Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
01/03 Cám dỗ và cách thế chiến thắng
- Viết bởi Mt 4, 1-11
Cám dỗ và cách thế chiến thắng.
01/03 – Chúa Nhật 1 Mùa Chay năm A.
"Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ".
Lời Chúa: Mt 4, 1-11
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói.
Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'".
Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi".
Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi".
Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài".
Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY A 2020
Lời Chúa: St 2,7-9; 3,1-7; Rm 5,12-19; Mt 4,1-11
1. Chiến thắng tử thần - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
Ngày 24/05/1979, Ông Mc. Namara, chủ tịch Ngân hàng Thế giới 11 năm, đã cảnh giác thế giới mỗi năm phung phí vào việc sản suất võ khí giết người 30 tỷ đô la với 500.000 bác học và kỹ sư.
Ngày 26/08/1986, đài Hànội loan tin Mỹ dự trù 1.000 tỷ đô la vào nghiên cứu chiến tranh tinh cầu. Mỹ dã ba lần thử bắn hỏa tiễn phá vệ tinh đang bay. Đó là cách hủy diệt loài người.
Lúc nào thế giới cũng chọn sự chết hơn sự sống. Adam Eva dù được sống sung sướng trong vườn thượng uyển đầy của ngon vật lạ dưới bóng cây sự sống, cây sự thiện của Thiên Chúa, ông bà vẫn chạy theo tử thần (Bài 1).
Phần Đức Giêsu, Người đã chạy theo Thánh thần, theo thần Sự sống. Dù phải sống trong hoang địa khô cằn kham khổ, Ngài vẫn chọn lối sống hiến dâng toàn thân cho Cha trên trời. Ngài không màng chi lương thực lạc thú danh vọng và của cải vật chất. Ngài thực sự chỉ chuyên lo sống mật thiết trọn vẹn trong tình cha con với Thiên Chúa. Trong những giờ phút linh thiêng nhất đó, quỷ dữ đã mò tới tấn công mãnh liệt để phá vỡ mối tình thắm thiết giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa, như nó đã phá vỡ cuộc sống thân thiết giữa Adam và Thiên Chúa. Nó không muốn Người được làm Con Thiên Chúa nên nó nói: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa nên bánh,... thì hãy gieo mình xuống... Nó tôn Ngài làm Con Thiên Chúa để phỉnh lừa Ngài theo nó. Nếu trổ tài làm theo quỷ, tất nhiên là thuộc về quỷ, đâu còn thuộc về Thiên Chúa nữa. Ôi, lậy Chúa, quỷ dữ cực kỳ xảo quyệt!
Đức Giêsu sống trên dương thế như một vị cứu tinh đứng giữa sự sống và sự chết, giữa trời và hỏa ngục, như Adam Eva đứng giữa cây sự sống và sự chết, giữa Thiên Chúa và quỷ dữ. Adam Eva đã bị quỷ dữ đánh lừa. Trái lại, Đức Giêsu đã luôn luôn chọn Thiên Chúa không để quỷ dữ đánh bại, Người phải đánh bại quỷ dữ để giải phóng loài người thoát ách tử thần quỷ dữ.
Tử thần thứ nhất là cơn đói khát của thân xác, lúc nào cũng đòi lạc thú, nấp bóng dưới dạng no say, si mê tứ khoái: mê rượu, mê dâm, mê bạc, mê ma túy. Càng mê càng khổ, đến tan xác mới hết mê. Đức Giêsu đã chiến thắng quỷ dữ đó bằng sống lời Chúa: “Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời Thiên Chúa phán ra”.
Tử thần thứ hai là kiêu ngạo thử thách Thiên Chúa phải làm cho mình những điều lạ lùng càn dở: “Cứ gieo mình xuống Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ nâng đỡ bạn khỏi vấp chân vào đá”, làm theo quỷ nịnh hót chắc chắn tan xác, nên Đức Giêsu đã nói: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa”. Người đã đánh bại quỷ dữ bằng đường lối sống hoàn toàn hạ mình xuống, phó thác trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa, dù phải chịu đau khổ và chết trên thập giá.
Tử thần thứ ba là tiền của, biết bao nhiêu kẻ đã phục mình xuống luồn cúi chạy chọt vì tham ô, móc ngoặc, phạm những tội tầy trời. Salômôn hàng năm thâu vào kho 666 tạ vàng, cứ ba năm ông cho đoàn tầu đi chở vàng bạc châu báu ngọc ngà về. Sống trên núi vàng tiền của, ông phục mình xuống thờ lạy tà thần trụy lạc, làm ô danh Thiên Chúa đã ban cho ông được khôn ngoan nhất thiên hạ. Mạc đăng Dung, một kẻ vũ phu, ham giầu, ham danh, đã chiếm ngôi vua Lê chiêu Tôn, tưởng được hưởng mọi vinh hoa phú quý. Ai ngờ phải tự trói mình đi đến tận ải Nam Quan quỳ lậy nộp mình cho quân Minh xin tha chết. Một vết nhơ nhất trong lịch sử Việt Nam. Quỷ đã dùng bả vinh hoa đó nhử bao nhiêu người xuống hố diệt vong.
Trước những mưu mô hiểm độc của quỷ dữ, Đức Giêsu đã quyết liệt đuổi quỷ cút đi lập tức: “Quỷ satan kia, xéo đi! vì ngươi phải thờ lậy Thiên Chúa là Chúa ngươi, và thờ lậy một mình Người mà thôi”.
Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã thẳng tay xua đuổi quỷ xéo đi, nhưng “chúng vẫn còn rình mò chúng con như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cấu xé” (1Pr. 5). Xin Chúa mau đến giải thoát chúng con khỏi nanh vuốt tử thần quỷ dữ, cho chúng con an tâm vững chí sống theo lời Chúa và tiến bước trên đường phụng sự Chúa đến hơi thở cuối cùng. Amen.
2. Cám dỗ
Con người ngay từ buổi đầu được dựng nên, đã bị cám dỗ và con người đã sa ngã trong cơn cám dỗ ấy. Lịch sử của dân Do Thái, từ sa mạc cho đến miền đất hứa là một chuỗi những bất trung không ngừng. Là người tín hữu, chúng ta không xa lạ gì với những thử thách và cám dỗ, bởi vì chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua cái kinh nghiệm sống động ấy. Với những cám dỗ gặp phải, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy mức độ dấn thân làm người của Người, đồng thời tăng thêm sức mạnh để chúng ta lướt thắng những gian nguy thử thách giữa lòng cuộc đời.
Con đường cứu độ của Chúa không phải là một con đường trải thảm, không phải là một con đường với những hoa thơm cỏ lạ, nhưng là một con đường đấu tranh đầy cam gọ, đầy lựa chọn. Những cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã gặp phải là của cải, danh vọng và quyền lực. Đó cũng là những cám dỗ muôn thuở của con người, cũng như của bản thân chúng ta.
Tuy nhiên điều đã trở thành niềm tin, và cũng là bài học cho chúng ta, đó là Chúa Giêsu đã chiến thắng những cám dỗ nói trên. Người đã có những chọn lựa của Người đứng trước những cảnh huống đòi phải chọn lựa. Thực vậy, trước cơn cám dỗ về của ăn, Người đã trả lời: Người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi những lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Trước cám dỗ về quyền lực, Người đã khẳng định: Hỡi Satan, ngươi phải thờ lạy và phụng sự một mình Thiên Chúa. Và Người cũng đã có câu trả lời dứt khoát khi Satan cám dỗ Ngài về sự ỷ lại có tính cách thách thức Thiên Chúa.
Tin Mừng còn cho thấy Người đã chọn lựa không phải bằng những lời tuyên bố suông, mà là bằng chính mạng sống của Người. Người đã phải trả giá cho điều Người lựa chọn bằng chính cái chết nhục nhã trên thập giá. Sự chọn lựa của Chúa Giêsu cũng phải là sự lựa chọn của mỗi người chúng ta. Không chấp nhận miếng ăn ngon, nhà cao cửa rộng, tiền bạc đầy túi, địa vị cao sang bằng cách gian tham, bóc lột và chà đạp kẻ khác. Phải biết chia sẻ và giúp đỡ người khác với tâm tình tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của họ. Phải biết sử dụng địa vị và quyền hành của mình hầu góp phần xây dựng cho xã hội này, cho giáo xứ mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Có vượt qua cám dỗ như thế, thì rồi chúng ta mới được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.
3. Người ta sống
Người ta sống không nguyên bởi bánh.
Chúa Giêsu người đã nói câu đó, không phải là một kẻ mơ mộng hoặc chỉ sống bằng những lý tưởng cao đẹp, hoặc đã có dư ăn dư mặc để có thể dễ dàng lên mặt dạy đời về sự tầm thường của vật chất. Ngài hiểu rõ giá trị của đồng tiền bát gạo vì đã khó nhọc làm ăn nuôi sống gia đình. Ngài biết rằng có thực mới vực được đạo, bằng chứng là có lần Ngài đã phải nuôi ăn cho một đám đông đói khát sau những ngày tìm đến với mình để được nghe giảng dạy. Ngài cũng biết rằng bần cùng sinh đạo tặc, bởi vì Ngài đã thường xuyên lui tới với những đám người khốn khổ nhất của xã hội, biết rõ hoàn cảnh đời sống của họ. Thế nhưng Ngài vẫn nhất định không để cho nhu cầu thiết yếu và căn bản ngự trị trên các nhu cầu khác của con người. Ngài nhất định không coi của cải vật chất là tất cả đến nỗi phải làm bất cứ cách nào cho có được.
Người ta sống không nguyên bởi cơm bánh.
Có một thời cách đây không lâu, chúng ta ngơ ngác không hiểu tại sao thanh niên Âu Mỹ lại chán chường, nổi loạn, phá phách hay làm những chuyện điên rồ, có vẻ vô nghĩa, khi mà họ đã có thừa mứa mọi tiện nghi hưởng thụ. Sở dĩ như thế vì lớp thanh niên này có mọi thứ, nhưng lại thiếu lý tưởng, thiếu lẽ sống, thiếu cái gì cao cả để mà vươn lên. Thời ấy, chúng ta nghe, nhưng vẫn cảm thấy đó là những điều hơi xa lạ và viễn vông. Bây giờ, khi nhìn thấy một lớp trẻ sống thực dụng, không lý tưởng, bất chấp đạo nghĩa, đặc biệt là những hạng con ông cháu cha trong xã hội, thì chúng ta mới thực sự thấm thía. Cha ông chúng ta vốn thường dạy: Tốt danh hơn lành áo. Chết vinh hơn sống nhục. Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. Còn giới trẻ hôm nay thì đã phản ứng ngược lại.
Thầy giáo kể lại câu chuyện về cha Maximilien Kolbê, người đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù, là người cha còn trẻ trong gia đình, bị Đức quốc xã giam cùng trại với cha. Vị linh mục nói: Tôi già rồi nếu có sống thì cũng không có lợi ích và cần thiết bằng người cha gia đình này. Nghe xong, một cậu học trò đã phê bình một câu sắc như nhát chém: Sao mà ngu thế.
Ngoài cơm bánh, chúng ta còn đói khát rất nhiều thứ khác, chẳng hạn như đói khát sự thật, đói khát tình thương, đói khát tự do, đói khát phẩm giá, đói khát lòng kính trọng, đói khát kiến thức, đói khát lẽ sống và lý tưởng.
Chúng ta cần phải giúp cho bản thân cũng như cho người khác, để chúng ta cùng nhau vươn lên, vươn lên mãi, cho đến khi gặp được nguồn chân thiện mỹ mới thôi.
4. Khiêm tốn sám hối và sửa mình - Huệ Minh
Trang Tin Mừng này được liên kết với trang Tin Mừng về phép Rửa. Tại sông Giođan, Thần Khí Thiên Chúa đã được ban cho Đức Giêsu, nay cũng Thần Khí ấy lại dẫn Người vào hoang địa. Chiều hướng của bản văn là: Bởi vì Đức Giêsu đến hoàn tất nỗi chờ mong của dân Người, nhất thiết Người phải đảm nhận mọi chiều kích của lịch sử dân Người: ở tại Ai Cập (2,13-15), đi qua sông Giođan (3,13-17), cám dỗ trong hoang địa (4,1-11). Qua các cám dỗ, Đức Giêsu cho thấy Người chấp nhận trọn vẹn thánh ý Chúa Cha; Người loại trừ mọi thứ cung cách Mêsia mà Thiên Chúa không muốn (mà chính Gioan Tẩy Giả đã hình dung), để chấp nhận làm một Mêsia chịu đóng đinh.
Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
Trang Tin Mừng trình thuật về ăn chay và cám dỗ tập trung vào các biến cố của cuộc Xuất Hành. Dân Israel cũng là “con yêu dấu của Thiên Chúa”, nhưng tất cả hành trình trong hoang địa cho thấy họ đã là mộtđứa con nổi loạn và thất trung. Quả thật, ngôn ngữ của câu đầu đã khiến ta nhớ đến Đnl 8,2 và như ám chỉ đến hoàn cảnh của Israel tại hoang địa: “... Thiên Chúa đã dẫn..., như vậy Người thử thách…”.
Bản văn Đệ Nhị Luật nói rằng Thiên Chúa “thử thách” dân để “biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không”. Còn ở đây, trong bản văn Mt, “thử thách” là để phá hỏng và kẻ “thử thách” là quỷ, chứ không phải là Thiên Chúa. Tại hoang địa, Đức Giêsu vừa tóm kết kinh nghiệm của Môsê và Êlia, vừa tóm kết lịch sử của dân Israel trong hoang địa.
Người ăn chay suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm (2): Con số 40 chỉ mộtthời gian khá dài và có sắc thái là mộtsự hoàn tất với kết quả tích cực là giải phóng và xây dựng con người. So với Lc, Mt thêm “bốn mươi đêm” để ám chỉ thời gian Đức Giêsu ở trong hoang địa tương đương với thời gian Môsê ăn chay trên núi cao để rồi sau đó được Đức Chúa ban cho các điều khoản của Giao ước (Xh 34,28; x. Xh 25,18).
Nhưng cũng có thể Mt muốn ám chỉ đến Êlia nữa (x. 1 V 19,8: ăn chay trong hành trình tiến về núi Khôrép). Hai dung mạo vĩ đại này, đại diện cho Lề Luật và các Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Hiển Dung của Đức Giêsu (cuộc Hiển Dung này chính là cuộc thần hiển. Sau đó sẽ có việc thiết lập Giao Ước mới nhờ cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh của Đức Giêsu). Có lẽ Mt muốn nói rằng việc Đức Giêsu ăn chay đã tóm kết cách nào đó kinh nghiệm của Môsê và Êlia, cũng như các cám dỗ sẽ tóm kết lịch sử của Israel tại hoang địa.
Các cám dỗ nhắm tấn công Đức Giêsu trong tư cách Mêsia và Người Con vâng phục và trung thành của Thiên Chúa. Quỷ xúi Đức Giêsu lạm dụng lời quyền năng của Người, rồi xúi Người ỷ lại vào quan hệ giữa Người với Thiên Chúa, và cuối cùng, xúi Người bỏ đi lòng trung nghĩa với Thiên Chúa. Chiến thắng của Người rất quan trọng. Nó xóa đi những bóng tối đã tích tụ lại trong lịch sử dân Thiên Chúa và nó cũng gợi ra chiều hướng dấn thân phục vụ ơn cứu độ. Thay vì chọn làm một Mêsia-Phù thủy hay một Mêsia-Thủ lãnh, Đức Giêsu chọn làm Mêsia-Tôi tớ khiêm nhường. Khi đó, Người vẫn là Người Con vâng phục, và cũng là Israel chân chính và hoàn hảo.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ.
Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Chúa Giêsu nói “không” với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình, bởi vì con đường Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của bản tính tự nhiên. Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục, những thất bại, thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội, nhưng Người có thể chọn con đường chung của mọi người, là sự thỏa thuê. Vinh quang không phải là một tội, mà còn là mộtquyền Người có thể dùng. Sự rút lui của quỷ chứng tỏ đây không những là mộtchiến thắng của chủ trương Mêsia khiêm nhường và phục vụ như tôi tớ, mà còn là mộtchiến thắng riêng của Đức Giêsu. Người đã không nhường bước cho mộtnẻo đường tiện nghi thoải mái, đã không muốn hưởng trước một thành công; nhưng Người đã tôn trọng con đường đã được chọn cho Người dù phải hy sinh, thiệt thòi. Rời khỏi hoang địa, không những Người được thánh hiến mà còn đủ tư cách Mêsia.
Mùa Chay giúp chúng ta nhìn nhận thân phận mình, với biết bao yếu đuối và lỗi lầm, rất cần được Chúa tha thứ và đỡ nâng. Ông Môsê đã chỉ dẫn cho người Do Thái, khi đến dâng của lễ, hãy thưa với Chúa về nguồn gốc du mục của mình và nhớ lại những điều tốt lành Ngài đã làm với tổ phụ họ, nhờ đó, họ dâng của lễ với lòng tri ân chân thành và đáng được Chúa chấp nhận. Nhìn nhận thân phận mình sẽ giúp chúng ta khiêm tốn và sám hối sửa mình, và nhờ đó, chúng ta được đón nhận lòng Chúa xót thương.
5. Cám dỗ trong đời thường
Sống kiếp con người nơi trần thế này, ai trong chúng ta cũng thường gặp những thách đố và cám dỗ trong cuộc sống. Có nhiều người ý thức và nhẹ nhàng vượt qua, nhưng cũng có rất nhiều người đã rơi vào những cạm bẫy của ma quỷ và trở thành kẻ nô lệ của chúng một cách đáng thương. Vấn đề đặt ra cho chúng ta bây giờ là làm sao có thể vượt qua những cám dỗ đó. Đâu là sức mạnh và trợ lực an toàn cho chúng ta?
Chúng ta đang bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Chay, mùa dành riêng cho việc kêu gọi con người hãy ăn năn sám hối và trở về với Thiên Chúa để nhận lãnh lòng thương xót và ơn tha thứ của Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời về sự chiến đấu trước những cơn cám dỗ đụng chạm trực tiếp đến những nhu cầu thiết yếu và phổ biến nhất của con người. Mẫu gương đó chính là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Trước khi khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng, Ngài đã được dẫn vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Có lẽ có rất nhiều ý nghĩa xung quanh vấn đề này, nhưng có lẽ chúng ta thấy được nhất là ý nghĩa nêu gương của Chúa Giêsu qua những cơn cám dỗ mà Ngài đã chịu. Ma quỷ rất gian xảo và tinh vi trong mọi cố gắng nhằm quyến dụ con người đi vào con đường chết, trở thành những kẻ chống đối Thiên Chúa hay thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô, Người Con vẹn toàn của Thiên Chúa đã chiến thắng Ma Quỷ và vạch trần những âm mưu xảo trá của chúng vì chúng vốn là cha của những kẻ gian trá.
Cơm áo bạc tiền luôn là nổ băn khoăn và lo lắng của biết bao nhiêu con người. Cuộc sống bận rộn suốt ngày đêm cũng chỉ xoay quanh vấn đề này. Người còn nghèo khó thì muốn cố gắng làm sao để có đủ cơm ăn áo mặc. Người khá giả một chút thì muốn giàu có hơn. Còn người đã giàu có rồi thì tìm cách làm sao để giữ vững cơ nghiệp của mình, tìm cách hưởng thụ và làm sao để cho danh tiếng của mình vang xa, cho thiên hạ nể nang mình... Có thể nói, không ai tìm thấy thoả mãn với những nhu cầu vật trong cuộc sống này. Chính vì lý do này mà con người dễ dàng rơi vào những cơn thèm khát mang tính danh, lợi, thú do ma quỷ giăng mắc khắp nơi. Khắp nơi đều nghe thấy con người kêu khổ: nghèo cũng khổ, giàu cũng khổ, cũng khóc như ai. Như vậy hạnh phúc đích thực không có nơi trần gian này, mà chỉ tồn tại nơi Thiên Chúa mà thôi.
Có một anh nông dân rất nghèo, làm việc vất vả suốt ngày quanh năm nhưng cơm không đủ ăn, áo chẳng đủ mặc. Rồi anh nghe người ta đòn rằng, ở trên núi có một thiền sư pháp thuật cao lắm, ông có thể làm cho người nghèo trở nên giàu có dễ như trở bàn tay. Thế là anh nông dân này bèn hỏi han đường sá để tìm đến với vị thiền sư đó. Cuối cùng thì anh cũng gặp được vị thiền sư tài giỏi ấy. Anh liền bày tỏ với vị thiền sư nổi khổ tâm của anh và ước nguyện được giúp cho thoát khỏi cảnh nghèo túng. Vị thiền sư nói: "tưởng chuyện gì khó chứ chuyện ấy thì quá dễ. Nhưng mà không được, vì nó nguy hiểm lắm". Anh nông dân ấy nói: Chỉ có cái nghèo mới nguy hiểm và tôi chỉ sợ cái nghèo thôi. Ngoài ra tôi không sợ gì nữa cả.
Cuối cùng thì vị thiền sư cũng bằng lòng làm theo yêu cầu của anh ta và căn dặên: "Đây ta truyền cho ngươi câu thần chú này. Mỗi lần ngươi đọc câu thần chú này thì lập tức có một con quỷ hiện ra và nó sẽ làm tất cả những gì ngươi sai khiến nó. Nhưng hãy nhớ. Khi nó hiện ra rồi thì ngươi phải có cái gì đó cho nó làm, nếu không nó sẽ vặn cổ ngươi đó". Thế là anh nông dân nghèo đó hí hửng ra về mang theo câu thần chú mà anh cố gắng nhớ trong đầu. Về đến nhà, anh liền niệm câu thần chú ấy, và lập tức có một con quỷ hiện ra để sẵn sàng chờ lệnh của anh. Anh liền bảo nó xây cho anh một toà lâu đài lộng lẫy vào hạng bậc nhất thế giới. Tưởng đâu mấy tháng mới xong, không ngờ chỉ có 3 phút là xong. Anh liền bảo nó đi tìm cho anh một cô mỹ nữ về làm vợ, vì trước đây chẳng có ai thèm lấy anh. Tưởng mấy ngày mới xong, nào ngờ cũng chỉ có 2 phút là xong. Anh liền bảo nó dọn cho anh một bữa ăn ngang hàng với các bậc vua chúa trần gian. Tưởng mấy tiếng đồng hồ mới xong, ai ngờ chỉ có 1 phút là xong. Lúc này anh ta mới sợ hãi và cuống cuồng lên vì biết lấy gì mà sai nó làm nữa đây. Con quỷ liền thúc giục anh ra lệnh cho nó làm, nếu không nó sẽ vặn cổ anh ngay đấy. Anh nông dân sợ hãi quá liền sai nó đưa anh ta đi gặp vị thiền sư ngay. Khi gặp được vị thiền sư thì anh khóc lóc thảm thiết và nói lên nổi sợ hãi của anh. Vị thiền sư mới nói với anh: "Ta đã nói với anh rồi, nó nguy hiểm lắm mà anh không chịu nghe ta. Thôi ta chỉ cho ngươi cách này là ngươi hãy về nhà và sai nó ngồi vuốt đuôi chó cho thẳng ra. Thế là con quỷ đó ngồi vuốt đuôi con chó cho đến vĩnh cửu!
Chúng ta hay tưởng tượng và cho rằng ước mơ của mình và của con người trong cuộc đời này nó lớn lắm. Nhưng quay đi quẫn lại cũng chỉ là chuyện làm sao tôi được giàu có, được ăn sung mặc sướng, được vợ đẹp con ngoan mà thôi. Nó không lớn như chúng ta tưởng đâu! Vì thế, nếu chúng ta không biết làm cho cuộc đời của mình có những ước mơ cao thượng hơn chuyện cơm áo bạc tiền thì chúng ta quả là những con người đáng tội nghiệp ở trần gian này!
Ma quỷ vì hiểu rõ những suy tính và ước muốn của con người là chỉ quanh quẩn trong những chuyện như thế, nên chúng không ngừng cám dỗ con người làm sao có thật nhiều của cải, hưởng thụ thật nhiều, cố tạo uy quyền cho mình thật nhiều... bất chấp những thủ đoạn gian ác và nguy hiểm.
Chúng ta hãy nhìn vào gương của Chúa Giêsu để học cùng Ngài và xin Ngài giúp chúng ta biết cách chiến đấu và chiến thắng trước những cơn cám dỗ tinh vi và nguy hiểm của ma quỷ trong cuộc sống đời thường của chúng ta. Phương thế đế chúng ta có thể chiến thắng với những mưu chước của ma quỷ là hãy hướng về Thiên Chúa, kiếm tìm thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời này như Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta. Hãy cảnh giác với việc lạm dụng Lời Chúa hay giải thích sai lệch Lới Chúa để đi tìm những điều nhằm thoả mãn cho mình.
Có rất nhiều người mở miệng ra là nói Lời Chúa nhưng chỉ toàn tìm những câu Lời Chúa nghe có vẻ là lạ rồi giải thích theo ý của mình và cuối cùng là dẫn anh đến một cuộc sống hoàn toàn sai lệch. Ma quỷ trong khi cám dỗ Đức Giêsu cũng không ngừng trích dẫn Lời Chúa hầu giăng lưới chụp bắt Đức Giêsu và làm cho Đức Giêsu trở thành người thách thức Thiên Chúa và nghi ngờ Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã tỉnh thức trước những mưu chước đó và đã chiến thắng cách vẻ vang nhờ Ngài áp dụng Lời Chúa cách đúng đắn.
6. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Chúng ta đã bước vào Mùa chay thánh. Mùa chay thánh hay còn được gọi là mùa chiến đấu thiêng liêng. Đối tượng đặc biệt mà chúng ta phải chiến đấu đã được Tin mừng hôm nay nhắc tới, đó là sự cám dỗ. Vậy, cám dỗ do đâu? Ai bị cám dỗ? Cám dỗ về điều gì? Làm thế nào để thắng được sự cám dỗ?
1. Cám dỗ do đâu?
Từ “cám dỗ” thường được hiểu theo nghĩa xấu. Bởi vì, sự cám dỗ thường đến từ Ma quỷ hoặc những hình thức khác do Ma quỷ bày đặt ra. Chẳng hạn, ma quỷ lấy hình con rắn để cám dỗ Adong và Evà phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa; Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu như được ghi chép trong Tin mừng hôm nay; Ma quỷ có thể dùng danh, lợi, thú để cám dỗ con người qua mọi thời đại.
Nhưng chúng ta cũng có thể thay thế từ “cám dỗ” bằng từ “thử thách”. “Thử thách” thường được hiểu theo nghĩa tốt. Thử thách được hiểu như là một cuộc sát hạch, một cuộc thi, ai vượt qua được thử thách ấy là kẻ chiến thắng, được coi như thi đậu. Ai không vượt qua được thử thách đó là kẻ thất bại, hay còn gọi là thi trượt. Kinh Thánh nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chí sĩ Phan bội Châu cũng nói:
Nếu phải đường đời bằng phẳng hết,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai.
Vì thế, thử thách rất cần thiết trong đời sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng. Trong đời sống thiếng liêng, thử thách thường đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa thử thách để biết lòng trung thành của con người. Thiên Chúa đã thử thách ông Abraham khi đòi hỏi ông sát tế Isaac (St 22,1). Thiên Chúa thử thách ông Gióp khi để ma quỷ làm hại con cái, tài sản của ông (x. G 1,1-22; 2, 1-13). Đức Giêsu thử thách lòng tin của người đàn bà Ca-na-an (x. Mt 15, 21-28)…
Như vậy, trong đời sống thiêng liêng: cám dỗ đến từ ma quỷ còn thử thách thì đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa để cám dỗ xẩy ra đối với con người và có những lúc Ngài thử thách con người, nhưng Ngài vẫn luôn muốn con người chiến thắng thử thách, không sa chước cám dỗ. Bằng chứng là trong Kinh Lạy Cha, Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.” (Mt 6,13).
2. Ai bị cám dỗ? Cám dỗ về điều gì?
Đã là con người ai cũng có thể bị cám dỗ. A-dong và E-và đã bị cám dỗ. Các thánh cũng thường xuyên bị cám dỗ. Chính Đức Giêsu bởi mang theo bản tính loài người nên Ngài cũng bị cám dỗ. Ma quỷ có thể cám dỗ con người về mọi phương diện. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu về ba phương diện.
Thứ nhất: Lợi dụng khi Đức Giêsu đang đói, cần của ăn, Ma quỷ đã cám dỗ Ngài rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh” (Mt 4,3). Chúng ta biết, Đức Giêsu thừa khả năng để làm phép lạ. Sau này, chính Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no mà còn dư thừa. Nhưng, trong trường hợp này, nếu Đức Giêsu làm phép lạ biến đá thành bánh thì Ngài sẽ mắc âm mưu của Ma quỷ: Thứ nhất, Ngài dùng quyền năng mình sai mục đích; Thứ hai, Ngài không tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên, Đức Giêsu không làm phép lạ theo yêu cầu của Ma quỷ, trái lại Ngài đã trích lời Kinh Thánh rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4,4).
Thứ hai, Ma quỷ muốn cám dỗ Đức Giêsu về tội kiêu ngạo, muốn tôn mình lên, nên mới nói với Ngài rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy gieo mình xuống đi” (Mt 4,6). Ở cơn cám dỗ này, Quỷ muốn Đức Giêsu đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp để làm theo ý mình, nghĩa là áp đặt ý Thiên Chúa trên ý mình để làm phép lạ. Đây là một sự thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu đã biết âm mưu của Ma quỷ, Ngài đã chiến thắng cơn cám dỗ này bằng lời Kinh Thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Mt 4,7).
Thứ ba, Tin mừng kể lại: “Quỷ đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: ‘Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi’” (Mt 4,8-9). Chúng ta thừa biết rằng, thờ lạy Thiên Chúa là bổn phận của con người. Nhưng con người thường bị cám dỗ từ bỏ Thiên Chúa để thờ lạy các thần khác ngoài Thiên Chúa. Ma quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu về phương diện này. Một lần nữa, Đức Giêsu đã chiến thắng Ma quỷ bằng Lời Kinh Thánh: “Ngươi phải thờ lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”(Mt 4,10).
Như vậy, ai cũng bị cám dỗ. Cám dỗ về mọi mặt nhất là về danh, lợi, thú. Đức Giêsu đã bị cám dỗ và Ngài chiến thắng. Nhờ ơn Chúa, có rất nhiều người đã thắng được cơn cám dỗ nhưng cũng không thiếu những người đã sa chước cám dỗ.
3. Làm thế nào để chiến thắng cám dỗ?
Waterstone có viết: “Đầu hàng cám dỗ là hành động của thú tính, chiến thắng nó mới là con người.” Nhưng làm sao để chiến thắng cơn cám dỗ của Ma quỷ?
Thứ nhất, hãy tránh xa chước cám dỗ: Ma quỷ rất tinh ranh, thông thường chúng cám dỗ con người theo cách tiệm tiến. Nghĩa là nó bắt đầu cám dỗ con người phạm các tội nhẹ, đến các tội ít nhẹ hơn, đến các tội nặng và cuối cùng là phạm tội rất nặng. Chẳng hạn, để các trẻ em nghiện geam, ma quỷ dụ dỗ chúng đến các quán nét; để các ông nghiện cờ bạc, ma quỷ dụ dỗ họ thường xuyên lui tới các sòng bạc; để các thanh thiếu niên lỗi đức trong sạch, Ma quỷ cám dỗ con người xem những hình ảnh, những trang mạng xấu (gương vua Đa-vít); để ai đó trở thành kẻ ăn cắp, ma quỷ cám dỗ họ bắt đầu bằng hành động ăn cắp vặt…
Vì vậy, cần đề phòng những nơi nguy hiểm, tránh xa các chước cám dỗ mà ma quỷ bày ra, cố gắng nói không với các chước cám dỗ, cho dù đó chỉ là những lỗi nhỏ nhặt trong cuộc sống hằng ngày. Bởi vì,“Trẻ trộm gà, già trộm trâu, lâu lâu thành giặc.” Mặt khác, cần biết chọn điều tốt và loại bỏ điều xấu; chọn điều lành và bỏ điều ác; chọn Chúa và bỏ Ma quỷ.
Thứ hai, siêng năng cầu nguyện: Thiên Chúa không bao giờ thử thách hay để cho ma quỷ cám dỗ quá sức chịu đựng của con người. Thánh Phaolô đã từng nói: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9). Chính vì thế, con người cần phải cố gắng hết sức mình để chống trả chước cám dỗ. Đồng thời, hãy dùng những phương tiện Chúa ban để lượt thắng những thử thách mà Thiên Chúa có thể gửi đến và chiến thắng các chước cám dỗ do Ma quỷ bày ra. Có nhiều cách thế để xua đuổi Ma quỷ nhưng cách thế hiệu quả nhất là cầu nguyện. Cầu nguyện để xin Chúa giúp sức cho chúng ta. Đức Giêsu đã cho chúng ta biết, có những thứ quỷ chỉ trừ được bằng “cầu nguyện” (x. Mc 9,29). Chính Ngài mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo phải lâm vào cơn cám dỗ” (Mt 26,41). Vì vậy, hãy siêng năng cầu nguyện và cầu nguyện sốt sắng. Rất nhiều vị thánh đã chiến thắng được cám dỗ nhờ cầu nguyện. Chẳng hạn, thánh Gioan Maria Vianay đã phải bị Ma quỷ quấy phá suốt 35 năm, từ 1824-1858, nhưng Ngài đã chiến thắng nhờ cầu nguyện. Thánh Antôn, một ngày kia, bị Ma quỷ cám dỗ về đàng trái, Ngài đã cầu nguyện sốt sắng và lấy tay ghi hình thánh giá lên nền nhà thờ, Ma quỷ thấy vậy liền bỏ chạy.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng Ma quỷ cám dỗ, xin giúp chúng con đủ sức để chiến thắng các cơn cám dỗ trong đời sống đức tin của chúng con. Amen.
7. Cám dỗ.
Adong Eva được Thiên Chúa đặt ở vườn địa đàng, sống trong hạnh phúc và tình nghĩa với Chúa. Hai ông bà không biến đến đau khổ, bệnh tật và chết chóc. Trái lại hai ông bà là những người bạn,là những người con của Thiên Chúa bởi vì mỗi khi chiều xuống, Ngài thường hiện ra đàm đạo với hai ông bà. Chính vì vậy, mà quỷ đã ghen tương và muốn phá huỷ cái thế cân bằng hài hoà ấy. Nó đã cám dỗ hai ông bà về tội kiêu ngạo, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Và rồi hai ông bà đã nghe theo lời quyến rủ đường mật ấy, phản bội cùng Thiên Chúa qua hành động giơ tay bứt trái cấm mà ăn, để rồi phải cúi đầu nhận lãnh hình phạt của đau khổ và chết chóc. Và tệ hại hơn cả là đã làm mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa, làm mất đi ơn thánh tức là sự sống của Ngài trong tâm hồn. Cái hậu quả thảm khốc này được truyền cho nhân loại trong suốt dòng thời gian.
Thế nhưng rất may mắn cho chúng ta, bởi vì Thiên Chúa là Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài không muốn để chúng ta sống trong sự đau khổ và tuyệt vọng, vì thế ngay sau khi hai ông bà sa ngã, Ngài đã hứa ban cho nhân loại một Đấng cứu thế, tức là Đức Kitô. Ngài sẽ đến để sửa lại những hậu quả thảm khốc do tội Adong gây nên, Ngài sẽ đến để nối lại nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, giao hoà chúng ta lại với Thiên Chúa. Bởi đó, trong đêm thánh vọng phục sinh, chúng ta đã gọi tội Adong là tội hồng phúc vì nhờ đó mà chúng ta có được Đấng Cứu thế.
Cũng trong chiều hướng ấy thánh Phaolô đã viết: Bởi một người mà tội lỗi đã đột nhập vào thế gian, và cùng với tội lỗi là sự chết. Thì cũng vậy, bởi một người mà sự công chính đã ngự trị trên thế gian, và cùng với sự công chính là sự sống. Sự sống này được chuyển thông cho hết thảy mọi người. Ba chữ "bởi một người" đã trở nên một điệp khúc được lặp đi lặp lại. Thực vậy, bởi một người mà nhân loại đã bị dẫn vào vòng tội lỗi, nhưng đồng thời cũng bởi một người mà nhân loại được dẫn vào miền đất sống. Thánh Phaolô đã đưa ra sự tương phản giữa Adong và Chúa Giêsu. Adong thì kiêu ngạo, còn Chúa Giêsu thì khiêm nhường. Adong thì sa ngã, còn Chúa Giêsu thì chiến thắng. Kết quả là Adong thì dẫn đến sự chết, còn Chúa Giêsu thì dẫn đến sự sống. Và thánh Phaolô đã kết luận: Nơi nào tội lỗi ngập tràn thì ân sủng lại càng tràn ngập hơn.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy Satan đã cám dỗ Chúa Giêsu cũng với cái chiến thuật mà nó đã dùng để dụ dỗ hai ông bà nguyên tổ. Từ của ăn vật chất, đến khát vọng kiêu căng muốn thử thách Thiên Chúa và trở nên ngang hàng với Ngài.
Chúa Giêsu đã chiến thắng và nêu gương cho chúng ta. Bởi đó mỗi khi gặp phải những cám dỗ và thử thách, chúng ta hãy xin Chúa nâng đỡ, để chúng ta cũng sẽ chiến thắng, hầu nhờ đó mà trung thành với Chúa mãi mãi.
8. Những cơn cám dỗ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có nhiều người thắc mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ con người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng khi thấy con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội, nhưng mục đích chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại quỷ dữ.
Ngày nay người ta quên sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực hoạt động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.
Nhìn vào ba cuộc ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch, có chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.
Thoạt tiên ma quỷ tấn công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.
Kéo chú ý của người ta vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng đại những nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu cấp bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.
Khi ta đã hoàn toàn mê mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba, đó là tìm thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng lìa xa Thiên Chúa.
Ông bà nguyên tổ đã rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha mình.
Chúa Giêsu, trái lại, đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống tâm tình của người con hiếu thảo.
Khi ma quỷ phóng đại nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, chỉ sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.
Khi ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu của mình, Chúa Giêsu đã biết kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục Đức Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa Cha quyết định.
Tuy đã thắng trong cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi thì đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người chống đối đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượn chính những người thân tín như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù khi phải chiến đấu trong mồ hôi pha máu, Người vẫn nói: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, xin vâng theo ý Cha mà thôi”.
Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy ma quỷ. Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.
Thay vì tuân phục ý Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời Chúa, tôi luôn luôn muốn sai bảo Chúa.
Mùa Chay này, Chúa kêu gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến đấu chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình và tìm vâng phục ý Chúa.
Hãy đặt ra cho mình một chương trình sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.
Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh để tôi đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo, tin cậy phó thác vào Người.
Lạy Thiên Chúa là Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Theo bạn, ngày nay ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một ví dụ.
2) Bạn thường thua hay thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ đâu?
3) Đâu là âm mưu của ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?
9. Quỷ bỏ Người mà đi.
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Sống là chịu tác động của hoàn cảnh bên ngoài. Có những điều nâng đời sống của ta lên, và cũng có những điều khiến ta ngã qụy.
Chấp nhận làm người là chấp nhận bị cám dỗ. Cám dỗ từ bên ngoài, từ quỷ dữ, từ tha nhân... Cám dỗ từ bên trong, từ đòi hỏi của bản năng tự nhiên, của thân xác, từ sự khép kín của trí tuệ và lạnh giá của con tim.
Phận người chênh vênh vì luôn bị cám dỗ, nhưng phận người lại cao cả hào hùng vì con người có thể thắng được mọi cơn cám dỗ bằng một lựa chọn đầy tự do.
Nhìn lại ba cơn cám dỗ tiêu biểu của Đức Giêsu, ta thấy chúng có một mẫu số chung. Đó là Ngài bị lôi kéo sống cho mình, lo cho mình, xây đắp cho mình. Dù là dùng quyền năng Cha ban để biến đá thành bánh ăn cho đỡ đói. Dù là nhảy xuống từ nóc Đền thờ như một thách đố đối với Thiên Chúa yêu thương, hay như một biểu diễn ngoạn mục để thu hút quần chúng. Dù là sấp mình bái lạy Satan để được nắm mọi quyền hành trên muôn nước.
Giàu sang, quyền lực, khoái lạc vẫn là những cám dỗ muôn thuở, cho mọi người, mọi tập thể đạo đời.
Đức Giêsu đã thắng được các cơn cám dỗ.
Cơn cám dỗ lớn nhất là quay vào mình, chọn mình thay vì chọn Chúa và anh em.
Chúng ta cần nhận ra những cơn cám dỗ hiền lành, mang một lớp vỏ bên ngoài vô hại.
Một số bạn trẻ Thái Lan mơ ước có được 7 điều, tất cả đều bắt đầu bằng chữ C theo tiếng Anh: xe hơi, điện thoại di động, quần áo, máy vi tính, một căn hộ sang trọng, thẻ tín dụng, thuốc ngừa thai.
Không phải vật chất là điều xấu. Nhưng nếu con người bị ám ảnh bởi vật chất và coi đó là mục đích duy nhất của đời mình, thì cuộc sống sẽ nghèo nàn biết chừng nào!
Sống đâu phải chỉ để hưởng thụ, mà còn để hiến trao. Con người đâu phải chỉ là thân xác, mà còn là tinh thần. Cuộc sống đâu phải chỉ ở đời này, mà còn ở đời sau.
Cần tập chiến thắng cơn cám dỗ bằng cầu nguyện, hy sinh.
Hy sinh là làm chủ các giác quan và trí tưởng tượng, là khiêm tốn nhận mình yếu đuối, mỏng dòn, là dám cương quyết từ chối: "Hãy xéo đi, Satan."
Gợi Ý Chia Sẻ
Chúng ta thường đứng trước những chọn lựa: chọn giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái chính và cái phụ; chọn cái tốt hơn giữa những cái tốt; chọn cách tốt hơn để làm một điều tốt... Có khi nào bạn bị giằng co khi phải chọn lựa không?
Chúa có thể gửi đến cho ta những thử thách. Nếu vượt qua được, chúng ta sẽ trưởng thành và lớn lên trong tình yêu. Bạn có khi nào vượt được một thử thách nho nhỏ hay lớn lao không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lòng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
10. Cám dỗ thời nay
Cám dỗ là một trong những thực tại khó nhận biết nhất trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Khó nhận biết là vì nó vô hình vô dạng, vì nó muôn màu muôn vẻ. Nguy hiểm hơn thế nữa là vì nó rất êm ái, dịu dàng và nó lại rất phù hợp với bản năng và sở thích của mỗi người chúng ta.
Bài Phúc Âm hôm nay ghi nhận ba cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã phải chịu, Thật ra, ba cơn cám dỗ này là đại diện tiêu biểu cho tất cả các cơn cám dỗ thường ngày của mỗi người chúng ta. Nó bao gồm ba lãnh vực mà có lẽ con người quan tâm nhiều nhất đó là: tiền tài, danh vọng và quyền lực.
1. Cơn cám dỗ thứ nhất: Hoá đá thành bánh.
Nhiều người nghĩ rằng, cơn cám dỗ này chỉ có thể xảy ra với Chúa Giêsu chứ làm sao mà cám dỗ chúng ta được. Vì chúng ta làm sao mà hoá đá thành bánh được? Thưa không. Hơn bao giờ hết, cơn cám dỗ này thường xuyên đeo bám chúng ta, không những thế nó còn được tinh vi hoá một cách đa dạng và phong phú. Nó len lỏi vào trong cuộc sống chúng ta với đủ mọi thứ hình thức mời gọi hấp dẫn, với những lý lẽ rất thuyết phục, nó được đội lốt dưới những sự việc xem ra rất đạo đức. Ai trong chúng ta chẳng muốn "ngồi mát mà ăn bát bát vàng", muốn có được đủ mọi thứ mà không phải lao động vất vả, muốn Chúa làm phép lạ cho ta khỏi phải cực nhọc. Tệ hơn nữa, đôi khi chúng ta còn tham lam vơ vét, bóc lột hoặc là chèn ép anh em để tích luỹ, làm giàu cho một mình chúng ta. Muốn biến hoá tất cả tài sản cua người khác thành của chúng ta. Đó chính là cơn cám dỗ hoá đá thành bánh thời nay của mỗi người chúng ta.
2. Cơn cám dỗ thứ hai: Nhảy từ trên nóc đền thờ xuống.
Đền thờ lúc đó là nơi tập trung rất nhiều người, nếu nhảy từ trên nóc xuống mà không hề hấn gì, chắc chắn mọi người sẽ trầm trồ thánh phục và khen ngợi. Danh tiếng sẽ nổi nang lừng lẫy.
Chúng ta cũng vẫn thường bị cám dỗ nhảy từ trên nóc đền thờ xuống mỗi khi chúng ta sống phô trương. Đây cũng chính là căn bệnh của thời đại. Người ta đua nhau phô trương. Phô trương tài cán, phô trương bằng cấp, phô trương thành tích, phô trương tiền của, phô trương thế lực, thậm chí phô trương cả thân thể...
Không ít người đã bỏ ra hàng trăm triệu cho một bữa tiệc sinh nhật, mua chiếc điện thoại với giá 120 triệu, kinh khủng hơn có người còn dám bỏ ra 20 triệu đô để thực hiện chuyến du lịch lên cung trăng... Tất cả những điều này với mục đích gì nếu không phải là muốn chứng tỏ mình là người giàu sang, sành điệu, làm cho người đời kính nể, thán phục. Hay nói cách khác là để lôi kéo sự chú ý về mình. Đó là cơn cám dỗ về danh vọng.
3. Cơn cám dỗ thứ thứ ba: Bái lạy quỷ sẽ có được quyền lực.
Cơn cám dỗ thứ ba này nghe có vẻ lộ liễu, trắng trợn, xem ra khó mà thuyết phục được ta. Vì chẳng ai muốn bỏ Chúa để bái lạy ma quỷ đâu. Nhưng trên thực tế thì khác, nhiều khi chúng ta vẫn bái lạy ma quỷ mà chúng ta không biết hoặc chúng ta biết mà chá chẩn làm ngơ như không biết vậy, để lương tâm khỏi bị cắn rứt.
Thật vậy, nhiều người công giáo khi buôn bán vẫn đặt tượng thần tài trong góc nhà, vẫn cúng bái ông địa để được ăn nên làm ra. Nhiều người vẫn đi xem bói toán, vẫn coi ngày coi tháng, vẫn tin dị đoan nhảm nhí. Nhiều người vẫn phủ nhận mình là người công giáo để được thăng quan tiến chức. Như vậy một cách nào đó chúng ta đã gạt Chúa ra một bên và bái lạy ma quỷ rồi.
Mùa chay là mùa sám hối, hãy mau trở về với Chúa vì Chúa đang chờ đợi từng người chúng ta. Lời Chúa hôm nay là một nhắc nhở rất đúng lúc, là một cảnh báo khẩn thiết cho chúng ta. Nhiều khi chúng ta cũng bận rộn mải mê trong vòng xoáy của xã hội, với những trói buộc của tiền tài danh vọng và quyền lực mà chúng ta không nhận ra, chúng ta cứ nghĩ đó là những chuyện thường tình, bởi vì ai cũng làm như vậy mà chứ có phải mình tôi đâu. Tôi không làm thì người khác cũng làm... Chúng ta cũng thường đưa ra những lý do rất thuyết phục cho những việc làm sai trái của chúng ta để rồi chúng ta cứ an tâm sống trong tội lỗi mà không biết.
Chúng ta hãy tha thiết xin ơn Chúa giúp chúng ta hồi tâm trở về với Chúa, và luôn luôn cảnh giác trước những mời gọi hấp dẫn của thế gian, trước những cơn cám dỗ của thời đại. Chúng ta hãy xét xem những cám dỗ nào đang trói buộc chúng ta và giúp ta can đảm nói "không" trước những cám dỗ đó như gương của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu, dứt khoát:
Không nghe theo ma quỷ để được thoả mãn nhu cầu cá nhân, mặc dù rất cần.
Không tìm danh vọng để được tung hô, mặc dù nó nằm trong tầm tay.
Không màng quyền lực để tránh khỏi thập giá, mặc dù rất dễ.
Nhưng một lòng vâng theo thánh ý Chúa Cha, cho dù có phải đau khổ và phải chết. Amen.
11. Những cuộc cám dỗ bất tận – R. Veritas.
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
Khởi đầu công cuộc cứu chuộc, Chúa Giêsu đã trải qua biến cố chịu thử thách, chịu ma quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng. Những cám dỗ của Chúa Giêsu xét cho cùng cũng có thể rút về hai điểm chính, là cám dỗ về thực thể mình là ai? Đến sống trên trần gian này để làm gì?
Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu về thực thể mình là Con Thiên Chúa: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này thành thức ăn".
Thử thách đòi có dấu lạ để trắc nghiệm xem mình có thật là Con Thiên Chúa hay không. Ma quỷ cám dỗ Chúa nghi ngờ thay đổi sứ mạng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha: "Nếu ông sấp mình thờ lạy ta, thì ta sẽ cho ông tất cả".
Sứ mạng của Chúa Giêsu là con người trở về cùng Thiên Chúa, chứ đâu phải con người làm nô lệ cho tội lỗi để củng cố vinh quang cho riêng mình Ngài. Chúa Giêsu nhắc lại: "Con chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi".
Sống vâng phục Thiên Chúa, thi hành thánh ý Ngài đã là sứ mạng căn bản nhất của con người, của mỗi người chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và đã được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc để trở thành con cái Thiên Chúa, được chia sẻ sự sống Thần Linh của Thiên Chúa. Chúng ta được Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường để chiến thắng những cám dỗ, và chúng ta không thể nào tránh khỏi con đường này trong cuộc sống của mình, đó là con đường vâng phục, lắng nghe Lời Chúa.
Hôm nay chúng ta bắt đầu Mùa Chay, và chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta dốc quyết một điều cụ thể cho đời sống của mình trong Mùa Chay này. Mỗi người chúng ta hãy nhìn về cuộc sống của mình, xem mình đã có ý thức về thực thể mình là ai và xác tín mình là con của Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu cứu chuộc hay không? Có ý thức rõ ràng là sứ mạng của mình trên trần gian này là sống vâng phục Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa không?
Chúng ta hãy dốc quyết một cách cụ thể trong Mùa Chay này, đọc Lời Chúa, ít ra không đọc hàng ngày thì mỗi tuần một lần để cho Lời Chúa chỉ dẫn cuộc sống chúng ta, nhắc cho chúng ta luôn luôn nhớ mình là con cái Thiên Chúa và sống trên trần gian này bằng cuộc sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
12. Theo Ađam hay theo Chúa Giêsu?
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Điều gì sẽ xảy ra nếu trái đất không đi đúng quỹ đạo mà Thiên Chúa đã vạch ra cho nó? Trong trường hợp nầy, một thảm họa lớn nhất trong lịch sử loài người và lịch sử vũ trụ sẽ xảy ra. Một trận hoả hoạn toàn cầu khủng khiếp chưa từng thấy sẽ bùng lên thiêu rụi hết mọi thứ nếu trái đất xích lại gần mặt trời hơn cự ly hiện nay, hoặc giá băng sẽ bao trùm trái đất khiến sự sống của mọi sinh vật sẽ bị huỷ diệt nếu trái đất trệch ra xa mặt trời hơn khoảng cách hiện tại.
Điều gì sẽ xảy ra nếu nước biển không tuân theo quy luật là nước phải tụ về chỗ trũng thấp? Lúc đó, Thái Bình Dương thỉnh thoảng tràn lên đến tận dãy Trường Sơn và toàn bộ phố xá ruộng vườn đều bị cào xới bình địa, mọi cư dân đang sống trên đường đi của nó trở thành lương thực cho các loài tôm cá.
Điều gì sẽ xảy ra nếu quy luật giao thông không được người tham gia giao thông tuân giữ? Lúc đó, xe cộ sẽ trở thành vũ khí huỷ diệt hàng loạt trên toàn cầu và đường sá trở thành nơi ngốn nhiều nhân mạng hơn hết thảy mọi cuộc chiến tranh.
Điều gì sẽ xảy ra nếu ngữ pháp không được người ta tôn trọng lúc giao tiếp? Khi đó, chỉ có người nói mới hiểu mình nói gì và người chung quanh không thể hiểu được điều ta nói.
Điều gì sẽ xảy ra nếu loài người không đi theo con đường mà Đấng sáng tạo đã vạch ra cho mình? Lịch sử Hội Thánh cho thấy nguyên tổ loài người đã đi trật đường Chúa... và phải lãnh lấy hậu quả là đau khổ và chết chóc.
Nói tóm lại, mọi sự đều phải vận hành theo quy luật mà Thiên Chúa đã an bài thì sự sống mới được duy trì và khi quy luật không được tôn trọng thì thảm hoạ sẽ xảy ra cho vũ trụ, cho thế giới, cho mọi loài.
Bài trích sách sáng thế được công bố trong phụng vụ hôm nay khẳng định lại chân lý nầy. Khi hai ông bà nguyên tổ đi trệch đường lối Thiên Chúa (được minh hoạ bằng việc Chúa truyền đừng ăn trái cấm mà hai ông bà bất tuân) thì hậu quả đau thương đã đến với hai ông bà và lan truyền đến toàn thể nhân loại.
Qua bài đọc thứ hai, thánh Phao-lô khẳng định lần nữa chân lý nầy: Vì một người (là Ađam) đã không đi theo đường lối Thiên Chúa mà muôn người trở thành tội nhân (Rôma 5, 19) và tội lỗi đã gây nên sự chết! (Rôma 5, 12).
Khốc liệt thay hậu quả của việc bất tuân, của việc đi lệch ra ngoài quỹ đạo!
* * *
Vì loài người đi lệch quỹ đạo của Thiên Chúa, không đi theo đường lối Thiên Chúa, nên đau khổ và sự chết là hậu quả tất nhiên đã đến với mọi người.
Để cứu vớt loài người, Thiên Chúa Cha đã cho Ngôi Hai xuống thế, trở thành một Ađam mới, sửa lại những sai lệch do Ađam cũ gây nên, hầu cứu nhân loại khỏi vòng huỷ diệt.
Cũng như Ađam cũ, Ađam mới cũng bị Sa-tan cám dỗ đi trệch đường của Thiên Chúa với hy vọng một khi 'Đầu Tàu' bị trật bánh thì toàn thể đoàn tàu cũng sa xuống vực sâu. Ba lần cám dỗ trong hoang địa mà Tin Mừng hôm nay thuật lại là tổng hợp của 'trăm chiều thử thách' (Do-thái 4, 15) mà Ađam mới là Chúa Giêsu phải đương đầu trong cuộc đời dương thế.
Nhưng khác với Ađam cũ nông nổi nghe lời Sa-tan xúi giục đi trệch đường lối Thiên Chúa, Đức Giêsu đã kiên quyết tuân theo đường lối Chúa Cha không hề sai lệch, cho dù phải chấp nhận thập giá và cái chết vô cùng đau thương (Pl 2,8). Nhờ thế, Ngài đã nắn lại những sai trật do Ađam gây ra và đã lôi kéo được nhân loại về với Thiên Chúa.
Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải đương đầu với những cám dỗ, thử thách mà Ađam cũ cũng như Ađam mới là Chúa Giêsu đã gặp hôm xưa.
Bước theo vết chân của Ađam cũ (tức là nghe theo lời mời mọc của Sa-tan) để rồi phải lâm vào cảnh đau thương chết chóc hay kiên quyết chống cự để trung thành với đường lối của Thiên Chúa là chọn lựa mà mỗi người chúng ta phải lặp lại mỗi ngày. Bao lâu còn mang thân phận con người, bấy lâu chúng ta còn phải chịu thử thách và chiến đấu.
Đường vào thiên quốc hay lối xuống địa ngục, cửa sinh hay cửa tử đang mở ra trước mặt mọi người. Xin Chúa thương giúp chúng ta đừng mê muội đi vào cửa tử nhưng khôn ngoan sáng suốt chọn bước vào cửa sinh, theo gót Chúa Giêsu là Đấng đã vinh thắng khải hoàn.
13. Chiến thắng cám dỗ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Trong những câu chuyện thường tình khi gặp nhau người ta thường hỏi nhau về cuộc sống, việc công việc làm ăn, về sức khoẻ, về gia đạo... Chúng ta luôn mong muốn cho người thân của chúng ta được bình an, được thịnh vượng. Đó chính là những ước mơ thật bình thường của con người. Và Thiên Chúa, Ngài cũng luôn chúc lành cho những ước mơ của chúng ta. Ngài luôn mong muốn con người được an khang thịnh vượng. Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Ngài tạo dựng con người để được sống trong hạnh phúc. Ngài cho con người trông coi và hưởng dùng gia sản thiên nhiên mà chính Ngài đã tạo dựng.
Thế nhưng, ma quỷ luôn len lỏi vào những ước mơ thật chính đáng đó để xúi giục con người loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Ma qủy luôn khuyến dụ con người làm theo ý mình và tôn vinh chính mình. Ma qủy luôn đẩy con người đến lòng tham vô độ về danh lợi thú đến đánh mất tình liên đới với đồng loại và với Thiên Chúa. Ba cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng cũng là ba cám dỗ mà ma qủy vẫn tiếp tục gieo vào tâm hồn con người hôm nay.
Cám dỗ thứ nhất đó chính là của cải và cơm bánh hằng ngày. Cha ông ta vẫn nói:
"Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ mang phần cho ta"
Đó chính là sự công bằng đích thực. Có làm có hửơng. Có những ngày tháng lặn lội ngược xuôi bôn ba nơi chốn chợ hay dầm mưa dãi nắng nơi nương đồng mới có ngày nhàn hạ hưởng dùng hoa trái mình làm nên. Nhiều người đã không ý thức điều đó. Vì thói tham lam và lười biếng họ muốn "ngồi nhà mát ăn bát vàng". Họ đang tâm làm giầu bằng thủ đoạn, bằng lừa gạt. Họ vì tiền mà đánh mất tình bạn. Họ vì miếng cơm manh áo mà đánh mất lương tri. Họ muốn biến đá thành bánh mà chẳng cần lao động cực nhọc. Lòng tham đã khiến họ quên đi phẩm giá cao đẹp của loài người là hình ảnh của Thiên Chúa, thế nên cần phải tìm kiếm những gì cao siêu hơn là những miếng bánh mau hư nát và cũng chẳng bao giờ thoả mãn lòng tham con người.
Cám dỗ thứ hai chính là tính đòi hỏi người khác phục vụ cho những đam mê sở thích của mình. Đó là lối sống hưởng thụ và thác loạn. Ngày nay người ta vẫn sợ các cậu ấm cô chiêu. Từ nhỏ đã được cha mẹ cưng phụng, chiều chuộng nên chỉ biết đua đòi, phóng khoáng. Sống ngông cuồng đến độ bất tuân phục lề luật. Sống hành xử theo ý mình, cho dù đó là những trò mạo hiểm gây hại cho bản thân và cho đồng loại như: xì kè, ma túy, mại dâm, đua xe, lạng lách... Đó chính là con đường mà ma qủy đã gieo vào lòng người: "cứ gieo mình xuống đi.... và mọi sự sẽ có các thiên sứ lo liệu...". Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở họ: "chớ thử thách Thiên Chúa". Thiên Chúa là Đấng công thẳng. Mọi việc con người làm hôm nay đều phải trả lẽ trước mặt Chúa trong ngày sau nơi toà phán xét chí công của Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba chính là lòng tự mãn, kiêu căng của con người. Ma qủy luôn cám dỗ con người "coi trời bằng vung". Họ hành động như thể không có Thiên Chúa. Họ sống theo ý mình, tệ hại nhất chính là sự nuông chiều theo những đam mê sở thích của mình. Ma qủy luôn làm cho con người cảm thấy thoả thích trong những vinh hoa phú qúy trần gian. Nó dẫn con người đi trong những đam mê bất chính, những hưởng thụ lầm lạc. Con người vì kiêu căng muốn hưởng thụ tất cả nên dễ dàng bỏ Chúa, bỏ lề luật để tôn thờ những con bò mộng, lợn vàng là danh lợi thú trần gian. Tôn thờ những tạo vật thấp hèn nên con người cũng có những lối hành xử đê tiện và thấp hèn.
Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng ba cám dỗ đó trên nền tảng căn tính của con người. Con người là hình ảnh Thiên Chúa và vượt xa muôn loài thụ tạo nên chẳng có vật gì đáng cho con người phải bán rẻ lương tâm để tôn thờ. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên con người, mới đáng để con người phải cúi mình tôn thờ. Thế nên, chỉ khi con người sống tôn thờ Thiên Chúa, con người mới sống đúng phẩm giá của mình hơn, vì "nhân linh ư vạn vật". Chỉ khi con người thoát ra khỏi sự ràng buộc khỏi những tham sân si, con người mới sống an bình hơn.
Ước gì Mùa chay sẽ giúp chúng ta tìm lại đúng phẩm gía cao đẹp của chính mình. Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng sự dữ nâng đỡ và giúp chúng ta chiến thắng những cám dỗ đang đeo đuổi và ràng buộc tâm hồn chúng ta. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết thanh luyện chính mình để mỗi ngày nên hoàn thiện như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Amen.
14. Những cuộc cám dỗ bất tận – Cố Lm. Hồng Phúc
Con người phải luôn luôn chiến đấu, chiến đấu với ngoại cảnh, với chính mình. Thánh Kinh gọi chung là chiến đấu với sự dữ. Nhưng bên sau bối cảnh chiến đấu ấy, ẩn hiện chập chờn một nhân vật mà Kinh Thánh gọi là kẻ thù. Ấy là Satan, là ma quỉ. Ai sẽ cứu thoát nhân loại khỏi nanh vuốt của Satan?
Từ thuở ban đầu, sách Khải Nguyên cho biết, nguyên tổ vừa sa ngã thì Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu rỗi và ơn cứu độ sẽ đến từ giòng họ Adam. Lời hứa sẽ được thực hiện nơi Chúa Giêsu, “sinh bởi người phụ nữ” (Gal 4, 4), “sẽ đạp đầu con rắn”.
Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan, Thánh Thần hướng dẫn Ngài vào trong hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ. Thật là huyền diệu. Thiên Chúa mà phải đối đầu trực diện với ma quỉ? Đó cũng là gương mẫu cho chúng ta biết chống lại ma quỉ.
“Ngươi hãy biến những hòn đá này trở nên bánh, ăn cho khỏi đói” –Không. “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi Lời của Thiên Chúa”.
“Ngươi hãy gieo mình xuống vực thẳm đi, Thiên Thần sẽ nâng đỡ và ông sẽ được vinh quang” –Không. “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa là Chúa ngươi”.
“Ngươi hãy sấp mình thờ lạy ta, ta sẽ cho ngươi tất cả” –Không. “ Phải thờ lạy Thiên Chúa và phụng sự một mình Ngài”.
Ba tiếng “không” vọng lên như vũ bão đánh bại Satan.
Cuộc cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là cuộc cám dỗ của chúng ta. Và cuộc chiến thắng của Chúa cũng là của chúng ta. Ai lại không trải qua ba cơn cám dỗ ấy?
Cơn cám dỗ thứ nhất là cuộc giao tranh ngàn đời giữa xác thịt và thần trí. Giác quan của chúng ta đói khát bánh tình nhục dục. Nhưng, loài người “không sống nguyên bởi bánh mà thôi”.
Cơn cám dỗ thứ hai tế nhị hơn hướng về “cái tôi” của mình, mình phải là trên hết, tài giỏi hơn cả, ai cũng phải nể nang kính phục.
Cơn cám dỗ thứ ba là mộng đô hộ thế giới bằng tiền tài danh vọng, tự cho mình là Chúa, ngoài ra không có Chúa nào cả.
Như Chúa, chúng ta hãy chống lại Satan và trả lời bằng ba chữ “không”: Không chiều theo đòi hỏi của xác thịt, không chiều theo sự tự tôn và không đặt mammon làm Chúa tể.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hằng gặp sự cám dỗ. Tiếng của thần dữ vẫn còn vọng lên: ngươi sẽ trở nên như Chúa. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên Con Thiên Chúa sống thân mật với Ngài. Thần dữ mời gọi ăn quả cấm. Chúa Giêsu khuyên ta lắng nghe lời Chúa và đem thực hành. Chính Ngài là Lời của Thiên Chúa, là của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Vì thế, đầu mùa Chay, Phụng vụ dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa cho chúng con được đói khát chính Đấng là Bánh trường sinh chân thật và được sống nhờ mọi lời từ miệng Chúa phán ra” (Lời nguyện Hiệp lễ).
Ngày nay, có một số người, khi nghe nói đến ma quỉ cám dỗ, họ bỉu môi cho là việc tưởng tượng. Cha Ravignan, nhà diễn giả trứ danh nói rằng: Cái khôn ngoan của ma quỉ thời nay là làm cho người ta tin tưởng rằng nó không có, để dễ dàng hoạt động.
15. Cám dỗ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
+ Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
+ Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ.
Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn. Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
16. Đứng về phía Chúa Giêsu để chống lại tên cám dỗ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Mùa Chay Thánh, Giáo hội quen gọi là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng với những việc tốt lành theo truyền thống là ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Chúa nhật thứ I Mùa Chay hôm nay, thánh Matthêu trình bày cho chúng ta cơn cám dỗ của Chúa Giêsu: "Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ" (Mt 4,1), cho thấy dù là Con Thiên Chúa, Ngài đã nhận lấy thử thách, chiến đấu với chống lại tội lỗi để cứu chúng ta là kẻ có tội. Sau khi Chúa Giêsu đã nhịn chay bốn mươi đêm ngày, Ngài cảm thấy đói, ma quỷ bắt đầu cám dỗ (x. Mt 4, 2), nó bắt Ngài lựa chọn giữa những gì có thể. Cảnh đối nghịch giữa tên cám dỗ và Chúa Giêsu thể hiện rõ căn tính và nguồn gốc của Chúa Giêsu trong lịch sử Israel.
Ba phen cám dỗ
Trình thuật ghi rõ "Ma quỷ lìa bỏ Người" (Mt 4,11) Điều này muốn nói rằng, cuộc chạm trán giữa Chúa Giêsu và tên cám dỗ được lặp lại, nhưng chắc chắn kết thúc và phần thắng thuộc về Chúa Giêsu qua việc thánh hiến, hoàn tất bằng cuộc khổ nạn và Phục sinh.
Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu theo một trình tự rõ ràng. Một bên Chúa Giêsu, bên kia là ma quỷ. Cả hai nhân vật không cần giới thiệu. Chúa Giêsu được độc giả biết đến khi tin vào Ngài. Ma quỷ là thành phần của thế giới quen thuộc nơi người Dothái. Ma quỷ tiếng Dothái là "Satan" (tiếng Hylạp là "Quỷ") ám chỉ tên đối phương. Đó là một nhân vật mà bản tính là đối đầu. Nó đối đầu với ai? Với Thiên Chúa trước hết.
Phen thứ nhất (c. 1-4)
Khung cảnh diễn ra tại samạc. Samạc tự nhiên gợi lên thời Xuất hành và sự đối diện giữa Thiên Chúa và dân Ngài. 40 ngày nhắc lại 40 năm trong samạc và 40 ngày Môsê ở trên núi. Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày. Chúa Giêsu đang ở trong tình trạng cần thiết "Người cảm thấy đói" (Mt 4,2). Ma quỷ đặt vấn đề: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh" (Mt 4,3). Như là một gợi ý cho Con Thiên Chúa.
- Ma quỷ cám dỗ Chúa về quyền lực: "hãy khiến những hòn đá này...". Đá chỉ đá và bánh chỉ là bánh, Ma Quỷ yêu cầu Chúa làm trái tự nhiên "khiến đá thành bánh". Khi từ chối khiến đá thành bánh, Chúa Giêsu mạc khải rõ Ngài là Con Thiên Chúa.
- Chúa ra lệnh: "Có lời chép rằng: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi’"(Mt 4,10). Nó ẩn chứa một cách hành văn theo kiểu Sách Thánh để làm sáng tỏ thái độ. Đây là cả một chương trình, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đúng như lời Kinh Thánh, Ngài đã trở nên người vâng lời Thiên Chúa Cha, chấp nhận đói để mạc khải cho con người biết rằng, cuộc sống của họ còn đói một thứ rất quan trọng, đó là: đói Lời Chúa. Thật vậy, "Người ta sống không nguyên bởi bánh" (Mt 4, 4).
Phen thứ hai (c. 5-7)
Ma Quỷ đưa Chúa Giêsu lên nóc Đền thờ Giêrusalem, đặt Chúa vào một vị trí ngược lại với bản chất của Ngài: mục tiêu tối hậu của nó là chỉ cho Ngài thấy rõ Đền thờ Giêrusalem, thử thách Ngài về thực tại quyền lực, yêu cầu Ngài gieo mình từ Đền thờ xuống để chiếm được ngay lập tức với sự giúp đỡ tuyệt vời của các Thiên Thần, và qua sự thể hiện uy quyền đó, người Do thái nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Ma Quỷ biện minh rõ về danh tính của nó là kẻ chống đối Thiên Chúa. Lời đề nghị của nó rất thô thiển. Khi ấy, phải đặt sự cám dỗ vào đâu và tại sao Chúa Giêsu lại đẩy lùi cơn cám dỗ? Nếu Chúa Giêsu chịu thua tên cám dỗ, thì Ngài trở về với những niềm mong đợi của dân chúng, họ đi tìm một Đấng Messia huy hoàng và quyền lực. Chúa Giêsu đã từ chối Messia theo kiểu trên. Con đường mà Ngài chọn bao hàm sự chôn vùi trong nhân thế. Thái độ của Chúa Giêsu thật rõ ràng: được mời gọi xác định căn tính tiên tri của mình. Ngài khẳng định cách từ chối của mình thật tuyệt vời lạ thường khi đặt ra một khoảng cách căn bản giữa quyền lực thế gian và nước Thiên Chúa.
Phen thứ ba (c. 8-11)
Cuối cùng ma quỉ đưa Chúa Giêsu lên núi cao. Sau cuộc cám dỗ lần thứ nhất về kinh tế, lần thứ hai về tôn giáo và lần thứ ba cám dỗ về chính trị. Tư thế ở đây chuyển biến cách đột ngột. Từ trên cao sấp mình xuống (trả lại) sự thống trị cho Ma Quỷ. Ma quỷ chỉ cho Đức Giêsu xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang (trong chốc lát), nó hứa "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi" (Mt 4,9).
Nếu ông là con Thiên Chúa (4,3)
Nếu ông thờ lạy tôi (4,9).
Ở đây, ma quỷ tự vạch trần Con Thiên Chúa mà nó thách thức và mời gọi tôn thờ nó, có nghĩa là bắt Chúa Giêsu tôn thờ thần tượng thế gian.
Với lời đề nghị này, Chúa Giêsu đặt ma quỷ vào vị trí của nó: " Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa người, và chỉ phụng sự một mình Ngài"(Mt 4,10).
Phần kết:
Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và tên cám dỗ kết thúc bằng sự chiến thắng của Chúa Giêsu: "Ma quỷ lìa bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại hầu hạ Người".
Đứng về phía Chúa Giêsu
Chúa Giêsu bị Ma Quỷ cám dỗ đủ cả ba phen, đó cũng là những cơn cám dỗ của chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta được Thiên Chúa phú ban cho tự do lựa chọn giữa ý Chúa và ý chúng ta, chúng ta ngần ngại giữa thiện và ác. Chúa Giêsu hoàn toàn chiến thắng điều ác vì Ngài đã vâng lời Chúa Cha vô điều kiện.
Chúa nhật này đưa chúng ta vào ngay trung tâm của mầu nhiệm vượt qua: "Cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội" (Rm 12, 17). Và đây, phía sau của mầu nhiệm: Nhưng "Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thi do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế." (Rm 12, 19) Tất cả lịch sử nhân loại trải dài giữa hai sự kiện này: trước là tội nguyên tổ, ảnh hưởng đến chúng ta; sau là mầu nhiệm cứu chuộc được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế.
Bước vào Mùa Chay Thánh, mùa chiến đấu thiêng liêng, vậy chúng ta đứng về phía nào, đứng về phía Chúa Giêsu là chắc rồi. Đứng về phía Ngài, lắng nghe lời Ngài để chống lại tội lỗi, đương đầu với trận chiến thiêng liêng chống lại thần dữ, ba thù: Ma Quỷ, thế gian và xác thịt.
Lạy Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, xin giúp sức cho chúng con trong suốt Mùa Chay Thánh này. Amen.
17. Sức mạnh của hồng ân Lời Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chủ nhật thứ nhất Mùa Chay đặt chúng ta trước một thảm kịch, mà thảm kịch ấy ảnh hưởng đến sự hiện hữu của chúng ta đó là: tội lỗi và hành động của con người nhằm phá vỡ sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Trình thuật chương đầu tiên của sách Sáng thế cho thấy nguyên tổ của chúng ta đã khước từ Thiên Chúa. Nguyên nhân này nảy sinh từ "con rắn ", ma quỷ hay còn gọi là Satan. Con rắn muốn thực hiên ý định dụ dỗ Adam tự sức mình, lập luật cho mình và trở nên Thiên Chúa, mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Lời nói dối thuần túy ấy đưa con người đến chỗ diệt vong, bóp nghẹt ý muốn hiệp thông với sự sống thần linh của Ađam và cắt đứt mạch sống với Thiên Chúa khi bóp méo Lời Thiên Chúa.
Tin Mừng Matthêu cho thấy Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Nếu như nguyên tổ Ađam và Evà bị Satan ba lần dùng các chiến thuật cám dỗ với mục đích làm cho ông bà nguyên tổ hiểu lầm rằng nó đã làm những điều việc rất tốt cho Ađam và Evà. Nay nó cũng ba lần tấn công vào tương quan tình cha con giữa Chúa Giêsu với Cha Ngài.
Lần thứ nhất, nó đề nghị Chúa Giêsu tách khỏi Chúa Cha, tự khẳng định mình là Thiên Chúa khi nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh." Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4). Ngài đã vượt qua thử thách và chiến thắng ma quỷ và tuyên xưng rằng sự sống đích thực chỉ có ở nơi Thiên Chúa, cần phải tin tưởng vào lời hứa của Chúa Cha. Nên Ngài hành động và tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa Cha, vì Ngài biết rằng Chúa Cha là Đấng trung thành. Nơi hoang địa, dân Israel đã chết vì bị cám dỗ sợ thiếu bánh ăn nên tích lũy manna. Dù Thiên Chúa đã yêu cầu không nhặt bánh thừa mỗi ngày. Nhưng họ vẫn nhặt bánh thừa vì nghi ngờ rằng: nếu Thiên không ban cho bánh nữa thì sao? Nếu Thiên Chúa không giữ lời hứa? Một con chim ở trong tay tốt hơn hai con còn trong bụi rậm. Phần chúng ta, đã bao lần chúng ta bị cám dỗ mất lòng tin vào Thiên Chúa! Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta rằng Chúa Cha là Đấng luôn trung thành, giữ lời hứa và quyết hối hận vì những gì Người ban tặng cho ta.
Cơn cám dỗ thứ hai, con rắn đẩy Chúa Giêsu vào thế buộc Chúa Cha phải can thiệp cho Ngài: "vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông", điều này ngầm thể hiện sự nghi ngờ mối quan hệ hiệp nhất với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã không làm, Ngài không bắt Chúa Cha thực hiện phép lạ cho Ngài để dạy chúng ta phải khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa. Hậu quả của tội nguyên tổ một lần nữa nghi ngờ rằng Thiên Chúa còn giữ cho mình một cái gì đó mà không ban cho ông bà. Như Thiên Chúa nói với Adam: "Ngươi có thể ăn tất cả các trái cây trong vườn." Con rắn đã bóp méo lời Thiên Chúa khi nói ngược lại với Evà: "Thiên Chúa nói rằng ngươi không thể ăn tất cả các trái cây trong vườn". Không, Thiên Chúa không nói thế, vì từ nguyên thủy, Người đã cho chúng ta mọi thứ.
Con rắn đã nói dối, bởi nó phát hiện ra động cơ thực sự, chuyển hướng sang tôn thờ nó thay vì thờ phượng một mình Thiên Chúa như là nguồn gốc mọi điều thiện hảo. Ở đây chúng ta thực sự bị cám dỗ phạm thượng chống lại Thiên Chúa, từ chối Người để theo ma quỷ là kẻ có thể ban sức mạnh cho ta.
Cơn cám dỗ thứ ba: Đỉnh cao của sự cám dỗ này là ngọn núi cao và vương quyền phổ quát của Chúa Kitô. Trên núi này, Chúa Giêsu mạc khải tròn đầy sự từ bỏ trong niềm tin tuyền đối ở tay Cha. Và Chúa Cha đã biểu lộ tình phụ tử viên mãn của mình khi phục sinh Đức Giêsu. Adam mới là Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và tội lỗi nhờ tin tưởng và phó thác trong tay Chúa Cha. Adam đầu tiên tự cao tự đại, quên đi thân phận thụ tạo của chính mình " là hình ảnh Thiên Chúa " có nghĩa là không bình đẳng hoặc đồng bản tính trong tương quan với Thiên Chúa, dẫn đến sự sụp đổ của chính mình. Thay vào đó, Chúa Giêsu Kitô, Adam thứ hai, đã vâng lời Thiên Chúa, hạ mình xuống nên được suy tôn khi phục hổi phẩm giá là con của chúng ta với Cha trên trời (x. Pl 2: 6-11).
Phụng vụ Chúa nhật đầu tiên của Mùa Chay đưa chúng ta trở lại với căn nguyên của tội lỗi là: ý muốn tự chủ, từ chối Hồng ân Lời của Thiên Chúa là Cha, Đấng là nguồn gốc mọi điều thiện hảo với tình con thảo.
Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: đâu là vị trí của Thiên Chúa trong tất cả điều ấy?
Vậy chúng ta hãy chọn Chúa, đứng về phía Chúa, đón nhận Lời Chúa như là một hồng ân để chống lại tội lỗi, đương đầu với trận chiến thiêng liêng chống lại thần dữ, ba thù: Ma Quỷ, thế gian và xác thịt.
Lạy Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse cùng Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin giúp sức cho chúng con trong suốt Mùa Chay Thánh này. Amen.
18. Dám nói "không" – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Đời Tam quốc, Quan Văn Trường bị thất thủ thảm bại ở Hạ Bì. Thân đơn nhất mã, phò hai người chị dâu (tức vợ của Lưu Bị) qua nương tựa nhà Tào Tháo. Đêm đến, Tào Tháo cho ba người ngủ chung một phòng, dụng tâm là muốn cho chị em loạn luân, chúa tôi phải thất lễ.
Quan Văn Trường một dạ thẳng ngay không để tà tâm vật dụng quyến rũ, tay cầm đuốc, tay cầm sách Xuân Thu đọc đến sáng.
Mọi người thấy vậy khen Văn Trường là người chính trực. Từ đó danh từ “Nguọn đuốc Văn Trường” được dùng để ám chỉ những kẻ ngay thẳng, không để vật dục quyến rũ lòng mình.
***
Những con người anh dũng lướt thắng cám dỗ như Quan Văn Trường quả là hiếm. Càng hiếm hơn nữa, những con người không để cho vật dục quyến rũ. Vì người ta đã quen lối sống dễ dãi, thích hưởng thụ, ham khoái lạc. Cho nên, tâm trí họ lúc nào cũng là là mặt đất, không đủ sức bật để vượt qua những cám dỗ thử thách, mà vươn lên những ý tưởng cao thượng, những ý nghĩ thánh thiêng.
Dù thế nào đi nữa, cám dỗ vẫn là số phận của con người. Đối với người Kitô hữu, cám dỗ càng đeo đuổi họ như hình với bóng, nó chỉ buông tha khi họ đã đi hết cuộc hành trình trần gian. Tuy nhiên, thành công hay thất bại cũng tùy thuộc họ chiến thắng hay đầu hàng các cơn cám dỗ. Số phận đời đời cũng sẽ căn cứ vào việc họ đã vượt qua cơn thử thách hay buông xuôi bỏ cuộc
Cuộc đời Đức Giêsu không thiếu những cơn cám dỗ, có lúc nhất thời, có khi dai dẳng. Những cơn cám dỗ ấy hoặc đến từ ma quỷ, hoặc từ người ta, hay có khi lại ngay trong bản thân Người.
Tin mừng hôm nay thuật lại các cơn cám dỗ từ ma quỷ: Chúng dụ dỗ Ngưòi biến thành bánh mà ăn, vì Người đã ăn chay ròng rã bốn mươi đếm ngày. Chúng khiêu khích Người hãy gieo mình xuống từ nóc cao đền thờ. Chúng hứa cho Người vinh hoa lợi lộc các nước, nếu Người sấp mình bái lạy chúng. Cuối cùng, Đức Giêsu đã oanh liệt chiến thắng các cơn cám dỗ ấy, nhờ trưng dẫn các câu Kinh Thánh. Thật vậy, cám dỗ nào cũng bị Người đánh bại bởi các lời Kinh thánh.
Kinh thánh chính là khiên thuẫn cho người tín hữu trong mọi cơn cám dỗ. Một khi Lời Chúa đã thấm nhiễm vào con tim, khối óc, và toát ra trong các hành vi người tín hữu, trhì không một cơn cám dỗ nào mà họ không thể vượt qua, không một thử thách nào mà họ không lướt thắng.
Cám dỗ nào cũng dẫn chúng ta đến một chọn lựa. Hoặc là chọn Thánh ý Chúa hoặc là chọn chính mình. Người không có Lời Chúa hướng dẫn, thường hay chọn mình lắm: họ chọn danh vọng cho mình, giàu sang cho mình, khoái lạc cho mình. Khi “cái tôi” đã đầy ứ trong lòng thì Thiên Chúa phải đội nón ra đi.
Đức Giêsu đã không thể thắng các cơn cám dỗ, nếu Người chỉ qui hướng về mình. Người sẽ thua ma quỷ nếu Người tìm vinh danh mình khi hóa đá thành bánh, Người sẽ bị sập bẫy Satan khi nhảy xuống từ nóc cao đền thờ để được khen ngợi tung hô. Người sẽ thất bại thảm thương khi quỳ lạy ma quỷ để được vinh hoa thế gian. Nhưng không, không bao giờ Người làm thế, vì tinh thần chủ đạo của Người, vũ khí sắc bén của Người chính là: “Thánh Ý Chúa”. Người suy nghĩ, nói năng, hành động bất cứ điều gì cũng là để theo Thánh Ý Cha. Chính trong cơn cám dỗ khốc liệt nhất của Người trước cái chết, Người cũng chỉ thốt lên: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Mt 26,39).
Muốn vâng theo ý Cha, cần phải cầu nguyện và ăn chay, hy sinh và hãm mình. Trước khi chịu ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu đã chẳng ăn chay, cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày đó sao?
Mùa chay là mùa dọn mình để chiến đấu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ từ ma quỷ, từ nơi người khác, và nhất là từ ngay chính bản thân. Có bao nhiêu giác quan là có bấy nhiêu cửa ngõ cho cám dỗ đi vào.
Nếu so sánh vũ khí để chiến đấu với cơn cám dỗ là “cung và tên” thì “cung” chính là lòng khiêm tốn nhận mình yếu hèn cầu nhờ ơn Chúa, và “tên” chính là ý chí cương quyết nói “Không” trước cơn thử thách. Trong các kế sách để thắng cám dỗ chỉ có duy nhất một diệu kế. Đó là kế “Đào vi thượng sách”.
Dù bầu trời đen mênh mông bao trùm địâ cầu, thì trong một bờ đá nào đó, canh hoa mảnhmai vẫn hồn nhiêu nơ trong đêm khuya. Canh hoa mỏng manh là thê mà sao dũng mạnh hơn tâm hồn chúng ta nhiều quá! nếu hoa lá là ngôn sứ của thiên Chúa, thì sứ điệp của chúng là: Hãy mềm mại để cho Lời Chúa đưa chúng ta vượt qua đêm mưa bão của cám dỗ, thử thách. Và ngày mai trời lại sáng.
***
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có những kinh nghiệm của những sa ngã tồi tệ. Sa ngã này chưa vực dậy được, thì sa ngã khác lại vùi dập chúng con xuống.
Xin cứu giúp chúng con và ban cho chúng con tình thần kiên vững của Đức Kitô, luôn sống theo Lời Chúa và tuan theo Thánh ý Người. Amen.
19. Cám dỗ - Lm Hưng Long, CRM
Trong một câu chuyện thân mật giữa một tu sĩ già 70 tuổi và một tu sĩ trẻ, tu sĩ trẻ tâm sự: "Ở cái tuổi của tôi, cơn cám dỗ tôi cảm thấy phải chiến đấu dữ dằn nhất là làm sao giữ được tâm hồn trong sạch. Không hiểu tới tuổi nào thì cám dỗ mới chịu tha!" Vị tu sĩ già cười và tếu táo nói: "Tuổi 70". Thế rồi vào một ngày nọ khi hai tu sĩ đang coi TV giải trí, bất thình lình hình ảnh hai anh chị yêu nhau thân mật hiện lên. Đêm về hai tu sĩ chứng kiến cảnh chiến đấu trằn trọc của vị tu sĩ già: "Không được! Không được! Tội lỗi! Tội lỗi! Xin Chúa thương xót con!". Sáng hôm sau, tu sĩ gia gặp tu sĩ trẻ và nói: "Bạn còn nhớ những gì tôi nói với bạn hôm nao về vấn đề cám dỗ không? Về cái tuổi không còn bị cám dỗ nữa đó? Tôi lầm rồi. Đúng ra là 71 tuổi chứ không phải là 70".
Câu chuyện cho thấy cám dỗ thử thách là một kinh nghiệm lâu dài trong suốt cuộc đời tại thế. Cám dỗ đến với mọi người bất kể tuổi tác, nam nữ, hay cấp bậc văn hoá. Cám dỗ đến với mỗi người cách khác nhau, tùy theo tính tình, hoàn cảnh sống, và khả năng của mỗi người. Cám dỗ chỉ kết thúc khi ta nhắm mắt lìa đời.
Thiên Chúa cho phép cám dỗ xảy ra như phương thế giúp chúng ta chứng tỏ tình yêu đối với Ngài, lớn lên trong nhân đức, và trưởng thành hơn. Thánh Phaolô cho biết Thiên Chúa không để cho chúng ta bị cám dỗ quá sức mình, ám chỉ là Thiên Chúa cho phép cám dỗ xảy ra trong giới hạn của chúng ta. Vì thế cám dỗ không phải là tội. Chúng ta tin chắc rằng những cám dỗ chúng ta gặp hàng ngày cũng nằm trong ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Trong bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêô trình bày cho chúng ta hình ảnh Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ trước khi Người bắt đầu sứ mạng công khai rao giảng Tin mừng. Trong ba cơn cám dỗ ma quỉ xúi giục Ngài: thứ nhất hãy biến đá thành bánh, thứ hai hãy thi hành quyền bính trên dân chúng, và thứ ba hãy cứu mình khỏi phải chết.
Trong cơn cám dỗ thứ nhất ma quỷ đề nghị với Chúa là Ngài có thể chiếm được sự kính trọng và biết ơn của dân chúng bằng việc đáp ứng nhu cầu vật chất của họ. Chúa đã chống lại chước cám dỗ bằng việc nhìn nhận là trong cuộc sống còn nhiều cái quan trọng hơn thỏa mãn giác quan. Chỉ có của ăn vật chất không thì chưa đủ.
Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ đề nghị với Chúa là Ngài có thể biểu diễn quyền lực phi thường để làm cho dân chúng kinh ngạc và do đó có thể thu hút lôi kéo họ. Chúa Giêsu đã thẳng thắn khẳng định là Ngài không muốn dùng quyền phép để ép dân chúng theo ý Ngài. Thứ quyền bính đó là thứ quyền bính của ma quỷ, chỉ trói buộc dân chúng. Chúa Giêsu muốn tình yêu của con người được tự do dâng hiến. Ngài mời gọi họ trở nên con cái Chúa chứ không muốn ép họ.
Trong cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ cám dỗ Ngài tránh né con đường thánh giá đau khổ đưa tới cái chết thê thảm. Chúa Giêsu đã từ chối con đường vinh quang thế tục và chấp nhận con đường thánh giá đau khổ. Chính con đường phục vụ và đau khổ thập giá đã chiến thắng sự chết và dẫn tới sự phục sinh vinh quang.
Chúa Giêsu bị cám dỗ trong mọi lãnh vực như chúng ta, nhưng Ngài đã không phạm tội. Ngài được đầy tràn Thánh Thần, Đấng đã nâng đỡ Ngài qua cơn cám dỗ và giúp Ngài chiến thắng thần dữ. Ngài dựa trên Lời Chúa như một vũ khí vũng chắc để đối phó với tất cả những cám dỗ thử thách. Ngài thật là gương mẫu cao cả đáng cho chúng ta noi theo trong việc đối phó với mọi chước cám dỗ.
Mùa Chay là cơ hội tốt giúp chúng ta sống gần Chúa và tiến tới sự đầy tràn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu chấp nhận của an và sức mạnh của Thiên Chúa và can đảm từ chối đường lối của ma quỷ, từ chối của ăn và quyền lực nọ trao tặng. Chúng ta hãy tin tưởng Thiên Chúa sẽ nâng đỡ chúng ta trong tất cả những gian nan thử thách.
20. Cám dỗ của ngày hôm nay – An Phong
Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta về nguồn cội của thân phận con người: tội lỗi. Nguyên tổ Adong, Evà đã sa chước cám dỗ của Satan, và tội lỗi đã đột nhập vào thế gian. Chính đó là nguyên nhân của biết bao khốn cực trong cuộc sống nhân loại: "Chỉ vì một người, tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội" (bài đọc 2).
Nhưng Lời Chúa hôm nay không dừng lại ở vấn đề tội lỗi, mà muốn trình bày cho chúng ta biết Ơn Cứu độ trong Đức Giêsu Kitô… "… nhờ một người thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa cho trở nên công chính, nghĩa là được sống" (Bài đọc 2).
Đây là một lời khẳng định có liên quan đến tất cả nhân loại: tất cả mọi người đều bị chi phối dưới quyền lực của tội lỗi; chỉ có một con đường giải thoát dành cho con người, đó là Ơn Cứu độ trong Đức Giêsu Kitô.
Con đường mà cả nhân loại đã đi và đã thất bại, thì nay chính Đức Giêsu đã đi lại con đường đó, con đường làm người, chấp nhận mọi tội lụy của con người; và Ngài đã chiến thắng cám dỗ của Satan.
Cám dỗ ngày hôm nay cũng vẫn còn đầy dẫy: đó là những cám dỗ của nẻo đường Satan, cám dỗ muốn theo cách thức của Satan để giải quyết cuộc đời mình, cám dỗ tìm niềm vui và sự thành đạt cuộc đời trong lạc thú, quyền lực và của cải.
Người kitô hữu chỉ có thể chiến thắng Satan khi hiệp thông vào cuộc chiến thắng của Đức Giêsu; nhờ tin vào sự hướng dẫn của Lời Chúa, trông cậy nơi quyền năng của Ngài, và hết lòng yêu mến phụng thờ Ngài: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra".
"Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi". (Chúa Giêsu muốn nhắc nhủ người bị cám dỗ những lời này)
Hỡi con nhỏ của Cha
Cha ở đây, Cha đâu có bỏ con
Sao con kém tin thế!
Con đã quá tự phụ!
Con vẫn còn tin cậy ở con!
Nếu con muốn lướt thắng tất cả các chước cám dỗ,
Mà không sa ngã, không suy nhược,
Con phải ý thức rằng con chưa đủ vững mạnh,
Con phải để mình được dẫn dắt
như một trẻ nhỏ, hỡi con nhỏ của Cha!
…
Con phải rất bé nhỏ, hoàn toàn bé nhỏ
Vì Cha chỉ yêu thương những trẻ nhỏ.
Michel Quoist
21. Hãy chọn Chúa – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một người nói với tôi: Cô A hay cám dỗ các cha, các thầy lắm đấy!
Tôi nói: cha, thầy làm sao cám dỗ được, vì họ đã chọn Chúa hơn mọi quyến rũ trần gian rồi. Họ đâu còn thèm những đam mê trần tục.
Người ấy nói: Nhưng vậy mà cũng khối cha, thầy bị cám dỗ đấy.
Tôi nói: Thực ra, nếu “Bụt ở trên cao, gà nào dám mổ”. Sở dĩ có những người bị sa ngã là họ tự bước xuống nên mới bị sa vào sự dữ. Nếu “Bụt” cứ ở trên cao, thì gà đâu với được. Nếu những người đi tu không tự mình mở đường để xuống thì các cô đâu dám đến gần, và cũng chẳng cám dỗ nào làm gì được các ngài.
Ví dụ:
+ Nhiều lần tôi vẫn đi qua biết bao hàng quán, họ bày bán đủ thứ bánh, đủ thứ đồ ăn, nhưng tôi không thèm, thì những cái bầy ra ấy cũng bằng không. Chúng chả có giá trị gì nếu bản thân tôi không có nhu cầu.
+ Nhiều lần tôi vẫn đi qua những con phố với biết bao cô gái đứng đường nhưng không phải ai đi đường cũng dừng lại để mua vui. Chúng chẳng cám dỗ được ai, nếu một ai đó không tự mình dừng lại để mua vui.
Thực ra, thế gian thì muôn màu muôn vẻ. Thế gian bày ra trước mắt biết bao cao lương mỹ vị. Nhưng không phải loại nào cũng phù hợp, cũng có lợi cho cơ thể, thế nên phải biết chọn lọc, biết dùng những cái được phép cho cơ thể khỏe mạnh, cho tâm hồn thanh sạch.
Thế nhưng, con người thường tham lam ôm đồm. Thích mọi sự, thích mọi cái. Dù biết rằng nó chẳng có lợi cho con người. Dù biết rằng có thể gây nên tai họa chết người. Con người vẫn thích cái mới, cái lạ nên tự mình sa vào sự dữ và chết trong đam mê tội lỗi.
Trong muôn vàn cám dỗ thì cám dỗ về danh lợi thú dễ đánh đổ lòng người nhất. Đó cũng chính là ba nguyên nhân gây nên biết bao khổ đau cho nhân thế. Vì nó mà nhiều người “thân tàn ma dại”, đánh mất tình người. Vì nó mà bao gia đình đau khổ, chia ly. Nhìn vào xã hội, ở nơi này nơi kia đang xảy ra những bất hoà, tranh chấp, có khi giết hại lẫn nhau và làm khổ cuộc đời nhau cũng chỉ vì tiền, tình và quyền. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn những nề nếp gia phong bởi quá tôn thờ nó. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ. Anh em bạn hữu bất hoà với nhau cũng chì vì tình, vì tiền và vì quyền. Vì nó mà người ta chà đạp lên nhau, người ta làm khổ nhau và làm hại lẫn nhau.
Ở đời, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền mà đánh mất tính người. Họ đã sa vào cạm bẫy dẫu biết rằng: “một phút huy hoàng đau khổ cả đời”. Họ vẫn nhắm mắt để tìm hạnh phúc dẫu thoáng qua trong những danh lợi thú trần gian.
Ma qủy năm xưa cũng bày ra trước mắt Chúa Giêsu những thứ rất hấp dẫn về danh lợi thú. Nó đã mời mọc Chúa ăn đi để quay lưng lại với Chúa Cha như Adam đã làm năm xưa. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất, hòn đá cũng biến thành của ăn. Nó còn hứa hẹn cho Chúa nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian.
Nhưng xem ra Chúa Giêsu đã không có những nhu cầu ấy. Ngài cần Thiên Chúa và tìm kiếm thực thi ý Chúa hơn là những phù hoa trần gian. Ngài đến trần gian không phải vì những thứ ấy mà là vì muốn ý Chúa Cha nên trọn. Những cám dỗ ấy dù được bày ra thật hấp dẫn nhưng chỉ là sản phẩm của ma quỷ nên thường là gỉa tạo và mau qua. Chỉ có Thiên Chúa mới là thật, mới trường tồn qua mọi thời gian nếu con người biết vâng nghe lời Thiên Chúa.
Có một điều là chúng ta thường đi ngược lại với chọn lựa của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khước từ danh lợi thú mau qua để chọn vâng theo thánh ý Chúa Cha, còn chúng ta lại tự đi tìm danh lợi thú mà sẵn sàng bỏ Chúa, bỏ lề luật của Chúa. Nhiều người đã vì danh lợi thú mà bán rẻ lương tâm, mà xem thường đạo lý, và bất chấp luật Chúa. Chính vì những danh lợi thú mà nhân loại đã gây nên biết bao tang thương cho nhau qua lường gạt, tranh giành, có khi còn giết hại lẫn nhau.
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta “hãy chọn Chúa”. Hãy chọn Chúa thay vì mải mê đi chọn những ảo ảnh trần gian. Hãy chọn Chúa để mang lại một thế giới thanh bình thay cho một thế giới chiếm đoạt, tranh giành lẫn nhau. Xin đừng vì những danh lợi thú mau qua mà chà đạp lên nhau và gây đau khổ cho nhau. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết tâm niệm: “tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa còn những sự khác hãy để Thiên Chúa định liệu phần tốt nhất cho ta”. Amen.
22. Những cơn cám dỗ
Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu cám dỗ....
Anh chị em thân mến,
Mùa Chay là mùa Hội Thánh kêu mời chúng ta hãy chân thành sám hối, thành tâm lắng nghe Lời Chúa và chuyên cần cầu nguyện. Mùa chay cũng nhắc nhở mọi tín hữu hãy tỉnh thức đề phòng mọi thử thách, cám dỗ của ma quỉ, nhất là không để nó lợi dụng, làm hại mình...Vì thế, Lời Chúa của ngày chúa nhật hôm nay, nói đến hai cuộc cám dỗ: một: là trong vườn địa đàng của Adam + Evà. Kết quả hai ông bà thất bại te tua, lôi kéo con cháu hư mất đời đời. Hai: là của Chúa Giêsu trong hoang địa, như là Adam mới, đại diện cho cả nhân loại; kết quả Chúa chiến thắng hoàn toàn, đem lại ơn cứu rổi cho cả loài người. Đây chính là bài học mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong chúa nhật hôm nay...
a/. Cuộc cám dỗ đầu tiên: chính ma quỉ gieo vào lòng Adam + Evà, tính tự kiêu và ngờ vực Thiên Chúa: Ông bà ăn trái đó đi, sẽ không chết đâu; nhưng mắt ông bà sẽ mở ra và sẽ sáng như TC...Mọi ý định tốt lành của Thiên Chúa đều bị đặt vấn đề, trở thành những ý xấu. Chúa cấm ông bà ăn vì sợ ông bà biết điều thiện ác như Thiên Chúa. Ma quỉ là chúa của sự nham hiểm, quỉ quyệt; vì thế ông bà không hiểu được, nên đã sập bẩy: đó là tội...
Cuộc cám dỗ thứ hai: cũng do chính ma quỉ, đã cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Kết quả: ma quỉ thua cuộc. Chúa Giêsu, là Adam mới, đã toàn thắng. Trước hết, khi cám dỗ Chúa Giêsu, nó cũng nhắm vào tính kiêu căng: Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho hòn đá này hóa thành bánh mà ăn...Ma quỉ dựa vào thực tế vì Chúa đói; nhưng nó rất xảo quyệt muốn tách Chúa Giêsu ra khỏi sứ mạng cao cả của Người. Chúa thực sự đang đói, nhưng Chúa từ chối thẳng thừng đề nghị của ma quỉ, vì Người luôn hướng về Thiên Chúa và luôn tìm làm đẹp Ý Chúa mà thôi, nên Người dùng lời Chúa mà trả lời nó: Người ta sống không nguyên bởi cơm bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Ma quỉ chưa chịu thua, nên đề nghị Chúa biểu dương quyền lực mình bằng cách nhảy từ nóc đền thờ xuống, để mọi người phải thán phục quyền năng Chúa. Một lần nữa, ma quỉ muốn Chúa Giêsu vì tính kiêu căng, muốn tách ra khỏi sứ mạng mình, và ra khỏi cả liên hệ mật thiết với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần...nhưng Chúa Giêsu quá rõ tâm địa xảo trá của nó, nên đã dùng lời Kinh Thánh mà nói: Ngươi không được thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi...
Sau cùng, ma quỉ lại nhắm vào tính kiêu căng, tham lam giàu sang thế gian. Nó nói: nếu ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông quyền trên tất cả các nước ấy... Dĩ nhiên trận này Chúa cũng thắng, nhưng rõ ràng, cám dỗ này là cái cám dỗ suốt cuộc đời của Chúa. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua... Một lần khác, khi đang giảng dạy, dân chúng và cả pharisêu thách thức Chúa làm một dấu lạ trên trời hay dưới đất để họ tin...Rồi trong vườn cây dầu, hấp hối cùng cực, chính Chúa cũng xin Chúa Cha cho mình khỏi uống chén đắng ô nhục này. Điều đó muốn nói, các cơn cám dỗ quá nặng nề, dù vậy Chúa vẫn vượt qua được, vì Chúa hoàn toàn vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá...
b/. Câu hỏi: Có người nói: tại sao Chúa Giêsu là Thiên Chúa lại chịu để ma quỉ cám dỗ?- Thưa vì ma quỉ chỉ cám dỗ Chúa trong bản tính loài người mà thôi; hơn nữa vì khiêm hạ, Chúa chịu cám dỗ, vì Người với tính cách là Adam mới, là Anh cả của nhân loại, đã sẵn sàng nhận chịu cám dỗ và chiến thắng chúng, nêu gương cho nhân loại chúng ta...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là cám dỗ của mỗi người chúng ta: biến đá thành bánh để, ai cũng tham sống sợ chết - thích sung sướng ở đời, thích tỏ quyền uy mình hơn mọi người khác - ham thích giàu sang vinh quang trần gian, muốn mình làm vua, muốn mình trên trước người khác... Chúa Giêsu đã sống khiêm tốn thẳm sâu, nên mới có thể chiến thắng ma quỉ, ta có muốn bắt chước Chúa Giêsu không?
23. Vượt thắng cám dỗ – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Người cảm thấy đói. Satan xuất hiện, mon men lại gần để cám dỗ. Chúa đã chiến thắng Satan bằng sức mạnh Thánh Thần và Lời Thiên Chúa.
1. Ba cơn cám dỗ
- Cơn cám dỗ I phát xuất từ cái đói. Ma quỷ gợi ý cho Chúa Giêsu “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi” (Mt 4,3). Cơn cám dỗ về bánh nói lên ước muốn căn bản nhất là bản năng sinh tồn của con người. Thân xác với những khát khao thèm muốn luôn đòi hỏi phải được nuôi nấng, chiều chuộng và vỗ về.
- Trong cơn cám dỗ II, ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên thượng đỉnh đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống coi! Bởi đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,5). Ma quỷ dùng Tv 91,11 để gợi ý cho Chúa Giêsu nhảy từ nóc đền thờ xuống, xem Thiên Chúa có biểu lộ quyền năng của Người hay không. Cám dỗ thách đố Thiên Chúa biểu lộ quyền năng để tìm vinh quang cá nhân. Đó là bản năng đối kháng lại những giới hạn của cuộc sống nhân sinh. Con người thường muốn quên đi những điều kiện sinh sống giới hạn của mình. Họ muốn cất cánh bay lên cõi thần tiên bằng men rượu, ma túy, lạc thú…
- Trong cơn cám dỗ III, ma quỷ đem Chúa Giêsu lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người thấy các nước thiên hạ và các thứ phú quý, rồi nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những cái ấy, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi…” (Mt 4,9). Một cơn cám dỗ đã hằng theo đuổi dân Israel, chẳng những trong thời gian hành trình sa mạc mà cả khi định cư trên đất Palestina. Đó là thờ lạy các tà thần mong được giàu sang, quyền thế, có khả năng thống trị các quốc gia khác. Bản năng thống trị, cái “ý chí quyền lực” nằm sẵn trong mỗi một con người. Người ta thường muốn cai trị và sai khiến những người yếu hơn mình. Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, lạc thú, vật chất, tiện nghi, sắc dục.
Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đều đã bắt đầu bằng chữ “nếu”. Chúng khởi sự bằng một lý luận với những lý do có vẻ chính đáng, hợp lý và đáng ao ước để tấn công vào những đòi hỏi của bản năng con người Giêsu.
Tuy là ba cơn cám dỗ, nhưng vẫn chỉ là một. Bởi trọng tâm của vấn đề chính là gieo rắc sự khủng hoảng của niềm tin. Chúa Giêsu bị cám dỗ nghi ngờ về căn tính Con Thiên Chúa của chính mình. Cả ba Phúc âm Mátthêu, Máccô, Luca đều mô tả cơn cám dỗ ngay sau khi Chúa chịu phép Rửa ở sông Giođan, và có tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3.17). Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu quay lưng lại với sứ mạng đã nhận từ nơi Chúa Cha (GLTC #394).
Cơn cám dỗ Chúa Giêsu cũng giống như cơn cám dỗ của Ađam và Eva trong bài đọc một (St 2,7-9;3,1-7). Ma qủy gieo sự nghi ngờ và mất niềm tin nơi những kẻ được gọi là con cái Thiên Chúa. Qua bản năng ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa và sau cùng, con người sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng đòi bá chủ và thống trị vì muốn ngang hàng với Thiên Chúa.
Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer. Không vượt qua được cơn cám dỗ, Lucifer đã trở thành Satan.
Thụ tạo đầu tiên trong con người là Ađam và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Và hai Nguyên Tổ này cũng đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ.
Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.
Chúa Giêsu sau khi đã trải qua những cám dỗ và thắng các cám dỗ cũng thấy được điều này, nên Người đã dạy các môn đệ không được coi thường bằng cách dựa vào sức lực, tài trí, và khả năng của riêng mình. Người dạy phải cầu nguyện và xin ơn Chúa Thánh Thần: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ”.
2. Sức mạnh nào giúp vượt thắng cám dỗ?
Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình, nhưng mà Người đi cùng với Chúa Thánh Thần.
- “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1)
- “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
- “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).
Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC # 2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với các thánh trên trời.
Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
3. Cầu khẩn và kêu xin Chúa Thánh Thần bằng cách nào?
- Khi thằng quỷ dâm ô xúi tôi mở những emails lạ, dụ dỗ tôi tò mò đi vào những websites của Trư Bát Giới… Tôi phải mau mắn và thành tâm xin Chúa Thánh Thần soi lòng mở trí để tôi nhận ra rằng: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục (Mt 5,28-29).
- Khi thằng quỷ gian dối xúi tôi nói dóc, nói xạo, nói quanh co, nói sai sự thật, lừa bịp thiên hạ … tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để tôi có thể nhớ lời của Chúa Giêsu phán dạy tôi rằng: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không.’ Thêm thắt điều gì là do ác quỷ mà ra!” (Mt 5,37).
- Khi thằng quỷ kiêu căng, ngạo mạn xúi tôi phê bình chỉ trích người này, xét đoán người kia, lên án người nọ … thì tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần giúp tôi nhớ rằng: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6,37).
- Khi bị thằng quỷ dâm ô xúi tôi ly dị, bỏ chồng, phụ vợ, làm giấy ly dị giả … tôi phải cầu xin với Chúa Thánh Thần ngay để Ngài giúp cho tôi hiểu rằng “[Tôi và người bạn đời của tôi] không còn là hai [nữa], nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,8-9).
- Khi thằng quỷ kiêu căng xúi tôi khoe khoang, tự kiêu tự đại … thì tôi xin Chúa Thánh Thần nhắc nhở cho tôi rằng: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục … kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 11,2; 16,18).
- Khi thằng quỷ giận hờn xúi tôi giận người này, ghét người kia, thù người nọ … thì tôi phải cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng để tôi hiểu rằng: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt (Mt 5,22).
- Khi thằng quỷ dâm dục xúi bẩy tôi đi ngoại tình, ăn chơi trác táng, quan hệ bừa bãi … tôi phải van nài Chúa Thánh Thần, xin Ngài nhắc nhở cho tôi nhớ rằng: “Thân xác [của con] là Đền Thờ của [Ta đấy nhé! Chớ có làm cho nó ra ô uế!]” (1 Cr 6,19). (x. Suy niệm Mùa Chay, Lm Ansgar Phạm Tĩnh).
Sau khi chịu phép Rửa tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thánh tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!
Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa.
Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.
Hãy cầu nguyện với Chúa Thành Thần bằng tâm tình của Thánh Augustinô: "Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.".
24. Phương thế chiến thắng cám dỗ
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào Mùa Chay Thánh.
Mùa Chay trải dài 40 ngày. Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước khi đến Đất hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa.Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện.Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện.Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau 40 đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.
1. Chịu cám dỗ
Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.Vua Đavit sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết người anh em này.Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối…Các chước cám dỗ của Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.
Thiên Chúa cho phép ma qủy cám dỗ để thử thách xem con người ta có trung tín hay không, và để cho con người có cơ hội lập công phúc, để họ có thể chứng minh đức tin của mình.
Thiên Chúa cho có sự cám dỗ để cho con người phấn đấu thanh luyện mình, và đồng thời, khi Ngài cho phép như thế, ma qủy cũng lợi dụng triệt để mà cám dỗ con người. Mỗi ngày, chúng bày ra những chước độc mưu thâm, mỗi lúc một tinh vi xảo quyệt, lắt léo khôn khéo để cám dỗ người ta.
Thiên Chúa ban ơn thêm sức để con người chúng ta có thể chống lại những cơn cám dỗ ấy. Không khi nào Chúa để con người phải chịu những cơn cám dỗ qúa sức mình chịu đựng được. Như vậy, chúng ta phải chiến đấu với những cơn cám dỗ. Điều cần thiết là chúng ta phải phân định được ma qủy với những hành động cám dỗ xấu xa của nó để chống trả và xa lánh.
2. Ma qủy thường cám dỗ như thế nào?
Ma quỷ lừa dối con người.Ai cũng có trí khôn, biết phân biệt điều nào là xấu, là nguy hại và chẳng nên làm. Nhưng ma qủy lừa dối cho rằng việc làm đó là có lợi, là cần thiết nên người ta mới dấn sâu vào. Khi cám dỗ Evà, ma qủy không nói rằng ăn trái cấm đó là chống lại Thiên Chúa, nó chỉ nói rằng ăn trái này thì Bà sẽ được trở nên thông minh như Thiên Chúa. Có nhiều người bước vào nghiện ngập bằng những phút giây sảng khoái thăng hoa lừa dối. Nếu người ta biết sự xấu xa của tội thì có lẽ không ai lại đi phạm tội, nhưng người ta tưởng lầm, hoặc bị cám dỗ coi đó là hạnh phúc. Nếu người ta nhìn thấy những hình khổ nơi hỏa ngục thì chằng ai dám phạm tội. Ma qủy khiến người ta phạm tội bằng cách dẫn người ta một cách từ từ. Không khi nào có ai có thể phạm tội trọng ngay tức khắc, tội trọng chỉ bắt đầu bằng những tội nhẹ. Người ta thường nói, khi còn bé ăn trộm một qủa trứng, rồi khi lớn lên sẽ ăn trộm cả một con bò. Những tội trọng bắt đầu từ những nết xấu hay những tội nho nhỏ. Ma qủy cũng vậy, nó dẫn dắt người ta từ chỗ tưởng chừng vấp phạm những điều nhỏ tới phạm những điều lớn. Không ai nghiện thuốc ngay từ điếu hút đầu tiên, không ai nghiện rượu ngay khi uống chén đầu tiên. Nhưng dần dần nếu lập đi lập lại nhiều lần sẽ dẫn đến chỗ nghiện ngập (x. Buồn vui cùng kiếp người, ĐTGM Ngô Quang Kiệt, trang 33).
Chuyện kể rằng: khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:
- Ông đang trồng cây gì thế?
- Cây nho.
- Nó có lợi gì không?
- Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.
- Vậy thì để tôi giúp ông.
Satan liền giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Nôe lấy trái nho làm rượu.
Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; nếu uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu uống nữa thì... hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).
Ma quỷ luôn lừa dối con người. Chúng ta phải luôn cảnh giác.
3. Phương thế chiến thắng cám dỗ.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có những phương thế để có thể chiến thắng.
a. Lời Chúa.
Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.
Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
- Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
- Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
- Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ". Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39b); “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
b. Ăn chay cầu nguyện.
Ăn chay cầu nguyện giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay cầu nguyện giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.
Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta!
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay.
Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: "Hãy tỉnh thức". Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.
25. Suy niệm của Lm. Laurensô Chu Văn Quang
CHÚA GIÊSU BỊ CÁM DỖ VÀ NGÀI ĐÃ VƯỢT QUA THÀNH CÔNG.
Trình thuật cơn cám dỗ của Chúa Giêsu được đặt trong bối cảnh cuộc đời của Chúa Giêsu trước khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai. Địa điểm của chỗ cám dỗ này là Núi Quruntur vẫn còn ngày nay, một vùng núi đá chập chùng nằm giữa Jericho và Jerusalem. Nếu một người vào tu viện và leo lên đỉnh núi, họ có thể nhìn thấy rõ Đền Thờ Jerusalem từ đây. Chúa Giêsu bị cám dỗ để chọn lựa cách cứu chuộc con người: Cách dễ nhất và nhanh nhất để con người tin vào Ngài là làm phép lạ cho dân có của ăn và ban cho họ tất cả những gì họ muốn như của cải, danh vọng, uy quyền..., như sau khi Chúa làm phép lạ nuôi 5000 người, họ đã toan tính tôn Ngài làm vua nên Ngài phải bảo các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, giải tán dân chúng, còn Ngài lên núi cầu nguyện (Jn 6:); Cách khó nhất và lâu nhất là giáo dục để họ nhận ra sự thật, giúp họ kiên nhẫn thực hành, và vượt qua đau khổ để đạt tới ơn cứu độ; cách này đòi hỏi Ngài phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên Thập Giá để mang lại ơn cứu độ cho con người.
1/ Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.
(1) Cám dỗ thứ nhất về sự ăn uống: Trình thuật kể “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói.” Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!" Quỉ biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nó cũng biết Ngài mang bản tính con người nên cảm thấy đói sau khi ăn chay, và nó biết để bảo vệ sự sống, một người sẽ không nghĩ tới gì khác hơn là tìm được của ăn cho đỡ đói, nên nó cám dỗ Ngài làm phép lạ bằng cách hóa đá thành bánh ăn.
Nhưng Chúa Giêsu đáp lời quỉ và dạy chúng ta một bài học quan trọng: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." Con người là một tổng hợp của hồn và xác, như thân xác cần bánh ăn mới có thể sống cách thể lý, linh hồn cũng cần được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa thì mới có thể sống về phương diện tâm linh được. Sống phần tâm linh quan trọng hơn sống phần xác, vì đó là cuộc sống đời đời. Thế mà biết bao nhiêu người sống như không có hồn, như không phải chết, qua việc họ dành trọn vẹn thời giờ cho việc mưu sinh và bỏ qua việc học hỏi Lời Chúa. Chẳng lạ gì mà họ bị rơi vào hết cơn cám dỗ này đến cơn cám dỗ khác, và quằn quại trong đau khổ.
(2) Cám dỗ thứ hai về làm phép lạ: Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Quỉ biết người Do-thái rất thích chứng kiến hay được hưởng phép lạ, và đa số dân chúng, nhất là dân Việt-nam rất thích phép lạ. Nếu muốn con người tin, Thiên Chúa chỉ cần cho họ thấy phép lạ!
Chúa Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ hai: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." Phép lạ được làm là để khơi dậy đức tin trong tâm hồn con người: nếu một người đã có niềm tin, phép lạ không còn cần nữa; nhưng nếu một người cứng lòng, dù có chứng kiến biết bao phép lạ họ vẫn không tin. Chúng ta thấy rõ điều này nơi các người trong Thượng Hội Đồng, họ vẫn không tin Chúa và còn tìm cách hủy diệt Người. Hơn nữa, niềm tin dựa trên phép lạ không vững bền; nếu không thấy phép lạ nữa, con người sẽ đánh mất đức tin. Họ muốn biến và điều khiển Thiên Chúa thành máy làm phép lạ thay vì họ phải biết tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, như những gì quỉ nói: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”
(3) Cám dỗ thứ ba cho giàu sang phú quí: Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi." Cám dỗ này cho chúng ta thấy rõ ràng sự gian dối của ma quỉ, vì tất cả những thứ quỉ hứa cho thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về chúng.
Chúa Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ ba: "Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." Đây là điều răn thứ nhất và quan trọng hơn cả. Có thể nói không một tín hữu nào không biết điều răn này; nhưng thực hành giới răn này trong cuộc sống thì không dễ dàng, vì biết bao người đã vì lợi lộc không chịu thờ phượng Thiên Chúa, lại quì sụp lạy ma quỉ. Cám dỗ này phải mở mắt cho con người hiểu rõ họ được sở hữu điều gì hoàn toàn là do bởi Thiên Chúa, chứ không từ ma quỉ, hay do bởi sức mình, hay bởi những thế lực khác.
2/ Những điều căn bản cần thiết để vượt qua chước cám dỗ
Trước tiên, kiến thức về Thiên Chúa và về con người là điều kiện chủ yếu để vượt qua cám dỗ. Để có kiến thức này, các tín hữu cần bỏ thời giờ để học hỏi về Thiên Chúa qua Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội. Không biết Kinh Thánh là không biết Thiên Chúa và không biết những dự tính và đường lối của Thiên Chúa dành cho con người. Biết những điều này, con người sẽ nhận ra ngay những cạm bẫy gian dối của ma quỉ và không dễ rơi vào. Thứ đến, niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa cũng không kém quan trọng. Con người phải vững tin Ngài sẽ không bỏ mặc con người phải đương đầu với ma quỉ, nhưng sẽ sai các thiên thần và những người tốt lành đến giúp đỡ và bảo vệ các con cái của Ngài, như đã sai các thiên thần đến nâng đỡ và bảo vệ Chúa Giêsu sau cuộc cám dỗ. Sau cùng, nhược điểm của con người là nghi ngờ sự hiện hữu, tình thương, và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhiều người lo sợ không biết có Thiên Chúa hay không, và nếu có, không biết Ngài có để mắt săn sóc đến họ không; vì thế, họ nghĩ phải tự mình lo liệu lấy cho chắc ăn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta chỉ là loài thụ tạo vì yêu thương Thiên Chúa đã dựng nên, và có rất nhiều giới hạn. Chúng ta phải diệt trừ tội kiêu ngạo và bất tuân bằng cách tập luyện cho có được hai nhân đức khiêm nhường và tuân phục như Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta.
- Chúng ta cần phải loại trừ cách nhìn ích kỷ và cá nhân của thế gian để học cái nhìn xả kỷ và tập thể của Thiên Chúa. Một người phạm tội, mọi người đều chịu; một người làm phúc, mọi người đều thông phần. Chỉ một lối sống như thế mới giúp chúng ta loại bỏ mọi cãi cọ, ghen tương tranh dành, ly dị, chiến tranh và đáp ứng được giới luật yêu thương như lời Chúa truyền dạy.
- Mọi cám dỗ đều có thể thắng vượt được nếu chúng ta chịu khó học hỏi Lời Chúa, và tập luyện để làm cho đức tin cho chúng ta mỗi ngày một thêm vững mạnh và kiên cường hơn.
26. Cám dỗ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay Thánh, câu truyện của sách Sáng Thế Ký dẫn chúng ta trở lại sự khởi nguyên của dòng dõi loài người. Thiên Chúa sáng tạo con người từ bùn đất và thổi sinh khí ban cho con người có sự sống. Thiên Chúa đặt sẵn một mảnh vườn tuyệt đẹp để con người được vui hưởng hạnh phúc. Ngay từ giây phút đầu tiên, Thiên Chúa đã nhắc nhở hai ông bà tổ tiên Ađam và Evà về sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Con rắn, biểu hiện của ma quỉ, đã cám dỗ lòng thèm khát của ông Ađam và bà Evà muốn trở nên giống Chúa qua sự hiểu biết về sự lành và sự dữ. Ma quỉ mon men dụ dỗ người đàn bà trước, Người nữ nói với con rắn: "Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: 'Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết'" (Stk 3, 2-3). Bà Evà đã sa ngã nghe theo lời cám dỗ và cùng kéo lôi Ađam vào bẫy của ma quỉ. Ông bà đã chọn lựa sự bất tuân lệnh của Chúa và trong phút chốc sự ngây thơ vô tội đã biến mất.
Cám dỗ là sự ước muốn một hành động mà chúng ta có thể hưởng lạc ngay trong khoảnh khắc nhưng sau đó lại hối hận. Cám dỗ là hướng chiều về tội. Cám dỗ cũng là dịp hay cơ hội dẫn đến những ước muốn tò mò thực hiện những hành động xấu. Những đòi hỏi ước muốn của bản năng len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta không thể nào thỏa mãn tất cả mọi khao khát của lòng ham muốn hay dục vọng. Lòng ước muốn có thể là điều tốt hoặc xấu và điều phải hoặc trái. Chúng ta có quyền chọn lựa thái độ sống tốt. Dịp tội đưa dẫn chúng ta thỏa mãn sự tò mò của tâm trí và đáp ứng những khao khát của ngũ quan thèm muốn. Vì nhùng nhằng với cơn cám dỗ, bà Evà bị rơi vào bẫy xập của ma quỉ. Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn (Stk 3, 6). Hậu qủa của sự tò mò tìm kiếm những kinh nghiệm sống thực là: Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân (Stk 3,7). Bài học kinh nghiệm sống đời giống như thế đã gây nên biết bao nhiêu thất bại nơi nhiều người. Thôi lỡ rồi!
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cầu xin: Xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Chúng ta khó có thể tránh khỏi các cơn cám dỗ, vì nó xảy đến bất ngờ mọi nơi và mọi lúc dưới nhiều hình thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết tỉnh thức phấn đấu và thắng vượt. Thường thì các cơn cám dỗ đến rất nhẹ nhàng và xem ra hợp tình hợp lý. Nó đáp ứng đúng những nhu cầu đòi hỏi của lòng ao muốn thỏa mãn thân xác và tâm linh. Muốn thắng các cơn cám dỗ, chúng ta cần tỉnh thức cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Đôi khi chúng ta còn phải trốn chạy, người ta nói: Đào vi thượng sách là thế! Chúng ta phải biết lượng sức mình, nếu chúng ta coi thường mà cứ quanh quẩn trong thách đố, ma quỉ sẽ không buông tha cho chúng ta. Chúng ta thường đối diện với những cám dỗ về danh vọng, ham muốn quyền lực, đức công bằng, sự tham lam của cải vật chất, sự ghen tương, thù ghét, và lòng ước muốn dâm dục.
Ma quỉ đã cám dỗ Chúa Giêsu về những ước muốn thỏa mãn của ăn vật chất, quyền lực và danh vọng. Chúa Giêsu đã dứt khoát chống trả các chước cám dỗ một cách mau lẹ bằng cách dựa vào lời Kinh Thánh: Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'"(Mt 4,4). Lời Chúa là lẽ sống và là khí giới vạn năng giúp chúng ta chiến đấu thắng vượt những cạm bẫy của ma quỉ. Với sức riêng, chúng ta khó vượt qua các mưu mô của quỉ dữ. Chúng ta cần phải cậy nhờ vào ơn Chúa và luôn tỉnh thức. Hằng ngày chúng ta đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Trong khi lựa chọn thái độ sống là khi chúng ta chạm trán với sự cám dỗ giữa lành và dữ, tốt và xấu. Bảy mối tội đầu là bảy loại cám dỗ hay xuất hiện: Tội kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và lười biếng phụng thờ Thiên Chúa.
Tập trung hướng nhìn về Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài. Chúa Giêsu thắng vượt các cơn cám dỗ dễ dàng bởi sự tỉnh thức và ăn chay nguyện cầu. Chúa đã dùng lời Kinh Thánh để đối đáp với những lạm dụng của ma quỉ: Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: 'Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài'" (Mt 4, 10). Ma quỉ cũng thấu đạt lời Kinh Thánh, cũng khéo léo áp dụng, tuy nhiên không đúng nơi đúng chỗ và không có ý hướng ngay lành. Ma quỉ đã thất bại và bỏ cuộc. Lời Chúa là vũ khí rất lợi hại giúp chúng ta vượt thắng những mời mọc và khiêu khích của ma quỉ. Trong mùa chay thánh này, chúng ta hãy cố gắng đọc, học hỏi, suy niệm và tin vào lời Chúa. Nghi thức xức tro mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Phúc âm.
Lòng con người hay hướng chiều về điều dữ là do bởi bản tính mỏng dòn ô nhiễm bởi tội nguyên tổ. Thánh Phaolô tông đồ trong thở gởi cho giáo đoàn Rôma đã viết: Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội (Rm 5, 12). Nếu ai nói rằng mình không bao giờ phạm tội, đó là người nói dối và lừa đảo chính mình. Đôi khi chúng ta chỉ xét mình một cách hời hợt bên ngoài và chỉ xưng thú một vài lỗi lầm quen thuộc. Thí dụ: Một năm chúng ta có cơ hội xưng tội vào mùa chay, khi vào tòa cáo giải, có người xưng: Thưa cha, trong năm qua con có bỏ lễ Chúa Nhật 2 lần, xin hết. Có lẽ chúng ta chưa xét mình cho đủ. Không dám nhìn vào đời sống nội tâm và không biết cách xét mình. Chúng ta có thể xét mình bằng cách dựa vào 10 giới răn của Chúa và 6 điều răn của Hội Thánh. Chúng ta có thể xét mình về những tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu xót. Chúng ta có thể xét mình về bổn phận đối với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Càng xét mình kỹ, càng xưng thú rõ ràng và thật lòng ăn năn chừa cải, chúng ta mới có cơ hội thăng tiến trên đường nhân đức.
Truyện minh họa: Có một thiếu phụ đem quần áo ra giếng chung để giặt nhưng vì sợ người ta thấy quần áo mình quá dơ bẩn, nên vội vàng giặt sơ sơ rồi gấp mang về phơi. Vì thế, quần áo không có cái nào sạch cả. Ngày nay, nhiều người cũng làm như thế trước mặt Chúa và trong tòa cáo giải với linh mục. Vì sợ linh mục nghe biết tội mình quá ô uế, nên họ không dám xưng từng tội một và chỉ trình bày cách tổng quát. Họ giấu những tội trọng hay cố tình nói cho nhẹ bớt, nên linh hồn họ dơ vẫn hoàn dơ.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần hy sinh chịu chết trên thập giá để cứu độ. Chúa có uy quyền để tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta đã phạm. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế (Rm 5, 19). Chúa đến để cứu độ, chứ không phải để luận phạt chúng sinh. Khi đi rao giảng Tin mừng nước trời, Chúa Giêsu đã tha tội cho nhiều người: Chúa tha tội cho người đàn bà tội lỗi khi xức dầu chân Chúa, tha tội cho phụ nữ Samaria tại giếng Giacob, tha tội cho người bất toại và tha tội cho kẻ trộm bị đóng đinh cùng… Chúa cũng đã trao quyền tháo cởi cho thánh Phêrô, các tông đồ và những người kế vị. Chúng ta tin tưởng vào quyền năng tha thứ của Chúa.
Lạy Chúa, bước vào Mùa Chay Thánh là chúng con bắt đầu bước vào mùa tập luyện. Xin cho chúng con biết can đảm xét mình và nhận diện tình trạng tâm hồn yếu đuối và tội lỗi. Chúng con là kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa xót thương và tha thứ tội lỗi chúng con.
27. Suy niệm của Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
KHÔNG ĐỂ CHO LÒNG TRUNG TÍN VỚI CHÚA
BỊ ĐEM RA TRANH LUẬN
Đức Kitô đã muốn biết đầy đủ về thân phận làm người, kể cả cám dỗ; ngoại trừ tội lỗi. Nhân tiện, cũng nên ghi chú rằng cám dỗ không phải là tội lỗi; trái lại, khi đã vượt qua được, thì cơn cám dỗ lại tăng cường lòng trung tín và làm cho Thiên Chúa càng thêm lòng nhân từ đối với ta (với điều kiện là ta đã không dại dột gieo mình vào cơn cám dỗ). Người ta có thể thấy sự khác biệt trong thái độ của Chúa và thái độ của Adong khi đối diện với ma quỷ: Chúa không tranh luận với nó. Chúng ta biết được các cơn cám dỗ của Chúa là nhờ chính Người tiết lộ ra. Có thể là các nhà chép Phúc Âm đã cô đọng lại trong một bài tường thuật mầu mè, nhiều cơn cám dỗ khác nhau mà Đức Kitô đã gặp. Ta không biết dưới hình dạng nào hay nhờ phương cách nào satan đã thử thách Chúa. Điều cốt yếu nằm trong bài học vô cùng quan trọng rút ra từ câu chuyện cám dỗ và bài học ấy kết thúc bằng lời khẳng định mặc nhiên rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và các thiên thần phục dịch Người.
Đoạn Tin Mừng này gợi lên vài ý tưởng:
1) Khi muốn chịu cám dỗ, mặc dù biết mình không sa ngã được, Chúa lưu ý chúng ta rằng mối nguy thất bại đe dọa số phận chúng ta. Ta không thiếu phương tiện đối phó, nhưng ta phải biết rằng thực tại là thực tại.
Thực tại ấy bị sự thâm độc của ‘thủ lãnh thế gian này’ (ma quỷ) nhiễm vào; chủ tâm của nó là đưa ta xa lìa Thiên Chúa. Chúng ta càng coi sự đe dọa này là huyền thoại, lại càng dễ bị sa ngã hơn. “Chúng con hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Mt 26,41).
2) Chúa chống lại một cách dứt khoát cái tiến trình mà satan muốn đặt vào trong Người. Satan khêu gợi bằng những mục tiêu giả dối đầy vẻ quyến rũ. Nó muốn nhân đó khơi dậy một điều ham muốn và lòng chiều theo ham muốn đó, tức là tội lỗi. Mỗi lần như thế, Chúa đều nghiêm khắc xua đuổi nó đi.
3) Cơn cám dỗ thứ ba đáng cho ta suy nghĩ cách riêng. Satan tìm cách hạ ơn gọi của Đức Kitô xuống hàng một với ‘thuyết cứu thế’ mang tính chất chính trị. Nó thử làm cho Chúa Giêsu thờ lạy một sự vật nào khác thay vì Thiên Chúa. Đó là một quyến rũ gần giống tội phạm tới Chúa Thánh Thần, là tội duy nhất không được tha. Tội phạm tới Thánh Linh là sự đồi bại có ý thức, được mong muốn, được chấp thuận, -sự đồi bại của trí khôn con người hết còn chịu được ‘thuyết cứu thế’ đích thực, bởi vì nó đã quyết định rằng sự cứu rỗi của con người hoàn toàn nằm trong tay con người. Như thế là chuyển sự thờ phượng từ Thiên Chúa qua một đối tượng khác. Mà lẽ ra “ngươi hãy thờ lạy một mình Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
4) Trong khi chống trả chước cám dỗ, Chúa Giêsu dựa vào uy thế của Người là Thiên Chúa. Trong cơn chiến đấu với cám dỗ, chúng ta được sự trợ giúp của Chúa Giêsu.
28. Khởi đầu từ điều nhỏ mọn.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Hắn là một tên sát nhân. Hắn đã giết một cảnh sát viên. Bây giờ hắn phải trả giá bằng hình phạt: Người ta cột hắn vào ghế điện trong nhà tù.
Người ta buộc những miếng kim khí vào cái vòng trên đầu hắn vào bắp chân hắn. Một lát nữa, dòng điện mạnh sẽ chạy qua thân xác hắn, đủ gây nên sự mất ý thức ngay lập tức và chết luôn. Viên chức phụ trách bởi tên tử tội xem hắn có muốn nói lời gì cuối cùng không. Hắn nói buột ra với giọng điệu đớn cực độ: “Đây, tất cả đã khởi đầu khi tôi ăn cắp 1 đồng 5 xu ở túi áo của mẹ tôi. Rồi tôi ăn cắp 2 đồng 5 xu. Sau đó, tôi đã bắt đầu ăn cắp đồ vật ở trường học, ở tiệm tạp hóa, tiệm thuốc. Rồi, với hai đứa bạn, tôi bắt đầu tập luyện, món kiếm được càng ngày càng lớn hơn. Cuối cùng, chúng tôi quyết định cướp ngân hàng, và lần đó tôi đã bắn viên cảnh sát. Đó, tất cả bắt đầu với 1 đồng 5 xu”.
Thưa anh chị em,
Đó là câu chuyện thường của tội ác. Đó là câu chuyện thường của lỗi lầm, nó thường khởi sự bằng một điều nhỏ mọn – 1 đồng 5 xu – một điếu thuốc, một ly rượu, một tư tưởng không tốt, một ước muốn dơ bẩn hay sự tò mò, đánh người nhỏ tuổi, không vâng lời trong những điều nhỏ mọn. Khi không được ngăn chặn, nó sẽ dẫn tới vụ ăn cướp, lạm dụng ma túy, nghiện ngập say sưa, trụy lạc đủ loại, bạo lực hành hung…
Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ. Qua đó, chúng ta thấy được chiến thuật quỷ quyệt ngàn đời của ma quỷ: Hắn luôn luôn bắt đầu tấn công con người ở khía cạnh thấp hèn nhất: sự tham ăn hay nói cách khác, sự tìm kiếm thỏa mãn xác thịt với những dục vọng đê tiện. Sau khi tấn công khía cạnh xác thịt đê hèn của con người. Một khi đã mù quáng trong những dục vọng đê tiện của thể xác, con người sẽ đánh mất đi mọi ý hướng, mọi ý chí tốt lành để chỉ biết ngụp lặn trong việc tìm kiếm danh vọng, chức quyền và của cải, tức là con người đi vào vòng nô lệ của những ước vọng hão huyền.
Đây cũng là chiến thuật cũ của ma quỷ để tấn công Chúa Giêsu. Thế những, nếu hắn đã thành công với hai ông bà nguyên tổ loài người thì hắn ta đã thất bại nặng nề với Chúa Giêsu, Ađam mới của loài người. Ba đợt cám dỗ của Satan đều nhằm đánh lạc hướng sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu. Satan đã khôn khéo đưa ra dụ dỗ Chúa ba kế hoạch hấp dẫn để chinh phục dân chúng dễ dàng: Trước hết là cứ việc biến sỏi đá thành cơm bánh, cứ việc làm phép lạ cho dân chúng được ăn no thì ai lại không ham, ai lại không muốn chạy theo Ngài. Rồi đến kế hoạch thứ hai có vẻ hấp dẫn hơn trò xiếc quốc tế: đó là chỉ cần Chúa biểu diễn quyền phép của Thiên Chúa cho dân chúng thấy mà lóe mắt thán phục, bằng một pha nhào lộn ngoạn mục từ trên tháp đền thờ Giêrusalem xuống đất mà không sợ gãy cổ què chân, vì đã có các Thiên Thần nâng đỡ Ngài. Cuối cùng Satan lại bày ra một kế hoạch thứ ba, đó là chỉ cần Chúa quỳ xuống phục lạy hắn ta một cái là sẽ đổi lấy tất cả danh vọng, giàu sang, quyền thế, thống trị muôn dân nước trên thế giới, bá chủ hoàn cầu…
Trước các đợt tấn công của Satan, Chúa Giêsu đã dứt khoát gạt bỏ cả ba kế hoạch hấp dẫn, dễ dàng đó. Chúa không muốn chinh phục người ta bằng miếng ăn, bằng quyền năng thần thánh hay bằng vinh quang vật chất trần gian. Chúa đến trần gian nầy là để thi hành sứ mạng cứu độ trần gian theo kế hoạch của Thiên Chúa Cha. Kế hoạch đó là Ngài phải mang lấy thân phận con người sống kiếp người nghèo khổ và phải đi đến tận cùng con đường gian khổ, đến cuộc tử nạn Thập giá. Đó là kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa Cha mà Chúa Giêsu phải thực hiện đến hoàn thành để đưa Ngài lên đến tột đỉnh vinh quang của cuộc chiến thắng phục sinh, nhờ đó mà loài người được cứu chuộc.
Anh chị em thân mến,
Ngày nay, Satan không hiện nguyên hình để dụ dỗ chúng ta, nhưng nó ngụy trang dưới nhiều hình thức tinh vi và tràn ngập chung quanh chúng ta, để lôi kéo chúng ta ra khỏi con đường của Chúa, để sống phóng đãng theo ý muốn của mình. Đi theo Chúa Giêsu, chúng ta chỉ có một con đường Chúa Giêsu đã chọn và chúng ta phải chọn lại luôn từng ngày, từng giờ trước những cám dỗ của miếng ăn, của tiền của, của danh lợi, của quyền thế: “Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh mà còn phải được Lời Chúa nuôi dưỡng nữa”.
Chúng ta quyết tâm biến Mùa Chay nầy thành một cuộc chiến đấu và chiến thắng vẻ vang như Chúa Giêsu. Đôi khi chúng ta phải đương đầu với những cám dỗ lớn lao, nhưng thường ra, chúng ta gặp những cám dỗ nhỏ hơn, nhất là lúc khởi đầu bao giờ cũng là chuyện nhỏ mọn. Nhưng hãy kháng cự ngay lúc khởi đầu, để được tăng sức chống lại những tấn công lớn hơn sau này của ma quỷ.
Cũng vậy, nếu muốn làm điều gì lớn lao cho Chúa, chúng ta hãy khởi đầu từ điều nhỏ mọn: một tư tưởng, một ước muốn, một lời cầu nguyện. Hãy tìm cách nói hay làm những điều tốt lành. Hãy chia sẻ chút ít cho người đang túng thiếu. Hãy đi dự Thánh lễ thường xuyên đều đặn. Mỗi ngày hãy dành ít phú đọc và suy niệm Tin Mừng. Hãy tìm ra phương thế cụ thể để nên giống Chúa Giêsu. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ mọn nhưng rõ rệt. Rồi chúng ta có thể nói: “tôi đã làm được điều đó hôm qua, tôi có thể làm được hôm nay, tôi sẽ còn có thể làm được ngày mai”.
Tất cả chúng ta muốn đứng về phía người chiến thắng. Chúa Kitô luôn chiến thắng. Ngài chiến thắng trong trận chiến chống Satan. Ngài đã chiến thắng vào lễ phục sinh đầu tiên. Chúng ta hãy đứng về phía Ngài trong Mùa Chay và chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng với Ngài vào lễ Phục Sinh.
29. Cám dỗ
Có hai người buôn ngọc quí gặp nhau tại một sa mạc vắng vẻ. Người nào cũng muốn khoe sự giàu sang của mình bằng cách, trong lúc chuyển hàng từ lưng lạc đà xuống, làm bộ đánh rơi những viên ngọc của mình. Thế là chẳng ai bảo ai, cả hai đều cúi xuống nhặt những viên ngọc ấy, rồi trao lại cho khổ chủ và không ngớt ca tụng sự giàu sang của nhau.
Một người mục tử theo dõi thái độ của họ, bèn cười thầm trong bụng. Ông bắt một con bê béo làm thịt, rồi mời cả hai người lái buôn đến dùng bữa với mình. Khi rượu đã sưởi ấm cõi lòng, người mục tử mới đem câu chuyện của mình ra mà kể lại cho hai người lái buôn cùng nghe:
Trước kia tôi cùng là một người buôn ngọc quí như hai ông. Thế rồi một ngày nọ, khi băng qua sa mạc, tôi bị cuốn tung trong một cơn lốc xoáy. Gió mạnh đến nỗi cuối cùng tôi đã bị lạc mất đoàn lạc đà và những người cùng đi với tôi.
Lang thang giữa sa mạc, tôi không còn biết đâu là phương hướng để trở về. Đến lúc kiệt sức vì đói lả, tôi mở cái túi mà tôi vẫn mang theo bên mình. Tôi hy vọng có thể tìm thấy một chút nước hay một mẩu bánh. Thế nhưng, ngón tay run rẩy của tôi chỉ chạm tới những đồ vật mà lúc bấy giờ tôi đã chán ngán, đó là những hạt ngọc quí mà trước kia tôi đã từng nâng niu.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đề tài chia sẻ hôm nay: Vậy đâu là cơn cám dỗ, đâu là thần tượng của mỗi người chúng ta?
Thánh Kinh kể lại rằng: Giũa lúc lang thang trong sa mạc, dân Do Thái đã gom góp tất cả vàng bạc và nữ trang để đúc thành một con bò, rồi quì gối sụp lạy nó. Về sau, việc thờ phượng con bò vàng ấy còn được tái diễn nhiều lần, mỗi khi dân Do Thái từ bỏ Thiên Chúa để tìm đến với những thần minh khác của các dân tộc chung quanh.
Sự bất trung này thường kéo theo những thảm họa mà họ phải gánh chịu. Đất nước họ thì bị ngoại bang chiếm đóng, bản thân họ thì bị đi lưu đày với một kiếp sống lầm than cực khổ.
Thờ lạy con bò vàng, đó cũng là cơn cám dỗ triền miên của nhân loại. Nó không phải chỉ là việc khước từ Thiên Chúa, mà còn là việc khước từ chính bản thân mình.
Thực vậy, khi con người loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để chạy theo những thần tượng giả trá, thì con người cũng đánh mất chính bản thân. Và ở bất cứ thời đại nào, chúng ta cũng thấy có những con bò vàng mà con người quì gối thờ lạy và dám hy sinh cả mạng sống mình vì chúng
Những con bò vàng của thời đại mới là tiền tài, danh vọng, quyền lực và lạc thú… Càng chạy theo những thần tương giả trá này, con người càng chuốc lấy cho mình khổ cực. Bởi vì có tiền của nào khả dĩ lấp đầy túi tham của lòng người. Có danh vọng nào khả dĩ thỏa mãn được tự ái không biên giới của con người. Có quyền bính nào khả dĩ mang lại cho con người sự bình an đích thực. Có lạc thú nào khả dĩ làm cho con người được hạnh phúc.
Mùa Chay là mùa của sa mạc, là mùa của thử thách và cám dỗ, nhưng đồng thời cũng là mùa của ơn sủng, là mùa của tình thương và kết hiệp mật thiết với Chúa. Những cố gắng chúng ta thực hiện từng ngày sẽ giúp chúng ta định hướng lại cuộc đời và xác định lại xem đâu là hạnh phúc và đâu là giá trị đích thực chúng ta cần phải theo đuổi trong cuộc sống hôm nay? Đâu là lý tưởng của cuộc đời và đâu là chỗ đứng của Chúa trong tâm hồn chúng ta.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì cuộc đời chúng ta cũng phải xoay quanh Thiên Chúa như vậy. Chiếc kim địa bàn luôn hướng về phương bắc, thì bản thân chúng ta cũng phải hướng về Thiên Chúa như vậy. Chúng ta chỉ sống với Ngài và chỉ làm vinh danh cho Ngài, như lời Đức Kitô đã xác quyết:
- Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phương một mình Ngài mà thôi.
30. Là người thật và là Thiên Chúa thật
Trước khi thuật lại hoạt động và việc giảng dạy của Chúa Giêsu, các thánh sử muốn chúng ta hiểu rõ hơn Ngài là ai. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật lịch sử trong số nhiều nhân vật khác; người ta sẽ không gợi lại một chuỗi lịch sử giữa hàng trăm nhân vật khác. Người ta sắp nói đến một ai đó tuyệt đối duy nhất và về một biến cố đảo lộn lịch sử đến độ từ nay về sau người ta sẽ nói một sự kiện nào đó xảy ra “Trước Giêsu Kitô” và “Sau Giêsu Kitô”.
Đó là lý do tại sao đã có tiếng chuông này: “Lúc bấy giờ Chúa Giêsu xuất hiện!”. Và việc tỏ bày thiên tính lúc chịu phép rửa cùng với sự mạc khải phi thường này: “Đây là Con Ta”. Anh thanh niên 30 tuổi này, anh thợ mộc tầm thường người Nazarét này là Con Thiên Chúa! Nhưng tức thì tiếng nói của quỷ dữ vang lên suốt những thế kỷ ở nơi nào người ta nói về Giêsu: “Nếu Ngài là Con Thiên Chúa...”. Đó là tiếng đồn nghi ngờ.
Đó cũng là tiếng nói của chúng ta. Chúng ta khó thích ứng với Chúa Giêsu. Chúng ta không thực sự sống với Ngài theo cách của Ngài. Chúng ta thường lơ là đối với Ngài, ít tin chắc vào Ngài. Và đột nhiên, theo kiểu của Satan, chúng ta bắt Ngài chứng minh quyền lực của Ngài: “Xin Chúa làm cái này cho con, thay đổi cái nọ, tỏ mình ra nhiều hơn nữa, chế ngự thế giới cho tốt hơn. Nếu Ngài thật sự là Con Thiên Chúa”. Như vậy, khi chúng ta là quỷ đối với Chúa Giêsu, thì chúng ta cũng là quỷ đối với chính chúng ta, chúng ta mất cơ may sống điều gì đó với Ngài. Một ngày kia Ngài đã phải nói với Phêrô: “Hỡi Satan, hãy cút đi!” (Mt 16,23). Phêrô không muốn Chúa Giêsu phải đau khổ và phải chết. Chúng ta muốn Chúa Giêsu như thế nào? Chúng ta xen vào lời này điều gì, một lời có thể là ca tụng hoặc quỷ quái: “Vì Ngài là Con Thiên Chúa?”
Không bao giờ chúng ta chú ý đủ đến Chúa Giêsu của Phúc Âm. Chính vì điều này mà các Phúc Âm đã được viết ra, để cùng chiêm ngắm và suy niệm, chúng ta càng có thể sống mầu nhiệm này: Thiên Chúa ở trong một con người. Bản văn nổi tiếng viết về ba cám dỗ trước hết là để làm sáng tỏ con người của Chúa Giêsu. Ta đừng vội tìm trong đó những cuộc đấu tranh của chính chúng ta. Chắc chắn chúng có trong đó, vì rằng Chúa Giêsu là mẫu mực của chúng ta nơi mọi sự. Nhưng chúng ta trước hết hãy xét đến cuộc đấu tranh của Ngài đã, chúng ta sẽ biết được nhiều điều về Ngài.
Trước khi phát hiện Ngài qua thái độ và lời nói của Ngài, Ngài cho chúng ta thâm nhập vào trong con tim của Ngài, nơi mà một con người thực hiện những lựa chọn quyết định. Chúa Giêsu như thế nào lúc bị cám dỗ thì Ngài sẽ như vậy suốt cuộc đời công khai của Ngài, không gì lay chuyển được. Do đó tầm quan trọng của đoạn văn này không chỉ đơn giản là một khúc dạo đầu mà là một cuộc đấu tranh triệt để trong đó chúng ta khám phá ra sức mạnh của một con người trong sức mạnh của Chúa Giêsu.
Phải, Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật, và chúng ta khó lòng chấp nhận Ngài. A! Nếu chúng ta có thể bịa ra Chúa Giêsu! “Vì Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài có thể làm được tất cả”. Không, Ngài không thể làm được tất cả, không hơn gì chúng ta; những câu trả lời trong cuộc cám dỗ chứng tỏ Ngài thuộc “thân phận con người”. Ngài sẽ sống trọn cuộc sống thực của con người bị hạn hẹp và chuốc lấy thất bại.
Mặc dầu có sự yếu đuối, sự yếu đuối thực sự của con người, Ngài sẽ chiến thắng bởi vì Ngài hoàn toàn phó thác vào Cha Ngài. Chiêm ngắm Chúa Giêsu chính là được nâng lên với Chúa Cha và bước vào niềm hy vọng. Trước giờ phút hoang mang cuộc khổ nạn, Phúc Âm tức khắc muốn cho chúng ta một mẫu mực thân hữu với Chúa Giêsu: chúng tôi hay lui tới một kẻ chiến thắng. Vào lúc đen tối nhất, Phúc Âm nói: “Hãy tin tưởng!”
Chúa Giêsu là người tin vào Chúa Cha và có sứ mạng khắc sâu vào trí não chúng ta cũng niềm tin đó: tin vào Cha chúng ta ở trên trời. Đó là điều mà các câu trả lời ngắn, chắc chắn và dứt khoát của Ngài cho ta thấy. Ngài là Con (Thiên Chúa), vâng, và với tư cách là Con, Ngài chờ đợi tất cả nơi Cha. Nhưng Ngài vất bỏ ý tưởng của Satan: cám dỗ sử dụng quyền lực của Thiên Chúa cho riêng Ngài, cho cái đói, cho vinh quang của riêng Ngài. Còn tệ hơn nữa là cho vinh quang của Satan! Ngài chỉ tìm cách vâng theo dự định của Cha, và chính như thế mà Ngài mạc khải Cha cho chúng ta: điều mà Thiên Chúa muốn sẽ nói cho chúng ta biết Thiên Chúa là như thế nào.
Cuộc đấu tranh chống Satan làm chúng ta khám phá ra nơi Chúa Giêsu sự khôn ngoan Lời Chúa và sự tuyệt đối trong niềm tin của Ngài: con người sống vì Thiên Chúa, con người không thử quyền năng của Thiên Chúa và con người chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi. Có được ba xác tín này. Chúa Giêsu có thể tiến bước trên những con đường khó khăn nhất, cuộc sống của Ngài sẽ không được bảo vệ và dầu vậy cuộc sống của Ngài sẽ vinh quang. Chúng ta sẽ khám phá ra chính sự trộn lẫn giữa cuộc sống khó khăn và cuộc sống khải hoàn này khi đọc sách Phúc Âm. Chúng ta sẽ biết được làm thế nào một con người có thể là Con Thiên Chúa: là người thật và là Thiên Chúa thật.
31. Satan
Thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy cầm lấy khí giới của Thiên Chúa mà chống cự với ma quỷ, vì đây là một cuộc chiến đấu chống lại với thủ lãnh của thế gian.
Lời khuyên nhủ này, cho đến ngày hôm nay, vẫn không mất đi giá trị của nó. Thực vậy, ma quỷ hay Satan không phải là một nhân vật huyền thoại hoang đường để hù dọa con nít. Sự hiện diện và quyền năng của chúng là một tín điều căn bản của Kitô giáo.
Bài Tin mừng hôm nay đã để lại một dấu ấn sâu đậm. Ma quỷ đã dùng ba phương tiện để tấn công Chúa Giêsu, Giáo hội và cá nhân mỗi người chúng ta.
Trước hết là Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô đã viết: Đức Kitô cần phải nên giống anh em trong mọi hoàn cảnh, nhờ đó Ngài trở thành vị Thượng tế đầy lòng thương xót và trung thành trước tôn nhan Thiên Chúa, cốt để xá tội cho dân chúng.
Chính Ngài cũng đã từng bị thử thách, cũng đã từng bị cám dỗ, nên Ngài có dư tình thương để cảm thông với chúng ta và có dư quyền năng để giúp đỡ chúng ta, như chúng ta thường nói: Có đau khổ thì mới dễ dàng cảm thông với người khổ đau vì đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Nơi hoang địa, ma quỷ đã xuất hiện để cám dỗ Chúa Giêsu. Cơn cám dỗ thứ nhất được coi như là bình thường, bởi vì đói thì phải ăn, khát thì phải uống. Đói khát và no thỏa là những cảm giác rất tự nhiên. Chúa Giêsu có quyền làm phép lạ, nhưng Ngài đã không làm. Sau này Ngài mới làm để nuôi sống dân chúng qua phép lạ bánh hóa nhiều. Ngài không lợi dụng quyền năng để thủ lợi, bởi vì Ngài luôn chu toàn thánh ý Chúa Cha hơn là làm dịu bớt cơn đói khát của riêng tư.
Tiếp đến, ma quỷ đã gợi lên sự kiêu ngạo, đòi Chúa Giêsu phải thực hiện những việc phi thường cho bản thân mình. Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Ngài không muốn được người ta ca tụng, cũng không muốn được người ta tuôn đến chỉ vì những dấu lạ cho thỏa tính tò mò. Và thế là Ngài đã không chiều theo lời xúi giục của ma quỷ.
Sau cùng, ma quỷ đã dùng tới tham vọng cá nhân. Chúng sẽ cho Ngài mọi vương quốc trần gian, nếu Ngài quì gối xuống thờ lạy chúng. Đây chính là một ý đồ nham hiểm. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã dứt khoát:
- Hãy cút đi, hỡi Satan.
Tiếp đến là Giáo hội.
Thực vậy, qua dòng thời gian ma quỷ cũng đã tấn công Giáo hội. Đây là một sự thật đã được Chúa Giêsu nói trước cho các môn đệ:
- Satan đòi sàng các con như sàng gạo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu luôn ở với Giáo hội để nâng đỡ chở che va đem lại chiến thắng:
- Trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy và các cửa hỏa ngục sẽ không thắng nổi.
Sau cùng là cá nhân mỗi người chúng ta.
Kinh nghiệm cho thấy: con người qua dòng thời gian vẫn không thay đổi là mấy, nên ma quỷ cho tới ngày hôm nay vẫn dùng những độc chiêu cũ, đó là đói khát, tham vọng và uy quyền để cám dỗ. Ba khuynh hướng này đã làm đổ biết bao nhiêu máu và nước mắt trong dòng lịch sử.
Thánh Phêrô với kinh nghiệm bản thân cũng đã nhắc nhở chúng ta phải đề cao cảnh giác: Ma quỷ như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé. Vì thế hãy tỉnh thức và luôn bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa.
Kể từ khi Adong Eva sa ngã, con người luôn hướng chiều về tội lỗi. Nhưng kể từ Chúa Giêsu, con người sẽ chiến thắng tội lỗi. Bây giờ là lúc Ngài xét xử trần gian và thủ lãnh trần gian đã bị đánh bật ra ngoài. Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỷ. Chúng ta hãy bắt chước Ngài, chiến đấu một cách quyết liệt trước mọi cơn cám đỗ, để rồi chúng ta luôn trung thành cùng Chúa và cũng sẽ được chiến thắng như Ngài.
32. Cám dỗ
Chàng thanh niên vừa lên 18 tuổi khi giết viên cảnh sát. Trước khi tuyên án, quan tòa đã hỏi anh có muốn nói điều gì không. Bằng một giọng nức nở, anh đã nói lên một sự thật kín đáo chưa bao giờ tiết lộ: “Thưa quan tòa, tôi rất ân hận vì việc tôi đã làm. Tất cả mọi sự đã bắt đầu khi tôi ăn cắp một đô la trong bóp đựng tiền của mẹ tôi. Rồi tôi ăn cắp hai đô, năm đô, rồi 10 đô, và mỗi lần số tiền ăn cắp cứ tăng lên. Tôi đã bắt đầu lấy trộm đồ dùng của nhà trường và cửa hàng tạp hóa. Một ngày nọ, tôi đã gia nhập vào một nhóm du đãng. Sau cùng chúng tôi quyết định ăn cướp ngân hàng. Đó là khi tôi bắn ông cảnh sát chết. Tất cả mọi sự đã bắt đầu khi tôi ăn cắp một đô la trong cái bóp đựng tiền của mẹ tôi.
Đây chính là câu chuyện diễn tả cơn cám dỗ đã ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta như thế nào. Một cách rất chậm chạp và từ từ, nó đã làm cho chúng ta đi vào con đường sai lạc và tội lỗi. Bài Phúc âm hôm nay, diễn tả rất chi tiết cơn cám dỗ của Chúa Giêsu sau bốn mươi ngày ăn chay, cầu nguyện. Suy niệm về cơn cám dỗ của Chúa Giêsu, văn hào Dostoievesky đã viết rằng ba cơn cám dỗ được diễn tả trong Phúc âm thống trị toàn thể lịch sử nhân loại và vạch ra những mâu thuẫn đối nghịch trong bản năng của mỗi người chúng ta.
“Nếu là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh”: Cơn cám dỗ về bánh nói lên cái ước muốn căn bản nhất, bản năng sinh tồn của con người. Thân xác với những sự khát khao thèm muốn luôn đòi hỏi phải được nuôi nấng, chiều chuộng và vỗ về.
Sau đó ma quỷ đưa người lên nóc đền thờ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi…” Con người thường muốn quên đi những điều kiện sinh sống giới hạn của mình, muốn tránh khỏi thực tại phũ phàng. Họ muốn cất cánh bay lên cõi thần tiên bằng men bia rượu, thuốc lá, á phiện, thuốc kích thích… Ngay cả trẻ con cũng say mê những chuyện thần tiên, mộng mị, và muốn làm siêu nhân, thần thánh. Tất cả đều nói lên cái bản năng đối kháng lại những giới hạn của cuộc sống nhân sinh.
Sau cùng, ma quỷ lại đưa Chúa Giêsu lên đỉnh núi cao xem thấy mọi nước thế gian cùng vinh quang của chúng và nói: “Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi…” Bản năng thống trị, cái “ý chí quyền lực” nằm sẵn trong mỗi người chúng ta. Người ta thường muốn cai trị và sai khiến những người yếu hơn mình. Bắt đầu từ tội nguyên tổ muốn ngang bằng Thiên Chúa, bạo lực lan tràn trên khắp thế giới.
Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đều đã bắt đầu bằng chữ “nếu”. Chúng khởi sự bằng một lý luận với những lý do có vẻ chính đáng, hợp lý và đáng ao ước để tấn công vào những đòi hỏi của bản năng con người Giêsu. Tuy là ba cơn cám dỗ, nhưng vẫn chỉ là một. Bởi trọng tâm của vấn đề chính là gieo rắc sự khủng hoảng của niềm tin. Chúa Giêsu bị cám dỗ nghi ngờ về căn tính Con Thiên Chúa của chính mình. Cả ba Phúc âm, Matthêu, Marcô và Luca, đều mô tả cơn cám dỗ ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giocđan, và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu quay lưng lại với sứ mạng đã nhận được từ nơi Chúa Cha.
Cơn cám dỗ của Chúa Giêsu cũng giống như cơn cám dỗ của ông Adong và bà Eva trong bài đọc thứ nhất, trích từ sách Sáng Thế Ký. Ma quỷ gieo sự nghi ngờ, và mất niềm tin nơi những kẻ được gọi là con cái Thiên Chúa. Qua bản năng ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa, và sau cùng, con người sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng đòi bá chủ và thống trị vì muốn ngang hàng với Thiên Chúa.
Sau khi chịu phép rửa tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin. Ở đó chúng ta phải chịu nhiều cám dỗ. Những cám dỗ của chúng ta đều là những thử thách của niềm tin, của căn tính người Kitô hữu, con cái Thiên Chúa, môn đệ Chúa Giêsu.
33. Cám dỗ
Trong một khu phố nơi thường có những chiếc xe hơi phóng rất nhanh qua những con đường yên tĩnh gây nguy hiểm cho trẻ em, người già và khách bộ hành qua lại, những người dân cư ngụ tại đây rất lo lắng cho tính mạng của thân nhân và chính họ. Họ họp nhau lại, làm đơn thỉnh nguyện lên trạm cảnh sát, yêu cầu cảnh sát phải thường xuyên tuần tiễu trong khu vực và phạt những tài xế vượt quá tốc độ ấn định. Bởi đó, cảnh sát phải chấp hành theo lời yêu cầu của người dân trong vùng. Vào ngày đầu tiên, cảnh sát bắt được năm tài xế chạy quá tốc độ. Tuy nhiên, tất cả năm tài xế này đã nổi giận vì hình như cả năm người đều đã ký tên trên thỉnh nguyện thư yêu cầu phải áp dụng luật giao thông và phạt gắt gao những ai đã vi phạm.
Biết mình là những con người yếu đuối. Giáo Hội dùng Mùa Chay để giúp chúng ta ăn năn sám hối tội lỗi, và ý thức về ơn gọi của mình hơn. Chúng ta là ai? Sống để làm gì? Có mục đích gì? Hy vọng của ta là gì? Có những người mà thánh Phaolô gọi là: “Những người sống đối nghịch với thập giá của Đức Kitô”, “Chúa của họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian”, vì thế, “chung cục của họ là sự diệt vong”. Chúng ta có phải là những người này không? Chúng ta có là một người Kitô hữu đích thực, người công dân của Vương Quốc Thiên Chúa đang sống và tuân giữ những luật lệ yêu thương của Người, thờ phượng một mình Thiên Chúa và phụng sự Người không?
Theo gương chiến thắng của Chúa Giêsu trong cơn cám dỗ, các nhà tâm lý đạo đức thường khuyên chúng ta những điều thực hành như sau:
1. Không bao giờ đối chọi một mình với cơn cám dỗ.
Cần phải cầu nguyện. Cuộc đời của Chúa Giêsu từ lúc nhập thể cho đến lúc lên trời luôn được các thiên thần bao quanh và thờ lạy, vì Ngài luôn liên kết với Thiên Chúa Cha. Nhờ cầu nguyện Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn”. Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thiên Chúa và với các thánh trên trời.
Đừng để ma quỷ tấn công bạn một mình. Trước khi xa cách Thiên Chúa, người ta thường bị cám dỗ rằng mình không cần đến người khác giúp đỡ, hay cho rằng những người đi nhà thờ đi lễ chỉ là những người đạo đức giả, hoặc nghĩ rằng bạn cũng có thể là một người Kitô hữu tốt mà không cần phải đến nhà thờ. Cô lập hóa là chiến lược của ma quỷ. Bởi Thiên Chúa không cứu rỗi một cách riêng lẻ những ai thiếu liên kết. Hãy liên kết chặt chẽ với gia đình của Thiên Chúa là Giáo Hội.
2. Đừng đùa giỡn với cám dỗ.
Nó rất nguy hiểm và chết người. Chúng ta thường nghĩ rằng cám dỗ phải lén lút và rón rén đến cửa sau nhà chúng ta. Có thể là như vậy nhưng không hẳn. Nhiều khi nó đến ngay trước cửa nhà. Chúng ta biết đó là sai và không nên làm. Nhưng chúng ta tự nhủ: đâu có sao, nhằm nhò gì, đâu có ai biết. Hay tệ hại hơn, chúng ta lại tự biện minh rằng thực sự đâu có gì là sai. Con người có một tài năng vô cùng khéo léo để lý lẽ và biện minh cho cái cách mình phạm tội. Hãy nhận diện ra sự nguy hiểm của cám dỗ ngay khi nó mời gọi và quyết định dứt khoát.
3. Hãy nương tựa vào Chúa mà chống trả với cơn cám dỗ.
Chúa Giêsu đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ. Ngoài những nhu cầu vật chất, con người còn cần đến những nhu cầu tinh thần, những truyền thống tốt đẹp, và những kho tàng thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại như Công đồng Vatican II đã khuyên dạy trong Hiến Chế Gaudium et Spes, đoạn 86.
Thiên Chúa muốn chúng ta có đời sống tốt đẹp, làm việc lành thánh thiện, bác ái yêu thương, để cảm nghiệm sự trọn vẹn hoàn hảo của cuộc sống, chứ không phải chỉ sống dựa vào những lời hứa trống rỗng và dối trá của ma quỷ. Do đó, Ngài luôn giúp đỡ chúng ta chống lại cơn cám dỗ, và nhất là việc biết quay trở về với Ngài sau khi đã lỡ sa ngã phạm tội. Ở cuối bài Phúc âm hôm nay, Thánh Kinh viết: “Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người”. Các thiên thần ở đó để giúp đỡ Ngài cũng như giúp đỡ chúng ta. Hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình yêu thương nhân hậu. Một Thiên Chúa biết rõ sự yếu đuối và thất bại của chúng ta, nhưng vẫn yêu thương chúng ta.
Có một nhóm người leo núi chuyên nghiệp. Đang khi leo lên lưng chừng núi, họ gặp một ông lão đốn củi với cây rìu trên vai. “Ông lão đi đâu vậy?” những người leo núi hỏi ông. “Ta leo lên đỉnh núi để chặt cây về sửa lại nhà”. “Nhưng tại sao ông lại phải leo lên tới đỉnh núi làm gì?” họ nghi ngờ hỏi lại. “Có rất nhiều cây gỗ lớn ở xung quanh đây, leo lên cao làm gì cho tốn sức!” “Ta biết chứ”, ông lão nói, “nhưng ta cần một loại gỗ cứng và tốt, nó chỉ mọc trên những đỉnh núi cao nhất, nơi đó những cây gỗ quý đã bị thử thách và dẻo dai chịu đựng được thời tiết nắng mưa gió bão. Càng mọc trên cao, cây gỗ càng cứng chắc”.
Thiên Chúa muốn chúng ta là những cây gỗ quý cứng cáp và mạnh mẽ để phục vụ Thiên Chúa trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy gắn bó chặt chẽ với nhau, tham dự các buổi thờ phượng đạo đức thường xuyên của Giáo Hội, tránh né mọi dịp cám dỗ khi xảy đến, và đổ đầy tâm trí chúng ta Lời Chúa. Được như vậy chúng ta sẽ đứng vững như Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã chịu cám dỗ của ma quỷ và đã chiến thắng.
34. Nếu bạn không làm, thì ai?
Giáo sư đại học Abraham Maslow là người nổi tiếng về các tác phẩm khoa học xã hội thường hay hỏi thử các sinh viên của ông như: ai trong các anh chị sẽ là nhà văn nổi tiếng? là Phanxicô Khó Nghèo? là nhà nhân chủng vĩ đại như Albert Shweitzer? Khi gặp những câu hỏi khúc mắc như thế thì các sinh viên thường hay rụt rè và xầm xì với nhau. Nhưng nhà tâm lý gia nổi tiếng ấy thường nói với họ rằng đó không phải là những câu hỏi vu vơ mà thật sự ông ta có ý như thế và muốn các sinh viên trả lời thành thật. Ông nói: "Nếu các anh chị không làm thì ai sẽ làm đây"?
Cũng thế, trong một khía cạnh nào đó khi chúng ta tụ họp để nghe công bố Lời Chúa, chúng ta cũng phải đối diện với những câu hỏi như vậy; như chúng ta thường nghe các tác giả Tân Ước lập đi lập lại với chúng ta là: chúng ta hiện hữu không phải là do những cơ may thay đổi mù mờ; chính tình yêu Thiên Chúa đặt để chúng ta ở đây là một phần trong chương trình của Ngài để làm hoàn hảo chương trình tạo dựng của Ngài; bởi mỗi một người là một cá thể riêng biệt nên mỗi người được ban tặng một cuộc sống để sống và một công việc để thực hành mà mỗi một người một khác nhau; bất kể chúng ta là ai, chúng ta đều có một cơ hội sống để xây dựng thế giới mà chúng ta đang sống; mọi người trong chúng ta đều có một cơ hội sống để làm giàu cho đời sống tha nhân, mà họ cũng giống như chúng ta là những tác phẩm riêng biệt của Thiên Chúa tạo thành; và trong sự đáp trả tình yêu Thiên Chúa là Đấng đã ban sự sống cho chúng ta, mỗi người chúng ta có một cơ hội sống để "chiến thắng sự dữ bằng sự tốt lành" (Rom 12:21).
Chúa Giêsu đã gồm tóm tất cả những điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Ma quỷ đã ra sức cám dỗ Ngài mạnh mẽ để Ngài từ bỏ sự sống mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài là "chiến thắng sự dữ bằng sự tốt lành". Ma quỷ xúi giục Đức Giêsu quên đi bản tính và chối bỏ chức năng của Ngài là Đấng Thiên Sai. Nhưng sau khi ma quỷ trưng bày toàn thể thế giới trước mặt Chúa Giêsu thì Ngài đã trả lời cách đơn giản và tuyệt vời là: "Satan hãy cút đi, vì ngươi phải thờ Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng sự một mình Ngài mà thôi" (Mt 4:10).
Cũng như Chúa Giêsu khi phải đối diện vói những cám dỗ của ma quỷ thì Ngài đã tự do lựa chọn tự đặt Ngài dưới Luật Thiên Chúa và sống đúng như vậy; thì giờ đây sự tự do lựa chọn ấy cũng là của chúng ta.
Hôm nay, Chúa Giêsu đang hỏi các bạn, "Ai trong các con sẽ là vị đại thánh đây?" Bất kể quí vị có ngại ngùng hay trốn lánh thế nào đi nữa thì đây vẫn không phải là câu hỏi vô ý thức hay tầm phào, mà thật sự Chúa Giêsu có ý hỏi các bạn như thế. "Con sẽ là một vị đại thánh chứ? Con sẽ mang lấy trong thân mình con tất cả các chức năng của Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô chứ? Con sẽ tự chọn cho mình trở thành máng chuyển Tình Yêu Thần Linh xuống cho tha nhân chứ? Nếu không là con, thì ai sẽ làm đây?"
35. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Huy Điệp
Với thứ Tư Lễ Tro, Mùa Chay Thánh đã khai mạc. Mùa Chay, theo Năm phụng vụ, là thời gian chuẩn bị cử hành Lễ Vượt Qua. Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu là giá cứu chuộc cho tình trạng xa cách của con người đối với Thiên Chúa và chính mình; và khởi điểm cho tình trạng xa cách này là sự xuất hiện của tội lỗi nơi con người. Phân tích như thế để thấy được chúng ta phải khởi đầu từ đâu để đón nhận Ơn Cứu Độ Của Thiên Chúa, và sống Ơn đó trong suốt cuộc đời làm Kitô hữu của mình.
1. Tự do và yếu đuối nơi con người – Nỗ lực tấn công của ma quỉ.
Qua bài đọc 1 (St 2,7 - 9; 3, 1 – 7): Ngay từ đầu, khi con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, ma quỉ cũng đã xuất hiện dướt lốt con rắn già.
Một trong những hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người là sự tự do. Khi trao ban sự tự do, Thiên Chúa đã muốn trân trọng giá trị của con người. Con người đến cùng Thiên Chúa với tất cả ý thức và tự do. Hai ông bà đã rất thanh thản và tự nhiên khi tiếp xúc với Thiên Chúa. Nhưng cuối cùng, cả hai đã không còn thanh thản tự nhiên nữa, vì sự tự do đã được xử dụng không đúng. Có lẽ ông bà chưa ngộ ra: Sự tự do Chúa ban phát xuất từ nơi Thiên Chúa, và cũng là hiện thân của chính Người. Nếu ông bà xử dụng đúng tự do của Thiên Chúa, thì cũng đồng nghĩa với tiếng “không” trước trái cây “biết lành biết dữ”. Vì thế, khi đưa tay hái “trái cấm”, ông bà đã xử dụng tự do theo ý mình, theo hình ảnh không còn là của Thiên Chúa, mà là của chính mình. Chắc hẳn hai ông bà không muốn “gây hấn” với Thiên Chúa, nhưng đã mắc mưu con rắn. Ma quỉ, tên cám dỗ, đã thành công, khi đề ghị một tự do “giả hiệu”, và chúng đã không ngừng làm điều đó cho đến hôm nay. Chỉ mình Thiên Chúa mới có, và mới là sự Tự Do tuyệt đối đúng đắn. Con người phải xử dụng tự do Chúa ban theo đúng ý của Người, cho dù nhiều lúc cảm thấy như nó không như không phục vụ lợi ích của mình. Bài học của vườn địa đàng đã rất rõ, nhưng ma quỉ cũng rất tinh khôn và đánh lừa được nhiều người.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã khẳng định: “ Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6). Như thế, để thỏa mãn nỗi khát vọng sâu xa của con người là Chân Lý, Sự Sống và Hạnh Phúc, thì không thể tìm kiếm nơi đâu ngoài Chúa, hay nói cách khác, Thiên Chúa chính là đối tượng của khát vọng đó.
Cuộc sống gắn bó và liên kết với Chúa là điều rất quan trọng, không thể tách rời, không thể nghi nan, cho dù con người phải đi qua muôn nẻo đường đời, qua bao gian nan và thử thách. Về phần mình, ma quỉ cũng tận dụng mọi thời cơ để chuyển đổi đối tượng của tự do, chân lý, tình yêu, hạnh phúc…ra ngoài Chúa. Và nỗi buồn của vườn địa đàng vẫn kéo dài đến hôm nay, nơi từng người và từng lúc.
2. “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó Ân sủng càng chứa chan gấp bội”.
Hình ảnh của Ađam và Chúa Giêsu, của tội lỗi và ân sủng, hủy diệt và giải thoát, giết chết và cứu sống… đã sóng đôi nhau trong cuộc chiễn đấu nên thánh của mỗi người chúng ta. Phần thắng luôn thuộc về Thiên Chúa, cho dù là cửa hỏa ngục cũng không thể thắng được. Tự do mà Chúa ban cho chúng ta không phải là muốn làm gì thì làm, nhưng tự do là được lựa chọn. Con người được hoàn toàn tự do lựa chọn một trong hai đối tượng và tình trạng của các cặp sóng đôi ở trên. “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người trở thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người sẽ thành người công chính” (Rm 5, 12 – 19).
3. “Thế rồi ma quỉ bỏ người mà đi, và có các sứ thần đến hầu hạ Người”.
Nếu Thiên Chúa, để giải thoát con người, đã từ trời hoặc từ xa, chỉ đưa ra những mệnh lệnh hoặc chỉ dẫn cho con người khắc phục tình trạng suy thoái, và biết đường mà về với Chúa và về trời, thì cuộc chiến giữa áng sáng và bóng tối vẫn sẽ có nhiều cam go, thậm chí con người sẽ cảm thấy bất lực và bơ vơ khủng khiếp. Khởi đi từ Mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô đã soi sáng cho chúng ta ý định và chương trình thật tuyệt vời và gần gũi của Thiên Chúa. Chúa không vô hình, nhưng thật hữu hình, Chúa không xa cách, nhưng thật gần gũi. Và nhất là, Chúa không đóng vai quan tòa nghiêm khắc xét xử, nhưng mặc lấy thân phận con người, đồng hành với con người tội lỗi và yếu đuối. Qua đó, Chúa Giêsu đi trước, tay Ngài cầm tay con người, để dẫn đưa con người về bến bình an. Vì thế:
Ngài đã sinh xuống làm người như mọi người (Lc 2,1 – 14).
Ngài đã chịu bách hại bởi vua Hêrôđê (Mt 2, 1 – 12).
Ngài đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa theo luật Môisen (Lc 2, 22 – 32).
Ngài đã xếp hàng chờ được chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả (Mt 3, 13 – 17)…
Và trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chấp nhận để cho ma quỉ cám dỗ, y như cảnh ngộ của mọi người chúng ta (Mt 4, 1 – 11). Hình dung lại bối cảnh của Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày và chịu cám dỗ trong hoang địa. Hình ảnh của “tên cám dỗ” mon men lại gần để thủ thỉ, để khêu gợi, và để đánh bóng những vui thích cơ bản của cuộc sống con người. Trong lúc cám dỗ, nó cũng thật thiện chí và năng động, tỏ ra quan tâm và săn sóc đặc biệt: bưng mâm cỗ, phục vụ tối đa nhu cầu của quí khách, mà theo ngôn ngữ của thương trường là “ thượng đế”. Sơ hở một chút là con người dễ dàng cảm thấy như “được đưa lên mây”, nhưng theo ngôn ngữ của ma quỉ là “bị hạ gục”. Một lần nữa, Chúa cho thấy những cách thức phải học nằm lòng để “tỉnh thức và đứng vững”: Luôn sống trong tình trạng làm chủ được bản thân: Nhờ ăn chay và cầu nguyện.
Lời Chúa phải là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi (Tv 119,105).
Phát huy sự tự do đúng đắn Chúa ban, là chỉ lựa chọn những gì Chúa chọn: Chúa và anh em, đặc biệt những người nghèo và bất hạnh.
Vì thế, khởi đi từ tình trạng tội lỗi yếu đuối là âm hưởng của nguyên tổ Ađam, Ađam “mới”, là Chúa Giêsu, đã hoạch định một lộ trình giải thoát và phục hồi hình ảnh cao đẹp mà Thiên Chúa có khi dựng nên con người. Lộ trình ấy được diễn tả qua lời cầu nguyện của thánh Augustinô: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và con chỉ được an nghỉ khi trở về với Chúa.
Mỗi lần bước vào Mùa Chay Thánh, người Kitô hữu lại đươc mời gọi kiểm tra lại bước đi của mình, xem có đang đi trong quĩ đạo của hành trình của Chúa không?, ý thức rõ hơn về sự hiện diện của “tên cám dỗ”, không phải là thiểu số và thầm lặng (Mc 5, 1 – 20). Nhìn vào thực trạng đời sống đạo của nhiều người Kytô hữu hôm nay, chúng ta cũng dễ thấy ma quỉ vẫn còn chiếm được nhiều ưu thế. Cũng chỉ vì sự lơ là, tự mãn, và ngủ quên trên những “lãnh địa an toàn và giả hiệu”. Chúa đã gửi một ngôn sứ cho Giáo Hội: Đức Thánh Cha Phanxicô. Với những hành động ngoạn mục, ngài đang mạnh mẽ thúc đẩy một sự cảnh tỉnh ngay trong lòng Giáo Hội, nơi tất cả mọi thành phần của Dân Chúa.
36. Sống mùa chay - Lm Giuse Vũ Thái Hòa
Từ ngày thứ Tư lễ Tro vừa qua, chúng ta bước vào Mùa Chay để chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tương ứng vời 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh của Đức Giêsu trong sa mạc trước khi Người bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng. Tại đây, Người chịu quỷ cám dỗ ba lần: hóa đá thành bánh, làm phép lạ phi thường, cho mình là vua thiên hạ.
Dân Do thái mong chờ Đấng Mêsia thực hiện những điều đó. Họ muốn Người cung cấp cho họ mọi nhu cầu vật chất, làm những điều kỳ diệu và bành trướng quyền thế của Người trên khắp địa cầu. Nhưng Đức Giêsu không làm như thế. Người chỉ thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha.
Trong hoang địa cũng như nhiều lần khác mà Tin Mừng đã kể lại, Đức Giêsu chống trả những cơn cám dỗ. Thí dụ: sau khi Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Người làm vua, nhưng Người lánh mặt, lên núi một mình (Ga 6:15); nhưng người Pharisêu muốn Người cho một dấu lạ từ trời (Mt 16:1); Người bị cám dỗ không đi Giêrusalem vì biết sẽ phải chịu nhiều đau khổ và bị giết. Chính ông Phêrô ngăn cản Người thực hiện điều đó và bị Người khiển trách: "Sa tan, lui lại đàng sau Thầy!" (Mt 16: 21-23). Tại vườn Ghếsêmani, Đức Giêsu bị cám dỗ nặng nề: "Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con..." (Mt 26:39). Và trên thập giá, Người bị nhục mạ: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Ít-ra-en! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin hắn liền!" (Mt 27:42)
Đức Giêsu đã thật sự bị cám dỗ, nhưng Người luôn trung thành với Chúa Cha và với sứ vụ mà Cha Người giao phó. Vào đầu Mùa Chay, Tin Mừng muốn chúng ta noi theo Đức Giêsu chống trả và chiến thắng những cơn cám dỗ này:
1/ Cám dỗ về cơm bánh hằng ngày hoặc cám dỗ về nhu cầu vật chất.
Con người cần phải ăn uống và cần phải có những nhu cầu vật chất tối thiểu để sống. Điều đó rất tốt. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống dựa vào những nhu cầu vật chất của thân xác mà thôi. Nhiều khi chúng ta lo kiếm ăn đến nỗi không còn nghĩa đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức nữa, không còn giờ để đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, ngay cả việc tham dự thánh lễ Chúa nhật!
Trong mùa Chay này, chúng ta hãy suy gẫm Lời Chúa: "Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh".
2/ Cám dỗ về sự thành công.
Thành công trong cuộc sống là một điều rất tốt và phải làm. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống để thành công, muốn thành công với bất cứ giá nào, mặc dầu phải làm những chuyện không tốt như lừa dối, chà đạp người khác...; thành công để vênh vang, tự đắc, để giữ thể diện và thỏa mãn tự ái của mình.
Ngay ngày đầu của Mùa Chay, Đức Giêsu mời gọi: "Khi làm việc lành phúc đức, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy... đừng cho tay trái biết việc tay phải làm... Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn giả hình... Thiên Chúa thấu suốt những gì kín đáo" (Mt 6:1-6)
3/ Cám dỗ về quyền hành hoặc tham vọng thống trị.
Mỗi người trong chúng ta đều có một trách nhiệm, một quyền hành nào đó mặc dù là khiêm tốn. Có quyền hành, có trách nhiệm là để phục vụ và bênh vực công lý. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ là lẫn lộn giữa quyền hành và lòng tham vọng thống trị. Nếu những nhà lãnh đạo các quốc gia đều có tinh thần phục vụ dân chúng, thì bộ mặt thế giới sẽ khác hẳn!
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy kiểm điểm lại tinh thần trách nhiệm và phục vụ của mình trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn...
Những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong sa mạc cũng là những cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta về vật chất, hào nhoáng bên ngoài và quyền hành. Đức Giêsu đã chiến thắng. Người cũng muốn chúng ta tham dự vào chiến thắng của Người bằng cách bước theo đường của Người và noi gương Người. Đó là mục đích của mùa Chay.
Kính chúc ông bà và anh chị em sống Mùa chay thánh thiện và đón nhận nhiều hồng ân của Chúa.
37. Chúa Nhật I Mùa Chay – Lm Nguyễn Bình An
Một Marylyn Moroe đẹp một hai "nghiêng nước nghiêng thành" của thập niên 60 tại Hoa Kỳ đã rơi vào cạm bẫy của thần vệ nữ và trở thành "đồ chơi" của giới trưởng giả và chính trị gia. Cái đẹp hấp dẫn, nẩy lửa và mời gọi ấy còn ám ảnh tâm tưởng nhiều cố nhân, nên dù không là anh hùng dân tộc, Monroe vẫn được sủng ái và trở thành "chim câu giao liên" tại Hoa Kỳ hôm nay.
Cái tài đảm lược "chinh đông phục tây" và "trị quốc an dân" của Caesar đã biến ông thành người kiêu ngạo khó thương và phách lối. Ông ao ước được phong thần và trở thành hoàng đế La Mã. Nguyên lão nghị viện đã ám sát ông dưới chân tượng bại tướng Pompey là kẻ thù của ông.
Các "đồ tể" và "tay sai" đâm thuê, giết mướn đã hạ sát Tổng Thống Diệm. Họ huyên hoang tự phong là "anh hùng dân tộc" hay "chính trị gia đại tài". Họ thay nhau một thời vơ vét để "vinh thân phì gia". Quả báo là họ đã nếm mùi cùng cực của kẻ mất chức, trốn chạy, qui hàng tủi nhục và tù tội đau thương.
Ba mươi năm ẩn dật tại Nazareth, Đức Kitô đã sống quá tầm thường và khiêm tốn. Không hơn không kém, Ngài chỉ là con bác thợ mộc nghèo khó, vất vả kiếm ăn từng ngày. Họ hàng không ai rõ, bạn bè chẳng ai hay một điểm phi thường nào nơi Giêsu. Ngài chỉ thực sự biến đổi sau cuộc gặp gỡ với Gioan Tẩy Giả bên sông Giordan. Ra khỏi nước, Chúa Cha tuyên phong Ngài là "Chiên Thiên Chúa" và Thần Linh Chúa đưa Ngài vào hoang địa lập chí. Tại đây Ngài chìm trong đắm suy tư và cầu nguyện. Cũng tại đây, Ngài hình thành chương trình giải phóng, chọn lựa phương thế tuyệt hảo để hành động và mục đích tối hậu phải nhắm tới. Đối thủ nghi vấn về con người dị kỳ và đặc biệt này. Đối thủ nhận ra những khả năng phi thường, sự khôn ngoan tuyệt đối và những nhân đức tuyệt vời của con người này. Nhưng đối thủ vẫn không nhận ra chân tướng "cứu thế" của Ngài. Đối thủ vì thế mon men đến làm quen và truyện trò.
Thánh kinh ghi lại 3 thách đố hay 3 trò chơi đối thủ đưa ra liên hệ đến tiền, danh, chức để thử Ngài hầu "tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng". Ngài đã khôn ngoan đối đáp một là "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra", hai là "Đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi" và ba là "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ thờ phượng duy mình Chúa mà thôi".
Tiền Ngài không ham, danh Ngài không thích, chức Ngài không thèm. Ba cái nghiệp chướng ấy: thứ nhất đã đưa đẩy nhân loại vào đường dối trá, biển lận và tham lam; thứ hai đã biến đổi tâm tính con người từ bất lực, hẹp hòi và giới hạn thành tự đắc, kiêu căng và phách lối; thứ ba đã tạo những con người được hình thành từ bụi đất, nay còn mai mất và bất toàn nên những người lạm dụng quyền bính, bất nhân và vi phạm quyền sống, lạm dụng tự do và bình đẳng của con người.
Vương quốc của Đức Kitô lấy công bình, bác ái, và yêu thương làm phương châm và ơn cứu rỗi làm cùng đích, nên tiền, danh, chức chỉ là phương tiện: "Ai muốn làm lớn, phải làm tôi mọi người".
Đời chúng ta vì thế dẫy đầy những cạm bẩy và mâu thuẩn cần chế ngự. Thoát cạm bẫy của "danh, lợi, dục" là được trưởng thành trong ơn thánh, trở nên vĩ nhân của Nước trời, vui sống tự do, hưởng công lý, an bình và bác ái. Như Đức Kitô, chúng ta phải sáng suốt và tự do chối từ những cạm bẫy do đối thủ giăng ra để sống thánh thiện và hy sinh tuyệt đối cho Thiên Chúa và tha nhân; để chết an bình và được tái sinh khải hoàn với Đức Kitô.
Thắng đối thủ và thoát tục là không tìm hư danh hão huyền. Sống trưởng thành là cộng tác và hy sinh cho tha nhân. Nên thánh thiện là biết thưa "Con chỉ chu toàn phận sự được giao phó". Như thế thì danh, chức, lộc không còn ở thế thượng phong, mà chỉ là phương tiện để tín hữu yêu thương, cộng tác, thông cảm và tha thứ. Tuyệt vời thay!
38. Chúa Nhật I Mùa Chay
Hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Chay. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tương ứng vời 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh của Đức Giêsu trong sa mạc trước khi Người bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng.
Mở đầu Mùa Chay, Giáo Hội trình bày cho chúng ta thấy Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ. Mặc dù thật sự bị cám dỗ, nhưng Đức Giêsu luôn trung thành với Chúa Cha và với sứ vụ mà Cha Người giao phó.
Đời sống của chúng ta là một cuộc thử thách, là một cơn cám dỗ triền miên, từ ngày này qua ngày khác. Chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn, chúng ta sẽ phải đương đầu với những quyến rũ, lôi cuốn hấp dẫn của ma quỷ. Vì thế, thử thách và cám dỗ là một cái gì gắn liền với bản tính nhân loại, nó làm thành thân phận của mỗi người chúng ta. Cùng nhìn lại những cơn cám dỗ Đức Giêsu, ta dễ dàng nhận thấy:
Khởi đầu ma quỷ đánh ngay vào nhu cầu vật chất, nó cám dỗ về cơm bánh là những nhu cầu thiết yếu nhất của con người. Thật vậy, con người chúng ta cần phải ăn uống và cần phải có những nhu cầu vật chất tối thiểu để sống. Điều đó không xấu. Nhưng chúng ta nhìn kỹ lại thì nhận thấy rằng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống dựa vào những nhu cầu vật chất của thân xác mà thôi. Nhiều khi chúng ta lo kiếm ăn, đến nỗi không còn nghĩa đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức nữa. Tôi lo đi làm việc kiếm tiền suốt ngày kể cả ngày Chúa Nhật không còn giờ để đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, ngay cả việc tham dự thánh lễ Chúa nhật! Khi ma quỉ phóng đại nhu cầu, muốn cho Đức Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, vật chất là tất cả đời sống, vật chất nên sống chỉ nhờ cơm bánh vật chất. Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy: "Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh", vật chất không phải là tất cả, cơm bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng còn có thứ cao hơn, nâng con người một bước cao hơn đó là bánh tinh thần của trời cao và nó cần thiết hơn. Vì thế, bên cạnh chăm lo của ăn vật chất, chúng ta cần phải chăm lo của ăn thiêng liêng cho phần tinh thần, linh hồn của chúng ta nữa. Đó chính là Lời Chúa và Mình Máu Người.
Kế đến chúng ta cũng dễ bị cám dỗ về danh vọng, về sự thành công trong cuộc sống. Đồng ý rằng thành công trong cuộc sống là một điều rất tốt và nên làm. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống để thành công, muốn thành công với bất cứ giá nào, mặc dù phải làm những chuyện không tốt như lừa dối, gian lận, chà đạp người khác... thành công để vênh vang, tự đắc, để giữ thể diện và thỏa mãn tự ái của mình. Chắc chắn Đức Giêsu không muốn chúng ta bị lạc vào đường cám dỗ như thế.
Cuối cùng, chúng ta dễ bị cám dỗ về quyền lực thống trị. Chúng ta muốn mình làm Vua thiên hạ, làm Vua của mọi người. Đôi khi chúng ta lại muốn ý kiến mình là quan trọng trong đám đông, mọi người phải nghe mình nói, ý kiến của tôi là số một, không còn ai hơn tôi cả...Thực tế mà nói, là con người, mỗi người trong chúng ta đều có một trách nhiệm, một quyền hành nào đó đối với gia đình hay trong xã hội, đúng hơn là một bổn phận mà mình phải chu toàn. Có quyền hành, có trách nhiệm là để phục vụ, để hoàn thành trách nhiệm và bênh vực công lý. Nhưng xem kỹ lại, chúng ta thấy mình thường bị cám dỗ là lẫn lộn giữa quyền hành và lòng tham vọng thống trị. Do đó, Lời Thiên Chúa còn vang vọng: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa". Bái lạy có nghĩa ở đây là nhìn nhận mình là thần dân của Chúa, bổn phận mình là làm đẹp lòng Chúa, vừa ý Chúa, đó còn là làm sáng danh Chúa. Vì thế, trong Mùa Chay này, chúng ta hãy kiểm điểm lại con người mình, xem lại những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm. Nó cũng giống với những con cám dỗ của Chúa Giêsu. Nói cách khác, những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong sa mạc cũng là những cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta về vật chất, hào nhoáng bên ngoài và quyền hành. Đức Giêsu đã chiến thắng. Người cũng muốn chúng ta tham dự vào chiến thắng của Người.
Mục đích cuối cùng của ma quỉ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng là lìa xa Thiên Chúa. Người ta đã rơi vào bẫy của ma quỉ nên đã không sống tâm tình người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn lên bằng cha mình, muốn chống lại cha mình. Tuy đã thắng trong trận đầu tiên, Đức Giêsu vẫn bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn cám dỗ có khi thì đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất. Khi thì đến từ những người chống đối, xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượn chính những người thân tín như Phêrô, để ngăn cản Chúa Giêsu thực thi ý Đức Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ vì Người luôn tìm ý Chúa Cha. Dù phải chiến đấu trong mồ hôi vất vả, Người vẫn nói: "Lạy Cha xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha". Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ, và nhiều khi chúng ta phải mắc bẫy của ma quỷ. Ta mắc bẫy của ma quỷ khi ta đuổi theo, mải mê những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu của ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ, khi ta dùng mọi phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.
Mùa Chay này Chúa kêu gọi chúng ta trở về với Chúa nghĩa là chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. Biết mình là những con người yếu đuối nên Giáo Hội dùng Mùa Chay để giúp chúng ta ăn năn sám hối tội lỗi, và ý thức về ơn gọi của mình hơn. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta cảnh giác mình như:
Một là chỉ tin tưởng một mình Chúa, thờ phượng Chúa. Tin tưởng vào vào Chúa sẽ giúp ta biết nương tựa Chúa mà chống trả với cơn cám dỗ. Ta cần phải cầu nguyện, liên kết với Chúa Thánh Thần để Người hướng dẫn ta biết sống đẹp lòng Chúa.
Hai là không cộng tác với ma quỷ. Hãy mạnh dạn nói không với cám dỗ ngay từ đầu. Chúng ta thường nghĩ rằng cám dỗ phải lén lút và rón rén đến cửa sau nhà chúng ta. Có thể là như vậy nhưng không hẳn. Nhiều khi nó đến ngay trước cửa nhà. Chúng ta biết đó là sai và không nên làm. Nhưng chúng ta tự nhủ: đâu có sao, nhằm nhò gì, đâu có ai biết. Hay tệ hại hơn, chúng ta lại tự biện minh rằng thực sự đâu có gì là sai. Con người có một tài năng vô cùng khéo léo để lý lẽ và biện minh cho cái cách mình phạm tội. Hãy nhận diện ra sự nguy hiểm của cám dỗ ngay khi nó mời gọi và quyết định dứt khoát.
Ba là chúng ta đặt ra cho mình một chương trình sống cho mùa Chay bằng việc cầu nguyện, làm việc bác ái, hy sinh, giúp đỡ tha nhân nhiều hơn. Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh để chúng ta đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu chúng ta biết sống trọn tình con thảo, tin cậy, phó thác vào Người.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết cậy dựa nhờ sức mạnh của Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ chiến thắng những con cám dỗ đang rình rập, tấn công và lôi cuốn chúng con. Amen.
39. Cám dỗ
Đời sống của chúng ta là một cuộc thử thách, là một cơn cám dỗ triền miên, từ ngày này qua ngày khác. Chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn, chúng ta sẽ phải đương đầu với những quyến dũ, để rồi cuối cùng, nếu trung thành với Chúa, chúng ta sẽ được Ngài yêu thương và ân trao ban phần thưởng Nước trời.
Vì thế, thử thách và cám dỗ là một cái gì gắn liền với bản tính nhân loại, nó làm thành thân phận của mỗi người chúng ta. Và nếu đọc lại Kinh thánh, chúng ta thấy thử thách và cám dỗ đã xuất hiện ngay từ những trang đầu tiên, vào một thuở rất xa xưa.
Thực vậy, các thiên thần lúc ban sơ cũng đã bị thử thách về lòng trung thành của mình đối với Thiên Chúa. Chúng ta không biết rõ cuộc thử thách ấy như thế nào, nhưng theo tương truyền, thì Lucifer, vị thiên thần mang ánh sáng, thấy mình vinh quang rực rỡ, nên đã ngang nhiên tuyên bố:
- Tôi không phục tùng Thiên Chúa nữa.
Một số các thiên thần khác về hùa với Lucifer đã quay lưng chống lại Thiên Chúa. Trong khi đó tổng lãnh thiên thần Micae cùng với các thiên thần lành thánh đã khiêm nhường xác định lập trường của mình qua lời nói bất hủ:
- Ai bằng Thiên Chúa.
Và hình phạt nào đã dành cho ma quỷ, nếu không phải là hình phạt hỏa ngục đời đời.
Thứ đến là Adong Eva. Sách Sáng thế ký kể lại rằng: ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên và cho hai ông bà được sống trong vườn địa đàng, có nghĩa là sống trong tình yêu thương và hạnh phúc tuyệt vời của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, để xứng đáng lãnh nhận tình yêu và hạnh phúc, hai ông bà đã cũng đã phải trải qua một cuộc thử thách. Và thử thách đã có mặt qua lệnh truyền của Thiên Chúa:
- Ngươi được ăn mọi thú trái cây trong vườn, ngoại trừ cây biết lành và dữ, vì ngày nào ngươi ăn trái cây ấy, ngươi sẽ phải chết.
Thế nhưng, ma quỷ dưới vóc dáng của một con rắn, đã cám dỗ hai ông bà:
- Ngày nào ăn trái cây ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ biết được điều lành điều dữ.
Và như chúng ta đã biết: hai ông bà đã nghe lời dụ dỗ của ma quỷ, vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Bản chất của tội nguyên tổ không phải chỉ là một sự tham ăn bình thường, hay một khuynh hướng đam mê về tình dục mà hình ảnh trái cấm là một biểu tượng. Nhưng hơn thế nữa, bản chất thực sự của tội nguyên tổ chính là sự kiêu ngạo, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, muốn tự giải thoát mình khỏi quyền năng của Ngài. Hậu quả của hành vi bất trung ấy là gì nếu không phải là hai ông bà đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, sống trong tình trạng thù nghịch cùng Thiên Chúa, phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Cái chết phần xác cũng như cái chết phần hồn. Án phạt này còn được lưu truyền cho con cái loài người.
Từ hai sự kiện trên, chúng ta thấy: phản bội cùng Thiên Chúa thì sẽ bị trừng phạt, trái lại trung thành với Ngài thì sẽ được ân thưởng.
Abraham ngày xưa đã vâng nghe lời Chúa, từ bỏ quê hương xứ sở, lên đường theo tiếng gọi của Chúa, tới một vùng đất xa lạ mà Ngài sẽ ban cho làm sản nghiệp, sẵn sàng sát tế Isaac, người con trai duy nhất trong tuổi già, làm lễ vật dâng kính Ngài. Vì thế, lời hứa đã được thực hiện:
- Ông đã trở thành cha của một dân tộc hùng mạnh và đông đúc như sao trên trời và như cát biển, cũng như ông đã có một mảnh đất chảy sữa và mật làm sản nghiệp.
Rồi ông Gióp, đang sống trong tình trạng giàu sang: lắm của nhiều con, thế nhưng, chỉ trong một ngày tất cả đều đã tiêu tan. Con cái bị giết chết, tài sản bị cướp bóc hay bị thiêu rụi, còn bản thân ông bị ghẻ lở nhức nhối. Thế nhưng, ông vẫn luôn trung thành cùng Chúa để rồi cuối cùng ông đã được Chúa yêu thương và trao ban cho gấp bội.
Sự thử thách không phải chỉ có trong phạm vi cá nhân, mà hơn thế nữa, còn có cả trong phạm vi dân tộc và nhân loại nữa. Lịch sử dân Do thái là một bằng chứng cụ thể. Bao lâu trung thành phụng thờ Chúa, họ được sống trong thanh bình và hạnh phúc, trái lại nếu xa lìa và phản bội Ngài, lập tức bản thân họ bị đau khổ và đất nước họ bị tan hoang.
Thế nhưng, như chúng ta thường nói:
- Lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Cám dỗ và thử thách, tự bản chất, không phải là một cái gì xấu xa, trái lại nó còn là một cái gì hữu ích, giúp thanh luyện tâm hồn và làm cho chúng ta được trở nên trưởng thành, đồng thời gia tăng công nghiệp cho chúng ta.
Chính vì thế, Chúa Giêsu cũng đả chấp nhận bị cám dỗ và thử thách. Phúc âm kể lại: sau khi ăn chay bốn mươi đêm ngày, Chúa Giêsu cảm thấy đói và ma quỷ đã cám dỗ Ngài. Tuy nhiên, cơn cám dỗ cam go nhất đối với Ngài chính là cái chết trên thập giá. Ngài cũng đã phải trải qua những giây phút lo sợ và giàng co, để rồi cuối cùng thánh ý Chúa Cha đã được thực hiện và chương trình cứu độ được hoàn tất:
- Xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi.
Sống là chọn lựa. Không phải chọn lựa một lần thay cho tất cả, nhưng phải chọn lựa luôn mãi trước mỗi công việc cũng như trước những thử thách và cám dỗ. Chúa đòi chúng ta trung thành với Ngài, không phải chỉ trong những việc lớn lao, mà còn trong những việc tầm thường và nhỏ mọn.
Có như vậy, trong ngày sau hết chúng ta mới được nghe những lời nói ân tình của Chúa:
- Hỡi đầy tớ trung thành và khôn ngoan, vì ngươi đã trung thành trong việc nhỏ, Ta sẽ đặt ngươi coi sóc việc lớn. Hãy vào vui hưởng hạnh phúc của chủ ngươi.
40. Cám dỗ, nguy cơ và cơ may
(Suy niệm của Lm Pietro Nguyễn Hương)
Với Chúa nhật I mùa Chay năm A, phụng vụ Lời Chúa hướng sự chú ý của chúng ta tới một chủ đề chính đáng suy nghĩ đó là CÁM DỖ. Chủ đề này như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các bài đọc. Nếu ma quỉ xuất hiện như làm một kẻ thù rất nguy hiểm của con người, thì Đức Giêsu là người chiến thắng tất cả các cám dỗ và cạm bẫy của Ma quỉ, trở thành khuôn mẫu và là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát của nhân loại.
Bài Đọc I từ Sách Sáng Thế (St 2,7-9. 3,1-7), kể cho chúng ta nghe lại câu chuyện sa ngã của tổ tiên chúng ta do những lời mời mọc ngọt ngào của con rắn. Adam va Eva bị cám dỗ ăn trái cấm của “cây biết lành biết dữ” (St 3,2). Họ đã sa ngã, xa rời Thiên Chúa, đánh mất sự sống và sự hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi sự thiện hảo. Câu chuyện này cũng nhắc nhở chúng ta về một sự kiện lịch sử là nhân loại ngay từ đầu đã phạm tội và không có khả năng giải phóng mình khỏi tội lỗi và sự giữ. Nhân loại cần đến ơn cứu độ, sự hoàn nguyên đến từ Thiên Chúa.
Thánh Phaolô trong thư gửi các tín hữu Rôma (Rm 5,12-19), cho chúng ta lời giải đáp về mầu nhiệm cứu độ của nhân loại mà Đức Kitô đã mang lại qua mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Kitô: «Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính» (Rm 5,19).
Bài Tin mừng (Mt 4,1-11) giới thiệu với chúng ta kinh nghiệm của Đức Giêsu trong sa mạc, nơi Người bị cám dỗ và chống lại Satan như thế nào.
Chúng ta hãy nhìn vào ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu: cơn cám dỗ thứ nhất, trong lúc đói lã, Ma quỉ đề nghị Người biến những viên đá thành bánh để ăn. Đấy là cám dỗ đặc trưng về vật chất. Nhưng Đức Giêsu trả lời: «Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4). Đức Giêsu đã từ chối cám dỗ này và sống phó thác vào Chúa Cha, vì đối với Người có một thức ăn quan trọng hơn “bánh mì” đó là Lời Chúa và thi hành theo Ý Cha.
Trong cơn cám dỗ thứ hai: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi!» (Mt 4,6). Đây là cám dỗ về lòng kiêu ngạo. Ma quỉ gợi lên sự ngờ vực, thách thức về Tình Yêu của Chúa Cha đối với Người, và để nghị Người sử dụng quền của mình để làm những cảnh ngoạn mục, tìm kiếm sự vỗ tay của đám đông. Trong câu trả lời: «Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi», Chúa Giêsu cho thấy Người là Con đích thực của Thiên Chúa, đã chọn một cách sống trong khiêm tốn, trong ẩn dật, và không cần phải bắt Thiên Chúa làm theo ý mình để biểu lộ tình yêu đối với mình. Cách đơn giản Người sống tin tưởng vào Cha.
Cuối cùng, Cám dỗ thứ ba liên quan đến sự khát khao quyền lực: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi. (Mt 4,9). Một cách công khai Ma quỉ để lộ mục đích của nó: hãy thờ lạy tôi chứ không phải Thiên Chúa, bạn sẽ có tất cả. Chúa Giêsu trả lời bằng một lối sống thực sự chỉ có tôn thờ và phục vụ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Quả thật, cả ba cám dỗ của Đức Giêsu là “ba con đường dễ dãi để không trải qua Thập Giá” (Fulton Sheen), nhưng Đức Giêsu đã chấp nhận con đường Thập Giá, với một tình yêu và lòng phó thác hoàn toàn vào Cha. Như thế, Người đã chiến thắng và như thế qua Thập Giá, Người cứu độ chúng ta.
Cũng như Đức Giêsu, ngày hôm nay chúng ta sống trong thế giới này, một thế giới đầy cám dỗ, và cám dỗ hôm nay được mặc nhiều dáng vẽ hấp dẫn và đẹp đẽ. Đằng sau những cám dỗ là Ma quỉ, kẻ thù luôn dấu mặt. Kẻ được định nghĩa bởi Gioan như là cha đẻ của sự dối trá (Gv 8,44), một kẻ thù rất nguy hiểm không bao giờ ngủ, luôn sẵn sàng để thử thách chúng ta. Và như nhà thơ Baudelaire nói: “Sự quỉ quyệt nhất của ma quỉ là làm cho con người không tin rằng nó hiện hữu”.
Chúng ta đừng có sợ hãi vì Đức Kitô đã chiến thắng Satan để giải thoát ta khỏi Satan. Chúng ta hãy học hỏi từ Đức Giêsu, để chiến đấu với Ma quỉ bằng sức mạnh của Lời Chúa, và khí cụ của việc ăn chay, cầu nguyện và việc bác ái. Hãy học nơi Người để tĩnh thức luôn, để nói KHÔNG với từng cơn cám dỗ và nói VÂNG với Thiên Chúa. Đặc biệt là như Đức Giêsu, hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời chúng ta, hãy trở nên nhảy cảm và dễ bảo với Người. Tôi xác tín rằng, nếu chúng ta bước đi trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ chiến thắng các cám dỗ, và qua những thử thách đó chúng ta sẽ trưởng thành trong Đức Tin và trong Tình Yêu với Thiên Chúa và với mọi người. Đó là tin vui và cùng với niềm vui đó chúng ta bắt đầu hành trình Mùa chay hướng về niềm vui phục sinh của Đức Kitô, Chúa Chúng ta. Amen!
41. Cám dỗ – Lm Trần Xuân Lãm
Thánh sử Matthêô, một người Do- thái, nhắm trước hết vào các độc giả Do-thái, ông muốn nhắc nhở: dân Do Thái đã sa chước cám dỗ khi họ sống trong hoang địa 40 năm trường, còn Chúa Giêsu đã chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ, sau khi ăn chay 40 ngày nơi rừng vắng.
Có tất cả 3 cám dỗ nặng nề:
1- Cám dỗ cơm bánh hay vật chất: Trong hoang địa, dân Do thái kêu ca vì thiếu tiện nghi và lương thực. Chúa cho manna để nuôi họ. Nhưng họ nhàm chán thứ bánh họ ăn hằng ngày. Lương thực nói đây tượng trưng nhu cầu vật chất chúng ta muốn hưởng thụ. Trong cơn cám dỗ vật chất, Chúa Giêsu đã trưng lời sách Đệ nhị luật: “Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng bởi lời từ miệng Thiên Chúa”. Mặc dù Chúa Giêsu cảm thấy đói, nhưng sự đói khát nghe lời Thiên Chúa còn quan trọng hơn là nhu cầu về cơm bánh. Ngài hơn hẳn dân Do thái xưa, Ngài tìm ý Thiên Chúa hơn là tìm sự thỏa mãn cho riêng Ngài.
2- Cám dỗ về sự thử thánh quyền năng Thiên Chúa: Dân Do thái luôn yêu cầu Chúa ban những dấu lạ điềm thiêng, nhưng Chúa từ chối vì họ không thực tâm tin vào Ngài, mà đơn thuần chỉ để thách thức Chúa. Hôm nay, khi ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu gieo mình xuống khỏi đền thờ, Ngài đã trả lời bằng cách trưng dẫn sách đệ nhị luật: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa”. Những gì dân Do Thái khiêu khích Thiên Chúa nơi hoang địa, nơi đây ta thấy Chúa Giêsu đã chẳng hề làm.
3- Cám dỗ hạ mình thờ lạy ma quỷ: Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, thú vui, vật chất, tiện nghi, sắc dục đem chúng ta xa lìa Chúa và dẫn ta đến chỗ thỏa hiệp, phạm tội. Chúa Giêsu chẳng màng bất cứ điều gì ma quỷ trưng dẫn, kể cả vương quốc nó muốn dâng tặng Ngài. Ngài đã chẳng cúi đầu thờ lạy nó, trái lại Ngài dõng dạc tuyên bố: “Ngươi chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa” (Đnl 6:13).
Thánh Mat-thê-ô chỉ ra rằng, trong khi dân Do thái đã ngã thua cám dỗ trong sa mạc, thì trái lại, Chúa Giêsu đã chẳng hề sa ngã. Bởi đó, Chúa Giêsu, là dân Is-diên mới, là con thật của Thiên Chúa, là thừa kế chính truyền của vương quốc Thiên Chúa. Những ai theo gương Ngài, sẽ vượt qua cám dỗ trong cuộc đời, và trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa.
42. Cám dỗ
Bấy giờ ma quỷ đem Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, cao cách mặt đất chừng bốn mươi mét, rồi bảo Chúa nhảy xuống, biểu diễn tài nghệ để người ta khâm phục, ca tụng. Như vậy là ma quỷ muốn cám dỗ Chúa về tính tự phụ tự cao, thích hư danh và thích phô trương ưu thế của mình. Đây cũng là một điểm yếu của con người. Lịch sử cổ kim đã ghi lại đầy dẫy những con người mang bệnh “muốn làm lớn”, muốn trở thành “mặt trời” để kẻ khác xoay quanh mình. Chẳng hạn, vua Babilon đã từng tuyên bố: “Ta sẽ lên trời, trên các vì sao của Thiên Chúa, ta sẽ bắc ngai ta, ta sẽ ngự trên núi Tao phùng, nơi bồng lai cực bắc, ta sẽ lên chót vót các tầng mây, ta sẽ đồng hàng với thượng đế”. Cũng vậy, ông Xêda, khi chưa lên ngôi hoàng đế Lamã, đã nói một câu phần nào trở thành kinh điển cho hậu thế: “Thà làm số một trong một làng nhỏ bé hẻo lánh bên xứ Gôn (Gaule), còn hơn làm số mười một ở kinh đô Lamã”. Và ngày nay, hằng năm, trên thế giới có xuất bản cuốn Ghi-nét (Guiness), sách ghi các kỷ lục thế giới: người nào chạy nhanh nhất, sống lâu nhất, ăn nhiều nhất, cao lớn nhất, có râu xịn nhất… nghĩa là chỉ những ai số một ở một lãnh vực nào đó mới được ghi tên vào cuốn sách ấy để hậu sinh biết. Từ ngày có cuốn Ghi-nét này, nhiều người đã cố gắng lập kỷ lục kỳ cục cốt chỉ để nổi danh, để thế giới biết tiếng. Đó, chúng ta thấy, bản tính con người muốn thần thánh hóa mình mà lại được ma quỷ thổi phồng lên nữa, thì còn gì bằng. Vậy Chúa có mắc bẫy của ma quỷ không? Không, ma quỷ muốn Chúa nổi danh sớm hơn chương trình đã định, và muốn Chúa nổi nang như một tài tử, một nhà làm xiếc có tài để dân Do thái tôn lên bậc thầy, và như vậy là làm trật được mục đích cứu rỗi nhân loại. Ý đồ thâm hiểm là như thế. Nhưng một lần nữa, Chúa dùng lời Kinh thánh để phản công lại ma quỷ: “Ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Ma quỷ lại thất bại.
43. Đương đầu với cám dỗ
(Ttích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Người ta kể câu chuyện: trong ngày họp tổng kết cuối năm, báo cáo của các quỷ đều sút giảm việc lôi kéo con người, do đó Luxife đã yêu cầu các thành viên hiến kế làm thế nào để có thể cám dỗ hiệu quả nhất, và lôi kéo được nhiều người nhất. Một tên nói: Tôi sẽ hiện nguyên hình hoặc tạo ra những chuyện lạ lùng để làm lung lạc đức tin của người tín hữu. Tên thứ hai nói: Tôi sẽ lấy những hình ảnh các cô gái đẹp, các chàng trai hấp dẫn, tạo nên những chỗ vui chơi khiến cho các tín hữu mất cảnh giác. Cả hai ý kiến đều rất hay và được tất cả hội nghị vỗ tay. Tên thứ ba góp ý: Tôi sẽ nói cho mọi người tin là không có ma quỷ, cũng chẳng có cám dỗ, cuộc sống con người làm ra tiền thì phải hưởng thụ. Ý kiến này thật xuất sắc và nguy hiểm và được cả hôi nghị vỗ tay tán thưởng và chọn để hành động.
Thưa qúy OBACE, câu chuyện ấy cho thấy một sự thật, đó là ma quỷ có rất nhiều mưu mô, các cám dỗ thì muôn hình muôn vẻ, và cám dỗ nào cũng nguy hiểm nếu chúng ta không sẵn sàng để đương đầu với nó, nó sẽ hạ gục chúng ta.
Ngày xưa khi Thiên Chúa dựng nên con người, và cho con người được hưởng hạnh phúc trong vườn Địa Đàng, thì dường như Satan đã tức tối với Thiên Chúa, ghen tị với con người nên nó tìm mọi cách để tách con người ra khỏi Thiên Chúa. Câu chuyện trong sách Sáng Thế hôm nay đã dùng những hình ảnh hết sức đơn sơ để nói lên sự thất bại của nguyên tổ loài người trước sự tấn công của ma quỷ. Mượn hình ảnh con rắn là loài xảo quyệt, ma quỷ đã dụ dỗ Evà, và bà đã để mình mất cảnh giác trước những lời đưa đẩy ngọt ngào của nó.
Trước hết nó gieo vào trong bà Evà sự nghi ngờ Thiên Chúa: Có phải Thiên Chúa cấm các ngươi không được ăn mọi trái cây trong vười không? Qua một câu nói vu vơ như thế nó khiến cho bà Evà nghĩ rằng chắc Thiên Chúa không yêu con người, Ngài còn muốn giữ riêng cho Ngài điều gì đó, Ngài không muốn ban tất cả cho con người. Kế đến Satan nói với bà: Không chết chóc gì đâu, ăn trái cây vào, mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ trở nên như thần linh. Với lời cám dỗ tiếp theo này, nó càng làm gia tăng sự nghi ngờ của bà Evà, và nó còn đưa ra một cái cám dỗ sâu xa hơn, đó là đụng chạm đến cái khát khao trở nên như thần linh trong mỗi con người, muốn biết trước được tương lai, muốn biết điều lành điều dữ, sẽ trở nên quyền phép ngang hàng như Thiên Chúa, muốn tự định đoạt cho tương lai của mình mà không cần đến Thiên Chúa, không phải lệ thuộc Thiên Chúa nữa. Bà Evà và đã xiêu lòng trước cám dỗ ngọt ngào này, bà nhìn trái cây thì đẹp mắt, ăn thì ngon, và đáng quý vì làm cho mình nên tinh khôn. Bà đã hái trái mà ăn, rồi còn đưa cho chồng nữa. Cái tội ông bà nguyên tổ gây ra nó không phải bởi hái một trái táo, mà nó là cái tội nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa, và muốn đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa. Lúc bà tưởng mình nên như thần linh thì cũng là lúc bà thấy mình thất bại, mắt bà mở ra nhưng không biết được điều lành điều dữ trong tương lai, mà Thánh Kinh ghi lại, ông bà nguyên tổ chỉ nhìn thấy sự trần trụi, xấu hổ của mình mà thôi.
Nếu như nguyên tổ loài người đã thất bại trước cám dỗ của Satan, thì tin Mừng cho thấy Đức Giêsu là Adam mới đã không cậy dựa vào sức mình, nhưng Ngài đã dùng Thánh Thần và Lời Chúa làm vũ khí chống lại ma quỷ, và Ngài đã chiến thắng.
Trước khi bắt đầu sứ vụ công khai, sau khi chịu phép rửa, Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài vào sa mạc, nơi đó, Ngài sống chay tịnh và chịu ma quỷ cám dỗ. Cám dỗ đầu tiên chính là cám dỗ về vật chất, cám dỗ về bản năng. Ma quỷ nhắm đến việc thỏa mãn cho cơn đói, nên nó nói với Chúa: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho những hòn đá này nên bánh đi. Nó muốn Chúa Giêsu nhân danh Thiên Chúa để thỏa mãn cho nhu cầu cái bụng của mình, và dùng quyền năng để tìm kiếm, thỏa mãn nhu cầu vật chất, để từ đó dùng vật chất để phục vụ cho nhiệm vụ Mesia của mình. Như thế có nghĩa là sẽ sự thành công sau này sẽ không phải bởi Thiên Chúa, mà do vật chất đem lại. Thấy được mưu mô của nó, Chúa Giêsu đã trả lời: Người ta sống không nguyên bởi bánh, như còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Cám dỗ tiếp theo: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy gieo mình xuống đi, vì Thiên Chúa sẽ cho Thiên thần đưa tay nâng đỡ ông mà! Cám dỗ này như con dao hai lưỡi, nếu từ chối, thì có nghĩa là không tin Thiên Chúa sẽ đưa tay ra nâng đỡ, và nếu nghe theo, thì sẽ rơi vào tình trạng muốn thử thách tình yêu của Thiên Chúa. Qua cám dỗ này, ma quỷ nó cám dỗ Chúa dùng quyền năng của Thiên Chúa để phục vụ cho chính mình, để tạo ra những điều hấp dẫn ngoan mục thu hút dân chúng, làm những việc nổi tiếng để thuyết phục người nghe. Nhưng Đức Giêsu đã trả lời cho ma quỷ: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi.
Cám dỗ thứ ba trầm trọng hơn, khi nó tự nhận tất cả mọi vinh quang thế gian là của nó, và nó nói: Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông tất cả. Với cám dổ này, ma quỷ muốn đặt Đức Giêsu về phía đối nghịch với Thiên Chúa, dùng quyền bính Mesia để giành lấy vinh quang, danh vọng, quyền lực về cho mình. Sấp mình thờ lậy nó, thì có nghĩa là hoàn toàn lệ thuộc vào nó, chịu sự chi phối của nó, tức là hạ bệ Thiên Chúa và đặt ma quỷ vào vị trị của Thiên Chúa. Với cám dỗ này, Chúa Giêsu đã có một phản ứng mạnh mẽ và quyết liệt: Satan, hãy cút đi, vì có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của người và chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi. Chúa giêsu đã cương quyết không dung túng cho ý nghĩ sai lạc này, Ngài đã xua đuổi Sa tan và đã khẳng định vị trí và vai trò độc nhất của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thưa quý OBACE, cám dỗ chưa phải là điều tội, nó chỉ trở thành tội khi chúng ta chấp nhận chiều theo nó. Tuy nhiên với sư mưu mô xảo quyệt của ma quỷ và sự tinh vi của các cơn cám dỗ, chúng ta sẽ khó có thể đương đầu với nó nếu chúng ta không cậy dựa vào sức mạnh của Lời Chúa. Đó cũng là điều Tin Mừng muốn minh chứng cho chúng ta, vì chính Chúa Giêsu khi đương đầu với cám dỗ, Ngài không cậy dựa vào sức riêng của bản thân, nhưng Ngài đã cậy dựa vào lời Kinh Thánh làm vũ khí để đánh bại mọi cám dỗ ma quỷ bày ra nhằm làm chệch hướng sứ vụ Mesia của Ngài.
Ngày xưa ma quỷ đã thất bại trong việc cám dỗ Chúa Giêsu, ngày nay ma quỷ nó cũng không buông tha những người tin theo Ngài. Ngày nay nó không cám dỗ chúng ta cách rõ ràng, nhưng nó rất kiên nhẫn để đi từng bước khiến chúng ta chệch đường, sai hướng và rơi vào bẫy của nó. Chắc chắn nó không dùng những hình ảnh hết ghê sơ để cám dỗ hay hù dọa chúng ta, nhưng nó dùng những thứ tưởng chừng như vô hại, những lời lẽ ngọt ngào, những thói quen không tốt tích tụ từ ngày này qua ngày khác khiến chúng ta mất cảnh giác.
Nó cũng đang nhắm vào các bậc cha mẹ với lý do cơm áo gạo tiền để từ chối đến với Chúa, để nhắm mắt làm ngơ trước những giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống xao nhãng xa lìa Thiên Chúa và để cho gia đình mình trở nên nguội lạnh vắng tiếng đọc kinh thiếu giờ cầu nguyện, từ đó trở nên mảnh đất tốt cho ma quỷ gieo vào đó sự bất hòa cãi vã sự gian dối lươn lẹo, sự bất đồng bất hòa trong gia đình. Nó cũng đang cám dỗ nhiều người chỉ lo làm giàu mà quyên mất sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa, muốn tự mình quyết định cho tương lai của mình mà không cần đến Thiên Chúa, nó cám dỗ nhiều người muốn biến mình trở nên như thần linh, muốn biết trước về tương lai của mình, biến mình trở nên những vị thày khôn ngoan đạo đức để lôi kéo người khác và khiến các tín hữu chạy đến với các thày bói toán để hỏi ý kiến thay vì đến với Thiên Chúa.
Nhiều bạn trẻ và nhiều người khác đang bị ngã gục bởi cám dỗ về vật chất danh vọng và quyền lực, họ đã tìm kiếm vật chất, danh vọng và quyền lực bằng mọi giá, thích nổi danh nổi tiếng, kể cả việc dẫm đạp lên phẩm giá của mình và giẫm đạp lên anh em, sẵn sàng cúi xuống để thờ lậy ma quỷ và đồng minh của nó là thế gian và dục vọng xác thịt, và quay lưng lại với giới răn lề luật của Thiên Chúa. Những cám dỗ mời chào của ma quỷ, của những trào lưu trong xã hội ngày nay, nó như viên đạn bọc đường vô cùng nguy hiểm, nó sẽ hủy hoại và giết chết nhiều tâm hồn không biết cậy dực vào Chúa mà chỉ cây dựa vào chính mình.
Xin cho chúng ta biết học nơi Chúa Giêsu, dùng Lời Chúa làm sức mạnh chống lại với cám dỗ của ma quỷ, và xin cho chúng ta biết noi gương Đức Maria là Evà mới luôn sẵn sàng thưa tiếng xin vâng để phó thác cuộc đời cho tình yêu và sư bảo vệ của Chúa. Amen.
44. Liên hệ – Lm. Vũ Đình Tường
Chương đầu sách Sáng Thế Ký tường thuật sự việc Chúa tạo dựng con người phỏng theo hình ảnh Chúa. Trình thuật cho biết từ nguyên thuỷ Chúa lấy bùn đất tạo nên con người và thở hơi vào lỗ mũi ban Thần Khí Chúa cho con người. Nhờ Thần Khí đó mà con người có sự sống.
Nguyên việc sáng tạo cũng đủ cho biết con người có quan hệ rất mật thiết với vũ trụ do Chúa tạo dựng. Đây là lí do chính giải thích tại sao con người lại có khuynh hướng yêu mến, quyến luyến trần thế.
Nguyên do
Ngoài ra, thân xác con người bởi đất mà ra. Con người nhận biết mình là bụi tro và sau cuộc đời khổ ải này sẽ trở về bụi tro. Nói cách khác thân xác con người là một phần của vũ trụ do Chúa tạo thành. Yêu thích vật chất, của cải thế gian chính là yêu thích cái cội nguồn thân xác trần thế của chính mình.
Chúa phán cho nhân loại con người hãy làm chủ chim trời, cá biển và những sinh vật trên mặt đất. Con người thi hành giáo huấn tích cực đến độ cạnh tranh, tranh nhau làm chủ và ngay cả tàn sát nhau để được quyền làm chủ trên đất, biển và không gian. Thực ra con người được mời gọi làm quản gia, chứ không phải là chủ gia. Nhiệm vụ của quản gia là bảo quản, coi sóc, bảo vệ, canh tác và hưởng thành quả của lao tác. Đòi làm chủ vượt quá quyền hạn của quản gia. Mầm mống của phản loạn chống lại chủ nhân vũ trụ, chống lại Đấng sáng tạo ra vũ trụ. Mình Chúa làm chủ tất cả. Mọi người đều là quản gia, công nhân của vườn nho Chúa.
Con người nhận biết của cải, vật chất trần thế rất thực tiễn. Hữu dụng cho cuộc sống và thoả mãn những nhu cầu con người. Chính những gì trái đất cung cấp làm con cho người trở nên thèm khát và muốn chiếm đoạt, chiều theo lòng ham muốn của cải.
Đam mê
Khuynh hướng đam mê của cải, chức tước tác động mãnh liệt cho một số thành phần vì họ khát khao có chúng. Với họ bao nhiêu vật chất cũng chưa vừa, sống bao lâu cũng chưa đủ. Vì ham của cải, vật chất trần thế nên họ chối bỏ Đấng sáng tạo vũ trụ. Đơn giản nhất là chối bỏ Ngài hiện hữu, để thay Ngài làm chủ vũ trụ. Từ đó họ tự do xưng mình là chủ mọi loài, kể cả sự sống. Tự trao trong tay quyền ban phát sự sống cho người khác. Để ai sống người đó sống, bắt ai chết người đó chết. Quả là lộng quyền, lộng ngôn. Ngày nào đó họ cũng chết, không cứu được mình. Phúc Âm vạch rõ ma quỉ cầm đầu kẻ lộng quyền, lộng ngôn khi nó hứa cho Đức Kitô vinh quang phú quí trần thế. Nó không có gì để cho ngoại trừ gian dối, lừa gạt. Chính lừa gạt, gian dối này mà nó hứa cho cả những gì nó không có. Điều ngạc nhiên là có người tin lời hứa hão huyền. Sẵn sàng gây chiến với anh em. Dùng thủ đoạn đối xử với nhau. Thủ đoạn đi chung với chém giết, thủ tiêu, khai trừ. Chết chóc, khổ đau, goá bụa, con côi, phát sinh từ lòng tham, từ đam mê làm chủ sinh ra.
Vũ trụ do Chúa tạo dựng là nơi con người sống và là nơi cung cấp nguồn thực phẩm cho thân xác. Vì thế con người cố gắng làm chủ càng nhiều của cải càng tự tin. Họ tin vật chất bảo vệ sự sống vì nó nuôi và làm đẹp thân xác. Chúa trao quyền cho con người làm chủ chim trời cá biển và mọi sinh vật trong mặt đất. Lời chúc phúc này chung cho mọi người, không riêng cho một cá nhân, tập thể nào. Mọi cố gắng tranh giành cho riêng mình, tập thể mình đều sai. Tranh chấp, bất hoà và tàn sát lẫn nhau vì của cải, vật chất; danh vọng, chức tước vì thiếu ơn Chúa và sa vào cạm bẫy, chước cám dỗ của satan.
Cám dỗ
Ma quỉ biết rõ lịch sử hình thành nhân loại ra sao. Bởi đất mà ra nên chúng dùng miếng ăn, hoa mầu ruộng đất và vinh quang phú quí trần thế cám dỗ con người. Cả ba chước cám dỗ đều có chung mục đích là lo cho thân xác: thực phẩm nuôi thân, mong nổi tiếng và lắm vàng, nhiều bạc. Vừa có tiếng vừa có miếng quả là một thách đố lớn. Tiếng và miếng đều đến từ môi miệng. Ma quỉ dậy con người quên đi con tim và nhắm vào hầu bao và bao tử. Chúng cố tình làm ngơ sự sống Chúa ban cho con người vì mục đích chúng là bóp nghẹt sự sống trường sinh.
Đức Kitô
Đức Kitô nhắc cho ma quỉ biết ngoài phần thân xác ra Chúa còn in dấu ấn tình yêu Ngài vào trong con tim ta. Nhờ dấu ấn tình yêu này mà con người có sự sống. Khi tạo dựng con người bằng bùn đất. Bùn đất đó chưa có sự sống. Sự sống chỉ xuất hiện khi Chúa thở hơi vào hình bụi đất đó. Từ đó bụi đất có sự sống do Chúa ban. Vì thế đừng quá lo lắng cho thân xác bụi đất mà hãy chú trọng vào sự sống trường sinh, cõi lòng con người. Đức Kitô nhắc con người ta sống không chỉ bởi cơm bánh mà còn do lời Chúa nữa. Cơm bánh cần cho thân xác; Lời Chúa cần cho tâm linh. Cơm bánh nuôi thân xác; Lời Chúa nuôi tâm linh.
Ngôn ngữ của môi miệng không mang lại sự sống; ngôn ngữ của con tim nối kết tình Chúa, tình người. Thiếu ngôn ngữ của con tim mọi sự sẽ trở về hư vô. Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, khi qua đời thân xác cũng sẽ trở về nguồn gốc của chúng là bụi tro. Sự sống trường sinh đến từ Chúa sẽ trở về với Chúa. Vì phát xuất từ Chúa nên tâm linh ví như cành cần thường xuyên liên kết với thân là Chúa để nhận sự sống, được thánh hoá hầu sống mạnh khoẻ, tinh tuyền.
Đức Kitô xua đuổi ma quỉ và nhắc cho chúng biết Thiên Chúa có quyền bắt chúng phải tùng phục Ngài. Ngài nhắc con người cần để ý, lưu tâm đến phần tâm linh nhiều hơn vì đó là sự sống trường sinh. Thần khí đó không bao giờ chết. Một là sống thảnh thơi trong tình yêu Chúa. Hai là lạc xa tình yêu Chúa. Bị lạc nó sống trong đau khổ, khắc khoải, nửa sống nửa chết, vì nó luôn muốn tìm về cội nguồn mà không được.
45. Cám dỗ
Thua keo này bày keo khác. Ma quỷ lại đưa Chúa Giêsu lên cao hơn nữa. Chúng đưa lên một ngọn núi. Từ ngọn núi này, chúng chỉ cho Chúa thấy tất cả quyền bính, vinh hoa, giàu sang phú quý, danh vọng và nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ ấy, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”. Chúng ta thấy, ma quỷ thật tinh khôn, chúng thừa biết rằng: là con người, ai cũng ham danh vọng, chức quyền, tiền của. Quyền hành là điều kiện để có danh vọng và cung cấp hay đem lại hầu hết các nhu cầu vật chất. Ngược lại, tiền của cũng là điều kiện để có được quyền hành và danh vọng: đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, và là cái lọng để che thân. Sống ở đời, hầu hết con người đều mang túi tham không đáy: người có tiền bạc, nhưng không có quyền hành, danh vọng, thì ra sức chiếm đoạt, giành giựt cho được địa vị, để có quyền, có danh gì với núi sông. Ngược lại, người có quyền hành, có địa vị, nhưng chưa có nhiều tiền thì dùng đủ mọi mánh lới, thủ đoạn, để kiếm cho thật nhiều. Còn người không có tiền bạc, cũng không có quyền hành, địa vị, thấy người khác có, nóng mũi cũng phải tranh giành cho được. Mọi người đều đầy tham vọng, mọi người đều bị quay cuồng trong những cám dỗ của danh vọng: “Cái vòng danh lợi cong cong. Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Vậy Chúa Giêsu có mắc bẫy của ma quỷ không? Không, đứng những thứ phù vân đó, Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng cám dỗ. Ma quỷ thất bại hoàn toàn và bị Chúa đuổi đi: “Xéo đi, hỡi Sa tan, ngươi phải bái lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người”.
Là con người nói chung và là con cái Chúa, chúng ta đã gặp những chước cám dỗ, đang gặp những chước cám dỗ, hay sẽ gặp những chước cám dỗ. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ: bị cám dỗ chưa phải là xấu. Nếu chúng ta thắng cuộc là chúng ta thành công và được Chúa khen thưởng. Chỉ khi thua cám dỗ mới là xấu. Nhưng để chiến thắng được chước cám dỗ, thắng được ma quỷ, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác trước dịp tội, đừng đùa với lửa, phải cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, phải kiên quyết giữ vững lập trường: “Dù ai nói ngả nói nghiêng. Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân”, “Dù ai nói ngược nói xuôi, ta đây vẫn giữ đạo trời khăng khăng”,”Dù ai sang cả mặc ai, thân này nước chảy hoa trôi sá gì”.
46. Cám dỗ tại hoang địa – Lm FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần Mở của Tin Mừng Mt, mà chúng ta có thể xác định vị trí theo lược đồ sau đây:
A = Lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả và câu trích Is 40,3 (3,1-4)
B = Gioan và Đức Giêsu: cuộc đối đầu giữa các niềm hy vọng Đấng Mêsia (3,5-15)
C = Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha đăng quang Mêsia, với câu nhắc đến Is 42,1 (3,16-17)
B’= Đức Giêsu và ma quỷ: Loại trừ niềm hy vọng Đấng Mêsia trần tục (4,1-11)
A’= Lời rao giảng của Đức Giêsu và câu trích Is 8,23–9,1 (4,12-17). Kết luận và chuyển mạch (4,18-25).
Trong phân đoạn này, tác giả Mt đã vận dụng các đoạn Cựu Ước mà ta có thể thấy qua bảng đối chiếu sau:
Mt 4,1 - Đnl 8,2-3
Mt 4,2 - Xh 34,28; x. Đnl 9,9
Mt 4,4 - Đnl 8,3
Mt 4,6 - Tv 91,11-12 (LXX)
Mt 4,7 - Đnl 6,16
Mt 4,8 - Đnl 34,1
Mt 4,10 - Đnl 6,13
Mt 4,11 - Xh 11,14; x. Đnl 32,11; Tv 91,10-11
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành năm phần:
1) Mở (4,1-2);
2) Cám dỗ thứ nhất (4,3-4);
3) Cám dỗ thứ hai (4,5-7);
4) Cám dỗ thứ ba (4,8-10);
5) Kết (4,11).
3.- Vài điểm chú giải
- Thần Khí dẫn vào hoang địa (1): Chính là Thần Khí đã xuống trên Đức Giêsu tại sông Giođan nay dẫn (anagô) Người vào hoang địa.
- hoang địa (1): Đây là một đề tài quan trọng của Kinh Thánh, vì hoang địa gây ảnh hưởng trong suốt lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn cảnh. (1) Thời gian ở trong hoang địa trước tiên được trình bày như là thời kỳ sống lý tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Trong thời kỳ này, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong phú và họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo. (2) Thời kỳ này cũng còn được coi như một thử thách, thậm chí một hình phạt dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Quả thật, hoang địa vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện, vừa là nơi thử thách.
- để chịu quỷ dữ cám dỗ (1): Đây là một sự chọn lựa nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Tư cách Mêsia của Đức Giêsu cần được thử thách. Và sự thử thách này là một chặng cần thiết trong ơn gọi của Đức Giêsu, trong tư cách Israel mới.
- quỷ dữ (1): Từ ngữ Hy Lạp diabolos có nghĩa là “kẻ vu khống”, “kẻ tố cáo” (động từ diaballô, “tố cáo”; “kết án”). Bản LXX đã dùng diabolos để dịch từ Híp-ri satan (HL satanas). Trong Kinh Thánh, “quỷ” xuất hiện ra như là kẻ tố cáo (x. Dcr 3,1-5; G 1–2; Tv 109,6), ông hoàng của thế gian (Ga 12,31; 14,30), tên cám dỗ (G 1,8-12; 2,1-6; 2 Sm 24,1tt; 1 Sb 21,1; Kn 2,24; 1 Tx 3,5; 1 Cr 7,5; 2 Cr 11,3-15; Rm 16,17-20…). Dù với tên gọi nào, “quỷ” cũng là một “đối thủ” (nghĩa nguyên thủy của từ satan), một kẻ thù của Thiên Chúa và của loài người, nghĩa là chống lại sự thiện. Xem trong Mt: 6,13; 8,28; 12,22; 12,24; 13,25; 16,23…
- Người ăn chay suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm (2): Con số 40 chỉ một thời gian khá dài và có sắc thái là một sự hoàn tất với kết quả tích cực là giải phóng và xây dựng con người. So với Lc, Mt thêm “bốn mươi đêm” để ám chỉ thời gian Đức Giêsu ở trong hoang địa tương đương với thời gian Môsê ăn chay trên núi cao để rồi sau đó được Đức Chúa ban cho các điều khoản của Giao ước (Xh 34,28; x. Xh 25,18). Nhưng cũng có thể Mt muốn ám chỉ đến Êlia nữa (x. 1 V 19,8: ăn chay trong hành trình tiến về núi Khôrép). Hai dung mạo vĩ đại này, đại diện cho Lề Luật và các Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Hiển Dung của Đức Giêsu (cuộc Hiển Dung này chính là cuộc thần hiển. Sau đó sẽ có việc thiết lập Giao Ước mới nhờ cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh của Đức Giêsu). Có lẽ Mt muốn nói rằng việc Đức Giêsu ăn chay đã tóm kết cách nào đó kinh nghiệm của Môsê và Êlia, cũng như các cám dỗ sẽ tóm kết lịch sử của Israel tại hoang địa.
- Nếu ông là Con Thiên Chúa (3): Cám dỗ này do bởi quỷ và thử thách dưới chân thập giá do bởi người Do Thái (Mt 27,40) song song với nhau: chúng nhắm đến tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Đây cũng là một lời thách thức Đức Giêsu làm lại các cử chỉ của Môsê, để chứng tỏ thời đại thiên sai đã đến. Không có lời nhắc đến man-na, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu khiến nghĩ đến man-na.
- đã có lời chép rằng (4): Gegraptai là thì hoàn thành (perfect) ở thái bị động của động từ graphô, “viết”. Thái bị động này thay tên Thiên Chúa, nên có thể hiểu là “Thiên Chúa đã viết”.
- vinh hoa của các nước ấy (8): Doxa (HL), “vinh quang”, đây là một từ ngữ Kinh Thánh để chỉ sự lộng lẫy huy hoàng hoặc giàu sang, sung túc, được tỏ ra bên ngoài.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở (1-2)
Bản văn này được liên kết với bài tường thuật về phép Rửa. Tại sông Giođan, Thần Khí Thiên Chúa đã được ban cho Đức Giêsu, nay cũng Thần Khí ấy lại dẫn Người vào hoang địa. Chiều hướng của bản văn là: Bởi vì Đức Giêsu đến hoàn tất nỗi chờ mong của dân Người, nhất thiết Người phải đảm nhận mọi chiều kích của lịch sử dân Người: ở tại Ai Cập (2,13-15), đi qua sông Giođan (3,13-17), cám dỗ trong hoang địa (4,1-11). Qua các cám dỗ, Đức Giêsu cho thấy Người chấp nhận trọn vẹn thánh ý Chúa Cha; Người loại trừ mọi thứ cung cách Mêsia mà Thiên Chúa không muốn (mà chính Gioan Tẩy Giả đã hình dung), để chấp nhận làm một Mêsia chịu đóng đinh.
Tất cả bài tường thuật về ăn chay và cám dỗ tập trung vào các biến cố của cuộc Xuất Hành. Dân Israel cũng là “con yêu dấu của Thiên Chúa”, nhưng tất cả hành trình trong hoang địa cho thấy họ đã là một đứa con nổi loạn và thất trung (x. Đnl 6,16; 17,2.7; ch. 32–34; Ds 14,22; các Tv: Tv 78,18-41; 81,11; 95,8; 96,6; các ngôn sứ: Gr 7,22; Ed 20,5; Is 63,10. Xem các tác giả Tân Ước: Dt 3,16; Gđ 5). Quả thật, ngôn ngữ của câu đầu đã khiến chúng ta nhớ đến Đnl 8,2 (LXX) và như ám chỉ đến hoàn cảnh của Israel tại hoang địa: “… Thiên Chúa đã dẫn (êgagen; Mt: an-ago) …, như vậy Người thử thách (ekpeirasê; Mt: peirasthênai)…”. Bản văn Đnl nói rằng Thiên Chúa “thử thách” dân để “biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không”. Còn ở đây, trong bản văn Mt, “thử thách” là để phá hỏng và kẻ “thử thách” là quỷ, chứ không phải là Thiên Chúa. Tại hoang địa, Đức Giêsu vừa tóm kết kinh nghiệm của Môsê và Êlia, vừa tóm kết lịch sử của dân Israel trong hoang địa.
Sức con người có thể nhịn ăn nhịn uống được đến thế? Chắc chắn là có, như trường hợp thánh Phanxicô Assisi sau này. Nhưng ở đây, tác giả còn muốn nói một điều khác: cũng như trong trường hợp Môsê, ở đây chính Thiên Chúa nâng đỡ Đức Giêsu, vì Người tin tưởng gắn bó với Thiên Chúa. Nếu như thế, cảm giác đói sau bốn mươi ngày, chính là một thử thách: Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi Đức Giêsu? Cám dỗ thứ nhất được tháp vào điểm này.
* Cám dỗ thứ nhất (3-4)
Trong cám dỗ này, quỷ thách thức Đức Giêsu lặp lại các cử chỉ của Môsê, nhưng không phải bằng cách làm mưa man-na, nhưng bằng cách rút bánh ra từ các tảng đá. Đây cũng là một thách thức nhắm vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Từ ngữ “nếu” nhằm gieo một sự hoài nghi vào tâm trí Đức Giêsu (x. Mt 27,40). Trong cả hai trường hợp, ở đây và trên thập giá, quỷ (ở đây; trên đồi Sọ: quỷ hiện thân nơi “những người qua lại”) thúc đẩy Đức Giêsu sử dụng những quyền lực thiên sai để thoát khỏi một hoàn cảnh nguy hiểm (đói ở hoang địa; chết trên thập giá).
Thiên Chúa đã để cho Israel đi qua thử thách là cái đói, để kiểm chứng lòng tín thác của họ (x. Đnl 8,2-3). Họ đã lẩm bẩm kêu ca, tiếc nuối Ai Cập. Đức Giêsu cũng cảm thấy đói; Người có thể nghĩ rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi mình. Quỷ gợi ý cho Người, trong tư cách là “Con Thiên Chúa”, tin vào quyền năng làm phép lạ của mình, và như thế là xúi giục Đức Giêsu nghi ngờ và bất phục tùng Thiên Chúa. Đức Giêsu dứt khoát dựa vào Kinh Thánh (sách Đnl; gegraptai) để nói “không” với quỷ; Người tiếp tục cậy dựa hoàn toàn vào Thiên Chúa (x. 27,43). Sách Khôn ngoan nói rằng: “Lời Ngài mới giữ gìn chăm sóc những ai hằng tin tưởng vào Ngài” (Kn 16,26). Tin Mừng Gioan cho thấy là lương thực mà Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, vẫn dùng chính là thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Ga 4,34). Đấng Mêsia không có nhiệm vụ vun trồng những ảo tưởng dễ dãi, nhưng thức tỉnh niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa.
* Cám dỗ thứ hai (5-7)
Sau cám dỗ thứ nhất, Đức Giêsu đã náu mình vào trong sự che chở của Thiên Chúa. Với câu Tv 91,11, quỷ đề nghị Người, vẫn trong tư cách “Con Thiên Chúa”, gieo mình từ nóc Đền Thờ xuống đất: đây hẳn là đáp lại sự chờ đợi của dân chúng, vì họ được loan báo là Đấng Mêsia sẽ xuất hiện trên núi Sion, cũng được đồng hóa với Đền Thờ (các sách ngụy thư Ét-ra IV [13,34-37]; Khải huyền Barúc [40,12]). Dù sao đây cũng vẫn là xúi Đức Giêsu vận dụng sự che chở của Thiên Chúa vào hướng xấu, như Israel đã làm, khi đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp (x. Xh 17,1-7; Ds 14,22; Đnl 6,16; Tv 95,8-11). Đây chính là áp đặt ý muốn của con người cho Thiên Chúa. Cùng một chiều hướng như thế, trong Mt, có các truyện các đối thủ Đức Giêsu xin những dấu lạ từ trời (12,38-42) hoặc đề nghị Người xuống khỏi thập giá (27,49); trong Lc, có giai thoại các môn đệ muốn xin lửa xuống thiêu hủy thành không hiếu khách (Lc 9,56). Đức Giêsu vẫn dứt khoát trả lời “không”, bằng câu Đnl 6,16. Người không muốn ép Thiên Chúa phải can thiệp khi mà Thiên Chúa không định như thế; Người vẫn tiếp tục tín thác vào Thiên Chúa.
Chúng ta ghi nhận trong hai cám dỗ đầu, quỷ quy về tư cách “Con Thiên Chúa”, như thế là xác nhận lời công bố tại sông Giođan (x. 3,17).
* Cám dỗ thứ ba (8-10)
Cám dỗ cuối cùng không còn chút che đậy nào nữa: quỷ đề nghị Đức Giêsu thờ phượng nó. Cám dỗ này gồm tóm khát vọng cổ xưa nhất của Israel (sở hữu đất Canaan). Để làm thế, hẳn là nó bày ra trong trí của Đức Giêsu tất cả quang cảnh các nước thế gian, như xưa kia Môsê đứng trên đỉnh Nơvô mà nhìn vào Đất Hứa (x. Đnl 31,1-4) và gợi ý cho Đức Giêsu một giải pháp: bái lạy nó. Đây là cám dỗ con bê vàng, muốn tự tạo cho mình một thần linh mà mình có thể điều khiển. Đức Giêsu vẫn dứt khoát nói “không”, bằng câu Đnl 6,13: Thiên Chúa không phải là một Đấng mà người ta có thể mặc cả với; Ngài đòi hỏi tin tưởng và vâng phục vô điều kiện. Dĩ nhiên, Đức Giêsu, Tôi Trung của Thiên Chúa, không từ bỏ kế hoạch chinh phục thế giới, nhưng chinh phục bằng thập giá. Đất Hứa là lãnh địa bao la mà Người sẽ nhận khi sống lại (x. 28,18: theo lời hứa ở Tv 2,6-8). Sau này, chúng ta thấy các môn đệ Người không hiểu được chọn lựa này (Phêrô: Mt 16,23). Đức Giêsu sẽ chấp nhận cái đói, các nỗi nhục nhã, những thất bại, cái chết, để chu toàn ý muốn của Thiên Chúa.
* Kết (11)
Câu kết của bản văn là một ghi chú thần học hơn là một sứ điệp lịch sử. Sự thống trị mà Đức Giêsu đã từ chối nay vẫn được ban cho Người. Trong tâm thức dân gian, các thiên sứ là những tôi tớ của Thiên Chúa (x. Mt 16,27), bây giờ đến phục vụ Đức Giêsu, lệ thuộc Người. Đức Giêsu không nhận một vương quyền trần thế, nhưng chia sẻ chính quyền thống trị của Thiên Chúa.
Rõ ràng Nước Trời đã đến gần loài người, bởi vì thiên triều đang vây quanh Người Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nhưng các thiên sứ chỉ can thiệp sau khi Đức Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sau này, khi Người đã thắng được cám dỗ muốn vận dụng “hơn mười hai đạo binh thiên thần” (26,53) để tránh thoát thập giá, khi Người vẫn phó thác cuộc đời vào tay Chúa Cha, các thiên sứ lại đến hầu hạ Người, qua việc loan báo tin mừng Phục Sinh cho các môn đệ (x. 28,2-7).
+ Kết luận
Các cám dỗ nhắm tấn công Đức Giêsu trong tư cách Mêsia và Người Con vâng phục và trung thành của Thiên Chúa. Quỷ xúi Đức Giêsu lạm dụng lời quyền năng của Người, rồi xúi Người ỷ lại vào quan hệ giữa Người với Thiên Chúa, và cuối cùng, xúi Người bỏ đi lòng trung nghĩa với Thiên Chúa. Chiến thắng của Người rất quan trọng. Nó xóa đi những bóng tối đã tích tụ lại trong lịch sử dân Thiên Chúa và nó cũng gợi ra chiều hướng dấn thân phục vụ ơn cứu độ. Thay vì chọn làm một Mêsia-Phù thủy hay một Mêsia-Thủ lãnh, Đức Giêsu chọn làm Mêsia-Tôi tớ khiêm nhường. Khi đó, Người vẫn là Người Con vâng phục, và cũng là Israel chân chính và hoàn hảo.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trung thành đọc và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra liên tục lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta. Từ đó, chúng ta có thể yên tâm phó thác cuộc sống cho Ngài, không phải tính toán để bảo vệ cuộc sống mình, để rồi rơi vào các cám dỗ. Cám dỗ luôn luôn xoay quanh Lời Chúa, hoặc để vi phạm hoặc để lái Lời Chúa khỏi ý nghĩa đúng đắn. Con rắn mưu mô trong St 3 đã bóp méo Lời Chúa: “Có thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? … ‘Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra…” (St 3,1.5). Tên cám dỗ trong bài Tin Mừng Mt đã bảo Đức Giêsu dùng Lời Chúa để biến đá thành bánh hoặc đã uốn nắn ý nghĩa của Thánh vịnh để đưa Đức Giêsu đến chỗ thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu không áp đảo Lời Chúa; Người vâng phục Lời Chúa, Người nhận Lời Chúa từ Thiên Chúa.
2. Quỷ đã đề nghị cho Ađam trở thành Thiên Chúa (St 3,5). Nó cũng gợi ý cho Đức Kitô sử dụng quyền lực thiên sai của mình như một đặc quyền hay như một vũ khí. Nói cho cùng, tội lỗi luôn luôn là một ý chí hùng cường. Thế mà Thiên Chúa lại cứu con người khỏi tội lỗi bằng sự yếu đuối của Đức Kitô. Muốn được Thiên Chúa can thiệp tức khắc vào đời sống mình có nghĩa là nghi ngờ sự quan phòng thông thường của Ngài, nghi ngờ quyền năng và lòng nhân lành của Ngài. Ai thử thách Thiên Chúa, thì không có đức tin hoặc có một đức tin đang chao đảo, nên mới chờ đợi các phép lạ.
3. Các cám dỗ không chỉ là chuyện một ngày hay bốn mươi ngày, mà là cả đời Đức Giêsu. Luôn luôn có những sức mạnh bên ngoài, như các môn đệ (Mt 16,22), các kẻ thù (12,38; 27,41), và cả những khát vọng của bản thân Người (26,39; 27,46) tìm cách đưa Người đi theo nẻo đường quỷ vạch ra cho Người. Người đã chọn, Người sẽ phải liên tục chọn nói “không” với quỷ và thưa “xin vâng” với Chúa Cha (x. Dt 5,8).
4. Đức Giêsu nói “không” với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình, bởi vì con đường Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của bản tính tự nhiên. Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục, những thất bại, thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội, nhưng Người có thể chọn con đường chung của mọi người, là sự thỏa thuê. Vinh quang không phải là một tội, mà còn là một quyền Người có thể dùng. Sự rút lui của quỷ chứng tỏ đây không những là một chiến thắng của chủ trương Mêsia khiêm nhường và phục vụ như tôi tớ, mà còn là một chiến thắng riêng của Đức Giêsu. Người đã không nhường bước cho một nẻo đường tiện nghi thoải mái, đã không muốn hưởng trước một thành công; nhưng Người đã tôn trọng con đường đã được chọn cho Người dù phải hy sinh, thiệt thòi. Rời khỏi hoang địa, không những Người được thánh hiến mà còn đủ tư cách Mêsia.
47. Chú giải của Noel Quession
Năm A này dành hết cho việc đọc sách Tin Mừng theo thánh Matthêu về những cám dỗ của Đức Giêsu và sự biến hình của Người. Rồi, chúng ta sẽ có ba tin mừng lớn của Thánh Gioan, theo truyền thống, chuẩn bị cho ‘lễ thanh tẩy’: nước hằng sống của người nữ Samari, người mù từ lúc mới sinh được sáng mắt và Ladarô sống lại. Hôm nay, đây là cuộc chiến đấu lớn lao của Đức Giêsu…sự mời gọi khẩn thiết đi vào trong cuộc chiến đấu riêng của chúng ta trong Mùa Chay.
Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ.
Ba tác giả Tin Mừng nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa sự cám dỗ Chúa và phép rửa của Người. Về lịch sử, chắc rằng Đức Giêsu đã muốn thực hiện một thứ "tĩnh tâm" trước khi khởi đầu tác vụ của mình. "Hoang địa" là nơi đã tìm thấy thật sự hay dành cho việc đó: nỗi cô liêu và thanh tĩnh mà con người thấy mình đối diện một cách khắt khe với chính mình, mà không có lối tránh né, và tất cả những mặt nạ mà xã hội đem đến cho ta. Matthêu cũng như hai tác giả Tin Mừng kia, đều nhấn mạnh là Đức Giêsu được Thần Khí dẫn đến hoang địa này. Cám dỗ là một phần trong dự tính của Thiên Chúa cho Con Người. Và ở đây chúng ta cũng vậy, chúng ta được cho biết là phép thanh tẩy không làm cho một ai trong chúng ta được miễn trừ không phải chịu các thử thách.
Quả thực, ngoài ý nghĩa có phần ngây thơ của từ "cám dỗ", Kinh Thánh sử dụng từ này để chỉ "thử thách". Theo nghĩa này, cám dỗ có một cái gì tích cực. Không phải là một tình yêu được thử thách để biết xem nó có thực sự vững bền và chân thật sao? Như thế Đức Giêsu sắp chịu thử thách bởi chính Thánh Thần của Thiên Chúa, cũng như thể xưa kia dân Do Thái trong hoang địa với cuộc Xuất Hành: "Thiên Chúa của anh em đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy người thử thách anh em để biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của người hay không? (Đnl 8,2).
Xin Thánh Thần giúp chúng ta xem xét những thử thách của chúng ta theo cách thế tích cực này; trong khi nghĩ rằng Đức Giêsu, người Con hoàn toàn, người công chính vẹn toàn, đã tìm thấy trong những thử thách của con người, sự nâng cao chính tình yêu của Người, của lòng trung tín của Người với Chúa Cha.
Người ăn chay ròng rã bốn mươi ngày và sau đó Người thấy đói.
Trong câu truyện của Matthêu, ta không phải tìm trước hết một sự mô tả cụ thể về "điều đã xảy ra". Đàng sau những chi tiết, ta cần khám phá ra một ý nghĩa thần học. Matthêu rõ ràng đã đạo diễn, trong khúc đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu, những cám dỗ mà thực sự người đã cảm nghiệm trong suốt cuộc đời mình: lúc nào cũng vậy, Đức Giêsu phải tự bênh vực khi sử dụng thiên tính của mình để tránh cho mình khỏi những lo âu của con người (Mt 12,24-30; 16,23; 26-59 - 27-40).
Kiểu nói “bốn mười ngày và bốn mươi đêm" chẳng hạn, là một phần của kiểu nói biểu tượng của Kinh Thánh: con số ước lệ chỉ thời gian cần thiết cho sự trưởng thành của đời người. "Bốn mươi" là thời gian Israel ở trong sa mạc, thời gian đi của ngôn sứ Elia đến Núi Chúa, thời gian của Đấng Phục sinh hiện ra. (Đnl 8,1-5; 1V 19,8; Cv 1,3).
Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!
Không cần phải làm dịu Tin Mừng đi; ngay như nếu có thể giải thích bằng nhiều cách, để có thể áp dụng vào cuộc sống chúng ta trên nhiều diện khác nhau, sự cám dỗ đầu tiên này của Đức Giêsu, chẳng hạn, không có lý do nào để nghĩ rằng nó chỉ có tính cách thiêng liêng mà thôi: Đức Giêsu đã thực sự thấy đói, trong quá trình cuộc đời mình. Người đã bị đụng chạm đến, bị nao núng, bị dày xé ở ngay chính thân xác mình... và không phải chỉ trong quá trình một cuộc ăn chay khắc khổ trong hơn một tháng. Cám dỗ đầu tiên là cám dỗ chống lại sự cậy trông: người ta lồng lộn trước thử thách, trước đau khổ; người ta xin Chúa bỏ đi tất cả những gì gây đau khổ cho chúng ta. Sự xấu mà chúng ta phải chịu, sự xấu tác động đến những kẻ vô tội, cái đói bất công của một bộ phận trong nhân loại, đấy là sự phản kháng lớn lao và sự phản kháng đầu tiên chống lại Thiên Chúa. Lúc đó người ta bị cám dỗ cáo giác Thiên Chúa... hoặc là xin Người giải quyết trực tiếp những vấn đề của chúng ta.
Cám dỗ đầu tiên có thể được giải thích qua cuộc tranh chấp giữa xác thịt và tinh thần. Các giác quan của chúng ta cảm thấy đói, và chúng ta đi tìm các thực phẩm trần thế để làm dịu cơn đói. Và đó là điều tốt, làm đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng trong lãnh vực này đặc biệt, chúng ta biểu sự tự chủ cạnh ta: sự vui thỏa dễ dãi không nỗ lực xây dựng những người đàn ông và đàn bà có một giá trị.
Xã hội tiêu thụ với chủ nghĩa duy vật thực tiễn, có nguy cơ hạ thấp con người xuống ngang mức với tầm vóc sơ đẳng nhất.
Nhưng Người đáp: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời Thiên Chúa phán ra" (Đnl 8,3).
Ba câu trả lời Của Đức Giêsu cho kẻ cám dỗ được rút ra từ trong sách Đệ Nhị Luật. Kinh Thánh đề ra một cách đọc lại thần học về 40 năm cuộc đời trong sa mạc Sinai, và những đòi hỏi của Giao ước. Đức Giêsu được giới thiệu đây như một Israel mới. Nhưng Đức Giêsu là người chiến thắng, trong khi dân Thiên Chúa, bị thử thách vì đói và khát, đã sa ngã trong khi lẩm bẩm kêu trách Chúa (Xh 6,8). Câu trả lời của Đức Giêsu luôn luôn có tính thời sự, và chất vấn chúng ta một cách mạnh mẽ: chúng ta cảm thấy đói cái gì nhất? Những thỏa mãn trần thế có thể sẽ khiến chúng ta hư mất? Hay lời Thiên Chúa có thể cứu chúng ta khỏi mọi thử thách? Lạy Chúa, xin giúp chúng con, tin cậy vào Chúa cho đến cùng. Xin ban cho chúng con lòng cậy trông.
Sau đó quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: Nếu ông là Con Thiên Chúa. thì gieo mình, xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn thỏi vấp chân vào đá (Tv 91,11-12). Nhưng cũng có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi (Đnl 6,16)
Nếu sự đau khổ (cơn đói) thử thách lòng tin của chúng ta vào Chúa, thì bây giờ đây là cám dỗ thứ hai, có tính điển hình của dân Chúa, của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và của những tín hữu chúng ta; đó là thử thách về lòng tin. Israel trong sa mạc 40 năm đã xin Chúa cho những dấu hiệu lạ lùng để Thiên Chúa chứng tỏ là mình có hiện hữu không! Chúa có ở với chúng tôi không, có hay không? (Xh 17,1-7). Và Đức Giêsu, suốt cuộc đời Người đã bị cám dỗ thoát ra khỏi thân phận con người của mình, đạt tới kết quả sau cùng của sứ mệnh Người bằng các phương tiện dễ dãi là phép lạ: công luận của thời đại người ta trông đợi một Đấng Mêsia siêu việt, Người sẽ tỏ ra một cách rõ ràng quyền năng của Thiên Chúa; có lời cho những tín hữu bằng cách thực hiện những dấu hiệu chói lòa: họ xin Đức Giêsu cho họ một dấu chỉ xuống từ trời (Mt 16,1; 12,39; 24,3).
Bằng tất cả sức mạnh sống động của con người trai trẻ và năng động, Đức Giêsu đã luôn bị cám dỗ để làm ra vẻ Thiên Chúa Toàn Năng. Và không phải là không bị dày xé mà Người đã chọn làm Đấng Mêsia nghèo nàn, bị hạ nhục bị đè nén bởi đám đông và những nhà chức trách ở thời Người.
Mọi tín hữu đến lượt mình đều phải chờ đợi lúc mình phải chịu cám dỗ "chống lại lòng tin" này: đó là sự cám dỗ và sự chân không, cái ấn tượng gieo mình vào chân không khi người ta tin vào Chúa. Người ta có lẽ muốn rằng Thiên Chúa phải hiển nhiên hơn. Và Người là Thiên Chúa ẩn giấu. Có lẽ người ta muốn cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong những kinh nguyện hay trong việc phụng tự của chúng ta. Và Thiên Chúa thinh lặng... và sự "tự mập mờ" không làm cho người ta thích thú. Thiên Chúa không gây thú vị lắm bởi vì Người không đáp ứng cho họ những chuẩn mực của chúng ta. Có lẽ người ta muốn tác động lên Người, làm ra một Thiên Chúa phục vụ chúng ta, một Thiên Chúa có lẽ làm chân chúng ta khỏi vấp vào đá trên đường đi. Và Thiên Chúa để cho chúng ta tự trị và tự chịu trách nhiệm: chính bạn, bạn hãy tránh những hòn đá và nếu bạn vấp phải, đừng chờ phép lạ: nhưng không phải vì thế mà Tôi không hiện hữu... bởi vì Tôi là thực thể hoàn toàn khác. Lạy Chúa, xin giúp con tin tưởng. Xin cho chúng con đức tin.
Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó nếu ông sấp mình bái lạy tôi. Đức Giêsu liến nói: Xatan kia, kéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi. Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các thiên sứ tiến đến hầu hạ Người.
Ta hãy lột bỏ tất cả những tưởng tượng về các biểu tượng ấu trĩ quá đơn giản. Thật hiển nhiên là Matthêu, không hơn chúng ta, đã không bị lừa về ngôn từ của nó. Không có ngọn núi nào ở thế gian mà từ đó người ta có thể trông thấy "tất cả" các nước trên trái đất! Đó là một cách nói. Đó là một thị kiến nội tâm, mà không phải là một hiện tượng vật lý. Sau thử thách về lòng cậy trông và lòng tin, thì đây có lẽ là ‘thử thách về tình yêu’. Dân Israel trong cuộc xuất hành của mình, bị cám dỗ bỏ giao ước, một hôn ước tình yêu với Thiên Chúa thật, để hiến thân cho các "thần tượng” ngoại tình một cách nào đó (Xh 23,20-33). Thứ ngôn từ biểu trưng của Matthêu, nó có sức gợi cảm mạnh mẽ biết mấy! Xatan đã đòi các vương quốc trên thế gian làm tài sản riêng của nó. Nó là chủ, là ông hoàng của thế giới này. Đức Giêsu đã lột mặt nạ đối phương. Ở đây Chúa Giêsu, chỉ thẳng tên Xa-tan; đó là một tên phản Thiên Chúa! Chính y là kẻ đòi loài người phải thờ phụng y.
Đúng thế, chúng ta bị cám dỗ Thiên Chúa hóa tất mọi sự vật. Đông đảo biết bao các thần tượng của chúng ta. Tất cả những thứ luôn cố đoạt lấy địa vị của Thiên Chúa: tiền bạc, tiện nghi, uy tín, thống trị, quyền lực, thú vui, các ý thức hệ, môi trường của chúng ta... hay là nhiều thứ ba láp này kia mà chúng ta gán cho tầm quan trọng lớn lao biết bao!
Chỉ một mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Mùa chay này được ban cho chúng ta để chúng ta được giải thoát những thần linh giả.
48. Chú giải của Fiches Dominicales
Chịu ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu đã có lựa chọn của một Người Con, phó thác trọn vẹn thân phận trong tay Cha. Câu chuyện được xem như điển hình cho tất cả những thử thách Người phải chịu cho đến hơi thở sau cùng.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Trung thành với phép rửa đã nhận, một chọn lựa trước sau như một của Đức Kitô.
Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, và cả ba đều nối kết chặt chẽ câu chuyện này với phép rửa Người đã nhận trong dòng sông Giođan. Thánh sử Máccô viết: "Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ" (Mc l,12). Thánh Luca kể: "Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1). Còn thánh sử Matthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu Chúa Giêsu, sau khi đã chịu phép rửa, chịu quỷ cám dỗ, là vì Người được Thần Khí đưa dẫn. Cũng chính Thần Khí ấy đá đáp xuống và ngự trên Người, bên bờ sông Giođan, trong lúc có tiếng từ trời phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Câu chuyện Đức Giêsu chịu cám dỗ J.Guillet nhận định theo cả ba Tin Mừng Nhất lãm, gắn liền với câu chuyện Chúa chịu phép rửa. Matthêu viết rõ: "Ngay sau khi ngự trên Đức Giêsu, Thần Khí dẫn Người vào hoang địa chịu quỷ cám dỗ (Mt 4,1). Bài tường thuật về cơn cám dỗ và phép rửa của Chúa làm thành một tập hợp riêng, liên can đến quãng thời gian Đức Giêsu chưa thực sự bắt đầu sứ vụ công khai của Người. Không hoàn toàn lặng lẽ ẩn mình như trong thời thơ ấu, nhưng Chúa có vẻ như để mình bị động từ bên ngoài: Từ Thiên Chúa là Đấng đã lên tiếng phán, từ Thần Khí dẫn Người vào hoang địa, và điều lạ lùng là ngay cả từ ma quỉ, cho nó lân la lại gần, dụ dỗ Người, và hình như có thể điều khiển được cả thân xác Người. Người ta có thể xem lúc này chỉ giai đoạn chuẩn bị. Thực ra đây là một luồng sáng chiếu rọi trước vào suốt lịch sử đang đến: lịch sử của Con Thiên Chúa và lịch sử của cả nhân loại. Toàn thể cuộc đời của Đức Giêsu, diễn ra trong ánh sáng của tiếng Chúa Cha xác nhận: đây là Con yêu dấu của Ta, dù bên cám dỗ cứ tha hồ rên rỉ: "Nếu ông là Con Thiên Chúa".
Trong lúc bài tường thuật của Máccô rất ngắn gọn vỏn vẹn chỉ có một câu, thì Matthêu và Luca không ngần ngại dàn dựng cả một câu chuyện đầy tính biểu tượng. Đây là một hình thức văn chương khá quen thuộc đối với những độc giả của các ông, là những người đã thấm nhuần văn hóa Do Thái. Xung quanh ba cơn cám dỗ con số tượng trưng cho sự viên mãn đầy đủ. Câu chuyện muốn tổng hợp tất cả cơn cám dỗ liên lỉ mà Chúa Giêsu phải chịu cho đến giây phút cuối cuộc đời.
Và để cho thấy rõ ràng, Đức Giêsu với tư cách là Môsê mới, đang thực hiện lại cuộc hành trình của Dân Thiên Chúa tiến về Đất hứa, Matthêu và Luca đã cố ý lựa chọn mặc dù khác nhau đôi chút về thứ tự "ba nơi chốn có tính cách biểu tượng của lịch sử Israel, đó là: Hoang địa, là nơi Dân Chúa chịu thử thách đầu tiên; Đền Thờ, là chỗ Dân Chúa tụ họp để tôn thờ sự hiện diện của Thiên Chúa, Núi Cao là nơi Môsê sẽ nhận lệnh Lề luật của Chúa, và núi Nê-bô là địa điểm từ đó ông đã nhìn về Đất Hứa" (J.Potin, Jésus, l'histoire vraie, Centurion, 1994 trang 114).
2. Giữa hoang địa - Niềm cậy trông tuyệt đối vào Thiên Chúa.
Cơn cám dỗ đầu tiên có khung cảnh là "hoang địa". Đối với dân tộc Do Thái, đây là nơi chốn tượng trưng cho sự gần gũi Thiên Chúa, đồng thời cho sự thử thách làm sáng tỏ đáy lòng con người (chay tịnh, nhịn đói là nhằm thử lòng mình đối với Thiên Chúa); Hoang địa còn là nơi có tính cách biểu tượng cho mọi khởi đầu: Đức Giêsu ăn chay ở đây suốt bốn mươi đêm ngày, cũng như Môsê ngày xưa trên núi Sinai, trước khi đón nhận luật Giao ước. J.Guillet viết: đối với cư dân miền Palestine, hoang địa vừa là một phong cảnh cụ thể, nhìn thấy được từ đỉnh của dãy núi chính, vừa là một kỷ vật gợi nhớ lại thời các tổ phụ, đồng thời cũng là hình ảnh đầy ý nghĩa về những cách Thiên Chúa đã xử sự với dân Người. Có khi là những tai họa khổ đau Người để dân phải chịu, có khi là niềm an ủi, vỗ về Người dành cho họ. Trong ký ức của người Do thái, hành trình đi qua hoang địa vừa là quãng thời gian thiêng liêng của biến cố núi Sinai, cũng như của việc ban bố Lề luật, vừa là giai đoạn đen tối của thói kêu ca lẩm bẩm và những hành động chống đối của dân chúng, thời gian của Thiên Chúa và cũng là thời gian của ma quỉ, chính Đức Giêsu đã tự ý bước vào đó" (sđd, trang 44-45).
- Trong hoang địa, khi chịu cái đói thử thách "để cho biết lòng dạ chúng ra sao" (Nhị Luật 8,2), con cái Israel đã nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã tỏ ra không dám cậy dựa vào một mình Lời Chúa, không dám tin tưởng vào các lời hứa của Người. Họ lẩm bẩm kêu ca: "Thà rằng chúng ta chết bởi tay Thiên Chúa ở đất Ai Cập thời ấy được ăn uống no nê" (Xh 16,3). Và Người đã ban mana xuống cho họ.
- Trong hoang địa, Đức Giêsu cũng phải trải qua cơn cám dỗ như thế: cơn cám dỗ về sự dễ dãi tiện nghi, muốn ‘có tất cả, có liền’. Hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi, tên cám dỗ đã dụ Người.
- J.Radermakers giải thích: "Tiếng nói đã mời mọc Đức Giêsu biến đá sỏi sa mạc thành mâm đồ ăn ngon, thành tiếng nói của bản năng và xác thịt loài người luôn có xu hướng bóp nghẹt sự sống của Thiên Chúa" (Au fil de l'Evangile selon saint Matthieu”, trang 67). Nhưng Đức Giêsu đã có lựa chọn của "Người Con"; Người đáp lại bằng cách trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, chương 8 câu 3, liên hệ đến câu chuyện về bánh manna; "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Trái với dân Israel trong hoang địa xưa, Đức Giêsu hoàn toàn phó thác nơi Chúa Cha, Người chỉ cậy dựa vào một mình Lời của Thiên Chúa. Rồi đây trong suốt cuộc đời hoạt động của Người, Đức Giêsu sẽ trở thành mục tiêu công kích của những, đối thủ. Họ đòi Chúa phải cho họ thấy những dấu chỉ tỏ tường, để minh chứng điều Người tự xưng về mình. "Bấy giờ, có những người thuộc phái Pharisêu là phái Xa-đốc lại gần Đức Giêsu”, Matthêu dùng lại từ ngữ của bài tường thuật Cám Dỗ, và để thử Người, thì xin Người cho thấy một dấu lạ từ trời" (Mt 16,1). Nhưng cho đến giây phút cuối, Đức Giêsu vẫn muốn là một Đấng Cứu Thế nghèo, nhận lãnh tất cả từ Chúa Cha.
3. Trên nóc Đền Thờ - Chấp nhận con đường đau khổ.
Cơn cám dỗ thứ hai có khung cảnh là nóc "Đền Thờ", nơi là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và che chở Dân của Người.
- Trong hoang địa, khi chịu cái khát thử thách, con cái Israel đã phải trải qua đêm tối của đức tin, khiến họ nghi ngờ và chống đối. Thiên Chúa đã dẫn họ vào hoang địa phải chăng để bỏ rơi họ trong cảnh tuyệt vọng "Có thực Thiên Chúa ở với chúng ta hay không? (Xh 17), họ lẩm bẩm với nhau như thế. Họ đã đi đến chỗ "thách thức" Thiên Chúa xem Người: có thể cung cấp nước uống cho họ trong hoang địa, họ "thử thách Người".
- Đức Giêsu cũng phải trải qua cơn cám dỗ như thế: cơn cám dỗ về quyền lực. "Gieo mình xuống đi!", tên cám dỗ xúi Người bằng cách xuyên tạc một câu của thánh vịnh 90: "Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”.
Một lần nữa, Đức Giêsu đã có chọn lựa của "Người Con"; Người đáp lại bằng cách trích dẫn sách Nhị Luật, chương 6, câu 16, liên hệ đến chuyện dân Do Thái kêu ca, và Thiên Chúa đã ban cho họ mạch nước tràn trề từ tảng đá: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Khác với Israel trong hoang địa xưa, Đức Giêsu không bao giờ tìm cách thử xem Thiên Chúa có hiện diện trong cuộc đời mình hay không. Người bước đi mà không cho dấu chỉ nào, không yêu cầu bằng chứng nào, trong suốt sứ vụ, và nhất là trên thánh giá, vào giờ phút đen tối nhất, khi chính Chúa Cha cũng lặng thinh, Đức Giêsu đã chịu cơn cám dỗ: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy tự cứu lấy mình và xuống khỏi thập giá đi”, những đối thủ của Chúa đã buông lời thách thức, lập lại lời của tên cám dỗ trước kia. Nhưng Đức Giêsu, cho đến cùng vẫn trung thành với chọn lựa là một vị Cứu Thế khiêm cung, hoàn toàn phó thác mình cho Chúa Cha.
4. Trên núi cao - chọn lựa một đường lối cứu thế, bằng phục vụ.
Cơn cám dỗ thứ ba, theo Tin Mừng Matthêu, có khung cảnh "một ngọn núi rất cao". Nghe nói đến địa điểm này, người Do Thái chắc chắn sẽ liên tưởng đến ngọn núi Nê-bô ông Môsê đã lên để nhìn từ biệt Đất Hứa. Trên đó, Thiên Chúa đã chỉ cho ông xem thấy toàn bộ miền đất (Đnl 34,1), và thêm: "Miền đất này, ngươi sẽ chẳng được vào” (Đnl 34,4). Ở đây, Đức Giêsu là Môsê mới, đang chuẩn bị dẫn dắt đoàn dân của Người đến Đất Hứa Nước Trời, Người được tên cám dỗ chỉ cho thấy tất cả các nước thế giới và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy.
- Trong hoang địa, con cái Israel bị hoang mang trước tương lai bất định, đã chịu thua cơn cám dỗ. Họ đã bỏ quên Thiên Chúa độc nhất, Đấng đã cứu họ khỏi đất Ai Cập, để chạy theo các thần ngoại khác dễ dãi, dễ sai khiến, dễ chiều theo ý muốn của họ, sẵn sàng bảo đảm cho họ giấc mơ quyền lực và mộng bá chủ: "Hãy làm cho chúng tôi những vị thần để đi trước chúng tôi", họ yêu cầu ông Aaron (Xh 32,33); và Aaron đã làm cho họ một con bò vàng.
- Chính Đức Giêsu cũng đã phải trải qua cơn cám dỗ như thế: cơn cám dỗ về sức mạnh trần thế, dụ dỗ Người theo đuổi một đường lối cứu thế kiểu trần gian, chiều theo những mong đợi và tham vọng loài người. "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi", tên cám dỗ hứa hẹn với Chúa như thế. Lần thứ ba, Đức Giêsu lại có chọn lựa của "Người Con". Người đáp lại bằng cách trích dẫn Sách Nhị Luật, chương 8, câu 17-18, hiển nhiên có liên can với câu chuyện bò vàng: "Satan kia, xéo đi! Vì có lời chép rằng: ngươi phải bái lạy Đức Giêsu là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi. Khác xa dân Israel xưa trong hoang địa, Đức Giêsu khước từ mọi thỏa hiệp: Người dứt khoát đi theo con đường cứu thế bằng phục vụ chứ không phải bằng sức mạnh thống trị.
- Trong suốt sứ vụ, Đức Giêsu phải thường xuyên đương đầu với cơn cám dỗ ấy. Cơn cám dỗ đến không chỉ từ phía những đối thủ hay đám đông dân chúng đi theo mà thôi, nhưng còn ngay từ những bạn hữu của Người, những kẻ Người sẽ giao trách nhiệm kế tục sứ mạng của Người. "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”, Phêrô đã lên tiếng can ngăn, thay mặt cho cả nhóm không muốn thấy Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, mà phải rơi vào số phận bi đát như thế. Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại". Và Đức Giêsu đã nghiêm khắc đáp lại, tương tự lời Người đã nói với tên dỗ: "Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người (Mt 16,16-23). Cho đến cùng, Đức Giêsu vẫn chọn làm một vị Cứu Thế tôi tớ đau khổ mà các ngôn sứ đã loan báo.
J. Potin kết luận: "Nếu Đấng được Thiên Chúa chọn đã vẻ vang vượt qua được cơn cám dỗ lần này, thì thử thách thực sự vẫn còn trước mắt. Như thánh sử Luca kết ở cuối câu chuyện: "Sau khi đã xoay hết cách để cám Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ (Lc 4,13). Đâu là khuôn mặt cứu thế mà Đức Giêsu phải đảm nhận. Phải chăng là khuôn mặt của Đavit, người của Thiên Chúa, và cũng là người của những cuộc chinh chiến chống lại quân thù. Phải chăng là khuôn mặt của Người Tôi Tớ Thiên Chúa mà chúng ta sẽ thấy được khắc họa ngày càng rõ nét. Matthêu và Luca có ý cho thấy ngay trước bắt đầu sứ vụ, vừa lãnh phép rửa xong, Đức Giêsu đã chọn lựa. Đấng được Thiên Chúa chọn, là Con Thiên Chúa, đã dứt khoát chọn lấy sự vâng phục trọn vẹn Lời của Thiên Chúa" (Sđd, trang 117).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Mối liên lạc thâm sâu giữa Phép Rửa và cám dỗ: (“J.Guillet, "Jésus la foi des premiers disciples" Desclée de Brouwer, 1995, trang 46-47).
"Mối liên lạc thâm sâu giữa Phép Rửa và cám dỗ chính là mối liên lạc của đức tin, nơi Đức Giêsu và nơi chúng ta. Cơn cám dỗ rõ ràng là một trong những chỗ mà người ta không thể nào hiểu được Đức Giêsu nếu không nói đến niềm tin của Người. Sống nhờ những gì Thiên Chúa ban cho, hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa, một mình đối diện trước hư không, trước một tương lai vô định, dưới nhiều dạng khác nhau, đó chính là kinh nghiệm của đức tin. Và nếu, theo các sách Tin Mừng, kinh nghiệm ấy đi liền với biến cố Phép Rửa, là bởi vì trong biến cố ấy, nó đóng một trai trò rất quan trọng. Và bằng chứng đây là vấn đề của đức tin, đó là những cám dỗ của Đức Giêsu cũng chính là những cám dỗ của Dân Chúa trong hoang địa. Khi thắng những cám dỗ ấy, Chúa muốn đồng thời chỉ cho họ thấy họ đang thiếu cái gì và hôm nay Người mang đến cho họ cái gì. Bây giờ nếu trung thành với những chỉ dẫn của các sách Tin Mừng, đối chiếu hai biến cố phép rửa và cám dỗ của Đức Giêsu, người ta sẽ có thể nhận ra được chỗ đứng đặc biệt của đức tin nơi cả hai đoạn. Kết quả đối chiếu bề ngoài có vẻ mâu thuẫn: phép Rửa là nơi tràn ngập sự hiện diện của Thiên Chúa, là nơi vang rền tiếng phán từ trời cao, trái lại, cám dỗ là chỗ của sự xa vắng, của đói khát, của trống trải hư không. Phải nói rằng Đức Giêsu đã lần lượt nếm qua cả hai kinh nghiệm chính yếu trên.
Đối lại với lối giải thích nông cạn đó, chúng ta phải để ý đến cách suy luận rất rõ của các Tin Mừng, đến sự nhấn mạnh của các sách ấy vào mối liên lạc thâm sâu giữa hai khoảng khắc. Không phải chỉ đơn giản là sự tương phản ở hiện tượng bên ngoài, nhưng là một sợi dây nối hết sâu bên trong. Trong câu chuyện này hay câu chuyện kia, nội dung vẫn là Chúa Con trong tương quan với Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, điều đó mang đến một lúc hai ý nghĩa không thể tách rời nhau: là lắng nghe tiếng nói yêu thương của Chúa Cha, và trọn vẹn vâng phục thánh ý Người. Cả hai làm thành đức tin, đức tin của Con Thiên Chúa.
Đúng là người tín hữu thường phải sống đức tin trong tâm trạng xa vắng và đêm tối tâm hồn. Không có sự xa vắng đó, đức tin sẽ biến chất và tiêu tan thành một thứ thị kiến ảo ảnh. Nhưng ngay trong tâm trạng xa vắng đó người tín hữu kinh nghiệm một sự gặp gỡ, một sự hiện diện. Thánh Gioan Thánh Giá đã xây dựng toàn bộ học thuyết của mình trên lời dạy này: nhận biết Thiên Chúa qua đức tin chính là đã đạt được Người trong chân lý của Người, ngay từ cuộc đời này. Cuộc gặp gỡ trong đêm tối này, niềm xác tín thường chỉ là vô thức này, chính là trung tâm, cốt lõi của đức tin chân thực, chỉ với một đức tin như vậy chúng ta mới nhận biết một vị Thiên Chúa thật. Đức tin một trật vừa là ánh sáng rực rỡ, Vừa là bóng tối thẳm sâu. Cũng thế, một cách bất khá phân ly, ánh sáng của Phép Rửa cùng với đêm tối của Cám Dỗ, làm nên đức tin của Đức Giêsu Kitô, mầm mống của đức tin chúng ta.
2. “Những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của chúng ta hôm nay”.
"Chúng ta thấy: những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của chúng ta hôm nay. Chẳng có gì phải ngạc nhiên. Chúng ta biết rằng nơi Đấng là Đầu, toàn Thân Mình đã chiến thắng cám dỗ. Chính nhờ cậy dựa vào Người mà đến lượt mình chúng ta có thể thoát được cạm bẫy của tên cám dỗ. Đức Giêsu dạy chúng ta phải đương đầu như thế nào: bằng cách chạy đến với Lời Chúa. Lời Chúa soi đường chỉ lối cho chúng ta đi. Lời Chúa chở che, bảo đảm cho chúng khỏi bị lầm lạc. Thật là nguy hiểm nếu chúng ta để mình buông theo xu hướng tự nhiên của loài người? ma quỉ cũng không mong gì hơn chúng ta đồng lõa với chúng như thế. Khi ấy Lời Chúa sẽ là thành lũy bảo vệ chúng ta.
49. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÁM DỖ TRONG SA MẠC
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Đối với người Do thái thế kỷ I, "sa mạc" và "cám dỗ" gợi lên điều gì?
2) Trình thuật này liên hệ với trình thuật Phép Rửa nhờ chữ nào? Chữ đó có nghĩa mạnh hay chỉ có nghĩa thuần túy thời gian?
3) Phải đọc lại Đệ Nhị Luật chương 8 và ý nghĩa cuộc thử thách trong sa mạc.
4) Phải hiểu như thế nào việc Chúa Giêsu vượt thắng cách vẻ vang cơn cám dỗ mà dân Do thái đã vấp ngã? Dựa trên hậu cảnh Cựu Ước, hãy rút ra ý nghĩa thần học ba cuộc cám dỗ Chúa Giêsu?
5) Cơn cám dỗ phải chăng chỉ nhắm đến sự nghiệp của Đấng Messia, bằng cách gợi lên một thiên sai chủ nghĩa giả tạo thần kỳ hoặc chính trị? Hay là nhắm đến chính con người Đấng Messia, bằng cách tách Người khỏi Thiên Chúa với một thứ chủ trương vô thần thực tiễn?
6) Làm sao Chúa Kitô có thể bị cám dỗ? Điều đó có nghĩa gì? Hãy so sánh với cơn hấp hối, với Pl 2, 6 tt và Dt 5,7tt.
7) Các thiên sai chủ nghĩa bị Chúa Giêsu chống báng phải chăng chỉ là những hiện tượng lỗi thời, hay ta vẫn còn thấy giữa thế kỷ XX này quanh ta? trong ta?
8) Thân phận người Kitô hữu phải chăng là một thân phận bị cám dỗ triền miên?
*******
1) Có lẽ Chúa Giêsu đã mặc khải cho các môn đồ Người biến cố mà ngay từ lúc bắt đầu cuộc sống công khai Người đã trải qua với một kinh nghiệm thấm thía. Giáo Hội sơ khai đã đón nhận mặc khải ấy về nguồn gốc đích thực của cám dỗ (Satan) như là lời sửa sai quan niệm Cựu ước, vốn cho rằng cám dỗ là do Thiên Chúa: Mt đã phóng đại dữ kiện giản lược mà ông đã thu nhận từ truyền khẩu. Trình thuật của ông có vẻ như là một cấu trúc văn chương, một sáng tác tưởng tượng nhằm khai thác các giá trị thần học tiềm tàng trong biến cố có thực. Đây là những dấu chỉ cho thấy trình thuật của ông thực là một sáng tác: cuộc đối thoại với Satan, việc đem Chúa Giêsu lên thượng đỉnh Đền thờ, ngọn núi cao từ đó có thể trông thấy "tất cả các nước thiên hạ", lối trích dẫn nhiều câu trong diễn từ thứ hai của Môisen nói với dân (Đnl 8,3; 6,16; 6,13). Sáng tác văn chương này đặt cơ sở trên ba cuộc cám dỗ của Israel trong sa mạc:
- Sau khi được ăn manna một thời gian, Israel đòi ăn thịt (Ds 11, 4-34)
- Môisen gõ phiến đá hai lần (Ds 20, 1 -13)
- Giai thoại con bò vàng (Xh 32, 1- 8)
Matthêu cho thấy Chúa Giêsu tổng lược cả ba kinh nghiệm của dân Isarel và đã chiến thắng vẻ vang trong khi Israel lại vấp ngã. Xin nói qua là sách Đệ Nhị Luật cũng là sách chỉ nam của cộng đoàn thiên sai là Giáo Hội: các chương đầu của Công Vụ Sứ Đồ ghi lại những bước đầu của Giáo Hội sơ khai, đã cảm hứng theo Đệ Nhị Luật.
2) Giữa phép rửa Chúa Giêsu và cơn cám dỗ, có một liên hệ rõ ràng: chính Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu lúc ở sông Giođanô đã đưa người vào sa mạc, không phải để tra cứu lề luật và tìm lại tinh thần Giao ước như nhóm Essêni, cũng chẳng phải để tổ chức kháng chiến như phái Nhiệt thành, song để chịu ma quỷ cám dỗ (4,1). Học thuyết thiên sai của Chúa Giêsu phải được thử thách. Và cuộc thử thách này là một giai đoạn cần thiết trong ơn gọi làm Israel mới của người. Vì là Đấng đáp ứng nỗi chờ mong của dân, Người phải sống tất cả chiều kích của lịch sử họ: tạm trú tại Ai cập (2,13-15), vượt sông Giođanô (2, 13-17 -so sánh với Gs 3), cám dỗ ở sa mạc (4, 1-11).
3) Giai thoại cám dỗ trong sa mạc xảy ra như để xác nhận việc Chúa Kitô hoàn toàn chấp nhận thánh ý Chúa Cha: gạt bỏ mọi hình thức thiên sai chủ nghĩa mà Thiên Chúa không muốn (trước hết là thứ thiên sai chủ nghĩa cánh chung có tính cách báo phục của Gioan Tẩy giả và của Qumrân, thứ đến là thiên sai chữ nghĩa xác thịt, uy hùng hay chính trị mà Israel trông chờ), Chúa Kitô chấp nhận đường lối thiên sai khổ đau, là đường lối duy nhất phù hợp với thánh ý Chúa Cha.
4) Lối giải thích mang màu sắc thiên sai về ba chước cám dỗ (tức lối giải thích liên kết trình thuật này với trình thuật phép rửa trước đây) là lối giải thích lưu ý nhiều đến chỗ đứng của đoạn văn trong văn mạch của các chương này cũng như của các vấn đề tổng quát của một. Tuy nhiên lối giải thích này không loại bỏ các lối giải thích khác đã từng được truyền thống công nhận như:
- Lối giải thích luân lý: Chúa Kitô tự nguyên chịu các chước cám dỗ lớn của nhân loại: những dục vọng của xác thịt và tinh thần, để rồi vượt thắng các cám dỗ đó cách khải hoàn, và nhờ dấy nên gương mẫu cho đời ki tô hữu; Lối giải thích song đối kiểu mẫu: Chúa Kitô, Ađam mới, chịu một cơn cám dỗ "tổ tông" mới, để nhờ lòng vâng phục hiếu thảo của Người mà chuộc lại cuộc nổi loạn nguyên thủy (x. trình thuật mạc về cuộc cám dỗ này và thần học của Phaolô về Ađam mới);
- Lối chú giải cánh chung học: qua cuộc chiến đấu này, Chúa Kitô tiên báo cuộc khải hoàn vinh thắng cuối cùng của Người trên các quyền lực sự dữ (lối giải thích của Lc).
5) Chủ đề sa mạc chiếm một chỗ đứng đáng kể trong Kinh Thánh, vì sa mạc là một dữ kiện địa lý quan trọng trong thế quân bình kinh tế và nhân chủng của xứ Palestine. Ảnh hưởng của địa thế này không phải là nhỏ đối với lịch sử dân Thiên Chúa. Lịch sử này lưu lại hai kỷ niệm xem ra mâu thuẫn, mà có người đã muốn coi như. là hai chủ đề có nguồn gốc khác nhau, nhưng kỳ thực chỉ là hai phương diện của một thực trạng. Cuộc lưu ngụ trong sa mạc trước tiên được trình bày như là thời kỳ lý tưởng trong cuộc sống của tuyển dân, thời kỳ mà tuyển dân được các điều kiện thuận lợi nhất ớể phát huy lý tưởng tôn giáo của mình, và đã sống lý tưởng đó cách tuyệt hảo. Đàng khác thời gian lưu ngụ trong sa mạc cũng. được xem như là một thử thách, như một hình phạt, phạt tội phàn nàn và bất tuân. Sa mạc vừa là nơi tĩnh tâm và thanh luyện, vừa là nơi phát sinh chước cám dỗ và xóa tội. Vì thế trong suốt lịch sử dân Israel, sa mạc vẫn là nơi hun đúc sức mạnh sinh động của quốc gia (tất cả các khuôn mặt lớn trong dân đều đến sa mạc lập kế hoạch, hay nung nấu lại lòng nhiệt thành) và cũng là nơi thử thách.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ Chúa Giêsu được Thần khí dẫn vào sa mạc": Chữ bấy giờ nói lên mối liên hệ giữa trình thuật này với trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa. Lát nữa ta sẽ thấy mối tử hệ thần linh của Chúa Giêsu đã được công bố lúc người chịu phép rửa) hệ tại chỗ nào. Trạng từ "bấy giờ" ở đây (cũng như ở 3, 13 chẳng hạn) có một giá trị chuyển mạch hơn là giá trị thời gian. Tiếng "để chịu cám dỗ" nói rõ ràng ý định của Thiên Chúa, như trong đoạn văn trước. Bởi ma quỷ: một chữ Hy-lạp trước tiên có nghĩa là "đứa vu khống" rồi "kẻ buộc tội". Vì thế bản 70 đã dùng chữ này để dịch chữ "Satan". Ngữ vựng của phần dẫn nhập trình thuật này tương tự với ngữ vựng của Đnl 8,2 (bản 70) và ám chỉ đến cảnh huống của Israel trong sa mạc: "Hãy hồi tưởng lại tất cả con đường mà Giavê Thiên Chúa của ngươi đã dẫn ngươi đi (cùng một động từ Hy lạp như Matthêu) trong sa mạc, với dụng ý là hạ ngươi uống, thử thách ngươi (cùng một động từ Hy lạp như Matthêu) và biết đáy lòng ngươi".
"Người đã giữ chay 40 ngày và 40 đêm": 40 là con số chẵn thường được Kinh Thánh dùng để chỉ một thời gian khá dài: 40 ngày lụt đại hồng thủy (St 7,4), 40 năm Israel lưu trú trong sa mạc (Xh 16, 35; Ds 14, 33; Đnl 29, 5), 40 năm trị vì của Đavít (1Sm 5,4), 40 ngày trước khi phá hủy thành Ninivê (Gn 3), 40 ngày giữa cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên của Chúa Giêsu... Chi tiết xác định "40 đêm " là của riêng Matthêu (Luca chỉ nói "40 ngày") và ám chỉ đến 40 ngày và 40 đêm mà Môisen đã trải qua trên núi của Giavê "không ăn bánh cũng chẳng uống nước" (Xh 24, 1-8: giữ chay sau cuộc thần hiển, và trong 34,28: giữ chay sau cuộc tái lập Giao ước). "40 đêm" có lẽ cũng ám chỉ đến cuộc chay trường của Elia trên núi Horeb (1V 19,8: sau khi được thần hiển và trao sứ mệnh). Cả hai nhân vật lên này của Cựu ước, những vị gồm tóm trong bản thân Lề luật và Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Biến hình của Chúa Giêsu (biến hình = thần hiển; cuộc thần hiển này được tiếp nối với việc thiết lập Giao ước mới bằng Tử Nạn-Phục Sinh). Chắc hẳn Matthêu muốn cho thấy việc giữ chay của Chúa Giêsu một cách nào đó tổng lược kinh nghiệm của Môisen và Elia, cũng như cuộc cám dỗ sẽ tổng lược lịch sử Israel trong sa mạc. Ở đây không nên hỏi cơ thể con người, xét về mặt tự nhiên, có thể giữ chay trong bao lâu! Cũng như trong trường hợp Môisen (suốt 40 ngày không uống nước!), chính Thiên Chúa trực tiếp nâng đỡ Chúa Giêsu. Chúa Kitô sống nhờ lòng tín thác vào Thiên Chúa. Thành ra việc cảm thấy đói sau 40 ngày được xem như là một cuộc thử thách: Chúa Giêsu có thể nghĩ Thiên Chúa đã bỏ rơi mình. Và đó là điểm đưa đến cám dỗ đầu tiên.
Cám dỗ đầu tiên (cc. 3-4)
"Nếu Ngài là Con Thiên Chúa". (c.3) là công thức dẫn vào chước cám dỗ thứ nhất và thứ hai. Tiếng "Con Thiên Chúa”; nhắc lại lời phán từ trời trong cảnh trước đây và đầu tiên có nghĩa là "Đấng Messia" (x.ghi chú BJ). Công thức này cho thấy ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu như là Đấng Messia, thủ lãnh của dân mới Thiên Chúa. "Nếu Ngài là..." không nhằm nói lên nỗi nghi ngờ của ma quỷ, nhưng cố khơi lên trong Chúa Giêsu niềm hoài nghi. Dưới chân thập giá, chính người Do thái sẽ thay thế Satan để cám dỗ Chúa Giêsu một cách tương tự: "nếu ông là con Thiên Chúa" (Mt 27,40). Hai chước cám dỗ này song song với nhau: chúng nhằm thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng các quyền lực thiên sai Người có để mưu cầu tư lợi, hay đúng hơn để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo (đói trong sa mạc, chết trên thập giá).
"Hãy truyền cho các viên đá này thành bánh”: Cơn đói mà Chúa Giêsu đột nhiên cảm thấy đã là một chi tiết giúp ta giải thích cơn cám dỗ đang bủa vây Người. Tuy nhiên, còn có một chi tiết giàu ý nghĩa hơn trong câu trả lời của Chúa Giêsu trích lại Đnl 8,3. Văn mạch của Đnl 8,3 cho thấy dân Israel nghi ngờ Giavê, thay vì tự hạ và chấp nhận tùy thuộc một mình Ngài: “Hãy hồi tưởng lại tất cả con đường Giavê Thiên Chúa của người đã dẫn ngươi đi, qua sa mạc, trong 40 năm, với dụng ý là hạ ngươi xuống cùng để thử cho biết ngươi có gì nơi đáy lòng, xem người có giữ các lệnh truyền của Ngài chăng. Ngài đã hạ ngươi xuống, đã để ngươi phải chịu đói; rồi Ngài lại cho ngươi ăn manna ngươi chưa từng biết và cha ông ngươi cũng không hề biết, để dạy cho ngươi hay là người ta không sống nhờ bánh mà thôi, nhưng sống nhờ mọi điều xuất ra từ miệng Giavê" (Đnl 8, 2-3).
Chước cám dỗ mà Israel phải. chịu, đó là cơn đói khát Thiên Chúa cho dân trải qua để thử lòng tín thác của họ. Nhưng dân đã phàn nàn, đã hối tiếc các thức ăn của xứ Ai cập, và càu nhàu đòi lương thực. Chúa Giêsu cũng đang sống trong một tình trạng tương tự như dân Israel. Bị đói, Người có thể nghĩ Thiên Chúa đã bỏ rơi người. Ma quỷ đến dụ dỗ Người nghi ngờ Thiên Chúa và hãy cậy dựa vào chính quyền năng thần thông mà Người vừa mới nhận lúc được thánh hiến làm Đấng Messia. Có thể Chúa Giêsu sẽ dùng quyền đó để mưu cầu tư lợi trái nghịch với thánh ý Thiên Chúa. Khi dụ dỗ Chúa Giêsu nghi ngờ và bất tuân, ma quỷ muốn Người cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa. Đáp lời lại, Chúa Giêsu xác quyết Người chẳng muốn dùng các phương thế riêng của mình để được sống, nhưng muốn hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Người chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa (27,43).
Cám dỗ thứ hai (cc.5-7)
"Thành thánh" là một thành ngữ Do Thái thông dụng để chỉ Giêrusalem (Mt 27, 53; Kh 11,2). Ma quỷ dụ dỗ dựa vào lại Tv 91,11: điều đã được hứa cho mọi người đạo đức, càng phải có giá trị hơn đối với Đấng Messia: chắc chắn Thiên Chúa sẽ bảo vệ Người. Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích dẫn Đnl 6,16 là câu nhắc lại giai thoại Massa (Xh 17, 1-7). Israel đã dám thử thách Thiên Chúa khi nói: “Có Chúa giữa chúng ta hay không?". Họ không ngại đòi Thiên Chúa ban cho một dấu chỉ là phép lạ nước đột xuất từ tảng đá. Nếu gieo mình từ thượng đỉnh Đền thờ theo như lời Satan dụ dỗ, là Chúa Giêsu đã buộc Thiên Chúa phải thực hiện một phép lạ. Cuối cơn cám dỗ thứ nhất, Chúa Giêsu đã nép mình dưới sự quan phòng chở che của Thiên Chúa. Ma quỷ dụ dỗ Người lợi dụng sự che chở này, như Israel ngày xưa, bằng cách đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp Thành ra xét cho cùng đây là việc áp đặt ý muốn con người trên Thiên Chúa.
Một vài giới bình dân Do thái hình dung Đấng Messia như sẽ khai mào sứ vụ của mình trên chóp đỉnh Đền thờ; nơi đó Người phải loan báo việc giải phóng Israel. Vì thế có lẽ Satan đã gợi ý cho Chúa Giêsu ra mắt dân chúng theo cách phù hợp với quan niệm bình dân này, đi ngược với kế hoạch của Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba (cc. 8- 10)
"Một ngọn núi cao" từ đó có thể xem thấy "tất cả các nước thiên hạ" là một điều dị thường. Sở dĩ Matthêu giữ lại chi tiết kỳ quái này của truyền thống Tin Mừng, là vì muốn trung thành với truyền thống bao quanh con người Môisen: Thiên Chúa đã chỉ cho Môi sen, đứng trên núi Nêbo, thấy toàn thể Đất Hứa (Đnl 31, 1-4). Tương quan Môisen-Giêsu, mà Matthêu luôn đề cập đến, còn được nổi bật ở đây. Đất Hứa ở đây trở thành lãnh địa tuyệt hảo mà Chúa Giêsu sẽ tiếp nhận lúc Phục Sinh: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta" (28,18) như lời hứa của Tv 2, 6-8.
"Tôi hiến cho Ngài hết mọi điều đó, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi". Đây là cám dỗ thờ bò vàng, thờ các ngẫu thần, là cám dỗ tự biến mình thành vị thần dễ xài, trấn an, vị thần được dùng để đem đi giao chiến, chinh phục địa cầu, vị thần mà ta có thể thương thuyết mặc cả: "Tôi hiến tất cả điều đó cho Ngài, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi". Chính Chúa Giêsu đã hiểu chước cám dỗ thứ ba này theo nghĩa ấy, vì câu Người trả lời Satan trích lại một đoạn Đệ Nhị Luật, trong đó rõ ràng đề cập đến việc thờ ngẫu thần: "Ngươi hãy coi chừng kẻo lãng quên Giavê Đấng đã đem ngươi ra khỏi Ai Cập, khỏi nhà tôi mọi. Ngươi sẽ kính sợ Giavê Thiên Chúa của ngươi; ngươi sẽ phụng thờ Ngài, sẽ thề nhân danh Ngài. Đừng đi theo các thần khác, thần của các dân ở chung quanh ngươi, vì Giavê Thiên Chúa của ngươi, ở giữa ngươi, là Thiên Chúa ghen tương" (Đnl 6,12-15). Qua việc trích dẫn đoạn văn này, Chúa Giêsu xác quyết Thiên Chúa đích thực không phải là một thần tượng mà ta có thể mua chuộc các hồng ân. Giavê không mua bán mặc cả. Ngài đòi phải tin yêu và vâng phục vô điều kiện. Ngài chẳng phải là con bò vàng "đi trước chúng ta” mà người ta có thể sử dụng như một khí cụ để chinh phục. Chúa Giêsu từ chối đi vào con đường mà Thiên Chúa không muốn Đấng Messia của Ngài dấn thân, là đường vinh thắng rạng rỡ (bằng việc cậy dựa vào các ngẫu thần), đưa đến việc thống trị hoàn vũ. Vì bị tiêm nhiễm giấc mơ khải huyền bình dân, Phêrô sẽ chống đối việc tiến lên Giêrusalem để chịu tử nạn. Chúa Giêsu sẽ trả lời ông như đang trả lời ở đây: "Hỡi Satan, hãy xéo đi" (16,23 cũng có cùng động từ như 4,10 những chỉ thêm chữ "sau Ta"). Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu xác quyết ý định của Người là hoàn toàn tuân theo kế hoạch của Thiên Chúa, dù "tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của loài người" (16,23). Đối lại với việc Israel say mê thờ ngẫu thần (các ngẫu thần được xem như là khí cụ để chinh phục), việc Chúa Giêsu gắn bó vào Thiên Chúa hệ tại chỗ loại bỏ mọi ngẫu thần để chỉ phụng sự Thiên Chúa đích thực. Vì thế, Chúa Giêsu sẽ thể hiện kiểu mẫu Messia mà Thiên Chúa đã trù định, là làm người Tôi tớ bị lăng nhục và đau khổ mà Isaia đã loan báo. Dĩ nhiên, Người không từ chối việc chinh phục thế giới, nhưng sẽ chỉ chinh phục bằng thập giá mà thôi.
“Họ hầu hạ Người": Việc các thiên sứ hầu hạ Chúa Giêsu nói lên chân lý này: Chúa Giêsu đã được phong vương ở sông Giođan. Họ cho thấy Nước Trời đã đến bên loài người vì triều đình thiên quốc đang chầu chực quanh Người Con Yêu Dấu. Tuy nhiên các thiên sứ này chỉ can thiệp sau khi Chúa Giêsu đã vượt thắng cơn cám dỗ. Ở đây hình như Matthêu tiên báo điều sẽ xảy ra trong cuộc Tử nạn. Là Đấng có thể xin cấp ngay "hơn 12 cơ binh thiên sứ" (26,53) để thoát khỏi khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đã muốn hoàn tất Kinh thánh và phó mình cho Chúa Cha. Sau khi Người đã thắng vượt cơn cám dỗ, các thiên sư mới đến hầu hạ Người, và sau khi Người phục sinh, các thiên sứ mới đi báo tin cho các môn đồ (28, 2-7).
KẾT LUẬN
Đoạn Tin Mừng này của Matthêu trước tiên hoàn toàn mang ý nghĩa thần học. Nó được soạn thảo và lưu truyền không nhằm cho ta biết về một giai thoại trong cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng giúp ta hiểu cách Người đã thi hành vai trò Messia ra sao. Satan, một thời gian ngắn trước khi Chúa Giêsu ra mắt công khai, đã cố làm cho Người bất tuân với Chúa Cha bằng cách gợi lên trong Người tâm tình tự lập, muốn từ khước địa vị làm Con để tự do sử dụng các quyền hành Người đã được ban cho. Nhưng thay vì tự chiếm đoạt quyền lực và ỷ mình được Thiên Chúa tuyển chọn như Biệt phái và Sađucêô, Chúa Giêsu đã xóa mình trước mắt Chúa Cha, như dã xóa mình trước mặt Gioan Tẩy giả và sẽ còn xóa mình suốt cả cuộc đời, cho đến lúc chết. Thay vì chiều theo quan niệm của nhân gian về Đấng Messia uy hùng, vinh thắng, Chúa Giêsu đã chấp nhận quan niệm Đấng Messia-tôi tớ khiêm cung.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Satan đã đề nghị Ađam trở thành Thiên Chúa: "Ngươi sẽ nên như các thần minh" (St 3,5). Còn đối với Chúa Kitô, nó đề nghị người sử dụng quyền năng thiên sai như một đặc quyền, một khí cụ. Xét cho cùng, tội lỗi luôn luôn là một ý muốn thống trị. Thế mà Thiên Chúa đã cứu thoát con người khỏi tội lỗi nhờ sự yếu đuối của Chúa Kitô, Đấng đã chọn lấy thân phận tôi tớ, và hoàn toàn phó thác vào tay Thiên Chúa.
2) Cám dỗ luôn luôn xoay quanh Lời Chúa, hoặc để vi phạm hoặc để xuyên tạc ý nghĩa. Con rắn quỷ quyệt trong St 3 đã nói ngược Lời Chúa. Nó bảo: "Thiên Chúa đã phán: các ngươi chẳng được ăn cây nào trong vườn cả!... Các ngươi chẳng chết chóc đâu. Nhưng vì Thiên Chúa biết rằng mắt các ngươi sẽ mở ra...". Tên cám dỗ trong Tin Mừng cũng yêu cầu Chúa Giêsu sử dụng Lời Chúa để biến đá thành bánh, và giải thích lệch lạc ý nghĩa Thánh Vịnh để đẩy Người thử thách Thiên Chúa. Nó cám dỗ Chúa Giêsu sử dụng Lời sáng tạo, Lời cứu rỗi để mưu cầu lợi riêng. Nhưng Chúa Giêsu đã tuân phục và đón nhận Lời Thiên Chúa: "Đã chép rằng..."
3) Khi tình nguyện trở nên người Tôi Tớ chứ không trở nên kẻ thống trị, Chúa Giêsu đã cứu rỗi chúng ta. Người mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa tình yêu, mà ta có thể bắt chước bằng cách tự hạ, tự chối bỏ chính mình. Thiên Chúa đã đến gần nhân loại trong con người của Con Ngài, không phải để bắt nhân loại làm nô lệ, nhưng để phục vụ nhân loại với tư cách là tôi tớ bị đóng đinh.
4) Chúa Giêsu bị cám dỗ, bởi vì xét như là con người, Người phải chứng minh mình là "Con yêu dấu". Chính vì thế Người phải trải qua, cách cụ thể trong nhân tính của mình, cái kinh nghiệm thế nào là sống như con cái Thiên Chúa, nghĩa là chỉ chờ đợi hạnh phúc ở nơi Thiên Chúa mà thôi. Người Kitô hữu cũng phải trải qua cơn cám dỗ tương tự và phải chọn lựa giữa sự tự tôn cá nhân, coi thường Thiên Chúa và anh em, với thái độ hiếu thảo phục vụ Thiên Chúa và mọi người.
50. Cám dỗ
Chúng ta đừng nuôi ảo tưởng về một thế giới mà mọi sự đều tốt lành. Thân phận con người là sống giữa thế gian mà trong đó thiện ác, lành dữ lẫn lộn.
- Chính vì thế, khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, chính Chúa Thánh Thần đã dẫn Người vào sa mạc để đối diện với các cơn cám dỗ.
- Người ta sống tốt không phải bằng cách che mắt giấu mặt để khỏi nhìn thấy điều xấu, mà trái lại bằng cách nhìn thẳng vào điều xấu và chiến đấu để chiến thắng nó.
- Trong Mùa chay, mỗi người hãy nhìn thẳng vào nội tâm mình. Không phải chỉ nhìn những mặt tốt, mà nhất là hãy nhìn thẳng vào những mặt xấu, những thứ “ tham, sân, si” đang âm thầm nhưng mãnh liệt khống chế mình.
Và hãy nhìn vào cuộc chiến đấu của Đức Giêsu. Người đã thắng nhờ đâu? Nhờ làm theo lời Thiên Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Có ba người mục tử, mỗi người coi sóc một đàn chiên.
Một đêm mùa đông vừa gió vừa mưa. Khi ba người đang ngủ thì nghe có tiếng chó sói.
- Người thứ nhất tung chăn thức dậy định ra ngoài xem xét tình hình. Nhưng nghe tiếng mưa rơi gió rít, anh ngại ngùng và trở vào giường ngủ tiếp.
- Người thứ hai cũng thức dậy, mặc thêm quần áo mở cửa đi ra. Nhưng một đợt nước mưa quất ngay vào mặt anh làm anh bỏ ngay ý định ra ngoài. Anh cũng trở vào giường nằm xuống, kéo chăn đắp kín và ngủ tiếp.
- Người thứ ba cũng thức dậy, cũng mặc quần áo, và cũng ra ngoài. Dù gió lạnh, dù mưa ướt, anh vẫn cố chịu đựng, đi đến tận chỗ đàn chiên của anh để xem. Khi đã thấy chiên mình an toàn, anh mới trở vào nhà ngủ tiếp.
Trong ba người đó, ai là người hiểu biết rõ nhất về sự khắc nghiệt của gió và mưa? Dĩ nhiên là người thứ ba.
Cũng thế, người hiểu rõ nhất về cám dỗ là người đã chiến đấu và chiến thắng nó.
Vì vậy, nếu ta muốn học cách đương đầu với cám dỗ, đừng học với những kẻ tội lỗi, mà hãy học với những vị thánh.
Như trong các bài đọc hôm nay, chúng ta đừng học với dân Israel trong thời xuất hành ở sa mạc, mà hãy học với Đức Giêsu.
51. Trông bạn khác quá - Mark Link
Chủ đề: Các cơn cám dỗ Đức Giêsu trải qua chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là "Adam mới" trong cuộc tân tạo của Thiên Chúa
Cách đây một số năm, Doug Alderson có viết một bài rất hay trong tạp chí Campus Life mô tả cuộc đi bộ suốt hai ngàn dặm xuống dãy núi Appalachi (Appalachian Trail) của ông.
Lúc đó Doug vừa mới tốt nghiệp trung học thôi nhưng đã tự đặt cho mình một số câu hỏi chưa được ai trả lời cho, chẳng hạn: Có Thiên Chúa hay không? Mục đích cuộc sống là gì? Khi bình luận về tất cả những vấn nạn này, Doug viết: "Phải có cái gì đó đáng sống hơn là tiền bạc, truyền hình, tiệc tùng và đua tranh... Cuộc đi bộ lâu ngày của tôi chuyến này là một cuộc đi tìm an bình nội tâm, là một cuộc hành trình khám phá chính mình".
Cuộc hành trình gian khổ hơn Doug dự tính. Có đôi chỗ, đường dốc đứng rất là nguy hiểm. Ban ngày lại thường hay mưa. Áo quần Doug bị sũng ướt nước, chân cẳng thì ướt át, thân thể thì rét run và đau nhức vào ban đêm. Nhưng Doug đã không đầu hàng. Những giờ phút đi bộ và leo trèo giúp Doug có cơ hội suy nghĩ, đồng thời nhờ đó cậu hiểu mình hơn, vì chung quanh chẳng có ai tác động lên cậu hết.
Năm tháng sau, Doug về đến nhà. Cậu đã trở thành một người thay đổi khác. Ngay chính con chó của cậu cũng lạ lùng ngó cậu như muốn nói rằng: "Cậu đã đi đâu và đã làm gì thế? Trông cậu khác quá!".
Doug quả là có khác trước. Cậu đã gặp được điều cậu kiếm tìm, đó là có một vị Thiên Chúa: đời sống có mục đích và cậu có vai trò trong cuộc sống ấy. Doug tóm tắt kinh nghiệm của mình bằng giòng chữ sau: "Tôi không còn là tôi như trước đây nữa, tôi yêu thích cái mà tôi nhìn thấy được trong chính tôi".
Doug Alderson thuộc về số người trong lịch sử đã từng đi tìm cô tịch để suy tư về ý nghĩa và mục đích của đời sống. Môisê đã từng làm thế. Các tiên tri từng làm thế. Gioan Tẩy Giả từng làm thế, và trong Phúc âm hôm nay, Đức Giêsu cũng làm thế. Suốt bốn mươi ngày dài trong cô tịch, Chúa Giêsu đã trải qua bao cơn cám dỗ dữ dội. Chúng ta có thể so sánh ba cơn cám dỗ với đoạn duyệt ở đầu một cuốn phim. Đoạn duyệt này trình bày cho chúng ta khá đầy đủ về cuốn phim khiến chúng ta chú ý vào phim ấy mà vẫn không làm cho chuyện phim sau đó bị mất hay đi.
Cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua cũng tương tự như thế. Chúng kể cho chúng ta khá đủ về Chúa Giêsu để khiến chúng ta chú ý đến Ngài mà không làm cho câu chuyện Phúc âm nhạt nhẽo đi. Chẳng hạn, các cơn cám dỗ ấy giúp chúng ta biết sơ qua bản thân Chúa Giêsu và công việc mà Ngài đến để chu toàn.
Chúng ta hãy xem điểm thứ nhất liên quan đến bản thân Chúa Giêsu: Chúa Giêsu là ai?
Thoạt tiên, các cơn cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã cảm nghịêm trận chiến nội tâm giữa điều thiện và điều ác giống hệt chúng ta. Ngài cũng cảm thấy cuộc tranh chấp bên trong giữa điều phải và điều trái giống hệt chúng ta. Điều này cho thấy Chúa Giêsu cũng là con người như chúng ta.
Nhưng các cơn cám dỗ không chỉ nói lên điều đó. vì dù bị cám dỗ giống hệt chúng ta nhưng Chúa Giêsu đã phản ứng lại cơn cám dỗ khác với chúng ta. Ngài không hề giao động hay do dự khi đương đầu với cám dỗ. Ngài không nhượng bộ cám dỗ một chút nào hết. Điều này cho thấy điểm đặc biệt nơi con người Chúa Giêsu. Điểm đặc biệt ấy là gì?
Chính ma quỷ đã cho chúng ta thấy một mối khi nó nói với Chúa Giêsu: "Nếu ngươi là Con Thiên Chúa..." ma quỷ gợi cho chúng ta biết Chúa Giêsu không chỉ là một con người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa đến sống giữa chúng ta. Nhiều năm sau đó, trong thư gởi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã cắt nghĩa bản tính của Chúa Giêsu như sau: "Chúa Giêsu vốn bản tính là Thiên Chúa, nhưng Ngài... Đã trở nên giống như loài người và đã xuất hiện như một con người" (Pl 2: 6-7). Như vậy các cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua giúp chúng ta nhìn thấy trước câu trả lời cho vấn nạn "Chúa Giêsu là ai?" hay nói cách khác, Chúa Giêsu có sứ mệnh gì trên trần gian?
Các cơn cám dỗ ấy cũng giúp ta thấy trước câu trả lời cho vấn nạn vày. Để thấy rõ điểm này, chúng ta cần nhớ lại bài đọc thứ nhất hôm nay. Ngày sau khi Adam được Chúa tạo dựng, ma quỷ liền cám dỗ ông ta và Adam đã sa ngã. Kể từ lúc đó, tất cả mọi người đều làm nô lệ cho ma quỷ. Giờ đây ma quỷ lại cám dỗ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, không như Adam sa ngã, Chúa Giêsu đã đứng vững. Điều này cho thấy Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ, Ngài đã đến để điều chỉnh sai lầm nơi tội lỗi đầu tiên của Adam. Trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Phaolô đã bình luận về sứ vụ này của Chúa Giêsu như sau: "Cũng như tội lỗi của một người đã kết án toàn thể nhân loại thế nào, thì hành vi công chính của một người cũng giải thoát và đem lại nguồn sống cho nhân loại như thế ấy. Nói cách khác, Chúa Giêsu là "Adam thứ hai". Ngài đã đến để sửa lại lầm lỗi cho "Adam thứ nhất". Đó chính là cách thức Thánh Phaolô giải thích về sứ mệnh của Chúa Giêsu trong thư gởi tín hữu Corintô: "Cũng như mọi người phải chết vì liên kết với Adam thế nào, thì mọi người cũng được sống nhờ kết hiệp với Chúa Giêsu như thế... Adam thứ nhất bởi đất, Adam thứ hai bởi trời.. Như chúng ta đã mặc lấy hình tượng con người bởi đất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của CON NGƯỜI đến từ trời như thế" (1 Cr 15,22.47-49).
Nói cách khác, Chúa Giêsu đã đến trần gian để trở thành "Adam mới" của một nhân loại mới.
Như thế, để kết luận, chúng ta thấy rằng các cơn cám dỗ trong hoang địa Chúa Giêsu trải qua cho chúng ta thấy trước hai sự kiện quan trọng về Chúa Giêsu:
Thứ nhất, Chúa Giêsu là con Thiên Chúa làm người. Thứ đến Ngài là Adam mới mang sứ mệnh phục hồi sự sống mới cho nhân loại. Các bài đọc hôm nay thật thích hợp để dẫn nhập chúng ta vào mùa chay. Chúng làm nổi bật được nội dung của Mùa chay. Mùa chay giúp ta sống lại kinh nghiệm trong hoang địa của Chúa Giêsu xưa kia về việc chống lại ma quỷ cám dỗ.
Nhưng không chỉ có thế, mùa chay còn cử hành mừng chiến thắng của Chúa Giêsu trên ma quỷ. Và bao lâu chúng ta biết kết hợp với Chúa Giêsu trong trận chiến chống quỉ thì chúng ta cũng sẽ chia xẻ niềm vui chiến thắng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là con Thiên Chúa làm người. Chúa đã vào hoang mạc để chịu ma quỷ cám dỗ, và để bắt đầu sứ mệnh như một Adam mới. Xin giúp chúng con cùng đi vào hoang mạc với Chúa. Xin giúp chúng con biết chia sẻ trận chiến mùa chay với Chúa ngõ hầu chúng con cũng được chia sẻ chiến thắng Phục sinh với Chúa.
52. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ. Điều ấy mạc khải cho ta biết những gì? Bị cám dỗ có phải là điều gì xấu xa không?
2. Cơn cám dỗ đưa ta đến một tình thế phải lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu, hoặc giữa hai điều tốt, tốt nhiều và tốt ít. Như thế những dịp bị cám dỗ giúp chúng ta chứng tỏ điều gì? Cám dỗ là điều tốt hay điều xấu?
Suy tư gợi ý:
1. Đã là con người, ai cũng bị cám dỗ: Nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, người ta dễ dàng nghĩ rằng sở dĩ Đức Giêsu hoàn toàn vô tội là vì Ngài không bị hề cám dỗ. Nhưng đoạn Tin Mừng này cho thấy chính Đức Giêsu - dù là Con Thiên Chúa, có bản tính thần linh hoàn toàn trong sạch - cũng bị ma quỷ cám dỗ. Thật là một mạc khải bất ngờ, đáng ngạc nhiên và rất lý thú, đồng thời cũng là điều an ủi chúng ta, tạo động lực cho chúng ta thắng những cơn cám dỗ xảy đến. Đức Giêsu là Thiên Chúa mà cũng bị cám dỗ, nên chúng ta vốn là người phàm, nếu có bị cám dỗ, dù nặng nề tới đâu, cũng là chuyện dễ hiểu. Điều đó có nghĩa: đã là con người thì đều bị cám dỗ. Và sự kiện Đức Giêsu bị cám dỗ chứng tỏ Ngài đích thực là con người y như chúng ta. Kinh Thánh cho biết Ngài cũng yếu đuối như chúng ta, nhờ vậy Ngài rất thông cảm với sự yếu đuối cũng như tội lỗi của chúng ta: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 4,15). Qua câu Kinh Thánh trên, ta lại được biết rằng tuy bị cám dỗ như ta, nhưng Ngài khác với ta ở chỗ không hề phạm tội, nghĩa là Ngài đã luôn luôn thắng mọi cơn cám dỗ, không bao giờ sa ngã.
2. Tội lỗi là sự chọn lựa SAI giữa hai điều tốt: Thiên Chúa đã chấp nhận để cho chúng ta - kể cả Đức Giêsu - bị cám dỗ. Điều đó cho thấy cám dỗ không phải là một điều xấu. Trái lại có thể đó là một điều cần thiết. Thật vậy, bị cám dỗ là một dịp để ta chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân, và sự vâng phục của ta đối với Ngài. Vì một người không thể chứng tỏ rằng mình yêu mến, vâng phục… nếu không hề bị thử thách, nghĩa là chưa có cơ hội để không vâng lời, không yêu mến. "Lửa thử vàng, gian nan thử người công chính" (Cn 17,3), "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?" (Nguyễn công Trứ).
Khi bị cám dỗ, có khi ta phải chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu. Điều này thường xảy ra cho người có tâm linh còn non yếu, để họ có dịp chứng tỏ họ đứng hẳn về phía tốt. Còn những người đã lên tới những bậc thang tâm linh cao, thì khi bị cám dỗ, họ thường phải lựa chọn giữa hai điều đều là tốt cả, nhưng lương tâm buộc họ phải chọn điều tốt hơn, để chứng tỏ sự quyết tâm tiến tới trọn hảo. Chẳng hạn trong cơn cám dỗ đầu tiên của Đức Giêsu, việc biến đá thành bánh để ăn khi đói chẳng có gì là xấu. Trái lại, ăn khi đói còn là một điều cần thiết để sống còn. Sớm muộn gì thì Ngài cũng phải ăn để sống, nhưng có thể lúc đó chưa tới thời hạn ăn như Ngài đã quyết định từ đầu. Như vậy Ngài phải chọn lựa giữa hai điều đều là tốt cả: một là thỏa mãn nhu cầu ăn để sống, hai là tự chủ để thực hiện đúng điều mình đã quyết định từ trước về thời hạn nhịn ăn khi mà nhịn thêm ít lâu nữa cũng chẳng hại gì. Quyết định nào cũng đều chứng tỏ lập trường của mình là đã coi trọng cái nào hơn cái nào.
Nhờ có hai đối tượng phải lựa chọn mà ta chứng tỏ được ta quí đến mức độ nào cái giá trị mà ta chọn lựa. Nếu phải lựa chọn một viên kim cương khá to với một lượng vàng, chắc chắn ai cũng chọn viên kim cương, và sự lựa chọn ấy không chứng tỏ được giá trị đích thực của viên kim cương. Nhưng nếu phải lựa chọn giữa 100 lượng vàng với viên kim cương, mà ta chọn viên kim cương, thì chứng tỏ ta đã coi viên kim cương có giá trị hơn số vàng ấy (đương nhiên có người chọn khác ta). Thiên Chúa cũng muốn ta chứng tỏ rằng ta coi tình yêu của Ngài giá trị hơn nhà cửa, ruộng vườn, của cải, thậm chí hơn cả anh em, cha mẹ, vợ con của ta, bằng cách tạo dịp để ta lựa chọn giữa Ngài và những giá trị ấy. Và đó chính là cám dỗ.
3. Những nhu cầu chính đáng trong những cơn cám dỗ:
Trong ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu, ta thấy những cơn cám dỗ luôn luôn dựa trên những nhu cầu và giá trị hết sức thực tế và chính đáng của đời sống con người. Những cơn cám dỗ luôn luôn đặt ta giữa hai loại giá trị: một là những giá trị hết sức thực tế của đời sống, hai là những giá trị tâm linh (tình yêu đối với Thiên Chúa, với tha nhân, chân lý, công lý, lý tưởng, v.v…). Nhờ đó ta có dịp chứng tỏ ta coi trọng giá trị nào hơn. Sau đây là những nhu cầu thực tế của đời sống được dùng trong những cơn cám dỗ:
a. Ứng với cám dỗ thứ nhất của Đức Giêsu là nhu cầu sự sống (sự an toàn bản thân, ăn uống, tình dục, sự thoải mái, giàu sang): Sự sống là một giá trị rất lớn Thiên Chúa ban cho ta, ta có nhiệm vụ quí trọng và bảo vệ nó, nhưng không phải là với bất cứ giá nào. Có những giá trị còn cao hơn sự sống. Chẳng hạn giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và chính sự sống mình, các thánh tử đạo xưa đã chọn tình yêu Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận cái chết. Trong cuộc đấu tranh cho công lý, chống áp bức bất công, những người đấu tranh như Martin Luther King (Mỹ da đen), ĐGM Oscar Romero (Salvador), LM Jerzy Popieluszko (Ba Lan)… đã coi công lý, tình yêu đối với người nghèo, người bị áp bức hơn sự an toàn bản thân, thậm chí hơn cả mạng sống. Chắc chắn họ cũng rất quí sự sống và sự an toàn bản thân, nghĩa là cũng sợ chết, sợ bị tra tấn, phiền nhiễu… Nhiều khi họ bị cám dỗ chọn lựa sự sống, sự an toàn bản thân hơn những giá trị kia. Nhưng lựa chọn cuối cùng và dứt khoát của họ là công lý xã hội và tình thương đối với với những kẻ bị áp bức. Ngược lại, ta cũng thấy có biết bao người vì muốn được an toàn bản thân, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang có được của mình, của gia đình mình, mà sẵn sàng câm lặng trước bất công, sẵn sàng đồng lõa hoặc làm tay sai cho những thế lực gây bất công… Họ đã quí sự sống và nồi cơm, địa vị của họ hơn công lý.
b. Ứng với cám dỗ thứ hai của của Đức Giêsu là nhu cầu phình to bản ngã (muốn được nổi danh, được nể phục, được coi là quan trọng, được khen tặng, được thỏa mãn tự ái và tính kiêu ngạo): Ai cũng cho "cái tôi" của mình là quan trọng, muốn mình là "cái rốn của vũ trụ", và không muốn bị ai xúc phạm. Trong một chừng mực nào đó, thì điều đó là tốt, nhờ đó mới phát sinh lòng tự trọng, giữ uy tín, muốn thăng tiến, v.v… Nhưng vượt quá chừng mực đó thì trở thành điều xấu. Nói chung, danh thơm tiếng tốt, uy tín, sĩ diện… đều là những giá trị hết sức cao quí, đến nỗi Nguyễn công Trứ để phải thốt lên: "Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông", hoặc "Không công danh thà nát với cỏ cây", "Trót sinh ra thì phải có chi chi, chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu". So với những loại giá trị bình thường, ta nên coi danh dự, công danh của mình cao hơn. Vì không coi trọng danh dự, uy tín, ta sẽ bị coi là tiểu nhân. Nhưng vẫn có những giá trị cao hơn công danh, uy tín… đó là những giá trị tâm linh như đã nói trên. Nếu để thăng tiến, phát triển bản thân mà ta phải đối xử thiếu tình người, phải hạ kẻ khác xuống, coi người khác là công cụ, là bàn đạp, là vật hy sinh cho mình, sẵn sàng "đội trên đạp dưới", thì có nghĩa là ta đã coi những giá trị ấy cao hơn công lý và tình thương. Tội lỗi phát sinh từ sự lựa chọn sai trái ấy.
c. Ứng với cám dỗ thứ ba của của Đức Giêsu là nhu cầu thống trị (thích quyền lực, thích làm chủ để điều khiển, muốn mọi sự phải xẩy ra theo ý mình): đây cũng là một nhu cầu rất lớn trong tâm lý con người. Ai cũng thích người khác chiều ý mình, thích áp đặt ý mình lên người khác. Quyền lực cũng là một giá trị. Trong xã hội, cần phải có những người có quyền lực, có quyền ép buộc người khác làm theo lệnh mình. Nhưng quyền lực ấy là để phục vụ xã hội, để tạo an ninh, trật tự và công lý trong xã hội, làm xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Quyền lực này có thể đạt được một cách chính đáng bằng tài năng và đức độ của mình nhằm phục vụ xã hội. Nhưng cũng có thể đạt được bằng những phương tiện không chính đáng nhằm được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong xã hội chứ không phải để phục vụ. Người sử dụng quyền lực luôn luôn phải lựa chọn giữa hai giá trị: lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Nếu hành động vì lợi ích tập thể thì là thánh thiện, nếu chỉ vì lợi ích cá nhân thì là tội lỗi.
Thiên Chúa luôn luôn muốn chúng ta đặt nặng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân trên hết mọi sự, mọi giá trị: "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ" (Mc 12,33). Chúng ta sẽ có dịp chứng tỏ lòng yêu mến ấy của chúng ta trong những cơn cám dỗ.
CẦU NGUYỆN
Chúa nói với tôi: "Những cám dỗ xảy đến với con là do thánh ý của Cha. Cha muốn con có dịp chứng tỏ tình yêu của con đối với Cha, và đối với những giá trị tâm linh mà Cha hằng yêu quí, như "Công Lý, Tình Thương và Lòng Thành Thật" (Mt 23,23). Nếu con yêu mến Cha thật sự, con phải chứng tỏ được tình yêu ấy trong những cơn thử thách ấy. Sự thành công hay thất bại trong những cơn cám dỗ ấy giúp con xác định được tình yêu của con đối với Cha như thế nào, nó giúp con hiểu biết chính con hơn".
53. Sống Mùa Chay – Lm. Vũ Thái Hoà
Từ lễ Tro vừa qua, chúng ta bước vào Mùa Chay để chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tương ứng vời 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh của Đức Giêsu trong sa mạc trước khi Người bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng. Tại đây, Người chịu quỷ cám dỗ ba lần: hóa đá thành bánh, làm phép lạ phi thường, cho mình là vua thiên hạ
Dân Do thái mong chờ Đấng Mêsia thực hiện những điều đó. Họ muốn Người cung cấp cho họ mọi nhu cầu vật chất, làm những điều kỳ diệu và bành trướng quyền thế của Người trên khắp địa cầu. Nhưng Đức Giêsu không làm như thế. Người chỉ thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha.
Trong hoang địa cũng như nhiều lần khác mà Tin Mừng đã kể lại, Đức Giêsu chống trả những cơn cám dỗ. Thí dụ: sau khi Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Người làm vua, nhưng Người lánh mặt, lên núi một mình (Ga 6:15); nhưng người Pharisêu muốn Người cho một dấu lạ từ trời (Mt 16:1); Người bị cám dỗ không đi Giêrusalem vì biết sẽ phải chịu nhiều đau khổ và bị giết. Chính ông Phêrô ngăn cản Người thực hiện điều đó và bị Người khiển trách: "Sa tan, lui lại đàng sau Thầy!" (Mt 16: 21-23). Tại vườn Ghếsêmani, Đức Giêsu bị cám dỗ nặng nề: "Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con..." (Mt 26:39). Và trên thập giá, Người bị nhục mạ: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin hắn liền!" (Mt 27:42)
Đức Giêsu đã thật sự bị cám dỗ, nhưng Người luôn trung thành với Chúa Cha và với sứ vụ mà Cha Người giao phó. Vào đầu Mùa Chay, Tin Mừng muốn chúng ta noi theo Đức Giêsu chống trả và chiến thắng những cơn cám dỗ này:
1/ Cám dỗ về cơm bánh hằng ngày hoặc cám dỗ về nhu cầu vật chất.
Con người cần phải ăn uống và cần phải có những nhu cầu vật chất tối thiểu để sống. Điều đó rất tốt. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống dựa vào những nhu cầu vật chất của thân xác mà thôi. Nhiều khi chúng ta lo kiếm ăn đến nỗi không còn nghĩa đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức nữa, không còn giờ để đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, ngay cả việc tham dự thánh lễ Chúa nhật!
Trong mùa Chay này, chúng ta hãy suy gẫm Lời Chúa: "Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh"
2/ Cám dỗ về sự thành công
Thành công trong cuộc sống là một điều rất tốt và phải làm. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống để thành công, muốn thành công với bất cứ giá nào, mặc dầu phải làm những chuyện không tốt như lừa dối, chà đạp người khác...; thành công để vênh vang, tự đắc, để giữ thể diện và thỏa mãn tự ái của mình
Ngay ngày đầu của Mùa Chay, Đức Giêsu mời gọi: "Khi làm việc lành phúc đức, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy... đừng cho tay trái biết việc tay phải làm... Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn giả hình... Thiên Chúa thấu suốt những gì kín đáo" (Mt 6:1-6)
3/ Cám dỗ về quyền hành hoặc tham vọng thống trị.
Mỗi người trong chúng ta đều có một trách nhiệm, một quyền hành nào đó mặc dù là khiêm tốn. Có quyền hành, có trách nhiệm là để phục vụ và bênh vực công lý. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ là lẫn lộn giữa quyền hành và lòng tham vọng thống trị. Nếu những nhà lãnh đạo các quốc gia đều có tinh thần phục vụ dân chúng, thì bộ mặt thế giới sẽ khác hẳn!
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy kiểm điểm lại tinh thần trách nhiệm và phục vụ của mình trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn...
Những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong sa mạc cũng là những cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta về vật chất, hào nhoáng bên ngoài và quyền hành. Đức Giêsu đã chiến thắng. Người cũng muốn chúng ta tham dự vào chiến thắng của Người bằng cách bước theo đường của Người và noi gương Người. Đó là mục đích của mùa Chay.
Kính chúc mọi người chúng ta sống Mùa chay thánh thiện và đón nhận nhiều hồng ân của Chúa.
54. Suy niệm của Lm. Trần văn Trợ
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình người mà thôi.” Câu trả lời cuối cùng rất dứt khoát của đức Giêsu đã khiến cho quỷ Satan phải chào thua bỏ đi.
Satan đã dùng nhiều cám dỗ để thử thách Đức Giêsu, tuy chúng được biểu lộ qua nhiều hình thái và hành động khác nhau, nhưng kết cuộc lại đều dẫn đến một lập trường: trở thành đồng minh của nó! Cạm bẫy càng tinh vi, nghĩa là càng khéo léo che đậy thì càng dễ bắt được con mồi hơn. Chúng ta đều quen với câu “Ngọt mật chết ruồi!” Tự bản chất mật đâu phải là thuốc độc, mà tại sao con ruồi phải bị chết?”
Tuyệt nhiên trong những mưu chước Satan đưa ra hòng dụ dỗ đức Giêsu, không hề đá động gì đến việc chống đối Thiên Chúa, nhưng chỉ giục Ngài làm theo ý riêng của mình. Satan không ngây ngô để lộ tâm địa hiểm độc của nó ngay từ đầu, nhưng trái lại sẵn sàng cung cấp miễn phí những thứ gì con người chúng ta vẫn ưa thích, xem ra có vẻ hoàn toàn vô hại, các việc biến đá thành bánh, nhảy từ nóc đền thờ hay làm chủ hết vinh hoa lợi lộc thế gian nào có chi là xấu đâu! Cũng giống như hiện tại chúng ta lo lắng làm giàu hay muốn được nhiều danh vọng, sao có thể cho là xấu được?
Nhưng nó luôn rình rập lúc họ thỏa thích, say men chiến thắng và mất cảnh giác. Bấy giờ Satan mới tóm được con người dễ dàng như con ruồi đang say mật!
Những hình ảnh đức Giêsu bị cám dỗ trong Tin Mừng đầu Chúa Nhật đầu Mùa Chay thánh nhắc nhở mỗi người hãy luôn đề cao cảnh giác, không nhân nhượng ma quỷ một chút xíu nào cả. Vì một khi chúng ta nhân nhượng với chúng một bước, nghĩa là chúng ta đang bỏ ngỏ và cho chúng quyền tự do lui tới nhà mình. Làm sao chúng ta còn có thể tống khứ chúng ra sau này?
55. Cám dỗ – Lm. Bùi Quang Tuấn
"Lửa thử vàng, gian nan thử đức". Có qua cám dỗ mới biết được ai là người thánh thiện, ai là kẻ đê hèn. Waterstone có viết: "Đầu hàng cám dỗ là hành động của thú tính, chiến thắng nó mới là con người".
Cám dỗ chưa phải là xấu. Nó có thể giúp người ta trở nên tốt hơn. Cám dỗ không phải là tội. Nó sẽ giúp thấy rõ hơn sự thánh thiện nơi một con người. Cám dỗ cũng không phải là hình phạt, song nó sẽ là triều thiên vinh quang cho những ai chiến thắng (W. Barclay).
Bị cám dỗ cũng có nghĩa là đứng trước một lựa chọn: tốt hay xấu, chiến đấu hay đầu hàng, theo ý Chúa hay thuận ý Satan.
Bậc anh hùng là người nếm chiến thắng và cái giá phải trả cho cuộc chiến. Chẳng ai trao huy chương cho kẻ bỏ cuộc, nhưng là con người đã can đảm chống lại kẻ thù.
Trong cuộc sống, chẳng ai tránh được cám dỗ. Chính Đức Giêsu còn bị cám dỗ, tức phải làm những cuộc chọn lựa và quyết định trong đời, huống hồ là tôi. Nơi con người, ai cũng có các động lực vị kỷ, thiển cận, ngại khó, thích nhàn, thúc đẩy một chọn lựa sai lạc mà kết quả là nỗi niềm bất hạnh. Adong và Evà đã nếm mùi xấu hổ, khổ đau, và chết chóc vì đã chọn lựa sai lầm. Bởi chọn theo ma quỷ, chống lại luật Chúa, tôn thờ cái tôi mà thương đau đã lan tràn đến khắp nhân loại.
Thế nhưng, "nếu bởi sự sa ngã của một người mà nhiều người phải chết... và do sự bất tuân của một người mà nhiều người bị liệt hàng tội nhân, thì cũng nhờ sự vâng phục của một người (Đức Giêsu Kitô) mà nhiều người sẽ được liệt hàng công chính" (Rm 5:12-19).
Chính Đức Giêsu, qua các cơn cám dỗ trong sa mạc, đã khẳng định nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại bằng việc lấy chính Lời Chúa làm ánh sáng soi dẫn đường đi, lấy việc tùng phục thánh ý Thiên Chúa để thánh hóa con người trở nên "người" hơn, và lấy việc tôn thờ Thiên Chúa trên mọi tạo vật như giá trị tuyệt đối và hạnh phúc chân thực của cuộc đời.
Mỗi một ngày sống trên trần gian, tôi sẽ phải không ngừng chọn lựa. Một chọn lựa ngay chính sẽ giúp cho việc chọn lựa ngay chính kế tiếp của tôi dễ dàng hơn. Trái lại, một sự nhu nhược đầu hàng cũng dễ kéo theo những đầu hàng nhu nhược tiếp theo. Và rồi tôi sẽ khó tránh khỏi tình trạng "cây xiêu bên nào sẽ đổ về bên đó".
Không phải là "thánh" nghĩa là không bị cám dỗ tấn công. Đức Giêsu là Đấng Thánh, ấy thế mà Ngài cũng phải trải qua kinh nghiệm của xung khắc giữa sự lành và sự ác. Thư Do thái ghi nhận rõ ràng: "Không phải Ngài là người không thể cảm thông với nỗi yếu hèn của chúng ta, song là Đấng đã dãi dầu bao cơn thử thách, đủ điều như chúng ta" (Dt 4:15). Và thái độ chọn lựa của Ngài đã làm nên hy vọng lớn lao cho con người mong manh của tôi. Ấy là "nếu tôi cùng chết với Ngài, tôi sẽ cùng Ngài phục sinh; nếu tôi chịu khổ với Ngài, tôi sẽ cùng Ngài thống trị" (1 Tim 2: 11-12).
Đứng trước những lời mời gọi ngọt ngào của thế gian và bao hấp lực quay cuồng của xác thịt, sự từ khước hay vượt thoát nào cũng hàm ngậm một cân lượng khổ đau, nếu không nói là "chết" trong lòng ít nhiều. Bất cứ sự thắng vượt gian dối, điêu ngoa, dục tình, tức giận, ích kỷ, kiêu căng, hay ươn lười nào cũng đòi hỏi một cuộc chiến gay go, lắm khi phải rướm máu con tim chứ chẳng chơi.
Thế nhưng, cần phải chiến đấu để có thể chiến thắng! Cho dù thử thách và cám dỗ nặng nề đến đâu tôi vẫn xác tín như Thánh Phaolô: "Thiên Chúa trung tín sẽ không để con người bị cám dỗ quá sức. Trái lại, cùng với cám dỗ Ngài sẽ chừa cho lối thoát để có thể chịu đựng nổi" (1 Cor 10:13).
Sự "chịu đựng" đến khi chiến thắng chỉ có thể đạt tới nhờ liên kết chân thành với Thiên Chúa. Không gì tạo nên gắn bó cho bằng cầu nguyện. Chính nhờ cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã có sức mạnh chịu đựng và chiến thắng tên Cám Dỗ ngay từ phút đầu.
Bước vào hành trình mùa Chay, tôi được kêu mời tu chỉnh lại đời sống cầu nguyện, để nhờ đó sức mạnh của Đức Kitô luôn ở trong tôi, giúp tôi can đảm chọn lựa những gì thuộc về Thiên Chúa, vững bước vượt bao chông gai trong đời, tiến đến đích cùng của bình an và hạnh phúc chân thật.
56. Cùng Đức Kitô vượt qua thử thách trong đời
Fr. Jude Siciliano
Tại sao chúng ta lại cần đến Mùa Chay, khởi sự bằng thứ tư Lễ Tro? Thứ nghi thức rắc bụi lên đầu vừa bẩn vừa chẳng giống ai? Tro bếp đâu có sạch sẽ gì, nó bám vào đầu tóc, rơi xuống cổ, xuống áo coi thật kỳ quặc. Những người ăn vận lịch sự vội đưa tay phủi cho sạch, nhưng ở trên da thịt thì vết bẩn dính lâu hơn, phải cần đến tắm rửa. Tuy nhiên, đối với các tín hữu sùng mộ nó lại là một biểu hiện đạo đức, nhắc nhở chúng ta về tính chất mỏng dòn của cuộc sống: “Con hãy nhớ con là bụi tro và con sẽ trở về với bụi tro” (St 4,19). Thực tế là như vậy. Chúng ta lúc nào cũng phải đối diện với cái chết. Chúng ta được cha mẹ sinh ra và rồi sẽ có ngày tận số. Chẳng làm thế nào tránh khỏi kiếp phù du. Bao nhiêu vua chúa, nhiều tiền lắm bạc, đã cố tìm cho ra phương thuốc trường sinh, nhưng đều thất bại thê thảm. Hàng ngày thiên hạ đo lường thành công, thất bại, quyền lực, tiền tài, thống trị đều nhận ra chúng có giới hạn. Cuối cùng thì thần chết xuất hiện cướp đi tất cả, chẳng trừ một ai, một dự phóng nào. Sau chút ít thời gian thương nhớ tên tuổi cũng bị xoá sạch. Đúng là một suy tư yếm thế cho chúa nhật này phải không thưa quý vị?
Dầu vậy chúng ta phải chấp nhận chân lý về thân phận mình, để sống cho đúng ý nghĩa. Nói cách khác, sống cuộc sống thật của thân phận làm người, chẳng ảo tưởng, không bi quan. Sách Sáng thế hôm nay nhắc nhớ rằng nếu chúng ta nhận biết mình là bụi đất, thì có thể tin cậy vào Đấng Tối Cao đã ban hơi thở cho mình: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” Hơi thở này vĩnh cửu bởi nó phát xuất từ Thiên Chúa vĩnh hằng. Nó chính là linh hồn chúng ta, hướng dẫn chúng ta tới Thiên Chúa, nguồn gốc của mình. Vì vậy khi nghe theo tiếng gọi của nó, chúng ta đi trên đường lối Ngài. Nhưng bất hạnh thay thực tế không được như vậy. Cho nên Mùa Chay là cơ hội thuận tiện để mọi người điều chỉnh lương tâm, tiến hành cải cách nếp sống. Đó là câu trả lời chính xác cho nhu cầu Mùa Chay của chúng ta. Những ai nói mình không cần Mùa Chay thì quả thực đã nói dối với chính bản thân. Không thành thực với mình, thử hỏi thành thực được với ai? Tình huống này xưa nay không thiếu nơi giáo dân, linh mục, tu sĩ.
Phúc âm nhắc nhở chúng ta trong suốt Mùa Chay, tuy phải nhìn vào sự chết hoặc thử thách bất cứ thuộc loại nào đe dọa tinh thần theo ơn Thiên Chúa gọi, thì không bao giờ nên sợ hãi, bởi vì chính Chúa Giêsu cũng đã bước vào kinh nghiệm của chúng ta trong ba cơn cám dỗ nặng nề. Cuối cùng Ngài đã chiến thắng vinh hiển, Ngài đã đi trước Hội Thánh vào hoang địa thử thách. Nó kéo dài suốt cuộc sống của Ngài, chứ không một vài giây phút: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ cơ hội khác” (Lc 4,13). Cho nên chúng ta chẳng thể mơ mộng được cơ hội an bình, bao lâu còn sống trên cõi đời. Mùa Chay của chúng ta là Mùa Chay của Chúa Giêsu kéo dài mãi trong mỗi sinh linh. Chính Ngài cầu nguyện, chính Ngài chịu thử thách, chính Ngài chịu đựng khổ chế trong con người chúng ta. Vì thế những ai dung dưỡng xác thịt quả là đã phản bội Chúa Giêsu một cách trắng trợn. Chúng ta chẳng có thể tự phong là đạo đức bao lâu còn chạy theo những tiện nghi thế gian. Trước mắt, nó không có dáng vẻ nguy hiểm, nhưng về lâu về dài nó là một loại thuốc độc ngấm dần. Muốn thoát khỏi phải nhìn vào Chúa Giêsu như mẫu mực đường lối của Thiên Chúa. Ngài sẽ giúp chúng ta vượt hoang địa thử thách giống như dân Do-thái vượt sa mạc Sinai. Chúng ta không nên sợ hãi, chúng ta không chịu cam go một mình. Ở bàn tiệc Thánh Thể hôm nay Chúa Giêsu nuôi dưỡng mỗi linh hồn bằng bánh manna hoang địa, là chính Mình Máu Thánh Ngài. Dù rằng suốt Mùa Chay, tư tưởng chúng ta hướng về hãm mình đền tội, nhưng tâm hồn luôn cảm thấy được an ủi. Bởi lẽ luôn có hy vọng Chúa Giêsu nhìn qua những tối tăm ấy mà trông thấy thành tâm sám hối. Ngài sẽ giơ tay cứu vớt giống như Thiên Chúa đã giải phóng Israel khỏi lầm lạc mà đưa về đất hứa.
Tác giả John Kavanagh (Dòng Tên) nói rằng Mùa Chay của chúng ta là mùa tự lượng định mình. Tức thời gian để chúng ta suy nghĩ về bản thân và ngoại vật, ý thức rõ hơn về các giới hạn của mình, về các nhu cầu vật chất và tâm linh, cuối cùng về sự chết. Đó là thời gian để nhắc nhở cuộc sống mỗi người cần phải được ơn thánh biến đổi. Và qua Đức Ki-tô, Thiên Chúa lại thở hơi ban sự sống cho chúng ta. Bởi vì bụi đất là nguồn gốc nhưng Thiên Chúa mới là định mệnh. Chúng ta không thể nào có bình an nếu không đạt tới cùng đích của mình. Vậy thì 40 ngày trước mắt là để lựa chọn những đường lối phải theo để đi tới Thiên Chúa. Có người gọi nó là hội tụ tiêu điểm, giống như chúng ta đi đo mắt. Một bảng chữ từ to tới nhỏ đặt trước mặt. Người y sĩ thay đổi lăng kính, luôn mồm hỏi: “Đã rõ chưa? Thử cặp kiếng này xem tỏ hơn không?” Cũng vậy 40 ngày tới chúng ta có cơ hội thay đổi nếp sống để hành động chính xác hơn, lành mạnh hơn. Thánh Kinh sẽ là tiêu chuẩn để chúng ta điều chỉnh. Chẳng ai nghĩ mình đã hư hỏng hoàn toàn: Chúng ta còn lương tâm kinh sợ Chúa, nhưng sai lầm về nhiều điều. Cho nên Kinh thánh ví như một lăng kính tốt, giúp chúng ta nhìn xem sự vật một cách sáng tỏ. Nhiệm vụ của Mùa Chay này là như vậy. Chúng ta lắng tai nghe đọc lời Chúa, ghi tạc vào lòng và bắt đầu sửa chữa những sai lầm. Quỷ dữ đã thử thách Chúa Giêsu ở ba địa điểm khác nhau: sa mạc, nóc đền thờ và đỉnh núi rất cao. Về các lãnh vực xem ra rất bình thường của cuộc sống con người: bánh ăn, kiêu căng và quyền bính. Nó dùng lời Kinh thánh mà cám dỗ Ngài. Đây đúng là những đòn chí tử, bởi chúng ta cũng thường bẻ cong lời Thiên Chúa để biện minh cho hành động sai trái của mình. Đức Ki-tô đã toàn thắng “tên cám dỗ” (tentator) cũng bằng sức mạnh lời Thiên Chúa. Ngài đang ở trong Mùa Chay thiên sai để chuẩn bị thi hành sứ mệnh. Mùa Chay cần thiết giúp Ngài đủ khả năng thực hiện thánh ý Đức Chúa Trời. Ngài từ bỏ bản thân bằng cách chối bỏ bánh ăn. Ngài cư xử khiêm nhường không tự phụ kiêu căng. Ngài hoàn toàn vâng phục quyền bính Đức Chúa Trời. Tóm lại, Ngài thực hành khổ chế nghiêm ngặt, cầu nguyện và chiêm niệm lời Thiên Chúa liên lỉ. Bài học cho mọi tín hữu dấn thân trên cánh đồng truyền giáo. Không có những sinh hoạt như Chúa Giêsu, chúng ta chẳng thể truyền giáo hiệu quả dù tích cực đến mấy đi nữa. Xin ghi nhớ lời Chúa: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời Thiên Chúa phán ra”. Chính Thiên Chúa sẽ thổi hơi thở của Ngài để chúng ta được sức sống mới qua Ngôi Lời ban sinh khí.
Các cầu thủ bóng chày bắt đầu tập tành từ mùa này. Họ cần thời gian để rèn luyện thân thể, sẵn sàng cho mùa thi đấu sắp tới. Nếu không sẽ gặp thất bại thê thảm. Tập luyện tốt sẽ cho họ khả năng chiến thắng giải quốc gia, có thể cả giải quốc tế. Giống như họ, năm này qua năm khác, chúng ta cần đến Mùa Chay để tinh thần được rèn luyện và đổi mới. Chúng ta cần tập trung tư tưởng, nghị lực để thăng tiến những cam kết khi lãnh bí tích thanh tẩy, từ bỏ satan và các cám dỗ của nó, trung thành với Chúa Ki-tô và sứ vụ của Ngài. Chúng ta nhận ra tình trạng tội lỗi của lương tâm mình và tính ù lì trong cách đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nhưng hơn hết, nhìn lên Đấng Cứu Thế đầy lòng thương xót, cầu khẩn Ngài giúp đỡ mình thoát khỏi nếp sống bê tha.
Tiến trình cải hóa Mùa Chay vừa mang tính cộng đoàn, vừa là việc của cá nhân. Nguyên cộng đoàn hay cá nhân thôi không đủ. Bởi lẽ, tội lỗi bao trùm toàn thể loài người sinh ra trên trái đất. Cụ thể trong buổi thờ phượng này chúng ta được mời gọi lắng nghe và hành động dựa trên lời Chúa. Khi cử hành như vậy chúng ta mặc nhiên đoàn kết với nhau thành một gia đình, lắng nghe câu truyện của nhau và xác định đây là nơi chúng ta tin tưởng và sinh sống nhờ ơn thánh Chúa. Chúng ta gắn bó với các đồng đạo khác trong đức tin và công việc bác ái, để triều đại Thiên Chúa mau ngự đến. Trong Mùa Chay này, mọi người sẽ luyện tập thói quen chăm chú nghe lời Thiên Chúa hơn, thực hành điều Ngài dạy bảo và sửa soạn tâm hồn bằng các buổi phụng vụ sốt sắng, năng lãnh nhận các bí tích, thăm viếng kẻ đau ốm, nghèo đói, ở tù. Thiên Chúa rộng rãi hơn lòng chúng ta, sẽ đáp ứng lại bằng những ơn lành mà chúng ta cần thiếu. Ngài sẽ chỉ rõ những lỗi lầm quá khứ, tố giác các tội lỗi và tỏ bày lòng xót thương. Như vậy, thay vì là mùa ảm đạm thì chay tịnh lại là hồng ân cao cả giúp chúng ta ý thức sâu xa hơn thân phận của mình và ơn cứu rỗi Chúa ban.
Do ảnh hưởng của bài đọc I, xưa nay người ta vẫn thường đổ lỗi cho Evà về tội nguyên tổ, và mường tượng bà như một phụ nữ cám dỗ, gây nên cái chết cho toàn thể nhân loại. Thực ra, nó là tội của bản tính loài người. Thiên Chúa ban ơn thánh không chỉ riêng cho bà mà cho toàn thể nhân loại. Cho nên câu truyện ông bà sa ngã là câu truyện chung, không riêng một mình ai. Trong sách Sáng thế, chúng ta được nghe sự thật về loài người quay mặt khỏi Thiên Chúa, trong đó chúng ta có phần trách nhiệm. Cũng trong sách Sáng thế, Thiên Chúa trực tiếp dựng nên nhân loại: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (2,7). Ngài còn trồng một vườn cây tươi tốt cho họ hưởng dùng. Rõ ràng họ được Thiên Chúa ưu ái đặc biệt. Nhưng con người đâu có cảm nghiệm được tình yêu ấy. Họ đã ngoảnh mặt đi và phạm tội. Truyện còn kéo dài cho tới mãi ngày nay. Cho nên không cần phải nói với ai về tội lụy. Nó là sự thật tự sáng tỏ, chẳng cần chứng minh. Hậu quả của nó trên toàn thể xã hội, trên từng cá nhân thật khủng khiếp, mặc dầu vườn địa đàng của Thiên Chúa vẫn còn đấy, tức thế giới này. Chúng ta không thể đổ lỗi cho Adam, Evà về những điều họ làm khi xưa, nhưng phải nhận trách nhiệm trong thời đại hiện nay, những lựa chọn ngu xuẩn mà chúng ta đã thực hiện, “Quỷ dữ đã xui khiến con làm điều đó” là lời chạy tội ngớ ngẩn chúng ta thường đưa ra để bào chữa các sai trái của mình. Giống như Adam, Evà, chúng ta có những bức tường giả dối chống lại sự tấn công của tội lỗi, danh vọng hão và hứa hẹn suông.
Cảm tạ Thiên Chúa, chúng ta không đứng một mình trong Mùa Chay này. Tin Mừng hôm nay, qua chiến thắng của Chúa trên các thử thách, cho chúng ta hay rằng, Chúa Giêsu quyền năng hơn tội lỗi và Satan. Với Ngài chúng ta có thể vượt qua mọi trở ngại mà tự thân chẳng thể thực hiện. Ngài đã tỏ quyền năng chống lại cám dỗ ích kỷ lo liệu bánh ăn cho riêng mình bằng cách nhân bánh lên nhiều nuôi một lần năm ngàn người ăn, lần khác bốn ngàn. Ngài chống lại việc làm dấu lạ để lôi cuốn đám đông bằng cách trông đợi Thiên Chúa cung cấp lương thực cần thiết hàng ngày. Ngài từ chối một cuộc sống dễ dãi không đau khổ, không lao động khi trông chờ Thiên Chúa sai thiên thần thần bảo vệ mình. Ngay cả lúc rơi vào tay kẻ thù ghen ghét, từ chối sứ điệp của mình, Đức Kitô vẫn không hề nghi ngờ tình mến yêu của Thiên Chúa. Còn chúng ta? Thái độ ra sao khi gặp gian nan khốn khó? Đứng vững trong đức tin hay kêu ca trách móc? Kiên nhẫn chờ đợi Chúa trợ giúp hay nản lòng thối chí? Xin hãy nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh để nhận ra gương mẫu cho cuộc sống như người tín hữu. Đức Ki-tô với tất cả quyền năng vô biên có thể chiếm hữu thế giới trong vinh quang hiển hách, nhiên hậu lôi kéo người ta đến với mình, chấp nhận giáo lý của mình và như vậy dễ dàng cứu chuộc họ. Nhưng ngài chỉ nhìn lên Thiên Chúa, đón nhận thánh ý Thiên Chúa và kiên trung ‘trong ơn gọi người tôi tớ Gia-vê, chứ không hề mơ tưởng làm hoàng đế thượng vị thống trị thế gian như các vua chúa khác. Do đó qua sức mạnh thần linh của Ngài chúng ta phân biệt được lành dữ, tốt xấu, cái gì chóng qua, cái gì bền lâu muôn đời.
Thánh Phao-lô trong bài đọc 2 hết lời khuyên nhủ các tín hữu thành Roma liên kết với Đức Ki-tô trong ơn thánh, trong sự vâng lời Thiên Chúa để được cứu rỗi. Đó là điều Giáo hội mong muốn chúng ta thực hiện trong mùa chay này: “Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Ki-tô, còn dồi dào biết mấy cho muôn người.” Chúng ta liên luỵ với tội lỗi của Ađam, Evà thì nhờ sức mạnh Chúa Giêsu, lướt thắng được mọi thử thách của cuộc đời mà thông phần vào vinh quang của Ngài. Cho nên sự lan tràn của tội lỗi không làm chúng ta thất vọng, trái lại nó là lời kêu gọi khẩn thiết lòng thương xót của Thiên Chúa. Trước cái “dữ” của tội lỗi chúng ta ‘nhìn lên Thiên Chúa và chắc chắn sẽ được Ngài xót thương, chính Đức Ki-tô là bảo chứng cho niềm xác tín ấy. Vậy chúng ta hãy chạy đến bàn thờ thánh thể, ý thức lòng khao khát sâu xa Thiên Chúa của mình. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự sống của Đức Ki-tô làm sức mạnh và Thánh Thần làm Đấng hướng dẫn trong cuộc chiến đấu Mùa Chay đặc biệt này. Amen.
57. Nếu ông là con Thiên Chúa! – Fr. Jude Siciliano
Thưa quý vị.
Trong cuộc rửa tội vừa qua, tôi có bổn phận hỏi cha mẹ đứa trẻ và những người đỡ đầu các câu hỏi theo nghi thức: "Anh chị em có từ bỏ ma quỷ và những sang trọng của nó không?" Mọi người đồng thanh thưa: "Chúng con từ bỏ." Thực ra, chúng tôi đã tập dượt kỹ lưỡng rồi. Và tôi hy vọng họ thành tâm chứ không chỉ máy móc, làm theo quy định sách vở. Một tháng nữa, vào đêm vọng Phục Sinh, mọi người tín hữu đều sẽ có dịp lặp lại công thức thánh tẩy tương tự như vậy. Tôi cầu mong chúng ta sẽ thành thật trong lời tuyên xưng của mình. Tuy nhiên chẳng dễ gì để chúng ta nhận ra bộ mặt của ma quỷ và các việc làm của nó trong cuộc sống đời thường! nó mặc nhiều hình thức dối trá đến nỗi chúng ta dễ dàng lẫn lộn đen trắng, xấu tốt.
Các cám dỗ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Đang đói lả mà tìm bánh ăn, đâu có gì là xấu? tốt lắm chứ, nhất là lại có bánh dễ dàng, nhanh chóng! Ba cám dỗ nói chung xem ra hợp lý, dễ chấp nhận đối với hoàn cảnh của Chúa Giêsu và của chúng ta ngày nay.
Đúng thế, nếu đọc qua một lần thì chẳng thấy chi là vô luân trong cả ba cơn cám dỗ. Đối với nhiều người, thì chúng chỉ là truyện bình thường, chẳng thể được gọi là cám dỗ. Bánh ăn, danh vọng, lợi lộc hàng ngày ai mà không tìm kiếm? Chúng là những khao khát bình thường của các con tim bình thường để sống cuộc đời bình thường. Nhưng Tin Mừng nhìn chúng như những mối nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm. Bởi mục tiêu của chúng là dụ dỗ loài người chọn đi trên những con đường xác thịt, chứ không phải tuân theo ý muốn của Thiên Chúa. Trong trường hợp Chúa Giêsu, chúng dụ dỗ Ngài xa lánh sứ mệnh để đi con đường dễ dãi hơn. Satan cố gắng lừa Chúa Giêsu vào cái bẫy giống như hắn đã lừa Ađam và Evà: Kiêu ngạo. Nhưng bằng một phương pháp tế nhị hơn nhiều. Nó muốn lôi kéo Chúa Giêsu về phe với nó thi hành mọi sự theo đường lối của nó chứ không phải đường lối của Thiên Chúa.
Ngày nay cũng vậy thôi, các tín hữu, nhất là linh mục, tu sĩ, hành động rất xa lạ với đường lối Chúa chỉ dạy mà cứ tưởng thuận theo ý Ngài. Họ hợp lý hóa tham sân si của mình mà cứ ngỡ đó là ý Chúa. Họ thực hành ý riêng của họ chứ đâu phải ý Chúa. Ý Chúa là con đường hẹp chứ đâu phải là xa lộ 8 lằn ranh? Rượu chè, hút sái, say sưa, các tiện nghi văn minh tân thời,… với trăm nghìn lý do "chính đáng". Các cơn cám dỗ của Chúa Giêsu chẳng phải một lúc mà chấm dứt. Nó kéo dài suốt đời công khai của Ngài cho đến khi Ngài có thể hô lên: "Mọi sự đã hoàn tất" (Ga 19, 30). Nó luôn luôn ở bên cạnh để Ngài lựa chọn. Nó cũng luôn luôn hiện diện để chúng ta bước đi trong quá trình sống của mình: Đường lối Thiên Chúa hay đường lối của Hỏa ngục? Thật dễ sợ!
Nó khởi sự: "Nếu ông là con Thiên Chúa…" Con Thiên Chúa trong ý nghĩa Do thái có thể là một thiên thần, một vị thần linh, là chính dân Israel hay một vị lãnh đạo nổi tiếng nào đó, như vua chúa, quan quyền. Nó còn có nghĩa là "Giống như Thiên Chúa", chẳng hạn ai đó có quan hệ đặc biệt với Gia vê. Quan hệ cha - con, liên kết bằng tình yêu mến và vâng lời. Người đó hoàn toàn lệ thuộc và tín thác vào Thiên Chúa ban cho mình của ăn áo mặc cùng các nhu cầu khác của cuộc sống. Như vậy, đối với quỷ sứ gọi Chúa Giêsu là "Con Thiên Chúa" đồng nghĩa với việc đặt Ngài vào tình huống tự tôn, và thách thức tương giao của Ngài với Thiên Chúa. Ngài có quyền năng ra sao là hệ tại tương giao đó, tình huống đó. Quỷ sứ đang thử thách lòng tin cậy của Chúa Giêsu vào Cha Ngài: Liệu Chúa Giêsu có lợi dụng chỗ đứng duy nhất của Ngài trước Thượng đế mà thực hiện một phép lạ nuôi sống bản thân? Tại sao người được Thiên Chúa dấu yêu lại phải chịu đựng đói khát? Tai sao Thiên Chúa không che chở những kẻ gần cận Ngài khỏi đau khổ, tai ương, địch họa? Liệu khổ đau có phải là dấu chỉ không được Thiên Chúa mến thương? Nếu như chúng ta tin tưởng vào Chúa Giêsu thì đức tin đó có giải phóng chúng ta khỏi lầm than? Cứu thoát chúng ta khỏi mọi khốn khổ của kiếp sống con người? như bệnh tật, đói khát, thất bại, nghi nan, sầu thương, lo lắng …
Câu trả lời của Chúa Giêsu là "không". Không cho bánh ăn, tức sự sống của Ngài, không cho dụ dỗ của thế gian. Ngài không đòi lại những gì đã hiến dâng cho phần rỗi nhân loại, để làm đẹp ý Cha Ngài, để đi theo con đường "hẹp" Cha Ngài đã muốn. Nếu như Ngài nhượng bộ Satan để có nhiều lương thực, thực phẩm, để khỏi khổ đau, để giải quyết ngàn vạn khó khăn của cuộc sống nhân sinh thì Ngài vĩnh viễn xa lìa chúng ta. Ngài không thuộc thành phần nhân loại. Ngài chưa sống thực kiếp con người. Ngài chẳng phải vật lộn với cuộc đời như chúng ta. Không ai có thể đồng hóa với Ngài, coi Ngài là gương mẫu, là người chỉ đạo. Ngài không thể mang tước hiệu cứu thế!
Cách nay ba mươi năm, ở bang California xảy ra một chuyện mà rồi ai cũng biết. Người con gái gia đình tỉ phú Heast tên là Patty bị bắt cóc. Những tên bắt cóc đòi gia đình cô phải mua vài trăm xe bánh mì phân phát cho những người nghèo đói giữa thành phố để chuộc lấy mạng cô. Lạ lùng là chính cô gái cũng về phe với kẻ bắt cóc cầm súng dọa bố phải thỏa mãn yêu cầu. Khi những xe bánh mì vào thành phố, người ta nà ra cướp, các tài xế phải lấy xẻng hất bánh xuống mặt đường. Truyện kéo dài cả một tuần, sau đó cô gái được thả. Đó có phải là đường lối văn minh để nuôi kẻ nghèo đói? Đó có phải là cách Chúa Giêsu biến đá thành bánh mà ăn? Như thế thì ai còn sẵn lòng nghe theo sứ điệp Ngài rao giảng? Bánh Ngài ban cho kẻ nghèo kiểu đó ư? Người La mã cổ xưa thu hút thiên hạ đến xem xiếc bằng cách phát không bánh mì. Nếu Chúa thực hiện kiểu đó thì chẳng hóa ra sứ vụ của Ngài là một gánh hát trò? Thiên Chúa đã ban cho chúng ta dư dật để chúng nuôi nấng những kẻ nghèo đói. Có những thời kỳ người ta phải mang lương thực, thực phẩm đổ xuống biển để giữ giá! vậy thì chúng ta còn phải tìm kiếm thỏa mãn các nhu cầu căn bản đến nỗi xao nhãng việc lắng nghe "Mọi điều do miệng Thiên Chúa phán ra?" Tôi nghĩ ngược lại, cái làm cho chúng ta không để tâm nghe lời Chúa là sắm thêm TV, máy tính hiện đại, xe hơi kiểu mới, nhà lầu tinh khôn … trăm điều vừa ý xác thịt khác. Chúng chẳng có chi là cám dỗ, nhưng lối nhìn của Tin Mừng lại không như vậy.
Mùa Chay này cho chúng ta một cơ hội tốt để dẹp bỏ những thứ đó sang một bên, và tập chú vào những gì là bánh ban sự sống thật cho chúng ta trong hoang địa trần gian. Nó là một cơ hội để chúng ta thay đổi tư duy và nếp sống. Đây là mùa hối cải, là ánh sáng, là cơ hội canh tân. Không phải là mùa buồn thảm mà là vui mừng. Dĩ nhiên thay đổi đòi hỏi đau đớn và hy sinh. Nhưng dưới những khó chịu ban đầu là nguồn hạnh phúc khi thánh thần Chúa thổi luồng gió đầy sinh khí thánh thiện vào linh hồn. Đã thánh thì không thể buồn được, cũng như đã hạnh phúc thì không thể thiếu vui. Cho nên trong suốt thời gian chay tịnh chúng ta sẽ được Chúa dẫn dụ những lời ban sự sống để tổ chức lại cuộc đời mình.
Bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế, nhưng bỏ trình thuật tạo dựng Evà. Điều này cho chúng ta cảm tưởng đây là lần đầu tiên "đàn bà" xuất hiện và lại là người nhượng bộ lời dối trá của Satan. Sau đó bà lôi kéo chồng phạm tội và cả hai đều sa ngã. Chúng ta chẳng thể hoàn toàn đổ lỗi cho con rắn. Nó là loài vật tinh khôn Chúa dựng nên. Nó chỉ gợi ý, nói nửa sự thật. Phần lựa chọn vẫn thuộc về tổ tiên loài người. Cơn cám dỗ khởi sự từ lòng nghi ngờ động lực của Thượng đế. Thực sự Ngài có tốt lành hay không? Ngài rộng lượng và đức độ hay không? Ngài có chăm sóc đến lợi ích của hai ông bà không? hay cấm đoán vì ích kỷ, độc quyền?
Hai ông bà đã chẳng thể cưỡng lại viễn tượng được tự do hoàn toàn, không phải lệ thuộc vào ai, chẳng phải vâng lời ai. Thần linh độc lập thì còn chi thoải mái bằng! Làm vua một làng hơn làm quan một nước! Cho nên câu hỏi của con rắn là: "Tại sao không? Ai truyền lệnh cấm? Đó chỉ là chuyện phịa! Quý vị sẽ hạnh phúc hơn nhiều …" Và câu trả lời không chỉ đơn giản "có" hoặc "Không". Nó đòi hỏi khôn ngoan lựa chọn. Ở đây rõ ràng ăn táo là khôn ngoan, từ chối là dại khờ. Phần chúng ta cũng vậy, chúng ta luôn luôn chọn lựa những gì là tốt, thông minh và tương lai hơn! Hậu quả là thường thường chúng ta bị lừa dối. Vẻ bề ngoài chưa chắc đã là sự thật. Chúng ta mở được mắt ra thì đã quá muộn.
Hình phạt là không thể tránh khỏi. Ông bà bị đuổi ra khỏi địa đàng. Mất hết hạnh phúc. Ngày nay loài người cũng vậy thôi, chúng ta phải gánh chịu hậu quả thảm khốc của các lựa chọn ngu xuẩn của mình. Vậy thì Mùa Chay nhắc nhở nhân loại, Chúa Giêsu đã dùng cây biết lành biết dữ khác mà dẫn đưa loài người về con đường ngay chính. Sự chọn lựa của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay là sự chọn lựa về phe với Thượng đế nhờ chính quyền năng khôn ngoan của lời Chúa. Ngài vâng lời để thắng bất tuân, khiêm nhường để thắng kiêu ngạo, lệ thuộc Thượng để để thắng tự cao, tự đại. Trên thập tự Ngài trút hơi thở để ban cho chúng ta thần khí sự thật và sự sống, thần khí của một người con biết vâng lời, can đảm lựa chọn "Con đường hẹp" trên dương thế này. Amen.
58. "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa..." - Chiara Lubich
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10)
Trong mùa chay, Hội Thánh nhắc nhở ta rằng đời ta là một cuộc hành trình hướng đến Phục Sinh, hướng đến thời điểm Đức Giêsu, qua cái chết và sự phục sinh của Người, sẽ dẫn đưa ta vào cuộc sống đích thực, vào cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Đó là một cuộc hành trình đầy khó khăn và thử thách, rất giống với chuyến đi qua sa mạc.
Chính nơi sa mạc mà, đang khi tiến về đất hứa, dân Israel đã lãng quên trong chốc lát Thiên Chúa của họ và bắt đầu thờ lạy con bò vàng.
Đức Giêsu cũng đi qua sa mạc, và Người cũng bị Xa-tan cám dỗ thờ lạy quyền lực và thành công. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã dứt khoát khước từ mọi quyến rũ của ma quỷ và cương quyết hướng về sự thiện đích thực duy nhất:
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Điều đã xảy ra với dân Israel và với Đức Giêsu thì cũng xảy ra với chúng ta. Trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng bị cám dỗ lựa chọn một giải pháp dễ dãi hơn. Những cám dỗ này hứa hẹn với ta hạnh phúc và mời mọc ta hãy coi trọng những gì là hiệu quả nhất, những gì là đẹp nhất và những gì là khoái lạc, và hãy muốn sở hữu của cải và có quyền lực. Những điều này tự bản thân chúng có thể là tích cực, nhưng chúng cũng có thể bị tuyệt đối hóa và thường được xã hội của chúng ta đề cao như những ngẫu tượng đích thực.
Khi ta không nhận biết và chẳng thờ lạy Thiên Chúa, thì tất yếu những “thần” khác xuất hiện, và những kiểu thờ phượng như chiêm tinh và ma thuật bắt đầu tái xuất hiện.
Đức Giêsu nhắc nhở ta rằng ta nên tìm sự thành toàn của mình không không phải ở nơi những cái chung cuộc sẽ qua đi, mà ở việc đặt mình trước mặt Thiên Chúa, Đấng tác tạo mọi loài, và nhận biết Người là Đấng Tạo Hoá, là Chúa của lịch sử, là Mọi Sự cho ta, là Thiên Chúa!
Nếu ở trên Trời, nơi chúng ta đều đang hướng về, ta sẽ không ngừng ca tụng Người thì tại sao ta không bắt đầu ngay ở đây và bây giờ việc ca tụng đó?
Đôi khi ta cảm thấy một nỗi khao khát muốn thờ lạy Người bằng cách ca tụng Người tận trong đáy lòng ta, trong sự hiện diện thinh lặng của Người nơi nhà tạm và trong việc cử hành phụng vụ Thánh Thể.
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Nhưng “thờ lạy” Thiên Chúa nghĩa là gì? Đó là một thái độ ta cho phép mình chỉ hướng về Người mà thôi. Thờ lạy nghĩa là thưa với Thiên Chúa: “Chúa là mọi sự”, nghĩa là “Chúa là Chúa”, và con được ban ơn, đặc ân trong đời là nhận biết Chúa.
Thờ lạy cũng có nghĩa là nói: “Con là hư vô”. Và ta không chỉ nói suông. Để thờ lạy Thiên Chúa, ta cần phải đặt bản thân sang một bên và để cho sự hiện diện của Người hiển trị nơi ta và trên thế gian. Điều này hàm nghĩa một cuộc chiến không ngừng nhằm chống lại những thần tượng giả mà chúng ta bị cám dỗ dựng nên trong cuộc sống của ta.
Cách thế chắc chắn nhất để trở nên một thí dụ sống động rằng ta là hư vô và Thiên Chúa là mọi sự, là hãy hết sức tích cực. Ta có muốn hãm dẹp tư tưởng của ta qua một bên không? Ta chỉ cần nghĩ đến Thiên Chúa và sống theo những tư tưởng của Người được mạc khải trong Phúc Âm.
Ta có muốn chết đi cho ý riêng của mình không? Ta chỉ cần ôm chặt lấy thánh ý của Người được bày tỏ cho ta trong mọi giây phút hiện tại.
Ta có muốn từ bỏ những ước muốn hỗn độn không? Ta cần đổ đầy tâm hồn của ta lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương những người bên cạnh bằng cách chia sẻ những lo âu, những khổ đau, những vấn đề, và những niềm vui của họ.
Nếu ta biết yêu thương, thì việc tự xóa mình đi lúc nào cũng xảy ra mà ta chẳng hay. Bằng cách sống sự hư vô của mình, cuộc đời ta khẳng định sự vĩ đại của Thiên Chúa và chứng tỏ rằng Người là mọi sự. Việc này tự nhiên dẫn đưa ta đến sự thờ lạy chân chính đối với Thiên Chúa.
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Cách đây nhiều năm, khi chúng tôi khám phá ra rằng thờ lạy Thiên Chúa nghĩa là công bố sự vĩ đại của Người trên sự hư vô của mình, chúng tôi đã sáng tác bài ca này:
“Nếu sao tắt ngấm trên trời,
Nếu mỗi ngày đều kết thúc,
Nếu sóng tiêu tán trong biển,
Không bao giờ trở lại,
Thì tất cả điều này là vì vinh quang của Chúa.
Ước gì mọi thụ tạo ca tụng Chúa:
“Chúa là mọi sự!”
Và mọi sinh vật nói với mình:
“Tôi là hư vô!”
Kết quả của việc ta trở nên hư vô vì tình yêu là sự hư vô của ta liền được lấp tràn bởi Đấng là Mọi Sự, bởi Thiên Chúa, Đấng chiếm hữu tâm hồn ta.
59. Không chỉ bằng cơm bánh
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo)
Ngoài cơm bánh, con người còn đói khát nhiều thứ: sự thật, tình thương, phẩm giá, tự do, lòng kính trọng, kiến thức, lẽ sống, lý tưởng... Các tôn giáo sẽ làm gì trước tình trạng đạo đức xã hội chúng ta đang sa sút?
"Người ta sống không nguyên bằng cơm bánh mà thôi..."
Đức Giêsu, người đã nói ra câu đó, không phải là một kẻ mơ hồ hoặc sống toàn bằng những lý tưởng cao đẹp hoặc đã có dư ăn dư mặc để có thể dễ dàng lên mặt dạy đời về sự tầm thường của vật chất. Ngài hiểu rõ giá trị của đồng tiền bắt gạo và đã khó nhọc làm ăn, nuôi mình và nuôi gia đình mình. Ngài biết rằng có thực mới vực được đạo, bằng chứng là có lần Người đã phải cho ăn một đám đông đói khát sau những ngày tìm kiếm đến với mình để nghe thuyết pháp. Ngài cũng biết nữa rằng bần cùng sinh đạo tặc bởi đã thường xuyên lui tới với đám người khốn khổ nhất của xã hội, biết rõ hoàn cảnh sống của họ. Nhưng Đức Giêsu nhất định không để cho nhu cầu ăn uống, dù là một nhu cầu thiết yếu căn bản, ngự trị trên các nhu cầu khác của con người; Ngài nhất định không coi của cải vật chất là tất cả, đến nỗi đã phải bất cứ cách nào cho có được.
"Người ta sống không nguyên bằng cơm bánh..."
Có một thời cách đây không xa lắm, chúng ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi tại sao thanh niên Âu Mỹ lại chán chường, hoặc nổi loạn phá phách, hoặc làm những chuyện điên rồ, có vẻ vô nghĩa khi mà họ đã có thừa mứa mọi thứ tiện nghi hưởng thụ, và xã hội đồng loã xoá cho họ nhiều thứ rào cản về mặt luân lý hoặc luật lệ (như tự do quan hệ tình dục trước hôn nhân, phá thai...). Người ta giải thích cho chúng ta rằng sở dĩ như thế là vì lớp thanh niên đó có mọi thứ nhưng lại thiếu lý tưởng, thiếu lẽ sống, thiếu cái gì đó cao cả để vươn tới... Thời ấy chúng ta nghe, nhưng vẫn cảm thấy đó là điều hơi xa lạ, viễn vông.
Bây giờ nhìn thấy một lớp tuổi trẻ sống vô lý tưởng, sống thực dụng, bất chấp đạo nghĩa, đặc biệt những con ông cháu cha ngay trong xã hội Việt Nam, chúng ta mới thực sự thấm thía. Và trước viễn ảnh xã hội mở cửa ngày càng rộng rãi, chính chúng ta bắt đầu biết lo, biết sợ. Do đó mà có phong trào "trở về nguồn" và "bảo vệ văn hoá dân tộc".
"Người ta sống không nguyên bằng cơm bánh...".
Cha ông ta vẫn hiểu điều đó khi nói, chẳng hạn:
- Tốt danh hơn lành áo
- Chết vinh hơn sống nhục
- Ở đời muôn sự của chung,
hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi...
Và điều đó, hẳn là mọi người có lương tri cũng đều hiểu. Bởi thế tôi đã gần như bàng hoàng khi nghe một cô giáo trường B. T. X ở Tp Hồ Chí Minh kể lại rằng: hồi ấy, nhân dịp học sinh tới nhà cô chơi, cô ta kể cho học sinh câu chuyện về Cha Maximilien Kolbe đã tình nguyện chết thay cho một người cha gia đình con trẻ, bị Đức Quốc Xã giam cùng trại với cha, vì cha nói: "Tôi già rồi, nếu có sống cũng không có ích và cần thiết bằng người cha gia đình này". Nghe xong, một nam học sinh đã phê phán một câu sâu sắc như nhát chém: "Đồ ngu!". Tôi lại sửng sốt khi đọc báo trong báo Thanh Niên số tân niên (tháng 2/92) ý kiến cô Tố Loan, 18 tuổi, làm nghề chiêu đãi viên và "đã có quan hệ tình dục với nhiều người". Loan chẳng lo lắng gì về sự lựa chọn này. Vẫn vui vẻ và có ý định tiếp tục. Loan cũng không mong gì hơn là có thật nhiều tiền, "có tiền người ta không khinh mình", cô nói. Hôn nhân đối với Loan không quan trọng. Ở được với nhau trăm năm thì ở, không thì chia tay cũng được, không việc gì phải nặng nề (tr. 21).
"Người ta sống không nguyên bằng cơm bánh..."
Ngoài cơm bánh, con người còn đói khát rất nhiều thứ: sự thật, tình thương, phẩm giá, tự do, lòng kính trọng, kiến thức, lẽ sống, lý tưởng... Có lẽ hơn bất cứ tổ chức xã hội nào, các tôn giáo chân chính hiểu rõ điều đó vì tôn giáo chân chính nào cũng nhằm đưa con người vươn lên, vươn lên khỏi chính mình, và cứ vươn xa hơn mãi, cao hơn mãi, hướng tới cái Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ...
Các tôn giáo sẽ làm gì trước tình trạng đạo đức xã hội chúng ta đang sa sút?
60. Phương cách chống trả cám dỗ của ma quỷ
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu như một Mô-sê Mới, lãnh đạo một cuộc Xuất Hành Mới. Người còn là hiện thân của dân Ít-ra-en Mới vào sa mạc để sống lại kinh nghiệm của dân Ít-ra-en xưa trong sa mạc và trên núi Xi-nai (x Đnl 8,2-4). Có điều khác với Ít-ra-en xưa đã vấp ngã trước cám dỗ của ma quỷ khi trải qua sự đói khát, kiêu ngạo và tôn thờ tà thần, Đức Giêsu đã qua các cơn thử thách cám dỗ mà vẫn trung thành với sứ mạng của mình. Người muốn nêu gương cho chúng ta hôm nay về phương cách chống trả các cơn cám dỗ thế nào.
CHÚ THÍCH:
- C 1-4: + Được Thần Khí dẫn vào hoang địa: Thần khí đã ngự xuống trên Đức Giêsu, giờ đây lại hướng dẫn Người vào nơi hoang vắng, có lẽ là một hang núi gần thành Giê-ri-cô. + Để chịu quỷ cám dỗ: Cám dỗ đồng nghĩa với sự thử thách do ma quỷ thực hiện. Khi bị cám dỗ mà chiều theo thì mới phạm tội. Còn nếu bị cám dỗ mà chống trả được thì lại có công. Đức Giêsu cũng trải qua sự thử thách, nghĩa là phải lựa chọn giữa tốt và xấu. Thần Khí đã đặt Đức Giêsu vào một hoàn cảnh để Người tự khẳng định lập trường và chứng tỏ là Con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Chúa Cha. + Bốn mươi đêm ngày: Cũng như Mô-sê trước khi nhận hai bia đá Giao ước, đã lên núi bốn mươi ngày đêm, ăn chay cầu nguyện (x. Đnl 9,9), và sau đó lại ăn chay thêm bốn mươi ngày đêm để nài xin Đức Chúa nguôi giận mà tha tội cho dân Ít-ra-en đã vi phạm Giao ước khi đúc tượng bê vàng mà thờ lạy (x. Đnl 9,18). Ngoài ra con số bốn mươi trong Thánh Kinh nhằm để ám chỉ một thời gian khá dài như: lụt đại hồng thủy suốt bốn mươi ngày đêm, dân Ít-ra-en đi trong hoang địa bốn mươi năm, Vua Đa-vít cai trị bốn mươi năm, bốn mươi ngày giữa lễ Phục Sinh và lễ Thăng Thiên… Sở dĩ Đức Giêsu có thể ăn chay nhịn đói suốt bốn mươi ngày đêm là nhờ ơn Chúa nâng đỡ. + Nếu ông là Con Thiên Chúa: Tước hiệu này thuộc nội dung các lời hứa về Đấng Mê-si-a con vua Đa-vít (x. Tv 2,7; 89,27). Ngoài ra tước hiệu này nới Đức Giêsu còn mang ý nghĩa về Thần tính của Người. + Hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi: Ma quỷ xúi giục Đức Giêsu hãy biến các viên đá cuội thành bánh mì mà ăn. Chúng hy vọng có thể do bị đói khát, Người sẽ quên vai trò Đấng Mê-si-a để làm theo ý riêng hơn là vâng theo thánh ý Thiên Chúa. + Đã có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh…”: Đây là lời trong Sách Đệ Nhị Luật (8,3) mà Đức Giêsu đã chọn để sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa, nhờ đó Người đã chiến thắng cơn cám dỗ của ma quỷ. Sau này Người cũng nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
- C 5-7: + “Hãy gieo mình xuống đi”: Ma quỷ xúi Đức Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa khi gieo mình từ trên cao rơi xuống để buộc Thiên Chúa phải ra tay làm phép lạ cứu cho khỏi chết. + Có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn…”: Ma quỷ đã nêu ra câu Thánh Vịnh này theo nghĩa đen (Tv 91,11-12). + Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách…”: Đây là câu lời Chúa trong sách Đệ nhị luật: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa” (Đnl 6,16). Trái với dân Ít-ra-en xưa đã đòi Đức Chúa phải làm dấu lạ để chứng minh quyền năng của Ngài, còn Đức Giêsu hoàn toàn tin cậy và không thử thách quyền năng của Chúa Cha bằng việc đòi Ngài phải làm dấu lạ bề ngoài (x. Ga 6,30-33).
- C 8-11: + Đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian…: Câu này nhắc lại sự kiện xưa kia Mô-sê lên núi Nê-bô và đã được Đức Chúa cho nhìn thấy tất cả Miền Đất Hứa (x. Đnl 31,1-4). Nay ma quỷ cũng tác động làm cho Đức Giêsu tưởng tượng ra mình đang ở trên núi và nhìn thấy những của cải châu báu để cám dỗ Người hãy thờ lạy nó như chúa tể để được nó ban cho của cải trần gian. + Xa-tan kia, xéo đi!: Xa-tan nghĩa là “tên cám dỗ”. Sau này Đức Giêsu cũng xua đuổi Phê-rô giống như thế khi ông cám dỗ Người đừng chấp nhận con đường thập giá theo ý Chúa Cha (x. Mt 16,23). + Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi: Đây là câu trích trong sách Đệ nhị luật (6,4.13), cho thấy chỉ duy có một Thiên Chúa độc nhất mà mọi người đều phải tôn thờ phụng sự Ngài.
HỎI ĐÁP:
1) HỎI: Cám dỗ là gì? Bị cám dỗ thì đã phạm tội chưa? Ta cần làm gì để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt mình?
ĐÁP: - Cám dỗ là việc ma quỷ xúi giục một người phạm tội chống lại Thiên Chúa khi cố tình không vâng lời Chúa dạy để vi phạm các giới răn Ngài truyền.
- Mỗi cơn cám dỗ thường có ba giai đoạn: Một là ma quỷ gợi lên một hình ảnh, một tư tưởng xấu trong tâm trí người ta. Hai là ma quỷ xúi người ta thỏa mãn đam mê dục vọng ấy bằng sự ưng thuận. Ba là sự chọn lựa tự do: nếu chiều theo ma quỷ tức là phạm tội và làm Chúa buồn. Còn nếu từ chối không nghe theo ma quỷ, họ sẽ được Chúa chúc phúc và sẽ làm cho Chúa vui.
- Để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ, chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu: Năng hãm mình và ăn chay để tập làm chủ bản năng của mình, siêng năng học sống Lời Chúa, vì Lời Chúa sắc bén như thanh gươm hai lưỡi có thể chiến đấu với ma quỷ như Đức Giêsu đã nêu gương (x. Mt 4,4.7.10), năng cầu xin ơn Chúa ban ơn trợ giúp và luôn làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần như Đức Giêsu đã luôn theo sự hướng dãn của Thần Khí (x.Mt 4,1).
2) HỎI: Đức Giêsu bị ma quỷ cám dỗ trong tâm trí hay trong thực tế?
ĐÁP: Việc quỷ đặt Đức Giêsu lên nóc Đền thờ, đem Người lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người xem tất cả vinh hoa lợi lộc của các nước trên thế gian… cho thấy Đức Giêsu có bị ma quỷ cám dỗ, nhưng chúng chỉ cám dỗ Người trong tâm trí, chứ không thực sự đem Người từ nơi này đến nơi kia.
3) HỎI: Đức Giêsu trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ nhằm mục đích gì?
ĐÁP: Sau khi chịu phép Rửa của Gio-an và được Thần Khí hiện xuống xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Đấng Ki-tô, Đức Giêsu đã được Thần Khí dẫn vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày và chịu ma quỷ cám dỗ. Sở dĩ Người chịu ma quỷ cám dỗ là nhằm ba mục đích như sau:
- Một là để trải qua những sự thử thách của nguyên tổ A-đam E-và xưa trong vườn địa đàng (x St 3,1-24), và của dân Ít-ra-en trong cuộc Xuất Hành (Đnl 8,2-4). Vì Người là A-đam Mới và là Ít-ra-en Mới của Thiên Chúa trong thời Tân Ước (x Rm 5,18-19).
- Hai là để nêu gương ăn chay cầu nguyện cho các tín hữu, nhờ đó chúng ta sẽ làm chủ được bản thân và sẽ dễ dàng chiến thắng ma quỷ cám dỗ chúng ta hưởng thụ các lạc thú bất chính (x Mt 17,21; Mc 9,29)..
- Ba là để nêu gương vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí hay Chúa Thánh Thần: Nếu chúng ta biết nghe theo sự hướng dẫn của Thần Khí qua việc siêng năng học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ luôn vâng lời Chúa phán hơn là nghe theo ma quỷ để làm theo ý mình, như Đức Giêsu có lần đã quở trách ông Si-mon Phê-rô (x Mt 16,21-23).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giêsu liền nói: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10).
2. CÂU CHUYỆN: Tam thập lục kế: đào vi thượng sách
Ở núi Phong Khê đất Thục có một giống đười ươi có bộ mặt giống như người. Chúng biết nói cười và máu của chúng được người ta dùng làm thuốc nhuộm quần áo rất tốt, nên các thợ săn thường tổ chức săn bắt chúng. Biết được loài đười ươi này thích uống rượu và đi guốc, thợ săn đã đem rượu và guốc đến bày la liệt trên một cánh đồng trống để nhử chúng, rồi ẩn núp ở nơi kín đáo chờ đợi. Dù sống sâu trong rừng, nhưng loài đười ươi lại có khứu giác rất nhậy nên chúng đã ngửi thấy mùi rượu thơm liền kéo nhau tìm đến cánh đồng uống rượu. Tuy các con già đời đoán biết đó là bẫy của bọn thợ săn, nên đã nhắc nhở cho cả bầy rằng: “Hãy cảnh giác, đừng khờ dại uống rượu đi guốc kẻo bị mắc mưu của bọn người độc ác kia đó”. Cả bầy nghe vậy liền buồn bã bỏ đi. Nhưng rồi một con bị mùi rượu thơm hấp dẫn không thể cưỡng lại, liền tỏ ra bất chấp lời khuyên khôn ngoan kia và rủ đồng bọn quay trở lại. Rồi “quen mui thấy mùi ăn mãi”, chúng tranh giành nhau chí choé nốc cạn hết bầu rượu này đến bầu rượu khác. Đến lượt các con già cả khôn ngoan tuy biết là nguy hiểm, nhưng không thể cưỡng được sự hấp dẫn của rượu, cũng lao vào uống no say. Sau đó chúng xỏ chân vào guốc bên cạnh bước tới bước lui ngả nghiêng trông thật tức cười. Bấy giờ bọn thợ săn liền hò nhau từ chỗ ẩn nấp, nhất tề xông đến vây bắt. Thấy bọn thợ săn, bầy đười ươi đáng thương liền bỏ chạy tán loạn. Nhưng chân đi guốc không quen, bị té nhào vào nhau và bị bọn thợ săn bắt gọn không sót một con.
Than ôi! Biết rõ người ta đặt bẫy hại mình, mà vẫn lao vào ăn uống đến nỗi tất cả đều bị mất mạng thì thật ngu dại hết sức! Đối với nhiều người hôm nay thì rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích sì-ke ma túy… là những thứ làm mất nhân tính, biến mình trở thành những kẻ bất lương trộm cướp giết người, rồi còn có thể bị lây nhiễm HIV-AIDS. Thế mà vẫn có không ít người nhắm mắt lao mình vào những đam mê chết người đó thì không phải khờ dại lắm sao?
Đối với các cơn cám dỗ về đam mê sắc dục và ma túy, thì đừng bao giờ nghĩ rằng mình có đủ bản lãnh để chống trả lại được, và cần phải theo lời cổ nhân dạy: “Tam thập lục kế: Đào vi thượng sách” (Ba mươi sáu phương thế thì chạy trốn là phương thế hay nhất). Đừng bao giờ thử hút chích sì ke ma túy, thử đi bia ôm, thử đánh số đề một lần… Vì nếu thử dù chỉ một lần mà thôi thì đã bắt đầu trở thành con nghiện và là người xấu thuộc về ma quỷ rồi vậy!
3. SUY NIỆM:
Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng: Chiến đấu với thiên nhiên để tồn tại, chiến đấu với kẻ thù để khỏi bị tiêu diệt, chiến đấu với xác thịt để trở nên người tốt. Hôm nay Giáo Hội còn dạy chúng ta phải chiến đấu với một loại kẻ thù vô hình nguy hiểm là ma quỷ. Chính Đức Giêsu đã chiến đấu và chiến thắng ma quỷ để nêu gương cho chúng ta. Vậy ngày nay ma quỷ thường cám dỗ chúng ta về những vấn đề gì? Và chúng ta phải làm gì để chiến thắng nó?
1) Cám dỗ xưa và nay: Cũng như xưa, ngày nay ma quỷ thường cám dỗ chúng ta về ba phương diện như sau:
+ Một là về THÚ VUI: Ma quỷ xúi Đức Giêsu biến các viên đá cuội trở thành bánh mì mà ăn, tức là dùng quyền năng Thiên Chúa để thỏa mãn các nhu cầu vật chất thể xác, giống như dân Ít-ra-en trong hoang địa ngày xưa đã kêu trách Đức Chúa và Mô-sê khi họ bị đói khát và thèm thịt thà và các thứ rau thơm mà họ đã từng ăn khi còn ở Ai cập (x. Xh 16,3). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta tìm thỏa mãn các đam mê xác thịt bất chính như ăn chơi sa đọa, rượu chè say xỉn, chơi cờ bạc số đề và hút chích sì-ke ma túy…
+ Hai là về DANH VỌNG: Ma quỷ xúi Đức Giêsu nhảy từ nóc Đền thờ xuống để được người đời khen ngợi và để thử thách đòi Thiên Chúa phải chứng tỏ quyền năng bằng việc ra tay làm phép lạ cứu ngài thóat chết (x. Lc 23,35). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta thử thách quyền năng Thiên Chúa khi đòi Ngià làm phép lạ trái với định luật tự nhiên do Ngài an bài chung trong vũ trụ thiên nhiên để chiều theo sở thích cá nhân riêng tư của chúng ta!
+ Ba là QUYỀN LỢI: Ma quỷ xúi Đức Giêsu sấp mình thờ lạy nó để được nó ban cho quyền hành trên muôn nước và được hưởng các thứ lợi lộc giàu sang (x. Xh 32,6). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta chối bỏ Thiên Chúa và tôn thờ sức mạnh của tiền tài, chọn làm những việc bất chính miễn là có nhiều tiền như: buôn bán sì ke ma túy, mở quán bia ôm, cà phê tươi mát, tin theo thầy bói, đồng bóng, cầu cơ, buôn lậu, tham nhũng, sản xuất hàng nhái…
2) Phương thế để chiến thắng ma quỷ cám dỗ:
Đức Giêsu đã chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ bằng các phương thế như sau:
+ ĂN CHAY CẦU NGUYỆN: Người đã vào hoang địa ăn chay cầu nguyện suốt 40 đêm ngày. Ma quỷ đã đánh thẳng vào điểm yếu của Đức Giêsu là tình trạng bị đói để xúi Người biến đá thành bánh ăn. Nhưng nhờ nội lực mạnh mẽ do ăn chay cầu nguyện, mà Người đã chiến thắng ma quỷ. Sau này Người cũng dạy các môn đệ phải dùng phương thế chay tịnh cầu nguyện như sau: “Giống quỷ ấy chỉ trừ khử được bằng lời cầu nguyện thôi” (Mc 9,29).
+ HỌC SỐNG LỜI CHÚA: Để đáp lại sự trích dẫn Lời Chúa của ma quỷ, Đức Giêsu cũng dùng Lời Thánh Kinh để bắt chúng phải câm miệng. Lời Chúa chính là ánh sáng chỉ đường và là nguyên tắc ứng xử của Đức Giêsu. Chẳng hạn: Đáp lại lời xúi biến đá thành bánh, Đức Giêsu nêu cao Lời Chúa trong Sách Thánh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8,3). Đáp lại cám dỗ thờ lạy ma quỷ để được hưởng quyền hành lợi lộc của nó, Đức Giêsu nêu ra Lời Chúa trong Sách Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và thờ phượng một mình Người mà thôi” (x. Đnl 6,13). Đáp lại cám dỗ gieo mình từ nóc Đền thờ xuống, Đức Giêsu đưa ra Lời dạy của Chúa trong Sách Thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x. Đnl 6,16).
3) ÁP DỤNG CỤ THỂ:
a) Bị thử thách cám dỗ là thân phận của con người: Đức Giêsu tuy là Con Thiên Chúa nhưng Tin Mừng cho thấy Người cũng đã trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ. Người chịu cám dỗ để nêu gương chiến đấu và chiến thắng các chước cám dỗ của ma quỷ cho loài người chúng ta học tập noi theo. Qua việc bị ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu cho thấy Người cũng là một con người giống như chúng ta mọi đàng nên sẽ thông cảm với sự yếu đuối cũng như tội lỗi của chúng ta như tác giả thư Do thái đã viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Tuy nhiên dù bị cám dỗ như ta, nhưng Người đã chiến thắng ma quỷ cám dỗ để nêu gương sáng cho chúng ta.
b) Phân biệt giữa cám dỗ và phạm tội
Thực ra cám dỗ không nhất thiết là điều xấu, và có thể lại còn cần thiết nữa. Thật vậy, bị ma quỷ cám dỗ chính là dịp để chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân và chứng tỏ sự vâng phục của ta. Vì loài người chúng ta không thể chứng tỏ lòng yêu mến, vâng phục nếu không bị thử thách, nghĩa là chưa có cơ hội để có thể không vâng lời và không yêu mến như lời Thánh Kinh: “Lửa thử vàng, gian nan thử người công chính” (Cn 17,3).
Đối với người bình thường thì hay gặp cám dỗ chọn lựa giữa hai điều tốt xấu, qua đó sẽ chứng tỏ họ thuộc loại người nào. Còn đối với những người ở trình độ cao hơn, thì cám dỗ là sự lựa chọn giữa hai điều đều tốt, và họ phải chọn điều nào tốt hơn, để chứng tỏ quyết tâm lên bậc thánh thiện hơn. Thiên Chúa cũng muốn ta chứng tỏ rằng ta coi tình yêu của Ngài giá trị hơn nhà cửa, ruộng vườn, của cải, thậm chí hơn cả tình cảm anh em, cha mẹ, vợ con của ta, bằng cách cho ta có dịp chọn giữa Ngài và những giá trị ấy.
3. Chọn điều nào khi bị cám dỗ giữa hai điều tốt:
a. Ứng với cám dỗ thứ nhất của Đức Giêsu là nhu cầu sự sống: Chẳng hạn giữa tình yêu Thiên Chúa và mạng sống của mình, các thánh tử đạo đã chọn tin yêu Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận chịu chết. Trong cuộc đấu tranh cho công lý, mục sư Martin Luther King đã coi công lý, tình yêu đối với người bị áp bức hơn sự an toàn và mạng sống. Cuối cùng ông đã chết và được cả thế giới ngưỡng mộ tôn vinh. Những người nói trên đã chọn về phía đấu tranh cho công lý và tình thương những kẻ bị áp bức. Ngược lại, nếu vì muốn được an toàn, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang có mà chọn im lặng trước sai trái bất công, đồng nghĩa với sự lõa với điều xấu là chúng ta đã chịu khuất phục trước sự cám dỗ của quỷ dữ.
b. Ứng với cám dỗ thứ hai của của Đức Giêsu là nhu cầu muốn được nổi danh: Thực ra chuộng danh thơm tiếng tốt để gia tăng uy tín và là người có sĩ diện... đều là những giá trị cao quí, như Nguyễn công Trứ đã viết: ”Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Nhưng vẫn có những giá trị cao hơn công danh, uy tín nói trên... Đó là những giá trị về tâm linh. Nếu để được thăng tiến bản thân mà “thượng đội hạ đạp” là ta đã coi những giá trị tự nhiên cao hơn giá trị tâm linh. Tội lỗi phát sinh từ sự lựa chọn không chính đáng ấy.
c. Ứng với cám dỗ thứ ba của Đức Giêsu là nhu cầu quyền lực, muốn mọi sự xảy ra theo ý của mình: Trong xã hội, cũng cần phải có chính quyền như lời thánh Phao-lô. Nếu tranh giành quyền lực bằng phương thế chính đáng để có thể phục vụ lợi ích xã hội thì là điều đáng khuyến khích. Nhưng nếu tranh giành quyền hành vì vụ lợi ích kỷ thì lại không tốt, như ông kinh sư đã phát biểu hợp ý Đức Giêsu: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ “ (Mc 12,33). cám dỗ chính là dịp để chứng tỏ lòng “mến Chúa yêu người” của các tín hữu chúng ta.
4. Phương cách chống trả cơn cám dỗ: Ngày nay khi bị cám dỗ, chúng ta cần chống trả bằng những phương cách như sau:
+ “Đào vi thượng sách”: Tránh tò mò truy cập các trang phim ảnh xấu trên mạng internet
+ Tránh ở không: Chăm chỉ làm việc bổn phận và tránh ở không, vì "Sự lười biếng là cha của mọi thói hư tật xấu".
+ Năng đọc kinh Lạy Cha để cầu xin Chúa: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
+ Xin ơn Chúa Trợ giúp khi bị cám dỗ: Làm dấu thánh giá và kêu cầu ơn Chúa như thánh Phê-rô xưa: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (x. Mt 14,30-32); Dứt khoát xua đuổi ma quỷ noi gương Đức Giêsu: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi!” (Mt 4,10).
+ Chọn một việc hợp sở thích như đọc sách, xem phim truyền hình, đi bơi lội hay chơi một môn thể thao lành mạnh, thăm bạn bè, tham gia hội đoàn Công giáo Tiến hành để cùng “hiệp sông Tin Mừng” hằng tuần và chu toàn công tác tông đồ truyền giáo được cấp trên trao phó.
4. THẢO LUẬN: Bạn nên chọn ơPhương thế nào hiệu quả và dễ áp dụng nhất trong các phương thế trên để chiến thắng ma quỷ cám dỗ trong Mùa chay này?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay con rất cảm phục thái độ cương quyết không khoan nhượng của Chúa khi đương đầu với ma quỷ cám dỗ. Chính nhờ ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, mà Chúa đã được gia tăng nội lực tinh thần. Chính nhờ luôn vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí, mà Chúa đã luôn chọn làm theo thánh ý Chúa Cha và cương quyết xua đuổi ma quỷ cám dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!”.
- Lạy Chúa. xin giúp con biết nghe theo lời khuyên của thánh Phê-rô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5,6-9). Nhờ đó, con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo, luôn làm đẹp lòng Chúa Cha, noi gương Chúa khi xưa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
61. Hãy cảnh giác trước cám dỗ
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Chúng ta đã cùng với toàn thể Giáo Hội bước vào Mùa Chay Thánh hôm thứ Tư lễ Tro vừa qua. Khởi đầu Mùa Chay Thánh với việc xức tro. Cử chỉ bỏ chút tro lên đầu và vị chủ sự mời gọi: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”, Giáo Hội muốn mời gọi con cái của mình khiêm tốn và ý thức thân phận con người chẳng là gì cả, chỉ là bụi tro mà thôi.
Hôm nay, với Chúa Nhật I Mùa Chay, bài Tin Mừng thánh Mátthêu trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và sau đó bị Ma Quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng.
Qua đó, Giáo Hội muốn nhắc cho con cái của mình là: hãy sám hối để bắt đầu bước vào hành trình tập luyện và chiến đấu thiêng liêng. Trong hành trình ấy, mẫu gương của Đức Giêsu trong sa mạc hôm nay được hiện lên như một động lực, điểm tựa cho mỗi chúng ta.
1. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu
Khi đón nhận thánh ý Thiên Chúa Cha qua việc vâng lời tuyệt đối khi nhập thể và nhập thế, Đức Giêsu đã trở nên Cứu Chúa của nhân loại. Vì thế, khởi đầu cuộc sống công khai, Ngài đã vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, để tìm thánh ý Thiên Chúa Cha, hầu chu toàn ý định của Người. Sau khi chay tịnh, Đức Giêsu cảm thấy đói, vì thế, nhân cơ hội này, Ma Quỷ đã tiến đến và cám dỗ Ngài.
Cám dỗ đầu tiên mà Ma Quỷ tấn công Đức Giêsu chính là cám dỗ về của ăn nuôi thân. Lợi dụng lúc Đức Giêsu đói, Ma Quỷ đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một này, nên hắn đã tiến lại gần và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!" (Mt 4, 3). Ma Quỷ thật tinh vi, nhưng Đức Giêsu đã không bị những thứ lương thực chóng tàn, mau hết làm cho Ngài sa ngã, vì thế, Ngài đã chiến thắng ngay từ cơn cám dỗ đầu tiên khi nói cho chúng biết lương thực của Ngài chính là làm theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài nói: “Đã có lời chép rằng: ‘Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra’" (Mt 4,4).
Cơn cám dỗ thứ hai mà Ma Quỷ muốn tấn công chính là đề nghị Đức Giêsu sử dụng quyền lực. Vì thế, nó đã nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: ‘Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá’" (Mt 4,6).
Tuy nhiên, Ma Quỷ đã lầm khi tưởng rằng Đức Giêsu sẽ sử dụng quyền lực theo kiểu thế gian, để trổ tài theo ý của nó bằng những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục. Nhưng lại thêm một lần nữa chúng thất bại và chịu tác dụng ngược lại khi Đức Giêsu cho chúng biết rằng: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" (Mt 4, 7). Khi cám dỗ Đức Giêsu như thế, Ma Quỷ nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ mắc bẫy để sử dụng ý riêng của Ngài thay cho thánh ý Thiên Chúa Cha. Nhưng không! Đức Giêsu đã đi theo con đường khiêm tốn mà Chúa Cha muốn nơi Ngài.
Thất thế lần hai, Ma Quỷ vẫn chưa chịu thua, chúng tấn công lần thứ ba. Lần này chúng nhắm tới danh vọng. Ma Quỷ đã nịnh hót Đức Giêsu, và “đem Người lên một ngọn núi cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: ‘Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi’" (Mt 4, 8-9). Nhưng lần cuối cùng này chúng vẫn thất bại và chịu sự quở trách nặng nề của Đức Giêsu, đồng thời Ngài cũng xác định danh giới của chúng khi nói: "Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: ‘Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi’" (Mt 4, 10).
Qua câu nói này, Đức Giêsu khẳng định thật rõ Ngài là Con Thiên Chúa, nên chỉ có bổn phận phục quyền và tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Như vậy, cả ba lần cám dỗ, chúng đều lãnh nhận những thất bại. Nếu chúng tập trung vào: thú, lợi, danh, để hy vọng hạ gục được Đức Giêsu, để Ngài phải phục quyền chúng, và nhất là nó muốn phá vỡ chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, ý định đó đã không thành, vì Đức Giêsu đã lựa chọn con đường Thiên Chúa Cha muốn, đó là con đường tự hủy nhờ đức vâng lời.
2. Ma quỷ cám dỗ chúng ta
Cơm, áo, gạo, tiền, vinh hoa, phú quý, quyền cao, chức trọng luôn gắn liền với thực tại của con người. Con người luôn hướng chiều về những điều đó vì mục đích sinh tồn của bản năng nơi loài thụ tạo. Vì thế, người ta chấp nhận và làm mọi cách để đạt được những mục đích trên.
Ma Quỷ là loài tinh quái, xảo quyệt. Nó đánh trúng tim đen của con người. Nó biết rất rõ nhu cầu và điểm yếu của chúng ta. Thực vậy, những nhu cầu như ăn uống, danh vọng, địa vị, chức quyền và sau cùng là tự phụ, khoe khoang, kiêu ngạo luôn theo sát mỗi người từ lúc sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay.
Cái quỷ quyệt của chúng là đưa ra những chiêu thức rất hấp dẫn, toàn là màu hồng để quyến rũ con người. Nhưng thực ra, những điều mà chúng cám dỗ ta chỉ là nửa sự thật mà thôi, chứ không phải sự thật tuyệt đối. Một khi con người sa lầy trước cám dỗ của nó, con người mới ngỡ ra là nó đã đưa mình vào những ảo vọng hão huyền.
Cách thức của chúng dùng chính là qua một trung gian, một cơ hội hay một sự vật:
Qua trung gian là con người, chúng tìm cách để người nào đó rủ rê dần dần ta phạm tội. Lúc ban đầu chỉ là những chuyện lặt vặt, nhỏ bé hằng ngày. Tuy nhiên, dần dà lâu ngày thành quen. Tội nhẹ, rồi dẫn đến tội trọng. Nay ăn cắp quả ổi là chuyện bình thường; ngày mai ăn chộm con gà cũng chẳng sao; ngày mốt lấy con trâu, rồi cuối cùng giết người cướp của.
Từ chuyện rất nhỏ, nhưng nó làm cho con người trai lỳ lương tâm và mất dần cảm thức về tội, nên chúng ta không lạ gì khi thấy nhiều người cứ nhởn nhơ trong vũng lầy tội lỗi mà vẫn tự hào mình là người tốt. Những người như thế, thường tìm mọi cách để ngụy biện cho hành vi sai trái của mình. Họ dùng những phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Họ sẵn sàng làm từ thiện để che lấp những tội ác như tham nhũng, bóc lột và buôn gian, bán lậu. Hay nói cách khác, họ dùng hình thức rửa tiền để che đậy những việc làm mờ ám của mình.
Thật vậy, là con người, ai cũng muốn có cơm no, áo ấm, rồi dần dần dẫn đến tình trạng ăn ngon mặc đẹp, tiếp theo chính là thỏa mãn xác thịt, ăn chơi trác táng và cứ như thế, chẳng mấy mà dẫn đến “Cực lạc sinh bi ai?”. Đây chính là cơn cám dỗ đầu tiên mà Ma Quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu.
Cơm cám dỗ thứ hai mà trước kia Ma Quỷ cám dỗ Đức Giêsu, thì ngày nay, nó cũng không buông tha chúng ta. Thật vậy, nó tấn công chúng ta về quền lực, vinh quang, phú quý để làm cho ta ra mê muội và tìm mọi cách để đạt được những điều ta muốn dù là bất chính.
Cám dỗ cuối cùng mà nó tấn công Đức Giêsu là tham lam, danh vọng. Ngày nay, nó vẫn thường cám dỗ chúng ta như thế. Nó đánh đúng sào huyệt tham sân si của con người, rồi sau đó, con người phải tôn thờ nó. Xin nhắc rằng, Ma Quỷ nó làm được nhiều thứ để cám dỗ con người, nhưng chỉ có một điều mà nó không làm được, đó là không cho con người được hạnh phúc thật và sự sống đời đời mà thôi.
Như vậy, Ma Quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu về 3 điểm, đó là: thú, lợi, danh. Đến lượt chúng ta, nó cũng không ngừng tấn công chúng ta về những điểm trên.
Nhưng, như Đức Giêsu đã chiến thẳng, còn chúng ta ngày nay thì sao? Mỗi khi đứng trước cám dỗ, chúng ta phải làm gì?
3. Khi bị cám dỗ, ta phải làm gì?
Mỗi khi cám dỗ đến với chúng ta, xin hãy nhớ lại lời Đức Giêsu cảnh báo để thêm sự cẩn trọng, hầu không vì kiêu ngạo mà mắc vào cạm bẫy của chúng: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ" (Mt 26, 41). Hay Đức Giêsu nói với Phêrô về sự nguy hiểm của chúng: "Simon, Simon ơi, kìa Xatan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Và khi thánh Phêrô đã cảm nghiệm rõ nguy hiểm của Ma Quỷ, nên ngài đã cất lên lời khuyên nhủ: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma Quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tiìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).
Nhiều người quá coi thường chúng nên dần đi vào con đường mà chúng vạch ra cho lúc nào không hay.
Thật vậy, có nhiều người vì ích kỷ, nên sinh ra cố chấp với anh chị em trong cộng đoàn, rồi kết cục bỏ Chúa và không tham gia sinh hoạt đoàn thể vì tính kiêu ngạo của mình. Những người như vậy, họ theo đạo vì ông này bà nọ, chứ không phải vì Chúa. Bởi vậy, khi họ có chuyện khúc mắc với anh chị em thì họ bỏ luôn Chúa, vì đâu biết rằng những người kia, họ chỉ là phương tiện, là cầu nối để ta gặp được Chúa, chứ không phải họ là Chúa. Đây là cách mà Ma Quỷ thường hay tấn công vào những người thiếu sự khiêm tốn, cố chấp.
Lại có những người luôn nghĩ mình là tốt lành, thánh thiện, nên không sợ gì sa ngã vào con đường tội lỗi, vì thế, họ không ngần ngại khi được bạn bè rủ rê đi vào chốn ăn chơi trụy lạc vì nghĩ rằng: tướng Quỷ cũng không bao giờ quyến rũ được mình. Tuy nhiên, biết bao người đã trở thành nô lệ của chúng chỉ sau vài cuộc ăn chơi. Riết thành quen, không đi thấy nhớ. Hay cũng có những người nghĩ rằng mình cũng cần phải thâm nhập thực tế để cứu giúp những người tội lỗi ra khỏi cuộc sống bê bối của họ, nhân danh việc tốt để dẫn đưa anh chị em thoát khỏi vòng tội lỗi, tuy nhiên, cũng lại không ít người đã thay đổi vai trò. Từ người cứu giúp chuyển dần sang thành người đi theo và cùng nhau phạm tội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chúng ta coi thường mối nguy hiểm của công việc và coi thường sự sự khôn ngoan, tinh xảo của Ma Quỷ.
Thấy được sự nguy hiểm này, nên Đức Giêsu mới dạy các môn đệ cầu nguyện trong kinh Lạy Cha: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và trong kinh Ăn Năn Tội cũng có câu: “Nhờ ơn Chúa thì con sẽ tránh xa dịp tội”. Trong dân gian, trải qua cuộc sống, người ta đúc kết thành kinh nghiệm và khuyên: nếu lượng sức mà không vượt qua được thì hãy “đào vi thượng sách”.
Thực vậy, sức con người thì giới hạn, vì thế, không thể nào chống trả được những cơn cám dỗ. Nếu muốn chiến thắng, chúng ta phải cậy dựa vào ơn Chúa. Nói như thánh Phaolô: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4,13).
Khi chúng ta cậy dựa vào ơn Chúa và đi theo con đường của Chúa, chúng ta dùng chính võ khí của Đức Giêsu để chiến đấu. Võ khí đó là gì? Thưa! Đó là sự khiêm tốn và vâng lời, đơn sơ, chân thật. Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa là tồn tại, vì thế, phải cẩn trọng trong việc lựa chọn trước những trào lưu tục hóa như ngày nay. Đứng trước sự lựa chọn, thánh Phaolô đã cho chúng ta một kiểu mẫu: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi truyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô” (Pl 3, 8). Ăn chay, cầu nguyện và bố thí chính là xác định thật rõ về sự giới hạn của chúng ta với Đấng Tuyệt Đối. Ăn chay để hãm dẹp nết xấu và ý thức được thân phận mong manh của mình. Cầu nguyện chính là xin Chúa trợ giúp và cùng đồng hành với chúng ta để chúng ta chiến đấu chống lại Ba Thù. Bố thí chính là vượt ra khỏi sự ích kỷ vốn là mầm mống của tội lỗi, để sống hiệp thông, liên đới với anh chị em.
Lạy Chúa Giêsu, xưa kia Chúa đã chiến đấu và chiến thắng Ma Quỷ. Giờ đây, xin giúp chúng con chiến thắng được Ba Thù, để thuộc trọn về Chúa như Chúa thuộc trọn về Thiên Chúa Cha. Amen.
62. Tôi đi tìm tôi – Như Hạ
Giữa những thách đố, con người vẫn cố sức vươn lên. Vươn lên như Đức Giêsu trong hoang địa sau khi chiến thắng những thách đố lớn lao trong thân phận con người.
SÓNG GIÓ.
Trần gian là một hành trình đi tìm cái tôi. Cái tôi ích kỷ hay đầy bản lãnh. Bản lãnh đó chỉ được xác định sau những thách đố hay sóng gió cuộc đời. Chỉ cần so sánh một chút giữa Eva và Đức Giêsu sẽ thấy ngay khác biệt lớn lao giữa hai cái tôi đó.
Evà được "Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật." (St 2:7). Bà muốn sống độc lập với Thiên Chúa, muốn dành quyền qui định luật luân lý của Thiên Chúa. Vì muốn "được tinh khôn" (St 3:6) như Thiên Chúa, bà đã nghe theo lời con rắn, giơ tay "hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn." (St 3:6) Ông bà tưởng mình trở thành "vị thần biết điều thiện điều ác." (St 3:5) Nhưng thực tế "họ thấy mình trần truồng" (St 3:7) như con vật. Vỡ mộng. Trắng tay. Đúng như lời Chúa nói: "Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất." (Mc 8:35; Lc 9:24; Mt 10:39; Ga 12:25) Ông bà đánh mất chính mình ngay khi muốn xác định chính mình là ai. Từ sự mất mát đó, "tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết." (Rm 5:12)
Trái lại, Đức Giêsu đã hoàn toàn tìm thấy cái tôi của mình ngay khi đành mất chính mình. Người không tìm cách xác định thế đứng độc lập với Thiên Chúa Cha. Nhưng Người muốn cho mọi người thấy chỉ có thể tìm được chính mình trong Thiên Chúa mà thôi. Qua ba cơn cám dỗ, Đức Giêsu mạc khải bản lãnh vô cùng vững chắc của mình trong vũ trụ. Thật vậy, sau khi "ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, Người thấy đói" (Mt 4:2) Quỉ liền tấn công vào điểm yếu nhất của con người Chúa lúc đó. Ai chẳng nghĩ, "có thực mới vực được đạo." Nhưng thật bất ngờ. Trong cơn đói cồn cào, Người vẫn khẳng khái: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4:4) Còn hơn cơm bánh, lời Chúa là nguồn sống của cả vũ trụ, vì "nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành." (Ga 1:3). Muốn hay không, con người phải hoàn toàn lệ thuộc vào ý Chúa.
Chính vì thế, có lần Người đã tâm sự với các môn đệ: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy." (Ga 4:34) Nhờ xác định được nguồn sống đích thực như thế, Đức Giêsu đã đem lại sự sống phong phú cho toàn thể nhân loại. Thực vậy, "nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính." (Rm 5:19) Khác hẳn với nguyên tổ, Đức Giêsu đã vâng lời Thiên Chúa Cha tuyệt đối. Sự lệ thuộc đó đã không đánh mất tính cách độc lập. Trái lại, Đức Giêsu đã xác định được vị thế mình một cách vững chắc hơn. Người không chiều theo những nịnh bợ rẻ tiền để biểu dương quyền năng một cách lố bịch. Trước những lời nịnh hót: "Nếu ông là con Thiên Chúa …", Đức Giêsu đã khẳng khái đáp: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." (Mt 4:7) Như vậy, mặc dù ý thức mình phải lệ thuộc vào nguồn sống là Thiên Chúa, Người vẫn không quên mình là Con Thiên Chúa ngang hàng với Chúa Cha.
Sau khi đã xác định vị thế siêu việt đó, Đức Giêsu mới thấy rõ hướng đi trước mặt. Nếu làm theo ý Satan, Đức Giêsu sẽ trở thành một kẻ giàu sang nhất trần gian (x.Mt 4:8-9). Nhưng Người sẽ đánh mất bản ngã và tương quan với Thiên Chúa. Người không còn là Con Thiên Chúa và trở thành kẻ phản loạn như Satan. Rất may, nhờ Thần Khí dẫn đường chỉ lối, Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ vô cùng hiểm độc này. Người đã chọn Thiên Chúa như cứu cánh duy nhất của cuộc đời. Tiếng Người mạnh mẽ vang lên: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." (Mt 4:10) Đó là hướng sống rất sáng tỏ đối với Đức Giêsu. Nhưng không phải một lần xác nhận là đủ. Thách đố đó không ngừng nổi lên trong cuộc đời.
Không vượt qua nổi cơn cám dỗ đó, con người sẽ thành mồi ngon cho những ngẫu tượng. Ngẫu tượng đó là chính cái tôi với những chiều kích cồng kềnh dị hợm. Chính khi cố gắng tôn thờ ngẫu tượng kinh tởm này, con người sẽ đánh mất căn tính. Con người sẽ mất phương hướng và hoàn toàn trống rỗng. Tâm hồn trở thành mảnh đất mầu mỡ phát sinh những tư tưởng khủng bố, dâm đãng, cướp bóc, nghiện ngập.
CƠ HỘI LỚN.
Thế giới hôm nay con người đang đẩy đồng loại vào những thảm cảnh chưa từng thấy. Thảm cảnh đó "thường là con đẻ của chủ nghĩa ích kỷ vô trách nhiệm." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) Nếu không tìm lại được con người đích thực của mình, nhân loại sẽ còn bị những ngẫu tượng hướng dẫn vào những ngõ cụt. Mất hết tương lai. Trái đất sẽ thành một nghĩa trang khổng lồ. Trước tình trạng bi đát đó, "chúng ta cảm thấy cần Thiên Chúa giúp chúng ta phục hồi niềm tin và niềm vui cho cuộc sống." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002). Thiên Chúa sẽ giúp nếu chúng ta biết vượt lên như Đức Giêsu giữa bao thách đố trong hoang địa.
Với một hình thức rất hấp dẫn, những thách đố đầy ma lực đó chỉ nhằm kéo Đức Giêsu ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Nhưng đầu hàng trước những ma lực đó, chắc chắn Đức Giêsu càng lún sâu vào con đường lệ thuộc ma quỉ và đánh mất căn tính của mình. Những thực tại vật chất là những xiềng xích bên ngoài và tính kiêu ngạo là gông cùm bên trong sẽ cột chặt cái tôi của Người trong hố diệt vong.
Nhân loại hôm nay đang quay cuồng với những cái tôi phì nộn. Con người có quá nhiều nhu cầu giả tạo đến nỗi "mọi người đều nghĩ rằng mỗi chọn lựa và hành động phải bị luật cung cầu thị trường chi phối. Họ tưởng chỉ có lợi nhuận tối đa mới là định luật tối cao. Giữa lúc đó, niềm tin Kitô lại trình bày một lý tưởng bất vụ lợi, xây dựng trên tự do đầy ý thức của cá nhân, bắt nguồn từ tình yêu chân chính," (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) tức là Thiên Chúa. Tình yêu ích kỷ không bao giờ có thể hiểu được lời Chúa: "Chúng con đã nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không." Những tính toán nhỏ nhen ích kỷ đang làm cho các tương quan hôm nay biến chất và tan rã. Làm sao tìm được cơ hội nối lại những tương quan đó?
"Mùa chay là một cơ hội Thiên Chúa quan phòng cho con người hồi tâm, vì giúp chúng ta chiêm niệm về mầu nhiệm tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta để sống hạnh phúc và qui hướng vạn vật về thiện hảo đích thực này." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) Nhận định rõ tình yêu lớn lao đó là bước đường vô cùng cần thiết nối lại tương quan nhân loại hôm nay. Nếu không có những giây phút lắng đọng tâm hồn, chúng ta không thể thấy được lòng Cha yêu thương như thế nào. Những phản kháng và phản chứng hôm nay đều phản ánh một sự vô ý thức về tình yêu Thiên Chúa. Trong thinh lặng, con người sẽ khám phá thấy "chính vì yêu thương vô bờ, Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta và đã tiền định để chúng ta hoàn toàn hiệp thông với Người. Vì thế, Thiên Chúa cũng muốn chúng ta đáp trả tình yêu Người một cách quảng đại, tự do và ý thức." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 13/02/2002) Chỉ khi nào đáp trả tình yêu như thế, tôi mới thành công trên bước đường tôi đi tìm tôi. Tình yêu đã chính là sức mạnh đẩy tôi lên tới Thiên Chúa và đến với anh em. Tôi sẽ tìm được tôi trong tương quan sung mãn đó.
63. Thử thách và lựa chọn – G. Nguyễn Cao Luật
Trình thuật về các lần cám đỗ được coi như phần mở đầu giúp người tín hữu hiểu được điều sâu kín nhất trong tâm hồn Đức Giêsu. Đó là một bản Tin Mừng thu gọn, một thứ hướng dẫn. Những ai muốn hiểu rõ về cuộc đời công khai của Đức Giêsu, cần phải để ý điều này: nếu muốn hiểu biết điều gì trong đó, hãy luôn nhớ lại 3 lựa chọn căn bản này của Đức Giêsu, những điều Người còn lựa chọn lại trong suốt cả cuộc đời.
Cuộc thử thách và lòng trung thành
Thời gian 40 đêm ngày Đức Giêsu trải qua trong sa mạc đánh dấu việc khởi đầu một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu của Giao Ước Mới. Cuộc phiêu lưu này tái hiện quãng thời gian 40 năm dân Do-thái đã trải qua trong cuộc Xuất hành, đồng thời nhắc lại 40 ngày đêm ông Mô-sê đã ở trên núi Xi-nai.
Còn hơn thế nữa, khoảng thời gian này không chỉ là một cuộc khởi đầu, nhưng còn là một cuộc sáng tạo với những yếu tố như cuộc sáng tạo vũ trụ: sa mạc (miền đất trống rỗng, hoang vu), và sự thử thách.
Trong cuộc sáng tạo, A-đam đã phải chịu thử thách, đã đứng trước một lựa chọn, trong đó ông phải bày tỏ tự do của mình. Cũng vậy, với biến cố hôm nay, với cuộc thử thách và lựa chọn trong sa mạc, Đức Giêsu đã bày tỏ tự do của mình, đã thể hiện sự gắn bó với Thiên Chúa, và cho thấy bản tính sâu xa của Người: Con Thiên Chúa và Con Loài Người.
Thực vậy, sa mạc và thử thách luôn là những cơ hội để bày tỏ lòng trung thành hay thái độ bất trung (A-đam, sự kiện con bò vàng...). Lần đầu tiên trong suốt lịch sử cứu độ, Đức Giêsu thực hiện điều mà trước đây, cả A-đam lẫn ÍT-RA-EN không thể thực hiện: lòng trung thành với Thiên Chúa.
Nhờ sự trung thành với căn tính Con Người và Con Thiên Chúa, Đức Giêsu mở ra con đường cho Giao ước Mới, con đường đặt nền tảng trên lòng trung thành, một yếu tố mà con người có thể thực hiện được với nỗ lực và tự do của mình. Và lòng trung thành này được biểu hiện qua việc nhìn nhận Lời Chúa là của ăn, nhìn nhận thánh ý Chúa Cha có giá trị ưu tiên tuyệt đối, nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất.
Một cuộc chiến đấu
Con người vẫn thường nghĩ về Đức Giêsu như Đấng có uy quyền, Đấng bày tỏ các mầu nhiệm và thực hiện những điều lạ lùng. Về phần mình, Đức Giêsu lại đề ra một cuộc chiến đấu.
Quả thực, qua các cám dỗ tại sa mạc, Đức Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tính cách con người. Mặc dù có thể, Người đã không sử dụng các phép lạ cho riêng mình để loại bỏ đi những yếu tố vẫn gắn liền với thân phận con người.
Đức Giêsu muốn uống lấy chén đắng, Người muốn cứu nhân loại chứ không cứu lấy bản thân mình. Chính ý tưởng này còn đưa đến cho Người nhiều thử thách khác, không kém phần cam go, nhưng Người đã vượt qua. Thử thách cuối cùng là cái chết, Người cũng đã đón nhận, bởi vì Người hiểu rằng, chính trong tâm tình tự hiến vì yêu thương, Người nhận lấy vinh quang của cuộc chiến đấu, đồng thời đem lại vinh quang cho tất cả những ai bền lòng vững chí.
Suốt cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại sự dữ, chống lại quyền lực xấu xa đang đè nặng trên cuộc sống của con người. Người muốn giải phóng họ khỏi những quan niệm, những cách sống đang làm vướng bận mối tương giao của họ với Thiên Chúa, hay làm cho mối tương giao đó không được trong sáng, không đạt tới ý nghĩa thâm sâu. Chẳng hạn như sau khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người làm vua, nhưng Người đã lánh đi (Ga 6,15) hoặc khi Phê-rô lên tiếng can ngăn Đức Giêsu, xin Người đừng lên Giê-ru-sa-lem, Người đã không xiêu lòng trước thử thách, nhưng đã quyết liệt khước từ và nặng lời trách móc Phê-rô (x. Mt 16,23).
Như thế, Đức Giêsu không muốn sống an toàn, trái lại, Người lao vào một cuộc đấu tranh, chấp nhận những mất mát thua thiệt về phía mình, kể cả sự sống. Người hiểu rằng, để khai sinh một nhân loại mới, một ý nghĩa mới cho cuộc sống của con người, cần phải chiến đấu, phải hi sinh, phải liều lĩnh. Nếu không có can đảm vượt lên trên cái nhìn bình thường, vượt lên trên sự an toàn cho riêng mình, thì nhân loại không thể nào được cứu vớt, được giao hoà với Thiên Chúa.
Cuối cùng, cuộc chiến đấu này đã dẫn đưa Người tới cái chết trên thập giá, và Người đã chiến thắng nhờ sự Phục sinh. Sự kiện này cho thấy rằng cuộc chiến đấu của Người không phải là vô nghĩa, và con người có thể đạt tới chiến thắng vinh quang nhờ lòng trung thành, nhờ thái độ tuân phục thánh ý Thiên Chúa.
Vì vậy, xét theo cái nhìn bình thường, Đức Giêsu đã hành động như là không yêu mến con người; Người đã mở ra một cuộc chiến và mời gọi họ dấn thân, chứ không đem đến cho họ sự an toàn. Tuy nhiên, chính cuộc chiến do Đức Giêsu khởi đầu lại là con đường duy nhất để đạt tới vinh quang đích thực. Trong cuộc chiến đấu của mình, Đức Giêsu đã liên đới với tất cả những người đau khổ, liên đới với thân phận làm người của nhân loại; Người hành động như thế vì yêu mến họ, yêu mến cách tận tình, muốn đưa họ tới sự sống chân thật. Bình an do Đức Giêsu đem đến là bình an được chiếm đoạt bàng sức mạnh, bằng sự trung tín với Lời Chúa.
Chiến dấu từng ngày và suốt đời
Ba cám dỗ, hay ba chọn lựa, vẫn thường xảy ra trong suốt dòng lịch sử. Mỗi người sẽ gặp phải những thử thách và họ sẽ ngã gục như A-đam và dân It-ra-en, nếu họ không nhìn vào Đức Giêsu, và không noi theo gương của Người.
Cuộc chiến đấu ấy, thử thách ấy vẫn diễn ra cách này cách kia theo nhiều hình thức khác nhau; mỗi thời mang một vẻ khác, mỗi giai đoạn lại có vẻ tế nhị hơn, quyết liệt hơn, nhưng bao giờ cũng vẫn là sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và trần gian. Đó là một cuộc chiến đấu dài, rất dài, không bao giờ chấm dứt; người ta phải chiến đấu đến giây phút cuối cùng, mà không được quyền bỏ cuộc, rút lui.
Vậy, đâu là những thử thách vẫn thường xảy ra và không khi nào Đức Giêsu nhượng bộ?
Thứ nhất: Con người được dựng nên không phải chỉ vì những lương thực trần gian. Họ còn có những lương thực thiêng liêng và chính thứ lương thực này mới cần thiết.
Thứ hai: Con người được dựng nên không phải để cảm nghiệm về Thiên Chúa mà thôi. Họ cần phải hiệp thông với Người, như một đứa con, với lòng tin tưởng tuyệt đối. Đó không phải là mối tương giao đặt nền tảng trên lòng yêu mến. Họ ở trong Người, không một chút nghi ngờ, không một khoảng cách.
Thứ ba: Con người được dựng nên không phải để thống trị anh em mình, không phải để bắt người khác thần phục mình. Trái lại, mọi người đều là con một Cha; tất cả đều quy hướng về Thiên Chúa. Hơn nữa, họ không được dựng nên để phục lạy các ngẫu tượng, nhưng là để thờ phượng Thiên Chúa:
Như vậy, vấn đề được đặt ra chính là căn tính của con người. Họ được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi Chí Thánh không ngừng làm cho họ nên giống hình ảnh của Người. Đó là chương trình đã có từ thời sáng thế, và hôm nay vẫn đang được thực hiện. Chương trình này vẫn đang bị đe doạ vì những ham muốn chống đối của con người, và Thiên chúa không ngừng bày tỏ lòng yêu thương của Người:
Chính trong việc cử hành Thánh Thể,
Đức Kitô ban mình làm lương thực để nuôi sống con người.
Đức Kitô xoá tan mọi khoảng cách và nghi ngờ,
Ngài đến ở với chúng ta qua việc rước lễ.
Đức Kitô quỳ gối trước mặt chúng ta,
rửa chân cho chúng ta,
biến chúng ta thành một dân biết phục vụ,
sắn sàng quỳ gối để rửa chân và giúp đỡ người khác.
Con người không được dựng nên cho riêng mình. Cộng đoàn ngày Chúa Nhật là cơ hội để chúng ta thấy rõ căn tính của mình. Trong cộng đoàn này, chúng ta chia sẻ với nhau những thành quả do cuộc chiến đấu của Đức Kitô, đồng thời trở nên hình ảnh của Thiên Chúa.
Đi vào Mùa Chay
là cùng với Đức Kitô
lao vào cuộc chiến đấu.
để bày tỏ lòng trung thành
đặt nền tảng trên Lời Chúa.
64. Sa mạc - Nơi giúp khám phá sự thật
(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Minh Đức)
Trong cuộc đời làm người ai ai cũng phải trải qua những giây phút khủng hoảng. Trong những lúc đó tất cả mọi chuyện to nhỏ đều trở thành một vấn nạn. Kẻ đó tìm một câu trả lời trước khi lựa chọn, quyết định cho tương lai đời mình. Giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ sang tuổi thành niên là một giai đoạn quan trọng trong đời người. Tuổi dậy thì chứa đầy hỗn loạn. Thân xác bỗng dưng biến đổi và phát triển khác thường. Con người bị ép buộc tham dự vào một cuộc phiêu lưu để khám phá ra mình là ai. Nhiều chuyện thần thoại đã mô tả về giai đoạn này. Dĩ nhiên, nhân vật chính luôn là một chàng trai. Anh phải từ giã mái ấm gia đình, chấp nhận mạo hiểm một mình tiến vào rừng sâu nước độc, nơi chứa đầy cạm bẫy của yêu tinh quỷ nữ! Anh ta phải vượt qua mọi thử thách từ bên trong lẫn bên ngoài. Anh ta được tôi luyện. Khi trở về, anh giống như được đầu thai làm một con người hoàn toàn mới, đủ tài trí và khả năng gánh vác những trọng trách được giao phó.
Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về thời gian thử thách tương tự của Đức Giêsu. Ngài được Thánh Thần dẫn đưa vào hoang địa, giang sơn của quỷ dữ. Ngài ăn chay hãm mình, sống trong cô tịch, hoàn toàn không có gì để đề phòng âm mưu của kẻ xấu luôn bám sát, chờ cơ hội thuận lợi để thu thập. Thử thách làm nảy sinh một hoài nghi cơ bản: Những gì từ trước tới nay tôi cho là tốt đẹp bây giờ có vẻ vô nghĩa. Những gì tôi cho là tội lỗi xấu xa giờ đây hình như chứa đầy hứa hẹn. Khi đối diện đương đầu với dụ dỗ Đức Giêsu dần dần khám phá ra mình là ai, đâu là sứ mạng của mình. Thời gian sống trong sa mạc là giai đoạn quan trọng trong đời của Đức Giêsu. Trong thời gian này Ngài cảm nhận một cách sâu xa sự mỏng dòn trong thân phận con người. Mặc khác, Ngài đã sống mật thiết thân tình với Chúa Cha, giúp Ngài ý thức về trọng trách được Chúa Cha giao phó. Ngài trở nên chín chắn trưởng thành, có thể bước vào cuộc đời công khai, công bố Tin mừng cứu độ. Bởi vậy, sa mạc không phải chỉ là nơi chết chóc, tăm tối mà còn là nơi gặp gỡ chính Thiên Chúa.
Trong sa mạc Đức Giêsu hiểu thấu những yếu đuối cơ bản của con người. Cám dỗ đầu tiên nhắm vào sự đói khát. Có đầy đủ của ăn là một nhu cầu căn bản của cuộc sống con người. Thân xác đòi hỏi quyền lợi của nó và sẽ trở nên kiệt quệ nếu như nhu cầu này bị cự tuyệt, không được đáp ứng. Dĩ nhiên chúng ta ăn để sống, nhưng chúng ta sống không phải chỉ để ăn, để uống. Do đó, con người giống như bị bà nhập khi nghĩ rằng, ý nghĩa của cuộc sống con người chỉ đặt trên cơ bản của vật chất và sự hưởng thụ. Con người chia sẻ những nhu cầu thuộc thân xác với tất cả mọi sinh vật khác, nhưng khát vọng của con người còn trổi vượt hơn, đi ra ngoài giới hạn này. Chính vì thế chúng ta có thể nói rằng, nhu cầu lớn nhất của con người thuộc về đời sống tâm linh: „Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Đời sống con người không phải là một cuộc sống no say nhưng là một cuộc đời sung mãn về mọi mặt.
Thử thách thứ hai nhắm vào khát vọng quyền lực. Bởi vì muốn chứng tỏ quyền lực của mình, bảo đảm chỗ đứng của mình, kẻ ấy ra sức tìm cách hạ bệ kẻ khác, ra sức chèn ép, trèo lên đầu lên cổ người khác và nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết! Tranh đấu quyền lực là chuyện xảy ra như cơm bữa từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đặc biệt trong môi trường chính trị và kinh doanh,... Đức Giêsu không đầu hàng dụ dỗ. Ngài sẵn sàng từ bỏ quyền thế và bạo lực. Ngài chọn con đường yêu thương vô vị lợi.
Dụ dỗ thứ ba nhằm chối bỏ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo càn khôn. Đặc biệt con người ngày nay nghĩ rằng, mình có thể đạt được tất cả mà không cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Tất cả đều dựa vào khả năng của bản thân. Ngày Chúa nhật không đi lễ nhà thờ chẳng thấy mình mất mát gì! Nhìn nhận giới hạn của mình, nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình là một điều không dễ dàng. Thiên Chúa đòi hỏi con người tin vào Ngài, mặc dầu không ai có thể chứng minh và nhìn thấy Thiên Chúa.
Mùa chay chính là một lời mời gọi sáng tạo một mảnh sa mạc trong cuộc đời mình, mời gọi xa rời cảnh huyên náo, bon chen, xô bồ để có thể gặp gỡ Thiên Chúa, lắng nghe tiếng Ngài trong cô tịch. Bởi vì sa mạc, đối với Đức Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, là nơi giúp khám phá sự thật, nơi chúng ta có thể đối diện với chính mình để nhận biết mình là ai và Thiên Chúa muốn gì nơi tôi.
65. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh một đàng hướng về công cuộc cứu độ của Chúa Giê-su tronng những năm cuối cùng của Người trên trần gian, nhưng đồng thời cũng nhắm đến nhân loại là đối tượng của việc cứu độ. Trong lịch sử cứu độ, ta không thể không nói đến cám dỗ và tội lỗi là những gì đã làm cho nhân loại mất đi căn tính con Thiên Chúa của họ. Sa ngã do cám dỗ và thắng vượt cơn cám dỗ là hai câu truyện tương phản trong các bài đọc hôm nay. Ngoài ra, thánh Phao-lô cũng giúp ta hiểu ý nghĩa của hai biến cố tương phản ấy.
1. Sa chước cám dỗ (bài đọc Cựu Ước - St 2:7-9; 3:1-7)
Cám dỗ là sự xúi giục của ma quỷ muốn ta làm điều xấu trái với luân lý và lề luật đạo đức. Trong câu truyện Cựu Ước hôm nay, ma quỷ được tiêu biểu là con rắn cám dỗ ông bà nguyên tổ. Câu truyện không nhằm diễn tả tâm lý con người, mặc dù ta có thể dễ dàng nhận thấy điều ấy, nhưng nó muốn nói lên ý nghĩa thần học về cám dỗ và tội lỗi. Vì "rắn là loài xảo quyệt" nên phương thức cám dỗ của nó cũng hết sức tinh vi.
Thiên Chúa đã tạo dựng A-đam và E-và và Người dạy họ phải tuân phục Người, là không được ăn "trái trên cây ở giữa vườn". Trái cây ở giữa vườn hay ở góc vườn thì cũng có gì khác nhau đâu. Cho nên mệnh lệnh "không được ăn trái cây ở giữa vườn" chỉ là một dấu chỉ nói lên ý muốn của Thiên Chúa là con người phải tuân phục Thiên Chúa. Không ăn trái cây ấy tức là tuân phục Thiên Chúa. Còn nếu cứ ăn trái cây ấy tức là không tuân phục Người và là điều xấu. Vậy ma quỷ đã cám dỗ con người không tuân phục Thiên Chúa như thế nào? Trước hết đặc điểm của cám dỗ là không vội vàng. Ma quỷ từ từ đưa người ta đi từ thật tới giả. Nó bắt đầu tấn công người đàn bà trước. Có lẽ vì tâm lý của người phụ nữ bén nhạy hơn và thích bề nổi hơn. Nó gợi chuyện và tìm một cánh cửa mở cho cám dỗ, đặt câu hỏi để có một câu trả lời thật. "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn hay sao?" Dĩ nhiên câu trả lời dần dần đưa tới vấn đề là tại sao Thiên Chúa chỉ cấm họ ăn trái trên cây ở giữa vườn. Lý do của Thiên Chúa là nếu ăn vào thì "sẽ phải chết". Nếu họ tuyệt đối tin vào lời Thiên Chúa bảo "sẽ phải chết" thì đã không có chuyện. Nhưng ma quỷ đã đánh lừa họ, gieo nghi vấn trong lòng họ về lời Thiên Chúa với cách giải thích xem ra hết sức có lý: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác". Cám dỗ dừng lại ở đây và để cho ý chí tự do của con người cân nhắc lựa chọn. Câu truyện diễn tả giai đoạn cám dỗ này bằng hình ảnh "người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn". Lý lẽ của ma quỷ đã mạnh, lại thêm những đặc tính của trái cấm thật hấp dẫn. Thế là cuộc giằng co của ý chí tự do nơi con người càng thêm sôi động và con người đã sử dụng ý chí tự do để lựa chọn không tuân phục mệnh lệnh Thiên Chúa. Đó là đường đi nước bước của cám dỗ, lừa dối bằng cách đặt cái giả vào cái thật và đưa ra những lý do có vẻ thật để bênh vực cho việc xấu. Câu truyện Kinh Thánh còn nói lên sự bành trướng và ảnh hưởng của cám dỗ qua việc không những người đàn bà ăn trái cấm trước, mà còn "đưa cho cả chồng đang ở đó với mình".
Ông bà nguyên tổ sa ngã chước cám dỗ là vì không tuyệt đối tin vào lời Chúa và chỉ lo cho cái tôi của họ. Bao giờ cám dỗ cũng đi theo cùng một thể thức ấy. Con người có ý chí tự do là chuyện tốt. Nhưng sử dụng nó để chọn lựa đúng thì đòi hỏi ta phải biết phân định đâu là tinh thần của Chúa và đâu là tinh thần ma quỷ thế gian.
2. Thắng vượt cám dỗ (bài Tin Mừng - Mt 4:1-11)
Nếu A-đam nguyên tổ đã thảm bại trước cám dỗ, thì Chúa Giê-su là A-đam Mới lại đã hoàn toàn chiến thắng cám dỗ. Tuy câu truyện Tin Mừng chia ra làm ba cám dỗ khác nhau, nhưng ta có cảm tưởng như chúng muốn trình bày một phương thức chiến thắng cám dỗ đi ngược lại cách thức đưa tới thảm bại của ông bà nguyên tổ.
Vậy trong cám dỗ thứ nhất lúc Chúa Giê-su thấy đói, tên cám dỗ thử thách Người về nhu cầu sự sống thể lý. Nếu quả thực Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Người có thể sử dụng quyền năng Thiên Chúa để biến hòn đá thành bánh, rồi cũng có thể biến mái lều tranh thành lâu đài sang trọng hoặc bất cứ cái gì làm cho cuộc sống được tiện nghi thoải mái và hơn những người khác. Biến hòn đá thành bánh để ăn đang khi đói ở giữa sa mạc là điều hợp lý. Nhưng nếu Người thực hiện phép lạ ấy thì ta tin rằng Người khó có thể dừng lại và sẽ tiếp tục lạm dụng quyền năng để làm những điều không cần thiết! Đối với Chúa Giê-su, sự sống đích thực không phải do những gì bề ngoài, nhưng là do "mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Trong câu truyện ở vườn địa đàng, lời miệng Thiên Chúa phán ra là: "Các ngươi không được ăn, không được động tới (trái trên cây giữa vườn), kẻo phải chết". Nguyên tổ đã không thi hành lời ấy nên đã phải chết. Về phần Chúa Giê-su, "lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga 4:34).
Trong cám dỗ thứ hai, ma quỷ thử thách Chúa Giê-su về lòng tin vào Thiên Chúa. Tin là phó thác mọi sự trong tay Chúa để Danh Người được rạng ngời, chứ không phải là thử thách quyền năng Người để ta được mọi người khâm phục ngưỡng mộ. Nếu Chúa Giê-su gieo mình từ trên cao xuống mà bình yên vô sự thì Thiên Chúa đâu có được lợi gì, nhưng Chúa Giê-su sẽ được dân chúng trầm trồ ca tụng là Đấng đầy quyền năng! A-đam và E-và muốn được khôn ngoan, thông biết mọi sự, nghĩa là họ không còn muốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng ra mình nữa. Nhưng với Chúa Giê-su, Người thực sự nhìn nhận "bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, và đã làm người" để tuân phục và thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Trong cám dỗ cuối cùng, Chúa Giê-su đã hoàn toàn nhìn nhận thân phận con người của Người và bổn phận phải thờ phượng Thiên Chúa. Ông bà nguyên tổ muốn ăn trái cấm để được mở mắt ra và "sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác". Còn Chúa Giê-su thì muốn làm một người phàm đúng nghĩa và làm người tôi trung của Đức Chúa. E-và "thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn" nên đã hái và ăn. Còn Chúa Giê-su từ trên núi cao "thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy", thì lại xác tín bổn phận phải thờ phượng một mình Đức Chúa mà thôi.
Tóm lại, để chiến thắng cám dỗ, Chúa Giê-su lúc nào cũng đặt Thiên Chúa trên hết. Lòng tin của Người nơi Thiên Chúa là tuyệt đối. Lời Thiên Chúa là đèn soi cho Người bước đi (Tv 118:105). Tuân phục Thiên Chúa là lý tưởng Người ôm ấp và thực hiện trong suốt cuộc sống từ lúc nhập thể trong lòng Đức Ma-ri-a cho đến khi tắt thở trên thập giá.
3. Chỉ vì một người duy nhất và chỉ nhờ một người duy nhất (bài đọc Tân Ước - Rm 5:12-19)
Suy niệm về hai biến cố đối nghịch này trong lịch sử nhân loại, thánh Phao-lô Tông đồ đã tóm tắt thành một chân lý vô cùng sâu xa về lịch sử cứu độ. Chủ đề cứu độ được ngài kết luận như sau: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính" (Rm 5:19). Lịch sử tội lỗi và lịch sử cứu độ là hai thực tại đối nghịch. Việc làm của hai nhân vật, A-đam và Chúa Giê-su tương phản nhau, đã không tuân phục và đã tuân phục. Hậu quả của hai việc làm ấy cũng đối nghịch nhau, căn tính biến thành tội nhân và căn tính trở nên người công chính. Tuy nhiên khi so sánh, thánh Phao-lô cho ta cảm tưởng hiệu quả của ơn cứu độ lớn lao hơn hậu quả của tội lỗi. "Nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5:20). Trong bài Công bố Tin Mừng Phụ Sinh, Giáo Hội đã không ngần ngại lập lại sự so sánh này. "Ôi! Tội A-đam quả là cần thiết, tội được xóa bỏ nhờ cái chết của Đức Ki-tô. Ôi! Tội đã hóa thành hồng phúc, nhờ tội, chúng con mới có được Đấng Cứu Tinh cao cả dường này". Sự trổi vượt của ân sủng trên tội lỗi đem lại cho ta niềm hy vọng vững chắc rằng ta sẽ được cứu độ và phải được cứu độ. Đây cũng là nền tảng của Phụng vụ Mùa Chay và Phục Sinh, là Phụng vụ trình bày lịch sử cứu độ ở cực điểm của nó và mời gọi ta đáp lại tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
1. Sống Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giống như một luận đề thần học về lịch sử cứu độ. Chắc chắn Giáo Hội muốn trình bày như thế để ta hiểu được ý nghĩa đích thực của mùa Chay và Phục Sinh. Tuy nhiên hiểu là một chuyện, nhưng quan trọng hơn đó là ta có mở lòng đón nhận ơn cứu độ, đồng hành với Chúa Ki-tô, A-đam Mới, để tiến bước trở về với căn tính đích thực của ta và được ở lại với Cha trên trời.
2. Suy nghĩ: Ma quỷ nói với Chúa Giê-su: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy..." Mỗi lần như vậy, Chúa Giê-su đã làm ngược lại để chứng tỏ và giữ vững danh phận Con Thiên Chúa của Người. Vậy mỗi khi bị cám dỗ lớn hay nhỏ, tôi có nhắc nhở mình thực sự là con Thiên Chúa không?
3. Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, hằng năm Chúa ban cho chúng con bốn mươi ngày chay thánh, để tôi luyện hồn xác chúng con. Xin giúp chúng con sống những ngày khắc khổ ấy, để học biết Đức Ki-tô và dõi theo gương Người, hầu xứng đáng hưởng ơn Người cứu độ. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen. (Lời nguyện nhập lễ, Chúa Nhật I mùa Chay)
66. Ma quỷ - Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.
Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày. Sau đó ma quỷ đến cám dỗ Chúa về ba thứ: miếng ăn, kiêu ngạo và danh vọng.
CÁM DỖ VỀ MIẾNG ĂN: Biết Chúa trong suốt bốn mươi đêm ngày không ăn uống gì, chắc hẳn phải đói lắm, ma quỷ khôn khéo lợi dụng cái đói bụng để cám dỗ Chúa. Chúng đưa ra một hòn đá và bảo Chúa hãy truyền cho nó biến thành bánh mà ăn. Tại sao ma quỷ không đem ngay bánh tới để cám dỗ mà lại dụ dỗ Chúa làm phép lạ cho đá hóa thành bánh? Điều đó cho chúng ta biết ma quỷ không cám dỗ Chúa về sự mê ăn uống, bởi vì một người ăn chay trường được thì không phải là người mê ăn, một tấm bánh có gì đáng mê ăn, hơn nữa, một người đói cần ăn, không có gì là xấu, cho nên, ở đây ma quỷ muốn cám dỗ Chúa dùng sai khả năng, sai mục đích, dùng uy quyền vô lý, ma quỷ muốn Chúa biểu diễn một phép lạ không có lý do chính đáng. Nếu Chúa làm phép lạ thì Chúa không còn uy quyền trên ma quỷ nữa, vì đã vâng phục chúng. Nếu Chúa làm phép lạ thì chứng tỏ Chúa không còn tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa Cha nữa. Nếu Chúa làm phép lạ thì mắc mưu ma quỷ, nghĩa là chúng bảo Chúa hãy sử dụng quyền phép mà giải quyết việc đói bụng. Nhưng chúng thất bại hoàn toàn, Chúa không chê cơm bánh, Chúa cũng không làm phép lạ, Chúa đã dùng sức mạnh của chính lời Chúa trong Kinh Thánh để chiến thắng cám dỗ. Chúa bảo cho ma quỷ biết: " Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra".
CÁM DỖ VỀ KIÊU NGẠO: Ma quỷ đưa Chúa lên nóc đền thờ Giêrusalem và xúi bẩy Chúa nhảy xuống. Nếu Chúa nhảy xuống thì thật là một hành động ngoạn mục, giả như bị chết hay bị thương thì càng tốt, còn nếu không hề hấn gì như lời Thiên Chúa nói là Thiên Chúa sẽ ra lệnh cho thiên thần đỡ nâng, thì Chúa sẽ được mọi người ở dưới vỗ tay tung hô ca tụng và được biết đến như một người Thiên Chúa sai đến. Như vậy, khi xúi giục Chúa nhảy xuống là ma quỷ đã khích động lòng kiêu ngạo vốn thường có nơi mỗi người. Quả thực, ma quỷ muốn Chúa kiêu ngạo như chúng. Tính kiêu ngạo thường ẩn núp dưới hai hình thức: là tôn trọng mình cách vô lối và muốn mọi người khác phải đề cao mình. Ma quỷ là cha thần kiêu ngạo, chúng đem kiêu ngạo vào mọi lãnh vực, đó là điểm rắc rối của cuộc đời. Biết bao người đã là nạn nhân của lòng tự ái, lòng háo danh, tự hào tự phụ về tài năng, sắc đẹp và cả nhân đức nữa. Nhưng một lần nữa Chúa Giêsu lại chiến thắng ma quỷ và bảo cho chúng biết qua lời Kinh Thánh: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi", nghĩa là đừng đòi hỏi Thiên Chúa làm phép lạ vô ích.
CÁM DỖ VỀ DANH VỌNG: Ma quỷ lại đưa Chúa lên núi cao, chỉ cho Chúa thấy khắp bàn dân thiên hạ, thấy mọi vinh quang phú quý uy quyền, rồi hứa biếu Chúa tất cả nếu bằng lòng uốn gối quỳ thờ lạy chúng. Thờ lạy tức là vâng phục, là đầu hàng. Lời dụ dỗ của ma quỷ rất hấp dẫn, vì dân Do Thái lúc bấy giờ đang trông đợi một Đấng Mêsia trần thế, một anh hùng, một vị cứu tinh đến giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc. Vì thế, ma quỷ xúi Chúa thờ lạy chúng đi là được ngồi ngay vào ghế đó. Cờ đến tay rồi, còn chờ gì nữa không cầm mà phất lên. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối bằng câu Kinh Thánh: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi".
Sự kiện cám dỗ này dạy chúng ta nhiều điều, chúng ta hãy nhớ ba điều sau đây:
Thứ nhất, là con người, chúng ta có rất nhiều nhu cầu, nhưng vấn đề là phải biết: đâu là nhu cầu chính yếu đâu là nhu cầu phụ thuộc. Kinh Thánh cho biết chỉ có hai thứ nhu cầu mà thôi: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Nhu cầu vật chất là cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, nhu cầu tinh thần là sự sống vĩnh cửu, con người phải có hai nhu cầu đó mới sống được. Chúa đã dạy: "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời". Nghĩa là trong khi lao động để tìm kiếm những nhu cầu vật chất chúng ta đừng quên tìm kiếm những nhu cầu tinh thần trước hết.
Thứ hai, chúng ta cần phải cảnh giác trước những gì là hình thức hào nhoáng bên ngoài. Nhiều người dễ bị lầm, đến khi nhận ra thì đã quá muộn và đụng phải một thực tế phũ phàng. Vì thế, đừng để cho vẻ hào ngoáng bên ngoài cám dỗ. Những ai chạy theo vẻ bên ngoài thì sẽ chỉ gặp cái vỏ bên ngoài. Cái thực chất mới đáng theo đuổi. Thực chất nằm ở trong những gì giá trị lâu dài chứ không nằm trong những gì hào nhoáng nhất thời.
Thứ ba, là con cái Chúa, mặc nhiên chúng ta trở thành mục tiêu tấn công của ma quỷ. Ma quỷ rất tinh quái và xảo quyệt, thánh Phaolô gọi chúng là một kẻ thù hiểm độc, một nhà chiến lược đầy tội ác, chúng dùng mọi cách để cám dỗ chúng ta. Vì thế, chúng ta phải đứng về phe Chúa, phải nương nhờ vào sức mạnh của Chúa mà chiến đấu, nếu không chúng ta sẽ dễ dàng bị thất bại. Nương nhờ vào Chúa bằng cách chăm chỉ cầu nguyện, ăn chay, sống chân thật, ngay thẳng, đọc Kinh Thánh và dùng Lời Chúa để chiến thắng cám dỗ như Chúa đã làm gương.
67. Xa-tan cám dỗ – Giacôbê Phạm Văn Phượng
Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Xa-tan. Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Xa-tan và những cám dỗ của nó.
Đời người được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao vậy? bởi vì mang thân phận con người, ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau, một cái kéo con người lên và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go làm con người đau khổ.
Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người. Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.
Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỷ tăng cường làm cho mạnh lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỷ. Tác động của ma quỷ hấp dẫn người ta làm ác gọi là cám dỗ.
Đúng vậy, đằng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh Thánh gọi là kẻ thù, ấy là Xa-tan. Xa-tan là quỷ, nó là “xếp sòng” của loài quỷ. Xa-tan hay quỷ trước kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúa, nên bị tống cổ ra khỏi thiên đàng, bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Xa-tan và bè lũ trở nên những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm cho người ta hư hỏng theo chúng.
Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người, chúng đã du nhập vào trần gian này đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít. Đó là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí chúng ta, lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu xa tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỷ sử dụng để lôi kéo, xúi giục, thúc đẩy chúng ta phạm tội là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay buông tha ai, vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.
Ma quỷ cám dỗ thế nào? Chúng lợi dụng chính những nhu cầu, ham muốn, sở thích, đam mê của chúng ta để cám dỗ, để đưa chúng ta vào bẫy của chúng. Nếu chúng ta không cần gì, không thích gì, không ham muốn gì, thì ma quỷ khó lòng cám dỗ chúng ta được. Ma quỷ biết rất rõ những gì chúng ta cần, chúng ta thích, chúng ta ham mê, nếu không tỉnh táo, chắc chắn chúng ta sẽ bị sa bẫy cám dỗ của chúng vì chính những nhu cầu và sở thích của mình. Vì vậy, để đề phòng cám dỗ, chúng ta nên đề phòng chính những nhu cầu và ham muốn của chúng ta. Những người nào giảm thiểu nhu cầu của mình tới mức tối đa và tập luyện không ham muốn ước vọng nhu cầu gì cả thì ít khi bị cám dỗ, và nếu có bị cám dỗ thì cũng thắng được dễ dàng.
Chúng ta thấy ma quỷ đã lợi dụng ngay những nhu cầu căn bản nhất của con người là ăn uống để cám dỗ Chúa. Ngài nhịn ăn đã 40 ngày, nên nhu cầu ăn uống lúc đó thật là khẩn thiết và chính đáng… nhưng Chúa Giêsu đã làm chủ được nhu cầu thể xác của mình và không sa chước cám dỗ. Tiếp đến, ma quỷ nhằm vào những gì mà tất cả mọi người đều ham muốn, thậm chí đam mê, đó là sự giàu sang, quyền bính, địa vị, danh vọng. Hễ đã là người thì ai cũng thích cái tôi của mình được đề cao, được tôn vinh, được triển nở, được thăng tiến. Rất nhiều người đã nhượng bộ ma quỷ để có một đời sống dễ dãi, giàu có, sang trọng, uy quyền. Nhưng Chúa Giêsu đã không để những ham muốn đó làm chủ, nên đã không sa bẫy của chúng. Rồi ma quỷ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, tỏ mình ra, nhất là sự khoe khoang đó là đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Nhưng Chúa Giêsu đã làm chủ tính khoe khoang của mình, Ngài không bị mắc bẫy ma quỷ.
Đành rằng ma quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỷ, xác thịt, đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không? tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không. Nói khác đi, ma quỷ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu, ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ được những nhu cầu thể chất ấy, chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những cám dỗ, và không để cho những khuynh hướng xấu làm chủ mình. Và nếu chẳng may thất bại, nghĩa là sa chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta phải lập tức đứng dậy ngay, nghĩa là hối hận, ăn năn, xưng tội, xin Chúa tha thứ và cố gắng hơn nữa để khỏi tái phạm.
68. Đừng sợ, Thầy đã chiến thắng ma quỷ
(Suy niệm của Giuse Lê Xuân Hiệp)
Khởi đầu Mùa Chay Thánh, người tín hữu được mời gọi “sám hối và tin vào Tin Mừng”. Lời kêu gọi này được nói với từng tín hữu, khi được chịu tro, khởi đầu mùa chay thánh. Với tâm tình yêu thương con cái mình, Giáo Hội cho chúng ta những bài học qua mỗi ngày của Mùa Chay, để mỗi tín hữu có điều kiện trở về với Chúa, củng cố thêm niềm tin của mình nhất là được sống trong tình yêu của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chịu nhiều tác động của hoàn cảnh bên ngoài, có những điều nâng đời sống của ta lên, và cũng có những điều khiến cho chúng ta quỵ ngã. Từng ngày sống, ai trong chúng ta cũng đều bị chước cám dỗ của ma quỷ. Những cám dỗ lúc thì rõ ràng, lúc được nguỵ trang dưới vỏ bọc khác nhau. Chính vì thế mà ông bà nguyên tổ đã sa chước cám dỗ, nên bất tuân với Thiên Chúa, và mọi người đều không tránh khỏi tội tổ tông.
Bốn mươi ngày chay tịnh trong hoang địa, Chúa Giêsu đã chịu ma quỷ cám dỗ, không chỉ có thế mà còn cả trong những năm rao giảng đến khi Ngài chịu treo trên thập giá. Ngày nay con người cũng bị những cám dỗ vây quanh: vật chất, danh vọng, quyền lực… Nên Giáo Hội mời gọi mỗi tín hữu hãy dùng bài thuốc để chống lại căn bệnh cám dỗ vật chất là “ăn chay”, lắng nghe Lời Chúa để cho Lời Chúa tinh luyện tâm hồn.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để giúp ta nhận diện cơn cám dỗ riêng của bản thân. Giữa những thách đố, con người vẫn cố sức vươn lên. Vươn lên như Đức Giêsu trong hoang địa sau khi chiến thắng những thách đố lớn lao trong thân phận con người. Đức Giêsu đã hoàn toàn tìm thấy cái tôi của mình ngay khi đành mất chính mình. Người không tìm cách xác định thế đứng độc lập với Thiên Chúa Cha. Nhưng Người muốn cho mọi người thấy chỉ có thể tìm được chính mình trong Thiên Chúa mà thôi. Qua những cơn cám dỗ, Đức Giêsu mạc khải bản lĩnh vô cùng vững chắc của mình trong vũ trụ. Sau khi "ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, Người thấy đói" (Mt 4, 2) Quỷ liền tấn công vào điểm yếu nhất của con người Chúa lúc đó. Trong cơn đói cồn cào, Người vẫn mạnh dạn đáp: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4, 4). Còn hơn cơm bánh, lời Chúa là nguồn sống của cả vũ trụ, vì "nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành." (Ga 1, 3). Muốn hay không, con người phải hoàn toàn lệ thuộc vào ý Chúa.
Chính vì thế, Người đã tâm sự với các môn đệ: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy." (Ga 4, 34). Nhờ xác định được nguồn sống đích thực như thế, Đức Giêsu đã đem lại sự sống phong phú cho toàn thể nhân loại. Thật vậy, "nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính." (Rm 5; 19) Khác hẳn với nguyên tổ, Đức Giêsu đã vâng lời Thiên Chúa Cha tuyệt đối. Trước những lời cám dỗ ngon ngọt của ma quỷ. Mặc dù ý thức mình phải lệ thuộc vào nguồn sống là Thiên Chúa, Người vẫn không quên mình là Con Thiên Chúa ngang hàng với Chúa Cha. Nhờ Thần Khí dẫn đường chỉ lối, Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ hiểm độc này. Người đã chọn Thiên Chúa như cứu cánh duy nhất của cuộc đời. Tiếng Người mạnh mẽ vang lên: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." (Mt 4; 10).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, bị cám dỗ là thân phận của con người, nhưng để thắng được cám dỗ thì phải nhờ ơn Chúa. Cuộc sống ngày hôm nay cho chúng con bao cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những thèm khát nơi chúng con. Cám dỗ thống trị bằng quyền lực, bằng cuộc sống buông thả theo bản năng, cái tôi ích kỷ, giàu sang, danh vọng… Những thử thách đó đã trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Lạy Chúa, xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ tỉnh thức và cầu nguyện, nhờ ăn chay và làm chủ bản thân, hy sinh phục vụ. Xin cho chúng con được lớn lên trong tình yêu Chúa, sau những lần chiến đấu vất vả và khi yếu đuối sa ngã. Ước gì chúng con không quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương của Chúa dành cho từng người chúng con, xin cho chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa thương xót là Đấng hay tha thứ. Amen.
69. Cám dỗ quyền lực – Đỗ Lực
Bốn mươi năm đã trôi qua kể từ biến cố Tết Mậu Thân 1968. Nhưng không ai có thể quên những gì đã xảy ra trên quê hương Việt Nam, nhất là tại Cố Đô Huế. Dù nhìn từ phía nào, chúng ta không thể phủ nhận quyền lực như một cám dỗ đã đưa con người vào những sai lầm không thể tưởng tượng được.
Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu cũng bị sa chước cám dỗ về quyền lực như thế, cơn ác mộng còn ghê gớm hơn. Hậu quả, nhân loại sẽ không thể được cứu độ. Rất may, Chúa đã chiến thắng tất cả và đã mở đường giải thoát cho toàn thể nhân loại. Đây là cuộc chiến thắng tà thần cùng với những mưu mô bất chính của nó. Sự công chính đã chiếu tỏa ánh sáng ra chung quanh. Không có cơn cám dỗ nào dai dẳng, mãnh liệt và nguy hiểm hơn cơn cám dỗ quyền lực. Bởi đó, cần nhìn vào cuộc cám dỗ trong sa mạc hôm nay của Chúa Giêsu để tìm một con đường giải thoát cho chính mình và nhân loại.
BA CƠN CÁM DỖ MỘT BẢN CHẤT
Trong thân phận con người, Chúa Giêsu muốn chia sẻ tất cả, kể cả những cám dỗ, để nên giống chúng ta hoàn toàn. Trên Thiên đàng, Người không bị cám dỗ bao giờ. Cám dỗ đã ập đến đúng lúc Chúa đói khát kinh khủng sau bốn mươi ngày đêm ăn chay. Ngày xưa, bốn mươi năm trong sa mạc, dân Israel cũng đã bị cám dỗ, nhưng họ đã thua cuộc.
Trong cơn cám dỗ thứ nhất, Satan đánh thẳng vô cơn đói khát cồn cào để kích động Chúa dùng quyền năng để thỏa mãn nhu cầu vật chất căn bản nhất. Đáp lại, Chúa cho thấy những điều cần thiết căn bản nhất phải nhường bước trước Lời mạc khải của Thiên Chúa. Sứ mệnh của Người không phải là cung cấp những nhu cầu cơ bản, nhưng công bố Lời Chúa cho con người được sống. Đó là đòi hỏi tự nhiên của đức công chính Thiên Chúa. Đảo lộn trật tự đó, con người sẽ xúc phạm đến Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ hai càng cho thấy rõ cám dỗ quyền lực mạnh chừng nào. Satan trưng dẫn Kinh thánh để đưa Chúa Giêsu lên chín tầng mây, cưỡng bức Thiên Chúa phải hoàn thành một điều Người không hứa. Như thế là thử thách và áp đặt Thiên Chúa vào một đường lối Người không muốn sử dụng để mạc khải chính mình. Còn gì áp bức và bất công hơn?! Chính Chúa Giêsu đã xác định mình xuống trần gian để làm theo thánh ý Chúa Cha, chứ không phải theo ý riêng. Đó là đường lối công chính. Người đã không sa chước cám dỗ để dùng quyền Thiên Chúa tạo ra một “dấu chỉ” đặc biệt để khống chế lòng tin con người. Người tôn trọng tự do con người. Đức tin không thể do cưỡng bức. Quả thật, “không thể hoan nghênh những gì từ nơi Thiên Chúa, dù vĩ đại tới đâu, nếu không có tự do.” (1)
Cuối cùng, khi đưa Chúa Giêsu lên núi cao để chỉ cho Người thấy các vương quốc trần gian và vinh hoa của chúng, Satan muốn cám dỗ Chúa chấp nhận đóng vai thiên sai trần thế để sớm hoàn thành những mục tiêu sứ mệnh Thiên Sai của Chúa Cha. Chúa Giêsu vạch rõ bản chất xấu xa của Satan khi dụ dỗ Người vào con đường xa lìa Thiên Chúa duy nhất. Muốn được vinh quang thiên sai trần thế, phải cúi mình phủ phục các tà thần. Người chỉ có một Vương quốc và vinh quang duy nhât bắt nguồn từ Chúa Cha, chứ không từ trần gian (x. Ga 18:36). Vương quốc của Người không xuất phát từ những thực tại mắt thấy tại nghe, nhưng từ trong tâm khảm con người (x. Lc 17:20-21). Như thế, cám dỗ thứ ba muốn Chúa Giêsu dùng quyền năng xây dựng Vương quốc Thiên Chúa bằng con đường trần gian. Đúng hơn, Satan quyến dũ Chúa vào cơn mê xây dựng một vương quốc vật chất, trong khi Nước Thiên Chúa là một Vương quốc thiêng liêng.
Tóm lại, Satan tìm mọi cách tách lìa Chúa Giêsu ra khỏi Thiên Chúa. Từ những nhu cầu vật chất cơ bản nhất đến đường lối Thiên Chúa và sứ mệnh Thiên Sai, Chúa đều bị cám dỗ dùng quyền năng thực hiện theo ý định Satan mà lìa bỏ Thiên Chúa. Cả ba cám dỗ đều có cùng một bản chất là quyền lực. Thực tế, chúng ta nhận thấy không gì nguy hiểm hơn quyền lực trong tay con người thất đức! Nó có thể lôi kéo con người xa lìa Thiên Chúa lẫn anh em, nhục mạ Thiên Chúa và phá hoại hạnh phúc con người.
Quyền lực không phải là một điều xấu xa. Nhưng nếu không được dùng đúng chỗ, đúng cách và đúng hướng, quyền lực có thể trở thành tai họa lớn cho nhân loại. Khi xúi Chúa dùng quyền biến đá thành bánh, Satan đã muốn hướng Chúa về một đối tượng không thích hợp. Khi cám dỗ Chúa dùng quyền kinh kông để bay xuống đất từ nóc đền thờ với lý lẽ vững chắc trong Kinh thánh, Satan tưởng có thể đẩy Chúa đến một cảnh huống có thể áp đảo cả Thiên Chúa lẫn con người để đạt mục đích một cách ngoạn mục. Nhất là, khi phóng tầm nhìn của Chúa về vinh quang vương quốc trần gian, Satan tưởng Chúa sẽ dễ dàng chấp nhận cho viêc thực hiện sứ mệnh thiên sai và xây dựng Nước Thiên Chúa theo hướng trần thế. Nhưng như Chúa đã khẳng quyết với Philatô: “Nước tôi không thuộc trần gian này.”(Ga 18:36) Nếu không thuộc trần gian, Nước Thiên Chúa chỉ có thể xây dựng theo ý hướng và trong quyền lực Thiên Chúa mà thôi. Đúng như Lm. Jerzy Popie#uszko khẳng quyết::“Các bạn không thể bị khuất phục một cách bất công bởi bất cứ quyền lực bất chính nào của thế gian. Các bạn chỉ quì gối trước một Đấng là Thiên Chúa mà thôi.” (2)
QUYỀN LỰC ĐỂ PHỤC VỤ
Khi không được xử dụng theo đúng ý Thiên Chúa, quyền lực sẽ trở thành sức mạnh áp bức con người. Quyền lực sẽ biến con người thành chủ nhân ông của con người. Phương tiện biến thành cứu cánh. Không gì nguy hiểm hơn!
Ngay cả tiền bạc cũng chỉ nguy hiểm khi được chuyển hóa thành một thứ quyền lực chi phối mọi hoạt động con người. Hậu quả tệ hại nhất của quyền lực là con người biến thành phương tiện để củng cố và bảo vệ quyền lực. Nói khác, chính quyền lực là nguyên nhân hủy diệt quyền làm người của con người.
“Khi vươt qua giới hạn Thiên Chúa muốn, quyền bính loài người tự biến thành một thần minh và bắt mọi người tuyệt đối phục tùng. Nó trở thành Con Thú trong Khải Huyền, một hình ảnh về quyền lực của hoàng đế bách hại ‘say máu dân thánh và máu các chứng nhân của Đức Giê-su.’(Kh 17:6) Con Thú được ‘ngôn sứ giả’(Kh 19:20) phục vụ. Nhờ những dấu lạ lừa dối, nó xúi giục dân chúng thờ phượng Con Thú.” (3)
Hình ảnh Con Thú diễn tả bản chất của quyền bính nằm ngoài thánh ý Thiên Chúa. Khi không biết đến giới hạn của mình, quyền bính tự phong thần và cứ tưởng mình có quyền tuyệt đối trên dân chúng. Đúng là khi tư đề cao như thần minh, con người sẽ rơi xuống hàng súc vật. Đó là lý do tại sao khi coi thường công lý và chà đạp nhân quyền, nhà cầm quyền trở thành loài vô tri và mất hết lương tâm. Họ cố biện minh những hành vi đàn áp nhân quyền bằng một lý thuyết nhân quyền giả tạo. Họ lừa gạt chính mình để thủ lợi cá nhân hay tập thể. Giống như Con Thú, họ cắm mắt những lợi lộc trước mắt và không thấy trước những gì chờ đợi họ trong tương lai.
Mặc dù nắm quyền tuyệt đối, “Thiên Chúa không muốn dành cho riêng mình việc thực thi mọi quyền hành. Người trao lại cho mỗi thụ tạo những phận vụ nó có thể thi hành theo khả năng của bản tính riêng. Xã hội loài người phải bắt chước cách lãnh đạo này. Cách Thiên Chúa cai trị thế giới cho thấy Người rất tôn trọng quyền tự do của con người. Đó phải là đường hướng chỉ đạo cho những ai cầm quyền trong các cộng đồng nhân loại. Họ phải xử sự như những thừa tác viên của Chúa quan phòng.” (4) Làm đúng như thế, họ sẽ được Thiên Chúa tôn trọng và đem lại nhiều lợi ích cho con người. Ngược lại, quyền lực sẽ chỉ là sức mạnh phá hoại khủng khiếp các giá trị nhân loại mà thôi.
Tự bản chất, quyền lực được sinh ra để phục vụ công ích. “Muốn tồn tại để phục vụ con người thuộc mọi cấp độ, xã hội phải nhắm đến công ích như mục tiêu đầu tiên của mình. Công ích là thiện ích chung của mọi người và của toàn thể con người. Con người không thể hoàn thiện nơi chính mình, nhưng phải sống ‘với’ và ‘cho’ người khác.” (5) Khi một cá nhân hay một nhóm người tập trung và xử dụng quyền bính để đạt cho bằng được quyền lợi riêng của mình, tất nhiên công ích sẽ biến tan. Lúc đó, mọi người sẽ phải hy sinh cho một người hay một nhóm người, chứ không ngược lại. Công ích phải hy sinh cho quyền lợi cá nhân hay một phe nhóm, đảng phái.
Vậy đâu là công ích? Dĩ nhiên, “những đòi hỏi của công ích tùy thuộc những hoàn cảnh xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử và liên kết chặt chẽ với việc tôn trọng và thăng tiến toàn diện nhân vị và những quyền căn bản của con người.” (6) Như thế, tự bản chất công ích luôn nhắm tới đỉnh cao là con người. Khi con người biến thành phương tiện để phục vụ chế độ, công ích không thể hiện hữu, vì đã đánh mất bản chất và mục đích tối thượng.
Tự bản chất, chính quyền không phải là cứu cánh, nhưng là công cụ phục vụ công ích của toàn dân. Bởi thế, “những ai đang gánh vác trong lãnh vực chính trị không được quên lãng hay đánh giá thấp chiều cạnh đại diện của những người làm chính trị. Tư cách đại diện chủ yếu là cam kết chia sẻ hoàn toàn số phận người dân và tìm những giải pháp cho các vấn đề xã hội. Về phương diện này, một chính quyền có trách nhiệm cũng là một chính quyền có những đức tính có thể thực thi quyền bính để phục vụ (kiên nhẫn, khiêm tốn, điều độ, bác ái, nỗ lực chia sẻ), một chính quyền nằm trong tay một người có thể chấp nhận công ích làm mục tiêu đích thực, chứ không phải mong đạt đến uy tín hay những lợi ích cá nhân khi hoạt động. ” (7)
BỐN MƯƠI NĂM NHÌN LẠI
Thực tế, có nhiều người quá say mê chiến thắng hay bảo vệ thanh thế và quyền lợi phe đảng đến nỗi coi thường mạng sống và hạnh phúc của người khác. Đó là điều đã xảy ra vào dịp Tết Mậu Thân, cách đây bốn mươi năm tại Huế. Cho đến nay vẫn có người cố biện minh cho hành động man rợ của mình. Tệ hơn nữa, họ còn hãnh diện vì những hành động điên cuồng đó. Những người chịu trách nhiệm biến cố Mậu Thân đã lên tiếng, ai còn có thể chối cãi được nữa? Chỉ có những kẻ vô lương tâm và hèn nhát mới dám chối bỏ trách nhiệm mà thôi.
Khi vượt khỏi giới hạn của mình, quyền lực tự biến mình thành cứu cánh. Từ đó, quyền lực tạo nên những bất công khủng khiếp cho đồng loại. Chỉ có những kẻ mù quáng và vô liêm sỉ mới cố tạo cho quyền lực một thế đứng như thế. Quyền lực đã trở thành một cám dỗ ghê gớm đối với con người. Hầu như không có ai có thể cưỡng lại!
Nhưng trong hoang địa, sau bốn mươi ngày ăn chay và cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chiến thắng cả ba cơn cám dỗ quyền lực. Kẻ thù đầy mưu ma chước quỷ cũng không lừa gạt được Người. Những mưu chước đó nằm dưới những chiêu bài đạo đức, vì luôn được các chứng cứ Thánh Kinh củng cố. Nhưng những bộ dạng đạo đức đó cũng không qua mặt được Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã chiến thắng những cám dỗ quyền lực trong hoang địa. Xin Chúa sai Thánh Thần đến giúp chúng con cũng vượt qua những cám dỗ quyền lực hôm nay. Xin cho những người đang nắm quyền trong đạo cũng như ngoài đời biết thức tỉnh như Chúa trước những giới hạn của quyền lực. Amen.
---------------------------------
1. Văn sĩ Jacob, xứ Syria
2.http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4580
3. Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 382.
4. Giáo Lý Công Giáo, 1884.
5. Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 165.
6. ibid., 166.
7. ibid., 410.
70. Chống trả cơn cám dỗ - Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su như một Mô-sê Mới, lãnh đạo một cuộc Xuất Hành Mới. Người còn là hiện thân của dân Ít-ra-en Mới vào sa mạc sống lại kinh nghiệm của dân Ít-ra-en xưa trên núi Xi-nai (x Đnl 8,2-4). Có điều khác với Ít-ra-en xưa, Người đã qua các cơn cám dỗ thử thách mà vẫn trung thành với ơn gọi của mình. Người muốn nêu gương cho các tín hữu hôm nay về cách chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ.
CHÚ THÍCH:
- C 1-4: + Được Thần Khí dẫn vào hoang địa: Thần khí đã ngự xuống trên Đức Giê-su, giờ đây lại hướng dẫn Người vào nơi hoang vắng, có lẽ là một hang núi gần thành Giê-ri-cô. + Để chịu quỷ cám dỗ: Cám dỗ đồng nghĩa với sự thử thách do ma quỷ thực hiện. Khi bị cám dỗ mà chiều theo thì mới phạm tội. Còn nếu chống trả còn có công. Đức Giê-su cũng trải qua sự thử thách, nghĩa là phải lựa chọn giữa tốt và xấu. Thần Khí đã đặt Đức Giê-su vào một hoàn cảnh để Người tự khẳng định lập trường và chứng tỏ là Con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Thiên Chúa. + Bốn mươi đêm ngày: Cũng như Mô-sê trước khi nhận hai bia đá Giao ước, đã lên núi bốn mươi ngày đêm, ăn chay cầu nguyện (x. Đnl 9,9), và sau đó lại ăn chay thêm bốn mươi ngày đêm để sấp mình xin Đức Chúa nguôi giận mà tha tội cho dân Ít-ra-en đã vi phạm Giao ước khi đúc tượng bê vàng để thờ lạy (x. Đnl 9,18). Ngoài ra con số bốn mươi hay được dùng trong Thánh Kinh để ám chỉ một thời gian khá dài như: lụt đại hồng thủy kéo dài suốt bốn mươi ngày đêm, dân Ít-ra-en đi trong hoang địa bốn mươi năm, Vua Đa-vít cai trị bốn mươi năm, bốn mươi ngày giữa lễ Phục Sinh và lễ Thăng Thiên… Sở dĩ Đức Giê-su có thể nhịn đói suốt bốn mươi ngày đêm là nhờ có ơn Chúa nâng đỡ. + Nếu ông là Con Thiên Chúa: Tước hiệu này thuộc nội dung các lời hứa về Đấng Mê-si-a con vua Đa-vít (x. Tv 2,7; 89,27). Ngoài ra tước hiệu này còn có ý nghĩa về Thần tính của Đức Giê-su. + Hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi: Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su biến đá thành bánh, hy vọng có thể do bị đói khát, Người sẽ quên đi tư cách Mê-si-a để làm theo ý riêng hơn là theo ý Thiên Chúa. + Đã có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh…”: Đây là lời trong Sách Đệ Nhị Luật (8,3) mà Đức Giê-su đã chọn để vâng Lời Thiên Chúa, nhờ đó đã chiến thắng ma quỷ. Sau này Người cũng nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
- C 5-7: + “Hãy gieo mình xuống đi”: Ma quỷ xúi Đức Giê-su thử thách quyền năng Thiên Chúa khi gieo mình từ trên cao rơi xuống để được Thiên Chúa cứu giúp. + Có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn…”: Xa-tan đã nêu ra câu Thánh Vịnh này theo nghĩa đen (Tv 91,11-12). + Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách…”: Đây là câu Kinh Thánh trong sách Đệ nhị luật: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa” (Đnl 6,16). Trái với dân Ít-ra-en xưa đã đòi Đức Chúa phải làm dấu lạ để chứng minh quyền năng, còn Đức Giê-su hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa mà không cần đòi dấu lạ (x. Ga 6,30-33).
- C 8-11: + Đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian…: Câu này nhắc lại sự kiện xưa kia Mô-sê lên núi Nê-bô và đã được Đức Chúa cho nhìn thấy tất cả Miền Đất Hứa (x. Đnl 31,1-4). Nay ma quỷ cũng tác động làm cho Đức Giê-su tưởng tượng ra mình đang ở trên núi và nhìn thấy những của cải châu báu để cám dỗ Người hãy thờ lạy nó như chúa tể để được nó ban cho của cải trần gian. + Xa-tan kia, xéo đi!: Xa-tan nghĩa là “tên cám dỗ”. Sau này Đức Giê-su cũng xua đuổi Phê-rô giống như thế khi ông cám dỗ Người đừng đi theo con đường thập giá theo thánh ý Chúa Cha (x. Mt 16,23). + Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi: Đây là câu trích trong sách Đệ nhị luật (6,4.13), cho thấy chỉ duy có một Thiên Chúa độc nhất mà mọi người đều phải phụng sự tôn thờ Ngài.
HỎI ĐÁP:
1) HỎI: Cám dỗ là gì? Bị cám dỗ thì đã phạm tội chưa? Ta cần làm gì để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt mình?
ĐÁP:
- Cám dỗ là việc ma quỷ xúi giục một người phạm tội chống lại Thiên Chúa khi cố tình không vâng lời Chúa dạy để làm điều vi phạm các giới răn của Ngài.
- Mỗi cơn cám dỗ thường có ba giai đoạn: Một là ma quỷ gợi lên một hình ảnh, một tư tưởng xấu trong tâm trí người ta. Hai là ma quỷ xúi người ta thỏa mãn đam mê dục vọng ấy bằng sự ưng thuận. Ba là sự chọn lựa tự do: nếu chiều theo ma quỷ tức là phạm tội và làm cho Chúa buồn. Còn nếu từ chối không nghe theo ma quỷ, họ sẽ được Chúa chúc phúc và sẽ làm cho Chúa vui lòng.
- Để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ, chúng ta hãy noi gương Chúa Giê-su: Năng hãm mình và ăn chay để tập làm chủ bản năng của mình, siêng năng học sống Lời Chúa như thanh gươm hai lưỡi để đương đầu với ma quỷ, năng xin ơn Chúa trợ giúp và luôn vâng theo Thánh Thần hướng dẫn.
2) HỎI: Đức Giê-su bị ma quỷ cám dỗ trong tâm trí hay trong thực tế?
ĐÁP: Việc quỷ đặt Đức Giê-su lên nóc Đền thờ, đem Người lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người xem tất cả vinh hoa lợi lộc của các nước trên thế gian… cho thấy Đức Giê-su có bị ma quỷ cám dỗ, nhưng chúng chỉ cám dỗ Người ở trong tâm trí, chứ không thực sự đem Người từ nơi này đến nơi kia.
3) HỎI: Đức Giê-su trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ nhằm mục đích gì?
ĐÁP: Sau khi chịu phép Rửa của Gio-an và được Thần Khí hiện xuống xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Đấng Ki-tô, Đức Giê-su đã được Thần Khí dẫn vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày và chịu ma quỷ cám dỗ. Sở dĩ Người chịu ma quỷ cám dỗ là nhằm mục đích như sau:
- Một là để trải qua những sự thử thách của nguyên tổ A-đam E-và xưa trong vườn địa đàng (x St 3,1-24), và của dân Ít-ra-en trong cuộc Xuất Hành (Đnl 8,2-4). Vì Người là A-đam Mới và Ít-ra-en Mới thời Tân Ước (x Rm 5,18-19).
- Hai là để nêu gương ăn chay cầu nguyện cho các tín hữu, nhờ đó chúng ta sẽ làm chủ được bản thân và dễ dàng chiến thắng ma quỷ cám dỗ hưởng thụ các lạc thú bất chính (x Mt 17,21; Mc 9,29)..
- Ba là để nêu gương vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí: Nếu chúng ta biết nghe theo sự hướng dẫn của Thần Khí qua việc siêng năng học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ luôn vâng lời Chúa phán hơn nghe theo ma quỷ mà theo ý mình, như Đức Giê-su có lần quở trách Tông đồ Phê-rô (x Mt 16,21-23).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su liền nói: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10).
2. CÂU CHUYỆN: Tam thập lục kế: đào vi thượng sách
Ở núi Phong Khê đất Thục có một giống đười ươi có bộ mặt giống như người. Chúng biết nói cười và máu của chúng được người ta dùng làm thuốc nhuộm quần áo rất tốt, nên các thợ săn thường săn bắt chúng. Biết được loài đười ươi này thích uống rượu và đi guốc, thợ săn đã đem rượu và guốc bày la liệt trên một đồng trống để nhử chúng, rồi ẩn núp chờ đợi. Dù sống sâu trong rừng, nhưng loài đười ươi lại có khứu giác rất nhậy nên vẫn ngửi thấy mùi rượu thơm liền kéo nhau đến uống. Những con già đời đoán biết đó là bẫy của thợ săn, liền nhắc nhở cả bầy rằng: “Hãy cảnh giác, đừng khờ dại uống rượu đi guốc kẻo bị mắc mưu của bọn người độc ác kia”. Thế là cả bầy buồn bã bỏ đi. Nhưng rồi một con bị mùi rượu thơm hấp dẫn không cưỡng lại được, liền bất chấp lời khuyên khôn ngoan và rủ đồng bọn quay trở lại. Rồi “quen mui thấy mùi ăn mãi”, chúng tranh dành nhau chí choé nốc cạn hết bầu này đến bầu khác. Đến lượt các con già cả khôn ngoan tuy biết là nguy hiểm, nhưng không thể cưỡng được sự hấp dẫn của rượu, cũng lao vào uống no say. Sau đó chúng xỏ chân vào guốc bên cạnh bước tới bước lui ngả nghiêng trông thật tức cười. Bấy giờ bọn thợ săn liền hò nhau từ chỗ ẩn nấp, nhất tề xông đến vây bắt. Thấy bọn thợ săn đến, bầy đười ươi đáng thương liền bỏ chạy tán loạn. Nhưng chân đi guốc không quen, bị té nhào vào nhau và bị bọn thợ săn bắt gọn không sót một con.
Than ôi! Biết rõ người ta đặt bẫy hại mình, mà vẫn lao vào ăn uống đến nỗi tất cả đều bị mất mạng thì thật ngu dại lắm thay! Đối với các bạn trẻ hôm nay thì rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích sì-ke ma túy… là những thứ làm mất hết nhân tính, trở thành những kẻ bất lương trộm cướp giết người, rồi còn có thể bị lây nhiễm HIV-AIDS. Thế mà vẫn có không ít bạn trẻ nhắm mắt lao mình vào những đam mê chết người đó thì không phải khờ dại lắm sao?
Đối với các cơn cám dỗ về đam mê sắc dục và ma túy, thì đừng bao giờ nghĩ rằng mình có đủ bản lãnh để chống trả lại được, và phải làm như cổ nhân dạy: “Tam thập lục kế: Đào vi thượng sách” (Ba mươi sáu phương thế thì chạy trốn là phương thế hay nhất). Đừng bao giờ thử hút chích sì ke ma túy, thử đi bia ôm một lần… Vì thử dù chỉ một lần thôi là đã bắt đầu biến thành con nghiện rồi vậy!
3. SUY NIỆM:
Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng: Chiến đấu với thiên nhiên để tồn tại, chiến đấu với kẻ thù để khỏi bị tiêu diệt, chiến đấu với xác thịt để trở nên người tốt. Hôm nay Giáo Hội còn dạy chúng ta phải chiến đấu với một loại kẻ thù vô hình nguy hiểm là ma quỷ. Chính Đức Giê-su đã chiến đấu và chiến thắng ma quỷ để nêu gương cho chúng ta. Vậy ngày nay ma quỷ thường cám dỗ chúng ta về những vấn đề gì? Và chúng ta phải làm gì để chiến thắng nó?
1) Cám dỗ xưa và nay: Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su và lòai người chúng ta về ba phương diện sau:
+ Một là về THÚ VUI: Ma quỷ xúi Đức Giê-su biến các viên đá cuội trở thành bánh mì mà ăn, tức là dùng quyền năng Thiên Chúa để thỏa mãn các nhu cầu vật chất thể xác, giống như dân Ít-ra-en trong hoang địa ngày xưa đã kêu trách Đức Chúa và Mô-sê khi họ bị đói khát và thèm thịt thà và các thứ rau thơm mà họ đã từng ăn khi còn ở Ai cập (x. Xh 16,3). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta tìm thỏa mãn các đam mê xác thịt bất chính như ăn chơi sa đọa, rượu chè say xỉn và hút chích ma túy…
+ Hai là về DANH VỌNG: Ma quỷ xúi Đức Giê-su nhảy từ nóc Đền thờ xuống để được người đời khen ngợi là tài giỏi và cũng để thử thách Thiên Chúa, đòi Chúa phải chứng tỏ quyền năng bằng việc làm phép lạ cứu mình thóat chết (x. Lc 23,35). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta thử thách quyền năng Thiên Chúa khi đòi Chúa làm phép lạ trái với định luật do Chúa đã an bài trong thiên nhiên để chiều theo sở thích riêng của chúng ta!
+ Ba là QUYỀN LỢI: Ma quỷ xúi Đức Giê-su sấp mình thờ lạy nó để được nó ban cho quyền hành trên muôn nước và được hưởng lợi lộc giàu sang (x. Xh 32,6). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta chối bỏ Thiên Chúa và tôn thờ sức mạnh của tiền tài, chọn làm những việc bất chính miễn là có nhiều tiền như: buôn bán sì ke ma túy, mở quán bia ôm, cà phê tươi mát, tin theo thầy bói, đồng bóng, cầu cơ, buôn lậu, tham nhũng, sản xuất hàng nhái…
2) Phương thế để chiến thắng ma quỷ cám dỗ:
Đức Giê-su đã chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ bằng các phương thế như sau:
+ ĂN CHAY CẦU NGUYỆN: Người đã vào hoang địa ăn chay cầu nguyện suốt 40 đêm ngày. Ma quỷ đã đánh thẳng vào điểm yếu của Đức Giê-su là tình trạng bị đói để xúi Người biến đá thành bánh ăn. Nhưng nhờ nội lực mạnh mẽ do ăn chay cầu nguyện, mà Người đã chiến thắng ma quỷ. Sau này Người cũng dạy các môn đệ phải dùng phương thế này như sau: “Giống quỷ ấy chỉ trừ khử được bằng lời cầu nguyện thôi” (Mc 9,29).
+ HỌC SỐNG LỜI CHÚA: Để đáp lại sự trích dẫn Lời Chúa của ma quỷ, Đức Giê-su cũng dùng Lời Thánh Kinh để bắt chúng câm miệng. Lời Chúa chính là ánh sáng chỉ đường và là nguyên tắc ứng xử của Đức Giê-su như sau: Đáp lại lời xúi biến đá thành bánh, Đức Giê-su nêu cao Lời Chúa dạy: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8,3). Đáp lại cám dỗ thờ lạy ma quỷ để được hưởng quyền hành lợi lộc của nó, Đức Giê-su nêu ra Lời Chúa dạy: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và thờ phượng một mình Người mà thôi” (x. Đnl 6,13). Đáp lại cám dỗ gieo mình từ nóc Đền thờ xuống, Đức Giê-su đưa ra Lời dạy của Chúa: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x. Đnl 6,16).
3) ÁP DỤNG CỤ THỂ: Ngày nay khi bị cám dỗ, chúng ta cũng cần chống trả bằng những phương cách sau:
+ Chăm chỉ làm việc bổn phận và tránh sự ở không. Vì "Sự lười biếng là cha của mọi thói hư tật xấu".
+ Làm một việc nào khác phù hợp sở thích như xem sách chuyện, phim truyền hình, thăm bạn bè, đi bơi lội hay tham gia chơi một môn thể thao lành mạnh.
+ Tránh tò mò truy cập vào các trang phim ảnh xấu trên internet.
+ Năng đọc kinh Lạy Cha để cầu xin Chúa: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
+ Làm dấu thánh giá và kêu cầu ơn Chúa trợ giúp như thánh Phê-rô xưa khi sắp bị chìm: “Lạy Thầy, xin cứu giúp con!”, hoặc noi gương Đức Giê-su xua đuổi ma quỷ cám dỗ: "Xa-tan, hãy xéo đi!” (Mt 4,10).
4. THẢO LUẬN:
1) Bị cám dỗ đã phạm tội chưa? 2) Bạn có nên thử Thiên Chúa bằng việc xin khỏi bệnh mà không dùng thuốc theo toa bác sĩ, xin thi đậu mà không chăm chỉ học hành, xin được trúng số… hay không? 3) Trong suy niệm trên, bạn thấy phương thế nào hiệu quả nhất và dễ áp dụng nhất để chiến thắng ma quỷ cám dỗ?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay con rất cảm phục thái độ cương quyết không khoan nhượng của Chúa Giê-su khi đương đầu với ma quỷ cám dỗ. Chính nhờ ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, mà Chúa đã được gia tăng nội lực tinh thần. Chính nhờ luôn vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí, mà Chúa đã chọn làm theo thánh ý Chúa Cha, thi hành mọi lời Chúa Cha phán dạy và cương quyết xua đuổi ma quỷ khi nó cám dỗ bỏ Chúa Cha mà tôn thờ nó bằng câu: “Xa-tan kia, xéo đi!”.
- Lạy Chúa. xin giúp con biết nghe theo lời khuyên của thánh Phê-rô Tông Đồ: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5,6-9). Nhờ đó, con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo, luôn làm đẹp lòng Chúa Cha, noi gương Chúa khi xưa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
71. Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Chúa nhật I Mùa chay hướng chúng ta về mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu. Và Chúa nhật này cũng đưa chúng ta đến một khung cảnh, đến một sự việc bất ngờ và kỳ diệu. Chúa Giêsu, Ngôi Hai xuống thế làm người, ngày hôm nay đã bị ma quỷ cám dỗ. Thực tế, đây là một mầu nhiệm bởi vì ma quỷ làm sao dám đối diện với Vua Trời Đất cao cả...
Quả thực, Chúa Giêsu "vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu" (Pl 2, 6-9). Như thế, ngoại trừ tội lỗi, Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã làm người. Nên, Ngài là con người giống chúng ta trong mọi sự. Chúa Giêsu đã phải đối đầu với cám dỗ và Ngài đã chống trả dứt khoát. Trái ngược với Ông bà nguyên tổ: Ađam và Evà. Hai Ông bà nguyên tổ trong vườn địa đàng đã bị con rắn là ma quỷ cám dỗ, nhưng nguyên tổ đã sa ngã vì bất trung với Thiên Chúa. Còn Chúa Giêsu khi sửa soạn sứ vụ công khai của Ngài, Ngài đã đi vào nơi hoang địa để đương đầu với ma quỷ trong những cám dỗ chết người, nhưng Ngài đã một mực trung thành với thánh ý của Thiên Chúa Cha và ý chí ấy đã đưa Ngài từ Sa mạc hoang vu, tới dòng sông Giorđăng, từ Giêrusalem đến vườn Cây Dầu, nơi đây, ma quỷ còn thử thách Ngài nặng nề hơn nữa, cám dỗ Ngài bỏ sứ mạng cứu thế của Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lúc nào cũng đầy Thánh Thần và Ngài đã luôn chiến thắng những cám dỗ do ma quỷ bầy ra để kéo Ngài ra khỏi Thiên ý của Chúa Cha. Ngày Lễ Lá, chúng ta thấy Chúa Giêsu thốt lên trong vườn Cây Dầu khi Ngài đang hấp hối: "Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cất chén đắng này khỏi con". Nhưng, Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn, luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha trong lời cầu nguyện. Chính vì thế, Ngài luôn nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Ngài luôn hết mình tuân phục Thánh ý của Thiên Chúa cha: "Nhưng xin theo ý Cha, đừng theo ý của Con".
Chúa Giêsu đã luôn đi theo con đường của Thiên Chúa Cha. Đó là con đường cứu độ, con đường tình yêu. Chúa Giêsu đã đi từ đau khổ, chết tới phục sinh. Đó là Mầu nhiệm Vượt Qua. Đó là cuộc đau khổ hồng phúc của Chúa Giêsu. Bởi vì, Ngài đi qua thống khổ, bị kết án tử hình, bị treo trên Thập giá, bị táng trong mồ và sau ba ngày, Ngài đã sống lại khải hoàn. Đây là mầu nhiệm vì nó được giấu kín trong sự khôn ngoan khôn lường của Thiên Chúa Cha.
Ba cám dỗ về của ăn, tiền tài vật chất, danh vọng là ba cám dỗ đã làm cho biết bao người ngã gục trước nanh vuốt đen tối của ma quỷ. Chúa Giêsu đã anh dũng chiến thắng tội lỗi, cám dỗ và sự chết. Ngài đã đi từ cõi chết đến cõi sống, đi từ bóng tối tới ánh sáng trường sinh, vĩnh cửu.
Chúa Giêsu đã chết và đã vinh thắng sự chết, khải hoàn sống lại vinh quang. Ngài đã chết cho chúng ta được sống, Ngài đã gánh tội của chúng ta không như tội nhân mà là Đấng giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi. Mầu nhiệm phục sinh là chân lý hướng dẫn người Kitô hữu trong suốt cả cuộc hành trình đức tin dưới thế. Đặc biệt, Mùa chay ba phương thế: ăn chay, cầu nguyện, bố thí là ba phương cách truyền thống giúp người Kitô hữu kết hiệp với Chúa Giêsu và giúp người Kitô hữu hợp nhất với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, với lễ Vượt Qua của mỗi người chúng ta để rồi chúng ta có thể thốt lên: " Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời ".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào sự quan phòng của Chúa và ban cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Thần để chúng con vững mạnh trong đức tin mà chiến thắng mọi cạm bẫy của ma quỷ. Amen.
**1. Hỡi người! Hãy nhớ mình là bụi tro! - Huệ Minh
Lễ Tro (Mt 6, 1-6.16-18)
Mùa chay này là dịp để mỗi người đừng chỉ nói chung chung, mà hãy từ bỏ, sửa chữa một vài tật xấu cụ thể trong cuộc sống cá nhân cũng như trong gia đình của mình, dám chấp nhận một cuộc canh tân lột xác trong đau đớn, thực hiện liên lỉ các việc đạo đức: Cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, hay nói như Thánh Phaolô trong bài đọc hai hôm nay: Anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu, mùa chay nay này có thể là mùa chay cuối cùng, là cơ hội cuối cùng Chúa cho ta để làm lại cuộc đời, đừng bỏ lỡ cơ hội này và đừng để mùa chay qua đi cách uống phí mà không sinh hoa trái
Thứ tư lễ tro là ngày khởi đầu cho một mùa sám hối trở về. Mùa chay tịnh. Như dân thành Ninivê xưa xức tro lên đầu, ăn năn khóc lóc vì những lỗi lầm xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngày nay, người Kitô hữu cũng thú nhận thân phận yếu đuối, tội lỗi của mình qua việc lãnh nhận tro bụi. Những hạt tro nhắc nhớ thân phận con người được Thiên Chúa nắn tạo từ chúng và mai sau, khi kết thúc cuộc đời này, con người cũng phải trở về bụi tro mà thôi.
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ni-ni-vê. Ni-ni-vê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Gio-na đến báo động. Nghe vị ngôn sứ nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới còn đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Giáo hội khai mạc mùa chay bằng một nghi thức lâu đời đó là việc lãnh nhận nhúm tro được bỏ trên đầu, kèm theo lời nhắc nhở: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về tro bụi hoặc lời mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Lời thứ nhất nhắc cho chúng ta nhớ đến thân phận con người mỏng manh của mình được Thiên Chúa tạo dựng từ tro bụi, rồi tất cả sẽ trở về với tro bụi. Nhắc như thế giúp mỗi người biết xác định lại mục đích cuối cùng của cuộc đời mình, đâu là chính yếu đâu là tùy phụ, đâu là mau qua, đâu là bền vững. Thân xác này dù có đẹp đẽ đến mấy rồi cũng sẽ phải tàn tạ và chết đi trở về cát bụi, cuộc sống trần gian này dù sang trọng, dù nghèo hèn thì cũng sẽ qua đi, chỉ có Thiên Chúa mới là bền vững; cùng đích cuộc đời của mỗi con người là hạnh phúc Nước Trời và ơn cứu rỗi mới là quan trọng còn những cái chỗ nhất chỗ nhì, những cái vinh quang, tiền của, phần thửởng của thế gian này chỉ là phù du,… vì thế đừng lo chạy đua tranh giành cho được tiếng tăm hoặc chỗ nhất chỗ nhì hay vinh dự trần thế, mà linh hồn không được ơn cứu rỗi thì điều đó chẳng có ý nghĩa gì cho cuộc đời mình.
Qua tiên tri Giôen, Thiên Chúa mời gọi tha thiết: Hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, khóc lóc và than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo, hãy trở về cùng Thiên Chúa là Chúa của anh em. Thiên Chúa là người cha kiên nhẫn chờ chúng ta là con trở về để đón nhận tình yêu thương. Giống như ngày tết, khi đi xa trở về với cha mẹ, ta chỉ mong được vùi đầu vào vòng tay của cha mẹ, được ngửi mùi thân quen từ thuở nhỏ, thì cũng vậy, Thiên Chúa luôn giang rộng đôi tay để chờ và ôm chúng ta vào lòng, cho chúng ta được cảm nhận lòng thương xót của Chúa, được nếm hưởng lòng khoan dung tha thứ của Chúa. Vì thế, Chúa muốn chúng ta phải có một thái độ chân thành, không hình thức giả dối bên ngoài, trở về với Thiên Chúa không phải vì gượng ép hay sợ hãi, nhưng vì tin vào tình yêu và sự tha thứ của Chúa.
Lời mời gọi trở về không chỉ dành cho người tội lỗi nhưng cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, từ cụ già cho đến thiếu nhi, từ tân lang cho đến người giúp việc, mọi chức vị thành phần và tất cả những ai nhìn nhận Chúa là Cha. Ngày trở về sẽ là ngày tết, ngày xum họp đại gia đình của Thiên Chúa. Ngày ấy, Thiên Chúa như người cha vui mừng hạnh phúc khi thấy con cháu xum vầy. Ngài cho mở đại tiệc để tất cả mọi người cùng tham dự vào ngày hội vui của Thiên Chúa.
Tin Mừng của ngày lễ tro hôm nay nói về sự công chính của người Do Thái dựa trên 3 lãnh vực: Bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Từ câu 1 đến câu 4, Thánh sử Matthêu nói đến cách cư xử của chúng ta cần phải có khi thực thi tinh thần bác ái, giúp đỡ anh em trong cảnh gian nan, khốn khổ: “khi làm việc lành phúc đức... chớ phô trương... khua chiêng, đánh trống...” Bố thí là một công việc tốt, cần làm đối với tha nhân. Chúa Giêsu không đả phá hay công kích việc bố thí, nhưng Ngài cảnh giác về thái độ mà người Do Thái cần phải có khi thực hiện việc bác ái này. Ngài khẳng định những phô trương, khoe mẽ ầm ĩ là “cốt để người ta khen” (c.2) và như vậy là đã được người đời thưởng rồi, còn cần chi Thiên Chúa thưởng nữa. Bên cạnh đó, Ngài chỉ cho một cách bố thí “đừng để tay trái biết việc tay phải làm” (c. 3) nghĩa là cần khiêm tốn, âm thầm hết sức có thể, không tìm tự mãn, tự hãnh diện về công viêc mình làm ngay ở trong lòng, trong chính con người của mình. Chỉ như thế. Thiên Chúa mới trả công cho ta được.
Cầu nguyện là hơi thở và là sức sống của kẻ có đạo, và hơn thế nữa cầu nguyện là thể hiện tư cách là con cái Chúa, là cuộc gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa, vì vậy Chúa muốn mỗi người hãy vào phòng đóng cửa lại để cầu nguyện, tức là hãy vào trong sự thinh lặng của tâm hồn, là để tâm hồn thật thanh thản nhẹ nhàng mỗi khi gặp gỡ Chúa. Như vậy, vào phòng đóng cửa lại để cầu nguyện có nghĩa là trò chuyện riêng tư với Chúa ở ngay trong tâm hồn, và như thế chúng ta có thể gặp gỡ và cầu nguyện với Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào: ở nhà thờ, ở nơi làm việc, khi đi đường, lúc ở nhà. Một cái cám dỗ rất lớn ngày hôm nay đối với nhiều người đó là lười cầu nguyện, không cầu nguyện là một tâm hồn không có sức sống, không cầu nguyện nó còn là dấu chỉ của một tâm hồn kiêu căng không biết cậy dựa vào Thiên Chúa, là một thái độ sống vô ơn trước những ơn lành của Thiên Chúa. Bắt đầu từ mùa chay này mỗi người hãy dành nhiều giờ hơn cho việc cầu nguyện gặp gỡ Chúa mỗi ngày, hãy tổ chức lại giờ kinh giờ cầu nguyện mỗi tối ở nơi gia đình, vì khi tụ họp lại bên nhau trước mặt Chúa, Chúa sẽ hiện diện và biến đổi mỗi thành viên trong gia đình nên tốt hơn, Chúa sẽ bảo vệ hạnh phúc và sự êm ấm của các gia đình.
Chay tịnh không có nghĩa là hà tiện, nhưng còn là việc giảm bớt những chi tiêu để có thể chia sẻ với người khác ; không để mình mất quá nhiều thời giờ vào việc ăn uống cùng các thứ hưởng thụ nghiện ngập, nhưng biết dành những thời giờ đó để đến gặp gỡ với Thiên Chúa và chia sẻ với anh em. Hơn nữa qua việc làn chủ bản thân, dành thời giờ đến với Chúa và đến với anh em, việc chay tịnh có thể chữa lành được những vết thương trong tâm hồn, xoá đi những lối sống đơn điệu nhàm chán và làm cho cuộc sống của chúng ta đầy tràn tình yêu thương hơn.
Một người có thể dễ dàng ăn kiêng theo lệnh của bác sĩ, hoặc vì lý do sắc đẹp, họ sẵn sàng ăn kiêng, tập luyện. Nhưng ăn chay không phải là ăn kiêng. Chay tịnh là một việc làm đạo đức trong tôn giáo, việc chay tịnh thể hiện ý chí, quyết tâm của con người dứt khoát không để mình bị lệ thuộc vào vật chất, không đế nó làm chủ và điều khiển bản năng của mình. Với lối sống dễ dãi, chạy theo hưởng thụ, tiêu dùng và thoả mãn ngày nay, việc chay tịnh là một thách thức với nhiều người. Nhiều người đã để mình bị lệ thuộc hoàn toàn vào vật chất, biến mình trở thành nô lệ, hoặc con nghiện cho các thú vui. Vì thế, Lời Chúa mời gọi chúng ta giữ chay không phải là làm ra vẻ rầu rĩ, ủ dột bên ngoài, nhưng phải là sự quyết tâm từ bên trong, tránh mọi sự lôi kéo của vật chất và đam mê, trong đó có sự đam mê ăn uống, để con người của mình được nhẹ nhàng thanh thoát mà đến cùng Chúa.
Tin vào Tin mừng là tin vào Thiên Chúa và lời hứa của Ngài, tin vào sự hướng dẫn của Ngài vì Chúa Giêsu đến để chỉ cho chúng ta biết cách sống đẹp lòng Thiên Chúa, biết cách sống cho xứng với phẩm giá con người và con Chúa, và Ngài còn chỉ dẫn chúng ta con đường về với Chúa con đường hạnh phúc thật là cùng đích cuộc đời chúng ta. Bước vào Mùa Chay, Tin Mừng chỉ cho chúng ta những việc làm cụ thể, thể hiện lòng sám hối, thể hiện quyết tâm thay đổi cuộc đời bằng ba việc: Cầu nguyện, bố thí và ăn chay, nhưng trước hết vẫn là lời cảnh báo: Khi làm việc lành phúc đức anh em phải coi chừng đừng phô trương cho thiên hạ thấy, bằng không anh em sẽ mất công phúc trước mặt Cha trên trời. Cái cám dỗ triền miên của con người đó là sự khoe khoang khoác lác, là sự kể công, kể thành tích của mình và đòi người khác phải ghi công ghi danh của mình, hoặc đòi ưu tiên quyền lợi cách này cách khác. Một khi chúng ta để mình rơi vào cám dỗ đòi quyền lợi đòi ưu tiên, một khi chúng ta chỉ còn chú tâm đòi hỏi ưu tiên quyền lợi ở trần gian khi làm việc công phúc hoặc làm việc cho Chúa, cho giáo hội, thì chúng ta đang đánh mất phần thưởng của Chúa, vì Thiên Chúa biết tất cả sự hy sinh của chúng ta, chúng ta muốn được trả ở thế gian này thì chúng ta mất phần thửơng từ tay Chúa ở trên trời.
2. Suy niệm Lễ Tro - Lm. Anthony Trung Thành
Mới đây xuất hiện trên mạng hình ảnh những chị em phụ nữ Trung Quốc rủ nhau xuống mồ nằm. Khi mới nhìn thấy những hình ảnh này, chắc hẳn ai nấy đều thắc mắc là không hiểu vì sao họ lại làm như vậy?
Tuy nhiên, trên thực tế đây chỉ là một phương pháp để giảm bớt căng thẳng của chị em phụ nữ Trung Quốc sau hôn nhân đổ vỡ. Theo người sáng tạo phương pháp này (bà Liu Taijie) chia sẻ, khi nằm xuống huyệt, họ sẽ cảm nhận như mình đã chết. Khi đó, họ mới hiểu rằng còn nhiều thứ trên đời mà họ còn chưa làm được. Từ đó, những người tham gia sẽ bỏ qua quá khứ buồn đau, bắt đầu cuộc sống mới cho riêng mình. (Nguồn: Internet).
Bắt đầu Mùa Chay, Giáo hội cũng đưa ra nhiều phương pháp để giúp chúng ta chữa trị tâm hồn: Đó là sám hối, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí. Với lễ nghi xức tro hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta: “Hãy nhớ rằng mình là tro bụi, một mai rồi sẽ trở về bụi tro.”(St 3,19). Thật vậy, tro chỉ sự chóng qua mau tàn: Đó chính là thân phận bèo bọt của con người, như lời thánh vịnh 102 diễn tả:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 102, 15-16)
Tro chỉ sự khiêm nhường: Khi chấp nhận được xức tro trên đầu là chấp nhận sự thấp kém, chấp nhận sự chóng qua mau tàn của mình. Chính ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (x. St 18,27). Tro cũng chỉ sự sám hối: Việc rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi và là dấu chỉ lòng ăn năn sám hối của con người với Thiên Chúa (x. 2Sm 13,19; Mac 3,47 ; Eth 4,1; Mt 11,21). Khi xức tro, thừa tác viên cũng có thể dùng lời Kinh thánh sau đây để mời gọi các kitô hữu sám hối: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15). Tiên tri Giô-en mời gọi chúng ta hãy sám hối thực lòng: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Ge 2,12). Sám hối thực lòng là “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo” (Ge 2,13). Đó là hành động dũ bỏ những tội lỗi trong con người chúng ta. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-11). Con người cũ đó là: gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam…giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục. Dũ bỏ con người cũ nhưng phải thay thế vào đó bằng những việc lành phúc đức. Mùa chay mời gọi chúng ta thay thế bằng cầu nguyện, ăn chay, làm phúc bố thí.
Việc cầu nguyện: Cầu nguyện là trò chuyện với Chúa. Cầu nguyện đối với người kitô hữu như cá cần nước để sống. Khi cầu nguyện chúng ta bắt chước gương Đức Giêsu: Ngài cầu nguyện khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, nhất là trước những vấn đề hệ trọng. Khi cầu nguyện chúng ta thi hành bổn phận Đức Giêsu dạy: Ngài dạy chúng ta cầu nguyện theo Kinh Lạy Cha; Ngài dạy chúng ta cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ; Ngài dạy chúng ta cầu nguyện cho kẻ thù; Ngài dạy chúng ta cầu nguyện để xua trừ ma quỷ, vì có những thứ quỷ chỉ có trừ được bằng cầu nguyện, như có lần Ngài nói: “Giống quỷ ấy chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”(Mc 9,29). Khi cầu nguyện nhắc nhở chúng ta sống tín thác vào Chúa. Đức Giêsu nói: “Không có Thầy các con không thể làm được việc gì?”(x. Ga 15,5). Vậy, chúng ta hãy xét mình lại về tinh thần cầu nguyện của chúng ta như thế nào? Cầu nguyện riêng? Cầu nguyện chung? Cầu nguyện trong gia đình, ở nhà thờ? Cầu nguyện khi thành công? Cầu nguyện khi thất bại?...
Việc ăn chay: Nhằm giúp chúng ta làm chủ các ham muốn của xác thịt, tâm hồn gia tăng cách tự do để hướng tới sự chiêm niệm về các điều thiện hảo và đặc biệt là để đền bù các tội lỗi của mình, Giáo hội mời gọi chúng ta ăn chay. Ăn chay theo luật bao gồm việc nhịn ăn và kiêng ăn. Việc nhịn ăn: Trong ngày ăn chay không được ăn vặt, chọn một bữa ăn no, còn hai bữa kia chỉ được ăn vừa hoặc ăn ít. Việc kiêng ăn: Kiêng ăn thịt loài máu nóng như thịt heo, gà, bò, vịt…Ngày hôm nay, Giáo hội chỉ buộc ăn chay trong hai ngày: Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Ngoài ra, Giáo hội khuyến khích người kitô hữu ăn chay theo khả năng và hoàn cảnh của từng người. Đặc biệt, Giáo hội luôn mời gọi con cái mình ăn chay theo nhiều cách thế khác nhau. Chẳng hạn: giảm bớt tiêu xài; kiêng ăn uống say sưa; không nói xấu nói hành; không xem những bộ phim xấu, những tranh ảnh khiêu dâm…Tiên tri Isaia còn cho chúng ta biết về cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích nhất, đó là: “mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).
Việc bố thí: Một trong những ý nghĩa của việc ăn chay là bớt phần ăn của mình để làm phúc bố thí cho người nghèo. Vì vậy, việc ăn chay và bố thí luôn đi đôi với nhau. Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta: “Mùa chay là mùa thuận tiện để mở cửa cho tất cả những ai đang túng quẫn và nhận ra nơi họ khuôn mặt của Chúa Kitô.” Trong Tin mừng theo Thánh Mathêu, Đức Giêsu cũng cho chúng ta biết, khi làm phúc bố thí cho những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa, và đó cũng là điều kiện để được hạnh phúc Nước Trời. Vị Thẩm Phán mời gọi kẻ lành vào hưởng hạnh phúc nước trời bằng những lời thân thương sau đây: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết vận dụng những phương pháp mà Giáo hội đưa ra trong Mùa Chay thánh này, đó là sám hối, ăn chay, cầu nguyện và làm phúc bố thí để chữa trị tâm hồn chúng con, giúp chúng con có sức chiến đấu với sự dữ và ma quỷ. Amen.
3. Hãy mở lòng ra - + ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Lễ Tro (Ge 2,12-18; 2Cr 5,20 – 6,2; Mt 6,1-6. 16-18)
Tân Tổng thống Hoa kỳ Donald Trump đã quyết định xây bức tường dọc theo biên giới, nhằm ngăn chặn người nhập cư từ Mexico vào Hoa kỳ. Đức Thánh Cha Phanxico và Hội đồng Giám mục Hoa kỳ đã nhiều lần lên tiếng: Nên xây cầu. Không nên xây tường. Xây tường là thái độ đóng kín. Là thu mình vào cá nhân ích kỷ. Là nghèo nàn tàn lụi. Xây cầu là thái độ mở lòng ra với Chúa, với tha nhân. Làm cho đời sống phong phú. Hãy mở lòng. Đó là sứ điệp Lời Chúa của ngày Thứ Tư Lễ Tro. Lời Chúa hôm nay dạy ta hãy cầu nguyện, bố thí và ăn chay. Đó là hãy mở lòng ra.
Cầu nguyện là mở lòng ra với Chúa. Mở lòng ra với Chúa là mở vào siêu việt. Con người đâu phải bị trói buộc vào mặt đất, hữu hạn,tầm thường. Con người có khả năng vươn lên siêu việt. Và còn hơn thế, Thiên Chúa là người Cha luôn yêu thương mong chờ con cái về với Người. Khoảng cách giữa con người với Thiên Chúa là vô biên. Nhưng có cây cầu nối con người vào siêu việt để gặp gỡ Thiên Chúa. Đó là cầu nguyện. Mùa Chay là mùa thuận tiện để Chúa thi ân, ban ơn cứu độ. Tháo gỡ con người khỏi trói buộc của mặt đất tầm thường, khỏi bùn lầy tội lỗi. Nâng con người lên tự do của con cái Thiên Chúa. Nên Chúa mời gọi ta hãy xây dựng cây cầu nối liền với trời cao để gặp gỡ Thiên Chúa. Hãy cầu nguyện. Hãy nâng lòng lên tới Chúa. Hãy khao khát những sự trên trời. Đóng kín vào bản thân, vào mặt đất, vào vật chất là tự giam hãm, tự tàn lụi, tự hạ thấp con người. Cầu nguyện là mở lòng ra. Là gặp gỡ Thiên Chúa. Là vươn tâm hồn lên. Là vươn nhân loại lên. Là nâng thế giới lên cõi cao thượng.
Bố thí là mở lòng ra với tha nhân. Con người lo lắng về đời sống thực tế trần gian. Nên thường vun quén cho bản thân. Vì lo cho bản thân nên thường đóng kín với tha nhân. Trong đời sống thành thị hoá hiện nay, nhà đóng kín cửa, xây tường khoá cổng là phổ biến. Người ta ít quen biết nhau. Càng ít giao du. Sống ảo rất nhiều. Thăm viếng rất ít. Vì thế không thông cảm với tha nhân. Chia sẻ càng ít lắm. Mùa Chay Chúa mời gọi chúng ta hãy mở lòng ra với tha nhân. Chung quanh chúng ta đầy thảm cảnh. Thảm hoạ Formosa khiến hàng triệu người không có thu nhập cả hàng năm nay. Thảm hoạ lũ lụt khiến bao nhiêu nhà cửa, của cải, hoa mầu trôi theo dòng nước. Chung quanh ta biết bao Lazaro đang nằm thoi thóp. Cha Thục và giáo dân Song gọc bị đàn áp dã man chỉ vì muốn đòi công lý. Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm bị đe doạ cưỡng chế vô lý. Chúng ta đừng như nhà phú hộ cứ đóng kín cửa mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Hãy mở cửa ra. Nhất là hãy mở lòng ra. Đón tiếp người cơ nhỡ. Đòi công lý cho người bị áp bức bất công. Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Thăm viếng người tù tội. Khi lòng ta mở ra với tha nhân, tâm hồn ta phong phú vì tràn đầy tình yêu thương. Có yêu thương thế giới mới đổi mới. Con người mới hạnh phúc.
Ăn chay là mở lòng ra với bản thân. Con người đóng kín với Thiên Chúa và với tha nhân là vì con người tự đóng kín vào bản thân. Chỉ nhìn vào hạnh phúc riêng mình. Tìm hưởng thụ. Đó chính là hình ảnh người phú hộ. Chỉ biết ăn uống, trang điểm cho mình. Khi con người chỉ biết chăm chút cho bản thân con người bị trói buộc vào thú tính. K. Marx đã từng nói: Trước nỗi khổ của tha nhân, chỉ có loài súc vật mới tiếp tục liếm láp bộ lông để làm đẹp cho bản thân. Khi con người biết tự chế trong ăn mặc tiêu dùng, con người thoát khỏi ràng buộc của thói cá nhân ích kỷ, thoát khỏi bị ràng buộc vào vật chất hưởng thụ. Phá đi được bức tường cá nhân ích kỷ giam hãm đóng kín vào bản thân. Con người sẽ mở lòng ra với Chúa và với tha nhân. Sẽ biết vươn tâm hồn lên siêu việt. Sẽ biết mở lòng ra với anh em. Tâm hồn mở ra sẽ phát triển cả chiều cao với Thiên Chúa và chiều ngang với tha nhân. Sẽ trở nên rộng lớn. Sẽ xứng đáng với phẩm giá của con người và của con Chúa.
Đó cũng chính là chủ đề của Sứ điệp Mùa chay năm 2017 của Đức Thánh Cha Phanxico khi ngài nêu cao: Tha nhân là hồng ân của Chúa và Lời Chúa là hồng ân của Chúa. Ngài dựa vào dụ ngôn Nhà phú hộ và Lazaro để minh hoạ cho chủ đề mở lòng ra. Ông phú hộ vì đóng kín vào bản thân mà quên Chúa, không nhìn thấy tha nhân. Đến khi ông chết mới nhận thấy Lời Chúa là quan trọng và tha nhân là hồng ân. Nhưng không còn kịp nữa.
Vậy trong mùa Chay năm nay, chúng ta hãy nghe theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha. Hãy mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa dạy. Hãy mở lòng ra với tha nhân. Khi mở lòng ra ta sẽ thấy Lời Chúa là hồng ân cao cả đem đến cho ta sự sống đời đời. Và tha nhân là hồng ân để ta được gặp Chúa, được phục vụ Chúa và được hạnh phúc.
Hãy lên một chương trình sống mùa Chay thực sự. Chương trình cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Chương trình giúp đỡ những nạn nhân đang cần trợ giúp. Chương trình thăm viếng các bệnh nhân và tù nhân. Như cô Đoàn thị Hương đang gặp khó khăn ở Malaysia…
Khi sống một mùa Chay thực sự thực tế, chắc chắn ta sẽ nhận được ơn phúc dồi dào của Chúa.
4. Làm việc lành trong khiêm hạ - Lm Đan Vinh
Lễ Tro (Ge 2,12-18 ; 2Cr 5,20-6,2 ; Mt 6,1-6,16-18)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi trình bày về sự công chính mới trong việc tuân giữ các giới răn, Đức Giê-su đề cập tới một nền đạo đức mới là phải làm các việc lành thế nào cho phù hợp với tinh thần mới của Người. Điều cốt yếu khi làm các việc đạo đức là phải khiêm tốn và theo thánh ý Chúa Cha: Tránh làm các việc đạo đức như cầu nguyện để được người ta ca tụng; Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để tìm tiếng khen nơi người đời; Tránh làm bộ mặt rầu rĩ thiểu não khi ăn chay để cho thiên hạ nể phục.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng. Chớ có phô trương cho thiên hạ thấy: Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Người phải tránh thói đạo đức giả hình của các người Pha-ri-sêu (Biệt Phái), là những kẻ “nói mà không làm”, “làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (x Mt 23,3.5). + Bố thí: Thời Đức Giê-su, bố thí là việc công chính bậc nhất (x Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới sự phô trương bề ngoài để được người khác ca tụng. + Đừng có khua chiêng đánh trống: Rất có thể những người Pha-ri-sêu thời bấy giờ dùng chiêng trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó, ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để làm nổi bật đòi hỏi tinh thần khiêm tốn, mà Đức Giê-su muốn các môn đệ của Người phải có, khi làm các việc đạo đức. + Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm mục đích tự nhiên. Do đó, họ sẽ không được hưởng công phúc thiêng liêng trước mặt Chúa Cha trên trời.
- C 3-4: + Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm”: Là một kiểu nói có nghĩa là phải giữ kín, đừng nói cho người khác biết việc mình đang làm. Người môn đệ Đức Giê-su không những phải tránh cho mọi người hay biết việc bố thí của mình, nên cần thực hiện trong âm thầm khiêm tốn.
- C 5-6: + Cầu nguyện: Chính Đức Giê-su đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo các huấn thị của Người rải rác trong các Tin Mừng thì lời cầu nguyện phải như sau: Phải cầu nguyện cách khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa (x Lc 18,10-14) và người đời (x Mt 6,5-6); Phải chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x Mt 6,7); Phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa Cha (x Mt 6,8; 7,7-11) và kiên trì nài xin (x Lc 11,5-8; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được Chúa chấp nhận khi cầu nguyện với lòng tin (x Mt 21,22); Khi cầu nguyện nhân danh Đức Giê-su (x. Mt 18,19-20); và khi xin Chúa ban những điều tốt lành (x Mt 7,11). + Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giê-su không đả kích việc cầu nguyện công khai và có tính cộng đồng (x Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ muốn tránh ý đồ phô trương công đức để được ca tụng. + Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giê-su gợi lại cách thức của ngôn sứ Ê-li-a khi ông cầu nguyện để làm cho đứa bé mới chết được sống lại (x 2 V 4,33). Cách thức cầu nguyện kín đáo này trái với cách phô trương của những kẻ giả hình. Cầu nguyện là gặp gỡ Thiên Chúa. “Vào phòng” là hồi tâm, đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ đức tin. Thiếu điều này sẽ không còn là sự cầu nguyện đích thực nữa.
- C 16-18: + Ăn chay: Đã từ rất lâu, dân Ít-ra-en có tục lệ ăn chay mỗi khi có tang chế (x 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16). Ăn chay theo luật Mô-sê là nhịn ăn uống vào lúc ban ngày. Sự nhịn ăn uống này sẽ kéo dài trong một thời gian lâu hay mau tùy trường hợp. Trong thời gian ăn chay, người ta sẽ không tắm rửa, để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo vải thô đặc biệt. Thời Đức Giê-su, dân Do Thái chỉ buộc phải ăn chay trong lễ Xá Tội vào mùng mười tháng Bảy, tức khoảng cuối tháng Chín dương lịch (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá và những lúc gặp thiên tai. Việc ăn chay này sẽ do các đầu mục quyết định. Riêng người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12), nhưng việc chay tịnh chỉ mang tính bề ngoài nhằm phô trương (x Mc 2,18), nên Đức Giê-su đã không chấp nhận sự khổ chế này của họ (x Mc 2,19-20). + Còn anh, khi ăn chay…: Đức Giê-su muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự kín đáo khiêm tốn: thay vì rắc tro lên mặt, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn… thì họ phải rửa mặt, chải dầu thơm giống như họ vẫn thường làm mỗi khi đi ra đường để người khác không biết họ đang ăn chay.
HỎI ĐÁP:
- HỎI:
1) Khi Đức Giê-su nói: “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh” (c. 4b.6b.18b), phải chăng Người muốn cổ võ một thứ luân lý vụ lợi: Cho đi để được nhận lại? 2) Muốn có giá trị trước mặt Thiên Chúa và xứng đáng được Ngài ban nhiều ơn lành, thì việc chay tịnh cần tránh những gì và cần làm những gì?
- ĐÁP:
1) Thực ra không phải vậy. Vì nếu có ý khích lệ người ta làm việc thiện để được lợi cho mình, thì Người đã hứa những lợi ích có tính thế tục như tiền của, sức khỏe, thành công… Nhưng ở đây Người không nói rõ phần thưởng Chúa Cha sẽ ban cho là gì. Nơi nhiều đoạn khác, phần thưởng được hứa hầu như luôn là Nước Trời tương lai hoặc một trong những hoa trái thiêng liêng của nó là sự sống muôn đời (x. Mt 25,46; Mc 10,30). Các môn đệ sẽ được tham dự vào quyền bá chủ của Người (x. Lc 22,28-29), được xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en trong ngày tận thế (x. Mt 19,28). Ở đây, phần thưởng Đức Giê-su hứa cho những kẻ làm việc lành phải được hiểu theo nghĩa Cánh Chung, và có tính cách vô thường, nghĩa là: được Chúa ban cho, không vì việc làm đáng thưởng, nhưng chỉ vì tình thương và lòng nhân hậu vô biên của Người (Dụ ngôn đầy tớ vô dụng: Lc 17,7-10). Hơn nữa, phần thưởng ở đây còn được hiểu là chính Thiên Chúa. Những ai làm việc thiện trước mặt Thiên Chúa, với ý hướng muốn làm đẹp lòng Ngài và để tôn vinh Ngài, thì sẽ được gặp Ngài, được xem thấy Ngài và sẽ tìm thấy hạnh phúc cho bản thân.
2) Muốn cho việc ăn chay có giá trị trước mặt Thiên Chúa, thì cần tránh cách ăn chay hình thức về ngoài đã bị Đức Chúa quở trách, và còn phải kèm theo những việc tốt lành để xứng đáng được Đức Chúa chấp nhận, như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: “Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn…”. Nào, cách ăn chay mà Đức Chúa ưa thích chẳng phải thế này đó sao: “Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm… Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ. Thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục”. Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ ngươi kêu lên Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu Người liền đáp lại: “Có Ta đây!” (Is 58,6b-9a).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Khi bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Chỗ nào trong nhà thờ loài chuột ít bị quấy rầy nhất
Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê nước Pháp. Một hôm khi đi lang thang trong nhà thờ kiếm cái gì ăn cho đỡ đói, bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn. Hai con chuột làm quen và hỏi thăm về chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ!”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn liền nói: “Vậy thì bạn hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị quấy rầy!” Chuột thứ nhất ngạc nhiên nói: “Có một chỗ ở như thế trong nhà thờ thật ư? Hãy cho tớ biết chỗ đó là chỗ nào vậy?”. Chuột thứ hai đáp: “Đó là thùng quyên góp giúp đỡ người nghèo ở cuối nhà thờ này đấy!”.
2) Bác ái chia sẻ là phương cách ăn chay đẹp lòng chúa hơn cả:
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và khát nước, nhưng theo luật ăn chay nghiêm ngặt nên không ai dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai của mình ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi để tỏ lòng cám ơn thày. Thày ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì mình đã không hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà lại có đến hai ngôi sao sáng cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương người khác của thày, Chúa đã cho thêm một ngôi sao nữa.
3. SUY NIỆM:
+ Yêu thương là cho đi: Cho nhiều là dấu hiệu yêu nhiều. Thánh Phao-lô đã khuyên các kỳ mục ở Ê-phê-xô như sau: “Và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Thánh Gia-cô-bê dạy các tín hữu phải có đức tin hành động như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?” (Gc 2,15-16).
+ Bố thí chia sẻ: Một việc đạo đức ta cần quan tâm thực hiện trong Mùa Chay là sự bố thí chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói. Việc bố thí này tuy khó thực hiện, nhưng sẽ mang lại nhiều hữu ích cho tâm hồn ta:
** Khó thực hiện vì “Đồng tiền liền khúc ruột”: Chỉ những người có lòng hy sinh và quảng đại mới có thể thực hiện được tốt công việc chia sẻ này.
** Việc bố thí giúp ta ý thức giá trị tương đối của đồng tiền: Giúp ta biết dùng đồng tiền trong việc làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi tha nhân, giúp ta bớt đi lòng dính bén với của cải vật chất như Đức Giê-su đã khuyên chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành như sau: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà chia cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).
** Bố thí còn là cách đền tội hữu hiệu: Sứ thần Raphaen đã khuyên bảo hai cha con nhà Tô-bi-a như sau: “Bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công. Làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu” (Tb 12,8-9).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI: Trong Mùa Chay, ta nên làm thêm một số việc đạo đức nào? 2) Ta cần phát hiện ra mình có mối tội đầu tức là thói hư tật xấu nào và phải làm gì để tu sửa lại?
ĐÁP:
1) Việc đạo đức: Dự lễ và rước lễ hằng ngày, mỗi ngày cố gắng làm vài ba việc hãm mình hay việc bác ái để đền tội, quyết tâm tu sửa một thói hư như: Chửi thề tục tĩu, lười biếng đọc kinh tối gia đình…
2) Tập làm các việc tốt đối lập với thói hư tật xấu, kèm theo một lời nguyệt tắt như: “Lạy Chúa, xin cho con chừa bỏ được tội nói xấu kẻ mà con không ưa, bằng cách thành thật khen ngợi ưu điểm của họ với người khác, để con được mỗi ngày một nên giống Chúa hơn”.
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Cùng với toàn thể Hội Thánh, con được bước vào Mùa Chay. Con tạ ơn Chúa đã cho con có được một thời gian thuận lợi để duyệt xét lại cuộc đời con, hầu phát huy điều tốt và chấn chỉnh những sai lỗi thiếu sót nơi bản thân con. Xin chiếu dọi ánh sáng Lời Chúa để con nhận ra con người yếu hèn của con. Nhất là xin đổ Thần Khí Chúa nâng đỡ con. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp con mới có thể mau mắn chỗi dậy trở về làm hòa với Chúa sau mỗi lần vấp ngã và ngày một nên người mới như ý Chúa muốn.
- Lạy Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, con thường tỏ ra ích kỷ, khép kín cửa lòng trước tha nhân. Đôi lúc con cũng làm được một vài việc tốt, nhưng con lại muốn nhiều người biết và khen ngợi con. Hôm nay xin giúp con biết ăn ở khiêm tốn theo lời Chúa dạy: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”, để những việc con làm luôn đẹp lòng Chúa và xứng đáng được Chúa ban Nước Trời đời sau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Hãy xé lòng, đừng xé áo
(Suy niệm Lễ Tro của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi - Mt 6, 1-6.16-18)
Chu kỳ Phụng Vụ lại xoay chuyển vần xoay. Mùa chay, bắt đầu từ ngày hôm nay và Mùa chay là thời gian chuẩn bị, dọn lòng con người. Mùa chay hướng chúng ta, đưa con người đến việc tưởng niệm mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Mùa chay được khai mào bằng việc xức tro trên đầu ngày thứ tư lễ tro. Nghi thức xức tro gợi cho con người, loài người và mỗi người chúng ta về sự thực hiển nhiên là cái chết. Trong nghi thức xức tro, vị Chủ tế xức tro trên đầu mỗi người và nói: " Hãy sám hối và Tin vào Tin mừng ". Lời mời gọi của vị Chủ tế gợi cho mỗi người về thân phận yếu hèn, tội lỗi của mình. Sám hối là kêu gọi mỗi người hãy nhìn lên Chúa để thấy Chúa cao cả, thánh thiện biết bao và nhờ đó, con người sẽ phải cố gắng, vượt thắng để noi gương bắt chước Chúa và nhận lấy tấm lòng từ ái, nhân hậu của Chúa. Giáo Hội trong nghi thức đầu Mùa chay này, cũng cho chúng ta thấy một sự thực đáng sợ mà mỗi Kitô hữu phải đối diện là cái chết. Một sự thực hiển nhiên và cũng thật bất ngờ bởi vì ai cũng phải chết nhưng giờ chết hay lúc nào con người phải chết thì không ai biết được. Đúng là sự chết thật chắc chắn những cũng thật là bấp bênh: " Người ơi hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro ". Con người vẫn biết mình là bụi tro như Thiên Chúa đã phán với Ông bà nguyên tổ là Ađam và Evà rằng: " Con người từ bụi đất sẽ trở về với bụi đất ". Đó là một sự thực thật rõ ràng, nhưng cũng rất bấp bênh. Nhiều người đã cùng chúng ta sống Mùa chay năm trước cũng như các năm trước nữa, vô số người đã gặp gỡ chúng ta, đã trao đổi, trò chuyện cùng chúng ta, nhưng hôm nay trong thánh lễ này, họ đã khuất, họ đã ra đi. Đó là sự kinh ngạc, bỡ ngỡ, bấp bênh của kiếp người. Nhưng hiển nhiên, chúng ta không hề biết tại sao họ lại ra đi như thế. Đó cũng là mầu nhiệm của sự chết và là huyền nhiệm của kiếp người xem ra rất vững chắc nhưng cũng lại thật là mong manh, mỏng dòn và dễ vỡ. tuy nhiên, có một điều tối quan trọng là chúng ta có đủ chuẩn bị chắc chắn cho cái chết của chúng ta hay không? Cái chết của chúng ta có dẫn chúng ta tới sự sống đời đời và đưa chúng ta tới sự phục sinh của Chúa?
Chúa ban chúng ta cơ hội, thời gian để sám hối và tỉnh thức chờ đợi Ngài tới trong vinh quang. Chết là hết. Chúa không cho chúng ta cơ hội, dịp thuận tiện thứ hai để dọn mình chờ đón cái chết. Điều quan trọng nhất, chúng ta có trung thành với Chúa suốt cả cuộc đời hay không, hay chúng ta ơ hờ, buông xuôi mặc thời gian Chúa ban để chơi bời, phung phí những giây phút quí báu của cuộc sống con người. Cái chết đáng sợ thật, nhưng nếu chúng ta đã sẵn sàng, gắn bó với Chúa, trung thành với sứ mạng Thiên Chúa trao phó: quá khứ, hiện tại, tương lai đều là của Chúa. Chúng ta không thể thay đổi, đẩy lùi quá khứ, chúng ta cũng chẳng hiểu được, đoán được tương lai. Hiện tại là quan trọng bởi vì tất cả đều là hồng ân và đều là thời gian của Chúa. Chúng ta hãy sống khoảnh khắc hiện tại với mức cao độ của yêu thương thì chúng ta sẽ sống tốt khoảnh khắc cuối cùng của đời mình. Chúng ta hãy đọc lại những lời của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI viết trong " Tư Tưởng Về Cái Chết " như sau: " Không nhìn lại đàng sau nữa, nhưng con vui vẻ làm bổn phận trong lúc này đây như là ý Chúa, một cách đơn sơ, khiêm tốn, và mạnh mẽ. Làm nhanh, làm tất cả, làm tốt. Làm một cách tươi vui: điều mà Chúa muốn nơi con trong lúc này đây, cả khi nó vượt quá sức lực của con và cả khi nó đòi hỏi mạng sống của con đi nữa. Sau cùng, trong giờ phút này ".
Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định, phải là điều xinh đẹp nhất của cuộc đời chúng ta. Chúng ta hãy dành cho tất cả mọi người tình yêu thương, nụ cười của chúng ta mà không mất đi một giây nào.
Mỗi khoảnh khắc của cuộc sống chúng ta hãy là:
khoảnh khắc đầu tiên
khoảnh khắc cuối cùng
khoảnh khắc duy nhất.
(Trích trong Chứng Nhân Hy Vọng TGM F.X Nguyễn Văn Thuận, Công Đoan Đức Mẹ La Vang ấn hành 2.000, trg 98-99).
Vâng, Chúa mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là chúng ta phải tránh xa tội lỗi mà trở về với Chúa đồng thời chúng ta phải để Chúa thay đổi thực sự tâm hồn mỗi người chúng ta. Suốt Mùa chay, mỗi Kitô hữu hãy siêng năng tham dự thánh lễ hằng ngày, năng chịu các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa giải và siêng năng lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô. Đây là việc sám hối đích thực và là cơ hội thuận tiện, giờ cứu độ để chúng ta sám hối ăn năn và nhìn lên Chúa để lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta hãy nhớ lại giáo huấn của Giáo Hội qua Phụng vụ hôm nay: " Người là tro bụi và sẽ trở về với bụi tro ". Chúa nói: " Hãy xé lòng chứ đừng xé áo ".Phải cải hóa nội tâm, phải thay đổi chứ không chỉ sống bề ngoài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết vượt thắng các cám dỗ như Chúa đã đối diện với những cám dỗ và đã vượt thắng một cách vẻ vang. Amen.
6. Thứ Tư Lễ Tro - JKN
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hòa với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ni-ni-vê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá hủy thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã hủy bỏ dự định phá hủy thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giê-su hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội...
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giê-su đề cập đến qua câu nói: "Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện" (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giê-su đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không nằm trong việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà nằm trong tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh... Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: "Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương" (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Ngôn sứ Giô-en trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh đến cái cốt tủy bên trong của việc chay tịnh: "Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em" (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ I-sa-i-a lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: "Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?" (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng "các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ" (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là "tình yêu biểu diễn", "có vẻ yêu thương", mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giê-su khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: "Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo".
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ I-sa-i-a, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ... trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
29/02 Tin mừng của lòng thương xót
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Tin mừng của lòng thương xót.
Thứ bảy sau lễ Tro.
“Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
Lời Chúa: Lc 5, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: “Hãy đi theo Ta”. Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài.
Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: “Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?” Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kêu gọi người tội lỗi sám hối
Suy niệm:
Việc Thầy Giêsu kêu gọi anh Lêvi làm môn đệ
phải được coi là một cuộc cách mạng lớn vào thời bấy giờ.
Chẳng ai gọi một người thu thuế bị xã hội khinh miệt vào nhóm của mình.
Làm thế là hạ giá chính Thầy và cả nhóm môn đệ.
Đức Giêsu đã vượt qua những biên giới ngăn cách rạch ròi
giữa tội lỗi và công chính, giữa thanh sạch và ô nhơ.
Người Do Thái thường không giao tiếp với các người thu thuế,
họ bị coi là tội nhân vì làm việc cho dân ngoại, vì dễ ích kỷ tham lam.
Đức Giêsu chẳng sợ mời anh Lêvi đi theo mình: “Anh hãy theo tôi.”
Ngài không nhìn anh bằng ánh mắt khác với các môn đệ kia.
Chỉ một lời mời của ngài đủ lấp đi mọi hố sâu ngăn cách.
Lêvi đã quảng đại đáp lại bằng hành động: bỏ tất cả, đứng dậy, đi theo.
Đối với người Do Thái, bữa ăn có tính thiêng liêng.
Đó là lúc người ta thông hiệp với nhau, nên một trong tình bạn.
và cùng chia sẻ với nhau một thứ đồ ăn, thức uống.
Chính vì thế ăn uống với người tội lỗi là điều không được phép,
vì điều ấy sẽ khiến mình bị ô nhơ.
Đức Giêsu có vẻ không sợ chuyện này,
khi ngài nhận lời ăn tiệc chia tay do anh Lêvi khoản đãi.
Bữa tiệc thật là lớn, có đông đủ bạn bè đồng nghiệp của anh.
Trong số khách mời có cả các môn đệ.
Đức Giêsu dám đến nhà người tội lỗi và ăn với họ.
Hẳn là ngài rất vui và tự nhiên, chẳng có gì phải e dè, xa cách.
Chỉ có những người Pharisêu là khó chịu và lẩm bẩm đặt câu hỏi tại sao.
Đức Giêsu sẽ cho họ thấy những lý do.
Vì những người thu thuế và tội nhân là những người đau yếu (c. 31).
Những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc Giêsu.
Vì mục tiêu của đời Đức Giêsu là kêu gọi người tội lỗi sám hối (c. 32),
nên ngài phải đến với họ, gần gũi và chia sẻ, mời gọi và yêu thương.
Đức Giêsu cho họ thấy trái tim thật sự của Thiên Chúa.
Không như người Pharisêu nghĩ, trái tim ấy có chỗ cho tội nhân.
Đức Giêsu cũng dành chỗ cho anh Lêvi trong nhóm môn đệ.
Đức Giêsu giúp chúng ta biết cách mời người khác hoán cải.
Đến với họ, nhìn họ bằng cái nhìn mới, và vui vẻ làm bạn với họ.
Trước khi làm cho người khác hoán cải,
chính chúng ta phải hoán cải nơi cái nhìn của mình về người khác.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Tin mừng của lòng thương xót
Vua thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình.
Có một nông dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân.
Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trung mùa của mình. Mọi người không ngờ rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất.
Nhà vua sai các cận vệ đem đến một cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vào bằng củ cải này và trao cho người nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xua nịnh và chờ chực đặc ân”.
Giai đoạn trên đây có thể gợi lại cho chúng ta thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ bé mọn, nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, nói chung những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài kết thân với họ, đồng bàn với họ, và tuyên bố họ là những người vào Nước Trời trước những kẻ tự xưng là công chính. Những con người nghèo khổ ấy là một thể hiện cụ thể của mối phúc đầu tiên mà Chúa Giêsu đã công bố trong Bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng được loan bao cho những người nghèo, hay đúng hơn chỉ người nghèo mới có thể mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin mừng.
Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng thương xót: chỉ khi nào con người nhận thức được thân phận nghèo hèn tội lỗi cảu mình, con người mới thấy được tình thương bao dung hải hà của Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng càng dồi dào”. Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng tin tưởng phó thác: có thấy được nỗi bất toàn của mình, con người mới cảm nhận được sức mạnh nâng đỡ của Chúa. Tin mừng của Chúa là Tin mừng của an bình, hạnh phúc: có dốc cạn những ham muốn ích kỷ và những sức mạnh của danh vọng, có trở nên thực sự trống rỗng, thanh thoát, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy và tìm được hạnh phúc bình an đích thực.
Giữa những bôn ba tìm kiếm của cuộc sống, xin cho chúng ta luôn đặt Chúa vào chỗ nhất. Cho dù phải đánh mất tất cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng chúng ta đang có tất cả và được Chúa làm gia nghiệp duy nhất.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Trở về
Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các Ngài. (Lc. 5, 27-29)
Đức Giê-su đến không phải để kêu gọi người công chính. Nhưng để kêu gọi những người tội lỗi. Những người đáng phải quan tâm là những người nghèo khó, khốn khổ, đói khát, tội lỗi, và tất cả những kẻ bị xã hội coi là hạng bất hảo (pas bons). Những người ấy được Chúa muốn biến đổi, muốn cứu chuộc. Đó là những kẻ Người phó dâng đời sống, niềm vui và bình an của Người cho họ. Họ được Người kêu gọi trở về.
Ước mong chúng ta được vào nhóm các người “bất hảo” ấy để được Đức Giê-su mời gọi đến với Người. Chúng ta không luôn luôn dễ dàng nhận mình vào hạng xấu đó đâu. Chỉ cần thấy chúng ta liếc nhìn những người sống chung quanh chúng ta, là chúng ta nghĩ mình chẳng hề xấu như thế, cho nên chúng ta không cần ăn chay trở lại.
Thực ra cũng đúng. Chúng ta khá can đảm, và là người tín hữu khá tốt. Chắc có nhiều kẻ xấu hơn chúng ta! Nhưng nghĩ mình không cần ăn năn trở lại thì đã tự đặt mình ra rìa, và là kẻ tự cao tự đại quá xá rồi.
Cứ nhìn ông Lê-vi đã làm, chúng ta có thể có một chút hiểu biết về thế nào là trở về, rồi ra đi bỏ hết cả tài sản. Ông đã bỏ hết như Tin mừng nói. Ông đã bỏ chức vị. Ông đổi mới cái nhìn, đổi mới phán đoán, đổi mới những tập quán thói quen của đời sống. Và ông đã bắt đầu sống trở về tận nguồn gốc theo Đức Ki-tô mời gọi.
Nếu muốn được trở về, phải sống tận nguồn gốc là Tin mừng để thấy phải từ bỏ mọi hòa hoãn, mọi nửa vời và đi đến tột đỉnh chí thiện và chí ái, lúc đó chúng ta mới thấy sáng tỏ sự cần thiết phải sám hối trở về biết chừng nào. Ai nghĩ ngược lại thì chỉ là kẻ tự phụ, lừa dối mình.
SUY NIỆM 4: TỪ BỎ... VÀ ĐI THEO ĐỂ LÀM LẠI CUỘC ĐỜI (Lc 5, 27-32)
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn thấy đây đó có những người đạo đức tốt lành xuất hiện như một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta noi theo! Tuy nhiên, trong số đó, không thiếu những thành phần ăn chơi trác táng một thời; đầu trộm đuôi cướp khét tiếng; hay cũng không thiếu những vị trước đó buôn gian bán lận, sống bằng nghề nhàn hạ khi cho vay nặng lãi trên xương máu của anh chị em mình...
Tại sao họ lại có một sự thay đổi đến lạ thường như vậy? Thưa! Bởi vì họ đã biết dừng lại, nhận thấy mình đi sai đường và nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nên họ thay thái độ để đổi cuộc đời trong ân sủng của Người.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy một Mátthêu ăn trên ngồi trước, hà hiếp, bóc lột, phản dân, hại nước khi sống bằng nghề thu thuế cho đế quốc! Nhưng hôm nay, trên chiếc ghế đã gắn liền cuộc đời ông với cái nghề đáng nguyền rủa; trên chiếc bàn đã là bệ kê cho ông chắp bút để ghi những con số nhơ nhớp, bẩn thỉu nhằm thu lại những đồng tiền khốn cùng nơi anh chị em đồng loại của ông. Nhưng chính một thứ tội không thể tha, một con người đáng khinh bỉ, thì hôm nay, tấm lòng nhân hậu của Đức Giêsu ngang qua ánh mắt cảm thông, trìu mến và lời mời gọi đầy yêu thương: "Anh hãy theo tôi !", đã đảo lộn tất cả. Vì thế, như cá gặp nước, Mátthêu đã sẵn sàng đứng dạy, từ bỏ nơi chốn tội lỗi, và dứt khoát quay lưng lại với cái nghề ám muội để đi theo và làm môn đệ cho Đức Giêsu.
Từ khi bước theo Thầy Chí Thánh, ông đã trở thành người đầy kinh nghiệm về Thiên Chúa tình thương, và luôn mang trong mình tâm tư, nguyện ước của Thầy. Sau này, ông đã viết lại một con người vĩ đại đã cải hóa cuộc đời ông nơi những trang Tin Mừng đầy sống động.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối như Mátthêu và có lòng nhân từ như Đức Giêsu. Đồng thời tránh xa và không được lưu trữ thái độ coi thường, khinh bỉ, cố chấp như những người Pharisêu trong tâm trí của mình, bởi vì trên đời này có ai là vô tội đâu? Tự nhận mình là người xứng đáng và coi khinh kẻ khác là dấu hiệu của một tâm hồn trống rỗng, kiêu ngạo, thích đi theo và làm môn đệ cho ma quỷ chứ không phải là môn sinh của Thầy Giêsu.
Thật vậy, nếu là học trò của Đức Giêsu, chúng ta phải hiểu và thấm câu nói của Thầy mình: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” vì “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết khiêm tốn, lắng nghe lời mời gọi của Chúa, để sẵn sàng đi theo và làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con biết yêu thương và nâng dạy những người tội lỗi như Chúa khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
28/02 Ý nghĩa của việc ăn chay
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Ý nghĩa của việc ăn chay.
Thứ sáu sau lễ Tro.
“Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Lời Chúa: Mt 9, 14-15
Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: “Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?”
Chúa Giêsu nói với họ: “Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chàng rể bị đem đi
Suy niệm :
Có một sự khác biệt về lối sống giữa Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu.
Gioan sống khổ hạnh nơi hoang địa, ông lôi kéo người ta đến với ông.
Ông dọa tội nhân về cơn thịnh nộ mà Thiên Chúa sắp giáng xuống.
Còn Đức Giêsu thì đến với những kẻ tội lỗi, bị xã hội loại trừ,
ăn uống vui vẻ với họ vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 11, 18-19).
Sau khi Gioan đã bị tống ngục (4, 12)
các môn đệ của ông vẫn tiếp tục hoạt động (11, 2-6).
Chắc họ khó chịu khi thấy các môn đệ của Thầy Giêsu không ăn chay,
không có vẻ khắc khổ, nhiệm nhặt như họ hay như người Pharisêu,
nên họ hỏi thẳng Thầy về chuyện này (c. 14).
Thầy Giêsu trả lời họ bằng một câu hỏi khác (c.15):
“Khách dự tiệc cưới có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ sao?”
Dĩ nhiên là không rồi!
Câu nói của Thầy Giêsu cho thấy bầu khí Thầy-trò trong nhóm
là bầu khí vui tươi ấm áp, bầu khí của một tiệc cưới.
Thầy là chàng rể, còn trò là khách dự tiệc.
Thời gian Thầy ở với các môn đệ là thời gian hạnh phúc cho họ.
Trong Cựu Ước, hình ảnh chàng rể để chỉ Thiên Chúa (Is 62, 4-5),
Đấng kết duyên cầm sắt với dân Ítraen (Hs 2, 21-22).
Còn ở đây Đức Kitô kín đáo nhận mình là chàng rể.
Chàng rể là nhân vật chủ yếu của tiệc cưới.
Tiệc cưới ấy chính là Nước Trời được ngài khai mở (Mt 22, 1-14; 25, 1-13).
“Nhưng sẽ đến ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ…” (c.15).
Đây không phải là một lời tiên báo rõ ràng về cuộc khổ nạn,
nhưng là một ám chỉ đến cái chết bất ngờ sắp xảy ra.
Chàng rể Giêsu chẳng ở luôn với các môn đệ (Mt 26, 11).
Có ngày họ sẽ không còn thấy Thầy nữa, “bấy giờ họ mới ăn chay.”
Ăn chay đối với Kitô hữu là thái độ chuẩn bị ngày Thầy trở lại.
Ăn chay làm ta nhẹ nhàng để chờ ngày gặp Chúa diện đối diện.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường việc ăn chay.
Ngài đã ăn chay bốn mươi ngày trước khi bắt đầu sứ vụ (Mt 4, 2).
Hội thánh sơ khai cũng gắn liền cầu nguyện với ăn chay (Cv 13, 2-3)
Thánh Phaolô vẫn ăn chay, dù vất vả với tông vụ (2 Cr 6,5; 11, 27).
Để rước lễ, chúng ta phải kiêng ăn uống khoảng một giờ.
Ngày thứ sáu vẫn là ngày kiêng thịt theo luật chung của Hội thánh.
Ước gì việc ăn chay làm ta gặp Chúa, gặp anh em và gặp lại chính mình.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã có kinh nghiệm về cái đói,
sau khi ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa.
Sau khi được dân chúng tung hô lúc vào thành Giêrusalem,
Chúa cũng đói đến mức phải tìm trái nơi cây vả.
Chúa đã xin nước uống nơi người phụ nữ Samari,
và Chúa đã nếm cái khát của người bị mất máu trên thập giá.
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa có thân xác như chúng con,
nên Chúa đã bênh các môn đệ khi họ bứt lúa mà ăn vì đói,
Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều vì sợ người ta xỉu dọc đường,
Chúa đã bảo nhà ông trưởng hội đường cho cô bé mới hồi sinh được ăn.
Đói khát là chuyện bình thường của thân xác con người,
và Chúa chẳng bao giờ coi thường những nhu cầu chính đáng của nó.
Nhưng xin nhắc chúng con nhớ rằng
con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời Chúa,
con người không chỉ đói khát thức ăn vật chất
mà còn khao khát những giá trị tinh thần của Nước Trời.
Xin dạy chúng con chia sẻ cho những Ladarô đang nằm ngoài cổng,
và đừng khép cửa lòng như ông nhà giàu xây thêm kho.
Xin cho chúng con hiểu được giá trị của một ly nước lạnh được trao đi,
một tấm bánh giữa đêm khuya cho người bạn mượn,
và chút vụn bánh rơi xuống từ bàn ăn đủ nuôi một người.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là người đói khát vẫn ngửa tay xin chúng con mỗi ngày
mà chúng con không hay.
Xin giúp chúng con bắt chước Chúa trong bữa tiệc cuối cùng
dám bẻ ra và trao đi tấm bánh đời mình để phục vụ tha nhân.
Ước gì mai này chúng con được đồng bàn với Chúa
và với mọi người thành tâm thiện chí trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Ý nghĩa của việc ăn chay
Bên Trung Quốc có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc cho gọi ông đến và hỏi: “Nhà người có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?” Nhà điêu khắc trả lời: “Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, việc gì xảy ra là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi”.
Công trình giữ chay của các tín hữu trong mùa chay mỗi năm được gán cho nhiều ý nghĩa: nào là chay tịnh để kềm hãm một nhu cầu mạnh mẽ nhất trong con người, đó là ăn uống để sinh tồn, nhờ đó có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức; nào là ăn chay để kinh nghiệm được sự đói khát, nhờ đó có thể cảm thông và chia sẽ với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp của mình; nào là ăn uống kham khổ để tiết kiệm được một số tiền hầu đóng góp vào các chương trình bác ái, từ thiện. Ăn chay để tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người không chỉ lo làm lụng để cung phụng cho thân xác và đời sống vật chất, nhưng còn cố gắng hướng lên những mục đích tối thượng thiêng liêng. Tất cả những ý nghĩa đó của việc ăn chay có những yếu tố rất tích cực, đáng suy nghĩ và thực hành. Nhưng còn một ý nghĩ khác rất quan trọng, đó là ăn chay để tập trung tư tưởng, nhờ đó khám phá hình ảnh nòng cốt của chính mình và cuả tha nhân: đó là hình ảnh Thiên Chúa tiềm ẩn nơi mỗi người.
Xin cho công việc chay tịnh chúng ta thực hiện trong mùa chay này giúp chúng ta đi vào chiều sâu để khám phá hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta và trong lòng mọi người, ngõ hầu cuộc sống đức tin chúng ta là một công trình ngày càng tỏ lộ và chúng ta có khả năng yêu mến hình ảnh Thiên Chúa nơi người khác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Thái độ dứt khoát.
Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Tại sao phải ăn chay?
Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: “ Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể đã bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay”. (Mt. 9, 14-15)
Giáo hội mời gọi chúng ta ăn chay suốt cả mùa chay. Nói đúng nghĩa ăn chay là nhịn ăn uống. Người ta có thể tưởng rằng Giáo hội có lý nhắc nhở một điều quan trọng cho chúng ta cần ăn chay vì ăn quá nhiều như ở Mỹ làm mình phì nộn và nhồi tọng đủ thứ trong khi bao nhiêu người trên thế giới thiếu ăn mỗi ngày. Nhưng không phải vì những lý do đó mà Giáo hội khuyến khích ăn chay. Giáo hội có nhiều lý do khác.
Giáo hội đánh giá rằng ăn chay là cách tốt nhất để chúng ta mở lòng hướng về Thiên Chúa và tiếp rước Ngài. Giáo hội tin tưởng rằng trong khi thiếu ăn uống, tự nhiên chúng ta thấy mình là tạo vật yếu đuối cần phải nương tựa vào Đấng gìn giữ, bảo đảm sự hiện hữu của muôn loài. Ăn chay nhất thiết làm cho chúng ta cảm nghiệm ngay trong xác thịt mình thấy rằng đời sống chúng ta và bản chất chúng ta đều bởi Thiên Chúa ban.
Giáo hội khuyến khích ăn chay vì lý do thứ hai: ăn chay là phương thế tốt nhất để chuẩn bị chúng ta mong đợi Đức Ki-tô lại đến. Tất cả chúng ta đều biết tại sao nhiều người ăn mất ngon khi gặp cơn bối rối hay gặp cảnh chia ly. Sau một cơn cãi lộn, người ta không còn muốn ăn uống. Khi mất chồng, vợ bỏ ăn nhiều ngày. Ăn chay còn biểu lộ chúng ta hoàn toàn liên kết với Đức Ki-tô mà chúng ta yêu mến. Chúng ta ăn chay như thể là tưởng nhớ Đức Ki-tô và ra sức trông mong Người.
Đó là ý nghĩa của lời Chúa trong Tin mừng hôm nay. Đức Giê-su đã ở với chúng ta, nhưng chúng ta không hoàn toàn kết hợp với Người. Người đã đến giữa chúng ta, nhưng một ngày kia, Người lại đến trong vinh quang. Trong khi ăn chay, chúng ta tỏ hết lòng thiện chí được thấy Người lại đến để chúng ta hợp nhất với Người trọn vẹn cho đến muôn đời.
J.Y.G
SUY NIỆM 5: GIỮ CHAY ĐÚNG NGHĨA (Mt, 9, 14 –15)
Tại Giáo phận Taytay – Philippines, có một thầy ẩn sĩ tu rừng. Thày từ bỏ thế giới náo động, nhộn nhịp bên ngoài để vào rừng sâu ăn chay, cầu nguyện và sống thân tình với Thiên Chúa.
Thi thoảng, mỗi dịp lễ lớn, thày thường đi bộ trên đôi chân trần, không giày, không dép, đi hàng chục kilômét để về nhà thờ chính tòa hiệp thông cùng Giáo Hội. Trông thấy thày, ai cũng thấy toát ra một vẻ hồn nhiên, thánh thiện, thanh thoát, vui tươi và bình an.
Có lẽ vì nơi thày có được vẻ đẹp của Tin Mừng và đời sống chay tịnh cũng như cầu nguyện thường xuyên, nên nhìn mọi người, mọi vật dưới con mắt của Chúa!
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy thường xuyên nhắc tới việc ăn chay, chẳng hạn như: vua Đavít ăn chay để cầu nguyện cho con khỏi ốm; từ triều đình đến thường dân thành Ninivê đã đáp lại lời mời gọi của tiên tri Giona nên ăn chay và sám hối để thoát khỏi tai họa...
Sang thời Tân Ước, Gioan Tẩy Giả cũng ăn chay và sống khổ hạnh trong sa mạc để chuẩn bị loan báo Đức Giêsu; đến khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng việc chay tịnh và cầu nguyện 40 ngày trong hoang địa sau khi chịu phép Thánh Tẩy; không những thế, Ngài thường xuyên nhắc các môn đệ phải ăn chay, cầu nguyện và Ngài còn cảnh báo các ông, nếu muốn trừ được quỷ thì phải ăn chay và cầu nguyện.
Như vậy, vấn đề chay tịnh là vấn đề quan trọng trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, hôm nay, khi các môn đệ của Gioan đến hỏi Đức Giêsu về việc: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?", nhân cơ hội này, Đức Giêsu mặc khải cho biết ý nghĩa đích thực của việc ăn chay.
Ăn chay là để chờ đón Chúa đến, nhưng Ngài đang ở giữa họ thì không có lý do gì để ăn chay nữa. Nếu ăn chay lúc này là mâu thuẫn, chẳng khác gì vải mới vá áo cũ, hay rượu mới đổ vào bầu da cũ vậy!
Ý nghĩa chính yếu của việc giữ chay chính là đền tội, hãm dẹp những khuynh hướng xấu xa, đê tiện, tội lỗi, từ bỏ cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, sống liên đới, yêu thương, tha thứ, giúp đỡ người nghèo..., nhất là tin vào Tin Mừng.
Xin Chúa giúp sức, để mỗi người chúng ta sống tinh thần của Mùa Chay thật sốt sắng và ý nghĩa, ngõ hầu chúng ta hưởng trọn vẹn niềm vui phục sinh. Amen.
Ngọc Biển SSP
27/02 Theo Chúa Giêsu
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Theo Chúa Giêsu.
Thứ năm sau lễ Tro.
“Ai bỏ mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống”.
Lời Chúa: Lc 9, 22-25
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.
Chúa nói với mọi người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Vác thập giá mình hằng ngày
Khi nhìn các bạn đi dự Ngày Giới trẻ Thế giới ở Úc năm 2008
giành nhau chung vai vác cây thánh giá bằng gỗ, thật dài và nặng,
với vẻ mặt hớn hở vui tươi,
chúng ta sẽ dễ nghĩ rằng vác thánh giá đâu có gì khó.
Nhưng khi phải đối diện với những thánh giá không bằng gỗ,
những thánh giá vô hình mà ta phải vác một mình,
chúng ta thấy khó hơn nhiều.
Không thể nói đến Đức Giêsu mà không nói đến thánh giá.
Thánh giá là cái giá Ngài trả cho cả một đời dám sống cho Cha
và cho con người, đặc biệt những người yếu thế.
Thánh giá nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha,
nhưng thánh giá cũng là kết quả của lựa chọn căn bản của Đức Giêsu.
Ngài đã chết như thế vì Ngài đã dám sống như thế.
Đức Giêsu dần dần ý thức rằng
nếu Ngài cứ tiếp tục làm chướng mắt giới lãnh đạo Do thái giáo,
gồm các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư (c. 22),
thì cái chết như Gioan Tẩy giả là điều Ngài sẽ không tránh khỏi.
Đức Giêsu có thừa cách để tránh cái chết.
Nếu Ngài đừng giảng dạy, đừng hành xử như đã quen làm.
Nếu Ngài đừng nhất quyết lên Giêrusalem, nơi nguy hiểm (Lc 9, 51)…
Nếu Ngài chiều sự tò mò của Hêrôđê bằng cách làm vài phép lạ (Lc 23, 8)…
Nhưng Đức Giêsu đã không sợ hãi lùi bước.
Ngài bình thản đón lấy định mệnh bi đát của mình khi nói với môn đệ:
“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị loại trừ, bị giết chết…”
Ngài đón lấy chữ phải từ tay Cha, và tin mọi sự đều không ngoài ý Cha.
Đức Giêsu xác tín Cha sẽ không bỏ rơi mình,
Ngài tin vào kết thúc có hậu của đời mình:
“và ngày thứ ba Con Người phải được nâng dậy” (c. 22).
Chính Cha sẽ nâng ngài dậy từ cõi chết.
Định mệnh của Thầy Giêsu cũng là định mệnh của chính chúng ta.
Kitô hữu là người đi theo Thầy, đi cùng con đường với Thầy.
Vác thánh giá là chuyện bình thường hằng ngày của Kitô hữu
nếu chúng ta muốn sống yêu thương, phục vụ, trong trắng, thành thật…
Chỉ khi từ bỏ chính mình (c. 23), ta mới không đánh mất chính mình (c.25).
Dựa vào sự phục sinh của Đức Giêsu, ta mới dám sống kinh nghiệm đó.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Theo Chúa Giêsu
Trong lịch sử Giáo hội, từ hơn hai ngàn năm qua đã có biết bao linh mục, tu sĩ, giáo dân dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa trong tha nhân. Ơn gọi của mỗi người thường khác nhau, nhưng có điều chắc chắn là tất cả đều được kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa, theo gương mẫu của Chúa Kitô.
Con đường ơn gọi sống đời tận hiến là hành trình tìm về khổ đau, về cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển. Sống đời tận hiến, sống niềm tin Kitô giáo là chấp nhận thiệt thòi, mất mát, là hy sinh từ bỏ để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu. Nói cách khác sống ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi làm môn đệ Chúa, ơn gọi trở thành công dân Nước Chúa cần một lựa chọn quyết liệt và dứt khoát. Chúa Giêsu đòi hỏi những ai dấn bước theo Ngài sự lựa chọn ấy, cũng như chính Ngài đã lựa chọn dâng hiến cuộc đời và mạng sống vì yêu mến Chúa Cha và để cứu độ con người. Ngài nói: “Ai muốn theo Ta hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy thập gía mình mỗi ngày mà theo Ta”.
Chúa Giêsu có ngặt nghèo và đòi hỏi quá đáng chăng? Không. Ngài chỉ muốn cho chúng ta đước hoàn toàn thanh thoát và hạnh phúc trên con đường sống đời Kitô hữu và đặc biệt là đời tận hiến. Bởi vì chúng ta không thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người một cách thiết thực, nếu còn bị ràng buộc bởi tiền tài, danh vọng, tình cảm.
Xin Chúa ban sức mạnh, để chúng ta kiên quyết dấn thân theo Chúa với một tâm hồn thanh thản và tràn trề hạnh phúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Vác thập giá
Người bảo rằng: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy.
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. (Lc. 9, 22-23)
Để bước theo Đức Kitô, phải vác thập giá mình, người ta biết ít về sứ điệp này và coi đó không đơn giản. Nếu người ta chịu vác thập giá của người khác thì sẽ thấy không quá khó. Còn thập giá của mình có vẻ nặng hơn nhiều của người khác. Nhưng không phải thế, chúng ta ai cũng phải vác thập giá mình. Thập giá mình là thập giá chúng ta không được chọn, không hề muốn, không có chút hấp dẫn nào, thật kinh khủng cho chúng ta.
Thập giá chúng ta phải vác quả thực mang lại khổ cực cho chúng ta vì nó đả thương chúng ta dù không muốn bị thương. Chúng ta hãy dừng ít phút để nghĩ tới cái đả thương chúng ta nhất trên đời mà chúng ta không thể chống lại được, đó là thập giá của chúng ta. Chúng ta phải vác lấy mỗi ngày. Thập giá đó chúng ta phải chấp nhận. Chúng ta chấp nhận vác thập giá, đời chúng ta sẽ không bị uổng công đâu vì tin rằng chúng ta có thể sống sung mãn khi biết vác thập giá. Thập giá bảo đảm không tiêu diệt chúng ta nhưng lại là nguồn sống của chúng ta.
Đức Giêsu đã quả quyết như vậy bằng gương mẫu của chính Người. Người đã vác thập giá mình. Thập giá đã đưa Người đến cái chết. Và qua cái chết Người đã tới sự sống vinh quang. Con đường thánh giá của Người đã là con đường sống. Nếu chúng ta tin điều đó chúng ta có thể đón nhận thập giá của chúng ta. Nếu không tin thì không thể còn cách nào khác để được sống đời đời.
Không ai trên trái đất này thoát khỏi thập giá, vì thập giá là thành phần xây dựng sự sống. Ai không biết rằng phải vác thập giá mới tới sự sống thì thật thảm hại.
J.Y.G
SUY NIỆM 3: XÂY DỰNG LẠI CÁC MỐI TƯƠNG QUAN (Lc 9, 22 -25)
Mỗi khi Mùa Chay về, hay nghe nói tới Mùa Chay, chúng ta hiểu ngay: đây là “mùa trở về”.
Trở về với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình.
Trở về với Chúa để cảm nghiệm được tình thương của Người trên cuộc đời chúng ta.
Trở về với tha nhân để nhận thấy bổn phận yêu thương, liên đới và chia sẻ với anh chị em đồng loại.
Trở về với chính mình để nhận ra mình tội lỗi và cần được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ.
Như vậy, cả ba mối tương quan, chúng ta thấy có một mẫu số chung là: nhận thấy mình bất toàn, ích kỷ, kiêu ngạo, nên cần phải trở về với Thiên Chúa, tha nhân và ngay cả với chính mình để được trở nên hoàn thiện.
Muốn hàn gắn và xây dựng lại những mối tương quan ấy, chúng ta hãy để ý đến lời mời gọi của Đức Giêsu: phải từ bỏ chính mình và phải vác thập giá mình.
Khi nói đến từ bỏ chính mình, Đức Giêsu muốn chúng ta phải ý thức tận căn, bởi vì nếu từ bỏ nhiều thứ, dốc quyết nhiều chuyện, mà chưa từ bỏ chính mình thì kể như chưa bỏ gì cả, và nếu có bỏ đi chăng nữa, thì sẽ tìm dịp và tìm cách thuận lợi để lấy lại!
Bỏ mình còn có nghĩa là coi mình ra không để hướng về Chúa và anh chị em, là quên mình để yêu thương, tha thứ và sống cho người khác.
Bỏ mình luôn đi đôi với việc vác thập giá của chính mình hằng ngày. Thập giá của mỗi người chính là ốm đau, bệnh tật, những chiến đấu chống lại cám dỗ, những trái ý, hiểu lầm, vu vạ, cáo gian...
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn từ bỏ tội lỗi, sống yêu thương, đón nhận thánh giá trong đời và trung thành vác lấy cách yêu mến. Xin cũng ban cho chúng con ơn trở về trong Mùa Chay thánh này. Amen.
Ngọc Biển SSP
26/02 Hoán cải nội tâm
- Viết bởi Mt 6, 1-6. 16-18
Hoán cải nội tâm.
Thứ tư LỄ TRO. – Giữ chay và kiêng thịt.
“Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cha hiện diện nơi kín ẩn
Cứ đến Thứ Tư Lễ Tro là chúng ta lại được nghe bài Tin Mừng này.
Đức Giêsu nói đến ba việc đạo đức quan trọng của người Do Thái:
cầu nguyện, bố thí, ăn chay.
Chẳng phải cứ đợi đến Mùa Chay chúng ta mới làm ba việc đó.
Nhưng Mùa Chay là thời gian thuận lợi để ta tập trung chú ý hơn.
Tập trung vào cầu nguyện là làm mới lại tương quan với Thiên Chúa,
từ bỏ những gì làm tôi xa Chúa và dứt bỏ mọi tội lỗi quen phạm.
Tập trung vào bố thí là chia sẻ của cải cho những người nghèo hơn,
tự nguyện bỏ bớt một phần tiện nghi để giúp những ai đói khổ.
Tập trung vào chay tịnh là làm cho thân xác, tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng,
thoát khỏi những kéo xuống nặng nề, những cám dỗ sống hưởng thụ, ích kỷ.
Cả ba việc này có tương quan chặt chẽ với nhau.
Khi làm tốt một việc, ta sẽ dễ làm hai việc còn lại hơn.
Ăn chay giúp chúng ta hàn gắn lại tình bạn với Chúa,
và lớn lên trong sự thân mật đối với Ngài.
Ăn chay giúp ta tránh tội và tránh mọi thứ dẫn đến tội.
Ăn chay là thoát ra khỏi sự thèm muốn tự nhiên về cơm bánh vật chất,
để nếm cảm sự cần thiết của tấm bánh tinh thần.
Nhờ ăn chay con người thấy mình được tự do hơn để sống theo ý Chúa.
Khi chịu đói nơi thân xác, chúng ta sẽ thấy tim mình đói khát Thiên Chúa
và mong Ngài đến với ta để làm ta mãn nguyện.
Nhưng ăn chay cũng giúp ta mở mắt trước tình cảnh thiếu thốn của tha nhân.
Nhờ ăn chay, chúng ta không còn sống cho chính mình nữa,
nhưng biết sống cho Chúa và tha nhân.
Ăn chay giúp ta chế ngự được tính ích kỷ làm ta co lại,
nhờ đó ta có thể mở lòng ra trước nhu cầu của anh chị em mình
và chia sẻ cho họ điều mình đã tiết kiệm được từ ăn chay.
Ngay cả một người có hai áo cũng có thể chia sẻ được cho người trần trụi.
Người chỉ còn vài lon gạo cũng có thể chia cho người đang đói.
Chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình 40 ngày Mùa Chay.
Không phải chỉ là ăn chay, mà là sống chay.
Chay tịnh phải là một thái độ thấm vào cuộc sống.
Khi bớt nuông chiều những đòi hỏi ngày càng nhiều của thân xác,
chúng ta sẽ thắng được những cám dỗ của thèm muốn vô độ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: HÃY XÉ LÒNG - TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?
2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?
4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?
SUY NIỆM 3: Một chương trình mùa chay
Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (Mt. 6,1)
Mùa chay là thời kỳ ăn năn trở lại và chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Thời kỳ ăn năn nghĩa là thời gian chúng ta cần phải đổi mới con tim và sửa đổi những thói hư tật xấu không phù hợp với yêu cầu của Tin mừng. Đó không phải là điều dễ dàng!
Chúng ta đã sống qua nhiều mùa chay với lòng chân thành mà vẫn không có kết quả, không làm cho chúng ta hoàn toàn đổi mới. Nếu chúng ta bắt đầu vào mùa chay với cảm nghĩ sẽ biến đổi hoàn toàn từ đầu tới đến ngày Phục sinh, chúng ta sẽ bị thất vọng. Ăn năn sám hối, thay đổi con tim của mình là công việc suốt đời. Cần phải cố gắng từng bước từng bước, không nóng vội. Phải tiến bước thế nào?
Tin mừng lưu ý chúng ta chú trọng về ba việc phải làm này: bố thí, ăn chay, cầu nguyện. Không có gì mới, không có gì cách mạng. Đó là lời khuyên có trong hầu hết các tôn giáo trước khi Đức Giê-su đến trần gian. Đức Giê-su không bãi bỏ các việc thực hành đó, mà còn khuyên làm.
Làm việc bố thí là chia sẻ cái gì mình có, chia sẻ tiền của, cơm áo dĩ nhiên nhưng còn chia sẻ thời giờ, trí thức, trái tim. Dùng thời giờ để đem yêu thương đến cho mọi người, nhất là người xấu số, dùng thời giờ làm việc giúp đỡ người khác.
Cầu nguyện: cầu nguyện ở nhà thờ, ở nhà mình. Hiến dâng thời giờ cho Chúa, tiêu hao thời giờ vì Chúa. Chúng ta không siêng năng cầu nguyện, thế là mất nhiều mối lợi to lớn rồi. Đức Giê-su thấy đó là mối lợi to lớn đối với Người, khi Người luôn luôn cầu nguyện với Đức Chúa Cha. Sao chúng ta không cậy trông Người để cầu nguyện.
Ăn chay: Không phải chỉ tinh luyện đời sống mình, mà còn tác tạo, bồi đắp cho ta lòng khao khát mến Chúa vô bờ. Ăn chay để khám phá, phát triển lòng ham thích cầu nguyện. Ăn chay để giúp cho những người khác những gì họ đang thiếu.
Đó là chương trình mùa chay xin đề nghị với chúng ta. Nó đã được ứng nghiệm bằng nhiều chứng nhân. Nó giản dị và vừa tầm tay mọi người. Không còn phương thế nào tốt hơn nữa. Thật vô ích khi tìm việc nào khác.
SUY NIỆM 4: Hãy thay đổi cách hành động
(Lm Tạ duy Tuyền)
Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Loại bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.
Omar nói rõ "Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động". Ðó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiệt".
Thế nhưng nhiều người vẫn còn tiếp tục hành động như Bin Laden. Người ta thường dùng roi dòn để đè bẹp người khác. Người ta dùng quyền bính để chèn ép người khác. Ở đời có mấy khi tìm được tiếng nói chung. Tiếng nói của cảm thông. Tiếng nói của tôn trọng nhân quyền, của sự tôn trọng lẽ phải. Người ta thường ỷ lớn bắt nạt bé. Người ta thường chà đạp lên nhau theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Người ta thường xuyên tạc tả đột hữu xung để lừa dối dư luận, để lấn át kẻ yếu, kẻ cô thế cô thân. Nếu cuộc đời không còn tiếng nói của lẽ phải, của công bằng thì chỉ còn tiếng than khóc của lầm than, của ai oán cơ hàn. Nếu ở đời người ta không còn lắng nghe nhau, không còn phân biệt phải trái, đó là nỗi bất hạnh cho kiếp người chúng ta.
Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: "Hãy sám hối". Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Ðừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè. Ðừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Ðừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình. Ðừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp. "Hãy thay đổi cách hành động" cho xứng với nhân tính của một con người. Hãy thay đổi cách sống theo đúng với phẩm giá của những người mang danh là kytô hữu. Ðừng hành động mà không ý thức về hậu quả tai hại do việc làm của mình gây nên. Ðừng hành động nông nổi nhất thời, thiếu suy nghĩ để rồi làm khổ bản thân và gia đình của mình.
Vâng, có thể chúng ta không thảm sát người vô tội như Bin Laden, nhưng có thể vì đời sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình đã phá huỷ cuộc sống hạnh phúc của biết bao con người. Có thể chúng ta không quá khích như Bin Laden nhưng với lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình cũng là nỗi sợ hãi của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Có thể chúng ta không huấn luyện một đội binh hùng hậu chuyên đi giết người, nhưng có thể vì gương xấu của chúng ta đã lôi kéo biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện "xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ", thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chẳng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện "xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ". Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.
Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ "một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi". Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Ðấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen.
SUY NIỆM 5: GIỮ CHAY THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA? (Mt 6,1-6.16-18)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo.
Tuy nhiên, ý nghĩa của việc xức tro và ăn chay nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, mà không có tâm tình bên trong.
Nhân ngày thứ tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
1. Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự chai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
2. Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc trừ Quỉ... (x. Mt 17,21).
Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
3. Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ dột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay.
Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì trót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa...
Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”.
Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều... mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bỉu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ. Như vậy, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, hay giống chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành “danh hài” hay “con hề” trên sân khấu.
Thái độ khiển trách nặng nề những người Pharisêu của Đức Giêsu: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6), không chừng cũng chính là lời trách móc nặng nề cho những ai hôm nay giữ chay hình thức, hời hợt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo" (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Thiên Chúa ... vì bây giờ là cơ hội thuận tiện" (x. 2 Cr 5, 20 - 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống tinh thần của ngày lễ hôm nay đó là: “Xé tâm hồn chứ đừng xé áo". Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 6: Hoán cải nội tâm
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.
Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.
Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).
Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 7: HOA VÀ RÁC - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Những ngày gần Tết, hoa và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Đến Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hoa đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.
Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:
Đời sống con người giống như hoa cỏ
Như bông hoa nở trên cách đồng
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi
Nơi nó mọc không còn mang vết tích.
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:
"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau"(Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi”(Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận”(Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Con người là “hoa” và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, chúng ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
SUY NIỆM 8: SỨ ĐIỆP CỦA TRO - Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ðây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.
Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?
1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.
Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.
Lời kinh Thánh nhắn nhủ: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!
2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn
Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt.
Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Afghanistan...
Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.
Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ðức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.
3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.
Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.
Ðời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác“.
Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sự sống đời mình!
SUY NIỆM 9: Ý NGHĨA CỦA LỬA VÀ TRO - Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
Lửa và tro là hai biểu tượng ghi dấu để bước vào Mùa Chay. Nhúm tro tàn một cách bột phát gợi lên sự sầu khổ thiêng liêng, sự điêu tàn. Nhưng ở đây, người ta thấy sự khởi đầu một sự bắt đầu lại, một sự sám hối. Đó là nội dung bài chia sẻ của Đức Hồng Y Pierre Eyt cho các bạn trẻ về ý nghĩa Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa Thánh Anrê, giáo phận Bordeaux, Pháp.
Thứ Tư lễ Tro không phải chỉ là ngày hôm sau của Thứ Ba Béo. Trước tiên, nó không phải là một ngày mang nét dân gian. Thứ Tư lễ Tro đối với các Kitô hữu là dịp bước vào Mùa Chay. Nó diễn tả một con đường thiêng liêng, được biểu hiện và hỗ trợ bởi những dấu chỉ, những biểu tượng như lửa và nhúm tro xức trên trán.
Hình ảnh lửa mà chúng ta sẽ lại thấy trong đêm Vọng Phục Sinh có ý nghĩa là chúng ta muốn thiêu đốt những gì cản bước chúng ta, và rồi chúng ta muốn hủy diệt tội lỗi vốn làm cho con người bị tổn thương và dị dạng. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-11). Lời gọi thật rõ ràng. Nó chứa đựng lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: « Hãy sám hối ». Điều này còn có nghĩa là thay đổi tinh thần, thay đổi tâm hồn, thay đổi não trạng. Tất cả những ích kỷ, lười biếng, lề mề, tham lam, giận dữ, bạo hành, kiêu ngạo là những thứ cần phá hủy và thiêu rụi.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về tội. Làm thế nào để dũ bỏ nó? Chúa Giêsu dạy bảo trong Tin Mừng rằng chúng ta sẽ là những kẻ chiến thắng tội lỗi khi biết thay thế lửa của sự xấu bằng lửa của Tình Yêu. Bởi vì, trước tiên lửa ở đây bừng cháy để thiêu hủy, nhưng cùng lúc nó còn chiếu sáng, sưởi ấm, củng cố, hướng dẫn và động viên. Như một ngọn lửa sống động, Đức Kitô là ánh sáng, là hơi ấm, là tiếng gọi, là sự an ủi. Ước chi ngọn lửa này tiếp tục bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.
Tro được xức trên trán đối với chúng ta còn minh nhiên kêu gọi sám hối, nói cách chính xác là bằng con đường khiêm nhường. Nắm tro là những gì còn lại sau khi ngọn lửa thiêu rụi chất liệu mà nó đã chiếm lĩnh hoàn toàn. Chúng ta nhận thấy rằng khi có những nắm tro tàn, điều đó hẳn là không còn gì nữa từ cái mà đã bị lửa thiêu hủy. Đó còn là hình ảnh về sự nghèo khó của chúng ta. Nhưng tro cũng còn có thể làm cho đất đai màu mỡ, giúp tái tạo thiên nhiên và sự sống có thể tái sinh dưới đống tro tàn.
Khi chúng ta lưu ý đến những gì mang ý nghĩa từ tro tàn là chúng ta được dẫn vào bí tích giao hòa và thống hối. Nói rằng mình có tội là để được đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nói rằng chúng ta hung bạo và hối tiếc về điều ấy, rồi ăn năn hối lỗi là để đến lượt mình chúng ta cũng biết bắt chước Thiên Chúa trong việc tha thứ. Bí tích giao hòa định hướng nội tâm, cũng giống như ngọn lửa có thể soi tỏ cho chúng ta từ bên ngoài trước bóng đêm tội lỗi. Do đó, con đường Phục Sinh nhìn bề ngoài gồm sáu tuần lễ và bốn mươi ngày của Mùa Chay, nhưng cách đặc biệt còn là con đường của trái tim, con đường của nội tâm, con đường của sám hối.
Lửa, tro, thống hối…nói lên sự phá bỏ và thiêu rụi « con người cũ », nhưng một điều rất rõ ràng, người ta chỉ hủy bỏ và thiêu rụi để thay thế bằng cái khác. Vậy thì tất cả nghĩa cử, hành động, và dấn thân mà Giáo Hội đề nghị thực hành cho Mùa Chay mà trong Tin Mừng chính Đức Giêsu đã giảng giải cho chúng ta về tính khẩn thiết như: bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Điều này đề cập đến việc xây dựng lại những gì đã bị phá hủy. Đó chính là xây dựng bằng ân sủng của Đức Kitô, và bằng cách đưa bàn tay của mình cho Ngài dẫn dắt. Đó còn là xây dựng bằng Thần Khí của Đức Kitô tác tạo nên con người mới. Ở đó hội tụ ba phương hướng mà Tin Mừng nói với chúng ta: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh.
SUY NIỆM 10: CON LÀ THÂN TRO BỤI - Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Hôm nay là Thứ Tư lễ Tro, ngày khai mạc Mùa Chay thánh. Theo lời thánh Phaolô: ”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cr 6,2b)). Mùa Chay giúp chúng ta thực hành tinh thần thống hối, điều chỉnh lại hướng đi của mình và biết quay trở về với Chúa.
Mỗi người được xức tro trên đầu để chỉ sự khiêm nhường thống hối. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa việc xức tro, đồng thời cầu xin Chúa giúp sức để thi hành trong Mùa Chay này những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
I. TÓM TẮT VỀ LỄ TRO
Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.
Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.
Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.
Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15).
II. Ý NGHĨA VIỆC XỨC TRO
1. Tro chỉ sự thống hối.
Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhâm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.
Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi, quyết tâm làm điều lành, lánh sự dữ.
Tro là tập tục biểu hiệu của lòng ăn năn sám hối bên Trung Đông. Theo tập tục bên Do thái, trong Kinh Thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ làm nước tẩy uế (Ds 19,9). Ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18,27). Rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do thái (2Sm 13,19; Mac 3,47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa (Eth 4,1; Mt 11,21).
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con ngươi sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
2. Tro chỉ sự chóng qua.
Việc xức tro mời gọi chúng ta ý thức về thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay, nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhở ta về thân phận và kiếp người mỏng dòn ấy: thân phận con người là tro bụi.
Trong lễ an táng, chúng ta thường hát bài thánh vịnh đáp ca 102. Bài thánh vịnh nói lên sự mong manh của kiếp con người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn, không có gì là bền vững:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102, 15-16)
Thi sĩ Nguyễn Khuyến, nhìn cuộc đời chóng qua của kiếp người cũng phải kêu lên bằng những hình ảnh sống động:
Ôi! nhân sinh là thế ấy!
Như bóng đèn, như mây nổi,
Như gió thổi, như chiêm bao!
Trong bài “Cát bụi” nhạc sĩ Trịnh công Sơn cũng nói lên kiếp mong manh của con người: Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hóa kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Một vòng quay. Trăm năm một kiếp người có là mấy: ”Chợt một chiều tóc trắng như vôi”…
Trịnh công Sơn không bi quan. Ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao! Sự sống cao quí biết bao! Nhưng cũng chỉ như một “đóa hoa vô thường” như tên gọi của một bài hát khác của ông. Đó là thực tế, nhìn nhận đúng thực tế đó, đối diện với nó một cách can đảm có thể đưa đến một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích hơn.
Tro không những chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm, mà còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của Đức Giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro để nhắc nhở vị tân Giáo hoàng với câu: ”Sic transit mundi gloria”: vinh quang thế gian cũng mau qua như thế.
3. Tro nhắc nhở về sự chết.
Trong Cựu ước, tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi và sẽ phải chết: ”Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19. x. Gb 34,4; Gr 6,26; Is 58,5).
Chết là án lệnh của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Người sẽ trở về với bụi đất”(St 3,19). Vì thế không ai có thể tránh được cái chết.
Người Á Đông quan niệm: con người phải trải qua 4 giai đoạn là sinh, lão, bệnh, tử. Có người thoát được lão và bệnh vì chết quá sớm, còn không ai thoát được tử, vì đã có sinh thì phải có tử, sinh tử luôn nối kết với nhau.
Kinh nghiệm ngàn đời đã giúp ông Văn Thiên Trường suy nghĩ về cuộc sống mong manh của con người nên đã phát biểu ý kiến bằng một câu để đời:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Ngàn xưa, người thế ai không chết,
Chết, để lòng son rạng sử xanh.
Vì thế, trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Do đó, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martinô thành Tours ở bên Pháp đã nói: ”Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó con trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.
Chớ gì việc xức tro trên đầu khiến cho chúng suy nghĩ về sự chết để biết dọn mình sẵn sàng vì giờ chết đến như kẻ trộm, luôn có tinh cách bất ngờ như người ta nói:
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.
Ai cũng mong đời sống của mình được trở thanh “cây bách niên” (agavé). Người ta cho biết: cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng. Trong một thế kỷ cây ấy đã sửa soạn cho cái ngày tươi đẹp ấy, nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy. Cả một thế kỷ! Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó.
III. MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI
Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
1. Hãy cầu nguyện.
Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22,42; Ga 11,41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13).
Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.
Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.
Thế nào là cầu nguyện?
Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…
Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.
Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.
Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.
Truyện: Con chỉ nghe.
Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:
- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.
- Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?
- Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!
Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:
- Tôi nói, Chúa nghe.
- Chúa nói, tôi nghe.
- Không ai nói, cả hai cùng nghe.
- Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.
Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:
Nước mắt nói lời của mắt,
Hương hoa nói lời của hoa,
Lặng im nói lời đôi ta!
Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.
Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu!
2. Hãy ăn chay
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích?
Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói” (Mt 4,1-2).
Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34,28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19,8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.
Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.
Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3,7-8; Samuel 14,24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.
Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.
Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:
- Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.
- Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.
- Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.
Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.
Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa”?
“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).
Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị” để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).
Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:
“Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối” (Tục ngữ).
3. Hãy làm phúc bố thí.
Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4,7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.
Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.
Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).
Truyện: Cho đi tất cả.
Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:
- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.
Người hành khất đáp:
- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.
Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.
Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần
Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.
Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.
Làm sao có thể chọn yêu thương khi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ?
Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).
Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.
SUY NIỆM 11: Các việc đạo đức
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia.
Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành.
Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 12: LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỨ TƯ LỄ TRO
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Đầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.
SUY NIỆM 13: MÙA CHAY VÀ ƠN CỨU ĐỘ - ĐGM. Bùi Tuần
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.
Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
· Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
· Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).
· Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
SUY NIỆM 14: BỤI TRO
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
- Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:
- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.
SUY NIỆM 15: HOÁN CẢI
Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.
Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:
- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.
- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.
- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.
Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:
- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.
- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.
Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:
- Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.
- Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.
- Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:
Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó. Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.
Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
SUY NIỆM 16: ĂN CHAY CÁCH NÀO MỚI ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA? - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
SUY NIỆM 17: HÃY XÉ LÒNG - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.
Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.
SUY NIỆM 18: MẦU TÍM TRONG PHỤNG VỤ MÙA CHAY - Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Mầu tìm có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin chúng ta?
Mầu tím là hỗn hợp pha trộn của hai mầu đỏ và xanh chung nhau.
Mầu tím nói về sự ăn năn thống hối trở về đường ngay lối chính.
Mầu tím dùng trong Phụng vụ cho mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng sinh nhập thể làm người, cho mùa chay chuẩn bị đón mừng lễ Chúa sống lại từ cõi chết, cho nghi lễ cử hành bí tích hòa giải thống hối, cho lễ nghi rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời, và cho nghi lễ an táng người qua đời.
Trong mùa chay, phẩm phục phụng vụ dùng mầu tím muốn diễn tả: đời sống cũ của con người sụp tàn qua đi, và đời sống mới trong con người nẩy mầm mọc lên.
Đúng như vậy, mầu tím diễn tả sâu xa khía cạnh sụp đổ suy tàn, sự qua đi, sự cởi bỏ của con người cũ, nó khơi lên sự sầu buồn, nhớ nhung mong chờ.
Nhiều người nghĩ rằng mầu tím gợi lên tâm tưởng bất an, gây suy nghĩ bối rối. Có người cho rằng mầu tím đóng vai trò trung gian trình bày giữa trời và đất, giữa đam mê khát vọng và thông minh của trí khôn, giữa tình yêu mến và sự khôn ngoan.
Giáo Hội nhìn nơi mầu tím là mầu nối kết giữa mầu xanh và mầu đỏ. Mầu xanh nói chỉ về trời, còn mầu đỏ nói chỉ về con người.
Mầu tím dùng trong phụng vụ mùa chay muốn nói lên ý nghĩa: Thần linh Thiên Chúa liên kết với con người, cùng tìm cách thấm nhập vào thân xác máu mủ của họ.
Mùa chay không chỉ nguyên là thời thời gian hãm mình kiêng khem, nhưng còn là thời gian tinh luyện tẩy rửa cho trở nên tinh ròng thanh sạch, thân xác hướng về Thiên Chúa nơi trời cao, như mầu đỏ hoà lẫn chung hợp với mầu xanh.
Trong lễ an táng người qúa cố vị chủ tế mặc phẩm phục lễ nghi mầu tím muốn nói lên niềm hy vọng, người qúa cố với cả thân xác linh hồn đi về với Thiên Chúa, trời và đất liên kết lại với nhau, đất được cất nhắc đưa lên trời cao.
Mầu tím trong phụng vụ mùa chay nói lên ý nghĩa cánh cửa mầu nhiệm chết, sự đau buồn mở sang nếp sống mới: sự sống lại của Chúa Giêsu là ơn cứu chuộc cho con người.
25/02 Điều kiện làm người lớn nhất
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Điều kiện làm người lớn nhất.
Thứ Ba tuần 7 thường niên.
"Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết".
Lời Chúa: Mc. 9, 29-36
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.
Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất.
Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Cãi nhau
Suy niệm :
Ngoài chuyện chậm tin, chậm hiểu,
các môn đệ còn có một điểm yếu là hay cãi nhau.
Họ cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm.
Người ấy sẽ là người đứng đầu trong Nước sắp tới của Đấng Mêsia.
Tiếc thay trong bài Tin Mừng hôm nay,
họ lại cãi nhau khi đang đi ngoài đường (c. 33).
Tệ hơn nữa, họ cãi nhau ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần thứ hai
về cái chết và sự phục sinh sắp đến của mình (c. 31).
Hẳn Thầy Giêsu rất đau vì thấy học trò của mình khá trần tục.
Dù đang đi với Thầy trên cùng một con đường,
nhưng họ vẫn để lòng mình theo đuổi vinh quang thế gian.
Đức Giêsu quả là một bậc thầy về sự điềm đạm.
Ngài đợi tới khi về nhà ở Caphácnaum mới gợi lại chuyện trên đường.
Ngài làm như mình không rõ về đề tài câu chuyện:
“Dọc đường anh em đã bàn tán điều gì vậy?”
Khi các ông mắc cỡ làm thinh, không dám nói ra chuyện cãi nhau (c. 34),
Thầy Giêsu cũng chẳng nỡ ép các ông phải nói.
Ngài ngồi xuống như một vị thầy bắt đầu giảng dạy (c. 35),
gọi Nhóm Mười Hai lại - nhóm các nhà lãnh đạo tương lai của Giáo Hội -
và đưa ra một nguyên tắc chi phối việc quản trị cộng đoàn:
“Nếu ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết của mọi người
và làm người phục vụ cho mọi người (c. 35).
Câu nói trên của Đức Giêsu mở ra một cuộc cách mạng nơi tâm con người.
Đức Giêsu không dạy ta lật đổ người đứng đầu để chiếm lấy quyền lực.
Ngài cũng không đòi ta bỏ ước mơ làm lớn.
Ngài dạy cho ta cách trở nên lớn lao thực sự trước mặt Thiên Chúa.
Đó là trở nên người phục vụ mọi người, sống như Ngài đã sống:
“Suốt đời Thầy đã sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 27).
Nếu làm đầu mà phải phục vụ thì có ai muốn làm người đứng đầu nữa không?
Lịch sử của nhân loại là lịch sử của những cuộc cãi nhau không ngớt
giữa các quốc gia, các tôn giáo, các bộ tộc, và ngay trong giáo xứ, gia đình.
Đề tài muôn thuở vẫn là quyền lực, chức tước, địa vị, tiếng tăm.
Ai cũng muốn làm đầu, làm lớn để được phục vụ, để khỏi phải hầu bàn.
Ước gì chúng ta hiểu rằng quyền uy chỉ là giấy phép để phục vụ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài.
Xin tha thứ cho con
vì đã quá bận tâm đến những điều mình nói,
đến ảnh hưởng của mình,
đến những điều người ta nói và nghĩ về con.
Xin tha thứ cho con
vì muốn nên giống kẻ khác mà quên mất chính mình,
vì khao khát có được những đức tính của họ,
mà quên phát triển bản thân.
Xin tha thứ cho con
vì đã mất nhiều thời gian cho việc phô trương
hơn là cho việc xây dựng bản thân.
Xin cho con biết cởi mở với anh em ;
nhờ đó, Chúa có thể đến với con
như đến với một người bạn.
Và Chúa sẽ làm cho con trở nên “người”
mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài
vì con là con của Chúa
và là anh em của mọi người. Amen. (Michel Quoist)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Làm tôi tớ mọi người
Ở cuối văn kiện Tòa Thánh, các Ðức Giáo Hoàng thường ghi dòng chữ này cùng với chữ ký của mình: "Tôi tớ của các tôi tớ". Ðây là tinh thần mà Chúa Giêsu muốn tất cả các vị lãnh đạo trong Giáo Hội phải có, như được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay: "Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người".
Cám dỗ về quyền hành và cám dỗ lạm quyền là sự kiện thường xuyên và mãnh liệt đối với con người mọi thời. Chính những cám dỗ ấy cũng đã xảy ra cho Nhóm Mười Hai Tông đồ. Thật vậy, vào chính lúc Thầy của các ông loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, thay vì dừng lại và chia sẻ với Thầy, hoặc nếu chưa hiểu thì trao đổi với Thầy để am tường hơn, các ông đã có thái độ ích kỷ, vụ lợi; các ông tưởng thời lập quốc của Ðấng Mêsia và ngày vinh quang của các ông đã tới, thế là các ông bắt đầu tranh cãi về địa vị với nhau. Chính các ông cũng cảm thấy sự tranh cãi như thế là đáng trách, bởi vì khi được Chúa Giêsu hỏi, các ông đã làm thinh.
Và rồi sự việc đã diễn biến không như các ông tưởng nghĩ, bởi vì đối với Chúa Giêsu, trong Nước Trời tồn tại ở trần gian này, cho dù vẫn có tôn ti trật tự, nhưng đó là một trật tự lạ lùng: Người làm lớn sẽ là người hầu hạ kẻ khác, người nhỏ nhất phải là đối tượng để được hầu hạ. Rốt cuộc, chúng ta có thể hầu hạ ai chính là vì chúng ta muốn hầu hạ Chúa Giêsu trong họ, và chúng ta có được hầu hạ ai, thì cũng chỉ vì họ đang hầu hạ Chúa Giêsu nơi chúng ta. Như vậy, điều quan trọng không phải là làm lớn hay làm nhỏ trong Nước Trời, chỉ có Thiên Chúa là nhân vật quan trọng trong Nước Trời, và làm lớn hay làm nhỏ, tất cả đều phục vụ Thiên Chúa mà thôi.
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn thường được dùng làm kim chỉ nam cho việc thi hành quyền bính trong Giáo Hội. Nếu mọi người, kẻ cầm quyền cũng như người dưới quyền đều hiểu và thực thi giáo huấn này, chắc chắn Giáo Hội sẽ trở nên thu hút hơn đối với nhân loại, nhất là đối với con người hôm nay đã quá mệt mỏi với những hình thức mị dân, lạm quyền, dua nịnh của giới lãnh đạo; người ta sẽ nhận ra nơi đó khuôn mặt của Chúa Kitô một cách rõ ràng hơn, một Chúa Kitô lãnh đạo bằng cách bị nộp, bị giết chết vì người khác.
Bao lâu xã hội loài người còn, thì bấy lâu bài học Chúa dạy hôm nay vẫn còn giá trị, bởi vì cám dỗ về quyền lực và lạm quyền đã ăn sâu trong mỗi người và trong mọi cơ chế xã hội. Nhưng để bài học ấy tác động mạnh mẽ và hữu hiệu, chúng ta cần nghĩ tới hình ảnh của Chúa, Ðấng lãnh đạo dân Chúa, nhưng đã trở thành tôi tớ cho mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Để làm người lớn
Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn có ai biết, vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại.” Nhưng các ông không hiểu những lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. (Mc. 9, 30-32)
Chúng ta đang sống trong một xã hội cạnh tranh gay gắt, một thế giới mà con người giành giật nhau, tiêu diệt nhau khi người này làm trở ngại cho thành công của người kia. Điều đó được thấy rõ trong quảng cáo. Bạn có thể đọc trong mục rao vặt cúa những tờ nhật trình, những yêu cầu cần người đại loại như sau: “Cần một thanh niên năng nổ, chiến thắng.” Đây không phải là một thông tin của quân đội mà là của một xã hội bán những cái máy hút bụi. Người ta cần một thanh niên năng nổ, chiến thắng đối với những khách hàng tình cờ. Người thanh niên càng năng nổ, có tinh thần chiến thắng càng sẽ được tuyển vào làm trong công ty. Hoàn cảnh trong Phúc âm hôm nay cũng gần tương tự. Các tông đồ coi Nước Trời như chuyện buôn bán cạnh tranh vậy… thế là Chúa Giêsu phải lên tiếng can thiệp.
Đây là lần thứ hai, Chúa Giêsu có ý loan báo cho các ông về cái chết và phục sinh của Người. Giáo huấn này thật vô vị: Các ông chẳng hiểu, tệ hơn nữa, cũng chẳng thèm hỏi han gì. Lời Chúa chẳng vang dội trong tâm khảm các ông. Các ông bàn tán về đề tài các ông ưa thích: ai là người lớn hơn cả?
Về tới nhà
Về tới nhà, Chúa Giêsu ngồi xuống, quy tụ các môn đệ lại chung quanh Người. Lần này, Người muốn cho các ông phải hiểu. Người dùng chính lời lẽ của các ông để diễn tả: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” Các ông muốn làm người lớn, là người quan trọng trong Giáo hội, điều này chẳng phải là xấu. Các ông là người thế nào, có tham vọng làm lớn tới đâu, thì Chúa nhận như vậy thôi, nhưng Chúa Giêsu chỉ cho các ông phương thế làm lớn trong Giáo hội. Làm lớn, chính là trở nên người bé nhỏ; làm người quan trọng, chính là coi mình chẳng là gì; là ông chủ, thì phải làm người phục vụ; làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết.
Để cho các ông hiểu rõ sự nghịch lý này, Chúa Giêsu làm một dụ ngôn bằng động tác: Người đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy…” Em nhỏ ở đây, chính là biểu tượng của tất cả những gì bé nhỏ, hèn mọn, tùy thuộc, cần được người khác chăm sóc, mà không thể cho lại được cái gì.
Chúa Giêsu hàm ý rằng điều làm cho người ta nên cao cả là khả năng tiếp đón bản thân Người và khi người ta tiếp đón vì danh Người, một người yếu đuôí, vô phương tự vệ, thì khả năng đó còn lớn hơn nữa bội phần.
Ai trong anh em muốn làm người đứng đầu thì hãy tự mình phục vụ những người ít được kính nể, những người bị tước đọat nhất, hãy làm người phục vụ những người bé mọn nhất, và làm như thế vì danh Thầy, bởi lẽ Thầy yêu cầu như vậy.
Suy Niệm 4: THỨ BA “TÔI TỚ CỦA CÁC TÔI TỚ” (Mc 9,30-37)
Đã từ lâu, chúng ta rất quen với cụm từ: “Tôi tớ các tôi tớ” được ký bởi thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sau mỗi văn kiện hay tông huấn...
Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi người môn đệ của mình phải có và giữ được đức khiêm tốn khi nói: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.
Muốn làm lớn và trở thành người lãnh đạo là cái mộng của con người mọi thời không từ ai. Chính các môn đệ là những người được ở gần Đức Giêsu, nghe và chứng kiến những việc Ngài làm, tất cả toát lên sự khiêm nhường tột cùng. Tuy nhiên, các ông vẫn không thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của quyền lực đầy hấp dẫn đang mời gọi các ông qua con người có tên là Giêsu. Đấng mà các ông vẫn đang hy vọng được hưởng đặc quyền đặc lợi khi Ngài đứng lên lật đổ chế độ và thiết lập một vương quốc theo kiểu trần thế.
Vì thế, khi vừa nghe Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ hai, liền sau đó, các ông đã chăm chú vào chuyện bàn tán xem ai là người lớn nhất?
Lẽ ra, khi nghe thấy thầy của mình loan báo về cái chết sắp xảy đến, các ông phải là người an ủi, động viên, chia sẻ..., Không! đằng này sự vụ lợi, thực dụng và ích kỷ đã làm cho họ mờ mắt và vơi cạn đi sự cảm thông, các ông chỉ còn nghĩ đến mình mà thôi.
Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã làm đảo lộn suy nghĩ của các môn đệ khi nói: người làm lớn sẽ là người hầu hạ kẻ khác; muốn làm được điều đó, phải có tâm hồn trẻ thơ.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đức Giêsu dạy các môn đệ và cũng là chính mỗi người chúng ta một bài học về sự khiêm nhường và phục vụ. Người lãnh đạo thì phải phục vụ dân, không được lạm quyền, mỵ dân và a dua, nịnh hót, mà làm những việc bất nhất trái lương tâm. Cha mẹ thì phải yêu thương chăm sóc con cái. Con cái phải kính trọng cha mẹ, nhất là khi các ngài lớn tuổi.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
24/02 Điều kiện trừ quỷ
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Điều kiện trừ quỷ.
Thứ Hai tuần 7 thường niên.
“Lạy Thầy, tôi tin, xin Thầy trợ giúp đức tin hèn kém của tôi”.
Lời Chúa: Mc. 9, 14-29
Khi ấy, Chúa Giêsu (từ trên núi xuống) và đến cùng các môn đệ, Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông.
Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người. Và Người hỏi họ rằng: "Các ngươi tranh luận gì với nhau đó?" Một người trong đám đông trả lời rằng: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực". Người đáp lại: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta". Và người ta đem nó đến.
Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất. Chúa Giêsu hỏi cha nó rằng: "Nó bị như thế từ bao giờ?" Ông ta đáp: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". Chúa Giêsu nói với ông: "Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được". Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: "Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi". Chúa Giêsu thấy đám đông tuôn đến, Người nạt thần ô uế rằng: "Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa". Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: "Nó chết rồi". Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên.
Khi Chúa vào trong nhà, các môn đệ hỏi riêng Người: "Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?" Người đáp: "Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nếu Thầy có thể
Suy niệm:
Cha mẹ thường phải chịu đau khổ vì con.
Đức Giêsu đã từng đối diện với sự bối rối của ông trưởng hội đường
khi cô con gái mười hai tuổi của ông gần chết (Mc 5, 22-23).
Ngài cũng đối diện với sự kiên trì của người phụ nữ dân ngoại
khi bà xin Ngài chữa cho cô con gái của bà bị quỷ ám ở nhà (Mc 7, 25).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đứng trước nỗi đau của một người cha
có đứa con trai nhỏ mang triệu chứng của bệnh động kinh.
Nhưng đối với ông, hẳn con ông là người bị quỷ ám.
Ông đã đem cậu con đến với Đức Giêsu, tiếc thay lại không gặp (c. 17).
Bởi vậy ông đã xin các môn đệ của ngài đuổi quỷ dùm.
Tiếc thay họ không làm được (c. 18).
Bây giờ gặp được Ngài, ông tha hồ kể về bệnh tình của con ông.
Mỗi lần quỷ nhập - hay mỗi lần lên cơn động kinh -
con ông bị vật xuống đất, sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ (c.18).
Nhiều khi quỷ còn xô cậu bé vào nước hay lửa cho chết (c. 22).
Vì chuyện buồn này diễn ra từ hồi cậu còn nhỏ,
nên người cha hẳn đã đau khổ triền miên và căng thẳng từ nhiều năm qua.
Ông gặp Đức Giêsu chỉ mong Ngài giải phóng con mình khỏi quỷ.
“Xin chạnh lòng thương mà giúp chúng tôi.”
Rõ ràng nhiều người khác trong gia đình ông cũng phải chịu đau khổ.
“Nếu Thầy có thể làm được gì”, câu này cho thấy ông tin không mạnh lắm.
Vì thế Đức Giêsu đã bắt bẻ câu nói của ông.
“Mọi sự đều có thể đối với người tin” (c. 23).
Đức Giêsu buồn vì phải ở với và chịu đựng một thế hệ cứng lòng tin (c. 19).
Các môn đệ không đuổi được quỷ vì họ chưa đủ đức tin.
Người cha muốn con mình được khỏi, ông cũng cần có thêm đức tin.
Thái độ nửa tin, nửa ngờ cũng là thái độ của thế hệ chúng ta.
Đức tin là lời đáp trả của con người,
nhưng đức tin cũng là ơn ban của Thiên Chúa.
Có lúc chúng ta cũng kêu lên như người cha đang chới với :
“Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!”(c. 24).
Chúa có khả năng nâng đỡ đức tin của ta trong lúc khủng hoảng.
Có lúc chúng ta thấy không thắng nổi sức mạnh của xác thịt, của quỷ ma.
Và như các môn đệ, chúng ta tự hỏi tại sao (c. 28).
“Giống quỷ ấy chỉ trừ được bằng cầu nguyện” (c. 29).
Cầu nguyện là xin Đức Giêsu thêm sức mạnh và thêm lòng tin cho ta.
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Quỷ vẫn còn ám
Có một người suốt đời chỉ biết chăm lo cho mình, vì thế tuy là người giàu có nhưng anh cũng là người keo kiệt nhất. Ngày nọ, sau khi dự đám tang của người thân trở về, anh quyết định đổi mới cuộc sống. Ít lâu sau đó, một người láng giềng bị cháy sạch nhà cửa, đây là cơ hội tốt để anh học biết cho đi. Thế nhưng, khi đứng trước kho lẫm, có tiếng nói thầm vào tai anh: "Hãy cho ít thôi". Một lần nữa anh phải chiến đấu với tính keo kiệt của mình, nhưng lòng quảng đại trong anh đã chiến thắng. Dù vậy, khi người láng giềng cám ơn và ra về, lòng anh vẫn còn vọng lại dư âm như muốn chế nhạo anh: "Chỉ có người điên mới làm như vậy, người láng giềng cũng có đôi tay để làm việc, tội gì phải cho đi như thế, lúc ốm đau thì lấy đâu lo cho thân mình".
Ngày nay, vẫn còn có nhiều người lưu tâm đến việc thờ ma quỷ, không những trên báo chí, phim ảnh, mà còn cả phong trào tôn thờ ma quỷ nữa. Ðiều này dễ làm con người lầm tưởng rằng ma quỷ ở đâu đâu hoặc ở trong một số người nào đó. Kỳ thực, không có những hiện tượng bên ngoài, như bị vật ngã, xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ thân thể, mà Tin Mừng hôm nay ghi lại, nhưng thực tế con người cũng bị ma quỷ ám ảnh tâm trí một cách nào đó. Những quỷ kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, mê ăn uống... không hiện nguyên hình, nhưng ngụy trang thành những bộ mặt đáng yêu để quyến rũ con người: với những lý luận đủ sức thuyết phục con người, như: thu tích tiền của có gì là xấu, có tiền củ tại sao tôi không hưởng thụ. Những ý tưởng đó dần dà chiếm hữu con người hoàn toàn, khiến họ bịt tai nhắm mắt trước những khốn khổ của người khác.
Thật không dễ gì trị được hiện tượng quỷ ám này, nếu không thực hiện Lời Chúa dạy là ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay để nâng con người lên khỏi sức nặng của thân xác và của cám dỗ vật chất; cầu nguyện để đón nhận sức mạnh chiến thắng của Chúa Kitô, Ðấng đã đánh bại được quyền lực của Satan. Cầu nguyện là để cho con người cũ của chúng ta chết đi và để cho Chúa Giêsu mỗi ngày một lớn lên trong chúng ta.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thêm ý thức về thân phận tội lỗi, yếu hèn của chúng ta, và trong mọi sự, chúng ta biết hướng nhìn lên Chúa là sức mạnh, là lẽ sống duy nhất của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Các môn đệ thất bại
Bất cứ ở đâu, hể quỷ nhập vào là vật cháu xuống; Cháu xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi. Người đáp: “Ôi thế hệ cứng lòng, không có lòng tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem nó lại đây cho tôi.” (Mc. 9, 18-19)
Đang lúc Chúa Giêsu và ba tông đồ còn ở trên núi, thì các môn đệ đã được Chúa sai đi truyền giáo gặp một trở ngại lớn. Đó là chuyện một đứa trẻ bị quỷ ám, quỷ thường hành hạ, xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho chết. Cha đứa bé đã đưa nó đến cho các môn đệ, nhưng các ông này không thể thắng được tên quỷ kia. Bệnh tật khốn khổ của đứa bé, có lẽ là chứng động kinh, đã lôi kéo đám đông và các kính sư, họ bắt đầu tranh luận với các môn đệ. Chắc hẳn mấy ông kinh sư nọ phải vui sướng vì sự thất bại này và phải hỏi các môn đệ ấy xem liệu Ông Thầy của họ sẽ đuổi được tên quỷ này không. Câu truyện tới đây thì Chúa Giêsu xuất hiện và thu hút mọi người. Cha đứa nhỏ len lỏi đến được với Chúa Giêsu và trình bày cho Người hay tình cảnh. Sau khi đã thử lòng tin của ông, Chúa Giêsu chữa cho con trai ông ta được lành. Phép lạ này đặt sức mạnh của Thầy đối chọi với sự yếu kém, bất lực của các môn đệ. Đức Giêsu mặc dầu đang tiến đến cái chết, như Người đã loan báo, thì Người vẫn cứ thảnh thơi hành động nhờ vào tính toàn năng của Thiên Chúa.
Mặt dưới của sự thất bại
Sự các môn đệ thất bại không trừ được quỷ cho Chúa Giêsu cơ hội giáo huấn về lòng tin và sự cầu nguyện, cả hai đều là nền tảng của việc truyền giáo cũng như đời sống Kitô giáo. Về phương diện này, ba giai đoạn của trình thuật thật quan trọng: lời trách móc đám đông, nói chuyện với người cha và nói chuyện với các môn đệ. Khi người cha mô tả cho Chúa Giêsu cơn bệnh của đứa con trai ông và sự bất lực của các môn đệ Người, thì Chúa Giêsu đưa ra một lời trách móc: “Oi thế hệ cứng lòng, không có lòng tin!”. Các ngôn sứ trước thái độ bất trung và cứng lòng của dân Do thái thường kêu lên như vậy. Căn nguyên của sự thất bại nằm trong sự thiếu lòng tin, và điều này khiến Chúa phâỉ bực mình nổi giận: “Tôi còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa?”
Cha của người bệnh nói: “Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi.” Lời kêu gọi xin thương xót này làm động lòng Chúa, mặc dầu có một sự ngờ vực nào đó về quyền năng của Người. Chúa Giêsu bắt bẻ lại: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin”, có nghĩa là Thiên Chúa toàn năng phục vụ cho kẻ tin. Chúa Giêsu nắm giữ quyền năng thay đổi thực tại vì lợi ích của người tín hữu chân thật. Người cha đã hiểu được tiến trình Chúa Giêsu đề nghị cho ông: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi”. Thay vì xin chữa khỏi cho con mình, ông lại xin được tăng thêm lòng tin vốn là điều kiện cho phép lạ được thực hiện.
Cầu nguyện cho có lòng tin đã là một thái độ tin rồi và không có được lòng tin vững chắc, nếu không dựa vào ân sủng của Chúa.
Suy Niệm 4: THỨ HAI TẠI SAO CÁC MÔN ĐỆ KHÔNG TRỪ ĐƯỢC QUỶ? (Mc 9, 14-29)
Ngày nọ, một linh mục đến hỏi thánh Gioan Vianney bí quyết làm cho xứ đạo được thánh thiện. Thánh nhân hỏi: "Ngài đã làm gì ?" Cha kia đáp: "Con tổ chức hội đoàn, con mời gọi học giáo lý, con cho thực hiện những cuộc rước kiệu... Thế nhưng xứ con giáo dân vẫn lười biếng, bê bối".
Thánh Vianney hỏi lại: “Thế cha đã ăn chay và cầu nguyện chưa?". Nghe câu hỏi đó cha sở này thú thực là chưa hề nghĩ tới.
Thấy vậy, cha Gioan Vianney đã chỉ ra cho cha kia biết nguyên nhân là chưa cầu nguyện và ăn chay nên không thành công...
Câu hỏi: "Tại sao chúng con không trừ được quỷ” mà các môn đệ cất lên hỏi Đức Giêsu có lẽ cũng là câu hỏi đầu tiên của chúng ta khi nghe đọc bài Tin Mừng hôm nay!
Khi các môn đệ đang phân vân và không thiếu kinh ngạc trước sự cứng đầu của quỷ, Đức Giêsu đã nói ngay: “Giống quỷ đó chỉ trừ được bằng cầu nguyện”.
Tại sao vậy? Thưa! Rất đơn giản, vì các môn đệ chỉ là người thừa tác để trừ quỷ chứ tự thân, các ông không thể trừ được. Vì thế, các ông phải nhân danh người sai mình. Cầu nguyện chính là sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời của người sai và người được sai. Khi cầu nguyện, người thi hành chỉ biết làm khi có lệnh hay đúng hơn là làm theo ý chủ.
Chỉ có sự kết hiệp mật thiết với Chúa, con người mới có khả năng để thống trị ma quỷ. Chỉ có cầu nguyện liên lỷ, con người mới gắn bó và đi trong đường lối của Thiên Chúa, nếu không, người ta dễ làm theo ý riêng và quy chiếu về mình thay về Chúa.
Thật vậy, "Không cầu nguyện thì không có đức tin.
Không có đức tin thì không có tình mến.
Không có tình mến thì sinh kiêu ngạo.
Khi đã kiêu ngạo thì hoàn toàn thuộc về ma quỷ”.
Đây là mấu chốt các môn đệ không trừ được quỷ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cậy trông vào Chúa qua việc cầu nguyện. Cần xác định rõ rằng: việc trừ quỷ là việc của Chúa, chúng ta chỉ là dụng cụ Chúa dùng. Tuy nhiên, dụng cụ phải vừa tay ông chủ, tức là chúng ta chỉ hữu dụng khi biết phụ thuộc vào Chúa qua cầu nguyện.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta ý thức được sự cao quý của việc cầu nguyện, để đức tin, cậy, mến ngày càng lớn mạnh trong con người và nơi sứ vụ của chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
23/02 Nên trọn lành như Cha trên trời
- Viết bởi Mt 5, 38-48
Nên trọn lành như Cha trên trời.
Chúa Nhật 7 Thường Niên năm A.
"Các con hãy yêu thương thù địch các con".
Lời Chúa: Mt 5, 38-48
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ.
"Các con cũng đã nghe dạy rằng: 'Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương.
Vì nếu các con yêu thương những kẻ yêu thương các con, thì còn có công gì? Nào những người thu thuế không làm như vậy ư? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con mà thôi, thì các con có làm gì hơn? Nào dân ngoại không làm như vậy sao? Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Lv 19,1-2.17-18; 1Cr 3,16-23; Mt 5,38-48
1. Yêu kẻ thù là thánh - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mở đầu sách Đại học của Nho Giáo đã nêu rõ mục đích là “Đại học chi đạo: Tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”.
Kết thúc Hiến chương nước Trời trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đặt rõ mục đích là “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời... là yêu kẻ thù”.
Nho Giáo ở phương trời Viễn Đông, Kitô giáo ở phương trời Cận Đông, tuy xa nhau hàng ngàn dặm, nhưng tình yêu đâu có khác nhau?
Một đàng muốn con người nên chí thiện ở tại thân dân, thương yêu dân.
Một đàng bảo: “Anh em hãy nên toàn thiện ở tại thương yêu cả kẻ thù”.
Một đàng: “Minh minh đức”, minh là làm sáng tỏ, minh đức là đức sáng láng của Trời; minh minh đức là làm cho đức sáng của Trời sáng tỏ ra, chiếu sáng ra.
Một đàng bảo: hãy cầu nguyện, cốt yếu của cầu nguyện là làm cho danh thánh Cha trên trời hiển sáng, chiếu sáng ra khắp muôn dân. Thiên Chúa là ánh sáng, Đức Kitô là ánh sáng bởi ánh sáng (Ga. 1, 9).
Phần kinh của sách Đại học chỉ có 205 chữ: đây là cương lĩnh, là Hiến chương của Nho Giáo, mục đích đào tạo người học Thánh quân tử, thánh nhân.
Hiến chương nước Trời của Đức Giêsu cũng rất ngắn gọn, vài trăm chữ, nhằm đào tạo con người thành con Cha trên Trời, thành Thánh nhân của Thiên Chúa.
Hai Hiến chương có lẽ chỉ khác nhau ở chỗ: Tin Mừng nói rõ Cha trên trời là Đấng hoàn thiện và hạnh phúc Nước Trời; sách Đại học không nói rõ, nhưng cũng ngầm hiểu: làm cho dân được hạnh phúc là ở tới đích chí thiện; chí thiện chính là Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay đặt chương trình nên chí thiện, nên chí thánh rất cụ thể.
Bài I (Lv. 19, 1-2; 17-18) Chúa phán dạy: “Các ngươi phải nên thánh”. Nhờ sống thánh thiện, mới tránh được: ghen ghét, oán hận, trả thù; mới biết yêu đồng loại như chính mình. Nền tảng của dân thánh đặt trên: “Ta là Đấng Thánh”.
Ở thời Cựu Ước, trước kỳ lưu đầy, khi nghe nói đến “Đấng Thánh” thì dân nhớ đến Đền Thánh, nhớ đến nơi cực Thánh trong cung thánh, nhớ đến những ngày lễ Thánh, những việc Thánh họ phải làm nơi đền thờ để được nên thánh.
Đến thời lưu đầy đền thờ bị phá hủy, dân bơ vơ, không còn điểm tựa để nhận ra Giavê là Đấng Thánh cho dân nên thánh. Họ phải nhớ lại giới luật giao ước núi Sinai mà Giavê, Đấng Thánh đã ban cho họ. Họ cần sống thực hiện giới luật đó để họ nên thánh như Đấng Thánh đã truyền dạy họ. Họ mới mong Đấng Thánh giải phóng họ khỏi cảnh lưu đầy như Ngài đã giải phóng tổ tiên họ khỏi nô lệ Ai Cập.
Bài II (1Cr. 3, 16-23) Phaolô không nhắc tới đền thờ Giêrusalem, không nhắc đến luật cũ nữa. Tân Ước là thời đại mới, dân Chúa thực sự không nên thánh nhờ đền thờ hay lề luật. Họ nên thánh, họ là dân thánh (1Phêrô 2, 9) nhờ được tái sinh bởi nước và Thánh Thần. Phaolô cho họ thấy: “Anh em là đền thờ Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em” Từ nay họ là chi thể thánh của Đức Kitô “Anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”
Thánh Phaolô đã cho ta biết rõ, bản chất cốt yếu của thánh thiện, không nhờ đền thờ hoặc bất cứ ai dù là Phaolô... hay luật lệ chỉ nhờ một mình Thiên Chúa: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người” đã làm cho ta nên thánh.
Khi đã nhờ Người mà nên thánh, thì chính nhờ Người mà chúng ta mới có thể yêu kẻ thù.
Nhờ Người và như Người, chúng ta sẵn sàng chịu vả má phải và giơ thêm má trái cho họ vả, chứ không như luật dạy: mắt đền mắt răng đền răng. Nhờ Người và như Người, chúng ta không cần che thân, không cần bảo vệ, sẵn sàng chịu bóc lột áo trong cũng như áo ngoài. Nhờ Người và như Người không có hòn đá gối đầu, chúng ta không tiếc xót khi cho vay mượn, không bám gót của cải, dễ dàng cho đi, bỏ đi.
Nhờ Người và như Người đã vác khổ giá, chúng ta sẵn sàng phục vụ công việc như nô dịch, làm phu như ông Simon vô cớ bị quân dữ bắt làm phu vác đỡ thánh giá Chúa. Hơn nữa, còn phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để yêu kẻ thù.
Như thế, mới được trở nên con Cha, Đấng đã làm cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống cho kẻ dữ cũng như người lành. Chiêm ngắm những kỳ công bao la đó, Nho gia xưa đã rất ngạc nhiên kêu lên: “Ôi đạo của bậc thánh vĩ đại thay! mênh mông như biển cả, sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục, thánh hóa tất cả vạn vật trong vũ trụ từ đất đi tới trời cực kỳ tốt đẹp: Đại tai thánh nhân chi đạo! dương dương hồ, phát dục vạn vật; tuấn cực vu thiên” (Trung Dung - chương 27)
Thánh như vậy đã “phối hợp với trời đất rộng dầy cao minh: bác hậu phối địa, cao minh phối thiên” (Trung Dung - 26)
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thấy ba mức độ thánh thiện:
Thánh thiện ở đền thờ, kinh lễ như hạng tư tế, bị Chúa phê: quân này mến Ta bằng môi miệng và lòng nó xa Ta.
Thánh thiện ở giữ trọn lề luật như chàng thanh niên giàu có, nhưng anh thiếu một điều là: hãy về bán những gì anh có mà cho người nghèo, người nghèo là kẻ thù của người giàu.
Thánh thiện ở yêu kẻ thù, yêu kẻ thù mới thực là tình yêu chí thiện, chí thánh phản ánh rõ nét tình yêu Thiên Chúa đã thí mạng sống Con Một cho kẻ thù: kẻ thù của Thiên Chúa là kẻ tội lỗi.
Lạy Chúa, xin thánh hóa tình yêu con, cho con biết yêu mến mọi người, nhất là những người thù ghét, oán hận con. Amen.
2. Đỉnh của luật: Luật Yêu Thương - Huệ Minh
Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta và ghét bỏ những kẻ ghét bỏ chúng ta. Kẻ nào làm hại chúng ta thì chúng ta sẵn sàng để trả đũa, và người đời cho đó là lẽ thường tình, là thái độ khôn ngoan.
Qua trang Tin Mừng nay Chúa Giêsu bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường tình ấy. Ngài phán với chúng ta: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì có thực hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đang là con cái Thiên Chúa và mới trở nên giống Ngài, Đấng đã cho mưa xuống trên người lành cũng như trên kẻ dữ.
Chúa Giêsu không phải chỉ truyền dạy chúng ta mà chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu thương này. Đúng thế, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài như lời thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Rôma đã viết: Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đó là khi chúng ta còn tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết để chúng ta được sống.
Trên tất cả, Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu đến để đem lại một tình yêu bác ái gạn lọc mọi dơ bẩn, mọi lớp vỏ bao quanh như tình máu mủ, dân tộc, gia đình, quốc gia, lễ giáo chật hẹp. Người xưa bảo: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, người ta xúc phạm mình mức nào, mình có quyền ăn miếng trả miếng, đối xử với họ như họ đã đối xử.
Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Ngài đã sống yêu thương, Ngài luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với Ngài, mặc dù họ ghen ghét Ngài vô cớ, họ luôn tìm dịp để tố cáo Ngài, xuyên tạc lời Ngài giảng dạy. Đối với Giuđa là kẻ phản bội, Chúa không tố cáo đích danh trước mặt các môn đệ, Chúa còn ngồi ăn cùng bàn và rửa chân cho y nữa. Khi Giuđa dẫn quân lính đến bắt Chúa trong vườn cây dầu, Chúa vẫn ôn tồn nói với Giuđa: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22, 48).
Vì yêu thương Giuđa nên nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhở, cảnh tỉnh để ông ta thay đổi việc làm xấu mà được hưởng ơn cứu độ. Trên thập giá, trước khi tắt thở, Chúa vẫn dùng chút hơi tàn lực kiệt để cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Người “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Vì vậy, thánh Phaolô cũng nói: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Trên thập giá, Chúa đã tha thứ và đưa vào Thiên Đàng người trộm lành biết ăn năn hối cải: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Chúa đã tha thứ ngay khi Ngài bị kết án bất công, bị đóng đinh trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Chết mới nói lên lời. Chết mới nói lên tình ây trọn vẹn, tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến.
Tha thứ, yêu thương kẻ thù là điều rất khó thực hiện. Nhưng Chúa dạy: “Các con phải trở nên hoàn thiện như cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).
Chúa Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30).
Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.
Xã hội và ngay chính bản thân ta sẽ không thể nào được xây dựng trên sự thù oán và đấu tranh, vì thù oán này sẽ nảy sinh ra thù oán khác, như một thứ bệnh truyền nhiễm làm cho xã hội bị sụp đổ, còn bản thân tôi sẽ phải quay quắt khổ đau. Thế nhưng, điều tệ hại nhất, đó là chính bản thân tôi nhiều khi lại là nguyên nhân cho sự thù oán, vì hơn một lần tôi đã sai lỗi, hơn một lần tôi đã gian tham và bất công. Cho nên người đáng phải giết, đáng phải loại trừ lại chính là bản thân tôi. Vì vậy mà bản du ca trên có những lời lẽ được tiếp nối như sau: Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là điêu ngoa, tên nó là tham tàn...
Phương thế hữu hiệu nhất để làm cho thêm bạn bớt thù, không phải là chết giết những kẻ thù ở bên ngoài, vì sự trả thù chỉ là cái vui của những tâm hồn đê tiện, nhưng là phải lột mặt nạ và tận diệt cho bằng được những thói hư tật xấu, là những kẻ nội thù, nằm sẵn trong cõi lòng chúng ta, như người xưa đã dạy: Kẻ thù đích thực thì ở trong tâm hồn, vì đó là những nguyên nhân gây nên thù oán ngoài xã hội.
Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian... Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa.
Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau. Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác. Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được vời mình. Đây cũng là điều mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ.
Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình. Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình. Bởi vì, oán báo oán thì oán chập chùng. Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù. Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ. Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.
Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?
Chúa còn mời gọi mỗi người chúng ta hãy nên hoàn thiện “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Để nên hoàn thiện, chúng ta hãy loại bỏ thứ “luật rừng”, thứ luật luôn diệt trừ lẫn nhau, loại bỏ những toan tính, ích kỷ, hẹp hòi, tham lam, gian dối, lừa lọc. Chúng ta hãy thực thi giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy là “mến Chúa và yêu người” yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù, yêu thương và tha thứ cho những người làm thiệt hại đến mình, dù là vô tình hay hữu ý.
3. Yêu thương kẻ thù
Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta và ghét bỏ những kẻ ghét bỏ chúng ta. Kẻ nào làm hại chúng ta thì chúng ta sẵn sàng để trả đũa, và người đời cho đó là lẽ thường tình, là thái độ khôn ngoan.
Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng nay Chúa Giêsu bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường tình ấy. Ngài phán với chúng ta: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì có thực hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đang là con cái Thiên Chúa và mới trở nên giống Ngài, Đấng đã cho mưa xuống trên người lành cũng như trên kẻ dữ.
Chúa Giêsu không phải chỉ truyền dạy chúng ta mà chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu thương này. Đúng thế, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài như lời thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Rôma đã viết: Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đó là khi chúng ta còn tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết để chúng ta được sống.
Đúng thế, Ngài luôn luôn mong ước những điều tốt, những điều phải cho những kẻ bách hại Ngài. Ngài chịu đau khổ và chịu chết để những ai bắt Ngài phải đau khổ và phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối của con người không đáp trả tình thương yêu của Ngài, Ngài vẫn duy trì cái quyết định tuyệt đối của Ngài, đó là yêu thương chúng ta mãi mãi.
Một trong những đặc tính nổi bật của tình yêu nơi Thiên Chúa đó là sự tha thứ. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử tốt lành lên đường tìm kiếm con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì vác nó trên vai và đem về nhà. Rồi Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Không phải những kẻ khoẻ mạnh là là những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sẵn sàng chịu chết trên thập giá để làm gì nếu không phải là để tha thứ cho chúng ta. Trong giây phút đớn đau nơi thập giá, Ngài cũng đã thứ tha cho tất cả những kẻ độc ác đã hành hạ Ngài bằng lời van xin: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Có hai người thổ dân Nam Phi rất ghét nhau. Ngày kia trong một hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù đang đi trong rừng. Hắn liền bắt cô bé, chặt đứt ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy vừa khóc, còn hung thủ vừa đi vừa la: Ta đã trả thù được rồi. Mười năm sau, cô bé lúc đó đã có chồng và có con. Ngày kia, một kẻ ăn mày tới xin ăn, bà nhận ra đó là kẻ đã chặt tay mình, nên vội vàng vào nhà, bảo tôi tớ đem cơm thịt và cá ra đãi. Khi kẻ thù đã ăn xong, bà bèn giơ bàn tay cụt ra cho coi và nói: Tôi cũng đã trả thù được rồi. Tên ăm mày thấy thế bèn khóc lóc xin được tha thứ.
Thiên Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có thực sự yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ ghét bỏ chúng ta hay không?
4. Mở toang cửa lòng – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu)
Một vị vua của Trung Quốc nói với triều đình của mình rằng: “Khi nào ta chinh phục đất nước ấy, ta sẽ tiêu diệt hết kẻ thù”.
Chẳng bao lâu sau, ông đã toàn thắng trở về. Đình thần của ông đều chờ đợi một cuộc thảm sát đẫm máu. Họ mong cho kẻ thù phải bị phanh thây không còn một tên sống sót. Nhưng họ lại vô cùng sửng sốt khi thấy kẻ thù ngồi ăn uống với nhà vua, cười cười nói nói vui vẻ như kẻ thắng trận. Họ liền tâu nhà vua:
-Muôn tâu Thánh Thượng, trước khi xuất quân lâm trận, ngài đã tuyên bố là sẽ tiêu diệt kẻ thù cơ mà! Sao bây giờ…?
Hoàng đế ôn tồn cười nói: “Không phải ta đã tiêu diệt hết kẻ thù rồi sao? Những người ngồi đây không phải là bạn hữu của chúng ta sao?”
***
Sự trả thù theo Kinh Thánh, nó như một con dã thú nằm phục trong bóng đêm ở cửa nhà, sẵn sàng nhảy ra nhe răng và vươn vuốt (Kn 4,7). Con dã thú ấy ở đâu đó trong lòng con người.
Abraham Lincoln, vị Tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ đã phát biểu một câu danh tiếng: “Biến thù thành bạn, phải chăng đã là tiêu diệt được kẻ thù rồi?” Đó chính là sức mạnh của tình yêu cứu độ.
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy: “Hãy yêu kẻ thù”. Từ khi con người xuất hiện trên trái đất này, chưa có một tôn giáo nào kêu gọi “Hãy tha thứ cho kẻ thù”, chưa có một vị sáng lập đạo giáo nào đã dạy: “Hãy yêu kẻ thù”. Duy nhất, mình Đức Giêsu, Người không chỉ dạy “Hãy yêu kẻ thù” mà còn khuyên: “Hãy cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 6,44). Người không chỉ dạy phải tha thứ cho kẻ thù, mà Người còn làm gương trước cho mọi người. Lời cao đẹp nhất tren môi miệng của Đức Giêsu, chính là lời thốt ra khi Người đang quằn quại trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ”. Và nghĩa cử hào hiệp nhất trong cuộc đời của Đấng Cứu Thế, chính là việc Người biện hộ cho những kẻ hành hạ mình: “Vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Nhưng làm sao chúng ta có thể yêu kẻ thù?
Trước tiên, hãy học cho biết tha thứ. Không biết tha thứ thì không thể yêu thương. Khi người cha nhân hậu đã sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho đứa con hoang đàng, ông mới có thể ôm hôn người con vào lòng, đeo nhẫn, xỏ giầy, mặc áo mới, giết bê béo ăn mừng. Tha thứ là tháo gỡ rào cản, phá đổ bức tường ngăn cách. Tha thứ là cất đi gánh nặng, là xóa bỏ món nợ. Tha thứ là hòa giải, là gặp lại nhau, là thiết lập lại quan hệ mới. Tha thứ là chất xúc tác rất cần thiết cho một khởi đầu mới. Tha thứ là mở toang cánh cửa lòng mình, cho nắng ấm tình yêu tràn ngập tâm hồn. Như thế, mức độ tha thứ chính là thước đo mức độ yêu thương kẻ thù.
Thứ đến, hãy biết rằng kẻ thù không hoàn toàn xấu. Nơi người xấu nhất vẫn có cái tốt và nơi người tốt nhất vẫn có cái chưa thật tốt. Chính thánh Phaolô cũng phải thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Trong biển đời mênh mông, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu ai đó tới chân tơ kẽ tóc. Nhìn kỹ vào kẻ thù, chúng ta sẽ khám phá ra rằng, điều xấu họ làm thường xuất phát từ sợ hãi, thiên kiến, hiểu lầm hay ngu dốt. Nhưng dù sao, họ vẫn mang đậm hình ảnh của Thiên Chúa. Cũng chính vì những yếu đuối, bất toàn và khiếm khuyết ấy họ mới cần được Thiên Chúa cứu chuộc và mong chờ chúng ta yêu thương.
Cuối cùng, chúng ta đừng nuôi hờn giữ oán, đừng tìm cơ hội trả đũa, làm nhục kẻ thù hay thẳng tay tiêu diệt họ. Trái lại, mọi lời nói, cử chỉ, hành vi của chúng ta nên tỏ ra thân thiện, dễ gần gũi, để gia tăng sự hiểu biết và cảm thông với kẻ thù, để khai mở thiện chí hoán cải trong họ. Tấm lòng bao dung bao giờ cũng gói trọn con tim vô cùng độ lượng. Chính tấm lòng bao dung, quảng đại như thế sẽ dẫn chúng ta đến với tình yêu chân thành, một tình yêu sâu lắng hơn cảm xúc, một tình yêu tràn đầy, không chờ đợi điều gì cho mình, một tình yêu được tác động từ Thiên Chúa.
Chúng ta yêu kẻ thù vì chính Thiên Chúa đã yêu họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ghê tởm điều ác họ làm. Yêu như thế là chúng ta đang dấn thân vào tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu cứu chuộc. Chỉ với tình yêu đó, chúng ta mới “trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,48). Hoa nhân đức cứ tỏa hương mà không cần có người khen ngợi. Lòng bao dung cứ rộng mở cho dù chẳng ai hay biết.
***
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng: Lấy oán báo oán sẽ làm tăng thêm hận thù, chỉ có tình yêu tha thứ mới có khả năng biến thù thành bạn. Hơn nữa, hận thù còn làm tổn thương tinh thần và hủy diệt nhân cách.
Xin cho chúng con biết quảng đại đáp lại lời mời gọi làm công việc khó khăn này, là “Hãy yêu kẻ thù”.
Nếu chúng con chưa bao dung được cho kẻ thù, thì xin cho chúng con nghe được lời bao dung của Chúa: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ”. Amen.
5. Tình yêu khỏa lấp hận thù - Dã Quỳ
Giữa một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tự nhiên của con người là ăn miếng trả miếng, muốn trả đũa, muốn thắng người khác và hơn người khác. Chính vì thế, nói đến "bỏ qua, tha thứ" dường như người ta nghe lạ lẫm, chứ chưa nói đến yêu thương cả kẻ thù, người bách hại mình... Thế nhưng Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã mời gọi và hơn nữa Người truyền lệnh cho chúng ta: "Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác... Hãy yêu kẻ thù..." Là Kitô hữu, mỗi chúng ta cần phải nỗ lực thực thi mệnh lệnh yêu thương của Chúa, cố gắng "Nên Hoàn Thiện" như Cha trong cách thức sống, và chứng thực chúng ta là con cái của Cha - Thiên Chúa Tình Yêu.
Luật Môsê dạy rằng: "Mắt đền mắt, răng đền răng." Khoản luật này xem ra vẫn còn nhẹ nhàng và khoan dung, bởi trong thời Sáng Thế, Đức Chúa đã phán với Cain rằng ai giết ông, sẽ bị trả thù gấp 7 lần (x. St 4,15). Nhìn vào thực tế đời sống xã hội hôm nay, chúng ta vẫn thấy nhan nhản những con người trả thù tàn bạo, vẫn còn đó những não trạng bất nhẫn và không chút khoan dung với tha nhân khi họ phạm tội! Chỉ cần nghe một người làm gì sai trái, ta chưa biết nguyên nhân dẫn họ đến hành động như thế, nhưng suy nghĩ tiêu cực luôn tràn trong trí óc là kết án, ném đá, đòi xử tội... dù ta vô can trong chuyện đó. Vì vậy, câu danh ngôn Latinh đã viết "Con người là chó sói của nhau". Điều này có nghĩa là con người nhẫn tâm cư xử tàn bạo với nhau, dã man với nhau hơn cả lang sói!
Còn Thầy Giêsu, Thầy bảo anh em: "Đừng chống cự người ác..." Tất cả những bạo lực xảy ra đều do lòng người đã nhen nhúm sự tức giận, ghen ghét nhỏ nhen....để rồi dẫn đến hận thù và báo oán! Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, những Kitô hữu hãy khử trừ khỏi lòng mình mọi hình thức trả thù. Hãy "Lấy ân đền oán", vì không có con đường nào bình an và hạnh phúc cho tâm hồn bằng con đường tha thứ và yêu thương. Thật dễ khi ta cho đi những gì ta có hay dư giả như vật dụng, tiền của...Nhưng rất khó để ta trao tặng sự tha thứ vì nó đòi ta từ bỏ chính mình, gạt đi cái tự ái, bản thân, danh dự.... Chính vì vậy, ta cần có ơn Chúa trợ lực, sức mạnh Chúa giúp ta chiến thắng chính mình, thắng được lòng hận thù trong chính chúng ta. Có như thế, ta mới trở nên con cái của Cha chúng ta và có thể yêu thương cả kẻ thù như Chúa mong muốn ta thực hiện.
Thầy bảo anh em: "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em." Có lẽ trong đời sống hằng ngày, nhiều người trong chúng ta nghĩ mình không có kẻ thù. Thế nhưng, sao ta lại hay bực bội, khó yêu thương người khác. Những người làm ta trái ý, ta không vui; những người không giống ta, khác ta nhiều quan điểm và lối sống... Hơn thế nữa, những người đã và đang làm hại ta về vật chất, tinh thần, thanh danh, sức khỏe... và thế là ta đã khó yêu thương, chẳng thể sống hòa hợp! Nỗi bất bình cứ nhen nhúm và lớn lên, rồi một lúc ta xem người khác không còn phải là anh chị em mình nữa. Thế là sự thù nghịch, ghét ghen, diệt trừ nhau xảy ra. Chính vì điều này, ta cần phải ý thức, nhất là chúng ta, những Kitô hữu, hãy biết giữ lòng mình nhân từ, bao dung, rộng lượng bỏ qua cho anh em những khuyết điểm, sai lỗi hằng ngày. Đừng để lòng cay đắng, oán giận ai. Có như thế, khi ta gặp ai đó làm ta khó chịu, la mắng ta, đổ oan, vu khống hay làm thiệt hại ta, với tình yêu và ân sủng của Chúa, ta sẽ có thể dâng người anh em lên Chúa, cầu nguyện cho họ và sẵn lòng tha thứ cho họ và như vậy, ta mới xứng đáng là con của Cha- Đấng Nhân Từ.
"Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình , thì anh em nào có công chi? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu?" Yêu thương những ai không yêu mình, chào hỏi những người chẳng quan tâm thăm hỏi ta... đó là chúng ta bắt chước Thiên Chúa. Làm điều tốt cho những ai làm điều dữ cho ta, đó là tinh thần của chính Thiên Chúa. Trong mọi lời nói và cư xử, luôn có sự tự chủ, cần phải nhìn lên mẫu gương của Chúa, yêu thương, đón nhận anh chị em không giới hạn.
Chúa Giêsu đã yêu cầu chúng ta vượt qua bên kia cái tình cảm tự nhiên ban đầu để làm cho vòng tròn yêu thương xung quanh của ta được mở rộng không biên giới. Nếu như chúng ta chỉ yêu những ai đáp lại tình yêu của ta, giống ta, suy nghĩ như ta, cùng tôn giáo với ta, những người trong dòng tộc hay thân quen của ta, những người trong làng xóm của ta...thì thực sự chưa đủ với tinh thần của người Kitô hữu và những gì Chúa muốn ta sống. Vì vậy, Chúa mong ta hãy làm lớn trái tim của ta, mở rộng tấm lòng của ta, để rồi chúng ta có thể yêu thương không giới hạn, không biên giới, không phân biệt. Có như thế, ta mới thực sự trở nên con của Cha- Đấng hoàn thiện, mà Chúa Giêsu mời gọi ta: "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện."
Ước mong sao từng Kitô hữu chúng ta luôn biết rằng: Nếu ta loại trừ ai đó ra khỏi tình yêu của ta, ta sẽ không có một tình yêu hoàn hảo. Người nào đó ta không yêu, chính Thiên Chúa đã và đang yêu họ. Người yêu thương cách tuyệt đối, yêu thương kẻ thù của Ngài. Hình ảnh Chúa Giêsu tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ đóng đinh giết Người "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm", chứng minh Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu Ngài. Vậy chúng ta, cũng hãy đi và làm như vậy. Hãy cầu xin Tình Yêu Chúa lấp đầy trái tim ta, để ta có thể yêu thương kẻ thù như Thiên Chúa- Đấng hoàn thiện đã yêu thương; để ta có cái nhìn khoan dung, có tâm hồn nhân hậu; để chúng ta luôn biết lấy sự lành đáp lại điều dữ, lấy tình yêu đáp lại hận thù, biết cảm thông thay cho chấp nhất, tha thứ thay cho kết án. Và để trong mọi hoàn cảnh sống, ta luôn can đảm tỏa sáng tình yêu Chúa trong từng cung cách sống và hành vi của ta, chứng tỏ ta là con cái của Thiên Chúa Tình Yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn giúp sức và dạy chúng con biết yêu như Chúa yêu, biết tha thứ như Chúa đã tha thứ và trên hết, biết cầu nguyện cho anh chị em, kể cả người thù nghịch bách hại chúng con. Amen.
6. Yêu thương kẻ thù - + ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Một câu chuyện vui kể rằng, trong buổi hội thảo giao lưu với đề tài tha thứ tại một giáo xứ nọ, vị Linh mục hỏi những người có mặt, ai trong số họ sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù. Tất cả mọi người đều giơ tay, trừ một ông lão ngồi bên dưới.
– Chẳng lẽ cụ không thể tha thứ cho kẻ thù của mình ư?
– Tôi không có kẻ thù.
– Thật là đức độ. Thế cụ bao nhiêu tuổi rồi?
– 90 tuổi.
– Cụ hãy cho mọi người biết bí quyết sống đến 90 tuổi, mà không có một kẻ thù nào.
– Ông lão cao giọng nói: “Chỉ có một cách là phải tiêu diệt hết lũ chúng nó mà thôi!”.
Sống trên đời, giữa chúng ta có nhiều khác biệt về tuổi tác, sở thích, quan điểm. Cuộc sống trần gian cũng là một mớ hỗn độn những cạnh tranh, bon chen, tính toán. Sự cạnh tranh bon chen trở nên nghiệt ngã, tới mức người ta loại trừ nhau. Trong lãnh vực thương mại ngày nay, người ta hay nói: “Thương trường là chiến trường”. Tưởng chừng đơn giản, nhưng đó là một thứ lý luận nguy hiểm, cho thấy sự ích kỷ tới mức hoang dã. Vì trong chiến trường, người lính phải đối diện với quân thù. Họ buộc phải giết đối phương để sống, vì không còn chọn lựa nào khác. Tuy vậy, trong thương trường, mưu mô gài bẫy để hủy diệt và loại trừ người khác là một thứ thương mại vô đạo đức. Danh từ “kẻ thù” được dùng để chỉ những người đối nghịch với mình. Người bị gọi là “kẻ thù”, tức người đó trở nên mối nguy hiểm cho người khác. Trong quan niệm thông thường, người ta chủ trương “không đội trời chung” với kẻ thù.
Nhưng, không kể nơi chiến trường máu lửa, thì kẻ thù là ai? Suy cho cùng, kẻ thù là người không đồng quan điểm với chúng ta. Sự khác biệt nơi những cá nhân đáng lẽ tạo ra một cuộc sống phong phú đa dạng, thì trong nhiều trường hợp lại là nguyên cớ dẫn tới đối nghịch, hiềm thù. Kết án một người là “kẻ thù” nhiều khi do chủ quan và do cái nhìn phiến diện. Nhiều người coi mình là mẫu mực, là tiêu chuẩn cho cách đối nhân xử thế, nên người nào không giống mình thì họ kết án là “kẻ thù”. Do quan niệm này, trong xã hội của chúng ta, biết bao mâu thuẫn và thậm chí có những án mạng đã xảy ra. Có những người coi nhau như kẻ thù, khi đang cùng nhau ngồi trên bàn nhậu, hay khi cùng tham dự một tiệc cưới, và vì một câu nói hay một mâu thuẫn nhỏ đã trở thành sát nhân, lấy đi mạng sống của người đồng bàn. Sự ích kỷ tham lam đã biến các thành viên trong cùng một gia đình thành kẻ thù không đội trời chung. Những anh chị em cùng máu huyết, chỉ vì vài mét vuông đất, hoặc vì không hài lòng do việc chia tài sản thừa kế, đã coi nhau như kẻ thù. Họ kiện nhau ra tòa án và không còn muốn nhìn mặt nhau. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, người ta dễ quên tình huynh đệ, bằng hữu, làng xóm thân cận, để biến thành kẻ thù.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta, không chỉ yêu mến những ai làm ơn cho mình, nhưng còn yêu thương và tha thứ cho kẻ thù. Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy, Chúa Giêsu có những đối phương. Đó là một số người biệt phái và luật sĩ. Họ là những người luôn dò xét để chỉ trích cách sống của Chúa, nhất là tương quan của Người với các tội nhân. Tuy vậy, mặc dù lên án họ với những lời nói gắt gao, không bao giờ Chúa coi họ là những kẻ thù. Chúa muốn chỉ cho họ thấy quan niệm cực đoan của họ. Người cũng mời gọi họ có cái nhìn thiện cảm với các tội nhân. Bởi lẽ, là con người, không ai hoàn thiện. Chúa cũng muốn cho họ hiểu sứ mạng của Người khi đến trần gian là để cứu vớt các tội nhân, như thày thuốc chăm sóc và giúp cho bệnh nhân được lành. Người kêu gọi: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,44-45). “Yêu thương kẻ thù” là nét ưu việt của Kitô giáo. Trong Cựu ước, người Do Thái áp dụng luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, tức là được phép làm cho người khác đúng như mức độ họ đã gây ra thiệt hại cho mình. Khái niệm “đồng loại” trong luật Cựu ước có ý chỉ người Do Thái, còn những người khác thì không phải đồng loại. Lời giáo huấn của Chúa Giêsu làm thay đổi quan niệm truyền thống này, đồng thời hướng tới sự tha thứ không giới hạn. Chính Chúa đã thực hiện điều Người rao giảng, khi chịu treo trên thập giá. Trong hơi thở yếu ớt lúc sắp lìa trần, Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hình mình, vì họ không biết việc họ làm (x. Lc 23,34). Noi gương Chúa Giêsu, Thánh Têphanô Phó tế, vị tử đạo tiên khởi của Kitô giáo, cũng đã cầu nguyện cho những kẻ ném đá mình (x. Cv 7,60). Lời cầu nguyện ấy nói lên sự tha thứ mà vị tử đạo dành cho những người giết hại mình. Sự tha thứ ấy đã đem lại cho vị tử đạo sự bình an và thanh thản tâm hồn.
Cầu nguyện và tha thứ cho những người làm hại mình, chúng ta cũng nỗ lực để đừng trở nên “kẻ thù” của những người xung quanh. Có những người đã trở nên nỗi ám ảnh đối với môi trường sống, ví dụ hiện tượng ngày càng nhiều thanh niên “ngáo đá” do dùng ma túy. Họ trở nên nỗi sợ cho gia đình và làng xóm, khu phố. Nhiều người khác, do lối sống thực dụng, dùng mưu mô mánh lới lừa đảo, bất chấp danh dự và quyền lợi của người khác, sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản, lỗi đức công bằng. Họ đang biến mình thành “kẻ thù” của những người xung quanh.
Để sống một cuộc đời bình an, Ông Bà chúng ta dạy: hãy thêm bạn bớt thù. Đáng tiếc, trong bối cảnh xã hội hôm nay, người ta đang có khuynh hướng làm ngược lại. Thay vì hợp tác huynh đệ để cùng nhau giảm thiểu tội ác, chung sống hòa bình, thì người ta muốn hủy diệt và loại trừ nhau. Ông cụ 90 tuổi trong câu chuyện ở đầu bài viết không có kẻ thù, không phải vì ông quảng đại tha thứ, nhưng nếu ai làm mất lòng ông thì ông sẵn sàng giết họ.
Lấy oán hận đáp lại oán hận, thì hận thù sẽ chồng chất. Giáo lý Phật giáo cũng dạy: “Hận thù diệt hận thù. Đời này không có được. Không hận, diệt hận thù. Là định luật ngàn thu” (Tức là đem hận thù diệt hận thù hay lấy oán trả oán thì oán càng thêm. Còn không đem oán trả oán thì đó mới là định luật ngàn thu). Quảng đại tha thứ, từ bỏ hận thù, chung sống huynh đệ, đó là điểm gặp gỡ chung giữa Kitô giáo và Phật giáo.
Thánh Phanxicô đã cầu nguyện với Chúa: “Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa” (Kinh Hòa bình). Ước chi mỗi Kitô hữu chúng ta trở nên những khí cụ bình an trong cuộc sống chao đảo và đầy bạo lực này. Trước khi trở nên khí cụ bình an, mỗi chúng ta phải cảm nghiệm sự bình an tâm hồn qua việc sẵn lòng tha thứ cho anh chị em mình.
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trên thập giá. Ước chi đó cũng là lời cầu nguyện của chúng ta, mỗi khi chúng ta bị xúc phạm hoặc khinh chê. Chúng ta chỉ có thể thốt lên lời cầu nguyện này, nếu cuộc sống chúng ta thấm đượm tinh thần của Tin Mừng, và Lời Chúa luôn cư ngụ dồi dào trong tâm hồn chúng ta, nhờ đó, chúng ta có cái nhìn yêu thương như cái nhìn của Chúa và trái tim quảng đại như trái tim của Người.
7. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”
Vị sư phụ đáp: “Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ.”
Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Thật nhẹ cả người! Coi như xong!”
Sư phụ đáp: “Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ.”
Người đệ tử gãi đầu: “Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương yêu họ thì…Thôi được, con sẽ làm. Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.”
Sư phụ gật gù bảo: “Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy.”
Người đệ tử trở lại, lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Anh tuyên bố: “Con đã học được và ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”
Sư phụ cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.”
Câu chuyện trên dạy chúng ta bài học về sự tha thứ, không những tha thứ mà còn thương yêu và làm ơn cho kẻ thù của mình. Lời dạy của vị sư phụ đối với đệ tử của mình rất phù hợp với Lời Chúa hôm nay. Thật vậy, tha thứ cho kẻ thù là lệnh truyền của Thiên Chúa, là lời dạy và gương sáng của Đức Giêsu, của các thánh và của rất nhiều vị hiền nhân. Vì thế, tha thứ cũng là bổn phận của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Thứ nhất, tha thứ là lệnh truyền của Thiên Chúa: Khi chúng ta tha thứ và yêu thương kẻ thù là chúng ta thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa. Bài đọc 1, trích sách Lêvi, Thiên Chúa phán với Mô-sê: “Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình” (Lv 19,17-18). Khi chúng ta tha thứ và yêu thương kẻ thù là chúng ta nên giống Thiên Chúa là Cha chúng ta “Đấng cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,45). Thật vậy, Thiên Chúa là người Cha yêu thương hết mọi người, không phân biệt người lành kẻ dữ. Ngài đã tha thứ cho Tổ Tông sau khi hai ông bà phạm tội. Không những thế, mà Ngài còn yêu thương và hứa ban Đấng Cứu Thế. Suốt chiều dài lịch sử cứu độ, biết bao lần dân Do Thái bất trung, nhưng mỗi lần biết thống hối quay đầu trở lại, Ngài đã tha thứ và ban ơn. Sự tha thứ của Thiên Chúa được ngôn sứ Isaia diễn tả rõ ràng rằng: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1,18).
Thứ hai, tha thứ là thực hiện lời dạy và làm theo gương sáng của Đức Giêsu: Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa. Ngài tiếp tục dạy cho nhân loại bài học về sự tha thứ. Bài Tin mừng hôm nay, Ngài dạy chúng ta: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.”(Mt 5,44). Chính Ngài đã nói với Thánh Phêrô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”(Mt 18,22). Ngài còn nói thêm: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi. Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?”(Mt 5, 46). Ngài còn dùng nhiều câu chuyện liên quan đến vấn đề tha thứ và yêu thương để dạy cho dân chúng: Dụ ngôn cỏ lùng (x. Mt 13, 24,30.36-43); ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Lc 15,1-32); câu chuyện về người đàn bà phạm tội ngoài tình (x. Ga 8,1-11)…
Đức Giêsu không chỉ dạy về sự tha thứ mà Ngài còn làm gương cho chúng ta: Biết Giu-đa phản bội, Ngài không những tiếp tục yêu thương mà còn cho ông ngồi đồng bàn, nhiều lần Ngài cảnh tỉnh để Giu-đa từ bỏ ý đồ xấu. Khi Giu-đa dẫn quân lính đến bắt Ngài, Ngài ôn tồn nói những lời yêu thương: “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?”(Lc 22, 48). Ngài tha thứ cho Phê-rô khi ông chối Thầy ba lần. Ngài tha thứ cho kẻ trộm lành. Ngài tha thứ cho Phao-lô khi ông bắt bớ và chém giết người Kitô hữu. Ngài tha thứ cho những kẻ bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Ngài trên thập giá, bằng cách cầu nguyện với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”(Lc 23, 34).
Thứ ba, các thánh và các hiền nhân đã dạy và làm gương cho chúng ta về sự tha thứ:
Gương của các thánh để lại: Gương của Thánh Vương Đa-vít tha thứ cho Saul; Gương của Thánh Stêphanô, đã yêu thương và cầu nguyện cho kẻ giết mình: “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ”(Cv 7, 59-60). Gương của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đến thăm và tha thứ cho Ali Agca, kẻ có ý giết Ngài; Thánh nữ Maria Goretti tha thứ cho Alexander…
Gương của các hiền nhân: Khổng Tử chủ trương: “Dĩ đức báo oán.” Đức Phật Thích Ca cũng dạy: “Lấy oán báo oán, oán ấy chập chồng. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.” Còn ông Gandhi, vị anh hùng của dân tộc Ấn Độ thì cho biết: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”; “Bất bạo động là luật của loài người, bạo động là luật của loài thú.” Ngoài ra, còn biết bao nhiêu mẫu gương khác, không những chủ trương tha thứ mà còn tha thứ bằng lời nói và hành động cho những kẻ làm hại mình.
Thứ tư, tha thứ là bổn phận của mỗi người Ki-tô hữu: Theo tâm lý bình thường, thì chúng ta yêu thương kẻ yêu thương mình và chúng ta ghét kẻ thủ của chúng ta. Kẻ thù là những người bắt bớ, sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu và làm những điều bất công với chúng ta. Vì vậy, để yêu thương những kẻ chúng ta coi là xấu không phải là một việc làm dễ dàng. Nhưng vì là lệnh truyền của Thiên Chúa và lời dạy của Đức Giêsu, cũng như gương sáng của các thánh và của các hiền nhân nên người Ki-tô hữu chúng ta có bổn phận phải thi hành. Chúng ta không những tha thứ mà còn phải cầu nguyện cho họ để họ thay đổi đời sống. Đặc biệt, chúng ta phải làm ơn cho họ, giúp họ nhận ra sai trái để trở về nẻo chính đường ngay. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 3,18).
Tóm lại, chúng ta có bổn phận tha thứ, yêu thương và làm ơn cho kẻ thù, vì đó là lệnh truyền của Thiên Chúa, là lời dạy và gương sáng của Đức Giêsu, của các thánh và của các hiền nhân qua mọi thời đại. Vậy chúng ta hãy đặt mình vào những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống để xét mình xem chúng ta đã thực hiện lời dạy về sự tha thứ như thế nào?
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tha thứ cho anh em như Chúa đã từng tha thứ cho chúng con. Amen.
8. Yêu thương kẻ thù
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường phân chia người khác thành từng loại: thân thiết, thù địch và dửng dưng, để rồi từ đó chúng ta có những thái độ cư xử khác biệt. Với người thân thiết, chúng ta yêu thương. Với kẻ thù địch chúng ta ghét bỏ và với kẻ dửng dưng, chúng ta thờ ơ.
Thế nhưng, bầu khí phụng vụ hôm nay đã làm đảo lộn hay nói đúng hơn đã phá đổ cái trật tự, cái lẽ thường tình này. Trong bài đọc thứ I, Maisen đã khuyên chúng ta: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác. Còn thánh Phaolô qua bài đọc II, thì đòi buộc chúng ta không được khinh rẻ người khác.
Và nhất là Chúa Giêsu Ngài muốn chúng ta phải có một tình thương tuyệt đối trong cách cư xử giữa người với người. Đúng thế, trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy đối với Chúa Giêsu việc làm hoà với nhau còn cấp bách hơn cả việc dâng của lễ cho Chúa: Khi các ngươi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em trước đã rồi mới đến mà dâng của lễ sau. Còn trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Người đòi hỏi chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù, phải thoả mãn cả những đòi hỏi phi lý nhất của kẻ khác: Nếu các con bị vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện các con để cướp lấy áo trong thì hãy cho nó lấy cả áo ngoài nữa. Nếu ai bắt các con đi một dặm thì hãy đi với nó hai dặm. Điều Chúa đòi hỏi qua những trường hợp cụ thể được nêu lên ở trên, đó là phải đi cho tới tận cùng của tình yêu thương, hãy hết lòng với người khác dù người đó chính là kẻ thù của mình. Những đòi hỏi đó xem ra chẳng thực tế chút nào, nhưng lại là những đòi hỏi chính yếu của thời cứu độ, của thời mà trong đó tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa, như lời Người đã phán: Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con, như vậy các con mới được trở nên con cái của Cha các con, Đấng ngự trên trời vì Ngài cho mặt trời mọc lên, soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mua xuống trên kẻ dữ cũng như người lành.
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Một khi đã là con cái Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta phải là một phản ảnh trung thành cho tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu không ngăn cách, không phân biệt, không hạn hẹp, phải yêu thương kể cả kẻ thù và những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì biên giới của yêu thương đó là yêu thương không biên giới.
9. Hãy sống yêu thương và nên trọn lành
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kết thúc "Bài giảng trên núi", căn tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng. Tiếp theo sau đó, Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải cho khi dạy các môn đệ và cũng dạy chính chúng ta về thái độ cần phải có cũng như thực hành trong đời sống: "Các con đã nghe bảo... Còn Thầy, Thầy bảo các con ". Vậy nghe bảo gì? Và cụ thể giáo huấn của Chúa Giêsu cho các môn đệ mình ra làm sao?.
Khi Chúa Giêsu khi trích dẫn câu nói của người xưa về luật công bằng khi trả thù đã được ghi rõ trong Cựu Ước "Mắt đền mắt, răng đền răng " (Xh 21,24). Chúng ta phải thừa nhận rằng, đây là một bước tiến lớn trong tương quan hành xử giữa người với người so với thời Lamek, bởi Lamek đã từng nói với hai vợ: "Vì một vết thương, ta giết một người, (Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng. Vì Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy! " (St 4,23-24) Vậy là trả thù mãi mãi. Luật "Mắt đền mắt, răng đền răng" (Xh 21,24) giúp con người khỏi rơi vào tình trạng thái quá. Trái lại, Luật của tình yêu phủ nhận sự đồng nhất với kẻ thù: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác" (Mt 5, 39).
Theo Chúa Giêsu, yêu thương là vượt ra khỏi vòng tròn luẩn quẩn của cái ác và sống tình huynh đệ đại đồng, nên khi Ngài bảo chúng ta "đưa má bên kia cho nó nữa, " là Ngài muốn chúng ta xây đắp tình hiệp thông anh em. Đưa má bên kia là cố tình giúp đối phương khám phá ra tình yêu và rằng thực hành bác ái là điều có thể. Đưa má bên kia còn muốn nói với kẻ ác rằng nó đã nhận được người anh em như nó là anh em. Một hành động đáng tin cậy như thế sẽ phá tan bạo lực.
Chúa Giêsu yêu cầu gia tăng thêm tình yêu và lòng tha thứ càng nhiều càng tốt! Vì tình yêu có sức mạnh giúp đối phương xích lại gần ta hơn bằng tình người. Như thế, bằng cách trao ban, chúng ta nhận nó là anh em.
Cho nó cả áo choàng, đi với nó hai dặm không phải một mà áp đặt, nhưng chứng minh con người luôn có sáng kiến về tình yêu. Vì đó là điều đẹp lòng Chúa, nên chúng ta từ bỏ điều có đi có lại và chủ động xây đắp tình hiệp thông trong tình yêu. "Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ " (Mt 5, 44).
Tình yêu phải được thực hiện theo châm ngôn: "Hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con" (Mt 5, 44). Chúa Giêsu không chỉ lên án một hệ thống dùng bạo lực để trả thù cho cân, Ngài còn muốn chúng ta hủy bỏ luật ăn miếng trả miếng xưa. Tình yêu không gia tăng theo kiểu có đi có lại - người ngươi yêu mến là một người anh em ngươi, một người ngươi yêu mến là người bạn ngươi. Tình yêu là quà tặng, nhưng không dựa trên sự khác biệt tối thiểu. Sự khác biệt của tình yêu là không giống nhau, là người khác chứ không phải là người họ hàng, nhưng là người chúng ta cảm thấy gần. Như Chúa Giêsu đã nói: đó là người thân cận của ngươi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bác bỏ sự phân biệt của chúng ta. Người khác không phải luôn là một người bạn, nó có thể trở thành kẻ thù. Điều quan trọng là tất cả mọi người là anh em với nhau.
Thật phù hợp để người kitô hữu khẳng định căn tính là con Thiên Chúa của mình khi thực hành lời Chúa Giêsu dạy để trở nên con cái của Cha trên Trời. Giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu để lại đã mạc khải rõ về hồng ân yêu thương. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương ngay cả kẻ thù, kẻ muốn cắt đứt tương quan là con Thiên Chúa và anh em với ta. Luật ăn miếng trả miếng không còn tồn tại. Chỉ có tình yêu mới biến đổi được hận thù, tình yêu làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và thể hiện chức phận là con đối với Người.
Như thế, chúng ta đi đến cùng lời Chúa Giêsu dạy về thánh ý Thiên Chúa trong đời sống: "Các ngươi hãy thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh" (Lv 19,1). Bằng những lời này, Thiên Chúa mời gọi dân Israel và cả chúng ta ngày hôm nay thể hiện lòng trung thành với giao ước Thiên Chúa đã thiết lập, đồng thời đặt luật lệ xã hội trên giới răn "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" (Lv 19,18). Tuy nhiên, phải đi xa hơn để tình yêu của chúng ta được phổ quát nhằm cho luật cũ được kiện toàn. Khi yêu như thế, ta đang thực hiện lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành " (Mt 5,48).
Nhưng ai có thể nên trọn lành? Sống trọn lành là thi hành thánh ý Chúa trong tư cách là con. Thánh Xip-ri-a-nô từng viết: "Cách hành xử của con cái Thiên Chúa phải tương hợp với tình phụ tử của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa được tôn vinh và ca tụng từ những việc tốt lành của con người " (De zelo et livore, 15: CCL 3a, 83). Như thế, con người có thể trở nên trọn lành khi sống tròn đầy cương vị làm con cái Thiên Chúa. Chúa Cha làm khác chúng ta là những người bỏ người này chọn người kia. Chúa Cha làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Chúa Cha quan tâm đến cả hai, người lành cũng như kẻ dữ ; con cái Thiên Chúa cũng phải trở nên trọn lành "như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5, 48).
Xem ra có thể khó, nhưng Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta trước khi nói: "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời" (Mt 5, 44-45). Ai đón nhận Thiên Chúa trong đời sống mình và yêu mến Người hết lòng, người ấy có khả năng bắt đầu một chặng đường mới, có thể chu toàn thánh ý Thiên Chúa hầu hiện thực hoá một hiện hữu mới được nuôi sống bởi tình yêu và hướng đến sự vĩnh cửu. Tình yêu là điều vĩ đại, chúng ta đọc thấy trong sách Gương Chúa Giêsu, một điều tốt làm nhẹ đi những nặng nhọc và nâng đỡ những điều khó khăn. Tình yêu thôi thúc ta hướng lên cao mà không còn bị vướng bận vào bất cứ điều gì thuộc trần thế.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng là con Cha trên Trời. Amen.
10. Yêu thương kẻ thù
Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta và ghét bỏ những kẻ ghét bỏ chúng ta. Kẻ nào làm hại chúng ta thì chúng ta sẵn sàng để trả đũa, và người đời cho đó là lẽ thường tình, là thái độ khôn ngoan.
Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng nay Chúa Giêsu bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường tình ấy. Ngài phán với chúng ta: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì có thực hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đang là con cái Thiên Chúa và mới trở nên giống Ngài, Đấng đã cho mưa xuống trên người lành cũng như trên kẻ dữ.
Chúa Giêsu không phải chỉ truyền dạy chúng ta mà chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu thương này. Đúng thế, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài như lời thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Rôma đã viết: Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đó là khi chúng ta còn tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết để chúng ta được sống.
Đúng thế, Ngài luôn luôn mong ước những điều tốt, những điều phải cho những kẻ bách hại Ngài. Ngài chịu đau khổ và chịu chết để những ai bắt Ngài phải đau khổ và phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối của con người không đáp trả tình thương yêu của Ngài, Ngài vẫn duy trì cái quyết định tuyệt đối của Ngài, đó là yêu thương chúng ta mãi mãi.
Một trong những đặc tính nổi bật của tình yêu nơi Thiên Chúa đó là sự tha thứ. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử tốt lành lên đường tìm kiếm con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì vác nó trên vai và đem về nhà. Rồi Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Không phải những kẻ khoẻ mạnh là là những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sẵn sàng chịu chết trên thập giá để làm gì nếu không phải là để tha thứ cho chúng ta. Trong giây phút đớn đau nơi thập giá, Ngài cũng đã thứ tha cho tất cả những kẻ độc ác đã hành hạ Ngài bằng lời van xin: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Có hai người thổ dân Nam Phi rất ghét nhau. Ngày kia trong một hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù đang đi trong rừng. Hắn liền bắt cô bé, chặt đứt ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy vừa khóc, còn hung thủ vừa đi vừa la: Ta đã trả thù được rồi. Mười năm sau, cô bé lúc đó đã có chồng và có con. Ngày kia, một kẻ ăn mày tới xin ăn, bà nhận ra đó là kẻ đã chặt tay mình, nên vội vàng vào nhà, bảo tôi tớ đem cơm thịt và cá ra đãi. Khi kẻ thù đã ăn xong, bà bèn giơ bàn tay cụt ra cho coi và nói: Tôi cũng đã trả thù được rồi. Tên ăm mày thấy thế bèn khóc lóc xin được tha thứ.
Thiên Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có thực sự yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ ghét bỏ chúng ta hay không?
11. Tha thứ kẻ thù
Đâu là phương thế để làm cho thêm bạn bớt thù trong cuộc sống của mình?
Có một bản du ca tôi rất thích hát, bản du ca ấy có những lời lẽ như thế này: Kẻ thù ta đâu có phải là người giết người đi thì ta ở với ai. Đúng thế, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi của mình. Nhân vô thập toàn là thế. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh là thế.
Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền, như một câu danh ngôn đã bảo: Hễ ở đâu có hai người sống với nhau, thì ở đó thế nào cũng có sự xích mích và giận hơn.
Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy trên đời đâu phải chỉ có một hay hai người làm cho tôi sự mất lòng, làm cho tôi phải nhục nhã và tức giận. Ngay cả đến những người bạn thân tình, ngay cả đến cha mẹ và anh chị em ruột thịt cũng đã nhiều lần làm cho tôi phải bực bội.
Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này.
Hơn nữa, xã hội và ngay chính bản thân tôi, sẽ không thể nào được xây dựng trên sự thù oán và đấu tranh, vì thù oán này sẽ nảy sinh ra thù oán khác, như một thứ bệnh truyền nhiễm làm cho xã hội bị sụp đổ, còn bản thân tôi sẽ phải quay quắt khổ đau. Thế nhưng, điều tệ hại nhất, đó là chính bản thân tôi nhiều khi lại là nguyên nhân cho sự thù oán, vì hơn một lần tôi đã sai lỗi, hơn một lần tôi đã gian tham và bất công. Cho nên người đáng phải giết, đáng phải loại trừ lại chính là bản thân tôi. Vì vậy mà bản du ca trên có những lời lẽ được tiếp nối như sau: Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là điêu ngoa, tên nó là tham tàn...
Phương thế hữu hiệu nhất để làm cho thêm bạn bớt thù, không phải là chết giết những kẻ thù ở bên ngoài, vì sự trả thù chỉ là cái vui của những tâm hồn đê tiện, nhưng là phải lột mặt nạ và tận diệt cho bằng được những thói hư tật xấu, là những kẻ nội thù, nằm sẵn trong cõi lòng chúng ta, như người xưa đã dạy: Kẻ thù đích thực thì ở trong tâm hồn, vì đó là những nguyên nhân gây nên thù oán ngoài xã hội.
Cùng với việc uốn nắn sửa đổi những sai lỗi của mình, chúng ta hãy có thái độ khoan dung và tha thứ, cố gắng đi bước trước tiến đến sự hoà giải cùng nhau. Đừng khoan dung với mình mà gay gắt với anh em, trái lại hãy khoan dung với anh em mà gay gắt với chính mình. Cách tốt nhất để khỏi băn khoăn về kẻ thù là hãy làm cho họ trở nên một người bạn, bởi vì thù oán không thể huỷ diệt được thù oán, chỉ có tình thương mới huỷ diệt được nó mà thôi.
Ngày kia thánh Clementê đi vào một tiệm ăn, ngửa tay ra và nói:
- Xin quý ông rộng lượng bố thí cho các em mồ côi một miếng cơm, một manh áo.
Tức thì các thực khách cười lên hô hố một cách khinh bỉ. Sau đó, một anh thợ giày đã nói:
- Một miếng ư, được lắm.
Rồi anh ta uống một ngụm bia, phùng má trợn mắt phun thẳng vào mặt thánh nhân. Chúng ta thử tưởng tượng xem thánh nhân đã phản ứng như thế nào? Có lẽ ngài sẽ giáng cho anh ta một cái tát tai. Nhưng không, ngài vẫn bình tĩnh, rút khăn lau mặt, rồi lại ngửa tay và nói:
- Thưa quý ông, đó là phần của tôi, còn phần của các em mồ côi đâu chưa thấy.
Anh thợ giày bỗng té nhào xuống đất như bị một cú đấm thôi sơn, vì anh ta chẳng bao ngờ tới trên cõi đời nham nhở này mà lại có được một người khích phách như vậy. Anh lòm còm ngồi dậy và lắp bắp nói:
- Tôi... tôi sẽ gởi tặng các em.
Sau đó, anh đã dành một phần sản nghiệp và trao tận tay thánh nhân một số tiền lớn để tạ lỗi.
Hãy tha thứ để rồi bản thân sẽ được Chúa thứ tha.
12. Trở nên con cái Chúa
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Khi chúng ta suy niệm bài Tin Mừng này thì Xuân đã về trước ngõ.
Mùa Xuân làm cho lòng người rộn rã, cỏ cây chim chóc cũng reo vui với con người. Người ta chúc cho nhau bao điều tốt đẹp. Điều tốt đẹp nhất vẫn là sự bình an trong tâm hồn, sự bình an mua được bằng tha thứ yêu thương.
Khi dạy chúng ta đừng chống cự người ác, Đức Giêsu không đòi loại bỏ cảnh sát và pháp luật; cũng không lên án những cuộc chiến tranh tự vệ. Ngài chỉ muốn mời gọi các Kitô hữu hãy tránh thái độ báo thù, ăn miếng trả miếng.
Tha thứ là ra khỏi vòng luẩn quẩn của oán thù, là mở ra con đường để người kia hoán cải.
Có một vị rất tâm đắc với bài Tin Mừng này, đó là Gandhi, người được dân Ấn-độ coi là đại thánh. Ông là cha đẻ của chủ trương bất bạo động, để giành lại độc lập cho đất nước từ tay người Anh. Ông nói: “Bất bạo động là luật của loài người, bạo động là luật của loài thú.”
Chúng ta thường sợ mang tiếng là hèn nhát, khiếp nhược, sợ kẻ ác thắng thế khi thấy ta lùi bước. Chúng ta ít dám tin vào sức mạnh của Tình Yêu.
Chính Tình Yêu chứ không phải bạo lực mới có thể làm trái tim con người tan chảy.
Đức Giêsu mời gọi ta yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù để trở thành con cái Cha trên trời.
Chúng ta không chỉ trở thành con Cha vào ngày Rửa tội. Chúng ta trở thành con Cha hơn nhờ những hành vi tha thứ yêu thương mỗi ngày.
Chúng ta thật là con, vì giống Cha, Đấng cho nắng ấm, mưa rơi trên kẻ lành người dữ.
Chúng ta thường khó quên một xúc phạm đã qua, những chuyện cũ vẫn làm tim ta đau nhói. Cần nhìn lên Cha trên trời, Đấng để cho cỏ lùng mọc chung với lúa, Đấng mà ta phải nài xin ơn tha thứ mỗi ngày. Chỉ Ngài mới làm ta quên được điều tưởng như không thể quên.
Thế giới hôm nay có nhiều sự ác và người ác. Chúng ta phải tiêu diệt sự ác bằng sự thiện, hoán cải người ác bằng tha thứ yêu thương.
Kitô hữu là người dám đi lại con đường của Đức Giêsu, chấp nhận bị sự ác vùi dập và nuốt chửng, mà trên môi vẫn nói lời tha thứ. Nhưng cuối cùng là phục sinh, là niềm vui, hy vọng.
Chúng ta có dám tin rằng rốt cuộc chân lý, tình yêu và sự thiện sẽ chiến thắng không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có thấy những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là những điều không thể thực hiện được? Có phải đó là thái độ của kẻ yếu nhược và hèn nhát không? Theo ý bạn, Đức Giêsu có dạy ta dung túng, bao che cho sự ác không?
Bạn đã và đang có những “kẻ thù” trong đời bạn, những người làm cho bạn phải đau khổ. Bạn có dám sống theo lời Chúa để tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho họ không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm, đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua, chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành, vì Cha vẫn cho chúng con sống, và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con, và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày tết dân tộc trong tinh thần vui tươi, hoà nhã, và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau là những lời chúc lành xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến, trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời, chúng con cũng muốn ở lại trong quỹ đạo của Cha, nhận Cha là trung tâm cuộc sống, và nhận mọi người là anh em. Amen.
13. Thiên Chúa là tình yêu – Cố Lm Hồng Phúc
Thiên Chúa phán cùng Moisê rằng: “Ngươi hãy nói cho toàn thể Cộng đồng con cái Israel: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh, là Thiên Chúa của các ngươi”.
Thiên Chúa là Đấng siêu việt, là Đấng Thánh. Không có một tì ố, một vết nhơ, như dòng nước trong veo, bầu trời trong sáng tuyệt đẹp. Và Ngài bày tỏ quyền năng và vinh hiển khi Ngài tạo dựng, giải phóng cũng như khi Ngài sát phạt và tha thứ. Tiên tri Isaia như bị chết ngộp khi được cảm nghiệm sự thánh thiện Thiên Chúa trong đền thờ, và tiên tri Ôsê kêu lên: “Đấng Thánh đang ở giữa anh em”. (11, 9)
Thiên Chúa muốn cho chúng ta nên thánh, nghĩa là chúng ta phải rửa sạch vết nhơ của Lề luật bên ngoài mà phải thực thi đức công chính, vâng lời và yêu thương (Nhị luật 6, 4-9), một sự thánh thiện trong mọi bối cảnh sống trong gia đình cũng như ngoài xã hội. “Hãy nên thánh như Ta là Đấng Thánh, Thiên Chúa của các ngươi”.
Trong Đạo cũ, người Do thái thường tôn đền thờ, “Đền thờ của Thiên Chúa là Thánh. Ai xúc phạm tới Đền Thánh thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt người ấy”. Trong Đạo mới, Chúa Giêsu tự ví mình là Đền thờ hiện diện giữa loài người (Ga 1, 4; 2, 19). Thánh Phaolô trong bài đọc II, còn đi xa hơn nữa, Người nói Kitô hữu là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, và Giáo hội cũng là Đền thờ do Chúa Giêsu xây dựng (1Cr 3, 10-17), trong đó người Do thái cũng như dân ngoại đều được mời vào như thành phần nhiệm thể Chúa. Đừng ai cho mình là khôn ngoan, là đồ đệ Phaolô, Kêpha hay Apollô, nhưng, “Anh em tất cả thuộc về Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”.
Trên tất cả, Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu đến để đem lại một tình yêu bác ái gạn lọc mọi dơ bẩn, mọi lớp vỏ bao quanh như tình máu mủ, dân tộc, gia đình, quốc gia, lễ giáo chật hẹp. Người xưa bảo: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, người ta xúc phạm mình mức nào, mình có quyền ăn miếng trả miếng, đối xử với họ như họ đã đối xử.
Còn Chúa, Chúa không dạy lấy sự dữ đối lại với sự dữ. Chúa dạy lấy sự lành đối với sự dữ và hơn thế phải làm sự lành hơn mức đòi hỏi: “Thầy bảo các con: đừng chống cự lại kẻ hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của các con hãy đưa má bên kia cho nó nữa… Ai xin, thì con hãy cho, ai muốn vay mượn, con đừng khước từ”. Chúa nói rằng đức bác ái không có biên giới, không phát xuất từ xác thịt mà từ một tâm hồn yêu mến Thiên Chúa, yêu mến đến từ bỏ mình, đến hy sinh.
Việc hy sinh lớn lao hơn cả là hy sinh tính tự ái của mình, là tha thứ cho kẻ làm nhục ta, là tha thứ cho kẻ thù. Xưa nay, chưa có một đạo giáo nào dạy tha thứ cho kẻ thù. Chúa phán: “Các con nghe dạy rằng: ngươi hãy yêu thương anh em ngươi và thù ghét kẻ làm hại ngươi. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương kẻ thù”.
Người Do thái quan niệm anh em là người đồng hương hay người cảm tình với đạo. Đối với Chúa Giêsu, anh em là tất cả, là người Samaritanô, là người ngoại bang, là người lạc đạo nữa (Lc 10, 29-37). Chúa biết trái tim con người có thể vượt tính tự ái, mở rộng trái tim và vòng tay để ôm ấp cả kẻ thù.
Chúa đã tha thứ cho kẻ giết mình, “Lạy Cha, xin tha cho chúng” (Lc 23, 34). Khó thật nhưng Chúa ban cho kẻ thật lòng xin ơn biết tha thứ.
Văn hào Henry Bordeaux kể: Ngày kia, một nhóm thợ thuyền 20 người được Đức Giáo Hoàng Piô XII đến thăm và trò chuyện thân mật. Bỗng có một người thợ quỳ xuống và nói: “Thưa Đức Thánh Cha đây là cuốn sách con đọc điều dữ và đây là… con dao con muốn ám hại Đức Thánh Cha, con xin lỗi Ngài.” Đức Piô trả lời: “Con ơi, Chúa chúc lành cho con như cha” (Images romaines, plon, trang 279).
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu thương thù địch, làm lành cho kẻ ghét và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ và vu khống chúng con…, để chúng con trọn lành như Cha trên trời.
14. Hãy hoàn thiện như Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có câu chuyện kể rằng: Nhà truyền giáo trên hòn đảo nọ rất ngạc nhiên khi thấy một phụ nữ mang nắm cát ướt bước vào lều của ông, và nói:
- Ông biết đây là gì không?
- Nó giống như cát.
- Ông có biết vì sao tôi mang nó vào đây không?
- Tôi không hiểu ý bà.
- Đây là tội lỗi của tôi, tội tôi không thể đếm được như cát biển này. Làm thế nào tôi biết chắc được tha thứ tất cả?
- Bà hãy đem cát ra biển và chất thành đụn cát, rồi ngồi nhìn xem sóng biển ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. - Thưa bà, đó là cách Thiên Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài dành cho tội nhân. Lòng nhân từ, thương xót và tha thứ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật ăn năn để hưởng hồng ân của Thiên Chúa. Đó chính là lòng nhân từ của Thiên Chúa cho những ai có lòng ăn năn và tin cậy Ngài.
Thiên Chúa là Đấng rất mực yêu thương con người. Tình yêu đã thôi thúc Ngài thể hiện qua muôn ngàn cách dành cho con người. Ngài tạo dựng con người giống hình ành Ngài. Con người phản bội. Ngài vẫn thứ tha và hứa ban Đấng Cứu Thế đến để chuộc lỗi lầm con người. Con người sa đi ngã lại trong lầm lỡ. Ngài vẫn chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Con người thì bất trung. Ngài thì trung thành mãi với tình yêu dành cho con người. Ngài có giận thì giận trong giây lát nhưng yêu thương thì vô bờ.
Tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa được thể hiện cụ thể qua Đức Giê-su. Đấng hiện tại hóa tình yêu ấy nơi dương gian. Một tình yêu nhân từ nhẫn nại trước sự dữ bủa vây. Chính Ngài không chỉ nói: “Khi người ta vả má này thì đưa má kia cho người ta tát” mà Ngài đã dám sống điều đó trong cuộc tử nạn. Chính Ngài đã để quân dữ lột áo ngoài của Ngài để chia nhau với thái độ bình thản đầy nhân từ. Chính Ngài vẫn một lòng nhân từ cầu nguyện cho kẻ làm hại mình. Ngài còn chúc phúc cho mọi người như chính Chúa Cha đã làm khi cho mưa thuận gió hòa trên kẻ lành người dữ.
Có một em học sinh trong lớp giáo lý đã hãnh diện nói về niềm tin mình rằng: “Khi con đặt Chúa Giê-su làm trọng tâm cuộc sống mình, thì con mới thấy ngày hôm nay vui hơn, con tử tế với mọi người hơn, và dễ tha thứ với mọi người”.
Quả thực, theo lẽ thường con người thường “ăn miếng trả miếng”, nhưng nếu mặc lấy tâm tình của Đức Giê-su, con người sẽ sống tha thứ và nhân từ với nhau. Nếu biết đặt Chúa Giê-su làm trung tâm con người sẽ thôi chiến tranh hận thù nhưng luôn biết vì Chúa mà làm hòa với nhau, vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ. Đó cũng là lời mời gọi mà Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà sống cao thượng hơn lẽ thường. Lẽ thường chỉ yêu thương kẻ yêu mình nhưng còn là ky-tô hữu thì phải yêu thương cả kẻ thù mình nữa. Lẽ thường chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì chưa đủ mà còn phải thân thiện với tất cả mọi người.
Ước gì chúng ta biết hoàn thiện như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Hoàn thiện trong cách yêu mến tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng ta. Hoàn thiện trong cách sống phục vụ như Chúa đã quan phòng gìn giữ chúng ta. Amen.
15. Sống chữ Nhẫn – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo mà ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn. Có bà thợ giặt cảm thương đã mời Hàn Tín đến dùng cơm tại nhà. Hàn Tín đi đâu cũng mang thanh gươm kè kè bên mình.
Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách:
Chú thường mang gươm, chả biết để làm gì! Bây giờ tôi không cho chú đi. Chú có gan thì sẵn thanh gươm đó hãy chém tôi đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà đi.
Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự nhủ: "Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào!"
Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà được phong làm Vua Tam Tể. Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn. Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy xưa, lại phong cho hắn chức Trung Huý. Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: "Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu ban chức tước?
Hàn Tín ôn tồn bảo: "Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng thù hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta ban".
Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay. Đối với người ân thì ban thường, song đối với người oán cũng vẫn ban thưởng chớ không trả thù. Thật là một người quân tử.
Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian... Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau. Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác. Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được vời mình. Đây cũng là điều mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ. Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình. Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình. Bởi vì, oán báo oán thì oán chập chùng. Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù. Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ. Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống tình thương bao dung đó cho anh em của mình. Hãy quên đi những xúc phạm của nhau. Hãy làm hoà để thêm bạn bớt thù. Hãy tha thứ để tìm được sự bình an tâm hồn cho bản thân và cho những người chung quanh. Xin Chúa là Đấng hằng thương xót và tha thứ, xin giúp chúng ta biết tha thứ lỗi lầm của anh em, như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Amen.
16. Yêu “kẻ thù” như thế nào đây?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc không chỉ “đừng chống cự lại kẻ ác” mà còn “giơ má kia cho người ta đánh” hoặc “phải yêu kẻ thù” (x.Mt 5,38-44).
“Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai”. Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ những lời Tin Mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực của chúng ta.
Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5, 38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật Cựu ước.
Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của luật công bình “mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm…”. Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.
Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó. Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị “ông từ” đi đánh chuông phát giác. Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gảy chân nhưng ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: “thế thì theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm trẹo một chân cậu nhóc!” Mặt ông từ tái xanh.
Chúa Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.
Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.
Xét về đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo. Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh, đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả rơi rụng…Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn khổ… (x. Lv 19, 9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ai là người thân cận của tôi?” Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn “người Samaritanô nhân hậu” và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta (x.Lc 10,25-37).
Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?
Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến, quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu thương vậy.
Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.
Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội… Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.
Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu “kẻ thù”, đã làm ơn cho người “làm hại mình”, nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?
17. Hãy nên hoàn thiện
(Suy niệm của Giuse Hồng Ân)
Đối với nhiều người trong chúng ta, hai tiếng “yêu thương” chỉ dành cho các thành viên trong gia đình, họ hàng và một vài người bạn thân cận. Có chăng chỉ là lòng “thương hại” những người nghèo khó, cô đơn và bất hạnh, vì họ là những người không làm gì hại đến mình và gia đình mình. Chúng ta chẳng bao giờ đề cập đến việc yêu thương những đối thủ của mình. Chúng ta còn gán cho họ những cái tên đáng sợ và dạy cho con cháu sống xa tránh họ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới bị chi phối bởi những thứ luật có thể nói là “luật rừng”, thứ luật mà chỉ bảo vệ cho một số kẻ có quyền, có tiền, thứ luật không có chút nào là công bằng, cướp nhà, cướp đất của người nghèo, để chia chác, để làm giàu cho những kẻ có quyền có chức, bắt người vô tội, đánh đập đàn áp những người bênh vực cho chân lý. Một thế giới đầy dẫy những toan tính ích kỷ, vì lợi ích của mình, sẵn sàng chà đạp lên công lý, diệt trừ lẫn nhau, có người phải mất mạng, nhiều người thì “thân bại danh liệt”. Anh em lỡ làm thiệt hại một thì bắt đền gấp mười. Có những người chỉ vì cái lợi trước mắt đã cố tình gây ra tai nạn, rồi nằm ăn vạ để bắt người khác phải đền oan uổng.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta không sống theo “luật rừng”, không chỉ dừng lại ở mức độ công bằng. Mà hãy sống theo giới luật Chúa truyền, đó là luật “yêu thương”, một tình yêu bao là rộng lớn, một tình yêu vượt trên sự công bằng, vượt ra ngoài sự giới hạn tình gia đình, tình bằng hữu, tình đồng hương, vượt ra ngoài chủng tộc hay tôn giáo, “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43-44). Yêu kẻ thù, là yêu thương cả những người làm hại, khinh bỉ, nói xấu, vu khống mình, không tìm cách báo thù, không lấy ác báo ác, mà ân báo oán, luôn cầu nguyện và mong muốn cho họ gặp những điều may lành. Đavid bị vua Saul thù ghét, săn đuổi để giết, nhưng Đavid vẫn không làm hại người Thiên Chúa xức dầu phong vương khi có thể làm điều đó. Dưới cái nhìn của con người thì Đavid đã hành xử dại dột, bỏ mất một cơ hội “hiếm có” để khử trừ kẻ thù mình, nhưng Đavid đã chọn Thiên Chúa, không chọn lợi ích cho riêng mình mà làm hại đến tha nhân.
Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Ngài đã sống yêu thương, Ngài luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với Ngài, mặc dù họ ghen ghét Ngài vô cớ, họ luôn tìm dịp để tố cáo Ngài, xuyên tạc lời Ngài giảng dạy. Đối với Giuđa là kẻ phản bội, Chúa không tố cáo đích danh trước mặt các môn đệ, Chúa còn ngồi ăn cùng bàn và rửa chân cho y nữa. Khi Giuđa dẫn quân lính đến bắt Chúa trong vườn cây dầu, Chúa vẫn ôn tồn nói với Giuđa: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22, 48). Vì yêu thương Giuđa nên nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhở, cảnh tỉnh để ông ta thay đổi việc làm xấu mà được hưởng ơn cứu độ. Trên thập giá, trước khi tắt thở, Chúa vẫn dùng chút hơi tàn lực kiệt để cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Người “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Vì vậy, thánh Phaolô cũng nói: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Thánh Tê-pha-nô đã thực hành lời Chúa dạy, noi gương Thầy Chí Thánh yêu thương và cầu nguyện cho những kẻ giết mình: “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7, 59-60).
Chúa Giêsu căn dặn chúng ta, để trở nên con Thiên Chúa phải “yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44). Để được làm con Chúa, chúng ta cũng phải đối xử giống như Thiên Chúa đã đối xử tốt với tất cả mọi người không phân biệt người tốt, kẻ xấu. “Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 46). Chúng ta hãy sống lời Chúa dạy, yêu thương hết mọi người, một tình yêu không có giới hạn, không chỉ yêu thương những người thân cận, những người đồng hương, những người cùng tôn giáo, những người cùng quan điểm, những người đem lại lợi ích cho mình… Mà yêu thương cả thù địch, cả những người ghen ghét, hãm hại, nói xấu, phỉ báng mình nữa, yêu thương cả những người tội lỗi. Yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Nếu chỉ là một tình yêu co cụm, ích kỷ hẹp hòi, thì không phải là con Thiên Chúa. Như lời Chúa Giêsu đã dạy: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi. Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5, 46).
Chúa còn mời gọi mỗi người chúng ta hãy nên hoàn thiện “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Để nên hoàn thiện, chúng ta hãy loại bỏ thứ “luật rừng”, thứ luật luôn diệt trừ lẫn nhau, loại bỏ những toan tính, ích kỷ, hẹp hòi, tham lam, gian dối, lừa lọc. Chúng ta hãy thực thi giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy là “mến Chúa và yêu người” yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù, yêu thương và tha thứ cho những người làm thiệt hại đến mình, dù là vô tình hay hữu ý.
Thật khó để yêu thương kẻ thù, một khi đã ghét nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, chưa nói đến yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù, như trong bài thơ “yêu thương” của Lm Giuse Nguyễn Nhân Tài có viết:
“Anh em con đó con chưa thương
Nói chi đến kẻ con chán chường
Ghét cay, ghét đắng, ghét thậm tệ
Làm sao ôm lấy để yêu thương”.
Quả thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng càng khó chúng ta càng phải cố gắng thực thi, vì đây là giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy, muốn trở nên con Chúa, muốn nên hoàn thiện, không còn cách nào khác ngoài cách sống “yêu thương và tha thứ”. Thánh Phaolô dạy cho ta biết: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 10).
18. Suy niệm của Lm. Anrê Đinh Duy Toàn
Qua Lời Chúa trong phụng vụ Thánh lễ hôm nay, Thánh Matthêô cho chúng ta một thực đơn thật là khó nuốt. Hiểu Lời Chúa đã là một việc khó, sống Lời Chúa lại còn khó hơn, huống hồ chia sẻ Lời chúa như một kinh nghiệm sống thì quả thật muôn vàn khó.
Quả vậy, đối với nhiều người không biết hoặc không quen với tinh thần Ki tô giáo thì đoạn tin mừng này gây ra nhiều thắc mắc, đố kỵ. Ngay cả chúng ta, những người đã thấm nhuần giáo lý của Đạo Chúa, vẫn thấy ngờ ngợ nếu không nói là nghịch lý.
Thử đọc đoạn tin mừng này trong bối cảnh thời Chúa Giêsu rồi hội ra những điều Chúa dạy.
Đoạn tin mừng hôm nay nằm trong phần Hiến chương Nước trời. Mt (5-7). Chúa Giê su khởi sự bằng cách trích dẫn luật lể cổ xưa, luật Hammurabi.
Năm 1901, một đoàn nghiên cứu khảo cổ người Pháp đã tìm được bộ luật được khắc trên một phiến đá ở thành phố Suse thuộc Iran ngày nay. Đó là Bộ luật Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại - bộ luật thành văn cổ xưa của nhân loại, một thành tựu có giá trị của lịch sử văn minh cổ đại. (Thực ra có rất nhiều bộ luật đương thời: bộ luật của Ur-Nammu, vua xứ Ur (khoảng 2050 TCN), bộ luật Eshnunna (khoảng 1930 TCN)… đều có các khoản tương tự như nhau).
Bộ luật ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1792 đến 1750 trước công nguyên và mang tên Hammurabi, vị vua đã ban hành bộ luật, vua Babilon thứ sáu. Bộ luật mang tính cách phân biệt cách đối xử giữa quý phái và công nhân. Điều 196 -200 trong bộ luật ấy có ghi: Nếu một người gây cho một người quý phái mất con mắt thì phải mất con mắt; nếu làm thương tật thì phải chịu thương tật; nếu làm gãy răng thì phải chịu rụng răng, v…v…nói chung ai gây thiệt hại gì thì chịu thiệt hại tương đương.
Có lẽ luật Cựu ước cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều với luật Hammurabi, vì như chúng ta thấy những khoản tương đương được đề cập đến ít nhất là 3 lần:
(Xh 21, 23-25) Nếu ai gây thiệt hại thì mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tai đền tai, chân đền chân, …
(Lv 24, 19-20) Khi một người làm thương tích cho kẻ lân cận, thì phải làm thương tích cho nó như nó đã làm: gãy đền gãy; mắt đền mắt; răng đền răng…
(Tl 19, 21) … Mắt đền mắt; răng đền răng; chân đền chân …
Thoạt nghe, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng, vì nó man tính chất hơi man rợ, nhưng nhìn tổng thể bối cảnh thời đó, nó chỉ có tính chất ngăn ngừa, giới hạn sự trả thù, và có thể nói, đó là khởi đầu của sự thương xót. Thời đó, hầu như cơ chế xã hội sống theo cái khung của từng bộ lạc. Vì thời tiết khắc khe, điều kiện kinh tế và cạnh tranh sinh tồn, họ luôn hặm hực ý muốn trả thù. Giả như không có luật này, thì khi một người ở bộ lạc này làm hại đến người bộ lạc kia, tức tốc họ kéo cả bộ lạc đi tiêu diệt toàn thể bộ lạc của người gây hấn. Luật chỉ cho phép một đền một mà thôi. Hơn nữa, luật này không cho phép cá nhân tự do báo thù mà phải có quan án ấn định hình phạt và khoản phạt. (xh 19,18). Như vậy, xét trong bối cảnh lịch sử của nó, thì đây không phải là man rợ mà là nhân từ.
Tuy rằng có chịu ảnh hưởng nhưng chúng ta đừng quên nhận ra rằng luật Cựu ước tiến xa hơn rất nhiếu so với những bộ luật thời đó. Qua luật cựu ước đã thể hiện lòng thương xót: Chớ toan báo thù (Lv 19, 18). Rõ ràng là luật cựu ước đã có dấu chỉ của lòng thương xót.
Trở lại với bài tin mừng. Ở phần đầu, Chúa Giê su dạy: Còn Thầy (chỉ có Chúa) Thầy bảo anh em: Đừng chống kẻ ác. NGƯỢC LẠI! Ai vả má phải thì đưa luôn má trái. Ý nghĩa thật phong phú chứ không phải hiểu theo nghĩa đen. Do thái có những phong tục rất lạ: tát ai bằng lưng bàn tay thì kẻ bị tát chịu sỉ nhục gấp hai lần. Như thế, giả như có người đứng đối diện với người kia, muốn tát má trái đang khi thuận tay phải, thì chỉ còn cách tát trái bằng lưng bàn tay mà thôi. Phải chăng điều Chúa muốn dạy là: Là người Ki tô hữu dẫu có bị hạ nhục cho dù gấp mấy thì cũng không được trả thù. Đừng phản kháng nhất là trả oán. Dù có ai muốn trút lên đầu sự nhục mạ thậm tệ nhất thì cũng không được báo thù.
Nếu ai lột áo trong hãy đưa luôn áo ngoài. Ở đây cũng vậy. Áo trong là áo dài thường là bằng vải bông để mặc ở trong. Người Do thái có nhiều áo trong để thay đổi. Áo ngoài là loại áo lớn, vải dày, có thể dùng làm mền vào ban đêm (giống như áo măng tô, có chiều dài quá gối mà những thế kỷ trước chỉ có quân đội và các nhà quý phái mới có). Luật Do thái cho phép cầm cố áo trong chứ không phải áo ngoài. Sách Xuất hành có ghi: Nếu cầm áo ngoài của người ta để làm tin, thì phải trả cho nó trước khi mặt trời lặn, vì đó là đồ che thân để ngủ. Nếu nó kêu đến Ta, thì Ta sẽ nghe, vì Ta là Đấng hay thương xót. (Xh 22 26, 27). Do đó, điều Chúa dạy ở đây là: Ki tô hữu là người không bao giờ tranh biện về quyền hạn và pháp lý. Hiểu theo nghĩa tích cực là không nghĩ đến quyền lợi mà chỉ nghĩ đến phục vụ; không nghĩ đến đặc quyền mà chỉ nghĩ đến trách nhiệm của mình mà thôi.
Tiếp theo, Nếu bắt đi một dặm, thì hãy đi hai dặm. Từ “bắt” có một ý nghĩa lịch sử. Người xưa có hệ thống bưu điện khá hay. Đường đưa thư được chia làm nhiều chặng, mỗi chặng dài một ngày đường. Mỗi trạm đều có sẵn lương thực cho người đưa thư, lại còn có nước, có cỏ cho ngựa của người đua thư nữa. Nếu chẳng may một trạm có thiếu món gì, thì bất cứ ai cũng phải cung cấp cho đủ, thậm chí chính mình phải mang thư đi một dặm đường. Nó còn có nghĩa bị trưng dụng nữa. Dân của một xứ bị bị trị buộc phải mang hành lý, cung cấp thức ăn, chỗ ở cho kẻ đến chiếm đóng. Lắm lúc phải chịu trưng thu một cách tàn bạo không chút xót thương. Phải chăng điều Chúa muốn dạy là: Đừng nghĩ mình tự do để muốn làm gì tuỳ ý mà hãy nghĩ bổn phận và niềm vui được phục vụ kẻ khác?. Một việc đôi khi là gánh nặng, phi lý nhưng đem lại chút lợi ích cho người ta, đừng làm như cực chẳng đã, nhưng hãy làm một cách vui vẻ.
Phần thứ hai của bài Tin mừng Chúa cũng trưng dẫn luật Lêvi (Lv 19…) Luật của lòng thương xót. Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương cả kẻ thù, là vì ngay cả những người đó và chính chúng ta đều có cùng một Cha chung trên trời. Qủa thực, suy gẫm kỹ càng sẽ thấy điều Chúa dạy tuy rất phi thường, nhưng cũng rất thực tế. Ngài lấy hình ảnh gia đình mà người cha tràn đầy tình thương, như vị trọng tài vô cùng công mình và nhân từ với mọi con cái theo hoàn cảnh của chúng. Vượt xa Khổng tử với “ Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân “, với Chúa phải tích cực hơn nữa “ Hãy đi và làm cho người ta điều mình muốn người ta làm cho mình”. Sở dĩ như thế là vì mọi người đều có MỘT CHA CHUNG.
Như vậy, những lời giáo huấn ở phần đầu bài Tin mừng thật không khó hiểu nếu đặt trong khung cảnh Đông phương thời đó.
Và Chúa Giê su đã thiết định một qui luật quan trong cho người Kitô hữu đó là: - Không bao giờ thù hận để rồi tìm cách báo thù, cho dù sỉ nhục đó có tính toán và độc ác đến đâu – Không bao giờ bám vào một thứ quyền nào để rồi cứ nghĩ là mình đương nhiên được hưởng – Không bao giờ nghĩ đến mình tự do hoàn toàn để rồi làm bất cứ điều gì tuỳ ý.
Tóm lại: “ Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi là Đáng Thánh. (Lv 19, 2) Bài đọc I.
Anh em hãy nên hoàn thiện như cha trên trời là đấng hoàn thiện. (Mt 5, 48).
“Hãy nên hoàn thiện” dễ thương làm sao, chứ không phải “ phải” với lời ngăm đe khủng khiếp!
Trước giới luật của Chúa, ai trong chúng ta đã không kinh nghiệm một cách bi đát: chúng ta đã lắm lần, nếu không nói là hoàn toàn thất bại.
Hơn ai hết, Thánh Phao lô cũng đã trải nghiệm những thất bại ấy, và phải xác nhận “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống mà là (ƠN) Chúa sống trong tôi” nên mới khuyên được mọi người “Anh em đừng tự lừa dối mình…” “Đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào”…(Cr 3, 18,21).
Phúc thay! Thánh Gioan đã xác tín một cách chắc nịch: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Người Con thì được cứu độ. Vì Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để luận phạt, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu. (Ga 3, 16).
Rốt cuộc, trong tôi, tất cả là …dối!. TRONG CHÚA, TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN!
Vậy thì, xin cho môi con luôn biết ca khen ân tình của Chúa. Xin cho mắt con luôn biết ngắm xem kỳ công của Ngài. Xin cho tai con luôn biết lắng nghe những điều Chúa dạy. Và mỗi chiều về xin Chúa nhắc con luôn cảm ơn Ngài.
Vậy thì, Xin cho con một đức tin vững bền, để con luôn trung kiên trong hành trình theo Chúa. Vì có những lúc con gặp nhiều khó khăn, thấy trước mắt ê chề những bất công, con làm sao tránh cho khỏi bâng khuâng. Xin ƠN của Chúa giúp con luôn xác tín: Chúa chính là sức mạnh đời con, Chúa chính là thành luỹ kiên cường, nơi nương tựa ngàn đời kiên vững. Chúa ơi, khấn xin Ngài ấp ủ đời con, giới luật Ngài xin giúp giữ tròn, bước dương trần cùng đi với con.
Bởi lẽ, có những lúc con thấy Chúa như người xa lạ. Có những khi con thấy Ngài thật gần gũi với con. Có những lúc con thấy Chúa rắc gieo an bình và đầy thương xót, thì có những lúc con thấy Chúa rắc gieo ê chề trên đường con đi.
Cho nên, xin cho con qua trọn ngày dài, luôn nếm tình Cha yêu thương con, để rồi trên dương gian sóng xô dập dồn, thuyền dù đã xa lối về, thì xin cho con được tin, yêu Chúa nhiều, và xác tín Chúa đỡ nâng con bước tới quê hương nhà, dù thuyền xa lối con chẳng còn lo gì.
19. Yêu thương thù địch - điều không dễ chút nào
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
“Hãy yêu thương tha nhân và ghét thù địch”. Mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi (Lv 19,18). Theo đó, người Dothái chỉ yêu thương những người đồng loại, tức là những người thuộc dân riêng của Chúa, dân Israel. Nói cách khác là họ chỉ yêu thương những người đã được cắt bì mà thôi. Còn dân ngoại, họ coi như thù địch. Họ còn có luật và bổn phận ghét người ngoại bang, nhất là dân Amalec, dân Moab (x. Đnl 25,18; 23,6).
Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã phá đổ những giới hạn của luật cũ, và mạc khải cách trọn hảo về điều luật mới, khi dạy: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù” (Mt 5,43a). Thế thì, kẻ thù mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây là ai?
Một số quý ông, quý anh bảo rằng kẻ thù của con là rượu, là thuốc lá, là cờ bạc… Chúa dạy phải yêu kẻ thù, nên con yêu luôn những thứ đó. Không phải lập luận theo kiểu lý “cùn” này. Kẻ thù mà Chúa muốn nói ở đây là những người làm cho ta đau khổ, làm cho ta bị tổn thương, những kẻ không ưa thích gì ta, v.v… Yêu thương kẻ thù là yêu thương những người như thế: “Hãy cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43b).
Qua lời dạy trên, Chúa Giêsu muốn mời gọi ta điều gì? Thưa Chúa Giêsu muốn mời gọi ta biết vượt lên tình yêu tự nhiên, vốn nặng về cảm tính, để yêu thương hết mọi người. Và như thế, không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Đức Kitô nữa. Đây là điều mới mẻ và độc đáo của luật Tin Mừng Đức Giêsu và là mức độ cao nhất của tình yêu hoàn thiện.
Thứ đến, tình yêu thương đó được biểu hiện bằng việc làm cụ thể, mà quan trọng nhất là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ tự nhiên không được ta yêu thương. Không phải là cầu nguyện chống lại kẻ thù, cầu nguyện xin Chúa khừ trừ giùm kẻ thù của mình, như trong Thánh Vịnh:
“Còn những quân thù nghịch,
Thiên Chúa sẽ đập bể đầu;
bọn theo đường gian ác,
Người đánh cho gãy răng”.
Hay: “Lạy Chúa xin thẳng tay khai trừ bọn chúng
khỏi thế giới loài người;
Án phạt Chúa đã dành,
xin Ngài bắt chúng nuốt cho đầy bụng;
cả đàn con cũng được ăn cho thoả thích,
phần còn lại cho bầy cháu mai sau” (Tv 17,14).
Không phải là cầu nguyện kiểu đó, mà là cầu nguyện cho họ để họ được ơn hoán cải, ơn biến đổi.
Nhưng tại sao lại phải yêu thương như những kẻ thù nghịch? Đơn giản là vì chính chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương, đang khi chúng ta là kẻ nghịch thù với Chúa. Giả như Thiên Chúa đối xử với ta như cách ta thường đối xử với anh em mình, thì số là chúng ta đã bị diệt trừ từ lâu rồi. Vì trước mặt Chúa, đã nhiều lần chúng ta là kẻ thù của Chúa, đã nhiều lần làm ô danh Chúa, và đã từng chống đối Chúa, thử thách Chúa. ..
Lý do thứ hai là vì có yêu thương kẻ thù nghịch, thì ta mới đáng được gọi là con cái của Thiên Chúa, và có yêu thương như thế, chúng ta mới thực sự trở nên giống như Cha trên trời là Đấng trọn lành, Đấng đã “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45).
Dĩ nhiên, kính thưa quý…., yêu thương kẻ thù nghịch là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Thế nhưng chúng ta có thể thực hiện được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
Hãy yêu thương và cầu nguyện cho người kẻ mà không ưa ta, những kẻ thù ghét ta. Để rồi nhờ lời cầu nguyện của ta mà họ được hoán cải; nhờ tình yêu thương của ta mà họ được biến đổi, vì “tình yêu có sức biến đổi phận người”. Và cũng nhờ đó mà chúng ta được lớn lên trong tình yêu của Chúa.
20. Luật của tình yêu toàn thiện
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta thấy Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn một khoản luật nữa của Cựu Ước, đó là luật của sự “ăn miếng trả miếng”. Trong bài ca man rợ mà nhân vật La-méc đã hát có câu: Cain được báo thù gấp bảy (1 trả 7 lần) thì La-méc được báo thù gấp 77 (1 trả 77 lần). Đến thời của Môisê, đã có một sự tiến bộ hơn: một trả một, tức là luật “ăn miếng trả miếng”, hay là luật “răng đền răng, mắt đền mắt”. Đây là giới hạn lẽ công bằng theo nghĩa chặt.
Vậy Chúa Giêsu kiện toàn theo nghĩa nào? Luật mới của Chúa Giêsu đó là gì? Luật mới của Chúa Giêsu đó là luật của tình yêu hoàn thiện, khi khoan dung với kẻ ác. Cụ thể là khoan dung với kẻ xúc phạm danh dự và phẩm giá của mình: “Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39). Khoan dung với kẻ trấn lột, tước đoạt những thứ mình sở hữu: “Ai kiện lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy luôn cả áo ngoài” (Mt 5,40). Khoan dung với kẻ hành hạ bóc lột sức lực của mình: “Nếu có ai bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm” (Mt 5,41).
Nhưng tại sao lại phải khoan dung với kẻ ác? Phải chăng là Chúa Giêsu muốn cỗ võ thái độ nhu nhược và cam chịu cách thụ động? Hay Ngài muốn khuyến lệ sự bất công khi dung dưỡng cái ác? Thực ra khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải có thái độ khoan dung như thế là có lý do của mình:
Thứ nhất là nhằm ngăn chặn vòng xoáy của sự ác, sự leo thang của bạo lực theo nghĩa “lấy oán báo oán, oán càng chồng chất”. Thứ hai là nhằm chinh phục và cảm hoá kẻ ác vốn cũng là con người, vì sự bao dung tha thứ có khả năng biến thù thành bạn, như Chúa Giêsu đã nói: “Như vậy là các con đã được lợi một người anh em”. Thứ ba là để có được một tâm hồn bình an, thanh thản của con cái Thiên Chúa. Và thứ bốn là để trở nên giống như Cha trên trời là Đấng nhân từ, bao dung và khoan thứ.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả đũa, và khi trả đũa thì thường muốn trả nặng hơn mức người ta gây cho mình: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hòn chì chắc chắn là cứng hơn và nặng hơn hòn đất rồi. Chẳng thế mà khi chứng kiến đội chủ nhà Áo (tại Eurô 2008) được trọng tài cho hưởng quả phạt đền ở phút cuốn trận đấu, đẩy đội Ba Lan vào tình thế chắc chắn xếp vali về nước, Tổng thống Ba Lan đã thốt lên rằng: “Tôi chỉ muốn giết ngay viên trọng tài đó”.
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, tìm cơ hội để báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… (Mt 5, 38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời.
Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên. Chính Chúa Giêsu, muốn các môn đệ của Ngài xưa cũng như nay phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39). Hơn thế nữa, Ngài còn nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, tha thứ cho những xúc phạm của anh em đối với mình, như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” Lc 23,34). Như vậy, bao dung tha thứ không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh, kẻ mạnh về tình yêu thương. Vì chỉ người nào có một tình yêu thương rất mạnh mới có khả năng chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình.
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta thường xử sự với anh em mình theo luật nào? Luật của sự “ăn miếng trả miếng” hay luật tình yêu bao dung mà Đức Kitô đã dạy?
Nếu ta muốn trở nên môn đệ chân chính của Chúa Giêsu thì ta không thể sống khác hơn những gì mà Chúa Giêsu đã sống, đó là bao dung tha thứ luôn luôn. Amen.
21. Hãy nên trọn lành như Cha trên trời
(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sang phần hai của đoạn chính 5,21-48, Chúa Giêsu chuyển sang nói về cách hành xử của bản thân người môn đệ, đặc biệt đối với những người chống lại mình/kẻ thù: - Đừng thề (5,33-37), - Đừng chống lại người ác (5,38-42), - Yêu thương kẻ thù (5,43-48).
Đừng chống lại người ác (5,38-42)
Câu mở đầu (c. 38) hoàn toàn giống với 5,43, và giáo huấn của Chúa Giêsu ở dạng phủ định giống với câu ở phần trước: mè + động từ nguyên mẫu (c. 34). Các câu giải thích (cc. 39b-42) gồm hai phần đối xứng nhau với hai thí dụ cụ thể ở mỗi bên.
Luật Cựu ước “mắt đền mắt và răng đền răng” (Xh 21,24, Lv 24,20; Đnl 19,21) nhằm hạn chế việc đổ máu do không kiềm chế nỗi sự hận thù. Lamech hãnh diện với vợ mình “Nếu Cain trả thù bảy lần, Lamech trả thù bảy mươi lần” (Kh 4,23-24). Luật nầy đòi hỏi trách nhiệm trong việc gây thiệt hại, và giữ sự quân bình giữa tội ác và hình phạt. Trong Tân ước còn tìm thấy cách diễn tả tương tự với luật nầy (Mc 8,38, 1Cr 3,17).
Chúa Giêsu cấm sự đánh trả người làm điều ác: “Đừng chống trả người ác” (c. 39). Động từ anthistèmi, “chống lại”, hàm ý sự thiệt hại do người ác gây nên. Người ác, ponèros, tương đương với kẻ thù, echthros, với người bắt bớ, làm sỉ nhục (x. 5,11). “Không chống lại người ác” nghĩa là không để mình bị vướng vào vòng lẩn quẩn của sự ác: bạo lực sinh ra bạo lực; một cái răng của mình bị mất đi phải đòi lại một cái răng của người khác. Mức độ đầu tiên là bất bạo động: “Khi Ngài bị sỉ nhục, Ngài không sỉ nhục lại” (1Pr 2,23). Mức độ kế tiếp cao hơn sẽ là yêu mến người làm điều ác (5,44-45; 1 Thess 5,15). Chúa Giêsu đưa ra bốn minh họa về sự bất bạo động:
- Bị đánh vào má (c. 39b), rhapizò, là hành vi hạ nhục và khinh dễ hơn là làm cho đau về mặt thể lý. Việc đưa cả hai má phải và trái cho người ác chỉ việc hoàn toàn không chống trả và sẵn sàng chịu mọi sự sỉ nhục không do lỗi mình; người tôi tớ trong Isaia cũng đã làm như thế, “Tôi đã không che mặt” (Is 5,5-6; x. Gióp 16,10). Chúa Giêsu đã bị đánh vào má trước mặt các thượng tế và Công nghị vì Ngài bị cho là phạm thượng; do đó đáng phải chết (26,67).
- Bị đoạt áo (c. 40): bối cảnh của đoạn nầy là việc thưa kiện ở toà án để đoạt lấy áo, “muốn kiện”, theolonti krithènai (c. 40; x. 18,30). Người bị kiện là một người nghèo tận cùng. Người nầy phải vay nợ để sống và không có gì để trả nợ. Chủ nợ chỉ có thể lấy áo trong, chitòn để trừ nợ, chứ không được lấy áo ngoài, mặc dù áo ngoài có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Theo luật pháp thời ấy, chủ nợ không được cầm giữ áo ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy áo ngoài thì buộc phải trả lại áo cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo ngoài/áo choàng dùng để làm chăn đắp ban đêm (Xh 22,25-27; Đnl 24,12-13). Đứng trước người không có lòng xót thương, người nghèo có thể bị lột trần trước mặt mọi người. Ngay cả khi bị như thế, Chúa Giêsu dạy đưa luôn áo ngoài cho họ. Chúa Giêsu đã bị lột áo, cả áo trong (Ga 19,23) lẫn áo ngoài (27,31.35), và nên trần truồng hoàn toàn trên thập giá.
- Bị ép phục dịch (c. 41): động từ angareuò, “bắt ép”, mượn từ tiếng Persian. Angaroi là những người đưa thư. Những người nầy đứng tại các trạm ở các địa phương do vua xứ Persian chỉ định. Họ sẵn sàng với con ngựa để chuyển thư từ trạm nầy qua trạm kia để chuyển thư thật nhanh đến đích. Ở đây từ angareuò nầy chỉ sự ép buộc đi một hành trình, mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó do quân đội hay các viên chức trên một hay nhiều người, như trường hợp Simôn người Xirênê bị quân lính Rôma ép vác thánh giá với Chúa Giêsu (27:32).
- Cho và vay mượn (c. 42): Câu nầy vẫn còn nằm trong văn mạch của mệnh lệnh: "Đừng chống lại người ác” (c. 39a), và người môn đệ vẫn còn là nạn nhân của bạo lực hay bất công. Theo cấu trúc, câu nầy đối xứng và song song với câu 40a: tò + phân từ + ngươi + động từ. Động từ “muốn + vay mượn”, thelò, trong câu nầy mang ý nghĩa tương tự như trong câu 42 là muốn vay mượn tài sản của anh em trong đó hàm ý việc đoạt lấy; so sánh câu nầy với câu song song trong Lc 6,30: “Tất cả ai xin, hãy cho, và kẻ đoạt của ngươi, ngươi chớ đòi lại”. Hơn nữa, câu nầy liên kết với đoạn theo sau 5,43-48 bởi từ ponèros, “người xấu” (cc. 39,45), trong đó nói về việc yêu thương kẻ thù. Đây là minh họa đi trước cho việc yêu thương kẻ thù.
Việc giúp đỡ và cho vay mượn được nói rất nhiều đến trong Cựu ước, mà đối tượng nhắm đến thường là người nghèo (Xh 22,25; Lc 25,36-37; Đnl 15,2-6). Ở đây Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát và không phân biệt người được cho và cho vay: “Ai xin, ngươi hãy cho. Ai muốn vay, ngươi chớ khước từ” (c. 42; x. 5.45), trong đó bao hàm cả người ác/xấu.
Vậy qua đoạn 5,38-42 Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ mình tự do khỏi mọi hình thức bạo lực. Quyền xét xử và báo oán là của Thiên Chúa (Rm 12:19-21). Phần người môn đệ của Chúa là “không lấy oán báo oán, mà theo đuổi điều thiện cho nhau và cho mọi người” (1 Thess 5:15).
“Yêu thương kẻ thù” (cc. 43-48)
Sự công chính của người môn đệ được thể hiện ở mức tối đa là yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương nầy làm họ nên giống Cha trên trời là Đấng trọn lành (5:48) và là Đấng công chính (6:33), và cũng làm cho họ trổi vượt hơn các kinh sư và người Pharisêô về sự công chính (5:20). Đoạn nầy có cấu trúc giống như các đoạn trước, và thêm lời kết luận cho toàn phần 5:21-48. Từ ngữ chính trong đoạn nầy là agapaò, “yêu thương” (cc. 43.44.46[2x]) và echthros, “kẻ thù” (cc. 43.44).
Cựu ước nói cách rõ ràng việc yêu thương người lân cận. Người lân cận được định nghĩa là người đồng hương Israel, mặc dù cũng có thể nới rộng định nghĩa nầy ra cho người ngoại quốc đến ngụ cư (Lv 19:18, 33-34; Đnl 10:18-19). Trái lại, không thấy Kinh Thánh nói cách hiển nhiên việc ghét kẻ thù, mặc dù có thể suy diễn từ một số đoạn (x. Đnl 7:2; 20:13–18; 25:17–19; Tv 137:8–9; 139:19–22). Đối lại với câu chủ đề gồm hai mệnh đề, Chúa Giêsu cũng đưa ra một câu gồm hai mệnh đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người bắt bớ các con” (c. 44). Hai mệnh lệnh đều ở ngôi thứ hai số nhiều và thì hiện tại, chỉ sự áp dụng chung cho các môn đệ của Chúa Giêsu và cho mọi thời.
“Kẻ thù” theo mạch văn là người bắt bớ (c. 44b), người xấu (c. 45). Họ sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu đủ điều các môn đệ (x. 5:10-11), họ làm những điều bất công (x. 5:38-42); do đó việc ghét kẻ thù là điều thường tình đối với người đời. Trái lại Chúa Giêsu dạy phải yêu thương kẻ thù theo mẫu gương của Cha trên trời. Ngài “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ lẫn người lành” (c. 45; x. 22:10). Ngài làm điều tốt cho cả hai mà không phân biệt (x. Rm 212:20-21). Matthêô dùng từ ponèros, “người xấu” thay vì echthros, “kẻ thù”, trong câu liên quan đến Thiên Chúa, vì “kẻ thù” thật sự của Thiên Chúa là ma quỉ; chắc chắn là Ngài không “cho mặt trời mọc lên” trên kẻ thù nầy, mà đặt nó dưới bệ chân Ngài (13:25tt, 22:44).
Trước khi đi đến kết luận, Chúa Giêsu đưa ra hai minh hoạ về cách yêu thương mà người môn đệ không nên noi theo, “Nếu chỉ yêu thương…”, “Nếu chỉ chào hỏi…” (cc. 46-47), bằng không họ sẽ không công chính hơn người thu thuế và dân ngoại chút nào cả. Tính từ so sánh “hơn”, perisson, ở đây đóng khung đoạn 5:21-48, và liên quan đến sự công chính của các môn đệ (c. 20). Vậy ai hành động như Thiên Chúa thì sẽ nên con cái của Ngài, và con cái của Ngài phải là người xây dựng hoà bình, chứ không lấy ác báo ác (5:9).
“Nên trọn lành như Cha trên trời” (c. 48)
Từ quan trọng của câu kết luận là teleios, “trọn lành”, nghĩa là đi đến cùng và không còn thiếu gì cần thiết nữa. Matthêô dùng 3 lần từ nầy và qui chiếu về Thiên Chúa. Trong 19,21, sự trọn lành mà Chúa Giêsu chỉ cho người thanh niên là tuân giữ lề luật Chúa, từ bỏ của cải và theo Chúa. Trong câu 5,48 sự trọn lành trước tiên quy chiếu về lề luật đã được Chúa Giêsu làm trọn (5,21-48), và cũng qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha…” (c. 48b). Liên từ “như”, hòs, chỉ phẩm tính thuộc về Thiên Chúa. Vậy việc “nên trọn lành như Cha trên trời” được đặt trong tương quan Cha - con, “Cha trên trời” (c. 48) - “con cái Cha trên trời” (c. 45): sự trọn lành của con cái bắt nguồn từ sự trọn lành của Cha và có cùng phẩm tính là yêu thương, và tình yêu của Cha thể hiện qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành” để nêu gương, thì con cái cũng bắt chước gương Cha mà làm như vậy: làm điều tốt cho người khác vì yêu thương.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn mọi lề luật. Ngài đã dạy cho các môn đệ một cách cư xử mới trong tương quan với người bất hòa, phụ nữ, bản thân, người làm ác và kẻ thù. Cao điểm của cách cư xử nầy là làm điều tốt và yêu thương họ như Cha trên trời và cũng như Chúa Giêsu. Đó là con đường trọn lành mới mà Ngài muốn con người bước vào.
22. Đừng báo thù
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Báo thù là một việc làm phản Kitô giáo. Luật Cựu Ước viết: " Mắt đền mắt, răng đền răng ". Đây là công thức của luật báo thù. Còn trong Luật Mới của Chúa Giêsu: " Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con ".
Đối với Luật cũ hoặc cứ theo sự thường tình, anh làm hại tôi, tôi tìm cách làm hại anh. Ai xúc phạm tới ta, ta phải làm lại cho người ấy bấy lâu. Sở dĩ con người lý luận như thế bởi vì con người là con người và lý luận theo con người. Đó là sự công bằng theo con người. Thực tế luật này đã được ghi chép thành bản văn của vua xứ Babylon trước Công Nguyên năm 1750. Và chúng ta có thể nghiên cứu và tìm hiểu trong Bộ Ngũ Kinh. Chúng ta thấy có ghi vài điều khoản của Luật này và đó là sự bất toàn của luật Môsê thời Cựu Ước.
Luật này không chỉ nằm trong luật thành văn của con người từ bao thế hệ nhưng nó còn đang nằm trong tâm hồn, trong con tim của từng con người. Tuy nhiên, Chúa Giêsu khi tới trần gian, khi đưa ra một giới luật mới, Ngài đã xin các môn đệ cũng như những người theo Ngài: " Hãy dập tất ngay mầm mống hận thù đang âm ỉ, đang nằm trong con tim, trong tâm hồn, trong con người mỗi người chúng ta ". " Đừng chống cự người ác ". Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tinh thần tha thứ nơi tâm hồn con người: " Hãy tha thứ cho kẻ thù ". Nếu đọc lại lịch sử của các Vị sáng lập Đạo, chưa có Vị đã dạy: " Hãy yêu kẻ thù ". Tuy nhiên, chúng ta thấy Chúa Giêsu mình Ngài và chỉ duy nhất Ngài đã dạy: " Hãy yêu kẻ thù " " Hãy cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em " (Mt 6, 44). Chúa Giêsu không chỉ dạy bằng môi miệng: " Hãy tha thứ ", nhưng chính Ngài đã làm gương cho nhân loại, chính Ngài đã để lại cho loài người, cho mỗi người con bài học cao quí, tuyệt vời: " Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm " (Lc 23, 34). Vâng, chính nơi Thập giá, Chúa Giêsu bị đóng đinh bị treo lên, Ngài đã không than trách, không uất hận, nhưng Ngài đã tha thứ tất cả cho chính những người làm hại và đóng đinh, kết án tử hình cho Ngài. Ngài đã nói: " Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu người hiến mạng sống vì người mình yêu " (Ga 15, 13). Đây là tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến.
Chúa Giêsu dạy chúng ta tha thứ và yêu thương mọi người, yêu thương ngay cả kẻ thù của mình. Bởi vì Ngài cho chúng ta hay: " Các con phải trở nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo " (Mt 5, 48). Do đó, chúng ta sẽ hiểu thế nào là tha thứ. Không biết tha thứ thì không thể biết yêu thương. Nơi kẻ xấu không phải cái gì họ cũng xấu nhưng như lời thánh Phaolô tông đồ viết: " Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm" (Rm 7, 19). Người ác, kẻ thù vì những yếu đuối, những thiên kiến những bất toàn nên chính họ mới cần được Thiên Chúa cứu chuộc và chờ đợi, mong chờ chúng ta yêu thương, tha thứ.
Chúng ta cũng không nên nuôi sự hờn giận, tìm cách trả thù vv... Nhưng hãy sống bao dung. Sự quảng đại bao dung luôn đem lại cho chúng ta sự an bình và hạnh phúc.
Tất cả con người được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa. Nên, thánh Phaolô đã tự vấn chúng ta: "Anh em không ý thức anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần ư, và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự trong lòng anh em sao?". Chính Thánh Thần sẽ giúp chúng ta hiểu được địa vị làm con của Thiên Chúa của chúng ta. Do đó, chúng ta được kêu gọi để hành động, để ứng xử theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa, chứ không phải theo những tiêu chuẩn của xã hội nhân loại và thế giới con người.
Sống làm con cái Thiên Chúa, người môn đệ Chúa Kitô phải sống như Chúa, sống như Thầy đã yêu (Ga 15, 12). Lời Chúa, Kinh Thánh, Huấn Quyền của Giáo Hội sẽ giúp dẫn con người tới gần Chúa và gần gũi anh em. Mình Máu Thánh Chúa trong Bí Tích Thánh Thể sẽ làm cho con người sống kết hiệp với Ngài để rồi càng ngày con người càng bắt chước Cha trên trời là Đấng trọn lành, hoàn hảo.
Thánh Phanxicô khó khăn đã dạy cho chúng ta một bài học tuyệt hảo: "Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn u sầu".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn noi gương Chúa mà yêu thương tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng con. Amen.
23. Khôn ngoan tìm được viên ngọc quý
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu người ta không khỏi ngạc nhiên và cảm phục vì Chúa dùng những dụ ngôn, những câu chuyện thực tế đời thường để nói về Nước Trời. Ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không giảng dạy những sự viễn vông ở trên trời cao hay nói những lý thuyết khô cằn, cứng nhắc, nhưng Ngài luôn dùng những câu chuyện đời thường để giúp con người dễ hiểu, dễ nhận ra điều Ngài muốn nói, muốn nhắn nhủ, muốn dạy bảo vv...Chúa ban cho con người trí khôn, sự khôn ngoan để con người biết điều gì nên làm, điều gì phải tránh. Vua Salomon xin sự khôn ngoan để vua biết đem lại sự hạnh phúc cho dân tộc của ông. Tin Mừng của thánh Matthêu (13,44-52) cho chúng ta thấy rõ điều ấy: “Nước Trời giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy ".
Tin Mừng của Chúa Giêsu là những lời vàng ngọc đưa nhân loại, con người và mỗi người đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, đi từ cảm phục này đến lòng kính tin,cậy trông và yêu mến. Lời của Chúa đã được gieo vãi từ bao ngàn năm qua nhưng ngay từ thời Ngài, các Kinh sư, Luật sĩ và Pharisiêu, cùng nhiều người đã không đón nhận và còn chống đối lại Ngài. Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe. Do đó, Chúa đã chúc phúc cho những con người nhỏ bé, những Anawim, những người nghèo của Ngài: các tông đồ, những kẻ bị hất hủi bên lề xã hội đã lắng nghe, thực thi Lời của Chúa bởi vì họ có mắt đã nhìn thấy Chúa, có tai đã biết nghe Lời của Ngài. Tin Mừng hôm nay gồm hai dụ ngôn " Kho Tàng " và " Viên Ngọc Quý ". Hai dụ ngôn này cho con người, cho mỗi người chúng ta thấy sự khôn ngoan của người tìm ra kho tàng, cũng như người tìm được viên ngọc quý. Họ về nhà bán tất cả sản nghiệp đang có để tậu cho bằng được kho tàng và viên ngọc quý vì họ biết rằng kho tàng và viên ngọc quý còn đáng giá gấp bội so với của cải, sản nghiệp họ đang quản lý. Kho bau và viên ngọc quý, Chúa dùng để giúp con người nghiệm ra điều quý giá nhất là Nước Trời, Ngài muốn nói. Nước Trời là giá trị cao quý nhất, tuyệt đối mà của cải, danh vọng trần gian, giá trị con người cho là tốt đẹp đều phải lu mờ, nhường bước cho Nước Thiên Chúa. Nước Trời là phần rỗi, là ơn cứu độ Chúa đem tới cho nhân loại. Nước Trời là sự sống đời đời, là nước hằng sống Chúa hứa ban cho người nữ bên giếng Giacóp. Đây là giá trị tuyệt đối, giá trị cao vời, người môn đệ của Chúa phải quan tâm trước hết, sẵn sàng hy sinh cho dù có phải thí mạng mình để chiếm cho bằng được. Bởi vì, khi vào đời con người tay trắng tay, khi nhắm mắt xuôi tay, con người cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Con người là bụi tro, sẽ trở về với cát bụi. Tuy nhiên, người môn đệ Chúa đã cảm nghiệm sâu xa: “Sự sống thay đổi chứ không mất đi. Và trần gian này chỉ là nơi tạm, Chúa đã dọn sẵn cho môn đệ Chúa một nơi ở vĩnh viễn là Nước Trời ". Người môn đệ Chúa phải sẵn sàng đón nhận Lời Chúa chỉ dạy và sẵn sàng tìm kiếm cho bằng được Nước Thiên Chúa.
Con người đang sống ở trần gian giữa những trăn trở, giữa những xoay chuyển, vần xoay của vật chất. Do đó, con người phải vất vả làm ăn, cực khổ với cuộc sống để đấu tranh sinh tồn. Đây là điều cần thiết và hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, cuộc đời chỉ là tạm bợ, như gió thoảng, như mây bay, như hơi thở vv...Cuộc đời này rồi sẽ qua đi không ai có thể tự hào, tự mãn mình không cần gì hết, mình sẽ sống mãi mà không bao giờ chết. Chính vì thế, con người phải tìm kiếm sự gì là quý giá nhất, sự sống vĩnh cửu và tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đời là một cuộc chơi. Cuộc vui nào rồi cũng mau qua. Cuộc tiệc nào rồi cũng phải tới giờ chấm dứt. Người môn đệ Chúa phải là người khôn ngoan định đoạt đời mình, con người có tự do nhưng tự do Chúa cho là để con người biết định đoạt phần rỗi của mình. Cuộc sống hôm nay sẽ định đọat cho tương lai sau này. Chúa nói: " Hãy tỉnh thức và cầu nguyện ". Chúa luôn nhân từ, thương yêu con người, Ngài luôn tha thiết chờ đợi conngười trở về, tin tương vào Ngài và Ngài sẵn sàng đưa vòng tay ôm chầm lấy người hối cải như người con hoang đang trở về đã được cha yêu thương đón nhận và thứ tha. Vâng, con người phải mau mắn đáp trả tình thương vô biên của Ngài và sống tình con ngoan hiền với Ngài.
Những năm làm việc truyền giáo, tôi đã được chứng kiến biết bao cảnh thương tâm và xúc động đến rơi lệ mỗi lần đi xức dầu ở xa được hân hoan đón nhận những tâm hồn biết ăn năn sám hối trở về cùng Chúa và biết rằng cuộc đời này là bể dâu, cuộc đời mau qua, chóng tàn như hoa phù du sớm nở chiều tàn. Một hôm tôi nghe tiếng điện thoại của Ban phần việc ở xa nhà xứ 25 cây số, mời tôi đi xức dầu cho một bà cụ già gần 80 tuổi. Bà cụ đã hơn 40 năm không xưng tội, xa Chúa vì ở vào trường hợp éo le và không có cơ hội gặp các vị chủ chăn. Khi tôi đi Honda tới, bước vào nhà và tiến đến bên giường bà cụ, bà ôm chầm lấy tôi khóc nức nở, bà nói với tôi câu rất cảm động: “Cha ơi, con sung sướng lắm vì gặp Cha, con đã xa Chúa quá nhiều nhưng con tin vào Chúa, cuộc đời con sắp hết, đời là tạm bợ, con muốn về với Chúa. Bà tiếp tục khóc và khóc to, khóc nức nở, tôi khuyên bà và nói về tình thương của Chúa đối với bà cụ, rồi tôi giúp bà xưng tội, xức dầu, trao Mình Thánh cho bà cụ. Bà cụ sung sướng nói với tôi, con cám ơn Cha vì Cha đã cứu con, đã đem Chúa cho con. Tôi vô cùng sung sướng và chỉ một tuần sau bà cụ đã trở về với Chúa, chính tôi đã cử hành lễ an táng cho bà cụ tại tư gia.
Vâng tình thương Chúa vô biên, trần gian sẽ qua đi nhưng kho báu, viên ngọc quý là Chúa, là Nước Trời mới quý giá, mới ưu tiên hàng đầu để người môn đệ Chúa đáng kiếm tìm.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết tìm kiếm Nước Trời hơn là chỉ chú tâm đến những sự phù phiếm, chóng qua. Amen.
24. Hãy tha thứ. Đừng báo thù
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hãy tha thứ và thứ tha là giới răn hoàn toàn mới của Đức Kitô. Sống trên đời người ta phải đấu tranh để sinh tồn. Do đó, ngay từ cổ thời xa xưa, có những bộ tộc đã tranh đấu với nhau để sống còn, có những dòng tộc, họ hàng đã chiến đấu với nhau để bảo vệ họ hàng, dòng tộc của mình. Trên thế giới, nhiều nước, nhiều nơi còn chiến tranh, chiếm giết để bảo vệ chủ quyền của mình, để bảo tồn nòi giống của mình. Thời Cựu Ước, luật viết: “Mắt thế mắt. Răng đền răng “là công thức của luật báo thù. Đức Giêsu khi tới trần gian lại nói: “Còn Thầy, Thầy bảo các con:hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con “, ”Hãy tha thứ thì được thứ tha “vv… Chúa Giêsu đến để làm cho luật nên hoàn thiện, nâng luật lên tầm cao tuyệt đối.
Nghiên cứu, tìm hiểu bộ luật của Sách Ngũ Kinh, chúng ta nhận ra nhiều điểm chưa hoàn thiện của luật Môsê. Chúng ta hãy xem chẳng hạn luật mắt thế mắt răng đền răng, luật về ngoại tình, luật bác ái vv…Tất cả những điều khoản này được ghi chép rất tỉ mỉ trong luật Môsê. Những luật này không những nằm trong luật của Môsê, nhưng thực tế nó vẫn tồn tại trong tâm hồn của con người. Bởi vì, đối với con người, khuynh hướng báo thù, trả oán nhiều hơn khuynh hướng tứ tha. Anh đánh tôi, tôi đánh lại hoặc sẽ tìm cách báo thù, biện hộ cho tôi…
Chúa Giêsu đến trần gian để đem cho mọi người, cho nhân loại một giới luật mới, giới luật yêu thương. Ngài dạy con người: “Hãy dập tắt mầm mống oán thù, chia rẽ đang âm ỉ trong con người. Đừng cho những hành động xấu nhen nhúm trong trái tim con người, trong lòng, trong tâm hồn của con người chúng ta”. Ngài truyền: “Đừng chống cự lại kẻ ác”.
Mầm mống báo thù luôn âm ỉ trong tâm hồn, Chúa dạy hãy dập tắt ngay và hãy có tâm hồn sám hối, sự hoán cải để sự báo oán, hờn căm, nổi giận không có cơ hội nổi dạy trong con người. “Hãy yêu thương kẻ thù” là một lệnh truyền tuyệt đối của Chúa Giêsu, Vị sáng lập Đạo Tình Thương. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu”. Đây là một giới răn, một lệnh truyền. Bởi vì, đối với Chúa tình yêu không có chuyện mắt thế mắt răng đền răng, không có chuyện trả thù.
Chúng ta hãy đọc lại câu chuyện người con hoang đàng, người phụ nữ ngoại tình sẽ thấy lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa tình yêu như thế nào? Sự thật tuyệt vời, bài học vô giá Chúa đã để lại cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người là sự tha thứ tuyệt vời của Chúa. Chúa đã tha thứ cho những kẻ bắt Ngài, hành hạ Ngài, kết án Ngài.
Trên thập giá, Chúa đã tha thứ và đưa vào Thiên Đàng người trộm lành biết ăn năn hối cải: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Chúa đã tha thứ ngay khi Ngài bị kết án bất công, bị đóng đinh trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Chết mới nói lên lời. Chết mới nói lên tình ây trọn vẹn, tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến.
Tha thứ, yêu thương kẻ thù là điều rất khó thực hiện. Nhưng Chúa dạy: “Các con phải trở nên hoàn thiện như cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).
Ở trần gian, con người thường muốn cho vay ăn lời, càng lợi nhuận, càng lời nhiều càng tốt. Chúa dạy: “…Ai muốn vay mượn hãy sẵn sàng”. Cho vay ở đây không lợi nhuận, không ăn lời. Cho vay là giúp đỡ, là tạo cơ hội cho con người vượt khó, giúp họ làm lại cuộc sống của họ. Sự hòa giải, quảng đại, tha thứ sẽ đem lại cho con người sự bình an. Sự an bình luôn cần thiết cho đời sống con người. Ở đời nhiều người đã hối hận đã tìm lại được nguồn vui khi họ luôn cố tình nói xấu, làm hại người, nhưng ngược lại họ luôn nhận được sự thứ tha, cảm thông và tấm lòng tốt của người khác.
Đời sống của mỗi người, thánh giá mỗi người vác hàng ngày đã nặng lắm rồi. Nếu chúng ta không chia sẻ, không cảm thông với nỗi nhục nhằn, nặng nề của kẻ khác thì chúng ta cũng đừng chất gánh nặng trên vai kẻ khác vì thánh giá họ vác mỗi ngày họ đã phải hy sinh, cố gắng lắm rồi…
Các Thánh là những người đã sống như chúng ta ở trần thế này, nhưng các Ngài đã hơn chúng ta vì đã dám sống đức tin tỏa sáng, đã dám vác thập giá, đã dám sống quảng đại, tha thứ cho cả những kẻ làm hại mình.
Lạy Chúa Giêsu, sống như Chúa yêu là điều không phải dễ, nhưng với ơn Chúa giúp, với sự tác động của Chúa Thánh Thần, chắc chắn chúng con có thể thực hiện được những điều mà Chúa mong muốn.Xin giúp chúng con biết tuân theo lời dạy của Thánh Phanxicô khó khăn: “… đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao Chúa lại nói yêu thương cả kẻ thù?
2. Mắt thế mắt răng đền răng là gì?
3. Giới răn mới của Chúa được gọi là giới răn gì?
4. Yêu thương như Chúa yêu là sao?
5. Thường những kẻ xúc phạm đến chúng ta, chúng ta đối xử thế nào?
25. Giơ má kia ra chăng?
Đây là một thí dụ điển hình để kiểm chứng bài giảng trên núi về chữ nghĩa và tinh thần. Đâu là tinh thần của câu “Hãy giơ má kia ra” là câu làm bất cứ ai cũng nhăn mặt?
Khi chính mình bị một cái tát trong cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã chẳng giơ má kia ra. Ngài đã đặt kẻ vũ phu đứng trước hành vi của mình: “Nếu ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó: nếu ta nói phải, tại sao lại đánh ta?” (Ga 18,23).
Điều sai lầm đó cứ lao theo từ ngữ như con bò mộng lao vào cái khăn nhử: “Tôi mà giơ má ra à? Để tạo điều kiện cho bạo lực sao?” Đúng ra là Chúa Giêsu muốn điều ngược lại. Khi Ngài nói: “Ngươi đừng đánh trả kẻ dữ dằn”, thì Ngài đã chỉ đích danh, và chúng ta biết phải làm gì đối với một kẻ dữ dằn rồi. nhưng đó là một cái gì vượt xa trên kẻ dữ dằn này cũng như trên cái má rát bỏng của chúng ta. Dưới cái hình ảnh gây ấn tượng này (giơ má kia ra!) ẩn giấu một kế hoạch phi thường: ngăn chận bạo lực gia tăng.
Con ngưới chấp nhận bạo lực như là một dữ kiện không thể bàn cãi vào đâu được. Đánh trả và báo thù dường như là điều tự nhiên, mọi người đều như thế, ngay cả những Kitô hữu tốt cũng vậy. Nếu chúng ta muốn đo lường sự đảo ngược to lớn mà Chúa Giêsu đưa ra, chúng ta hãy mở Kinh Thánh ra, Sáng Thế Ký 4,24: “Lameck sẽ bị báo thù 77 lần!”. Và chúng ta hãy đặt mình vào địa vị của Phêrô khi được trả lời rằng: “Ngươi hãy tha thứ bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22).
Có thể tỏ ra hoàn toàn vô lý, sự đảo ngược này bắt đầu xảy ra thực sự ngay khi chúng ta có can đảm nói không đối với bạo lực của chính chúng ta. Không phải bạo lực của người khác, mà là bạo lực của chúng ta. Khi lái xe, khi làm việc, khi coi truyền hình chúng ta muốn la lên: “Đồ thối tha! Quân sát nhân!” (và con cái có thể nghe được).
- Ngươi hãy im đi, hãy bình tĩnh, đừng đánh trả những người hung dữ, Chúa Giêsu nói.
- Chúa muốn chúng con để cho tất cả những người gàn dở, tất cả những kẻ bạo hành tha hồ hành động hay sao?
Tin Mừng không đơn giản chút nào cả. Sau đây là một câu chuyện đã xảy đến với tôi. Tôi đã chứng kiến hai tên vô lại đi xe máy làm một bà già bị thương nặng khi kéo lê bà ta dưới đất để giật túi xách. Một nỗi oán ghét dâng lên trong lòng tôi. Khi hai cảnh sát đến tôi nghĩ họ phải bắt hai tên đó, tẩn chúng cho tới chết để dạy cho chúng một bài học!
Điều đó chẳng dạy cho chúng một bài học nào cả. Bạo lực không bao giờ dạy cho ai một bài học nào cả. Nó chỉ có kêu gọi thêm bạo lực mà thôi. Tôi đã thấy rõ điều đó chung quanh bà già bị thương tội nghiệp. Chúng ta sẽ nhìn tất cả các thanh niên đi xe máy bằng con mắt thành kiến.
Thánh Phaolô đã đào sâu vấn đề này: “Đừng để mình thua điều ác” (Rm 12,17). Đừng để cho ai cả, từ cậu bé vô lại cho tới tên đồ tể, có khả năng biến đổi bạn thành một con người đầy căm thù. Nếu không, bạn sẽ thua điều ác.
Chúng ta không lúc nào cũng có thể hoàn toàn tự kiềm chế trước một kẻ tàn ác hoặc xảo trá. Nhưng chúng ta có thể chống lại làn sóng bạo lực ở trong ta, chống lại những lời nói và những cử chỉ bạo lực. Chúng ta có thể không cố gắng làm cho sự tự vệ và sự tức giận chính đáng biến thành bạo lực lớn và mù quáng hơn, biến thành sự khinh bỉ, biến thành ước muốn và hành vi báo thù thuần tuý.
Nơi nào một Kitô hữu ngăn chận được việc lan truyền bạo lực bằng cách từ chối làm một mắt xích của chuỗi sự ác, thì nơi đó một thế giới mới sinh ra.
26. Lòng bao dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Trả thù, báo oán là cách ứng xử man rợ, thiếu đạo đức.
Luật trả thù báo oán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay không ít người vẫn muốn cư xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ đó. Ai móc mắt tôi, tôi móc mắt người đó. Ai đánh gảy răng tôi, tôi đánh gảy răng người đó…”
Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài vật, như gà chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!
Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn hơi sức.
Những cách ứng xử như trên là man rợ, rừng rú, chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.
Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải quyết theo kiểu “mắt đổi mắt răng đền răng”, tức giải quyết bằng chiến tranh, trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.
Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn nâng nền luân lý nhân loại lên một tầm cao mới. Người đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39.44) Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.
Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn! Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang!
Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gảy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.
Hiểu được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn sinh từ mấy ngàn năm trước: “nhu thắng cương, nhược thắng cường.” Vị sư tổ của môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo chiến thắng hung bạo cứng rắn.
Thay phần kết luận:
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, chuẩn bị mài dao mài rựa tìm cách báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt 5, 44. 38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời.
Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên.
27. Tha thứ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trong thời kỳ đầu của Phong Trào Nhân Quyền tại Montgomery, Alabama, đây là điểm sáng đích thật. Những người da đen tẩy chay dịch vụ xe búyt của thành phố, bởi vì có sự kỳ thị chủng tộc. Những người da trắng đã đáp lại bằng cách cho nổ bom những khu nhà của người da đen. Bầu khí sự thù hận bao trùm một cách nặng nề và căng thẳng. Mục sư Martin Luther King, Jr., đã giảng cho cộng đoàn người da đen trong khu phố của ông rằng sự hòa bình và sự tha thứ nằm trong tay của họ. Mục sư tiếp tục trình bầy: Hành động qúi báu của sự tha thứ luôn luôn được bắt đầu với những người bị lầm lạc.
Lời mời gọi sống phúc âm giữa đời là một thách thức đòi hỏi sự thắng vượt chính mình. Từ thời xa xưa, những lời dạy bảo về đức yêu thương và tha thứ đã được ghi chép trong sách Luật: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. (Lev 19, 17). Chữ ‘đừng’đã được tác giả sách Lêvi dùng để khuyên răn đồng loại là ngưng theo đuổi sự dữ. Vì sự dữ sẽ sinh ra sự dữ. Sự báo qua oán lại sẽ không bao giờ được kết thúc. Chúng ta không thể dùng sự báo thù để tìm đạt sự công bình. Nếu chúng ta trả thù qua lại lẫn nhau mãi, thì chúng ta cũng chẳng khác gì cách cư xử của dân ngoại, họ không nhìn biết Thiên Chúa nhân lành. Trong kinh nghiệm sống đời, ai trong chúng ta cũng có lúc cảm thấy bực mình vì sự phản bội, đặt điều nói xấu, ngang trái và gây hại. Thái độ thù ghét là những phản ứng rất tự nhiên của lòng người. Nhưng sách Lêvi khuyên dậy chúng ta là đừng giữ lòng thù ghét nhưng hãy tha thứ và công khai răn bảo.
Đừng tìm báo oán là điểm son trong đời sống đạo: Đừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa (Lev 19, 18). Đừng báo oán, không phải vì chúng ta sợ hãi, nhát đảm, yếu nhược hay bị áp chế, nhưng đây là một thái độ thực hành đạo bác ái yêu thương. Sự nhún nhường là một thái độ bao dung và tự chủ. Người ta vẫn thường nói rằng: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Không phải ai cũng có thể dễ dàng thắng được sự ghen tuông, thù óan và bất công. Chịu nhường một bước để thắng hai bước, đó là thắng chính mình và thắng người khác. Biết tự kiềm hãm và làm chủ ý chí của mình là một trong những thành công trong việc đối nhân xử thế. Vì chúng ta biết rằng thái độ nóng nảy và giận dữ bốc đồng sẽ gây thiệt hại nhân cách và đổ vỡ tương giao. Tự ái vặt là đầu mối của nhiều phiền thức trong giao tế nhân sự và phá đổ các mối liên hệ.
Chúa Giêsu đã rao giảng tin mừng giải thoát vượt trên mọi lẽ thường tình: Còn Thầy, Thầy bảo các con: Đừng chống cự với kẻ hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa (Mt 5, 39). Sống theo lời Chúa, xem ra chúng ta sẽ bị thua thiệt nhiều. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương chọn đi vào con đường khiêm hạ này. Một Thiên Chúa có uy quyền trên mọi loài đã cúi đầu chấp nhận mọi xỉ vả của con người. Chúng ta không thể nào hiểu thấu mầu nhiệm của sự đau khổ mà Chúa đã chịu. Nhẫn nhục chịu đựng để thắng vượt những bất công cần có sức mạnh nội tâm nhiệt thành. Trong đời sống thường ngày, chúng ta va chạm biết bao những thứ bực mình chung quanh qua lời nói và cách thế hành xử của những người khác. Cần phải biết kiên nhẫn cư xử và thắng vượt.
Một trải nghiệm gần gũi nhất là làm sao có thể đối xử tốt với các thành viên trong gia đình. Thí dụ: Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị, một thái độ ơ hờ và một tranh luận nhỏ nhoi cũng có thể gây nên sự. Người nói qua, kẻ nói lại chẳng ai chịu ai sẽ dễ gây bất hòa. Đôi khi có những câu truyện vô cớ cũng làm ảnh hưởng tới bầu khí êm ấm của gia đình. Thật là không đáng! Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng chống cự với kẻ hung ác. Vậy những người vợ và người chồng hiền lương và những thành viên nhiệt tình trong gia đình, nhóm hội hay một cộng đoàn giáo xứ, có đáng để chúng ta phải chống cự lẫn nhau hay không? Ca dao tục ngữ dạy: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Đừng bao giờ dùng những lời nói cộc cằn, thô lỗ và tục tĩu đối với tha nhân, nhất là những người trong gia đình thân tộc. Lời nói như con dao hai lưỡi, có thể xây dựng hòa bình và cũng có thể gây chiến tranh. Chúng ta biết chiến tranh bao giờ cũng gây thiệt hại và chỉ phá đổ.
Chúa Giêsu mở con đường yêu thương ngược dòng: Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống cho các con (Mt 5, 44). Lời của Chúa không chỉ để suy gẫm và chiêm ngắm, nhưng phải đem ra thực hành trong đời sống. Đây là một thách thức cam go, vì nó đi ngược với bản năng tự nhiên của con người. Trong tâm lòng của con người có thất tình: Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố và dục. Gieo hạt giống nào, chúng ta sẽ được gặt qủa đó. Nếu chúng ta gieo sự yêu thương tha thứ, chúng ta sẽ gặt được hoa trái an lạc và bình yên. Nếu chúng ta gieo hạt giận dữ và thù hằn, tim chúng ta sẽ cháy lửa cuồng si. Để thực hành các nhân đức, chúng ta hãy vun tưới những hạt giống yêu thương, bác ái, từ bi và khoan dung độ lượng. Con đường nhẫn nhục và tha thứ là con đường giải thoát. Tha thứ bỏ qua là cắt đứt giây xích của sự báo thù. Giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc của sự ăn miếng trả miếng. Tâm hồn chúng ta sẽ được tự do vui hưởng sự an vui tự tại.
Thánh Phaolô cảnh tỉnh: Đừng có ai lừa dối mình. Nếu có ai trong anh em cho mình là người khôn ngoan ở đời này, thì kẻ ấy nên điên dại để được khôn ngoan (1Cor 3, 18). Thiên Chúa trao ban cho mỗi người một khả năng riêng biệt. Mỗi người đều có những khả năng để hỗ tương làm giầu cho cuộc sống chung xã hội. Ân huệ giống như các ly chứa có dung tích khác nhau. Người nhiều kẻ ít, ai cũng có một số vốn cần được sinh lợi. Mỗi người chúng ta đều có khả năng chuyên môn để phát triển. Những khả năng tiềm ẩn đã được phú bẩm cho mỗi cá nhân, chỉ cần có cơ hội nó sẽ phát triển. Chúng ta sẽ thỏa mãn với những khả năng riêng đã nhận được. Biết rằng dù một số người có khả năng gọi là siêu việt như thần đồng, thì sự khôn ngoan của họ vẫn có giới hạn. Con người không phải là thần minh có thể hiểu thấu mọi sự. So với sự nhiệm mầu bao la của vũ trụ vạn vật, sự khôn ngoan của con người chỉ là hạt sương rơi.
Chẳng có ai hiểu thấu được sự vận hành tiến tới trong tương lai. Trong mọi cố gắng suy tư đi tìm về Chân, Thiện, Mỹ của vũ trụ, sự hiểu biết của con người vẫn chỉ là như mới khởi đầu. Phaolô nói tư tưởng của những kẻ khôn ngoan chỉ là hư không: Lại có lời khác rằng: Chúa biết tư tưởng của những người khôn ngoan là hão huyền (1Cor 3, 20). Thiên Chúa cho tâm trí con người được tham dự vào việc tìm kiếm sự cao siêu của sự sống và vận hành của vũ trụ. Bao lâu con người còn biết đặt niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa thì sự khôn ngoan học hỏi của họ sẽ tìm tới ánh sáng. Quan sát chiếc diều bay cao trên không trung là nhờ sợi dây nối với cột trụ dưới đất. Nếu chúng ta cắt đứt sợi giây nối, diều sẽ rơi xuống đất. Đặt niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan ở đời. Sự khôn ngoan sẽ dẫn dắt chúng ta đến cùng đích và chung cục, đó chính là tình yêu nguồn ơn cứu độ.
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con yêu thương, tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ bách hại, nguyền rủa và vu khống. Khó qúa Chúa ơi. Mỗi lần chúng con bị người ta hiểu lầm, bịa truyện và gây hại, chúng con lại muốn tìm cách báo thù. Xin cho chúng con biết nhẫn nhịn dõi theo từng bước chân của Chúa để học hỏi và đem ra thực hành từng ngày trong đời sống. Yêu thương là tất cả!
28. Bão lòng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt. 5,44).
Bạn tôi lái xe xuống Phố Tầu ở Mahattan kiếm được chỗ trống đậu xe dọc theo đường lộ và đi bỏ tiền vào máy tính giờ đậu xe gần bên. Chỉ chưa đầy một phút sau, trong khi bạn trở lại với biên nhận trong tay, thì đã thấy một cảnh sát công lộ đang ghi giấy phạt vì vi phạm luật đậu xe là 90 đô. Nói qua nói lại, bạn vẫn phải nhận vé phạt. Cảnh sát nói: Nếu muốn được giảm phạt phải gởi kèm cả vé phạt và biên nhận ghi giờ parking cho Sở Tài Chánh, thành phố Nữu Ước. Vé phạt và biên nhận được gởi đi, nhân viên Sở Tài Chánh trừ cho một nửa số tiền và ghi rằng muốn được tha phạt toàn bộ, bạn phải làm hẹn ra tòa. Câu truyện nghe mà ứ máu, tuy số tiền không bao nhiêu nhưng bị oan ức. Biết chia xẻ cùng ai. Ra tòa lại mất toi một ngày làm. Trả phạt cho xong, lòng không phục!
Hãy yêu kẻ thù. Chúa Giêsu mở rộng chân trời yêu thương tới hết mọi người. Lời khuyên dạy của Chúa cao siêu và tuyệt vời qúa. Chúng ta cảm nhận rằng tình yêu thương của chúng ta đối với tha nhân và kẻ thù chỉ mới là ở bước khởi đầu. Những người dưng nước lã, những khách qua đường và những người xa lạ không quen biết, chúng ta rất ít quan tâm nói chi đến yêu thương. Chúng ta chỉ dễ dàng yêu thương những người có cảm tình và yêu thương chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu lại dậy rằng: Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? (Mt. 5,46).
Trong thực tế cuộc sống, tình yêu vị tha thường rất giới hạn. Theo quan niệm chung, yêu thương cũng phải có qua có lại chứ. Chúng ta biết rằng ngay cả anh chị em hay những bà con ruột thịt trong gia đình yêu nhau đã khó, yêu thương những người hàng xóm lại khó hơn và yêu thương kẻ thù thì khó gấp bội. Yêu thương kẻ thù trên lý thuyết chung chung hay trên môi miệng thì có thể được, nhưng yêu thật trong lòng một kẻ thù thì khó lắm. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu thương mọi người và yêu cả kẻ thù. Chúa đã nêu gương cho chúng ta qua chính cuộc sống và cái chết của Ngài. Ngài đã yêu hết mọi người, cả kẻ thù và đã tha thứ tất cả lỗi lầm của mọi người. Chúa đã chấp nhận chịu mọi cực hình oan trái đến chết để mang ơn cứu độ cho mọi người.
Với sức tự nhiên của con người, chúng ta khó vượt qua những yếu đuối của bản năng. Bản năng đòi sự công bằng tự nhiên: Mắt đền mắt, răng đền răng (Mt.5,38) là lẽ thường. Vì trong bản năng của con người có một động lực tiềm ẩn của sự báo thù do tội nguyên tổ. Khi chúng ta giận dữ thì cơn giông bão hận thù và ghen tương nổi lên trong lòng như một khao khát đốt cháy tâm can. Chúng ta rất khó cầm lòng để có sự bình tĩnh mà xét xử hơn thiệt. Người ta thường nói giận mất khôn là đúng lắm. Đôi khi trong cơn giận dữ lại có người còn thêm dầu vào lửa nữa, thì cơn giận càng có cơ hội bốc cháy. Những giận hờn, thù ghét chua cay và những gian dối che phủ mất lòng nhân ái. Hành động khi giận dữ dễ đưa đến những hậu qủa tác hại vô lường.
Truyện kể: Một hôm, một vị Samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài”. Vị Samurai nổi nóng, rú kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận”. Vị Samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Đôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi”.
Vị Samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo Samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Đừng hành động khi đang giận dữ”. Vị Samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hóa ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!”. Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để dọa chúng”.
Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị Samurai. Người đánh cá phấn khởi nói: “Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”. Vị Samurai trả lời: “Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi và ngươi đã trả nợ rồi”.
Ai cũng thù ghét sự bất công, gian tham và độc tài. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh những người biểu tình ở các nước Tusinia, Ai Cập, Yemen đòi quyền sống cho công lý và tự do. Sự đấu tranh, sự hận thù và ghen ghét diễn tả trên những khuôn mặt giận dữ la hét và bạo động của họ. Giận dữ vì bị đối xử bất công và bị tước đoạt mất quyền sống. Làm sao họ có thể yêu thương những kẻ làm gây oan trái và ngỗ nghịch. Sức chịu đựng của con người có giới hạn. Chúng ta cũng là những người đã từng bị đối xử cách bất công trong cuộc sống. Chúng ta hiểu được phần nào những áp bức trong cuộc sống dưới chế độ những Phát-xít và độc tài. Trong tinh thần Kitô Giáo, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên có những cách đối xử nhân từ và rộng lượng hơn. Làm sao chúng ta có thể dung hòa để mang lời Chúa áp dụng vào cuộc sống thực tế đầy đau thương và bất công này. Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương thù địch, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con.
Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ nhưng làm lành hay yêu thương kẻ thù thì chúng ta khó có thể. Nhiều khi chỉ cần nhắc lại chuyện cũ không vui, sự tức giận đã trào nghẹn lên tới cổ.
Có những sự kiện nhỏ nhặt thôi nhưng chúng ta cũng khó lòng bỏ qua. Chỉ cần nhìn thấy bản mặt của họ là thấy ghét, làm sao chúng ta có thể dung hòa và tha thứ được chứ?. Chúa Giêsu nhắc nhở dịu dàng: Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (Mt. 5,45).Khi thực hành được lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm thấy sự yêu thương hòa giải thật tuyệt vời và đong đầy ý nghĩa. Khi thương yêu tha thứ, chúng ta không mất mát gì cả, mà còn được lợi gấp trăm. Ai cũng hiểu biết yêu là như thế đấy, nhưng đi vào thực hành tha thứ với con người cụ thể thì còn một khoảng cách cần lấp đầy. Truyện cổ Trung Hoa kể câu truyện về sự hòa giải và kết hạn: Ngày xưa ở Trung Quốc, có một người nông dân và một người thợ săn là hàng xóm của nhau. Người thợ săn nuôi một đàn chó săn rất dữ tợn và khó bảo, chúng thường nhảy qua hàng rào và rượt đuổi đàn cừu của người nông dân. Người nông dân bảo người hàng xóm của mình hãy trông nom đàn chó cẩn thận, nhưng xem ra những lời đó đều bị bỏ ngoài tai.
Một ngày nọ, đàn chó lại nhảy qua hàng rào, chúng đuổi cắn đàn cừu và làm nhiều con trong đàn bị thương nặng. Lúc này, người nông dân không thể chịu đựng thêm nữa. Anh ta bèn lên phủ để báo quan. Vị quan phủ chăm chú lắng nghe đầu đuôi câu chuyện rồi nói: “Ta có thể phạt người thợ săn và bắt anh ta xích hoặc nhốt đàn chó lại. Nhưng anh sẽ mất đi một người bạn và có thêm một kẻ thù. Anh muốn điều gì hơn: một người bạn hay một kẻ thù làm hàng xóm của mình?” Người nông dân trả lời rằng anh muốn có một người bạn hơn. Vị quan phủ nghe vậy bèn phán:“Được, vậy ta sẽ bày cho anh một cách để vừa bảo vệ an toàn cho đàn cừu, vừa giữ được một người bạn”. Người nông dân bèn nghe theo lời chỉ dẫn của vị quan phủ. Vừa về đến nhà, người nông dân liền thử làm theo những gì vị quan phủ đã bày cho anh ta. Anh ta bắt ba con cừu tốt nhất của mình và đem tặng chúng cho ba cậu con trai nhỏ của người hàng xóm. Đám trẻ rất vui thích quấn quít chơi đùa bên mấy con cừu. Để bảo vệ cho đồ chơi mới của lũ trẻ, người thợ săn đã làm một cái cũi chắc chắn để nhốt đàn chó. Từ đó trở đi, đàn chó không bao giờ quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa. Cảm kích trước sự hào phóng của người nông dân với những đứa con của mình, người thợ săn thường mang chiến lợi phẩm mà anh ta săn được sang cho người nông dân. Người nông dân đáp lại bằng thịt cừu và phô mai mà anh ta làm ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai người hàng xóm đã trở thành bạn tốt của nhau.
Chúng ta biết rằng chiến tranh bao giờ cũng có thiệt hại, đổ nát, chia cách và mất mát. Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành". Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan". Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Eph. 4,26).
29. Nên hoàn thiện như Cha trên trời
Từ sau khi nguyên tổ chúng ta phạm tội thì con người đã trở nên yếu đuối và rất dễ sa ngã. Do đó, con người rất cần những quy tắc sống. Nhờ đó, con người dựa vào để thi hành trong cuộc sống của mình.
Thấy được điều đó nên Thiên Chúa tình yêu đã ban bố cho dân Do thái những quy tắc sống qua ông Môisen. Vì thế, đối với người Do thái luật Môisen được coi như kim chỉ nam cho cuộc sống của họ.
Thế nhưng có vẻ như Chúa Giêsu không tuân giữ đúng luật Môisen nên làm cho người Do thái cách chung và với những Luật sĩ và Pharisêu cảm thấy dị ứng. Từ bối cảnh ấy Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 5, 20). Nghĩa là Người muốn các môn đệ giữ lề luật Môisen với tinh thần mới. Bởi lẽ, "Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới" (Mt 9, 17).
Nối tiếp những lời dạy tuần trước, hôm nay Chúa Giêsu kêu mời các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta đi tới một mức độ cao hơn: "Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn thiện" (Mt 5, 48). Hoàn thiện qua việc tuân giữ luật Môisen với một tinh thần vị tha.
Ngay từ thuở ban đầu, con người chúng ta đã được dựng nên theo và giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì vậy, trong cuộc hành trình trên dương thế nầy chúng ta được kêu mời sống thế nào để mỗi ngày trở nên giống như Ðấng đã dựng nên chúng ta. Bao nhiêu lần chúng ta xúc phạm đến Chúa đều được Chúa thứ tha tất cả. Tác giả Thánh vịnh 129 cảm nghiệm được điều đó nên đã thốt lên:
"Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng?
Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ
để chúng con biết kính sợ Ngài" (Tv 129, 3 - 4).
Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra những lời chỉ dạy nhằm giúp chúng ta thoát khỏi lối sống ích kỷ, hay tự ái và muốn trả đủa. Vì người sống theo lối sống như thế e rằng khó có được sự bình an trong tâm hồn. Ông Ganđi, là cha đẻ của chủ trương bất bạo động đã thốt nên một lời nói bất hủ rất đáng chúng ta suy nghĩ: "Bất bạo động là luật của loài người còn bạo động là luật của loài thú". Ông bà chúng ta cũng đã dạy "lấy oán trả oán oán chồng chất còn lấy ơn trả oán thì oán sẽ hết".
Là người con Chúa Cha trên trời và cũng là môn đệ của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy làm theo những lời dạy vàng ngọc của Chúa Giêsu hôm nay.
30. Tình yêu vượt ra khỏi mối hỗ tương.
(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Khi đề nghị một buổi lễ đọc một đoạn Phúc Âm, Giáo Hội ao ước cho ta làm quen với giáo huấn, lối nhìn, cách suy nghĩ, sứ điệp của Chúa Giêsu. Ít nhất người ta cũng có thể nói một điều: là Chúa Giêsu đi ngược lại các phản ứng thuộc bản năng của con người. Không chống lại sự ác nghiệt và yêu mến kẻ thù, đó không phải là những khám phá của sự khôn ngoan sơ đẳng của bản tính nhân loại. Sự táo bạo kêu mời con người thực thi tình yêu hoàn hảo, chỉ có thể xuất phát từ Con Thiên Chúa, Đấng đã nêu gương về một mức độ tình yêu như thế. Nếu Người dám xin ta yêu mến thù địch ta, là vì Thiên Chúa đã yêu loài người trước hết, ngay trong khi họ còn chống lại Người, còn nằm trong tội lỗi. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu Người đối với ta: ấy là khi ta còn tội lỗi, Đức Kitô đã chết cho ta (Rm 5,8). Có những triết thuyết, những tổ chức tôn giáo ngoài Kitô giáo đôi khi đã xích lại gần sự đòi hỏi của Chúa Giêsu nhưng không hề đạt tới được. Phúc Âm quả là một chóp đỉnh duy nhất mà chỉ Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô dám xin ta leo lên. Tình yêu đối với thù địch nằm ở chóp đỉnh ấy. Giới răn của Chúa Giêsu buộc ta không được giản lược tình yêu vào trình độ của mối hỗ tương, trao đổi không vươn xa hơn. Tình yêu tuỳ thuộc ở một sự trao đổi là một tình yêu mong manh. Trái lại, tình yêu mà phát xuất từ sâu thẳm của hữu thể là một sức vọt mạnh mẽ, chỉ lấy tự do mình làm giới hạn. Mà chiến thắng của cái tự do ấy, chính là ở chỗ nó quyết định yêu thương, cả khi gặp cản trở, tức bị từ chối. Chúa nêu gương cho ta về điều này:
1) Chúa muốn điều hay cho những kẻ muốn làm hại Người. Người chịu khổ, chịu chết để những ai bắt Người phải khổ, phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối tuyệt đối của con người không đáp lại tình yêu – (trước sự từ khước một mối hỗ tương), Chúa vẫn duy trì quyết định tuyệt đối là thương yêu.
2) Tình yêu ấy mặc khuôn mặt của lòng tha thứ. Tình yêu theo Thiên Chúa biết nhìn từ bên trong. Tha thứ là một sự sáng suốt của tình yêu. Lạy Cha, xin tha cho họ, vì ho không biết mình làm gì. Người tự coi là kẻ thù của ta, họ vâng theo những động lực nào? Có lẽ họ là nạn nhạn của sự dốt nát, của những sức mạnh tối tăm làm chủ họ, của tính tình v.v… Không ai nói phải khuyến khích lòng độc dữ của họ, nếu họ tỏ ra nguy hiểm. Điều cấm làm, là trả thù. Điều phải làm theo là yêu mến họ, dầu sao đi nữa, và ao ước sự tốt lành cho họ. Điều này có thể đòi hỏi một sức mạnh tinh thần gần như là khí phách anh hùng. Phải biết thưa với Chúa rằng, nếu Người đòi hỏi phải nên anh hùng, thì Người cũng phải ban đủ sức làm anh hùng.
31. Yêu thương trọn hảo
Qua đoạn Tin Mừng, Thánh Matthêu thuật lại luật yêu thương trọn hảo của Chúa Giêsu. Chúa dạy ta cách sống, cách xử thế đối với mọi người, cả những người yêu thương ta lẫn người không yêu thương chúng ta. Đây là điểm vàng son của đạo Kitô giáo.
Theo luật cũ trong Cựu Ước thì một người làm lỗi phải chịu trừng phạt tùy theo tội nặng hay nhẹ. Nếu một người làm người khác bị thương, thì phải đền bù theo luật ác giả ác báo: mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Chúa Giêsu, Ngài mời gọi ta sống, nhân hậu, tha thứ, ân cần yêu thương tha nhân. Ngài đã đưa ra nhiều thí dụ: "Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài".
Chúa Giêsu dạy như thế không có nghĩa là Chúa đề cao lối sống buông xuôi, đầu hàng, cam chịu. Nhưng Chúa Giêsu muốn dạy rằng: Hãy khôn ngoan mà dùng tình thương là thượng sách. Tình thương mới xóa bỏ hận thù, lấy ơn mà đền oán, chứ không thể áp dụng "dĩ độc trị độc". Thực tế, trả thù không bao giờ xóa bỏ được hận thù, mà còn chồng chất hận thù lên mãi. Có lẽ trong cuộc sống hiện nay vẫn còn có người sống theo lối "ăn miếng trả miếng", "hòn đá nén đi hòn chì nén lại", nên chúng ta thấy khó am hợp với lời Chúa dạy là tha thứ, là yêu thương.
Giáo huấn của Chúa, khó thì khó thật, nhưng không phải là không thực hiện được. Trong thực tế, đã có những người dù không phải là Kitô hữu, dù chưa biết Tin Mừng đã thực hiện điều này. Người ta kể rằng: gần hai nước Lương và Sở, có hai người làm nghề trồng dưa: Một người ở nước Lương và một người ở nước Sở. Nhờ sự chăm tưới và bón phân, vườn dưa của người nước Lương lên tốt, kết quả rất mỹ mãn và hàng năm đem lại một mối lợi đáng kể. Còn anh chàng nước sở, lười biếng cỏ chẳng làm, dưa không tưới và bón phân, dĩ nhiên không kết quả bao nhiêu. Thấy vậy anh ta sinh ghen ghét, đêm đêm lẻn sang vườn người nước lương phá hoại.
Vườn dưa đang tốt, song mỗi ngày cứ thấy lụi tàn dần, tìm hiểu và biết được kẻ phá hoại, tức mình lắm, định trả đũa. Nhưng trước khi thi hành, anh đem việc đến trình quan là Tống Hựu. Tống Hựu can và nói: "Làm như thế chỉ tổ gây thên hận thù, tôi khuyên anh: thay vì trả đũa ,mỗi đêm lẻn sang đó tưới nước và bón phân. Nhưng phải bí mật đừng cho nó thấy". Thấy bên kia không trả đũa, lại nhận ra vườn mình ngày cang xanh tốt. Sau lâu ngày mới biết người kia không báo thù mà còn làm ơn, anh liền sang xin lỗi. Hai gia đình đã kết thân và trở nên giàu có.
Vậy thì, tại sao hay lý do nào Chúa dạy chúng ta phải yêu thương hết mọi người, kể cả những người không thích chúng ta, thù ghét chúng ta. Thưa, vì mọi người đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa và đã được Chúa Ki tô cứu chuộc bằng giá máu châu báu của Người, nên mọi người đều đáng kính trọng và đáng kính yêu. Và đặc biệt, vì mọi người là con một Cha chung trên trời và là anh em với nhau. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chúng con ở trên trời", vì Chúa là Cha chung hết mọi người, hằng cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ dữ người lành, làm mưa xuống trên kẻ công chính và người bất lương. Vậy nếu mọi người đều là con một Cha trên trời, thì chúng ta đều là anh em với nhau. Mà là vì anh em với nhau, thì chúng ta phải yêu thương nhau. Chúng ta phải yêu thương hết mọi người không loại trừ ai cả, có như thế chúng ta mới xứng đáng là con cha trên trời. Một khi có tình yêu như vậy, nhất định chúng ta sẽ xóa bỏ mọi hận thù, ghen ghét, nhất định chúng ta sẽ khoan dung quảng đại với mọi người.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa và nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Amen.
32. Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước.
Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc thật).
Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Người ra thi hành. Sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian.
Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen. Luật mới kiện toàn luật cũ. Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:
• Luật cũ cấm giết người. Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em. Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.
• Luật cũ cấm hành vi ngoại tình. Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn. Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…
• Luật cũ quy định thủ tục li dị. Luật mới triệt để cấm li dị.
• Luật cũ cấm thề gian. Luật mới dạy sống chân thực. Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.
Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.
• Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.
• Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”. Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.
• Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào. Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.
1. “Hãy yêu kẻ thù”
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là:
• Làm ơn cho kẻ ghét mình.
• Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.
• Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
• Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.
• Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.
• Ai lấy gì thì đừng đòi lại…
Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời "Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…".
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nổ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quãng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
2. Tại sao phải yêu kẻ thù?
Yêu người yêu mình thì dễ. Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao! Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi. Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực. Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ. Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.
Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi. Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh. Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền. Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.
3. Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu.
Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).
Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ? Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi. Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt. Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: ”Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng:Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?
Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?
Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.
Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
33. Yêu kẻ thù
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45).
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù mình”. Việc này thật đòi hỏi: Nó đảo lộn các suy nghĩ của ta và làm mọi người phải thay đổi hướng đi của đời mình!
Bởi vì, đừng dấu diếm nữa, tất cả chúng ta đều có một vài kẻ thù… lớn hoặc nhỏ.
Kẻ thù đang ở đàng sau cánh cửa căn nhà bên cạnh, nơi người đàn bà đáng ghét đó mà tôi thường tìm cách tránh né mỗi làn bà ta sắp sửa cùng bước lên cầu thang. Kẻ thù ở chính nơi người bà con mà cách đây ba chục năm đã đối xử bất công với cha tôi, vì thế tôi không còn chào hỏi nữa. Kẻ thù ngồi ở bàn đàng sau trong lớp học và từ ngày nó tố cáo cho bạn tôi với thầy giáo, không bao giờ bạn nhìn mặt nó. Kẻ thù là người bạn gái đó, vì cô ta đã bỏ bạn để đi với người khác. Kẻ thù là người bán hàng đã đánh lừa bạn. Đó là những người không nghĩ như bạn về chính trị, vì thế ta tuyên bố họ là kẻ thù. Có người coi Nhà Nước là kẻ thù, nên dùng bạo lực đối xử với người đại diện Nhà Nước. Cũng có người nhìn các linh mục và Giáo Hội như là thù địch. Tất cả những người này và vô vàn những người khác mà ta gọi là “kẻ thù” ta phải yêu thương họ.
Phải yêu thương họ sao?
Thưa phải, phải yêu thương họ! Và đừng cho mình có thể làm được bằng cách thay đổi tình cảm oán ghét thành tình cảm nhân hậu hơn.
Mà còn hơn nữa. Bạn hãy lắng nghe lời Đức Giêsu dạy:
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy, anh em mới thực sự trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.
Bạn thấy không? Đức Giêsu muốn một tình thương thể hiện qua việc cầu nguyện và những hành động cụ thể.
Ở nơi khác, Ngài cũng dạy: “Anh em hãy làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu cho kẻ nhục mạ mình” (Lc 6,27-28).
Ngài giải thích cho ta lý do tại sao Ngài truyền dạy như vậy, và chỉ cho ta mẫu gương là tình thương của Thiên Chúa, Cha Ngài; Ngài dạy ta làm như vậy cùng hành xử theo gương Chúa Cha.
Điều đó có nghĩa là trên đời ta không còn cô đơn: ta có một người Cha và phải sống như Người. Không những thế, mà Thiên Chúa còn có quyền đòi ta làm như vậy, bởi vì khi ta còn là thù địch của Người, còn sống trong tội lỗi, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x.2Ga 4,19), và sai Con của Người đến với ta, Đấng đã chết cách nhục nhã vì mỗi người chúng ta.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.
Bài học ấy chú bé Jery người da đen đã học được ở Washington. Vì có trí thông minh, em đã được nhận vào một lớp đặc biệt gồm toàn thiếu niên da trắng. Nhưng trí thông minh không đủ để làm cho các bạn cùng lớp hiểu rằng em cũng bình đẳng như chúng. Màu da đen đã làm cho tất cả ghét bỏ em, đến độ ngày lễ Giáng Sinh các học sinh tặng quà cho nhau nhưng không thèm để ý tới Jery. Em bật khóc, điều này dễ hiểu! Nhưng khi về nhà em nghĩ đến Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù của anh em”, và đồng ý với má, em mua quà vui vẻ tặng cho tất cả những “người anh em da trắng” của mình.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.
Ngày hôm đó Elizabeth, cô bé có đạo ở thành phố Florence (Italia) thật đau lòng, khi bước lên bậc thang vào nhà thờ dự lễ, vì cô nghe tiếng cười nhạo của một nhóm đồng lứa tuổi. Cho dù muốn chống lại, em mỉm cười và trong nhà thờ em cầu nguyện cho những thiếu niên ấy.
Khi đi ra, các thiếu niên chặn em lại và hỏi lý do tại sao em xử sự như vậy. Em trả lời, mình là người có đạo, nên phải thương yêu luôn luôn. Em nói lên điều đó với niềm xác tín mạnh mẽ.
Chứng ta của em Elizabeth đã được thưởng công: Chúa Nhật sau đó em thấy tất cả các thiếu niên ấy trong nhà thờ, rất chăm chú ở hàng ghế trên cùng. Các thiếu niên chấp nhận Lời Chúa như thế. Do đó các em là người lớn trước mặt Chúa.
Có lẽ ta cũng nên điều chỉnh lại một vài tình trạng, hơn nữa cũng vì ta sẽ được xét xử theo như cách ta xét đoán người khác. Thật vậy, chính ta là người trao vào tay Chúa cái thước mà Ngài phải dùng để đo tình yêu của chúng ta. Ta đã chẳng xin Chúa: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đó sao? Vậy ta hãy yêu thương kẻ thù! Chỉ khi xử sự như vậy ta mới có thể sửa chữa lại sự chia rẽ, đạp đổ những hàng rào ngăn cách và xây dựng cộng đoàn huynh đệ.
Điều đó khó khăn sao? Nặng nề sao? Nó không để ta ngủ yên, ngay khi mới nghĩ đến sao? Hãy can đảm lên! Điều đó không phải là quá sức: một nỗ lực nhỏ từ phía ta, rồi 99 phần trăm Thiên Chúa sẽ làm, và… trong tâm hồn ta sẽ dâng trào niềm vui.
34. Chúng ta có tiến bộ tí nào không?
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Dòng giống nhân loại đã làm một tiến bộ vượt bực trong lịch sử gần đây. Hãy suy nghĩ về điều tương phản giữa một “toa xe không ngựa kéo và một chiếc xe hơi hiện đại”, hoặc sự khác nhau giữa “chuyến bay đầu tiên ở Kitty Hawk, Bắc Caroline vào năm 1903 và một cuộc du hành bằng máy bay hiện đại”. Vào một trăm năm trước, không người nào có thể tưởng tượng ra rằng người ta có thể ngồi trước một cái hộp, vừa gọi điện vừa nghe được tiếng nói, vừa xem thấy người đang trò chuyện với mình.
Những tiến bộ của chúng ta thật đáng kinh ngạc, nhưng một vấn nạn về luân lý và giáo dục vẫn còn tồn tại và nặng nề hơn cả người sống ở thế kỷ trước hay ba mươi thế kỷ qua. Chúa Giêsu trong Phúc Âm, Người đã ám chỉ tới sách Xuất hành, sách đó thuật lại sự kiện đã xảy ra trước khi Chúa Giêsu sinh ra khoảng một ngàn bốn trăm năm. Đoạn văn mà Người đã trích dẫn như sau: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Điều này có nghĩa là chỉ có mắt mới đền mắt được và chỉ có răng mới đền răng được. Nói cách khác, đây là một sự bào chữa cho một công lý chính xác vào một thời mà nền quân chủ ngự trị, không hè do dự phạt tội chết một người ăn cắp một quả nho trên bàn của vua. Hãy nhớ lại vào những ngày tháng của Chúa Giêsu, nhiều năm sau lời bào chữa này đã trở nên hòa hoãn hơn. Vua Hêrôđê đã không do dự chém đầu Gioan Tẩy Giả bởi vì vị quốc vương dại gái ấy đã làm một lời hứa ngu ngốc với một cô gái nhảy dâm đãng.
Chúa Giêsu tìm kiếm một nền đạo lý cao hơn cho những người đi theo Người. Nơi hình ảnh một bức tranh Người đòi hỏi chúng ta không nên nhấn mạnh đến một sự công lý nghiêm thẳng. Điều đó đang muốn nói đến án lệnh làm cho sự việc nên nghiêm trọng hơn. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa. Người tuyên bố nếu chỉ yêu thương những người cùng dân tộc với mình thì không đủ. Người ban mệnh lệnh yêu thương ngay cả kẻ thù của mình và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ mình. Những kẻ hoài nghi chế tạo những giáo huấn này. Họ nghĩ rằng Chúa Giêsu là một gã khờ khạo và những giáo huấn của Người là những lý tưởng không thể thực hiện được. Đương nhiên Chúa Giêsu không ngây thơ tí nào, Người rất khôn ngoan. Những lý tưởng Người đưa ra là những mục đích không phải là không đạt tới được. Ít nhất chúng ta cũng như những người có dit đã nghe và chấp nhận sự thách đố của Người: “Các con phải trở nên hoàn hảo như Cha các con ở trên trời là Đấng Hoàn Hảo”.
Thánh Phaolô hỏi chúng ta: “Anh em không ý thức anh em là Đền Thờ Chúa Thánh Thần ư, và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự trong lòng anh em sao?”. Một sự khiêm nhượng giả hiệu sẽ không bao giờ làm cho chúng ta quên đi giá trị của mình. Chúng ta xét thấy nhà thờ là nơi thánh thiêng bởi vì đó là nhà của Thiên Chúa. Cùng một cách ấy, chúng ta phải nhận biết sự thánh thiêng của chúng ta vì nó là Đền Thờ của Thiên Chúa. Thánh Thần Thiên Chúa sống động bên trong chúng ta, biến đổi chúng ta nên con cái của Thiên Chúa, củng cố hình ảnh Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu nơi chúng ta. Có phải không khi nói với chúng ta rằng chúng ta phải trở nên khác đi, rằng chúng ta không phải tự dối mình bằng việc suy nghĩ theo lối trần tục sao? Chúng ta được kêu gọi để hành động theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa, không phải theo những tiêu chuẩn của xã hội thế trần.
Khi chúng ta đến dự Thánh Lễ, việc đầu tiên chúng ta lắng nghe Lời Chúa, Thánh Kinh sẽ dẫn chúng ta đi đến những lý tưởng và những thách đố. Tiếp đó, chúng ta tham dự Phụng vụ Thánh Thể và chúng ta được lãnh nhận Mình và Máu Chúa. Thánh Thể là nguồn sức mạnh Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta tiến bước theo những lý tưởng của Thánh Kinh và để chấp nhận những thách đố ấy. Sẽ không có sự tiến bộ thật sự trong đạo đức nếu chúng ta không sẵn lòng cố gắng, dù vất vả cũng không hề chi để toàn tâm toàn ý với tiếng gọi của Chúa Giêsu là: “Các con hãy trở nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành”.
35. Gợi ý giảng của Lm Carôlô.
SỐNG BẰNG YÊU THƯƠNG
1) Thế nào là thánh?
Trong các bài đọc hôm nay, chúng ta nghe được hai lời kêu gọi nên thánh như Thiên Chúa: “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (bài đọc I); “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Bài Tin Mừng).
Thánh là thế nào?
Người ta thường hình dung vị thánh là một người khổ hạnh, xa lánh thế gian, chuyên chăm đọc kinh cầu nguyện… Vì hình dung như thế, người ta ngưỡng mộ các vị thánh nhưng không thích làm thánh.
Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay hình dung vị thánh một cách rất dễ thương, dễ thích: Thánh là người cố gắng giống Chúa. Mà vì Chúa là tình yêu cho nên thánh là người sống yêu thương, chẳng những yêu thương những người thân cận với mình, mà còn yêu thương cả những kẻ thù ghét mình.
Một vị thánh như thế, ai mà không thích? Hình ảnh một vị thánh như thế, ai mà không muốn trở thành? Và những người thánh như thế, xã hội nào mà không cần đến?
2) “Mắt đền mắt, răng thế răng”
Toàn văn của khoản luật trả đũa được ghi trong sách Xuất hành (Xh 21,24) như sau: “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng”. Mục đích của khoản luật này là tuy cho phép trả đũa nhưng giới hạn sự trả đũa đúng mức bị gây hại: kẻ thù làm mình hư một mắt, mình có thể trả đũa làm cho nó hư lại một mắt (không được hai); nó đánh mình bầm, mình có thể đánh nó bầm lại (không được hơn)…
Một điều đáng buồn là ngay trong thời đại Tân Ước này, nhiều người chẳng những chưa giữ được giới hạn tối thiểu của luật Cựu Ước mà còn tệ hơn thế nhiều. Họ sống theo luật “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hãy nhìn tình hình xung đột bên Trung Đông giữa Palestine và Israel: một người của bên này bị bắn tỉa chết là liền sau đó một làng của bên kia bị máy bay bên này ném bom. Trên bình diện nhỏ hơn: hai đứa trẻ đánh nhau kéo theo hai gia đình xung đột với nhau; khi hai người cãi nhau, người này chửi một câu thì người kia đáp lại ba câu; người này nói “Cha mầy” thì người kia đáp lại “Tổ tiên sư mầy”…
Làm thế nào để chấm dứt xung đột? Cách giải quyết “Mắt đền mắt răng đền răng” rất khó dừng lại ở giới hạn hợp lý mà thường có khuynh hướng leo thang trả đũa. Còn nếu giải quyết bằng cách “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại” thì xung đột càng leo thang nhanh hơn.
Đến đây chúng ta mới thấy giáo huấn của Đức Giêsu rất khôn ngoan. Xung đột chỉ chấm dứt được khi một bên chịu nhường nhịn. Nhường nhịn không có nghĩa là mình yếu, mình thua, nhưng là mình đang cố gắng nên thánh như Thiên Chúa ở trên trời là Đấng thánh.
3) Yêu thương kẻ thù không phải là thiện cảm, mà là thiện chí
Martin Luther King là một mục sư da đen, người đã đấu tranh để người da đen không còn bị người da trắng ngược đãi. Ông có một cách hiểu rất dễ chấp nhận về lời Chúa Giêsu dạy “Hãy yêu thương kẻ thù”, như sau:
“Trong Tân Ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nới tâm hồn con người. Khi vươn lên một đỉnh tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ. Chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ. Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu dạy “Anh em hãy yêu thương kẻ thù”. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đã ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người” (Trích bởi Fiches Dominicales, Năm A, trang 201)
4) Mảnh suy tư
- Khi đọc lịch sử người ta rất buồn, không phải buồn vì những tội ác mà những kẻ ác đã phạm, cho bằng vì những sự trừng phạt mà người lành phải gánh chịu; và một cộng đoàn trở nên hung ác không phải do những tội ác thỉnh thoảng xảy ra cho bằng do thói quen xử dụng hình phạt. (Oscar Wilde)
- Tha thứ giống như cái gì? Giống như mùi hương mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát.
5) Lời cầu nguyện cuối ngày
Lạy Chúa, mỗi ngày khi chúng con đi ngủ là đi vào một cái chết nho nhỏ để chịu một cuộc phán xét nho nhỏ về một ngày vừa qua.
Ước gì khi đó từng điều lầm lỗi của chúng con đều đã được tha thứ, và từng điều không thánh thiện của chúng con đều đã được thánh hóa.
Xin đừng để còn một điều gì đi theo chúng con vào giấc ngủ mà chưa được tha thứ và thánh hóa.
Có như thế chúng con mới luôn sẵn sàng cho cuộc tái sinh vào cõi đời đời, chúng con dám nhìn về phía trước với ánh mắt chan chứa tình yêu và hy vọng và có thể đứng vững trước mặt Chúa là Đấng vừa là quan tòa vừa là Đấng cứu độ chúng con, một quan tòa thánh thiện và một đấng cứu độ yêu thương. (Đức Giám Mục Appleton)
6) Chuyện minh hoạ
a/ Trả thù
Một thanh niên trong làng bị lăng mạ cách thậm tệ. Anh vội vàng đến mục sư kể cho ông nghe và muốn đi trả thù ngay.
- Tốt hơn, con nên về nhà.
- Nhưng con bị nhục mạ.
- Vậy thì con càng nên về nhà ngay lúc này. Sự nhục mạ cũng giống như bùn.
- Đúng thế. Con sẽ làm sạch nó.
- Này con, có một điều con có thể học hỏi tốt ngay bây giờ và sau này: Bùn được gạt sạch dễ dàng khi nó khô.
b/ Tiêu diệt kẻ thù
Một hoàng đế Trung hoa tuyên bố sẽ tiêu diệt hết các kẻ thù. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia.
- Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù?
- Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.
36. Nên hay dừng? - JM. Lam Thy
Cả chương 5 sách Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu trỉnh thuật Lời dạy của Đức Giê-su nhằm giúp các môn đệ và những kẻ tin trở nên người công chính: Từ “8 mối phúc” đến “muối, men và ánh sáng cho đời”. Tiếp liền theo đó, Đức Giê-su lại dạy 5 “Đừng”: Đừng giận ghét – Chớ ngoại tình – Đừng ly dị – Đừng thề thốt – Chớ trả thù; và 1 “Nên”: Phải yêu kẻ thù.
Bài Tin Mừng tuần trước (CN VI/TN-A – Mt 5, 17-37) trích Lời Đức Giê-su dạy các môn đệ 4 “Đừng”; đến bài Tin Mừng hôm nay (CN VII/TN-A – Mt 5, 38-48), Người lại dạy thêm 1 “Đừng” nữa: Chớ trả thù. Vì sao con người hay trả thù? Chung quy cũng do tự ái quá cao mà thôi, bởi tự ái là gì nếu không phải là tự yêu mình. Khi chỉ biết yêu mình một cách thái quá thì sẽ cho là mình đúng, lúc nào và trong trường hợp nào cũng đúng hết. Bởi thế nên được người khen thì chẳng nói làm gì, nhưng bị chê thì sửng cồ lên ngay. Bị phê bình trúng tim đen thì bằng mọi giá sẽ tìm cách trả đũa. Nói cách khác, khi con người tự ái quá đáng, sẽ rất dễ giận ghét và từ giận ghét sẽ đưa đến hành động trả thù.
Ngay trong Cựu Ước, Lề Luật cũng dạy: “Luật báo phục tương xứng: Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.” (Đnl 19:21); “Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta: chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy.” (Lv 24, 19-20); “Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xh 21, 23-24). Mới nghe qua những điều khoản đó thì thấy quả thật là Lề Luật quá khe khắt. Và cũng vì thế nên đã có những bài suy niệm cho rằng hành động như vậy là phản Ki-tô giáo. Sẽ có phản biện: Nếu là phản Ki-tô giáo thì tại sao Đức Giê-su không bãi bỏ mà Người lại dạy “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn Lề Luật” (Mt 5, 17)?
Thực ra, vấn đề cũng không đến nỗi nan giải cho lắm. Trước hết, cần phải hiểu Lề Luật của Cựu Ước dù sao cũng chỉ là luật do con người đặt ra, mà đối với con người thì chỉ thích sòng phẳng theo kiểu “ân đền oán trả” (đền ơn trả oán), nên mới đòi “mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân”. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là lề luật có tính răn đe: Chỉ có nghiêm ngặt như vậy mới có thể răn đe, ngăn ngừa người ta phạm tội. Coi lại câu chuyện Nguyên tổ phạm tội thì vấn đề sáng tỏ ngay. Thiên Chúa đưa ra giới luật “trái cấm” cũng là để răn đe. Nếu con người biết vâng phục thì đâu có sao. Đã không vâng lời, còn muốn trở nên “những vị thần biết điều thiện điều ác" (St 3, 5) ngang bằng với Thiên Chúa, nên mới thành cớ sự. Biết là tội mà còn cứ cố tình phạm tôi, rõ ràng Nguyên tổ loài người đã tự xử án mình. tự kết án mình vậy. Đức Giê-su Thiên Chúa cũng đã từng khẳng định: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.” (Ga 12, 47-48).
Không những chỉ khuyên “Chớ trả thù”. Đức Giê-su còn đi xa hơn: “Phải yêu kẻ thù”. Để cụ thể hóa vấn đề, Người lại tiếp tục dùng kiểu nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, để răn dạy môn đệ: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.” (Mt 5, 38-42). Đã không “ăn miếng trả miếng”, mà lại còn lấy đức độ mà đáp trả oán thù (dĩ đức báo oán), sẵn sàng chịu đựng gấp bội sự tàn độc của ác nhân, thì quả là… thiên nan vạn nan, khó lòng mà chấp hành.
Con người chỉ có thể tự yêu mình (tự ái), khó lòng yêu được người khác, chớ đừng nói đến yêu cả kẻ thù. Mà có lẽ cũng chính vì thế nên mới có vụ “cửa rộng, cửa hẹp” ("Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy. Mt 7, 13-14). Như vậy thì phải làm sao? Cái đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản thân, bởi “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó” (Hc 15, 16-17). Nếu không muốn bận tâm bận trí, không muốn hy sinh này, thiệt thòi khác, con người được quyền tự do chọn cho mình cửa rộng – còn rộng thênh thang nữa kia! – còn ngược lại, sẽ được vào cửa hẹp.
Nói cách khác, con người hoàn toàn tự do khi yêu hoặc ghét, Chúa không hề ngăn cấm hay bắt buộc, Người chỉ khuyên bảo, nhắc nhở thôi. Có lẽ cũng nhờ thế mà trong cuộc sống vẫn còn nhiều thật nhiều những con người sẵn sàng quyết tâm chọn cho mình cửa hẹp. Thế thì tại sao lại cứ đưa cái tự ái lố bịch của mình lên quá cao như thế? Vâng, hãy bình tâm lại mà “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi”, để thấy được rằng mình đã “nhận” quá nhiều từ Thiên Chúa, kể cả của anh em đồng loại. Vậy tại sao lại cứ khép chặt cửa lòng, bịt chặt miệng túi, mà không biết đem chia sẻ với anh em những gì mình đã được nhận? Hãy nhớ rằng, nếu bản thân có đem “cho” anh em cái gì thì cái đó cũng chẳng phải là của riêng mình, mà là của Thiên Chúa đã ban cho, vậy đâu có mất mát thiệt thòi gì mà cứ phải ca cẩm? Vâng, Lời Chúa còn rành rành ra đó: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8).
Như vậy là đã rõ, Đức Giê-su không bãi bỏ Lề Luật, “dù một chấm một phết cũng không thay đổi”, mà Người chỉ “kiện toàn”. Nói cho dễ hiểu hơn thì Lề Luật vì do con người soạn thảo nên chưa đầy đủ, chưa nêu bật được cái cốt lõi của vấn đề (giữ Lề Luật để phụng thờ, tôn vinh Thiên Chúa). Vì thế, Người mới dùng cách nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” để các môn đệ hiểu được rằng những điều Lề Luật dạy chỉ là những “lý lẽ”, những “tư tưởng của loài người”, và cần phải nhìn vấn đề theo “tư tưởng của Thiên Chúa”, đó là “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.” (Mt 23, 23). Và cũng vì “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín”, nên sau 5 lời khuyên “Đừng”, thì tiếp liền theo đó, Đức Ki-tô lại khuyên “Nên” (“Phải yêu kẻ thù”). Thay vì “lấy oán báo oán (“dĩ oán báo oán”) thì hãy lấy ơn báo oán (“dĩ đức báo oán”).
Cả 6 điều khuyên bảo “Đừng” và “Nên”, xét cho thấu đáo, đều nằm trong luật yêu thương, mà ở đây là Luật yêu thương của Thiên Chúa (vô hạn) chớ không phải của con người (hữu hạn). Nói về luật yêu thương thì chính là nói về nguyên lý tình yêu, nguyên lý ấy xuất phát từ Thiên-Chúa-Tình-Yêu. Vâng, kể từ khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, muôn loài, thì đã vì tình yêu mà Người dựng nên loài người và đặt làm chủ mặt đất. Con người đầu tiên được sinh ra chỉ có một mình, Thiên Chúa lại thương "Con người ở một mình thì không tốt" (St 2, 18), nên ban cho một người bạn khác giới tính để từ đó có thể sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Sự đối kháng giới tính không nhằm loại trừ nhau mà là bổ túc cho nhau, hỗ trợ nhau nên hoàn thiện. Cũng vì tình yêu, không những Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, có nam có nữ, mà Người lại ban cho con người một đặc ân là được tự do đến gần như tuyệt đối. Cũng vì được tự do như vậy, nên con người đã vượt qua giới răn của Thiên Chúa mà phạm tội. Sau khi phạm tội, con người vẫn không bị trách phạt; chẳng những thế, còn được Thiên Chúa ban Con Một xuống thế để cứu chuộc, để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi và đem lại đời sống vĩnh cửu. Nếu không vì tình yêu, thì Thiên Chúa có đối xử với con người như vậy không?
Nói tóm lai, bản chất con người vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác), “ái nhân như ái thân” (yêu người như yêu mình). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người vì tình yêu. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 15).
Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời.
Ôi! “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi ghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái! Xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình.” (TCCĐ Kinh Hoà Bình). Amen.
37. Yêu thương tha nhân không giới hạn
(Suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Câu Mt 5,17 đưa vào một vấn đề: tương quan giữa Luật Môsê và các Ngôn sứ, tức trọng tâm của niềm tin Cựu Ước, và giáo huấn của Đức Giêsu, trọng tâm của niềm tin Kitô giáo. Vấn đề được minh nhiên cứu xét trong phân đoạn 5,20-48 là bản văn nói về sáu “cặp đối nghĩa”. Phân đoạn này cho thấy tính cách mới mẻ trong giáo huấn của Đức Giêsu so với chính các bản văn Cựu Ước.
Bản văn chúng ta đọc hôm nay đề cập đến hai cặp đối nghĩa cuối cùng: chớ trả thù (5,38-42) và phải yêu kẻ thù (cc. 43-48).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Chớ trả thù (5,38-42);
2) Phải yêu kẻ thù (5,43-48).
3.- Vài điểm chú giải
- mắt đền mắt, răng đền răng (38): Đây là luật hình sự dựa trên nguyên tắc đối trọng: ai đã gây thiệt hại, thì phải sửa chữa thiệt hại đã gây ra. Xem Xh 21,23-25; Lv 24,19-20; Đnl 19,21; Bộ luật Hammourabi (2000 năm tCN).
- đừng chống cự người ác (39): Lời này được ngỏ với kẻ bị xúc phạm để họ biết xử sự đúng tư cách là môn đệ Chúa Kitô, chứ không phải là nhằm hủy bỏ nền luật pháp hiện hành (thánh Phaolô đã vận dụng luật pháp này: x. Cv 25,11). Chính cách xử sự này cho thấy rằng các bộ luật hình sự chỉ có tính cách nhất thời, giới hạn.
- đi một dặm (41): Có lẽ đây là một dịch vụ. Các lính tráng và quan chức có thể bắt người qua đường vác một gánh nặng (trường hợp Simôn Kyrênê) hoặc đi với họ như là con tin hoặc như người dẫn đường.
- Ai muốn vay mượn (42): Bên Paléttina, “cho vay thường tương đương với bố thí (x. Hn 29,1). Người Israel không được cho người đồng chủng vay lấy lãi (Xh 22,24; Lv 25,35-37; Đnl 15,7-11; 23,20-21).
- hãy yêu kẻ thù (44): Động từ agapaô nói đến một tình yêu hy sinh cho người kia. Tình philia (phileô) là một tương quan đặc biệt, một sự trao đổi, một sự đồng thuận hỗ tương dựa trên các phẩm chất tự nhiên, sự để ý đến nhau, sự đồng cảm. Còn eraô (eros) là tình yêu phàm tục.
- nên hoàn thiện (48): Teleios (Hp. tamim) có nghĩa là đã đạt tới đích (telos), tức là tới mức thể hiện tối đa; như thế là không có lỗ hổng, khiếm khuyết, giới hạn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chớ trả thù (38-42)
Luật báo phục (“mắt đền mắt, răng đền răng”) hình thái triệt để nhất và cũng sơ khai nhất của luật hình sự; luật báo phục chính là việc hợp pháp hóa sự công bình riêng tư. Thật ra, vào thời Đức Giêsu, người ta không còn áp dụng luật này cách cứng ngắc nữa, vì đã tạo ra những hình thức khác để nộp phạt (đóng tiền…). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã lấy luật báo phục làm điểm xuất phát để giáo huấn: với năm ví dụ cụ thể (cc. 39b-42), Người mời gọi các thính giả đi xa hơn thái độ cam chịu thụ động: không những không đáp lại sự dữ bằng sự dữ, nhưng còn phải đáp lại sự dữ bàng sự lành, sự thiện. Bằng các ví dụ đó, Đức Giêsu cho các môn đệ hiểu rằng Thiên Chúa Cha chờ đợi họ sẵn sàng cho đi trọn vẹn, cho đến mức tối đa, nếu hoàn cảnh đòi hỏi. Do đó, không phải là cứ áp dụng sát mặt chữ những ví dụ của Đức Giêsu, nhưng là hiểu cho đúng để áp dụng cho đúng. Vấn đề không phải chỉ là đưa má kia cho người ta tát tiếp, nhưng là cống hiến một không gian để kẻ gian ác có thể suy nghĩ về các lầm lạc của họ.
Chịu vả vào cả hai má, nhường cả áo ngoài cho kẻ đòi áo trong, đi hai dặm với một người bắt anh đi một dặm, anh muốn vay mượn, thì hãy cho vay mượn, tất cả đều là những hành vi diễn tả thái độ Kitô hữu, nhưng không đúng ý Chúa Kitô nếu người bị khổ không chịu khổ vì tình yêu đối với những kẻ gây bất công cho mình.
* Phải yêu kẻ thù (43-48)
Với cặp đối nghĩa cuối cùng này, Đức Giêsu cho hiểu rằng sự hoàn thiện của Chúa Cha, đó là tình yêu. Sách Lêvi (19,18) buộc người Híp-ri yêu thương người re’a (HL ho plêsios, người thân cận), là người cùng sống giao ước với Đức Chúa, những thành viên của cộng đồng dân Thiên Chúa; người ngoại quốc (gêr) mà đi vào cộng đồng tôn giáo với người Israel thì cũng được hưởng tình yêu này. Sự thù ghét kẻ thù không được quy định trong Lề Luật, nhất là với một công thức sống sượng như thế. Sự thù ghét này phát sinh như một hậu quả của luật yêu thương người thân cận.
Kẻ thù đầu tiên được kể ra, đó là “những kẻ ngược đãi”. Đây hẳn là những kẻ thù chống lại niềm tin của ta, chống lại lối sống Kitô giáo. Yêu kẻ thù không có nghĩa là trở thành bạn hữu của họ, nhưng là tỏ ra thông cảm, nhân ái, và sẵn sàng trợ giúp. Đức Giêsu đã yêu thương mọi người, nhưng không phải không có những sự ưu ái đối với một số người, và cũng không ngại nói lên lời răn đe và trách mắng các đối thủ. Tình yêu đối với kẻ khác được diễn tả ra bằng hai ví dụ mẫu: cầu nguyện cho kẻ thù và “chào hỏi” mọi người không phân biệt. (x. Lc 23,34; Cv 7,60). Người Kitô hữu phải mở rộng vòng người thân cận ra bên ngoài những gì Luật dạy và những ngươi thu thuế (telônai) và dân ngoại (ethnikoi) vẫn thực hành. Người plêsios không chỉ là “những người công chính”, “những người tốt” (c. 45), “những ai yêu thương anh em” (c. 46), “các anh em” (c. 47), nhưng tất cả mọi người, đặc biệt các “kẻ thù” (cc. 43-44), “những kẻ ngược đãi anh em” (c. 44), “những người xấu” và “những người bất chính” (c. 45).
Đức Giêsu đưa điều răn yêu thương về lại với ý hướng của Đấng Lập pháp đầu tiên. Tình yêu buộc phải cung cấp cho mọi người những gì phải làm: sự tín nhiệm, sự trân trọng, sự trợ giúp. Cũng như trong những cặp đối nghĩa khác, Đức Giêsu không chỉ cho một lời khuyên, nhưng ban một lệnh mới cho các tương quan giữa con người. Người môn đệ chỉ trở thành con của Chúa Cha trong mức độ người ấy mô phỏng lối xử sự của mình theo cách ứng xử của Chúa Cha, nghĩa là yêu thương người khác, kể cả kẻ thù, y như Chúa Cha vẫn yêu thương họ. Khi yêu thương mọi người không phân biệt kỳ thị, người Kitô hữu chứng tỏ cách chắc chắn và trung thực nhất dây quan hệ họ hàng với Thiên Chúa. Câu “anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) làm vọng lại lời mời gọi của sách Đnl (18,13): “Anh (em) phải sống trọn hảo với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)” và của sách Lêvi (19,2): “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh”.
+ Kết luận
Luật Kitô hữu là luật yêu thương. Khi người môn đệ Chúa Kitô chấp nhận những từ bỏ do luật này đòi hỏi, luật yêu thương này chứng tỏ được tất cả trọng lượng của nó. Nếu các nguyên tắc được công bố ở đây đi vào trong xã hội, xã hội này hẳn là sẽ không bị tiêu vong, nhưng sẽ thấy các tương quan giữa con người được đổi mới, bởi vì các bất công và bạo động sẽ bị dập tắt dễ dàng nhờ sống theo luật này hơn là do sợ các biện pháp chế tài hình sự. Thật ra đây chính là lối sống của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã chết vì không nhường bước trước các áp lực của sự thận trọng hoặc của lương tri. Khi làm như thế, Người không đảo lộn trật tự xã hội, nhưng Người củng cố các tương quan giữa con người với con người. Bắt chước Thiên Chúa, và cũng là bắt chước Đức Giêsu, là quy tắc duy nhất của lối cư xử của Kitô hữu, là con đường duy nhất để vượt qua nền luân lý Pharisêu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua giáo huấn của Người, Đức Giêsu giúp chúng ta nhìn vào đời sống Kitô hữu giữa lòng xã hội. Như bất cứ ai, người Kitô hữu cũng có khi là đối tượng của những bất công, của bạo động; họ bị xử thô bạo, hành hạ, đánh đập, bỏ tù, xử bất công. Đức Giêsu đề nghị không phải là một cách thức xử sự mang tính tự vệ hoặc chỉ là bất bạo động, nhưng còn là chấp nhận bị tước đoạt vô điều kiện.
2. Khi chịu xử bất công, người môn đệ Chúa Kitô vác thập giá cho những kẻ đã chuẩn bị thập giá cho mình. Không phải là những hành vi thể lý là đáng kể, nhưng là những động lực khiến người ta chấp nhận, không vì yếu đuối hoặc hèn nhát, nhưng là để khỏi gây thiệt hại cho người anh em hư hỏng, lạc đường.
3. Đức Giêsu không đề nghị một trật tự mới cho các tương quan xã hội, nhưng một nguyên tắc sống khổ chế có khả năng minh họa và giải thích trước thái độ của Người đối với người Pharisêu và các kẻ bách hại Người nói chung.
4. Luật Tình yêu kẻ thù đảo lộn các cách xử sự theo quy ước của loài người. Thường yêu thương là quan tâm đến những ai có cùng kiểu nhìn như mình, trình độ văn hóa như mình, địa vị xã hội như mình. Sứ điệp Tin Mừng vượt quá các giới hạn ấy. Đức ái Kitô giáo không “cào bằng” các con người, nhưng tỏ ra kính trọng họ, thậm chí cả các giới hạn và khiếm khuyết của họ. Lòng nhân ái của Kitô hữu là thông dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa.
5. Từ ngữ “hoàn thiện” in vào trong lối hành xử của Kitô hữu một sức năng động. “Hoàn thiện” là vượt qua mọi thiếu sót, như thế là không bao giờ thực hiện được vĩnh viễn, nhưng cứ tiến tới mãi, và nếu mức độ là sự hoàn thiện của Thiên Chúa, thì ta chẳng bao giờ đạt tới được mức thực hiện hoàn toàn. Nên hoàn thiện như Chúa Cha, trong cụ thể, là bắt chước Đức Kitô trong thái độ quy phục trọn vẹn, anh hùng, thánh ý Thiên Chúa, và trong sự tận tình sống cho anh chị em.
38. Chú giải của Noel Quesson
“Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng….còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”
Tiếp nối bài giảng trên núi, chúng ta đang ở phần đề thứ năm và thứ sáu trong luật mới. Đức Giêsu đã chống lại những gì đã được nói trước kia hay đúng hơn người kiện toàn chúng. Nhưng cách nói này có một uy quyền chưa từng thấy, nhất là khi người ta biết công thức ở thể thụ động (“luật dạy người xưa” = luật được dạy cho…) là một ngữ điêu trong ngôn ngữ Do thái, được dùng vô vị, để tránh việc sử dụng danh của Thiên Chúa mà người ta không bao giờ nói ra vì lòng tôn kính Người. Nói rõ ra công thức này có nghĩa; “Thiên Chúa đã nói..còn Thầy, Thầy cho anh em biết…”. Cũng thế, công thức “anh em đã được nghe, được dạy…” gợi lại việc đọc trang trọng luật trong phụng vụ ở Hội Đường. Đó là luật thánh, bất khả xâm phạm toả ánh vinh quang của núi Xi-nai. Vậy, Đức Giêsu đã dám chống lại lời của Thiên Chúa, sách kinh Tô-ra bằng những khẳng định riêng Người. Không bao giờ có một ngôn sứ nào đã nói như thế. Vai trò của họ chỉ là truyền đạt lại hay chú giải sứ điệp của Thiên Chúa: "Đức Chúa nói như thế..." Để nói như Đức Giêsu, phải là người điên hoặc là Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã dạy anh em... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em..." Người ta biết rằng Người đã bị buộc tội phạm thánh.
Nhưng phần tiếp theo sẽ chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng đó là một sứ điệp thật sự siêu phàm, một sứ điệp của Thiên Chúa!
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Còn Thầy, Thầy bảo anh em đừng chống cự người ác..."
Tầm thước thời đại của chúng ta... khó mà hiểu được "luật phạt ngang bằng" (loi du talion). Làm thế nào mà Luật của Môsê (Luật của Thiên Chúa) đã có thể phát biểu một luật như thế. Vả lại, luật này đã là một tiến bộ to lớn đối với bản năng: trả thù rất tự nhiên nơi con người. Bởi luật phạt ngang bằng ấy, những luật theo tập quán của Phương Đông Cổ đại (ví dụ: bộ luật Ham mourabi) cố gắng giới hạn những sự trả thù thái quá. Hành động tự nhiên của người bị tấn công là "trả đũa nhiều hơn". Như một bài ca man rợ mà La-méc đã hát: "Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mười bảy..." (St 4,24). Vì thế luật ấy đã cố gắng giới hạn bạo lực và khuyến cáo chỉ nên bắt kẻ tấn công chịu sự đối xử giống như người này bắt nạn nhân của hắn phải chịu (Xh 21, 24; Lv 24,20; Đnl 19,21). Hình như chúng ta đã hoàn toàn vượt qua luật này của Kinh Thánh vì nó được viết ra cho một thời- đại khác với thời đại của chúng ta. Than ôi! Nếu như người ta cứ sống mãi theo luật hình phạt ngang bằng! Biết bao thành phố bị ném bom bởi sự “trả thù” thật biết bao cuộc đấu tranh chủng tộc, quốc gia, xã hội trong đó người ta áp dụng điều ngược lại với "luật hình phạt ngang bằng, nghĩa là sự leo thang của bạo lực". Nó áp dụng cho người nào sẽ là người mạnh nhất cho người nào sẽ trả đũa lại những cú đòn đã nhận được! người ta nói một cách ngây thơ về ‘những tương quan lực lượng’ nhưng đó luôn luôn là một bản năng man rợ lâu đời.
Đức Giêsu đã táo bạo mời gọi con người đi đến hoàn thiện của tình yêu Người bảo chúng ta rằng không nên trả thù về mọi việc... không nên đánh trả kẻ hung ác! và vốn là một nhà thuyết giảng cụ thể, đại chúng, Người sẽ cho chúng ta bốn ví dụ:
“Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa...
Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài...
Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dăm...
Ai xin thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt đi..”
Ở đây cũng thế, Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những công thức đạo đức hoàn toàn có sẵn. Điều quan trọng là một "tinh thần" chứ không phải là một "quy tắc". Chính Đức Giêsu, khi đã nhận cái vả của người đầy tớ Thượng Tế, đã không giơ má kia ra! Người đã đáp lại dũng cảm và xứng đáng: "Sao anh lại đánh tôi" (Ga 18,23).
Vả lại người ta không có quyền dựa trên những lời đó của Đức Giêsu để bảo lãnh cho sự bất công, ở đây, chúng ta không có những quy tắc luật pháp có thể áp dụng nguyên xi cho xã hội dân sự: điều này sẽ khuyến khích tình trạng ăn xin, khích lệ bạo lực và tội ác, không bảo đảm sự trừng phạt những kẻ bất lương. Chắc chắn, Đức Giêsu đã không muốn công nhận một tình trạng áp bức bất bình thường khi đòi hỏi những kẻ yếu phải cam chịu. Cũng có những trường hợp mà một môn đệ chân chính của Đức Giêsu phải chiến đấu: cam chịu sự bất công, nhất là sự bất công mà những người khác là nạn nhân, hoàn toàn trái ngược với tinh thần của Đức Giêsu. Sau khi đã nêu ra những khía cạnh đó, hãy để Đức Giêsu tra hỏi chúng ta. Phải, tất cả chúng ta đều phải chiến thắng bản năng trả thù tròng con người của mình. Điều ác sẽ không bị vượt qua khi chúng ta đáp lại nó bằng một sự tàn nhẫn tương đương. Khi người ta trả đũa điều ác bằng điều ác, người ta trở về với vòng tròn hỏa ngục. Thật vậy, điều ác mà chúng ta chịu đựng thật ra vẫn còn ở bên ngoài chúng ta. Nhưng khi người ta đáp trả lại điều ác, điều ác ấy sẽ có thêm một chiến thắng phụ nữa, bởi vì nó đã đi vào lòng chúng ta. Đức Giêsu muốn mở ra một con đường khác cho nhân loại: chiến thắng điều ác bằng điều thiện, dùng tình yêu để đáp lại hận thù.
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: "hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù".
Trong Kinh Thánh, người ta có tìm kiếm một quy tắc như nhưng thế cũng vô ích. Thật vậy, Đức Giêsu muốn ám chỉ thái độ thông thường của toàn thể nhân loại; được diễn tả rất mạnh trong nhiều bài Thánh vịnh về “sự trừng phạt của Chúa”, trong đó lòng thù ghét tội lỗi đi đến chỗ biện minh cho sự thánh chiến: "Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Con ghét chúng, ghét cay, ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con" (Tv 139,19-22). Những thủ bản kinh Thánh ở Qumram có lệnh truyền này: "Ngươi sẽ ghét những đứa con của bóng tối". Vả lại, phải hiểu ở đây trước hết không phải là những kẻ thù của mình mà là những “kẻ thù của Thiên Chúa" tức là những kẻ thù của của nhóm giáo sĩ gồm “con cái của ánh sáng. Vậy sự thù ghét trước hết có ý nghĩa là từ chối ý thức hệ của họ.
"Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính".
Đây là điều mới mẻ cao cả nhất của Tin Mừng. Cho đến bây giờ người ta đã cầu nguyện "chống lại" các kẻ thù của mình (Thánh vịnh 17,13; 28,4; 69,23-29; v.v…) Giờ đây phải cầu nguyện cho họ, nghĩa là để cho họ được hoán cải. Nhưng hãy coi chừng, người ta không thể sống Tin Mừng, bằng cách chỉ ở lại trên bình diện con người. Làm điều mà. Thiên Chúa vừa đòi hỏi chúng ta là đã vượt quá những khả năng của con người. Nếu Đức Giêsu bảo chúng ta yêu mến kẻ thù, chúng ta bởi vì Thiên Chúa là người đầu tiên yêu chúng ta như thế Phải đọc lại đoạn văn nổi tiếng của thánh Phaolô gởi tín hữu Rôm (5,7.8): "Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi”. Khi chúng ta đứng trước một tình yêu thương mà về mặt con người, chúng ta khó sống hoặc không thể sống nổi thì chúng ta không còn ở lại trên bình diện tâm lý, đạo đức và xã hội… mà phải đặt mình trước măt ảnh chuộc tội: Lạy Chúa Giêsu con của Chúa Cha, Chúa đã muốn điều tốt lành cho những người muốn Chúa chịu điều ác... Chúa đã đau khổ và đã chết… Tình yêu chúng kẻ thù chỉ có thể đến từ Thiên Chúa không ngừng thực hiện, ‘Người cho mặt trời của Người mọc lên trên cánh đồng của người vô thần bách hại đạo, cũng như trên khu vườn của các nữ tu Cát Minh’. Bạn có tự hỏi mình phải làm gì để yêu thương người không yêu thương bạn không?
Thiên Chúa đã yêu bạn như thế nào? Bằng cách không ngừng tha thứ cho bạn. Đức Giêsu chỉ dám yêu cầu chúng ta sống tình yêu thương xem ra không thể có đối với kẻ thù bởi vì Người đã sống nó trước tiên: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
“Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?
Người đã nói: chúng ta hãy trở thành muối và ánh của thế gian. Vì thế Người mời gọi chúng ta chấp nhận một cung cách hoàn toàn mới về mặt nhân loại là không thể có cắt đứt với mọi cung cách của những người khác. Để bắt chước Thiên Chúa; noi gương Người, chúng ta phải đi đến tận cùng tình yêu ấy vốn không đơn giản là một tình yêu có qua có lại: Tôi yêu thương bạn bởi vì bạn yêu thương tôi, tôi chào bạn bởi vì bạn chào tôi... Đức Giêsu nói, người ngoại cũng chẳng làm như thế. Phần Thiên Chúa; trước sự khước từ tuyệt đối không đáp lại tình yêu, Người vẫn duy trì quyết định tuyệt đối là yêu thương. Theo Đức Giêsu yêu không thể chỉ được giản lược vào bình diện tình cảm, sự lôi cuốn, cảm tính, quyến luyến. Đức Giêsu không chê trách tình yêu đó, mà chúng ta rất cần. Ai có thể sống mà không có sự dịu dàng âu yếm đó? Có điều, Đức Giêsu bảo chúng ta rằng không nên ở lại mãi trong tình yêu đó.
Phải Đức Giêsu bảo chúng ta phải yêu thương kẻ thù của mình. Và chúng ta có sẵn nghệ thuật xoa dịu yêu sách của Tin Mừng, chúng ta nói: ‘Tôi không có kẻ thù...’ Lúc đó, chúng ta phải chấp nhận ánh sáng sống sượng và mạnh mẽ mà Đức Giêsu soi chiếu trên cuộc đời con người đã mang dấu ấn của những xung đột không thể tránh khỏi: Thật ra mọi người không giống tôi đều xúc phạm và làm tôi tổn thương. "Cái làm cho người khác khác tôi", cáo giác tôi và nhắm đến việc loại bỏ tôi... ‘Tính tình ấy rất khác tính tình của tôi’ làm tôi bực dọc giết chết tôi. ‘Cái cách nói năng đó... cái cách cư xử đó...’ làm tôi phát cáu. Bạn đừng chờ đến ngày mai. Ngay trong giây phút này bạn. hãy ngừng ngay suy nghĩ của bạn.... và hãy làm điều Đức Giêsu bảo bạn: Hãy cầu nguyện, dù chỉ trên danh nghĩa cho những người làm bạn bực bội, những người làm bạn đau khổ, những người mà bạn không yêu hoặc những người không yêu bạn.
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Yêu thương những người không yêu chúng ta... đó là noi gương Thiên Chúa. Hãy làm điều thiện hảo cho những ai làm hại chúng ta, đó là điều linh thánh. "Kitô hữu là gì? Đó không phải là đã đạt đến mục đích cao cả nhất tức tình yêu phổ quát, mà là cố gắng vươn lên tình yêu ấy. Đây không phải là một thứ đạo đức hiền từ nhu nhược dành cho những người có tình cảm bất lực. Chúng ta là những con cái của một Chúa Cha được "ôm ấp tròng lòng của Người" dù là kẻ xấu cũng như người tốt. Trên thập giá Đức Giêsu có quyền nói với chúng ta những yêu sách ấy. Người là Đấng bị người ta vả vào má... bị người ta lột áo trong, áo ngoài... bị người ta đem ra xét xử trong một vụ kiện bất công... bị người ta đem ra xét xử trong một vụ kiện bất công... bị người ta lôi đi hai dặm trên con đường lên núi Can-va-ri-ô. Người là "Đấng bị đóng đinh mà không có lòng thù hận".
39. Chú giải của Fiches Dominicales
“ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN NHƯ CHA ANH EM TRÊN TRỜI LÀ ĐẤNG HOÀN THIỆN”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Những áp dụng cụ thể của luật mới…
Khi tuyên bố rằng Ngài "đến không phải để hủy bỏ Lề luật và các Tiên Tri, nhưng là để kiện toàn”. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu mạc khải "sự công chính" mới của Nước Trời hệ tại điều gì: đó không phải là giữ Luật cách hình thức, nhưng là "tự điều chỉnh" theo ý Chúa Cha như Ngài, là sống thông hiệp trong tình yêu và tự do của Người Con như Ngài. Rồi nhờ vào 5 minh họa, Ngài cụ thể hóa "sự công chính” mới này, và cho biết rằng để thực hiện toàn bộ Lề luật người tín hữu phải đầu tư toàn bộ cuộc sống của mình. Cả năm minh họa đều bắt đầu bằng một dạng thức duy nhắt biểu lộ một quyền lực phi thường: ‘Anh em đã nghe người xưa được dạy rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết’. Ba minh họa đầu tiên trong Phúc âm chúa nhật vừa qua, hai minh họa cuối cùng trong Phúc âm hôm nay.
Minh họa thứ tư nhân nhượng mối tương quan và Để tránh những sự trá thù thái quá ngoài tầm kiểm soát luật báo thù (loi du talion) dự kiến kẻ gây hấn sẽ bị đối xử tương xứng với điều thiệt hại đã gây ra cho nạn nhân "Mắt đền mắt" - nhưng không phải là đền hai mắt, "răng đền răng" nhưng không phải là cả hàm (xem Lêvi) Luật này đã là một tiến bộ thực sự trong việc trấn áp tội phạm.
Phần Đức Giêsu, ngài chủ trương một thái độ rất cá biệt, tương phản hoàn toàn với thái độ bình thường: “Đừng chống cự với người ác". Ngài đòi hỏi các môn đệ phải bẽ gãy vòng xích bạo lực, dù hợp pháp, và được báo thù.
Ba ví dụ sau đều ở ngôi hai số ít:
+ Ví dụ thứ nhắt về "cái tát": "Nếu ai vả má bên phải con, hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” Dĩ nhiên không thể hiểu lệnh mâu thuẫn này theo nghĩa đen. Chính Đức Giêsu cũng đã không giơ má khác cho tên đầy tớ tát tai. Ngài hỏi hắn: "Nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào. Còn nếu tôi nói đúng, sao anh lại tát tôi?" (Gioan 18,23). Như vậy, đứng trước kẻ gây hấn, người theo Chúa để có một hành vi vừa thách thức vừa làm cho kẻ địch hết chống trả.
+ ví dụ thứ hai về người môn đệ bị người khác có ý định đưa ra tòa và người đó muốn lấy áo trong (tưnique) người môn đệ làm vật thế chấp, nghĩa là áo lót. Đức Giêsu chủ trương: "Hãy để cho nó lấy cả áo ngoài nữa". Trong khi đó, theo Luật, áo ngoài và áo trong là của không thể sang nhượng được của người nghèo; chiếm hữu chúng là xâm phạm đến chính Thiên Chúa (coi Xh 22, 25-26). Khi để bị trần trụi đến cho đi cả áo theo gương Thầy mình, các Kitô hữu biết rằng sự khó nghèo như vậy, họ là những kẻ chiến thắng, bởi vì họ sẽ được lòng thương xót của Thiên Chúa bao bọc.
+ Ví dụ sau cùng là ví dụ về sự "trưng tập", thường được quân đội và các viên chức chánh quyền Rôma dùng để làm việc công ích (một hình thức lao dịch thời đó). Đức Giêsu còn nói thêm. "nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm". Ngoài bài giảng trên núi, thánh sử Mátthêu chỉ dùng động từ "trưng tập" một lần khác khi quân lính trưng tập Sinon thành Xyrênê, một dân ngoại, lúc đó tượng trưng cho tất cả các thế hệ môn đệ chấp nhận thập giá Đức Kitô.
+ Minh họa thứ năm và cuối cùng nói đến yêu thương kẻ thù. Sách Lêvi viết: "Ngươi sẽ yêu tha nhân như chính mình" (19,18). Như vậy điều này mời gọi con cái Israel sống với nhau bằng tình yêu huynh đệ loại bỏ mọi hận thù oán ghét. Nhưng các Thầy rabbi thuộc những nhóm khác nhau tranh luận mãi về quan niệm tha nhân và nhiều người đã cho nó một nghĩa hạn hẹp: tha nhân là người mà ta có quan hệ tốt đẹp; phân biệt với kẻ thù. Từ đó mà có câu Phúc âm: ‘Anh sẽ ghét kẻ thù’ tuy câu này không có trong Luật, nhưng biểu lộ khá đúng ý nghĩ của rất nhiều người. Ngược lại với tình yêu có tính cách chọn lựa đối tượng này, Đức Giêsu nói đến một tình yêu phổ quát vượt mọi biên giới, đến cả kẻ thù và người bách hại, theo Ngài, đòi hỏi này đặt nền tảng trên cách đối xử của chính Thiên Chúa với mọi người, "Kẻ xấu cũng như kẻ tốt", người công chính cũng như kẻ bất chính".
2. Hệ tại theo gương Chúa Cha:
Câu 48 kết luận toàn thể phần này: “Vậy anh em hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng thiện”.
Như vậy, theo gương Cha và Con của ngài Đức Giêsu, đó là nền tảng và mục đích của Luật mới này. Là người môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt chúng ta được mời gọi sống như Con, với Ngài và trong Ngài. Cái mới triệt để của Bài giảng trên núi chính là vậy, chứ không phải trong một giới răn đặc biệt nào.
Cl. Tassin chú giải: "Tính từ “hoàn thiện” tóm tắt ý tưởng về sự công chính hơn (các ký lục và biệt phái) ở câu 20, và sự hoàn thiện này chính là noi theo hành động của Thiên Chúa. Đạo Do Thái đã hiểu "những công việc bác ái xót thương" như những hành vi mà chính Thiên Chúa đã làm gương. Và Hội đường đã chú giải sách Lêvi 22, 28 bằng ngạn ngữ sau: “Như Ta thương xót trên trời thế nào, dưới đất các con cũng hãy thương xót như vậy" Điều này được Luca trình bày bằng những từ như sau: "Hãy xót thương như Cha các con là Đấng xót thương" (6,36). nếu Mátthêu thích tĩnh từ "hoàn thiện" hơn, là vì theo Ngài, lòng thương xót đạt tới mức yêu thương kẻ thù chính là hoàn thiện được Thiên Chúa trông đợi nơi những người của Ngài. Những ai muốn rập theo khuôn mẫu Chúa thì cậy vào Đức Giêsu. Con chí thiết của Thiên Chúa, ngài trao cho các chìa khóa bí mật này". ("Phúc âm Matthêu”, Centurion, 1991, tr. 69-70).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. “Bẻ gãy vòng vây bạo lực”: (Đức cha L. Daloz, trong "Nước Trời đến gần", Desche de Brouwer, tr. 58-60).
Đức Giêsu lấy lại qui định của Luật: anh em đã nghe dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng... đối với chúng ta điều đó dường như biểu lộ một sự trả thù nghiệt ngã, nhưng trong thực tế, nó lại điều hòa bạo lực và giới hạn ham muốn. Trong một xã hội mà mỗi người thường là quan tòa cho chính mình, đó là một loại luật "tương xứng" trong sự đền trả lại sự xúc phạm, người ta có thể trả thù tới mức độ, không được vượt quá. Trong các quốc gia của chúng ta ngày nay, mỗi người không thể làm quan toà cho chính mình. Chúng ta đã có nhũng cơ quan cảnh sát và tư pháp là những cơ quan duy nhất có quyền bất và trừng phạt những kẻ phạm tội ác. Các hình phạt được xác định rõ bởi một bộ luật. Trong bộ luật này, người ta tìm thấy lại nguyên tắc tương xứng. Như vậy phạm nhân thoát khỏi ham muốn trả thù cá nhâ, người ta lưu ý đến hoàn cảnh, không chỉ tìm cách trấn áp và trừng phạt, mà còn nhằm tìm cách chữa trị và nâng đỡ. Dĩ nhiên, chúng ta ai cũng biết rằng hệ thống tư pháp có những điểm yếu, những trì tre, những sai lầm hay những "vết chàm". Nhưng dẫu sao nó vẫn là một đảm bảo về sự tiến bộ của nhân loại, chứ trong khung cảnh xã hội và pháp lý này mà hôm nay chúng ta đón nhận Lời Đức Giêsu. Và ngay cả ở trong khung cảnh này, Ngài vẫn kiện toàn Luật bằng cách làm cho nó đi sâu vào tâm hồn con người. Có khi ý muốn trả thù không còn biểu lộ qua hành động nữa nhưng vẫn còn bị khích động và khơi gợi lên trong công luận qua các hành vi bạo lực và các vụ kiện. Không dễ gì chống lại được tình cảm tập thể, nhất là khi nó được chia sẻ bởi một đám đông những khán giả trong một thế giới mà tất cả mọi sự đều bị các phương tiện thông tin đại chúng truyền đi. Đàng khác chúng ta dễ ham muốn kêu gọi trả thù và trừng phạt khi chính chúng ta không phải chịu trách nhiệm. Trong xứ sở chúng ta, ngành tư pháp có sứ mạng xã hội vừa bảo vệ, giáo dục vừa làm gương; nhưng cũng vừa sửa đổi, chữa trị vừa giúp tái hội nhập. Lời Đức Giêsu dạy đừng chống cự người ác không cản trở cũng không gò bó sứ mạng này Nhưng còn có một cái gì khác hơn là những biện pháp cần thiết để bảo đảm an an ninh xã hội, một cái gì khác hơn là sự hận thù, ghen ghét, báo án. Đức Giêsu kêu gọi đến cái tốt nhất nơi con người, đôi khi đến cả sự anh dũng để có được một con út thứ tha; chúng tôi có thể làm chứng các Kitô hữu sự tha thứ này cách công khai! Đức Giêsu không cấm chúng ta đòi hỏi những quyền lợi chính đáng. Khi bị viên vệ binh tát tai, chính Ngài đã đòi anh ta giải thích lý do tại sao anh ta hành động như vậy: nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào; nếu tôi nói đúng, thì sao lại tát tôi”. (Ga 18, 23). Nhưng nơi vườn Cây dầu Ngài cho phép Phêrô rút kiếm bảo vệ mình và cũng vì Chúa Cha sai các đạo binh thiên thần đến che chở Ngài để mình bị trấn lột, tát tai, đánh đập và đội triều thiên bằng mũ gai. Ngài không hài lòng với lời kêu gọi đừng lấy oán báo oán, lấy lành thắng dữ, lấy tình yêu thắng hận thù. Ngài còn tỏ ra chính mình là con đường thực hiện lời tiên tri về người đầy tớ đau khổ đã không quay lưng, quay mặt tránh những kẻ ra sức làm khổ mình. Ở bất cứ nơi đâu chúng ta sinh sống và theo cách thế của mình, Ngài kêu mời chúng ta đừng đi vào chu kỳ bạo lực, nhưng hãy có đủ sức mạnh tinh thần để đặt một Lôgíc mới trong mối tương quan giữa con người với nhau.
2. “Thứ tha như Thiên Chúa tha thứ cho ta”
“Nếu thực sự thứ tha của Thiên Chúa làm tôi hiện hữu, nếu Ngài ban cho tôi tình yêu Thiên Chúa và khả năng yêu mến, làm sao tôi lại không thể hoán chuyển tình yêu thành thứ tha theo chừng mực, mà tôi có thể làm được đối với những ai đã phản bội, chối bỏ và làm tổn thương tôi? Hoặc tôi không là Kitô hữu và rơi vào lối sống theo câu ngạn ngữ cổ: “mắt đền mắt, răng đền răng”, hoặc tôi muốn sống như là một Kitô hữu, thì lập tức tôi phải nhớ điều loan báo cốt yếu nhất của đức tin: tất cả anh em, đều là những tội nhân đã được thứ tha, tất cả anh em đều là nhũng đứa con của lòng thương xót. Nếu anh em muốn là những Kitô thực sự sống đạo, điều thực hiện đầu tiên, cơ bản nhất, chính là thực hành điều Thiên Chúa đã sống đối với anh em, điều mà Đúc Giêsu đã làm vào lúc Ngài sắp qua đời. Đó là thứ tha. Đó là cách thế duy nhất em làm chứng cho mọi người sự tha thứ ta đã lãnh nhận và nó được trao ban cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên sự tha thứ như vậy không thể là sự quá ngây thơ, càng không thể là sự cổ võ cho sự dữ. Để thực sự là tha thứ, nó chỉ có thể phát xuất từ một lương tâm không có ảo tưởng nào về những ác tâm, ô nhục, tội ác của thế gian nào và của lịch sử con người. Tuy nhiên, vượt lên trên không bất hạnh mà người Kitô hữu dấn thân đấu tranh nhân danh công lý, họ còn làm chứng về niềm hy vọng Thiên Chúa đặt sẵn nơi mỗi người, dù là những kẻ phạm tội, nhơ nhớp nhất Như vậy, Thiên Chúa mong muốn tất cả hoán đổi ác tâm và hận thù thành tình yêu. Điều này thật đúng, vì chúng ta chỉ là Kitô hữu do niềm tin và hy vọng như vậy, và chúng ta đang cố gắng hết sức mình sống niềm tin là hy vọng đó nhờ ơn Chúa”
3. “Yêu thương mọi người vì Thiên Chúa yêu thương họ” (Martin-Luther King, trong “Chỉ có một cuộc cách mạng”. Casterman, 1968, tr. 108-109)
Trong Tân ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu hơn Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ, chính là ý nghĩa Lời Đức Giêsu Anh em hãy yêu thương kẻ thù. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói: “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi, thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đúc Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”.
40. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
YÊU THA NHÂN VÔ BỜ BẾN
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Các yêu sách của Chúa Giê-su có thể thực hiện được không?
a. Chúng là những chỉ thị, chỉ dẫn hay điều luật?
b. Chúa Giêsu ngỏ lời với ai? Với một nhóm ưu tú? Với tất cả môn đồ? Thánh Bonaventura phân biệt hai hạng người: hạng của điều luật, hạng của lời khuyên, và cho rằng ở đây Chúa Giêsu nhắm đến hạng thứ hai. Phải nghĩ sao về ý kiến này? Các "lời khuyên" thuộc phần nào trong Tin Mừng?
c. Vài tác giả khác cho rằng nghiêm chỉnh mà nói thì các lời Chúa Giêsu không thể nào thực hiện được. Từ đó họ bảo có hai nền luân lý, một có tính cách hão huyền, do Chúa Giêsu tưởng tượng ra, nhằm thúc đẩy ta ăn năn hoán cải và nhận biết mình là tội nhận; một có tính cách thực tế, tầm thường, công dụng.
Hãy rút ra phần sự thật trong lối giải thích thứ nhất (cánh chung học): Các yêu sách của Chúa Kitô tự chúng có thể thực hiện được không? Ai làm cho chúng có thể thực hiện được? Nếu không thì Diễn từ chẳng trở nên một khảo luận luân lý sao?
2. Tầm mức và giới hạn của Diễn từ trên núi:
a. Phải chăng đó là một chương trình sống xã hội (Tolstoi)? Một chương trình đào tạo Kitô hữu?
b. Phải chăng đó là toàn bộ hiến chương Kitô giáo? Thiếu điều gì chủ yếu trong Diễn từ này không, hoặc trong các yêu sách, hoặc trong lời mặc khải mầu nhiệm Nước Trời?
c. Hãy tìm tương quan giữa luật Chúa Kitô với luật tự nhiên: mối tương quan giữa luật Môisen và luật Chúa Giêsu phải chăng không tương tự với tương quan bản tính-ân sủng và với tương quan thế trần Kitô giáo?
3. Tìm ý nghĩa của câu: "Hãy nên trọn lành như..." (5,48; x. Lv 19, 2; Lc 6, 36). Câu đó phải chăng không nói lên một mệnh lệnh bất khả thực hiện? Giữa sự "trọn lành" và "đức công chính dư dật" (5, 20) có tương quan gì?
***
1. Người ta đã dày công tìm hiểu giáo huấn luân lý Do thái để xem các lời khiển trách của Chúa Giêsu, ví dụ về luật báo thù, có đúng hay không, và để xem tính cách mới mẻ của các yêu sách "mới" của Người hệ tại ở chỗ nào. Kết quả của những cuộc nghiên cứu này không bất lợi mấy cho Do thái giáo. Đối chiếu với mọi giới luật luân lý được Chúa Giêsu phát biểu một cách như khiêu khích, ta có thể trích dẫn nhiều câu tuyên bố của các giáo sĩ cũng nói ít nhiều một chuyện như thế, cũng đạt tới một tầm mức luân lý cao như thế, trên một vài điểm hoặc ít ra cũng rất tương hợp trên nhiều điểm khác. Phải thành thật mà công nhận điều đó. Tuy nhiên việc so sánh ấy làm lệch lạc quan điểm. Vì một trong những đặc điểm của truyền thống trường phái Do thái là thu gộp lại các câu nói khác nhau của các giáo sĩ, đến nỗi có nhiều ý kiến có giá trị luân lý cao đã được đặt bên cạnh các ý kiến khác từng bị Chúa Giêsu tấn công. Thành thử ta phải công nhận Tân ước như là nguồn mạch của mọi quan niệm thông thường ảnh hưởng trên tâm thức nhân gian thời bấy giờ. Sau cùng và đặc biệt, điều quan trọng đối với Chúa Giêsu, đó là một sứ điệp tôn giáo và luân lý tổng hợp, mà tìm cách mới mẻ đã được tỏ bày cùng với giờ của lịch sử cứu rỗi.
2. Trong tất cả các phản đề Chúa Giêsu nêu lên, hiện ra một yêu sách duy nhất, dứt khoát. Điều thiện cần làtn thì phải làm cho trọn vẹn. Ai chỉ làm một phần, với sự hạn chế, cốt cho xong mệnh lệnh bên ngoài, là không làm gì cả. Và để người ta hoàn toàn chú ý tới yêu sách đó, cái yêu sách ăn sâu đến tận tâm hồn, Chúa Giêsu dùng một thể văn đặc biệt: thể văn phóng đại. Câu tuyên bố về việc làm gương xấu và về yêu sách chặt bớt các phần thân thể là một trường hợp rõ ràng. Và ta cũng phải hiểu theo một nghĩa tương tự phán quyết của Chúa Giêsu về sự giận hờn và nhục mạ. Tuy nhiên, đừng lạm dụng hình thức giảng dạy bình dân thông dụng ở phương Đông này, để làm yếu đi các đòi hỏi khách quan mà nó chứa đựng. Vì quả thực Chúa Giêsu buộc phải triệt để xa lánh ngay cả dịp tội, chấp hành tốt tình huynh đệ không chỉ bên ngoài mà còn từ ý tưởng con tim, và từ chối mọi quyền trả thù chính đáng (5, 38- 42).
3. Nố sau cùng này đặc biệt gây ra nhiều vấn đề khó giải quyết. Phải chăng như thế là Chúa Giêsu đã không phá bỏ trật tự pháp lý bên ngoài cần thiết cho đời sống xã hội? Trật tự đó há chẳng bắt nguồn từ Thiên Chúa sao? Và đặc biệt riêng về đoạn văn này, phải chăng nó không tạo nén một nền tảng Kinh Thánh vững chắc cho các luồng tư tưởng chủ hòa hiện thời, những luồng tư tưởng nghiêm cấm mọi hình thức tham chiến. Rồi người bị thiệt thòi cách bất công có thể nại đến toà án không.. Đó là những câu hỏi hóc búa khó trả lời trong vài dòng chữ. Chúng ta hãy tạm đưa ra một vài nhận xét tổng quát ít nhất như những cái mốc đầu tiên của một câu trả lời.
Tất cả các quy định của luật Cựu ước mà Chúa Giêsu trích dẫn, dù chưa thực sự hoàn hảo, cũng đã nói lên một tiến bộ luân lý không thể chối cãi so với luật rừng hay tình trạng man rợ vẫn có khuynh hướng ưu thắng trong đời sống xã hội thời bấy giờ. Tất cả các quy định đó đều nhằm mục đích làm cho đời sống xã hội trở nên công bình và huynh đệ hơn. Thế mà, sở dĩ Chúa Giêsu đến kiện toàn Lề luật Môisen, chính là để kiến lập thêm công bình và huynh đệ giữa con người. Dĩ nhiên, việc kiện toàn luật Môisen chỉ có thể được thực hiện trong chiều hướng triệt để hóa các yêu sách tuyệt hảo nhất của nó. Thành ra mọi lời giải thích học thuyết luân lý của Chúa Giêsu trong Diễn từ trên núi đều phải lưu ý đến bối cảnh tổng quát đó: lối giải thích nào khuyến khích các lạm dụng và có khuynh hướng biến xã hội thành một đàn cừu phó mặc cho lũ sói cắn xé, thì không phù hợp với bồi cảnh này. Vì thế, thái độ bất kháng cự tuyệt đối trước mọi hình thức bạo lực đang hoành hành trong thế giới ngày nay, chỉ tổ khuyến khích việc bóc lột kẻ cô thân yếu đuối, tước đoạt các nhân quyền và làm phương hại phẩm giá con người cách trầm trọng.
Thứ đến, có thể tự hỏi phải chăng Chúa Giêsu chỉ muốn đứng trên bình diện pháp định hoàn toàn. Có nhiều bằng chứng cho thấy phải hiểu ngược lại. Thực vậy, các bản văn pháp luật thường mang tính cách điều độ, dùng từ ngữ chính xác, không có những hình ảnh thái quá hay kiểu nói khoa trương, đầy dấy nhiều điều khoản tiên liệu các luật trừ v.v... Thế mà văn thể Chúa Giêsu dùng trong Diễn từ lại hoàn toàn khác biệt. Người ưa sử dụng kiểu nói đại ngôn. Hãy lấy một trường hợp điển hình: lời khuyên bảo chìa cả hai má cho kẻ vả mặt (5, 39). Hiển nhiên đây không phải là một nguyên tắc về phản lệ chính thức, song chỉ là một ví dụ cố ý phóng đại ra; cũng vậy khi nói phải móc mắt hay chặt bàn tay. Vì trong thực tế, hành động như thế chẳng có hiệu quả gì. Cũng như con mắt bị móc hay bàn tay chặt lìa không thể bảo vệ người tín hữu khỏi bị một gương xấu khác, thì cũng vậy, cái vả má thứ hai chẳng cản ngăn được cái tát thứ ba, hay làm cho người hung ác trở nên thiện cảm. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu sẽ đưa ra một lối giải thích hay nhất về câu nói của Người: đó là khi bị tên đầy tớ vả mặt, Người đã chẳng đưa má kia, song nghiêm nghị hỏi nó: "Nếu Ta đã nói không phải, thì hãy làm chứng không phải chỗ nào: còn nếu là phải, sao lại đánh Ta?" (Ga 18, 23). Hãy phân biệt rõ: một đàng là mệnh lệnh, có giá trị đối với mọi người và cho mọi hoàn cảnh, đàng kia là một ví dụ cố ý phóng đại mà chẳng xét đến các điều kiện cụ thể hằng biến đổi luôn. Chúa Giêsu công bố một lý tưởng, chứ không ban hành một đạo luật.
Lại nữa, giả thiết rằng Giáo Hội và xã hội phải tuân theo một quá trình tiến hóa có tính cách năng động, và quá trình này, ít ra trong các nguyên tắc, nhằm tinh luyện ý thức luân lý dưới tác động của Chúa Thánh Thần (như đã xảy ra trong suốt lịch sử Israel), thì có thể Chúa Giêsu đã biết đến một quá trình như vậy và muốn trình bày, trong Diễn từ trên núi, các nguyên tắc năng động sẽ hướng quá trình đó tiến về việc thực hiện ngày càng hoàn hảo một xã hội công bằng và huynh đệ. Trong viễn ảnh ấy, các lời khuyên bảo có tính cách tuyệt đối của Người có lẽ không nhằm đưa ra các mệnh lệnh cụ thể phải thực hiện tức khắc, nhưng đưa ra một đường hướng phải theo để dần dà, với thời gian, sự thiện lướt thắng sự ác.
Hiển nhiên, mọi suy luận trên đây chẳng làm mất đi tính cách khẩn trương của một nỗ lực vô điều kiện nhằm thực hiện các yêu sách luân lý của Chúa Giêsu. Vì Người cũng muốn đưa ra, không phải một bộ luật mới, song là những đường hướng mới và đòi buộc một thái độ cụ thể. Điều đó hiện ra rõ ràng qua cung giọng sai khiến của các phản đề, và được xác định bởi dụ ngôn cuối cùng về việc xây nhà, trong ấy Chúa Giêsu đối chiếu người khôn biết nghe lời Người và đem ra thực hành, với kẻ dại chỉ nghe qua mà thôi. Tuy nhiên, trong cụ thể, việc đem ra thực hành đó cũng bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh. Điều cốt yếu là biết cảm hứng theo lý tường mình nhận ra trong Diễn từ này và chân thành phấn đấu đưa lý tưởng đó vào trong một thế giới mà, mặc dầu bị nhiều thất bại thê thảm, cũng biết cách mù mờ rằng nó phải chọn hoặc luân lý Tin Mừng, hoặc là bị hủy diệt tiêu tan.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Mắt thế mắt, răng đền răng": Nguyên tắc báo thù theo đó phạm nhân phải bị bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên, vẫn được áp dụng chung chung và từ lâu, trong thế giới văn minh. Nguyên tắc đã xuất hiện trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Ở đây nó quy chiếu về Xh 21, 24 (x. Đnl 19, 21; Lv 24, 20). Trong bối cảnh Cựu ước, nó nhấn mạnh đến tính cách nghiêm khắc cần thiết của hình phạt, song cũng đánh dấu một bước tiến quan trọng so với chế độ báo thù cá nhân hỗn loạn (xem bài ca man rợ của Lamek trong St 4, 24 chẳng hạn).
"Đừng cự lại người ác": Huấn thị này không nói với các quan tòa là những kẻ phải tìm cho ra phương cách mới để áp dụng luật lệ trường hợp các truyền thống giáo sĩ Do thái), nhưng trái lại ngỏ lời với người bị tổn thương để bảo họ biết phải xử trí ra sao cho hợp với tư cách môn đồ Chúa Kitô. Chúa Giêsu và các Kitô hữu đầu tiên không muốn hủy bỏ pháp chế hiện hành thời đó (như thánh Phaolô, với tư cách công dân Rôma, đã kháng cáo lên Hoàng đế để xin minh oan: Cv 25,11); song các ngài đã đưa vào xã hội một thái độ nhân bản mới làm phát hiện tính cách sơ thiển, hạn chế trong thời gian của các bộ hình luật chính thức hiện hành; các bộ luật này không bị hủy bỏ nhưng đã trở nên lỗi thời vì thái độ cụ thể của các Kitô hữu, là thái độ dù cảm hứng theo một lý tưởng, vẫn để ý tới các hoàn cảnh con người, không gian và thời gian.
“Đi một dặm": Chắc hẳn ví dụ này ám chỉ đến một khổ dịch; binh sĩ và viên chức này xưa có thể buộc một bộ hành nào đó vác một gánh nặng (x. trường hợp ông Simon thành Xyrênê vác thập giá) hoặc đi theo họ để làm con tin hay người dẫn đường.
"Ai xin... ai muốn vay": Lời khuyên gồm hai xác ngôn song song- hầu như đồng nghĩa: việc cho vay mượn thường tương đương với việc bố thí. "Cho đồng loại vay là làm việc từ thiện", Hc 29, 1 khẳng định thế. Giữa người Do thái với nhau, cho vay không được ăn lời (Xh 22, 24; Lv 25, 35- 37; Đnl 15, 7- 11; 23, 20-21 tất cả các bản văn này đều quy chiếu về các "anh em” Do thái) và đến hưu niên (année sabbatique) thì mọi nợ nần và vay mượn đều được tha ít nhất trên lý thuyết (Đnl 15). Làm thế là vì Israel muốn mãi mãi là một dân tộc sống tình anh em. Ở đây hình như Chúa Giêsu muốn nới rộng luật ấy theo nghĩa là người yêu cầu hãy cho vay bất cứ ai xin vay, mà đừng để ý đến chủng tộc hay tôn giáo của họ. Gia đình Israel phải mở rộng cửa nhà mình cho tất cả mọi người.
“Hãy ghét địch thù": Trong lúc mấy phản đề trên kia quy chiếu về các khoản luật đích xác của Cựu ước thì ớ đây lại khác hẳn. Quả vậy, ta chẳng tìm đâu ra trong Cựu ước mệnh lệnh minh nhiên phải ghét địch thù. Có lẽ lời huấn thị chỉ muốn chống lại tư tưởng khá phổ biến trong Do thái giáo suy đồi là: tất cả những ai không thuộc thành phần cộng đoàn quốc gia và tôn giáo đều là thù địch. Đặc biệt trong các bản văn Qumrân, ta thấy tỏa ra lòng khinh miệt ghê gớm đối với "con cái tối tăm"; các Thánh vịnh của Salomon cũng cho nhiều ví dụ tương tự. Thành thử có lẽ trong bối cảnh này, thù địch không phải là đối phương cá nhân bên trong cộng đoàn tôn giáo, cũng chẳng phải là thù địch của quốc gia theo nghĩa chính trị hay quân sự, nhưng là kẻ bách hại đức tin, kẻ thù của cộng đoàn thiên sai do các Kitô hữu đầu tiên thành lập. Trước đó, trong bản 70, chữ echthros đã thường chỉ các thù địch của dân Thiên Chúa (Tv 31, 7; 139, 21 v.v...); lời ám chỉ đến các người bắt bớ trong câu tiếp theo củng cố giả thiết vừa nói; sau cùng các thánh thư cũng cho thấy chữ này thường được dùng theo nghĩa ở thế kỷ thứ nhất (2 Tx 3, 15; Rm 5, 10; Cl 1, 21; Gc 4, 4). Tình yêu nói đây không phải chỉ là chẳng giận hờn, chẳng báo oán nhưng, như trong Cựu ước và Tân ước, luôn luôn là hành động cụ thể, là hiệp thông sống động biểu lộ qua các cừ chỉ rõ ràng (Vd. Lời chào hỏi nơi c.47). Cầu nguyện cho các người bắt bớ không phải là biểu thức duy nhất của tình yêu đó, song chỉ là một trong các cách biểu lộ tình yêu; chữ khi (và) chẳng có nghĩa giải thích nhưng có nghĩa: và đặc biệt. trong khi làm các cử chỉ yêu thương này, có thể ta vẫn mang tâm trạng oán hận hay ác cảm tự nhiên đối với kẻ thù hiện gây cho ta đau khổ. Trong một trường hợp như vậy, dù cố gắng thế nào, cũng khó mà chế ngự các phản ứng nhạy cảm được. Nhưng Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tâm lý, và chẳng muốn phân biệt giữa điều cảm thấy và điều ưng thuận như các nhà luân lý học thường làm một cách chính đáng. Người đứng trên bình diện hành lang cụ thể (vd: cầu nguyện, c.44; chào hỏi, c.47), nơi phê phán sau cùng sự chọn lựa sâu xa của con người vượt trên mọi xao động của cảm giác.
"Hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành": Hình như lời tuyên bố này không chỉ kết thúc đoạn văn về lòng yêu thương thù địch, mà còn kết thúc cả đoạn gồm cc. 17-48 về việc chu tất Lề luật theo quan niệm của Chúa Giêsu. "Câu nói" (logion) rõ ràng cảm hứng từ Lv 19, 2: “Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh" và từ Đnl 18, 3: "Ngươi hãy nên trọn. lành trước mặt Chúa là Thiên Chúa của ngươi". Có nhiều cách giải thích nó. Nhưng hình như phải loại bỏ ý tưởng về một sự tương đồng kiểu hữu thể học (xa lạ với tư tưởng Hy bá) hay kiểu luân lý học theo nghĩa tuyệt đối không thể phạm tội là một điều bát khả đối với tạo vật, trừ phi được đặc ân ngoại thường). Thật ra, chủ đề "trọn lành", trong các bản văn Kinh Thánh, diễn tả ý tưởng dấn thân hoàn toàn, thuộc trọn về một mình Thiên Chúa. Đó cũng là ý nghĩa của teleios (trọn lành) được một dùng thêm một lần nữa, trong câu chuyện Chúa Giêsu đề nghị người thanh niên giàu có bán của cải anh ta có và đi theo Người nếu anh muốn nên trọn lành (19, 21). Hạn từ này xem ra liên hệ với hạn từ công chính": người trọn lành là người thực thi tròn đầy Lề luật đã được Chúa Kitô tái giải thích.
KẾT LUẬN
Dù ta có thể nghĩ rằng các thành ngữ Chúa Giêsu dùng trong đoạn văn này có tính cách nghịch lý, thì sứ điệp căn bản vẫn rành rành: môn đồ của Chúa Giêsu được mời gọi hãy yêu thương tất cả mọi người không trừ ai và yêu thương một cách cụ thể, chứ đừng để cho tà ý hay hận thù lấn át tình yêu. Như thế, họ mới tỏ ra mình là con cái đích thật của Cha trên trời.
Ý HƯƠNG BÀI GIẢNG
1. Trong một thế giới bị chi phối bởi luật "do út des" (hòn đất ném đi, hòn chì ném lại), giáo huấn của Chúa Giêsu thật mở ra nhiều viễn tượng mênh mông. Nó giúp ta tránh khỏi cái vòng quỷ quái của toan tính ích kỷ, của hành động vụ lợi, của thù hận đáp trả hận thù. Chỉ tình yêu mới có thể phát sinh tình yêu. Chỉ các Kitô hữu bị thu húat bởi sức mạnh chinh phục của sự dịu dàng nơi Chúa Kitô, mới có thể tạo nên trong thế giới một cuộc cách mạng ôn hòa có sức đánh đổ việc bóc lột người hèn yếu và bạo động quá đáng.
2. Các bản văn này buộc ta tự vấn về mức độ cởi mở của ta đối với kẻ khác. Phải chăng ta chỉ phục vụ, yêu thương cha mẹ và bằng hữu? Khi gặp dịp, ta có biết chấp nhận phiền toái để giúp đỡ những người xa lạ không?
3. Lý tưởng trọn lành của Kitô hữu chẳng phải là lý tưởng tránh phạm tội của Biệt phái, tiết độ của Khắc kỷ, hay vô cảm của Phât giáo. Kitô hữu không nhìn đến bản thân mình nhưng nhìn đến Chúa Cha, không tìm cách trau dồi các nhân đức như người ta vun trồng cây cối hay tìm cách tạc nên bức tượng thiêng liêng của mình, nhưng chỉ cố gắng bắt chước Chúa Cha, bằng cách gieo rắc tình yêu quanh mình. Và so với lòng nhân lành vô biên của Chúa Cha, người Kitô hữu luôn cảm thấy mình thiếu sót.
4. Khi thấy mình hoàn toàn không thể sống tình yêu mà Chúa Giêsu truyền dạy, Kitô hữu liền ý thức rằng chỉ ân sủng của Chúa Thánh Thần mới có thể biến đổi tâm hồn hẹp hòi của mình và làm cho mình nên giống như Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm" (Lc 25, 34).
41. Có phải không thể yêu kẻ thù?
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần đình Nhi)
Yêu thương kẻ thù chắc chắn phải là một vấn đề vô cùng độc đáo trong giáo lý của Chúa Giê-su và của đạo Công giáo. Đó cũng là điều nói thì dễ, nhưng thực hành thì hết sức khó, hoặc có thể nói đó là điều không thể thực hiện theo sức riêng của con người.
Trước khi quảng diễn lời dạy "hãy yêu kẻ thù", Chúa Giê-su nêu lên lẽ công bằng của sự thù nghịch theo Lề Luật Mô-sê. Luật công bằng của người xưa là: mắt đền mắt, răng đền răng. Cho nên ý niệm truyền thống về bạn hay thù được xây dựng trên căn bản lẽ công bằng. Người ta bị ràng buộc trong giới hạn của lẽ công bằng, do đó không thể chấp nhận việc yêu kẻ thù vì làm như thế người ta sẽ không duy trì được sự công bằng nữa. Nhưng Chúa Giê-su không lấy lẽ công bằng của Luật Mô-sê để dạy chúng ta về việc yêu kẻ thù, mà Người lấy tình yêu của Thiên Chúa Cha làm nền móng cho việc yêu kẻ thù. Kẻ xấu và tội lỗi đều là "kẻ thù" của Thiên Chúa. Vậy mà Cha trên trời vẫn "cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính". Cha nào con nấy. Nếu Cha trên trời yêu kẻ thù của Người thì chúng ta là con, cũng phải yêu kẻ thù của Người và của chúng ta. Quả thực Chúa Giê-su đã "kiện toàn" Lề Luật khi Người mở ra một con đường mới cho một vấn đề bế tắc là hãy yêu kẻ thù. Vậy theo Chúa Giê-su, thế nào là "yêu kẻ thù"?
Yêu kẻ thù là dám vượt lên trên lẽ công bằng để thực hiện một việc làm tích cực. Dĩ nhiên những thí dụ Chúa Giê-su đưa ra, như vả cả hai má, lấy cả áo trong lẫn áo ngoài, hoặc đi thêm dặm đường nữa với kẻ thù, tất cả chỉ là những hình ảnh mô tả thái độ tích cực là động lực của tình yêu. Chỉ có động lực tình yêu này mới có thể giúp chúng ta vượt trên lẽ công bằng để đến với kẻ thù và yêu thương họ, vì tình yêu bao giờ cũng tích cực.
Yêu kẻ thù còn là điều kiện để "được trở nên con cái của Cha trên trời" và là dấu chỉ chúng ta khác biệt với những người không phải là con cái Chúa. Chúng ta hãy nhìn vào gương của Chúa Giê-su, Trưởng Tử của nhân loại mới, đã đối xử thế nào với kẻ thù. Không kể bao lần "đụng độ" với kẻ thù mà Người vẫn hòa nhã yêu thương, trên thập giá và trước khi nhắm mắt, Người đã xin Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Người Con Yêu Dấu ấy của Thiên Chúa đã dạy các em Người hãy yêu kẻ thù để xứng đáng làm con cái Thiên Chúa.
Sau hết, yêu kẻ thù là phương thế nên hoàn thiện như Cha trên trời. Yêu kẻ thù (tức là những kẻ tội lỗi) là đặc điểm hoàn thiện của Thiên Chúa. Phải chăng Chúa muốn chúng ta lấy việc yêu kẻ thù làm phương thế tốt nhất để nên hoàn thiện giống như Chúa, nên Người mới để chúng ta có nhiều "kẻ thù" hơn là bạn hữu?
Sống sứ điệp Tin Mừng
Thực tế cho thấy yêu kẻ thù là điều không thể thực hiện. Nhưng chẳng lẽ Chúa Giê-su dạy chúng ta làm một điều vượt ngoài khả năng con người? Đối với chúng ta, đó là điều không thể, nhưng "đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lu-ca 1:37). Chính vì thế Chúa Giê-su mới "kéo" Cha trên trời xuống với chúng ta, để chúng ta ý thức mình là con cái Chúa và chính Người nêu gương yêu kẻ thù, chúng ta mới hoàn toàn có thể yêu kẻ thù.
Chúa Giê-su đưa ra một thí dụ rất cụ thể để chúng ta thực hành việc yêu kẻ thù, đó là "chào hỏi" kẻ thù. Trong đời sống hằng ngày, biết bao lần chúng ta không muốn "chào hỏi" nhiều người. Có thể đấy là người vợ, người chồng hoặc con cái. Có thể là người làm cùng sở. Cũng có thể là một người đã gây cho chúng ta một thiệt hại không thể đền bù hay sửa chữa. Vậy chúng ta phải làm thế nào để xóa đi hàng rào ngăn cản là lẽ công bằng, là niềm tự ái có lý của chúng ta? Bạn và tôi hãy nhìn lên Cha trên trời, Đấng đã hết lòng yêu thương chúng ta là kẻ tội lỗi và kẻ thù của Người, đến nỗi sai Con Một Người xuống trần để chết cho chúng ta (Gio-an 3:16). Nhờ Chúa Cha là Tình yêu, Chúa Con là sự Tha thứ và Chúa Thánh Thần là Sức mạnh hiệp nhất, nhất định chúng ta có thể yêu kẻ thù được!
42. Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ!
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Mến Chúa, yêu người chính là điểm cốt lõi của đạo Công Giáo. Nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì đó là kẻ nói dối. Mến Chúa thì dễ, nhưng yêu người lại rất khó. Hơn nữa yêu cả kẻ thù của mình thì càng khó hơn gấp bội. Tuy nhiên, là người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không thể bỏ qua hay làm ngơ khi đứng trước lời mời gọi của Đức Giêsu là yêu thương hết mọi người, kể cả người thù ghét mình nữa.
1. Luật yêu thương trong Cựu Ước
Thời Cựu Ước, luật yêu thương được hiểu là không hại người anh em, phải yêu thương đồng loại:“Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19,18). Trong sách Huấn Ca, tác giả cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình. Hơn nữa, đây lại chính là điều kiện cần để được Thiên Chúa tha thứ và ban ơn cứu độ cho mình: “Vì các ngươi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6:38)”.
Tuy nhiên, luật Cựu Ước, theo lẽ công bằng thì yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (x. Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Luật công bằng cũng hiểu là: “mắt đền mắt, răng đền răng”.
Như thế, ta thấy luật Cựu Ước là một luật đem lại công bằng cho người đồng loại, nhưng được phép báo oán kẻ thù của mình. Còn đến thời Tân Ước thì sao? Chúng ta xem Đức Giêsu đến, Ngài dạy gì?
2. Luật yêu thương thời Tân Ước
Sang thời Tân ước, Đức Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật bằng việc đem vào đó một tình yêu bao dung tha thứ được dành cho hết mọi người. Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương luôn cả thù địch nữa. Đức Giêsu đã phán: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: ‘Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con’” (Mt 5,43-44). Thánh Phaolô cũng tiếp lời giáo huấn của Đức Giêsu khi nói: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống [...]Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (x. Rm 12:14, 20-21). Rõ ràng, Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù nữa, bởi vì: “Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Ngài mời gọi các môn đệ hãy tha thứ vô điều kiện: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7”. Như vậy, vị chi là 490 lần, tức là yêu thương không ngừng.
Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài bảo trợ cho những người phạm tội hay có những tà ý vẫn ung dung sống trong những chọn lựa sai lầm của họ, mà Ngài đã mở lối thoát cho những ai bị người đời giam hãm cách tuyệt vọng trong tội hay trong những khuyết điểm của họ, để giúp họ vượt ra khỏi vòng tội lỗi để trở về với Chúa và sống chân tình với nhau. Đức Giêsu cũng không ngừng mời gọi người môn đệ sống tinh thần đó để góp phần làm cho một xã hội tràn đầy tình thương, lòng bao dung tha thứ.
“Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”(Mt 5,43-44) là điểm sáng của người môn đệ. Nếu không tha thứ cho những người ngược đãi mình thì của lễ của chúng ta cũng không được đẹp lòng Chúa và không được Ngài chúc phúc: "Nếu mỗi ngày, anh em con xúc phạm đến con tới bảy lần, và bảy lần nó trở lại với con mà nói: Tôi hối hận thì hãy tha cho nó" (Lc 17, 4). Xa hơn nữa: "Khi con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi làm hòa với người anh em trước đã rồi bấy giờ trở lại dâng của lễ của con" (Mt 5, 23-24).
Điều đó quả thật không dễ! Khó, nhưng cần thiết biết bao, vì "tha thứ và xin thứ tha tạo ra một phẩm chất mới trong quan hệ giữa người với người, bẻ gãy xiềng xích tội lỗi trói buộc trong tâm tư những người thù hận nhau... Thánh Công đồng Vat. II cũng nhấn mạnh luật yêu thương khi nói: “Giáo Huấn của Đức Kitô còn đòi ta phải tha thứ những xúc phạm và mở rộng luật yêu thương tới mức kể luôn cả những kẻ thù của mình nữa” (MV số 28).
Tuy nhiên, Công đồng lưu ý ta phải phân biệt giữa tội và người có tội. Ghét tội, nhưng không được ghét kẻ có tội, phải tìm cách giúp đỡ họ vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi. Nếu người môn đệ Đức Giêsu chỉ yêu thương những người đồng đạo thì chưa phải là một môn đệ đích thực. Người đời họ cũng làm như thế: “Ta bảo các người: nếu đức công chính của các ngươi không vượt hẳn các Ký Lục và Biệt Phái, các người sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Ngài đã đi một bước xa hơn để diễn tả một tình yêu không phân biệt bạn và thù, để hướng tới mọi người ở mức độ tuyệt đối. Bởi vì mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.
3. Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho họ
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đây là giáo huấn độc đáo của Đức Giêsu về lòng nhân ái.
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. "Yêu thương kẻ thù" là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời: "Đấng làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương..."
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đức Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là đề nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lạy Cha, xin tha cho họ vì nó lầm chẳng biết”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân để được cứu độ.
Như vậy Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ" là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa và làm nên bản chất của người môn đệ.
4. Sống sứ điệp Lời Chúa
Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù…
Là những kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán hận chống lại người khác, vì họ là đền thờ và hình ảnh của Thiên Chúa.
Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang ơn cứu độ từ trời xuống cho nhân loại, nhưng ơn cứu độ này lại được ban cách ưu tiên cho kẻ tội lỗi như Ngài đã nói: Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, vì người khỏe thì không cần đến thầy thuốc, người đau yếu mới cần.
Như vậy, nếu các kitô hữu không cố gắng bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa, họ sẽ không tốt hơn những người khác và có khi những người không phải là Công Giáo, người ta làm tốt hơn chúng ta.
Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ: “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Đức Giêsu đã nói với Phêrô như vậy tại vườn cây dầu khi ông dùng gươm để bênh vực cho thầy của mình và đã chém đứt tai người lính đến để bắt Đức Giêsu. Khi chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta.
Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua lương tâm chúng ta trước. Khi nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa để chôn chính ta. Người Hylạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Người được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Người muốn, theo mẫu gương thánh thiện của Người, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ: “hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.
Cuối cùng, yêu thương tha thứ phải được định hướng bởi sự thật. Không có sự thật thì tình thương trở thành mù quáng. Yêu hoa, không có nghĩa là yêu luôn cả những con sâu ẩn núp trong những cánh hoa. Đức ái Kitô Giáo đòi hỏi phải đấu tranh tích cực để khử trừ tội ác và cứu vớt con người, biến kẻ thù thành anh em, biến con người thành con Chúa. Đây là một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng phải phấn đấu hằng ngày.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu và sống tinh thần yêu thương, tha thứ, làm ơn cho anh chị em, nhất là những người đang thù ghét chúng con bằng một tình yêu không giới hạn. Amen.
43. Làm thánh sống - Trầm Thiên Thu
Người ta chết rồi mới được làm thánh, chưa chết mà sao làm thánh? Làm gì có chuyện “ngược đời” như thế chứ? Đúng vậy, nhưng NGHỊCH mà lại hoàn toàn THUẬN đấy. Tại sao? Chết rồi mà làm thánh là “chuyện nhỏ”, sống mà làm thánh mới là “chuyện lớn”. Thật chứ không đùa. Vì Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
Nhân vô thập toàn, ngay cả những thánh nhân cũng tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha. Vả lại, làm thánh hay không là dựa vào cuộc sống đời thường, sống sao chết vậy. Như người ta vẫn nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cái “tiếng” ở đây là “tiếng tốt”. Phàm nhân đầy “vết chàm”, phàm nhân mà hoàn thiện thì không phải là LÀM THÁNH SỐNG sao? Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ bảo chúng ta phải làm thánh sau khi chết mà phải làm thánh ngay ở đời này vậy.
Thời đại của chúng ta cũng đã có những vị thánh sống như Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005). Và hiện nay, thế giới đang chú ý tới ĐGH Phanxicô với phong cách “ngược đời” của một thánh nhân giữa đời thường, dám nói thẳng nói thật vì công lý và chân lý. Tất nhiên, chúng ta cũng phải sống như thế – nếu thực sự muốn làm thánh!
Muốn nên thánh thì phải yêu Chúa, mức độ yêu Chúa được chứng minh qua việc yêu tha nhân – yêu người tức là yêu Chúa. Ai yêu Chúa thì phải từ bỏ mình, ngược lại, ai yêu mình thì mặc nhiên từ bỏ Chúa. Rất lô-gích. Phàm nhân chẳng là gì, có là gì thì chỉ là tội nhân khốn nạn, vì con tim của chúng ta là “tro bụi”, hy vọng của chúng ta “hèn hơn đất”, và cuộc đời của chúng ta “tệ hơn bùn” (Kn 15:10). Thế nên phải cố gắng “làm thánh sống”, cố gắng không ngừng, cố gắng liên lỉ.
Tuy nhiên, nếu chỉ nên thánh một mình thì là ích kỷ – mà ích kỷ thì không thể làm thánh, nghĩa là chúng ta phải không ngừng nỗ lực nên thánh mà còn phải giúp người khác cùng nên thánh. Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo) xác định: “Người hoàn thiện nhất là người đã giúp ích cho nhân loại nhiều nhất”. Tất nhiên ai cũng có thể nên thánh và phải làm thánh, dù chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, trừ phi chúng ta không muốn. Đã có những tội nhân “lớn” nhưng đã làm thánh: Vua Đa-vít, Tướng cướp Dismas (tên gian phi tốt bụng, Lc 23:39-43), binh sĩ Longinô (người cầm giáo đâm vào ngực Chúa Giêsu trên Đồi Sọ), Giáo hoàng tiên khởi Phêrô, Tông đồ Phaolô, Người Phụ nữ Tội lỗi (Lc 7:36-50),... và một người ít “bị” để ý là vua Salômôn, dù là người khôn ngoan nhất nhưng cũng đã cãi lệnh Chúa và đã từng sống trong tội lỗi (1 V 11:1-13). Vì yếu đuối và tội lỗi ngập đầu nên mới phải cố gắng hoàn lương để làm thánh, và đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Chúa Thương Xót. Hoàn toàn hợp lý!
Thế nhưng đôi khi chúng ta vẫn nặng hình thức mà chưa “lột xác” được. Giảng hay, nói giỏi, viết tốt,… khiến say mê lòng người, nhưng chính mình lại vẫn giậm chân tại chỗ, chẳng thay đổi được gì. Vậy thì chỉ là “lẻo mép” hoặc “lẻo bút”, hoàn toàn vô ích! Loài rắn và loài cua phải lột xác để phát triển, nếu chúng ta không “lột xác” thì không thể phát triển về tâm linh được, mà “lột xác” thì phải đau đớn, phải dứt khoát. Càng “lột xác” nhiều thì càng hoàn thiện, càng nên thánh.
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19:1-2). Đó là lẽ tất nhiên. Thiên Chúa là Đấng thánh thì con cái Ngài cũng phải thánh, không thể khác được.
Ngài nói rất dứt khoát: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa” (Lv 19:17-18). Thấy điều trái tai gai mắt mà làm ngơ thì có thể là bao che hoặc nhát đảm, nhưng dám lên tiếng cảnh báo thì mới là can đảm bảo vệ công lý và yêu mến chân lý. Thật vậy, người bạn thân thiết là người dám phê phán chúng ta cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta, ngoài ra không là “bạn” mà chỉ là “bè” mà thôi.
Thiên Chúa chí thánh, thật hạnh phúc khi chúng ta đang biết tôn thờ một Đấng Thánh toàn năng và hết mực yêu thương. Vì thế, chúng ta phải đêm ngày thầm nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Phải hành động như vậy với lý do rất minh nhiên: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4).
Ngài không chỉ là Đấng chí tôn cao cả mà còn giàu lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:8-10, 12-13). Thật vậy, Người không đành bẻ gãy cây lau bị giập, và cũng chẳng nỡ tắt đi tim đèn leo lét (x. Mt 12:20).
Chúng ta phải làm thánh sống vì một lý do khác nữa, như Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1 Cr 3:16-17). Thiên Chúa là Đấng Thánh thì không thể ở nơi ô uế tội lỗi. Chúng ta xấu xa, hèn hạ, khốn nạn và bất xứng như thế, vậy mà Thiên Chúa lại cho chúng ta trở thành Đền Thờ của Ngài. Thật không thể nào tưởng tượng nổi, thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài bằng cách cố gắng làm thánh sống. Hoàn toàn hợp lý!
Thánh Phaolô cũng “ngược đời” khi nhắc nhở chúng ta: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” (1 Cr 3:18-20). Ít có ai dám “khác người”, vì như vậy sẽ bị người ta cho là “chạm điện”, bị ghen ghét, bị xa lánh, bị trù dập,… thế nhưng như vậy mới là “khôn ngoan thật” theo phong cách của Thiên Chúa. Đúng là “căng” thật đấy!
Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận rất cụ thể: “Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là Phaolô, hay Apôlô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3:21-23).
Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Nhưng cuộc sống cần có luật như dây cương và hàm thiếc để điều khiển ngựa kẻo nó sinh chứng. Luật cũng đa dạng, có luật hợp lòng dân hoặc không hợp lòng dân. Luật hợp lòng dân là luật chứa sự nhân đạo, nhằm hoàn thiện con người – như Luật Tân Ước, nổi bật là chữ NÊN; còn luật không hợp lòng dân là luật chỉ nhắm tới những khung hình phạt – như Luật Cựu Ước, chú trọng chữ CẤM. Luật Cựu Ước xem chừng thoải mái, dễ thực hiện hơn, và ai cũng thích: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Có lý lắm, vì người ta đánh mình thì mình phải “chơi tới bến” chứ không thì người ta chê mình “dở ẹc” hoặc “lép vế”. Thế thì máu tự ái bốc tới chỏm đầu thôi, chịu gì nổi!
Thế nhưng Đại sư Giêsu dạy: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5:39-41). Chu choa, “căng” quá đi! Chúa Giêsu kỳ thí mồ, dạy những điều chi mà khó mần quá chừng. Thế nhưng đó lại là chuyện thật chứ không là chuyện đùa!
Luật Cựu Ước dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Chỉ là “chuyện nhỏ”, các loài động vật khác cũng vẫn thực hiện như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu dạy những điều mà chúng ta thấy rất khó nghe: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44). Mèn ơi! Gay go quá đi!
Thế nhưng phải vậy thôi, vì Chúa Giêsu giải thích: “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:45-48). Những bí quyết Chúa Giêsu đưa ra thật thú vị, rất “khác người”, rất “ngược đời”, nhưng mà lại rất thú vị và chí lý. Quả thật, có dám “khác người” thì mới khả dĩ nên thánh, có thể làm thánh sống ngay trên thế gian này!
Nhận biết mình chỉ là tội nhân, chúng ta sẽ thấy thích lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi định hướng rạch ròi như vậy, chúng ta sẽ thanh thản làm mọi thứ chỉ vì Chúa chứ không vì bất cứ lý do nào khác, như vậy chúng ta mới có thể thẳng thắn như Thánh Phaolô đã xác định: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5:14).
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì chúng con nói nhiều mà chẳng làm bao nhiêu. Xin Chúa giúp chúng con biết “khó” với chính mình để biến đổi tích cực từng ngày theo định hướng của Ngài, để nên thánh trong từng nhịp thở, để nên thánh ngay trên thế gian này. Chính Ngài là Đấng Thánh thì chúng con không thể không làm thánh. Xin thương biến đổi chúng con, lạy Thiên Chúa chí thiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
44. Yêu kẻ thù để nên hoàn thiện
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy môn đệ phải nên hoàn thiện qua cách ứng xử với những người xấu hay những kẻ thù của mình:
- Đối với những người xấu (Mt 5,38-42): Người môn đệ không chống cự khi bị xỉ nhục, bị kiện tụng, bị bắt phục dịch, quảng đại cho đi và cho vay mượn.
- Đối với những kẻ thù (5,43-48): Hãy yêu kẻ thù ghét mình và cầu xin điều lành cho những kẻ ngược đãi mình. Làm như vậy để nên hoàn thiện noi gương Chúa Cha trên trời.
CHÚ THÍCH:
- C 38-42: + Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “Mắt thế mắt, răng đền răng” (c 38). Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đức Giê-su dùng kiểu nói song đối so sánh giữa Luật Mô-sê với luật yêu thương của Người. Chẳng hạn về việc trả thù, Mô-sê dạy trả báo công bình “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24) còn Đức Giê-su dạy phải hạn chế sự hận thù bằng thái độ “bất bạo động”. + đừng chống cự lại người ác nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa (c 39): Đừng để mình rơi vào vòng lẩn quẩn của bạo lực. Vì bạo lực sẽ sinh ra bạo lực. Sự vả mặt mang tính hạ nhục hơn là làm đau về thể xác. Việc đưa cả hai má ra cho người ác là hành vi “bất bạo động”, không chống trả và sẵn sàng chịu sỉ nhục cách bất công như “Người tôi tớ” trong sách I-sai-a: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn cũng đã làm như vậy khi nhẫn nhịn chịu đựng các đầu mục Do thái “khạc nhổ vào mặt và đấm đánh. Có kẻ còn tát Người” (x. Mt 26,67). + Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài (c. 40): người bị thưa kiện ở toà án nếu quá nghèo, chủ nợ sẽ chỉ được đoạt áo trong để trừ nợ, và không được lấy áo ngoài dù áo này có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Chủ nợ không được cầm giữ áo choàng ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy thì cũng phải sớm trả lại cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo choàng còn được anh ta dùng làm mền đắp ban đêm (x. Xh 22,25-27). Môn đệ khi bị kiện để đòi lấy áo trong, hãy sẵn sàng đưa luôn cả áo ngoài cho họ. Chính Đức Giê-su cũng đã bị quân lính lột áo, cả áo trong lẫn áo ngoài mà chia nhau (x. Mt 27,31.35), và bị đóng đinh trên thập giá trong tình trạng trần trụi không có cả áo trong lẫn áo ngoài. + Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (c. 41): Đây là sự bắt buộc một người phải mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó cho quân đội hay cho viên chức nhà nước, như ông Si-môn người Ky-rê-nê đã bị lính Rô-ma ép phải vác đỡ thập giá cho Đức Giê-su trên đường thương khó khi Người quá yếu mệt (x. Mt 27,32). + Ai xin thì anh hãy cho, ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi (c. 42): Khi kẻ ác và người xấu xin và muốn được vay mượn thì người môn đệ cũng hãy sẵn sàng đáp ứng.
- C 43-38: + Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy Thầy bảo anh em: Sự công chính của người môn đệ Đức Giê-su sẽ đạt tới tầm mức tối đa khi yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương kẻ thù ghét mình là để nên hoàn hảo noi gương Chúa Cha trên trời là Đấng hoàn hảo (x. 5,48) và công chính (x. 6,33). Nhờ đó, họ mới được nên công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu để xứng đáng được vào Nước Trời (x. 5,20). + “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (c. 44): Theo mạch văn kẻ thù là kẻ bắt bớ người tốt (c. 44b), là kẻ xấu luôn sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu người lương thiện (x. 5,10-11), và làm những điều bất công (x. 5,38-42); do đó người đời thường ghét kẻ thù. Trái lại Đức Giê-su dạy môn đệ phải yêu thương kẻ thù theo gương Chúa Cha trên trời. + Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (c. 45): Thiên Chúa không phân biệt đối xử giữa kẻ xấu và người tốt. Ở đây Mat-thêu dùng từ “người xấu” thay vì “kẻ thù”. Vì “kẻ thù” của Thiên Chúa chính là ma quỉ; chắc chắn là Thiên Chúa không yêu thương và “cho mặt trời mọc lên” trên loại kẻ thù này (x. Mt 13,25), nhưng Ngài sẽ đặt nó dưới bệ chân Ngài (x. Mt 22,44). + Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? (c 46). Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? (c 47): Trước khi kết luận, Đức Giê-su đưa ra hai cách làm bình thường mà người môn đệ cần phải vượt qua là chỉ yêu thương những người yêu mình hay chỉ chào hỏi những anh em của mình, để nhờ đó họ sẽ nên công chính hơn những người thu thuế và lương dân. + Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (c. 48): Đây là điều đã được Đức Giê-su thực hiện và qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha anh em”. Nếu Chúa Cha đã thể hiện tình yêu qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành”, thì con cái của Ngài cũng phải làm như vậy: nghĩa là phải làm điều tốt cho người khác vì tình yêu họ.
CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu dạy môn đệ phải nên hoàn thiện noi gương Thiên Chúa để đối xử với người xấu và người ác ra sao? 2) về việc trả thù, Mô-sê dạy phải trả báo công bình như: “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24). Còn Đức Giê-su dạy môn đệ phải hạn chế hận thù như thế nào? 3) Tại sao lại phải giơ má kia khi đã bị kẻ xấu tát má này của mình? Phải chăng làm như vậy là khuyến khích kẻ xấu tiếp tục làm ác: “được đằng chân lân đàng đầu”? 4) Môn đệ phải yêu kẻ thù là những ai để noi gương Thiên Chúa? 5) Đức Giê-su đòi môn đệ phải công chính hơn người thu thuế và dân ngoại như thế nào? 6) Nếu Chúa Cha đã thể hiện tình yêu qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành”, thì các tín hữu cũng phải làm gì đối với những kẻ thù ghét mình?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giêsu phán:” Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. (44) Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Tổng Thống Nam Phi Nensơn Manđêla yêu thương kẻ thù:
Đảng Quốc Dân, chính đảng của thiểu số người da trắng nắm quyền ở Nam Phi từ 1948, chủ trương phân biệt chủng tộc gọi là chủ nghĩa A-pác-thai và đối xử dã man với người da đen ở Nam Phi và các người di dân từ Châu Á tới, đặc biệt là từ Ấn Độ. Nensơn Manđêla (Nelson Mandela) đã đứng ra tranh đấu đòi bãi bỏ chế độ A-pác-thai và đã bị cầm tù nhiều năm và cuối cùng đã giành được thắng lợi. Ngày 7.12.1993 Hội đồng Hành pháp Lâm thời Nam Phi (ANC) đã ra đời với vị chủ tịch đầu tiên là Nensơn Manđêla, chấm dứt 340 năm độc quyền cai trị của thiểu số người da trắng ở nước Nam Phi này. Tháng 4 năm 1994, tổng tuyển cử đa sắc tộc đã được tổ chức. ANC đã chiếm được đa số phiếu và Nen-xơn Man-đê-la trở thành vị tổng thống da mầu đầu tiên của Nam Phi.
Ông Nensơn Manđêla đã trải qua 27 năm trong nhà tù. Sau khi được phóng thích, lẽ ra ông đã có đủ lý do để trả thù những kẻ đã cướp đoạt tự do của ông cách bất công. Nhưng ông đã không làm như thế mà luôn tỏ thái độ tươi cười hòa giải với những người đã từng ra lệnh giam giữ ông. Vì thế Man-đê-la đã trở thành lãnh tụ nổi tiếng nhất của nước Nam Phi mới. Trong cuốn tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), Man-đê-la đã viết như sau: “Tôi biết rằng dân chúng mong chờ tôi nuôi dưỡng hận thù người da trắng. Nhưng tôi đã không làm như thế. Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng đã hạ nhiệt, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội phân biệt chủng tộc “A-pác-thai” lại gia tăng. Tôi muốn đất nước Nam Phi nhìn thấy tôi đã yêu thương những kẻ thù của tôi, đang khi tôi thù ghét chế độ A-pac-thai là nguyên nhân khiến mọi người trong nước chống lại nhau. Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải để chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới” (McCarthy).
2) Ông Ham-Mel-Mann đã tha thứ cho kẻ thù đã giết hại vợ con mình:
Một tên sát nhân sau khi đã thụ án 20 năm trong ngục được thả ra, đã thuật lại hành động anh hùng của ông Ham-mel-mann: Không những ông tha thứ cho anh ta tội giết hại vợ và bốn đứa con của ông, mà còn sẵn sàng giúp đỡ anh ta cách tận tình. Anh ta đã phát biểu như sau:
“Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi vốn là một kẻ hiếu sát. Tôi đã giết bà Ham-mel-mann và bắn chết 4 người con của bà. Tôi đã nhìn thấy họ nằm chết trên vũng máu. Sau khi bị cảnh sát bắt và đưa ra tòa xét xử; quan tòa đã tuyên án như sau: ”Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải lãnh án tù khổ sai 20 năm”. Trong thời gian trong tù, tôi đã nhận được lá thư của ông Ham-mel-mann viết cho tôi vì được tin chính quyền Ba-lan không cho phép tôi được trở về quê hương Ba-lan của tôi sau khi mãn hạn tù. Ngay cả chính quyền Đức cũng nói với tôi: ”Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức”.
Trong lá thư Ham-mel-mann viết cho tôi có đoạn sau: ”Tôi tha thứ cho anh về việc anh đã giết vợ và 4 đứa con của tôi. Tôi cũng đang vận động với chính quyền Đức để họ cho phép anh được sống tại Đức. Tôi đã nói với chính phủ Đức là anh có thể ở trong nhà tôi và tôi hứa sẽ giúp anh sống một cuộc đời lương thiện”. Tại sao tôi lại muốn giúp đỡ anh? Tại sao tôi có thể tha thứ cho anh về tội tàn sát cả gia đình của tôi? Sở dĩ tôi có thể làm được điều này vì Thiên Chúa đã làm một phép màu nơi tôi. Ngài đã ban cho tôi Thần Khí của Ngài. Thần Khí của Thiên Chúa đã dẫn dắt cuộc đời tôi và đã tăng thêm sức mạnh giúp tôi sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho anh”.
Cuối cùng anh ta nói: Bây giờ tôi biết được rằng chắc chắn Thần Khí của Thiên Chúa phải quyền năng siêu việt. Ngài đã có thể cất đi mối tử thù khỏi lòng một con người và ban cho ông ta tấm lòng quảng đại để sẵn sàng giúp đỡ tôi, mặc dù tôi đã giết vợ và 4 đứa con của ông ta (TK Nguyệt san, số 367).
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa Nhật 7 Thường Niên tiếp tục trình bày giáo huấn của Đức Giê-su hoàn thiện Luật Mô-sê: Luật cũ dạy người Do thái phải yêu thương thân nhân và những người đồng chủng, đồng thời phải ghét kẻ thù là dân ngoại và những kẻ chống lại mình. Luật Mới của Đức Giê-su dạy môn đệ phải mở rộng tinh yêu để đến với mọi người, nhất là những người nghèo đói bệnh tật, què quạt đui mù câm điêc… và còn phải yêu thương cả những kẻ làm ác và kẻ thù ghét mình nữa.
1) Lời dạy của các bậc vĩ nhân đối với kẻ thù:
Trong việc ứng xử với kẻ thù, Đức Khổng Tử đã dạy học trò: ”Dĩ đức báo oán", nghĩa là phải làm điều tốt để đáp lại điều xấu của kẻ thù của mình. Còn Đức Phật Thích Ca suốt đời tìm cách giải thoát con người khỏi đau khổ, cũng dạy các đệ tử như sau: ”Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Thánh Gandhi của dân tộc Ấn độ, đã nêu ra học thuyết “bất bạo động” làm phương thế đấu tranh và đã giải phóng được nước Ấn thoát khỏi ách khỏi ách thống trị của thực dân Anh, cũng nói như sau: ”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ cho nhau”. Sau này, Mục sư Luther King người Mỹ suốt đời đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da màu với người da trắng và đã bị kẻ thù bắn chết. Trong tác phẩm “Chỉ có một cuộc cách mạng” mục sư đã viết về cách đối xử với kẻ thù như sau: ”Tôi hài lòng vì Đức Giê-su đã không dạy: Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em. Bởi vì có nhiều người tôi khó lòng có thiện cảm được. Thiện cảm là một cảm tính. Tôi không thể có thiện cảm với kẻ tìm cách ném bom vào gia đình tôi, đàn áp bóc lột tôi, chèn ép tôi cách bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với những kẻ luôn đe dọa cuộc sống của tôi. Tuy nhiên Đức Giê-su đã dạy rằng: “Tình yêu còn mạnh hơn sự chết”, rằng tình yêu là thiện chí cảm thông, mang tính sáng tạo và có khả năng cứu độ mọi người”.
Riêng Đức Giê-su Đấng đến kiện tòan Luật Mô-sê, đã dạy về cách đối xử với kẻ thù như sau: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).
2) Yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình:
a) Kẻ thù là những ai?: Thời Đức Giê-su kẻ thù của người Do Thái là quân Rô-ma đang cai trị đất nước Do thái. Còn kẻ thù đối với chúng ta hôm nay không phải ai xa lạ mà chính là những người đang sống chung dưới một mái nhà, là anh chị em ruột thịt nhưng đang bất thuận với chúng ta; Là người hàng xóm nhiều lời và hay nói xấu chúng ta; Là bạn đông nghiệp cùng một cơ quan xí nghiêp nhưng hay tỏ ra ganh tị và luôn tìm cách làm hại chúng ta; Là người cùng chung một cộng đoàn nhưng lại hay ganh ghét và muốn loại trừ chúng ta… Kẻ thù cũng có thể là cấp trên đang chèn ép chúng ta khi không lôi kéo được chúng ta làm điều bất chính; Cuối cùng kẻ thù còn là những kẻ tự nhiên có thành kiến không tốt về chúng ta hoặc những kẻ chúng ta tự nhiên có ác cảm ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên...
b) Phải yêu thương kẻ thù như thế nào?: Đức Giê-su không đòi chúng ta phải yêu kẻ thù giống như yêu một người thân của mình về mặt tình cảm, vì đó là điều bất khả thi. Người chỉ đòi chúng ta yêu kẻ thù bằng hành động như: Làm ơn cho họ, cầu nguyện điều lành cho họ, sẵn sàng chia sẻ cơm bánh cho họ và cho họ vay mượn tiền bạc.
- “Hãy làm lành cho những kẻ ghét anh em”: Tình yêu tha nhân phải được biểu lộ qua hành động như: sẵn sàng nói chuyện, quảng đại giúp đỡ và khiêm hạ phục vụ…
- “Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”: Đức Giê-su dạy các tín hữu phải theo gương Chúa Cha: “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Khi cầu nguyện điều tốt cho những kẻ bách hại mình, chúng ta mới chứng tỏ mình thuộc về Thiên Chúa như có người đã nói: “Làm điều ác để đáp trả ơn lành là việc làm của ma quỉ. Làm điều lành để đáp trả ơn lành là việc làm của con người. Còn làm điều lành để đáp trả điều ác mới là làm việc của Thiên Chúa”.
c) Làm như vậy phải chăng là thái độ của kẻ đạo đức giả và hèn nhát?: Thực ra việc yêu kẻ thù dù tự nhiên mình không thích, không phải là hành động đào đức giả, nhưng là một hành động anh hùng, luôn nỗ lực vượt thắng bản thân để trở thành một con người bao dung từ bi nhân hậu. Làm như vậy cũng không phải là hành vi của kẻ hèn nhát, chịu khuất phục trước bạo lực, nhưng là dấu hiệu của một nhân cách trưởng thành, sẽ giành được sự nể phục của nhiều người. Làm được như vậy còn làm cho chúng ta trở nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương nhẫn nhịn chịu đựng và cầu xin cho những kẻ giết hại mình trên cây thập giá.
d) Việc yêu thương kẻ thù mang lại những ích lợi nào?: Khi cư xử tốt với kẻ thù, chúng ta được giải phóng khỏi thái độ “ăn miếng trả miếng” và tránh được nhiều chứng bệnh thời đại như cao huyết áp, mất ngủ, trầm cảm… Khi đối xử tốt với kẻ thù có thể chúng ta sẽ cảm hóa được kẻ thù, giúp họ hoán cải và theo làm môn đệ Đức Giê-su. Nhờ việc vượt thắng bản thân để đi bước trước bắt tay chào hỏi, sẵn sàng giúp đỡ và cầu nguyện điều lành cho họ… chúng ta hy vọng sẽ biến thù thành bạn của chúng ta.
4. THẢO LUẬN: 1) Đã có bao giờ bạn làm điều tốt cho kẻ thù ghét mình chưa? 2) Đã có khi nào bạn gây được thiện cảm với ai đó nhờ việc đi bước trước để bày tỏ sự thân thiện, quảng đại chia sẻ và tận tình phục vụ họ chưa?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con biết quảng đại để vươn tâm hồn lên cao, vượt qua những tình cảm đời thường và mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Chúa. Xin cho con loại bỏ những sự hờn oán nhỏ nhen, những sự trả thù không đáng có. Xin cho tâm hồn con luôn bình an trong sáng, và không biến cố nào có thể làm xáo trộn, không đam mê nào có thể khuấy động được lòng con. Xin cho con đừng quá vui khi được người đời khen ngợi, cũng đừng quá buồn khi bị chỉ trích chê bai. Xin cho quả tim của con đủ lớn để yêu thương cả những người con không ưa và những kẻ không ưa con. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để ôm cả thế giới, trong đó có cả những kẻ thù ghét con. Nhờ đó con mới nên con thảo của Cha trên trời và nên môn đệ thực sự của Chúa. – Amen.
45. Hãy yêu tha nhân như chính mình
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano, OP - Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh Gò Vấp)
Khi mùa Chay đến sớm trong chu kỳ phụng vụ thông thường thì chúng ta không có Chúa Nhật VII cùng với những bài đọc hôm nay. Những Chúa Nhật mùa Chay trở thành tâm điểm và thay thế một số Chúa Nhật trong mùa Thường Niên. Nhưng mùa Chay năm nay đến trễ, vì thế chúng ta có cơ hội nghe những bài đọc Kinh Thánh mà lẽ ra bị bỏ qua nếu mùa Chay đến sớm hơn. Tôi nghĩ rằng quý vị sẽ thở phào nhẹ nhõm nếu mùa Chay đến sớm hơn và Tin Mừng hôm nay không nằm trong chu kỳ phụng vụ. Quả là khó khăn cho chúng ta!
Không chỉ riêng quý vị cảm thấy lúng túng đối với đoạn chọn từ Bài Giảng Trên Núi hôm nay. Chẳng phải là mọi Kitô hữu đều cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói: "Đừng chống cự người ác", "giơ cả má bên trái", "đưa cả áo bên ngoài", "đi thêm một dặm", "yêu thương kẻ thù"...hay sao? Chúng ta thực sự muốn giơ tay phản đối khi Đức Giêsu kết luận: "Hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện". Tôi có thể nghe một số người nói: "Thôi nào ông Giêsu, thực tế chút đi!".
Thoạt tiên khi nghe, chúng ta có thể hiểu vì sao bài Phúc Âm hôm nay, thực ra là trọn vẹn Bài Giảng Trên Núi, làm cho Kitô giáo giống như một lối sống không thực tế và thực tiễn trên thế gian này. Hôm nay, thánh Phaolô diễn tả điều ấy như sau: "Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa...". Chúng ta nói thêm rằng: "Và sự khôn ngoan của Thiên Chúa là sự điên rồ trước mắt thế gian".
Vì vậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, phản ứng ban đầu của thế gian đối với Bài Giảng là xem lời dạy của Đức Giêsu hoàn toàn vô lý: phi thực tế trong "thế giới hiện thực". Nhưng "thế giới hiện thực" chỉ là tình trạng hỗn độn và sự khôn ngoan của thế gian đã gây ra tình trạng hỗn độn ấy. Vì thế, trước khi con người vội vã ngoảnh mặt đi trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa được mạc khải trong Bài Giảng, thì có lẽ họ muốn dừng lại và xét xem đâu là sự khôn ngoan đích thực. Các bài đọc Kinh Thánh cho thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi. Trong đức tin, những ai đã từng cảm nghiệm, từng nhận ra và hiện nay hoàn toàn ở lại trong tình yêu ấy thì đều là những người có thể đáp trả như Thiên Chúa đã làm - yêu vô điều kiện. Đức Giêsu đang nói về một tình yêu đặc biệt - tình yêu chia sẻ. Đó là loại tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể trao tặng người khác một tình yêu như thế khi chúng ta thực sự biết về tình yêu đó, vì chính chúng ta đã cảm nghiệm nó từ chính Thiên Chúa.
Là những tín hữu, chúng ta cần hướng lòng mình để lắng nghe và tin tưởng vào những điều được loan báo hôm nay. Thật dễ hiểu rằng, cả trong bài đọc của Lêvi và Mát-thêu đều dạy chúng ta phải yêu thương những người thân cận. Nhưng Đức Giêsu xóa bỏ ranh giới giữa người thân cận và người không thân cận. Không có giới hạn nơi những người chúng ta yêu. Do đó, Ngài cho chúng ta biết rằng tình yêu của chúng ta không được giới hạn ở những người tốt ("đừng chống cự người ác"), không giới hạn ở gia đình và bạn bè ("yêu thương kẻ thù") hay chỉ những người yêu thương chúng ta ("...nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?"). Điểm cốt yếu là, theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải yêu thương tha nhân như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Chúng ta cần trợ giúp để luôn lắng nghe và thấu hiểu sứ điệp Tin Mừng: Đức Giêsu là bằng chứng tích cực về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chỉ những ai đón nhận và hoàn toàn ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa thì mới có thể nghĩ đến việc đáp trả tình yêu đó bằng cách thi hành điều Thiên Chúa dạy - yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù cách vô điều kiện.
Chúng ta hãy xem bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Trong sách Xuất Hành (21,24) có "luật báo oán" - dạy rằng con người được yêu cầu xử phạt và đền bù tùy theo thiệt hại. Luật này thường được cộng đồng sử dụng để phân xử và đưa ra mức hình phạt. Hình phạt không được vượt quá tội. Nếu hình phạt vượt quá tội thì sẽ có nguy cơ càng gây ra thêm thù hận và ý muốn báo thù vô cùng tận. Hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta không được có bất cứ kiểu báo thù nào. Nghĩa là chúng ta không thể để cho người khác định đoạt chúng ta sẽ đáp trả bằng cách nào. Có lẽ, Đức Giêsu đang nhấn mạnhvấn đề, nhưng Ngài đã rất cố gắng khi dạy chúng ta biết giơ cả má bên phải ra nữa.
Áo choàng là chiếc áo dài người ta mặc cả ngày. Nó cũng giữ ấm cho con người vào ban đêm. Một lần nữa Đức Giêsu lại nhấn mạnhvấn đề khi Ngài nói về việc đưa cả áo ngoài của mình cho ai muốn lấy áo trong. Không có áo ngoài thì con người sẽ trần truồng! Có lẽ Ngài muốn nói rằng người Kitô hữu không chỉ quan tâm đến quyền lợi của mình, nhưng còn cho đi nhiều hơn cả những gì luật công bình đòi buộc.
Lính La-mã có thể bắt những người thường dân phải phục vụ họ. Như vậy, họ có thể yêu cầu một người vác vật nặng đi một dặm - nhưng không được hơn. Đức Giêsu nói rằng: khi anh em bị yêu cầu làm như thế thì hãy đi thêm một dặm nữa. Nếu người Kitô hữu làm những điều quá phi thường, như chúng ta đang nói là "đi thêm một dặm", thì điều đó sẽ có tác dụng thế nào trên người lính La-mã, là người sẽ nghĩ rằng mình có trách nhiệm với hoàn cảnh và con người?
Nó sẽ có tác dụng ra sao trên con người hiện đại, là những người nghĩ rằng họ có trách nhiệm với những hoạt động hay cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta tự quyết định đi thêm một dặm nữa?
Liên quan đến những người hành khất hay những ai đến với chúng ta trong lúc khó khăn: Luật tôn giáo đòi hỏi người Do Thái cho vay mà không đặt lãi. Điều này giúp ích cho những ai gặp khó khăn. Thay vào đó, Đức Giêsu không bảo các môn đệ của mình "cho vay", nhưng là "cho". Dường như Ngài đang mời gọi các môn đệ của mình tập thói quen quảng đại. Nếu chúng ta làm như thế thì hành động của chúng ta sẽ nổi bật lên, biểu hiện cho thứ khôn ngoan thách thức sự khôn ngoan của thế gian.
Chúng ta đã biết nhiều người vượt qua những ranh giới của lòng quảng đại thường ngày. Người già với số tiền trợ cấp mua đồ dùng cho các cha mẹ đơn thân; người thợ ở lại sau những giờ làm việc để giúp huấn luyện những thợ mới mà không cần thêm lương; những luật sư và giáo viên hy sinh thời gian của mình để giúp những người thất nghiệp và ít học...
Hôm nay chúng ta nghe từ sách Lê-vi lời yêu cầu: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình". Nhưng sách Lê-vi không nói ngươi phải "ghét kẻ thù". Có lẽ đó là điều được thêm vào bởi lòng nhiệt thành quá mức và cực kỳ yêu nước vào thời Đức Giêsu. Tuy nhiên, "người thân cận" lại ám chỉ đến người trong cộng đồng. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta sản sinh ra thứ tình yêu dựa trên cảm xúc để dành cho người chúng ta không thích hay thậm chí là ghét. Thay vào đó, Ngài mời gọi chúng ta làm điều thiện cho con người - cho dù người đó là kẻ thù. Ngài nói với chúng ta: ngay cả người ác cũng đối xử tốt với đồng bạn. Vậy chúng ta cũng phải tiến xa hơn trong việc đối xử với tha nhân.
Sau cùng, chúng ta phải trở nên "hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện". Chúng ta không thể thánh thiện như Thiên Chúa, vì thế Đức Giêsu không kêu gọi chúng ta đạt tới kiểu hoàn thiện đó. Nhưng, chúng ta phải tập noi theo tình yêu của Thiên Chúa và loại bỏ những đường lối và những chuẩn mực về yêu thương theo kiểu thế gian. Thiên Chúa yêu cả người tốt lẫn kẻ xấu - chúng ta cũng thế. Thiên Chúa tha thứ cho những người tội lỗi - chúng ta cũng tha thứ cho anh chị em mình. Thiên Chúa đáng tin cậy - chúng ta cũng vậy.
Cùng với giáo huấn này, chúng ta có thể thấy rằng Đức Giêsu không quan tâm đến các môn đệ thiếu nhiệt tình hay nửa vời. Chúng ta cũng không phải là những Kitô hữu chỉ tốt ở nhà và khi tụ họp ở nhà thờ. Không có ranh giới cho tình yêu của người Kitô hữu, vì Thiên Chúa không bị giới hạn hay vạch ra những ranh giới cho tình yêu của Thiên Chúa - một số người bị ở trong phạm vi của tình yêu, còn số khác thì không. Chúng ta phải nhìn vào và bắt chước cách thức yêu thương của Thiên Chúa, chứ không phải cách thức yêu của người ta.
Tôi có một vị thầy dạy thần học luân lý, người chia sẻ với chúng tôi về Bài Giảng Trên Núi. Khi chúng tôi bắt đầu cảm nhận được điều Đức Giêsu đang đòi hỏi chúng tôi thì vị thầy đã thấy nơi chúng tôi sự bối rối và chán nản. Cứ như thể là chúng tôi đang nói: "Ai có thể sống như vậy?". Ông nói với chúng tôi rằng Bài Giảng sẽ đưa chúng tôi đến một lời nguyện rất giản dị và ông đã minh chứng. Ông giơ tay lên không trung, ngước mắt lên với giọng nói làm cho lớp học bên cạnh hoảng hốt, rồi la lớn: "Hãy cứu tôi!". Thế rồi ông nói: "Đó là một lời kinh tuyệt vời để cầu nguyện khi bạn đọc Bài Giảng Trên Núi".
Trở lại với sách Lê-vi, Thiên Chúa dạy Mô-sê nói với dân: "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh". Có lẽ trong lúc nghe những lời này, người ta muốn làm theo những gì mà vị thầy dạy thần học của tôi dạy chúng tôi về lời cầu nguyện: giơ tay lên cao, ngước mắt lên trời và kêu "Hãy cứu tôi!".
Nhưng sự thánh thiện của Israel không đến từ bất cứ đức hạnh có tính cố hữu và trịch thượng nào, hay chỉ là nỗ lực trong vai trò của con người. Thay vào đó, sự thánh thiện của Israel được hình thành là bởi Thiên Chúa đã thiết lập mối tương quan với họ. Thiên Chúa đã chọn họ, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ và thiết lập với họ một giao ước. Trong cảnh nô lệ, dân có thể kêu cầu với Thiên Chúa "Xin hãy cứu tôi!"; họ không thể tự cứu lấy mình. Họ cũng không thể tự mình tuân giữ một bộ luật nghiêm khắc về thái độ ứng xử như thế. Nhưng họ không đơn độc - Thiên Chúa đã chọn họ. Họ thuộc về Thiên Chúa và vì thế, nếu họ chịu mở lòng ra thì sự thánh thiện của Thiên Chúa sẽ thanh tẩy họ.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước vào một giao ước mới với chúng ta. Khi nghe những mệnh lệnh của Bài Giảng Trên Núi, chúng ta có thể giơ tay lên trong sự bối rối và chán nản, hay chúng ta có thể hướng về Đức Giêsu và cất lên lời cầu nguyện - "Xin hãy cứu con!". Đức tin của chúng ta đảm bảo rằng trong mối tương quan với Ngài, chúng ta sẽ có thể làm như Ngài đã làm và những gì lúc này Người hướng dẫn chúng ta: hãy quảng đại với những ai khốn khó; đừng trả thù khi bị xúc phạm; cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta và thậm chí, với ân sủng của Thiên Chúa, hãy tha thứ cho kẻ thù của chúng ta.
22/02 Tảng đá Phêrô
- Viết bởi Mt 16, 13-19
Tảng đá Phêrô.
Thứ Bảy tuần 6 thường niên – LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊRÔ. Lễ kính.
"Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".
* Được đặt trong nhà thờ chính toà của giáo phận, toà của một vị giám mục là dấu chỉ quyền dạy dỗ, quyền hiến tế và quyền lãnh đạo của giám mục.
Lễ kính Tông toà thánh Phêrô nhắc chúng ta nhớ lại sứ mạng Chúa Kitô đã trao phó cho vị thủ lãnh các Tông Đồ. Nhờ đặc ân không sai lầm, thánh Phêrô là người bảo đảm đức tin của các anh em trong Tông Đồ đoàn. Lòng tin của thánh Phêrô là đá tảng, trên đó Chúa đã xây Hội Thánh của Người
Lời Chúa: Mt 16, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?"
Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!"
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Trên tảng đá này
Simon là khuôn mặt nổi bật trong nhóm Mười Hai.
Ông thuộc nhóm những môn đệ đầu tiên theo Ðức Giêsu,
và là một trong ba môn đệ thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển dung và trong Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn viên của cả nhóm (x. Mt 19,27).
Ðức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho ông trước tiên (1Cr 15,5),
và giao cho ông chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Simon có bản tính bộc trực, hăng hái.
Vì quá tin vào sức mình, ông đã sa ngã, chối Chúa.
Bất chấp những yếu đuối và giới hạn của Simon,
Ðức Giêsu vẫn chọn ông đứng đầu nhóm Mười Hai,
và làm nền tảng cho Hội Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một tên mới là Phêrô,
tiếng Aram gọi là Kêpha, nghĩa là Tảng Ðá.
Tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là người có phúc,
vì ông đã được Cha trên trời cho biết Ðức Giêsu là ai.
Ông đã tin tưởng đón nhận mạc khải ấy.
“Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Ðó là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên xưng đức tin của mình,
ông còn tuyên xưng tình yêu nữa:
“Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Với niềm tin-yêu vào Ðức Giêsu,
Phêrô sẵn sàng chia sẻ sứ mạng Mục Tử của Ngài,
sẵn sàng hiến mình vì đoàn chiên.
Quả thực, Phêrô đã giang tay chịu chết như Thầy Giêsu,
đã theo Thầy và đến nơi mình không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Ðức Giêsu.
Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài.
dù ông chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học.
Chỉ mình Ðức Giêsu mới là Nền Tảng (x. 1Pr 2,4-5),
nhưng Phêrô cũng được làm nền cho Hội Thánh.
Chỉ mình Ðức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7),
nhưng Phêrô cũng được trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn,
quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh,
thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử.
Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu,
mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ,
những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít,
khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin,
khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi,
khi Ðức Thánh Cha bị công kích?
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến Hội Thánh,
cải tổ và canh tân Hội Thánh
bằng việc canh tân chính bản thân mình.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Phêrô, con người trong sáng
Người ta nhớ rằng trong Tin Mừng người được nghe thấy luôn luôn chính là Phêrô. Ngài còn để lại hai bức thư, rất ngắn, trong công vụ tông đồ 14 chương đầu nói về Phêrô. Sau công đồng Giê-ru-sa-lem, Luca không nói về Phêrô nữa, phần còn lại dành cho Phaolô.
Biết Đức Giê-su...
Phaolô là nhà luân lý như trong thư Ngài viết, vì Ngài là biệt phái trung thành. Còn Phêrô trong các bài diễn văn như Luca kể lại, Ngài chỉ nói về Đức Giê-su và về Đức Giê-su Phục Sinh.
Phaolô trong những thư Ngài viết, dù bị chi phối về những bài giảng mà Ngài nghe, Ngài vẫn có những trực giác do ân sủng Ngài lãnh nhận.
Nhưng Phêrô còn những hung hăng, mãnh liệt lại bước nhịp nhàng theo chân Đức Ki-tô, Phêrô một con người trong sáng về đức tin. Bài diễn văn của Ngài đầy vẻ an bình. Theo gương Thầy chí thánh, Ngài không pha loãng chân lý bằng những lời nồng nhiệt bốc khói. Nhưng cũng như Thầy, trái tim Ngài cởi mở đón tiếp tất cả. Đức Giê-su rao giảng Chúa Cha cho người Do Thái. Phêrô cũng rao giảng cho người Do Thái về Đức Giê-su Đấng thiên sai cứu thế, Đấng tế lễ và ngôn sứ, Đấng con Thiên Chúa. Và sứ điệp Ngài cũng nói cho chư dân đã được Ngài gặp gỡ và làm cho trở lại đạo trước Phaolô.
Ngài là lời, là mục tử, là đá góc tường, là vị kế nghiệp của Đức Ki-tô .
Tất cả vì Đức Ki-tô...
Đó là sức mạnh con người tự nhiên ! Ngài đã theo Đức Ki-tô trong cuộc đời công khai với tất cả bản năng tự nhiên, còn do dự về Đức Ki-tô và về chính mình, thường hay đòi hỏi cho mình làm xúc phạm đến một người cùng làng quê với mình !
Sau lễ hiện xuống thì thật trong sáng, thật vững chắc, Phêrô đã có đức tin sao ? chẳng nhưng tin mà còn biết bằng tai nghe, mắt thấy, tay sờ, và lòng mến được những hương vị ngạt ngào êm dịu trước sự hiện diện của Đức Ki-tô cháy đến từng thớ thịt toàn thân.
Ngài có thể nói với chúng ta như Đức Ki-tô nói: “hãy tin tôi đi, tôi đã thấy, đã nghe Người”. Với thánh Phêrô, chúng ta có thể thêm: “Tôi đã chối Chúa, nhưng Người vẫn yêu tôi”.
J.M
SUY NIỆM 3: Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ, hồ nghi và dằn vặt sau khi Ðức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: "Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô." Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: "... Họ không hiểu rằng theo kinh thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết" (Ga 20:9). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói, "Bình an cho anh em," và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20:21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. "... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần" (Cv 2:4a) và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho.
Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: "... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em" (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần -- trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành.
Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô Hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với Dân Ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: "... Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai... Các ông ấy không đi đúng với chân lý của phúc âm..." (Gl 2:11b, 14a).
Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô, "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải giang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn" (Ga 21:18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nero, trên Ðồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô Hữu khác.
Lời Trích
Trong Thơ Thứ Nhất, Thánh Phêrô diễn tả ơn gọi của người tín hữu Kitô:"Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để lãnh nhận niềm hy vọng sống động nhờ Ðức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết..." (1 Pr 1:3a).
SUY NIỆM 4: Kính tông tòa thánh Phêrô
Cuộc tuyên tín của Thánh Phêrô tại địa hạt Philipphê Cêsarê là một bất ngờ lớn. Khi Phêrô được soi sáng để tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Trước lời tuyên xưng tuyệt vời của Phêrô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), Chúa liền hứa: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18). Thánh Phêrô và những đấng kế vị ngài là những người được Chúa chọn để lãnh đạo Hội Thánh Chúa nơi trần gian. Đặc biệt hơn, sức mạnh chống được sự dữ không phải là sức mạnh của cá nhân Thánh Phêrô, nhưng là chính quyền năng của Chúa hoạt động trong con người Phêrô cũng như trong các đấng kế vị ngài.
Lúc nào cũng vậy, Phêrô là con người nhanh mồm nhanh miệng, luôn nhiệt tình mau mắn để đại diện anh em để tỏ bày tâm tư thay cho anh em như khi Chúa Giêsu nói về Bí tích Thánh Thể, nhiều môn đệ đã bỏ đi. Nhưng Phêrô đã tỏ bày thật dễ thương “Bỏ Thầy chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.” Rồi trong đêm Chúa bị bắt Phêrô cũng bộc trực thề thốt: “Con thề sống chết với Thầy.” Nhưng rồi Phêrô đã vấp ngã khi chối Thầy ba lần.
Tưởng chừng là dấu chấm hết cho cuộc đời Phêrô. Những giọt nước mắt ăn năn tuôn chảy trước cái nhìn thân thương của Thầy Giêsu. Phêrô vẫn được Chúa Giêsu tín nhiệm trao trách nhiệm đứng đầu Hội Thánh sau lời tuyên xưng ban đầu: “Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18) bằng lời thân thương: “Phêrô Con có yêu mến Thầy không... Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy.”
Chúa Giêsu gọi Simon là Phêrô, nghĩa là Đá. Điều này diễn tả sự chia sẻ quyền lực của Thiên Chúa cho người đại diện Chúa nơi trần gian là Phêrô và các Đấng kế vị ngài. Chúng ta tin vào sự vững bền của Hội Thánh vì chính Chúa là Đá Tảng đã đặt ngai tòa Phêrô như Đá vững chắc cho ngôi nhà Giáo Hội. Sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh là cơ sở cho niềm tin và bình an khi ta sống trong Hội Thánh của Chúa.
Thánh Phêrô đã được Chúa trao cho chìa khóa Nước Trời, có nghĩa là thánh nhân sẽ được tham dự vào quyền bính của Chúa. Chính vì thế, thánh Phêrô cũng như các vị kế nhiệm sẽ đại diện Chúa ở trần gian với quyền giáo huấn, quyền thánh hóa và quyền quản trị để phục vụ Dân Chúa. Do vậy, khi người tín hữu không vâng nghe Đấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là không vâng nghe Đức Giêsu.
Điều này cũng như quyền năng của nối kết hoặc cầm buộc và của tách rời hoặc tháo cởi cũng được trao cho cộng đoàn (Mt 18, 18) và cho các môn đệ khác (Ga 20, 23). Một trong những điểm mà sách Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh nhiều nhất là sự hòa giải và tha thứ hoặc khoan dung. Nó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hơn đối với các điều hợp viên của cộng đoàn. Bắt chước thánh Phêrô, họ phải cầm buộc hoặc tháo cởi, đó là, làm theo cách để có sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, xây dựng tinh thần huynh đệ.
Khi cử hành lễ kính Tông Tòa Thánh Phêrô, phụng vụ muốn cho chúng ta thấy ngai tòa vững chắc mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô ”Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18), đồng thời trao cho Thánh Phêrô nhiệm vụ chăn dắt. Do đó ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối, Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo Hội toàn cầu. Vì thế ngày lễ hôm nay là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng trong toàn thể Hội Thánh.
Ngày lễ lập Tông tòa thánh Phêrô cũng nhắc nhở mỗi người cầu nguyện thật nhiều cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Thời đại nào cũng vậy, con thuyền Giáo hội vẫn luôn gặp những sóng gió của thử thách. Đức Giáo Hoàng luôn phải đối đầu với những khó khăn của Hội Thánh. Chính vì thế ngài luôn phải có ơn Chúa, sự soi sáng khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để chu toàn trách nhiệm chăn dắt chiên con chiên mẹ của Chúa.
Mừng Lễ hôm nay, Hội Thánh mời gọi tất cả chúng ta hướng về Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị Phêrô. Ngài là vị cha chung của Hội Thánh, có trách nhiệm chăm sóc và hướng dẫn Dân Chúa. Với tấm lòng con thảo, chúng ta hãy yêu mến, vâng lời và siêng năng cầu nguyện cho ngài.
SUY NIỆM 5: LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu: ”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời: ”Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 16.18). Giáo Hội hôm nay cử hành lễ kính tông tòa thánh Phêrô và cũng là lễ để tôn vinh Đức Giáo Hoàng, vị kế nhiệm thánh Phêrô dưới trần gian, cai trị, điều khiển Giáo Hội hoàn vũ.
LỄ LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ:
Khi cử hành thánh lễ kính tông tòa thánh Phêrô, phụng vụ muốn cho chúng ta thấy ngai tòa vững chắc mà Chúa Giêsu đã nói với vị thủ lãnh Hội Thánh tiên khởi: ”Phêrô, Con là đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” hay ”Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho những anh em khác vững tin” (Lc 22, 32). Chúa Giêsu đã trao trách nhiệm nặng nề cho Phêrô là chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài. Do đó, ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối: Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo Hội toàn cầu.
Vì thế, thánh lễ lập tông tòa thánh Phêrô là một lời tuyên xưng hết sức quan trọng nhưng lại rất long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng trong toàn thể Hội Thánh. Trước kia, Giáo Hội cử hành hai thánh lễ riêng biệt, một để kính tòa thánh Phêrô ở Antiokia, và một để kính tòa thánh Phêrô ở Roma. Tựu trung hai thánh lễ này đều mang cùng một ý nghĩa, nên ngày nay Giáo Hội chỉ cử hành một thánh lễ là: ”Lập Tông Tòa Thánh Phêrô”.
HÃY CẦU NGUYỆN CHO ĐỨC THÁNH CHA:
Ngày lễ lập tông tòa thánh Phêrô là lời mời gọi toàn thể dân Chúa trên hoàn vũ hãy cầu nguyện thật nhiều, cầu nguyện liên lỉ cho vị Cha chung của Giáo Hội, trước một trọng trách nặng nề mà Chúa và Giáo Hội trao phó cho Ngài. Trước muôn vàn thách đố của một thế giới luôn luôn biến chuyển, Đức Giáo Hoàng luôn phải đối đầu với muôn vàn khó khăn của Hội Thánh, của thế giới. Chính vì vậy, Ngài cần có đầy đủ ơn Chúa và sự soi sáng, khôn ngoan của Chúa Thánh Thầnh để Ngài chu toàn trách nhiệm chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền đá vững bền là lời tuyên xưng đức tin của thánh tông đồ Phêrô. Xin gìn giữ Hội Thánh khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách gian nan (Lời nguyện nhập lễ, lễ lập tông tòa thánh Phêrô).
SUY NIỆM 6: LÒNG TIN CỦA PHÊRÔ
(https://www.tonggiaophanhanoi.org)
"Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16,16)
Suy niệm: Chúng ta nhìn vào đức tin của thánh Phêrô, hầu rút ra bài học cho mình. Phêrô vừa biết Chúa Giêsu thì đã tin vào Ngài, trở nên một trong bốn môn đệ đầu tiên. Ông được nghe lời giảng dạy của Chúa và chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Tưởng chừng như lòng tin của ông kiên vững lắm.
Nhưng ta chưng hửng biết bao khi thấy ông tỏ ra yếu tin, ngã lòng, thất đảm, thậm chí chối bỏ đức tin nữa. Các trình thuật về việc Phêrô đi trên mặt nước rồi bị chìm (Mt 14,22-33), chối Chúa ba lần (Mc14,66-72), trốn chạy khi Chúa chịu nạn... cho thấy lòng tin của ông như thế nào! Cuối cùng, sau những lần yếu đuối, Phêrô đã kiên vững trong lòng tin cho đến chết. Gương của Phêrô cho thấy đức tin là một ơn của Chúa, con người khó mà có được lòng tin vững mạnh nếu Chúa không nâng đỡ (Lc 22,31-32). Về phần Chúa, ta thấy Ngài luôn lạc quan, tin tưởng vào Phêrô, dù biết rõ con người của ông.
Mời Bạn: Hẳn bạn không thể tự mãn về lòng tin của mình, dù bạn vẫn giữ đạo tốt, vẫn tin vào Chúa. Bạn cũng chẳng dám cho rằng mình có đức tin "lớn bằng hạt cải" (Lc 17,6). Đức tin của bạn phải trải qua thử thách thì mới là đức tin thật và mạnh mẽ.
Sống Lời Chúa: Khiêm tốn nài xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của bạn, trong sự xác tín rằng đức tin của bạn sẽ được củng cố nhờ cầu nguyện, nhờ Lời Chúa và bí tích Thánh Thể.
Cầu nguyện: Tâm sự với Chúa bằng lời Phúc Âm: "Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con" (Lc 17,5); "Lạy Chúa, con tin, nhưng xin nâng đỡ lòng tin yếu kém của con" (Mc 9,24).
SUY NIỆM 7: "ABBA!" ("CHA ƠI!")
(https://www.tonggiaophanhanoi.org)
Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16,16)
Suy niệm: Ben Hur trong bộ phim cùng tên đã thốt lên: "Tại sao Con Thiên Chúa không muốn làm vua Do Thái hở mẹ? Những điều kỳ diệu Ngài làm khiến con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Ngài đủ hủy diệt sức mạnh Roma. Thế mà Ngài lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao trở thành vô ích? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Roma và để vũ khí mà ta khổ công rèn đúc phải rỉ sét ư?"
Anh cũng như nhiều đồng hương đã thất vọng về Đức Giêsu, vì chờ đợi Ngài như Đấng Cứu Thế vinh quang bằng cách trừng phạt quân đội Roma, mang lại phồn vinh cho trần thế qua sức mạnh chinh phục. Ngài quả thật là Con Thiên Chúa hằng sống, là Đức Kitô Cứu Thế như Phêrô tuyên xưng. Thế nhưng, là người Con hiếu thảo với Cha, đời Ngài chỉ canh cánh một điều là làm đẹp ý Cha trong mọi sự. Thế mà ý Cha là sai Con mình đến, không phải để luận phạt, nhưng để cứu thế gian và để thế gian nhờ đó được sống dồi dào.
Mời Bạn: Bạn không tin Thiên Chúa cách chung chung như những tín đồ tốt lành của các tôn giáo khác. Bạn tin và đến với Thiên Chúa qua người Anh Cả Đức Giêsu, Đấng là Thiên-Chúa-thần-linh, nhưng đồng thời cũng là con-người-xương-thịt như bạn. Nhờ sống trong tương quan thân thiết với người Anh Cả Thiên-Chúa-con-người này, bạn gặp được Thiên Chúa và dám mở miệng gọi Thiên Chúa: "Abba!" ("Cha ơi").
Sống Lời Chúa: Xem lại cách tôi sống với Đức Giêsu như thế nào: gắn bó thân thiết như nên "một" với Ngài hay hờ hững qua loa? Và tìm mọi cách để có thể như Ngài sống trong tôi mỗi ngày.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.
SUY NIỆM 8: CÔNG TRÌNH HỘI THÁNH
Đức Giê-su hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15)
Suy niệm: Khi xây nhà, ai cũng thừa biết phải bắt đầu từ nền móng, và là một nền móng được gắn vào đá vững chắc, chứ không ai khờ dại xây nhà hờ hững trên nền cát.
Để xây Hội Thánh, Chúa Ki-tô cũng muốn xác định tính vững chắc của những tảng đá Ngài sẽ dùng để làm nền móng cho Hội Thánh là các tông đồ. Phép thử của Ngài là một câu hỏi. Cần phải biết “Thầy là ai?” để hiểu mục đích mà Thầy nhắm đến khi thiết lập Hội Thánh. Cần phải biết Thầy để biết được giới hạn của mình cũng như để lường trước sức nặng của Hội Thánh mà Thầy sẽ đặt lên vai mình. Qua phép thử này, Chúa Ki-tô cho biết tính vững chắc của Hội Thánh không hệ tại những đầu óc thông thái mà là một niềm xác tín vững vàng vào Đấng mà mình đang đi theo. Với niềm tin vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống thì Hội Thánh có sức đứng vững trước mọi thách thức, chống phá, dù là quyền lực của ác thần Sa-tan.
Mời Bạn: Qua hơn hai mươi thế kỷ, biết bao vương quyền hay thể chế trần gian đã sụp đổ, nhưng Hội Thánh Chúa Ki-tô vẫn kiên vững; sự thật này minh chứng cho một nền móng vững chắc của tòa nhà Hội Thánh. Mời bạn tiếp nối lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” để góp phần xây dựng Nước Chúa ở trần gian nay.
Sống Lời Chúa: Nhiệt thành tham gia vào đời sống của Giáo Hội địa phương, là bạn đang góp phần xây dựng Hội Thánh Chúa Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, chúng con tin rằng Hội Thánh Chúa luôn vững bền. Xin gìn giữ chúng con trong Hội Thánh để chúng con thuộc về Chúa luôn.
SUY NIỆM 9: Lập Tông Tòa thánh Phêrô
(Enzo Lodi)
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Quyển lịch cổ nhất của Rôma (Depositio martyrum) có từ năm 354, xác nhận Thánh Lễ “Ngai Tòa Thánh Phêrô – Chaire de Saint Pierre” được mừng kính ngày 22.02, ngày dân Rôma nhớ đến những người quá cố. Nhưng sau đó, vì các Giáo Hội xứ Gaule không cử hành trọng thể các lễ trong Mùa Chay, nên Thánh Lễ này được dời vào ngày 18.01, trong khi Giáo Hội Rôma vẫn giữ ngày cũ. Ngày lễ cũng khác và chủ đề cũng khác: trong xứ Gaule, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh Phêrô tại Rôma”; tại Rôma, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh Phêrô tại Antiochia”. Cuối cùng hai lễ nhập lại làm một và được xác định vào ngày 22.02, dưới một chủ đề: Ngai Tòa Thánh Phêrô.
Tại Rôma, trong đại thánh đường thánh Phêrô, người ta còn giữ được ngai toà (tiếng La Tinh cathedra) của vị giáo hoàng tiên khởi, có nghĩa là ngai toà, theo truyền thống, thánh Phêrô đã sử dụng. Nó là biểu trưng cho uy quyền của Đức Giáo Hoàng như là Thầy dạy, Thượng Tế và mục tử của Hội Thánh toàn cầu.
2. Thông điệp và tính thời sự
Thánh lễ kính Ngai Tòa Thánh Phêrô giúp chúng ta đào sâu sứ vụ của vị Tông Đồ Phêrô và các đấng kế vị trong Hội Thánh, nhờ phong trào đại kết, tìm cách kết hợp mọi Kitô hữu.
a. Ngai Tòa Thánh Phêrô trước tiên nhắc nhớ đến sứ vụ Đức Giêsu trao phó cho Simon-Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,32). Mặc cho thử thách mà đức tin các Tông Đồ phải chịu (Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo), đức tin của thánh Phêrô giữ vai trò nền tảng trong Hội thánh tiên khởi. Thánh Phaolô xác nhận Chúa Giêsu đã hiện ra với Céphas (Phêrô), sau đó cho nhóm Mười Hai (1 Cr 15,5); cũng thế, Phúc Âm thánh Luca xác nhận trong câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmaus: “Nhóm Mười Một và các bạn hữu nói với họ: Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34)
Phụng Vụ nhấn mạnh việc “đức tin của thánh Tông Đồ Phêrô” là đá tảng, trên đó Chúa đã xây dựng chúng ta. Phúc Âm Thánh lễ soi rọi niềm tin này của thánh Phêrô (Mt 16,13-19), trong lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đấng Mêssias, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu đáp: “Anh là đá, trên đá này Tôi sẽ xây Hội Thánh của Tôi” (c 18). Lời tuyên bố của Đức Giêsu là nguồn gốc sứ vụ cao vời thánh Phêrô thực hiện trong cộng đoàn tiên khởi, và theo truyền thống Công Giáo, là nguồn gốc Tối Thượng Quyền mà tất cả các Đức Giáo Hoàng được lãnh nhận từ thánh Phêrô.
b. Sứ vụ của thánh Phêrô, công bố niềm tin đích thực và chân chính vào Đức Giêsu Kitô, cũng là xác nhận niềm tin của anh em và khuyến khích những người có trách nhiệm trong Hội Thánh (Các kỳ mục hay trưởng lão). Vì thế, trong bài đọc một (1 Pr 5,1-4) thánh Phêrô nhắc nhở các kỳ mục, có nghĩa là những người đứng đầu các cộng đoàn, trách nhiệm của họ: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng vì lòng nhiệt thành... Đừng lấy quyền mà thống trị, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.”
Đoạn Công Vụ Tông Đồ đọc trong Phụng Vụ Giờ Kinh nhắc đến việc những người đã cắt bì tranh luận với Phêrô. Sau khi thánh Tông Đồ “nhắc lại câu chuyện từ đầu và trình bày từng điểm một cho họ, các thính giả bình tĩnh trở lại và ca ngợi Thiên Chúa”. Như thế thánh Phêrô đã củng cố đức tin cho anh em và kết hợp mọi người trong Hội Thánh. Đá góc là Đức Kitô, nhưng Đức Giêsu nói với Phêrô: “Con là đá, có nghĩa là: Ta là đá không thể lay chuyển... còn con, con cũng là đá, con cũng vững vàng nhờ sức mạnh của Ta” (thánh Lêô Cả, Phụng Vụ Giờ Kinh).
SUY NIỆM 10: Phê-rô đứng dậy sau vấp ngã
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Nếu như Thánh Phaolô có ngày té ngựa để làm lại cuộc đời, thì thánh Phêrô có mẻ cá kỳ diệu nhờ vâng lời để đứng dậy làm lại cuộc đời
Hôm nay lễ lập tông tòa thánh Phê-rô, là dịp chúng ta tưởng nhớ việc Đức Kitô chọn Phêrô làm người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu huỷ sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một con người mang đậm tính chất phác, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: “anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy tuy đã rút gươm chém đứt một bên tai của người lính. Có lẽ ông đã phản ứng bởi tự nhiên, bởi tự vệ và cũng có thể vì ông nghĩ rằng giờ của Chúa đã đến. Ông sẽ cùng Thầy khôi phục lại nhà Israel. Nhưng ông đã lầm. Chúa Giêsu không những đã không hoan nghênh lại còn oán trách ông là hành động hồ đồ. Dùng gươm sẽ chết vì gươm. Đó không phải là cách Thiên Chúa dùng để thâu nạp muôn dân vào trong Nước của Ngài.
Thất vọng ông đã bỏ chạy trong đêm tối. Đêm tối của đức tin. Đêm tối của tuyệt vọng. Tưởng rằng sau đêm đó người ta sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Ông đã bỏ chạy cao xa, để mặc Thầy bị những con người cuồng nhiệt, nhân danh tôn giáo để giết hại Thầy mình. Nhưng rạng sáng hôm đó, người ta lại thấy ông xuất hiện chen lẫn giữa đám người còn đang cuồng nhiệt đòi giết Thầy mình. Một hành động quá chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Thế mà, ông lại một lần nữa vấp ngã trước sự dữ. Ông đã chối Chúa đến ba lần trong một đêm vì một đứa tớ gái đã vạch mặt chỉ tên là đồng bọn với tử tội Giêsu.
May mắn cho cuộc đời của ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng lương tâm thức tỉnh lòng ông. Ông lấm lét nhìn lên Chúa và bắt gặp ánh mặt đầy nhân từ, cảm thông của Thầy. Chúa không nói lời nào với ông và ông cũng không còn lời nào để nói. Nhưng qua ánh mắt đầy nhân từ của Chúa, ông tin rằng Chúa biết rõ con người của mình. Chúa biết ông yêu mến Ngài.
Ông đã đứng dậy, bước ra ngoài sự dữ. Dứt bỏ nơi chốn nên cớ cho ông vấp phạm và khóc lóc ăn năn.
Và sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ, Đức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: "Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô." Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó”. Họ về nhà. Đầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói: "Bình an cho anh em," và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20:21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. "... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần". Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: "... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em" (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, về những vấn đề cấp bách của Giáo hội.
Thánh Phêrô được chọn làm đại diện của Chúa không phải vì Ngài hoàn hảo, cũng không phải vì Ngài tài trí hơn người, mà điều quan yếu hệ tại ở lòng thánh nhân luôn yêu mến Thầy chí thánh Giêsu. Xin cho chúng ta biết học nơi thánh nhân. Biết chỗi dậy sau những vấp ngã. Biết tin tưởng, phó thác cuộc đời trong tình thương quan phòng của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng ta luôn biết yêu mến Giáo hội, biết kính trọng vâng phục các người đại diện Chúa nơi trần gian, vì các ngài là hiện thân của Chúa đang dẫn dắt chúng ta. Amen.
SUY NIỆM 11: Lập Tông Tòa thánh Phêrô
(GKGĐ Giáo Phận Phú Cường)
Mừng kính lễ thiết lập ngai toà của thánh Phêrô, chúng ta không tôn thờ chiếc ghế như dấu chỉ của quyền cai quản Giáo Hội mà Chúa đã trao phó cho thánh Phêrô và những người kế vị ngài là các Đức Giáo hoàng. Nhưng chúng ta được mời gọi tôn vinh một tình yêu sẻ chia của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “Con là đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Quả thế, Chúa Giêsu đã có lần dạy các môn đệ rằng: “Anh em biết những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạnh sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 42-43).
Như thế, khi thiết lập ngai toà thánh Phêrô, Chúa muốn thông chia quyền bính cai trị dân Chúa cho con người, cụ thể là cho thánh Phêrô và các Tông tồ và những người kế vị các ngài là Giáo hoàng và Giám mục. Và những người lãnh nhận nhiệm vụ ấy sẽ phải hành xử theo cung cách của thầy Giêsu: “Thầy ở giữa anh em như người phục vụ” hay “Ta đến để cho chúng được sống dồi dào”.
Như thế, chia sẻ quyền bính cai trị cho con người là Thiên Chúa muốn mời gọi con người đi vào con đường phục vụ trong yêu thương. Và càng phục vụ trong yêu thương như Chúa, chúng ta sẽ tiếp tục làm cho ngai toà tình yêu ấy ngày một triển nở trong xã hội trần thế này. Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ nhìn thấy một thế giới yêu thương trong hiệp thông với nhau và phục vụ lẫn nhau. Và như vậy chúng ta sẽ đẩy lùi sự hận thù và gian trá, loại bỏ sự bất công và ghen ghét trong cuộc sống này.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã yêu thương và chia sẻ quyền bính cai trị dân Chúa trong yêu thương và phục vụ cho chúng con. Xin cho các Đức Giáo hoàng, các Giám mục và tất cả chúng con biết đón nhận hông ân này trong tin yêu và phó thác, để chúng con có thể làm cho nước Chúa được vinh hiển trong cuộc đời này. Amen.
SUY NIỆM 12: Kính Ngai tòa Thánh Phêrô Tông đồ
Hằng năm, vào ngày 22 tháng 2 tại Rôma, trong Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican, Ngai tòa Thánh Phêrô do Berlini xây năm 1656 được thắp nến sáng.
Ngai tòa Thánh Phêrô tại Rôma là chiếc ngai khổng lồ, bên trong dựng chiếc ghế gỗ khảm xà cừ của Thánh Phêrô, được bốn Thánh Tiến sĩ nâng trên tay: Thánh Augustinô, Thánh Ambrôsiô, Thánh Atanasiô và Thánh Gioan Kim Khẩu. Bên trên có một hào quang rực rỡ bằng cẩm thạch giả, chính giữa có hình chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.
Bên phải Ngai tòa Phêrô là đài kỷ niệm ÐGH Urbanô VIII và hai tượng biểu trưng cho nhân đức Bác Ái và Công Bằng. Bên trái là đài kỷ niệm ÐGH Phaolô III do G. della Porta tạc: phía trên có tượng của ÐGH, bên dưới là hai tượng biểu trưng cho hai nhân đức Cẩn Trọng và Công Bằng. Trên đường sang cánh trái của gian ngang, bên phải là đài kỷ niệm ÐGH Alessanđrô VIII do E. di S. Martino tạc năm 1725, bên trái là bức tranh Thánh Phêrô chữa người bất toại được khảm đá mầu của F. Mancini.
Chữ “Cathedra” có nghĩa là chiếc ghế hay giảng tòa và có nguồn gốc từ chữ “Cathedral”, nơi một vị giám mục có giảng toà để ngài giảng dạy. Một từ khác được dùng cho “Cathedra” là “sedes” từ chữ “See” nghĩa là Tòa nơi một vị giám mục điều hành giáo phận của mình. Như thế từ “Holy See” nghĩa là Tòa Giám mục Rôma, nơi Ðức Giáo Hoàng ngự trị, hay được gọi là Tòa Thánh.
Trong suốt dòng lịch sử, Ngai tòa Thánh Phêrô mang theo hai nghĩa: Ðó là chiếc ghế như một biểu tượng (biểu tượng quyền tối thượng của Thánh Phêrô); trong thời cổ chiếc ghế hay “cathedra” là một biểu tượng quyền giảng dạy và như thế chiếc ghế được coi như một vật thể (ngai tòa của Charles de Bald được Đức Giáo Hoàng Gioan VIII sử dụng và các vị Giáo Hoàng kế nhiệm).
Lễ lập Tông tòa Thánh Phêrô được kỷ niệm hằng năm vào ngày 22 tháng 2. Vào thời kỳ phụng vụ Rôma còn chịu ảnh hưởng của Giáo Hội Gallica, ngày mừng của Phụng Vụ Gallica, là ngày 18 tháng 1, nhưng ngày 22 tháng 2 vẫn được cử hành với tước hiệu “Lễ lập Tông tòa Phêrô tại Antiôkia”. Ðức Giáo Hoàng Phaolô IV đã truyền vào năm 1558 phải mừng cả hai lễ trọng. Bộ luật Chữ Ðỏ năm 1960 chỉ giữ lại ngày 22 tháng 2 là “Ngày lập Tông tòa Phêrô tại Rôma” cho giáo hội toàn cầu.
Hôm nay, chúng ta cũng tưởng nhớ đến việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Sau những ngày sống trong đau khổ, hồ nghi và dằn vặt vì chối Thầy, và nhất là phải chứng kiến cảnh Thầy bị đóng đinh, bị chết và được an táng, thì ngày thứ ba, Phêrô đã được nghe Tin Mừng Phục Sinh. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: “Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô”. Thánh Gioan tường thuật lại: khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ nhanh chân hơn vị tông đồ lớn tuổi kia, đến mộ Thầy trước, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: “... Họ không hiểu rằng theo Kinh Thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết" (x. Ga 20,1-10). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói: “Bình an cho các con,” và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20,21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. “... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần” và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (x. Cv 2,1-12)
Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: “... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em” (Lc 22,32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần - trước giới thẩm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước Thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. (x. Cv 9,32-42) Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành. (x. Cv 5,12-16)
Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với dân ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: “... Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai... Các ông ấy không đi đúng với chân lý của Phúc âm...” (Gl 2,11b.14a).
Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải dang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn” (Ga 21,18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nerô, trên đồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô hữu khác.
Mừng lễ kính Ngai tòa Thánh Phêrô là một dịp Giáo Hội kêu mời các tín hữu hãy cầu nguyện nhiều cho Ðức Giáo Hoàng trước những khó khăn lớn lao mà ngài phải đương đầu trong thế giới hôm nay.
SUY NIỆM 13: Lập Tông Tòa Thánh Phêrô
“Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc …”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai ?”. Câu hỏi này thật dễ với những người nhạy tin tức như các tông đồ. Các ông đua nhau trả lời: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia, hay một trong các vị tiên tri”. Các câu trả lời cho thấy dân chúng nhìn nhận Đức Giêsu là người được Thiên Chúa sai đến, là một tiên tri, nhưng vẫn chưa nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
Câu hỏi Đức Giêsu là ai, không chỉ là vấn nạn cho những người cùng thời, thắc mắc này cũng mang đến sự hoài nghi ngay giữa các môn đệ thân tín của Đức Giêsu. Khi Người hỏi : “Còn anh em bảo thầy là ai?” Chúa Giêsu đọc thấy được sự im lặng cách bị động từ phía các tông đồ. Các ông không còn tranh nhau nói nữa. Các môn đệ đi theo Đức Giêsu ròng rã gần 3 năm, là những người thân thiết nhất của Ngài, nhưng họ cũng không có câu trả lời xác đáng cho chính mình. Chỉ một mình Phêrô lên tiếng :”Thầy là Đấng Kitô”.
Và Đức Giêsu bảo Phêrô: “Anh thật là có phúc”. Thật là phúc cho Phêrô vì không phải tự ông cảm nghiệm và biết được mầu nhiệm Đấng Kitô đã làm người. Phúc cho ông khi điều ông vừa tuyên xưng được chính Chúa Cha mặc khải cho. Đây là một hồng ân lớn lao dành cho Phêrô. Phêrô không thuộc hàng học giả chuyên nghiên cứu Kinh Thánh như nhóm Pharisêu hay tư tế. Cũng không nằm trong số những bậc trưởng lão đáng kính có tư tưởng cao siêu trong dân. Phêrô chỉ là một anh đánh cá nhà quê ít học, sống bằng nghề chài lưới. Vì thế, việc Phêrô được chọn, được mặc khải là một ơn ban cách đặc biệt.
Chúa đã chọn gọi và trao cho Phêrô sứ vụ xây dựng Hội Thánh của Chúa. Phêrô đã đáp trả bằng hành động tuyên xưng và tin vào Đức Kitô. Vì tin, Phêrô dám bỏ tất cả để theo Thầy. Vì tin, Phêrô dám quay trở lại sau khi chối Thầy. Vì tin, Phêrô đã hiến trọn cuộc sống còn lại ở trần gian vì thập giá của Thầy. Và vì tin, Phêrô dám chết trên cây gỗ như Thầy, nhưng xin treo ngược vì vẫn cảm thấy không xứng đáng với Thầy. Tin nghĩa là yêu. Và yêu tức là tin. Phêrô đã diễn tả niềm tin và tình yêu của mình một cách mạnh mẽ và mãnh liệt nhất để bù lại những yếu đuối và bất xứng của ông.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương thánh Phêrô. Biết dâng trọn những yếu đuối và bất toàn của con trong bàn tay quan phòng của Chúa, để con được Chúa thánh hóa và trở nên công cụ hữu dụng của Chúa. Xin cho con biết tin yêu Chúa trong mọi hành động, trong mỗi giây phút của cuộc đời con. Amen!
21/02 Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình.
Thứ Sáu tuần 6 thường niên.
"Ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống mình".
Lời Chúa: Mc 8,34-9,1
Khi ấy, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình.
Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình, thì nào được ích gì? Và người ta lấy gì mà đánh đổi mạng sống mình? Ai hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta trong thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn từ khước nó, khi Người đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thần thánh". Và Ngài nói với họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong số những kẻ có mặt đây, có người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa đến trong quyền năng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Từ bỏ chính mình
Suy niệm :
Trên con đường đi ngang giáo phận Xuân Lộc,
có ngôi nhà thờ mặt tiền mang một dòng chữ to: “Sống là chọn.”
Câu này dễ làm ta nghĩ đến câu kế tiếp: “mà chọn là bỏ.”
Bỏ là điều, dù muốn dù không, ai cũng phải làm nhiều lần trong đời.
Thai nhi phải bỏ bụng mẹ ấm êm, cô gái bỏ gia đình để về nhà chồng.
Bỏ khi chọn việc, chọn trường, chọn nhà, chọn ơn gọi…
Bỏ thường làm ta đau đớn, nhưng ta không thể chọn tất cả.
Tuy nhiên, có khi từ bỏ đem lại niềm vui, đến nỗi ta không biết mình đang bỏ.
Một vận động viên, một nhà khoa học hay một tu sĩ đã tự ý bỏ nhiều điều.
Nhưng họ rất vui khi nghĩ đến kết quả của việc từ bỏ đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời các môn đệ và đám đông
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ngài (c. 34).
Từ bỏ chính mình là không coi mình như trung tâm nữa,
không coi danh dự, quyền lợi, dự tính, của cải là điều mình phải nắm chặt.
Vác thanh ngang của thập giá là việc mà người sắp bị đóng đinh phải làm.
Như thế vác thập giá đồng nghĩa với việc chấp nhận cái chết sắp xảy ra.
Đức Giêsu đã sống những điều này trước khi mời chúng ta sống.
Ngài đã vác thập giá Cha trao cho Ngài.
Ngài đã từ bỏ chính mình hoàn toàn khi bị treo trên thập giá.
Đời sống người Kitô hữu mãi mãi không bao giờ dễ dàng,
vì đó là hành trình vác thập giá của riêng mình theo chân Thầy Giêsu.
Thập giá ghi dấu ấn trên bất cứ ai dám sống thật sự ơn gọi kitô hữu.
Nhưng thập giá lại không phải là kết thúc của Kitô giáo.
Kitô giáo kết thúc bằng sự sống và sự sống lại của Đức Giêsu.
Tất cả nghịch lý nằm ở chỗ ai dám mất thì lại được,
còn ai cố giữ cho được thì lại mất.
Mà cái được và cái mất không như nhau.
Cái mất chỉ là mạng sống tạm bợ ở đời này,
còn cái được là sự sống vĩnh hằng ở đời sau (c. 35).
Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này, kinh nghiệm được và mất.
Ngài mời chúng ta dám sống kinh nghiệm ấy cùng với Ngài.
Được cả thế giới này mà mất sự sống đời đời thì có ích chi ?(c.36).
Đức Giêsu hôm nay vẫn muốn nhắc nhở chúng ta như thế.
Cầu nguyện :
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen. (R. Tagore)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Theo Chúa Giêsu
Khi nhìn về hoạt động của Giáo Hội giữa thế giới hôm nay, có người ghi nhận rằng Giáo Hội hiện tại rất đa năng đa dạng, Giáo Hội có thể có mặt một cách khéo léo và hiệu quả trong hầu hết mọi lãnh vực của đời sống con người; nhưng đôi khi Giáo Hội đã bỏ quên một sở trường có thể là quan trọng nhất, đó là làm người phát ngôn bảo vệ các giá trị tuyệt đối của Tin Mừng và bảo vệ cho đến cùng như được nhắc lại trong Tin Mừng hôm nay.
Sau khi nghe Phêrô nói lên sự thật: "Thầy là Ðức Kitô", thì Chúa Giêsu xác định rõ hơn thế nào là Kitô theo quan điểm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không ngần ngại minh định tư cách Kitô của mình, đó là một Ðấng Kitô theo hình ảnh của Người Tôi Tớ Yavê như được nhắc đến trong sách Tiên tri Isaia. Ngài sẽ không là Ðấng Kitô theo ý riêng của mình, nhưng hoàn toàn theo ý Thiên Chúa Cha như đã được tiên báo nơi hình ảnh người tôi tớ Yavê và ngày càng được mạc khải rõ hơn nơi Người Con yêu dấu của Thiên Chúa; Thiên Chúa muốn Ngài hoàn thành kế hoạch bằng chính đau khổ và cái chết của Ngài. Mạc khải ấy lẽ ra phải được các môn đệ đón nhận với cảm thông và chia sẻ. Phêrô đã đại diện các Tông đồ để tuyên xưng: "Thầy là Ðức Kitô", nhưng chỉ tiếc liền sau đó, ông đã không hoàn toàn cảm nghĩ theo cách thức Thiên Chúa, nhưng đã theo cách thức nhân loại. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Chúa Giêsu, và một cách vô tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô.
Chúa Giêsu chẳng những quở trách Phêrô, Ngài còn đưa ra một giáo huấn quan trọng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Từ nay cả Phêrô lẫn những ai muốn làm môn đệ Chúa đều phải sống thân phận tôi tớ như Chúa. Nhưng Ngài còn thêm: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất". Làm tôi tớ Thiên Chúa, từ bỏ chính mình, vác thập giá, đồng nghĩa với chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì Tin Mừng. Nếu có bao giờ con người cảm thấy ngại ngùng với những yêu sách đó, thì cần phải nhớ một lời cảnh giác của Chúa cũng như trong bối cảnh đó: "Ai hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang Cha Ngài với các thánh thiên thần."
Ðành rằng con đường của Chúa là cả một đoạn trường, nhưng đã là môn đệ Chúa và muốn thi hành số mệnh của mình, chúng ta không còn một chọn lựa nào khác. Xin Chúa cho chúng ta can đảm sống đúng tư cách môn đệ của Chúa, mạnh dạn thực hiện những đòi hỏi của Tin Mừng, để ngày nay Danh Chúa được mọi người nhận biết và mai sau chúng ta được Chúa đón nhận vào Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Sống đúng là Kitô hữu
Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; Còn ai liều mất mạng sống vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc. 8, 34-35)
Trong bài Phúc âm hôm qua, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu cho các môn đệ hiểu đúng về bản thân và sứ mạng của Người: sứ mạng của Đấng Mê-si-a phải chịu đau khổ. Phêrô đã bực mình và không phải là không có lý do, bởi lẽ chuyện đó kéo theo hậu quả cho người môn đệ là ông. Điều tuyên bố này của Chúa có liên hệ tới ông. Có được một ông thầy là một đấng Mê-si-a quyền uy chiến thắng và có một người thầy là một Mê-si-a phải chịu đau khổ và bị người ta giết chết, đâu phải là chuyện như nhau. Chúa Giêsu biết rõ như vậy. Nên Người liền giải thích ngay làm môn đệ một Mê-si-a phải chịu đau khổ hệ tại ở sự gì: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo…”
Đảo lộn giá trị
Phải vác thập giá, phải từ bỏ mình, nguy cơ to lớn như vậy không phải là sự thiệt thòi, mất mát đâu. Trái lại, đó chính là một mối lợi. Thật là điều nghịch lý: người môn đệ lấy Đức Kitô làm con bài chủ trong cuộc chơi của mình, người ấy là kẻ thắng cuộc. Mất, chính là được với điều kiện là sự mất mát này là vì Chúa Giêsu và vì Phúc âm. Một cuộc sống chịu thiệt thòi ví Chúa Giêsu và vì Phúc âm như thế được coi như một sự thất bại xét về mặt hoàn toàn trần thế giống như cuộc đời của Chúa Giêsu vậy; nhưng nó lại là một sự hoàn bị, đạt tới mức tròn đầy, bởi lẽ đó là một cuộc đời hoàn toàn quy hướng về Chúa. Trong chiều hướng ngược lại, con người chỉ tìm tán dương, tâng bốc, đề cao cái “tôi” của mình, chỉ muốn giữ mạng sống mình cho riêng mình thôi, người ấy có thể chắc chắn đánh mất cuộc sống ấy, không đạt được đích là sự thăng hoa đích thực. Và cho dù có giầu sang bạc ngàn bạc triệu, người ấy cũng sẽ không có thể dùng tiền mua được cho mình sự sống của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đặt nét chấm phá cho bức họa chân dung người môn đệ bằng một câu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chứng từ: không hổ thẹn vì Chúa Giêsu. Lòng tin của người môn đệ không phải là một chuyện riêng tư; đức tin ấy đòi hỏi được biểu lộ và khẳng định công khai cho dù gặp phải những khó khăn. Lòng tin không phải là chiếc áo, vui thì mặc vào, còn khi gặp phiền hà rắc rối thì rũ bỏ.
Chúng ta có là môn đệ của Chúa Kitô không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần tự hỏi mình xem ta cảm nghĩ thế nào, có tâm tình gì khi người ta nói đến đạo Chúa, Giáo hội, Chúa Kitô… khi ta đang làm việc, ở trong gia đình, hay trong mối quan hệ xã hội bạn bè. Chúng ta có dám đứng về phía Chúa Giêsu Kitô, không ba hoa. khoa trương, nhưng kiên quyết và xác tín? Đối với người môn đệ, việc bày tỏ và khẳng định niềm tin của mình không phải là chuyện tùy tiện.
Suy Niệm 4: TIN VÀ ĐI THEO (Mc 8,34-39)
Sau khi Phêrô thay lời anh em tuyên xưng niềm tin, Đức Giêsu đã ngay lập tức loan báo về cuộc khổ nạn của mình để các ông hiểu rõ về căn tính “Đấng Kitô” theo ý định của Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê trong Cựu Ước mà Isaia đã nhắc tới, đó chính là hình ảnh tiên trưng về Ngài. Quả thật, Đức Giêsu đến không phải là làm theo ý riêng, nhưng hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha trong tư cách là người Tôi Tớ.
Sau khi tỏ cho các ông về cuộc khổ nạn mà Đấng Kitô – Thiên Sai sẽ phải chịu, thì cũng ngay lập tức Ngài mời gọi các ông: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Thật tiếc thay cho Phêrô! Ông tuyên tín thì mạnh mẽ, nhưng khi nói đến sự vâng phục và con đường khổ giá mà Thầy sẽ đi để cứu chuộc nhân loại, thì ông đã thất vọng và lên tiếng can ngăn Ngài. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Đức Giêsu, và một cách vô tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô theo thánh ý Thiên Chúa Cha.
Như thế, ông đã lộ rõ tính thực dụng của mình khi đặt niềm tin vào một Đấng Thiên Sai đến giải phóng dân tộc theo nghĩa chính trị. Vì thế, ông đã bị Đức Giêsu quở trách thật nặng nề: “Satan! Lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thên Chúa mà là của loại người”.
Trong cuộc sống đạo của chúng ta, nhiều khi không khác gì Phêrô. Có những cơn sốt sắng nổi lên thì thề sống chết với Chúa và trung thành đến cùng với Ngài, nhưng sau đó, khi thử thách hay những khó khăn gặp phải, chúng ta bắt đầu suy xét lại và đem so sánh thiệt hơn với đời. Những lúc như thế, chúng ta đã lập lờ và nhùng nhằng, so đo tính toán...
Nên nhớ quy tắc căn bản của sứ điệp Lời Chúa hôm nay:
Thiên Chúa không bao giờ cất khỏi đau khổ cho con người. Nhưng ngược lại, Ngài sẽ tiếp tục gửi đau khổ đến cho những ai Ngài thương mến. Cũng như chính Ngài, Đức Giêsu luôn luôn mời gọi chúng ta đón nhận đau khổ và chiếu dọi yêu thương vào đó thì đau khổ sẽ có ý nghĩa và nở hoa cứu độ. Nếu không có yêu thương thì thập giá mãi mãi đè bẹp chúng ta, nhưng chúng ta đón nhận và vác lấy trong tình yêu thì nhờ thập giá sẽ trở thành con đường dẫn đến vinh quang, đau khổ sẽ thành biểu tượng tình yêu.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta ơn can đảm để lựa chọn và sống mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời. Để ngang qua lòng mến, chúng ta được ơn cứu chuộc. Amen.
Ngọc Biển SSP
- 20/02 Tuyên xưng của Phêrô
- 19/02 Người mù Bếtsaiđa
- 18/02 Phó thác cho tình yêu Thiên Chúa
- 17/02 Xin điềm lạ
- 16/02 Chúa Giêsu: không hủy bỏ, nhưng kiện toàn Luật
- 15/02 Phép lạ Bánh hóa nhiều lần 2
- 14/02 Chúa Giêsu và người điếc
- 13/02 Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo
- 12/02 Tinh sạch tinh thần
- 11/02 Điều chính yếu của Tin Mừng