạo bằng những lời hay, tiếng tốt hơn là thi hành những điều mình nói, hoặc chỉ muốn bàn luận thật hay, nhưng không thấy hành động.
Lời Chúa chỉ có thể ăn sâu trong tâm hồn chúng ta, không phải qua những lời chúng ta nói, nhưng qua những cách thức chúng ta sống hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Những gì không tốt chúng ta thường có thói hay kêu lớn tiếng. Có như thế chúng ta mới cảm thấy những gì chúng ta cần thiết để thay đổi để chúng ta có thể đến gần Chúa hơn và xa tránh những gì làm cho chúng ta xa Chúa. Những người cảm thấy mình không cần thay đổi lại chính là những người cần phải sửa đổi nhiều nhất.
Thời đại mà chúng ta đang sống được gọi bằng nhiều tên gọi. -t năm trước đây, một triết gia cho rằng thời đại chúng ta là thời đại "có và không." Triết gia đó viết như sau: "Đây là thời đại của sự lưỡng lự, không quyết định. Vì câu trả lời của chúng ta thường nằm trong lãnh vực giữa có và không. Vả lại, chiều hướng câu trả lời của chúng ta cũng nằm giữa sự khả quyết và không khả quyết.
Trong Chúa Giêsu không có vấn đề "vâng và không". Nhưng trong Ngài luôn luôn là tiếng "xin vâng". Trong đền thánh, lúc 12 tuổi Ngài đã thưa "Vâng": Ta phải thi hành công việc của Cha Ta. Sự cám dỗ trong sa mạc: "Ta phải thực hiện ý muốn mà Đấng đã sai Ta." Giảng dạy tại Nararet: "Ta phải rao giảng sự công chính và tha thứ, cho dù họ muốn giết Ta." Trong vườn Giêtsemani: "Xin đừng theo ý Con, nhưng theo ý Cha." Trên đồi Canvê: "Xin tha cho chúng, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha."
"Vâng" lạy Chúa! Ý Chúa sẽ được thực hiện trên trần gian. Nhưng do ai? Do chúng con chăng? "Vâng," Lạy Chúa; chúng con phải thi hành thánh ý Chúa! "Vâng" lạy Chúa, chúng con phải "đi và làm vườn nho Chúa ngay hôn nay." "Vâng," lạy Chúa, chúng con phải thi hành điều Chúa dạy hơn là chúng con kêu lớn tiếng, để đáp lại điều mà Chúa dạy cho chúng con, nghĩa là chúng con phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con.
38. Kinh nghiệm trong căn phòng khách sạn
(Mark Link)
Chủ đề: "Hối cải là một tiến trình, là một cuộc du hành liên tục chỉ kết thúc vào lúc chết."
Thomas Merton mồ côi cha mẹ năm 16 tuổi. Cậu gia nhập Đảng Cộng sản năm 20 tuổi và gặp được Đức Kitô năm 23 tuổi. Đến năm 24 tuổi chàng trở thành phóng viên tờ Nữu Ước thời báo (New York Times). Năm 26 tuổi, chàng thu gom toàn bộ tài sản vào một chiếc túi vải rồi đến sống ở Kentucky và trở thành một thầy dòng chiêm niệm Trappist (Anh em hèn mọn). Trong quyển sách tự thuật về cuộc sống tâm linh rất ăn khách nhan đề "The seven storey Mountain" (Ngọn núi bảy tầng), Thomas Merton mô tả lại bước đầu tiên trong tiến trình hối cải của chàng. Ngay khi vừa tốt nghiệp Trung học, Thomas đã đi du lịch một mình qua Âu Châu và sống một cuộc sống hơi buông thả. Một đêm nọ, chính trong căn phòng chàng. Thomas bỗng nhiên ý thức được tội lỗi của mình. chàng viết: "Toàn bộ sự việc xảy ra nhanh như chớp. Bỗng dưng một nhận thức sâu xa về nỗi bất hạnh và sự hư hỏng của linh hồn mình xâm chiếm hoàn toàn thân tôi. Tôi vô cùng ghê tởm những gì tôi trông thấy… và linh hồn tôi ao ước trốn thoát khỏi tất cả điều ấy một cách mãnh liệt và cấp bách mà trước đó tôi chưa hề bao giờ cảm thấy như thế".
Merton nói rằng đó là lần đầu tiên chàng đã cầu nguyện, cầu nguyện thực sự. Chàng cầu xin Chúa, Đấng mà trước đó chàng chưa hề biết, xin Ngài tự trời ngự xuống giải thoát chàng khỏi quyền lực xấu xa đã cầm giữ tâm hồn chàng trong vòng nô lệ.
Câu chuyện về Thomas Merton minh hoạ về sự hối cải của người con thứ trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay. Đồng thời nó cũng minh họa cho sự hối cải mà tiên tri Êdekien nhắc đến trong bài đọc thứ nhất hôm nay.
Điều gì đã khiến cho người ta hối cải giống như trường hợp của đứa con thứ trong Phúc Âm hôm nay, hay giống như Thomas Merton trong câu chuyện trên?
Cách đây nhiều năm, các lý thuyết gia chính trị thường phác thảo những bước cần thiết cho một cuộc cách mạng trong một nước.
Bước thứ nhất là tạo ra tâm lý bất mãn tận căn nơi dân. Bởi vì thiên hạ chỉ nghĩ đến việc đổi thay nếu họ cực kỳ bất mãn với tình cảnh hiện tại của họ. Điều này cũng đúng xét về bình diện từng cá nhân. Người ta chỉ lưu tâm thay đổi cuộc sống riêng khi nào họ bất mãn với hiện trạng cuốc sống ấy. Chúng ta thấy rõ điều này trông trường hợp của Thomas Merton. Chàng đã bất mãn sâu xa với cuộc sống mình. nói cách khác, bước đầu tiên trong tiến trình cải tà là bất mãn với cuộc sống của chính mình. "Bước nảy lửa" trong đời Thomas Merton chính là điều chàng kinh nghiệm được trong căn phòng khách sạn của chàng. Nói theo ngôn ngữ thần học, đó là lúc ân sủng Chúa tuôn xuống.
Bước thứ ba là thực hiện một điều cụ thể đầu tiên hướng về một cuộc sống mới. Chúng ta cũng thấy điều này nơi cuộc đời Thomas Merton. Ngay sáng hôm sau, sau khi có được cái kinh nghiệm đã xảy ra trong căn phòng khách sạn, Thomas Merton đã đi bộ ra ngoài ánh nắng ban mai. Tâm hồn ngài tan nát vì đau đớn và ăn năn. Nhưng đây là một cảm giác tốt đẹp, giống như cái nhọt được bác sĩ dùng dao giải phẫu.
Dù chưa phải là người Công giáo, Merton vẫn đi đến một nhà thờ quì gối xuống và chậm rãi đọc kinh Lạy Cha với tất cả niềm tin của mình. Sau khi cầu nguyện xong, Merton trở lại dưới ánh nắng mặt trời. Chàng cảm thấy như được tái sinh. Trông thấy một bức tường thấp bằng đá, Merton liền ngồi xuống trên đó lòng hân hoan trong niềm an bình tâm hồn mới tìm gặp được. Trước đây chưa bao giờ Merton có được sự an bình như thế.
Merton vẫn còn quãng đường dài phải bước trước khi hoàn tất cuộc hối cải của chàng. Tuy nhiên chàng đã bắt tay làm một việc đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới. Cần phải ghi nhớ rằng tất cả chúng ta vẫn còn lữ hành trên đường hướng về sự hối cải trọn vẹn. Chẳng hạn, trong chúng ta có một số người cần phải chiến đấu để từ những Kitô hữu bình thường trở thành Kitô hữu tốt, một số khác cần phải cố gắng từ những Kitô hữu tốt trở thành những Kitô hữu xuất sắc. Và số khác nữa thì cố gắng từ những Kitô hữu xuất sắc trở thành kitô hữu gương mẫu.
Khi bình luận về cuộc du hành bất tận của người kitô hữu hướng về sự hối cải trọn vẹn, một thần học gia thế kỷ 19 người Đan Mạch tên là Soren Kierkegaard đã nói: "Không hề có tình trạng đã thành một kitô hữu mà chỉ có tình trạng đang trở thành một kitô hữu"
Như thế, sự hối cải là một tiến trình, là một cuộc du hành đang tiếp diễn và chỉ chấm dứt khi nào chúng ta chết.
Bước thứ nhất trong cuộc du hành này là sự bất mãn tận căn với nếp sống hiện tại của chúng ta. Hãy nhớ lại Merton đã bất mãn với cuộc sống mình như thế nào.
Bước thứ hai là bước tia lửa làm thành ngọn lửa thúc giục chúng ta phải làm một điều gì đó cho cuộc đời mình. hãy nhớ lại cảm nghiệm trong căn phòng khách sạn của Merton.
Bước cuối cùng là thực hiện việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới. Hãy nhớ lại Merton đã tới nhà thờ để cầu nguyện ngay sáng hôm sau khi xảy ra cảm nghiệm trong căn phòng khách sạn.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá ra cuộc sống của mình. Chúng ta có cảm thấy bất mãn về mối tương giao hiện tại giữa mình và Chúa Giêsu không? Chúng ta có ao ước thân tình sâu sắc hơn với Chúa không? Chúng ta có muốn yêu thương gia đình láng giềng chúng ta nhiều hơn giống như Chúa Giêsu yêu thương họ không?
Nếu có thì các bài đọc hôm nay có thể ví như tia lửa bật ra để biến thành ngọn lửa mà chúng ta cần thiết phải có để làm nên một điều gì cụ thể cho các mối tương giao nêu trên.
Có lẽ việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng hướng về cuộc sống mới là ra trình diện để được chữa lành trong Bí tích Cáo giải; là bắt đầu bỏ giờ ra nhiều hơn cho việc cầu nguyện, là lưu tâm đến một số vấn đề gia đình, chẳng hạn như tính hay nóng nảy với con cái, đồng thời cầu xin Chúa Giêsu giúp chúng ta làm một điều gì đó cụ thể ngay tức khắc để lướt thắng khó khăn ấy.
Đây là lời mời gọi hướng đến đức tin mà chúa ngỏ với mỗi người chúng ta đang hiện dịên nơi đây qua các bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
Ôi giọng nói của Chúa Giêsu,
Xin hãy kêu gọi chúng tôi,
Khi chúng tôi lạc bước quá xa Ngài.
Ôi đôi mắt Chúa Giêsu,
Xin hãy mỉm cười nhìn chúng tôi
Khi chúng tôi cần Ngài khích lệ
Ôi đôi tay Chúa Giêsu,
Xin hãy xức dầu cho chúng tôi
Khi chúng tôi yếu đuối mệt mỏi.
Ôi cánh tay Chúa Giêsu,
Xin hãy nâng đỡ chúng tôi
Khi chúng tôi vấp ngã.
Ôi trái tim Chúa Giêsu,
Xin hãy giúp đỡ chúng tôi yêu thương nhau
Như chính Ngài đã yêu thương chúng tôi.
39. Thức tỉnh trở về
(Lm. Nguyễn Bình An)
Trên đường tu đức, ai cũng ham đọc sách của Thomas Merton. Cha đã khai sáng một lối suy tư mới để cân bằng, cảnh tỉnh và thăng tiến đời nội tâm. Trong tác phẩm "Ngọn núi bẩy tầng" (The Seven Story Mountian) Thomas Merton đã diễn tả ơn trở về đặc biệt của chính bản thân.
Lúc 20 tuổi, Merton gia nhập đảng cộng sản và du lịch Âu châu. "Bỗng một đêm ở Paris, tôi nhận ra cái tình trạng tồi tệ, khốn quẫn và man dại của mình trong cơn ác mộng. Tôi bị quỉ dữ săn đuổi và cố chạy trốn! Càng chạy càng mắc và càng lâm nguy. Thức giấc trong kinh hoàng và ướt đẵm, tôi quì xuống khẩn cầu. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi tha thiết nguyện xin. Những mong Thiên Chúa giải cứu khỏi sự dữ đang kìm kẹp và đe doạ tôi. Thiên Chúa đã ra tay thị uy và tạo cơ hội cho tôi trở về". Khi 23 tuổi, Merton đã tin nhân và suy phục Chúa. Anh làm phóng viên cho tờ Nữu Ước Thời Báo. Và lúc tròn 26, anh giã từ nghề nghiệp, bố thí gia sản, rồi dồn những đồ tùy thân vào một túi vải, gõ cửa xin gia nhập dòng Trapist tại Kentuckty. Chúa đã chuyển hóa một thanh niên hoang đàng thành một thầy dòng khổ tu. Thật lạ lùng!
Không hài lòng với bản thân, nổi loạn với cha mẹ, chống cưỡng quyền bính, và tranh đấu cho công bằng xã hội, chúng ta thường có hai phản ứng tương khắc. Một là dấn thân xây dựng cơ cấu và thế hệ mới, cải tiến gia đình, học đường và xã hội. Đây là con đường đoan chính và thánh thiện mà lịch sử Giáo Hội còn ghi đậm những nết son đặc thù của một Phaolô, Augustinô, Inhaxiô, Phanxicô. Hai là bất mãn, chống đối, làm loạn, thủ tiêu và trả thù theo thuyết "thần học giải phóng". Thuyết này đã được phái vô thần áp dụng tuyệt mức. Họ cấy thù hận vào tâm não; dùng tra tấn, đàn áp và tù tội làm chính sách; lấy thủ tiêu, bỏ đói và tra tấn làm phương tiện. Kết quả là có nhiều tâm hồn thất vọng, chán chường.
Sống bất an và bất hạnh, Merton quyết tung cánh chim tìm về tổ ấm và ra khỏi ngõ cụt của văn hoá sự chết. Merton được cải tử hoàn sinh qua ba giai đoạn. Một là ý thức quá khứ lỗi lầm và hướng thiện. Hai là cương quyết thăng tiến và thay đổi. Ba là dấn thân sống lý tưởng và hành hiệp trượng nghĩa. Đây là ba chặng chuyển hướng quan trọng, phải theo đúng nếu muốn cải tử hoàn sinh. Merton, Phaolô, Mai Đệ Liên, Augustinô... đã thành công và trở thành những "tín hữu thật" theo quan niệm của Soren Kierkegaard "Chưa có một tín hữu thật sự trên đời, mà chỉ có tiến trình trở thành một tín hữu". Quả vậy tâm tình "ngại núi e sông" đang trói chặt chúng ta. Vì thế chúng ta còn tiếc xót đời tiện nghi, ấm cúng, hạnh phúc, chưa đeo nổi túi vải lên vai và vui bước lên đường.
Phúc Âm hôm nay tra vấn, thức tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi giấc mơ tầm thường của thế tục. Bạn nghĩ sao? Cải tử hoàn sinh để nhập vương quốc nước trời hay lết lê kiếp sống tai bay vạ gió và miệt mài với cảnh nay còn mai mất!!
40. Nó hối hận và đi làm
(Lm. Nguyễn Tiến Huân)
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lấy ví dụ người cha có hai con. Ông đến nhờ đứa thứ nhất đi làm vườn cho ông. Nó trả lời rằng nó không đi, nhưng rồi sau đó nghĩ lại hối hận, nó lại đi. Ông nhờ đứa thứ hai, nó trả lời nó sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Sau đó, Chúa Giêsu hỏi các Thượng tế và Kỳ lão Do thái: "Ai trong hai người con đó đã làm theo ý cha mình" và họ đáp "người con thứ nhất" (Mt 21,31).
Chúa Giêsu dùng chính câu trả lời của họ mà kết luận về chính họ: "Tôi bảo thật các ông, người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21,31). Tại sao vậy? Tại vì họ cũng giống như người thứ hai, biết ý cha mình muốn và ngoài miệng thì trả lời là làm theo, nhưng thực sự thì không. Họ là "những kẻ chỉ mến Chúa bằng môi, bằng miệng, còn lòng thì ở xa Người" (Mt 15,8). Mà những kẻ chỉ mến Người bằng môi bằng miệng mà không thực hiện ý Người thì không thể vào Nước Trời: "Không phải chỉ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Cha" (Mt 7,21)
Họ như cây vả xum xuê cành lá bên ngoài, nhưng không có trái là việc làm tốt, nên bị nguyền rủa (Mt 21, 18-19). Họ là những kẻ mà Chúa Giêsu đã ca thán: "Tại sao các ngươi kêu với Ta "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà điều Ta nói, các ngươi lại không làm?" (Lc 6,46).
Gioan đến với họ trong đường công chính và bề ngoài thì họ kính nể Gioan bởi nếu không, thì sẽ bị dân chúng ném đá (Lc 20,5-6), nhưng trong lòng thì không tin ngài (Mt 21,32). Trái lại những người thu thuế và gái điếm vẫn bị coi là kẻ tội lỗi, thì như người con thứ nhất, biêt "hối hận và đi làm" (Mt 21,29)
Thực vậy, khi Gioan rao giảng thì những người thu thuế đã thống hối xin chịu thanh tẩy và còn hỏi cho biết việc phải làm: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?" (Lc 3,12) "Họ đã chấp nhận Thiên Chúa công minh, còn Biệt phái và Luật sĩ đã khinh màng ý Chúa" (Lc 7,29). Khi cầu nguyện với Chúa, thì ngược hẳn với thái độ kiêu ngạo khoe khoang của Biệt phái, họ "Đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội". (Lc 18,9-14). Họ biết thực hiện lời Chúa phán mà "bố thí nửa phần gia tài cho kẻ khó và nếu có gian lận ai thì đền gấp bốn".
Còn những nguời gái điếm như người phụ nữ trong Luca 7,37-49 hay Maria Madalena trong Luca 8,2, và bọn Biệt phái khinh khi kẻ tội lỗi (Lc7,39), đã biết thống hối cải thiện đời sống theo ý Chúa muốn: "Họ đã tin Người. Còn các ông (Biệt phái), sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin Người". (Mt 21,32).
"Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác thì nó phải chết: chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi và thực thi công chính thì nó sẽ được sống" (Ezekiel 18,26-27- Bài đọc I) Đó là điều chúng ta cần phải suy nghĩ và đem ra thực hành trong đời sống Công Giáo của chúng ta.
Lạy Chúa, tuần này con quyết vừa vâng nghe vừa làm theo thánh ý Chúa để đáng là đức con hiếu thảo tận tình của Chúa.
41. Nguy cơ tự mãn
(JB. Nguyễn Minh Hùng)
"Các ông nghĩ sao?". Ngay từ đầu câu chuyện, Chúa Giêsu đã đưa ra lời hỏi đột ngột như một lời thẩm vấn buộc người nghe phải động não, phải tự đặt vấn đề cho mình. Có thể nói lời hỏi đột ngột của Chúa Giêsu như muốn gây giật mình, cùng lúc lôi cuốn sự chú ý của người nghe vào trong câu chuyện mà Người sắp nói nhằm giúp họ tra xét chính bản thân họ.
"Các ông nghĩ sao? Người kia có hai con trai". Cả hai con trai đều được ông sai đi làm vườn nho. Nhưng các con của ông sao mà tính khí bất định, để rồi tiếng vâng mà thực là không, tiếng không lại là vâng. Đứa thứ nhất trả lời không, cuối cùng đi làm. Đứa thứ hai trả lời có, cuối cùng bất tuân. Dù tính cách và những câu trả lời của những người con bất định đến thế, nhưng theo mạch văn của Tin Mừng, đối với Chúa Giêsu, hình như cái làm cho chúng trở nên đúng hay sai, tốt hay xấu, không thuộc về tính cách và càng không phải là lời những người con ấy nói, nhưng là rốt cuộc chúng làm hay không làm theo ý của cha mình.
"Các ông nghĩ sao?". Nếu ngày xưa Chúa hỏi những người đương thời như thế, thì hôm nay lời ấy cũng sẽ là lời tra vấn chúng ta. Hay nói cách khác, Chúa cũng sẽ hỏi bạn và tôi: "Các con là loại người nào trong hai người con trai kia?". Dù trong ta, có thể có cả hai thái độ của hai người con, nhưng hôm nay, chúng ta nói đến người con thứ hai, qua đó xét lại thái độ sống đức tin của mình.
Chắc chắn không ai là không ủng hộ, đồng tình với việc giữ đạo từ nhỏ đến lớn, ủng hộ việc thường xuyên lãnh bí tích, thường xuyên dự lễ, đọc kinh... Nếu ai sống đạo được như thế, thực sự họ đã là những người ngoan đạo. Nhưng cái được coi là ngoan đạo của những người ngoan đạo ấy, nếu không để ý, có khi đẩy ta rơi vào một thái cực khác khá nguy hiểm: chỉ sống đạo theo thói quen. Việc giữ đạo lâu ngày trở thành một cái khuôn, chỉ cần rập khuôn theo là đủ, hoặc sự sáo mòn từ ngày nay qua ngày khác làm ta cảm thấy mình không sai luật, không lỗi bổn phận, và cuối cùng, không thấy cần phải sám hối ăn năn, vì không biết mình có phạm tội gì để ăn năn hay không? Từ đó sinh ra một thái độ khác càng tệ hại hơn nữa: thái độ tự mãn, tự kiêu, tự đắc thắng. Đó cũng chính là thái độ tự phong mình làm "thánh", dù không nói ra thành lời. Nếu điều này có thật thì thật nguy hiểm cho ta. Bởi vì có ai hoàn hảo đâu, chỉ vì chưa nhận ra mình bất toàn nên không hoán cải mà thôi.
Đấy chính là thái độ của người con thứ hai. Anh ta thưa với cha mình: "Vâng, thưa cha con sẽ đi làm vườn nho", nhưng lại không đi. Còn chúng ta, ai cũng đang sống trong Giáo Hội, ai cũng có thể thưa với Chúa rằng: con yêu mến Chúa, con tin Chúa, con muốn theo Chúa, nhưng trong thực tế, đời sống đạo của mình cứ ì ạch, không có gì khá hơn, không đổi mới gì và cũng không thấy mình cần phải ăn năn hối cải.
Nếu đúng là ta có một cung cách, một thái độ sống đạo tự mãn đó, chỉ biết rập khuôn theo luật, mà không có một tâm tình, một ý thức nào để cải thiện đời sống, điều đó có nghĩa là mình đang tự lừa dối chính bản thân. Nếu có lúc nào bạn và tôi thật khiêm tốn, tự kiểm điểm mình thật thành tâm, tôi nghĩ, chắc là lúc ấy chúng ta không còn dám tự mãn nữa.
Chắc bạn còn nhớ lời khen của Chúa Giêsu đối với thái độ của người thu thuế khi cầu nguyện. Anh ta đứng xa xa ở cuối nhà thờ, không dám ngước mắt lên, đấm ngực mà cầu nguyện: "Lạy Chúa tôi là kẻ có tội". Sau lời cầu nguyện ấy, anh ra về và tội của anh được tha. Thế nhưng cùng lúc ấy, cũng có một người biệt phái cầu nguyện trong nhà thờ ấy. Rất tiếc và rất đáng thương cho anh ta. Anh ta quá tự mãn, chỉ thấy nơi mình toàn điều tốt. Thái độ tự mãn ấy đã biến lời cầu nguyện thành lời khoe khoang. Làm sao một người không từng thấy mình yếu đuối, thấy mình tội lỗi lại có thể được thứ tha! Bạn và tôi cần lắm thái độ của người thu thuế nơi chính bản thân mình. Và cũng cần lắm thái độ của người con thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay: trả lời "không" với cha. Nhưng tiếng "không" lại biến thành tiếng "có" ngay sau đó. Tiếng "không" như thế vẫn đẹp rực rỡ, đẹp hơn nhiều so với tiếng "có" của người con thứ hai, rốt cuộc chỉ là một tiếng "không" vô tận. Bởi lời đáp trả dẫu có quan trọng, nhưng hành động đi liền với lời đáp trả ấy quan trọng hơn nhiều. Biết tránh thái độ tự mãn, biết nhận ra bản thân để thánh y Cha được thể hiện mới là điều quí giá vô cùng.
"Các ông nghĩ sao?". Ngày xưa Chúa hỏi những người biệt phái, thượng tế, kỳ lão như vậy. Ngày hôm nay Chúa cũng hỏi mỗi người hiện diện ở đây, từng người một rằng: "Các con nghĩ sao? Nghĩ sao về cách sống đạo của mình? Nghĩ sao về cách thể hiện đức tin? Nghĩ sao về lòng yêu Chúa mà mình phải có? Nghĩ sao về thánh ý Chúa mà mình phải thực hiện?".
"Các ông nghĩ sao?", lời đó xin gởi lại cho bạn và cho những ai thành tâm thiện ý để tất cả chúng ta cùng suy gẫm và xét đạo cách sống đạo của mình. Trên hết mọi sự, bạn và tôi hãy để Lời Chúa tra vấn mình: "Các con nghĩ sao?".
42. Tôi khám phá ba điều khác lạ
1. Bài Tin mừng hôm nay không khởi đầu như thường lệ bằng câu: "Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng", nhưng: "Khi ấy Đức Giêsu nói với các Thượng tế và các trưởng lão trong dân rằng".
Vào thời Đức Giêsu, các Thượng tế và trưởng lão đại diện cho toàn thể giới lãnh đạo tôn giáo và xã hội Do Thái. Họ cho mình là rường cột của niềm tin chính thống và nền tảng của xã hội. Đức Giêsu đồng hoá họ với người con trưởng: Nói mà không làm.
2. Đức Giêsu đảo lộn trật tự tôn giáo và xã hội. Ngài đồng hoá những người thâu thuế và các cô gái điếm với người con thứ hai: Ban đầu từ chối, nhưng sau đó hối hận và làm theo ý cha mình.
Bài Tin mừng không thuật lại phản ứng của những người đối thoại với Đức Giêsu. Nhưng sự so sánh của Ngài phải nói là rất táo bạo, phải được gọi là một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn bậc thang giá trị: Hạ giới lãnh đạo, hạ những người chốp bu xuống và nâng những người tội lỗi, nâng hạng người bị xã hội khinh thường lên.
3. Người Cha là chủ vườn nho. Ông không sai những đầy tớ, những người làm công lao động trong vườn nho của mình, nhưng sai chính những người con.
Ba điều khác lạ trong bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta, những kitô hữu của ngàn năm thứ ba, sống Lời Chúa thế nào?
1. Đức Giêsu muốn trực diện và nói thẳng với mỗi người chúng ta: Không phải mang nhãn hiệu kitô hữu với giấy chứng Rửa tội, không phải mỗi ngày đọc kinh, mỗi Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ là đương nhiên sẽ được giấy vào Nước Trời. Nhưng phải chấp nhận và hành động theo Tin Mừng, phải tuyên xưng và sống niềm tin, phải nối đạo với đời.
2. Mỗi thánh nhân đều có một dĩ vãng. Mỗi tội nhân đều có một tương lai. Không vì một dĩ vãng đen tối mà nằm lì trong vũng tội. Hãy noi gương những người thâu thuế và các cô gái điếm để biết lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Tin mừng và thống hối, canh tân đời sống. Không bao giờ quá trễ và phải khởi sự ngay trong ngày hôm nay.
3. Chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, là những người con được Chúa trao trách nhiệm làm việc trong vườn nho của Ngài. Mỗi người chúng ta phải rao truyền và sống Tin mừng: Trong mỗi hành động, chúng ta phải là chứng nhân của niềm tin kitô; qua mỗi lời nói, bằng mỗi câu chuyện, chúng ta phải an ủi, nâng đỡ tinh thần và chia sẻ kinh nghiệm của đức tin, cậy, mến cho nhau.
43. Biết nhận ra sai lỗi và hối hận
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Có một tâm sự như sau: Lúc tôi còn là một chàng thanh niên nhà nghèo từ miền quê lên thành phố học tập, mẹ tôi đã phải gồng gánh, chắt chiu từng đồng gửi cho tôi ăn học. Mỗi lần có dịp về thăm nhà, tôi thấy ngôi nhà ẩm thấp, nóng nảy ngày xưa vẫn không hề thay đổi. Trời tối nóng bức, mẹ tôi phải phe phẩy chiếc quạt nan cũ kỹ cả đêm. Tôi nói với mẹ: Tháng lương đầu tiên, con sẽ mua tặng mẹ cái quạt điện cho mát. Thời gian trôi qua, tôi cũng đã có việc làm, nhưng dường như tôi đã quên hẳn lời hứa với mẹ về tháng lương đầu tiên. Cuộc sống ở thành phố cứ cuốn tôi vào với dòng chảy của nó, bạn bè ngày càng nhiều hơn, các bữa tiệc ngoại giao ngày càng thường xuyên hơn, có những bữa tiệc tiêu tốn đến vài triệu.
Rồi một ngày, nhận được tin mẹ mất, tôi vội vã trở về với mẹ. Vẫn ngôi nhà đơn sơ năm xưa, mẹ tôi nằm đó, trên gương mặt còn đậm nét khắc khổ. Buổi chiều hôm ấy, khi người ta đặt mẹ vào quan tài, những người phục vụ đã không quên bỏ vào quan tài của mẹ chiếc quạt nan cũ kỹ năm xưa. Nhìn thấy chiếc quạt, tim tôi thắt lại, giật mình nhớ lại lời hứa về tháng lương đầu tiên sẽ mua tặng mẹ chiếc quạt điện. Tôi vô cùng hối hận vì đã không thực hiện được một lời hứa nhỏ bé dành cho mẹ. Kể từ đó, mỗi khi ngồi cạnh chiếc quạt điện tại văn phòng, tôi lại nhớ lời hứa năm xưa với mẹ mà lòng đau đớn.
Hối hận là gì? Thưa là tiếc nuối, day dứt về một hành động trong quá khứ, về một việc tốt có thể làm mà ta đã không làm và ước mong có cơ hội để chuộc lại sai lầm ấy.
Nếu hối hận chỉ là day dứt và tiếc nuối quá khứ thôi, thì chưa đủ ; trái lại, nó cần phải đi kèm một quyết tâm khắc phục sửa chữa sai lầm của mình trong quá khứ, đó mới là hối hận thực sự. Thiên Chúa cũng luôn chờ đợi con người nhận ra sai lầm của mình, hối hận và làm lại cuộc đời, và khi con người hối hận thực lòng, Thiên Chúa không còn xét đến quá khứ của người ấy nữa, Ngài sẵn sàng tha thứ và đón nhận người ấy như người con đi xa trở về với Cha. Những luật sĩ và biệt phái tỏ ra khó chịu khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế và tội lỗi. Họ tự cho mình là những người đạo đức, luôn chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không thực hành, xét đoán khắt khe với người khác, nhưng lại không nhìn lại bản thân mình.
Câu chuyện dụ ngôn về hai người con hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa quan tâm đến hành động hối lỗi một cách cụ thể hơn là những lời nói suông trống rỗng. Cả hai đứa con trong câu chuyện đều được cha đến tận nơi và mời gọi: Con ơi ! Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha. Đứa con thứ nhất trả lời: Con không muốn đi. Người con này, lúc đầu nó từ chối lời mời của cha nó, nó làm cho cha hụt hẫng, đau lòng vì bị từ chối thẳng như thế ; nhưng sau đó, nó hối hận và đi làm. Chắc chắn khi thấy nó vào vườn nho làm việc, cha nó sẽ quên hết nỗi đau trước đây, và ông vui mừng vì sự hiện diện thiện chí của nó. Ngược lai, Người con thứ hai đã nhanh chóng trả lời: Vâng con sẽ đi. Nó nói để lấy lòng cha nó, nhưng rốt cuộc anh ta không đi.
Câu hỏi được Chúa Giêsu đặt ra với các thượng tế và kỳ mục rằng: Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha? Họ trả lời ngay: Người con thứ nhất. Như thế, ngay câu hỏi của Chúa Giêsu đã cho thấy: Thiên Chúa như người cha trong câu chuyện, Ngài chờ đợi không phải là những lời nói ngọt ngào, dễ nghe, mà Ngài mong muốn những người con làm theo ý Ngài. Khi kể câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn so sánh những thượng tế và kỳ mục giống như người con thứ hai. Khi Đức Giêsu đến giảng dạy về giới răn, lề luật của Thiên Chúa, gửi đến họ cơ hội để gia nhập Nước Trời, bên ngoài thì họ tỏ ra như một người con hiếu thảo, nhưng thực ra, họ lại không tuân giữ giới răn và không làm theo ý muốn của Thiên Chúa, mà làm theo ý mình. Còn những người bị coi là tội lỗi như những người thu thuế và gái điếm, trong con mắt mọi người, họ như những kẻ từ chối Thiên Chúa, nhưng khi nghe những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thì họ đã mau mắn hối hận và quyết tâm thay đổi tình trạng của mình. Vì thế, Chúa Giêsu đã quả quyết với họ: Những người thu thuế và các cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và các cô gái điếm lại tin.
Đối với Thiên Chúa, quá khứ không quan trọng bằng hiện tại, việc làm cụ thể thì quan trọng hơn lời nói trên môi. Nếu chỉ dừng lại ở quá khứ để tự dằn vặt, trách mình thì sẽ chẳng ích lợi gì. Nhưng điều quan trọng là khi biết thực lòng hối hận ăn năn, thì đối với Thiên Chúa, không bao giờ là quá muộn, Ngài sẽ vui lòng và sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm và quên hết quá khứ của tội nhân. Bài đọc một, Thiên Chúa đã nói qua miệng tiên tri Ezekiel như thế: Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính mà làm điều gian ác, nó sẽ phải chết vì những điều bất chính của nó. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ sự gian ác nó đã làm, mà thi hành điều chính trực, nó sẽ cứu được mạng sống mình, nó sẽ được sống.
Thiên Chúa không muốn chúng ta nhìn Ngài như một nhà độc tài hoặc một vị thần khó tính, mà Ngài muốn chúng ta nhìn Ngài như một Thiên Chúa tốt lành, một người Cha nhân hậu. Ngài luôn đối xử với chúng ta theo lòng khoan dung của Ngài. Ngài chờ đợi tâm tình thảo hiếu của người con đối với cha, như Đức Giêsu là mẫu gương thảo hiếu, hết lòng yêu mến, vâng phục Cha. Thánh Phaolô đã nhận ra và mời gọi chúng ta noi gương Ngài: Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu-Kitô.
Tâm tình của Đức Giêsu Kitô là tâm tình nào? Đó là tâm tình yêu mến và vâng phục Thiên Chúa, vâng phục một cách tuyệt đối. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy qua bài ca: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Vì thế là môn đệ của Đức Giêsu, là con thảo của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải học nơi Đức Giêsu và phải có cùng một tâm tình vâng phục, yêu mến Thiên Chúa như Ngài.
Thưa quý OBACE, một trong những vấn đề của con người ngày nay, đó là họ làm điều tội, nhưng lại không cho là tội, làm tổn thương đến người khác mà vẫn coi như chuyện bình thường. Sự vô tâm đến vô tình ấy đã gây ra nhiều nỗi khổ cho người bên cạnh. Tình trạng ấy cũng đang xảy ra giữa nhiều người với Thiên Chúa. Họ gây tổn thương cho Thiên Chúa, từ chối lời mời gọi yêu thương của Ngài mà không hề áy náy hay hối hận. Ngoài ra, nhiều lần chúng ta không chỉ vô tình, mà còn cố ý xúc phạm đến Thiên Chúa, khi mang trên mình cái vỏ là Kitô hữu, nhưng thực ra, chúng ta từ chối giới răn lề luật của Chúa và để ngoài tai lời mời gọi của Ngài. Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở và mời gọi chúng ta, hãy can đảm nhìn vào tình trạng tâm hồn và đời sống của mình để biết hối hận ăn năn về những hành động, lời nói đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời tin tưởng vào Thiên Chúa để quyết tâm sửa chữa sai lầm. Hãy đến với Chúa nơi Bí Tích Giải tội để nhận ra sự bao dung, tha thứ của Thiên Chúa. Hãy để cho Lời Chúa soi sáng, chỉ dạy chúng ta và quyết tâm thực hành những điều Chúa muốn. Chúa đang nói với mỗi người qua Lời Chúa chúng ta nghe mỗi ngày và qua tiếng nói của lương tâm, là lời mời gọi từ trong tâm hồn mà Chúa nhắn gửi chúng ta.
Không chỉ hối hận với Thiên Chúa, chúng ta cũng cần khiêm tốn để nhìn ra những tổn thương mà chúng ta đã gây ra cho nhau: trong gia đình, với ông bà cha mẹ, với vợ chồng con cái, với bạn bè. Một lời nói, một cử chỉ nào đó có thể gây ra vết thương trong tâm hồn nhau. Hãy mạnh dạn bước đến với nhau để bày tỏ sự hối hận của mình. Trước hết, mỗi người hãy bày tỏ sự hối hận với các bậc làm cha mẹ. Các Ngài là những Đấng sinh thành, dưỡng dục chúng ta, dạy dỗ chúng ta nên người, nhưng ngược lại, khi khôn lớn, chúng ta đã không kính trọng và biết ơn các ngài cho đủ, mà có những lời nói, cử khỉ hỗn láo, khinh thường. Điều đó làm tổn thương các ngài biết bao. Hãy làm những việc cần thiết, để bày tỏ sự hốn hận của mình với các Ngài trước khi quá muộn.
Không chỉ con cái gây tổn thương cho cha mẹ, nhưng nhiều khi chính cha mẹ cũng gây tổn thương cho con cái, vợ chồng gây tổn thương cho nhau, bạn bè làm tổn thương nhau… Đối với người Châu Á, việc một người lớn nói lời xin lỗi với người bề dưới quả là không dễ, nhưng là những bậc cha mẹ hoặc những người lớn, chúng ta cũng cần xét mình lại và can đảm bước đến với con cái, với những người bề dưới để nói với họ rằng mình đã sai và cố gắng sửa chữa sai lầm. Việc làm đó không làm giảm uy tín của người bề trên, mà trái lại càng làm tăng lòng cảm phục nơi người bề dưới. Trong tương quan với bạn bè cũng thế, khi biết hối hận và khắc phục sai lầm, sẽ làm cho tình bạn ngày càng chặt chẽ hơn.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta không ngừng nhìn lại tương quan của mình đối với Chúa để biết sống trọn tình con thảo, và nhìn lại tương quan của mình với anh em để sống với nhau trong sự cảm thông và yêu thương. Amen.
44. Ghen tỵ
(Lm. Nguyễn Ngọc Long)
Các con thương,
Các con thường nghe ông bà ta thường nói: “Đánh người chạy đi chứ ai đánh người chạy lại”, nghĩa là con người có lầm lỗi to lớn thế nào đi nữa, nếu biết ăn năn hối hận thì được mọi người thương và tha thứ. Hơn nữa, họ còn được có cơ hội để làm lại cuộc đời.
Trong bài đọc thứ 1 hôm nay, tiên tri Êdêkiel cảnh báo những ai cho rằng mình đã đạo đức, đã tốt rồi không cố gắng sống tốt hơn, coi chừng ngày nào họ phạm tội thì họ cũng phải chết.
Cũng vậy, Ngài khuyến khích những kẻ gian ác hãy bỏ đi con đường tội lỗi và quay về thì sẽ được ơn tha thứ và tiếp tục sống. Nghĩa là Thiên Chúa luôn mở cho con người một tương lai, khuyến khích người xấu và người tốt ngày càng tốt hơn. Thiên Chúa không nhớ quá khứ tội lỗi của người biết hối cải. Người ta nói rằng: Thiên Chúa nhận lấy tội lỗi của chúng ta và quẳng nó xuống hố thật sâu. Người đặt một bản hiệu trên bờ hồ: “Miễn Vớt Lên”
Tục ngữ có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Trong Tin mừng các con vừa nghe, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến đời sống đạo đức thực sự, lòng đạo đức được thể hiện qua việc làm cụ thể chứ không do lời nói suông, không qua hình thức bên ngoài.
Cùng một câu nói: “Hôm nay con đi làm vườn nho cho cha nhé!”. Thế nhưng có hai câu trả lời khác nhau. - Người anh nói: “Con không đi đâu” nhưng rồi nó hối hận và đi làm; người em trả lời: “Vâng, con đi” nhưng rồi lại không đi.
Các con thương,
Điều giá trị không phải do các con nói hay, nói giỏi cho bằng làm giỏi và làm tốt.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói với các con rằng: “Các con hãy đi làm vườn nho cho Cha”! Các con sẽ trả lời với Chúa như thế nào? - Chắc các con sẽ hỏi lại: làm vườn nho của Chúa là làm những gì?
Theo Kinh thánh, dân Israel được ví như là vườn nho của Chúa. Chúa Giêsu ví “Thầy là cây nho, các con là cành nho”. Như vậy, vườn nho của Chúa là những con người: Cha mẹ, gia đình, anh chị, hàng xóm, trường học…
Khi phụ giúp cha mẹ và anh chị lau quét nhà, rửa chén, nấu cơm, giúp bà xỏ kim chỉ may áo… là các con đáp lời mời gọi làm vườn nho gia đình của Chúa.
Ở trường học, các con biết chăm chỉ học tập, vâng lời, quý mến thầy cô giáo, yêu thương giúp bạn học tập… là các con đang làm vườn nho trường học cho Chúa.
Các con đóng góp tiền để giúp nuôi bạn có điều kiện đến trường như mình; khi nuôi heo đất để xây dựng nhà tình thương cho người có hoàn cảnh khó khăn, khi sống những điều răn Chúa dạy ở môi trường hàng xóm… là các con đã tích cực làm vườn nho xã hội cho Chúa.
Đặc biệt, mỗi tuần đến nhà thờ, dự thánh lễ nghiêm trang, siêng năng chầu thánh thể, sốt sắng rước Chúa, hăng say học giáo lý… là các con đang làm vườn nho tâm hồn của Chúa.
Tất cả những công việc đạo đức thánh thiện tốt lành này không phải làm trong thời gian nào đó mà phải khiêm tốn làm trong sự kiên tri bền chí.
Trong thánh lễ hôm nay, các con xin lỗi Chúa vì nhiều lần các con như người em út trong câu chuyện, hứa với Chúa rất nhiều điều mà không thực hiện: không thưa kinh trong thánh lễ, còn nói chuyện trong nhà thờ, không thực hiện quyết tâm hy sinh mà Phong trào thiếu nhi Thánh Thể đề ra…
Xin Chúa giúp các con quyết tâm luôn biết thưa VÂNG với Chúa và kiên trì cho đến cùng.
Xin Chúa giúp các con luôn đồng nhất giữa lời nói và việc làm: “Nói thì phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay”. Amen.
45. Hành động tốt thắng câu nói hay
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Ngày nay người ta đề cao vai trò của “thế giới kỹ thuật số”. Vì thế, họ vận dụng nghành kỹ thuật này như một phương tiện tối ưu cho vấn đề quảng bá trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi nghành này phát triển, họ đã không ngừng “kỹ xảo hóa” để làm bắt mắt người tiêu dùng và khai thác sự tò mò của người dân. Từ đó, sự gian trá trong lãnh vực này cũng leo thang. Nhiều người đã bị những viên: “Thuốc đắng bọc đường” đánh lừa.
Còn trong lãnh vực cuộc sống nhân sinh, con người ngày nay cũng đang phải đối diện với thực trạng tốt - xấu lẫn lộn. Khó có thể biện phân được đâu là người chân tình; đâu là người dối trá; đâu là người xây dựng, đâu là người phá hủy! Lý do là vì họ được bao bọc bởi cái mã bên ngoài rất tinh vi, quỷ quyệt!
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra hai hạng người tốt - xấu; thật - giả thông qua hình ảnh trong dụ ngôn: “Hai người con”, để nhằm giúp cho mọi người hiểu rằng: giá trị đích thực không phải ở chỗ nói nhiều, nhưng là thi hành đúng. Không phải ở chỗ nịnh hót, mà là toàn bộ đời sống của người đó có “ngôn hành đồng nhất” hay không.
1. Ý nghĩa dụ ngôn
Khởi đi từ sách tiên tri Isaia giới thiệu về cách hành xử của Thiên Chúa như sau: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9), bởi vì: “... tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Thật vậy, đường lối của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối và tư tưởng của con người. Với chúng ta thì dễ nhìn về quá khứ và đóng khung trong đó như một định luật bất di bất dịch, hầu kết án hay khoan hồng. Nhưng với Thiên Chúa thì Người nhìn và hướng về tương lai để mong sao cuộc đời của mỗi người được tốt đẹp hơn và có cơ hội trở lại. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đạt được điều hoàn thiện lại không phải phụ thuộc vào lời nói, mà là nơi hành động.
Để làm sáng tỏ vấn đề trên, Đức Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh của hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Người thứ nhất không đi, nhưng sau lại đi. Người con thứ nhận đi, sau lại không đi.
Hình ảnh đứa thứ nhất được Đức Giêsu ám chỉ là những người tội lỗi, thấp cổ bé họng, bị xã hội ruồng bỏ. Họ cũng là những người dân ngoại, thu thuế và gái điếm, bị người Dothái khinh miệt. Vì thế, họ không dám tham gia vào công việc làm vườn của người cha, nhưng sau khi hiểu được lòng tốt của cha, họ đã sám hối, an tâm, can đảm và vui vẻ thi hành cách trung thực.
Còn đứa thứ hai là hình ảnh đại diện cho những Thượng tế, Kỳ lão, Luật sĩ và Biệt phái Dothái. Những người này luôn luôn tự hào mình là con cái Tổ Phụ Abraham, dòng dõi các Tiên tri và là những người trung thành với luật Maisen. Vì thế, cái vé vào Nước Trời là chắc chắn. Họ coi các dân tộc khác là những hạng người bị ruồng bỏ, là đứa con hoang, những hạng người như thu thuế, gái điếm thì khái niệm Nước Trời cũng không thể hiện hữu trong tâm tưởng phương chi nói gì đến ơn cứu độ!
Vì sẵn có tính tự kiêu, tự coi mình là con cưng, được ưu tuyển. Nên ban đầu, họ cũng nhận cho hài lòng người cha, nhưng vì kiêu ngạo, tự mãn, họ lại không làm. Điều này cho thấy, họ thuộc hạng người nịnh hót, nói một đàng, làm một nẻo.
Kết cục, Đức Giêsu phán: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16a); bởi vì: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31).
Đó là câu chuyện Tin Mừng thời Đức Giêsu, nhưng ngày nay, điều đó có còn không?
2. Thật giả vẫn luôn tồn tại
Chỉ cần ngồi lại để suy nghĩ một chút, chúng ta thấy hiện lên trong đầu rất nhiều tình huống thật giả, tốt xấu lẫn lộn đan xen quá nhiều. Nhất là trong lãnh vực quảng cáo. Họ tuyên truyền, thổi phồng tin tức, sự kiện để làm hấp dẫn điều muốn nói. Hay trong lãnh vực Marketing, người ta quảng bá những sản phẩm chất lượng tối ưu, bán chạy như tôm tươi, nhưng thực chất chỉ là thứ hàng giỏm, hàng giả.
Đôi khi điều đó là hành vi của những người xung quanh. Nhưng cũng không chừng, đó lại là của chính chúng ta!
“Căn bệnh giả dối” là đầu mối sinh ra những xói mòn về đạo đức, niềm tin của con người, từ đó phát sinh ra những suy thoái về giá trị tinh thần, nhất là làm lu mờ lương tâm.
Điều đáng nói là sự giả dối nó lan tràn và gần như là chuyện bình thường trong xã hội, nếu không muốn nói là nó đã trở nên ông chủ tồi chỉ đạo cuộc sống! Vì thế, nhiều khi muốn sống lương thiện cũng khó, làm người tử tế trong bối cảnh hiện nay không dễ!
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì bậc thang giá trị không còn phụ thuộc vào sự thật nữa, cán cân công lý được điều chỉnh bằng tiền, quyền. Gian dối là bình thường, thật thà lại là bất thường, là ngu dốt, là kém cỏi... Vì thế, người ta thường có câu nói mỉa mai như sau: “Chân lý, chân giò cùng một giá”; “Lương thực, lương tháng và Lương Tâm bằng nhau”.
Thật vậy, nếu ai đóng kịch giỏi và giống thì sẽ được tôn vinh, kính trọng. Trong khi đó, người sống liêm chính thì phải chịu thân phận của 8 chữ “t”: “Thật thà thẳng thắn thì thường thua thiệt”. Còn kẻ vô tài, thất đức, lẻo mồm, tâng bốc, nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm láo, báo cáo hay”.
Vì vậy, không thiếu gì cảnh: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều). Những người này thường dùng chiêu thức: “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa che lại”, vì thế, họ ưa sống hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất bên trong trống rỗng. Họ thuộc hạng người: “Khác nào quạ mượn lông công. Ngoài hình xinh đẹp trong lòng xấu xa” (Ca dao), nên không sớm thì muộn, họ bị đặt nghi vấn: “Trông anh như thể sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không” (Ca dao).
Đứng trước thực trạng như thế, chúng ta nhiều khi thông cảm với cảm thức của người Việt là thích ứng và tùy nghi. Tuy nhiên, là người Kitô hữu, chúng ta không thể sống kiểu: “Gió chiều nào che chiều đó”. Sống như thế là trái với đạo lý của Tin Mừng, nghịch với Lương Tâm ngay thẳng. Khi sống như thế, ta chẳng khác gì một cây tầm gửi, hay ký sinh trùng ăn nhờ ở đợ người khác, nên khi họ bị thất thế, ngã gục thì cũng chết theo.
Thật vậy, chúng ta có thể "lừa dối vài người mãi mãi, có thể lừa dối mọi người một lúc nào đó, nhưng ta không thể lừa dối mọi người mãi mãi được". Là người Kitô hữu, chúng ta phải nằm lòng câu nói sau: “Mất tiền là mất ít, mất người là mất nhiều, nhưng mất niềm tin là mất tất cả!”.
3. Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về đường ngay nẻo chính để được hạnh phúc, bằng không sẽ phải chết trong sự thất vọng: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình”(Ed 18, 26-27).
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta cần loại bỏ tư tưởng đạo đức giả và cho mình thuộc hàng công chính, rồi sống trong sự tự mãn, kiêu căng. Đừng mang danh là Kitô hữu nhưng thực tế không có “chất Kitô”. Luôn có tinh thần sám hối, quay trở về với Chúa. Không được có thái độ tự ti để rồi tự nhận mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để buông xuôi trong sự thất vọng.
Mong sao tất cả chúng ta, mỗi người luôn ý thức rằng mình đều là những người đang lữ hành, nên chưa phải là hoàn hảo. Vì thế: “Không hề có tình trạng đã thành một Kitô hữu mà chỉ có trong tình trạng đang trở thành một Kitô hữu” (Soren Kierkegaard).
Nếu: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt là do ma quỷ mà ra”. Thực hành lập trường “ngôn hành đồng nhất”, nếu không sẽ dễ dẫn đến tình trạng “mâu thuẫn nội tại”. Và chúng ta bị rơi vào tình trạng nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như người: “Nói thì đâm năm chém mười, đến khi tối trời chẳng dám ra sân” (Tục ngữ).
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thuộc về sự thật và trở nên chứng nhân cho sự thật, bởi vì chỉ có sự thật mới giải thoát được chúng con mà thôi. Amen.
46. Nói - Làm
(Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con: Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha. Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết: người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.
Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người "ngôn hành bất nhất": nói mà không làm.
Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông"? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi dược Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy: những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.
Chúng ta biết: từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một con đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói: "Ăn vóc học hay": ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng tựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗtrợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xãhội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.
Câu nói: "Năng thuyết bất năng hành": hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta lười biếng, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, "đức tin không việc làm là đức tin chết". Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.
Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hay là " chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người"? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?
47. “Những người thu thuế và gái điếm … sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”
I. Ý CHÍNH
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn hai người con, để trình bày về đời sống đạo đức đích thực, được thể hiện qua việc làm chứ không phải chỉ bằng lời nói suông.
II. SUY NIỆM
1/ “Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão”:
Tại đền thờ Giêrusalem (Mt 21, 23-27) nhà chức trách Do Thái, tức là các thượng tế và các kỳ lão, đòi hỏi Chúa Giêsu phải đưa ra bằng cớ để chứng minh quyền bính của Chúa Giêsu có nguồn gốc từ Thiên Chúa. Để trả lời Chúa Giêsu liền lái vấn đề sang Gioan Tẩy Giả rằng: Ủy nhiệm của Gioan Tẩy Giả từ đâu mà đến? Nếu từ Thiên Chúa, tại sao nhà chức trách Do Thái không tin theo? Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu đã nói lên dụ ngôn hai người con.
2/ “Các ông nghĩ sao…”
* Đây là kiểu hỏi để gây chú ý cho người nghe, Chúa Giêsu thờng dùng kiểu nói này nhiều lần (Mt 18,12; 22, 42). Riêng ở đây Chúa Giêsu không hỏi các môn đệ, nhưng hỏi các thượng tế và các kỳ lão.
* Người kia: Cách nói trống này có ý ám chỉ Thiên Chúa.
* Có hai người con: Ở đây chỉ nêu lên hai người con mà không xác định thêm chi tiết ai là con cả, con thứ, hoặc con nào tốt, con nào xấu. Như vậy có ý đặt hai người con trước một sự đối xử công bằng, khách quan không thiên vị, của người cha.
Khi áp dụng về hai người con này, người ta thường cho rằng hai người con đó có ý ám chỉ hai thành phần của dân Do Thái:
+ Một bên bị liệt vào số những người tội lỗi nhưng lại biết làm theo giáo huấn của Chúa, đó là các người thu thuế và gái điếm
+ Một bên là những người có vẻ công chính, nhưng lại cứng lòng không chịu tiếp nhận giáo huấn của Chúa. Đó là các thượng tế và các kỳ lão.
Cả hai hạng người này đều là con của Thiên Chúa. Ở đây không chú trọng đến tình trạng đạo đức của mỗi người con đó. Cũng không để ý tới lời nói, nhưng quan tâm đến việc họ không làm hay sẽ làm.
3/ “Hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha”
* Hôm nay, chỉ thời gian hiện tại, có giá trị như một việc cấp bách phải làm ngay, vì nó có liên hệ đến một mệnh lệnh sẽ quyết định vận mệnh của mình: “Nầy, chính bây giờ là thời đại sủng. Này chính bây giờ là ngày cứu độ” (2Cr 6,2).
* Hãy đi làm vườn nho cho Cha: diễn tả một công việc làm theo ý của Thiên Chúa.
4/ “Con không đi…”
Diễn tả một sự từ chối, bất tuân. Đây là thái độ của những kẻ tội lỗi, sống ngược với lề luật Chúa và Giáo Hội.
Nhưng sau nó hối hận và đi làm: Ở đây không nói lý do tại sao nó hối hận, chỉ đơn giản nêu lên sự kiện tốt đẹp là “hối hận” và “đi làm”. Điều này chứng tỏ sự hối hận là động lực thúc đẩy việc đi làm. Vì muốn nhấn mạnh sự “hối hận và đi làm”, nên ở đây đã kể người con này trước. Trong khi đó có một số văn bản khác, có ý dùng dụ ngôn này để ám chỉ cách rõ rệt là hai hạng người là Israel và dân ngoại đã để theo thứ tự ngược lại.
5/ “Thưa cha, vâng con đi…”
Cách thưa diễn tả một thái độ ngoan ngoãn, lễ phép của người con này.
* Nhưng nó lại không đi. Vâng theo lời nói nhưng từ chối theo việc làm: ngôn hành bất nhất, chứng tỏ một nếp sống vụ hình thức. Ở đây có ý ám chỉ đến những người cầm đầu dân Do Thái: là các thượng tế và các kỳ lão, là những người tỏ ra đạo đức, nhưng lại không làm theo lời Chúa dạy.
6/ “Ai trong hai người con đã làm theo ý cha?”
Đặt câu hỏi này, một đàng Chúa muốn cho các thượng tế phải tỏ bày nhận thức của mình về điều hay lẽ phải, đàng khác Chúa cũng muốn cho những người nghe nhận thấy rõ sự mâu thuẫn giữa các thượng tế và kỳ lão là những người giữ luật tỉ mỉ và trung tín bề ngoài, nhưng lại từ chối công việc của Thiên Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô.
7/ “Tôi bảo thật các ông…”
Lẽ tất nhiên Chúa Giêsu không nói dối cũng chẳng nói đùa mà chỉ nói thật thôi. Nhưng sở dĩ Chúa muốn nói lên như vậy là có ý nhấn mạnh một điều Ngài sắp quả quyết.
- “Những người thu thuế và gái đếm”: Đây là hai hạng người đã bị xã hội Do Thái khinh bỉ vì không giữ luật Môisen và sống trong tội lỗi.
- “Vào Nước Thiên Chúa trước các ông”: “Vào Nước Thiên Chúa trước” ở đây không có ý chỉ thời gian trước hay sau, nhưng có ý nghĩa là thay thế. Những người thu thuế và gái điếm là những người biết hối hận và tin theo giáo huấn của Chúa, nên họ sẽ chiến chỗ trong Nước Trời thay thế cho các thượng tế và các kỳ lão.
8/ “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính”
Gioan Tẩy Giả, qua đời sống đạo đức cá nhân và qua lời giảng, đã chỉ cho dân Do Thái biết những điều cần phải chu toàn để thực hiện ý Thiên Chúa, đó là đường dẫn người ta đến Đấng Cứu Thế và làm cho người ta nên công chính. Những thượng tế và các kỳ lão đã không tin theo đường đó, ngược lại những người thu thuế và gái điếm đã tin theo nhờ lời giảng của Gioan Tẩy Giả.
9/ “Còn các ông…”
Sau khi xem thấy điều đó, những thượng tế và kỳ lão đã thấy lối sống đạo đức của Gioan Tẩy Giả và đã được nghe những lời ông giảng dạy, đồng thời họ cũng đã được chứng kiến những người thu thuế và gái điếm, thế mà họ vẫn không nhúc nhích gì. Họ đã cứng lòng tới mức không lay chuyển được.
Điều này muốn nói tới những người sống đạo đức giả vụ hình thức mà không để tâm trí đến việc hoán cải đời sống và thánh hoá bản thân, mặc dù họ đã từng được nghe giảng dạy, từng chứng kiến những gương lành và những ơn trở lại của người khác.
III. ÁP DỤNG
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta có một đời sống đạo đích thực bằng cách biết lắng nghe và tuân giữ lời Chúa trong đời sống hằng ngày.
B/ Áp dụng thực hành:
1/ Nhìn vào Chúa Giêsu
a) Xem việc Chúa làm:
Chúa Giêsu đã khéo léo trình bày dụ ngôn này nhằm mục đích giúp người nghe tự rút ra kết luận (Họ đáp: người con thứ nhất) người nghe đây lại là các thượng tế và các kỳ lão mà dụ ngôn đang nhắm tới. Phương pháp trình bày dụ ngôn này cũng giống như tiên tri Nathan kể cho Davit để sữa lỗi ông (2Sm 12) hoặc dụ ngôn chủ nợ (Lc 7, 41-43). Chúng ta noi gương Chúa dùng phương pháp này trong vệc dạy dỗ hướng dẫn và cải hoá tha nhân.
b) Nghe lời Chúa nói:
- “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”: Hằng ngày, nhất là hôm nay, Chúa vẫn gọi chúng ta đi làm vường nho cho Chúa qua các việc bổn phận, các việc bác ái từ thiện:
+ Ta hãy thưa vâng rồi nỗ lực và chăm chỉ thực hiện sự vâng đó.
+ Nếu trót thưa không hoặc thưa có rồi không đi làm: hãy hối hận và đi làm
“Ai trong hai người con đã làm theo ý Cha mình”: Chúa thường đặt câu hỏi tương tự như vậy với mỗi người chúng ta, để đòi hỏi quyết định phải lực chọn cho phù hợp với tiếng lương tâm chân chính của mình.
“Những người gái điếm và thu thuế sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Chúa muốn nhắc chúng ta đừng khinh thường hay thất vọng về những người khô khan, xấu xa, tội lỗi, bởi vì sẽ có lúc họ đón nhận ơn Chúa để hoán cải và hoàn thiện cuộc sống. Bổn phận của chúng ta là phải nâng đỡ những người đó.
“Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính”: Chúa muốn cảnh giác vì chúng ta không chịu nhìn nhận những gương lành của tha nhân, đã không chịu nghe theo những lời giảng dạy của Giáo Hội, của những người trên, để hoán cải và hoàn thiện đời sống của mình.
2/ Nhìn con người biết hối hận:
Việc hối hận đổi mới con người chúng ta. Việc này không phải chỉ thực hiện một lần rồi xong nhưng vì con người chúng ta yếu đuối, chúng ta sẽ phải lập lại vệc đó suốt đời.
3/ Nhìn vào con người thưa vâng rồi không đi:
+ Chúng ta hãy kiểm điểm lại tiếng vâng của chúng ta đối với Chúa, nhất là đối với ba lời khuyên Phúc Âm.
+ Ta muốn người khác giữ lời hứa với ta. Vậy ta cũng đừng thất hứa với Chúa.
48. Nghe và làm – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Nhìn vào dàn bài tổng quát của phân đoạn gồm các chương 21 và 22, ta nhận ra đặc tính bút chiến của ba dụ ngôn Đức Giêsu kể ra nhằm biện minh cho kế hoạch của Thiên Chúa:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-32) xác định trong Israel có những người tội lỗi thực sự vì bất phục tùng.
2) Dụ ngôn Những tá điền sát nhân (21,33-43) vạch trần kế hoạch sát nhân của người Do Thái và loan báo chương trình của Thiên Chúa là sắp chuyển sứ mạng của người Do Thái cho Dân ngoại (c. 45 cho thấy rằng các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ, và như thế là gián tiếp nhìn nhận dự tính sát nhân của họ).
3) Dụ ngôn Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) gom lại các dữ kiện của hai dụ ngôn trước (từ khước vì bất phục tùng, sát hại người con trai, hủy diệt những kẻ sát nhân, kêu gọi những người khác).
Ba bài dụ ngôn này cũng được trình bày tiệm tiến (làm việc, cung cấp hoa trái, đến dự tiệc).
Dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho (20,1-16) đã nêu bật rằng Thiên Chúa không hề bị lệ thuộc hành vi con người; Ngài hoàn toàn tự do và tốt lành. Trong dụ ngôn Hai người con, Đức Giêsu cho thấy lần nữa rằng thi hành ý muốn của Thiên Chúa là một bổn phận không thể tránh né.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm ba phần:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-30);
2) Câu hỏi đặt ra cho thính giả (21,31);
3) Bài học kết thúc (21,32).
3.- Vài điểm chú giải
- Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai (28): Đức Giêsu hỏi ý kiến của các thính giả và cả các đối thủ của Người. “Người kia” tượng trưng Thiên Chúa; còn “hai người con” tượng trưng cho hai thành phần làm nên Dân Thiên Chúa vào thời Đức Giêsu: những người “tội lỗi”, không tuân giữ Lề Luật và các quy định của kinh sư, và những người “công chính” trung thành với tôn giáo chính thức, ở đây là các thủ lãnh của Dân. Cả hai bên đều được gọi là “con” của Thiên Chúa.
- nó hối hận (30): Tác giả Mt không dùng động từ “hoán cải” (metanoeô) mà là động từ metamelomai, chỉ có ở đây và ở Mt 27,3, nhưng được dùng nhiều trong Bản LXX theo nghĩa là “quay trở về với Thiên Chúa” (Ed 14,22; Tv 105,45; Xh 13,17…). Metamelomai có thể có nghĩa đơn giản là “thay đổi tâm trí, nghĩ lại”, nhưng ở đây, cũng như ở c. 32 và 27,3, rất có thể cũng có nghĩa là “hối hận”. Động từ này không có trọng lượng thần học của động từ metanoeô.
- vào Nước Thiên Chúa trước các ông (31): Động từ proagô thường có nghĩa là “đi trước”, nhưng ở đây có nghĩa là “chiếm chỗ”. Đây là một kiểu nói A-ram.
- Nước Thiên Chúa (31): Cụm từ basileia tou theou (Nước Thiên Chúa) không thông dụng trong Mt, nó đến từ truyền thống có trước, nhưng cũng có ý nghĩa như basileia tôn ouranôn (Nước Trời)
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn này được đặt trong khung cảnh một cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và kỳ mục trong dân (x. 21,23). Sau khi Người đã khéo léo từ chối trả lời họ về nguồn gốc của “quyền” của Người, Đức Giêsu kể dụ ngôn Hai người con. Dụ ngôn này mở đầu và kết thúc bằng một câu hỏi mà họ phải trả lời.
* Dụ ngôn Hai người con (28-30)
Cả hai người con đều được cha đề nghị với giọng thân tình là đi làm vườn nho cho ông. Phản ứng của họ hoàn toàn khác nhau. Người thứ nhất trả lời bằng một câu “Con không muốn” khô khan và bất lịch sự, không đưa ra một lý do nào. Nhưng rồi anh nghĩ lại, “hối hận” (metamelêtheis), và đi làm việc trong vườn nho. Người thứ hai đáp lại bằng một câu “Con đây, thưa ngài! (egô kyrie)” lịch thiệp và khả ái: một kiểu xưng hô hợp với một nô lệ hơn là với một người con; anh hứa vâng phục. Tuy nhiên, anh lại không đi đến vườn nho.
* Câu hỏi đặt ra cho thính giả (31)
Câu hỏi của Đức Giêsu (“Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”, c. 31a) quá rõ là chỉ có thể có một câu trả lời mà thôi. Người đã thi hành ý muốn của cha chỉ có thể là người con đã đi làm việc trong vườn nho mà thôi. Do đó, câu trả lời của họ là: “Người thứ nhất”. Nhưng vì đây là một dụ ngôn nhắm đưa tới một quyết định mang tính pháp lý làm mẫu, khi trả lời, họ đã tuyên bố án xử trên chính họ.
Với một câu có từ amen long trọng mở đầu, Đức Giêsu lại quay về trực tiếp với các đối thủ và áp dụng dụ ngôn vào họ. Những người thu thuế và những cô gái điếm là hai nhóm người ở bậc thấp nhất trong hệ thông tôn giáo đương thời và về giá trị luân lý. Họ là những con người bị coi là không có phẩm cách cả về tôn giáo lẫn luân lý, nhưng lại được Đức Giêsu đặc biệt chiếu cố đến (x. Mc 2,13-17; Lc 18,9-14; 7,36-50; Ga 7,53–8,11). Họ sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước các nhà lãnh đạo Israel.
Như thế, khi trả lời Đức Giêsu, các nhà lãnh đạo Do Thái đã phải tuyên bố chính bản án về mình. Tuy nhiên, không dễ mà áp dụng dụ ngôn vào họ, vì các khác biệt quá lớn. Đâu là sự đối lập giữa nói và làm mà bài dụ ngôn nêu bật? Có bao giờ họ đã thưa vâng với lời Gioan và Đức Giêsu công bố về Nước Thiên Chúa, mà rồi không chịu áp dụng giáo huấn của các ngài? Phải chăng những người thu thuế và các cô gái điếm đã vâng theo, rồi nay loại bỏ? Lại càng khó áp dụng câu amen (c. 31c) vào cuộc tranh luận cụ thể về quyền bính của Đức Giêsu và về phép rửa của Gioan ở cc. 23-27. Dường như cả dụ ngôn lẫn áp dụng ở c. 31c đều không liên hệ gì đến Gioan Tẩy Giả cả. Do đó, trong c. 32, tác giả Mt tìm cách làm sáng tỏ cách áp dụng và xây dựng mối liên kết với cc. 23-27.
* Bài học kết thúc (32)
Câu kết thúc liên kết dụ ngôn và cách áp dụng vào cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và các kỳ mục ở cc. 23-27. Đức Giêsu thấy xuyên qua những chuyện họ thì thầm với nhau (c. 25). Bây giờ Người mới trả lời cho câu hỏi chính Người đặt ra về Gioan Tẩy Giả, và Người nói thẳng vào mặt các đối thủ: Gioan “đã đến với các ông trong đường công chính”, nhưng các ông đã không tin ông ấy. Có nghĩa là các ông đã không vâng lời ông ấy và nhìn nhận quyền bính thần linh của ông ấy. Do đó, các ông đã không hối hận (oude metemelêthête), và lại còn tệ hơn cả hai người con trong bài dụ ngôn. Cụm từ “trong đường công chính” (en [h]odô dikaiosynês) không phải là một công thức Kinh Thánh theo mặt chữ, nhưng ngôn ngữ Kinh Thánh vẫn nhắc nhớ rằng phải sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Đây là hướng phải theo để hiểu bản văn của chúng ta. Công thức này một đàng nhắc độc giả nhớ đến 3,15, là câu nói về sự công chính mà Gioan thực hiện khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, đàng khác, nhớ đến 11,18, là câu nói đến Gioan “nhà khổ hạnh” (“không ăn không uống”) “đến”. Câu 31c hàm ý là “những người thu thuế và các cô gái điếm”, không giống các nhà lãnh đạo Do Thái, “đã tin” Gioan. Câu này sai niên biểu (anachronism), bởi vì chúng ta chỉ nghe nói đến Đức Giêsu, chứ chưa bao giờ nghe nói đến Gioan như là người có quan tâm đặc biệt đến các người thu thuế và các cô gái điếm. Tuy nhiên, ý tưởng rút ra từ c. 31c là quan trọng: vị trí trước nhan Thiên Chúa của các thượng tế và kỳ mục một bên và các người thu thuế và gái điếm bên kia đã bị đảo ngược. Điểm khác biệt là ngữ cảnh đã làm cho từ “(đi) trước” tương đối của c. 31c trở thành một phân biệt tuyệt đối. Họ tin – nghĩa là vâng phục – trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái thì không. Trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái đã thấy những người bị khinh dể đến với đức tin, kinh nghiệm vẫn không làm cho họ phải ghen tức (x. Rm 11,14), nên họ không giống người con thứ nhất, “sau đó (hysteron), đã hối hận”. Đối với tác giả Mt, “sau đó” đã đi đến hiện tại của ngài. Chính ngài và Hội Thánh ngài biết rằng “sự hối hận” này vẫn chưa xảy ra ngay ngày hôm nay.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng phê phán về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo một bảng phân loại các hạng người hoặc thể theo những cam kết về lý thuyết hay nguyên tắc. Nói cho cùng, chính cách xử sự cho thấy đáy lòng.
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn Người con hoang đàng, ta có thể thấy được là các quan hệ giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Israel xấu đi rõ ràng. Người con nói không, rồi hối hận, có lẽ ít đáng bị trách hơn đứa con hoang đàng, nhưng người con nói vâng mà không làm gì cả thì bị phê phán nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tị. Trong bài dụ ngôn Luca (ch. 15), thính giả có ấn tượng là người cha gia đình còn hy vọng bao trùm sự ghen tương tồi tệ của đứa con cả bằng tình thương của ông. Nhưng khi nghe dụ ngôn Hai người con, ta đoán ra rằng Đức Giêsu không còn hy vọng hoán cải người Pharisêu được nữa. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy Giả, họ đã thấy những người thu thuế và các phụ nữ tội lỗi hoán cải, thế mà họ không hề băn khoăn nghĩ ngợi! Sự chai đá của họ thật vô phương cứu chữa!
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta học nơi Đức Giêsu bài học là không có nhận định kiểu thành kiến về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo cách phân loại các hạng người tùy các dấn thân theo nguyên tắc hay các lý thuyết của họ. Chỉ lối sống thực tế mới cho thấy lòng dạ con người.
2. Dù đã nói “không”, hoặc đã sống xấu xa, chẳng một ai lại phải tuyệt vọng. Câu trả lời đầu tiên không phải là lời quyết định, nếu ta không ở lại trong lời ấy, nếu ta biết điều chỉnh nó và vượt thắng nó bằng lối cư xử đúng đắn tiếp sau. Và lối xử sự đúng đắn của những người trước đấy đã sống sai lạc hẳn là phải thúc đẩy những người vẫn tự nhận là tốt lành đi đến hoán cải, nhưng không khiến họ bắt chước hành động trước đây của mình.
3. Cần phải đi tìm biết ý Thiên Chúa và mau mắn đón nhận. Cần phải nhận biết các sứ giả Thiên Chúa gửi đến nhằm thông tri cho ta biết ý muốn của Ngài. Từ khước lấy lập trường là một cách lấy lập trường chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Lời nói không thể thay thế hành động hữu hiệu. Đã nói là vâng theo ý Thiên Chúa thì phải nghiêm túc thực hiện thánh ý Ngài trong đời sống mình.
4. Dù chúng ta hay người anh em có thế nào, tất cả đều là con của cùng một Cha, được Ngài thương trọn vẹn, tín nhiệm trọn vẹn, và giao công việc đồng đều: chăm sóc chính vườn nho của Ngài. Chúng ta có biết nhận ra vinh dự đó mà sống cho nghiêm túc đời sống và sứ mạng của mình, đồng thời giúp anh chị em cũng sống được như thế chăng?
49. Suy niệm của Noel Quesson
Đức Giêsu nói với các thượng tế vằ kỳ mục: ”Các ông nghĩ sao?..”
Dụ ngôn bắt đầu như thế và thực ra gởi đến các từng lớp lãnh đạo của thời đại Người, "các thượng tế và kỳ mục”. Văn cảnh có tính chất bút chiến: Đức Giêsu vừa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21, 12-17), rồi một cách tượng trưng Người đã làm cây vả chết khô vì nó không có trái (Mt 21,18-22). Những "kẻ cầm quyền" ở Giêrusalem tức giận hỏi Người có quyền gì để làm những hành động khiêu khích ấy. Chính lúc đó, theo bản văn của Matthêu, Đức Giêsu đáp lại bằng ba dụ ngôn: Hai người con, những tá điền sát nhân, những khách mời dự tiệc cưới (Mt 21,28 - 22,14). Cuộc khổ nạn đến rất gần. Đức Giêsu thật sự bị ám ảnh bởi ý tưởng Người sẽ bị loại trừ bởi chính những người lẽ ra phải tiếp đón Người.
Nhưng chúng ta không thể ở mãi trong cách giải thích lịch sử" về cuộc khổ nạn.
Nếu chỉ áp dụng những dụ ngôn của Tin Mừng ‘chúng cho người khác’ thì quả là gian dối. Ngày nay, các dụ ngôn được nói với mỗi người chúng ta.
Lời kêu gọi tối hậu của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta: "Bạn, X, Y,...., bạn nghĩ gì về điều đó?"
Một người kia có hai con trai. ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho". Nó đáp: "Con không muốn đâu!". Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi
Bạn nghĩ gì về điều này?.
Phản ứng đầu tiên của chúng ta là thấy đứa con quả là vô lễ khi nói với cha nó cách thiếu tôn trọng. Và rồi chúng ta thấy nó dễ thương, nó thay đổi ý kiến một cách thật thà và đi hoàn thành ý muốn của cha nó.
Đức Giêsu, khi đưa ra câu chuyện đơn sơ này đã không cho một lời giải thích nào về mặt tâm lý. Người chỉ cho chúng ta một con người ‘thay đổi’, "hoán cải ". Và đó là một mạc khải củng cố chúng ta. Thế giới hiện đại với những dòng tư tưởng hiện nay, các phương tiện truyền thông cố làm cho chúng ta tưởng rằng con người bị điều kiện hóa và như bị giam hãm luôn trong chủ nghĩa tất định, lấy đi của chúng ta mọi trách nhiệm và mọi tự do. Đặt những sự thất bại, khiếm khuyết của chúng ta lên trách nhiệm của xã hội của tính khí người khác quả là có lợi! Trái lại, Đức Giêsu đưa chúng ta về trách nhiệm của mình khi nhắc lại rằng các ván bài không bao giờ được chọn trước. Dù quá khứ của chúng ta là gì, dù trước đó chúng ta từ chối điều gì một sự thay đổi là luôn luôn có thể. Đức Giêsu là Đấng không bao giờ giam hãm một người nào trong quá khứ, Đức Giêsu là Đấng cho mỗi người cơ hội của mình, dù đó là người tội lỗi nhất.
Như thế chúng ta được mạc khải rằng Thiên Chúa không nhìn chúng ta "đông cứng" nhưng "đang trở thành".
Trong những khó khăn hiện nay của chúng ta, Người nhìn thấy con người mới có lẽ sắp được sinh ra từ đó. Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đặt vào lòng chúng con niềm hy vọng ấy. Lạy Chúa, xin giúp chúng con không làm đông cứng người khác, đừng dán lên người khác một nhãn hiệu không thể thay đổi, nhưng cho họ có cơ may đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta đã đoán ra rằng Đức Giêsu có một ý tưởng khác trong trí óc Người. Tại sao Người đã mô tả đứa con thứ nhất ‘nói' tiếng không, nhưng dầu sao nó đã vâng lời.
Ông đến gặp người thứ hai và cũng bảo như vậy nó đáp: “Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?
Rõ ràng người con thứ hai được nhấn mạnh. Sự tương phản nổi bật như ý muốn. Và trong văn cảnh bút chiến tranh cãi giữa Đức Giêsu và các quyền bính tôn giáo tại Giêrusalem, Đức Giêsu nhắm đến họ, những thượng tế và kỳ mục. Nhưng, NGÀY NAY vấn đề cũng đặt ra cho chính chúng ta. Bạn nghĩ gì về vấn đề đó? Người nào trong hai người con đã làm theo ý muốn của người cha?
Họ trả lời: "Người thứ nhất”
Thật vậy chúng ta không thể có câu trả lời khác. Những lời nói đẹp mà thôi không đủ. Chính những hành động của chúng ta mới đáng kể chớ không phải ý định của chúng ta. Dưới góc độ này, Đức Giêsu rất hợp với thời đại: Thế giới ngày nay thán phục tính hiệu quả. Người ta nghi ngờ những người nói hay -những kẻ đại ngôn- chỉ làm cho chúng ta say sưa bởi những lời tuyên bố trống rỗng. Nhưng ý thức hệ lý thuyết đều mất hết tốc độ. Người ta phán đoán những lời hứa dựa vào những kết quả có thực.
Nhưng chúng ta chớ phán xét những người khác. Người con thứ hai này thường rất giống chúng ta. Chúng ta cũng tiền hậu bất nhất. Ví dụ như chúng ta cho rằng mình là những ‘tín hữu' nhưng ‘không hành đạo’. Chúng ta nói theo Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không theo bằng hành động.
Hoặc giả, chúng ta sang sảng hát kinh Tin Kính ở nhà thờ, những suốt tuần lễ thì làm ngược lại. Biết bao lần chúng ta đã nói với Thiên Chúa: "Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện…" mà thái độ của chúng ta có tương ứng với những lời tuyên bố cao đẹp ấy không? Nhưng chúng ta đã được cảnh báo: "nói" không quan trọng bằng "làm". Người ta không đánh lừa được Thiên Chúa. Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời" (Mt 7,21). Và thánh Gioan diễn tả: "Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm" (1Gioan 3,18).
Đức Giêsu nói với họ: "Tôi bảo thật các ông những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông".
Đức Giêsu dẫn vào kết luận bằng một công thức long trọng. "Tôi bảo thật các ông!". Khi Đức Giêsu sử dụng công thức này, luôn luôn Người muốn loan báo một điều gì rất quan trọng. Vả lại ở đây, quan điểm của Người làm ta kinh ngạc và gần như gây vấp ngã.
Bằng cách nào? Bằng cách cho chúng ta một ví dụ về ‘những người tội lỗi chuyên nghiệp’, những người tội lỗi bởi tình trạng đời sống, những người tội lỗi công khai chăng? những người thu thuế là những người thỏa hiệp với tiền bạc? Những cô gái điếm là những người thỏa hiệp về xác thịt?
Tuy nhiên, thật tệ hại khi tưởng tượng rằng Đức Giêsu biện minh cho ‘lợi lộc’ mà ‘tình dục sai lệch’ đem lại. Câu tuyên bố nghịch nhĩ này cũng như dụ ngôn nói trên của Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự hoán cải.
Tội lỗi tệ hại nhất chính là lòng tự mãn: không cần đến Thiên Chúa! bất chấp đến Người. Và chúng ta biết rằng vào thời của Đức Giêsu những người tin rằng mình ‘công chính’ quả thật đã không cần ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại cho họ. Nhưng những người tội lỗi, đàn ông có, đàn bà có, đã chạy đến cùng Chúa Giêsu như đến Cứu Chúa của họ.
Nhà văn Péguy đã diễn tả một cách tài tình khía cạnh ấy của tội lỗi, vốn là một điều xấu tự bản chất trở thành một điểm hút thấm đối với ân sủng. "Người ta đã thấy ân sủng xâm nhập vào một linh hồn bại hoại, và người ta thấy ân sủng cứu sống ‘những gì đã bị hư mất’. Nhưng người ta không thấy nó xuyên qua cái gì không "thấm nước". Những con người tử tế lương thiện hoặc sau cùng những con người mang danh như thế mà tấm áo giáp của họ không có chỗ khiếm khuyết. Bởi vì họ không thiếu sót gì, người ta không mang lại cho họ điều gì".
Phải chăng như những người tội lỗi mà Đức Giêsu đề cập tôi biết chuyển những tội lỗi của tôi thành cơ hội mầu nhiệm để mong ước ân sủng cứu thoát tôi khỏi những giới hạn của mình?
Phải chăng tôi hay xét đoán bề ngoài những con người sa đọa nhất, thay vì cho họ cơ hội chưa từng có, theo đường lối của Tin Mừng. "Những kẻ tội lỗi công khai sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông". Đức Giêsu nói về hạng người nào? Người nói với ai bằng "các ông"? Những hạng người tin rằng mình công chính và bị gạt khỏi Nước Thiên Chúa là ai? Đôi khi tôi có thuộc vào hạng người đó không?
Lạy Chúa, xin hãy thương xót chúng con!
Vì ông Gioan Tẩy Giả đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin.
Trong lúc dụ ngôn "hai người con" nhấn mạnh đến sự tương phản giữa “nói" và ‘làm’ ‘giữa nói "có" trên môi miệng và nói “không” trong hành động’; kết luận này nhấn mạnh sự tương phản giữa ‘tin’ và ‘không tin’. Câu này có trong Tin Mừng Thánh Luca trong một văn cảnh khác (Lc 7, 29-30). Đã hẳn Matthêu đã thay đổi chút ít để đặt câu ấy ở đây để đáp lại câu hỏi mà Đức Giêsu đã đặt ra ở trước bài Tin Mừng này: "Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do trời hay do người ta?" (Mt 21,25).
Một lần nữa, qua những người đồng thời của Đức Giêsu, chính chúng ta được tra hỏi. Dù qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hay lời rao giảng của Đức Giêsu, thì lúc nào cũng chính là Thiên Chúa yêu cầu chúng ta nói tiếng ‘vâng’ bằng một đức tin ‘sống động’. Và tiếng ‘vâng’ ấy của đức tin thường là một ‘sự hoán cải, một sự đổi mới cuộc đời’.
Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.
Đức tin trong Tin Mừng trước tiên không phải là sự liên kết với các chân lý phải tin bằng trí tuệ. Đúng ra đó là sự liên kết ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa kêu gọi chúng ta: "Hôm nay con hãy vào làm việc trong vườn nho của Thầy!". Hoặc là người ta đáp ứng với lời kêu gọi ấy của Thiên Chúa, hoặc là qua những sự kiện cụ thể, người ta không đáp ứng lại. Có một từ nhỏ mà quan trọng trong đức tin Kitô giáo chúng ta, một từ không được dịch ra bất cứ ngôn ngữ phụng vụ nào và chung cho mọi tín hữu, đó là từ Amen có ý nghĩa chính xác là “xin vâng bằng các hành động" mà chúng ta phải nói với Thiên Chúa: “Amen, vâng, đúng vậy, tôi tin, chắc chắn là như thế, tôi trở về, tôi chấp nhận điều đó cho cuộc sống mỗi ngày của tôi". Mỗi Chúa nhật, miệng chúng ta đọc bao nhiêu tiếng Amen? Và chúng ta đưa vào thực hành trong tuần lễ tiếp theo bao nhiêu lần?
Vì Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã không vừa là có vừa là không, Người chỉ toàn là có. Vì thế cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên Amen để tôn vinh Thiên Chúa (1 Cr 1,19).
- 30/09 Chấp nhận khổ đau với tình yêu
- 29/09 Bước vào Nước Trời
- 28/09 Câu hỏi về Chúa Giêsu
- 27/09 Sai 12 Tông Đồ đi rao giảng
- 26/09 Mẹ Chúa và anh em Chúa
- 25/09 Đèn sáng đặt đúng chỗ
- 24/09 Vườn nho một đồng, hay sự tốt lành của ông chủ?
- 23/09 Dụ Ngôn Người Gieo Giống
- 22/09 Vai trò người phụ nữ trong Tin Mừng
- 21/09 Vị Thánh Là Ai?