Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
13/07 Phần thưởng môn đệ Chúa
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Phần thưởng môn đệ Chúa.
Thứ Hai tuần 15 thường niên.
"Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo".
Lời Chúa: Mt 10,34 - 11,1
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy.
Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành phố của các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Không xứng với Thầy
Suy niệm:
Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với bản Tiến Quân Ca bất hủ.
Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít được ai biết đến.
Ông có làm một bài thơ ngắn Không Đề như sau:
“Con thuyền đi qua để lại sóng.
Đoàn tàu đi qua để lại tiếng.
Đoàn người đi qua để lại bóng.
Tôi không đi qua tôi để lại gì ?”
Ông muốn để lại chút gì cho đời của kẻ đã mang tiếng ở trong trời đất.
Và ông hiểu rằng mình không thể để lại gì, nếu không vượt qua chính mình.
Cái tôi và tất cả những gì thuộc về nó, đều là đối tượng phải vượt qua.
Vượt qua cái tôi không làm tôi mất nó, nhưng lại được một cái tôi viên mãn.
Phải chăng đó là điều Văn Cao, một Kitô hữu ẩn danh đến lúc chết,
muốn gửi gấm qua những vần thơ này ?
Có những giá trị hầu như được mọi người nhìn nhận.
Có những giá trị thiêng liêng máu mủ như cha mẹ, con cái.
Đặc biệt trong xã hội Do thái, hiếu thảo với cha mẹ là điều được đề cao.
Đức Giêsu cũng đã phê phán thái độ bất hiếu đối với cha mẹ (Mt 15, 3-6).
Mạng sống của con người cũng là một giá trị cao quý.
Đụng đến mạng sống con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa,
như ta thấy trong chuyện Cain giết em là Aben (St 4, 9-10).
Trước những giá trị thiêng liêng như thế, ta cần yêu mến, giữ gìn.
Yêu cha, yêu mẹ, yêu con trai, con gái, là những điều hợp đạo lý.
Giữ gìn mạng sống của mình là điều phải làm.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đưa ra một đòi hỏi mới mẻ và đáng sợ.
Ngài không cấm các môn đệ yêu cha mẹ, con cái, hay mạng sống,
vì đó là những giá trị thiêng liêng cao quý.
Nhưng Ngài không chấp nhận họ yêu những giá trị này hơn Ngài.
Ngài không muốn họ đặt Ngài ở dưới những giá trị đó.
Đơn giản Ngài muốn họ coi Ngài là một Giá Trị hơn hẳn, Giá Trị viết hoa.
Khi cần chọn lựa giữa các giá trị, Ngài đòi họ ưu tiên chọn Ngài.
Cụm từ “không xứng đáng với Thầy” được nhắc đến ba lần (cc. 37-38).
Chỉ ai dám yêu Ngài hơn người thân yêu, dám vác thập giá mình mà theo,
người ấy mới xứng đáng với Thầy.
Chỉ ai dám mất mạng sống của mình vì Thầy,
người ấy mới lấy lại được sự sống tròn đầy ở đời sau (c. 39).
Đức Kitô là ai mà đòi chúng ta phải đặt Ngài lên trên các thụ tạo như vậy,
nếu Ngài không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa?
Đừng quên chính Ngài đã mất mạng sống mình vì tôi trước.
Chỉ khi tôi đi qua tôi, nhờ đặt tôi và mọi sự thuộc về tôi dưới Đức Kitô,
tôi mới có gì để lại cho đời, tôi mới giữ lại được mọi giá trị khác.
Xin làm được điều thánh Biển Đức dạy:
“Phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Kitô.”
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,
để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động,
để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: BÌNH AN CỦA CHÚA
Chúa Giêsu đến khiến người ta phải dứt khoát chọn lựa. Hoặc Chúa hoặc ma quỉ. Hoặc trần gian hoặc Nước Trời. Chọn lựa đó dẫn đến hai con đường khác nhau.
Trần gian tìm thu tích vun quén cho mình. Vì thế nên áp bức bóc lột người khác. Mạnh được yếu thua. Trần gian được thể hiện rõ nét trong toan tính của Pha-ra-ô. Để bảo vệ quyền lực và để làm giầu cho mình, Pha-ra-ô ra lệnh giết con trai của người Do thái. Và bắt người Do thái làm nô lệ (năm lẻ).
Trần gian trở thành tinh vi hơn khi ngụy trang dưới lớp vỏ đạo đức. Người Do thái một mặt thờ kính Chúa rất sốt sắng. Dâng rất nhiều lễ vật. Nhưng mặt khác lại không ngừng phạm tội ác, áp bức bóc lột đồng loại. Chúa dùng I-sa-i-a cảnh báo họ đó là lối sống đạo không đẹp lòng Chúa (năm chẵn).
Trái lại người đi theo Chúa phải luôn từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Dù đó là cha mẹ, anh em, con cái. Thậm chí phải bỏ chính mình, bỏ cả mạng sống mình nữa.
Nhưng kết quả thật khác xa. Kết quả trước mắt là bình an. Người chỉ lo chiếm đoạt và ức hiếp bóc lột sẽ tạo ra chiến tranh, bất bình. Bản thân người chỉ lo tính toán để hại người cũng không được bình an. Những nhà độc tài luôn lo sợ và nghi ngờ. Dục vọng làm cho tâm hồn con người không bao giờ an nghỉ.
Trái lại những người theo Chúa, từ bỏ mình lại luôn được bình an. Một niềm bình an sâu thảm vì đã thoát được tất cả những dục vọng, thèm muốn, chiếm đoạt. Và nhất là vì đã được chính Chúa làm phần thưởng.
Trong tầm nhìn cánh chung, những người chỉ lo thu tích, chiếm đoạt bằng áp bức bóc lột người khác sẽ mất tất cả khi bước vào đời sau. Tệ hơn thế, họ còn bị xét xử, kết án và bị trừng phạt.
Trái lại những người đã biết cho đi, quên mình sẽ được phần thưởng trọng hậu. Ngay cả những cử chỉ bác ái quên mình bé nhỏ như cho một ly nước lã thôi, Chúa cũng ghi nhớ và thưởng công xứng đáng. Khi sống quên mình và biết nghĩ đến người khác, người môn đệ kiến tạo hòa bình trên thế giới. Đó là nền hòa bình chân thực phát xuất từ tâm hồn. Đó là bình an của Chúa.
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Suy Niệm 3: Chúa Sẽ Ðền Bù
Có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay cho hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.
Chắc chắn, khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để họ phải thất vọng, Ngài sẽ đền bù vượt quá sự chờ đợi của họ. "Ðón tiếp một tiên tri, sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; đón tiếp người công chính, sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; đón tiếp kẻ rao giảng, sẽ nhận được phần thưởng dành cho kẻ rao giảng". Người môn đệ của Chúa đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung thành trong bổn phận của mình mà thôi.
Với Thiên Chúa, dù công khai hay âm thầm, sứ mệnh kẻ rao giảng bao giờ cũng cần thiết. Thiên Chúa luôn cần đến những người ngày đêm nhiệt thành rao giảng và làm chứng cho Ngài bằng đời sống hoạt động tông đồ, nhưng Ngài cũng cần đến những người hỗ trợ cho công việc tông đồ bằng đời sống âm thầm cầu nguyện và hy sinh. Lịch sử chỉ nhớ đến những vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại hết những khuôn mặt đã góp phần vào đời sống của các vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại ghi nhớ tất cả, Ngài không bỏ sót một khuôn mặt nào, và phần thưởng của họ cũng có giá trị như của các vĩ nhân.
Xin Chúa cho chúng ta biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng những đóng góp nhỏ bé trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Dù chỉ là những việc nhỏ bé, âm thầm, không được ai biết đến, nhưng chúng ta hãy tin rằng chúng vẫn hiện diện và có giá trị trước mặt Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thực hành giới răn của Chúa (Mt 10,34-11,1)
Với cái nhìn trần tục, chúng ta có thể cho rằng những lời dạy của Chúa Giêsu cho các đồ đệ xem ra thật chói tai: "Thầy đến để đem chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ. Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy. Ai không vác thập giá mình hàng ngày mà theo Thầy, thì cũng không xứng đáng làm môn đệ Thầy".
Thử hỏi, trên trần gian này có ai dám yêu cầu những điều như vậy nơi những kẻ theo họ không? Nhưng Chúa Giêsu đã không ngần ngại dùng ngôn ngữ như vậy, để khắc ghi mạnh mẽ vào tâm trí những người nghe điều Người muốn nói trong cách thức phù hợp với tâm thức của những người đương thời.
Thật vậy, để nhấn mạnh điều gì đó người ta thường dùng cách nói táo bạo, nghịch lý thường tình như những lời chúng ta vừa đọc lại trên: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy". Chúa muốn chỗ ưu tiên trên hết mọi người và mọi sự. Chính vì vậy mà sự hiện diện của Chúa là dấu gây nên mâu thuẫn, gây chia rẽ: "Thầy không đến mang sự bình an, nhưng chia rẽ. Thầy đến để chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ".
Sự trung thành với Chúa, việc sống thực hành những giới răn Chúa làm cho mỗi người Kitô trở thành như kẻ thù của chính người thân thuộc, vì nếp sống mới mẻ của người Kitô không phù hợp với nếp sống trần gian, tinh thần Phúc Âm không phù hợp với tinh thần phàm tục. Luật Chúa luôn luôn dạy điều nghịch lại những ước mơ ích kỷ của con người. Giáo huấn Phúc Âm không bao giờ là điều tiện lợi dễ dàng. Thánh giá hy sinh là chiều kích không thể nào tách rời ra khỏi cuộc đời của người theo Chúa. Thánh giá là dấu chỉ, là bằng chứng của tình yêu.
Nhìn vào Chúa Giêsu, Thầy chúng ta, bị treo trên thập giá, chúng ta hiểu được mức tận cùng của tình yêu đích thực. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi trao nộp Con Một của Ngài cho thế gian giết chết trên thập giá. Hy sinh mạng sống mình cho Chúa và anh chị em, đó là vận mệnh không thể tránh được của người Kitô. Ðể theo Ngài trọn vẹn, trung thành cho đến cùng, người đồ đệ cần nhiều can đảm, hy sinh và ơn soi sáng hướng dẫn Chúa.
Lạy Chúa, Xin đổ tràn tình yêu Chúa xuống trên chúng con, để chúng con sống trung kiên với Chúa và quảng đại với anh chị em chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Chúa Giêsu không đem đến bình an
“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.”
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì sẽ không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt. 10, 34. 38-39)
Những lời gây kinh ngạc
Nếu có ai hỏi ta Chúa Giêsu đến mang lại và dạy dỗ cho con người cái gì, ta sẽ trả lời rằng Chúa đến dạy người ta biết sống yêu thương nhau; Người đem hòa bình, Người hiệp nhất những ai chia rẽ. Và chúng ta sẽ có thể trưng ta nhiều câu Phúc Âm minh chứng rằng vì những mục đích trên, mà Chúa Giêsu đã làm người ở giữa chúng ta, đã chết và sống ại vì hạnh phúc loài người.
Vậy thì những lời của Phúc Âm vừa nghe, quả làm ta ngạc nhiên Chúa Giêsu khẳng định rằng Người “Không đến đem bình an cho trái đất, nhưng để đem gươm giáo”. Người dám nói rằng Người đến: “Để gây chia rẽ giữa con trai với cha mình, giữa con gái với mẹ…” Chúa Giêsu Người gieo rắc chia rẽ! Chúa Giêsu gây chia rẽ hơn là tạo hiệp nhất! Có ai dám nghĩ như vậy không? Ai mà cho rằng những lời đó là từ môi miệng Chúa? Vậy mà đúng như thế đó.
Những sự kiện minh chứng.
Ta nên lưu ý rằng Chúa Giêsu không khẳng định là Người có chủ tâm gây chia rẽ người ta. Người chỉ nhìn nhận sự kiện xảy ra. Người ta sẽ bất đồng ý kiến với nhau về Người. Có những người sẽ ủng hộ Người, người khác lại chống đối Người. Sẽ có những hiểu lầm, những cắt đứt quan hệ, những xung đột ở khắp nơi trên thế giới và ngay cả trong các gia đình, là vì Người và vì giáo huấn của Người.
Đó chính là điều vẫn xảy ra, mãi mãi những kẻ tin và những kẻ không tin Chúa Kitô vẫn xung khắc với nhau. Mãi mãi chồng và vợ, cha và con chia rẽ nhau và gây khổ cho nhau vì đôi bên không cùng một lập trường khi phải đối mặt với giáo huấn của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu lúc nào cũng vẫn muốn gieo sự bình an, nhưng Người cũng là con người thực tế, vì biết rằng trên trần gian Người sẽ mãi mãi là chủ đề gây trang cãi, chống đối và chia rẽ vậy.
J.Y.G
Suy Niệm 6: HÒA BÌNH TRONG CHÂN LÝ (Mt 10, 34 - 42; 11, 1)
Sống trong bối cảnh xã hội hiện nay, chúng ta thấy tình hình căng thẳng trên Biển Đông ngày càng leo thang! Các nước có liên quan đã lên án sự ngang ngược, cách hành xử vô lý của Trung Quốc muốn bá chủ vùng Biển này. Đồng thời người ta lo ngại sẽ xảy ra chiến tranh!
Qua câu chuyện Biển Đông, người dân đều mong muốn có hòa bình, không chiến tranh. Tuy nhiên, ai cũng biết, muốn không xảy ra đụng độ, các bên phải ngồi lại để đàm phán, tôn trọng và chấp nhận sự thật. Có thế, chúng ta mới hy vọng hòa bình lặp lại trên Biển Đông.
Hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố một câu xem ra rất nghịch lý: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà" (Mt 10, 34-36). Thoạt nghe, chúng ta thấy xem ra có vẻ mâu thuẫn, bất thường và khó hiểu. Tuy nhiên, đi vào chiều sâu của vấn đề, chúng ta mới thấy sáng tỏ một chân lý, đó là: chỉ có bình an đích thực khi chấp nhận sự thật; chấp nhận loại trừ những sai quấy. Bao lâu ta còn để cho sự ác, bất công, gian dối lộng hành, thì bấy lâu chúng ta không có bình an, nếu có, cũng chỉ là thứ bình an giả tạo.
Như thế, chúng ta cũng đâu lạ gì khi trong gia đình có những thành phần chống đối nhau. Tại sao thế? Thưa, chỉ vì có những chuẩn mực trong cuộc sống, những lựa chọn khác nhau, dẫn đến hệ quả khác nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải đắn đo và cẩn trọng khi chọn lựa. Khi đã chọn điều tốt, phải kiên trì bảo vệ để đạt được sự bình an đích thực.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chiến đấu trong sự thiện, để luôn đứng về phía sự thật, hầu đem lại sự bình an thực sự. Amen.
Ngọc Biển SSP
12/07 Hạt giống gieo vào đất tốt
- Viết bởi Mt 13, 1-23
Hạt giống gieo vào đất tốt.
Chúa Nhật 15 Thường Niên năm A.
"Kìa, có người gieo giống đi gieo lúa".
Lời Chúa: Mt 13, 1-23
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
Người nói: "Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe".
Các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành". Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe.
"Vậy, các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường.
Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã.
Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được.
Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Is. 55, 10-11; Rm. 8, 18-23; Mt. 13, 1-23
1. Nghe và hiểu - Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Dụ ngôn người gieo giống đầy tính lạc quan, hy vọng.
Đức Giêsu gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi.
Có hạt bị chim trời ăn mất, khi chưa kịp nảy mầm. Có hạt bị khô cháy khi chưa bám rễ. Có hạt đã thành cây, nhưng bị gai làm chết ngạt.
Thực tế đau buồn ấy làm nản lòng nhiều người.
Đức Giêsu đã gặp biết bao chống đối và thất bại.
Ngài có thật là Đấng được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Nước Trời trên trần gian không?
May thay có những hạt rơi vào đất tốt, và đem lại kết quả gấp bội.
Nhìn vào khuôn mặt của Giáo Hội hôm nay, nhiều người thất vọng trước những khó khăn, khủng hoảng. Đức Giêsu khuyên ta hãy vững lòng. Lời Chúa vẫn còn gặp được mảnh đất phì nhiêu.
Dụ ngôn người gieo giống đòi chúng ta phải xét mình:
Có bao hạt Lời Chúa được gieo vào lòng tôi? Đâu là số phận của chúng?
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên mặt đường. Tôi nghe mà không hiểu. Không hiểu vì không muốn hiểu, vì cố tình né tránh, bởi lẽ Lời Chúa đòi tôi hoán cải và từ bỏ mình. Thế là Lời Chúa trượt đi như nước đổ lá khoai.
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên đất đá. Tôi vội vã, hớn hở đón lấy ngay, nhưng chỉ dừng lại ở bề mặt hời hợt. Lời Chúa không đâm rễ sâu trong mảnh đất đời tôi. Khi thử thách gay gắt của cuộc sống ập đến, tôi té nhào và bỏ cuộc, chẳng dám sống Lời Ngài.
Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trong bụi gai. Bụi gai là nỗi lo âu chuyện đời, là đam mê của cải. Bụi gai bóp nghẹt, làm cây Lời Chúa không sinh trái.
Có hạt rơi vào long tôi như rơi vào đất tốt. Tôi nghe và hiểu. Tôi hiểu được là nhờ dám sống Lời Chúa trong đời. Chỉ ai hiểu nhờ sống mới đem lại mùa bội thu.
Dụ ngôn trên đòi tôi xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi tôi cải tạo lại mảnh đất lòng mình.
Có biết bao gai góc, đá sỏi trong mảnh đất đời tôi. Có bao hạt giống bị mất mát vì tôi từ khước.
Nếu tôi dám để cho một câu Lời Chúa tự do lớn lên thì đời tôi sẽ hoàn toàn thay đổi.
Hôm nay, tôi được mời gọi đi gieo hạt. Nhưng trước hết, tôi cần được Lời Chúa biến đổi, cần hiểu sâu nhờ dám sống Lời Chúa tận căn. Xin Chúa giúp tôi tìm ra những lối gieo mới, để Lời Chúa sai trái hơn trong thế giới hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những trở ngại, từ bên ngoài cũng như từ bên trong, khiến hạt giống Lời Chúa khó nẩy mầm và lớn lên trong bạn?
Có khi nào bạn mê một câu Lời Chúa không? Có khi nào bạn dám sống một câu Lời Chúa không? Có khi nào đời bạn đã hoàn toàn đổi khác, vì bạn gặp được một câu Lời Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
2. Hạt giống gieo vào đất tốt - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Một phái đoàn Việt Nam sang Nhật nghiên cứu về nông nghiệp. Phái đoàn rất ngạc nhiên thấy nhà nông Nhật sản xuất 21 tấn lúa trên một mẫu tây. Ở Việt Nam, mỗi mẫu chỉ sản xuất được 4 đến 6 tấn là khá rồi. Như vậy, một hạt giống của ta chỉ sinh tới 20, 25 lần, còn một hạt giống của nông dân Nhật sinh gấp 70, 80, 90 lần, tương tự như hạt giống trong bài Tin mừng được gieo vào đất tốt nảy sinh gấp 30, 60, 100; còn những hạt rơi xuống vệ đường đá sỏi, bụi gai không sinh lợi gì.
Chắc chắn khi Đức Giêsu giảng dụ ngôn này, trước mặt Người là cánh đồng đang gieo xạ hạt giống. Hẳn người ta rất đau lòng nhìn những hạt giống cắm xuống vệ đường, rơi vào bụi gai, lăn trên đá sỏi. Tội nghiệp cho những hạt giống đó! Tiếc thay biết bao cho người gieo giống, công việc của ông gặp nhiều thất bại. Bao nhiêu hạt giống quý giá ra vô ích.
Đức Giêsu kể dụ ngôn này, Người nói lên chính công việc rao giảng Tin mừng nước Trời của Người cũng gặp nhiều thất bại, nói lên tâm sự thương tiếc của Người. Tâm sự này âm ỉ tới lúc gần về cuối đời đã bật ra tiếng khóc khi Người khóc thương thành Giêrusalem (Lc. 13, 34-35; 19, 41-44).
Phải chăng Đức Giêsu đã khóc thương những thất bại của mình? Khóc thương những hạt giống Tin mừng của Người đã ra vô ích khi rơi xuống dân thành Giêrusalem. Khóc thương lòng người đầy sỏi đá, gai góc?
Người khóc thương những thất bại, nhưng không thất vọng. Thương tiếc mất một số hạt giống này, nhưng còn bao nhiêu hạt giống khác đã nảy sinh gấp 30, 60, 100. Thật kỳ diệu, một kết quả chan chứa hy vọng. Hy vọng đạt được kết quả tốt tuyệt đối, như người đã khẳng định trên thập giá: “Mọi sự đã hoàn thành”. Lời tuyên bố chắc như đinh đóng cột của Đức Giêsu đã củng cố tinh thần các tông đồ, củng cố đức tin của chúng ta.
Khi nhìn ngắm đời sống của Đức Giêsu, lịch sử của Giáo Hội đối với lịch sử của trần gian, dù phải trải qua chồng chất những đau thương, những thất bại. Tin mừng nước Trời vẫn không ngừng phát triển, vẫn sinh hoa kết quả gấp 30, 60, 100. Trong khi đó lịch sử các chế độ trần gian, các vua chúa phàm nhân đã sụp đổ như thành Giêrusalem không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Hai ngàn năm trôi qua, tình yêu Thiên Chúa luôn luôn trải rộng, bao trùm khắp muôn dân. Thế giới cần tình thương đó. Chúng ta cần tình thương đó. Dù trải qua bao đau thương thất bại, chúng ta vẫn lạc quan tin tưởng và hy vọng chắc chắn trời lại sáng, vì “Thầy đã chiến thắng thế gian” chiến thắng bằng tình thương: “thế gian sẽ thuộc về ai yêu thương nó”.
Muốn chiến thắng thế gian, muốn sinh hoa kết quả gấp 30, 60, 100, ta phải biến lòng mình thành tình thương tin mừng cứu độ, phải cải tạo đất xấu thành đất tốt, những đất vệ đường, sỏi đá, bụi gai thành đất phì nhiêu màu mỡ.
Cải tạo lối sống lang thang trôi dạt theo quỷ dữ, theo những kẻ xấu xa tội lỗi, thành lối sống theo Đức Giêsu đi rao giảng Tin mừng.
Cải tạo lối sống vui chơi, lăn lộn trên những đá sỏi ồn ào, vô trật tự, thành lối sống kiên trì hy sinh, chịu đựng mọi gian nan, khó khăn thử thách, bách hại để vác Thập giá mình theo chân Đức Giêsu.
Cải tạo lối sống chôn vùi vào những việc đời, đam mê danh, lợi, sắc, thành lối sống đi tìm nước Trời cho mình và cho mọi người trước đã, còn mọi sự Chúa sẽ ban cho.
Khi cải tạo lối sống của mình được như thế, tâm hồn ta mới thành đất tốt sẽ nẩy sinh lòng tin mạnh mẽ, đón nhận đức tin sống động, đức tin sống động bởi tình thương Thiên Chúa. Lúc đó, chúng ta mới có thể theo Đức Giêsu đi chiến thắng thế gian và gặt hái được một mùa màng bội thu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thương tiếc bao nhiêu hạt giống bị cướp mất, bị cháy khô, bị chết nghẹt. Sao con dám lờ đi trước những thảm bại đó? Xin cho con nhiệt tâm cải tạo đời con trở thành đất tốt cho lời Chúa sinh hoa kết quả gấp 30, 60, 100. Amen.
3. Đất tốt
Hãy trở thành một mảnh đất tốt để hạt giống được gieo xuống sinh nhiều hoa trái. Như chúng ta đã biết Lời Chúa được ví như hạt giống mà người nông phu mang đi gieo. Để hạt giống có thể nẩy mầm lớn lên, đâm bông và kết trái, thì trước hết nó phải mục nát hoà tan vào với đất. Chúa Giêsu chính là lời của Thiên Chúa, một thứ hạt giống được gieo vào lòng nhân loại. Để có thể đến với lòng người, tạo được một niềm tin và một tình mến, từ đó làm phát sinh cuộc sống mới, Chúa Giêsu đã phải trải qua những khổ đau nhất là cái chết nhục nhã trên thập giá. Với cái chết này, Ngài và những kẻ tin nơi Ngài, mỗi ngày một đông, được dẫn đến vinh quang của Thiên Chúa.
Giáo Hội có thể thực hiện sứ mạng Chúa Giêsu trao phó một cách có hiệu quả cao, không thể không đi theo con đường của Chúa Giêsu. Giáo Hội là như một hạt giống được gieo vào lòng thế giới, thế nhưng hạt giống chỉ đâm bông kết trái khi Giáo Hội thực sự chia sẻ không chỉ những vui mừng và hy vọng, mà cả những lo âu, những khắc khoải, những khó khăn của thế giới. Đồng thời Giáo Hội cũng như mỗi người chúng ta đều được kêu gọi để trở thành những mảnh đất tốt cho Lời Chúa thực sự đem lại kết quả. Chúa Giêsu đã rao giảng Tin Mừng cứu độ của Ngài hầu như ở khắp nơi. Số người nghe Ngài giảng dạy thật nhiều. Nhưng không phải tất cả những ai nghe Ngài đều tin Ngài, trái lại có những người nghe Ngài rồi bỏ đi, vì họ thấy lời Ngài khó nghe hay khó thực hiện.
Có những người càng nghe Ngài lại càng thêm căm phẫn đối với Ngài để rồi cuối cùng bày mưu tính kế để thủ tiêu Ngài. Cũng có những người nghe lời Ngài nhưng lại chẳng hiểu gì hay chẳng có được một hiệu quả nào. Sở dĩ như vậy là vì lòng trí họ còn đuổi theo những mưu đồ những toan tính, hay đã ra chai đá và xơ cứng vì những giáo điều, hay vì những đam mê dục vọng. Lời Chúa và con người cũng như cuộc đời họ là những khối khác nhau, không thể hoà vào được với nhau. Mảnh đất tốt đối với Lời Chúa là những ai nghe lời Ngài, đem lòng suy nghĩ, tìm hiểu, nhào nặn cuộc đời mình theo những đòi hỏi của Chúa, và cuối cùng thực thi Tin Mừng của Ngài trong chính cuộc đời thường ngày của mình. Mảnh đất tốt chính là những tâm hồn bé mọn, những con ngườikhông có những kho lẫm quyền lực để bám víu, và do đó luôn sẵn sàng mở rộng lòng trước lời mời gọi của Chúa. Còn chúng ta thì sao. Chúng ta đã thực sự trở nên những mảnh đất tốt cho Lời Chúa được lớn lên và đem lại nhiều hoa trái hay chưa?
4. Gieo giống
Bác nông phu đi ra ruộng và gieo hạt giống. Đây là một hình ảnh đẹp và quen thuộc. Bác nông phu đi với dáng bộ nghiêm trang và thận trọng, vai đeo thúng lúa. Ông thọc tay phải vào thúng, bốc hạt giống xạ xuống trên ruộng đồng theo nhịp chân bước. Người gieo giống đi gieo và đã xảy ra là có những hạt rơi trên vệ đường và chim trời đến ăn mất. Những hạt khác rơi trên sỏi đá, chúng mọc lên nhưng vì không đủ đất, cho nên bị ánh nắng mặt trời làm cho khô héo. Còn những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm cho chúng chết ngạt. Và sau cùng, những hạt khác rơi vào đất tốt, chúng sinh hoa kết quả, có hạt được 100, hạt 60, hạt 30.
Chúng ta có thể nghĩ rằng: gieo giống gì mà kỳ lạ quá vậy. Tại sao không gieo trên đất tốt, mà còn gieo cả trên vệ đường, trên đất xấu và cả vào trong bụi gai. Gieo như thế vì đó là phương pháp làm ruộng của người dân miền Palestina. Họ có cách gieo giống khác với chúng ta. Họ gieo giống trước rồi mới cày úp sau. Vì vậy, ông bạn gieo giống trong dụ ngôn, đi gieo trong ruộng chưa cày bừa chi cả. Suốt thời gian đất nghỉ, dân làng thường đi tắt qua những thửa ruộng đã gặt hái chỉ còn lại những gốc rạ. Vậy khi gieo, ông ta đã tung hạt giống trên cả thửa ruộng, trên cả những con đường tắt này với ý định là sẽ cày cả con đường này lên, nhưng chim trời đã nhìn thấy những hạt giống đó và đã ăn mất trước khi chúng nẩy mầm. Ông cũng chủ ý gieo vào cả bụi gai khô héo vì ông cũng định cày cả đám gai này nữa. Nhưng hạt gai đã rụng xuống đất, lại được cày úp lẫn lộn với những hạt lúa, do đó gai mọc lên và làm cây lúa non chết ngạt. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy những hạt rơi trên sỏi đá. Đó là lớp sỏi đá cứng nằm ngầm dưới mặt đất, chỉ có một lớp đất mỏng phủ trên, người ta không trông thấy và chỉ khám phá ra khi lưỡi cày đụng phải. Nếu gặp lớp sỏi đá này, rễ lúa không thể đâm sâu xuống được và ánh nắng mặt trời sẽ làm cho chúng khô héo. Hình như người gieo giống không mấy lạc quan với công việc của mình. Nhưng may thay, phần lúa giống còn lại rơi trên đất tốt và đã sinh hoa kết quả tốt đẹp, hạt được 30, 60 hay 100.
Dĩ nhiên chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu đang giảng bằng dụ ngôn, và chân lý tôn giáo được núp sau hình ảnh của dụ ngôn đó. Điều này thực sự muốn nói là kết quả của lời Chúa. Lời ấy có khả năng phát triển và sinh hoa kết trái cách phi thường trong lòng người. Chính thánh Marcô đã cắt nghĩa dụ ngôn này một cách vắn tắt: Người gieo giống là chính Thiên Chúa và hạt giống là Tin Mừng, hay nói một cách khác, chính Chúa Giêsu là người gieo giống và hạt giống là những lời Ngài giảng dạy, còn tâm hồn chúng ta là những thửa đất. Thế nhưng những thửa đất ấy giờ đây như thế nào?
Lời Chúa nơi chúng ta không phải là những hạt giống rơi trên vệ đường, rơi giữa bụi gai hay ở trên sỏi đá. Nhưng lời đó phải được thâm nhập vào tận đáy lòng chúng ta để rồi sinh hoa kết trái một cách tốt đẹp. Lời Chúa luôn có một sức sống làm nẩy sinh hoa trái, nhưng lời ấy có thực sự đem lại kết quả tốt cho tâm hồn chúng ta hay không, thì còn tuỳ thái độ đón nhận và cộng tác của chúng ta đối với lời Chúa.
5. Lòng quảng đại Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Tâm hồn con người vẫn được ví như thưở ruộng. Ngay từ nhỏ được gieo vào đó biết bao điều hay điều dở. Cái tốt, cái xấu. Cái trí thức, cái lạc hậu... Người may mắn là được cha mẹ hướng dẫn chắt lọc cái hay bỏ cái dỡ. Lấy cái tốt bỏ cái xấu. Người tốt là người biết mở rộng lòng đón nhận lời hay lẽ phải để sống cho nên người. Người xấu là người thích tự do phóng khoáng và không đi theo thuần phong mỹ tục của luân thường đạo lý.
Kinh nghiệm dân gian khi nói về những con người sống bỏ ngoài tai lời dạy của bề trên bằng câu ca dao:
Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Đây là bài học thực tiễn hết sức giản đơn. Khi mua cá ở chợ về, muốn giữ được tươi lâu, người ta mổ sạch sẽ rồi đem ướp muối. Cá thấm muối, thịt săn chắc, khi chế biến thành món ăn, hương vị sẽ đậm đà. Ngược lại, nếu để lâu không ướp muối, cá sẽ ươn, ăn mất ngon.
Con cái không nghe lời dạy bảo của cha mẹ khác nào như cá không ăn muối, sẽ hư hỏng, không thể trở thành người tốt được. Xã hội cũng có những quy định những luật lệ nếu ai không sống theo luân thường đạo lý cũng tựa như cá không thấm muối sẽ trở thành người hư hỏng.
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đón nhận hạt giống Nước Trời là Đức Giêsu - Ngôi Lời của Thiên Chúa Nhập thể ở cùng nhân loại qua mọi thời. Hạt giống này sẽ được Giáo Hội, được các môn đệ của Đức Giêsu mọi nơi và mọi thời gieo vào khắp nơi, trong lòng mọi người, không phân biệt một ai, nhưng việc sinh hoa kết quả hay không thì sẽ tùy thuộc vào lòng người đón nhận.
Đây cũng là một lời nhắc nhở chúng ta đừng để cho lòng mình thành sỏi đá khô khan hay thành đường đi với lối mòn vô tâm và lạnh nhạt, cũng đừng biến lòng mình thành bụi gai của lòng tham tiền tài danh vọng mà bóp nghẹt hạt giống lời Chúa, nhưng hãy là mảnh đất được cày xới làm cho mầu mỡ phì nhiêu để cho hạt giống lời Chúa nảy mầm và sinh hoa kết quả dồi dào.
Nhưng xem ra với thế giới hưởng thụ đã khiến con người trở thành thuở đất đang bóp nghẹt lời Chúa bởi đam mê danh lợi thú trần gian. Nhiều người bỏ ngoài tai chân lý và sự thật. Họ chỉ tìm kiếm tiền, lợi lộc và đam mê xác thịt. Họ để cho tham sân si chế ngự khiến họ không còn sống theo sự thật và công lý.
- Ở đâu đó ta vẫn thấy có những người đang tìm kiếm thú vui xác thịt bất chính mà sống sai luật Chúa và Giáo hội.
- Ở đâu đó ta vẫn thấy những con người nguội lạnh thờ ơ với đức tin vì chạy theo danh vọng trần gian.
- Ở đâu đó ta vẫn thấy những người mang danh Công Giáo nhưng vẫn sống thiếu công bình bác ái, đôi khi còn sống thù hận, tranh chấp, loại trừ lẫn nhau.
- Ở đâu đó ta vẫn thấy những cuộc tranh chấp hơn thua, tố tụng nhau đôi khi còn vu khống, cáo gian nhau.
- Dầu vậy, ta vẫn thấy những mảnh đất tốt giữa cánh đồng xấu. Đó là những người thiện chí sống đời công chính. Họ không chạy theo gian tà. Không vì tiền mà bỏ Chúa. Vì danh vọng mà sống sai luật Chúa. Không vì quyền lực mà làm hại anh em. Họ vẫn sống theo tin mừng dù thiệt thòi nhưng lòng họ vẫn thanh thản bình an.
Đây là thuở ruộng đẹp mà người ky-tô hữu cần phải vn trồng nơi trần gian. Người ky-tô hữu cần phải tự canh tân mình theo ánh sáng tin mừng để Lời Chúa đơm hoa kết trái trong cuộc đời chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống theo tin mừng để trở thành muối ướp mặn trần gian và thành men yêu thương thẩm thấu vào trong từng ngõ ngách cuộc đời hôm nay. Amen.
6. Gieo hạt giống cho mình
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Khao khát hạnh phúc là lẽ thường của con người. Ai cũng đi tìm hạnh phúc. Ai cũng mong hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc không phải là trái, là hoa mà hạnh phúc là hạt giống mình phải gieo vãi mới mong gặt hái được niềm vui hạnh phúc. Hạnh phúc không chỉ là đón nhận mà quan yếu là trao ban. Người đón nhận là kẻ yếu. Người trao ban mới là kẻ mạnh. Trao ban là gieo vãi hạnh phúc. Càng gieo vãi nhiều tình yêu, càng gặt hái nhiều hạnh phúc. Càng gieo vãi điều thiện, điều tốt càng thu nhận về nhiều niềm vui. Đó là quy luật thường tình “có gieo có gặt” và “gieo gì gặt nấy”.
Người ta kể rằng: Tại một vùng miền quê nọ có một người nông dân trồng được giống ngô rất tốt. Năm nào những cây ngô của ông cũng cho ra những bắp ngô vừa to, vừa thơm ngon, hạt nào cũng đều tăm tắp. Hàng năm ông đem ngô tới hội chợ của vùng để thi và lần nào cũng giành giải nhất. Ai cũng cho rằng hẳn ông đang sở hữu một bí quyết nào đó.
Ngày nọ. một phóng viên đến phỏng vấn ông, anh ta rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng người nông dân luôn chia sẻ những hạt giống ngô tốt nhất của mình với những người hàng xóm ở các trang trại xung quanh.
Tại sao ông lại chia sẻ những hạt giống tốt nhất của mình cho những người hàng xóm và cũng là đối thủ trong các cuộc thi ngô hàng năm? - Người phóng viên hỏi.
- Ồ, anh không biết à? - Người nông dân trả lời - Gió sẽ mang những hạt phấn hoa từ cánh đồng này sang cánh đồng khác. Nếu những người hàng xóm của tôi chỉ trồng những cây ngô không tốt thì rõ ràng, khi ngô được thụ phấn nhờ gió sẽ làm giảm chính chất lượng ngô của tôi. Tôi muốn trồng ra những cây ngô tốt thì tôi cũng tôi cũng phải giúp những người xung quanh trồng được ngô tốt đã!
Hóa ra cuộc sống chỉ nhận lại những cái mình đã cho đi. Người nông dân này thật khôn ngoan, anh biết rằng nếu mình cho đi những giống ngô tốt thì sẽ nhận lại những phấn hoa tốt cho chính vườn ngô của mình. Cuộc sống con người xem ra cũng chỉ nhận được tình yêu thương, sự quan tâm trìu mến của tha nhân nếu chúng ta biết san sẻ cho họ những việc lành bác ái của chúng ta.
Nhưng đáng tiếc xã hội hôm nay thật thực dụng. Người ta ít quan tâm tới người khác. Người ta chỉ tích lũy, vun quén mà quên rằng phải san sẻ để được lợi hơn. Người ta thích hái quả hạnh phúc mà ngại gieo trồng. Đôi khi lại gieo những trái đắng, trái sầu cho anh em qua những việc làm thiếu tình người, và có khi còn ác nhân ác đức...
Là người ky-tô hữu Chúa mời gọi chúng ta hãy chăm sóc hạt giống tốt mà Chúa đã gieo sẵn trong lòng chúng ta. Chúa bảo chúng ta hãy để cho Lời Chúa được đơm bông kết trái trong cuộc sống chúng ta. Chúa dạy chúng ta hãy để cho cái chân thiện mỹ trổ sinh muôn vàn việc tốt lành trong con người chúng ta. Đừng để cho những hạt giống chết nghẹt vì lòng chai cứng trong đam mê tội lỗi. Đừng để cho những hạt giống èo uột bởi sự lười biếng, ngủ mê trong danh lợi thú trần gian. Hãy để cho ánh sáng của Lời Chúa làm trổ sinh một tâm hồn thánh thiện, bác ái yêu thương.
Ở đời người ta bảo rằng: “gieo gì gặt nấy”. Nếu muốn thành công hãy giúp người khác thành công. Nếu muốn vui vẻ hãy làm cho người khác vui tươi. Nếu muốn có ngô tốt hãy chia sẻ giống tốt cho mọi người... Nếu đã đón nhận nhưng không từ ân ban của Thiên Chúa thì hãy biết rộng rãi trao ban.
Có một chân lý hiển nhiên là chúng ta chỉ hạnh phúc khi những người chung quanh cũng hạnh phúc. Vì con người có một mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau, đến nỗi “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Vì “không ai là một hòn đảo”, thế nên phải biết sống mình vì mọi người và cho mọi người, có như vậy chúng ta mới gặt hái được những nghĩa cử yêu thương. Amen.
7. Tôn giáo có ích gì?
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một lần người thợ làm xà bông và một vị giáo trưởng đi dạo và chuyện trò với nhau. Người thợ làm xà bông đã nói:
- Tôn giáo có ích gì? Tôn giáo nào cũng rao giảng chân lý, bình an, lòng thiện hảo. Nhưng ngài hãy nhìn vào thực trạng của thế giới: chiến tranh, đói khổ, và bao nhiêu hệ lụy khác xem ra sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Tôn giáo đâu có giúp được gì cho nhân loại?
Vị giáo trưởng im lặng và hai người tiếp tục đi qua một khu phố nghèo. Tại một con hẻm lầy lội, vị giáo trưởng chỉ vào một em bé ăn mặc bẩn thỉu, và nói:
- Ông hãy nhìn đứa bé kia. Ông cho rằng xà bông để tẩy xóa nhơ bẩn trên thân thể và quần áo của con người. Vậy ông hãy thử nhìn đứa bé kia. Xà bông của ông để làm gì? Với tất cả mọi thứ xà bông hiện có trên thế giới, đứa bé nhơ bẩn này vẫn cứ nhơ bẩn. Tôi chẳng biết xà bông dùng để làm gì?
Nghe lời ấy, người thợ làm xà bông cãi lại:
- Nó dơ bẩn là tại nó. Xà bông sẽ không có ích gì, nếu người ta không sử dụng nó.
Bấy giờ vị giáo trưởng mới nhỏ nhẹ nói:
- Ðúng thế, xà bông sẽ vô ích, nếu người ta không sử dụng nó. Tôn giáo cũng vậy. Tôn giáo sẽ vô ích nếu con người không sống theo tôn giáo của mình.
Lời Chúa hôm nay được diễn ta qua dụ ngôn người đi gieo giống. Thiên Chúa là người đi gieo giống. Ngài đã gieo lời Ngài xuống thế gian. Trải qua suốt dọc dài lịch sử cứu độ. Ngài đã gieo qua các tổ phụ, các tiên tri và thời sau hết qua Con Một Chí ái là Đức Giêsu Kytô. Thế nhưng số phận của những hạt giống đó thật đáng thương: bị quên lãng, khước từ và bỏ ngoài tai,...
Chúa Giêsu đã khéo léo đưa ra nguyên do sự hư hại của hạt giống. Đó là do sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ một phần tư số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái.
Đó cũng là lý do đưa đến sự ác nhiều hơn sự thiện. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự bất công và sa đọa vẫn đầy dẫy trên mặt địa cầu. Cho dù giáo huấn và lề luật của Chúa đã được ban ra, được gieo vãi khắp nhân gian, nhưng mấy ai đã đón nhận và đem ra thực hành?
Nhìn vào thế giới hôm nay, còn quá nhiều lề thói xa hoa trụy lạc, lề thói vô lương tâm và vô liêm sỉ. Đó chính là những lối mòn mà kẻ qua người lại tấp lập khiến nhiều người đánh mất ý thức về tội. “Người ta làm mình cũng làm. Người ta làm bậy mình cũng làm theo”. Như hiện trạng phá thai, nghiện ngập sì ke ma túy và bây giờ là thuốc lắc tổng hợp của Việt Nam hôm nay. Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng gần 2 triệu thai nhi bị sát hại. Chốn ăn chơi sa đọa nhan nhản khắp nơi, dẫn đến con số nhiễm HIV đã lên đến hơn 400 ngàn người, và không biết bao nhiêu con người khác nữa đã và đang lao vào.
Một thế giới có quá nhiều đá sỏi của những trào lưu văn hóa đồi trụy hay những phong trào tha hóa con người đã và đang gây nên cớ vấp phạm cho nhiều người. Một xã hội quá phức tạp tựa như những gai góc, cứ quốn quanh lấy đời người bởi những đam mê thấp hèn. Thực vậy, có nhiều người đã thiếu cương quyết để xa tránh cám dỗ, và nói không với tội lỗi. Họ để cho tính xác thịt và lòng tham nổi loạn và thống trị họ, khiến họ không thể tự kiềm chế bản tính của mình và dễ dàng ngã theo những đam mê bất chính.
Con người ngày nay thực sự có mắt cũng như mù, có tai cũng không nghe. Họ đều biết rằng với lối sống trụy lạc sẽ dẫn đến tử vong thế nhưng họ vẫn lao đầu vào. Họ biết rằng văn hóa đồi trụy là mần mống đưa đến tha hóa con người, nhưng vì đồng tiền, vì đam mê họ vẫn mua bán, trao đổi khiến cho sự xấu cứ xum xuê và bao trùm ở mọi nơi, mọi chốn. Họ biết rằng một đời sống nông cạn, hời hợt, thiếu chuẩn mực đạo đức, thiếu đời sống cầu nguyện là nguyên nhân dẫn đến sa ngã phạm tội, thế nhưng có biết bao cha mẹ lại quá thờ ơ, hay thiếu trách nhiệm giáo dục con cái nên người.
Phải chăng lời tiên tri Isaia đang ứng nghiệm cho con người hôm nay. "Các ngươi lắng tai mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì"?
Lời Chúa là lời ban sự sống, nhưng sẽ vô ích cho người có tâm địa xấu, cho lòng chai dạ đá. Lời Chúa đến với họ như "đàn gảy tai trâu" hay như "nước đổ lá môn". Đời sống họ sẽ không có biến đổi, vì họ nghe tai này sang tai kia và điều tệ hại nhất là họ đã để ngoài tai những lời vàng ngọc, lời ban sự sống của Chúa.
Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết chuyên tâm lắng nghe, học hỏi, suy niệm và thực thi Lời Chúa như Mẹ Maria, như các thánh, để Lời Chúa sinh hoa kết trái trong tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, Lời Chúa là lời ban sự sống, xin giúp chúng con biết cúi xuống nhặt những hạt giống Tin mừng bên vệ đường để đặt vào trong cuộc sống hằng ngày của mình, và biết quăng đi những sỏi đá, là những dịp tội gây cớ vấp phạm cho tha nhân, đồng thời luôn can đảm nhổ đi những gai góc là những đam mê bất chính, là nguyên do đưa đến sự tha hóa con người. Xin cho con biết noi gương Mẹ Maria luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
8. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Chúng ta đang sống trong miền đất nông nghiệp. Bước ra khỏi thành phố, chúng ta có thể chiêm ngưỡng những đồng lúa xinh tươi đang uốn mình trong gió, những vườn cây đầy hoa trái.
Dụ ngôn mà chúng ta đang được mời gọi chú tâm hôm nay, dụ ngôn người gieo hạt giống, có cái gì gần gũi quen thuộc. Đối với người nông dân càng quen thuộc hơn.
Nhưng ai ra đi gieo giống? Chúng ta nghĩ ngay đến Chúa Giêsu. Phải, chính Chúa Giêsu đã đến trong ruộng lúa nhân loại để gieo vãi hạt giống Tin Mừng, mang lại hoa trái cứu độ cho nhân loại.
Nhưng qua hơn 20 thế kỷ, đồng lúa của Chúa không mang lại nhiều hoa trái. Một phần lớn nhân loại vẫn chưa biết Chúa.
Đối với chúng ta, dụ ngôn có thể gây ra thắc mắc: tại sao lại gieo trên bờ đê? trên sỏi đá hay trong bụi gai?
Chúa Giêsu nói đến hạt lúa mì. Người ta không gieo trong nước như lúa của chúng ta, nhưng gieo trên đất khô vào trước mùa đông. Gieo xong người ta mới cày cho hạt giống chìm sâu trong lòng đất cả mùa đông. Đến mùa xuân, tất cả đều nẩy mầm. Vì thế Chúa Giêsu nói: “Nếu hạt lúa mì không thối đi, nó sẽ trơ trọi, nhưng nếu nó thối đi nò sẽ sinh bông hạt”.
Nhưng những hạt gieo trên bờ đê chỉ ít thôi, nhưng trong thực tế, chúng ta thấy sao trong rừng người, hạt gieo trên bờ đê lại nhiều hơn hạt giống gieo vào đất tốt? Bao nhiêu người đã nhận lấy Tin Mừng của Chúa?
Điều đó không lạ gì…
Chúa Giêsu đã mõi mệt rao giảng suốt ba năm, Ngài chỉ gặt được một số ít: “Họ có mặt mà không thấy, có tai mà không nghe được gì.” Tại sao có những hạt rơi vào sỏi đá hay vào bụi gai?
Miến đất Pha-lét-tin là một miền núi chứ không là miền phù sa như chúng ta. Đá vẫn còn mặc dù người ta đã dọn đi những đá lớn.
Lòng người không dễ chinh phục. Chinh phục một nước dễ hơn chinh phục lòng người. Nghe thì thích, nhưng giữ thì còn đặt lại vấn đề. Tin Mừng của Chúa không dễ nuốt như uống cà-phê. Con người lúc nào cũng ham thích sung sướng vật chất hơn hạnh phúc tâm hồn. Họ vẫn biết, sung sướng thì chỉ một khoảnh khắc thôi, nhưng họ vẫn thích hơn. Có người biết rằng một mối liên hệ tình cảm có thể phá đổ hạnh phúc gia đình, nhưng họ vẫn lao đầu vào tai họa.
Thánh Phao-lô, trên đường truyền giáo đã gặp bao nhiêu từ chối, kể cả người Do Thái ( xem Cvtđ 13,46…), Những người tôn giáo khác cũng vậy. Ở A-rê-ô-pa-gô, sau khi nghe thánh Phao-lô nói về sự sống lại, nhiều người nhạo cười và nói: “Thôi lần sau chúng tôi sẽ nghe ông…” ( Cv 17,22…)
Một số người công giáo chúng ta không như vậy sao?
Hạt giống Lời Chúa ít khi gặp được đất tốt vì nó không dễ nuốt.
Hạt giống nầy phải được chôn vùi trong nhiều mùa nắng mưa của lịch sử mới mong đâm chồi trổ bông. Nhưng Thiên Chúa vẫn nhẫn nại, Ngài vẫn tiếp tục quảng đại gieo Lời, dù miền đất nhân loại hôm nay vẫn đầy sỏi đá, vẫn là mùa đông lạnh buốt vì vắng bóng tình yêu.
Ngài vẫn tiếp tục công trình cứu độ giữa mọi từ chối bách hại. Ngài biết sau những mùa đông giá lạnh, vẫn có những mùa xuân ấm áp. Giữa những hờ hững, lạnh lùng, hạt giống Ngài gieo “không bao giờ trở lại mà không mang hoa trái”.
Những miến đất phì nhiêu của các tâm hồn vẫn còn, vì Ngài vẫn còn. Hơn nữa, Hạt giống Thiên Chúa gieo vào những luốn cày đẫm máu của nhân loại, chính là Ngôi Lời Hằng Sống, là Con Một của Ngài. Ngài đã gieo vào lòng đất của nhân loại chính hạt giống yêu quí của Ngài. Hạt giống ấy đã “thối đi” và đã sinh hoa kết quả, dù ít hay nhiều. Đó là niềm hy vọng của bao nhiêu tâm hồn thiện chí.
Chúa Giêsu đã trở thành Hạt Giống được giao phó cho những mùa nắng mưa của lịch sử… Có lẽ còn rất nhiếu và rất nhiều những mảnh đất sỏi đá hay gai góc, nhưng Chúa Giêsu vẫn còn đó. Ngài vẫn tiếp tục lớn lên âm thầm, giữa những cơn bách hại đẫm máu, vinh quang, giữa những con người thiện chí thành tâm. Ngài không ngại sương gió. Ngài không ngại sự tàn bạo của con người. Ngài vẫn là Tình Yêu muôn thuở và không có gì dập tắt được tình yêu toàn năng của Ngài. Ngài đã tuyên bố: “Chúng con đừng sợ. Thầy đã thắng thế gian.”
Dù con người có kiêu căng chối tử, Ngài vẫn là hạt giống bình an nằm trong lòng đất. Thánh Phao-lô đã nhìn từ xa vùng đất tương lai: “Bây giờ, mọi tạovật vẫn rên siết… chờ đợi phúc làm nghĩa tử và ơn cứu độ của thân xác chúng ta.” Và: “Những đau khổ đời nầy không thể so sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta.” Và trong thời gian chờ đợi ngong ngóng nầy, Chúa Giêsu vẫn mãi mãi là hạt giống đang nẩy mầm và sinh hoa trái, đó là Hạt Giống Thánh Thể.
Thánh Gioan đã nói: “Ngài yêu những kẻ thuộc về Ngài còn ở trần gian, Ngài đã yêu thương họ đến tận cùng.” Những lời đó được thực hiên nơi đây, trước mắt chúng ta.
Chúa Giêsu. Con Chúa Cha hằng sống vẫn được gieo mãi trên khắp các bàn thờ. Ngài muốn mãi mãi là Hạt lúa mì thối đi để sinh bông hạt. Ngài là của ăn cho chúng ta, những con người nhỏ bé và tội lỗi, giúp chúng ta thành những bông lúa vàng mơ cho Nước Trời. Ngài muốn mãi là “Hạt Giống Tình Yêu” tan rã trong xương thịt mọi người. Ngài đang cần chúng ta tiếp tay để tình yêu của Ngài phủ lấp trần gian, để con người hạnh phúc. Ăn lấy Ngài để trở nên như Ngài, một hạt lúa mì trở nên của ăn cho mọi người.
Ngài tha thiết mời gọi chúng ta. Tất cả, không trừ ai vào hy tế của Ngài, sống cho tình yêu, sống để yêu mến Cha trên trời và làm cho thế giới chúng ta bớt đau thương.
Chúng ta phải làm gì?...
9. Gieo giống
Nói về việc rao giảng lời Chúa, chúng ta thấy có hai thực tại đối kháng nhau. Trước hết chúng ta xác tín lời Chúa là lời hiệu nghiệm, một khi đã gieo trồng thì chắc chắn sẽ đem lại mùa xuân với hoa trái dồi dào. Đàng khác là sự chai cứng của những tâm hồn, khiến cho cuộc sống cứ chìm trong tội lỗi và mùa đông ảm đạm cứ kéo dài tưởng chừng như vô tận.
Thực vậy, giữa lòng cuộc đời ồn ào và náo nhiệt này, nhiều khi lời rao giảng chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc và người nói chỉ thấy vọng lại chính âm điệu của mình và không có một người đáp trả. Cuộc sống hình như vẫn bước đi theo nhịp điệu riêng của nó, vẫn được lượng giá bằng cái thước đo quen thuộc của nó. Cảm giác ấy gắn liền với sự cô đơn của người rao giảng. Cô đơn vì không một ai chia sẻ nỗi thao thức với mình. Từ nỗi cô đơn ấy, người ta dễ dàng buông xuôi, chán nản và tuyệt vọng.
Thế nhưng, lời Chúa lại không cho phép chúng ta được đánh mất niềm tin. Bởi vì đánh mất niềm tin là đánh mất sứ vụ gieo rắc Tin Mừng, là đánh mất sự sống đem lại niềm vui và sự hăng say cho những bước chân truyền giáo. Đánh mất đức tin là đánh mất cả cái lý do hiện hữu của Giáo Hội trong lòng thế giới.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Figaro, Đức Hồng Y Paul Poupard, chủ tịch văn phòng đối thoại với những người không tin, đã nhìn nhận cuộc hành hương của 500.000 người trẻ về quảng trường Compostellos như biểu tượng cho nỗi khát vọng và sự tìm kiếm những giá trị tâm linh. Con người không thể sống mà lại không nhìn nhận một chiều kích tâm linh siêu việt trong đời mình. Người ta loan báo Thượng Đế đã chết, nhưng hôm nay người ta lại nhìn nhận sự hiện diện sống động của Ngài ngay giữa lòng những xã hội tục hoá hay vô tín ngưỡng. Đồng thời ĐHY cũng nhìn vào sự xuất hiện của nhiều giáo phái huyền bí hiện nay như một thách đố cho Giáo Hội. Khi những khát vọng tôn giáo hay không tìm được lời giải đáp nơi Giáo Hội thì người ta sẽ lần đến những giáo phái khác. Vì thế, sau thách đố của chủ nghĩa vô thần, là thách đố về mục vụ đối với Giáo Hội hôm nay. Chính Công đồng Vat. II cũng đã xác quyết: Người tín hữu phải chịu trách nhiệm không nhỏ trong việc khai sinh ra chủ nghĩa vô thần. Phải nói rằng họ che giấu hơn là bày tỏ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo.
Chúng ta có thể than phiền vì người đời không đón nhận Tin Mừng. Thế nhưng trước khi than phiền, chúng ta cũng cần phải tự hỏi: Tôi đã thực sự rao giảng lời Chúa, hay mới chỉ là rao giảng những suy nghĩ, những lập trường của cá nhân tôi. Hay chỉ cố thuyết phục bằng sự khôn ngoan theo cái thước đo thiếu hụt của thế gian chứ chưa phải là những chân lý Phúc Âm ngàn đời dịu mát. Chúng ta nên nhớ sức mạnh đích thực là sức mạnh của lời Chúa chứ không phải là sức mạnh của chúng ta. Nếu không, cả những lúc xem ra thành công, thì cũng chỉ nhất thời, hời hợt mà thôi.
Đồng thời lời Chúa là lời sống động. Lời đó không phải chỉ là ngôn từ mà còn phải trở thành những hành động. Vì thế, trước khi than phiền về sự lãnh đạm của người đời đối với lời Chúa, chúng ta cần phải tự hỏi xem: Chính bản thân chúng ta đã đón nhận lời Chúa ra sao? Và lời Chúa đã phát sinh những hậu quả nào trong mảnh đất là cuộc đời chúng ta? Khi cuộc sống chúng ta đã thấm nhuần tinh thần lời Chúa, thì tự bản chất, cuộc sống ấy đã là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của lời Chúa và trở nên một sự rao giảng sống động, một cách tay tung gieo hạt giống Nước Trời trong lòng trần thế.
10. Hạt giống Lời Chúa – Radio Veritas Asia
Một cầu thủ đấu bóng rổ đã tâm sự với các phóng viên báo chí như sau:
Quan niệm của tôi về cuộc sống nay đã thay đổi hẳn, tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn trong lúc này là dành nhiều thời giờ hơn để sống gần gũi với con cái tôi và biết thưởng thức, quí trọng những điều khác nữa, chứ không phải chỉ có môn thể thao bóng rổ mà thôi. Dù gặp bất hạnh, nhưng anh Colin đã là người có phúc hơn những người khác, bởi vì anh đã nghe được điều mà nhiều người muốn nghe mà không được nghe, đó là nghe được tiếng Chúa nói với anh trong các biến cố cuộc đời. Anh Colin khám phá ra được rằng, cuộc sống của anh còn có nhiều điều hay ho và quan trọng khác nữa.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa dùng mọi tình huống để thức tỉnh chúng ta lắng nghe và sống Lời Ngài. Dụ ngôn về người gieo giống hôm nay cần được chúng ta dành nhiều thời gian trong ngày sống để suy niệm nhiều hơn, để lĩnh hội các ý nghĩa mà chính Chúa đã giải nghĩa cho các môn đệ.
Thiên Chúa đã luôn luôn gieo vãi Lời Ngài khắp nơi, với mọi hạng người, với mọi hoàn cảnh. Chúng ta đáp lại Lời Chúa như thế nào? Chúng ta có cần Chúa mở mắt chúng ta qua một biến cố đau thương như biến cố đã xảy ra với anh Colin hay không? Có cần Thiên Chúa thiêu đốt tất cả những gì chúng ta đang mù quáng bám víu vào như là giá trị duy nhất của đời mình, để giúp chúng ta trở về với Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa hay không?
Bằng cách nào đó không thể nói là tự nhiên tốt được. Tâm hồn con người cũng thế, tự nó không phải tự nhiên tốt, nhưng cần được ân sủng Chúa thánh hóa, thanh luyện mới có thể trở nên tốt, và mỗi người chúng ta cần cộng tác với ơn Chúa để tâm hồn chúng ta được trở nên mảnh đất tốt và trổ sinh nhiều hoa trái.
Thiên Chúa rất thường đến viếng thăm chúng ta qua các biến cố lớn nhỏ, vui buồn, nhưng rất nhiều khi hay là hầu hết nhiều khi, hầu hết mỗi lần Chúa đến thăm để nói với chúng ta một điều gì đó, mạc khải cho chúng ta một điều gì đó thì chúng ta lại vắng mặt, chúng ta lại lo ra. Nhiều lần chúng ta được tiếp xúc với Lời Chúa nhưng chúng ta lại lơ là không màng chi đến Lời Chúa nữa.
Ước chi hôm nay, trong giây phút này, chúng ta hãy trở về ngồi lại nơi căn nhà tâm hồn của chúng ta trong thinh lặng để kiểm điểm lại những gì mình đã làm hư hỏng, để được kín múc lấy sức mạnh của Chúa mà giúp ta canh tân trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hồi tâm trở về, lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để mảnh đất tâm hồn chúng con trở nên mảnh đất tốt, để chúng con luôn biết đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái trong tâm hồn chúng con mỗi ngày một hơn. Amen.
11. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Ðón nhận những hạt giống Lời Chúa
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đều biết ảnh hưởng của lời nói: có những lời nói khiến ta sung sướng vô cùng, nhưng cũng có những lời nói làm lòng ta đau nhói; lời của những bậc khôn ngoan dạy ta nhiều điều hay lẽ phải, còn lời đường mật của những người xấu có thể dụ ta đến những thiệt hại khôn lường.
Hôm nay, Chúa bảo ta hãy lưu ý đến Lời của Chúa. Ðó là những hạt giống tốt có khả năng sinh những hoa trái rất tốt lành.
Xin Chúa giúp chúng ta trở thành những mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa gieo vào sinh hoa kết quả tốt đẹp.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta chưa quan tâm đủ đến việc học hỏi Lời Chúa trong Tin Mừng.
Rất nhiều hạt giống lời Chúa gieo vào lòng chúng ta đã uổng phí vì chúng ta không thành tâm đón nhận.
Chúng ta nghe Lời Chúa rất nhiều nhưng thi hành thì rất ít.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 55,10-11)
Ðoạn trích này thuộc về phần thứ II của sách Isaia, phần này được gọi là "Sách an ủi". Ngôn sứ Ðệ nhị Isaia nói rằng Thiên Chúa đã hứa sẽ cho dân Do Thái thoát khỏi cảnh lưu đày và được trở về quê hương.
Thế nhưng nhiều người Do Thái tỏ ra không tin vào lời hứa đó. Ngôn sứ lưu ý họ hãy nhớ rằng lời của Thiên Chúa luôn luôn hữu hiệu: Ngài đã nói thì thế nào cũng xảy ra đúng như lời Ngài nói; Ngài đã hứa thì chắc chắn Ngài sẽ thực hiện.
Lịch sử đã chứng minh cho điều Ðệ nhị Isaia nói: dân do thái đã được hồi hương vào năm 538 trước công nguyên.
2. Ðáp ca (Tv 64)
Thánh vịnh 64 ca tụng Thiên Chúa Tạo Hoá: sau khi tạo dựng trái đất, Ngài thường xuyên thăm viếng, tưới gội, để cho trái đất thấm nhuần mầu mỡ, cây trái đâm chồi nẩy lộc sinh hoa kết quả, gia súc sinh sản và lớn lên, muôn loài hát xướng hoan ca.
Phụng vụ chọn những lời ca tụng này như một bức màn nền để làm nổi bật ý nghĩa dụ ngôn Tin Mừng về việc gieo những hạt giống lời Chúa.
3. Tin Mừng (Mt 13,1-23)
Dụ ngôn này đã quá quen thuộc với chúng ta. Chúng ta hãy để ý đến vài chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt:
Người nông phu này gieo hạt giống xuống mọi loại đất mặc dù biết trước là nhiều hạt sẽ không nầy mầm mọc lên, và Thiên Chúa rất hào phóng sẵn sàng ban lời Ngài cho mọi người và ban cách rất quảng đại dồi dào.
Dụ ngôn kể ra 4 loại đất, trong đó có tới 3 là đất xấu. Thực tế đáng buồn là rất nhiều người đã không đón nhận Lời Chúa và làm cho lời ấy sinh kết quả.
Lời Ðức Giêsu trích dẫn sách Isaia "Các ngươi lắng lai mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì". Tâm thế của những người lòng chai dạ đá trước Lời Chúa. Ðối với họ, Lời Chúa như "đàn gãy tai trâu" và như "nước đổ lá môn" chẳng chút hiệu quả.
Nhưng đối với người biết đón nhận Lời Chúa và đem ra thực hành thì kết quả rất phi thường: một hạt sinh ra 30, 60, 100 hạt khác.
4. Bài đọc II (Rm 8,18-23) (Chủ đề phụ)
Ðoạn thư này chứa đựng một ý tưởng khá mới lạ của Thánh Phaolô, đó là có một sự liên đới số phận giữa con người và các thụ tạo khác: khi con người phạm tội và do đó bị rơi vào vòng nô lệ tội lỗi thì các thụ tạo cũng bị lôi cuốn vào vòng nô lệ đó; hiện nay con người ngóng chờ ơn giải thoát thì các thụ tạo cũng ngóng trông như vậy.
IV. Gợi ý giảng
1. "Ngài dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều"
Một Rabbi do thái kia rất thích dùng các câu chuyện để giải thích những chân lý. Có một môn sinh hỏi ông tại sao ông thích dùng cách đó. Thay cho câu trả lời, ông lại kể một câu chuyện như sau:
Ngày xửa ngày xưa, chàng Sự Thật đi rảo khắp nơi, không mặc quần áo mà cũng chẳng trang sức gì cả, cho nên ai nấy vừa thấy chàng là mắc cỡ đỏ mặt và chạy trốn hết. Sự Thật buồn lắm. Một hôm chàng gặp nàng Dụ Ngôn mặc một chiếc áo muôn màu tuyệt đẹp.
- Anh Sự Thật ơi, sao anh buồn thế?
- Tôi buồn vì tôi vừa già vừa xấu, không ai muốn nhìn tôi.
- Không phải thế đâu. Nàng Dụ Ngôn cười đáp. Ðây anh hãy mượn chiếc áo của tôi mặc vào. Rồi anh sẽ thấy điều gì xảy ra.
Chàng Sự Thật mặc chiếc áo muôn màu của nàng Dụ Ngôn vào. Và chàng đi đâu cũng được mọi người niềm nở tiếp đón.
Kể xong câu chuyện, Vị Rabbi kết luận: Người ta rất khó đón nhận sự thật "trần trụi", nhưng rất dễ đón nhận sự thật được diễn tả bằng dụ ngôn.
2. Lựa lời mà nghe
Có câu ca dao: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Câu này có thể gợi ý cho một câu khác: "... Lựa lời mà nghe sao cho có phúc"
Chúng ta phải lựa lời để nghe, bởi vì có những lời toàn gây thiệt hại và có những lời đem lại phúc thật.
Lời Chúa rất đáng cho chúng ta lựa để nghe, vì:
luôn đúng sự thật, không sai bao giờ, bởi Chúa chính là Sự Thật.
Chúa không gạt gẫm chúng ta bao giờ. Ngài nói gì cho chúng ta nghe đều chỉ vì lợi ích cho chúng ta.
Lời Ngài là ánh sáng chỉ đường, lời Ngài là sự sống.
Lời Chúa rất quý trọng, đến nỗi Ngôi Hai Thiên Chúa được gọi là Ngôi Lời.
3. Sống đạo bằng gì?
Nếu được hỏi câu này, một người bàng quan nhìn chúng ta sống sẽ trả lời rằng: họ sống đạo bằng đọc kinh, bằng lãnh nhận các bí tích và bằng tham dự các lễ nghi.
Ðúng vậy, người công giáo chưa hoặc rất ít sống đạo bằng Lời Chúa. Nếu sống đạo bằng đọc kinh thì sau giờ kinh là hết sống đạo! Nếu sống đạo bằng lãnh nhận các bí tích thì có bao nhiêu dịp để sống đạo đâu! Và nếu sống đạo bằng tham dự các lễ nghi thì sẽ không còn sống đạo khi ra khỏi nhà thờ! Vả lại, đạo ở trong các kinh đọc, trong các bí tích và trong những lễ nghi không thấm nhập vào cuộc đời, vào xã hội.
Ðạo là đường, sống đạo là đi đường. Trong cuộc hành trình này, Lời Chúa chỉ hướng cho ta đi, Lời Chúa dạy ta giải quyết những tình huống như thế nào, Lời Chúa là kim chỉ nam đưa ta tới cùng đích.
4. Bốn thái độ trước Lời Chúa
Chúng ta hãy nghe chính Ðức Giêsu giải nghĩa 4 loại đất, tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa:
Ðất vệ đường: những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.
Ðất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó thì bỏ cuộc.
Ðất có nhiều gai: những người cũng đón nhận lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải... Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngạt.
Ðất tốt: những người sốt sắng nghe Lời và quảng đại thi hành.
Mỗi ngày Chúa Nhựt chúng ta dự Thánh Lễ, Lời Chúa đều được gieo vào lòng chúng ta.
Có khi nghe xong chúng ta quên liền. Sau Lễ, nếu có ai hỏi ta bài Tin Mừng hôm nay nói gì, chắc ta không trả lời được. Chúng ta là vệ đường.
Có khi chúng ta cảm thấy Lời Chúa rất hay và có ý muốn làm theo. Nhưng trở về với cuộc sống nhộn nhịp, vài ngày sau ý muốn ấy đã tắt ngúm. Chúng ta là đất lẫn sỏi đá.
Có khi chúng ta thực tâm thi hành lời Chúa. Thế rồi chuyện này chuyện nọ trong cuộc sống xảy đến. Chúng ta quan tâm giải quyết những chuyện ấy hơn. Lời Chúa bị bóp chết. Chúng ta là đất có nhiều gai góc.
Chỉ cần một câu Tin Mừng thôi nhưng được suy gẫm kỹ và được kiên trì thực hiện thì sẽ sinh kết quả gấp trăm.
5. Chuyện minh họa
Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi "Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?". Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời "Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã"... Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua "Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được: Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý".
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
"Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Với tâm tình yêu mến lời Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Lời Chúa là nền tảng đức tin của người tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội Thánh / biết ý thức tầm quan trọng của Lời Chúa / cũng như cố gắng đọc thường xuyên / và đem ra thực hành trong đời sống thường ngày.
2. Kinh Thánh chứa đựng Lời Chúa / là cuốn sách được in ra nhiều nhất / được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất / và được đọc nhiều nhất trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết trân trọng bộ sách quý báu này.
3. Thường thì những người rao giảng Lời Chúa / hay gặp nhiều thử thách gian nan trong cuộc sống thường ngày / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa luôn che chở giữ gìn các vị ấy / để các ngài có thể chu toàn trọng trách của mình.
4. Sống đạo là sống theo Lời Chúa dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ sẽ / biết cố gắng sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng / để đời sống đức tin ngày càng vững chắc và trưởng thành hơn.
CT: Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự Thánh lễ, xin cho chúng con luôn biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng và chăm chú lắng nghe, để Lời Chúa được công bố thực sự trở nên nguồn dinh dưỡng quý báu cho đời sống đức tin của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu đã nói "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn nhờ những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra". Trong kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy tha thiết "xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày".
- Trước rước lễ: Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta được dự hai bàn tiệc là bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa rồi. Giờ đây chúng ta sắp được nuôi dưỡng bằng chính Thánh Thể Chúa. "Ðây Chiên Thiên Chúa..."
VII. Giải tán
Chúng ta sắp trở về cuộc sống phức tạp với nhiều cực khổ, lo toan, đam mê, tranh chấp... Chớ gì tất cả những thứ ấy không bóp nghẹt những hạt giống Lời Chúa đã được gieo vào lòng chúng ta trong Thánh Lễ này.
12. Sống Lời Chúa để tâm hồn luôn là mảnh đất tốt
(Suy niệm của Lm. Jos. Quang Nguyễn)
Chúa Giêsu giải thích rất rõ ràng “Dụ ngôn người gieo giống” rằng Thiên Chúa là người gieo giống. Con người và tâm trí của chúng ta là đất. Hạt giống là Lời Chúa. Vậy, còn lại là vấn đề của chúng ta là làm sao tâm trí, con người chúng trở nên đất tốt để Hạt giống Lời Chúa sinh hoa kết quả tốt đẹp cho đời và làm rạng danh Thiên Chúa?
Có người nói đã là ruộng rồi thì làm gì có đá sỏi, vệ đường, bụi gai như dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay. Nhà chú giải Thánh Kinh nổi tiếng, William Barclay giải thích rằng: Đất sỏi đá, không phải là đất đầy những đá; nhưng là đất bình thường ở Palestine, một lớp đất mỏng trên mặt nhưng có tảng đá nằm ở dưới. Lớp đất có lẽ chỉ sâu chừng 4 hay 5 cm trước khi tới phần đá vôi. Đất có gai, dễ tạo nên lầm lẫn. Khi người gieo hạt giống xuống, mặt đất có vẻ được dọn sạch sẽ; nhưng ở trong đất vẫn còn những gốc rễ của cỏ dại, cây hoang, và gai góc sẵn sàng mọc trở lại. Mỗi người làm vườn đều biết rằng các loại cỏ dại mọc lên với một tốc độ nhanh chóng mà ít có hạt giống tốt nào có thể theo kịp. Hậu quả là hạt giống và cỏ dại mọc lên chung với nhau; nhưng cỏ dại mạnh mẽ hơn làm chết ngộp sự phát triển của hạt giống. Đất tốt, ở dưới sâu, thuần túy là đất mềm; hạt giống có thể đâm rễ sâu xuống tìm được dinh dưỡng, lớn lên nhanh chóng; và trong đất tốt nó sẽ phát sinh một mùa gặt bôi thu.
Tâm hồn mỗi người chúng ta cũng giống như thửa ruộng ở Palestine thời Chúa Giêsu, gồm đủ mọi loại đất cho nên Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay nói đến tính hiệu năng của Lời Chúa, tức Lời Chúa có sự sống rồi còn nó lớn lên và phát sinh hoa trái cứu độ: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ (Gl 5, 22- 23) là do mảnh đất tâm hồn, lòng trí chúng ta đó thôi.
Trong bài đọc 1, Đức Chúa phán qua miệng Ngôn Sứ Isaia rằng "cũng như nước mưa thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, hơn thế, lời từ miệng ta phán ra thấm vào lòng người sẽ không trở về với Ta cách hư luống nhưng thực hiện ý muốn của Ta" (Is 55,10-11). Qủa thế, đất mà không có nước thì đất có màu mỡ mấy chăng nữa nó không thể phát sinh sự sống, trái lại, nếu có nước đổ xuống đất thì tất yếu phát sinh sự sống cho muôn loài. Cho nên, mấy ngàn năm nay trên Sao Hỏa, Mặt Trăng… vẫn chưa có sự sống. Nước nguồn phát sinh sự sống muôn loài muôn vật, còn Lời Chúa thấm vào lòng người còn phát sinh sự sống mạnh hơn nhiều: nhờ Lời Chúa mà vạn vật được tạo thành từ hư không (St 1,1-31), nhờ Lời Chúa mà mọi bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành (Mt 4,23), tha tội (Lc 7,48), khử trừ quỷ (Mt 8,16), người chết được sống lại (Ga 11, 43-44) và được sống đời đời (Ga 11,25-26). Cho nên, Chúa Giêsu nói: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4). Vì thế, trong Hiến Chế tín lý về mạc khải của Thiên Chúa Dei Verbum số 21, Công Ðồng Chung Vaticanô II dạy rằng Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội.
Qủa thế, “Lời Chúa là lời sáng tạo” (St 1,3-26); "sống động và linh nghiệm" (Dt 4,12) “Lời hằng sống” (Ga 6,68); “Lời mang lại ơn cứu độ cho muôn dân”. Vì thế, chúng ta phải đem Lời Chúa nhập vào mảnh đất tâm trí, lời nói, hành động của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, nghĩa là chúng ta phải “ăn” Lời, hấp thụ lấy Lời hằng ngày qua việc đọc, suy niệm và thi hành Lời Chúa. Vì chưng, Chúa thực hiện Lời của Ngài nơi mọi hoạt động, công việc của chúng ta qua việc sống Lời Ngài. Ngược lại, nếu chúng ta đọc Lời Chúa và không thi hành thì chẳng khác gì đọc bài báo. Điều đó chứng tỏ chúng ta không tin vào sức mạnh của Lời Chúa, như thế đức tin của chúng ta đã chết rồi. Vì vậy Thánh Giacôbê khuyên: "Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo -luật mang lại tự do-, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm" (Gc 2,22-25).
Vâng, xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ lúc nào và hoàn cảnh nào, bất cứ hạng người nào dù thánh hay tội nhân, dù hạnh phúc hay đau khổ thì nhờ sức mạnh của Lời Chúa, con người và cuộc sống của chúng ta phát sinh hoa thơm trái ngọt cho mình và cho đời. Cụ thể, Ông Phêrô đã vất vả thả lưới suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào mà chỉ khi Chúa Giêsu truyền lệnh và ông vâng Lời Chúa thì được mẻ cá đầy thuyền (Lc 5,1-11). Rõ ràng rằng vì tin và vâng Lời Chúa nên Phêrô bắt được cá, ngược lại chính sự tự cao, quên Chúa, quên Lời Ngài nên cả đêm chẳng bắt được con cá nào. Không phải nhờ vào khả năng của chính mình mà Phêrô bắt được cá, nhưng nhờ tin và thi hành Lời Chúa truyền. Thế rồi, cũng chính vì tin rằng Lời Chúa Giêsu uy lực nên chị phụ nữ tội lỗi cấp thành phố đã sẵn sàng làm tất cả để được thứ tha và đem lại nguồn bình an và hạnh phúc đích thực cho đời chị (Lc 7,37-47). Rồi, một người tội lỗi tầy trời như chàng thanh niên Augustinô đã tin vào Lời Chúa và thi hành Lời Chúa dạy, Chúa đã biến mảnh đất tâm hồn của Ngài đầy sỏi đá, bui gốc thành mảnh đất tâm hồn là đời sống thánh và thiện mà mọi người hôm nay gưỡng mộ.
Qua Lời Chúa hôm nay, suy đi xét lại, tâm hồn chúng ta thuộc loại đất nào? Đất sỏi đá, đất đầy gai góc hay đất phì nhiêu? Nhưng dù mảnh đất nào đi nữa chúng ta phải luôn canh tác, cải tạo cho nó, tức tâm hồn chúng ta luôn tỉnh thức trước những cơn cám dỗ, cầu nguyện kết hiệp liên lỉ với Chúa, ăn năn sám hối khi trót phạm tội với Chúa và tha nhân, lúc đó mảnh đất tâm hồn ta mới có thể đón nhận hạt giống Lời Chúa hầu hạt giống này làm cho cuộc sống chúng ta thánh thiện, hạnh phúc và bình an đồng thời phát sinh ơn cứu độ cho người khác. Muốn có được một mùa gặt bội thu, người nông dân phải dọn ruộng, dọn đất, phải chăm sóc cho hạt giống nảy mầm và lớn lên, phải ngăn ngừa và đẩy lùi mọi yếu tố, mọi tác nhân gây thiệt hại cho hạt giống và cây trồng. Mùa gặt thiêng liêng của chúng ta cũng phải làm như vậy. Nếu tâm hồn chúng ta có những sói đá là kiêu ngạo, nghe Lời Chúa mà không sống Lời Chúa, ích kỷ… thì chúng ta cần phải cày sâu cuốc bẩm bằng việc khiêm nhường, đọc và cầu nguyện với Lời Chúa để thấy những viên sỏi đá ấy, lượm và vất đi qua việc năng chịu các Bí Tích. Nếu tâm hồn chúng ta là bụi gai, gai của đam mê dục vọng tội lỗi, gai của gian dối, lọc lừa, gai của kỳ thị, khinh người, gai của các loại tội lỗi khác… thì chúng ta cần phải phát hoang, đào bậc gốc bụi ấy mà bỏ đi ra ngoài tâm trí, hành vi trong cuộc sống chúng ta bằng việc sống thi hành các giới răn của Chúa và Hội Thánh, nhất là Lời Chúa hằng ngày. Còn nếu tâm hồn chúng ta có những vệ đường của tội trong gia đình hay cộng đoàn của chúng ta đang sống như vệ đường của việc bất hiếu, không vâng lời bề trên, giận hờn ghen ghét, vợ chồng ngoại tình, con cái hoang đàng, cộng đoàn xào xáo nhau… Chúng ta cần phải dẹp bỏ những vệ đường này bằng việc Mến Chúa yêu người hết lòng, sức sức và hết linh hồn có như thế hạt giống Lời Chúa phát sinh hiệu năng nơi tâm hồn, cách sống và hành xử của chúng ta giống như Chúa và các thánh trong gia đình và cộng đoàn xã hội, lúc ấy Lời Chúa khi được gieo vào mới có hy vọng sinh hạt 30, hạt 60 và hạt 100 như lòng Chúa mong ước.
Lạy Chúa, Lời Chúa là lời ban sự sống, xin giúp chúng con biết cúi xuống nhặt những hạt giống Tin Mừng bên vệ đường để đặt vào trong cuộc sống hằng ngày của mình, và biết quăng đi những sỏi đá, là những dịp tội gây cớ vấp phạm cho tha nhân, đồng thời luôn can đảm nhổ đi những gai góc là những đam mê bất chính, là nguyên do đưa đến sự tha hóa của chúng ta. Xin cho con biết noi gương các thánh luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng con để nhờ đó chúng con có thể làm sáng danh Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen.
13. Lời Chúa giúp con người tự do
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thời đầu khi Đức Yêsu xuất hiện rao giảng, người ta đông đảo đi theo Ngài. Rồi với thời gian, nhiều người đã bỏ Ngài, ngay cả các môn đệ. Trong dụ ngôn người gieo giống hôm nay, Đức Yêsu cho thấy chính tùy thái độ của người nghe đối với Lời Ngài, mà Lời Ngài sinh hoa kết quả như thế nào trong lòng con người. Đức Yêsu đã dạy dỗ bằng dụ ngôn, vì người nghe không dễ dàng hiểu và chấp nhận Lời Ngài. Với dụ ngôn, con người hiểu theo mức độ của mỗi người.
1. Con người có thể bị nô lệ
Con người có thể bị nô lệ nhiều điều. Có người nghiện xì-ke ma tuý, họ không thể thắng được cơn nghiện nên đã ăn cắp ăn trộm, có người bán cả vợ cả con để có tiền hít chích cho thoả cơn nghiền. Có người lại bị nô lệ đồng tiền, họ chỉ thích và chỉ lo kiếm tiền; tiền bạc như ông chủ, sai khiến họ đủ điều; họ không chú ý đến vợ đến con, không lo giáo dục con cái, không dành thời giờ cho gia đình; và hậu quả là gia đình họ không hạnh phúc, con cái hư hỏng, gia đình bị tan hoang. Có người lại bị nô lệ danh vọng, nô lệ chức quyền, nô lệ tiếng khen. Nói một cách tổng quát, con người có khuynh chiều vật chất và xác thịt, nếu con người chiều theo tất cả những điều đó một cách bất chính, con người ở trong tình trang mê lầm.
Thái độ ứng xử của con người tùy thuộc đặc biệt tình trạng nội tâm của mỗi người, tùy lúc đó họ có tự do thực hay không. Một người có thể có tự do mà không có tự do đích thực, chẳng hạn như người nghiện xì-ke ma tuý, họ tuy tự do nhưng lại không tự do thực. Cũng có nhiều lãnh vực tuy con người bị giới hạn, nhưng vẫn có tự do; chẳng hạn đã là người ai cũng phải ăn phải uống, tuy con người không có tự do tuyệt đối để không ăn, nhưng con người vẫn tự do để ăn lúc nào và ăn như thế nào hoặc không ăn.
Để có tự do nội tâm, con người cần biết đúng. Biết đúng để sống đúng. Ngày nay cũng như ngày xưa, có nhiều lý thuyết, có nhiều lập luận tuy dù không đúng nhưng cũng có người theo. Đi theo một lý thuyết sai lầm, là giam hãm con người trong tình trạng u mê. Thánh Augustin trước khi trở lại đạo Công Giáo, đã ở trong tình trạng này. Theo niềm tin Kitô-hữu, những điều Thiên Chúa mặc khải qua Kinh Thánh và đặc biệt qua Đức Yêsu, sẽ giúp con người được tự do. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người, Ngài muốn con người được tự do, Ngài đã nói với con người trong dòng lịch sử qua các tiên tri, và vào thời sau hết Ngài đã sai gởi Con Ngài tới với chúng ta, để dạy chúng ta hiểu biết đúng đắn về Thiên Chúa, hầu con người được tự do và hạnh phúc.
2. Lời Chúa như sương sa tưới mát
Lịch sử nhân loại cho thấy có biết bao người “tầm sư học đạo”, miệt mài đi tìm khôn ngoan, hy vọng sẽ được hạnh phúc đích thực. Tất cả những ao ước hướng thiện, truy tìm chân lý, ao ước thành người tuyệt vời, là những nét đẹp nơi con người. Những điều này phản ánh nét đẹp của Thiên Chúa nơi con người; và nét đẹp này từ Thiên Chúa mà có. Thiên Chúa làm tất cả những điều tốt lành nơi con người. Thiên Chúa làm con người say mê đi tìm Ngài như Nguồn Chân Thiện Mỹ.
Thiên Chúa làm con người đi tìm Ngài như Chân Thiện Mỹ tuyệt đối. Thiên Chúa cũng nói với con người qua trung gian những con người. Như sương sa rơi xuống đất, thấm nhập vào lòng đất, làm cây đâm chồi và sinh hoa kết trái, Lời Ngài giúp con người nhận ra sự thật, giải phóng con người khỏi nô lệ, giúp con người sinh hoa kết trái trong việc tốt lành. Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa tới trần gian với con người. Lời Thiên Chúa nhập thể giúp con người nhận ra sự thật, và giúp con người sống bình an hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh sống.
Lời của Đức Yêsu cho con người, tuy dù là Lời Thiên Chúa nhập thể, vẫn luôn luôn để con người tự do với Lời Ngài. Tùy con người đón nhận hay không, đón nhận như thế nào, mà Lời đó sinh hoa kết trái. Lời đó có thể như hạt giống rơi trên đá sỏi, rơi vào bụi gai, rơi nơi vệ đường, hoặc rơi nơi đất tốt. Hạnh phúc vừa vượt tầm tay của mỗi người, vừa nằm trong tầm tay của mỗi người, tùy con người quyết định.
3. Đức Yêsu như gương mẫu
Ngôi Lời Thiên Chúa, một khi đã nhập thể làm người, thì Ngài cũng bị giới hạn như bao người khác. Đức Yêsu cũng là người như chúng ta, Ngài cũng có những khuynh chiều xác thịt như chúng ta, Ngài cũng bị cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng, về quyền lực. Tuy vậy, Ngài vượt lên và tự do với tất cả.
Ngài tự do với bạc tiền, danh vọng, tình duyên. Ngài rong ruổi rao giảng khắp đất nước Do Thái trong khó nghèo: “chồn cáo có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu”. Ngài tự do với tiếng khen lời chê của con người, Ngài dạy dỗ dân chúng chứ không đi tìm tiếng khen của dân chúng. Ngài sẵn sàng chấp nhận người ta bỏ không theo Ngài nữa. Ngài chấp nhận không có quyền lực bảo vệ Ngài, để rồi phải chết ô nhục trên thập giá.
Đức Yêsu là người chỉ sống cho Thiên Chúa và cho con người. Ngài muốn con người được tự do với tất cả, để con người có thể sống bình an hạnh phúc. Chỉ có tình yêu mới làm con người được tự do. Tình yêu có thể giải phóng tất cả. Cha mẹ yêu thương con cái, cho dù con cái có lầm lỗi thì tình yêu của người cha người mẹ có thể tạo dịp để người con có thể bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa luôn tha thứ cho con người, vì Ngài yêu thương con người, và luôn muốn con người bắt đầu lại cuộc đời. Yêu thương và tha thứ, là để con người trở nên tốt hơn tuyệt hơn hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn gặp ai là người tự do nhất trong kinh nghiệm đời bạn? Xin chia sẻ điều bạn được đánh động qua người này.
2. Bạn có kinh nghiệm Lời Chúa làm bạn tự do không? Xin chia sẻ.
3. Lời Chúa có chỗ trong đời bạn không? Bạn có được Lời Chúa dạy dỗ mỗi ngày không? Qua việc gì? (Nghe Lời Chúa trong Thánh Lễ, đọc Lời Chúa mỗi ngày)
14. Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxio Hồ Thông
Chủ đề Lời Chúa Chúa Nhật 15 Thường Niên năm A này là tính hữu hiệu của Lời Chúa.
Is 55, 10-11
Trong đoạn trích của tác phẩm ngôn sứ I-sai-a đệ nhị này, Lời Chúa được sánh ví với ơn mưa móc làm cho hạt giống, nẩy mầm, đâm chồi nẩy lộc và đem lại cơm bánh cho con người.
Rm 8, 18-23
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô kêu mời suy gẫm, bên kia mầu nhiệm đau khổ, số mệnh vinh quang đang chờ đón không chỉ con cái Thiên Chúa nhưng còn muôn loài thụ tạo nữa.
Mt 13, 1-23
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn “Người Gieo Giống”. Chúa Giêsu sánh ví Lời Ngài với hạt giống. Hạt giống được gieo vào những mảnh đất tốt, chắc chắn sản sinh một vụ mùa bội thu.
BÀI ĐỌC I (Is 55, 10-11)
Bản văn này gợi lên tính hữu hiệu của lời Chúa có thể sánh ví với tính hữu hiệu của ơn mưa móc làm cho đất phì nhiêu. Bản văn này được chọn vì mối liên hệ gần gũi của nó với dụ ngôn “Người Gieo Giống” trong Tin Mừng hôm nay. Bản văn này được trích từ chương cuối tác phẩm của I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon này an ủi những người đồng hương bất hạnh của ông khi hứa với họ rằng Đức Chúa sắp ra tay giải thoát họ.
1. Tính hữu hiệu của Lời Chúa:
Vị ngôn sứ khẳng định rằng những gì Chúa đã hứa như thế không thể nào là dối trá được, vì Lời Chúa nhất thiết phải phát sinh thành quả của mình, chắc chắn như ơn mưa mốc từ trời xuống đem lại sự phong nhiêu cho đất đai và phúc lộc cho con người trước khi trở về trời cao. Những hình ảnh được dùng để so sánh ở đây không thuần túy là thi ca: “mưa trời và sương sa là dấu chỉ ơn cứu độ nhưng không”. Ở đầu bài thơ của mình, vị ngôn sứ đã nhắc nhớ rằng nước mà trời ban thì không phải trả đồng nào. Từ đó, ông lại kêu gọi dân chúng hãy tin tưởng. Tính hữu hiệu của Lời Chúa được minh chứng một cách tuyệt vời nhất đó sẽ là cuộc giải thoát sắp đến cho những người lưu đày. Ông kêu to lên ngay sau đoạn trích này:
“Phải, các ngươi sẽ ra đi mừng rỡ hân hoan,
rồi lũ lượt kéo về bình an vô sự” (Is 55: 12)
2. Nhân cách hóa lời Chúa:
Trong bản văn này, tác giả nhân cách hóa Lời Chúa; Lời Chúa được sánh ví như một sứ giả ra đi để chu toàn sứ mạng và sẽ chỉ trở về khi sứ mạng được hoàn thành. Đức Giêsu sẽ hiện thân Lời Chúa này. Ngài sẽ trở về nhà Cha chỉ khi Ngài chu toàn sứ mạng cứu độ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 8, 18-23)
Chúng ta tiếp tục đọc chương 8 được trích từ thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân vừa mới chứng tỏ rằng vận mệnh của người Ki-tô hữu được liên kết với vận mệnh của Đức Ki-tô. Chính nhờ Ngài và trong Ngài mà chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và đồng thừa tự với Ngài.
1. Vận mệnh vinh quang của con cái Thiên Chúa:
“Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ, sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa đã mặc khải nơi chúng ta”. Kiểu nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ”, có thể được hiểu là những hoàn cảnh trần thế mà người Ki-tô hữu đang sống, nhưng chắc chắn là những gian nan thử thách mà họ phải chịu trong cuộc chiến đấu chống tội lỗi. Đau khổ tự nó là một điều dữ không thể nào phát sinh vinh quang được; tuy nhiên, đau khổ lại trở nên nguồn mạch vinh quang chỉ khi nào được liên kết với Đức Giêsu, vì chính ở nơi Ngài mà đau khổ và vinh quang là hai khía cạnh của một mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh: “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người”.
2. Muôn loài mong chờ được giải thoát:
Những gì được thánh Phao-lô khai triển ở đây không xuất phát từ một hệ thống triết học, cũng không từ một quan niệm khoa học về vũ trụ, nhưng được đặt trên nền tảng Kinh Thánh. Thế giới đã được sáng tạo cho con người; vì thế, nó liên đới với vận mệnh của con người; tất nhiên, nó đã bị nguyền rủa do tội lỗi của con người: “Đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra” (St 3: 17). Chính dựa trên lời nguyền này mà thánh Phao-lô đã quả quyết: “Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng vì Thiên Chúa bắt chịu vậy”. Theo thánh Phao-lô, chính trong kế hoạch của Thiên Chúa mà muôn loài muôn vật, vì được liên kết với án phạt của con người, cũng được dự phần vào ơn cứu độ và được giải thoát khỏi cảnh hư nát. Các ngôn sứ đã loan báo:
“Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa.
Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng tạo” (Is 65: 17-18; x. 11: 6-9).
Thánh Phao-lô ám chí đến lời loan báo này: “Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài trong vũ trụ cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh con”.
Vả lại, văn chương khải huyền đã mở rộng những niềm hy vọng vào thời Mê-si-a vượt quá cái khung chủ nghĩa quốc gia chật hẹp để đạt đến toàn thể nhân loại, và thậm chí đến muôn vật vô tri vô giác. “Thế giới tương lai” được mô tả như một thế giới thay hình đổi dạng nhờ những thực tại thiên giới đột nhập vào. Thư thứ hai của thánh Phê-rô gợi lên viễn cảnh này bằng những ngôn từ khải huyền: “Trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu hủy và ngũ hành sẽ cháy tan ra trong lửa hồng. Nhưng theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2Pr 3: 12-13).
Trong các thư được viết trong cảnh bị giam cầm, thánh Phao-lô sẽ lấy lại cùng viễn cảnh vĩ đại này, bằng những biểu thức ngắn gọn hơn; chẳng hạn như trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô chúc tụng Đức Ki-tô là thủ lãnh vũ trụ, nhờ Ngài và cho Ngài “Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1: 20). Đây cũng là những điểm nhấn trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô (1: 9-13).
3. Vai trò của Chúa Thánh Thần:
Tư tưởng của thánh Phao-lô dựa trên thần học Nhập Thể, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, theo đó vai trò của Chúa Thánh Thần không thể nào vắng bóng được. Chính Chúa Thánh Thần đã khởi sự rồi trong chúng ta sự biến đổi này và cho phép chúng ta hy vọng về “một sự giải phóng thân xác chúng ta trong tương lai”. Cũng cách thức như vậy đối với muôn loài muôn vật, tức là toàn thể thế giới hữu hình biệt phân với loài người. Vì thế, tư tưởng của thánh Phao-lô ngược lại với tư tưởng Hy-lạp. Trong khi tư tưởng Hy-lạp mong muốn giải thoát tinh thần khỏi vật chất, thì thánh Phao-lô nhắm đến khôi phục vật chất nhờ Chúa Thánh Thần.
Giáo Hội đã tiếp nhận viễn cảnh của thánh Phao-lô. Công Đồng Vatican II được khơi nguồn cảm hứng từ viễn cảnh này (cũng một phần từ cha Teilhard de C-hardin như trong tác phẩm “Cảnh Vực Thần Linh”).
TIN MỪNG (Mt 13, 1-23)
Trong chương này, thánh Mát-thêu tập hợp bảy dụ ngôn, trong đó bốn dụ ngôn: “cỏ lùng”, “kho báu”, “ngọc quý” và “chiếc lưới” thuộc nguồn riêng của thánh nhân, còn hai dụ ngôn: “người gieo giống” và “hạt cải” thì có chung nguồn với thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, trong khi dụ ngôn “men trong bột” thì có chung với thánh Lu-ca. Bảy dụ ngôn này hình thành nên một tổng thể thuần nhất: cả bảy dụ ngôn đều có mối liên hệ tới “Nước Trời”. Tin Mừng hôm nay chỉ trích dẫn dụ ngôn “Người Gieo Giống”.
Các dụ ngôn là những thực tại thường ngày dễ thấy được dùng để nói về những thực tại tinh thần vốn cao siêu mầu nhiệm khó nắm bắt được. Vào thời Đức Giêsu, các kinh sư thường sử dụng phương thức này để đánh động sự chú ý của thính giả và khơi dậy những suy tư của họ. Thật ra, các ngôn sứ đã sử dụng phương thức này rồi và truyền thống đã gán cho vua Sa-lô-mon là nhà khai sinh phương thức giảng thuyết bằng dụ ngôn.
1. Người gieo giống chính là Đức Giêsu:
Khi dùng những hình ảnh rất quen thuộc đối với thính giả Ga-li-lê của Ngài, Chúa Giêsu mô tả số phận của mỗi hạt giống tùy thuộc vào vùng đất tiếp nhận nó. Trước hết, hạt giống gặp phải không chỉ những khó khăn nội tại do từ các loại đất: vệ đường chai cứng, đất đầy sỏi đá, đất đầy bụi gai, nhưng còn những chướng ngại đến từ bên ngoài: chim trời, nắng cháy. Tuy thế, “có những hạt giống rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục”. Hình ảnh được diễn tả ở đây rất mạnh, vì ở miền đất Pa-lét-tin, vào những vụ mùa bội thu nhất, sản lượng không vượt quá mười đến mười hai hạt lúa cho mỗi hạt giống.
Qua những gợi ý này, Đức Giêsu muốn đám đông cũng như các môn đệ Ngài hiểu rằng chính Ngài là “người gieo giống” ra đi gieo Lời Thiên Chúa, như thánh Mát-thêu giới thiệu ngay từ đầu: “Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra”. Như người nông dân gieo hạt giống trên khắp cánh đồng với đủ loại đất, Đức Giêsu gieo Lời Hằng Sống của Ngài một cách hào phóng cho hết mọi hạng người, không trừ một ai. Tuy nhiên, chỉ những ai mở rộng lòng mình đón nhận lời Ngài thì lời Ngài mới sinh hoa kết quả.
2. Cách thức tiếp đón Lời:
Các môn đệ không thể hiểu ngay tư tưởng của Đức Giêsu, vì thế các ông hỏi Ngài: “Thưa Thầy, sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?”. Câu trả lời của Đức Giêsu thì thật rõ ràng: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Đây là lần duy nhất và vào dịp duy nhất này mà trong các sách Tin Mừng xuất hiện từ “mầu nhiệm”. Tiếp đó, Đức Giêsu còn trở nên nghiêm khắc hơn khi trích dẫn một câu ngạn ngữ và áp dụng câu ngạn ngữ này vào việc tiếp đón Lời Ngài: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ còn dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, thì cũng sẽ bị lấy mất”. Chỉ ai thành tâm thiện chí mở rộng lòng mình ra trước ánh sáng của Lời Ngài, người ấy càng ngày càng đón nhận nhiều ánh sáng hơn nữa; nhưng nếu ai không màng chi đến ánh sáng của Lời Ngài, người ấy càng ngày càng trở nên tăm tối hơn.
3. Mục đích Chúa Giêsu rao giảng bằng dụ ngôn:
Khi rao giảng bằng dụ ngôn, Đức Giêsu không cố ý làm cho lời dạy của Ngài trở nên bí nhiệm để làm nhụt chí thính giả của Ngài. Trái lại, với những hình ảnh thân quen và những ngôn từ cụ thể, Ngài muốn thính giả của Ngài nắm bắt được những chân lý cao siêu mà Ngài thông truyền cho họ. Quả thật, ngay liền sau đó, thánh Mát-thêu nhấn mạnh như vậy khi trích dẫn Tv 78: 2:
“Mở miệng ra, tôi sẽ đôi lời huấn dụ,
công bố điều huyền bí thuở xa xưa”.
Tuy vậy, đám đông này lắng nghe lời Ngài, nhưng không thực tâm muốn hiểu đúng sứ điệp của Ngài mà lại theo sở thích của họ, theo những ước muốn của họ, theo những nhu cầu tư lợi của họ. Trước những tâm trí mù lòa của họ, Ngài đã phải thốt lên những lời cay đắng: “Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu”, và Ngài sánh ví đám thính giả này với dân chúng mà ngôn sứ I-sai-a đã gặp rồi vào thế kỷ VIII tCn: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa lành chúng cho lành” (Mt 13: 14-15; x. Is 6: 9-10).
Sấm ngôn I-sai-a này được cả ba Tin Mừng nhất lãm (Mt 13: 14-15; Mc 4: 12; Lc 8: 10) và Tin Mừng Gioan (Ga 12: 40) trích dẫn, cũng như được dùng để kết thúc sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 28: 26-27). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng sấm ngôn này đã được ứng nghiệm: việc dân Do thái từ chối là một sự kiện không thể chối cãi trong thời Giáo Hội tiên khởi, vì thế “ơn cứu độ của Thiên Chúa đã được gởi đến cho các dân ngoại” (Cv 28: 28).
Sấm ngôn I-sai-a này được trích từ bài trình thuật về ơn gọi của vị ngôn sứ. Đức Chúa báo trước cho vị ngôn sứ biết rằng sứ mạng của ông sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì ông sẽ phải ngỏ lời với một dân cố tình nhắm mắt bịt tai và rồi thế nào sứ mạng của ông cũng sẽ phải thất bại. Đây là kiểu nói mang đậm sắc thái sê-mít nhằm bày tỏ sự hờn dỗi, nhưng dễ hiểu lầm, như ở Việt Nam chúng ta khi cha mẹ nói với con cái mình với giọng giận hờn: “Đồ ngoan cố cứng đầu, nói mấy cũng không chịu nghe, chết đi cho khuất mắt”. Vì thế, để có thể giúp cho người thời nay hiểu được câu nói bí nhiệm này, có người đề nghị thay mệnh đề “kẻo (less)” bằng “trừ phi (unless)” như sau: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, trừ phi mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa lành chúng cho lành”. Dù thế nào, hoàn cảnh của vị ngôn sứ cũng tương tự như hoàn cảnh của Đức Giêsu trước lòng chai dạ đá của con người.
4. Những người gieo giống tương lai:
Tương phản với những viễn cảnh bi quan này, Đức Giêsu gặp thấy niềm vui mà niềm tin của nhóm nhỏ môn đệ Ngài đem lại cho Ngài, những người mà Ngài sắp làm cho họ trở thành những người gieo Lời Ngài trong tương lai. Họ sẽ vấp phải những khó khăn tương tự, nhưng trên những mảnh đất tốt họ sẽ thu hoạch một vụ mùa kỳ diệu. Chúa Giêsu lập lại những con số thật choáng ngợp: “kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba mươi”. Bởi vì không ai có thể nghi ngờ về tính hữu hiệu của Lời Chúa. Từ đó, chúng ta có thể hiểu tại sao Đức Giêsu sẽ dùng hình ảnh hạt giống để diễn tả sứ mạng của chính Ngài: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12: 24). Để có được một vụ mùa bội thu, hạt giống cần phải chết đi. Cái chết đem lại một vụ mùa bội thu này sẽ là cái chết của chính Ngài.
15. Xạ lúa - Lm Vũ Đình Tường
Hạt giống: những ai từng gieo lúa, vãi lúa, hay rắc lúa đều đoán tiết trời oi bức vào mùa gieo lúa sẽ có mưa to ướt đất, người quăng hạt thóc xuống đất mong chúng mọc lên. Điểm lợi là đất ẩm ướt giúp hạt nảy mầm, sống mọc lên tốt. Hai nữa là mưa làm tan đất vùi lấp hạt thóc nên tránh bị chim trời tha mất. Thực ra dân miền Tây có phân biệt đôi chút về gieo hay vãi, hay xạ lúa. Thông thường hay nghe nói đến gieo mạ, vãi phân nhưng khi rắc lúa vào ruộng người ta lại dùng từ xạ lúa. Gieo lúa thường gieo rất dầy hạt và dùng để dặm chỗ lúa thất, nên có tình trạng gieo mạ. Từ thông thường dân miền Tây quen dùng là xạ lúa. Xạ lúa là trước ngực đeo thúng lúa hai chân bước đều và hai tay nắm hạt thóc vãi vung ra. Bao lâu hạt thóc còn trong tay bấy lâu người gieo lúa còn kiểm soát được hạt thóc nhưng khi vung tay xạ lúa người đó không còn thể điều khiển được hạt thóc, nó vung vãi đâu đành chấp nhận mà không kiểm soát được vì thế mới có tình trạng hạt rơi vào bụi gai, hạt vào đất sỏi, hạt vào kẽ đá, hạt vào đất tốt. Điều này cũng nói lên tính rộng rãi, hào sảng của người gieo giống. Trong tâm người đó không kì thị, coi thường, khinh rẻ đất tốt, đất xấu mà quí trọng đất, công bằng trong việc đối xử với đất.
Đất tốt có thể biến thành đất xấu và đất xấu có thể biến thành đất tốt. Kinh thánh ghi lại 4 loại đất khác nhau: đất sỏi đá, đất vệ đường, đất cỏ gai mọc và đất tốt. Để biến đất cỏ gai mọc thì cần phải nhổ cỏ đất đó sẽ biến thành đất tốt hoặc đất sỏi đá nhặt bớt sỏi biến thành đất tốt. Như thế người ta có thể cải tạo đất xấu thành đất tốt. Đất vệ đường cũng không phải là vô dụng, bỏ đi vì đất dẫn người ta đến nơi muốn đến. Đất tốt nếu để liều không chăm sóc sẽ biến thành đất xấu vì bị cỏ dại, cỏ gai xâm lấn. Nếu chúng ta ví trái tim mình là thửa đất cho Lời Chúa thì bốn loại đất Kinh thánh nói đến chính là những xúc cảm, tình cảm biến đổi của con tim con người. Con tim tốt lành, thánh thiện hay con tim chai đá, sỏi sạn. Con tim đi đúng đường hay con tim lầm đường lạc lối. Con tim biết cảm thông với thống khổ của đồng loại hay con tim khô cằn, mất cảm xúc thương tâm, làm ngơ không đáp trả tiếng kêu cứu của đồng loại. Cảm xức, biến đổi của con tim dẫn đến kết quả tùy theo trạng thái biến đổi. Vì thế chúng ta cần siêng năng chăm sóc con tim mình, biến nó thành thửa ruộng tốt mang lợi ích cho tha nhân. Xã hội nhận được phúc lộc hay tai họa là do trạng thái của con tim, thửa đất gieo trồng lòng nhân hay là trung tâm gieo tang thương. Con tim thay đổi từ tốt sang xấu ai hưởng lợi hơn cả. Thiên Chúa không hưởng chi. Cá nhân người đó chưa chắc đã có lợi mà kẻ thu lợi nhiều nhất chính là ma quỉ, satan.
Thiếu cộng tác với Thiên Chúa chúng ta sẽ phí phạm tài năng Chúa ban. Phí phạm tài năng dưới nhiều dạng thức khác nhau. Phí phạm thời giờ trong việc cãi cọ nhau, tranh giành ảnh hưởng hay giận hờn vô bổ. Phí phạm sức khỏe khi xử dụng những hóa chất có hại cho sức khỏe. Phí phạm cơ hội làm việc lành phúc đức, phí phạm tuổi đời trong việc rong ruổi điều xấu, phí phạm cơ hội làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh. Những phí phạm đó đều đến từ thuở đất xấu.
Một điểm nữa chúng ta cũng cần lưu í đó là yếu tố không kiểm soát được trong việc gieo trồng. Hạt lúa gieo vãi khỏi tay ta không thể kiểm soát được nữa. Hạt lúa trổ bông sinh trái cũng ngoài vòng kiểm soát của con người vì thế nên mới có hạt sinh 30, hạt 50 hạt 100. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào thiên nhiên, hay Thiên Chúa. Chúng ta làm hết khả năng và trao phó thành quả cuối cùng cho Thiên Chúa, mà không so bì hơn thiệt về thành quả vì nó ngoài khả năng kiểm soát của con người. Điều chúng ta có thể làm được là thái độ cộng tác của ta đối với Lời Chúa. Thành quả của Lời Chúa tùy thuộc và ảnh hưởng nhiều đến thái độ cộng tác của ta. Cộng tác nhiều, tích cực và siêng năng sẽ gặt hái thành quả mĩ mãn; cộng tác ít hơn, đáp trả qua loa dẫn đến hậu quả ít hiệu lực hơn.
Chúng ta xin ơn biết mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa. Để hạt giống gieo trồng sinh hoa kết trái tốt đẹp.
16. Tôn giáo có ích gì?
Có một lần người thợ làm xà bông và một vị giáo trưởng đi dạo và chuyện trò với nhau. Người thợ làm xà bông đã nói: - Tôn giáo có ích gì? Tôn giáo nào cũng rao giảng chân lý, bình an, lòng thiện hảo. Nhưng ngài hãy nhìn vào thực trạng của thế giới: chiến tranh, đói khổ, và bao nhiêu hệ lụy khác xem ra sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Tôn giáo đâu có giúp được gì cho nhân loại?
Vị giáo trưởng im lặng và hai người tiếp tục đi qua một khu phố nghèo. Tại một con hẻm lầy lội, vị giáo trưởng chỉ vào một em bé ăn mặc bẩn thỉu, và nói:
- Ông hãy nhìn đứa bé kia. Ông cho rằng xà bông để tẩy xóa nhơ bẩn trên thân thể và quần áo của con người. Vậy ông hãy thử nhìn đứa bé kia. Xà bông của ông để làm gì? Với tất cả mọi thứ xà bông hiện có trên thế giới, đứa bé nhơ bẩn này vẫn cứ nhơ bẩn. Tôi chẳng biết xà bông dùng để làm gì?
Nghe lời ấy, người thợ làm xà bông cãi lại:
- Nó dơ bẩn là tại nó. Xà bông sẽ không có ích gì, nếu người ta không sử dụng nó.
Bấy giờ vị giáo trưởng mới nhỏ nhẹ nói:
- Đúng thế, xà bông sẽ vô ích, nếu người ta không sử dụng nó. Tôn giáo cũng vậy. Tôn giáo sẽ vô ích nếu con người không sống theo tôn giáo của mình.
Lời Chúa hôm nay được diễn ta qua dụ ngôn người đi gieo giống. Thiên Chúa là người đi gieo giống. Ngài đã gieo lời Ngài xuống thế gian. Trải qua suốt dọc dài lịch sử cứu độ. Ngài đã gieo qua các tổ phụ, các tiên tri và thời sau hết qua Con Một Chí ái là Đức Giêsu Kytô. Thế nhưng số phận của những hạt giống đó thật đáng thương: bị quên lãng, khước từ và bỏ ngoài tai,...
Chúa Giêsu đã khéo léo đưa ra nguyên do sự hư hại của hạt giống. Đó là do sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ một phần tư số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái.
Đó cũng là lý do đưa đến sự ác nhiều hơn sự thiện. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự bất công và sa đọa vẫn đầy dẫy trên mặt địa cầu. Cho dù giáo huấn và lề luật của Chúa đã được ban ra, được gieo vãi khắp nhân gian, nhưng mấy ai đã đón nhận và đem ra thực hành?
Nhìn vào thế giới hôm nay, còn quá nhiều lề thói xa hoa trụy lạc, lề thói vô lương tâm và vô liêm sỉ. Đó chính là những lối mòn mà kẻ qua người lại tấp lập khiến nhiều người đánh mất ý thức về tội. "Người ta làm mình cũng làm. Người ta làm bậy mình cũng làm theo". Như hiện trạng phá thai, nghiện ngập sì ke ma túy và bây giờ là thuốc lắc tổng hợp của Việt Nam hôm nay. Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng gần 2 triệu thai nhi bị sát hại. Chốn ăn chơi sa đọa nhan nhản khắp nơi, dẫn đến con số nhiễm HIV đã lên đến hơn 400 ngàn người, và không biết bao nhiêu con người khác nữa đã và đang lao vào.
Một thế giới có quá nhiều đá sỏi của những trào lưu văn hóa đồi trụy hay những phong trào tha hóa con người đã và đang gây nên cớ vấp phạm cho nhiều người. Một xã hội quá phức tạp tựa như những gai góc, cứ quốn quanh lấy đời người bởi những đam mê thấp hèn. Thực vậy, có nhiều người đã thiếu cương quyết để xa tránh cám dỗ, và nói không với tội lỗi. Họ để cho tính xác thịt và lòng tham nổi loạn và thống trị họ, khiến họ không thể tự kiềm chế bản tính của mình và dễ dàng ngã theo những đam mê bất chính.
Con người ngày nay thực sự có mắt cũng như mù, có tai cũng không nghe. Họ đều biết rằng với lối sống trụy lạc sẽ dẫn đến tử vong thế nhưng họ vẫn lao đầu vào. Họ biết rằng văn hóa đồi trụy là mần mống đưa đến tha hóa con người, nhưng vì đồng tiền, vì đam mê họ vẫn mua bán, trao đổi khiến cho sự xấu cứ xum xuê và bao trùm ở mọi nơi, mọi chốn. Họ biết rằng một đời sống nông cạn, hời hợt, thiếu chuẩn mực đạo đức, thiếu đời sống cầu nguyện là nguyên nhân dẫn đến sa ngã phạm tội, thế nhưng có biết bao cha mẹ lại quá thờ ơ, hay thiếu trách nhiệm giáo dục con cái nên người.
Phải chăng lời tiên tri Isaia đang ứng nghiệm cho con người hôm nay. "Các ngươi lắng tai mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì"?
Lời Chúa là lời ban sự sống, nhưng sẽ vô ích cho người có tâm địa xấu, cho lòng chai dạ đá. Lời Chúa đến với họ như "đàn gảy tai trâu" hay như "nước đổ lá môn". Đời sống họ sẽ không có biến đổi, vì họ nghe tai này sang tai kia và điều tệ hại nhất là họ đã để ngoài tai những lời vàng ngọc, lời ban sự sống của Chúa.
Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết chuyên tâm lắng nghe, học hỏi, suy niệm và thực thi Lời Chúa như Mẹ Maria, như các thánh, để Lời Chúa sinh hoa kết trái trong tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, Lời Chúa là lời ban sự sống, xin giúp chúng con biết cúi xuống nhặt những hạt giống Tin mừng bên vệ đường để đặt vào trong cuộc sống hằng ngày của mình, và biết quăng đi những sỏi đá, là những dịp tội gây cớ vấp phạm cho tha nhân, đồng thời luôn can đảm nhổ đi những gai góc là những đam mê bất chính, là nguyên do đưa đến sự tha hóa con người. Xin cho con biết noi gương Mẹ Maria luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
17. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Nhằm mục đích giúp người nghe dễ lĩnh hội giáo huấn của mình, Đức Giêsu thường dùng dụ ngôn để giảng dạy. Trong chương 13 Tin mừng của Thánh Mathêu đã có tới 7 dụ ngôn: dụ ngôn cỏ lùng (24-30), dụ ngôn hạt cải (31-32), dụ ngôn men trong bột (33), dụ ngôn kho báu và ngọc quý (44-46), dụ ngôn chiếc lưới (47-50) và dụ ngôn Người gieo giống (4-8) mà chúng ta vừa nghe trong đoạn Tin mừng hôm nay.
Qua dụ ngôn “người đi gieo giống”, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: Thiên Chúa là người đi gieo giống. Hạt giống ở đây chính là Lời của Ngài. Theo chiều dài lịch sử cứu độ, Ngài gieo Lời của Ngài xuống thế gian qua các tổ phụ, các tiên tri. Vào thời sau hết, Ngài đã gieo Lời của Ngài qua chính Con Một của mình là Đức Giêsu Kitô. Sau khi Đức Giêsu về trời, Lời của Thiên Chúa được tiếp tục gieo vãi bởi các Tông đồ và các Đấng kế vị. Gieo vãi Lời Chúa cũng là bổn phận của mỗi người kitô hữu qua mọi thời đại.
Nhưng để chu toàn bổn phận đó, trước hết chúng ta phải hiểu được tầm quan trọng của Lời Chúa. Khi nói về tầm quan trọng của Lời Chúa, Thánh Vịnh 119 diễn tả: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”(Tv 119,105). Tác giả thư Do thái thì khẳng định: “Thực vậy, lời Thiên Chúa sống động và linh nghiệm” (Dt 4,12). Công đồng Vatican II trong Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa cũng dạy: “Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang được Giáo Hội xem như là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời, Thánh Kinh phân phát cách bất di bất dịch lời của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các Tiên Tri cùng với các Tông Ðồ. Bởi vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính đạo thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn” (DV 21).
Công đồng dạy tiếp: “Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội” (DV 21).
Bài đọc I hôm nay cũng cho chúng ta thấy tính chất phong phú của Lời Chúa: “Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (x. Is 5,10-11).
Chính vì thế, Giáo hội tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể: “Giáo hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu” (DV 21).
Vì Lời Chúa có tầm quan trọng như vậy, nên Giáo hội không chỉ tôn kính Lời Chúa mà còn tìm mọi cách để rao giảng, nhờ đó Lời Chúa được đến với tất cả mọi người. Giáo hội rao giảng Lời Chúa trong nhà thờ, rao giảng Lời Chúa trong các lớp Giáo lý, rao giảng Lời Chúa qua các phương tiện truyền thông, “rao giảng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (x. 2Tm 4,2)…Nhưng Lời Chúa có sinh hoa kết quả hay không cũng còn tùy thuộc vào thái độ đón nhận của con người. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, mảnh đất mà Lời của Chúa được gieo vào chính là tâm hồn của con người. Tâm hồn con người có thể là mảnh đất vệ đường, hạt giống Lời Chúa gieo xuống, chim trời ăn mất. Tâm hồn con người có thể là mảnh đất đá sỏi, hạt giống Lời Chúa gieo xuống không đâm rễ sâu, liền khô héo. Tâm hồn con người có thể là mảnh đất bụi gai, hạt giống Lời Chúa gieo vào bị chết nghẹt. Tâm hồn con người có thể là mảnh đất tốt, hạt giống Lời Chúa gieo xuống được sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi (x. Mt 13.4-8).
Tâm hồn con người trở thành những mảnh đất tốt khi biết đón nhận Lời Chúa qua việc siêng năng đọc, suy niệm, học hỏi và để cho Lời Chúa thấm nhập và phát sinh những hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nên thánh bằng câu Lời Chúa “Hãy trở nên như trẻ nhỏ để được vào nước trời” (x. Mt 18,3); Thánh Phaxicô Xaviê nên thánh bằng câu Lời Chúa: “được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì” (x. Mt 16,26). Tương tự như thế, biết bao nhiêu kitô hữu đã trở thành mảnh đất tốt cho Lời Chúa gieo vào: Đó là những kitô hữu biết giữ luật Chúa, luật Hội Thánh. Đó là những kitô hữu biết sống công bằng, bác ái, yêu thương. Đó là những kitô hữu biến cuộc đời của mình thành cuốn Kinh Thánh sống động. Họ chính là men, là muối, là ánh sáng cho trần gian. Họ không những để cho Lời Chúa biến đổi cuộc đời mình mà còn qua họ Lời Chúa biến đổi cuộc đời của tha nhân.
Nhưng vẫn còn đó những mảnh đất vệ đường, đá sỏi, bụi gai khi con người vẫn đọc Lời Chúa, vẫn nghe Lời Chúa nhưng không để cho lời Chúa đâm rễ sâu trong tâm hồn nên không sinh hoa kết quả:
Đó là những kitô hữu nhưng sống buông thả theo các dục vọng trần thế: Chưa có vợ có chồng nhưng vẫn ăn chung ở chạ. Đã có vợ có chồng nhưng vẫn lén lút với những mối tình ngang trái.
Đó là những kitô hữu, nhưng không biết tôn trọng sức khỏe và sự sống của kẻ khác: chửi bới, bỏ vạ, cáo gian, đánh đập anh chị em xung quanh; sẵn sàng phá thai hay cộng tác với người khác để phá thai.
Đó là những kitô hữu, nhưng sống gian dối: không thành thật với các thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ, trong các mỗi tương quan xã hội; bán hàng giả nhưng vẫn nói là hàng thật, bán thức ăn bẩn nhưng vẫn cho đó là thức ăn sạch.
Đó là những kitô hữu, nhưng sống thiếu bác ái yêu thương, hằn thù ghen ghét nhau: chủ trương giải quyết mọi vấn đề bằng bạo lực, hậu quả là nhiều người bị thương tổn về thân xác và tâm hồn, thậm chí bị lấy đi cả tính mạng.
Đó là những kitô hữu, nhưng không giữ đức công bằng: sẵn sàng cho vay nặng lãi; vay mượn của cải người khác mà không trả; dùng thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Đó là những kitô hữu, nhưng không ngăn chặn sự xấu, sự ác, trái lại, còn tiếp tay để cho sự xấu và sự ác lan tràn khắp nơi trong gia đình, giáo xứ và xã hội.
Còn chúng ta thì sao? Xin Chúa loại ra khỏi tâm hồn chúng ta mảnh đất vệ đường, sỏi đá, bụi gai. Xin Chúa biến đổi tâm hồn mỗi người chúng ta trở thành những mảnh đất tốt, để Lời Chúa được thấm nhập và sinh nhiều hoa trái, hầu xứng đáng lãnh nhận sự chúc phúc của Chúa (x. Lc 11,28). Amen.
18. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI ĐÓN NHẬN HAY LÀ TẤM LÒNG CỦA NGƯỜI GIEO
Thoạt nghe bài Tin Mừng vốn đã quen tai là dụ ngôn người gieo giống, chúng ta không khỏi nghĩ ngay đến những thái độ khác nhau của người nghe Lời Chúa. Cũng là lắng nghe Lời, nhưng tùy thuộc vào thái độ tiếp nhận thì mới có những hiệu quả tốt xấu, ít nhiều, khác nhau. Một số nhà nghiên cứu Tin Mừng cho rằng có lẻ xuất phát bởi nhu cầu của Hội Thánh sơ khai trong việc đón nhận Lời Chúa nên các tác giả Tin Mừng đã thêm vào phần giải thích bài dụ ngôn (parabole) theo kiểu văn phong thể phóng dụ (allégorie), tức là áp dụng từng chi tiết của câu chuyện, một thể văn mà các giáo phụ thường dùng, khác với thể văn dụ ngôn, một thể văn thông dụng thời Chúa Giêsu, là thường chỉ nhắm đến một điều muốn nói.
Dù sao đi nữa thì Lời Chúa vẫn nguồn sống cho mọi người, mọi hoàn cảnh. Việc thiên về thái độ của người đón nhận Lời đã, đang và mãi còn chân giá trị. Ân sủng không loại bỏ tự nhiên, một chân lý mà Hội Thánh luôn khẳng định cách chắc chắn. Tuy nhiên, xin được chia sẻ một vài ý tưởng nhỏ khi nhìn ngắm tấm lòng của người gieo giống.
1. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết chân lý (x.1Tim 2,3-4): Đây là một sự thật cần khẳng định mà không sợ sai lầm. Đấng Toàn Thiện sẵn sàng cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân hẳn là Đấng không muốn bất cứ một ai phải hư mất. Chính vì thế Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm đủ cách thế, giúp mọi người nhận biết chân lý, để được sống trong hạnh phúc viên mãn (x. Mt 5,45; Ga 6,39).
Có lẽ hình thức “cấy mạ” chưa hình thành và phát triển trong nghề nông vào thời bấy giờ. Ngay cả với ngành nông nghiệp hiện đại hôm nay thì cách thức gieo hạt, người Việt Nam ta gọi là “sạ lúa” vẫn còn phổ biến. Nhìn người nông phu vung tay sạ lúa giữa trời trưa, nhiều gió, chúng ta thoáng thấy một nét đẹp của sự hào phóng.
Từng nắm lúa được tung gieo theo chiều gió. Có nhiều hạt rơi trên mảnh đất đã cày xới, cũng có nhiều hạt vung vải trên bờ giường, bờ thuở…Bác nông phu chẳng tiếc, chẳng nao. Làm sao tránh được những hao hụt. Nhưng không sao, mùa vụ trước mắt sẽ dư đầy. Trở lại với dụ ngôn Chúa Giêsu kể năm nào. Người chỉ nêu có bốn loại hạt rơi ở bốn mảnh đất khác nhau. Giả như số hạt ấy được chia đều cho bốn loại đất, ta thử làm con tính xem sao. Mất ba, chỉ được một. Tưởng chừng như thua lỗ, nhưng vẫn còn dư lãi. Chỉ với một loại hạt rơi trên đất tốt, đã có hạt sinh một trăm, hạt sinh sáu mươi, hạt sinh ba mươi. Thế là sinh lợi bình quân trên sáu mươi. Khấu trừ cho ba loại hạt có vẻ như đã mất thì vẫn còn lãi dư nhiều.
Tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng gieo hạt Lời từ trên, thật bao la khôn xiết. Người đã gieo Lời Người khắp cả vũ hoàn. Mỗi kỳ công tay Người tác tạo, dù chẳng một âm thanh, nhưng là mỗi Lời của Người được tung gieo (x.Tv 18,2-5). Thiên Chúa gieo Lời của Người vào tận đáy lòng mỗi con người. Chẳng máy móc tân kỳ nào có thể ghi âm, nhưng hiệu quả của “tiếng lòng” ấy không ai là không chân nhận, mỗi khi lý trí đã biết xét suy. Thiên Chúa gieo Lời của Người qua các biến cố lịch sử, đặc biệt qua lịch sử một dân được tuyển chọn và đến thời kỳ viên mãn Người đã gieo Lời trọn hảo của Người qua chính Con Một làm người (x.Dt 1,1-2). Rất có thể bị hao hụt phần nào, nhưng “cũng như mưa với tuyết sa từ trời không trở về trời mà không sinh hiệu quả thì Lời của Thiên Chúa sẽ không trở về với với Người nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Người, chưa chu toàn sứ mạng Người giao phó” (x. Is 55,10-11).
2. Dù đối với loài người là không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể (x. Lc 1,37; Mt 19,26):
Vệ đường, đất sỏi đá hay đất đầy gai góc, tất cả đều có thể mọc cây, đơm bông, kết hạt. Đây là chuyện không còn viễn vông đối với khoa học công nghệ hiện đại. Sa mạc biến thành vườn rau hay thành cánh đồng cây ăn trái, không còn là chuyện xưa nay hiếm. Nhiều thứ cỏ dại như cỏ cú, cỏ chỉ, cỏ tranh không còn là nan trị đối với nông gia ngày nay. Không chỉ ở thôn quê mà ngay cả ở thành thị, những con đường đã phủ đầy cây xanh. Nhưng sự khả thể ngày càng mở ra trước mắt chúng ta. Cây sẽ mọc và đơm hoa kết trái, nếu có đủ nước và khí trời.
Với quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể. Thiên Chúa đã ban tất cả cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32).
Vấn đề còn lại là ở mảnh đất có “sâu” đủ và “thoáng” đủ, để đón nhận nước và khí trời. Đây chính là sự khiêm nhu và lòng thành hướng thiện của mỗi người chúng ta. Nếu có sự hướng thiện và khiêm nhu chân thành thì dù cho cuộc đời ta, hoàn cảnh sống của ta như mảnh đất đầy sỏi đá hay nhiều gai góc cũng sẽ trở thành mảnh đất tốt để cho hạt giống Lời nẩy mầm, thành cây, đơm bông và kết hạt.
3. Hãy mặc lấy tấm lòng của Người gieo giống: Chúng ta cần có chút cẩn trọng để đừng “ném ngọc trai cho heo”. Đừng làm cớ cho người ta xúc phạm đến những gì thánh thiêng một khi đã suy xét và lường trước sự việc. Tuy nhiên, việc tích cực gieo rắc Lời Chúa bằng nhiều hình thức một cách nào đó nói lên tấm lòng của ta với tha nhân và nói lên niềm tin của ta vào quyền năng của Chúa và vào sức mạnh của Lời. Thánh Tông đồ dân ngoại dạy ta: Hãy rao giảng Tin mừng khi thuận lợi cũng như lúc không thuận lợi. Kitô hữu chúng ta hẳn không quên câu Lời Chúa: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì” (Mt 16,26), đã làm trổ sinh cho nhân loại, cho Hội Thánh một Phanxicô Xavie, vị thánh nhiệt tình rao giảng Tin mừng cho lương dân. Đoạn Tin Mừng Mt 10,7-10 đã góp phần dệt xây nên một “người nghèo của Thiên Chúa là Phanxicô khó khăn cùng với Hội Dòng anh em hèn mọn…
Người gieo, kẻ gặt, nhưng chính Thiên Chúa là Người cho mọc lên. Không ai thắp đèn rồi lấy thùng úp lên. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, hãy lên mái nhà mà rao giảng (x. Mc 4,21-24; Mt 10,27). Dù mệt nhọc, muốn nghỉ ngơi cùng với các môn đệ, nhưng khi thấy đoàn người đông đảo, Chúa Giêsu động lòng xót thương, Người lại tiếp tục rao giảng (x. Mc 6,34). Hãy có tấm lòng với anh chị em đồng loại, đồng thời tin tưởng vào sức mạnh của Lời, để nhiệt thành gieo rắc hạt giống. Vì đêm hay ngày, ta ngủ hay thức thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, trổ bông, đơm hạt (x. Mc 4,26-29).
19. Sứ mạng thực hiện Thiên Ý – Cố Lm. Hồng Phúc
Dưới hình ảnh mưa tuyết từ trời rơi xuống làm cho đồng ruộng phì nhiêu, cây cối sinh hoa mầu người ta có lương thực, Tiên tri Isaia đã hình dung Lời của Chúa phán ra.
Lời nói phát ra từ miệng nhưng bắt nguồn từ con tim, từ cõi lòng, nhờ đó con người bạch lộ nội tâm của mình. Lời nói càng phong phú khi nội tâm càng suy tư càng nghiền ngẫm nhiều. Huống hồ lời đó là Lời của Thiên Chúa, mang sứ mạng thực hiện Thiên Ý của Người.
Qua bài Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “người gieo giống” để mô tả số phận Lời Chúa được tung ra giữa các linh hồn và đem lại kết quả như thế nào.
Người phán: “Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa”. Có hạt rơi xuống bên vệ đường, chim trời ăn mất. Có hạt rơi xuống trên sỏi đá, không đâm rễ sâu, bị khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai bị chết ngạt. Chúa không chú trọng đến phần mất mát đó cho bằng đến sự phát triển mạnh mẽ của hạt giống khi rơi vào phần đất tốt. Nó sẽ bừng lên một mùa gặt phong phú, một thành trăm.
Vậy đừng ai ngã lòng vì thấy Nước Trời chậm chạp. Mọi sự xem ra chống lại việc triển nở nhưng hãy chờ mùa gặt đến. Kết quả sẽ vượt mức tưởng tượng vì đây là công việc của Thiên Chúa.
Bổn phận của mỗi người là lắng nghe Lời Chúa và cố gắng thi hành trong việc làm. Không phải chỉ nghe, mà cố tìm hiểu cho biết Chúa muốn ta phải làm gì. Có bao nhiêu chướng ngại vật chống lại việc tìm hiểu Lời Chúa. Trước hết là ma quỉ như chim trời đến cướp lấy hạt vừa rơi xuống. Vì thế, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỉ. Rồi đừng quá “lo lắng việc đời, ham mê của cải”, như những bụi gai bóp nghẹt Lời Chúa.
Tóm lại, dụ ngôn người gieo giống là dụ ngôn Đức Tin, với một lối diễn tả đầy tâm lý. Chúa phác họa cuộc sống hằng ngày của chúng ta theo tinh thần Đức Tin. Tin là chấp nhận Chúa, đem Lời Chúa thực thi trong đời sống và quảng bá cho người chung quanh.
Thánh Justinô tử đạo vào năm 150 đã suy niệm về dụ ngôn người gieo giống này và người khuyên bảo những người rao giảng Tin Mừng đừng bao giờ ngã lòng.
Thật đáng buồn khi thấy đạo thánh càng ngày càng sa sút. Điển hình như nước Ý có truyền thống Công giáo lâu đời, có bao nhiêu đấng thánh, thế mà số người giữ đạo thực sự hiện nay chỉ còn 15% tổng số dân có đạo. Số còn lại toàn thuộc lại dửng dưng. Lời Chúa như rơi vào sỏi đá, vào bụi gai hay ngoài mặt lộ. Tuy nhiên, như lời thánh Justinô, người rao giảng Lời Chúa như hạt giống rơi vào ruộng tốt sẽ triển nở một thành trăm. Bổn phận ta là thành tâm đón nhận Lời Chúa.
Lạy Chúa, xin kết nạp con vào đoàn người đi gieo giống của Chúa.
20. Hạt giống Lời Chúa - AM Trần Bình An
Ở Đồng Tháp Mười có một loại lúa gọi là lúa trời, vì lúa tự nhiên mọc trên cánh đồng mênh mông đầy nước. Còn gọi là lúa ma vì mỗi ngày chỉ chín vài ba hạt mỗi bông vào ban đêm, và sẽ rụng ngay khi mặt trời mọc. Muốn thu hoạch thì bơi xuồng vào đồng lúa từ nửa đêm đến sáng.
Cây lúa ma thích hợp vùng sình lầy trũng thấp, và có sức sống rất mãnh liệt. Hạt lúa ma có râu dài 3 -4 cm, khi hạt chín rụng xuống, râu này sẽ cắm ngập vào bùn non, ẩn nhẫn nằm đó chờ đến khi mùa mưa bắt đầu đem đủ độ ẩm cho đất thì hạt nẩy mầm. Đến mùa nước nổi, nước dâng cao bao nhiêu thì lúa vẫn vươn đọt và bông cao hơn mặt nước. Thân cây lúa ma cứng, bông lúa ít hạt vì hạt mọc thưa so với bông lúa thường, hạt to hơn, thời gian hạt chín kéo dài từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 10 âm lịch. Vì lúa mọc giữa đồng nước mênh mông và chỉ chín vài hạt mỗi bông nên không thể gặt như giống lúa trồng mà thu hoạch bằng cách bơi xuồng vào đồng lúa, dùng hai thanh tre đập ngọn lúa vào be xuồng cho lúa rụng vào xuồng.
Sau khi đem về người ta ngâm lúa ba hôm rồi phơi khô thì râu lúa sẽ rụng đi, sau đó đem xay. Hoặc sau khi đem lúa về, đem phơi xong dùng chày giả nhẹ cho gảy râu, cách này làm hạt cơm lúa ma dẻo, thơm ngon hơn cách trên. Hạt gạo lúa trời rất cứng cơm, thời gian nấu lâu hơn nấu gạo thường gấp ba lần. Cơm có màu hồng nhạt, dẻo, rất thơm, ngọt và béo không gạo nào bằng, nước cơm chắt ra pha thêm mật ong hay đường phèn là thức uống thơm ngon giàu dinh dưỡng.
Hiện nay diện tích lúa ma bị thu hẹp rất nhiều, chỉ còn khoảng 500 ha ở Vườn Quốc gia Tràm Chim, Đồng Tháp. Theo Tiến sĩ Dương văn Ni thì giống lúa ma đã có tên trong bộ gen nguồn quý hiếm của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế. Từ gen của những cây lúa ma cao nhỏng gầy nhom này, các nhà khoa học đã áp dụng công nghệ sinh học cho ra đời nhiều giống lúa thơm cao sản đã và đang trồng trên đồng ruộng Việt Nam. Ở Brazil, người ta đóng gói gạo lúa ma, mỗi gói chỉ 200g xuất sang Mỹ với giá 7 đô la một gói, tương ứng 3 500 USD một tấn. (KS. La thị Hiền, Lúa ma Đồng Tháp Mười, Hạt ngọc trời ban)
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để giảng về thái độ đón nhận Lời Chúa của từng người. Hạt giống Lời Chúa còn cao quý, giá trị gấp bội hạt giống lúa trời hay lúa ma kỳ diệu.
Hạt giống hướng đạo
Hạt giống Lời Chúa là ánh sáng hướng dẫn con người đến sự sống viên mãn. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119, 105)
Thật vậy, Đức Giêsu khẳng định trước đông đảo dân chúng và các thầy tư tế, Biệt phái Pharisiêu, đang nổi giận tìm cách ám hại Người:“Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5, 24)
Hạt giống Lời Chúa còn là lương thực dưỡng nuôi cho ai muốn sống thật, muốn no thỏa tâm hồn và bình an trong Chúa. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4)
Hạt giống thánh hóa
Đức Giêsu còn quả quyết những ai nghe và thực hành Lời Chúa, đều trở nên thân bằng quyến thuộc của Người: “Ðoạn Người chỉ các môn đệ mình mà phán: Ðây là Mẹ Ta. Ðây là anh em Ta. Vì ai vâng theo ý Cha Ta ở trên trời, thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta vậy. (Mt 12, 50)
Hoặc nâng lên phận hèn mọn con người trở thành bạn hữu thân thiết của Người: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thẩy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15)
Hạt giống trường sinh
Khi thấy nhiều môn đệ rút lui sau mạc khải về nhiệm tích Thánh Thể, Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Simon Phêrô liền mạnh dạn tuyên xưng niềm tin cậy mến: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6, 68)
Mười một Tông đồ còn lại sau cuộc tử nạn của Đức Giêsu đều trở thành chứng nhân kiên cường của Người, cùng hiệp thông vào công cuộc cứu độ của Thiên Chúa. Các ngài đều được đoàn tụ vĩnh viễn trên Nước Trời, như Đức Giêsu đã hứa: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. (Ga 14, 3)
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Mt 24, 35) Mặc dù trải qua hơn hai ngàn năm, Lời Chúa luôn mãi tân kỳ, hiện đại, phù hợp, thich ứng mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh, vì Lời Chúa là sự thật ngàn đời hề suy xiển, cũng chẳng bao giờ lạc hậu: “Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng.” (1Pr 1, 25)
Thánh Phêrô còn xác tín hạt giống trường sinh trong thư thứ nhất qua ngòi bút của Silvanus Silas: “Anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi. Vì mọi phàm nhân đều như cỏ, và tất cả vinh quang của họ cũng đều như hoa cỏ; cỏ thì khô, hoa thì rụng.” (1 Pr 1, 23-24)
“Hãy đi rao giảng Phúc Âm…” Để dám nhận một sứ mạng cao cả như thế, Chúa cần “cảm tử.” Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử từ mọi tầng lớp giáo dân. (Đường Hy Vọng, số 64)
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết đón nhận và thực hành hạt giống Lời Chúa với cả tấm lòng nhiệt thành và trung kiên, đừng để những quyến rũ thế gian, ba thù, chim trời, sỏi đá, gai góc, làm thui chột, lấn át, chết đi mầm sống Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, khấn xin Mẹ cầu bầu, che chở chúng con thành tâm sống Lời Chúa, mặc bao trở ngại, phong ba, thử thách đang đón chờ chúng con. Amen.
21. Lời Thiên Chúa - Lm. Minh Vận, CRM
Trong số những vị anh hùng xây dựng Hợp Chủng Quốc, phải kể đến Benjamin Franklin, tạ thế năm 1790. Ông là một văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản; lại còn là một nhà phát minh, một khoa học gia, thương gia và nhà ngoại giao. Một hôm, ông nhận được món quà từ Ấn Độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt còn dính lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho các bạn hữu xóm ngõ. Tất cả đều đem gieo và chẳng bao lâu, Hoa Kỳ đã có một kỹ nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rắc khắp nơi trong quốc gia. Đó cũng là nhờ Benjamin Franklin đã có sáng kiến và biệt tài, biết lợi dụng vài hạt giống nhỏ mọn.
Các bài Thánh Kinh chúng ta vừa nghe, tỏ cho thấy nghĩa vụ chúng ta là phải có: Lắng nghe Lời Chúa - Rảo giảng Lời Chúa - Sống theo Lời Chúa.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA
Thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, Giáo Hội đã khuyên nhủ chúng ta: "Thánh Công Đồng Vaticanô II nhiệt liệt cổ võ các Tín Hữu chuyên cần lắng nghe và đọc Thánh Kinh, suy ngắm và sống Lời Chúa, vì đó là khoa học cao siêu dạy về Chúa Kitô. Vì theo lời Thánh Giêrônimô: "Dốt Thánh Kinh là không hiểu biết về Chúa Kitô" (cf. Verbum Dei # 25).
Thánh Kinh dạy cho chúng ta hiểu biết về Chúa, am tường về các mầu nhiệm cao cả của Nước Trời; hay nói cách khác: Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói với chúng ta, tỏ cho chúng ta thánh ý của Người.
Thánh Công Đồng Vaticanô II đã quả quyết: "Qua Thánh Kinh, Cha Trên Trời đến gặp gỡ hàn huyên với con cái, vì Thánh Kinh chuyển Lời Chúa đến cho chúng ta. Thánh Kinh biểu lộ sự hạ cố lạ lùng của Thiên Chúa. Chúa đã dùng ngôn ngữ hợp với bản tính chúng ta, để chúng ta hiểu được sự hòa hợp khôn tả bằng ngôn ngữ của người phàm, thế là tiếng nói của Thiên Chúa đồng hóa với tiếng nói của chúng ta. Vì thế, Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thánh Thể Chúa Kitô" (Verbum Dei # 21).
Đây là diễm phúc chúng ta được hưởng, như chính Lời Chúa đã xác quyết: "Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy, phúc cho tai các con vì được nghe! Thầy bảo thật cho các con hay: Nhiều tiên tri và người nhân đức ước ao được xem điều các con xem mà không được xem; mong mỏi được nghe điều các con nghe mà không được nghe" (Mt. 13:16-17).
II. SỨ MẠNG RAO GIẢNG LỜI CHÚA
Lắng nghe Lời Chúa chưa đủ, chúng ta còn có sứ mạng phải làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết trái, như lệnh Chúa truyền: "Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh hoa kết trái, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm trọn sứ mạng ta ủy thác" (Ps 55:11).
Mỗi người chúng ta tùy theo ơn gọi, địa vị, chức vụ và khả năng, đều được Chúa mời gọi lãnh nhận sứ mạng rao giảng Lời Chúa, như hạt giống được gieo vào tâm hồn chúng ta, như sức sống nuôi dưỡng làm cho triển nở tới thời sung mãn, để rồi sau đó lại phải gieo rắc sự dư tràn đó vào lòng những người khác. Đó là sứ mạng Chúa ủy thác cho mỗi người chúng ta phải chu toàn.
Như Benjamin Franklin, chúng ta hãy lợi dụng giáo huấn Chúa dạy, làm lợi ích cho linh hồn mình và mưu cầu Ơn Cứu độ cho tha nhân, chung tay góp công xây dựng Giáo Hội Chúa thêm vững mạnh, biến thế giới này nên hoàn thiện, để chu toàn sứ mạng tông đồ Chúa đã ủy thác.
III. NGHĨA VỤ SỐNG THEO LỜI CHÚA
Sau cùng, lắng nghe, tìm hiểu và rao giảng Lời Chúa cũng chưa đủ, còn phải có nghĩa vụ sống theo Lời Chúa nữa. Được thông hiểu ý nghĩa sâu nhiệm của Lời Chúa và truyền đạt cho nhiều người tiếp nhận Lời Chúa, mà chính mình không sống theo giáo huấn và gương lành của Chúa, điều đó có ích gì cho chúng ta? Do đó, sống theo Lời Chúa là điều cần thiết tuyệt đối, vì theo giáo huấn của Thánh Công Đồng Vaticanô II: "Đối với con cái Giáo Hội, Thánh Kinh là sức mạnh của Đức Tin, là lương thực tinh thần, là nguồn sống bất diệt, nó có khả năng xây dựng và làm cho nên thánh thiện; vì Lời Chúa soi sáng trí khôn, củng cố ý chí và làm cho cháy lửa mến Chúa trong lòng con người. Giáo Hội quả quyết: Chính vì năng tiếp nhận Thánh Thể Chúa Kitô mà cuộc sinh hoạt của Giáo Hội được phát triển, thì khi gia tăng lòng tôn kính Lời Chúa làm cho ta tin tưởng sẽ nảy sinh một cuộc sống thiêng liêng được cải tiến như vậy" (Verbum Dei # 21).
Chớ gì chân lý Lời Chúa trở nên Lẽ Sống, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn và chi phối mọi sinh hoạt của cuộc sống chúng ta; để chúng ta cũng được chia sẻ phần nào hạnh phúc của Mẹ Maria, là Đấng hằng đón nhận và suy niệm Lời Chúa trong lòng Mẹ; khiến lòng chúng ta trở nên thửa ruộng tốt được tiếp nhận Lời Chúa, trổ sinh bông trái, hạt được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm. Sau cùng, chúng ta cũng đáng được chia sẻ hạnh phúc của Mẹ, là Đấng được diễm phúc cưu mang, nuôi dưỡng Ngôi Lời Hằng Sống; mà Mẹ còn được diễm phúc hơn nữa, vì Mẹ là Đấng đã hằng lắng nghe, suy niệm và sống theo Lời Chúa đêm ngày trong suốt cuộc đời của Mẹ.
Kết Luận
Là con cái ngoan thảo, chúng ta hãy tuân theo giáo huấn của Giáo Hội: "Con hãy xác tín điều con lãnh nhận trong Thánh Kinh; hãy rao giảng điều con xác tín và hãy thực hành điều con rao giảng". Đó là huấn lệnh Chúa truyền cho tất cả con cái ngoan thảo của Chúa.
22. Hãy nghe đây! - Văn Chính, SDB chuyển ngữ
“Tại sao Thày lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” (Mt 13,10)
Tại sao Đức Giêsu lại dùng những dụ ngôn mà nói với dân chúng? Các học giả Thánh Kinh nhất trí rằng Đức Giêsu đã dùng các dụ ngôn để dạy dỗ dân chúng. Dụ ngôn là một thể loại mang tính thực tế qua đó người kể muốn dùng những sự so sánh giữa các sự việc với nhau. Thực thế, tiếng Hy Lạp dùng hạn từ Parabole và có thể dịch ra là “so sánh”, “đối chiếu”. Một dụ ngôn được dùng để trình bày một việc tương tự, qua đó một điều gì đó được kể lại một cách “tương tự” như thế. Một cách chung, người ta thường cho rằng một “dụ ngôn”, được dịch sang tiếng Do thái là mashal, có một nghĩa rộng hơn nghĩa của “dụ ngôn”, và bao gồm cả những câu đố, những lời cách ngôn, những ẩn dụ, và những câu chuyện. Cho dù các bậc thày Do Thái cũng dùng các dụ ngôn để giáo huấn, thế nhưng vẫn có những yếu tố khác biệt so với những dụ ngôn của Đức Giêsu.
Phải chăng rằng những dụ ngôn thì quá khô khan? Tôi xin đan cử một câu chuyện.
Nghe đây! Một người gieo giống ra đi gieo giống. Đang khi anh ta gieo giống, một số hạt rơi trên vệ đường, thế là chim trời bay đến ăn tất cả. Một số hạt khác rơi trên nơi có nhiều sỏi đá và chỉ có ít đất. Hạt giống vẫn mọc lên cho dẫu có ít có đất. Thế nhưng khi mặt trời mọc lên, chúng bị thiêu đốt, và vì không đâm rễ sau, nên chúng héo úa. Một số hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên và che lấp chúng. Có những hạt rơi trên đất tốt nên sinh hoa kết quả, hạt được 100, hạt được 60, hạt được 30. Ai có tai thì hãy nghe!
Bây giờ, các ngươi hiểu chưa?
Có nhiều lý do để Đức Giêsu dùng dụ ngôn trong giáo huấn của Ngài, thế nhưng một trong những lý do chính yếu là dân chúng thường nhớ những câu chuyện hơn là những lý thuyết. Những câu chuyện thường hấp dẫn dân chúng ở mọi độ tuổi và cho phép chúng ta hình dung ra sự việc một cách sống động. Đa số chúng ta đều nhớ những câu chuyện được ưa thích khi chúng ta còn nhỏ, hay hay dễ nhớ lại những câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần cho các trẻ em. Các câu chuyện truyền đạt ý nghĩa ngang qua những vai đơn giản và qua những biến cố xảy ra thường ngày.
Tuy thế, các dụ ngôn cũng không luôn luôn dễ hiểu, nhưng tình tiết của chúng đều có thể mang ý nghĩa. Các dụ ngôn không giới hạn ý nghĩa, nhưng luôn mở rộng. Điều này đúng khi Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ tại sao Ngài lại dùng dụ ngôn để giáo huấn dân chúng, và khi Ngài giải thích, một ý nghĩa cụ thể của dụ ngôn đã được gợi lên cho các người nghe.
Khi các môn đệ hỏi Đức Giêsu tại sao Ngài lại dùng dụ ngôn mà giảng dạy dân chúng, Ngài đã giải thích: “Lý do Thày dùng dụ ngôn để nói với họ là vì “chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe, không hiểu”. Lời giải thích mang tính tiên tri này cho thấy không phải sức mạnh của câu chuyện, nhưng là tính chất mờ tỏ của dụ ngôn đối với những người không muốn tìm hiểu ý nghĩa của nó. Tuy nhiên như trong sách tiên tri Isaia 6,10 được Đức Giêsu nói lại, đã nhấn mạnh rằng các thính giả của Đức Giêsu phải “nhìn bằng con mắt của họ, nghe bằng đôi tai của họ, và hiểu bằng tấm lòng của họ mà hoán cải – và rồi Ta sẽ chữa lành chúng.” Ý nghĩa luôn mang tính hiện tại đối với người chăm chú tìm kiếm nó.
Đức Giêsu làm cho dụ ngôn mang ý nghĩa hiện tại khi ngài giải thích dụ ngôn về Người Gieo Giống và nói tới một mẫu gương của việc chăm chú nhìn, nghe và tìm kiếm. Hạt giống là Lời Thiên Chúa, và các loại đất mà hạt giống được gieo trồng biểu trưng cho điều kiện tâm hồn con người biết đón nhận Lời Thiên Chúa. Một số hạt giống bị bóp nghẹt đối với những người thiếu hiểu biết; một số người khác vui vẻ đón nhận Lời và hạt giống nơi họ mọc lên nhanh nhưng rồi bị héo úa đi; một số người khác đón nhận nhưng sau đó lại lãng quên đi, vì để tâm “lo tới những sự việc trần thế và vinh hoa phú quý”. Thế nhưng hạt giống Lời Chúa nào rơi “trên đất tốt”, thì sẽ sinh hoa kết quả “hạt được một trăm, hạt được 60, hạt được 30”.
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn Người Gieo Giống và giải thích cho các môn đệ hiểu khi họ đến và xin Ngài cho biết tại sao Ngài lại giảng dạy bằng các dụ ngôn. Ngài trả lời họ rằng “đối với anh em thì được cho biết những bí mật về Nước Trời, còn đối với những người khác thì không được như thế.” Lý do mà những bí mật “không được tỏ ra” không phải vì Đức Giêsu muốn che giấu chân lý, nhưng là vì Ngài muốn các môn đệ phải đi tìm kiếm chân lý. Lối giải thích về dụ ngôn Người Gieo Giống phù hợp với đại đa số đám thính giả của Đức Giêsu. Với dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn chất vấn: Bạn là thửa đất đầy sỏi đá hay thửa đất đầy gai góc? Bạn trả lời thế nào?
Cầu Nguyện:
Bạn hãy hòa mình vào đám đông đang nghe Đức Giêsu giảng dạy bằng các dụ ngôn. Bạn đang đón nhận Lời của Ngài thế nào?
23. Hạt giống Lời Chúa - Lm. Gioan Cao Vũ Nghi, CRM
Theo một vài nghiên cứu, thì tính ra mỗi ngày con người ta nói từ 2 ngàn đến 20 ngàn chữ. Dù nói ít nói nhiều, có những lời nói có ý nghĩa, với mục đích để truyền đạt một tư tưởng; nhưng cũng có những lời nói vô nghĩa, nói cho qua, nói cho xong. Đối với người nghe, có những lời vô tai này, ra tai kia; nhưng cũng có những lời để lại một ấn tượng rất mạnh mẽ trong lòng người nghe, đến nỗi có thể biến đổi cuộc đời của họ, như những lời của Chúa trong Thánh Kinh. Những lời của Chúa như: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì” đã khiến cho Thánh Phanxicô Xaviê bỏ mái trường đại học Balê để vào Dòng Tên, và sau đó sang Á Châu để giảng đạo. Thánh Augustinô đã trở về cùng Chúa sau khi đọc thư Thánh Phaolô gởi cho giáo đoàn Rôma: “Hãy bỏ đi những gì là của sự tối tăm và những ước muốn thuộc về xác thịt, nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô”. Và Thánh Phanxicô Nghèo đã bị chinh phục bởi lời Chúa Giêsu: “Con hãy về bán hết của cải mà theo ta.” Lời Chúa gieo vào lòng các Thánh được ví như những hạt giống được gieo vào một thửa đất mầu mỡ tốt tươi, nên đã trổ sinh hoa trái gấp trăm. Các ngài đã để cho Lời Chúa hướng dẫn, chi phối mọi hành vi cử chỉ trong cuộc sống của các ngài. Như chúng ta, các ngài cũng bị chi phối bởi những tiếng ồn ào của thế gian, những đam mê tật xấu của con người, nhưng các ngài đã biết từ từ gạt đi những tiếng ồn ào đó, để có thể nghe tiếng Chúa rõ ràng hơn.
Lời Chúa qua dụ ngôn người gieo giống nhắn nhủ mọi người hãy lắng nghe tiếng Chúa đang nói với mình, và hãy noi gương các Thánh để thu dọn thửa đất của lòng trí mình, của con tim mình, để có thể dễ dàng tiếp nhận và áp dụng lời khôn ngoan của Thiên Chúa vào trong cuộc sống.
Lời Chúa xưa cũng như nay, vẫn tiềm tàng trong đó một nguồn sống, chỉ khác là hạt giống đó được gieo vào đâu. Trong dụ ngôn hôm nay, Chúa nói đến 4 chỗ hạt giống có thể rơi vào:
1. Có hạt rơi bên đường: được so sánh với người nghe lời Chúa nhưng không tiếp nhận, và vì thế, lời Chúa trở nên vô ích đối với họ.
2. Có hạt rơi vào sỏi đá: đó là những người khi nghe lời Chúa, liền đón nhận, nhưng vì không để giờ gẫm suy, nên lời Chúa không đủ sức để đỡ nâng người đó lúc gặp khó khăn.
3. Có những hạt rơi vào bụi gai: đó là những người để cho những gai góc của tình, tiền, danh vọng, những phù vân chóng qua, những thú vui của trần thế... từ từ len lỏi vào cuộc đời, khiến cho họ không còn có thể chú tâm lắng nghe và gẫm suy lời Chúa, nên lời Chúa đã không đem lại một ảnh hưởng nào trong cuộc đời của họ.
4. Sau cùng, có hạt rơi vào đất tốt: đó là những người đã phần nào rũ sạch được những gai góc, những sỏi đá trong cuộc đời. Nhờ đó, họ có thời giờ để suy gẫm lời Chúa, và áp dụng lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Lời Thiên Chúa vẫn ở luôn với chúng ta, vẫn được ban tặng cho mọi người. Nhưng để có thể nghe được, chúng ta cần phải trở về với tâm hồn mình, thoát ly những ồn ào, chia trí, những phức tạp, bận rộn của cuộc sống, những sỏi đá, vấn vương của thế trần. Nếu mỗi người biết dành ra những giây phút thinh lặng để lắng nghe, suy gẫm lời Chúa, và dùng lời Chúa để đến với Chúa trong nguyện cầu, chắc chắn lời Chúa sẽ có cơ hội để đâm rễ, in sâu vào tâm hồn, và có cơ hội sinh hoa kết quả.
Nhưng không phải vì cảm thấy lòng mình vẫn còn đang ngổn ngang với biết bao những chuyện của trần thế, cảm thấy lời Chúa chẳng có tác động gì trong cuộc sống mình, mà rồi không nghe lời Chúa nữa. Có thể trong thửa đất của lòng mình hiện nay, gai góc có, sỏi đá có, nhưng chúng ta cứ nghe, vì một lúc nào đó, lời Chúa sẽ bừng dậy trong lòng, lời Chúa sẽ đột nhiên có ý nghĩa đối với mình, nhất là những khi gặp phải những khốn khó thử thách trong cuộc đời.
Điều chúng ta cần phải hỏi chính mình là tôi phải làm gì, phải đổi gì trong mối tương quan giữa tôi với Chúa, với người khác, với những sở thích và với nghề nghiệp của tôi, để lời Chúa có thể ăn rễ trong tâm hồn tôi, và ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi.
Khi đã tiếp nhận lời Chúa, suy ngắm lời Chúa, và sống phù hợp với lời Chúa, chắc chắn lời Chúa sẽ đem lại hiệu quả mỹ mãn cho tâm hồn chúng ta, đúng như lời Chúa phán trong sách tiên tri Isaiah: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả.” Thật vậy, lời Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ cho linh hồn chúng ta, sẽ giúp chúng ta tìm lại hy vọng trong những giây phúc khổ sầu, sẽ đem lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta.
24. Nghe và hiểu mầu nhiệm Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Mỗi khi tiến lên bục giảng, tôi muốn mọi thính giả để tai lắng nghe các lời tôi nói, vì lúc đó tôi đinh ninh rằng mình đang công bố Lời Chúa, đang rao giảng về Nước Thiên Chúa. Dụ ngôn được kể hôm nay nhắc nhở tôi rằng, linh mục rao giảng Lời Chúa phải là người đầu tiên đặt ra cho chính mình câu hỏi: tôi có thật sự biết Nước Trời là gì không? và tôi đã từng nghe và hiểu mầu nhiệm Nước Trời chưa? Câu hỏi không thừa thãi chút nào, kể cả sau 40 năm đời linh mục, vì vẫn có nguy cơ tôi hiểu sai, hoặc chưa hề thực sự nghe Lời và hiểu thấu.
‘Con hãy chỉ cho cha con đường tới nhà thờ, và cha sẽ chỉ cho con đường về trời.’ câu nói danh tiếng đó của cha sở họ Ars - thánh Jean Marie Vianey thì mọi linh mục đều biết; có điều, rất thường khi ta lại hiểu ‘chỉ đường về trời’ là dạy bảo điều tốt lành để được rỗi linh hồn, lên thiên đàng. Và vì hiểu như thế nên linh mục về phần mình cố gắng sống đời thánh thiện gương mẫu, và rồi cho rằng việc mục vụ mà mình phải chu toàn chính yếu hệ tại ở việc giảng dạy cho giáo dân bổn đạo ăn ngay ở lành và nắm giữ các luật Chúa và luật Hội Thánh, nhất là các qui định về đạo giáo và luân lý.
Người Việt Nam chúng ta (giống người Do Thái) dùng chữ ‘trời’ để chỉ Thiên Chúa, vì thế Nước Trời là Nước Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ bình dân, chúng ta cũng hiểu ‘trời’ là nơi xa xôi trên cao, ‘về quê trời’ là lên thiên đàng gặp gỡ Thiên Chúa sau khi chết v.v… Công việc giữ đạo vì thế hệ tại ở sống làm sao để sau khi chết được rỗi linh hồn, được về quê trời, được lên thiên đàng. Do đó trách nhiệm bổn phận chính yếu của linh mục là giúp bổn đạo đạt được điều đó… Chính vì thế mà… câu chuyện dụ ngôn hôm nay cũng dễ dàng được suy đoán và giải thích theo chiều hướng đó…
Nếu Lời là chính Đức Giêsu, và nếu rao giảng Nước Trời là chính công bố cuộc sống và cái chết thập giá của Người, thì đúng là hạt giống Nước Trời yêu thương và tha thứ đã được gieo vào trần gian. Nghe Lời và hiểu là chấp nhận Đức Giêsu, là chấp nhận ơn cứu rỗi của Người, là đi vào vương quốc tinh yêu tha thứ của Thiên Chúa. Người môn đệ của Đức Giêsu trước hết phải là ‘anh em được hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời’ vì đã tin và chấp nhận Giêsu là tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Bí tích rửa tội đã thực sự đưa họ vào Nước Trời và còn tiếp tục đưa vào ngày càng sâu hơn, miễn là họ còn luôn sẵn sàng đón lấy như thửa đất tốt được hạt giống gieo xuống. Thửa đất tốt khi đó không phải là những người ngay lành về mặt luân lý, cũng không phải là người học cao hiểu rộng về mặt tri thức, không phải là người chăm chú lắng tai nghe về mặt tâm lý. Đơn giản đó là những tâm hồn, trong tác động của Thần Khí và ân sủng, đang trong tư thế sẵn sàng lắng nghe, hiểu và chấp nhận Tình Yêu tha thứ hay Tình Yêu thương xót. Và hạt giống Tình Yêu đó sẽ tự động ‘sinh hoa kết quả, hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục’. Điều duy nhất con người cần làm để thửa đất được nên tốt là nhìn nhận thân phận tội lỗi, thấp hèn và đáng thương của mình, nhờ thế chân thành khao khát đón lấy Giêsu Cứu Chúa. Hiệu năng của hạt giống Lời gieo xuống lệ thuộc rất nhiều vào chiều sâu của cầy sâu cuốc bẫm này.
Nếu như thế, trước khi bước lên bục giảng để gieo Lời Tình Yêu cứu độ, tôi – linh mục của Lời – sẽ phải đi sâu vào con người bất toàn yếu đuối của chính mình. Câu kinh ngắn, ‘Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn và môi miệng con…’ mà linh mục hay phó tế cúi mình thầm đọc trước công bố Tin Mừng là gợi nhớ cho chính tôi một thái độ chân thành và khiêm tốn. Và rồi hạt giống tôi gieo qua bài giảng của mình, bất kể lúc nào và trong hoàn cảnh nào, ngay cả trong các tình huống tệ hại và bi quan hơn hết, vẫn đích thực phải là Đức Kitô Giêsu – tình yêu Thiên Chúa thứ tha, chứ không phải một Đức Chúa công thẳng luận phạt gieo sợ hãi, hầu ép người nghe nắm giữ các giới răn hay luật buộc để mong được lên thiên đàng. Trong khi dọn bài giảng, chính tôi sẽ phải tự tra vấn: có thực sự tôi ‘nghe Lời và hiểu’ hay không; và chính tôi có phải là thửa đất tốt được cầy sới đang khiên tốn đón nhận hạt giống Nước Trời của lòng thương xót Chúa, và đang sinh bông hạt của cùng một tình yêu xót thương tha thứ hay không?
Lạy Đức Giêsu là chính hạt giống và người gieo giống Nước Trời, xin cho con, linh mục của Lời Chúa, trở thành thửa đất tốt sẵn sàng nhất đón nhận hạt giống của Tình Yêu xót thương. Và một khi đã đón nhận và làm cho hạt giống này sinh hoa kết trái (ít là được vài chục hạt), chính con sẽ tiếp tục cùng Chúa gieo vãi vào các thửa đất khác là tâm hồn các tín hữu. Xin liệt con vào số những ‘ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư dật’, không phải chỉ vì lợi ích riêng tư của mình, nhưng vì công tác gieo giống Chúa đã trao phó cho con, linh mục của Lời. Amen.
25. Bài học thiết thực từ Thầy Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được xã hội cũng như Giáo hội quan tâm nhiều đó là vấn đề giáo dục. Và điều khiến cho nhiều người bức xúc nhất đó là chương trình dạy và học quá tải. Càng cải cách thì chương trình càng nặng. Số môn học và lượng bài tập, bài học cứ thế mỗi năm mỗi tăng. Chiếc cặp học sinh càng ngày càng to càng nặng, có khi nặng hơn cả trọng lượng của các em. Hậu quả là cả thầy và trò, cả người học lẫn người dạy đều phải vật vả thương đau.
Trong cuộc họp báo đầu tiên của Bộ trưởng Giáo dục Trung Quốc, Chu Tế, phóng viên nhí Lý Gia Hy, 12 tuổi, của kênh thiếu nhi Đài CCTV, đã chất vấn ông Bộ trưởng của mình: "Cháu được biết ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng trong việc giảm nhẹ cặp sách đến trường cho học sinh, nhưng tại sao đến nay cặp của chúng cháu vẫn còn rất nặng? Câu hỏi thứ hai là các bạn đều nói không đủ thời gian để ngủ, bác bộ trưởng có cách nào để chúng cháu được ngủ nhiều hơn không?". Một câu cật vấn nhẹ nhàng, nhưng làm cho người nghe nhói lòng! Trong một lá thư gởi Chúa Hài đồng nhân dịp Giáng sinh, một em học lớp 4 đã than thở với Chúa Hài Đồng: “Con ước mong sao chương trình học ở trường nhẹ hơn, dễ hơi để con có thời gian học Giáo Lý và sinh hoạt Phong trào Thiếu Nhi”. Là những người có trách nhiệm, khi đọc lá thư, chúng tôi không khỏi chạnh lòng.
Quả đúng như vậy, vì đa phần các em phải học sáng học chiều. Chưa đủ các em còn phải tranh thủ học đêm; học chính khoá, học phụ đạo, học thêm, học bồi dưỡng, học nâng cao…. Cả thời gian nghỉ hè cũng bị bớt trước xén sau. Tệ hại hơn nữa là nhiều em Thiếu nhi Công giáo bỏ cả việc học Giáo lý, bỏ cả lễ ngày Chúa Nhật để đi học thêm cho kịp chương trình ở trường. Tất cả chỉ vì chương trình học ở trường quá nặng, quá ôm đồm.
Tuy nhiên, có một trường mà ở đó chương trình học rất nhẹ nhàng, rất thoải mái, trường đó mang tên là Trường Dạy Đức Tin. Vị Thầy Số Một làm hiệu trưởng ngôi trường đó là Thầy Giêsu. Ai học ở trường này chẳng phải đóng một khoản học phí hay lệ phí nào hết. Vả lại những bài học mà Thầy Giêsu đưa ra lại rất thiết thực và sống động, chứ không nặng tính lý thuyết, và từ chương như ở các trường học khác. Cụ thể hôm nay một trong những bài học rất dễ thuộc mà Chúa Giêsu dạy các môn sinh của Ngài đó là bài học hiền lành và khiêm nhường: “Hãy học với Ta, vì TA hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Một bài học hoàn toàn không mang tính lý thuyết tí nào. Vì chính Chúa Giêsu đã sống, đã thực hành một cách trọn hảo trước khi Ngài dạy chúng ta.
Thật vậy, trong suốt cuộc đời của mình, từ khi nhập thể làm người cho đến khi chết thân treo thập giá, Chúa Giêsu đã nêu gương hiền lành khiêm nhường sâu thẳm. Thánh Phaolô đã tóm tắt gương sống này trong một đoạn thư ngắn gọn: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 7-8).
Như thế lòng hiền lành khiêm nhường của Chúa Giêsu, Đấng đã “không nỡ lòng bẻ gãy cây sậy bị dập và dập tắt tim đèn còn khói”, đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Bởi vì nếu Chúa Giêsu chỉ là một vị Thiên Chúa muôn đời muốn cao sang thì Ngài khó có thể biết cảm thông với những đau khổ của phận người. Ngài đã tự hạ để nâng con người tội lỗi lên địa vị làm con cái Thiên Chúa và được thừa hưởng phần gia nghiệp Nước trời mai sau.
Người ta vẫn thường nói: “Thầy nào trò nấy”. Là người học trò, người môn đệ của Thầy Giêsu, chúng ta đã nên giống Thầy mình chút nào chưa? Nếu Vị Thầy của chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, thì chúng ta, người môn sinh của Ngài, phải trở nên thế nào, hiền lành hay dữ tợn; khiêm nhường hay kiêu căng tự mãn? Bài học đã có sẵn, nhưng chúng ta đã đem ra thực hành chưa? Và thực hành đến mức độ nào?
26. Trở nên mảnh đất tốt
Anh chị em thân mến,
Hiện chúng ta đang sống trong thời buổi khoa học kỹ thuật hiện đại, người ta phát minh ra những điều thiết yếu để phục vụ lợi ích cho con người. Cùng với những lợi ích, nó cũng phát sinh những điều không hay. Với cái nhìn bi quan, thì con người sẽ tiêu diệt trái đất một ngày gần đây: người ta nhìn thấy tầng ozone bị phá huỷ, nhu cầu của thiên nhiên không còn tồn tại được nhiều, thiên tai địch hoạ xảy ra khắp nơi, vì tình trạng khai thác thiên nhiên bừa bãi. Nếu nhìn lạc quan hơn; thì con người ngày hôm nay tiến xa vượt bậc, được phục vụ chu đáo hơn, sức khoẻ được bảo đảm hơn, hiểu biết về thiên nhiên nhiều hơn, có những biện pháp hữu hiệu đối với những thiên tai dịch hoạ. Đời sống con người được bảo đảm an toàn hơn nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ. Với cái nhìn lạc quan nầy, con người tiếp tục những công trình hiện đại phục vụ cho ích chung, đồng thời cũng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, con người cũng tìm cách giảm đi những gì nguy hại. Chính vì nhìn thấy những lợi ích chung thật nhiều, nên mọi sự vẫn diễn tiến theo tiến trình tự nhiên mà không một chút lo âu gì.
Trong dụ ngôn người gieo giống mà Chúa Giêsu nói với những người thời xưa, cũng là nói với những người thời nay về tính cách quảng đại của người gieo giống. Ông không ngần ngại tung gieo những hạt giống đi khắp nơi. Ông biết rằng những hạt giống không phải chỉ rơi vào những nơi để sinh lợi mà thôi; nhưng nó cũng rơi vào những môi trường không thích hợp, nó sẽ không phát triển được. Nhìn thấy sự bất lợi trước mắt, nhưng người chủ cứ tung gieo mà không lo sợ thiệt hại, vì ông nhìn thấy những mảnh đất tốt đang chờ đợi những hạt giống để làm cho sinh lợi. Chính vì những mảnh đất đang chờ đợi nầy mà người chủ săn sàng để tung gieo những hạt giống cách quảng đại. Cũng nhờ có những mảnh đất tốt mà hạt giống được được bảo tồn bền vững với thời gian cùng với sức sống vô tận của nó.
Môi trường thật hữu ích, môi trường tốt phát sinh những ích lợi vô biên không thể nào ngờ được.
Mỗi người là một môi trường sống, là một mảnh đất cho hạt giống Lời Chúa trổ sinh hoa trái. Nhưng môi trường sống đời nguời có là môi trường tốt thật sự, hay là nơi huỷ diệt sự sống. Môi trường con người chúng ta đã được gieo hạt cách quảng đại, những hạt giống đang âm thầm phát triển, hay giờ nầy những hạt giống trong mảnh đất cuộc đời của mỗi người đã bị chết khô.
Chúng ta để một ít phút nhìn lại những hạt giống trên mánh đất cuộc đời riêng tư của mỗi người.
Biết bao lo âu sợ sệt trong cuộc sống, cùng với những tính toán thiệt hơn, đồng thời có những lúc tính ích kỷ sự ganh ghét trong con người trổi dậy, làm cho chúng ta khó chịu, bất mãn với cuộc sống, không chấp nhận được những người chung quanh mình. Những lúc họ kêu cầu giúp đỡ, chúng ta không thể giúp được vì lo sợ mình sẽ mất đi một chút gì đó, tệ hơn nữa, chúng ta còn lo sợ người khác được lợi nhiều hơn mình. Chúng ta cũng lo sợ cho bản thân một mai sẽ gặp khó khăn trong đời sống vật chất, nên cố gắng gom góp thật nhiều, không muốn bỏ ra hay cho đi một chút gì mình có. Những lúc còn muốn chiếm đoạt của người khác làm của riêng mình. Những lúc đó, Lời Chúa làm sao có được mảnh đất tốt để phát triển trong đời sống, trong tâm hồn như thế được. Những gì chúng ta hiểu biết, nó đã chết khô tự bao giờ.
Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm của mình và chu toàn: trách nhiệm một người trong xã hội, để sống xứng đáng là người; trách nhiệm là một người công giáo, để sống xứng đáng là người công giáo tốt, ngưòi môn đệ tốt của Chúa Giêsu; trách nhiệm của một người trong gia đình để biết chu toàn cho xứng đáng với địa vị của mình. Nếu chúng ta lắng nghe những tiếng kêu than của người khác và động lòng, giúp đỡ cho họ, nhìn thấy được những gì để con tim chúng ta mách bảo và hành động để đem niềm vui cho người khác, cho dù phải hao tốn một chút, mệt nhọc một chút. Những lúc đó, hạt giống lời Chúa đang gặp được mảnh đất tốt và sinh hoa kết quả, hạt ba mươi, hạt sáu mươi, hạt một trăm.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe và thi hành Lời Chúa trong cuộc sống đời thường.
27. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thành Long
“Hãy đến với Ta, hỡi những ai mang gánh nặng nề”
Có thể nói rằng cuộc đời là một gánh nặng, có khi là quá nặng đối với nhiều người, nặng đến nỗi dường như người ta không thể nào kham nổi.
Gánh nặng ở người này có thể là bệnh tật. Hết bệnh này đến tật khác. Bệnh nào cũng khó chịu, tật nào cũng khó ưa. Hôm nọ, tôi vào tiệm thuốc tây mua hộp thuốc. Trong khi chờ đợi, tôi nghe bà chủ tiệm than thở với một người khách: “Sống mà lành lặn, chứ lưng thì đau, tay chân thì nhức buốt thế này, chết còn sướng hơn”. Hỏi ra thì biết bà bị bệnh thấp khớp và thần kinh toạ. Là thầy thuốc, trong nhà lại đầy thuốc, mà đau vẫn cứ đau. Bệnh tật quả thật là một gánh nặng đối với rất nhiều người, đặc biệt trong thời đại hôm nay!
Gánh nặng ở người kia có thể là tai ương hoạn nạn. Đùng một cái tai nạn ập đến, người thì chết, người thì phải nằm nhà thương. Tiền bạc cứ thế một đi không trở lại đi… Mới trưa nay có một xơ quen ở dòng Đaminh nhắn tin cho tôi: “Xin cha cầu nguyện cho con với. Con bị xe tung, 3 tuần nay rồi mà vẫn chưa đi lại được. Huhu”.
Gánh nặng ở người khác có thể là tuổi già sức yếu. Chân chậm, mắt mờ răng long, đau nhức toàn thân, đi đứng khó khăn, ăn rồi thì nói chưa ăn…, Nên suốt ngày phải làm phiền đến con cháu… Gánh nặng của thời gian, của tuổi tác!
Gánh nặng ở người khác nữa có thể là việc giáo dục con cái. Đứa thì ngang tàng ương ngạnh, đứa thì ù lì bỏ học vì ham chơi, đứa thì khô khan nguội lạnh chuyện đạo nghĩa. Hôm trước, có người than vãn: “Cha ơi, ba đứa con nhà con, hai thằng em thì không cần phải nhắc; nhưng thằng anh thì trong mùa World Cup này, sáng Chúa Nhật nào con cũng phải khổ sở vì nó. Con đánh thức nó dậy đi lễ: đánh thức ở phòng này, nó ôm mền sang phòng khác nó ngủ (ăn bóng đá, ngủ bóng đá mà). Con gọi điện thoại, nó cúp máy để khỏi phải nghe mẹ gọi dậy đi lễ. Hỏi lẽ thì nó bảo rằng mẹ tha cho con khỏi đi lễ lúc này đi. Hết kỳ World Cup, con sẽ đi lễ lại”. Mẹ botay.com!
Và rồi gánh nặng ở người này có thể là chuyện chồng, chuyện con. Có ông thì đam mê rượu chè, sáng xỉn chiều say, hành hạ vợ con quanh năm suốt sáng, khiến cho gia đình tựa một hoả ngục trần gian. Có ông thì máu me cờ bạc, số đề, lại thêm nạn cá độ mỗi khi có Eurô hay World Cup đến. Làm được bao nhiêu nướng hết cho thần đỏ đen bấy nhiêu, thậm chí các vật dụng trong nhà cũng lần lượt đội nón ra tiệm cầm đồ. Gia đình vì thế mà lụn bại, không sao ngước mặt lên được.
Gánh nặng ở người kia có thể là nợ nần. Nợ nần bao vây, do làm ăn thất bát, hay do bị bạo bệnh. Cứ phải sống trong thấp thỏm lo âu vì cái khổ thứ 3: nợ đòi. Đêm nằm thậm chí còn mơ thấy con nợ tới xiết nhà. Thật là khổ.
Gánh nặng ở người khác có thể là trách nhiệm bổn phận. Bổn phận làm cha làm mẹ với đủ thứ cái lo, nhất là chuyện cơm áo gạo tiền; trách nhiệm làm chồng làm vợ trước nhiều chước cám dỗ làm cho người ta dễ dàng sống bất trung; trách nhiệm làm thầy cô, làm người học trò, với đống giáo án, đống bài vở từ chương vô bổ; trách nhiệm làm xếp, làm chủ, làm người lãnh đạo chỉ huy với vô vàn thách đố của thời cuộc, v.v…
Gánh nặng ở người khác nữa có thể là sự nghi kị và hiểu lầm của người thân. Hôm rồi có một người giáo dân vào nói: “Thưa cha, cách đây khoảng 10 năm, ông già con bị mất 1000 USD và ông đổ thừa cho con lấy. Không sao thanh minh được, tức quá, con không nhìn mặt ông già con nữa, và con cũng quyết định bỏ đạo luôn”. Hỏi tại sao tức ông già mà lại bỏ đạo, anh ta bảo: “Tại vì nhà ông già con ngay trước mặt nhà thờ, mỗi lần đi nhà thờ là phải đi ngang nhà ổng. Con không muốn nhìn mặt ổng, nên con không đi nhà thờ luôn”. Chỉ vì hiểu lầm, nghi kị nhau mà trở thành gánh nặng cho nhau trong suốt 10 năm dài.
Muôn kiểu của gánh nặng cuộc đời! Gánh nào cũng nặng nề khó chịu. Gánh nào cũng có khả năng đè bẹp người ta, làm cho người ta quỵ ngã và té nhào đớn đau. Nhất là cái gánh của tội lỗi. Nó không những đè nặng thân xác, mà còn đè bẹp cả phần linh hồn, khiến cho người ta không thể ngẩng cao đầu được.
Vậy khi phải “gồng” những gánh nặng nề đó, Chúa Giêsu mời gọi ta điều gì? Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa.
Chúa Giêsu mời ta đến với Chúa, không phải để Chúa cất đi gánh nặng đó cho ta, vì khi xuống trần gian Chúa cũng đã phải mang lấy cái gánh nặng nề. Gánh nặng đó chính là gánh tội lỗi của toàn thể nhân gian. Chúa cũng không gánh thay giùm ta! Chúa mời ta đến với Chúa để được nâng đỡ và bổ sức cho. Chúa nâng ta bằng ơn thánh của Chúa, Chúa đỡ ta bằng sức mạnh của Ngài. Chúa còn bổ sức cho ta bằng phúc lành và tình thương tha thứ của Chúa.
Có Chúa nâng đỡ và bổ sức, chắc chắn gánh nặng đời ta sẽ bớt nặng, bớt nề; và cuộc đời ta, vì thế, mà sẽ tươi sáng hơn lên.
Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn đó là có nhiều người khi đối mặt với những gánh nặng cuộc đời, thay vì tìm đến với Chúa thì lại tìm đến với những thứ khác.
Có người thì tìm đến với thầy nọ bà kia, hoặc tìm đến với phù chú, bùa ngải. Hậu quả là gia cảnh càng thêm trầm trọng.
Có người thì tìm đến với với rượu với bia, tự nhủ nhờ rượu nhờ bia mà bớt sầu buồn. Kết cục là cả cuộc đời ngả nghiêng xiêu vẹo theo men rượu men bia.
Có người lại tìm đến số đề, số đóm với ước mong có tiền trả nợ, thoát nghèo. Nào ngờ nợ càng chồng chất, gia đình vì thế mà tan nát te tua.
Có người lại tìm đến với thuốc, không phải là thuốc bổ, mà là thuốc sâu để giải sầu vĩnh viễn và để quên đi gánh nặng cuộc đời. Để lại một gánh nặng nề hơn cho những người thân thương, v.v…
“Hỡi những ai mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta”, thiết nghĩ đó là lời mời gọi thân thương và ngọt ngào nhất của Thầy Giêsu Chí Thánh. Hãy mau mắn đáp lại lời mời gọi ấy. Có Chúa cùng đi, có Chúa cùng nâng đỡ và giúp sức, không có gánh nào có sức đè bẹp ta, không có gánh nào làm ta quỵ ngã. Có khi gánh ấy lại trở thành chiếc cầu đưa ta đến gần Chúa hơn và gần anh em hơn. Amen.
28. Gieo và Gặt – Anmai, CSsR
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe là trang Tin Mừng quá quen thuộc với mỗi người chúng ta nhưng ngày hôm nay nghe lại nó vẫn có một giá trị nhất định trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, cách riêng là đời sống thường nhật đang, đã và sẽ diễn ra trong xã hội ngày hôm nay.
Chúa Giêsu thường dùng các dụ ngôn để giảng dạy cho các môn đệ, cho dân chúng. Dụ ngôn ngày hôm nay thật là dễ thương, Chúa đã lấy hình ảnh hết sức thực tế, hết sức gần gũi trong đời sống con người để nói với mỗi người chúng ta. Chúa nói là gieo giống chứ Chúa chẳng hề nói là gieo cây nào cả, Chúa chẳng hề nói đó là lúa hay bắp, hay đậu … Nói như thế hết sức gần gũi vì lẽ ai ai cũng có thể hiểu được vì có vùng thì trồng lúa, có vùng thì trồng đậu, có vùng thì trồng cà phê, có vùng thì trồng tiêu … Bất cứ nghề nào chứ không phải riêng gì về nghề nông, ai ai cũng mong cho mình có lợi sau mùa thu hoạch chứ chẳng ai mong mình bị thất mùa hay bị thất thu.
Như một người gieo giống bình thường, Chúa cũng mong gặt được những hoa quả thật tốt nhưng rồi cuộc đời vẫn có điều gì đó bất thường là thi thoảng Chúa thất thu. Chúa thất thu vì lẽ người ta đã khép lòng mình lại, khép mảnh đất cuộc đời của mình lại không để cho Lời Chúa sinh sôi nẩy nở trong đời của họ. Thiên Chúa luôn luôn yêu thương, sẵn sàng cứu độ con người nhưng còn phần con người, con người có mở lòng mình ra để cho Chúa cứu hay không là chuyện khác. Chúa gieo giống tốt nhưng con người lại cố tình làm cho hạt giống đó bị hư đi đó chính là quyết định của mỗi người.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản về dụ ngôn này: người gieo hạt là Chúa, hạt là Lời Chúa, đất chính là mỗi người chúng ta.
Hoa quả của bất cứ cây, hạt nào cũng cần có 3 yếu tố: người gieo, giống gieo và đất để gieo.
Người gieo thì khỏi phải bàn, vì Ngài là chính Thiên Chúa, Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, đầy từ bi và nhân hậu để rồi chúng ta an tâm và tin tưởng rằng Ngài là người gieo tuyệt vời. Ngài gieo những hạt mầm tốt để cho con người được phát triển, để được sống trong vòng tay yêu thương, trong sự quan phòng kỳ diệu của Ngài.
Hạt: Lời Chúa. Chúng ta vẫn thường hát với nhau: “Halleluia, Lời Chúa sáng soi con đường đi, Halleluia, Lời Chúa khác chi như giòng suối, Hallelui, Lời Chúa bánh thiêng ban nguồn sống, phúc cho người vui nghe, yêu mến gẫm suy lời luôn”
Hát thật là hay, hát thật là to, hát thật là hoành tráng nhưng hình như Lời Chúa ngày hôm nay nó cứ mờ dần, nhạt dần trong đời sống người kitô hữu thì phải. Thánh vịnh nhắc nhở chúng ta: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước” thế nhưng mấy ai trong chúng ta đã dùng lời Chúa để chiếu soi cuộc đời của mình.
Ngày hôm nay, giữa một đời sống quá phát triển, Lời Chúa dần dần bị người ta đẩy ra khỏi cuộc đời.
Thử hỏi các bậc làm cha làm mẹ xem, ngày hôm nay, cha mẹ, con cái trong gia đình mấy khi đụng đến quyển Thánh Kinh? Trong khi đó Thánh Kinh chính là nguồn sống, nguồn hạnh phúc, của ăn tinh thần cho gia đình.
Nhìn lại chương trình học của một đứa bé chúng ta thấy rất rõ.
Chập chững biết đi một chút thì vào nhà trẻ, sau đó vào cấp 1 và từ từ tiến vào đại học. Bên cạnh đó cha mẹ chúng lo lắng cho chúng quá nhiều về các kỹ năng như đàn, vi tính, học bơi... học ngày không đủ và tranh thủ cả học đêm nữa. Đành biết những môn đấy rất cần cho cuộc đời nhưng nó chỉ là cần chứ không phải là đủ, là căn cốt của cuộc đời này. Một thực trạng đau lòng ngày hôm nay là số lượng giáo lý viên trong các giáo xứ cứ vơi dần. Không chỉ giáo lý viên vơi dần mà các em nhỏ học giáo lý cũng vắng dần trong các lớp giáo lý. Khi hỏi đến thì cha mẹ và ngay như chính các em cũng tìm hết mọi cách để lý giải cho mình về chuyện bỏ bê học Lời Chúa mà chỉ mãi đi tìm cho mình tri thức của xã hội.
Cũng buồn cười! Chắc có lẽ đi học cái gì càng đóng tiền cao họ càng thích đi chứ đi học Giáo lý miễn phí nên chẳng ai thèm đi học cả. Cũng nực cười hơn nữa khi chính cái học miễn phí ngày hôm nay, ngày các cháu còn trẻ chính lại là cái kho tàng vô giá, là hành trang các cháu mang theo khi vào đời. Học cao hiểu rộng biết nhiều là tốt đấy nhưng thực ra không ít người đang phải trả một giá quá đắt cho chuyện đầu tư tri thức chứ không đầu tư cho Lời Chúa.
Lời Chúa cứ theo năm tháng mờ nhạt dần trong đời sống kitô hữu.
Mảnh đất: mảnh đất để mà Lời Chúa có thể sống và phát triển chính là cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì ham chạy theo sức hút của cuộc đời, ngày hôm nay con người ta không còn dành cho Lời Chúa phát triển trong đời mình nữa. Các kiến thức về khoa học, về tin học, về xã hội nó đã chiếm hết mảnh đất của đời ta rồi thì còn gì chỗ để mà cho Lời Chúa phát triển nữa.
Mới đây, một người quen nhờ tôi giúp cho hai đứa con của chị khi chị thấy chúng dường như nói quá đáng là bỏ đạo! Nghe chị nói xong tôi cảm thấy ngao ngán làm sao đấy! Gia đình chị thuộc dạng khá giả, chồng chị là một người có tiếng trong giới hội họa – mỹ thuật nhưng gia đình chị đang đứng trên bờ vực của sự dữ, sự mất lòng tin, dự đánh mất Thiên Chúa ra khỏi gia đình.
Chẳng dám trách ai, chẳng dám trách chị, chẳng dám lên án ai và cũng chẳng dám lên án chị.
Có lẽ cái hậu quả, sự bi đát mà gia đình chị đang chịu lấy không phải ngẫu nhiên mà đến với gia đình chị. Nó chính là hậu quả của nhiều tháng nhiều năm mà gia đình chị chính là tác giả. Là một gia đình Công giáo hẳn hoi nhưng Lời Chúa chẳng bao giờ có cơ hội để mà sống trong gia đình của chị. Vợ chồng con cái cứ mãi miết đi tìm con chữ, đi tìm tri thức mà không tìm Lời Chúa. Chúa nhật vẫn tham dự Thánh lễ tạm gọi là cho có với người ta chứ vợ chồng con cái có để cho Lời Chúa thấm nhập vào gia đình chị đâu mà con cái chị có đời sống đạo tốt! Tôi khẳng định một điều rằng chính vợ chồng con cái chị là người đã tạo nên hậu quả ngày hôm nay. Ngày hôm nay, dẫu rằng anh chị sống trên một đống tiền mà có thể nói là tiền tỷ đấy nhưng có hạnh phúc thật hay không hay nó chỉ là cái giả tạo ở bên ngoài về mặt xã hội thôi còn về tôn giáo, về lòng tin, về Thiên Chúa hình như chỉ là vá víu tạm bợ mà thôi.
Nếu như khi các cháu còn bé, anh chị biết dạy dỗ, hướng dẫn các cháu sống Lời Chúa cùng với các anh chị thì ngày hôm nay anh chị không phải lo lắng gì cả. Thử hỏi một ngày Chúa ban cho anh chị và các cháu được 24 giờ đồng hồ nhưng anh chị và các cháu dành được bao nhiêu phút để ngồi lại với nhau đọc kinh chung với nhau thôi chứ đừng nói là đọc lời Chúa và suy niệm Lời Chúa?
Lo đi tìm thế gian thì thế gian sẽ tràn ngập gia đình, đó là quy luật tất yếu của cuộc đời chứ có gì đâu mà chị phải lo âu và thắc mắc. Nếu như anh chị và các cháu đi tìm Lời của Chúa thì chắc chắn Chúa sẽ là vua, là Chúa là chủ của gia đình anh chị.
Nhớ đến hình ảnh gia đình của chị tôi trộm nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài cho chúng ta tự do lựa chọn thái độ sống với Ngài. Ngài không hề ép buộc chúng ta bất cứ điều gì cả. Lời Chúa vẫn có đó, Lời Chúa vẫn còn đó nhưng còn đón nhận, làm cho phát triển lại tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Chúng ta có để cho Lời Chúa trở nên nguồn sống, nguồn ánh sáng, nguồn suối cho cuộc đời chúng ta hay không chính là cách đáp trả của mỗi người chúng ta.
Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết mở lòng mình ra để đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc đời mỗi người chúng ta để ngày sau Chúa gặt được những cây “lúa”, những cây “đậu”, những cây “cà phê” đầy hoa và trĩu quả.
29. Người đi gieo Tin Mừng
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Từ thuở hồng hoang, Tin Mừng đã đến: Lời Ngài tạo tác đất trời (Tv 32). Người đi gieo Tin Mừng đầu tiên chính là Thiên Chúa Tạo Thành Vũ Trụ.
Bỗng, một tin buồn bao trùm cả vũ trụ: tin buồn từ bản án đầu tiên trong nhân loại- con người phải đau khổ và phải chết ngàn thu.
Tin buồn ấy, khởi đi từ việc tình thương của Thiên Chúa bị chính tạo-vật-được-ơn-tự-do phủ nhận cách công khai qua việc bất tuân đối với chính Đấng Sinh Thành.
Con người lầm lũi vào cuộc đời đầy bất hạnh. Khi chưa kịp bất hạnh vì sự chết, thì con người đã bất hạnh vì thiếu tình thương và giàu lòng kiêu ngạo hơn người, nảy sinh tính ích kỷ ganh tỵ
Thấy Abêlê được lòng Thiên Chúa, Cain bỗng ganh tỵ đến tột cùng và không ngần ngại giết chết em mình cách thê thảm
Triệu triệu năm trần gian đã qua đi, mà lòng kiêu ngạo của thưở ban đầu vẫn còn nguyên vẹn trong cái bản tính, cái cốt cách, cái văn phong của con người. Người người vẫn đang muốn làm Cain đòi hơn kẻ khác trong mọi việc, người người đang muốn tự phong tặng cho mình vào chỗ nhất mà không cần biết chỗ nhất ấy có đẹp lòng Thiên Chúa hay không, vì họ đã gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài đời sống.
Thật khủng khiếp cho cái hậu quả kiêu căng của tội tổ tông truyền: hận thù, ganh tỵ và mất bình an.
Trước toàn cảnh buồn thảm, bi đát ấy, Thiên Chúa gieo vào trần gian một Hạt Giống Tin Mừng. Hạt giống ấy là Chúa Giêsu Kitô, Người Tuyệt Đối Khiêm Nhường của Thiên Chúa, đến để mang lại cho trần gian niềm vui đích thực: niềm vui của lòng yêu thương, và yêu thương khiêm hạ đến quên mình để người khác được sống và sống bình an.
Hạt Giống Tin Mừng
Tiên tri Isaia đã nói trước về Hạt Giống Tin Mừng của Thiên Chúa: "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác" (Is 55, 10-11)
Hạt giống ấy được gieo âm thầm vào trần gian. Hạt giống của trời cao, bị đất thấp từ chối. Hạt giống của tin mừng bình an, bị tin buồn bất an trấn áp. Hạt giống chân lý bị bất công loại trừ. Hạt giống yêu thương bị oán thù tẩy chay ngạo mạn....
Thân phận Chúa Giêsu, thân phận hạt giống của Thiên Chúa, bị trầm đọa như thế, tưởng như là một thất bại ê chề của Thiên Chúa, nhưng không, đó lại là kế hoạch cứu rỗi của Chúa vì Hạt Giống đang "thực hiện ý muốn của Thiên Chúa, và làm tròn sứ mạng Thiên Chúa ủy thác": hư thối đi để nẩy mầm.
Chúa Giêsu, Hạt Giống Tin Mừng của Thiên Chúa, vốn dĩ là hạt giống khiêm nhường tự hạ, đã bằng lòng thối đi trong lòng đất để đâm chồi cây tin mừng và trổ sinh hoa trái bình an. Nhưng, điều quan trọng là lòng đất có bằng lòng đón nhận hạt giống tin mừng ấy không.
Đón nhận Hạt Giống Tin Mừng
Hãy khát khao đón nhận lời Chúa, như Thánh Phaolô nói: "Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. (Rm 8, 19)
Vì Chúa Giêsu tha thiết ước muốn chúng ta đón nhận Lời Ngài, là chính Ngài, cho Ngài được nẩy mầm và lớn lên trong chúng ta, để chúng ta được hoa trái vui mừng và bình an.
Thế nhưng, vì bản tính kiêu căng, và lòng nặng hướng về tội lỗi, nên thái độ đón nhận Tin Mừng cũng hờ hững như vệ đường, kiêu căng như sỏi đá, mối bận tâm thế gian và lòng ganh tỵ như gai góc um tùm đã làm cho Hạt Giống Tin Mừng của Thiên Chúa không thể mọc lên được. Chỉ có tâm hồn thành tâm khiêm nhượng mới là mảnh đất tốt cho Lời Chúa mọc lên và sinh hoa kết quả.
Như Chúa Giêsu giải thích: "Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường. Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận, nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay. Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì. Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục." (Mt 13, 19-23)
Đáng tiếc thay cho tâm hồn còn đầy gai góc của lòng ganh tỵ, còn đầy sỏi đá của lòng kiêu căng, còn mãi dững dưng với ơn lộc Thiên Chúa, còn giữ nguyên căn cội của tội nguyên tổ đã bóp chết Hạt Giống Tin Mừng.
Hãy để cho lòng mến ngập tràn tâm hồn ta, lòng mến đơn sơ khiêm nhượng, lòng mến thật thà dũng cảm, lòng mến biết nhẫn nhịn thứ tha, lòng mến lịch sự tôn trọng nhau trong điều thiện hảo đẹp lòng Chúa, lòng mến biết khích lệ nhau ca tụng Chúa.... Lòng mến khiêm nhượng hãy tràn ắp tâm hồn, để Hạt Giống Lời Chúa nẩy mầm, sinh hoa kết quả.
Người đi gieo Hạt Giống Tin Mừng hôm nay.
Đã đến lúc mà mỗi tín hữu cần ý thức vai trò đi gieo trong cuộc sống đức tin của mình. Không chỉ là việc của các linh mục, tu sĩ, mà còn là việc khẩn thiết của giáo dân, những con người lăn lộn trong ruộng đời của Thiên Chúa. Họ không chỉ nghe Lời Chúa, mà còn phải đem ra thực hành, và cuộc sống đầy hoa trái bình an của họ, biến họ trở thành người đi gieo bình an Nước Chúa.
Vì thế, người đi gieo tin mừng phải là người sống Tin Mừng trước tiên. Chính cuộc sống Tin Mừng là lời giảng hùng hồn nhất, có sức biến đổi thế giới nầy thành một thế giới tràn ngập niềm vui.
Bởi vậy, thiết tưởng cũng nên đặt lại vấn đề rao giảng Lời Chúa mà mình đã sống, hơn là rao giảng Lời Chúa mà mình đã học, vì không có gì đáng trách cho bằng việc "nói một đường, làm một nẻo"!
Ước mong cho bạn, cho tôi, cho người đi gieo tin mừng hôm nay mặc lấy tấm lòng của người đi gieo tin mừng đầy khiêm nhượng, để Lời Chúa biến đổi cuộc đời nên lời chứng cho niềm vui và bình an nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho lòng con khiêm nhượng đón nhận Lời Ngài là ánh sáng, là sức sống là niềm vui bình an cho chúng con, để cuộc sống mỗi chúng con trở thành lời chứng hùng hồn cho niềm vui và bình an của Nước Thiên Chúa. Amen.
30. Ngài dạy họ nhiều điều
(Giải thích Bản văn Tin Mừng – Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Giải thích
Bắt đầu từ chương 13, Chúa Giêsu ra khỏi khung cảnh hội đường và các cuộc tranh luận. Ngài giảng dạy dân chúng trên bờ biển qua các dụ ngôn. Sau khi Chúa Giêsu nói về việc “thi hành ý muốn của Cha trên trời” (12:50), Ngài chuyển sang dụ ngôn Người gieo giống. Hạt giống sẽ được giải thích là lời của Nước Trời (13:19), cũng có nghĩa là ý muốn của Thiên Chúa được trình bày trong lời nầy. Tiếp sau dụ ngôn nầy là các dụ ngôn về Nước Trời. Như thế, Chúa Giêsu trình bày ý muốn của Thiên Chúa trong các dụ ngôn. Dụ ngôn đầu tiên “Người gieo giống” sẽ cho thấy các cách thức khác nhau đón nhận lời Chúa và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Dụ ngôn Người Gieo Giống là dụ ngôn đầu tiên trong loạt 7 dụ ngôn. Sáu dụ ngôn còn lại chia thành hai nhóm ba, phân cách nhau bởi giải thích dụ ngôn cỏ lùng. Mỗi trong sáu dụ ngôn đều bắt đầu bằng câu: “Nước Trời giống như”. Phần dành cho các dụ ngôn kết thúc ở câu 13:53.
Phân đoạn các dụ ngôn trong chương 13 nầy như sau:
1- Dụ ngôn người gieo giống (13:1-9); Mục đích của dụ ngôn (13:10-17) và giải thích dụ ngôn (13:18-23); 2- Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:24-30); 3- Dụ ngôn hạt cải (13:31-32); 4- Dụ ngôn men trong bột (13:33); Lý do dùng dụ ngôn (13:34-35); Giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng (13:36-43); 5- Dụ ngôn kho tàng ẩn dấu (13:44); 6- Dụ ngôn viên ngọc quý (13:45-46); 7- Dụ ngôn lưới cá (và giải thích) (13:47-50); Kết luận (13:51-52).
Bố cục của dụ ngôn người gieo giống (13:1-9) có thể được phân chia như sau:
- Dẫn nhập (c. 1-3a);
- Các loại đất đón nhận hạt giống (cc. 3b-8);
- Kết luận (c. 9).
Giảng Dạy Trên Bờ Biển (cc. 1-3a)
Không gian trình thuật thay đổi. “Căn nhà” mà Ngài đi ra khỏi là căn nhà trong đó Ngài sẽ giải thích cho các môn đệ ý nghĩa dụ ngôn người gieo giống (13:36). “Ngài ngồi xuống” và “đám đông đến bên Ngài” ám chỉ Ngài sắp sửa giảng dạy họ như một vị Thầy (5:1). Những người nghe Ngài giảng dạy vẫn là “đám đông” đã theo Ngài ngay lời đầu tiên của Bài Giảng Trên Núi (5:1; 7:28; 8:1; 12:46; 13:2).
Các Loại Đất Đón Nhận Hạt Giống (cc. 3b-8)
Ý nghĩa của dụ ngôn sẽ được Chúa Giêsu giải thích trong 13:18-23. Ở đây chúng ta cố gắng tìm hiểu ý nghĩa các hình ảnh của dụ ngôn. Người gieo giống, chứ không phải là “một người gieo giống vì có mạo từ, được giới thiệu ở đầu dụ ngôn (c. 3b) chính là Chúa Giêsu, Đấng mang lời Chúa đến cho trần gian. Tuy nhiên trong dụ ngôn không nhắc đến người gieo giống nữa, mà chỉ nói đến “hạt giống”, chủ ngữ thật của dụ ngôn, “Có hạt rơi trên…”. Matthêu mô tả bốn nơi hạt giống rơi xuống (cc. 4-8), trong đó hai lần thánh sử mô tả tính chất của đất: “không có nhiều đất” (c. 5) và “đất tốt” (c. 8), như là điều kiện chính làm cho hạt giống lớn lên và sinh hạt hay không. Hai lần khác thánh sử không nói đến tính chất của đất, mà nói đến môi trường không thuận lợi cho hạt giống: “vệ đường” (c. 4), và “bụi gai” (c. 7); trong các môi trường đó, hạt giống chịu tác hại do chim trời đến ăn, và cây gai bóp nghẹt; do đó hạt giống không thể sinh trưởng được.
Hạt giống rơi trên vệ đường (c. 4). Vệ đường ở đây là những mảnh đất hẹp chạy dọc theo bờ ruộng hoặc giữa ruộng (x. 12:1). Chim trời đến ăn đi những hạt rơi trên đó. “Chim trời” không mang một ý niệm tiêu cực. Trong Matthêu, peteinon, chỉ “chim trời” được Thiên Chúa chăm sóc và nuôi nấng (6:26; 8:20; 13:32); do đó không thể giải thích “chim trời” là hình ảnh của “kẻ xấu”, ponèros (13:19). Động từ katesthiò, có nghĩa là “nuốt chững”.
Hạt rơi trên đá, không có nhiều đất (cc. 5-6). Đồi núi nhiều nơi tại Palestina chỉ toàn là đá sỏi. Loại đá trong dụ ngôn nầy là petròdès, “đất đá”, trên loại đá nầy có một lớp đất mỏng (13:5.20); khác với petra, “đá tảng” (7:24tt). Trong lớp đất mỏng hạt giống mau ấm hơn nên cũng mọc lên nhanh hơn; nhưng dưới ánh mặt trời nóng bức, nó sẽ khô héo ngay nếu thiếu nước (x. Giê. 17:8).
Bụi gai (c. 7). Cây gai không phải là cây hữu ích. Nơi cây gai không thể hái được trái nho (7:16; 13:22). Hạt giống rơi vào trong bụi gai thì không thể sinh trưởng được (x. 7:16). Động từ “bọp nghẹt” , pnigò, “làm cho nghẹt thở” (18:28) không sống nổi.
Đất tốt (c. 9). Hạt giống lthành cây và kết hạt được tính theo con số tăng dần, từ ba mươi lên dần đến một trăm. Cách tính tăng dần nầy cũng thấy trong đoạn tin mừng nầy. Từ hạt giống rơi bên vệ đường bị ăn mất ngay từ đầu, đến hạt giống mọc lên được một chút rồi bị cháy khô, đến hạt giống lớn lên nhưng không sinh hạt, và sau cùng là hạt giống sinh hạt. “Trái/hạt”, karpos, còn có nghĩa thiêng liêng: đó là lòng sám hối. Muốn biết đất tốt hay xấu thì hãy nhìn xem cây sinh hạt, giống như nhìn quả thì biết cây (x. 7:16; 12:33).
“Ai có tai để nghe thì hãy nghe” (c. 9). Cụm từ nầy được dùng trong hai lần khác nữa trong văn mạch khác (11:15; 13:43). Nó thường được dùng trong kết luận, và nhằm gây chú ý trước một vấn đề hệ trọng đã được bàn đến. Ở đây câu nầy hướng về dân chúng là những người đang nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Ngài làm cho họ chú ý và cho họ thấy họ có thể là một trong các loại đất vừa nói trên.
+++
Hạt giống Lời Chúa được gieo xuống trần gian không bao giờ thiếu.
Mảnh đất đón nhận hạt giống, mới là quan trọng.
Chúa Giêsu đã rao giảng lời Thiên Chúa cho dân chúng, và Ngài trông chờ những mảnh đất tốt.
Ai là mảnh đất tốt, nghĩa là đón nhận Lời Chúa cách có hiệu quả, sẽ trở nên mẹ và anh chị em của Chúa Giêsu.
31. Hạt giống tốt - Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Lớn lên ở thôn quê, đi rao giảng phần lớn thời gian ở thôn quê, Chúa Giêsu đã thường xuyên được chứng kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, nên Ngài đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về nước trời, một trong những dụ ngôn đầu tiên của Chúa là dụ ngôn người gieo giống.
Người gieo trồng nào cũng có niềm tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả tin tưởng phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trong bụi gai, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt. Nước trời cũng giống như người ra đi gieo giống vậy.
Thái độ lạ đời của người gieo giống khiến chúng ta hiểu được phần nào tình yêu thương phổ quát của Thiên Chúa. Không có người nông dân nào có đầu óc bình thường hiểu biết, lại đi phung phí hạt giống trên mọi mảnh đất, ngay cả những chỗ gai góc hay những mảnh đất sỏi đá, nhưng họ gieo vãi hạt giống của mình trên thửa đất đã được cày bừa cẩn thận để hạt giống có thể mọc lên thật dễ dàng. Ở đây Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Ngài muốn cứu rỗi tất cả mọi người, không phân biệt ai, Ngài muốn thông truyền chân lý cho mọi hạng người. Nhưng cũng như các mảnh đất được kể trong Tin Mừng, tiếp nhận hạt giống và sinh hoa kết trái khác nhau, mỗi người cũng có thái độ khác nhau khi đón nhận lời Chúa, tiếp nhận ân sủng của Ngài, họ có quyền tự do chấp nhận hay từ chối. Nếu chấp nhận thì lời Chúa sẽ đem lại cho họ nhiều lợi ích, nếu chối từ thì họ sẽ chẳng được gì. Như vậy, hoa trái tốt lành là tùy ở sự chấp nhận của con người.
Chính mỗi người phải cố gắng làm cho tâm hồn mình thành mảnh đất tốt, phì nhiêu tiếp nhận lời Chúa một cách thành khẩn, để hạt giống có thể phát triển và đơm bông kết trái. Trong các hoạt động hay sinh hoạt hằng ngày, dù công khai hay âm thầm, dù to lớn hay nhỏ bé, kể cả những khó khăn và đau khổ của cuộc sống, tất cả mọi người đều được mời gọi để gieo rắc niềm hy vọng. Trên những mảnh đất khô cằn tình người, chúng ta được Đức Kitô kêu mời trồng tỉa từng hạt giống của yêu thương. Trên những vùng đất khô sạn tin yêu, chúng ta được Đức Kitô kêu mời gieo rắc niềm hy vọng. Từng giây, từng phút, từng ngày, từng năm, chúng ta tin tưởng rằng sức sống sẽ bừng dậy yêu thương sẽ trổ bông.
Người ta kể rằng: Một người cha kia có ba đứa con trai, tuy sinh ra trong nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và tiết kiệm, ông đã trở nên một điền chủ giàu có. Lúc cuối đời, tuổi già sức yếu, ông tính việc chia gia tài cho các con, ông muốn biết đứa con nào thông minh nhất để giao phó phần lớn gia tài của ông cho nó. Ong gọi cả ba người con tới bên giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng và bảo hãy đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trống trải và u tối của ông.
Ba người con vâng lời cha cầm tiền ra chợ. Người anh cả nghĩ rằng việc này quá dễ dàng, anh mua một bó rơm lớn đem về, người con thứ hai nghĩ kỹ hơn, anh mua những bao lông vịt rất đẹp mắt, người con út lo nghĩ: biết mua gì với năm đồng này để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha? Cuối cùng anh nghĩ ra, anh mua một cây nến và một bao diêm.
Ngày hôm sau, cả ba người con đều tụ họp trong phòng cha già. Người con cả mang rơm ra trải, nhưng phòng quá rộng, chỉ phủ được một góc, người con thứ đổ lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được một góc của căn phòng. Người cha tỏ vẻ thất vọng. Người con út từ từ rút trong túi ra một cây nến và một hộp diêm, thoáng một cái căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người ngạc nhiên, người cha già rất sung sướng vì quà tặng của người con út, ông quyết định trao phần lớn ruộng đất và gia sản cho anh ta, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình và nhờ đấy cũng có thể giúp đỡ các người anh nữa.
Cuộc sống mỗi người chúng ta, cuộc sống những người chung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta, có lẽ nhiều khi cũng giống như một căn phòng tối, chỉ cần một người nào đó thắp lên một tia sáng nhỏ là những người chung quanh sẽ cảm thấy ấm áp và phấn khởi hơn: một tia sáng nhỏ của cái mỉm cười, một tia sáng nhỏ của lời chào hỏi thăm nom, một tia sáng nhỏ của tình yêu san sẻ, một tia sáng nhỏ của cảm thông, tha thứ, một tia sáng nhỏ của niềm tin giải tỏa qua sự hân hoan chấp nhận cuộc đời.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã cho chúng ta nhận được tình yêu của Chúa. Xin cho cả cuộc sống chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
32. Sinh lợi hạt giống tình yêu
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương thế gian, yêu thương vũ trụ mà Ngài đã dựng nên nó trong đó có con người. Ngài dựng nên vũ trụ là để thông phần vinh quang yêu thương. Tuy nhiên do tội nguyên tổ đã làm hư hỏng bản tính đầy tốt đẹp của vũ trụ thuở ban đầu. Ngài dựng nên vũ trụ tốt đẹp và Ngài cũng muốn vũ trụ đạt kết quả cuối cùng của nó trong sự tốt đẹp. Do đó, Ngài đã hứa ban Đấng Cứu Chuộc để tái lập trật tự hư hỏng này. Khi đã làm người, Đức Giêsu đã mạc khải về tình yêu Thiên Chúa bằng nhiều cách thức như: làm phép lạ, dạy bằng dụ ngôn,...và hôm nay, bài phúc âm thuật lại việc Đức Giêsu giảng dạy bằng dụ ngôn. Qua đó, Đức Giêsu muốn con người đáp trả bằng tình yêu đối với Thiên Chúa. Sinh lợi cho chính bản thân mình cũng chính là làm theo ý Thiên Chúa, làm vinh danh Thiên Chúa.
Thật thế, bài Phúc âm hôm nay (Mt 13, 1 - 23) được gọi là "Dụ Ngôn Người Gieo Giống". Đức Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống để mô tả số phận của Lời Chúa được tung ra giữa nhân loại và đem lại kết quả.
Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết người gieo giống ấy chính là Thiên Chúa, một vì Thiên Chúa hết mực yêu thương con người, rộng rãi tung gieo Lời mạc khải cho trần gian. Đức Giêsu Kitô chính là Đấng Thiên Sai nhận lấy sứ mạng đến trần gian mạc khải tình yêu ấy cho con người, Người rất rộng rãi và hào phóng. Người rộng rãi đến độ chính Người lại trở nên hạt giống, chịu chôn vùi, mục nát để làm cho những mảnh đất dù nó là đất gai góc hay sỏi đá thành màu mở phì nhiêu, và Người chờ mong một mùa gặt bội thu. Như thế, Đức Giêsu đã tự ví mình là hạt giống được gieo được gieo vào trần gian, được gieo vào mảnh đất tâm hồn của mỗi con người, Ngài chính là tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Mặt khác, Thiên Chúa là Đấng gieo hạt giống tình thương, mà đã gieo một cách quảng đại, gieo hạt không mệt mỏi, không tiếc xót, không tính toán, không loại trừ, không phân biệt đối xử, không thiên tư tay vị...Điều đó cho chúng ta nhận thấy tình yêu được thể hiện cụ thể và rất rộng rãi. Về phía con người, chúng ta cũng nhận thấy, có những mảnh ruộng phì nhiêu màu mỡ đón nhận và ngay cả những mảnh ruộng sỏi đá, khô cằn, cỏ mọc um tùm những con đường mòn kẻ qua người lại cũng không bị Thiên Chúa lãng quên. Thiên Chúa muốn tình thương và ơn cứu độ của Người được gieo vãi khắp mọi nơi, Ngài muốn đổ đầy tràn mà tràn lan hơn nữa vào trong nhân gian.
Hơn nữa, Thiên Chúa gieo một cách kiên trì và quảng đai, dù đêm hay ngày, dù mưa hay nắng, thành công hay thất bại Ngài vẫn tung gieo hạt không ngừng. Hay cho dù chim trời, nắng hạn, cỏ mọc um tùm bóp nghẹt không cho hạt giống được lớn lên...Thiên Chúa luôn kiên trì vì Người đang gieo trong niềm hy vọng, một niềm hy vọng thật lớn lao và mong muốn hạt giống ấy được phát triển không ngừng. Vì hy vọng mà Thiên Chúa kiên trì. Kết quả của việc này mang lại là: có hạt sinh được 30, có hạt sinh được 60, có hạt sinh được 100. Kết quả này có được là do Thiên Chúa kiên trì, quảng đại, hy vọng....tất cả là do tình thương yêu hết mức của Thiên Chúa. Yêu thương nên Thiên Chúa sáng kiến quảng đại, có yêu thương nên Thiên Chúa kiên trì, có yêu thương nên Thiên Chúa hy vọng vào kết quả trong tương lai. Một vì Thiên Chúa yêu thương bao la, dạt dào, không quản ngại, không sợ hao tốn. Chính vì tình yêu thương ấy mà ngay cả trong những mảnh đất khô cằn, chai cứng, và cỏ rác Thiên Chúa cũng gieo. Tình thương ấy mãnh liệt với ước mong cảm hoá được những tâm hồn chai cứng, khô khan và tội lỗi trở thành những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ.
Tình thương của Thiên Chúa vẫn kéo dài mãi trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Đó là ân sủng, là lời Chúa được rao giảng không ngừng. Lời Thiên Chúa trong Thánh Kinh, Lời Thiên Chúa qua tiếng nói lương tâm ngay thẳng, LờThiên Chúa chứa đựng trong vũ trụ, qua các biến cố và từng công việc... Phần còn lại chính là bản thân chúng ta, chính là ý chí tự do của mỗi người, chính là mảnh đất tâm hồn chúng ta, tâm hồn chúng ta có đón nhận lời Chúa và can đảm để cho hạt giống ấy lớn lên và sinh kết quả trong cuộc đời chúng ta. Nói cách khác chúng ta có đón nhận Lời Chúa hay không? Chúng ta có muốn để Lời Chúa được thâm nhập và phát triển trong tâm hồn chúng ta hay không?
Ngày nay, Hội Thánh đang tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu, tiếp tục rao giảng Lời Chúa trên khắp thế giới. Hội Thánh cũng gặp nhiều khó khăn, bị bách hại, bị ảnh hưởng của nền văn hoá thế tục, đời sống của những người có đạo sa sút và mất đức tin,...Dù gặp khó khăn nhưng Hội Thánh vẫn tiếp tục sứ mạng rao giảng, sứ mạng mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa. Và chắc chắn, Hội Thánh cũng mong muốn như niềm mong muốn của thiên Chúa là con người đáp trả, đón nhận và để cho Lời Chúa phát triển, sinh hoa kết quả tối đa trong cuộc đời con người. Thiên Chúa muốn tình yêu sáng tạo và cứu chuộc được thành tựu trong chính Đức Kitô.
Có thể mảnh đất tâm hồn chúng ta chưa phải là mảnh đất tốt, chưa thích hợp cho hạt giống lời Chúa sinh hoa kết quả. Vậy chúng ta hãy can đảm và kiên nhẫn nhổ đi những cây cỏ dại, gai góc và sỏi đá. Cùng với lòng yêu mến, chúng ta phải chuẩn bị mảnh đất tâm hồn mình thành nơi để hạt giống lời Chúa phát triển. Chúng ta phải quảng đại, kiên nhẫn và hy vọng để Lời Chúa đi vào cuộc đời mình trở thành một mảnh đất thánh cho hạt giống lời Chúa sinh sôi và phát triển. Và điều quan trọng là chúng ta hãy chủ ý nổ lực và cộng tác với Chúa Thánh Thần để sinh hoa kết quả dồi dào.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gieo vào tâm hồn chúng con Lời Chúa. Xin cho chúng con quảng đại đón nhận tình yêu ấy và can đảm làm trổ sinh kết quả trong cuộc đời chúng con như Chúa mong muốn. Amen.
33. Sức sống của hạt giống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.
Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.
Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).
Tin mừng Chúa nhật hôm nay (Mt 13,1-23) có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau.
Hạt giống được gieo trên bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy. Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được? Trong bụi gai chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thánh cây xanh tốt được? Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống tốt xấu mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa.
Tấm lòng quảng đại của người đi gieo.
Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt không bỏ rơi một mảnh đất nào vì tấm lòng quãng đại của ông, chỉ muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài. Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như họ thành tâm thiên chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử, không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.
Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (Mt 13, 23). Thiên Chúa vẫn gieo Lời Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (Is 55, 11).
Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối. Thánh Phaolô hăng say bách hại các kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.
Hạt giống tiềm ẩn sự sống.
Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm phó thác cho tương lai.
Hạt giống là ánh sáng, là Tin mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” (x. Ga 12,24) lại là một hình ảnh khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên.
Niềm hy vọng mùa gặt phong phú
Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn phận của đất là không được phụ lòng người quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài cần con người cộng tác.Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người.
Trong các hoạt động tông đồ, không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 5-9).
Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của đời sống người kitô hữu. Chính niềm hy vọng đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của Thiên Chúa ( GLCG # 1724).
Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc thì không thu lợi được bao nhiêu.
Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành.
Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ, rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp. Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: "Khu vườn thật là đẹp! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó". Ông Tư trả lời: "Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây".
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Mana)
34. Đường đi phải đến
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Nhà văn quá cố Xuân Vũ (1930-2004), một văn sĩ bộ đội hồi chánh năm 1971 đã viết một cuốn trường thiên hồi ký mang tựa đề “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN” mà nội dung cốt yếu là làm sống lại những nổi bi đát, thống khổ, man rợ tột cùng mà những người cán binh cọng sản, trong đó có Xuân Vũ, đã trải qua trên con đường mòn mang tên Hồ Chí Minh. Trên cuộc hành trình “giải phóng miền Nam” cay nghiệt đó, biết bao thanh niên, thiếu nữ đã vĩnh viễn nằm lại giữa núi rừng heo hút, bao nhiêu cái chết tức tửi đắng cay khi tuổi đời còn thênh thang mộng ước, bao mối tình say đắm ngọt ngào đành chia ly đứt gánh vì một “rừng mơ” của ảo tưởng và lầm lạc. Cho dù trong số ra đi đó có đến được Miền Nam, thì tâm hồn họ, cuộc đời họ cũng gần như tan nát, mất hướng và thất vọng khi nhận ra một lý tưởng bị đánh lừa, một cuộc đời bị lãng phí. Và vì thế, đối với Xuân Vũ, con đường giải phóng đó, con đường cách mạng đó lại là “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN”.
Thế nhưng hôm nay, Lời Chúa lại mách bảo chúng ta rằng: có một con đường khác mang tên LỜI CHÚA là một “ĐƯỜNG ĐI PHẢI ĐẾN”.
Trước hết, Lời Chúa phải được chúng ta tin nhận đó là Lời Hành Động, Lời hiệu quả, Lời mang lại ơn cứu độ, chứ không bao giờ là một lời của gió thoảng mây bay, lời của hoang vu trống rỗng.
Để khẳng định chân lý nầy, chúng ta hãy nhớ lại lời của sứ ngôn Isaia trong Bài đọc 1 vừa được công bố:
“Cũng như mưa tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đât, chưa làm cho đất…đâm chồi nẩy lộc…thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, …”.
Và không chỉ “xuất phát từ miệng Ta” như một âm thanh, như một tiếng nói, cho dù là tiếng nói sáng tạo: “Thiên Chúa phán: - Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng” (St 1,3), hay tiếng nói tình tự vỗ về của người yêu: "Bởi thế, nầy Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình" (Hs 2,16), mà là một sự “xuất phát” để “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta...” (Ga 1,14).
Với cuộc mặc khải tối hậu nầy, quả thật Lời Chúa đã cô đọng thành xương, thành thịt, thành người, thành “ngôi vị” và là Đấng tái tạo, cứu độ thế giới.
Đức Kitô chính là Ngôi Lời Nhập Thể, là Lời vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, là Lời loan báo tin Mừng bình an, là Lời Chân lý, là Lời đem lại sự sống đời đời. Ngài là Lời nhưng Ngài cũng chính là người đi rao giảng Lời, là Người công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa, là Người mang hạt giống chân lý tình yêu và cứu độ gieo vào mảnh đất trần gian. Ý nghĩa đầu tiên mà Chúa Giêsu muốn nhắm tới trong dụ ngôn “Gieo Giống” phải chăng là muốn cho dân Ít-ra-en ngày xưa và chúng ta hôm nay xác tín rằng: Nước trời chắc chắn sẽ đến và “Lời loan báo về Nước Trời” chắc chắn sẽ sinh hoa kết trái, cho dù phải kinh qua khó khăn thử thách, vất vả hiểm nguy, chẳng khác nào người gieo giống phải đối diện với những “sỏi đá khô cằn, những bụi bờ gai góc, tưởng đâu hạt giống sẽ bị vùi dập, nghiền nát, và người gieo phải thất bại trắng tay. Nhưng rồi, mùa gặt bội thu lại đến mang theo vỡ lỡ vui mừng, “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi…”
Phải chăng, Chúa Giêsu muốn ngụ ý trong dụ ngôn nầy là chính cuộc đời và sứ vụ của mình? Cũng có thể lắm đấy chứ! Ngay từ phút giây Nhập Thể vào mảnh đất trần gian, Lời Thiên Chúa đã chẳng đụng ngay con đường Bêlem sỏi đá, khô chồi đến độ, mọi cánh cửa nơi đó đều khép chặt để Ngài phải sinh hạ trong chuồng lừa máng cỏ đó sao! và rồi, trái tim nhân loại đâu có phải lúc nào cũng trổ hoa để mĩm cười đón đợi Đấng Cứu Thế. Hêrôđê, Philatô, những người biệt phái, các ông tư tế của đền thờ không chỉ là những thế lực có thể bóp nát chính bản thân Ngài, nhưng còn có đủ quyền uy để bóp ngặt không để cho một mầm mống nào của chân lý do Ngài rao giảng được tồn tại, phát sinh. Trong suốt ba năm dãi dầu sương gió, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ duyên hải Biển Hồ đế giữa lòng hoang mạc…Ngài đã cất công tung gieo hạt giống Lời Chúa. Nhưng kìa, tất cả gần như sụp đổ tan tành vào buổi trưa thứ Sáu: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi…Xin tha Baraba, đóng đinh Giêsu vào thập giá…”. Vâng, có lẽ do áp lực của miếng cơm manh áo, của vị thế chính trị, của nhưng “lo toan vặt vãnh đời thường”, mà gai góc đã phủ kín mảnh đất tâm hồn của đám dân vô tội ấy để Lời chân lý họ đã nghe và thán phục hôm nào “Người nầy dạy như Đấng có uy quyền”, đã “đội nón ra đi”, đã bị bóp nghẹt từ trong trứng nước! Phải chăng bi kịch thập giá là điểm hội tụ của tất cả những gì bi đát nhất của thân phận người gieo giống, của cuộc đời làm ngôn sứ của Chúa Giêsu.
Nhưng tiếng nói cuối cùng lại không là sự chết và đích điểm của Nước Trời lại không phải nấm mồ. Hạt giống Nước trời mà Chúa Giêsu gieo vào giữa lòng thế giới đã mục nát đi cùng với 33 năm cuộc đời nhập thể, cùng với cái chết đau thương của Ngài, đã không luống công vô ích. Vào bình minh ngày Thứ Nhất Trong tuần, hạt giống bị vùi dập Kitô đã oai hùng chỗi dậy đánh bại thần chết và tội lỗi để mang nhân loại đi lên một lộ trình mới: lộ trình của phục sinh, tin yêu và hy vọng. Tất cả đã từ từ vươn dậy. Để rồi xuyên qua bao thăng trầm dâu bể của lịch sử, hôm nay đã có một mùa lúa tốt tươi trên cánh đồng thế giới và hứa hẹn sẽ vàng đồng đầy kho nứt lẫm trong ngày thế mạt.
Và đó là con đường của Lời suốt 2000 năm nay, kể từ khi Hạt Giống Ngôi Lời chấp nhận chịu mục nát trên đồi Can-vê và muôn thế hệ Tông Đồ, chứng nhân nối tiếp cùng chấp nhận theo Đức Ki-tô làm “hạt lúa mì” mục nát đi trên cánh đồng thế giới.
Để đức tin, để ơn cứu độ được đến với muôn người, muôn dân tộc, cần có những con người gieo giống và những hạt giống tốt được gieo.
Vì thế, nếu Lời Chúa hôm nay không cho phép chúng ta đánh mất niềm tin yêu và hy vọng trong sứ vụ loan báo Tin Mừng; thì đồng thời, Lời Chúa cũng tra vấn chúng ta, thách thức chúng ta: Chính bản thân tôi đã đón nhận Lời Chúa thế nào? Lời Chúa đã thật sự phát sinh hiệu quả ra sao trong mảnh đất của đời tôi? Bởi vì Lời Thiên Chúa là Lời sống động kia mà! Lời không chỉ là ngôn từ mà còn phải trở thành ngôn ngữ của cuộc sống.
Nói cách khác, phải biến cuộc sống trở nên lời chứng sống động của Lời Chúa. Phải cất đi những góc gai sỏi đá và cày xới liên tục bằng hy sinh nguyện cầu để biến cuộc đời thành mảnh đất mở màu cho Lời Chúa kết trái đơm hoa.
Nếu Phêrô, Gioan không can đảm “nghe Lời Thiên Chúa hơn lời người phàm” (Cv 4,18), cho dù phải đối diện với đòn vọt ngục tù và cả cái chết thì làm sao có được Hội Thánh hôm nay? Nếu Phaolô không xác tín mạnh mẽ rằng: “khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”, thì làm sao một phần ban nhân loại hôm nay biết được Đức Kitô là ai và Tin Mừng cứu rỗi là gì? Cũng thế, nếu không có những Augustinô, Phanxicô Xavie, những Têrêsa hài đồng, những Anrê Phú Yên…; hay mới đây, trong thời đại nầy, những người như Mẹ Têrêsa Calcutta, những vị giáo hàng thánh thiện như hai Thánh giáo hoàng Gioan 23 và Gioan-Phaolô 2, thì làm sao vườn hoa Giáo Hội có được mùa lúa bội thu như hôm nay? Bên cạnh những tượng đài vĩ đại đó, trong Hội Thánh hôm qua và hôm nay còn có bao nhiêu “mảnh đất tâm hồn” âm thầm nhưng vĩ đại, như cô gái Vêrônica phung cùi người Camêrun, cho dù mù mắt, cùi tay, cụt giò, vẫn vui tươi biến cuộc đời thành hy lễ để Lời Chúa kết trái đơm bông nơi bao nhiêu anh chị em thương tật cùi hủi khác.
Và như thế chúng ta xác tín rằng, một khi đã mang Lời Chúa lên đường, một khi đã trở thành người gieo giống,.và một khi đã đón nhận hạt giống Lời Chúa với một cỏi lòng “đất tốt”, thì dứt khóa đường đi của Lời Chúa là “đường đi phải đến”, phải đến để mảnh đất trần gian nầy bớt đi những cỏ lùng hoang dại và trổ sinh những hoa trái tốt lành.
35. Hạt giống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Lạy Chúa, xin ban ơn cho chúng con biết biến đổi mảnh đất khô cằn, sỏi đá và hoang dại của tâm hồn, thành miền đất mầu mỡ phì nhiêu để hạt giống Lời Chúa triển nở tốt tươi và sinh nhiều bông hạt.
*******
Khi người ta tìm cách phủ nhận sự hiện hữu và sự sáng tạo của Đấng Tạo Hóa là khi họ bị lạc vào hư vô. Sự chối bỏ quyền của Tạo Hóa là chối bỏ chính mình. Một số người không tìm hiểu tường tận mà đã chối bỏ nguồn cội và ngụy trang bằng một kết luận là mọi sự tự nhiên mà có. Kết luận mà chẳng có luận kết chút nào. Khi không hiểu hay chưa hiểu về nguyên nhân cùng cốt của vũ trụ vạn vật, chúng ta phải mở lòng mở trí để đón nhận và nghiên cứu một cách sâu xa. Đừng phủ nhận và chối bỏ sự gì khi trí chưa kịp suy, lòng chưa kịp cảm và giác quan chưa được thấu tỏ. Khi quan sát mọi sự hiện hữu nhiệm mầu chung quanh, chúng ta hãy mở mắt ngắm nhìn và dừng lại đôi phút để chiêm niệm và vui hưởng. Vũ trụ vạn vần, mây tầng kết hợp, gió lộng tuyết rơi, nắng sớm mưa chiều và nguồn sinh phát lộc. Đây Chúa phán: Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn ((Is 55, 10). Ôi bao la nhiệm mầu công trình tay Chúa đã dựng nên.
Ngay từ khởi nguyên, Thiên Chúa phán: Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống và cây trên mặt đất có trái, ra trái tùy theo loại, trong có hạt giống (Stk 1, 11). Một trí khôn siêu việt đã đặt để an bài mọi sự trong trật tự lạ lùng. Trong tất cả mọi loài từ thực vật đơn sơ bé nhỏ cho tới những loài sinh vật phức tạp đều có khả năng truyền sinh giống nòi. Một hạt giống nhỏ li ti của mỗi loài đã tiềm ẩn một sự sống phát triển không ngừng cho tới khi chấm dứt. Tạo Hóa đã quan phòng đặt để nơi mỗi loại có muôn vàn hạt giống tiềm năng có thể phát triển trong những điều kiện cần có. Nói chung, mọi loài đều hưởng nhờ sự sống qua môi trường không gian, thời gian, dưỡng khí, đất đai, mưa nguồn và nguồn sống.
Chúa Giêsu đã giảng một dụ ngôn về hình ảnh người đi gieo giống rất tuyệt vời. Người gieo giống tung gieo hạt giống một cách quảng đại. Số phận mỗi hạt mỗi khác, có hạt rơi xuống vệ đường, hạt rơi vào bụi gai, hạt rơi trên đá sỏi và hạt rơi vào đất tốt. Hạt giống nào cũng có khả năng nẩy mầm sinh cây. Môi trường chung quanh rất quan trọng làm cho hạt giống được phát triển và sinh hoa kết quả. Cánh đồng bao la bát ngát: Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất (Mt 13, 4). Hạt giống tung bay khắp nẻo gần xa. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết ngạt (Mt 13, 7). Nội dung ý nghĩa của dụ ngôn qúa thâm sâu đều áp dụng cho cả thân và tâm. Hạt giống thật là chính lời Chúa. Lời của Chúa luôn luôn là hạt giống tốt lành và có sức biến đổi tâm hồn.
Kho tàng hạt giống lời Chúa được linh ứng ghi chép trong Kinh Thánh. Đặc biệt Chúa Giêsu đã rao giảng và phân phát mầu nhiệm nước trời. Lời Chúa như mưa tuyết trên trời rơi xuống sẽ không trở lại trời nữa mà thấm nhập vào lòng con người để sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu đã trao ban cho các tông đồ, môn đệ và mọi Kitô hữu quyền tiếp tục tung gieo lời Chúa qua muôn thế hệ. Tin vui Lời Chúa được gieo vãi không ngừng qua tất cả các phương tiện truyền thông và nhân chứng. Lời Chúa được gieo đi gieo lại cho tới lúc hạt gieo vào lòng đất tốt. Lời Chúa là lời hằng sống có năng lực cải biến tâm linh. Thiên Chúa cho chúng ta có đủ phương tiện của giác quan để tiếp nhận: Tai nghe, mắt nhìn, miệng đọc, tâm suy và tứ chi thực hành. Tùy thuộc chúng ta có dám mở lòng đón nhận và ươm mầm hạt giống hay không.
Hạt giống cây cỏ thì bị giới hạn trong không gian và thời gian, nhưng hạt giống lời Chúa có nội lực vượt khó và đi vào tận thâm tâm của lòng người. Ai nghe và thực hành lời Chúa thì có phúc. Những hạt giống tốt rơi xuống đất mầu mỡ sẽ sinh hoa kết qủa gấp trăm gấp ngàn. Có những hạt rơi xuống đất tốt, nên sinh hoa kết qủa, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi (Mt 13, 8). Qua mọi thời, Giáo Hội đã minh chứng rõ ràng có biết bao nhiêu thành viên đã lãnh nhận hạt giống tốt và đã sinh hoa kết trái. Ai trong chúng ta cũng được mời gọi để đón nhận lời Chúa và làm sinh lợi. Chúa mở rộng cửa nước trời bằng Tám mối phúc thật, bằng con đường đơn bé nhỏ, bằng đời sống khiêm tốn, bằng cách yêu thương tha thứ, bằng sự khó nghèo thanh sạch, bằng sự tin tưởng nguyện cầu và qua con đường khổ đau thập giá. Mỗi cá nhân tự chọn cho mình lối nhỏ vào quê hằng sống.
Đường nào hay lối nào cũng đòi hỏi sự gắng công phấn đấu. Chúng ta không thể nằm đó chờ sung rụng. Cửa hẹp là lối dẫn vào nước trời. Không ai có thể lên trời một mình. Chúng ta phải sống hỗ tương với nhau trong gia đình, cộng đoàn hay giáo hội. Giống như cây rừng dựa nhau để vươn lên và nương nhau để sống còn. Con người sống trong xã hội cũng thế, chúng ta cần có nhau để vươn tới đích cùng. Thiên Chúa trao ban cho con người có trí khôn và có trái tim. Để điều khiển chính mình, chúng ta dùng lý trí và ý chí. Để đối xử với người khác, chúng ta dùng trái tim. Thượng Đế chăm sóc ban thức ăn cho từng con chim, nhưng Ngài không ném thức ăn vào trong tổ của nó. Con người phải bươn chải và phấn đấu với cuộc sống. Phần thưởng nào cũng có cái giá phải trả. Muốn thành qủa bội thu, chúng ta phải bỏ vốn liếng, công sức, gieo hạt, vun xới, chăm dẵm và kiên trì chờ đợi hoa trái.
Một hạt giống tốt được gieo trồng vào vùng đất tốt sẽ sinh nhiều hoa qủa. Một việc tốt dù bé nhỏ luôn sinh hoa trái tốt. Hạt giống lời Chúa là hạt giống tin mừng sẽ đem lại niềm an vui cho tâm hồn. Chúng ta cần chuẩn bị thửa ruộng tâm hồn qua việc lãnh nhận các ân xá bí tích, qua việc siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và làm việc lành phúc đức. Giống như thửa đất được cầy bừa, phơi ải, san bằng, nước non và phân bón đầy đủ sẽ giúp hạt giống phát triển tốt. Mỗi ngày chúng ta hãy dành đôi phút để bồi dưỡng nhu cầu tâm linh. Hãy cùng đọc, cùng lắng nghe, suy gẫm và đem lời Chúa thực hành trong đời sống. Chắc chắn lời Chúa sẽ mang lại niềm vui ơn cứu độ.
Thánh Phaolô nhắn nhủ: Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta (Rm 8, 18). Trong tất cả mọi sự sinh động đều có diễn tiến qua thời gian. Chúng ta không thể rút vắn, cắt bớt hay chối từ thực tại sống. Biết rằng bản tính của con người chúng ta thì yếu đuối và dễ chán nản. Cần có sự bền tâm nhẫn nại trải qua mọi thử thách để đạt triều thiên vinh quang. Muốn thực hành nhân đức chúng ta phải tu thân tích đức mỗi ngày. Có những đổi đời trở về trong nhu cầu cuộc sống nội tâm. Thật hiếm có những bước nhảy vọt trên con đường trọn lành. Có nghĩa là mỗi người phải khổ luyện, tập tành và tu thân. Đòi hỏi phải có sự hy sinh, từ bỏ và hãm mình. Chúng ta nên tận dụng mọi năng lực để biến đổi cả điều tốt lẫn xấu, cả vui xướng lẫn khổ đau trở thành bước thang dẫn lối tiến lên. Những khổ ải ở đời này sẽ mau qua và vinh quang bất diệt đang chờ đón. Đây là con đường Chúa đã đi qua.
Lạy Chúa, đã biết bao lần hạt giống lời Chúa đã được gieo vào thửa đất tâm hồn chúng con. Nhiều mầm sống non nớt trong tâm của chúng con bị thui chột, còi cọt, héo khô và chết ngạt. Xin ban ơn cho chúng con biết biến đổi mảnh đất khô cằn, sỏi đá và hoang dại của tâm hồn, thành miền đất mầu mỡ phì nhiêu để hạt giống Lời Chúa triển nở tốt tươi và sinh nhiều bông hạt.
36. Hai khu vườn. – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Có hai khu vườn nằm cạnh nhau, tuy cũng thuộc dạng đất màu mỡ như nhau, có điều kiện tưới tiêu như nhau và cùng được gieo trồng bằng những hạt giống y như nhau… Thế mà hai khu vườn này lại tương phản nhau cách lạ lùng.
Vườn anh Nam thì đầy hoa thơm trái tốt, thu hút nhiều du khách đến xem: họ đua nhau chụp hình bên những luống hoa xinh đẹp; họ trầm trồ khen ngợi những cành cây trĩu trái, họ thưởng thức những trái cây ngọt lịm mới ngắt còn đang tươi…
Trong khi đó, vườn chị Nữ bên cạnh thì đầy gai góc và sỏi đá, chẳng ai muốn để mắt nhìn đến và nếu có ai liều lĩnh bước vào khu vườn này thì cảm thấy rờn rợn trong người.
Chị Nữ rất buồn vì thấy vườn của anh Nam tốt đẹp hấp dẫn đến thế, còn khu vườn của chị thì tệ hại quá chừng. Chị cho biết là chị và anh Nam cùng gieo vào khu vườn của hai người những hạt giống hoa và cây trái như nhau, thế mà kết quả lại hoàn toàn trái ngược nhau.
Sở dĩ có sự khác biệt đáng tiếc này là vì anh Nam đã dọn sạch sỏi đá và mọi thứ gai góc trong vườn trước khi gieo hạt; còn chị Nữ thì phạm phải một sai lầm tai hại là bỏ qua công việc hệ trọng này.
Hình ảnh hai khu vườn này minh hoạ cho Lời Chúa Giêsu trong Tin mừng Mát-thêu được trích đọc hôm nay:
Người kia ra đi gieo giống. “Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không nhiều; nó mọc ngay… nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13, 4-7).
Tâm hồn chúng ta cũng như một khu vườn. Chúng ta hãy nhìn lại khu vườn tâm hồn mình xem sao, nơi đây có nhiều hoa thơm trái đẹp như vườn nhà anh Nam, được nhiều người ưa thích ngưỡng mộ, hay lại đầy gai góc và bụi rậm như vườn nhà chị Nữ chẳng ai muốn ghé vào?
Lời Chúa là những hạt giống tuyệt vời được Chúa Giêsu mang từ trời xuống gieo vãi trong tâm hồn mọi người và Ngài mong sao cho hạt giống Ngài gieo được sinh hoa kết trái tốt tươi. Tuy nhiên, nếu khu vườn của ta có nhiều gai góc và sỏi đá thì Lời Chúa không thể nào bén rễ được, vì thế, không thể sinh chút hoa trái nào.
Khi lời dạy này của Chúa Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai hy sinh mạng sống mình đời này vì Tôi, thì sẽ được sống đời đời [1]” được gieo vào tâm hồn người ích kỷ thì lòng ích kỷ của anh như những tảng đá lớn, làm chết nghẹt Lời Chúa ngay từ đầu.
Khi lời dạy này của Chúa Giêsu: “Hãy bán những gì anh có mà cho người nghèo… rồi hãy đến theo Tôi [2]…”được gieo vào tâm hồn người tham lam, thì lòng tham nơi người đó y như những bụi gai rậm rạp, sẽ làm lụi tàn Lời Chúa ngay.
Khi lời dạy này của Chúa Giêsu: “Hãy theo cửa hẹp mà vào vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, còn đường chật thì đưa đến sự sống [3]…” được gieo vào tai người đam mê lạc thú trần gian, thì lòng đam mê lạc thú này như những mặt đường trơ lì và chai cứng, làm cho Lời Chúa bị khô héo liền.
Như thế thì ích kỷ, tham lam, đam mê lạc thú… là những cụm gai lớn, là những viên đá hòn sỏi vô tích sự… sẽ bóp nghẹt Lời Chúa ngay từ đầu, không để cho Lời Chúa mọc lên và bén rễ. Thế rồi, chỉ còn những cụm gai của thói hư tật xấu, những cây hoang dại của đam mê tội lỗi… sẽ chen chúc mọc lên, xâm chiếm hết thửa đất tâm hồn, biến tâm hồn ta thành một bãi đất hoang phế.
Lạy Chúa Giêsu,
Thật là điều rất đáng buồn và đáng tiếc nếu tâm hồn chúng con trở nên như bãi đất hoang mọc đầy cỏ dại và ngổn ngang sỏi đá vô tích sự khiến nhiều người khinh chê, xa lánh.
Và thật là điều đáng mừng nếu tâm hồn chúng con trổ sinh nhiều hoa đẹp trái ngon nhờ có nhiều đức tính tốt, trở nên như khu vườn xinh đẹp được nhiều người yêu thích.
Xin cho chúng con không ngừng loại bỏ mọi thứ “sỏi đá gai góc” ra khỏi tâm hồn, tích cực vun xới cho hạt giống Tin mừng đâm chồi và tăng trưởng để làm cho cuộc đời nở hoa, tức làm cho mình trở thành người có văn hoá, có đạo đức và phẩm chất cao đẹp.
--------------------------
[1] (Ga 12, 25)
[2] (Mc 10,21)
[3] (Mt 7,13)
37. Sa mạc trở thành vườn xanh
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con loại bỏ mọi thứ “sỏi đá gai góc” ra khỏi tâm hồn, tích cực vun xới cho hạt giống Tin Mừng đâm chồi và tăng trưởng để làm cho cuộc đời nở hoa.
*******
Vào chiều 29 tết cách đây khá lâu, một phụ nữ không quen biết từ một thôn kế cận gọi điện thoại gặp tôi và tuôn ra hàng loạt những lời kết án gay gắt. Bà tố cáo một số thiếu niên trong giáo xứ tôi có hành vi côn đồ, ném đá vào khu xóm của bà ở làng lân cận. Bà quy trách nhiệm cho tôi về những hành vi quậy phá đó, rồi bà cho rằng đạo công giáo là xấu vì có một số người công giáo thuộc hạng côn đồ.
Sau khi nghe bà hằn học tuôn ra những lời trách móc, tôi khẩn khoản yêu cầu bà nhẫn nại nghe tôi thuật lại sơ lược dụ ngôn Tin Mừng về người gieo giống mà chúng ta vừa nghe hôm nay: “Có người nông dân mang thóc đi gieo trên đồng ruộng của mình. “Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay nhưng vì đất không sâu nên khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13, 4-8)
Rồi tôi kết luận: Những hạt thóc trong dụ ngôn trên đây tượng trưng cho những lời giáo huấn của Chúa Giêsu và Hội Thánh. Cho dù giáo huấn của Thiên Chúa và Giáo Hội là những hạt giống rất tốt, nhưng nếu những hạt giống ấy bị rơi xuống vệ đường, rơi trên sỏi đá hay rơi vào bụi gai, tượng trưng cho người tâm hồn chai đá, cứng cõi, vô tâm… thì không thể bén rễ được nên phải chết khô chết héo; còn những hạt rơi vào đất tốt, tượng trưng cho những tâm hồn biết phục thiện, thì sẽ vươn lên mạnh mẽ và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào.
Những hạt lúa rơi vào nơi gai góc sỏi đá không tăng trưởng được không phải vì do hạt giống xấu nhưng do đất có vấn đề. Tương tự như thế, một số kitô hữu đón nhận Lời Chúa mà không được biến đổi thành người tốt lành thánh thiện, không phải vì giáo lý của Chúa và Hội Thánh không tốt, nhưng vì nhiều thứ “gai góc sỏi đá” trong lòng họ làm cho Lời Chúa chết ngạt đi.
Sa mạc nở hoa
Lãnh thổ Do-thái với diện tích 22.000 cây số vuông mà chỉ có một phần ba đất đai ở miền Galilê là có thể trồng trọt được, phần còn lại gồm sa mạc và đồi núi cằn cỗi, đặc biệt sa mạc Negev ở miền nam, chiếm hơn một nửa diện tích đất nước, là một trong những vùng khô cằn với khí hậu cực kỳ khắc nghiệt. Vậy mà hiện nay, người Do-thái đã biến những vùng đất chết nầy trở thành những vườn hoa, vườn rau và vườn cây ăn trái nổi tiếng; nhờ đó Do-thái được xếp vào một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu hoa quả hàng đầu thế giới. Thành quả nầy khiến thế giới hết sức ngưỡng mộ và xem đây là một phép mầu.
Samạc Negev khô cằn sỏi đá với khí hậu khắc nghiệt đến thế mà vẫn được cải tạo thành vườn cây ăn trái tốt tươi, trù phú… không lẽ tâm hồn chúng ta vẫn cứ ở mãi trong tình trạng khô khan cằn cỗi và suốt đời chẳng sinh được chút hoa trái nào hay sao!
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết nhìn vào công cuộc khắc phục thiên nhiên khắc nghiệt để làm cho sa mạc nở hoa của người Do-thái, để quyết tâm cải tạo lại đời mình. Xin giúp chúng con loại bỏ mọi thứ “sỏi đá gai góc” ra khỏi tâm hồn, tích cực vun xới cho hạt giống Tin Mừng đâm chồi và tăng trưởng để làm cho cuộc đời nở hoa, tức làm cho mình trở thành người có văn hoá, có đạo đức, có phẩm chất cao đẹp, nhờ đó Hội Thánh Chúa cũng được toả ngát hương thơm thánh thiện khắp nơi.
38. Xạ lúa – Lm Vũ Đình Tường
Người gieo giống đi xạ lúa trên ruộng. Đất sau khi cầy vỡ ra, nước mưa làm cho đất mềm, ẩm. Đất đó gần như sẵn sàng cho mùa gieo giống. Chỉ cần đón một vài cơn mưa lớn là nhà nông mang lúa ra xạ. Gọi là xạ vì người nông dân, trước ngực đeo thúng lúa, chân bước đều hai tay nhịp nhàng vung lúa sang hai bên. Các hạt lúa văng đều trên ruộng mới cầy, đất còn tươi, trước khi rơi vào kẽ đất, chờ mọc lên. Hạt rơi trên mặt đất hy vọng được nước mưa chôn vùi trong đất. Trường hợp mưa nhiều hạt úng, thối. Trái lại, thiếu mưa hạt lúa đó nếu không làm mồi cho chim trời ăn mất, cũng là nạn nhân của nắng hạn làm thui chột mộng lúa. Nhà nông không sợ chim trời bằng chuột vì chuột ngày đêm đào bới hạt giống. Ngay cả hạt đã chôn vùi trong đất vẫn bị chúng mò mẫm ăn đi.
Tương tự như hạt mưa từ trời xuống đất, hạt mưa không về trời bằng hình ảnh hạt mưa, giọt nước, nhưng về trời bằng hình ảnh mới, từ thể lỏng sang thể hơi. Một khi hạt giống rơi khỏi tay nông dân, hạt giống đó hoàn toàn lệ thuộc vào thiên nhiên, biến thể hoặc thành bụi lúa xanh tốt, hoặc bị tiêu hủy, tan rã thành phân tro.
Đức Kitô ví lời Ngài rao giảng như hạt lúa trong tay nông dân. Số phận từng Lời Chúa cũng rất khác biệt. Có Lời sinh lời muôn vàn lời. Có lời sống èo ọt, nửa sống, nửa chết. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống tốt xấu mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Đức Kitô nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Có ai ngờ được tấm lòng con người có thể là tấm lòng vàng và cũng có thể là chòi vắng, hoang tàn.
Tương tự như thỏi vàng, vàng ba mươi, năm mươi hay vàng ròng. Cõi lòng con người là tấm lòng vàng khi cõi lòng đó làm cho Lời Chúa sinh hoa kế trái. Hạt ba mươi, hạt năm mươi, hạt bảy mươi, hạt chẵn trăm. Trong sáng óng ánh như vàng ròng.
Tương tự chòi vắng, hoang tàn. Mỗi lần phải ngang qua, ngày cũng như đêm, đều thấy ớn lạnh. Rợn tóc gáy, nổi da gà vì nơi đó chứa nhiều ám khí, ảm đạm, thê lương. Một cõi lòng như thế sao thích hợp với Lời hằng sống.
Lời Chúa ví như hạt mưa. Khí hậu dù khắc nghiệt mấy cũng không triệt tiêu được hạt mưa. Quá lạnh hạt mưa biến thành tuyết. Gió to hạt mưa biến thành bụi sương. Nóng cháy da người hạt mưa biến thành thể khí bay là là trên cát nóng. Rơi xuống sông biển hạt mưa hoà mình trong nước, trên đất khô hạt mưa thẩm thấu vào lòng đất.
Lời hằng sống không thể chết. Nếu chết thì lời đó sao có thể mang lại sự sống cho tâm linh. Chết ở đây không thể hiểu là lời hằng sống chết. Chết có nghĩa cõi lòng người nào đó đã chết để đón nhận lời hằng sống. Lời hằng sống có sức sống biến đổi mọi cõi lòng miễn là cõi lòng đó mở ra đón nhận. Cõi lòng khô cằn, cõi lòng gai góc, cõi lòng vệ đường, cõi lòng tốt lành. Không cõi lòng nào có thể giết chết được Lời Chúa là lời hằng sống. Chỉ có hai loại cõi lòng. Một cõi lòng vui mừng đón nhận và cõi lòng xua đuổi lời hằng sống. Đón nhận lời hằng sống làm trổ sinh hoa trái ít nhiều tuỳ theo mức đón nhận.
Cánh đồng lúa mang lợi nhuận cho nông dân. Giúp họ ấm no. Cánh đồng lúa tốt tươi mang lại cho nông dân nụ cười, niềm hy vọng dạt dào. Cánh đồng lúa vừa cung cấp thực phẩm cho con người, gia súc, thú hoang, vừa làm tăng vẻ đẹp thiên nhiên, làm cho đất sinh mầu mỡ, cung cấp thực phẩm và là công viên cho ong bướm vui chơi sáng sớm, chiều tàn.
Hạt lúa vỏ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Vỏ lúa vỡ ra hẳn là hình ảnh của đau thương. Chồi non nảy mầm là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống bắt đầu vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, phó thác an toàn cho tương lai. Mầm sống bọc kín trong vỏ hẳn an toàn hơn nhưng như thế làm chi có cây lúa mới. Muốn có cây lúa mới, cuộc đời mới, mầm sống phải thay đổi, chịu đau khổ vỡ ra, liều, dấn thân vào đời. Tấm lòng đón nhận lời hằng sống mà từ chối thay đổi, đau khổ và dấn thân chính là muốn điều không tưởng. Thánh Phaolô diễn tả đó là cảnh hư ảo (Rom 8, 20). Không có đổi mới nếu từ chối thay đổi. Không có mới mẻ nếu khư khư bảo thủ lối sống cũ. Muốn phiêu lưu cần mạo hiểm. Từ chối sáng tạo sao có đổi mới.
Lời Chúa sinh động như cánh đồng lúa trổ bông, mang hương thơm ngạt ngào sớm tối. Làm thay đổi cõi lòng con người và mang lại bình an trong tâm hồn. Mầu nhiệm nước trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận, mới có cơ duyên thưởng thức điều kì ảo, huyền diệu của lời hằng sống.
39. Gieo và gặt
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc “Gieo và Gặt” với giai điệu vui tươi, ca từ đậm chất thơ và có ý nghĩa sâu sắc.
Gieo thành thật, gặt được niềm tin.
Gieo lòng tốt, gặt về thân tình.
Gieo kiên nhẫn, sẽ gặt quang vinh.
Gieo tha thứ, sẽ gặt được an bình.
Gieo dối trá, sẽ ra ngờ vực.
Gieo ích kỷ, sẽ chỉ cô đơn.
Gieo kiêu hãnh, sẽ lãnh đau thương.
Gieo đố kỵ, là ky cóp muộn phiền.
Gieo cay đắng, sẽ tăng hủy diệt.
Gieo biếng lười, ra người buông trôi.
Gieo lo lắng, tay trắng âu lo.
Gieo tội lỗi, suốt đời gặt tội lỗi.
Có gieo thì mới có gặt. Gieo giống nào thì gặt giống đó.Thánh Phaolô viết: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng” (Gl 6,7-9).
Hạt giống tốt mới có thể nảy mầm tốt, lớn thành cây tốt và sinh hoa trái tốt. Chúa Giêsu xác định: “Xem quả thì biết cây” (Mt 12,33; Lc 6,44). Cây tốt không thể sinh trái xấu, cây sâu không thể sinh trái ngọt. Đời sống tinh thần cần có “hạt giống tâm hồn”. Đời sống tâm linh rất cần “hạt giống Lời Chúa”.
Tin mừng hôm nay có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau.Hạt giống được gieo trên bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy.
Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được? Trong bụi gai chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thành cây xanh tốt được?
Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa.
1. Tấm lòng quảng đại của người đi gieo.
Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt không bỏ rơi một mảnh đất nào, ông quảng đại muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài. Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như họ thành tâm thiện chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử, không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.
Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (Mt 13, 23). Thiên Chúa vẫn gieo Lời Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (Is 55, 11). Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hồng ân Thiên Chúa chan hòa như mưa móc: “Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang, suối trời trữ nước mênh mang, dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ bông. Tưới từng luống, san từng mô đất, khiến dầm mưa cho hạt nẩy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65,10-12).
Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối. Thánh Phaolô hăng say bách hại các kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.
2. Hạt giống tiềm ẩn sự sống.
Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm phó thác cho tương lai.
Hạt giống là ánh sáng, là Tin mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” (x. Ga 12,24) lại là một hình ảnh khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên.
3. Niềm hy vọng mùa gặt phong phú
Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn phận của đất là không được phụ lòng người quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài cần con người cộng tác.Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người.
Trong các hoạt động tông đồ, không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 5-9).
Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của đời sống người kitô hữu. Chính niềm hy vọng đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của Thiên Chúa ( GLCG # 1724).
Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc thì không thu lợi được bao nhiêu.
Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành.
Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ, rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp. Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: "Khu vườn thật là đẹp! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó". Ông Tư trả lời: "Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây".
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta đi gieo hạt giống Lời Chúa, gieo hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Gieo bác ái chúng ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập đời sống hàng ngày.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà cuộc đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Manna)
40. Hãy đón nhận và gieo cách hào phóng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Dụ Ngôn Người Gieo Giống” của Chúa Giêsu được thánh Matthêu trình bày tuy bình dân, nhưng chứa đựng một sứ điệp rất quan trọng liên quan đến người kể và người nghe. Người gieo giống ở đây không ai khác ngoài Thiên Chúa, hạt giống là Chúa Giêsu, đã được Chúa Cha gieo vào trần gian một cách hào phòng. Ngài gieo Lời cứu độ là chính Con Ngài xuống trên chúng ta, bất kể chúng ta thờ ơ, từ chối, nhưng chắc chắn ai đón nhận, nơi ấy hạt sẽ đâm rễ và mọc lên.
Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa đi gieo hạt giống là chính thân mình vào trần gian, chôn vùi vào lòng đất khi nhập thể làm người, mục nát đi khi chịu chết và chôn trong mồ, mong có ngày bội thu là phục sinh cứu độ hết thảy mọi người. Nên dụ ngôn tự sự này có sức cuốn hút người nghe cách đặc biệt.
Bài đọc I, Lời Chúa được tiên tri Isaia ví “Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất” (Is 55,10). Mưa và tuyết vốn là những điều kiện thiết yếu cho hạt giống nảy mầm, lớn lên và kết hạt. Hình ảnh mưa và tuyết nói rõ: “tưới gội mặt đất, làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói của bánh ăn” (Is 55,10). Đó là những hình ảnh đẹp, sống động và rất gần gũi với giới bình dân chúng ta, diễn tả cho chúng ta Lời Chúa phục vụ sự sống như thế nào; bởi vì Lời Chúa là Sự Sống của ta, là Ánh Sáng đời ta, hạnh phúc cho đời ta hôm nay và mãi mãi.
Lời của ngôn sứ Isaia giúp chúng ta hiểu đúng hướng dụ ngôn Người Gieo Giống. Thông điệp thật rõ ràng: Thiên Chúa là người đi gieo giống, Ngài gieo cách hào phóng, nhưng kết quả cụ thể còn tùy thuộc vào thời tiết và cách thức gieo giống cũng như tự do của thửa đất đón nhận hạt giống là chúng ta. Kinh nghiệm thường ngày của nhà nông quả quyết rằng, kết quả tùy thuộc vào thửa đất, nơi gieo hạt. Ví dụ, trong số những sinh viên chung một lớp, học cùng trường, được thầy giáo dạy cũng một môn về tôn giáo, nhưng người này tin còn người kia vô thần. Dù cả lớp đều nghe giáo viên giảng những điều tương tự nhưng hạt giống đã rơi lại rơi vào mảnh đất là những người khác nhau. Chúng ta cũng thế, tất cả vừa cùng nghe sứ điệp Lời Chúa, nhưng ra về mỗi người sống khác nhau.
Thửa đất tốt là tâm hồn chúng ta, do Thiên Chúa dựng nên cách tự nhiên, Ngài đã phú ban nó cho chúng ta, chúng ta tự do đón nhận hay từ chối là quyền của ý chí của chúng ta. Có những người thích tận hưởng cuộc sống thay vì trở nên tốt hơn. Có những kẻ mê đắm sự đời thế gian, “Lời Chúa bị bóp nghẹt không mang lại hoa trái” (Mt 13,22).
Nhưng trái lại, đối với một số người, vì muốn giữ giá trị của chính mình, họ đón nhận Lời Chúa với lòng yêu mến thế là đơm hoa kết trái là trăm số việc lành, cho dù phải hy sinh. Chúa Giêsu nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 12,24). Chúa Giêsu đã cảnh báo chúng ta rằng, con đường dẫn đến sự cứu rỗi là con đường vào qua cửa hẹp (Mt 7,14): tất cả đều có giá của nó. Chúng ta sẽ không bao giờ có giá trị nếu chúng ta không cố gắng.
Ai bị ước muốn sự đời hướng dẫn, người ấy sẽ có trái tim giống như một khu rừng nhiệt đới. Ngược lại như cây ăn quả, cây tốt ắt sẽ sinh trái tốt. Vì thế, các thánh đã không có cuộc sống dễ dàng, họ đã trở nên mẫu gương cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Piô XII nói: “Chắc chắn không phải tất cả chúng ta đều được kêu gọi chịu tử vì Đạo. Nhưng tất cả chúng ta được kêu gọi để có nhân đức Kitô giáo. Chúng ta kiên trì hoạt động, đừng chểnh mảng cho đến hết đời. Chính vì thế người ta cũng có thể nói về một tử đạo chậm và kéo dài”.
Thiên Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những điều không thể: chúng ta hãy vui lòng làm như Chúa, gieo cách hào phóng bằng lời nói và gương sáng, ngay cả trong sự khác biệt; hãy tin rằng sẽ luôn có cái gì đó thúc đẩy hạt giống mọc lên đúng thời vụ; bởi vì Lời từ miệng Chúa phán ra sẽ không trở lại với Chúa nhưng theo ý Chúa mà sinh kết quả (x. Is 55, 10-11).
Điều căn bản là chúng ta cần chuẩn bị để chính mình là một thửa đất tốt để đón nhận hạt giống, đồng thời phải chăm sóc để nó có thể đơm hoa kết trái. Có người không muốn mình bị thử thách hay gặp khó khăn, người ấy sẽ có ngàn lý do để từ chối. Nhưng ai “ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả” (Mt 13, 23).
Tất cả đều nghe dụ ngôn, nhưng người hiểu được là người mang nơi mình và trân trọng như một tài sản quý giá, người ấy sẽ hạnh phúc nếu nghe những gì Chúa nói và nghiêm túc hoán cải theo tiếng Chúa gọi: Ngài sẽ chữa lành và làm cho họ được sống, “giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8, 21), chúng ta sẽ đơm hoa kết trái.
Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như bậc thầy của việc lắng nghe Lời Chúa cách sâu sắc và kiên trì thực hành. Xin Mẹ giúp chúng ta theo gương Mẹ, trở nên “đất tốt”, để hạt gống Lời Chúa có thể sinh nhiều bông hạt, ngõ hầu chúng ta tiếp tục sứ mạng tông đồ đi gieo vãi Lời Cứu Rỗi khắp mọi nơi cho anh em. Amen.
41. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy là đất tốt, để hạt giống Lời Chúa sinh nhiều bông hạt
Cho đến bây giờ, "mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và ơn cứu độ thân xác chúng ta" (Rm 8, 22-23). Hỏi ai trong chúng ta lại không có kinh nghiệm sống ở đời về tương phản giữa khổ đau trong đời sống thường ngày và vinh quang cũng như hy vọng mà Thánh Phaolô nói đến trong thư gửi giáo đoàn Rôma (Rm 8 18-23)? Giữa "những đau khổ trong hiện tại" chúng ta mang trên mình, và "vinh quang mà Thiên Chúa sẽ tỏ lộ trong tương lai" (Rm 8,18). Hiện tại chúng ta chưa có kinh nghiệm nhiều, nên chúng ta muốn nói như Đức Maria: "Việc đó xảy ra thế nào được?" (Lc 1, 34) Phụng vụ hôm nay sẽ cho chúng ta câu trả lời.
Mặc khải cho biết, khổ đau đi vào thế giới như là hậu quả của tội lỗi "không thể tránh khỏi"; cũng như trái cấm trong vườn Êđen, vì một lời nói dối, khiến con người chống lại Lời sáng tạo, gây nên sự hỗn loạn, sau cùng cả và nhân loại bị hủy diệt. Chỉ có Thiên Chúa, Lời sáng tạo, mới có thể can thiệp để cứu chuộc con người (x. Rm 8) và tái lập trật tự hài hòa đã được thiết lập ngay từ thuở ban đầu. Chúa phán: "Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác" (Is 55, 11).
Hỏi: Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra là gì vậy?
Thưa: Là chính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Con một Ngài, Thiên Chúa như người gieo giống gieo Lời ( Con Ngài) vào thế giới chúng ta, "Người cho ứ nước luống cày, Mô đất đặt xuống phẳng phiu, Người cho mưa rào đảo nhuyễn, chúc lành cho giống trổ mầm" (Tv 64, 11); "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống … làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn" (Is 55, 10). Nước ở đây là nước Thánh Thần tưới lên chúng ta để chúng ta sinh được gấp trăm. Chính nơi Chúa Giêsu phục sinh mà nhân loại được cứu, Người là "Đấng cứu chuộc thế gian! nơi Ngài đã được mạc khải một cách mới mẻ và kỳ diệu hơn chân lý căn bản về thế giới thụ tạo, điều mà sách Sáng thế xác nhận khi lặp đi lặp lại nhiều lần: "Thiên Chúa thấy như thế là tốt lành" (Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đấng Cứu Chuộc con người, số 8. Ngày 4/3/1979).
Nhưng nếu Chúa Giêsu là Đầu đã đạt đến chặng cuối của hành trình, thì Thân mình là " mọi tạo vật rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con " (Rm 8, 22) cũng được như vậy. Tuy nhiên, tiền đề sự phục sinh của Chúa Giêsu đã được trao ban: hạt giống sự sống đời đời đã ẩn tàng trong tâm hồn các tín hữu từ ngày họ chịu phép Rửa tội; Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Lời tái tạo và biến đổi chúng ta. Thật hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa là Cha vô cùng nhân hậu; Ngài biết lòng dạ con người phức tạp và yếu đuối. Vì thế, Ngài gieo cách hào phóng, kể cả vệ đường, nơi bụi gai và sỏi đá. Chim trời sẽ đến ăn mất, nhưng đặt hy vọng vào hạt rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả dồi dào, "có hạt được một trăm"(Mt 13, 23).
Thiên Chúa rất đỗi khoan dung, không những mạc khải cho chúng ta tình yêu của Ngài bằng cách hòa giải với chúng ta nhờ sự chết của Con Ngài khi chúng ta còn là kẻ thù (x. Rm 5, 10), Ngài gieo Lời cứu độ là chính Con Ngài xuống trên chúng ta, bất kể chúng ta thờ ơ, từ chối, nhưng chắc chắn sẽ có hạt đâm rễ và mọc lên.
Dụ ngôn này thật an ủi cho những kẻ cứng đầu cứng cổ như chúng ta, và cũng là lời khuyên an ủi những ai đang chịu trách nhiệm dạy giáo lý cho thiếu nhi và giới thành niên.
Còn nỗi khổ nào hơn đối với các bậc làm cha mẹ khi thấy con cái mình từ bỏ đức tin! Nhưng đức tin không thể được truyền theo nhiễm sắc thể hay dòng sữa của mẹ nuôi con, chúng ta có thể trình bày cho trẻ em về tình bạn của Chúa Giêsu, nhưng không thể áp đặt đức tin cho chúng.
Thiên Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những điều không thể: chúng ta hãy vui lòng làm như Ngài, gieo cách hào phóng bằng lời nói và gương sáng, ngay cả trong sự khác biệt; hãy tin rằng sẽ luôn có cái gì đó thúc đẩy hạt giống mọc lên đúng thời vụ; bởi vì Lời từ miệng Chúa phán ra sẽ không trở lại với Chúa nhưng theo ý Chúa mà sinh kết quả (x. Is 55, 10-11).
Chúng ta cần chuẩn bị một thửa đất tốt để đón nhận hạt giống, và chăm sóc để nó có thể đơm hoa kết trái. Có người không muốn mình bị thử thách hay gặp khó khăn, người ấy sẽ có ngàn lý do để từ chối. Nhưng ai "nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả" (Mt 13, 23).
Tất cả đều nghe dụ ngôn, nhưng người hiểu được là người mang nó về nhà, trân trọng như một tài sản quý giá. Chúng ta sẽ hạnh phúc nếu chúng ta nghe những gì Chúa nói và nghiêm túc hoán cải theo tiếng Chúa gọi: Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta được sống, "giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa" (Rm 8, 21), chúng ta sẽ đơm hoa kết trái.
Trong năm Phúc Âm gia đình, chúng ta cùng nghe lời vị cha chung dạy: "Tất cả việc Phúc Âm hóa được thiết lập dựa trên sự lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành Lời Chúa và làm chứng cho Lời Chúa. Thánh Kinh là nguồn mạch của việc Phúc Âm hóa. Vì vậy, chúng ta phải liên tục được đào luyện trong việc lắng nghe Lời Chúa. Hội Thánh không rao giảng Tin Mừng nếu không liên tục để cho mình được Phúc Âm hóa…
Việc Phúc Âm hóa đòi hỏi chúng ta phải làm quen với Lời Chúa, và điều này đòi buộc các giáo phận, các giáo xứ và các nhóm Công Giáo đề ra một chương trình học hỏi Thánh Kinh nghiêm túc và kiên trì, cũng như thúc đẩy việc đọc Thánh Kinh trong cầu nguyện của cá nhân và cộng đồng… " (Đức Phanxicô, Niềm Vui Phúc Âm §174-175).
Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như bậc thầy của việc lắng nghe Lời Thiên Chúa cách sâu đậm và kiên trì. Xin Mẹ giúp chúng ta theo gương Mẹ, là "đất tốt", nơi hạt gống Lời Chúa có thể đem lại nhiều bông hạt. Amen.
42. Tâm tình người đi gieo
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài dụ ngôn thật đẹp. Đẹp về hình ảnh phong phú. Đẹp về ý nghĩa sâu xa. Nhưng đẹp nhất vẫn là thái độ của người đi gieo. Người đi gieo đã có thái độ vừa hào phóng vừa kiên trì, vừa hy vọng vừa yêu thương.
Người đi gieo đã gieo một cách hào phóng. Hãy nhìn kìa: ông vốc từng vốc lớn hạt giống và rộng tay vung vãi. Ông gieo không tiếc xót. Ông gieo không tính toán. Ông gieo không loại trừ. Những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ nhận được hạt giống đã đành. Cả đến những mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi một mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn.
Người đi gieo đã gieo một cách kiên trì, ông gieo bất kể ngày đêm. Ông gieo bất kể mưa nắng. Ông gieo bất kể những thất bại. Đợt gieo giống đầu tiên đã thất bại vì chim chóc tha đi, ông liền gieo tiếp đợt hai. Bị sỏi đá nắng hạn, cây lúa mất mùa, ông lại đi gieo tiếp đợt thứ ba. Bị gai góc bóp nghẹt, cây lúa bị lụi tàn, ông vẫn không nản, cứ gieo đợt thứ tư. Ông đúng là người đi gieo hạt không biết mỏi mệt.
Người đi gieo đã gieo trong niềm hy vọng. Niềm hy vọng của ông thật lớn lao. Chính với niềm hy vọng ấy, ông đã dám đầu tư tất cả tiền bạc, sức khỏe, thời giờ vào việc gieo hạt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông đủ sức mạnh vượt qua những khó khăn, đứng vững trước những thất bại. Vì hy vọng, ông gieo cả trên lối đi, trên đá sỏi, trong cỏ gai. Ông tin rằng có gieo thì có gặt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông kiên trì và sau cùng đi đến thành công.
Người đi gieo đã gieo trong tình thương yêu. Tình thương yêu của ông dạt dào lắm. Nên ông đã không ngại hao tốn tiền của, tâm trí, sức lực. Tình thương ấy bao la lắm. Nên ông động lòng thương đến cả những mảnh đất chai cứng, đá sỏi, gai góc. Tình yêu thương ấy mãnh liệt lắm. Nên ông mong sẽ cảm hoá được cả gai góc, sỏi đá, biến chúng thành đất màu mỡ phì nhiêu. Ông đã có thể chỉ chọn đất tốt mà gieo. Nhưng tình thương yêu mãnh liệt không cho phép ông làm thế. Vì ông không muốn loại trừ những miền đất chai cứng chứa đầy sỏi đá, cỏ gai.
Người đi gieo chính là Thiên Chúa hiện thân trong Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã gieo trong yêu thương. Yêu thương đến độ chính Người lại trở nên một hạt giống,chịu vùi chôn, chịu mục nát để biến cải những mảnh ruộng gai góc, sỏi đá thành màu mỡ phì nhiêu, mong một mùa gặt đầy những bông lúa chín vàng trĩu nặng.
Thiên Chúa là người đi gieo không biết mệt mỏi. Chúa Giêsu là người đi gieo say mê đến quên chính cả bản thân mình. Người muốn cho các môn đệ của Người tiếp tục công việc gieo Tin Mừng đi khắp mọi nơi.
Hôm nay Người muốn ta gieo một cách hào phóng. Hãy gieo không xẻn xo. Hãy gieo không tính toán. Hãy gieo không loại trừ. Hãy biết dùng mọi phương tiện hiện đại nhất để chuyên chở Tin Mừng. H ãy đem Tin Mừng tới mọi lãnh vực của đời sống. Hãy đem Tin Mừng tới tất cả mọi hạng người không loại trừ một ai.
Người cũng muốn ta kiên trì gieo hạt Tin Mừng. Hãy kiên trì như thánh Phaolô, cứ gieo dù gặp “thời thuận lợi hay không thuận lợi”. Hãy cứ gieo dù đá sỏi, chông gai. Hãy cứ gieo dù những thất bại, nhọc nhằn.
Nhưng điều Người mong chờ nhất là các môn đệ của Người hãy đi gieo yêu thương. Yêu thương không chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng yêu thương cả những mảnh đất sỏi đá, gai góc. Yêu thương không chỉ những người mình thương và những người thương mình mà còn yêu thương cả những người không ưa mình và mình không ưa: vì một tình yêu thương đích thực thì không loại trừ ai. Chỉ có tình yêu thương mãnh liệt như thế mới cảm hoá được cỏ gai, làm mềm được đá sỏi, biến tất cả thành màu mỡ phì nhiêu.
Đáp lời Chúa mời gọi, biết bao lớp người đã hăng hái ra đi gieo Tin Mừng tại vùng đất Lạng Sơn này.
Trong số đó phải kể đến Đức cố Giám mục Vinh Sơn Phaolô của chúng ta. Người đã là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Qua bao ngày tháng, Ngài vẫn kiên trì không bao giờ chồn chân mỏi gối. Hôm nay Ngài đã trở thành một hạt giống vùi sâu trong lòng đất. Hạt giống ấy, tình thương ấy, sẽ làm mềm sỏi đá, hứa hẹn cho ta một mùa gặt bội thu.
Ta cũng không thể nào quên được công ơn của Đức Hồng Y Phaolô Giuse, cũng là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu với gánh nặng của Giáo phận Hà Nội và của Giáo hội Việt Nam, Ngài vẫn sẵn sàng ghé vai gánh đỡ Lạng Sơn trong những lúc cần thiết. Ngài đã gieo mồ hôi nước mắt làm phì nhiêu cánh đồng này. Công khó ấy chắc chắn sẽ góp phần rất lớn cho một mùa gặt mai sau.
Hôm nay, Chúa gởi tôi đến cánh đồng Lạng Sơn này. Lạng Sơn là quê hương tôi. Anh chị em đã đón nhận tôi như đón một người thân. Chúng ta thuộc về một gia đình. Hôm nay Chúa mời gọi tất cả chúng ta vào làm việc trong cánh đồng của Chúa. Chúng ta hãy hăng hái bắt tay vào việc đi gieo Lời Chúa. Hãy noi gương Chúa Giêsu, hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là hãy gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Nếu ta gieo bác ái chắc chắn ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập trên núi đồi Lạng sơn- Cao bằng này.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Thiên Chúa không ngừng gieo Lời Chúa vào tâm hồn bạn. Bạn đã đón nhận Lời Chúa thế nào?
2- Thái độ của người đi gieo cho bạn cảm nghiệm gì về Thiên Chúa?
3- Chúa mời gọi bạn đi gieo Tin Mừng. Bạn phải có thái độ nào?
43. Hãy là mảnh đất tốt - Huệ Minh
Trang Tin Mừng hôm nay phải nói thật đẹp. Trước hết, hình ảnh phong phú của việc gieo giống quá đẹp. Đẹp về ý nghĩa sâu xa. Nhưng đẹp nhất vẫn là thái độ của người đi gieo. Người đi gieo đã có thái độ vừa hào phóng vừa kiên trì, vừa hy vọng vừa yêu thương.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn "Người gieo giống" để mô tả số phận Lời Chúa được tung ra giữa nhân loại và đem lại kết quả như thế nào: Có hạt rơi xuống bên vệ đường, chim trời ăn mất. Có hạt rơi xuống trên sỏi đá, không đâm rễ được, bị khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, bị chết nghẹt. Chúa không chú trọng đến phần mất mát đó cho bằng đến sự phát triển mạnh mẽ của hạt giống khi rơi vào phần đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Vậy thì chúng ta đừng ai nản lòng vì mất mát, thiệt thòi. Người gieo giống cứ thẳng tay tung vãi khắp nơi một cách quảng đại, không dè xẻn. Bên ngoài xem ra như mọi sự chống lại việc triển nở của hạt giống Lời Chúa. Nhưng hãy chờ mùa gặt đến, kết quả sẽ vượt mức tưởng tượng, vì đây là công việc của Thiên Chúa.
Trước tiên, ta thấy người đi gieo đã gieo một cách hào phóng. Nhìn cách gieo của ông ta thấy: ông vốc từng vốc lớn hạt giống và rộng tay vung vãi. Ông gieo không tiếc xót. Ông gieo không tính toán. Ông gieo không loại trừ. Những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ nhận được hạt giống đã đành. Cả đến những mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi một mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn.
Kế đến, ta thấy người đi gieo đã gieo một cách kiên trì, ông gieo bất kể ngày đêm. Ông gieo bất kể mưa nắng. Ông gieo bất kể những thất bại. Đợt gieo giống đầu tiên đã thất bại vì chim chóc tha đi, ông liền gieo tiếp đợt hai. Bị sỏi đá nắng hạn, cây lúa mất mùa, ông lại đi gieo tiếp đợt thứ ba. Bị gai góc bóp nghẹt, cây lúa bị lụi tàn, ông vẫn không nản, cứ gieo đợt thứ tư. Ông đúng là người đi gieo hạt không biết mỏi mệt.
Và khi gieo, người đi gieo đã gieo trong niềm hy vọng. Niềm hy vọng của ông thật lớn lao. Chính với niềm hy vọng ấy, ông đã dám đầu tư tất cả tiền bạc, sức khỏe, thời giờ vào việc gieo hạt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông đủ sức mạnh vượt qua những khó khăn, đứng vững trước những thất bại. Vì hy vọng, ông gieo cả trên lối đi, trên đá sỏi, trong cỏ gai. Ông tin rằng có gieo thì có gặt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông kiên trì và sau cùng đi đến thành công.
Và trên hết, ta nhận ra rằng người đi gieo đã gieo trong tình thương yêu. Tình thương yêu của ông dạt dào lắm. Nên ông đã không ngại hao tốn tiền của, tâm trí, sức lực. Tình thương ấy bao la lắm. Nên ông động lòng thương đến cả những mảnh đất chai cứng, đá sỏi, gai góc. Tình yêu thương ấy mãnh liệt lắm. Nên ông mong sẽ cảm hoá được cả gai góc, sỏi đá, biến chúng thành đất màu mỡ phì nhiêu. Ông đã có thể chỉ chọn đất tốt mà gieo. Nhưng tình thương yêu mãnh liệt không cho phép ông làm thế. Vì ông không muốn loại trừ những miền đất chai cứng chứa đầy sỏi đá, cỏ gai.
Nói về việc rao giảng lời Chúa, chúng ta thấy có hai thực tại đối kháng nhau. Trước hết chúng ta xác tín lời Chúa là lời hiệu nghiệm, một khi đã gieo trồng thì chắc chắn sẽ đem lại mùa xuân với hoa trái dồi dào. Đàng khác là sự chai cứng của những tâm hồn, khiến cho cuộc sống cứ chìm trong tội lỗi và mùa đông ảm đạm cứ kéo dài tưởng chừng như vô tận.
Thiên Chúa dùng mọi tình huống để thức tỉnh chúng ta lắng nghe và sống lời Ngài. Dụ ngôn về người gieo giống hôm nay cần được chúng ta dành nhiều thời gian trong ngày sống để suy niệm nhiều hơn, để lĩnh hội các ý nghĩa mà chính Chúa đã giải nghĩa có các môn đệ.
Thực vậy, giữa lòng cuộc đời ồn ào và náo nhiệt này, nhiều khi lời rao giảng chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc và người nói chỉ thấy vọng lại chính âm điệu của mình và không có một người đáp trả. Cuộc sống hình như vẫn bước đi theo nhịp điệu riêng của nó, vẫn được lượng giá bằng cái thước đo quen thuộc của nó. Cảm giác ấy gắn liền với sự cô đơn của người rao giảng. Cô đơn vì không một ai chia sẻ nỗi thao thức với mình. Từ nỗi cô đơn ấy, người ta dễ dàng buông xuôi, chán nản và tuyệt vọng.
Thiên Chúa vẫn đến viếng thăm ta qua các biến cố lớn nhỏ, vui buồn, nhưng rất nhiều khi hay là hầu hết nhiều khi, hầu hết mỗi lần Chúa đến thăm để nói với ta một điều gì đó, mạc khải cho chúng ta một điều gì đó thì ta lại vắng mặt, chúng ta lại lo ra. Nhiều lần ta được tiếp xúc với Lời Chúa nhưng ta lại lơ là không màng chi đến Lời Chúa nữa.
Như một bác nông phải, trước khi xạ lúa cân phải chuẩn bị ruộng đất. Chúng ta cũng thế. Thật là hữu ích nếu như trên đường tới nhà thờ tham dự thánh lễ, chúng ta biết tự chuẩn bị đón nhận chân lý. Chúng ta đừng nói: Lạy Chúa, hôm nay xin đừng để cha giảng quá dài. Trái lại hãy thân thưa: Lạy Chúa, xin giúp con đón nhận những chân lý để nuôi sống đời sống thiêng liêng của con. Chính người giảng cũng phải cầu nguyện như thế, để những người nghe mình giảng sẽ lợi dụng được những điều mình trình bày, và sẽ cung cấp được những mảnh đất phì nhiêu cho những chân lý mình đang cố gắng gieo trồng. Chúng ta không phải chỉ cầu nguyện cho mình, mà còn phải cầu nguyện cho người giảng nữa. Đó quả thực là một việc làm quí giá biết bao.
Ngày nay Giáo Hội không ngừng rao giảng Lời Chúa qua các thế hệ trên khắp thế giới. Giáo Hội cũng gặp nhiều khó khăn, thất bại như: thiếu phương tiện, bị bách hại, đời sống kém cỏi của một số giáo sĩ và giáo dân, số người rửa tội ngày càng ít đi trong một thế giới duy vật và trần tục hoá. Thật đáng buồn khi thấy đời sống đạo ngày càng sa sút. Lời Chúa như rơi vào sỏi đá, vào bụi gai hay ngoài đường lộ. Tuy nhiên, như lời Thánh Justinô: đứng thất vọng, người gieo cứ việc gieo và để cho Lời Chúa âm thầm hoạt động. Không có gì được phép làm cho chúng ta phải nghi ngờ hay chán nản. Hạt giống Lời Chúa có thể là bé nhỏ, có thể bị đối xử tàn tệ, bị chà đạp, bị lấn át, nhưng năng lực của nó là vô hạn (Is 55,10-11).
Để thu được nhiều lợi ích qua việc giới thiệu cách dồi dào kho tàng Thánh Kinh, tất cả chúng ta phải làm cho mình nhiệt tình hơn trong việc tham dự thánh lễ. Quả thật, chúng ta phải công nhận rằng chúng ta có đến nhà thờ với nhiều thời gian nhưng chú ý đến các bài đọc thì không có mấy. Chúng ta phải lắng nghe trong tinh thần đức tin, đó là Đức Kitô đang nói với chúng ta khi Thánh Kinh được tuyên đọc.
44. Kho báu đã mở – Charles E. Miller
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Không một nông dân nào thích thú bởi cảnh gieo giống lãng phí hạt giống như người nông phu trong bài Phúc âm hôm nay. Một nông dân cần cù thì sẽ gieo cẩn thận ở những nơi mà ông bảo đảm sẽ gặt hái được vụ mùa bội thu. Nhưng người nông dân trong Phúc âm thì phung phí những hạt giống, nhờ đó ông giới thiệu Thiên Chúa là Đấng luôn luôn quảng đại ban phát những hồng ân của Người.
Những hạt giống được giới thiệu đây là Lời Chúa, Lời ấy được tìm thấy trong những trang được linh ứng trong Thánh Kinh. Có bốn mươi sáu cuốn trong Cựu ước và hai mươi bảy cuốn trong Tân ước. Thiên Chúa gieo những hạt giống của Người vào trong tâm trí chúng ta và trong lòng của chúng ta trước, bởi ý nghĩa của Phụng vụ Lời Chúa trong khi cử hành thánh lễ.
Theo phụng vụ trước đây, những bài đọc thường được dùng hàng năm và thế là không thể giới thiệu được kho tàng phong phú của Thánh Kinh. Một hậu quả của việc xếp đặt như thế là một số lớn những đoạn súc tích rất hay không bao giờ được những người công giáo nghe vào những ngày chúa nhật. Dụ ngôn người con hoang đàng không có phần nào trong nghi thức phụng vụ ngày chúa nhật và câu chuyện người Samaritanô tốt lành cũng như thế. Những bài Thánh Thư cung cấp cho bài đọc đầu tiên như một danh sách dài đang chờ được chấp nhận để biên soạn sách Tông đồ công vụ, câu chuyện của Giáo hội tiên khởi được chọn một lần trong năm vào Chúa nhật Hiện Xuống. Không có bài đọc nào được lấy từ Cựu ước và sách Khải Huyền cũng chẳng bao giờ đọc trong thánh lễ ngày chúa nhật.
Công đồng Vaticano II, dùng một hình ảnh phong phú đã quyết định rằng: “Kho tàng Thánh Kinh đã khai mở cách dư thừa và phong phú để cung cấp cho các tín hữu” (Hiến chế về phụng vụ, số 51). Việc tu sửa phụng vụ đã làm viên mãn quyết định này bằng cách chọn lựa những đoạn Thánh Kinh được chia làm ba thời kỳ vào các chúa nhật chứ không còn là một thời kỳ như trước bằng việc cung cấp thêm bài đọc trước Phúc âm chứ không phải là một như trước.
Năm nay tính theo chu kỳ phụng vụ là năm A, những bài Phúc âm sẽ theo thánh Mathêu. Chu kỳ phụng vụ năm B giới thiệu Phúc âm theo thánh Marcô và chu kỳ phụng vụ năm Chúa theo thánh Luca. Phúc âm theo thánh Gioan trước hết được dùng vào các chúa nhật năm A trong suốt mùa chay, suốt mùa Phục Sinh và điền vào chu kỳ phụng vụ năm B. Suốt mùa Phục Sinh, bài đọc I được lấy từ sách Tông đồ công vụ, những mùa khác thì trái lại, bài đọc I luôn luôn lấy từ Cựu ước, bài đọc II thì luôn luôn lấy từ Tân ước. Sách Khải huyền là bài đọc II trong suốt mùa Phục sinh trong chu kỳ phụng vụ năm C.
Để thu được nhiều lợi ích qua việc giới thiệu cách dồi dào kho tàng Thánh Kinh, tất cả chúng ta phải làm cho mình nhiệt tình hơn trong việc tham dự thánh lễ. Quả thật, chúng ta phải công nhận rằng chúng ta có đến nhà thờ với nhiều thời gian nhưng chú ý đến các bài đọc thì không có mấy. Chúng ta phải lắng nghe trong tinh thần đức tin, đó là Đức Kitô đang nói với chúng ta khi Thánh Kinh được tuyên đọc (Hiến chế Phụng Vụ, số 56-57)
Cho Lời Chúa một vị trí quan trọng như thế, còn tiệc Thánh Thể thì sao? Một cách nhìn sự hiệp lễ là xem Mình và Máu của Chúa giống như mưa và tuyết đổ xuống từ trời cao và làm cho đất phì nhiêu. Sự hiệp lễ cho chúng ta ý nghĩa chúng ta cần, để khi nghe đọc Thánh Kinh chúng ta được những chân lý trong ấy hướng dẫn để sống theo ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Thần không chỉ linh ứng cho những trang Thánh Kinh, Thánh Thần còn chúc phúc cho chúng ta qua công trình của Công đồng Vaticano II.
45. Sức mạnh của Lời Chúa
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Với dụ ngôn “người gieo giống” rất quen thuộc, phụng vụ Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta tới một chủ đề nền tảng, đó là: Sức Mạnh của Lời.
Chúng ta sẽ tập trung suy nghĩ ba điểm chính yếu của dụ ngôn: người gieo giống, hạt giống và những thửa ruộng khác nhau.
1. Thiên Chúa, Người gieo trong hy vọng
Trước hết, dụ ngôn nói về người gieo làm ta ngạc nhiên bởi vì sự phung phí của ông. Ông hành động như kẻ không chuyên nghiệp, vung vãi hạt giống khắp nơi, và hầu như không để ý tới chúng sẽ rơi vào đâu: trên vệ đường, trên sỏi đá, trên bụi gai, cuối cùng là trên đất tốt. Người gieo giống là biểu tượng về một Thiên Chúa của hy vọng: spes in semine (gieo trong hy vọng), của sự quảng đại quá mức đến độ “phung phí” trong việc ban phát các ân sủng và Lời của Người cho chúng ta. Một Thiên Chúa yêu hết mọi người và muốn Lời của Ngài đến với tất cả. Hay nói như Thánh Phaolô: «Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và đạt tới sư nhận biết chân lý» (1 Tim 2,3-4). Và như thế trong thế giới này và trong các nền văn hóa dù chưa được được tin mừng hóa, người ta vẫn tìm thấy những chân lý và những giá trị mà chúng có nguồn gốc và sự viên mãn trong Thiên Chúa là Cha của tất cả và cũng là Người ban phát mọi sự thiện hảo. Thiên Chúa đó ban cho chúng ta Lời Chân Lý, Lời Sự Sống. Lời đó là kim chỉ nam và là luật sống của chúng ta. Lời đó cũng là hạt giống gieo vào lòng chúng ta.
2. Hạt giống
Hạt giống biểu tượng những gì là nhỏ bé nhưng lại chứa đựng một sức mạnh, một mần sống kỳ lạ nhiều lúc không thể tin được! Hạt giống cũng là biểu tượng của Lời Chúa, Lời được viết ra trong Sách Thánh. Nhưng hạt giống cũng chính là Đức Kitô Giêsu, vì Người là Lời sống động của Thiên Chúa, Lời nhập thể làm người, và là Lời viên mãn của Nước Trời. Lời đó làm tăng trưởng các giá trị hiện có trong các nền văn hóa, thanh tẩy chúng và đưa chúng tới sự hoàn hảo. Bởi thế, Giáo Phụ Giustino (+165) gọi những giá trị trong các tôn giáo và trong các nền văn hóa là “semi Verbi”, các hạt giống của Lời. Người, Lời hiệu quả của Cha, như mưa xuống trên đất đai (Bài đọc I), tưới gội đất đai, làm cho đất đai màu mỡ, và làm mọc lên những hoa quả tốt tươi tô đẹp cho đời. Hạt Giống thần linh này có một sức mạnh vô tận: là ban tặng ơn cứu độ cho tất cả, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ ai, kể cả những lúc thất vọng nhất, sức mạnh đó không có hàng rào nào có khả năng ngăn cản được. Thế giới này là cánh đồng của Chúa Cha, luôn đẹp đẽ, đáng chiêm ngắm như Thánh vịnh hôm nay nói tới, không có những con người hay những thực tại mà không thể không cứu rỗi được. Đó là nền tảng của niềm hy vọng về ơn cứu độ kitôgiáo (Spes salvi, như ĐHG Benedetto XVI nhấn mạnh). Hãy cam đảm vươn tới những chân trời bao la của hy vọng, vượt trên cả mồ hôi, nước mắt và tuyệt vọng của kiếp người!
3. Những thửa ruộng khác nhau
Dụ ngôn nói tới những thửa ruộng khác nhau, ám chỉ những thực tại của thế giới và lòng mỗi người chúng ta. Thiên Chúa ban Lời và ân sủng cách quãng đại cho hết mọi người. Nhưng Người không có ép ai phải theo. Ai có tai để nghe thì hãy nghe. Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của chúng ta. Hay nói đúng hơn, Thiên Chúa mời gọi chúng ta cộng tác với Người. Những mãnh đất khác nhau là lòng chúng ta có khả năng đón nhận hoặc từ chối hạt giống Lời và Ân sủng. Con người có khả năng chọn cho mình là vệ đường, là rỏi đá, là bụi gai, hay là mãnh đất tốt trước Lời Chúa. Và kết quả của hạt giống được gieo vào đất tốt làm chúng ta ngạc nhiên: hạt 30, hạt 60 và hạt 100! Sự khác nhau này không tùy thuộc vào người gieo mà lại tùy thuộc vào phẩm chất của đất, chính là thái độ đón tiếp Lời và thực hành Lời của mỗi người chúng ta.
Bài học áp dụng
- Hãy yêu mến Kinh Thánh và siêng năng đọc, tìm hiểu và áp dụng Lời Chúa vào trong cuộc sống hằng ngày.
- Hãy chuẩn bị cho lòng mình là mãnh đất tốt để Lời Chúa dễ bắt rễ, và thấm sâu vào tâm hồn, và hãy để cho Lời đó uốn nắn và biến đổi suy nghĩ, phán đoán và hành động của chúng ta.
- Hãy quảng đại và rao giảng Lời Chúa khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện, ngay cả những hoàn cảnh xem ra không còn hy vọng gì nữa vì Lời đó là Lời cứu độ con người. Amen!
46. Mở tai, mở mắt – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Ý nghĩa đại cương của dụ ngôn người gieo giống được chính Chúa giải thích. Nhiều bài bình giảng đã quảng diễn về sau lời giải thích ấy. Ở đây chúng ta dừng lại mầu nhiệm đáng sợ: cách thức người ta tiếp nhận lời Chúa. Quả thật trong dụ ngôn có thuật lại 1 lời Chúa dạy rằng, nhiều kẻ bịt tai nhắm mắt lại để khỏi nghe khỏi thấy. Nhiều người được gọi là có phúc vì họ thấy và nghe.
1) Làm sao người ta có thể bịt tai nhắm mắt trước lời của Chúa? Việc ấy tuỳ thuộc vào sự chọn lựa thâm sâu dấu kín tận đáy lòng, bằng vào đó mà người ta quyết định về cuộc sống của mình. Vượt ngoài mọi luật tất định, sở dĩ lời Chúa dược đề ra cho người ta tin theo, là vì nơi con người có một hạt nhân tự do có thể quyết định đón nhận một cách hữu trách. Xét đoán theo nhân loại mỗi trường hợp riêng là việc không thể làm được. Điều quan trong là biết rằng con người có trách nhiệm khi đối diện lời Chúa. Do đó một con người có thể đã quyết định thâm sâu trong lòng khiến anh đui và điếc trước Chân Lý đang đến gặp anh. Nêu Chân Lý nhằm vào chỗ thâm sâu, quyết định ấy lại càng mãnh liệt dứt khoát. Thực vậy, khi con người cảm thấy liên luỵ đến cả định mệnh, anh sẽ hung dữ và bảo vệ các chọn lựa của mình và không chịu để cho người khác để lay chuyển. Một hiện tượng như thế đã xảy ra nơi những người Do thái gặp Đức Kitô. Hiện tượng ấy ngày nay vẫn còn xảy ra. Chúng ta không thể xét đoán trách nhiệm của những người từ khước TC và Đức Kitô. Nhưng bí ẩn của trách nhiệm ấy chất vấn chúng ta, vì nó đặt chúng ta vào một con đường đi không bao giờ cùng. Nếu quả thật chúng ta có đón nhận Lời Chúa thì vẫn chưa đón nhận hoàn hảo và chúng ta vẫn còn phải từ bỏ mình để theo những gì TC mời. Có thể mắt và tai chúng ta đã mở, nhưng chúng ta vẫn còn luôn luôn phải dọn sạch và tẩy rửa. Chúng ta có nghĩ đến việc ấy chăng.
2) Làm sao để đáng được lời Chúa phán với các môn đệ: phúc cho mắt các con vì được thấy, phúc cho tai các con vì được nghe? Bằng cách nỗ lực tiến đến một trạng thái tâm hồn. Các môn đệ là những người đơn sơ, ngay thẳng, không có hệ thống trí thức cứng ngắt, nghèo hèn, không có đặc quyền để bảo vệ, không có ích kỷ để chống giữ, gần gũi với cuộc sống thực và họ có trái tim trong sạch, đặc ân của những người ngay thẳng và giản đơn. Ngày nay để giữ cho mắt và tai luôn mở ra đón nhận Phúc âm, chúng ta phải được kháng nhiễm chống lại một bầu không khí tinh thần và luân lý, nó xác trộn tâm trí và làm vẩn đục trái tim. Có một thế giới ra sức biện minh cho bất cứ lý thuyết nào, bất cứ thói hư nào, lo âu duy nhất là tiền tài và danh vọng. Nhiều tờ báo, nhiều đài truyền thanh truyền hình đổ ra suốt ngày thỉnh thoảng được vài điều thât hay còn ngoài ra từng đống nguỵ biện, khiêu dâm, bạo hạnh, những cuộc trình diễn người ta nói đã được nghệ thuật thanh tẩy, nhưng làm vẩn đục tâm trí người xem. Câu hỏi là như thế này: chúng ta chọn để cho cái gì thấm nhập vào mình để cho những gì thế gian mời chào, hay để cho những gì Phúc âm đề nghị? Khả năng chăm chú nghe lời Chúa tuỳ thuộc vào câu trả lời.
47. Hạt Giống Lời Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Lời Chúa là đèn soi bước đường chúng ta đi, là ánh sáng chỉ đường trong đêm tối và là lương thực nuôi linh hồn chúng ta. Lời Chúa được ví như hạt giống, tự nó có sức phát triển mạnh mẽ, nhưng hạt giống ấy, tuy là hạt giống hảo hạng có sức mạnh vô song, cũng cần có điều kiện thuận lợi để phát triển. Chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho hạt giống ấy nảy nở và phát triển. Chúa đòi chúng ta phải cộng tác vào trong công việc này.
Hạt giống Lời Chúa được gieo vãi khắp nơi một cách dồi dào, nhất là gieo vào lòng người. Hạt giống ấy có được tiếp nhận hay không, hoặc được tiếp nhận một cách ơ hờ lạnh nhạt, hoặc được tiếp nhận một cách trân trọng, thì hạt giống ấy được phát triển tùy theo thái độ của từng người. Chúng ta cố gắng biến thành thửa đất tốt để đón nhận hạt giống Lời Chúa, hy vọng hạt giống ấy sẽ sinh hoa kết quả, hạt sinh 30, hạt sinh 60 hay sinh 100 hạt khác.
Tâm hồn mỗi người là một thửa ruộng, và không có thửa ruộng nào là vô ích. Nhưng để thửa ruộng là mảnh đất phì nhiêu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải ra công cầy xới. Đương nhiên không có cuộc cầy xới nào mà không đòi phải vất vả, long đong. Tâm hồn chúng ta sẽ không là mảnh đất sinh hoa trái nếu chúng ta không chịu hy sinh, mất mát lo cầy xới, gạn lọc, nhổ hết gai góc, nhặt đi những sỏi đá của ích kỷ hẹp hòi, của những đam mê hư hèn, của gian tham lừa lọc, của thù hận ghen tương.
Như vậy Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta đừng để tâm hồn mình thành sỏi đá, đường đi bởi do lòng ích kỷ và thói vô tâm, cũng đừng để tâm hồn mình là bụi gai bởi lòng tham những của hư hèn và tính ươn lười ngại hy sinh cố gắng, nhưng là hãy ra công cầy xới cho hồn mình là mảnh đất phì nhiêu.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 55,10-11.
Dân Do thái đang phải sống trong cảnh lưu đầy, niềm tin đang lụi dần, tiên tri Isaia được sai đến an ủi, khuyến khích và nói cho dân biết rằng Thiên Chúa đã hứa cho dân thoát cảnh lưu đầy và được trở về quê hương.
Tuy thế, nhiều người Do thái tỏ ra nghi ngờ lời hứa đó, họ không thể tin được. Tiên tri Isaia phải nói cho họ biết tính chất phong phú của lời Chúa giống như mưa và tuyết thấm vào đất làm cho đất nên phì nhiêu thế nào thì lời Chúa luôn luôn hữu hiệu như vậy: Ngài đã nói thì thế nào cũng xẩy ra đúng như lời Ngài đã nói, Ngài đã hứa thì chắc chắn Ngài sẽ thực hiện. Lịch sử đã minh chứng cho lời tiên tri Isaia: dân Do thái đã được hồi hương vào năm 538 trước công nguyên đúng như lời đã báo trước.
+ Bài đọc 2: Rm 8,18-23
Trong đoạn thư gửi tín hữu Rôma mà phụng vụ hôm nay ghi lại, thánh Phaolô cố cho chúng ta hiểu thế nào là niềm hy vọng của người Kitô hữu. Tuy mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô. Niềm hy vọng của Kitô giáo là một sự chờ đợi, được thực hiện trong nước mắt khổ đau như một cuộc vượt qua cái chết.
Tuy sống trong cuộc đời đầy đau khổ nhưng Kitô hữu luôn lạc quan hướng về tương lai, chờ đợi ngày được hưởng ơn cứu độ viên mãn trong Nước Trời.
+ Bài Tin mừng: Mt 13,1-23.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn về người gieo giống đi gieo lúa, để dạy rằng cũng một lời Chúa rao giảng nhưng sinh nhiều hiệu quả khác nhau là tùy theo thái độ đón nhận của các tâm hồn người nghe.
Để ý nhận xét, ta thấy người nông phu này gieo hạt giống xuống mọi loại đất mặc dù biết trước là nhiều hạt sẽ không nảy mầm mọc lên. Điều đó có ý nói Thiên Chúa rất hào phóng sẵn sàng ban lời Ngài cho mọi người và ban cách quảng đại dồi dào.
Một nhận xét nữa là dụ ngôn kể ra 4 loại đất trong đó có tới 3 loại đất xấu. Điều đó có ý nói là có rất nhiều người không sẵn sàng đón nhận lời Chúa để cho lời ấy sinh hoa kết quả. Nhưng cũng có những người thiện chí biết đón nhận lời Chúa và đem ra thực hành để cho Lời Chúa sinh hoa kết quả dồi dào: hạt sinh 30, 60, 100 hạt khác.
Qua bài dụ ngôn hôm nay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta phải nhận thức giá trị thiêng liêng của Lời Chúa, để nhờ đó chúng ta biết tha thiết lắng nghe và chăm chỉ đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lời Chúa sinh hoa kết quả.
Khi đi truyền giáo, Chúa Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời. Đây là những ý tưởng quá trừu tượng mà thính giả phần lớn là dân quê, ít học, ngay các tông đồ nồng cốt cũng ở trong tình trạng đó. Để diễn tả về Nước Trời, Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để giảng dạy, mỗi dụ ngôn diễn tả được một khía cạnh của Nước Trời. Đây là một lối giảng dạy rất cụ thể , dễ hiểu, hấp dẫn, động não để đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng mà các nhà hiền triết thời xưa thường dùng.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống đi gieo lúa để nói về hạt giống của Lời Chúa. Theo đó, Lời Chúa như hạt giống được gieo vào lòng mọi người để có thể phát triển và sinh hoa kết quả tùy theo thái độ đón nhận của từng người: có người không chấp nhận, có người chấp nhận với thái độ ơ hờ lạnh nhạt, có người đón nhận với lòng thành để Lời Chúa có thể sinh hoa kết quả dồi dào gấp 30, 60 hay 100 lần.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA.
1. Lời Chúa trong Thánh Kinh .
Thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, Giáo hội đã khuyên nhủ chúng ta:”Thánh công đồng Vatican 2 nhiệt liệt cổ vũ các tín hữu chuyên cần lắng nghe và đọc Thánh Kinh, suy gẫm và sống Lời Chúa, vì đó là khoa học cao siêu dạy về Chúa Kitô. Vì theo thánh Giêrônimô:”Dốt Thánh Kinh là không hiểu biết về Chúa Kitô”(cf Verbum Dei # 25). Thánh Kinh dạy cho chúng ta hiểu biết về Chúa, am tường về các mầu nhiệm cao cả của Nước Trời, hay nói cách khác ,Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói với chúng ta, tỏ cho chúng ta thánh ý của Ngài.
2. Ba bước đón nhậnLời Chúa.
Theo Mark Link, có ba bước trong việc lắng nghe Lời Chúa, mỗi buớc một tiến hơn:
* Bước thứ nhất là nghe Lời Chúa. Chúng ta có thể gọi đây là bước của trí não. Bước này bao hàm việc chăm chú lắng nghe, đọc và giải thích Kinh thánh.
* Bước thứ hai là trân trọng tích giữ Lời Chúa. Bước này có thể được gọi là bước của trái tim, bao hàm việc ghi sâu vào lòng lời ta vừa nghe, và suy nghĩ xem có cách nào áp dụng lời ấy vào cuộc sống và làm sao để lời ấy biến cuộc sống của chúng ta nên tốt đẹp hơn. Bước thứ hai này không nhất thiết xẩy ra tại nhà thờ. Nó có thể khởi sự tại nhà thờ nhưng thường kéo dài suốt tuần lễ sau khi chúng ta suy nghĩ Lời Chúa đã nghe hôm Chúa nhật.
* Bước thứ ba là đem Lời Chúa ra thực hành. Nếu chúng ta gọi bước thư nhất là của “trí não”, bước thứ hai là của “trái tim”, thì chúng ta có thể gọi bước thứ ba là bước của “linh hồn”. Bước này bao hàm tác động lên những gì trí óc chúng ta lãnh nhận và con tim chúng ta tích chứa giữ gìn.
3. Bốn thái độ tiếp nhận Lời Chúa.
Theo bài Tin mừng, Chúa Giêsu đã phân chia thành 4 loại đất mà người nông phu gieo hạt giống vào. Bốn loại đất ấy tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa:
* Đất vệ đường: những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị qủi dữ cướp đi.
* Đất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không qúi chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó là bỏ cuộc.
* Đất có nhiều gai: những người cũng đón nhận Lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải...Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngẹt.
* Đất tốt: những người sốt sắng đón nghe Lời Chúa, ghi sâu vào tâm hồn và quảng đại đem ra thi hành trong cuộc sống.
Mỗi người phải chuẩn bị đất tốt để đón nhận hạt giống Lời Chúa:
. Đất phải xốp: không cứng như vệ đường, tức là phải có tinh thần khao khát Lời Chúa như một nhu cầu của sức sống để lắng nghe, tìm hiểu và thực hành lời Chúa.
. Đất không có sỏi đá: tức là phải cất những chướng ngại vật như: sự lười biếng, thờ ơ, chểnh mảng Lời Chúa, bỏ các thành kiến, khuynh hướng xấu trong tâm hồn.
. Đất không có gai: tức là tâm hồn phải thanh thỏa, không có những bồn chồn lo lắng về những sự ở đời như thú vui xác thịt, danh vọng, của cải vật chất... vì những cái đó là những gai góc bóp chết lời Chúa.
. Đất tốt: là tâm hồn khiêm nhường biết tin tưởng, trông cậy và yêu mến Lời Chúa để biến đổi đời sống (Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng Chúa nhật năm A, tr 218).
II. SỐNG THEO LỜI CHÚA..
1. Sức mạnh của Lời Chúa.
Hạt giống lời Chúa là thứ hạt giống tốt có thể phát triển mạnh. Lời Chúa có thể thay đổi được lòng người nhưng Chúa không muốn can thiệp vào đời tư của con người một cách thô bạo. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người.
Lời Chúa tự nó có sức mạnh vô biên. Ta có thể ví lời Chúa như nước chảy, nước rất mềm, nhưng có thể làm cho đá mòn như người ta thường nói:”Nuớc chảy đá mòn” (tục ngữ). Lời Chúa tuy êm ái nhẹ nhàng nhưng có sức bào mòn những gì gồ ghề trong tâm hồn để trở nên những viên đá tròn trịa.
Thiên Chúa cứ gieo hạt giống Lời Chúa vào lòng người, còn việc hạt giống đó có phát triển được hay không là do thái độ của tùng người có muốn cộng tác hay không.
Truyện: Nước làm sạch rổ rau.
Bà vợ đi lễ về làm cơm sáng hơi muộn cho làm người chồng khó chịu. Người chồng thì khô khan, thỉnh thoảng mới đến nhà thờ. Vợ thì siêng năng đi lễ để nghe Lời Chúa.
Bụng đang đói, chồng tức bực hỏi vợ:
- Em đi lễ hằng ngày như vậy để được cái gì?
Bà vợ trả lời:
- Được nhiều lắm, anh ạ.
Chồng hỏi tiếp:
- Được cái gì?
Vợ thản nhiên đáp:
- Được nghe Lời Chúa. Được Lời Chúa soi dẫn và rửa sạch tâm hồn em!
Chồng trợn mắt:
- Rửa sạch?
Vợ chỉ tay vào rổ rau mới rửa, trả lời:
- Vâng, nước đã làm cho bụi bặm rổ rau này sạch trơn!
Người chồng hiểu, lặng thinh và suy nghĩ!
2. Sống đạo bằng gì?
Nếu được hỏi câu này, một người bàng quan nhìn chúng ta sống sẽ trả lời rằng: họ sống đạo bằng đọc kinh, bằng nhận lãnh các bí tích và bằng tham dự các lễ nghi.
Đúng vậy, người Công giáo chưa hoặc rất ít sống đạo bằng Lời Chúa. Nếu sống đạo bằng đọc kinh thì sau giờ kinh là hết sống đạo! Nếu sống đạo bằng lãnh nhận các bí tích thì có bao nhiêu dịp sống đạo đâu! Và nếu sống đạo bằng cách tham dự các lễ nghi thì sẽ không còn sống đạo khi ra khỏi nhà thờ! Vả lại, đạo ở các kinh đọc, trong các bí tích và trong những lễ nghi không thấm nhập vào cuộc đời, vào xã hội.
Đạo là đường, sống đạo là đi đường. Trong cuộc hành trình này. Lời Chúa chỉ hướng cho ta đi. Lời Chúa dạy ta giải quyết những tình huống như thế nào, Lời Chúa là kim chỉ nam đưa ta tới cùng đích (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 387-388).
Truyện: Lời Chúa khắc ghi trong lòng.
Hôm ấy, một nhà thừa sai Công giáo gặp một cậu bé người Ả rập trên đường từ trường về nhà. Nhà truyền giáo vui vẻ hỏi:
- Sao, hôm nay con học thêm được gì về sách Coran?
Mắt cậu sáng lên và mau mắn đọc thuộc lòng những câu trích từ sách Coran là sách thánh của các tín đồ Hồi giáo. Nhà truyền giáo nói thêm:
- Bây giờ, con thử viết những lời đó trên đất để cha có thể hiểu dễ dàng hơn và học mau thuộc hơn không?
Cậu bé đáp:
- Thưa cha, không được! Lời Thánh phải được viết trong trí và ghi khắc trong lòng chứ không thể viết trên đất được.
Theo tư tưởng của cậu bé đó thì Kinh thánh phải được ghi khắc trong tâm hồn, nghĩa là Lời Chúa phải thấm nhập vào lòng trí người Kitô hữu để họ phải sống bằng Lời Chúa.
Sống đạo là để cho Lời Chúa thấm nhập tâm hồn.
Sống đạo là để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống.
Sống đạo là để cho Lời Chúa tuôn trào ra cửa miệng và thấm nhuần môi trường sống.
III. PHỔ BIẾN LỜI CHÚA.
Lắng nghe và thực hành Lời Chúa là điều cần thiết nhưng chưa đủ, chúng ta còn có sứ mạng rao giảng Lời Chúa cho người khác. Chúa Giêsu đã nói:”Nếu các con đã lành nhận nhưng không, thì cũng phải cho đi nhưng không” (Mt 11,08). Nếu bản chất của Hội thánh là truyền giáo thì bản chất của những thành viên trong đó cũng phải là truyền giáo.
Lời Chúa phải được chúng ta loan truyền để mang lại nhiều mùa gặt khác. Cũng như những hạt giống được gió đưa đi, rơi xuống và nảy mầm ở nơi xa, hạt giống Phúc âm phải được rải ra từ chính tấm lòng của chúng ta vào trong lòng anh em chúng ta. Nếu chúng ta giữ Lời Chúa cho riêng chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ mất Lời Chúa. Hạt giống không phải được tạo ra để nằm trong một góc của bồ lúa, mà là để được nảy sinh trong những cánh đồng và cuối cùng là trên khắp thế gian.
Mỗi người chúng ta tùy theo ơn gọi , địa vị, chức vụ và khả năng, đều được Chúa mời gọi lãnh nhận sứ vụ rao giảng Lời Chúa, như hạt giống được gieo vào hồn chúng ta, như sức sống nuôi dưỡng làm cho triển nở tới thời sung mãn, để rồi sau đó lại phải gieo rắc sự dư tràn đó vào lòng những người khác. Đó là sứ mạng Chúa ủy thác cho mỗi người chúng ta phải chu toàn.
Truyện: Rao giảng bằng cuộc sống.
Khi một người ra đi gieo Lời Chúa, người ấy không biết rõ việc mình đang làm và kết quả của hạt giống đó sẽ ra thế nào thì ông H.L. Gee đã thuật lại cho chúng ta câu chuyện sau đây:
Trong xóm đạo của ông, có một cụ già cô độc tên là Tôma. Cụ thọ hơn bạn bè của cụ nên không còn ai biết cụ nữa. Khi cụ Tôma qua đời, ông Gee nghĩ rằng không ai đi đưa đám cụ nên ông quyết định đi để còn có người đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Không có ai đi đưa cả, hôm đó trời lại mưa dầm ướt lạnh. Khi quan tài đến nghĩa trang, có một quân nhân đứng ở cổng chờ, đó là một sĩ quan nhưng trên áo mưa không thấy quân hàm. Quân nhân đó đứng bên huyệt dự lễ an táng. Xong lễ, ông ta tiến đến bên huyệt đưa tay lên chào theo nghi thức dành cho một vị vua. Rồi ông Gee và quân nhân đó ra về.
Khi họ đang đi, gió thổi bật cái áo mưa của vị sĩ quan và ông Gee thấy quân hàm của ông ta, quân hàm thiếu tướng. Vị sĩ quan nói với ông Gee:
- Có lẽ ông ngạc nhiên không hiểu tôi làm gì ở đây. Nhiều năm trước đây cụ Tôma là giáo viên dạy giáo lý ở trường tôi. Tôi là một thằng bé ngỗ nghịch và là một thứ gai nhức nhối cho cụ. Cụ không hề biết cụ đã làm gì cho tôi nhưng cả đời tôi mang ơn cụ, và hôm nay tôi phải đến để nghiêng mình chào tiễn cụ lần cuối.
Ông Tôma không biết được việc mình đã làm, không một giáo sư hay nhà truyền giáo nào biết được. Công tác của chúng ta là gieo ra không chút nản lòng và phần còn lại hãy để cho Chúa định liệu.
Khi một người đi gieo giống, anh ta không thể và không được trông đợi có kết quả tức khắc. Trong thiên nhiên, sự tăng trưởng không bao giờ vội vã, phải mất một thời gian dài để hạt giống đơm bông kết trái, và có thể còn phải mất thời gian dài hơn nữa để hạt giống nảy mầm trong lòng người.
Chúng ta tin chắc rằng hạt giống Lời Chúa có sức tăng trưởng phi thường trong những môi trường thuận lợi. Công việc chúng ta là gieo, cứ gieo rồi để hạt giống mọc lên và khi đã mọc lên thì phát triển mạnh mẽ để sinh hoa trái dồi dào
Truyện: Hạt giống bông lau.
Trong số những vị anh hùng xây dựng Hợp chủng quốc, phải kể đến Benjamin Flanklin, tạ thế năm 1790. Ông là một văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản ; lại còn là một nhà phát minh, một khoa học gia, thương gia và nhà ngoại giao. Một hôm, ông nhận được món quà từ Ấn độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt còn dính lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho các bạn bè xóm ngõ. Tất cả đều đem gieo và chẳng bao lâu, Hoa kỳ đã có một kỹ nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rác khắp nơi trong quốc gia. Đó cũng là nhờ Benjamin Franklin đã có sáng kiến, biết lợi dụng vài hạt giống nhỏ mọn.
Sau khi đã tìm hiểu lời Chúa, chúng ta phải quyết tâm lắng nghe, thực hành và phổ biến Lời Chúa cho người khác. Muốn cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả, muốn cho bản thân thành đạt trên đường đời, hãy kiểm tra ruộng lúa tâm hồn thường xuyên và kỹ lưỡng như người nông dân luôn biết săn sóc ruộng sạ của mình. Càng vất vả cầy bừa, diệt cỏ, càng can đảm diệt tính hư nết xấu, Lời Chúa gieo xuống, càng đem lợi ích cho cuộc đời chúng ta.
48. Hạt giống Lời Chúa
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ông Chirgwin, trong quyển sách mang tựa đề: “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo”đã kể câu chuyện sau đây:
Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, đàn bà, kể cả trẻ con. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng, hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ đi công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may cảm lòng, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Hai bà chỉ để lại cho hắn quyển Thánh Kinh Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi mà tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực.
Niềm hy vọng của họ đã trở thành hiện thực, Ishi-I đã đọc những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt, khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lời ấy đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó Ishi-I thuật lại:
“Đọc đến lời ấy “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin”.
Cuối cùng, ông Chirgwin, tác giả câu chuyện này, kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp một tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hoà nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
(Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến một chuyện phim video mới đây được giải thưởng Oscar, mang tựa đề: “Dead man walking” (Người chết biết đi). Ở các quầy cho thuê băng video, mang tựa đề: “Tên tử tội”).
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên giết người không gớm tay như anh Tokichi Kshi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ và giáo dân đang dấn thân phục vụ những trẻ em bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội. Đúng như Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng hôm nay: “Lời Chúa như hạt giống được gieo vào đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành một trăm”.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn “Người gieo giống”để mô tả số phận Lời Chúa được tung ra giữa nhân loại và đem lại kết quả như thế nào: Có hạt rơi xuống bên vệ đường, chim trời ăn mất. Có hạt rơi xuống trên sỏi đá, không đâm rễ được, bị khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, bị chết nghẹt. Chúa không chú trọng đến phần mất mát đó cho bằng đến sự phát triển mạnh mẽ của hạt giống khi rơi vào phần đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Vậy thì chúng ta đừng ai nản lòng vì mất mát, thiệt thòi. Người gieo giống cứ thẳng tay tung vãi khắp nơi một cách quảng đại, không dè xẻn. Bên ngoài xem ra như mọi sự chống lại việc triển nở của hạt giống Lời Chúa. Nhưng hãy chờ mùa gặt đến, kết quả sẽ vượt mức tưởng tượng, vì đây là công việc của Thiên Chúa. (Một tên giết người không gớm tay như Ishi-I, thế mà Lời Chúa đã từ từ thấm nhập vào tâm hồn, đã cải hoá anh thành một con người mới, một người hoà nhã, lễ độ, sám hối và đã tin).
Thánh Justinô tử đạo vào năm 150, khi suy niệm về dụ ngôn người gieo giống này đã khuyên bảo những người rao giảng Tin Mừng, đừng bao giờ thất vọng: “Chính Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa đã được gieo vào cánh đồng thế giới chúng ta. Ngài cũng đã bị hiểu lầm, bị chống đối, đã gặp bao thất bại… Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như hạt giống, Ngài đã nẩy sinh bao hoa trái sự sống dồi dào”.
Thưa anh chị em,
Ngày nay Giáo Hội không ngừng rao giảng Lời Chúa qua các thế hệ trên khắp thế giới. Giáo Hội cũng gặp nhiều khó khăn, thất bại như: thiếu phương tiện, bị bách hại, đời sống kém cỏi của một số giáo sĩ và giáo dân, số người rửa tội ngày càng ít đi trong một thế giới duy vật và trần tục hoá. Thật đáng buồn khi thấy đời sống đạo ngày càng sa sút. Lời Chúa như rơi vào sỏi đá, vào bụi gai hay ngoài đường lộ. Tuy nhiên, như lời Thánh Justinô: đứng thất vọng, người gieo cứ việc gieo và để cho Lời Chúa âm thầm hoạt động. Không có gì được phép làm cho chúng ta phải nghi ngờ hay chán nản. Hạt giống Lời Chúa có thể là bé nhỏ, có thể bị đối xử tàn tệ, bị chà đạp, bị lấn át, nhưng năng lực của nó là vô hạn (x. Bđ: Is 55,10-11).
Bổn phận của chúng ta là thành tâm đón nhận Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống giữa lòng đời. Không phải chỉ nghe suông mà còn tìm hiểu ý Chúa muốn chúng ta phải làm gì. Có bao nhiêu chướng ngại chống lại việc tìm hiểu và thực thi Lời Chúa: nào là những quyến rũ của đời sống trần tục, nào là những lo lắng việc đời, ham mê của cái. Chúng như chim trời sà xuống cướp lấy hạt giống vừa rơi xuống, hoặc như sỏi đá, như bụi gai cản trở, bóp nghẹt Lời Chúa.
Anh chị em thân mến,
Mỗi Chúa Nhật, chúng ta họp nhau dự Tiệc Thánh, gồm có Lời Chúa và Thánh Thể của Chúa. Hãy đón nhận với niềm tin yêu để Lời Chúa và Thánh Thể trở nên sức sống và ánh sáng, niềm vui và hy vọng cho cuộc đời chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta lại trở thành người ra đi gieo giống, người Tông đồ rao giảng Lời Chúa, góp phần vào mùa thu hoạch của Giáo Hội cho Nước Trời vào ngày sau hết.
49. Luôn luôn gặt hái kết quả
Sách lễ cho chúng ta chọn giữa một bài đọc ngắn chỉ kể lại dụ ngôn người gieo giống và một bài đọc dài có thêm câu trả lời của Chúa Giêsu đáp lại câu hỏi “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn để nói?” và lời giải thích dụ ngôn người gieo giống. Tôi chọn bài đọc ngắn, đúng như nó mô tả câu chuyện những hạt gieo của Chúa Giêsu.
Đọc đến chương 13 này của Matthêu, “chương của những dụ ngôn”, chúng ta biết được gì? Chúa Giêsu đã gieo nhiều trên tất cả các mảnh đất. Ngài đụng phải những cái đầu cứng rắn của những luật sĩ và người Pharisêu. Ngài đã thấy những người phấn khởi nhưng bỏ Ngài rất nhanh. Ngài đã cảm nhận những thái độ ngập ngừng nơi các môn đệ của Gioan Tẩy giả và sự bối rối nơi chính Gioan Tẩy giả: “Thầy có phải là Đấng- phải -đến hay không?” Sự dửng dưng của một số thành phố đã tác động mạnh đến Ngài: “Khốn cho người hỡi thành Côrô! Khốn cho người hỡi thành Bétsai!” Tất cả những điều đó tạo nên một bức tranh khá đen tối. Nước Trời dường như khó khởi động.
Chính trong bối cảnh này mà dụ ngôn người gieo giống có tầm quan trọng rất lớn. Dụ ngôn này nói lên nhận xét sáng suốt nhưng không thất vọng của Chúa Giêsu. Ngài mời gọi chúng ta can đảm bằng cách nhìn vào điều quan trọng nhất: người gieo giống ra đi để gieo lúa. Nhưng thật là một người gieo giống kỳ lạ!
Người đó ra đi từ nơi Thiên Chúa và đến với chúng ta để gieo Thiên Chúa. Đây là một biến cố bất ngờ, không phải là một giai đoạn của lịch sử mà là sự đảo lộn lịch sử: “Các ngươi hãy mau ăn năn hối cải, vì Nước Trời đã gần kề!”
Tin Mừng này đã làm cho mọi người phấn khởi. Sau đó, khi lời rao giảng tỏ ra có yêu cầu một số thính giả bén rễ vào lời rao giảng đó, nhưng một số khác rơi vào trong cuộc sống hời hợt hoặc ngổn ngang trăm bề và thậm chí trong sự chống đối, những con đường, những hòn đá, những bụi gai, những mảnh đất tốt, đất đai thật khác nhau! Mặc kệ, người gieo giống kỳ lạ này đã thấy được kết quả rồi: hạt được ba mươi, hạt được bốn mươi, hạt được một trăm. “Ai có tai nghe, hãy nghe!”
Nghe lời kêu gọi tin tưởng khi việc gieo giống có vẻ như thất bại. Trường hợp này đã xảy ra cho các nhà truyền giáo. Đây cũng là trường hợp xảy ra cho mọi tông đồ hiện nay, cho mọi Kitô hữu xem truyền hình và những người qua lại trên đường: “Đâu là những cây lúa đang mọc lên?”
Đây là câu trả lời. Đấng biết rõ những mảnh đất con người khẳng định với chúng ta rằng có những mảnh đất khô cằn thì cũng có những mảnh đất tốt tươi và do đó luôn luôn có kết quả.
Chúa Giêsu đã nói điều này với nhũng đám đông bối rối, với những môn đệ bị dao động. Ngài nói điều đó với chúng ta bây giờ là những người đo lường sự bỏ rơi việc hành đạo, sự dửng dưng của con cái chúng ta, sự gia tăng những người vô tín ngưỡng-Đấng kể dụ ngôn này hiện vẫn sống, dụ ngôn này được dành cho chúng ta. Đấng gieo giống đang có mặt ở đó, cho nên không có ai, không nơi nào, có quyền đoán xét rằng mọi hạt giống đều bị mất đi. Bao lâu chúng ta gieo Tin Mừng, chúng ta sẽ có kết quả là hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi.
50. Nghe giảng
Benjamin Franklin là một vị tổng thống nổi tiếng của nước Mỹ. Ngày kia, ông nhân được món quà, đó là một cái chổi từ Ấn Độ. Ông nhìn thấy mấy hạt giống còn dính vào cái chổi, và thế là ông bứt ra và đem gieo những hạt giống ấy.
Sau lần thu hoạch đầu tiên, ông đem phân phát tất cả những hạt giống mình có cho bà con lối xóm. Và vu thu hoạch của họ cũng thành công tốt đẹp. Bằng cách này, ông trở nên người đầu tiên đưa rơm vào Hoa Kỳ và khởi đầu cho kỹ nghệ sản xuất chổi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng vừa nghe. Thực vậy, tất cả chúng ta đều được mời gọi phải hành động như thế. Chúa Giêsu ban cho chúng ta những chân lý của Người, đó là như những hạt giống chúng ta cần phải gieo trồng trong tâm trí chúng ta đã đành, mà còn phải đem gieo trồng trong tâm trí những người khác nữa.
Những hạt giống này, những chân lý này, Người ban cho chúng ta qua Thánh Kinh, qua sự giáo huấn của Hội Thánh, cụ thể là qua sự giảng dạy của các linh mục.
Như vị tổng thống nước Mỹ, chúng ta hãy đón nhận những chân lý ấy, hãy gieo trồng trong cõi lòng chúng ta, đồng thời cũng hãy chia sẻ những chân lý ấy cho những người chung quanh.
Bổn phận của tôi là nói nói về những chân lý ấy cho anh chị em. Còn bổn phận của anh chị em là lắng nghe và làm cho những chân lý ấy được nảy mầm và lớn lên, như lời Chúa Giêsu đã phán: Ai có tai để nghe, thì hãy nghe.
Tôi xin đưa ra một vài việc gợi ý cần làm ngay để chúng ta thâu lượm được những thành quả tốt đẹp khi nghe giảng.
Như một bác nông phải, trước khi xạ lúa cân phải chuẩn bị ruộng đất. Chúng ta cũng thế. Thật là hữu ích nếu như trên đường tới nhà thờ tham dự thánh lễ, chúng ta biết tự chuẩn bị đón nhận chân lý. Chúng ta đừng nói: Lạy Chúa, hôm nay xin đừng để cha giảng quá dài. Trái lại hãy thân thưa: Lạy Chúa, xin giúp con đón nhận những chân lý để nuôi sống đời sống thiêng liêng của con. Chính người giảng cũng phải cầu nguyện như thế, để những người nghe mình giảng sẽ lợi dụng được những điều mình trình bày, và sẽ cung cấp được những mảnh đất phì nhiêu cho những chân lý mình đang cố gắng gieo trồng. Chúng ta không phải chỉ cầu nguyện cho mình, mà còn phải cầu nguyện cho người giảng nữa. Đó quả thực là một việc làm quí giá biết bao.
Tiếp đến, khi bước chân vào trong nhà thờ, chúng ta hãy làm dấu thánh giá trên mình, như để rũ sạch những lo âu trần thế và mở rộng tâm hồn cho hạt giống chân lý. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe những lời cầu nguyện, những bài đọc Thánh Kinh, nhất là bài Tin Mừng, đồng thời cũng hãy chú ý tới bài giảng, bằng cách cố gắng hiểu và nhớ.
Đức Kitô nói với chúng ta qua môi miệng của vị linh mục, thế nhưng, vị linh mục cũng chỉ là một con người, nên cũng có những giới hạn của mình. Con người đứng trên bục giảng có thể là một dụng cụ hữu hiệu, nhưng cũng có thể là một dụng cụ vô tích sự. Sứ điệp có thể được quảng diễn một cách trong sáng hay mù mờ, thế nhưng, nội sung của sứ điệp mới là điều quan trọng, còn cách diễn tả chỉ lả điều thứ yếu.
Hãy lắng nghe và thực thi trong cuộc sống những điều đã đón nhận, để Lời Chúa thực sự nảy mầm, đâm bông và kết trái trong cuộc sống chúng ta.
51. Hạt giống và người gieo giống
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hạt giống và người gieo giống, cũng như về thửa đất đón nhận hạt giống.
Trước hết, hạt giống và người gieo giống chính là Đức Kitô.
Thực vậy, Ngài đã đến trong cánh đồng trần gian. Thế nhưng, Ngài đã bị hiểu lầm, đã gặp biết bao nhiêu khó khăn và thất bại. Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như một hạt giống, Ngài đã nảy mầm đâm bông và kết trái.
Tiếp đến, hạt giống và người gieo giống còn là Giáo Hội.
Thực vậy, như Chúa Giêsu, Giáo Hội trải qua giòng thời gian cũng đã gặp phải biết bao nhiêu thất bại và cấm cách. Tuy nhiên, tất cả không thể làm cho Giáo Hội nghi ngờ hay thất vọng về sứ mạng của mình.
Hạt giống lời Chúa cũng như bản chất của Giáo Hội, có thể là rất nhỏ bé. Nhỏ bé như một hạt cải, nhỏ bé như một dúm men, nhưng năng lực của lời Chúa cũng như của Giáo Hội là vô hạn.
Không phải là qua những thành công rực rỡ bên ngoài mà Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại. Trái lại, Ngài đã bước vào chặng đường thập giá, bước vào tiến trình của một hạt giống được gieo vào lòng đất cần phải mục nát.
Bởi đó, Ngài đã trách cứ hai môn đệ trên đường về Emmaus:
- Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó rồi mới được vào chốn vinh quang hay sao?
Cũng vậy, Giáo Hội cần phải bước vào chặng đường thập giá, cần phải bước vào tiến trình mục nát của một hạt giống. Những thời Giáo Hội được huy hoàng nhất chưa hẳn đã là những thời mà Nước Chúa được mở rộng hơn cả.
Còn thửa đất thì sao?
Trước tiên, thửa đất là thế gian này.
Thực vậy, Đức Kitô đã đến trong thế gian và gieo vào đó hạt giống lời của Ngài. Thế gian trước kia đang khô cằn và chờ mong ơn cứu độ. Thế nhưng, kể từ đây có thể trở nên phì nhiêu cho lời Chúa sinh hoa kết trái.
Thế nhưng quan trọng hơn cả, mảnh đất phì nhiêu ấy phải là chính cõi lòng chúng ta. Đúng thế, mặc dù lời Chúa đầy hiệu năng, nhưng tự nó lời Chúa cũng không đủ để đảm bảo một mùa gặt tốt đẹp, bởi vì lời Chúa còn cần phải gặp được những thửa đất tốt.
Thiên Chúa tiếp tục gieo vãi hạt giống lời Ngài vào cõi lòng chúng ta. Nhiều người nghe nhưng ít người hiểu. Nhưng hiểu mà thôi cũng chưa đủ, chúng ta còn phải sống lời Chúa. Bởi vì, không phải chỉ nghe, chỉ hiểu là lời Chúa tự động nảy nở trong cõi lòng chúng ta và đem lại những hoa trái.
Mặc dù lời Chúa có đủ sức để đảo lộn cuộc đời chúng ta, nhưng hiệu năng của lời Chúa không phải là tự động, không phải là máy móc. Sự tăng trưởng của lời Chúa hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta sự tự do và Ngài luôn tôn trọng sự tự do ấy cho tới cùng. Ngài đề nghị mà không ép buộc:
- Này Ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào và dùng bữa với kẻ ấy.
Chúng ta có tự do để trở nên một đám sỏi đá, một bụi gai, một lối đi cằn cỗi, nhưng đồng thời cũng có thể là một thửa đất tốt. Tất cả mọi loại đất đều tùy thuộc ở cõi lòng chúng ta.
Vậy chúng ta sẽ là thửa đất nào? Chúng ta đã nghe và đã hiểu, nhưng liệu chúng có dám sống lời Chúa và thực thi những điều Ngài truyền dạy hay không?
52. Hạt giống tốt
Lớn lên ở thôn quê, đi rao giảng phần lớn thời gian ở thôn quê, Chúa Giêsu đã thường xuyên được chứng kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, nên Ngài đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về nước trời, một trong những dụ ngôn đầu tiên của Chúa là dụ ngôn người gieo giống.
Người gieo trồng nào cũng có niềm tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả tin tưởng phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trong bụi gai, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt. Nước trời cũng giống như người ra đi gieo giống vậy.
Thái độ lạ đời của người gieo giống khiến chúng ta hiểu được phần nào tình yêu thương phổ quát của Thiên Chúa. Không có người nông dân nào có đầu óc bình thường hiểu biết, lại đi phung phí hạt giống trên mọi mảnh đất, ngay cả những chỗ gai góc hay những mảnh đất sỏi đá, nhưng họ gieo vãi hạt giống của mình trên thửa đất đã được cày bừa cẩn thận để hạt giống có thể mọc lên thật dễ dàng. Ở đây Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Ngài muốn cứu rỗi tất cả mọi người, không phân biệt ai, Ngài muốn thông truyền chân lý cho mọi hạng người. Nhưng cũng như các mảnh đất được kể trong Tin Mừng, tiếp nhận hạt giống và sinh hoa kết trái khác nhau, mỗi người cũng có thái độ khác nhau khi đón nhận lời Chúa, tiếp nhận ân sủng của Ngài, họ có quyền tự do chấp nhận hay từ chối. Nếu chấp nhận thì lời Chúa sẽ đem lại cho họ nhiều lợi ích, nếu chối từ thì họ sẽ chẳng được gì. Như vậy, hoa trái tốt lành là tùy ở sự chấp nhận của con người.
Chính mỗi người phải cố gắng làm cho tâm hồn mình thành mảnh đất tốt, phì nhiêu tiếp nhận lời Chúa một cách thành khẩn, để hạt giống có thể phát triển và đơm bông kết trái. Trong các hoạt động hay sinh hoạt hằng ngày, dù công khai hay âm thầm, dù to lớn hay nhỏ bé, kể cả những khó khăn và đau khổ của cuộc sống, tất cả mọi người đều được mời gọi để gieo rắc niềm hy vọng. Trên những mảnh đất khô cằn tình người, chúng ta được Đức Kitô kêu mời trồng tỉa từng hạt giống của yêu thương. Trên những vùng đất khô sạn tin yêu, chúng ta được Đức Kitô kêu mời gieo rắc niềm hy vọng. Từng giây, từng phút, từng ngày, từng năm, chúng ta tin tưởng rằng sức sống sẽ bừng dậy, yêu thương sẽ trổ bông.
Người ta kể rằng: Một người cha kia có ba đứa con trai, tuy sinh ra trong nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và tiết kiệm, ông đã trở nên một điền chủ giầu có. Lúc cuối đời, tuổi già sức yếu, ông tính việc chia gia tài cho các con, ông muốn biết đứa con nào thông minh nhất để giao phó phần lớn gia tài của ông cho nó. Ông gọi cả ba người con tới bên giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng và bảo hãy đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trống trải và u tối của ông.
Ba người con vâng lời cha cầm tiền ra chợ. Người anh cả nghĩ rằng việc này quá dễ dàng, anh mua một bó rơm lớn đem về, người con thứ hai nghĩ kỹ hơn, anh mua những bao lông vịt rất đẹp mắt, người con út lo nghĩ: biết mua gì với năm đồng này để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha? Cuối cùng anh đã nghĩ ra, anh mua một cây nến và một bao diêm.
Ngày hôm sau, cả ba người con đều tụ họp trong phòng cha già. Người con cả mang rơm ra trải, nhưng phòng quá rộng, chỉ phủ được một góc, người con thứ đổ lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha tỏ vẻ thất vọng. Người con út từ từ rút trong túi ra một cây nến và một hộp diêm, thoáng một cái căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người ngạc nhiên, người cha già rất sung sướng vì quà tặng của người con út, ông quyết định trao phần lớn ruộng đất và gia sản cho anh ta, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình và nhờ đấy cũng có thể giúp đỡ các người anh nữa.
Cuộc sống mỗi người chúng ta, cuộc sống những người chung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta, có lẽ nhiều khi cũng giống như một căn phòng tối, chỉ cần một người nào đó thắp lên một tia sáng nhỏ là những người chung quanh sẽ cảm thấy ấm áp và phấn khởi hơn: một tia sáng nhỏ của cái mỉm cười, một tia sáng nhỏ của lời chào hỏi thăm nom, một tia sáng nhỏ của tình yêu san sẻ, một tia sáng nhỏ của cảm thông, tha thứ, một tia sáng nhỏ của niềm tin giải tỏa qua sự hân hoan chấp nhận cuộc đời.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã cho chúng ta nhận được tình yêu của Chúa. Xin cho cả cuộc sống chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
53. Gieo giống
Bài Phúc âm hôm nay, mang tên “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Vấn đề của chúng ta là làm sao trở nên đất tốt?
Để hiểu dụ ngôn dễ dàng hơn, William Barclay đã giải thích cách gieo hạt giống của người nông dân và sự phức tạp của những mảnh đất khác nhau ở Palestine vào thời Chúa Giêsu như sau:
“Ở Palestine có hai cách gieo hạt giống. Nó có thể được tung vãi lên không khi người gieo giống bước tới bước lui trên cánh đồng. Dĩ nhiên, nếu gió thổi, một số hạt giống có thể bị thổi vào tất cả mọi chỗ, đôi khi bay ra khỏi cánh đồng. Cách thứ hai là cách lười biếng, nhưng không phải là không được sử dụng thường xuyên. Đó là đặt một cái túi hạt giống trên lưng một con lừa, cắt hay xé một cái lỗ ở góc túi, rồi để con lừa đi lại trên cánh đồng trong khi hạt giống chảy ra. Trong trường hợp này một số hạt giống có thể chảy xuống đang khi con vật băng ngang qua lối đi hoặc trước khi nó đi tới cánh đồng.
Ở Palestine, những cánh đồng là những dải đất dài và hẹp; ở bên phải có lối đi. Lối đi được nện chắc chắn như mặt đường bởi vô số những vết chân của những người bộ hành qua lại. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói đến “có hạt rơi xuống vệ đường”, đã không có cơ hội cho hạt giống thâm nhập xuống đất.
“Có hạt rơi trên đá sỏi…” Đất sỏi đá, không phải là đất đầy những đá; nhưng là đất bình thường ở Palestine, một lớp đất mỏng trên mặt của một tảng đá nằm ở dưới. Lớp đất có lẽ chỉ sâu chừng 4 hay 5 cm trước khi tới phần đá vôi. Hạt giống nằm trên phần đất như vậy sẽ nẩy mộng nhanh chóng do sức nóng của mặt trời và đất ẩm. Nhưng vì không có chiều sâu của đất nên khi rễ đâm xuống để đi tìm chất dinh dưỡng và nước, nó chỉ gặp đá, liền bị chết, và hoàn toàn không thể nào chịu đựng nổi sức nóng mặt trời.
“Có hạt rơi vào bụi gai…” Đất có gai, dễ tạo nên lầm lẫn. Khi người gieo hạt giống xuống, mặt đất có vẻ được dọn sạch sẽ; nhưng ở trong đất vẫn còn những gốc rễ của cỏ dại, cây hoang, và gai góc sẵn sàng mọc trở lại. Mỗi người làm vườn đều biết rằng các loại cỏ dại mọc lên với một tốc độ nhanh chóng mà ít có hạt giống tốt nào có thể theo kịp. Hậu quả là hạt giống và cỏ dại mọc lên chung với nhau; nhưng cỏ dại mạnh mẽ hơn làm chết ngộp sự phát triển của hạt giống.
“Có hạt rơi xuống đất tốt…” Đất tốt, ở dưới sâu, thuần túy là đất mềm; hạt giống có thể đâm rễ sâu xuống tìm được dinh dưỡng, lớn lên nhanh chóng; và trong đất tốt nó sẽ phát sinh một mùa huê lợi phong phú.
Tâm hồn mỗi người cũng giống như thửa ruộng ở Palestine thời Chúa Giêsu, gồm đủ mọi loại đất như William Barclay đã diễn tả. Trong cuốn “A Kind of Praying”, của Rex Chapman, có lời cầu nguyện dựa theo đoạn Thánh Kinh của dụ ngôn người gieo giống đã diễn tả rằng có những loại đất khác nhau ở ngay bên trong mỗi người:
“Lạy Chúa, điều lạ lùng là làm thế nào con người đã phản ứng rất khác biệt ở những giây phút khác nhau đối với cùng một tình huống. Đôi khi con có được sự phấn khởi của trẻ thơ. Con nhìn thấy tương lai rõ ràng. Con hiểu được những vấn đề. Con biết đường phải đi. Đôi mắt của con tập trung lại một cách rất bén nhậy. Hạt giống mọc lên và sinh hoa trái.
Nhưng lạy Chúa, tại sao con lại không thể nào luôn như vậy được? Đôi khi con thấy mình đang vật lộn với một vấn đề. Tuy nhiên, chỉ vì những chiếc cây mà con không thể nào thấy được cả khu rừng, vì những chi tiết nhỏ mà con không thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh. Rồi chẳng có sự gì đi đúng đường cả. Dường như con chẳng làm được gì, như thể những cây gai cỏ dại đang bóp chết sự sống của hạt giống.
Đôi khi sự thích thú hăng say ở trong con bùng dậy. Con bắt đầu nắm bắt được công việc. Bỗng nhiên tính tình thay đổi. Sự biếng nhác ngự trị bỏ lại lòng nhiệt thành trong quá khứ. Sự thích thú phai nhạt dần vì thiếu nước. Đôi khi con đi lang thang chẳng biết phải làm gì. Cuộc đời là những khoảng thời gian trôi qua vô vị…”
Chúng ta đã biết được sự phức tạp và hay thay đổi của tâm hồn mình. Vậy làm thế nào để tâm hồn chúng ta luôn luôn là những mảnh đất tốt?
54. Đón nhận Lời Hằng Sống
Mỗi ngày từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, ta được nghe nhiều lời nói. Có những lời nói được phát ra từ những chiếc radio. Có những lời nói được phát từ những máy truyền hình. Cũng vậy, có nhiều lời nói ta nhận từ những người mình gặp gỡ. Thậm chí, có những lời nói được truyền đi bằng những cử chỉ hay tín hiệu... Với những lời nói ấy, nếu như ta chỉ cần cố gắng nhớ hết thôi thì có lẽ không bao lâu ta bộ não của ta sẽ bị quá tải. Do đó, ta sẽ đón nhận và ghi nhớ những lời nói nào thật cần thiết và đem lại lợi ích cho mình. Cách riêng, với người Công giáo ta còn được nghe Lời Chúa dạy. Đó là những Lời Hằng Sống. Dưới ánh sáng đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau nhìn lại xem mình đã đón nhận Lời Hằng Sống đó như thế nào.
Chúa Giêsu tự ví lời của Ngài như hạt giống, còn tâm hồn mỗi người chúng ta là những mảnh đất. Vì thế sẽ có nhiều loại mảnh đất. Hạt giống chỉ sống và phát triển được nơi những mảnh đất tốt. Còn hạt giống sẽ khô héo và chết nơi vệ đường, nơi sỏi đá hay nơi có những bụi gai. Mảnh đất tốt là tâm hồn có thiện chí đón nhận và làm theo những lời dạy quý báu của Người. Cho nên, Người nói: "Ai có sẽ được cho thêm". Đó là những tâm hồn biết lắng nghe và thực hành lời dạy của Chúa. Từ những tâm hồn đó sẽ sinh hoa kết quả "có hạt được một trăm, hạt được sáu mươi và có hạt được ba mươi".
Ông bà chúng ta có dạy: "Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Ta cũng có thể sửa lại cho thích hợp với đoạn Tin mừng hôm nay: "Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nghe sao cho được sống". Chính Lời của Chúa mới đủ sức làm cho ta được sống dồi dào và hạnh phúc thật. Chúng ta nhớ chỉ vì không nghe theo lời Chúa nên tổ tông mình đã đón nhận hậu quả như thế nào. Chúa luôn luôn muốn cho chúng ta được sống nên mới có những lời dạy cặn kẽ và tỉ mỉ. Mỗi người chúng ta hãy làm thế nào để mảnh đất tâm hồn của mình luôn là mảnh đất tốt. Nhờ đó hạt giống Lời Chúa sẽ không uổng phí khi được gieo xuống trên ta.
Đồng thời, như chúng ta biết: "Chim khôn kêu tiếng rảnh rang. Người không nói tiếng dịu dàng dễ nghe".Chúng ta hãy dùng lời nói của mình để giúp ích cho người khác chứ đừng làm hại nhau.
55. Hạt giống Lời Chúa. Nảy sinh bao nhiêu hạt
(Suy niệm của Lung Linh)
Trích đoạn Tin Mừng chủ nhật 15 A theo Matthêu chương 13,23: “Kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục”.
Nhìn vào thực tế
- Là giáo lý viên suốt 6 năm qua, tôi đã dạy các em khá nhiều Lời Chúa. Tôi có cảm giác mình đạo đức hơn rất nhiều bạn trẻ khác. Nhưng Lời Chúa hầu như sinh hoa kết quả chẳng bao nhiêu…
- Trong cộng đoàn, mỗi tháng chia sẻ Lời Chúa một lần. Ai nấy đều hăng hái chia sẻ và lấy ra một sứ điệp chung. Hẹn tháng sau báo cáo kết quả. Trời ạ, sứ điệp chung trở thành làn khói bay lên trời. Bây giờ lấy gì chia sẻ đây!!! Hóa ra Lời Chúa hầu như chẳng sinh được trái nào…
- Là trưởng nhóm chia sẻ Lời Chúa hàng tuần suốt 8 năm qua…mỗi tuần một bài Tin Mừng. Như vậy là chúng tôi đã chia sẻ khoảng 400 lần. Ấy thế mà lạ thay, Lời Chúa hầu như sinh hoa kết quả chẳng bao nhiêu…
Tại sao lại xảy ra kết quả đáng buồn như vậy??
Có một vài lý do:
- Một số người cắt nghĩa Lời Chúa.
- Một vài người thích giảng giải Lời Chúa nghe có vẻ còn có lý hơn linh mục.!!!
- Một số người coi giờ chia sẻ Lời Chúa như là một bệnh viện…xin anh em cầu nguyện cho hết ơn này tới ơn khác… hết năm này sang năm khác…
- Cưỡi ngựa xem hoa. Lời Chúa tuần nay chưa kịp thấm thì Lời Chúa tuần sau đã đè lên dồn dập…cuối cùng là một mớ hỗn độn không sao tập sống được.
- Phân chia rõ ràng thành Ba ngôi riêng biệt: Chúa Cha khác Chúa con, khác với Chúa Thánh Thần rồi tranh luận om chí tỏi.. bất phân thắng bại…
- Bức tường ô nhục ngăn cách. Hầu hết chúng tôi chia sẻ Lời Chúa trong tâm tưởng mình chỉ là đầy tớ hèn mọn trước một vị vua cao sang quyền phép trên trời. Mình chỉ là phàm nhân yếu đuối tội lỗi trước vị Thiên Chúa ngàn trùng thánh đức... không thể nào bắt chước Chúa Giêsu được.
Vì thế, dù có chia sẻ hơn năm trăm lần đi nữa, chúng tôi sẽ mãi mãi như một chú đại bàng gà tội nghiệp không thể sải cánh đại bàng bay trên vùng trời cao rộng được.
Chúng tôi mãi mãi là những cành lúa lép xẹp không cách nào sinh hoa trái được.
- Bức tường ô nhục ngăn cách có lẽ là lý do căn bản nhất khiến hạt giống Lời Chúa vào tâm hồn tôi đành chết khô héo hoặc rất mau lụi tàn.
Chuyện minh họa: Đại bàng gà.
Có người nhặt được quả trứng đại bàng, đem bỏ vào ổ gà đang ấp trong chuồng. Chú đại bàng con nở ra và lớn lên cùng lứa với đàn gà con.
Cứ thế suốt đời đại bàng con chỉ làm những việc mà lũ gà con vẫn làm, và cứ tưởng mình là một gà con. Nó cũng bới đất tìm sâu bọ, cũng kêu chíp chíp như anh em gà.
Một hôm, ngước nhìn trời cao, nó trông thấy một con chim tuyệt đẹp bay phía trên trong bầu trời lồng lộng thênh thang. Với dáng vẻ uy nghi dũng mãnh, cánh chim ấy nhẹ nhàng băng giữa cuồng phong, chỉ lâu lâu mới khẽ nhịp đôi cánh vàng mạnh mẽ của mình.
Đại bàng gà kinh hãi buột miệng: “Trời! Cái gì vậy?”.
Lũ bạn gà tranh nhau trả lời:
“Đó là đại bàng - vua của các loài chim. Đại bàng thuộc trời cao, còn bọn mình thuộc về mặt đất. Bọn mình chỉ là một lũ gà vô danh tiểu tốt.”
Một buổi chiều man mát trong khu vườn xanh tươi, cả lũ gà đang tung tăng vui đùa, bỗng nhiên cả bọn láo nháo trốn chạy tán loạn. Đại bàng gà còn đang ngơ ngác thì vút một cái, nó đã nằm gọn trong vòng tay của bác đại bàng .Mở mắt ra, nó đã thấy mình ở tuốt trên đỉnh núi chót vót, rung rinh trên cành cây trên mặt hồ trong vắt thủy tinh.
Bác Đại bàng hỏi: Chú mày là gì?
Đại bàng gà trả lời với vẻ rất xác tín: Cháu là gà con.
Bác Đại bàng dứt khoát: Chú mày là đại bàng.
Đại bàng gà ngang bướng đốp chát: Không phải, từ bé, mọi người bảo cháu là gà. Có ai gọi cháu là đại bàng đâu.
Thôi được, thử nhìn xuống hồ nước mà xem, mặt mũi chú mày giống lũ gà con chết tiệt hay giống vẻ oai phong của ta.
Đại bàng gà nghiêng mình trên mặt hồ trong veo và cực kỳ ngạc nhiên, lần đầu tiên khám phá ra khuôn mặt đích thực của mình:
Thì ra cháu quả thật là đại bàng. Thế mà từ trước tới nay cháu cứ tưởng mình là tên gà con chết nhát.
Từ đó đại bàng gà tập sống đời đại bàng chính danh. Thời gian đầu tập bay quả là khó! Cả mấy tháng trời mới bay cao chừng một thước, rồi tháng này qua tháng kia, nó đã bay cao hơn.. Cuối cùng nó vui sướng tung bay trên bầu trời thênh thang tự do bất tận.
Nhìn xuống mặt đất, nó bỗng thấy hàng ngàn chú đại bàng gà vẫn còn nhọc nhằnbươi đất tìm giun dế. Nó biết mình phải làm gì để giúp đỡ anh em mình thoát khỏi cảnh tù túng, chật hẹp, để tất cả đều vui hưởng trong khung trời bát ngát, lồng lộng hoan lạc bình an và hạnh phúc.
Ai tưởng mình phàm hèn yếu đuối tội lỗi thì đích thực là một chú đại bàng gà chết tiệt.
Trở về chủ đề: làm sao Lời Chúa sinh hoa trái trong cuộc đời mình?
Có vài điều quan trọng:
1. Trước hết: Tôi chính là con của Chúa, đầy Thần khí sức mạnh của Ngài.
Chứ không phải yếu đuối, phàm hèn, tội lỗi…
Bao lâu vẫn còn mang tâm tưởng chết tiệt này...đừng mong sinh hoa kết trái.
2. Điều kiện để sinh hoa trái.
Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái, (Ga 15:5)
Rõ ràng là điều kiện để sinh hoa trái chính là nhận ra Chúa sống trong mình.
3. Nhưng hoa trái là gì vậy?
Quả thực là bí hiểm!! Trước kia tôi cũng hoàn toàn mù tịt không hiểu nổi sinh hoa trái là sinh cái gì vậy.
Rất khó định nghĩa giống như định nghĩa tình yêu.
Tuy nhiên theo cảm nghiệm, chúng tôi tạm hiểu sinh hoa trái có nghĩa là:
- Một cuộc sống dồi dào:
Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. (Ga 10:10)
- Giúp cho người khác được tái sinh trong Chúa...như là hoa trái thiêng liêng.
Trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em. (1Cr 4:15)
Thực vậy, trước kia chúng tôi cảm thấy cuộc sống đạo của mình cứ như thủy triều lên xuống không ngừng…lúc đạo đức, lúc khô khan…
Bình thường thì nóng chẳng ra nóng, lạnh chẳng ra lạnh…sống như người máy…
Nhưng sau khi nhận ra Chúa sống trong mình, chúng tôi sống rất vững vàng, bình an, dồi dào, tràn đầy…
Và qua những chia sẻ từ kinh nghiệm sống động xuất phát từ trong lòng mình… nhiều người cảm thấy có lý rồi áp dụng...
Quả nhiên, một thời gian sau, họ cũng nhận ra Chúa thực sự sống động trong lòng mình… nói cách khác, chính họ cũng sinh nhiều hoa trái thiêng liêng rất ngọt ngào…
Còn chuyện nảy sinh bao nhiêu hạt??
Dễ quá mà… ai càng dành thời gian để sống với Chúa trong lòng mình bao nhiêu… thì chính Chúa sẽ làm cho người ấy sinh hoa trái bấy nhiêu…
56. Tìm chân lý nơi Thiên Chúa - Lm Nguyễn Hùng
Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi xới lên, làm sạch cỏ, và cấy rau, trồng cây, trồng hoa. Mảnh đất đó trở nên một khu vườn thật đẹp. Một hôm ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua nói: "Khu vườn thật là đẹp! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó". Ông Tư trả lời: "Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây".
Trong bài Phúc âm, Chúa Kitô chỉ cho chúng ta thấy Lời Chúa là ơn huệ Chúa ban, là mạc khải cho ai tùy ý Chúa. Mặt khác, về phía con người cũng cần có sự chuẩn bị trong tâm hồn, cho trái tim. Lời Chúa, như một hạt giống, là tiềm năng chứa đựng sự sống. Sự sống đó cần có những điều kiện thích hợp để nảy nở phát triển. Nếu thiếu những điều kiện đó sự sống chấm dứt, Lời Chúa bị bóp nghẹt. Tâm hồn mỗi người có thể là một môi trường thích hợp cho Lời Chúa tăng triển và sinh hoa kết quả, và cũng có thể là môi trường bóp chết Lời Chúa.
Chúa đưa ra những trường hợp tiêu cực, tức là tâm hồn không có hoàn cảnh thích hợp cho Lời Chúa phát triển. Hoàn cảnh thích hợp cho Lời Chúa là tâm hồn thành thật muốn tìm chân lý, và sẵn sàng hy sinh, trả giá để sống theo chân lý. Chân lý về Thiên Chúa có giá trị tuyệt đối trong tâm hồn này. Vì thế người ta khao khát lời của Chúa và đón nhận nó với tất cả sự hăm hở cởi mở và sống theo lời đó với bất cứ giá nào.
Trong xã hội ngày nay, người ta không còn tin vào giá trị tuyệt đối của Thiên Chúa, của sự thật. Người ta sẵn sàng lừa đảo, gian dối để trục lợi. Thần tiền đang chiếm giữ địa vị tối cao trong xã hội. Người ta dễ dàng gian dối để kiếm thêm tiền. Những tâm hồn chỉ biết suy tôn tiền, tình, tài, rất dễ dàng bị lôi cuốn hay bị uy hiếp để chà đạp lương tâm, chối bỏ sự thật. Có người bình thản đi nhà thờ, rước lễ trong khi ăn gian nói dối để được tiền trợ cấp, hay để được thành công trong việc làm ăn.
Lời của Thiên Chúa không thể sống được trong tâm hồn như thế, nhưng trái lại bị bóp nghẹt, vì thế đời sống đạo của họ chỉ là một hình thức trống rỗng, một xác chết không hồn. Những thành công về tiền tài, danh vọng chỉ là những niềm hạnh phúc giả tạo. Khi phải trở về với lòng mình trong thinh lặng, người ta chợt thấy cuộc đời thật đáng ngao ngán vô ý nghĩa.
Chúng ta hãy tạo cho tâm hồn mình thành một môi trường thích hợp cho Lời Chúa sinh sôi, phát triển, làm phong phú cho cuộc đời. Chúng ta hãy thật lòng tìm kiếm chân lý nơi Thiên Chúa và cương quyết sống theo chân lý đó, dù phải hy sinh đến thế nào đi nữa, để chúng ta đổi lấy một mùa gặt ơn thánh dồi dào do Lời Chúa mang lại, nhờ đó chúng ta có một cuộc sống đầy tràn hạnh phúc.
57. Suy niệm của Lm. Trần Thanh Hải
Người công chính không bao giờ sợ sự dữ hay tỗi lỗi, cũng không bao giờ lo ngại sự rủi ro đang theo đuổi bên cạnh, bởi vì có Chúa giàu lòng từ bi nương tay bảo trợ và cầu thay nguyện giúp.
Hôm nay trong bài "Cỏ Lùng", mà chỉ do Thánh Matthêu viết lại, Chúa Giêsu bảo: "hãy để cỏ lùng mọc với lúa cho tới ngày gặt!" Các nhà nông nghe lời dạy này chắc là tái mặt. Có lẽ họ thầm nghĩ rằng: "ông Giêsu ơi, bào gỗ thì im im mà bào, đừng có dạy bậy bạ, chúng tôi biết phải làm gì rồi." Và có lẽ Chúa Giêsu sẽ trả lời họ rằng: "khổ quá các tiền bối nhà nông ơi, tôi không dám chỉ giáo các ông các bà, vì lúc trẻ tôi cũng từng nhổ mạ, cấy lúa, và nhổ cỏ lùng đến khòm cả lưng đây, chưa nói chi bị đỉa cặp nữa. Xin quý ông bà hiểu cho bài "Cỏ Lùng" chỉ là một bài dụ ngôn.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn "Cỏ Lùng" để nói với chúng ta hôm nay, nên chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa của bài dụ ngôn này theo nghĩa bóng chứ không theo nghĩa đen. Vậy Chúa Giêsu có ý gì khi Ngài dạy: "hãy để cỏ lùng mọc với lúa cho tới ngày gặt!" Hiểu theo nghĩa đen thì chúng ta không theo, bởi vì nếu để cỏ lùng mọc cho tới mùa gặt thì khi gặt chỉ có gặt cỏ! Còn theo nghĩa bóng chúng ta phải hiểu thế nào để giúp chúng ta sống đời Kitô Giáo hôm nay? Rõ ràng lời Chúa Giêsu dạy lúa tốt làm gì phải sợ cỏ lùng và sự làm hại của nó có nghĩa là chúng ta được sinh ra giống hình ảnh Chúa và còn được tái sinh trong ân sủng của Chúa, chúng ta đương nhiên là những người tốt cho nên chúng ta không nên sợ sự dữ hay tội lỗi.
Không sợ sự dữ hay tội lỗi nghĩa là không nên sợ ganh ghét, không nên sợ chửi bới, không nên sợ gian lận trộm cắp, không nên sợ đa nghi, không nên sợ tình dục hay ngoại tình, và càng không nên sợ khủng bố. Chúng ta cùng suy nghĩ xem: thông thường khi có chửi bới, hành hung, đánh lộn, nghi kỵ, lận lộn trong tình cảm, hay khủng bố là chúng ta tự nhiên bị chia rẽ, không nói chuyện với nhau nữa, cắt đứt quan hệ tình hữu, và tệ hơn nữa chúng ta nuôi cơn hận thù. Những khi như vậy là sự dữ đã chiến thắng chúng ta. Nghĩ lại điều này chúng ta cảm thấy nó quá vô lý, chỉ có một vụ hiểu lầm, cãi lộn, đánh nhau, tình cảm chia phối, hay làm một điều gì bất chính trong gia đình hay xã hội, mà tình cảm đậm đà của chúng ta bao nhiêu năm qua (mười, hai chục năm qua) bị phá huỷ sao. Sở dĩ có những trường hợp như vậy là vì chúng ta chưa ý thức được nhược điểm của sự dữ hay tội lỗi. Bởi vì chúng có nhược điểm, và nhược điểm của chúng mà chúng ta không để ý đó là chúng không có khả năng để làm hại con người. Sau đây tôi xin đưa ra hai lý do chính làm cho sự dữ hay tội lỗi bị bất lực.
Lý do thứ nhất mà khiến cho sự dữ hay tội lỗi bị bất lực hoàn toàn và không có khả năng làm hại con người đó là chúng bị tiêu diệt hoàn toàn. Theo Thánh Phaolô sự dữ hay tội lỗi đã bị Chúa của chúng ta, Giêsu, hủy diệt hoàn toàn tận gốc, ngay cả sự chết là kẻ thù cuối cùng, cũng đã bị tiêu diệt. Sự dữ hay tội lỗi bây giờ chỉ là ảo tưởng. Những ảo tưởng sự dữ này sẽ càng bị bất lực, không có chỗ đứng và bị mất dạng dần dần khi mỗi người chúng ta biết làm người như ta phải làm, tức là khi mỗi người chúng ta làm người tốt như hạt giống tốt, khi mỗi người Kitô hữu có khả năng bành trướng những bản tính tốt của chúng ta như men trong bột, như sự sinh trưởng của hạt cải. Giống Chúa Giêsu đã nói: "ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm". Nhưng để làm người tốt mãi mãi chúng ta cần có Chúa hiện diện bên cạnh và trợ giúp chúng ta. Điều này dẫn đến nhược điểm thứ hai của sự dữ hay tội lỗi.
Lý do thứ nhì khiến cho sự dữ và tội lỗi bị bất lực mà chúng ta không nên sợ là khi chúng ta những người Kitô hữu có Chúa; khi Chúa là trung tâm và là yếu tố cần thiết trong cuộc sống thiêng liêng chúng ta. Thánh Phê-rô đã từng thú nhận: "không có Chúa con biết theo ai". Chúng ta tin rằng Chúa hằng ở với chúng ta mọi nơi mọi lúc, trong các giờ kinh nguyện, và đặc biệt trong phụng vụ và thánh lễ. Trong thánh lễ chúng ta rước Chúa Kitô thì chúng ta trở nên thân thể của Chúa Kitô, lúc đó chúng ta chắc chắn 100% là Chúa ở cùng chúng ta. Có nghĩa là chúng ta có Chúa.
Thêm vào đó trong bài đọc hôm nay Thánh Phao-lô còn cho chúng ta biết là Chúa Thánh Thần hằng ở với chúng ta trong lúc cầu nguyện. Chúa Thánh Thần giúp ta cầu nguyện ngay trong lúc ta không biết nói gì. Nhân tôi xin chia sẻ rằng: chúng ta không nên mắc cỡ cũng không nên cảm nghiệm khô khan không có Chúa khi chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào. Theo thư Thánh Phao-lô hôm nay người Công Giáo Rôma ở thế kỷ thứ Nhất cũng đâu có biết phải cầu nguyện thế nào cho xứng hợp, cho toả nguyện ý của họ. Nhưng để biết chắc Chúa Thánh Thần cầu giúp ta trong cầu nguyện chúng ta cầu nguyện theo Lời Chúa. Cách cầu nguyện theo trong Kinh Thánh là cầu nguyện theo ý Chúa Thánh Thần bởi vì Kinh Thánh đã được viết dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, và Thánh Kinh thì nói về Chúa Kitô, cho nên cầu nguyện theo Kinh Thánh chúng ta tin chắc lời nguyện của chúng ta sẽ hợp ý của Chúa.
Cầu nguyện nói lên một sự liên hệ cần thiết giữa ta với Chúa, và chúng ta sẽ cảm nghiệm được Chúa hiện diện bên ta cách mật thiết như người bạn. Sự hiện diện của Chúa với ta theo như Đức Hồng Y Thuận đã viết trong cuốn Chứng Nhân Hy Vọng là "không phải một sự hiện diện tĩnh, hay chỉ có mặt ở đó thôi, nhưng là một sự hiện diện tương giao, một sự hiện diện gõ cửa tâm hồn". Nếu chúng ta thật sự mở tâm hồn ra cho Chúa trong cầu nguyện, thì làm sao mà chúng ta cảm thấy không có Chúa bên cạnh được. Và khi có Chúa nhân hậu, khoan dung và giàu lượng từ bi bên mình, chúng ta không còn phải sợ sự dữ hay tội lỗi nữa. "Có Chúa ở cùng tôi, tôi chẳng sợ gì, hỏi người đời làm chi tôi được? Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ, tôi dám nghênh lũ địch thù tôi"(Tv 117).
Mặc dầu chúng ta sống giữa ảo tưởng của sự dữ hay tội lỗi nhưng chúng ta không hề bối rối, không hề nao núng vì chúng đã bị đánh bại, và chúng ta đã có Chúa bên mình phù trì và nâng đỡ. Ngay cả lúc chúng ta lỡ lầm lỗi, có ơn Chúa, chúng ta sẽ chạy đến với Ngài, thống hối và thú nhận thì được tha thứ. Thiên Chúa từ bi và nhân hậu của chúng ta không bao giờ muốn một ai trong chúng ta bị xa lìa tình thương của Ngài hay bị hư mất, như sách Khôn Ngoan hôm nay dạy "Chúa chăm sóc mọi loài".
58. Hạt giống yêu thương
Khi ĐGM. Fulton Sheen thuyết giảng trước công chúng, giải thích về ngôn sứ Giona và sứ mạng của ông. Thì từ trong đám thính giả có một người luôn tìm cách quấy phá. Anh ta tỏ sự hoài nghi, liệu Thiên Chúa có làm cho Giôna còn sống sau ba ngày nằm trong bụng cá hay không.
- Vì quá mệt mỏi, ĐGM nói: "Bạn hãy quên điều ấy đi! Tôi sẽ hỏi Giôna khi tôi lên thiên đàng."
- Anh ta hỏi lại: "Nếu ông Giôna không có trên ấy thì sao?"
- ĐGM nói: "Thì chính anh sẽ hỏi ông ấy."
Thật vậy, cùng một nội dung của câu chuyện, của một bài giảng, nhưng thái độ của người nghe đón nhận cách khác nhau. Người thì tâm đắc, người thì hờ hững, kẻ chống đối. có người nghe như "nước đổ lá môn"; nghe như "Bò nghe Radio". Có người nghe trong hoài nghi, chất vấn.
Trong cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu cũng thế, trước tình trạng hờ hững, vô tâm của dân chúng, để bắt đầu cho một loạt bài giảng bằng dụ ngôn của mình, Đức Giêsu đã dùng một số hình ảnh rất thân quen, và bình dân để truyền tải sứ điệp của Thiên Chúa. Như trong bài Tin Mừng hôm nay, dụ ngôn "người gieo giống" muốn nói lên ý nghĩa, và tầm quan trọng của Lời Chúa, và khơi dậy thái độ của thính giả khi nghe lời Người giảng dạy.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, nhắc nhở cho ta về giá trị của Lời Chúa. Lời Chúa là hạt giống tốt, được gieo vãi khắp nơi, Thiên Chúa rất quảng đại khi ban Lời của Ngài. Còn kết quả thì tuỳ thuộc vào người nghe, tuỳ thuộc và mỗi người chúng ta. Chính mảnh đất tâm hồn của đời tôi sẽ quyết định cho số phận của Lời Chúa.
Hạt giống là lời Thiên Chúa, thửa ruộng là tâm hồn của những người nghe.
Dụ ngôn còn phân biệt bốn loại đất, bốn cách đón nhận:
- Có kẻ nghe bằng đôi tai hờ hững, vì hiếu kỳ hoặc vì xã giao rồi quên ngay. Đó là đất bên vệ đường.
- Có kẻ thì biết lắng nghe, nhưng vì nhẹ dạ, thiếu kiên nhẫn, dù một chút khó khăn cũng đủ làm cho họ bỏ cuộc. đó là đất sỏi đá.
- Có kẻ muốn bước theo chân lý, nhưng bị danh vọng, tiền tài, khoái lạc... đã kéo họ ra xa. Đó là đất đầy gai góc.
- Chỉ có những tâm hồn thấu hiểu, sống và thực thi lời Ngài, thì hạt giống Lời Chúa mới tồn tại và phát triển trên mảnh đất tốt. Đó là ý nghĩa của lời Chúa hôm nay. Giờ đây, tôi xin được chia sẻ thêm một tư tưởng khác, đó là: "Lời Chúa là hạt giống yêu thương". Sở dĩ tôi gọi Lời Chúa là Hạt giống yêu thương, vì chính Thiên Chúa đã gieo một cách hào phóng, không so đo, tính toán hơn thiệt. Gieo một cách phung phí: bất kể chim trời, gai góc, và đá sỏi. Còn hơn thế nữa, chẳng những Thiên Chúa đã gieo bằng Lời mà Ngài còn gieo cả mạng sống của Con Một rất yêu dấu của Ngài. Và Con của Ngài đã trao ban cho chúng ta đến giọt máu cuối cùng còn đọng lại trong tim. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. khi yêu, Thiên Chúa muốn ta đáp lại tình yêu ấy: "Tình yêu mời gọi tình yêu, tình yêu đáp trả tình yêu".
Mỗi người chúng ta cũng là người gieo giống, hạt giống chúng ta mang đi gieo thiết yếu là hạt giống yêu thương, cho dù không được đáp trả bằng yêu thương, nhưng chứng ta vẫn cứ gieo. Cho dù thuận tiện, hay không thuận tiện; dù sỏi đá, chông gai, dù phong ba bão tố. hãy Cứ gieo! Như trong bài đọc I, lời Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia như thế này: "Mỗi khi lời phát xuất từ miệng Ta, sẽ không trở về với ta nếu chưa đạt kết quả." Thiên Chúa muốn ta gieo lời của Ngài, bằng cách là nghe và thực thi Thánh Ý.
Để gieo yêu thương cho mọi người, trước hết chúng ta hãy dọn mãnh đất tâm hồn mình và ươm mần yêu thương. Bằng cách là hãy dẹp bỏ những sỏi đá cộc cằn, cứng cỏi. nhổ sạch mọi gai góc kiêu căng ích kỷ; hãy quên đi lối sống hưởng thụ, xoá mọi hận thù, bất công. Có như thế, thì hạt giống lời Chúa mới nẩy mầm, bén rễ và vươn xa.
Mỗi hành động yêu thương mà chúng ta làm cho người khác là một hạt giống chúng ta gieo: Hạt giống thân thiện của nụ cười; hạt giống yêu thương của một nghĩa cử đẹp, một lời nói dễ nghe. Chính những cử chỉ xem ra bình thường nhưng lại có một giá trị phi thường, mà câu chuyện sau đây sẽ nói lên điều đó:
Anh chàng Hans có khuôn mặt rất dị dạng, khó coi. Nên bị dân làng xa lánh, khinh miệt. anh sống trong cô đơn và chết trong lặng lẽ. dân làng chẳng ai quan tâm đến cái chết vô danh ấy.
Thế nhưng, ít lâu sau đó, người ta đã tìm thấy tờ di chúc của anh. Hans đã ký để lại một gia tài lớn: 40.000 Đôla cho em bé gái Amatin, vốn chẳng có quan hệ họ hàng gì với anh. Trên tờ di chúc người ta đọc thấy lý do sau đây: "Mọi người đã cau mày, quay mặt mỗi khi gặp tôi. Còn em bé Amatin đã âu yếm tặng tôi một nụ cười khả ái, đầy tình thương. Đó là nụ cười duy nhất mà tôi đã nhận được trong suốt quãng đời đau khổ của mình." (Giấc mộng vàng)
Một nụ cười giá 40.000 đôla, hơn thế nữa, một nụ cười đã đem lại hạnh phúc cho cả một đời người. một nụ cười đã lấy lại giá trị cho cả cuộc sống hầu như vô giá trị.
Qua câu chuyện trên, mỗi người hãy tự vấn lại lương tâm của chính mình: Có bao giờ tôi tỏ ra cử chỉ thân thiện với người mà tôi không ưa thích; Có bao giờ tôi nói tiếng "xin lỗi" với người ăn xin, khi ta không có gì cho họ hay không? Có một giai thoại đầy tình người của nhà văn Tonxtoi như thế này: một hôm nhà văn Tonxtoi gặp một người ăn xin, ông đã nói "xin lỗi người anh em" ăn xin của mình. Người ăn xin cảm động nói: "Thưa ông, ông đã cho tôi cái mà chưa có ai cho tôi bao giờ. Đó là ông đã coi tôi như người anh em của ông".
Tóm lại, chúng ta đã nhận được tình yêu từ Thiên Chúa, thì bằng mọi cách hãy gieo yêu thương vào xã hội này, một xã hội còn nhiều bất công, tranh chấp, và hận thù. Chúng ta hãy bắt chước lòng quảng đại của người gieo giống trong dụ ngôn, là chính Thiên Chúa, để tất cả hạt giống chúng ta gieo là những cử chỉ, thái độ, việc làm yêu thương đều đơm bông kết trái. Và có như thế, cuộc sống này, xã hội hày, thế giới này càng ngày càng tốt đẹp hơn. Amen.
59. Gieo giống
Jerry Anderson khi còn trẻ rất thích đi săn vịt, và qua hình ảnh của những con vịt đi kiếm mồi, ông đã diễn tả đời sống của các Kitô hữu như sau: Vào mùa thu, khi gió lạnh từ hướng bắc thổi về, ông lấy những con vịt mồi bằng gỗ ra, lau chùi sạch sẽ, và móc những cái mỏ neo mới vào những con vịt mồi này. Khi mùa săn vịt đến, ông đã sẵn sàng. Theo ông Anderson hiện nay, những con vịt trời là những con vịt hoang sống ở các đầm lầy. Chúng bơi lội xung quanh chỗ nước cạn và kiếm ăn ngay trên những đám cỏ mọc lên ở đầm lầy. Chúng chỉ ăn những lương thực kiếm được trên mặt nước mà thôi. Dù vậy, thỉnh thoảng, ông cũng đã nhìn thấy những con vịt lặn lỏn vào trong những con vịt mồi. Chúng lặn sâu xuống đáy ao để tìm mồi, kiếm ăn trên những thảo mộc, rong rêu mọc lên từ dưới đáy hồ.
Ngày nay, trong những cách thức nào đó, Anderson nói, những người Kitô hữu giống như những con vịt đó. Một số là những con vịt cạn ở đầm lầy, thỏa mãn với phần lương thực họ kiếm được trong những chỗ cạn của đời sống Kitô hữu. Những người khác là những con vịt lặn. Họ lặn rất sâu vào trong Lời Chúa qua sự học hỏi nghiên cứu Thánh Kinh, suy niệm, và tham gia vào trong đời sống và công việc mục vụ của Giáo Hội. Lời Chúa phát sinh hoa trái phong phú trong đời sống của họ.
Ngày 6 tháng 7 năm 2002, kỷ niệm một trăm năm ngày vị thánh nữ trẻ Maria Goretti tuyên xưng tình yêu và lòng can đảm trung thành với Chúa Giêsu. Lên mười tuổi thánh nữ rước lễ lần đầu với tất cả lòng yêu mến Chúa Giêsu. Ba tháng trước khi mừng sinh nhật thứ 12, một người hàng xóm tên là Alessandro Serenelli đã cố hãm hiếp thánh nữ. Maria từ chối và kháng cự quyết liệt. Alessandro đã dùng dao đâm nhiều nhát vào người Maria. Ngày hôm sau, ngày 6 tháng 7 năm 1902, thánh nữ đã qua đời trước khi tha thứ cho kẻ đã cố tình hãm hiếp và giết người. “Phải, vì tình yêu của Chúa Giêsu tôi tha tội cho anh và tôi muốn anh cùng ở với tôi trên thiên đàng”. Mang đầy tủi nhục, đớn đau và bị mọi người xa lánh, Alessandro đã bị kết án vào tù. Tuy nhiên, hạt giống tha thứ và yêu thương Maria đã gieo vào tâm hồn anh đã dần dần phát sinh hoa trái. Anh đã cảm nghiệm được ơn trở lại. Sau 27 năm tù, ngay sau khi được thả ra anh đi thẳng đến nhà mẹ của Maria để xin lỗi, đồng thời cùng với bà đi tham dự lễ Giáng sinh, anh đã bước lên trước mặt cộng đoàn, xác nhận tội lỗi của mình, và van xin sự tha thứ của Thiên Chúa, cũng như của cộng đoàn. Chính anh đã đứng ra làm chứng để phong thánh cho Maria Goretti. Ngày 24 tháng 6 năm 1950 anh đã đứng ở quảng trường thánh Phêrô khi Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố Maria Goretti là một vị thánh. Sau cùng, Alessandro Serenelli đã chết vào ngày 6 tháng 5 năm 1970 trong tu viện Capuchin nơi anh đã xin vào làm vườn để ăn năn đền tội và cầu nguyện.
Xưa kia Mẹ têrêsa thành Calcutta đã phải làm sự lựa chọn như vậy. Lúc mới bước vào đời sống tu trì, Mẹ Têrêsa chưa bắt đầu giúp đỡ người nghèo khổ ngay. Khoảng trên 20 năm Mẹ đã dạy học cho con cái của những người giầu có nhất ở Calcutta, An Độ. Mỗi ngày Mẹ nhìn xuống xóm nhà nghèo bẩn thỉu và dân chúng sống chen chúc ngoài đường phố xung quanh những người giầu có nơi Mẹ làm việc. Mẹ hài lòng với cuộc sống của mình. Cho đến một đêm, Mẹ phải đi bộ về nhà và nghe thấy tiếng rên rỉ của một người phụ nữ kêu xin giúp đỡ. Nhận ra tình trạng nguy kịch của bà, Mẹ Têrêsa vội vã đưa bà vào một nhà thương gần nhất. Đến nhà thương, người ta bảo mẹ phải ngồi chờ. Mẹ biết rằng người phụ nữ có thể chết nếu không được săn sóc thuốc thang ngay lập tức, do đó Mẹ lại đưa bà vào một nhà thương khác. Một lần nữa Mẹ lại bị từ chối. Người phụ nữ thuộc về giai cấp bị bỏ quên trong xã hội. Trong tuyệt vọng, Mẹ đã đưa bà về nhà. Đến khuya bà đã ra đi êm ái trong cánh tay yêu thương của Mẹ Têrêsa. Đêm hôm đó, Mẹ Têrêsa đã khẳng định rằng từ nay trở đi điều này sẽ không còn bao giờ xảy ra nữa cho bất cứ ai Mẹ đã gặp, Mẹ đã quyết định dâng hiến đời mình để thoa dịu vết thương của những người đang chịu đau khổ xung quang Mẹ. Dù sống hay chết, họ phải được cư xử xứng đáng với phẩm giá của con người. Mẹ sẽ làm mọi sự trong quyền hạn của mình để họ phải được cư xử tốt đẹp hơn với tình yêu và sự kính trọng mà tất cả mọi người đáng được hưởng.
Nói tóm lại, để trở nên đất tốt, Giáo Hội khuyên chúng ta hãy sống xứng đáng với đời sống Kitô hữu bằng việc tuân giữ: “Mười điều răn, Bài giảng trên núi và giáo lý của các tông đồ vạch ra cho chúng ta những con đường dẫn tới nước trời. Chúng ta tiến từng bước trên con đường này, bằng những hành vi thường nhật, được nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nhận lấy hạt giống lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội, cho vinh quang của Thiên Chúa”.
60. Mảnh đất tâm hồn
Thân xác con người muốn được khoẻ mạnh thì cần phải được dinh dưỡng cách đầy đủ và hợp lý. Tâm hồn người tín hữu cũng vậy, cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Mình Chúa để được lớn lên trong ân sủng là kết hợp với Chúa. Và sống thánh chính là như thế!
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, đâu phải lúc nào chúng ta cũng dễ dàng đón nhận Lời Chúa, để sinh hoa kết trái trong đời sống thiêng liêng, vì theo như dụ ngôn, bốn mảnh đất mà hạt giống Lời Chúa được gieo, thì có đến ba là nhằm vào đất xấu. Tâm hồn chúng ta thuộc mảnh đất nào hay nói cách khác chúng ta có tâm tình nào, thái độ nào trong việc đón nhận và sống Lời Chúa?
- Mảnh đất lề đường khiến hạt giống rơi xuống bị chim chóc đến ăn mất là những kẻ nghe Lời Chúa mà không hiểu tức là những người không có thái độ sẳn sàng như tiên tri Isaia nói: "Vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành" (Is 6,9-10). Chúng ta đã thấy nhiều dấu chỉ của Thiên Chúa trong đời sống, nghe nhiều lần lời Tin Mừng, nhưng những lời của Chúa như "nước đổ lá môn" chẳng có tác động gì đến chúng ta, ta như người không hiểu. Thái độ dửng dưng làm cho tâm hồn chúng ta xơ cứng không ăn năn hối cải, không thiết tha làm điều lành.
- Mảnh đất sỏi đá khiến hạt giống không thể đâm rễ sâu, phải chết khô héo khi gặp nắng nóng là thái độ hồ hởi nhất thời, là những xúc cảm mau qua, khi nghe Lời Chúa, để rồi những quyết tâm thay đổi, những dự tính tốt lành, đều bị mai một trước khi bắt tay hành động, vì những bận rộn đời thường, vì ánh mắt soi mói của người khác...Chúng ta có thời giờ cho tất cả, nhưng thiếu thờ giờ cho Chúa và phần rỗi linh hồn của mình. Chúng ta chọn cái mau qua mà bỏ qua điều vĩnh cửu là hạnh phúc đời đời!
- Mảnh đất gai góc bóp nghẹt khiến Lời Chúa không sinh hoa kết quả, chính là thái độ thiếu trung tín, thiếu quyết tâm của chúng ta, do những lo lắng trần thế, những yêu sách của cuộc sống thường nhật, đưa chúng ta vào tình cảnh, tuy không bỏ Chúa, nhưng đặt Chúa vào hàng thứ yếu trong cuộc đời và Thiên Chúa dần bị quên lãng khỏi tâm hồn chúng ta!
- Mảnh đất tốt là những ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành; đó chính là những tâm hồn quảng đại, biết đáp trả những lời dạy của Chúa bằng cách sống theo đường lối của Người, bất chấp những trở ngại khó khăn cách nầy hay cách khác, luôn tín thác vào Chúa. Chính mức độ yêu thương, khiến chúng ta bỏ mình, bỏ những quyến rũ trần thế, để sống cho Chúa, mới quyết định chúng ta đang ở trong tình trạng thâm giao với Chúa như thế nào. Niềm vui sâu xa được thuộc về Chúa và anh em mình, chính là ân huệ lớn lao mà Chúa ban cho những ai dấn bước trung kiên theo Ngài và đó cũng chính là điều mà mỗi người chúng ta phải khiêm tốn cầu xin mỗi ngày.
Xin cho tâm hồn chúng con là mảnh đất tốt, sẳn sàng đáp trả lời mời gọi dấn thân cho Chúa. Amen.
61. Xuống đây mau, con ơi!
"Sailbad Kẻ Tội Lỗi" chính là tên của một chiếc tàu buồm của Mục Sư Baptist, ông Jess Moody. Ngày nọ, Moody và con ông căng buồm tại cảng Florida Everglades và thả buồm lung tung đến gần Palm Beach Inlet. Moody kể lại câu chuyện như sau:
Cuộc hành trình hết khoảng 25 phút từ cảng Florida Everglades đến cửa biển Palm Beach Inlet. Trong khi chúng tôi tiến gần đến cửa biển, tôi thấy con trai tôi, Pat, đang đứng dạng chân trên boong tàu. Boong tàu chính là phần trên cùng của chiếc tàu, được gọi là "rầm néo buồm." Nó chính là chỗ mà "các hải tiêu" thời xưa trên những chiếc thuyền buồm vĩ đại cảnh tỉnh thuyền trưởng và các thủ thủy bạn những nguy hiểm trước mặt. Đây chính là chỗ ưa thích nhất của con trai tôi. Nó luôn lên đó mỗi khi chúng tôi thả buồm ra cửa biển. Những làn sóng nhỏ cũng như dữ dội luôn là những gợi kích thích cho nó. Lần này, khi chúng tôi ra đến cửa biển, tôi thấy sóng biển dữ dội hơn những khi tôi vẫn thường thấy. Sóng biển dâng đến 6 ft cao và đang ập đến chúng tôi. Ngay lúc đó, tôi nhận thức ra rằng Pat vẫn còn đứng trên boong tàu.
"Xuống đây mau, con ơi!" Tôi la lên trong sóng gió. Nó cố làm theo lời tôi nhưng vì dữ dội quá khó mà làm đúng được. Như thế, nó cứ bám chặt lấy boong tàu. Một luồng sóng lớn ập đến tạt mạnh vào người tôi. Pat vẫn bám chặt -- thế nhưng vẫn còn những làn sóng dữ dội hơn đang ập đến. Chúng tôi đang trong tình trạng thật nguy hiểm. Tôi không thể quay đầu lại được vì cửa biển nhỏ và nhiều đá quá. Và đứa con trai duy nhất của tôi sắp sửa rơi xuống biển cả -- trong khi không mặc áo phao. Nó có thể bị lùa đập vào đá hay bị cá mập hoặc cá nhồng đớp. Tôi thấy chân của nó bị chảy máu nhè nhòa. "Lạy Chúa, xin hãy cứu giúp con trai của con," tôi nài xin. Trong khi có thể tiến ra khỏi cửa biển để vào chỗ nước dịu, chiếc tàu phải lướt với những làn sóng lớn. Hai hay ba làn sóng lớn nữa sẽ có thể đưa chúng tôi đến chỗ nước an toàn. Thằng con trai 13 tuổi của tôi đã mệt nhòa. Chúng tôi lướt với hai làn sóng lớn dữ dội và chiếc tàu cũ đã ra khỏi cửa biển. Pat trèo xuống khỏi boong tàu và khập khễnh lê đến chỗ tôi. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau trong thinh lặng. Sau đó, nó nói với tôi một điều mà người cha giảng thuyết của nó không bao giờ có thể quên được. "Ba ơi, con chưa bao giờ biết thật đứng trên boong tàu nguy hiểm dữ dội như vậy."
Con trai của Jess Moody không phải là người duy nhất khám phá ra điều đó. Đứng trên giảng đài để loan báo Tin Mừng Phúc Âm cũng nhiều lúc thật nguy hiểm, như Chúa Giêsu đã khám phá ra 2000 năm trước. Trong Phúc Âm Thánh Luca, có một câu chuyện mà trong đó Chúa Giêsu giảng dạy vào Ngày Sabbath trong một hội đường tại thành Nazareth, nơi mà Chúa lớn lên. Trong bài giảng, các người trong hội đường trở nên căm phẫm đến nỗi họ phải trục Ngài ra khỏi hội đường và đòi hành hình Ngài. Theo lời Thánh Luca: "Họ đứng dậy và kéo Ngài ra khỏi thành; và điệu Ngài đến tận triền núi nơi thành họ được xây cất, có ý xô Ngài xuống" (Lc 4,29-30).
Các bạn thử nghĩ coi Chúa Giêsu đã nói những gì mà gây lên lòng căm phẫm đó? Ngài nói với họ, trong thực tế, Thiên Chúa không thiên vị ai; tình thương và lòng xót thương của Thiên Chúa đổ tràn trên mọi người và mọi nơi -- ngay cả trên kẻ thù nữa. Chính Chúa Giêsu, hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, và tất cả những vị giảng thuyết thuở đầu Giáo Hội, cùng truyền đến cho những vị rao giảng sau này qua mọi thời đại sự rao truyền Phúc Âm là một vấn đề khó khăn và nguy hiểm đến tính mạng. Và mãi đến ngày nay, thực thi chân lý Phúc Âm của tình yêu Thiên Chúa với mọi người trên bục giảng này có thể là nơi chắc chắn nhiều hiểm họa.
Dân Israel, ngay từ khởi đầu, giải thích địa vị "Dân Tuyển Chọn" như là dấu chỉ của đặc ân, hành vi sủng ái của Thiên Chúa. Họ bám lấy ý niệm rằng Thiên Chúa yêu thương họ nhiều hơn Ngài yêu thương các dân khác trên thế giới. Ngài vẫn thương ban cho họ nhiều hơn. Như chúng ta biết, sự kiện này dẫn đến chủ nghĩa dân tộc ích kỷ, chủ nghĩa yêu nước mù quáng, loại kiêu ngạo dân tộc mà Thiên Chúa, qua các tiên tri, vẫn hằng lên án. Thế nhưng Tiên Tri Isaiah và nhiều Tiên Tri Cựu Ước thấu hiểu rằng Dân Israel là Dân Tuyển Chọn của Thiên Chúa không theo nghĩa đặc ân, nhưng theo nghĩa trách nhiệm đặc biệt. Isaiah diễn tả nó như là trách nhiệm của Dân Israel phải trở nên "ánh sáng cho mọi dân tộc."
Các ký giả Tân Ước đoan chắc rằng Dân Israel đã thất bại trong việc thực thi bổn phận này; rằng họ đã đi đến con đường của toàn quốc thờ ngẫu tượng; rằng các Tiên Tri đã cố kêu gọi họ hết lần này đến lần khác trở về và họ đã không biết quay về. Và như thế Thiên Chúa là Chúa Vĩ Đại đã mang đến một "Dân Tuyển Chọn" mới và một "Quốc Gia Tuyển Chọn" mới: Dân Cộng Đồng Của Đức Kitô. Ngay từ khởi đầu Giáo Hội đã nghe được điểm này! Các con giờ đây là Dân Tuyển Chọn của Ta. Bất cứ các con ở đâu, trong bất cứ quốc gia nào -- các con chính là Dân Ta. Ngay từ khởi đầu, Giáo Hội Kitô Giáo đã nghe được điểm này rõ ràng như là lời mời gọi cho bổn phận, chứ không phải là đặc ân nữa.
62. Sinh lợi
Nét đặc trưng của người Công giáo là sống niềm hy vọng và sống niềm tin vào một tương lại huy hoàng dành cho mình ở cuối cuộc hành trình. Niềm hy vọng mà người Kitô hữu đang mang trong mình hoàn toàn khác với những mơ mộng hão huyền trong một lối sống dễ dãi mà nhiều người vẫn ước mong. Bởi lẽ, niềm hy vọng của người Kitô hữu thôi thúc họ sống trọn vẹn ơn gọi làm người của mình song song với bổn phận làm con Chúa: sống đúng phẩm giá của mình và tôn trọng phẩm giá của người khác. Niềm hy vọng của người tín hữu Chúa Kitô chính là niềm hy vọng của người gieo hạt giống vào mảnh đất tốt mà mình đã ra công dọn dẹp kỹ lưỡng, hết lòng chăm sóc cho hạt giống ấy lớn lên và chờ mùa thu hoạch. Đó là niềm hy vọng rất thực và kết quả hầu như đã rõ ràng.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, Thiên Chúa rất rộng rãi và hào phóng trong việc trao ban Lời hằng sống của Ngài cho con người. Ngài vẫn biết khi ban phát Lời như thế thì sự thất bại rất cao. Nhưng Ngài vẫn hy vọng có những tâm hồn thành tâm thiện chí đón nhận Lời Ngài và hết lòng chăm lo để Lời ấy được lớn mạnh và sinh lợi cho Ngài.
Trong bài đọc một, Tiên tri Isaia cho thấy sức mạnh và công dụng của Lời khi Thiên Chúa sai Lời ấy vào trần gian này. Lời Chúa sẽ hoàn thành sứ mạng ban sự sống cho con người và hoàn tất ý định của Thiên Chúa.
Tâm hồn của mỗi người chúng ta chính là thửa đất mà Thiên Chúa sẽ gieo Lời của Ngài vào đó. Chúng ta tin chắc rằng, không một thửa đất tâm hồn nào của con người hoàn toàn là sỏi đá, hay hoàn toàn gai góc hay hoàn toàn là đất tốt cả.
Nó trở thành sỏi đá là vì chủ của nó không đào xới, không canh tác nó và nhiệt tâm vào việc sử dụng nó cho những mục đích tốt đẹp.
Nó trở thành gai góc cũng tại vì chủ nó không quan tâm đủ và không cương quyết nhổ sạch gai góc khi chúng mới bén rễ vào đó, hoặc đôi khi vì chủ nó đem cỏ và gai góc về trồng.
Nó có trở thành đất tốt thì cũng chính nhờ chủ nó hết lòng cày xới, vun bón và quan tâm đến nó.
Ở trong tội lâu ngày sẽ mất ý thức về tội; để cho dịp tội đến gần ắt sẽ có ngày phạm tội. Không một tội lỗi nào của con người mà không do những lần làm quen với dịp tội. Lương tâm của con người vốn là do Thiên Chúa dựng nên để giúp con người phản tỉnh khi có những sai lầm trong cuộc sống. Nhưng lương tâm ấy sẽ chai lì và lệch lạc nếu không được đào luyện mỗi ngày dưới ánh sáng của Lời Chúa.
Trước đây Giáo hội Việt Nam còn buộc nhặt việc kiêng thịt ngày thứ sáu. Có một ông giáo dân nọ vào quán ăn trưa. Ông biết quán ăn đó có món cá, nhưng ông thích ăn thịt hơn. Vừa kéo ghế ngồi, ông liền gọi một loạt tên các thứ cá mà ông biết chắc là chẳng bao giờ có: "cho tôi một đĩa cơm cá Sấu!". Chủ quán đáp "không có". Vậy thì một đãi cơm cá Voi đi. Chủ quá cũng vội đáp lại "không có" Thế rồi ông ta tự nhủ: "Lạy Chúa, Chúa biết cho con, con đã làm hết sức, đã gọi nhiều thứ cá mà không có. Thôi con đành phải gọi một đĩa cơm thịt bò để ăn trong ngày thứ sáu kiêng thịt vậy". Cầu nguyện xong, ông ta thi hành liền. Đúng theo sự dàn xếp của lương tâm.
Đời sống đức tin của người tín hữu chỉ có thể tăng trưởng về lòng tin, cậy, mến vào Thiên Chúa khi họ biết nỗ lực đáp trả mỗi ngày với lòng tín thác chân thành và một lương tâm ngay lành. Lẽ tất nhiên là khi hết lòng sống theo Lời Chúa, con người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và bắt bớ. Nhưng như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc 2 hôm nay trong thư thứ 2 gửi tín hữu Côrintô: " Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta" (Rm 8,18). Đó là niềm hy vọng lớn lao nhất của người tín hữu Chúa Kitô. Chúng ta tin tưởng và được khích lệ vì đã có biết bao con người mang trong mình niềm hy vọng để sống niềm tin và họ đã chiến thắng.
Chúng ta đã quá biết về mẫu gương của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, một con người sống niềm hy vọng vào Đức Giêsu trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cuộc sống con người, trong cảnh tù ngục tăm tối và nhơ nhớp. Ngài đã việt: "mỗi cuộc đời là một huyền nhiệm, muôn nghìn nổi gian truân thử thách. Ức triệu lòng dũng cảm kiên cường. Trước gieo trong nước mắt, sau gặt trong hân hoan... Ngày ngày con sống và làm cho người khác thích sống như con: sống cầu nguyện, sống thanh bần, sống phó thác, sống dồi dào nội tâm, sống giây phút hiện tại. Có Thánh Thể, có thiên đàng trong con. Tình yêu của Chúa chẳng phai tàn. Ở đâu có Chúa, con không thiếu chi. Ai dũng cảm, hãy bước đi... Dưới chân Thánh giá Chúa đang đợi chờ, Chúa trông con ở đó mỗi giờ. Đấy là điểm hẹn dành cho bạn tình".
Sống trong hy vọng, con người sẽ tìm ra một sức mạnh phi thường để vượt qua cách dễ dàng và tự nguyện trước những khó khăn và đau khổ. Bởi lẽ, họ biết việc mình làm, biết kết quả và cùng đích của những gì mình đã lựa chọn. Niềm hy vọng đó tựa như một bà mẹ mang thai. Bà biết rõ những khó khăn và đau đớn khi sinh con, nhưng sau đó là một mầm sống ra đời: đáng yêu và quí giá. Hy vọng đó làm cho bà vui lòng chấp nhận tất cả.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta hãy biết ra sức làm cho mảnh đất tâm hồn của mình được nên thửa đất tốt: không có sỏi đá của sự cứng lòng và khô khan; không có gai góc của sự tự kiêu, ích kỷ, ghen tị... để Lời Chúa được bén rễ sâu trong ta và sinh ra được bông hạt trăm nghìn. Xin Chúa giúp chúng ta có được sức mạnh và niềm hy vọng vững vàng để có thể chiến thắng những khó khăn và gian khó trong đời sống đức tin mỗi ngày. Amen.
63. Lời Chúa với đời người – Lm. Kiều công Tùng
"Con lớn lên bằng lời ru của bà cùng với sự êm ái dịu dàng của Kymdan". Một câu quảng cáo đầy ấn tượng nhằm đạt đến mục đích cuối cùng của nhà sản xuất nệm Kymdan. Điều đáng nói ở đây là câu quảng cáo ấy đã vô tình nói với mọi người một sự thật: Người ta lớn lên không chỉ bằng cơm bánh mà còn bằng lời nữa. Từ lời ru êm khi còn nằm nôi cho đến lời dạy bảo nhắc nhở răn đe lúc đã lớn khôn. Rồi trưởng thành bước vào đời, người ta vẫn cần lắm những lời khen tặng, động viên hay an ủi... Thử hỏi, cuộc sống con người sẽ ra sao, nếu như những lời lẽ kia không được gieo vãi.
Thế nhưng trong thực tế, nhiều khi chúng ta nghiệm ra rằng cho dù lời người phàm cần thiết đến đâu thì cũng không làm cho người ta no thỏa. Người ta cần một thứ lời có thể đáp ứng mọi tâm trạng và trong mọi hoàn cảnh, không phải chỉ là "2 trong 1" hay "3 trong 1" mà là "nhiều trong 1". Một thứ lời có thể hướng dẫn ta trong lúc nghi nan, trấn an khi gặp khó khăn, nâng đỡ khi sầu khổ, sửa dạy khi nông nổi, hối thúc khi lười biếng, cảnh giác trong nguy hiểm và đem lại hy vọng những lúc ta chán nản tuyệt vọng. Chỉ có Lời Chúa mới thỏa mãn những điều kiện ấy, mà Lời Chúa thì đã được gieo vãi trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người từ lâu rồi.
1. Lời được gieo cách hào phóng
Trước hết, Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là một người gieo giống đầy hào phóng và lạc quan. Kinh nghiệm của một nhà nông không cho phép người ta phí phạm hạt giống lẫn công sức trên những mảnh đất cằn cỗi sỏi đá bởi kết quả thu được chắc chắn không thể bù lại những gì bỏ ra. Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa lại hoàn toàn khác với cách suy nghĩ của con người. Hạt giống Lời Chúa không chỉ dành cho những mảnh đất mầu mỡ mà được tung vãi khắp nơi, cả bên vệ đường, trên sỏi đá hay giữa bụi gai. Lời Chúa không chỉ nói cho các thầy tư tế hay kinh sư, cho người lành người tốt.
Thiên Chúa đã tung gieo Lời của Ngài một cách hào phóng trên mọi mảnh đất, đến mọi hạng người, mọi tâm hồn bất kể là thu thuế hay gái điếm. Nếu tính tỉ lệ thì ta thấy giữa đất xấu và đất tốt là 3/1. Một tỉ lệ khá cao: cứ ba hạt bị mất mát mới có một hạt đem lại kết quả. Thế nhưng, người gieo giống vẫn cứ ra đi, vẫn cứ gieo vãi. Sẽ có người cho rằng người gieo giống quá phung phí và dở hơi; nhưng nếu nhìn xa hơn, nghĩ sâu hơn thì người gieo giống cực kỳ quảng đại, ông ta muốn mọi nơi trên cánh đồng đều có cơ hội sản sinh mùa màng thật tốt và đem lại thật nhiều hoa lợi.
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót như thế đó. Ngài không bao giờ nghi ngờ thiện chí của bất kỳ một tâm hồn nào. Ngài đã quảng đại trao ban Lời của Ngài, trao ban chính Con của Ngài cho nhân loại và Ngài luôn chờ đợi hiệu quả phát sinh nơi tâm hồn và cuộc sống của chúng ta. Tâm hồn nào cũng có thể trở nên mảnh đất mầu mỡ khi biết mở rộng lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, suy gẫm và làm cho phong phú cụ thể qua từng suy nghĩ, lời nói hay cử chỉ.
2. Lời mọc lên đầy hy vọng
Chúa Giêsu giảng dụ ngôn "Người Gieo Giống" trong bối cảnh những người trí thức có địa vị đang ra sức chống đối Ngài, còn những kẻ bình dân và các môn đệ thì đã bắt đầu ngã lòng hoài nghi trước những kết quả ít ỏi của lời Ngài giảng dạy. Như thế, có thể nói đây là dụ ngôn tuyệt vời của niềm hy vọng dành cho những con người đang thất vọng.
Dụ ngôn "Người Gieo Giống" cho chúng ta thấy rằng hành trình Đức Tin của chúng ta phải là một hành trình trong tin yêu hy vọng: dù huê lợi không đồng đều nhưng đất mầu mỡ vẫn có đó, dù hạt giống có mất mát nhưng mùa gặt vẫn bội thu, dù vẫn có đó những chướng ngại nhưng Nước Thiên Chúa cũng sẽ đạt đến viên mãn. "Cuộc đời chỉ là thời kỳ gieo hạt, mà mùa gặt không ở tại thế này" (Danh họa Van Gogh). Chính niềm hy vọng là nguồn sinh lực dồi dào cho cuộc lữ hành của chúng ta.
Nhiều khi chúng ta thấy đường đi phía trước thật mịt mờ. Hiện tại thì đầy khó khăn thử thách. Tương lai càng tối tăm dầy đặc. Chúng ta bị cám dỗ hoài nghi và mất hết niềm hy vọng. Lời Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta một con đường đầy ánh sáng. Đau khổ khó khăn hiện tại chính là liều thuốc kích thích Niềm Tin tưởng chờ đợi Ơn Cứu Độ. Tin tưởng trong nỗ lực phấn đấu chứ không phải Niềm Tin lười biếng bạc nhược. Số phận người đi gieo có hẩm hiu bạc bẽo, nhưng mùa thu hoạch thì đầy hứa hẹn huy hoàng.
3. Lời sinh sôi thật bất ngờ
Từ những khởi đầu ít hứa hẹn, điều kỳ diệu của hạt giống rơi trên đất tốt đã có thể bù đắp gấp bội những thất bại mất mát. Tỉ lệ mất mát là 3/1, nhưng số thu lại không chỉ gấp ba mà là 30, 60 và thậm chí 100 lần. Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta vươn tới sự thiện hảo và trổ sinh ngày càng nhiều hoa trái hơn trong cuộc sống. Chỉ cần một câu Lời Chúa được tự do lớn lên trong lòng người ta thì cũng đủ để đời người hoàn toàn thay đổi.
Lịch sử Giáo hội và cuộc đời của nhiều vị thánh đã chứng minh điều này. Chỉ một câu: "Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi" (Mc 10, 21) đã làm thay đổi cả cuộc đời thánh Phanxicô Át-xi-di, đến nỗi một kẻ vô thần độc tài cũng phải nhìn nhận rằng chỉ cần mười người như ngài là có thể thay đổi cả thế giới. Rồi cuộc đời và thành quả truyền giáo của Thánh Phanxicô Xa-vi-ê cũng là hoa trái của câu Lời Chúa: "Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?" (Mc 8, 36). Cũng thế, tâm hồn và cuộc đời của Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng chính là mảnh đất mầu mỡ đã để cho Lời Chúa lớn lên và sinh sôi đem lại mùa bội thu cho cả thế giới.
Thửa đất không thể sinh hoa trái nếu không có hạt giống. Cũng vậy, cuộc sống chúng ta sẽ cằn cỗi nếu không có Lời Chúa gieo trong tâm hồn. Thiên Chúa không chỉ nói với chúng ta qua Thánh Kinh, Ngài còn nói với chúng ta qua các biến cố của đời mình. Dụ ngôn "Người Gieo Giống" đòi chúng ta phải xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi ta phải cải tạo lại mảnh đất lòng mình, và tăng thêm sinh lực giúp chúng ta sống Lời Chúa. Lời Thiên Chúa đã phán ra chỉ trở về khi đã đạt được kết quả. Bổn phận của chúng ta là phải nỗ lực làm cho hạt giống Lời Chúa mọc lên tươi tốt, đâm rễ sâu trong tâm hồn, phát sinh những công việc phù hợp với Đức Tin và đem lại những kết quả tốt đẹp.
64. Sinh hoa kết quả
Toàn bộ thánh ý và sự trọn lành của Thiên Chúa được chất chứa trong Thánh Kinh, là kho tàng thiêng liêng vô tận, là lộ trình rộng mở để dẫn đưa linh hồn đạt đến mức độ thánh thiện cao vời nhất, đến chỗ hoàn toàn và trọn vẹn đồng bộ với thánh ý Thiên Chúa. Lộ trình thiêng liêng này tuỳ vào sự đón nhận của mỗi người, từ đó đưa đến có hạt thì bị cháy bị chết khô, có hạt thì bị chết nghẹt...nhưng cũng có hạt sinh hoa kết quả. Những hạt sinh hoa kết quả này được Đức Giêsu xác định đó là kẻ nghe lời, hiểu và thực hành. Khi đó các hạt sẽ sinh hoa kết quả, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục...
Nếu xét theo lộ trình thiêng và Lời Chúa hôm nay thì hành vi lắng nghe, đọc, tìm hiểu, và chú giải Thánh Kinh tự chúng vẫn không đủ , mà điểm quan trọng cuối cùng là "Hãy thực thi bằng việc làm''; bằng việc "sinh hoa kết quả ''. Để làm được đều này, tồi thiết tưởng hạt giống Lời Chúa. khi đã gieo vào mảnh đất tâm hồn chúng ta cần phải cho nó:
1. Giai đoạn bén rể
Đức Chúa Giêsu tuyên bố mẹ và anh em ta là những người nghe lời Chúa và đem ra thực hành (luca 8,21) nếu chúng ta không "đem lời chúa ra thực hành'' thì tất cả mãi mãi vẫn là ảo tưởng là xây nhà trên cát. Khi sống như thế chúng ta có khác chi những người biệt phái Pha-ri-sêu thời đức Chúa Giêsu họ lắng nghe hiểu biết Kinh Thánh, nhưng để hạt giống đó trong mảnh đất khô, họ cứ ảo tưởng gom nhiều hạt giống sẽ thu hoạch nhiều. Nhưng họ đã sai lầm vì không biết múc nguồn nước đời sống để tưới lên hạt giống. Cho dù có hàng vạn,hàng tỉ hạt giống mà không có nước, trên mảnh đất khô cằn thì không bén rễ được.
2. Giai đoạn chuyển mình
Có một điều quan trọng khi nghe lời Chúa là phải bắt đầu ngay lập tức,đừng trì hoãn vì hạt giống khi đã vào đất tốt phải chuyển mình ngay. Như thế, lời Chúa sẽ trở thành khí cụ để nâng đỡ đời sống chúng ta và nhờ Lời Chúa, chúng ta được thanh tẩy và có thể sinh hoa kết trái nhiều hơn (Ga 15,2-3). Hiện nay, người tín hữu đang gặp vấn đề cần thiết về việ linh hướng , bởi vì trên thực tế, khó mà tìm nổi một vị linh hướng. Do đó, Khi được hướng dẫn Lời Chúa sẽ đảm cho mọi linh hồn cần thiết một sự hướng dẩn căn bản và không sai lầm. Có thể nói vào những thời điểm đặc biệt, khi phải đưa ra những quyết định nghiêm chỉnh và lựa chọn dứt khoát, chúng ta cần phải có một sự hướng dẫn ngoại thường từ Kinh Thánh. Điều này đã xảy ra nơi thánh AnTôn tu viện trưởnh thánh Phanxicô Assisi... Ngày nay cũng thế , có nhiều tín hữu vẫn cảm nghiệm được Lời Chúa có sức mạnh biến đổi cuộc đời mình.
3. Giai đoạn sinh hoa kết quả
Trong cuộc sống đời thường hay trên phương diện thiêng liêng chúng ta vẫn lớn lên nhờ sự hướng dẫn của Lời Chúa, Sự hướng dẫn này có được lòng khao khát, nhờ suy niệm vào ơn soi sáng của Thánh Thần. Đấng thúc đẩy ta sống lời Chúa một cách thực tiễn. Nhờ lời Chúa thấm vào trong tâm hồn giúp ta biết được thánh ý Chúa và biện phân Thần Khí chì lời Chúa mới có thể giúp "phân biệt tâm tình và ý tưởng của lòng người'' (Dt 4, 12) nghĩa là có thể phân biệt được động lực và ý định. Lời Chúa không phải là một tấm gương phản chiếu sự vật; nhưng một tấm gương xuyên suốt lục tìm được cả nội tâm. Con người có thể bị đánh lừa, nhưng Lời Chúa thì không; nếu chúng ta thực tâm để cho Lời Chúa hoạt động không che giấu điều gì, Lời Chúa sẽ thẳng thắn giãi bài động cơ hoạt động của chúng ta: vì vinh danh Chúa hay vì lợi lộc bản thân. Trong khía cạnh này, Lời Chúa thật sự là một thanh gươm hai lưỡi tách biệt những gì thuộc về Thiên Chúa ra khỏi thói buộc của nhân loại.
Nhời Lời Chúa mà nhiều linh hồn đã được lớn lên và biến đổi, như Thánh TêrêSa Hài Đồng đã viết "trong phúc âm, tôi tìm được sự cần thiết cho linh hồn đáng thương của tôi. Mỗi người KiTô hữu đều được Chúa ban cho mãnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng lời Chúa hết khả mình. Và Lời Chúa sẽ "sinh hoa kết quả'' nơi tâm hồn khao khát biết yêu và sống Lời Chúa".
65. Mảnh đất cuộc đời
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Tại Úc Châu có dân tộc Chimbu thuộc đảo Tân Ghinê. Hàng ngàn năm qua họ sống khép kín trong những bộ tộc riêng tại vùng núi hiểm trở. Các bộ tộc này không quan hệ với nhau họ sống hoàn toàn biệt lập. vì thế, chỉ có 3 tiệu người mà họ nói tới 700 ngôn ngữ.
Các vị thừa sai cố học, đọc một ngôn ngữ, và họ dựa vào đó mà dịch ra một thứ tiếng chung gọi là Esperanto, có nghĩa là niềm Hy vọng. Tiếng này được rút ra từ các nhóm ngôn ngữ khác nhau để làm nên một thổ ngữ Melanesien.
Khi chị nữ tu Mary Claude Đem Lời Chúa Đến rao giảng thì được họ đón nhận rất dễ dàng. Dường như lịch sử truyền khẩu của họ qua các thế hệ đều nói tới một Vị nào đó sẽ đến.
Chị Mary Claude kể: “Có một bà góa trẻ làm công cho địa điểm truyền giáo để kiếm tiền nuôi ba đứa con. Xảy ra có những người thuộc bọ lạc của bà đến xin tiền. Tôi khuyên chị nên tiết kiệm tiền để lo cho các con. Nhưng chị ấy đã nói một câu làm tôi bất ngờ: Chúa Giêsu dạy rằng ai cho người thân cận đang túng thiếu là cho chính Chúa, nên con phải có bổn phận giúp đỡ họ”.
***
“Cho đi” đã trở thành nét văn hóa truyền thông của người Chimbu và “chia sẻ” đã đi vào bản sắc dân tộc của họ. Được như thế, chính là nhờ Lời Chúa đã thấm nhập vào máu thịt của họ, vào từng suy nghĩ, hành vi của họ. Lời Chúa đã đưa họ thoát ra khỏi tình trạng biệt lập, và qui tụ họ lại thành một cộng đoàn yêu thương.
Tin mừng hôm nay đức Giêsu dùng dụ ngôn “Người gieo giống” để dạy chúng ta về giá trị của Lời Chúa, nhờ đó chúng ta biết lắng nghe, suy niệm và đem ra thực hành, để có thể trổ sinh nhiều bông hạt.
Tâm hồn chúng ta có thể ví như vệ đường: Nghe mà không hiểu hay cố tình không hiểu, vì Lời Chúa bắt ta phải thay đổi nếp sống.
Tâm hồn chúng ta có thể ví như đá sỏi: Nghe thì mau mắn đón nhận nhưng hời hợt nhất thời, khi thử thách đến thì cao bay xa chạy.
Tâm hồn chúng ta cũng có thể vì như gai góc: Những lo lắng sự đời với danh vọng của cải, là nỗi đam mê đã bóp nghẹt Lời Chúa.
Nhưng nếu tâm hồn chúng ta là mảnh đất tốt: Lắng nghe và thấu hiểu, tin cậy và khiêm tốn sống Lời Người, thì ngày mai phía trước sẽ là một vụ lúa bội thu.
Như thế, chỉ có thái độ thành tâm lắng nghe Lời Chúa mới là quan trọng, chỉ có sự mau mắm đáp trả Lời Người mới có giá trị. Ai nghĩ và hiểu được đều có mới thật có phúc. Đức Giêsu nói: “Còn anh em, mắt an hem thật có phúc vì được thấy, tai an hem thật có phúc, vì được nghe” (Mt 13,16). Nhưng nghe và hiểu được những đòi hỏi gắt gao của Lời Chúa, quả thật cũng không phải dễ dàng. Và càng khó khăn hơn khi ta dám can đảm thực thi Lời Người.
Đã hơn hai ngàn năm qua, hạt giống Lời Chúa không ngừng gieo vãi trên các tâm hồn thiện chí. Kinh Thánh đã được dịch ra 2123 ngôn ngữ. Kể từ khi cuốn sách in đầu tiền trên thế giới ra đời cách đây 550 năm, tì Kinh Thánh vẫn liên tiếp là cuốn sách được dịch ra thêm nhiều ngôn ngữ mới, kể cả các thổ ngữ của dân tộc Yami ở Đài Loan, thổ dân da đỏ ở Paraquay, Kenya v.v… chưa kể hàng triệu băng cassette, video và CD Rom không ngừng phát hành.
Chúng ta không thiếu các phương tiện thông tin hiện đại để gieo vãi Lời Chúa.
Chúng ta cũng chẳng thiếu các nhà truyền giáo nhiệt tâm rao giảng Lời Người.
Chúng ta chỉ thiếu nhưũng mảnh đất tốt, những tâm hồn ngoan ngùy để cho hạt giống Lời Chúa gieo xuống, nẩy mầm, vươn lên, và trổ bong: hạt được 30, hạt được 60 và hạt được 100.
Để chuẩn bị luống cầy cho những hạt giống tốt. Người Kitô hữu không chỉ thán phục khi nghe Lời Chúa, không chỉ xúc động khi đón nhận Lời Người. Nhưng phải can đảm và nhiệt âm thực thi Lời yêu thương của Người.
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát ra khỏi vỏ trấu của ích kỷ, ươn hèn, để nẩy mầm vươn lên và trổ sinh thật nhiều bông hạt của nhân ái và yêu thương.
Xin chỉ cho chúng con biết dọn dẹp mảnh đất cuộc đời cho phì nhiêu màu mỡ, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng đến mức viên mãn trong cuộc sống chúng con. Amen.
66. Mảnh đất tốt cho hạt giống Lời Chúa
Trong quyển Lửa Thiêng Tây Nguyên của Lm P. Dourisboure (1825-1885), ghi lại bước đường truyền giáo của các cha Thừa sai Paris cho dân tộc Bahnars, có đoạn ghi: "sống giữa rừng thiêng nước độc, chịu đựng mọi thứ hiểm nguy: dã thú, bệnh tật, rình rập bắt bớ của quan quân triều đình, thái độ e dè đố kỵ của kẻ ngoại giáo cuồng tín...các ngài vẫn vững vàng với tác vụ ngôn sứ và tư tế của mình."... Thực tế các nhà truyền giáo, ngay cả người Việt nữa, không ai chịu đựng nổi ở đây quá 10 năm; có vị chỉ sau mấy tuần lễ đặt chân lên đây, đã mau chóng lìa đời vì không đương cự nổi với hung thần kiết lỵ và sốt rét rừng (chỉ có một mình Cha Dourisboure, được Chúa cho sống đến 35 năm thôi; có lẽ để ngài viết cho xong quyển Lửa thiêng Tây Nguyên) Vậy mà các ngài, lúc đầu từ một nhóm nhỏ lấy cứ điểm là Thị xã Kontum ngày nay, rồi dần lập nên các làng công giáo xung quanh, theo cách thức vết dầu loan. Từ khi mới đến (1848) cho đến năm 1870, đã có mấy làng công giáo với 800 giáo dân. Năm 1927 có 17.700 giáo dân. Ngày 18. 01. 1932, giáo phận Tông tòa Kontum được thiết lập với các tỉnh Kontum, Pleiku, Đaklak và Atâpư (Hạ Lào). Năm 1998, giáo phận Kontum mở Năm Thánh kỷ niệm 150 năm, ngày vị truyền giáo đầu tiên đặt chân lên xứ Thượng. Hiện nay số người công giáo là 203.723 người với 42 linh mục, 194 tu sĩ, 27 chủng sinh và 3.517 giáo lý viên...
Câu chuyện trên cho ta thấy các nhà truyền giáo đã hi sinh biết bao xương máu để gieo Hạt giống tốt trên xứ Thượng. Bù lại, Hạt giống đó không rơi trên đất khô cằn, ngược lại đã rơi trên mảnh đất tốt, đem lại kết quả đáng mơ ước như bài dụ ngôn chúa nhật hôm nay kể.
a/. Chúng ta thử đọc lại bài dụ ngôn với lời cắt nghĩa của Chúa Giêsu:
* Hạt giống rơi bên vệ đường: là kẻ nghe Lời Chúa mà không hiểu, lại bị ma quỉ đến cướp đi hạt giống đã gieo trong lòng anh ta, vì thế hạt giống không sinh kết quả.
* Hạt giống rơi trên đá sỏi - rơi trong bụi gai: Hạt rơi trên sỏi đá: là kẻ khi nghe Lời Chúa, thì vui vẻ đón nhận mà không đâm rễ sâu, nên chỉ nông nỗi nhất thời. Sau này khi gặp chuyện chán nản, sẽ bỏ ngay...Hạt rơi trong bụi gai là kẻ nghe Lời Chúa, nhưng quá bận rộn sự đời, vinh hoa phú quí trần gian vây kín, Hạt giống bị bóp nghẹt nên Lời Chúa không sinh hoa trái được.
* Hạt giống rơi trên đất tốt: là kẻ nghe Lời Chúa và hiểu được, nên sinh hoa kết quả...
b/. Câu chuyện: Thánh nữ Maria Goretti, người Ý, sinh năm 1890, mất năm 1902. Lên 10 tuổi, thánh nữ rước lễ lần đầu với tất cả lòng yêu mến Chúa Giêsu. Ba tháng trước ngày mừng sinh nhật thứ 12, một thanh niên hàng xóm, làm việc trong nhà cô, tên là Alessandro Senerelli đã cố tình hãm hiếp cô. Maria đã từ chối và kháng cự quyết liệt. Chàng thanh niên đã đâm 14 nhát dao vào người thánh nữ. Ngày hôm sau (06. 07. 1902), Maria đã qua đời. Trước khi chết, thánh nữ đã tha thứ cho Alessandro.... Tôi sẵn sàng tha thứ cho anh ta vì tình yêu Chúa Kitô và... tôi muốn hạt giống tình yêu, Chúa muốn tôi gieo nơi anh ta, sẽ đạt kết quả tốt là...anh ta sẽ ở cùng tôi trên Thiên Đàng...
Cũng như thánh nữ Maria Goretti, Hội thánh qua 20 thế kỷ, đã sẵn sàng vâng theo lệnh truyền của Đức Kitô, là đem Hạt giống Lời Chúa gieo rắc khắp mặt đất. Hạt giống đó đã sinh hoa kết quả tốt; hạt được 100; hạt được 80; hạt được 50. Câu chuyện về công cuộc truyền giáo cho người Tây Nguyên Kontum mà chúng ta vừa nghe ở trên, là một bằng chứng hùng hồn về Hạt giống tốt và mảnh đất màu mỡ giúp cho Hạt giống đem lại kết quả đáng mơ ước. Tuy rằng không phải mọi nơi trên trái đất đều được gieo Hạt giống Lời Chúa, nhưng rõ ràng nơi đâu Hạt giống được gieo vãi, thì ở đó Hạt giống đều sinh hoa kết quả. Hơn nữa, nơi đâu Hạt giống được gieo càng khó nhọc, bị bắt bớ, bị âm mưu tiêu diệt, hoặc thấm đẫm máu đào, nơi đó mảnh đất lại mầu mỡ, và dĩ nhiên Hạt giống Lời Chúa càng vươn lên mạnh mẽ, vững vàng hơn...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Hạt giống Lời Chúa chính là sức sống, nên nếu được gieo vào đất tốt, Hạt giống sẽ lớn lên và phát triển dễ dàng. Có người nói: con người tốt xấu là do số phận, đúng không? Thưa sai. Hạt giống Lời Chúa là sức sống, nhưng lại được gieo vào tâm hồn ta là sỏi đá, là bụi gai, thử hỏi làm sao Hạt giống đó lớn lên và có kết quả được? Là người kitô hữu, ta là mảnh đất loại nào đây? Vệ đường, bụi gai, sỏi đá hay là mảnh đất tốt?
67. Đức tin - Kết quả sống Lời Chúa
(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng)
Hôm nay bài Tin Mừng nói về dụ ngôn người gieo giống. Trong dụ ngôn này, có đoạn Chúa Giêsu phán: "Có hạt rơi vào bụi gai. Gai mọc um tùm nên nó chết nghẹt.. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả. Có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi" (Mt 13, 1- 23).
Bạn có từng chứng kiến cảnh một cô gái trẻ bị bệnh ung thư sắp chết, an ủi người mẹ đang nức nở chưa? Đó là một giáo lý viên. Khi tôi đến thăm, thì mẹ cô đang ngồi bên giường bệnh của cô khóc thảm thiết. Còn chính cô gái giáo lý viên ấy thì lại nói những lời dịu ngọt vỗ về mẹ mình. Thấy tôi, cô lại còn nhờ tôi nói chuyện với mẹ cô để xoa dịu nỗi đau của bà. Cô hứa, trước tòa Chúa, cô sẽ cầu nguyện cho gia đình cô, cho cha sở, cho tôi và cho lớp giáo lý mà cô đang phụ trách. Cha biết không? Trong tình cảnh đó, tôi chỉ còn biết im lặng đón nhận bài học về đức tin mà cô gái, chỉ là một giáo dân thôi, vừa giúp tôi nhận ra.
Bởi đâu nơi một cô gái yếu mềm lại ẩn chứa một đức tin can đảm đến thế? Chính Lời Chúa mà cô, một giáo lý viên trẻ tuổi đã từng giảng dạy, và cầu nguyện suốt những năm tháng trẻ trung của mình, đã thấm tận linh hồn cô, chẳng biết tự bao giờ, đã nắn đúc trong cô một đức tin lạ thường đến mức phi thường như thế. Không phi thường sao được khi mà, dù đớn đau, dù biết cái chết ở ngay trước mặt, cô vẫn còn đủ lời hay ý đẹp để an ủi mẹ mình! Người được an ủi, lẽ ra là chính cô, lại trở thành người an ủi! Không phi thường sao được khi mà một cô gái tưởng rất yếu mềm lại có thể đón nhận cái chết quá sức tỉnh táo, lại còn hứa cầu nguyện cho mọi người trước tòa Chúa trong giờ phán xét! Và đức tin phi thường ấy, giờ đây đang là chỗ dựa để cô nương vào vượt qua đớn đau của bản thân, vượt qua ánh mắt bi lụy cùng với niềm thương xót mà mọi người nhìn vào cô, để can đảm ra đi, giã từ cuộc đời.
Hôm nay, khi tôi viết những dòng này, thì người con gái trẻ đáng khâm phục ấy đã đi xa, nhưng sao tôi vẫn nhớ và cứ muốn chia sẻ với mọi người. Có lẽ vì cảm động. Nhưng điều quan trọng không phải là chia sẻ về một cái chết, mà là thái độ của đức tin cho ta một bài học quí giá. Chính thái độ của đức tin nơi cô đã cho tôi sự cảm động và đánh thức thái độ ơ hờ, an phận của mình. Bạn và tôi đừng sợ sống Lời Chúa. Hãy dùng Lời Chúa mà cầu nguyện, dùng Lời Chúa làm lẽ sống, làm thước đo mọi hành vi, mọi lời nói, mọi suy tính của bản thân mình. Nếu ta có được thái độ sống Lời Chúa như thế, thì ngày qua ngày, lời ấy sẽ nắn đúc, củng cố và bền vững hóa đức tin của ta. Và đức tin là phương thế để ta vượt thắng cám dỗ, nhất là những cám dỗ về những phù hoa của cuộc đời này. Đức tin sẽ là nguồn an ủi lớn lao khi ta khi ta rơi vào bế tắt, không còn biết cậy dựa vào bất cứ ai, bất cứ cái gì nữa. Sống Lời Chúa, bạn và tôi cảm nhận được sự cần thiết biết bao nhiêu!!
Tôi không thể xét đoán để biết Lời Chúa đã sinh kết quả trong cô gái được bao nhiêu: Ba mươi? Sáu mươi? Hay một trăm? Nhưng tôi có thể quả quyết rằng, người nữ giáo lý viên trẻ tuổi ấy, đã để cho Lời Chúa sinh kết quả ở mứa cao nhất!!
Đó không là bài học cho những ai xưng mình là môn đệ Chúa Kitô đó sao?
68. Bội thu
Đa số quí ông bà và anh chị em ở đây sống bằng nghề nông. Vì thế, hẳn chúng ta có nhiều kinh nghiệm trong việc cấy trồng.
Qua dụ ngôn “Người gieo giống”, Chúa Giêsu đã chia sẻ với chúng ta những hiểu biết và kinh ngiệm về việc đồng áng tại quê hương của Người. Tất nhiên, Người không có ý dạy ta về việc cấy trồng. Nhưng từ công việc cụ thể và quen thuộc ấy, Người dẫn chúng ta tới một lãnh vực khác, đó là lãnh vực tâm linh. Trong lãnh vực này, tâm hồn mỗi người được ví như một thửa đất có những điều kiện khác nhau để tiếp nhận hạt giống. Hạt giống được gieo vào tâm hồn mỗi người không phải là hạt lúa hay hạt cây ăn trái mà là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ đem lại sự sống cho tâm hồn ta giống như hạt lúa, hạt gạo cho ta sự sống phần xác. Và hạt giống Lời Chúa được gieo vãi một cách rộng rãi không loại trừ một mảnh đất tâm hồn nào. Người đạo đức thánh thiện cũng như người khô khan nguội lạnh, người lương thiện cũng như người bất lương… tất cả đều được đón nhận hạt giống Lời Chúa. Rồi kinh nghiệm cho thấy rằng: việc cấy trồng không luôn dễ dàng bởi có nhiều kẻ thù phá hoại. Kẻ thù của nông dân và hạt giống là giông bão, là nắng hạn, là đá sỏi, là gai góc, là cỏ dại, là muông thú, là sâu rầy… Hạt giống Lời Chúa cũng có nhiều kẻ thù. Kẻ thù của Lời Chúa là não trạng hưởng thụ, là sự dửng dưng nguội lạnh, là sự lười biếng, ngại khó ngại khổ, là lòng tham và ích kỷ, là sự gian dối và lừa đảo, là những sự xấu, sự ác, là những tệ đoan xã hội… Tất cả những kẻ thù ấy sẽ bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa làm cho hạt giống ấy không thể mọc lên và sinh hoa kết quả.
Chính từ những điều nói trên mà ta có thể tự đặt câu hỏi cho mình:
- Tâm hồn tôi thuộc loại đất nào? Đất có sỏi đá, đất đầy gai góc hay đất phì nhiêu? Và thế nào là đất có sỏi đá, đất đầy gai góc, đất phì nhiêu thì Chúa Giêsu đã giải thích cho chúng ta rồi. Chỉ khi xác định được mình thuộc loại đất nào ta mới có thể cải tạo, mới có thể dọn dẹp mảnh đất ấy để nó có thể đón nhận hạt giống Lời Chúa hầu hạt giống này cho ta một mùa gặt bội thu.
- Hạt giống Lời Chúa đã được gieo vãi trong mảnh đất tâm hồn của tôi, nhưng tôi có sẵn sàng tiếp nhận và chăm sóc cho hạt giống ấy không?
- Đứng trước những kẻ thù của hạt giống Lời Chúa tôi đã làm gì? Tôi có nỗ lực khử trừ hay để mặc nó hủy diệt hạt giống ấy?
Muốn có được một mùa gặt bội thu, người nông dân phải dọn ruộng, dọn đất, phải chăm sóc cho hạt giống nảy mầm và lớn lên, phải ngăn ngừa và đẩy lùi mọi yếu tố, mọi tác nhân gây thiệt hại cho hạt giống và cây trồng. Mùa gặt thiêng liêng cũng phải vậy thôi. Tuy nhiên, bên cạnh việc dọn dẹp và chăm sóc cho mảnh đất tâm hồn của riêng mình bằng cách cải tà qui chánh, bằng cách đổi mới đời sống, ta còn cần hợp tác với nhau để dọn dẹp và chăm sóc cho mảnh đất xã hội, nơi mà chúng ta đang sống, sao cho mảnh đất ấy mỗi ngày được sạch sẽ hơn, quang đãng hơn và mầu mỡ hơn. Lý do là môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của mỗi người. Dọn dẹp mảnh đất xã hội nghĩa là mỗi người cần dấn thân để xây dựng một nếp sống công bình, lành mạnh, thấm đẫm tình yêu thương. Đồng thời nỗ lực đẩy lui cái nghèo, cái khổ, cái dốt, khử trừ những tệ đoan xã hội như cờ bạc, say sưa, đĩ điếm và những hình thức mãi dâm trá hình… Đó chính là những cỏ dại, là gai góc, là sỏi đá, là những côn trùng có hại cho mùa màng thiêng liêng không chỉ của riêng ta mà còn của mọi người.
Nếu mỗi người biết dọn dẹp và chăm sóc cho mảnh đất tâm hồn của mình cũng như mảnh đất xã hội, thì Lời Chúa khi được gieo vào mới có hy vọng sinh hạt 30, hạt 60 và hạt 100 như lòng Chúa mong ước.
69. Lắng nghe và sống Lời Chúa
Vũ trụ huyền bí bao la là một tiếng nói, là lời mạc khải về Thiên Chúa quyền năng vô biên. Thế nhưng, nhiều người ngày nay khi phải lo đời sống vật chất, phát triển kinh tế đã không để lòng trí mình tìm hiểu vấn đề siêu nhiên. Vì thế người ta dễ mất đi niềm hy vọng khi chỉ bám vào trần thế vốn bất toàn và phù vân này. Trong thế giới bề bộn công việc và đầy những cám dỗ hưởng thụ này, chúng ta cần tập thanh lặng lắng nghe và sống lời Chúa. Chúng ta có thể nhận ra tiếng Chúa nhắc bảo hàng ngày qua Thánh kinh và lương tâm mình.
Hạt giống Lời Chúa được gieo cách rộng rãi. Thời Cựu ước, các tiên tri đã gieo trong lòng mọi người lòng kính sợ Chúa và giáo dục luân lý theo đường lối Chúa chỉ dạy. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã mạc khải tất cả những gì cần thiết cho sự sống và phần rỗi của chúng ta. Để được phần rỗi đời đời, phần quan trọng không thể thiếu là tìm hiểu lời Chúa dạy, đọc lại Kinh thánh trong tinh thần học hỏi chân thành và đáp trả tiếng Chúa. Lời Chúa rất phong phú hữu ích cho mọi tâm hồn. Tuy nhiên, việc gieo vãi có kết quả đối với mỗi người khác xa nhau. Có người nghe rồi bỏ qua, có những người thực hành nửa vời, không triệt để, khi hoàn cảnh khó khăn hoặc những lợi lộc vật chất làm lóa mắt thì buông bỏ lời nhiệm mầu và chạy theo những lợi nhuận trần thế. Do đó, vấn đề là biết để đem ra thi hành như người khôn xây nhà trên đá, luôn kiên vững trước mọi thử thách, gian nan và chứng tỏ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta hãy chú tâm đem lời Chúa ra thực hành để đạt kết quả tốt đẹp vững bền.
Có những lúc chính tôi cũng không nhớ tới lời Chúa mà chỉ sống theo thói quen của chính mình, hoặc theo cách sống của một số người...của hàng xóm. Có khi công việc làm ăn bận rộn làm tôi không để thời gian cho Chúa nhiều nhưng xoay theo vòng xoáy của công việc. Rồi một ngày tôi thấy mình xa Chúa quá. Cuộc sống đạo chỉ còn là hình thức hoặc chỉ giữ đạo tối thiểu. Như vậy, tôi chỉ đón nhận Lời Chúa như hạt rơi trên đá sỏi hoặc trong bụi rậm, bị những cám dỗ vật chất làm yếu dần niềm tin yêu Chúa. Tôi quên rằng tất cả cuộc sống tôi là do Chúa ban, sức khỏe để tôi làm việc là do Chúa ban. Nếu tôi không dâng lại cho Chúa với lòng chân thành thì tôi có lỗi với Chúa biết chừng nào. Mỗi tuần tôi có 1 ngày nghỉ nhưng lại dành ưu tiên cho những giải trí khác thay vì ưu tiên đi nhà thờ cầu nguyện, giữ ngày Chúa nhật! Khi tôi coi trọng những thứ khác và dành ưu tiên cho chúng là tôi đã đặt việc thờ phượng Chúa xuống hàng thứ yếu. Trong khi Chúa mới là chủ đời tôi, của cải tiền bạc không phải là xấu nhưng nhiều khi tôi đề cao nó quá mức theo kiểu thế gian.
Hôm nay, khi nghe lại dụ ngôn này, tôi thấy bổn phận của mình là hồi tâm, xét mình xem mình là loại đất nào, có sinh hoa quả trước mặt Chúa hay chưa. Dân chúng Cựu ước ước ao nghe lời Chúa mà không được nghe, còn chúng con được diễm phúc nghe biết mạc khải rõ ràng nơi Chúa Giêsu. Chúng con sẽ bị dân thờI Cựu ước trách móc về điều này nếu chúng con không hết lòng theo Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã tin tưởng ở chúng con, đã mạc khải những lời nhiệm mầu cho chúng con. Chúng con hứa sẽ ra sức áp dụng lời vàng ngọc của Chúa trong cuộc sống để mai ngày đơm bông kết quả xứng đáng hầu mai sau được hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa trên Thiên đàng.
70. Gieo giống
Bài Tin mừng là dụ ngôn người gieo giống. Đây là dụ ngôn đầu tiên trong một loạt các dụ ngôn Chúa Giêsu giảng dạy. Trước hết, chúng ta có thể thắc mắc: Một kiểu gieo giống gì mà kỳ lạ thế? Tại sao không chỉ gieo trên đất tốt thôi mà lại gieo cả trên chỗ đá sỏi, đường đi và cả chỗ gai góc nữa? Thưa, gieo như thế, vì đây là cách làm ruộng của người dân miền thánh địa, xứ Palestin, họ có cách gieo giống khác với người Việt Nam chúng ta. Họ gieo trước rồi mới cày sau, nghĩa là họ dọn đất xong thì gieo hạt rồi cày lấp đi. Như vậy, người gieo giống trong dụ ngôn này đi gieo trong thửa ruộng chưa cày bừa gì cả.
Đàng khác, đất đai ở đây nhiều đá. Người Do thái thường nói khôi hài rằng: “Khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất, có ba túi đá thì Chúa đã làm rớt hết hai túi xuống đất Palestin”. Vì thế, trong việc làm ruộng của dân Do thái, việc lượm đá là một việc làm quen thuộc cũng như việc làm cỏ. Đá lượm ra xếp thành bờ ngăn các thửa ruộng, do đó mép bờ cũng là nơi gai mọc. Ở những vùng đất thiếu nước, thì gai là loại cây dại phổ biến nhất, vì nó có sức chịu khô lâu nhất.
Biết qua khung cảnh địa dư và cách làm ruộng của người Do thái xưa kia như thế, chúng ta mới dễ hiểu bốn vị trí mà hạt giống có thể rơi xuống khi người nông dân gieo lúa: đất đá, lối đi, bụi gai và đất tốt. Muốn gieo cho kín ruộng, người nông dân phải chấp nhận có sự hao hụt, vì khi vung tay gieo hạt, một số nào đó sẽ rơi vào ba loại vị trí không kết quả.
Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ, đây là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, và chân lý về tôn giáo đang núp sau bức màn dụ ngôn đó. Điều Ngài thực sự muốn giảng dạy là kết quả của Lời Chúa: Hạt giống tượng trưng cho lời Thiên Chúa gieo vào lòng người, và tùy theo đất, tức là tùy theo lòng người, mà có những kết quả khác nhau, như Chúa đã giải thích rõ ràng. Vì thế, ở đây chúng ta không giải thích nữa mà chú ý đến một điều khác, đó là cử chỉ tung hạt thật quảng đại của người gieo giống, và đây chính là thái độ quảng đại của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Quả thật, Thiên Chúa vô cùng quãng đại. Mặc dầu Chúa biết chúng ta sẽ lãng phí thật nhiều ân huệ của Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ vung tay phân phát thật rộng rãi. Chúng ta thử tưởng tượng: Nếu Chúa tính toán để không uổng phí chút nào thì tình cảnh chúng ta sẽ ra sao? Nhưng sự quảng đại của Chúa trong việc ban phát mọi ơn lành cho chúng ta, làm cho chúng ta an tâm và tin tưởng vào tình yêu của Ngài. Ngài chẳng bao giờ rút lại tình yêu ấy, chỉ có chúng ta có thể từ chối hoặc bóp nghẹt, không cho tình yêu của Ngài triển nở trong chúng ta thôi.
Tình yêu được biểu lộ bằng quà tặng, bằng sự hiện diện, bằng hành động, và cuối cùng bằng sự trao cho nhau bản thân mình hoặc trong tình yêu hôn nhân, hoặc bằng sự tận hiến trong đời sống tu trì. Thiên Chúa bộc lộ tình yêu của Ngài bằng tất cả những cách thức đó, bằng quà tặng, bằng sự hiện diện và hành động không ngừng của Ngài trong mọi sự đối với mỗi người chúng ta. Ngài cho chúng ta cả chính mình Ngài, Ngài cho chúng ta cả người con một yêu dấu của Ngài. Và Con của Ngài đã cho chúng ta đến giọt máu cuối cùng đọng lại trong tim.
Khi yêu chúng ta Thiên Chúa muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài, bởi vì tình yêu mời gọi tình yêu và tình yêu đáp lại tình yêu. Khi chúng ta đã đón nhận tình yêu của Chúa như thế, thì trái tim chúng ta đập cùng nhịp với trái tim Ngài và cùng mở rộng như trái tim Ngài, và chúng ta sẽ rộng tay để cho tình yêu của Ngài đến với mọi người bằng cuộc sống của chúng ta, dù người ta có biết đón nhận hay không. Bởi vì có những hạt lúa sẽ chết đi, sẽ mất không, do rơi vào sỏi đá, do chim trời lượm mất, hay do gai góc đè chết. Nhưng số hạt rơi vào đất tốt vẫn nhiều hơn, và sẽ sinh hoa kết quả ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Bởi vì mỗi hành động yêu thương được đón nhận sẽ làm nảy sinh những hành động yêu thương khác.
Nói rõ hơn, mỗi hành động yêu thương chúng ta làm cho người khác, là một hạt giống chúng ta gieo, không phải chỉ gieo vào chính người thụ hưởng, mà gieo vào cả những người chứng kiến nữa. hạt giống ấy sinh hoa kết trái khi chính người thụ hưởng hoặc người chứng kiến lại để cho tình thương thúc đẩy họ phục vụ người khác. Cứ thế mà tình yêu được nhân lên mãi, và cuộc sống này, xã hội này, thế giới này sẽ tốt đẹp hơn.
Tóm lại, những hạt giống yêu thương chúng ta gieo vào bất cứ nơi đâu, cho bất cứ người nào, cũng đều có hiệu quả tốt đẹp, chúng ta hãy bắt chước người gieo giống có thái độ hào phóng, quảng đại trong dụ ngôn, là Thiên Chúa, để tất cả những hạt giống chúng ta gieo vãi, là những cử chỉ, thái độ, việc làm yêu thương của chúng ta đều đâm bông kết trái, và như thế cuộc sống này, xã hội này, thế giới này càng ngày càng tốt đẹp hơn.
71. Lãi bao nhiêu hạt
Đã là một người nông dân, ắt hẳn ai trong chúng ta cũng phải biết tính toán thế nào cho công việc đồng áng của mình thu hoạch được kết quả nhiều chừng nào tốt chừng ấy và thất thoát càng ít càng hay. Người ta phải tính toán xem một hecta đất phải sử dụng bao nhiêu giống là vừa, bao nhiêu phân là đủ và sẽ thu hoạch được bao nhiêu.... Ai làm nghề nông thì đều phải biết đến việc này.
Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng được nghe hôm nay, Ngài ví mình như một người nông dân gieo giống. Hạt giống của Ngài là hạt giống Lời Chúa. Chắc hẳn Ngài cũng phải tính toán sao cho thu hoạch được nhiều kết quả và lại ít phí tổn. Tiên tri Isaia nói trong bài đọc I nói thay Lời Thiên Chúa như thế này: "Lời Ta, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt được kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta trao phó". Nhưng trong việc thực hiện công việc gieo Tin Mừng chúng ta lại thấy một hành động có vẻ như phung phí của người gieo giống. Hạt rơi trên vệ đường, hạt rơi trên đá sỏi, hạt rơi vào bụi gai, hạt rơi trên đất tốt. Cuối cùng chỉ có một phần tư hạt được trổ sinh hoa trái mà hoa trái lại cũng không đều nhau. Nếu là một công việc đồng áng bình thường thì quả thật vụ mùa này không sinh lãi được bao nhiêu.
Nhìn thấy toàn cảnh của người gieo giống trong dụ ngôn của Chúa Giêsu ta mới thấy được sự rộng rãi của người gieo giống Giêsu. Vẫn biết vệ đường, sỏi đá, bụi gai không thể làm cho hạt giống kết quả nhưng người gieo giống vẫn âm thầm mong đợi một hy vọng nào đó mảnh đất sẽ làm cho hạt giống đâm chồi. Chúa Giêsu gieo Lời Thiên Chúa một cách rộng rãi không lựa chọn một nhóm nào hay một cộng đoàn nào mà Ngài đi tới đâu, thi ân giáng phúc tới đó, ban bình an và gieo vãi Lời Ngài để mong con người đón nhận Lời Ngài mà được ơn cứu độ. Chúa vẫn biết những tâm hồn hời hợt, những tâm hồn chai đá, những tâm hồn vướng bận chuyện nhân gian... nhưng Ngài vẫn rộng rãi thi ân Lời Ngài và hy vọng Lời Ngài biến đổi lòng họ. Người Gieo Giống Giêsu đã làm tất cả để hạt giống Lời Chúa được gieo vãi khắp nơi.
Về phía người đón nhận Lời Chúa, ba phần tư không sinh hoa kết quả, một phần tư còn lại thì kết quả không đều nhau. Nhưng ở đây, ta thấy Chúa Giêsu nói về kết quả với một giọng điệu rất vui vì đã có kết quả để thu hoạch. Người gieo giống như quên tất cả sự khổ nhọc của việc gieo giống, như quên đi mọi phí tổn trong việc gieo giống... Qua đó ta thấy được nỗi vui mừng của Thiên Chúa khi con người đón nhận Lời Ngài. Ngài không đòi hỏi ta phải sinh hoa kết quả như một người nào nhưng là kết quả theo khả năng của ta. Có ba mươi ta sinh ba mươi, có sáu mươi ta sinh sáu mươi....bao nhiêu đó thôi đã làm cho người gieo giống vui mừng rồi.
Trong cuộc sống hiện tại, mỗi người Chúa ban cho khả năng khác nhau và Chúa mời gọi hãy cùng Chúa làm cho những khả năng đó được sinh lời. Lời Chúa là Lời hành động, để sống chứ không chỉ để suy niệm. Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận Lời Ngài làm hành trang trong cuộc sống để chúng ta cũng biết trổ sinh những bông hạt trong ngày mùa của Chúa.
72. Dụ ngôn người gieo giống – Lm FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Sau khi giới thiệu Đức Giêsu là Đấng có quyền giải thích Luật (ch. 5–7), rồi minh họa quyền đó bằng một vài truyện về phép lạ (ch. 8–9), tác giả Mátthêu đã cho thấy Đức Giêsu sai phái và ban "bài sai" cho các sứ giả của Nước Thiên Chúa (ch. 10). Nhưng chẳng mấy chốc vương quyền này đã bị đặt thành vấn đề, hoặc bởi chính Gioan Tẩy Giả, hoặc bởi các thành miền Galilê (ch. 11). Từ khước Đức Giêsu là Đấng thiết lập Triều Đại của Thiên Chúa, đây là đề tài của ch. 12: đề tài này đi tới đỉnh cao khi những người Pharisêu tố giác là Đức Giêsu bị quỷ ám (x. 12,22-24) và Đức Giêsu tuyên bố về Gia đình thật của Người (x. 12,46-50): Đức Giêsu đoạn tuyệt với môi trường tinh thần của Người. Trên nền tảng của bài tường thuật nói về sự đoạn tuyệt bi đát này với Do Thái giáo, ch. 13 đề cập tới "mầu nhiệm" Nước Thiên Chúa, giải thích làm thế nào mà Triều Đại Thiên Chúa lại vừa có thể được khai mạc trên mặt đất vừa bị loài người phản đối hoặc không được biết đến. Nối tiếp các bài tường thuật về các xung đột ở ch. 12, các dụ ngôn ở ch. 13 có hai ý nghĩa:
- đối với các môn đệ, các dụ ngôn này giải thích vì sao Nước Thiên Chúa, đã được Đức Giêsu khai mào, lại chưa được biểu lộ ra trong vinh quang, đặc biệt tại sao những bước đầu của Nước Thiên Chúa trong sứ vụ của Đức Giêsu lại thiếu vẻ huy hoàng và oai phong đến thế;
- đối với những người ở ngoài (c. 11), sau cuộc đoạn tuyệt được nói đến ở ch. 12, các dụ ngôn này trước tiên phải khẳng định rằng những gì họ có thể thấy từ bên ngoài về Nước Thiên Chúa, là được ban cho họ để xác nhận thái độ không tin của họ; và điều thuộc về Mầu nhiệm, nghĩa là thuộc về chương trình của Thiên Chúa đối với Vương quốc của Ngài.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Giới thiệu chương các dụ ngôn (13,1-3a);
2) Dụ ngôn Người gieo giống (13,3b-9);
3) Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (13,10-17: hai phần nho a- cc. 11-12; b- cc. 13-17 theo cấu trúc chuyển hoán);
4) Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (13,18-23).
3.- Vài điểm chú giải
- dụ ngôn (3): Trong hy ngữ, có đọng từ paraballô có nghĩa là "so sánh, đối chiếu". Kể một dụ ngôn (parabolê, hầu như tương đương với từ Híp-ri mâshâl), là kể một tình huống nhằm lưu ý về một thực tại ít được chú ý hơn, nhưng tác giả muốn các thính giả biết. Tác giả dụ ngôn không phải là một sử gia, nhưng là một nhà thần học và một nhà luân lý; ông có thể sáng tác ra các hoạt cảnh tùy theo sứ điệp hoặc bài học ông muốn truyền đạt. Một dụ ngôn không phải là một ẩn dụ: trong một ẩn dụ, mọi chi tiết đều có ý nghĩa, còn trong một dụ ngôn, người ta chỉ nhắm đến sứ điệp tổng quát (Tuy nhiên, dụ ngôn Người gieo giống được giải thích ra lại có vẻ là một ẩn dụ). Trong dụ ngôn, cần đặc biệt ghi nhận các nét "khác thường" thì mới hiểu được bài học căn bản.
- có những hạt rơi xuống vệ đường (4): Hẳn là người nông phu có điên thì mới gieo hạt giống lên mặt đường đã chai lì, hoăc lên vùng sỏi đá hay vào các bụi gai (x. cc. 5.7)! Tuy nhiên, theo J. Jeremias, tập tục trồng lúa của Paléttina là gieo giống trước khi cày xới đất cho hạt giống lọt xuống lớp đất sâu. Thật ra lối giải thích này tuy hấp dẫn nhưng không phù hợp với những gì đã xảy ra thật sự trong bài dụ ngôn. Vì vậy thay vì ra sức bảo vệ tính xác thực của dụ ngôn, ta nên lưu ý đến khía cạnh "khác thường" của lối xử sự của người gieo giống.
- hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục (8): Có những nhà chú giải như Jeremias cho rằng dụ ngôn này là một bài khuyến khích cổ võ tin vào thành công cuối cùng. Tuy nhiên, có một số khó khăn: (1) Một sử gia kinh tế (K.D. White) cho biết rằng năng suất 1 gấp 100, thậm chí 1 gấp 400, không phải là lạ lùng, chẳng hạn nếu trồng lúa trong vùng Giléad, gần Gađara. (2) Nếu Mt đã muốn nêu bật mùa màng bội thu, hẳn là ngài đã dùng chuỗi số đi lên như Mc (30, 60, 100) thay vì chuỗi số đi xuống (100, 60, 30), bởi vì như thế sẽ làm yếu đi bài học về tính lạc quan. (3) Trong năm câu của bài dụ ngôn, có tới bốn câu mô tả sự thất bại của vụ gieo (và trong phần giải thích, cũng có một tỷ lệ như thế). (4) Nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống dường như lại phù hợp hơn nhiều với ngữ cảnh tổng quát của các chương này trong TM Mt, vì các ch. 11–12 mô tả sức chống đối ngày một gia tăng để đáp lại những hành vi quyền lực trong các ch. 8–9.
Vậy không nhất thiết phải loại bỏ lối giải thích "lạc quan" (Jeremias), bởi vì quả thất Đấng Mêsia sẽ vẫn chiến thắng. Nhưng bởi vì những người đương thời với Đức Giêsu vẫn đương nhiên liên kết Đấng Mêsia với sự thành công, có lẽ Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến phương diện này đâu. Điều làm nên "mầu nhiệm Nước Trời", mầu nhiệm mà chỉ một nhóm giới hạn "những kẻ bé mọn" mới có thể hiểu được, đó là cuối cùng Đấng Mêsia chỉ có thể thành công xuyên qua thất bại.
Tuy nhiên, viễn tượng của phần giải thích lại theo hướng của cuộc phán xét: Lúc đầu, bài dụ ngôn nhắm nhiều hơn đến các loại đất khác nhau và vụ thu hoạch cuối cùng, nhưng sang phần giải thích, Mt đã thay đổi Mc mà đặt cho dụ ngôn nhan đề "Người gieo giống" (Mt 13,18). Thật ra người gieo giống chỉ đóng một vai trò nhỏ bé trong truyện, vì bài đã trở thành dụ ngôn về "Lời rao giảng Nước Trời". Tuy nhiên, tác giả Mt làm như thế là để sau này ngài có thể đồng hóa người gieo giống với Đức Kitô (x. 13,37). Bởi vì đối với ngài, Đức Giêsu tháp tùng Hội Thánh qua dòng lịch sử (x. 28,18). Người chính là Đấng đang hiện diện và tích cực hoạt động trong công việc gieo rắc Lời (x. 13,37). Người tự đồng hóa với các thừa sai của Người (x. 10,40). Chính Người xây dựng Hội Thánh (x. 16,18), tích cực hỗ trợ Hội Thánh trong việc duy trì kỷ luật (x. 18,18-20). Và cuối cùng Người sẽ là vị Thẩm phán tách các môn đệ trung thành khỏi những đồ đệ bất trung (x. 13,41-43). Quả thật, Mt đã muốn đọc tất cả các dụ ngôn của ch. 13 này dưới ánh sáng của cuộc phán xét cuối cùng. Vì thế, tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm cá nhân là phải sinh "hoa quả", tức là các hành vi tốt lành, và ngài đã đảo lộn thứ tự của Mc là 30-60-100 thành 100-60-30 cho phù hợp với các truyện của ngài về phán xét: bắt đầu với việc ca ngợi những người thu hoạch nhiều hoa quả nhất, để đi đến chỗ phê phán những người không sinh hoa quả (x. 25,14-30). Vậy một truyện về sức mạnh của Lời Chúa đã trở thành truyện về phán xét.
- các mầu nhiệm Nước Trời (11): Công thức này được lấy từ nền văn chương khải huyền. Công thức nhắc lại những bí mật tối hậu của Thiên Chúa, cụ thể là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tập trung nơi các hoạt động cứu chữa của Đức Kitô.
- Hễ ai nghe lời... đó là kẻ đã được gieo (19): Dụ ngôn "Người gieo giống" đã được chuyển thành dụ ngôn "Lời rao giảng về Nước Trời". Trọng tâm đã chuyển từ một giáo huấn về mầu nhiệm Đấng Mêsia phải thất bại về mặt nhân loại sang việc lưu ý, khuyến khích, là hãy sẵn lòng đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù vậy, giữa hai bài dụ ngôn và phần giải thích không có mâu thuẫn, mà chỉ có khác biệt về điểm nhấn mạnh thôi. Mt đã sửa nhẹ khi viết lại Mc 4,14 để tránh sự đụng chạm trực tiếp giữa hạt giống là lời (Mc 4,14) và hạt giống là người nghe (x. Mc 4,16.18.20), nhưng cũng không thành công bao nhiêu, vì ở Mt 13,19b, "điều đã được gieo trong lòng" hẳn là lời, thì ở cc. 20tt, "điều (CGKPV: "kẻ") được gieo" là "kẻ nghe". Ở c. 19, Mt lại xác định lời được gieo là "Lời rao giảng về Nước Trời".
Rõ ràng Mt nhấn mạnh rằng người môn đệ là người hiểu lời: ở c. 19, ngài xác định rằng vấn đề với loại hạt giống/đất thứ nhất là thiếu hiểu biết, và đến c. 23, ngài xác định rằng hạt giống tốt/đất tốt thì nghe và hiểu. Đây là hành văn đóng khung (x. thêm 13,13.15.51). Và Mt đã thay đổi chủ từ số phức của Mc (x. Mc 4,16tt) thành số đơn (x. Mt 13,20tt) để nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân. Câu 13,23 tóm bằng cách mô tả dung mạo của hạt giống tốt/đất tốt với các cặp động từ bổ nghĩa cho nhau: nghe và hiểu, sinh hoa kết quả và làm ra (so với Mc 4,20).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu chương các dụ ngôn (1-3a)
Toàn chương 13 của TM I có một cụm từ dẫn nhập ngắn về thời gian, "hôm ấy" (en tê hêmera ekeinê) nhằm tạo một liên kết với cảnh trước, nhưng lại đưa Đức Giêsu sang một cảnh mới. Những người nghe, là "dân chúng", lại được nhắc lại. Đức Giêsu ra khỏi "nhà" và đi đến bờ hồ (c. 1). Đám đông lại kéo đến với Người (c. 2). Đây là lần duy nhất tác giả ghi nhận Đức Giêsu "rời bỏ nhà". Chi tiết lạ, bởi vì ngay khi Người chuyển từ Nadarét đến Caphácnaum, tác giả cũng không hề lưu ý. Rất có thể chi tiết này đã có sẵn trong nguồn Mt dùng và là một từ để mở vào một hành trình truyền giáo. Nhưng cũng rất có thể là trong ý Mt, là tác giả quen loại bỏ các chi tiết miêu tả, từ ngữ ấy có một ý nghĩa ngôn sứ và mục vụ. Sau bài Diễn từ truyền giáo, từ này nhắc nhớ các đòi hỏi của nhiệm vụ truyền giáo. Tất cả những ai đã được mời bước theo Đức Giêsu (4,18-22) và đã được sai phái đi nhân danh Người, đều phải chấp nhận "bỏ nhà" (10,35-36; 19,21).
Nới chốn là "Biển Hồ" (Ghennêsarét): đây là nơi xảy ra việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên (4,18) và cũng là nơi mà nhóm các môn đệ có một kinh nghiệm đầu về Đức Giêsu (8,24-27). Đức Giêsu lên một "chiếc thuyền", mà ta có thể coi là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23), nhưng trong TM Mt, con thuyền hàm ý một sự xa cách nào đó với các đám đông (x. 14,13; 15,39). Cũng như khi bắt đầu Bài Giảng trên núi, ở đây Người cũng "ngồi" (2 lần; x. 5,1; 7,29; 15,29; 23,2; 24,3); đây là dấu chứng tỏ tư cách của một vị thầy. Đám đông thì "đứng": đi theo ngữ cảnh của TM I, có lẽ ta không nghĩ tới tư thế đứng trong một đền thờ hay một hội đường, mà là tư thế của gia đình Đức Giêsu "đứng bên ngoài" (12,46-47). Chương 13 sẽ cho thấy làm thế nào dân chúng chiến chỗ của những người đứng bên ngoài.
Đức Giêsu bắt đầu nói với dân chúng. Tác giả Mt không dùng từ "didaskeô, "dạy" của TM Mc, mà dùng động từ "nói" (laleô, "to speak"), bởi vì ngài thường dùng động từ "dạy" cho việc giải nghĩa Lề Luật và công bố cung cách sống luân lý, thường ở trong hội đường (4,23; 5,2; 7,29; 9,35; 11,1; 13,54; 21,23; 26,55; 28,20). Bài diễn từ sẽ tập trung vào mầu nhiệm Nước Trời (c. 11), nhưng được diễn tả bằng một ngôn ngữ tiêu biểu, bằng "dụ ngôn" (x. cc. 3.10.13). Chi tiết này tương ứng với cc. 10,13,34 và 53.
* Dụ ngôn Người gieo giống (3b-9)
Đọc bài dụ ngôn, ta ghi nhận: Ta không thấy nói là đất mầu mỡ hay cằn cỗi, bùn lầy hay khô cứng, bằng phẳng hay mấp mô. Ta cũng không biết là vụ gieo giống được thực hiện vào mùa thu hay đầu mùa đông. Cũng khôn có một lời nào về khí hậu. Như vậy, chỉ những điều được nói tới trong bài mới quan trọng thôi. Nhân vật chính là "người gieo giống" (ho speirôn) mà ta có thể thêm vào tính từ "siêu đẳng". Ông đi vào sân khấu một mình; ông làm một công việc lâu giờ và mệt nhọc, mà không hé một lời, hoặc để than trách hoặc để nói lên sự thỏa mãn. Ở đây, chỉ có các sự kiện. Ta có thể gọi đây là một "hành động biểu tượng" được minh họa bởi một nhà bình luận giấu mặt.
Có nhiều yếu tố của bài dụ ngôn được nêu ra: hành vi gieo giống, hạt giống, các loại đất, chim trời,...; nhưng có thể nói độc giả được mời chú ý tối đa đến người gieo giống, công việc của ông, sự cần mẫn, sự can đảm, sự cương quyết của ông, cũng như các kết quả. Ông là một nông dân lạc quan, tin tưởng rằng cả "các con đường" khô cứng, những nơi sỏi đá, các bụi gai cũng có thể làm cho hạt giống sinh hoa kết quả. Không phải là ông thiếu kinh nghiệm, vì bất cứ người nào ít kinh nghiệm nhất cũng hiểu rằng hạt giống không thể tăng trưởng trên những mảnh đất loại đó, nhưng ông là người cải tổ các kỹ thuât truyền thống.
Thật ra công việc gieo giống chỉ là khởi điểm để đưa tới điểm khác. Tác giả đang nghĩ tới hoạt động của một người thợ khác, là nhà rao giảng Tin Mừng, hay chính xác hơn, đó là chính Đức Kitô. Chính Người đã cách mạng các tiêu chuẩn của việc giảng dạy quen thuộc (của người Pharisêu) khi chuyển sứ điệp của Thiên Chúa cho mọi hạng người, không phải chỉ cho những người "tốt", nhưng cho mọi người. Sứ mạng của Người không được bù đắp bởi những thành công tức thời (trái lại, thập giá đang chờ Người!), nhưng Người không đầu hàng trước các thất bại, Người tiếp tục đi tới và gieo vãi. Ông đã tưởng rằng luôn có trước mặt một đám đất tốt, nếu không, ông đã chẳng phí phạm hạt giống. Thế nhưng cũng một loại hạt giống lại đạt được bốn loại kết quả: những nỗ lực đầu tiên đã thất bại, chỉ những nỗ lực cuối cùng mới có kết quả. Đức Giêsu cũng đã ở trong hoàn cảnh tương tự. Người đã thường xuyên ra đi, ngay từ buổi đầu, để gieo Lời trên khắp các nẻo đường Paléttina, nhưng mặc dù lao nhọc, Người không thâu đạt được các kết quả tốt. Sự hăng hái ban đầu nay đã tan biến nơi các thính giả và nhiều người đã rút lui, không bước theo Người nữa. Dụ ngôn đang đương đầu với phương diện chướng kỳ nhất của sứ vụ Nước Trời: dường như phần lớn công việc tông đồ, giống như phần lớn hạt giống, đã bị phí đi. Nhưng Đức Giêsu không nản chí, Người không nhìn tới thời giờ và sự mệt nhọc; Người không khựng lại trước các thất bại; Người đã tiếp xúc gặp gỡ (x. 11,19), để cho thấy rằng cả mảnh đất khô chồi nhất vẫn có thể trở thành đất "tốt".
Trong khi biện minh cho các kết quả của công việc của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, dụ ngôn cũng trả lời cho các đòi hỏi biện giáo và thần học của cộng đoàn tiên khởi. Nhiệm cuộc cứu độ mới này phải chấp nhận nguyên tắc là thành công chỉ đến xuyên qua thất bại. Vậy có thể tóm tắt ý nghĩa dụ ngôn như sau: Cũng y như người gieo giống đã làm công việc của mình xuyên qua vô số khó khăn thì mới đạt thành công, Nước Thiên Chúa được Đức Giêsu khai mào sẽ chỉ được thiết lập xuyên qua vô số những thất bại đáng kể. Và đó lại chính là điều mà cả người Pharisêu lẫn các đám dông không thể "hiểu" được. Nhưng thành công được nêu ra trong bài dụ ngôn cũng là một lời khuyến cáo: có hạt được gấp trăm, nhưng có hạt chỉ được sáu chục, và có hạt lại chỉ được ba chục mà thôi. Kết quả có đó vẫn không được làm cho người môn đệ rơi vào tình trạng lạc quan ngây thơ mà không tiếp tục cố gắng nữa.
* Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (10-17)
Đức Giêsu vẫn còn ở trên thuyền (c. 2), nhưng các môn đệ vẫn cứ đến gần Người mà hỏi, mà cho đến nay ta cũng chẳng thấy các ông đâu cả! Các ông trao đổi với Người một câu chuyện (x. cc. 10.18.241.31) kéo dài khá lâu trong khi đám đông thinh lặng chứng kiến (c. 36). Đây những chỗ thiếu mạch lạc do công việc soạn thảo.
Giảng dạy bằng dụ ngôn là một cách mới, do đó, cần biện minh. Ở đây tác giả thu gom lại các câu thuộc nhiều xuất xứ có tầm mức khác nhau dường như không đáp ứng mục tiêu chờ đợi. Chúng giúp "giải thích" vì sao các môn đệ đón nhận, còn người Do-thái thì không đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này, chúng ta đã thấy ở 11,19.25-26. Ở tại nguồn, có sự quảng đại vô biên của Thiên Chúa, Đấng tùy nghi "cho" (didômi) những người này mà không cho những người kia được hiểu các mầu nhiệm Nước Trời (c. 11). Theo văn mạch, "anh em" là các môn đệ, còn "họ" là dân chúng (c. 2). Sự cứng tin của người Do-thái, Hội Thánh sơ khai thấy là không hiểu được, nên đã gán thái độ tiêu cực này cho một hành động (trừng phạt) của Thiên Chúa. Trước đó, Đức Giêsu đã giải thích đây là ý muốn của Thiên Chúa (x. 11,25-27). Lịch sử được giải thích, hoặc đúng hơn, được bẻ lại theo thần học, nhưng làm như thế là gây ra những trục trặc trầm trọng hơn những trục trặc người ta muốn giải quyết.
Lời khẳng định hàm hồ ở c. 12 được làm sáng tỏ bởi một lời khác còn tăm tối hơn. Lời này minh họa sự tự do của Thiên Chúa nhưng che mất sự công minh của Người. Động từ "ban/cho" nêu bật sự quảng đại của Đấng Tối Cao, nhưng chỉ cho một số người, là những người đã được ưu đãi, khiến cho họ thêm dồi dào, còn những kẻ không có gì, thì còn bị tước mất cả những gì họ có thể có (c. 13).
Sau những lời "tâm sự" này, Đức Giêsu giải thích lý do dùng ngôn ngữ dụ ngôn bằng cách nại đến một bản văn của Isaia (6,9-10). Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử cứu độ, người ta thấy những thất bại như Đức Giêsu. Dường như đây là thân phận của các ngôn sứ. Nhưng trước khi trích dẫn đoạn dài (cc. 14b-15), Mt tóm tắt đoạn văn một cách rõ ràng (c. 13b). Đức Giêsu đã chọn ngôn ngữ ẩn dụ, một kiểu nói thường thấy nơi các ngôn sứ, "bởi vì" (hoti nguyên nhân) các người đồng hương đã không muốn "thấy và nghe" những gì Người đã loan báo và đề nghị cho họ bằng ngôn ngữ thông thường. Đây là một sự thay đổi trong chiến thuật do sự cứng cỏi ương bướng của các thính giả, chứ không phải do một phương pháp mục vụ mới. Ai đã từ chối đề nghị đầu tiên, thì sẽ nhận được một đề nghị khác không phải dễ hơn, nhưng tối tăm hơn, che phủ hơn, huyền bí hơn. Sự từ khước của con người là nguyên do khiến Thiên Chúa, Đức Giêsu co lại. Mc còn cứng rắn hơn nữa vì ngài gán cho Đấng Cứu thế ý định trừng phạt: "để [hina mục đích] họ có nhìn mãi nhìn hoài cũng chẳng thấy" (Mc 4,11)2.
Mt rút bản văn Is 6,9-10 từ Bản dịch LXX; so với bản Híp-ri, trong Bản dịch Hy Lạp này, mọi nét phi lý về thần học đã bị loại đi. Vị ngôn sứ tiên liệu sứ mạng của ông sẽ thất bại ngay bước đầu, do các thính giả cứng lòng. Ông vẫn mạnh mẽ can đảm làm việc để mong hoán cải toàn thể Israel. Như thế, nếu công việc của ông không đạt được kết quả mong ước, lỗi thuộc về con cái Israel. Đức Giêsu cũng thấy sứ mạng của Người đang đi vào con đường đó. Nhưng khi họ từ chối Đấng Mêsia, họ đã làm cho lời sấm ngôn nên trọn (c. 14). Ngôn sứ Isaia dĩ nhiên không nghĩ tới lời giảng của Đức Giêsu, nhưng điều này không ngăn cản Mt thấy rằng vị ngôn sứ cũng đã báo trước về số phận của lời rao giảng này.
Tác giả đang "cay cú" với hội đường, nhưng ngài còn tỏ ra bận tâm với cộng đoàn hơn (cc. 16-17). Mối phúc của các môn đệ đã được công bố ngay trong phần mở của Bài Giảng trên núi (5,12). Bây giờ Mt cảm thấy cần nhắc lại để nâng đỡ đức tin vẫn còn yếu ớt của các tín hữu. Mối phúc này hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận bản thân và công việc của Đức Kitô. Đây chính là vinh dự họ có, còn lớn lao hơn vinh sự của các vị Tổ phụ Cựu Ước. Bằng móc nối này, Mt cũng cho thấy cộng đoàn Do Thái – Kitô hữu này mới là sự nối dài của Israel chân chính (chứ không phải là hội đường).
* Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (18-23)
Phần "giải thích" lại tách khỏi chính bài dụ ngôn (cc. 3-9) về mặt nội dung và hình thức. Câu truyện đầu được thêm vào nhiều chi tiết mới. Các chi tiết mô tả là hạt giống, gai góc, chim trời,... đã có một ý nghĩa biểu tượng mà trước đây không có. Dụ ngôn đã biến thành hầu như một ẩn dụ và đã thay đổi cả chủ đề. Bài gốc là một loan báo về những chiến thắng tương lai của Nước thiên sai; đề tài của "phần giải thích" lại nhìn đến số phận của lời nơi mỗi thính giả. "Dụ ngôn Người gieo giống" đã chuyển thành dụ ngôn về "Lời rao giảng Nước Trời" (c. 19); từ ngữ logos được dùng 5 lần, trong khi không xuất hiện trong phần đầu. Các dạng đất khác nhau không tượng trưng các thính giả nghe lời Đức Giêsu rao giảng, nhưng các loại Kitô hữu khác nhau, các tâm trạng khác nhau họ có khi nghe sứ điệp Tin Mừng. Người giải thích đã quên mất cử tọa Do Thái đang được Đức Giêsu ngỏ lời với, để nói với một cử tọa đã và đang trải nghiệm những khó khăn mà đức tin Kitô giáo gặp phải. Trong bản văn đầu, tác giả nhắm vào sự tương phản và hướng về bài học chung kết phát xuất từ kết quả phong phú do đất tốt; ngược lại, phần giải thích quan tâm đến cả các mưu toan không thành công. Trong bản văn này, các nguyên do ngăn cản hoặc làm chậm sự phát triển của hạt giống là gian nan (thlipsis) và ngược đãi (diôgmos); các nghịch cảnh này liên hệ đến hoàn cảnh của Hội Thánh sơ khai (tương tự trong Lc 8,15: hypomonê hiểu là "sự kiên trì" khi gặp các nguy hiểm đối với đức tin).
Bản văn mới này cho thấy rằng mọi sự tùy thuộc thiện chí của mỗi một tín hữu. Tác giả đã thay từ ngữ số phức ha men, "có những [hạt]", alla, "có những [hạt] khác" (cc. 4-8) bằng từ số đơn ("ai nghe": cc. 20.22.23). Lời đến tai mọi người (đám đông và các môn đệ) nhưng không phải mọi người đều quan tâm đến và vâng lời như nhau ("nghe" theo nghĩa Kinh Thánh là "hiểu", tức là gắn bó về trí thức, và "vâng lời", tức gắn bó bằng đời sống. Đây chính là thần học kinh Shema (Đnl 6,4-5) được vào cho các Kitô hữu.
+ Kết luận
Bài Giảng trên núi và bài Diễn từ về truyền giáo nhắm trực tiếp đến chính tư cách môn đệ; còn các dụ ngôn lại nhắm đến cách thi hành sứ mạng truyền giáo, hoàn cảnh của Hội Thánh. Vào lúc tác giả viết, Hội Thánh đã trở nên vững vàng ở khắp nơi. Dù vậy, sự cứng lòng của người Do Thái vẫn là một cái gai làm cho các tín hữu phải đau đớn (cc. 10-17). Cần phải nêu bật tất cả các cố gắng của Đức Giêsu nhằm đưa sứ điệp Phúc Âm đến cho người đồng hương của Người.
Tuy nhiên, sứ điệp cũng được gửi đến cho các môn đệ của Đức Giêsu. Họ phải thấy mình vừa được nhắc nhở vừa được trấn an: được nhắc nhở hãy trở nên đất tốt và sinh hoa quả tối đa; được trấn an do biết Đức Giêsu hoàn toàn làm chủ tình thế: Người có gặp thất bại, nhưng các thất bại này được tiên liệu trong chương trình của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Quả thật, thành công đến từ thất bại. Thất bại, như tấn bi kịch thập giá sẽ cho thấy, là đảm bảo cho thành công. Do đó, bài dụ ngôn là một sứ điệp chiến thắng gửi đến cho các tông đồ và các tín hữu, là một lời khuyến khích và trấn an. Hiểu như thế, bài dụ ngôn là một lời loan báo mang tính ngôn sứ báo trước các chiến thắng của Đức Kitô và của Hội Thánh.
2. Hoạt động của Đức Giêsu chỉ đâm chồi và kết trái tại nơi nào có đất tốt, nghĩa là tại nơi nào Người gặp được những tư thế sẵn sàng. Như thế, người tín hữu phải trở thành "đất tốt" nếu muốn làm cho hạt giống thần linh nhanh chóng đâm chồi và kết quả nơi mình và nơi người khác. Phải mở trái tim ra, phải san bằng con đường mà đón sứ điệp Kitô giáo. Bài dụ ngôn đang muốn lay động tình trạng tê cóng, lưỡng lự hoạc cứng cỏi của các thính giả.
3. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã cho biết rằng người môn đệ không chỉ được đánh giá theo những gì đã biết, nhưng còn theo những gì đã làm (7,13-27). Tiêu chuẩn này được nhắc lại trong phần giải thích dụ ngôn. Không phải chỉ cần nghe lời giảng là đã được cứu, nhưng còn phải diễn tả ra bằng những việc tốt lành, tức là làm cho lời rao giảng đã nghe sinh hoa kết quả. Tiêu chuẩn này đã được nhắc lại nhiều lần (x. 3,8.10; 7,17-19; 12,33). Các quả chứng tỏ phẩm chất của cây; không có hoa quả, mọi sự chỉ là chuyện bì phu.
4. Đời sống Kitô hữu sẽ gặp vô số nguy hiểm (Satan, gian nan, thử thách, bách hại, các lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý). Cần phải có sức mạnh và sự can đảm mà thắng vượt chúng. Bài dụ ngôn về Lời là bài dụ ngôn về đức tin: bài này minh họa tấn bi kịch của người phải hằng ngày chiến đấu để giữ vững sự ưng thuận đối với sứ điệp của Đức Kitô.
73. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN NGƯỜI GIEO GIỐNG
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Người lấy dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều”: Matthêu thường dùng động từ nói (lalein) khi Chúa Giêsu thốt ra các dụ ngôn; vì đây không còn là rao giảng (kêrussein), là loan báo công bố Nước Trời, nhưng là giáo huấn về Nước đó. Một kiện quan trọng: giáo huấn này được ban bố cho các đám đông nhưng chỉ có các môn đồ là hiểu được. Đây không phải một giáo huấn bí truyền dành riêng cho một nhóm người được khai đạo như trong phái Essêni, cũng chẳng phải là các chân lý tổng quát mà quần chúng có thể đồng hóa trực tiếp, song là các dụ ngôn được đưa ra cho hết thảy mọi người. Trong hy ngữ, danh từ parabolô dịch chữ hy bá mâshâl là tiếng chỉ mọi loại giáo huấn dưới hình thức so sánh, nhiều khi khó hiểu: người ký lục "cố moi ra nghĩa bí ẩn của các câu ví, lăn lộn với những câu thai của dụ ngôn" (Hc 39, 3). Tư tưởng của ba Tin Mừng nhất lãm là: Việc Chúa Giêsu chọn hình thức giảng huấn cho quần chúng là một điều đáng ngạc nhiên.
“Này người gieo giống đi ra": Dù ít được khai triển hơn chủ đề mùa gặt, chủ đề gieo giống cũng được Cựu ước biết đến (Hs 2, 25; Gr 31, 27; Dcr 6, 12- 13). Ở đây dụ ngôn kể lại một sự kiện đã xảy ra; mọi động từ đều ở thì aoriste; không có vì cho thấy đó là một quá trình phi thời gian. Kỳ thực, Chúa Giêsu loan báo một biến cố cánh chung: thời sau hết đã bắt đầu, Thiên Chúa đã gieo Hạt giống của Người (Chúa Giêsu) trên trái đất. Từ đây điều quan trọng là cái kết quả cuối cùng của việc gieo giống đó.
Các câu 4-8 thật khó chú giải. Dụ ngôn nhấn mạnh trên điểm nào, trên thất bại tạm thời của việc gieo vãi hay trên thành công tối hậu? Nếu nhấn mạnh đến sự thành công là biến dụ ngôn thành một lời khích lệ: giờ Thiên Chúa đã đến và cùng với giờ đó là cả một vụ mùa phì nhiêu không thể tưởng; dù thất bại và bị chống đối, Thiên Chúa vẫn làm xuất hiện từ những bước đầu chẳng mấy hy vọng đó một chung cục huy hoàng vĩ đại như Ngài đã hứa (Jeremias). Lối giải thích này đặc biệt dựa trên câu cuối cùng là câu nói đến năng suất 100, 60 và 30 một năng suất coi như khổng lồ, so với các con số Dalman đưa ra, theo đó thì năng suất trung bình thường khoảng 7, 5).
Nhưng lối giải thích này đụng phải một vài khó khăn:
1/ Một sử gia về kinh tế, K.D.White ("The Parable of 'the Sower", JTS 15~1964) 33-37-bài báo đã được Léon Dufour trích dẫn), cho thấy cách tính của Dalman vô giá trị năng suất 100 hay 400 trên 1 không có gì lạ lùng, vì vẫn thấy có trong vùng Giléad, gần Gadara chẳng hạn.
2/ Nếu Matthêu muốn nhấn mạnh đến sự phong nhiêu của mùa gặt, có lẽ ông đã nhấn mạnh theo chiều đi lên (30, 60, 100) thay vì đi xuống (100, 60, 30), vì như thế sẽ phá vỡ tính cách lạc quan của dụ ngôn và làm yếu đi bài học tín thác mà ông muốn đưa ra.
3/ Trong 5 câu của dụ ngôn, đã có 4 câu mô tả sự thất bại trong việc gieo vãi; nơi lời giải thích dụ ngôn, cũng tương đương như vậy.
4/ Việc nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống ăn khớp hơn nhiều với văn mạch chung của các chương ấy trong Tin Mừng Matthêu, đặc biệt hai chương 11-12 miêu tả phong trào chống đối ngày càng đi lên trước các việc quyền năng trong các chương 8-9.
Thành thử xem ra phải đọc lại dụ ngôn trong viễn ảnh này. Dĩ nhiên nó không tuyệt đối loại bỏ lối chú giải "lạc quan" (Jeremias, G.Dehn v.v...) vì quả thực hành động của Đấng Messia sẽ khải hoàn vinh thắng cách bất ngờ. Nhưng vì các người đồng thời của Chúa Giêsu liên kết (cách tự nhiên) Đấng Mêssia với thành công, nên đấy chắc không phải là khía cạnh Người muốn nhấn mạnh trong các dụ ngôn của Người. Điều làm nên "mầu nhiệm vương quốc", mầu nhiệm mà chỉ một nhóm nhỏ gồm các “người bé mọn" mới có thể hiểu, chính là việc Đấng Messia chỉ thành công sau khi đã gặp thất bại. Do đó có thể tóm kết ý nghĩa của dụ ngôn như sau: Như người gieo giống (xứ Palestine) chỉ thành công sau khi trải qua biết bao khó khăn trở ngại, thì cũng vậy, Nước Thiên Chúa do Chúa Giêsu khai dựng chỉ có thể thiết lập sau khi đã trải qua nhiều thất bại ê chề. Và chính đó là điều mà người Biệt phái cũng như đám đông không thể "hiểu".
"Đã ban cho các con biết những mầu nhiệm Nước Trời": Trong các Tin Mừng, chỉ ở đây mới có thành ngữ "mầu nhiệm Nước Trời". Theo văn mạch của đoạn văn, thành ngữ này ám chỉ nhiệm cục của Thiên Chúa theo đó việc khai mạc Nước Trời được thực hiện xuyên qua các thất bại và thử thách của Chúa Giêsu. Hình thức parfait của động từ cho biểu lộ đây là sự hiểu biết mà các môn đồ đang có bây giờ, vì trong quá khứ nó đã được ban cho họ, nhờ và trong sự hiểu biết Chúa Giêsu; đây không phải là một mặc khải đặc biệt được thêm vào kiến thức của họ về Chúa Giêsu từ trước. Khi chấp nhận trở thành ké "bé mọn", khi đặt niềm tin vào Chúa Giêsu mà họ đang thấy (dưới những khía cạnh nhiều khi rất đáng ngạc nhiên), họ đi vào mầu nhiệm Nước Trời, mà Chúa Giêsu là tâm điểm và là chìa khóa giải thích.
"Vì kẻ có thì sẽ được cho thêm": Ai biết ngoan ngoãn khiêm nhu và rộng mở lòng mình đối với Thiên Chúa, sẽ được ban cho ơn hiểu biết dồi dào về mầu nhiệm của Ngài; nhưng kẻ nào chỉ khư khư nắm giữ các quan niệm chật hẹp và quá nhân loại về Thiên Chúa, sẽ bị cất mất cả cái điều mà họ tưởng đang có; ngày phán xét, họ sẽ bị tước đoạt tất cả.
"Mắt các con có phúc...": Lời trích dẫn Isaia trong câu trước nói tới những kẻ nhìn và nghe mà không hiểu. Để theo đúng lối tương phản Chúa Giêsu muốn, phải chú giải mối phúc này như sau: các con có phúc không những vì đã nhìn và nghe cái mà mọi người đều nghe và nhìn. (Nghĩa là bản thân Ta và các công việc của Ta), nhưng còn nhìn và hiểu nữa.
"Vậy các con hãy nghe dụ ngôn người gieo giống": Lời giải thích dụ ngôn đi theo một hướng hơi khác với hướng của dụ ngôn (đó là điểm mà, ngoài một số sự kiện liên hệ đến ngữ học làm ta tin rằng đây là một kiểu chú giải khuyến thiện do Giáo Hội sơ khai đưa ra, nhưng giả thuyết này không được chứng minh). Trong dụ ngôn, chính sự kiện gieo giống, nghĩa là hành động của Thiên Chúa trong lời rao giảng của Chúa Giêsu, nằm hàng đầu. Trong khi ở phần giải thích, đó lại là cách thế đón nhận Lời, là khía cạnh chủ quan, là lời đáp trả của mỗi người. Tâm điểm đã bị xê dịch: từ một giáo huấn về mầu nhiệm của một Đấng Messia chịu thất bại về phương diện nhân loại người ta đi sang việc khuyến cáo đề phòng, sang lời huấn dụ hãy biết đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù sao, giữa dụ ngôn và lời giải thích, không có đối nghịch mà chỉ có khác biệt về trung tâm phải nhấn mạnh thôi.
KẾT LUẬN
Khi nghe dụ ngôn này, quần chúng có thể nhận ra mình trong ba loại đất cằn cỗi kia, và đi từ suy tư đó, họ có thể hồi tâm lại, mặc những tâm tình xứng hợp để hiểu (vì ánh sáng nửa vời của dụ ngôn vẫn là "một ân huệ, một lời mời gọi hãy cầu xin nhiều hơn và nhận lãnh nhiều hơn " chú thích của BJ). Còn các môn đồ vừa được chất vấn vừa được trấn an: được chất vấn để trở nên mảnh đất tốt hầu sinh hoa quả đến mức tối đa, và được trấn an nhờ việc Chúa Giêsu hoàn toàn làm chủ tình thế: Người ý thức các thất bại của mình và cho thấy chúng đã được tiên liệu trong kế hoạch của Thiên Chúa. Dụ ngôn cỏ lùng tiếp liền dụ ngôn người gieo giống loan báo các thất bại đó sẽ không ngăn cản nổi chiến thắng dứt khoát của Thiên Chúa trong ngày mùa sau hết.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Biết bao chính nhân và ngôn sứ Cựu ước, quảng đại và sẵn sàng hơn ta, đã suốt đời trông chờ sự mặc khải đã ban cho ta, mà không được. Họ mong ước nghe, thấy điều ta nghe thấy, nhưng không có gl được ban cho họ cả. Còn chúng ta ngày nay được Chúa tỏ lộ cho "các mầu nhiệm Nước Trời " qua tiếng nói của Giáo Hội.
2) Chúa Kitô đến đảo lộn lịch sử thế giới bằng cách gieo vào đó hạt giống Lời Người. Thế giới này trước kia cằn cỗi và đông ngóng ơn cứu độ, bây giờ có thể trở thành phong nhiêu và sinh được hoa trái. Cũng thế, Lời Chúa mà ta nghe mỗi Chúa Nhật phải đến đảo lộn cuộc đời của ta, kéo nó ra khỏi vùng sa mạc cằn cỗi, để làm nó đơm hoa trong các việc thiện và trong niềm vui.
3) Đôi khi ta giống như con đường trong dụ ngôn: nhận lãnh nhiều dấu chỉ của Chúa, nghe nhiều lần lời Tin Mừng, nhưng lời đó chẳng nói gì với ta, ta như người không hiểu.
4) Trái lại nhiều lúc khác ta nghe và vui vẻ đón nhận lời Tin Mừng, nhưng giống như vùng đất sỏi đá của dụ ngôn. Lời Chúa chạm đến ta như một luồng sáng, như một điều hiển nhiên, như một ao ước thực hiện ngay tức khắc. Nhưng trước khi ta bắt tay hành động, thì các trở ngại đã đến chồng chất, dù đôi khi không quan trọng mấy. Vì lời chế giễu của một người thân, vì nể nang kẻ khác mà tất cả tan tành như mây khói.
5) Cũng có khi ta đã bắt đầu sống thực một lời Tin Mừng khó khăn nào đó. Nhưng các trách vụ, các lo lắng thường nhật, đời sống xã hội với những yêu sách trần tục của nó đã làm ta chỉ trung tín trong chốc lát. Và lời Chúa đã thành phụ tùy.
6) Thỉnh thoảng ta là mảnh đất tốt, và rất lâu, có lẽ trong nhiều năm ta cảm nghiệm được niềm vui sâu xa được trọn vẹn thuộc về Chúa và anh em. Đó là một ân huệ lớn lao, ta phải khiêm tốn cầu xin mỗi ngày.
7) Mảnh đất tốt là những người, như các môn đồ, tín thác vào Chúa dù Lời Ngươi gặp nhiều thất bại nhất thời như. Giáo Hội bị bách hại, một số linh mục sống bê bối, nhiều Kitô hữu ít sống Tin Mừng, tội lỗi của bản thân ta, những cám dỗ thường trực thúc giục ta sống đời ích kỷ.
8) Có nhiều dị biệt trong việc hiểu Lời Chúa. Tất cả những kẻ đạt đến đức tin không nhất thiết đạt đến sự trưởng thành Kitô giáo của người môn đồ đích thực của Chúa Giêsu. Đức tin có thể coi như mầm kiến thức và khôn ngoan của- Thiên Chúa. Nhưng chính mức độ yêu thương và từ bỏ của mỗi người chúng ta mới quyết định mức độ thâm sâu mà Thiên Chúa đưa ta vào tròng lãnh vực thâm giao với Ngài.
9) Không ai có thể xét đoán sự phong nhiêu của kẻ khác. Nào ai biết được bề trong các trở ngại mà người bên cạnh gặp trong cuộc: sống Kitô hữu của họ (chim trời, Satan, gai góc, mặt trời. nóng cháy của dụ ngôn)? Biết đâu khi gặp cùng một khó khăn như thế, chính ta lại cằn cỗi hơn...
10) Niềm vui vỡ bờ của môn đồ Chúa Giêsu là biết rằng: dù gặp trở ngại, Lời Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng trong các tâm hồn và làm phát sinh một vụ mùa phì nhiêu. Trong lúc chờ đợi mỗi người hãy tìm cách sống Lời Chúa trong chính cuộc sống của mình.
74. Suy niệm của Noel Quesson
Trong ba Chúa nhật của mùa hè đang đến, chúng ta sẽ đọc bảy bài dụ ngôn mà Thánh Matthêu đã tập họp trong bài giảng dài thứ ba của Đức Giêsu. Giờ đây, Đức Giêsu đi qua một khúc quanh trong sứ vụ của Người: Người đụng phải sự thù ghét công khai của các thủ lãnh tôn giáo. Họ quyết định loại trừ Người (Mt 12,14)... Những đám đông, sau nhiệt tình dễ dàng lúc ban đầu, đã thất vọng bởi vì Đấng Mêsia ấy từ chối bước qua hành động chính trị.
Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven biển hồ. Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn toàn thể đám đông thì đứng trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
"Dụ ngôn" dịch từ "mâchâl" của tiếng Do Thái, có nghĩa là "một chuyện kể tượng trưng dùng để làm cho người ta khám phá một ý nghĩa ẩn giấu": Thế giới tạo vật đầy những biểu tượng. Khi quan sát những thực tại tầm thường của cuộc sống hàng ngày. Đức Giêsu nhìn qua chúng, những thực tại thánh thiêng. Ví dụ như công việc của những nông dân làm Người nghĩ đến một sự việc khác... Các bạn thử đoán việc gì nào?
Người nói: "Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên sỏi đá chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay vì đất không sâu nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt...”
Những hạt giống tội nghiệp! Và người gieo hạt đáng thương! Tại sao Đức Giêsu kể cho chúng ta nghe một loạt những thất bại ấy? Cho đến bây giờ công việc của người gieo hạt hoàn toàn vô ích.
Chúng ta cũng thế, thường trong những thực tế nào đó của cuộc sống, chúng ta có ấn tượng đã thất bại thảm hại... ngay từ đầu, và sau một thời gian ngắn nẩy mầm hoặc sau một thời dài hơn thành công. Tất cả những thất bại này, Đức Giêsu đã gặp. Trong lúc kể lại dụ ngôn này, Người nghĩ đến những thất bại trong việc tông đồ của chính mình. Không che giấu mọi sự thất bại đó Đức Giêsu phân tích chúng một cách sáng suốt...
Nhưng Người muốn đi tới đâu? Người gieo hạt phải chăng đã mất thời gian vô ích?
Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa, kết quả: hạt dược gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe.
Vậy đây là một bài học phi thường về lòng trông cậy mà Đức Giêsu đem lại cho chúng ta. Khi bạn nhìn đời sống đáng thương của bạn, khi bạn nhìn Giáo Hội, hoặc thế giới bạn chớ ở lại trong những nhận định bi quan và nản chí: bất chấp mọi thất bại, một mùa gặt sẽ đến. Các bậc cha mẹ gặp nhiều khó khăn với con cái mình, xin các ông bà chớ từ chối gieo hạt. Giới trẻ chưa thành công trong công việc của mình, các bạn hãy lắng nghe sứ điệp lạc quan và thực tế của Đức Giêsu. Mặc dù sứ điệp đã được công bố hai ngàn năm nay, nó vẫn giữ được mọi sự mới mẻ hợp thời đại. Thế giới ngày nay luôn cần đến sứ điệp ấy.
Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con biết phân biệt các hạt giống nào... hứa hẹn những mùa gặt... bất chấp mọi vẻ bề ngoài trái ngược.
Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ, Người đáp: "Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa! còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.
Không đi vào việc giải thích chuyên môn đoạn văn khó hiểu này, ít nhất chúng ta hãy nhận ra chân lý rất hiện đại của nhận định ấy... Có những thời kỳ người ta có sự nhất trí trong đức tin và toàn thể những người được dạy giáo lý xem ra đều gắn đức tin ấy với đức tin được giảng dạy. Ngày nay, chúng ta tìm thấy tình hình mà Đức Giêsu gợi ra: người ta có thể "tiếp nhận" hoặc "từ khước” lời đề nghị của đức tin. Đức Giêsu phân biệt rõ ràng hai loại thính giả: những người nhìn, nghe và hiểu... và những người không nhìn, không nghe. Đức Giêsu đã không chọn lựa để Người trở nên khó hiểu? Người không nói: "bằng dụ ngôn" để che giấu một số chân lý cho lột số người.
Thật ra, Đức Giêsu không thể nói về Thiên Chúa cách nào khác với dụ ngôn. Sự thuyết giáo của Người mạc khải những "mầu nhiệm” vượt quá con người một cách vô cùng tận, và một phần lớn vẫn còn bị "che giấu”... Chính trong phần không rõ ràng này mà tự do của con người được kêu gọi. Người ta không “tự do" trước điều gì đã hiển nhiên. Mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa, trong tất cả sự phong phú của nó, không phải là một chân lý được áp đặt. Đó là một bí mật chỉ được bày tỏ cho những tấm lòng sẵn sàng lắng nghe. Một dụ ngôn không rõ ràng... Phải tìm kiếm... Phải ước muốn.
Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia: "Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Và lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành”.
Chúng ta cảm thấy sự đau khổ của Đức Giêsu nhiều dường nào trước những sự từ khước ấy! Người đã đến để đem lại cho họ ánh sáng, để mở mắt họ ra... để chữa cho họ bệnh mù lòa. Nhưng Người không thể cũng không muốn “ép buộc” họ. Người tôn trọng tự do của họ.
Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống.
Vâng, Lạy Chúa, con muốn lắng nghe. Xin Chúa cho con đôi tai tinh tế và đôi mắt mới mẻ.
Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ được gieo bên vệ đường.
Trong việc giải thích dụ ngôn, điểm nhấn mạnh không được đặt trên khả năng của hạt giống hay niềm hy vọng không gì thắng nổi của người gieo hạt (như chúng ta đã ghi nhận)… nhưng đặt trên sự khác nhau của đất, nghĩa là trên những thiên hướng của những người đón nhận "lời Thiên Chúa"... Trong nhóm người thứ nhất đức tin không bám, không đâm rễ, hạt giống cũng không nẩy mầm... bởi vì chim chóc đã đến ăn mất hạt trên đường.
Bên trên những hình ảnh cụ thể. Đức Giêsu còn nhìn rất xa: người lắng nghe Lời Chúa có một kẻ thù. Chúng ta đã quên điều đó sao? Một kẻ thù đáng ngại mà Đức Giêsu gọi là "quỷ dữ". Đàng sau con người không đạt được đức tin, có một thứ vực thẳm mầu nhiệm, và cũng như chính đức tin nó không hoàn toàn trở thành hợp lý được: nó là một quyền lực ẩn giấu mà con người không làm chủ được. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi quỷ dữ!
Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay...
Sau kẻ không tin vì đức tin chưa được nẩy mầm, giờ đây cũng theo Đức Giêsu, là người tín hữu “bỏ ngũ”, người ấy bỏ đạo như cách nói rõ ràng của Thánh Luca trong đoạn văn song song (Lc 8,18). Thiếu rễ cây? Người ấy nhiệt tình theo Đức Kitô khi mọi sự dễ dàng xuôi chảy, và bỏ Người khi khó khăn, thử thách, đau khổ; ngược đãi ập đến. Than ôi! Chúng ta biết rõ hoàn cảnh này thường xảy đến. Lạy Chúa, xin cho con được bám rễ trong Chúa!
Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt khiến Lời không sinh hoa kết quả gì…
Giờ đây là "người tín hữu không đạt đến sự chín muồi của đức tin"... bởi vì người ấy bị tinh thần của thế gian giữ lại bị bối cảnh vô tín xung quanh bao vây. Chúng ta cảm thấy rõ ràng đối với Đức Giêsu đức tin là một công việc phát triển lâu dài, và phải chiến đấu chống lại mọi thứ trở ngại. Đức Giêsu đã thường xuyên cảnh báo các môn đệ chống lại ảnh hưởng của thế gian (Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).
Đức tin bị bóp nghẹt? Đức tin dần dần xanh xao vì thiếu hơi thở và một ngày kia bị chết nghẹt. Phần còn lại, tất cả đã chiếm quá nhiều chỗ trong đời sống: "Các bạn biết đấy? Làm sao tôi có thể đi nghe Lời Chúa ngày Chúa nhật! Tôi còn đi xem đá banh, đi chơi lướt ván... và vì tôi quá mệt với tuần lễ của tôi, vậy thì tôi phải tranh thủ ngày nghỉ “cuối tuần"... Và chính điều chủ yếu phải vượt qua mọi thứ khác!
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự quyến rũ của thế gian và bả vinh hoa phú quý.
Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.
Sinh hoa kết quả!
Đó là điều mong ước mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện (Mt 3,10; 12,33; 13,23-26; 12,43). Một đời sống tràn đầy, phong phú. Đối với Đức Giêsu, điều kiện chủ yếu để đời sống chúng ta sinh hoa, kết quả là Lời Thiên Chúa được lắng nghe và hiểu lâu dài. Thông qua sự phân tích về các mức độ lác nhau của đức tin chúng ta đoán ra rằng không có gì vĩnh viễn là chung cuộc. Đó là điều mà ngày hôm nay chúng ta nhận định xung quanh chúng ta và ở trong chúng ta. Đức tin là một "đời sống", một ngày nào đó được gieo xuống, lớn lên và sinh hoa quả... nhưng là một đời sống mong manh phải được phát triển ở giữa nhiều nghịch cảnh đang tấn công nó…
Nếu chúng ta cần làm cho đức tin phát triển... thì chúng ta cũng phải trở thành những "người gieo vãi Phúc Âm", và chuẩn bị đất đai, ngõ hầu tấm lòng của anh em mình trở thành một mảnh đất tốt sinh ra gấp trăm. Chúng ta quan tâm đến chính hạnh phúc của họ: "Phúc thay ai lắng nghe Lời và đem ra thực hành!”
75. Chú giải của Fiches Dominicales
NGƯỜI GIEO GIỐNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Hiệu quả của Hạt giống Lời Chúa.
Ta đã kết thúc "bài diễn từ sai đi" bằng kinh nguyện truyền giáo của Đức Giêsu. Một lời nguyện tạ ơn, trái ngược hẳn với sự tiếp đón hờ hững lời Người giảng dạy tại Galilê. Với chương 13, ta lại gặp nhau trong một đoạn mới của Phúc âm thứ nhất (12,22; 16,20) mà sợi chỉ đỏ là căn tính thực sự của Đức Giêsu. Căn tính ấy đạt tới cao điểm trong lời tuyên xưng của Phêrô ở chương 16,16. Trong lúc các luật sĩ và biệt phái không ngừng lún sâu vào con đường mù quáng. Họ tuyên bố. "Người này trừ quỉ nhân thân Belzébolul, tướng quỉ”.
Những tâm hồn "bé nhỏ" lại mở rộng đón tiếp mầu nhiệm bản thân và sứ vụ của Ngài. Họ tự hỏi "Phải chăng người này là con vua Đavit. Trong bối cảnh này, Matthêu đặt bài diễn từ thứ ba của Đức Giêsu, bài "diễn từ bằng dụ ngôn một tập họp bảy dụ ngôn và bốn là của riêng ngài (dụ ngôn cỏ lùng, viên ngọc và lưới cá). Trong các dụ ngôn, Đức Giêsu biểu dương một "tài năng không ai bắt chước được, một người kể chuyện độc đáo" như J. Potin nhận định. "Dụ ngôn kích thích óc tò nó nắm bắt thực tại của cuộc sống hằng ngày, tách ra một mảng, dàn dựng thành cảnh để hướng thính giả về một thực tại vô hình? phụ thuộc vào điều mắt thấy tai nghe hằng ngày. Ngồi trên thuyền, Đức Giêsu thấy một đám đông mênh mông chen chúc nhau trên bờ hồ. Ngài bất đầu giảng dụ ngôn người gieo giống. Một dụ ngôn nói với những người thất vọng vì kết quả ít ỏi của lời Người giảng dạy, nói với các môn đệ vì họ có cảm tưởng rằng Lời Người chỉ gặp thuần thất bại. Một đụ ngôn của niềm hy vọng, rất hiện thực, vì như J. Dupont viết: "Những thất bại ấy, ngày nay đâu thiếu, cũng không thiếu những Kitô hữu chán nản. Đức Giêsu muốn thông truyền niềm tin không gì lay chuyển được của Người. Được Đức Chúa Cha sai, Người đã đến khai mạc Nước Thiên Chúa: "Này người gieo giống đi gieo". Và, bất chấp những khó khăn, chậm chạp, thất bại, mùa gặt cũng sẽ tới. Dường như Thiên Chúa gieo thuần trong thất bại? Nhưng từ những khởi đầu ít hứa hẹn ấy, sẽ bừng lên một mùa thu hoạch vượt quá mọi niềm by vọng: huê lợi kỳ diệu của hạt giống rơi trên "đất tốt", sẽ đền bù rộng rãi những thất bại. J. Potin nói tiếp: "Đức Giêsu không phải không biết đến hoàn cảnh phức tạp của con người trong đó Thiên Chúa muốn gieo mầm mống Nước Trời. Cách thế gieo hạt ở Palestine đã cho Ngài cơ hội giải thích nước Trời, người ta gieo trước khi cày ruộng. Người qua kẻ lại băng ngang làm đất chai lì, không cho hạt giống mọc lên. Đất không mầu mỡ hoài hoài. Đá trồi, gai mọc bóp nghẹt cây lúa trước khi nó kịp nẩy nở. Nhưng dù huê lợi không đồng đều đất mầu mỡ vẫn có. Người gieo, tức Thiên Chúa, ước lượng rằng hạt giống có mất mát, mùa gặt vẫn bội thu. Đức Giêsu khẳng định Nước Thiên Chúa sẽ đạt đến viên mãn dù có những chướng ngại. Đến mùa gặt, Thiên Chúa sẽ có lý do để mừng vui. Trong viễn tượng này, ta cảm thấy Đức Giêsu reo lên vui mừng. Ta đoán được điều đó trong các kết quả tăng dần: 30, 60, 100 cho một hạt. Hành động của Thiên Chúa không thể dẫn đến thất bại. Hành động ấy có hiệu quả, như "Lời của Người".
2. Những thửa đất khác nhau.
Tự thân dụ ngôn, dụ ngôn của niềm hy vọng, tập trung vào giạt giống - Lời Chúa và hiệu quả của nó. Việc giải thích dụ ngôn cho cộng đoàn ở các câu 10 và tiếp theo lại nhấn mạnh đến tính chất khác biệt của các thửa đất và phẩm chất đón nhận của chúng. Tin vào hiệu quả của Lời Chúa không được làm quên đi trách nhiệm của những kẻ nghe lời: Kết quả cụ thể của việc gieo hạt tuỳ thuộc vào thái độ đón nhận của họ. J. Potin kết luận: "Giáo Hội đã, nhân dụ ngôn này, tố cáo những thiếu sót tinh thần ngăn cản sự tiến bộ của đời sống Kitô hữu... ở mỗi thửa đất, ta dễ dàng thấy những thái độ mà các nhà giảng thuyết tố cáo: sa chước cám dỗ của Satan, nhất là trong lúc bị bắt bớ, sự hời hợt của đức tin, gắn bó với của cải vật chất.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Gieo lời Chúa với lòng can đảm và hào phóng.
Tôi có thể rút ra được một bài học nữa từ dụ ngôn người gieo giống. Thái độ của người có trách nhiệm loan báo lời Chúa. Đức Giêsu cảnh báo họ trước một cám dỗ: chỉ lo phân tích đất đai, đoán xét lòng người và hoàn cảnh, chuẩn bị sao cho đất sinh hoa kết trái. Vì thế, họ có khuynh hướng dành hạt giống cho thửa đất tốt, loại trừ những thửa đất xem ra không xứng đáng hoặc không có khả năng đón nhận lời Chúa... Sau cùng dụ ngôn nói rằng chính hạt giống bộc lộ phẩm chất của đất đai. Hạt giống không chỉ dành riêng cho đất tốt, cho những người lành, cho những người tốt, trong những hoàn cảnh rõ ràng, sau khi các vấn đề đề quân bình, công bình, phát triển, lương thiện, luân lý... đã được giải quyết. Ta vẫn thường bị cám dỗ: "Làm thế có ích gì?" "Với những người này, trong hoàn cảnh ấy, ta chẳng có gì để làm". Không, phải tung gieo Lời Chúa với lòng can đảm và sự hào phóng. Chính Thiên Chúa chứ không phải ta, sẽ thăm dò các tâm hồn. Ta vẫn thường ngạc nhiên: Lời Chúa bộc lộ đáy lòng thầm kín của con người, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các thượng tế và các tiến sĩ luật.
2) Người gieo giống kỳ lạ, vừa là người gieo, vừa là người bị gieo.
Dụ ngôn đưa vào cuộc một Thiên Chúa còn có nhiều điều để nói với ta, dù đã có nhiều bình luận, giải thích, để ta bắt đầu bằng những bình luận, giải thích của chính Phúc âm. Quả thực người ta có khuynh hướng lái dụ ngôn ra khỏi ý nghĩa quan trọng nhất khi biến nó thành, không phải dụ ngôn Người gieo giống nữa, nhưng là dụ ngôn về chất đất. Điều đó hợp pháp vì đó là một lối đọc do tác giả Phúc âm đề nghị, một lối đọc theo luân lý, cảnh báo về những thái độ của con người khi đón nhận Lời Chúa, để Lời Chúa sinh hoa kết quả dồi dào. Hãy nhớ lại lối giải thích và áp dụng do nhóm "Hành động Công giáo" đề nghị, ứng vào những cảnh vực đời sống". Nhưng ta hãy trở lại với Người gieo giống. Tôi muốn rút ra từ hình ảnh người gieo giống, mà những con tem Pháp luôn minh hoạ bằng người phụ nữ, một vài đặc điểm của Thiên Chúa chúng ta. Trước hết, Thiên Chúa của Đức Giêsu trao ban lời của Ngài có lẽ như một "hơi thở mong manh". Nhưng Người đã trao ban. Người không giữ Lời cho riêng mình. người cho nó mặc lấy hình hài trong thửa đất của con người. Kế đó, Thiên Chúa gieo lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện. Cũng cần thêm rằng, người gieo hào phóng đến độ chẳng cần nhìn chỗ hạt giống rơi: trên đường đi, trong đá sỏi, trong gai góc, trên đất mỏng...,nghĩa là, gieo khắp nơi. Đương nhiên có nhiều hạt giống chết đi. Người gieo giống là kẻ đầu tiên thực hành câu nói thời danh: Ai muốn cứu mạng sống mình sẽ mất, ai liều mạng sống sẽ gặp được sự sống. Thực kỳ dị, vì người gieo giống vừa là người gieo, vừa là người bị gieo. Làm sao quên được rằng Đức Giêsu là hạt giống gieo vào lòng đất? Làm sao tin vào sự phong nhiêu của Ngài nếu ta từ chối cái chết của Ngài? Đức Giêsu không chỉ là cánh tay Thiên Chúa tung gieo Lời Hằng Sống. Chính Đức Giêsu là hạt lúa mì đã chôn vùi vào thửa đất có cả cỏ lùng của ta và tan biến trong lòng đất, để phục sinh trong muôn ngàn bông lúa. Chính vì thế mà Mùa gặt đỏ ối dưới ánh mặt trời Phúc âm sẽ được thu hoạch, khi Thiên Chúa muốn, vào những kho lẫm của Tình yêu vĩnh cửu.
76. Hãy mặc lấy tâm tình của người gieo giống
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong quá trình loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn khác nhau để giúp cho người Dothái cùng thời thay đổi thái độ và cách sống sao cho phù hợp với Tin Mừng.
Hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “người gieo giống” để giúp cho người nghe hiểu ý nghĩa của nội dung lời giảng.
1. Cách gieo hạt và thửa ruộng của người Dothái
Người Dothái xưa không có những cánh đồng bằng phẳng như ở đồng bằng của Việt Nam, mà thửa ruộng của họ thuộc loại bậc thang trên sườn đồi như những vùng núi Trung du và thượng du gồm sơn địa và bán sơn địa như ở miền Bắc Việt Nam. Như vậy, thửa ruộng của họ thường có sỏi đá, gai góc và thiếu nước.
Cách thức gieo hạt của họ rất giống với cách sạ lúa của người Nam Bộ chúng ta. Tức là họ không cấy từng cụm như đồng bằng, mà họ rắc hạt trên thửa đất của mình.
Sau khi quan sát và thấy hình ảnh của người gieo hạt cũng như những thửa đất khác nhau, Đức Giêsu đã rất tinh tế khi dùng dụ ngôn này để nói về thái độ của dân chúng khi lắng nghe Lời Chúa và sự quảng đại, hào phóng của Thiên Chúa khi gieo giống.
2. Tâm tình người đi gieo giống
Đức Giêsu đưa ra hình ảnh của người gieo giống thật kỳ lạ: ông là người hào phóng. Chỗ nào cũng gieo. Gieo vung vãi không tiếc hạt, tiếc công. Gieo một cách quảng đại, không phân biệt bất cứ loại đất nào. Gieo cả nơi sỏi đá, vệ đường, bụi gai. Ông gieo trong thái độ kiên trì và trung thành, không tính toán thiệt hơn, không biết mỏi mệt và không hề thất vọng.
Ông đầu tư hết tất cả những gì mình có như: tiền tài, vốn liếng, sức khỏe và cả ngày lẫn đêm. Ông gieo mọi nơi mọi chốn.
Có được điều ấy, hẳn ông là người có tham vọng lớn, một trái tim rộng mở để vượt qua mọi rào cản, khó khăn, để tung gieo từng hạt giống, bất chất mọi sự ngỗ nghịch. Ông có một tình yêu bao la, vượt lên trên tất cả, miễn sao hạt giống được tung ra và rơi vào mọi môi trường.
Nói như thế, không có nghĩa ông là người vô trách nhiệm, không chuyên nghiệp, nhưng muốn diễn tả hình ảnh một người nông dân cần cù, chịu khó, kiên trì và quảng đại. Hình ảnh đó không ai khác ngoài Thiên Chúa, mà hiện thân chính là Đức Giêsu, người đang nói qua dụ ngôn.
Thật vậy, Thiên Chúa say mê con người, không ngừng tìm mọi cách để mong sao con người nhận ra chân lý, tình thương để mà cải hóa bản thân cho tốt hơn. Vì thế, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu phổ quát, không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, địa vị, màu da, sắc tộc..., vì “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”
3. Thái độ của mỗi chúng ta trong vai trò của người gieo và nhận
Khi dùng dụ ngôn “người gieo giống” và nhiều loại đất khác nhau, Đức Giêsu mong muốn mỗi người chúng ta cũng mang trong mình tâm tình của người gieo giống. Tức là gieo trong hy sinh, vất vả, không tính toán hơn thiệt, không ích kỷ nhỏ nhen. Bổn phận của người môn đệ chính là mau mắn lên đường, tung hoành khắp nơi, biết tận dụng mọi thời gian, phương tiện để miễn sao Lời Chúa được loan xa tới mọi nơi, mọi chốn, không phân biệt họ là ai, cuộc sống và địa vị của họ như thế nào...
Thật vậy, chúng ta cứ trung thành và quảng đại, còn thành công là do Chúa chứ không phải hoàn toàn ở khả năng của chúng ta. Tinh thần này đã được thánh Phaolô nói đến khi ngài xác định: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Ðấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1 Cr 3,6-7).
Làm được điều đó, chúng ta cần có một trái tim đủ lớn để yêu thương, kiên trì và trung thành.
Là kitô hữu, chúng ta được hạt giống là chính Lời của Chúa gieo vào lòng chúng ta từ ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Rồi tiếp tục trải qua dòng thời gian, chúng ta có nhiều điều kiện để cho Hạt Giống ấy nẩy mầm và sinh hoa kết trái dồi dào. Nhưng thử hỏi, mỗi chúng ta có sẵn sàng để trở thành thửa đất tốt tươi hay chỉ là sỏi đá, ven đường và gai góc?
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy có tấm lòng bao dung, độ lượng như người gieo giống, đồng thời cũng phải có thái độ cởi mở, hân hoan, đơn sơ và yêu mến để cho hạt giống được nảy mầm, trổ sinh hoa trái dồi dào như những thửa đất tốt.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được mặc lấy tâm tình của người gieo giống, đồng thời cũng trở nên những thửa đất tốt để hạt giống Lời Chúa được trổ sinh hoa trái dồi dào nơi tâm hồn chúng con. Amen.
77. Gieo và gặt - John Nguyễn
1. Lý thuyết "nhân" và "duyên"
Dụ ngôn gieo giống của Đức Giêsu khiến người ta nghĩ đến thuyết nhân duyên của Phật giáo. Muốn có được cây lúa, điều tối quan trọng là phải có hạt giống lúa, đó chính là "nhân" để có "quả" là cây lúa. Nhưng hạt lúa không thể nảy mầm và phát triển nếu không có những điều kiện thuận lợi như: đất tốt, nước, nhiệt độ, ánh sáng, hoặc phân bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, v.v… Những điều kiện ấy gọi là "duyên". Nếu những điều kiện để phát triển ấy hết sức thuận lợi mà không có hạt giống lúa thì cũng không bao giờ có được cây lúa. Như vậy, phải hội đủ "nhân" và "duyên" thì mới có thể sinh ra "quả" mong muốn.
2. Nhân nào quả nấy
Điều quan trọng nhất để có "quả" mà ta mong muốn, là ta phải có "nhân" tương ứng với "qua". Muốn có quả sầu riêng, ta phải dùng hạt sầu riêng để trồng, không thể trồng hạt mít mà ra cây hay trái sầu riêng được. Muốn có trái sầu riêng thơm, ngon, to, ta không chỉ cần trồng hạt sầu riêng, mà còn phải trồng loại hạt sầu riêng thật tốt. Hạt tốt mới sinh ra trái tốt được. Đức Giêsu cũng đã từng nói về luật nhân quả này: "Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt" (Mt 7,16-18).
Vậy muốn đạt được mục đích, ta phải xác định mục đích của ta - tức "quả" mà ta muốn vun trồng - là gì? Sau đó phải tìm "nhân" hay hạt giống thích hợp, và cuối cùng là phải tạo "duyên" hay điều kiện thuận lợi. Đối với người Ki-tô hữu, mục đích cuối cùng của con người chính là Thiên Chúa, cũng là sự sống đời đời, là hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Muốn đạt được, ta cần phải xác định thật rõ mục đích ấy cho suốt cả đời mình. Nếu "quả" là sự sống đời đời hay hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu, thì "nhân" hay hạt giống phát sinh ra "quả" ấy là gì?
3. "Nhân" hay hạt giống sinh ra "quả" sự sống đời đời
Muốn biết "nhân" sinh ra "qua" sự sống đời đời là gì, ta hãy nghe Đức Giêsu nói. Một trong những "nhân" quan trọng dẫn đến sự sống đời đời là mến Chúa yêu người: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? - Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình" (Lc 10,25.27). Có người đã làm được những điều ấy, thì Đức Giêsu đòi hỏi hỏi họ theo Ngài: "Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? - Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi" (Mt 19,16.21; x. Mc 10,17.21).
Ngoài ra còn phải tin vào Đức Giêsu: "Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16), và vâng nghe lời Ngài: "Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời" (Ga 5,24), vì lời của Ngài là lời hằng sống: "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68). Nhờ tin và vâng nghe lời Ngài mà ta nhận biết Chúa Cha, nguồn gốc của sự sống đời đời: "Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Ki-tô" (Ga 17,3).
Sau khi tin Đức Giêsu và nhận biết Chúa Cha, sự sống đời đời đòi hỏi ta sống hết mình cho niềm tin ấy, nghĩa là sống yêu thương và xả thân: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời" (Ga 12,25).
Ngoài ra, để có sự sống đời đời, chúng ta cần được nuôi dưỡng bằng chính máu thịt của Đức Giêsu: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" (Ga 6,54). Nghĩa là càng ngày ta càng phải tiêm nhiễm tính chất yêu thương của Đức Giêsu vào người, dần dần thay thế chất "tôi" bằng chất "Ngài", nói khác đi là được Giêsu hóa, hay biến thành Giêsu để cuối cùng nên giống Ngài hoàn toàn.
Làm như thế, Đức Giêsu sẽ trở thành một nguồn nước trường sinh đem sự sống đời đời cho ta, đồng thời cũng biến chính ta thành nơi mang mạch nước đem lại sự sống cho những người chung quanh: "Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" (Ga 4,14).
Theo Đức Giêsu, đó là những "nhân" sẽ sinh ra "qua" là sự sống đời đời. Vì thế, muốn được sống đời đời, tức sống hạnh phúc đích thực, chúng ta phải gieo những "nhân" ấy chứ không phải những "nhân" khác. Muốn có sự sống đời đời mà lại gieo những hạt nhân khác với những "nhân" ấy, thì chẳng khác gì muốn trồng lúa mà lại dùng hạt bắp hay hạt cỏ. Hiện nay, biết bao người muốn có sự sống đời đời nhưng lại đang gieo những hạt giống khác với những hạt giống mà Đức Giêsu đã chỉ bảo: chẳng hạn cố gắng giữ cho thật kỹ những thói quen hay tập tục tôn giáo nào đấy, những nghi thức, những buổi cầu kinh Thế thì thật là "công dã tràng"! Bạn có phải là hạng người đó không?
4. "Duyên" hay những điều kiện để "nhân" thành "quả"
Những "nhân" vừa kể là tối cần thiết để phát triển thành "quả" sự sống đời đời. Nhưng để phát triển thành quả, cần phải có những điều kiện hay hoàn cảnh thuận lợi.
Đức Giêsu đã đưa ra một số những hoàn cảnh khác nhau:
- "Có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất": Có những người đã trồng đúng hạt giống của sự sống đời đời, nghĩa là đã nhất quyết sống yêu thương, sống tinh thần của Đức Giêsu. Nhưng rất tiếc lòng ham danh, lợi, quyền và những vui thú trần gian, hoặc có những lý thuyết trần tục hấp dẫn họ quá mạnh, lôi cuốn họ vào con đường hưởng thụ cá nhân, ích kỷ, khiến họ từ bỏ việc sống theo tinh thần Đức Giêsu.
- "Có những hạt rơi vào nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô": Đây là những người đã khởi sự sống tinh thần yêu thương của Đức Giêsu một thời gian, nhưng vì chưa quyết tâm dứt khoát và sâu xa, chưa xác tín vào con đường theo Chúa, nên khi bị thử thách bởi nghịch cảnh, đã không bền đỗ, đã từ bỏ con đường mình đang theo.
- "Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt": Đây là những người quyết tâm theo Chúa đến cùng, nhưng đồng thời cũng theo đuổi một số đam mê trần tục. Tới một lúc nào đó có sự xung đột giữa hai con đường khiến họ phải dứt khoát chọn một. Lúc đó họ bị con đường trần tục hấp dẫn hơn khiến họ từ bỏ con đường theo Chúa.
- "Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục": Đây là những người quyết tâm theo Chúa đến cùng, lại biết củng cố quyết tâm đó mỗi ngày bằng suy tư lời Chúa, cầu nguyện, từ bỏ mình, hy sinh cho tha nhân. Nhờ đó họ luôn trung thành với tinh thần của Đức Giêsu, bất chấp những khó khăn nghịch cảnh, những cám dỗ của trần thế. Nếu có sa ngã, họ vẫn chỗi dậy được để tiếp tục con đường. Tùy theo cao độ quyết tâm và mức độ củng cố quyết tâm ấy mà họ đạt tới những mức độ thánh thiện và bản lãnh nội tâm khác nhau. Tuy họ đều đạt được sự sống đời đời hay hạnh phúc đích thực một cách tràn đầy, nhưng dung lượng hạnh phúc ấy khác nhau. Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng minh họa sự khác nhau này bằng những bình chứa có dung lượng khác nhau, cái 1 lít, cái 10, cái 100, cái 1000 lít Cái nào cũng đầy tràn chất lỏng đến nỗi không thể chứa thêm được nữa. Nghĩa là số lượng hạnh phúc đích thực có thể khác nhau rất xa, nhưng ai cũng đều ở mức độ tràn đầy tối đa (100%).
Như vậy, đọc bài Tin Mừng này, ta hãy xác định cho thật rõ mình phải gieo "nhân" nào vào tâm hồn ta để có sự sống đời đời, và sau đó phải tạo "duyên" tức biến tâm hồn ta thành thửa đất tốt bằng cách nào để "nhân" đó phát triển thành "qua". Điều tối quan trọng là đừng gieo lầm "nhân" kẻo uổng công tu tập hay giữ đạo cả đời một cách sai lạc.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha chính là "nhân", là nguồn gốc phát sinh sự sống đời đời ở trong con. Xin Cha hãy càng ngày càng lớn lên và tác động hữu hiệu trong tâm hồn con. Muốn thế, con phải làm cho "cái tôi" của con ngày càng nhỏ đi. Xin cho con biết sống tinh thần tự hủy để Cha hay Tình Yêu có điều kiện thuận lợi lớn lên trong con. Đó cũng chính là sự sống đời đời hay hạnh phúc đích thực của con. Amen.
78. Suy niệm của Lm Augustine, S.J
Bài Tin Mừng hôm nay thuộc về bài giảng thứ ba theo Tin Mừng Mátthêu, tiếp theo bài giảng trên núi (Mt 5,1-7.29) và bài giảng về sứ mạng truyền giáo (Mt 10,1-42). Bài giảng thứ ba này gồm các dụ ngôn về Nước của Thiên Chúa (Mt 13,1-53)
Dụ ngôn là kiểu so sánh rút ra từ đời thường hoặc từ thiên nhiên. Nét sống động hoặc những chi tiết lạ thường của dụ ngôn buộc người nghe phải chú ý và suy nghĩ thêm về ý nghĩa đích xác của câu chuyện được kể. Ý nghĩa của những dụ ngôn trong bài giảng thứ ba theo thánh Mátthêu chỉ về Nước của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chẳng phải là lãnh thổ với những biên giới đích xác được bảo vệ bằng quân lực và những khí giới tối tân. Ngược lại, toàn thể tạo thành đều thuộc về Nước của Thiên Chúa trên đó quyền lực và cuộc phán xét của Ngài bá chủ theo kế hoạch từ muôn thuở. Về cơ bản, Nước Thiên Chúa xuất hiện là công trình riêng của Ngài, nhưng Ngài đòi hỏi loài người phải cộng tác vào công trình đó như họ được dựng nên là những bản vị tự do. Trong lời rao giảng của Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa bao gồm cả hiện tại và tương lai.
Hình ảnh người gieo giống luôn thâu hoạch kết quả khả quan
Dụ ngôn số một về Nước Thiên Chúa là dụ ngôn người gieo giống (Mt 13,3-23). Phần thân bài dụ ngôn nằm ở những câu 3-9. Điều mà tác giả nhấn mạnh ở đây là một nhân vật, đó là người đi gieo. Hành động của người ấy được theo dõi: ông ra đi gieo giống và người ta nhận thấy các hạt giống ông gieo vãi rơi lung tung khắp nơi. Nhiều hạt như bỏ phí. Thế mà phần hoa lợi thu lượm vẫn khả quan: "Hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục." (c.8).
Thân bài dụ ngôn vừa nói được cách quãng bằng một câu hỏi từ phía các môn đệ nêu thắc mắc, rằng: "Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với người ta?" (c.10) Đây là cơ hội để Đức Giêsu đặt các môn đệ đối diện với mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa vượt trên cái nhìm tự nhiên của những người đang nghe Người giảng. Nhóm thính giả này được phân đôi: một bên là nhóm môn đệ biết xem và nghe để hiểu (động từ hiểu quan trọng ở các câu 13, 14, 19, 23,51) và bên kia là đám những người xem mà chẳng thấy, nghe mà cũng như không nghe, vì họ chẳng hiểu gì cả. Vậy là một bên gồm những người được ban cho ơn hiểu các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, còn bên kia là những người mù tịt về Nước đó. Nhưng như vậy Thiên Chúa tỏ ra thiên vị chăng? Thưa đây chỉ là cách nói của ngôn ngữ Do Thái để nhấn mạnh hai điều một trật: sáng kiến luôn từ phía Thiên Chúa nhưng con người vẫn được tự do nhận hay từ khước ơn Người ban.
Thắc mắc trên vừa được giải đáp,
Đức Giêsu trở lại giải thích dụ ngôn (cc. 18-23).
Ở phần này Đức Giêsu lại không nhấn mạnh về nhân vật gieo giống như ở chính thân bài dụ ngôn (cc.3-9). Vấn đề quan trọng được nêu là phản ứng của những người nghe lời được gieo vào tai họ. Đúng ra Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh về sứ mạng của Đức Giêsu cần được hiểu: chính kinh qua những điều xem ra thất bại mà Nước Thiên Chúa được lớn lên; chắc chắn Nước Thiên Chúa không xuất hiện qua một cuộc khải hoàn để đè bẹp mọi trở ngại trên đường. Do đó kết quả vẫn được nêu là "kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục" (c.23) mặc dầu có lúc xem ra kẻ dữ đến cướp lấy lời gieo vào lòng người nghe (c.19); lúc khác xem ra lời rơi trên sỏi đá nên không bén rễ (cc.20-21); lúc khác lời rơi vào bụi gai nên bị bóp nghẹt (c.22)
Đâu đâu có tạo thành, Lời Chúa luôn vang dội
Như vậy nhân vật đi gieo giống sẽ là con người gieo vãi Lời Chúa khắp nơi, không giới hạn. Đâu đâu có tạo thành, ở đó có Lời Chúa luôn vang dội, kêu gọi con người mang lại hoa trái.
Sẽ không có nơi nào dành cho thất vọng để nói rằng hạt giống rơi trên vệ đường bị kẻ xấu công đi mất rồi còn gì để mà hy vọng. Nhân vật đi gieo giống cứ tiếp tục gieo vãi hạt giống khắp nơi, trên mọi nẻo đường. Hôm nay người ta không hiểu nhưng mai ngày, họ sẽ được ban cơ hội để hiểu.
Niềm vui về ơn trở lại được nhắc tới nhiều lần trong Hội Thánh sơ khai (Cv 8,8.39; 13,48.52). Chính biến cố Vị Cứu Tinh xuất hiện khơi dậy niềm tin đó (Lc1,14). Nhưng Lời Chúa mà người nghe đón nhận, cần được bén rễ trong cầu nguyện, trong suy tư cũng như trong cách sống đáp ứng những đòi hỏi của Tin Mừng. Dù sao người đi gieo giống trong dụ ngôn vẫn kiên trì gieo vãi, maong cho đất xấu trở nên đất tốt, để mang lại hoa trái gấp trăm, gấp sáu mươi hoặc ba mươi. Chính giữa những khó khăn gặp phải, niềm tin của người tín hữu cho thấy sức mạnh của ân sủng.
Thực ra, đời sống đức tin về cơ bản là một chọn lựa. "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt 6,24). Đức Giêsu còn nói rõ rằng: "Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được" (Mt 10,37-39) Nỗi lo lắng sự đời (kể cả những điều cần thiết cho sự sống (Mt 6,25-34) không được coi trọng hơn Nước của Thiên Chúa (Mt 13,22; x. Mt 4,8).
Vào thời cuối cùng Thiên Chúa sẽ gieo mầm một dân mới
Vấn đề chính yếu nằm ở câu 17 nói rằng "có nhiều ngôn sứ, nhiều người chính trực đã ước mơ được xem." Các ngôn sứ đã loan báo vào thời cuối cùng, Thiên Chúa sẽ gieo mầm một Dân mới (Hs 2,23-25; Giêrêmia 31,17). Việc đó, Ngài thực hiện nơi Đức Giêsu. Vậy, khi Đức Giêsu nêu hình ảnh người gieo giống, Ngài muốn cho thấy cái mới từng được loan báo đã bắt đầu xuất hiện, và rồi sẽ sinh hoa trái. Bây giờ cái mới ấy còn nhỏ bé nhưng sau sẽ lớn lên (13,31-33).
Cả vào lúc nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Đức Giêsu nữa (Ga 6,66) Simon Phêrô đại diện nhóm môn đệ còn lại vẫn tin tưởng rằng "Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Vậy dụ ngôn người gieo giống phải được hiểu theo niềm tin của nhóm môn đệ còn lại, là tiền thân của Giáo Hội sơ khai. Họ không những tin rằng Đức Giêsu mới có lời ban sự sống đời đời, nhưng họ còn phải trả giá cho niềm tin đó (Mt 13,44-46). Thực ra chính qua việc trả giá mà Nước Thiên Chúa xuất hiện "sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục" (Mt 13,23).
Hãy coi trường hợp kẻ tống tiền anh Ba Đông (Badong), một Kitô hữu giáo dân, người Phi Luật Tân. Trên đường đi dụ cuộc họp Thành Phố của Đức Maria tại Manila năm 1966, anh bị một chàng thanh niên giơ dao găm chặn lại để tống tiền. Lời Chúa mà anh Ba từng học hỏi và chia sẻ, tự nhiên đến với anh, đòi anh phải yêu tha nhân như chính mình, kể cả người thù địch đang cầm dao đe dọa anh. Vậy anh Ba Đông không những giao cho người ấy số tiền người ấy yêu cầu, anh còn mời người ấy ngồi lại để giải khát và dùng bữa nữa. Kết quả thật lạ lùng: Cách đối xử của anh Ba Đông khiến kẻ tống tiền tò mò tìm đến cuộc họp Thành Phố của Đức Maria. Chính ở đây anh ta đã hoàn toàn được hoán cải bởi luật tình yêu, là giới luật duy nhất của Thành Phố của Đức Maria. Trước mắt mọi người và trước sự ngỡ ngàng cũng như cảm động của họ, kẻ tống tiền đã xưng thú và ăn năn trở lại. Trước kia anh ta khác nào thửa đất bên vệ đường, hoặc đất đầy sỏi đá và đất ở giữa bụi gai, thì nay anh đã trở nên thửa đất mang lại bông hạt gấp bội so với trước kia.
79. Thực hành Lời Chúa để sống tin yêu
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
. Ý CHÍNH: Dụ ngôn người gieo giống về Nước Trời:
Tin Mừng hôm nay là một trong bảy “dụ ngôn về Nước Trời” của Đức Giêsu: Người ví Nước Trời giống như một người mang hạt giống đi gieo. Hạt giống Nước Trời được gieo vào 4 tình trạng đất khác nhau và chỉ thành công ở lần gieo cuối cùng. Sở dĩ Đức Giêsu giảng dạy bằng dụ ngôn là vì chỉ các môn đệ mới có thiện chí muốn nghe và muốn đón nhận Nước Trời thiêng liêng, đang khi phần lớn dân Do thái thì cứng lòng chỉ muốn đón nhận Nước vinh quang thế tục và không muốn đón nhận Nước Trời thiêng liêng này. Lời Chúa chỉ phát sinh hiệu quả nơi những tâm hồn có thiện chí muốn nghe, giống như hạt giống chỉ có thể phát sinh hoa trái tin yêu khi được gieo trong mảnh đất mầu mỡ là tâm hồn tốt lành, không chai lì cố chấp, không giữ đạo hời hợt bề ngoài, không bị các thói hư tật xấu lấn át…
. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Ngồi ở ven Biển Hồ: Câu chuyện xảy ra ở bờ biển hồ Ghen-nê-xa-rét miền Galilê. + Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều: Dụ ngôn là những câu chuyện do Đức Giêsu kể ra, dựa theo phong tục và nếp sống trong xã hội, với mục đích trình bày một điều về giáo lý đức tin. Giữa hình ảnh tự nhiên đời thường và giáo lý đức tin siêu nhiên có những điểm giống nhau mà người đọc phải để tâm suy nghĩ mới có thể nắm bắt được. + Các dụ ngôn về Nước Trời: Khi diễn tả về cách tổ chức và sinh hoạt của Nước Trời do Đức Giêsu muốn thiết lập. Người đã dùng bảy dụ ngôn sau đây: Dụ ngôn “Người gieo giống” (x. Mt 13,1-23); Cỏ lùng (x. Mt 13,24-30); Hạt cải (x. Mt 13,31-32); Men trong bột (x. Mt 13,33); Kho báu và ngọc quý (x. Mt 13,44-46); Chiếc lưới bắt cá (x. Mt 13,47-50). Ở đây, Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn Người Gieo Giống kể về một người nông dân đi gieo hạt giống, qua đó Người dạy các môn đệ phải làm thế nào để hạt giống Lời Chúa có thể mọc lên thành cây lúa và tới mùa phát sinh được nhiều bông hạt mới.
- C 3-8: + Dụ ngôn người gieo giống: Vệ đường, sỏi đá, bụi gai, đất tốt…: Hằng năm vào tháng 12 dương lịch, đất thánh bắt đầu mưa, nhà nông khởi công gieo hạt giống. Ga-li-lê là miền đất nhỏ có nhiều đồi núi và ít ruộng đất, mà dân cư lại đông, nên ruộng đất được chia thành nhiều thửa ruộng nhỏ. Thửa ruộng nào cũng có đường bờ bao làm biên địa hay vệ đường mà người nông dân có thể đi trên đường bao đó. Phần nhiều đất không đủ mầu mỡ, nhiều chỗ còn trộn lẫn đá sỏi. Nhiều chỗ đất vừa xấu mà cỏ gai lại mọc tràn lan. Tuy nhiên cũng có những chỗ đất đai phì nhiêu, người ta cày bừa kỹ, rồi gieo hạt giống lúa mì và chỉ chờ đến mùa lúa chín là thợ gặt sẽ ra đồng gặt hái mang về nhà.
- C 9: + Ai có tai thì nghe: Đây là kiểu nói Đức Giêsu hay dùng để gây sự chú ý cho người nghe (x. Mt 11,15; Mc 4,23; Lc 8,8). Có tai là có khả năng nghe, nhưng chưa chắc đã muốn lắng nghe. Giống như các kinh sư và người Pha-ri-sêu Do thái tuy đến nghe Đức Giêsu giảng mà lòng không muốn tiếp nhận sự thật mà Người muốn nói. Ở đây Đức Giêsu kêu gọi mọi người: "Ai có khả năng nghe thì hãy tỏ thiện chí lắng nghe!".
- C 10: + Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?:Lý do Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói về Nước Trời, trước hết vì người Do thái đang mong ước một Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi Đa-vít, đến thiết lập một Vương Triều Mới bằng sức mạnh của một đạo quân bách chiến bách thắng, lại còn được cơ binh các thiên thần trên trời trợ giúp, để mở rộng Vương quyền đi khắp hoàn cầu, dẹp tan các chư dân tôn thờ tà thần. Còn sứ mạng của Đức Giêsu là đến để thiết lập một Nước Trời thiêng liêng ban ơn cứu độ khác với Nước thế tục mà dân Do thái đang trông mong do Đấng Mê-si-a được Đức Chúa sai đến sẽ thiết lập.
- C 11: + Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không:“Mầu nhiệm Nước Trời” là chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Giêsu. Đây là điều vượt quá sự hiểu biết của loài người. Chỉ Đức Giêsu là Đấng thiết lập Nước Trời mới có thể nói về Nước ấy bằng các dụ ngôn.
- C 12: + Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất:Người Do thái thời Đức Giêsu đang có đức tin truyền thống về Đấng Thiên Sai (Mê-si-a). Trong bọn họ, ai tin vào Đức Giêsu sẽ được ban thêm ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời. Còn những kẻ không tin Người thì ngay cả lòng tin truyền thống về một đất Nước mang tính trần thế cũng sẽ bị lấy mất.
- C 13: + Vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu: Khi giảng cho dân Do thái đang khao khát một Nước trần thế lệch lạc, Đức Giêsu một đàng phải cố gắng trình bày đúng điều họ đang khát vọng. Đàng khác Người phải sửa lại quan niệm lệch lạc của họ về Nước ấy. Do đó, Người phải dùng các dụ ngôn. Bởi lẽ dụ ngôn vừa mở vừa đóng: mở để giúp họ nhận ra sự thật và đóng đối với những gì họ hiểu sai. Khi nghe các dụ ngôn về Nước Trời, chỉ những ai thành tâm chấp nhận quan điểm của Đức Giêsu như các môn đệ, mới có thể lãnh hội được ý nghĩa của nó. Còn những kẻ mang nhiều thiên kiến, cố chấp trong sự sai lầm như các mục tử dân Do thái, thì dù có nghe Đức Giêsu giảng, họ cũng không hiểu gì về ý nghĩa thực sự của các điều Người nói.
- C 14: + Ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a:I-sai-a đã tuyên sấm các Lời Chúa đã phán với ông khi Người kêu gọi và sai ông đến giảng cho dân Do thái (x. Is 6,9-10). I-sai-a có trách nhiệm nói với dân Do thái về các hình phạt mà Chúa sẽ giáng xuống do tội của họ. + “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn, cũng chẳng thấy…”: Lời tuyên sấm của I-sai-a cho thấy tình trạng dân Do thái trong thời Đức Giêsu cũng tương tự trong thời của ông. Cũng như I-sai-a, Lời giảng của Đức Giêsu đã nên dịp cho dân Do thái cứng lòng không tin (x. Lc 2,34). Mát-thêu thấy cách Đức Giêsu giảng bằng dụ ngôn như thế cũng đã được tiên báo trong Thánh Vịnh như sau: “Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ, công bố điều huyền bí thuở xa xưa” (Tv 78,2).
- C 16-17: + Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy…: Các môn đệ Đức Giêsu không những được thấy các phép lạ Người làm và được nghe những Lời Người dạy, mà còn có thiện chí muốn tìm hiểu để tin theo, nên các ông có phúc hơn các ngôn sứ và những người công chính trước đây. Những người này dù có thiện chí muốn nghe và muốn thấy Đấng Thiên Sai, nhưng các vị ấy đã không được nhìn thấy Người và cũng không được nghe Lời Người như các ông bây giờ.
- C 18-23: + Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn Người Gieo Giống:Lời trích giảng trong đoạn này xem ra không phù hợp với trọng tâm của dụ ngôn Người Gieo Giống ở phần trên: Dụ ngôn thì nhấn mạnh đến hành động gieo giống của Thiên Chúa vào 4 tình trạng đất khác nhau, nhưng khi giải thích thì lại chú trọng đến tình trạng đón nhận Lời Chúa nơi các người nghe. Tâm điểm của dụ ngôn đã bị xê dịch từ Lời dạy về mầu nhiệm Nước Trời sẽ gặp nhiều thử thách trước khi đạt kết quả sung mãn vào thời cánh chung, chuyển thành lời khuyến cáo hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa. Có lẽ phần giải thích dụ ngôn này là của Giáo Hội sơ khai nhằm nhấn mạnh đến các thái độ khác nhau của những kẻ nghe Lời Chúa: Muốn cho Lời Chúa sinh sôi nẩy nở gấp bội, thì người nghe phải trở thành đất tốt qua thái độ "nghe và hiểu". Phải tránh sự chai lì như vệ đường, khô khan như sỏi đá và các thói hư như gai góc…
. CÂU HỎI:
1) Thế nào là dụ ngôn? Có mấy dụ ngôn về Nước Trời là những dụ ngôn nào? Ý nghĩa của dụ ngôn người gieo giống là gì? 2) Bốn tình trạng đất trong dụ ngôn Người Gieo Giống ám chỉ điều gì? 3) Câu: "Ai có tai thì nghe" có nghĩa thế nào? 4) Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà giảng về Nước Trời cho dân Do Thái, mà Người lại giải thích rõ ý nghĩa của dụ ngôn ấy cho các môn đệ? 5) Tại sao Ngôn Sứ I-sai-a lại tuyên sấm Lời Chúa với dân Do Thái rằng: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy"? 6) Tại sao các môn đệ có phúc hơn các ngôn sứ và các người công chính trước đó? 7) Phần giải thích dụ ngôn Người Gieo Giống là của ai? Nội dung nhằm dạy điều gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra: kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục” (Mt 13,23).
2. CÂU CHUYỆN: Sức mạnh của Lời Chúa trong Thánh Kinh
PHA-MÁT là một tên cướp lừng danh tại nước Ấn Độ. Hắn ta cùng đồng bọn thường ra tay cướp đoạt tài sản của người đi đường rồi tẩu thoát mà không để lại bất cứ dấu vết nào. Ngày nọ, Pha-mát bẻ khóa vào một ngôi nhà vắng chủ. Sau khi đã lấy hết tiền bạc quý kim trong tủ, hắn kiểm tra lại ngôi nhà lần cuối thì thấy còn lại một cuốn sách nhỏ bìa đen, giấy mỏng và dai. Hắn nhặt lên bỏ vào túi với ý định sẽ dùng làm giấy vấn thuốc lá hút. Từ đó, mỗi khi hút thuốc hắn đều xé một tờ trong sách làm giấy vấn thuốc. Một lần nọ, hắn thấy trên tờ giấy có các hàng chữ nhỏ, hắn tò mò đọc thử xem các chữ viết đó là gì, và từ đó mỗi lần hút thuốc hắn đều đọc một đọan lời Chúa in trên tờ giấy. Vào một tối kia, sau khi đọc xong trang Lời Chúa, hắn để lại tờ giấy vừa xé vào lại trong sách, và quỳ gối xuống xin Chúa Giêsu tha tội và cứu hắn, giống như Người đã tha thứ cho tên cướp có lòng sám hối trên cây thập tự mà hắn mới đọc xong. Từ lúc ấy hắn cảm thấy tâm hồn hắn có sự bình an.
Hôm sau, hắn ăn mặc chỉnh tề rồi đi đến đồn cảnh sát xin đầu thú và nộp lại những đồ ăn cắp còn lại. Mọi người đều ngạc nhiên khi nghe hắn cho biết lý do ra đầu thú. Hắn mau mắn tra tay vào còng và sau khi nghị án, tòa chỉ kết án hắn 10 năm tù giam vì có yếu tố được giảm khinh. Trong thời gian mười năm ở tù, hắn vẫn tiếp tục đọc phần còn lại của cuốn Tân Ước và đã kể lại các câu chuyện trong sách cho các bạn tù. Dần dần nhờ quyết tâm sống khiêm tốn yêu thương và phục vụ theo gương Đức Giêsu, hắn đã làm cho tất cả đám bạn tù cảm mến. Họ không còn thái độ thù ghét và đàn áp bóc lột lẫn nhau, nhưng biết thể hiện tình yêu thương và giúp đỡ nhau. Một số bạn khác còn đến xin theo học Lời Chúa với hắn và cuối cùng đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu giống như hắn.
3. SUY NIỆM:
1) Dụ ngôn là gì?
Dụ ngôn là những hình ảnh hay câu chuyện đời thường nhằm giúp người nghe hiểu biết về các chân lý cao siêu, trừu tượng được mặc khải. Dụ ngôn của Đức Gie-su có đặc tính vừa che giấu vừa tỏ lộ các chân lý về Thiên Chúa và Nước Trời mà Người sắp thiết lập. Dụ ngôn sẽ Che dấu «những bậc khôn ngoan thông thái» (Mt 11,25a) cho rằng mình đã hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa và về Nước Trời rồi, nên không cần tìm hiểu thêm. Trái lại, sẽ tỏ lộ racho «những người bé mọn» (Mt 11,25b), nhận biết kiến thức của mình về Thiên Chúa và về Nước Trời vẫn còn hạn hẹp, thiếu sót, cần phải được tiếp tục đào sâu để có thể áp dụng vào cuộc sống.
Các kinh sư và người biệt phái thời Đức Giêsu là những người tự mãn về Luật Mô-sê nên không muốn nghe lời Đức Giêsu giảng, hoặc nếu có nghe thì chỉ để tìm kiếm sơ hở để phản bác. Do đó Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn mà nói với họ, để họ “nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13,14b-15). Có lần Đức Giêsu cũng khuyên môn đệ đừng giảng cho những kẻ cứng lòng không muốn nghe và không muốn tin Đức Giêsu như sau: «Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em» (Mt 7,6). Về sau trong cuộc khổ nạn, khi bị các kỳ mục bắt nộp cho quan tổng trấn Phi-la-tô để đòi ông lên án tử hình cho Người, Người đã trả lời các câu ông hỏi (x. Mt 27,11-12), nhưng lại im lặng không nói một lời khi nghe các thượng tế và kỳ mục tố cáo Người, khiến quan Phi-la-tô rất đỗi ngạc nhiên (Mt 27,12-13).
2) Điều kiện để theo làm môn đệ Đức Giêsu:
- Để đón nhận được Nước Trời của Đức Giêsu thiết lập, mỗi người chúng ta phải “từ bỏ mình”, nghĩa là bỏ đi những gì mình cho là quý giá để mua lấy Nước Trời như trong dụ ngôn kho báu và ngọc quý (x. Mt 13,44-45). Ngoài ra, Người đòi người nghe phải loại bỏ những kiến thức không phù hơp với đức tin khi cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha đã “giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Vì một người tự mãn và cố ý bảo vệ các kiến thức thuộc về thế gian, thì khó lòng tiếp nhận được những chân lý siêu nhiên thuộc về Thiên Chúa do Đức Giêsu mặc khải.
- Ngoài ra Đức Giêsu còn đòi người nghe phải sẵn sàng “vác thập giá mình” mà theo Người (x. Mt 16,24). Vác thập giá theo Đức Giêsu nghĩa là chấp nhận bổn phận sống tình “mến Chúa yêu người”, để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, năng cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp vượt qua những đau khổ bệnh tật, tai nạn và những sự trái ý gặp phải… như thánh ý Chúa Cha muốn, để noi gương Đức Giêsu (x. Mt 26,39). Vì những ai chấp nhận đi con đường thập giá, cùng chịu đau khổ và chết với Đức Giêsu sẽ cùng được sống lại với Người. Đây là con đường của đạo công giáo, tuy nhỏ hẹp, leo dốc và ít người tìm được lại là đường duy nhât dẫn đến sự sống đời đời. Còn con đường rộng rãi thênh thang nhiều người chọn đi sẽ dẫn đến hố diệt vong (x. Mt 7,13-14).
3) Các tín hữu nói chung chưa sống tốt hơn anh em lương dân:
- TIM KƠN-ROI (Tim Conroy) là một thanh niên đạo đức, siêng năng đến nhà thờ dự lễ hằng ngày. Một hôm, anh đã tâm sự với một người bạn thân về nỗi thao thức đức tin như sau: “Tớ xuất thân từ một gia đình gốc công giáo. Hằng ngày tớ vẫn dự lễ và không quên đọc kinh cầu nguyện sớm tối. Nhưng có một điều tớ thắc mắc là: Tớ càng giữ đạo lâu năm bao nhiêu thì lại thấy mình càng xuống dốc về mặt đạo đức bấy nhiêu như: bê tha rượu chè, quan hệ nam nữ bừa bãi, lại còn thích chích hút ma túy… không hơn gì những bạn thanh niên người lương không công giáo. Vào ngày sinh nhật năm 25 tuổi, tớ đã tính ra số lần dự lễ, số lần nghe giảng Lời Chúa và rước lễ từ nhỏ đến lớn cả chục ngàn lần. Thế mà sao tớ vẫn không thấy mình tiến bộ về thiêng liêng bao nhiêu!” Thắc mắc của TIM đã được Đức Giêsu giải đáp trong dụ ngôn người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay.
- Người gieo giống ám chỉ Đức Giêsu. Hạt giống là Lời Chúa. Hạt giống Lời Chúa được gieo vào bốn loại đất, tượng trưng cho bốn hạng người nghe: Vệ đường là hạng người không muốn nghe Lời Chúa nên Lời Chúa nghe đã không thể tồn tại trong tâm trí. Đất pha đá sỏi là người nghe Lời Chúa mà không suy niệm nên dễ bị mất đức tin khi gặp hòan cảnh khó khăn. Đất có nhiều gai góc ám chỉ những người nghe Lời Chúa, nhưng lòng lo lắng việc đời, làm cho Lời Chúa bị chết nghẹt không thể sinh hoa trái. Chỉ một ít người là thành tâm giống như mảnh đất tốt do biết lắng nghe Lời Chúa và suy niệm rồi quyết tâm thực hành mới có thể trở thành môn đệ đích thực của Chúa Giêsu và là chứng nhân cho tình yêu giữa lòng xã hội.
4) Thực hành Lời Chúa để sống tin yêu:
- Sống chưa tốt do chưa thực hành Lời Chúa: Trong một vườn nho kia có một cây nho không mấy xanh tốt như các cây nho khác trong vườn. Người làm vườn đã phải vất vả đào sới đất chung quanh gốc nho, rắc phân tro và tưới nước hằng ngày, nhưng cây nho vẫn èo uột và không phát sinh hoa trái. Cuối cùng người làm vườn đã đào gốc nho lên để tìm nguyên nhân thì mới phát hiện có một miếng tôn đã mục rỉ nằm bên dưới gốc cây nho, nên rễ cây không cắm sâu xuống đất được để hút các chất bổ dưỡng. Từ khi lấy miếng tôn kia lên thì cây nho đã xanh tốt và đến mùa đã phát sinh được nhiều hoa trái như các cây khác. Cuộc đời chúng ta cũng thế: Nếu ta không đâm rễ sâu bằng việc năng học sống Lời Chúa, thì đời sống đức tin của chúng ta sẽ bị tàn úa và không thể sống tin yêu hơn anh em lương dân.
- Bốn bước học sống Lời Chúa hiệu quả:
Để sống được Lời Chúa dạy trong cuộc sống hằng ngày, mỗi tín hữu chúng ta cần năng tham dự các buổi Hiếp Sống Tin Mừng gồm bốn bước như sau:
* Bước một của trí khôn: Tìm hiểu Lời Chúa bằng cách cả Nhóm cùng đọc chung một đoạn Lời Chúa, rồi người hướng dẫn sẽ giúp Nhóm tìm hiểu ý chính Chúa muốn dạy gì?
* Bước hai của trái tim: Chọn một câu Lời Chúa trọng tâm để học thuộc lòng, suy niệm và làm nguyên tắc ứng xử. Mỗi người sẽ chia sẻ kinh nghiệm sống câu Lời Chúa này.
* Bước ba của ý chí: Quyết tâm đổi mới cách suy nghĩ, nói năng và hành động theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy như Mẹ Ma-ri-a xưa.
* Bước bốn của ơn Chúa: Việc sống theo Lời Chúa chỉ thành công khi chúng ta đón nhận được ơn Thánh Thần nhờ biết kiên trì cầu nguyện mở lòng quyết tâm sông lời Chúa dạy như Người đã nói: “Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5b).
4. THẢO LUẬN:
1) Hãy cho biết lý do nào khiến Mát-thêu, Gia-kêu và Phan-xi-cô Xa-vi-ê… được ơn đổi mới đời sống? 2) Còn bạn đang ở trong tình trạng vệ đường chai lì, đất pha sỏi đá, đất đầy gai góc hay đang là mảnh đất mầu mỡ để Lời Chúa gieo vào có thể phát sinh nhiều bông hạt?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Con đường dài nhất là đường từ tai nghe đến tay làm. Chúng con thường xây ngôi nhà đức tin trên nền cát, khi chỉ biết nghe mà không suy niệm và thực hành, nên Lời Chúa không thể thấm nhập được vào tâm trí và cuộc sống của chúng con.
- Lạy Chúa. Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa mỗi khi tham dự thánh lễ. Cho chúng con biết năng tìm hiểu Lời Chúa trong các nhóm Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần. Xin giúp chúng con biết dọn sạch những sỏi đá là sự lười biếng các việc đạo đức, biết nhổ sạch gai góc là sự ham mê tiền bạc, danh vọng và các thói hư tật xấu khác. Nhờ đó, tâm hồn chúng con sẽ trở thành mảnh đất tốt, là điều kiện để Lời Chúa lớn lên và phát sinh nhiều bông hạt là các việc bác ái phục vụ tha nhân. Ước gì ngôi nhà đức tin của chúng con được xây trên nền đá vững chắc là sự thực hành Lời Chúa, hầu chúng con có thể đứng vững trước mọi phong ba bão táp gặp phải trong cuộc sống, và chống trả được các cơn cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt mình.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
11/07 Đừng sợ…, nhưng hãy sợ ….
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Đừng sợ…, nhưng hãy sợ ….
Thứ Bảy tuần 14 thường niên. – Thánh Bênêđictô, viện phụ. Lễ nhớ.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
* Chào đời quãng năm 480 tại Noóc-xi-a (Um-ri-a). Sau một thời gian theo học ở Rôma, Bênêđictô rút lui vào một hang ở Xu-bi-a-cô và bắt đầu sống đời ẩn sĩ, chiêu mộ các đồ đệ rồi chuyển đến Montê Cátxinô. Tại đây, người lập một đan viện thời danh, chính người soạn tu luật cho đan viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây”. Người qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547.
Từ cuối thế kỷ 8, người đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7.
Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 ra tông thư “sứ giả hòa bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.
Lời Chúa: Mt 10, 24-33
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Anh em đừng sợ
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).
Hôm nay ba lần Ngài nhắc chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (cc. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị trói buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ bên ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui…
“Đừng sợ” là điệp khúc trấn an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.
Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con gái ông đã chết (Mc 5, 36).
Đừng sợ, hỡi các phụ nữ, khi gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì thầm trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng cho mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn cả sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để cho nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng xin vâng, buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua được ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc của trên đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: SỢ VÀ KHÔNG SỢ
Trong vũ trụ con người rất bé nhỏ. Chỉ như một hạt bụi. Và luôn có những thế lực khiến con người sợ hãi.Vì có thể nghiền nát con người. Nhưng Chúa Giê-su dạy ta khôn ngoan phân định. Nên biết sợ và không biết sợ.
Đừng sợ những thế lực đời này. Vì họ chỉ có thể huỷ hoại được thân xác. Nhưng không huỷ hoại được linh hồn. Họ chỉ chiếm đoạt đời này của ta. Nhưng không thể chiếm đoạt đời sau. Quyền lực của họ mau qua. Chính họ cũng tàn lụi theo quy luật tự nhiên. Thế lực trần gian chính là một phép thử con người. Thử óc phân định. Thử thái độ chọn lựa. Thử sự trung tín. Thử mức độ siêu thoát. Để xem ta chọn lựa trần gian hay Thiên Chúa.
Chúa dạy ta hãy biết sợ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa làm chủ cả đời này lẫn đời sau. Vì Thiên Chúa có thể huỷ hoại cả thân xác lẫn linh hồn. Vì Thiên Chúa là vị thẩm phán tối cao. Sẽ xét xử cả vũ trụ lẫn con người.
I-sa-i-a đã được chứng kiến vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang bao trùm cả vũ trụ. Cả trời đất tràn ngập vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa thống trị cả trời đất muôn loài. Nếu có phải sợ ta phải sợ Thiên Chúa (năm chẵn).
Tổ phụ Giu-se đã hiểu được điều đó. Trong khi anh em ngài chưa hiểu. Nên cư xử theo thói đời. Khi có quyền thế thì ức hiếp người khác. Khi đối diện với quyền lực thì sợ hãi khiếp nhược. Nhưng tổ phụ Giu-se đã cư xử khác hẳn. Có lẽ trước kia ngài cũng từng sợ người đời. Nhưng từ khi cảm nghiệm được quyền năng Thiên Chúa trong đời mình ngài thay đổi thái độ. Ngài kính sợ Thiên Chúa. Vì biết Thiên Chúa làm chủ vận mệnh. Ngài cảm nghiệm được quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Không những cứu ngài khỏi bàn tay người phàm. Mà còn hạ nhục những kẻ có sức mạnh. Nâng cao ngài là một người yếu ớt bé nhỏ. Chính vì thế mà ngài khoan dung với anh em. Không xét xử anh em. Để Thiên Chúa xét xử. Không dám dùng quyền của mình trên anh em. Vì biết trên mình còn có quyền năng tuyệt đối là Thiên Chúa. Và chính quyền năng của mình cũng là do Thiên Chúa ban tặng (năm lẻ).
Xin cho con hiểu được chân lý này như I-sa-i-a. Như tổ phụ Giu-se. Để con không sợ những thế lực đời này. Không sợ mất mát đời này. Nhưng luôn kính sợ Thiên Chúa. Và biết kính trọng anh em.
Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt
Suy Niệm 3: Ðừng sợ người đời
Mahatma Gandhi, nhà tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ, đã có lần nhắn nhủ các môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao giờ dùng bạo lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của những người dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng và trạng thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng bạo lực có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được tinh thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình thương, bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù lòa".
Ðã từng vào tù ra khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời trên đây chưa một lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của một người quá khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất bạo động mà ông đã đề ra.
Sẵn sàng chết để làm chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của linh hồn con người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước các cường lực sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng không làm gì được linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa, không để mình rơi vào tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, mà không giết được linh hồn".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những khó khăn trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin Mừng và chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi phải sống những thực tại ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều của cải vật chất hay là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?
"Môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ". Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Những sợ hãi không đâu
“Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không thể giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt được cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.”
Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (Mt. 10, 28. 32-33)
Chúng ta sợ hãi cái gì?
Bạn hãi hỏi xem người ta sợ hãi cái gì? Hầu như ai nấy cùng có một câu trả lời. Người ta sợ bị ốm đau, tật nguyền sợ mất của cải hay công ăn việc làm, sợ phải sống cô đơn, sợ mất danh thơm, tiếng tốt, sợ bị kẻ bất lương tấn công ngoài đường phố, sợ phải xa cách người thân yêu, sợ chết…
Điều ta lo sợ trong cuộc sống ấy, bởi chính nó gây tổn thương, mất mát, thiệt thòi hay tàn tật cho ta. Ta không khinh chê coi thường những xao xuyến, sợ hãi kia. Nhưng chỉ có nguyên những lo âu xao xuyến này thôi sao, và đó phải chăng là những điều quan trọng nhất? còn biết bao điều lẽ ra khiến ta phải bàng hoàng lo sợ, thế mà ta lại bình chân như vại.
Những điều đáng sợ mà người ta lại không nghĩ đến.
Bạn hỏi xem người ta có lo sợ vì không kính mến Thiên Chúa và yêu thương người ta đủ không? Hãy hỏi xem người ta có sợ vì chỉ biết sống bo bo mà không biết chia sớt với anh em mình không. Người ta có run sợ vì đã không coi trọng Phúc Âm, không sống đời cầu nguyện và nói về Chúa Giêsu đủ không? Những người mà bạn đặt những câu hỏi trên đây cho họ, có lẽ đều bỡ ngỡ. Vì phần lớn thời giờ, có bao giờ tâm trí họ màng đến những điều như trên đây.
Chúng ta thường sợ hãi vì những chuyện chẳng đáng gì, còn những điều lẽ ra lòng ta phải xao xuyến âu lo, thì ta lại chẳng màng chi đến. Ta hãy biết sợ. Kiểu nói đó, nghe không suôi. Bởi vì Chúa đâu có muốn cho ta phải sống trong nơm nớp sợ hãi; nhưng Người muốn ta luôn được sống trong yêu thương an bình. Điều Chúa mang đợi ở ta là luôn hướng về Người và các anh em ta. Người mong muốn cho ta chẳng phải sợ gì, chẳng sợ ai cả, nhưng vững tin rằng Chúa Thánh Thần hằng ngự trong ta che chở và dẫn dắt ta đến cùng Cha.
Lạy Chúa, xin cho con biết xao xuyến và sợ hãi những khi con thấy mình xa Chúa. Xin giúp con biết đem lại niềm hy vọng mới cho những ai đang hao mòn vì những xao xuyến sợ hãi đủ thứ trong cuộc đời.
J.Y.G
Suy Niệm 5: “ĐỪNG SỢ” (Mt 10, 24-33)
Xem lại CN 12 TN A, và CN 4 PS C
Khi khởi đầu sứ vụ Phêrô, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cánh cửa đón nhận Đức Kitô”. Tại sao Đức Giáo Hoàng lại nói như thế? Phải chăng ngài nhận ra một thế giới đang xa dần Thiên Chúa, hay lòng người đã buông xuôi và không chấp nhận hoặc không dám đứng về phía sự thiện?
Thật vậy, ngày nay, khi con người được Thiên Chúa quan phòng cho có khả năng để phát minh ra nhiều điều mới lạ, hữu ích để phục vụ nhân loại cho tốt hơn, thì cũng là lúc con người muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Bởi vì họ sợ Chúa và những giá trị Tin Mừng của Ngài làm cho họ phải thay đổi một nếp sống mà họ đang theo, nếp sống đó là sự bất chính, trái với Tin Mừng của Chúa dạy.
Như vậy, dù trong mọi hoàn cảnh, mọi thời... người môn đệ Chúa Kitô vẫn được sai đến với những nơi đang xa dần Thiên Chúa như thế. Dẫu biết rằng đây là điều khó, đôi khi phải chết vì sứ vụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đừng sợ cái giá phải trả cho việc làm chứng về Đức Giêsu. Hãy can trường tín thác nơi Chúa. Hãy tin tưởng vào Đức Giêsu vì Ngài đã thắng thế gian.
Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta đều xác tín rằng: sự thật sẽ giải thoát chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn tỏa sáng niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn được ơn can đảm để dấn thân vào mọi môi trường, hầu loan báo về Chúa cho muôn dân. Amen.
Ngọc Biển SSP
10/07 Số phận người môn đệ Chúa
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Số phận người môn đệ Chúa.
Thứ Sáu tuần 14 thường niên.
"Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con".
Lời Chúa: Mt 10, 16-23
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.
"Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel cho đến khi Con Người đến".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Vì Danh Thầy
Suy niệm :
Tháng 8 năm 2008, tại vùng Orissa ở đông bắc Ấn độ,
có một người theo chủ nghĩa dân tộc thuộc Ấn giáo, bị bắn chết.
Một tờ báo địa phương đã qui tội cho các Kitô hữu.
Lập tức một làn sóng bạo động nổi lên từ những người Ấn giáo cực đoan.
Kết quả là hàng chục người chết, hàng ngàn người bị thương,
50 nhà thờ bị đốt, 4000 nhà người Kitô hữu bị phá hủy,
hàng chục ngàn người không cửa không nhà, phải sống trong các trại cứu trợ.
Nhiều Kitô hữu thuộc giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn độ,
giai cấp của những người Dalit, những kẻ bị coi là tiện dân.
Người Dalit đã bỏ Ấn giáo để theo Kitô giáo,
và họ đã lấy lại được nhân phẩm, cùng những quyền lợi về kinh tế xã hội.
Họ được giáo dục tử tế, nên giai cấp thống trị không lợi dụng họ được nữa.
Chính vì thế mà họ bị phân biệt đối xử và bị bách hại.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tiên báo về các bách hại đó.
Những gì Ngài phải chịu thì các môn đệ cũng sẽ phải chịu,
vì tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn thầy.
Hãy để ý đến những động từ nói lên nỗi thống khổ của các Kitô hữu:
bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra nơi hội đường và trước mặt vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết, có khi bởi người nhà (c. 21).
Những điều này Đức Giêsu đều đã trải qua.
Mọi sự họ chịu đều “vì Đức Giêsu”, “vì Danh Đức Giêsu” (cc. 18. 22).
Nơi tòa án, có sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ nói trong anh em” (c. 20),
để giúp anh em can đảm tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Cha.
Bởi đó người Kitô hữu ra tòa mà lòng rất bình an, chẳng lo gì (c. 19).
Họ được Thiên Chúa dạy điều phải nói và Thần Khí nói qua miệng họ.
Với sự nâng đỡ đặc biệt ấy, họ có thể bền chí đến cùng và sẽ được cứu độ.
Các Kitô hữu sẽ còn bị bách hại đến tận thế.
Họ không phải là những người thích tỏ ra mình anh hùng, đòi tử đạo.
Nhưng họ là những người khiêm tốn, khôn ngoan,
biết trốn đi thành khác khi bị bắt bớ ở thành này (c. 23).
Chịu bách hại là điều nằm trong ơn gọi của người Kitô hữu,
là cái giá phải trả để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.
Ngay cả ở những quốc gia tây phương tự hào là có tự do tôn giáo,
vẫn có những kiểu bách hại ngấm ngầm và tinh vi,
khác với kiểu đòi bước qua thánh giá thời vua Minh Mạng, Tự Đức.
Sống là Kitô hữu như Đức Kitô muốn đòi ta phải lội ngược dòng.
Lội ngược dòng bao giờ cũng khó và làm người khác bực bội, sợ hãi.
Làm sao để các bạn trẻ Công Giáo dám sống theo những giá trị của Giêsu?
Làm sao để các gia đình Công Giáo không bị thói đời lôi cuốn?
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa dối trá,
xin được sống chân thật đơn sơ.
Giữa một thế giới trụy lạc đam mê,
xin được sống hồn nhiên thanh khiết.
Giữa một thế giới hận thù, tuyệt vọng, dửng dưng,
xin được chia sẻ yêu thương, an bình và hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu mến thương,
xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.
Xin giúp chúng con tìm ra những cách mới để người ta tin và yêu Chúa.
Ước gì hơn hai tỉ người Kitô hữu
vẫn giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men,
để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người,
và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon.
Xin cho Thiên Chúa Cha được tôn vinh
qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: CHIÊN VÀ SÓI
Con cái Thiên Chúa phải làm chứng cho Người nơi trần gian. Đó là một nhiệm vụ khó khăn. Vì con cái Thiên Chúa hiền lành và yếu ớt như chiên con. Và thế gian hung dữ và mạnh mẽ như sói rừng. Sói sẽ tấn công. Thế gian sẽ bắt bớ. Nhưng Chúa Giê-su dạy ta đừng sợ. Cứ trông cậy nơi Chúa. Rồi Chúa sẽ làm việc. Khi bị nộp ra trước toà, bị hạch hỏi cũng đừng sợ. “Vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: “thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”. Hãy luôn trung tín với Chúa. Dù có bị chính những người thân ghét bỏ, hành hạ, Chúa vẫn luôn bên ta. “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát”.
Lời Chúa hôm nay hoàn toàn ứng nghiệm vào cuộc đời tổ phụ Giu-se. Ông là chiên con sống giữa sói rừng. Ông đã bị anh em thù ghét, bán cho người Ai-cập. Người Ai-cập đã hành hạ ông. Giam tù ông. Nhưng Thánh Thần soi sáng cho ông nói lời chân lý. Nên cuối cùng ông được giải oan. Trở thành tể tướng lẫy lừng. Ông đã bền chí đến cùng. Luôn trung thành với Chúa. Trông cậy vào Chúa cả trong những phút đen tối ngặt nghèo nhất. Nên ông đã thành đạt. Không những cứu được bản thân ông còn cứu được cả gia đình. Và cứu được cả dân nước Ai-cập khỏi nạn đói. Khi gặp ông, Gia-cóp vui mừng nói: “Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con, và thấy con còn sống” (năm lẻ).
Hô-sê khuyên nhủ dân Chúa, dù hiểm nguy cũng cứ tin cậy Chúa. Đừng cậy dựa vào những thế lực phàm trần, hay những tượng gỗ vô tri. Đừng “cầu cứu với Át-sua, sẽ không cậy nhờ vào chiến mã, cũng chẳng gọi là thần những sản phẩm tay chúng con làm ra”. Hãy cậy trông vào Chúa. Vì Chúa là là tình thương yêu. “Vì chỉ ở nơi Ngài kẻ mồ côi mới tìm được lòng thương cảm. Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình”. Vì Chúa sẽ cho dân Chúa được phục hồi và phát triển. “Họ sẽ đầm chồi nẩy lộc, sum suê tựa ô-liu tươi tốt, toả hương thơm ngát như rừng Li-băng. Chúng sẽ trở về cư ngụ dưới bóng Ta, sẽ làm cho lúa miến hồi sinh nơi đồng ruộng, tựa vườn nho, chúng sẽ sinh sôi nẩy nở, danh tiếng lẫy lừng như rượ Li-băng”. Và nhất là cuối cùng Chúa sẽ thực thi công lý: “người công chính sẽ hiên ngang tiế bước, còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào” (năm chẵn).
Dù yếu ớt, dù hiền lành, ta hãy mạnh dạn làm chứng cho Chúa. Rồi Chúa sẽ can thiệp. Và công lý được tỏ hiện. Đó chính là niềm hi vọng của ta.
Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt
Suy Niệm 3: Số phận của người Kitô hữu
Trong chuyến hành hương Lộ Ðức tháng 8/1981, Ðức Gioan Phaolô II nhắc đến những hình thức bách hại đạo tại một vài nơi trên thế giới, Ngài nói:
"Có những tín hữu bị bắt buộc phải hội họp một cách lén lút, bởi vì cộng đoàn tôn giáo của họ không được phép hoạt động. Có những Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, bị cấm thi hành chức vụ trong nhà thờ hay tại những nơi công cộng. Có những nữ tu bị phân tán không thể tiếp tục cuộc sống hiến thân của họ. Có những người trẻ quảng đại nhưng không thể thực hiện ơn gọi của họ. Có những tín hữu bị tước đoạt cả quyền có thể tận hiến cho một cuộc sống chung để cầu nguyện và thực thi bác ái. Có những bậc cha mẹ bị người ta khước từ quyền được bảo đảm cho con em một nền giáo dục dựa trên niềm tin của mình..."
Tin Mừng hôm nay một lần nữa cho chúng ta hiểu được thế nào là ơn gọi và số phận của người Kitô hữu. Chúa Giêsu đã được cụ già Simêon gọi là dấu chỉ gợi lên chống đối. Cái chết của Ngài trên Thập giá là cao điểm của những chống đối mà con người dành cho Ngài. Tiếp tục sứ mệnh của Ngài, Giáo Hội ở mọi nơi và mọi thời, không thể thoát khỏi số phận bị chống đối ấy. Hình thức và mức độ của những cuộc bách hại có khác nhau, nhưng tựu trung ở đâu và lúc nào Giáo Hội cũng bị bách hại.
Ý thức về sự bách hại không phải là một mặc cảm; lên tiếng về những bách hại cũng không hề là một ý đồ chính trị. Giáo Hội tự bản chất luôn bị đặt vào thế bị chống đối. Chấp nhận đi theo Chúa Kitô, sẵn sàng chiến đấu chống lại tội lỗi, lên tiếng chống lại bất công và can đảm lội ngược dòng, sống như thế tức là đã bị bách hại rồi. Một Giáo Hội phục vụ có thể được thương mến, nhưng một Giáo Hội bị bách hại lại càng là Giáo Hội trung thành với Chúa Kitô hơn.
Trong một chuyến viếng thăm tại Braxin, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Tôi thà thấy muôn ngàn lần một Giáo Hội bị bách hại, hơn là một Giáo Hội thỏa hiệp".
Nguyện xin Chúa gìn giữ mọi thành phần Dân Chúa được luôn trung thành theo Chúa Kitô và thoát khỏi tinh thần thỏa hiệp vì một chút dễ dãi, lợi lộc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thích sống yên thân
“Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt. 10, 17-18)
Đời sống một chứng nhân
Chúa Giêsu chẳng dấu diếm gì, khi sai các môn đệ đi truyền giáo. Người nói rõ cho các ông hay những gì sẽ chờ đợi các ông. Trớ trêu thay! Các ông sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền, bị người ta đánh đòn. Người ta sẽ thù ghét, truy nã các ông. Các bạn hữu thân tình sẽ chống lại các ông. Tất cả những chuyện đó đang chờ đợi các ông. Quả là tệ hại! Cuộc đời các môn đệ chẳng có giây phút nghỉ ngơi. Đi theo Chúa, rao giảng về Người là nhất thiết liều mình gánh lấy những tai họa, là chấp nhận phải chiến đấu cam go, đau khổ nhiều, khóc lóc nhiều.
Đức Giêsu đã báo trước điều đó. Mười hai tông đồ đã gặp những thử thách nặng nề. Người ta không để cho các ông sống dễ dàng. Họ đã bắt các ông phải chết. Tôi tớ không trọng hơn chủ, nó chịu đồng số phận với chủ mình. Đức Giêsu đã nói thế.
Nếu không gây ra cho ta gì
Điều Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ xưa thì vẫn luôn có giá trị cho tất cả những ai còn đang làm chứng cho Phúc âm. Một chứng nhân đích thực không thể sống kiểu “ngồi nhà mát ăn bát vàng”. Người chứng nhân ấy không thể rao giảng Tin mừng cách chân chính mà lại không bị người đời chống đối, bị người ta một ngày nào đó đem mình ra bêu diếu cách nào đó.
Đã có lần nào ta bị người ta chống đối kịch liệt, bị bôi nhọ vì những niềm tin Kitô giáo của ta không? Đã có lần nào ta phải đau khổ vì đã mạnh dạn và công khai làm chứng về Đức Kitô không? Nếu chưa bao giờ ta phải chịu điều gì thiệt thòi, chưa có ai chống đối ta bao giờ, thì có lẽ vì ta đã chưa bao giờ là những chứng nhân đích thực, vì ta đã chỉ muốn sống yên thân thôi. Những chứng nhân tồi là vậy đó.
JYG
Suy Niệm 5: SỐ PHẬN NGƯỜI MÔN ĐỆ (Mt 10, 16-23)
Xem lễ thánh Tử Đạo Việt Nam 24/11, Lễ thánh Stêphanô 26/12
Từ vài năm qua, phong trào bách hại các tín hữu Kitô ngày càng gia tăng tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có các nước như Irak, Ấn Độ, Pakistan, Indonesia, Nigeria ...
Thoạt nghe, chúng ta có thể thấy rất thương tâm và xót xa cho số phận của các Kitô hữu bị bách hại tại những nơi này!
Tuy nhiên, nếu quy chiếu cuộc đời người môn đệ với Đức Giêsu thì không có gì là lạ cả, bởi lẽ người môn đệ là người bước theo Đức Giêsu trên chính con đường mà Ngài đã đi. Bước theo Thầy thì Thầy đi đâu, trò đi đấy; Thầy sống sao, trò sống vậy; và số phận của Thầy cũng là số phận của trò.
Tư tưởng này đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc đến ngày 05-05-2013, ngài nói: “Có quá nhiều những cộng đoàn Kitô hữu trong thế giới này đang bị bách hại. Con đường của các tín hữu Kitô là con đường của Đức Giêsu. Nếu muốn là các môn đệ của Ngài, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã chỉ ra với những hệ lụy là bị thế gian căm ghét”.
Chân lý đó được bắt nguồn từ những lời tiên báo của Đức Giêsu cho các môn đệ hôm nay. Ngài muốn báo trước cho các ông, để những sự việc đó đến, các ông can đảm và vững bước thi hành sứ vụ, dầu có phải chết.
Thật vậy, nếu Thầy Chí Thánh đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho sự thật, cho tình yêu, thì đến lượt các môn đệ và mỗi chúng ta, chắc chắn không có con đường nào sáng giá hơn là con đường đón nhận hy sinh, đau khổ và ngay cả cái chết để làm chứng cho Chúa và Tin Mừng của Ngài.
Ngày nay, tại đất nước của chúng ta chỉ còn chút ít những chuyện bách hại về mặt thể lý để ngăn chặn bước chân loan báo Tin Mừng. Có chăng chỉ là những vùng sâu vùng xa, do những con người thiếu hiểu biết gây nên mà thôi!
Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra và suy tư một chút, hẳn chúng ta thấy hơn bao giờ hết, ngày nay, con người lại đang bị bách hại khủng khiếp nhất. Cuộc bách hại trên diện rộng và sâu xa, nó có sức tàn phá mãnh liệt hơn cả thương tích, chết chóc về mặt thể lý. Cơn cám dỗ đó đến từ những trào lưu tục hóa, những phim ảnh, sách báo đồi trụy, những chủ thuyết triết học hiện sinh muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người và xã hội, để thay vào đó là những quan niệm “tự nhiên có”; hay “có là do tôi làm ra”.
Dần dà, nó làm cho con người có những lựa chọn sai lạc vì những “chân lý nửa vời” chỉ đạo.
Thiết nghĩ, những cơn cám dỗ đó đến với người môn đệ, đòi hỏi chúng ta phải có một chọn lựa. Tiếp tục theo Chúa hay buông xuôi. Nếu theo Chúa thì phải cẩn trọng và cương quyết từ bỏ những quyến luyến, cám dỗ của bản năng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết can đảm, trung thành theo Chúa đến cùng. Xin cho chúng con biết khước từ những điều bất chính để được thuộc trọn về Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
09/07 Huớng dẫn rao giảng về Nước Thiên Chúa
- Viết bởi Mt 10, 7-15
Huớng dẫn rao giảng về Nước Thiên Chúa.
Thứ Năm tuần 14 thường niên.
"Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
Lời Chúa: Mt 10, 7-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:
"Các con hãy đi rao giảng rằng "Nước Trời đã gần đến". Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
"Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: "Bình an cho nhà này". Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chúc bình an
Suy niệm :
Trước khi sai các Tông Đồ lên đường truyền giáo,
Thầy Giêsu đã dặn dò họ nhiều điều.
Họ được sai đến với ai: với những đồng bào của họ là người Israel.
Sau này họ mới được sai đến với dân ngoại, với mọi dân tộc (Mt 28, 20).
Họ đến để làm gì: rao giảng về Nước Trời gần đến,
chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết, khử trừ ma quỷ ra khỏi lòng người (c. 8).
Họ đến để đem lời chúc bình an cho những ai mở lòng lãnh nhận (c. 12).
Họ không nên mang theo những gì: tiền vàng, bạc hay đồng để giắt lưng,
bao bị để đựng đồ, hai áo để thay đổi, giày dép để bảo vệ đôi chân,
cả chiếc gậy vừa để đi đường xa, vừa đề phòng nguy hiểm (cc. 9-10).
Cách hành xử của họ cũng được Thầy nói rõ.
Họ làm mọi việc mà không đòi bất cứ điều gì để trả công.
“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (c. 8).
Họ đã nhận được Nước Trời như một món quà,
họ cũng muốn trao đi như một quà tặng.
Điều duy nhất họ mong là được người ta lo cho thức ăn, chỗ ở.
“Vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (c. 10).
Khi nghe lời dặn dò của Thầy Giêsu,
chúng ta thấy ngay mẫu người tông đồ mà Thầy mơ ước.
Đó là con người bị cuốn hút bởi những bận tâm về Nước Trời,
nên siêu thoát khỏi mọi vướng bận trần tục.
Nước Trời phong phú và giàu có đủ làm họ mãn nguyện,
nên họ coi nhẹ chuyện ở, chuyện mặc, chuyện ăn.
Chính lối sống đơn sơ giản dị, thậm chí thiếu thốn của họ,
là một lời chứng về những gì trên cao.
Họ cũng phải chấp nhận mình có thể bị từ chối, không được đón tiếp.
Một thành, một làng hay một nhà có thể không chấp nhận Tin Mừng,
và họ phải khiêm tốn tìm đến nơi thuận lợi hơn (c. 14).
Các tông đồ thế kỷ 21 hẳn không thể sống theo nghĩa đen những lời trên đây,
nhưng cũng không được gạt bỏ tinh thần mà Đức Giêsu vẫn muốn ta giữ mãi.
Nhẹ nhàng, thanh thoát, khó nghèo, phó thác, không tính toán lợi danh,
gieo rắc niềm vui và an bình, chữa lành và giải phóng con người khỏi nô lệ.
Và trên hết là một lòng yêu mến Thiên Chúa nồng nàn,
và một lòng yêu thương cháy bỏng đối với đoàn chiên vất vưởng bơ vơ.
Đó vẫn là hành trang muôn thuở của người tông đồ qua mọi thời đại.
Thời nay người tông đồ được trang bị nhiều phương tiện hiện đại,
với những cơ sở vững vàng, với số vốn ổn định, với tri thức bằng cấp đầy đủ.
Những điều đó vẫn không khiến chúng ta bỏ rơi tinh thần của Thầy Giêsu.
Bởi lẽ mất tinh thần của Thầy, chúng ta chẳng còn là tông đồ nữa.
Thánh Phanxicô Assisi đã bị đánh động khi đọc đoạn Tin Mừng này.
Và ngài đã muốn đưa Giáo hội trở lại với lối sống nghèo khó.
Rất có thể việc truyền giáo của chúng ta ở châu Á chưa có kết quả
chỉ vì chưa có những tông đồ dám sống triệt để lời dặn dò của Thầy Giêsu.
Mà lời dặn dò của Thầy lại rất hợp với tinh thần của người châu Á.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta” (Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: TRÁI TIM THIÊN CHÚA
Thiên Chúa có trái tim dễ rung động. Đó là điều Hô-sê khám phá. Người yêu Ít-ra-en bằng tình yêu dịu dàng, tha thiết và trìu mến. “Khi Ít-ra-en còn non trẻ, Ta đã yêu nó…Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó…Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má”. Tuy Ép-ra-im từ chối, nhưng Chúa không thể không yêu: “Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành! Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi”. Thật là một trái tim yêu thương tha thiết. Không thể từ bỏ dù bị phản bội (năm chẵn).
Giu-se là người của Chúa. Ông hiểu chương trình của Chúa. Nên ông cũng mang trái tim của Chúa. Vì thế, tuy bị anh em ghen ghét bán sang Ai-cập nhưng ông không hề oán hận. Trái lại khi gặp anh em, ông xúc động không cầm được nước mắt. Tha thứ hết mọi tội lỗi của anh em. An ủi anh em vì đây là kế hoạch của Chúa. Và chủ động làm hoà, để anh em sống trong tình huynh đệ chan hoà: “Ông Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông…Ông oà lên khóc…nói với anh em: ‘Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Theien Chúa đã gửi tôi đi trước anh em”. Thật là một trái tim quảng đại, yêu thương, tha thứ (năm lẻ).
Chúa Giê-su mong ước người môn đệ của Chúa cũng có trái tim của Chúa. Một trái tim tràn đầy yêu thương. Đi cứu vớt những con chiên lạc: “Anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Một trái tim nhân hậu thương xót. Cúi xuống những lầm than khốn khổ của con người. Để chữa lành. Để giải phóng. Để vỗ về: “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ”. Một trái tim yêu thương vô vị lợi không đòi đền đáp: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Một trái tim trong sạch, không vướng mùi tiền bạc vật chất: “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày dép hay cầm gậy”. Người môn đệ đi rao giảng Nước Trời. Không cậy dựa và càng không tìm kiếm hay bám víu vào những giá trị trần gian. Hành trang duy nhất chỉ mang theo trái tim của Chúa. Đi đến đâu đem bình an đến đấy: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy”.
Chỉ cần có trái tim của Chúa người môn đệ giới thiệu Nước Thiên Chúa đã đến. Vì khi mang trái tim của Chúa các ngài đã ở thiên đàng rồi.
Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt
Suy Niệm 3: Chỉ thị truyền giáo
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ một số chỉ thị cụ thể liên quan đến việc thi hành sứ mệnh đã lãnh nhận. Trước hết, về chính việc rao giảng Tin Mừng: Hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong cùi được khỏi bệnh và khử trừ ma quỷ. Vì là người được Chúa ủy thác, nên phải thi hành đúng chỉ thị của Ngài: rao giảng Nước Trời, cứu vớt những người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội.
Liên hệ đến tâm thức và cách sống của nhà truyền giáo, Chúa Giêsu nói đến tính cách nhưng không của việc hiến thân, tinh thần vị tha, giao tiếp hiền hòa với những ai đón nghe lời rao giảng cũng như với những ai từ chối. Ðã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Ðừng mang vàng bạc, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy hay cầm gậy. Vì thợ thì có quyền được nuôi ăn. Khi vào nhà nào thì hãy chào thăm và chúc lành cho nhà đó.
Chúa Giêsu không những ủy thác việc rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, Ngài còn muốn đời sống các ông phù hợp với lời giảng dạy. Nội dung cốt yếu của sứ điệp không do quyết định tự do hoặc sáng kiến của người rao giảng, mà là do chính Chúa Giêsu ấn định, đó là Nước Trời. Người được sai đi với tư cách là thừa tác viên phải thi hành đúng như Chúa đã truyền. Ngài mời gọi họ dấn thân sống đầy đủ mỗi ngày lý tưởng truyền giáo và lý tưởng của người môn đệ. Ðiều quan trọng phải nhớ là hành trang của nhà truyền giáo khi theo Chúa Giêsu là lời của Ngài và đời sống nghèo khó của Ngài. Tất cả những sự khác phải được coi là dư thừa, nhiều khi còn là ngăn trở cho việc truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy rằng những ai dấn thân sống nghèo khó và hy sinh cho người khác, sẽ được Chúa cho lại gấp trăm.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức sứ mệnh Chúa đã trao và quảng đại dấn thân để góp phần mở rộng Nước Chúa nơi trần gian. Xin giải thoát chúng ta khỏi những hành trang vô ích, dư thừa, cản trở việc rao giảng Tin Mừng, để chúng ta không lạc bước trong khi thi hành sứ mệnh cao cả đã lãnh nhận.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Gieo vãi khắp nơi
“Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. Đừng sắm vàng bạc, hay tiền đồng để giắt lưng.” (Mt. 10, 8-9)
Những thất vọng lớn nhỏ
Còn gì đáng thất vọng hơn là ủ một thúng cơm rượu, mà chẳng thấy nó lên men, gieo hạt lúa xuống ruộng, mà hạt vẫn nằm trơ không nảy mầm, trồng một cây bông trong vườn, mà chẳng thấy cây trổ bông bao giờ.
Còn đáng buồn hơn nữa là khi ta đã khó nhọc gieo hạt giống Nước Trời, đã cố gắng quảng bá Tin mừng, thế mà lại chẳng được nhìn thấy kết quả của những nỗ lực kia. Nhiều linh mục cũng như giáo dân đang hoạt động mục vụ cách này cách khác, thường có cảm giác như mình đang làm việc luống công. Đã chẳng được ai nghe theo, lại còn bị nhiều người tỏ ra lãnh đạm hoặc chống đối. Thế là họ đâm ra chán nản, muốn buông xuôi.
Đừng lên cơn đau tim
Trong đoạn Phúc âm chúng ta vừa đọc, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết là người ta sẽ không đón tiếp các ông. Nhiều người sẽ không muốn biết gì về các ông. Có kẻ sẽ đóng chặt cửa nhà khi vừa thoáng thấy bóng dáng của các ông.
Chúa kêu gọi các môn đệ đừng quá lo lắng bồn chồn, đừng mất bình tĩnh, đừng kích thích cơn đau tim. Những chuyện đó phải có thôi. Nếu người ta không đón tiếp, hãy phủi bụi chân và đi nơi khác. Nếu hạt gieo chỗ đất ấy không mọc lên, đừng ngần ngại đi gieo vãi trên những mảnh đất mới khác.
Chớ gì đây là nguyên tắc để ta hành động. Dừng đâm đầu vào tường, vì có ích gì; đừng như trái banh xì hơi vì sẽ không lăn được như ta muốn. Thiên Chúa yêu cầu ta cứ rộng tay gieo vãi, gieo vãi muôn nơi không biết mệt mỏi. Nếu chuyện ta trù tính không tién hành được, hãy tính đến chuyện khác. Nếu những người ta muốn đem tin mừng đến cho họ, lại bịt tai không muốn nghe, hãy nói cho người khác. Ta cứ gieo đi, gieo khắp nơi. Chưa vội nghĩ đến mùa thu hoạch.
Suy Niệm 5: CĂN TÍNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (Mt 10, 7-15)
Xem lễ thánh Banaba Tông Đồ ngày 11/6
Đức Giêsu đã trao truyền cho các môn đệ sứ mạng và sự nghiệp của chính Ngài.
Thật vậy, hôm nay, như một người thầy nhắn nhủ các môn sinh của mình trước lúc lên đường, Đức Giêsu trao cho các ông quyền trên mọi thần ô uế, để các ông chữa lành, và củng cố lời giảng của mình, hầu cho lời giảng có giá trị và thuyết phục, đồng thời để lời nói và hành động không bị mâu thuẫn.
Sau đó, Đức Giêsu đã căn dặn các ông về căn tính của người môn đệ:
Trước tiên là nhiệm vụ của người ra đi: người được sai đi là để loan báo Tin Mừng chứ không phải là loan báo tin buồn, đồng thời sai đi để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền chứ không phải gieo rắc đau thương.
Thứ hai là tinh thần của người ra đi: người được sai đi sẽ gặp không ít khó khăn, nên cần phải tin tưởng, trao phó mọi sự nơi Chúa. Ra đi trong tinh thần thanh thoát, không cần phải cồng kềnh và quá lo lắng cho ngày mai. Hãy là người tôi tớ phục vụ, bởi vì : “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy".
Thứ ba là thái độ của người ra đi: người môn đệ muốn được thành công thì phải mặc lấy thái độ của hạt lúa, tức là tự hủy ra không, phải nhân từ để “ngửi thấy mùi chiên” và “mang mùi chiên nơi mình”. Không ngại khổ, ngại khó và cần phải hy sinh. Luôn quan tâm đến người khác hơn là nghĩ về mình.
Thứ tư là lập trường của người ra đi: sống trong một xã hội chủ chương vô thần, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi tư tưởng, nhận thức của con người. Lập trường của họ là không có Thiên Chúa, cũng chẳng có niềm tin... Vì thế, họ không ngần ngại uốn nắn và tìm đủ mọi cách dưới nhiều hình thức tinh vi để gây nên những hoang mang, thất vọng. Bên cạnh đó là những trào lưu tục hóa, những văn hóa phẩm đồi trụy... nhằm gieo rắc những chân lý nửa vời và làm cho con người lấn sâu trong tội mà không biết! Và cũng những con người đó, họ muốn loại bỏ người môn đệ của Chúa, vì thế, cái chết là kết cục cuối cùng của người môn đệ. Số phận của người môn đệ là: như chiên đi vào giữa bầy sói.
Tuy nhiên, lập trường của người môn đệ, trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ và không có cách nào được phép đồng lõa, thỏa hiệp để chỉ vì mục đích “rẻ tiền” nhằm được yên thân. Lập trường của người môn đệ còn là hiện diện và sống những giá trị Tin Mừng cách thực tế chứ không chỉ lo cái gọi là bề ngoài cho thật “hoành tráng” theo thói đời, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thứ năm là chiến lược của người môn đệ: được mời gọi hiện hữu giữa thế gian nhưng không bị thế gian điều khiển và đẩy đưa để dẫn đến cái gọi là: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Phải khôn như rắn để xây dựng, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội, và phải hiền lành, đơn sơ như chim bồ cầu trong tinh thần huynh đệ.
Cuối cùng, lời chào của người ra đi là lời chúc bình an của Chúa chứ không phải là những gợi ý, mong muốn để được nâng đỡ cách này hay cách khác mang tính phàm tục.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên môn đệ đích thực của Chúa như lòng Chúa mong ước. Amen.
Ngọc Biển SSP
08/07 Chọn gọi 12 tông đồ
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Chọn gọi 12 tông đồ.
Thứ Tư tuần 14 thường niên.
"Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Lời Chúa: Mt 10, 1-7
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.
Đây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: "Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Mười hai tông đồ
Suy niệm :
Đức Giêsu đã cần mười hai bạn trẻ cộng tác với mình,
để làm mục tử cho đàn chiên, làm thợ gặt cho mùa lúa chín vàng,
làm tông đồ cho một nước Paléttin nhỏ bé.
Ngài chia sẻ cho họ uy quyền mình có và sứ vụ mình làm (c. 1).
Con số mười hai gợi nhớ mười hai chi tộc Israel ngày xưa.
Giáo Hội Ngài thiết lập sẽ là Israel mới, đặt nền trên mười hai bạn trẻ.
Chúng ta khó hình dung khuôn mặt riêng của mỗi vị tông đồ,
nhưng ta biết tên của họ qua các sách Tin Mừng, dù có chút dị biệt.
Họ có cá tính và cuộc đời riêng, nhưng đều được gọi bởi Thầy Giêsu,
và được Thầy sai đến với dân tộc mình là Israel (c. 6).
Tin Mừng Mátthêu kể tên nhóm Mười Hai theo từng cặp.
Simôn Phêrô đứng đầu danh sách, còn Giuđa Ítcariốt thì đứng cuối.
Chỉ sau này ta mới biết Simôn sẽ chối Thầy và Giuđa sẽ phản bội.
Có những cặp anh em ruột: Simon và Anrê, Gioan và Giacôbê.
Có người làm nghề thu thuế cho quân đô hộ: Mátthêu.
Có người lại muốn dùng vũ trang giải phóng đất nước: Simôn nhiệt thành.
Có ba người được coi là môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Nói chung đa số là những người ít học thức, làm nghề đánh cá.
Được sai đi thật là một thách đố đối với họ.
Họ có làm nổi những việc Thầy giao không?
Vào thời Đức Giêsu, rao giảng “Nước Trời đã đến gần” là điều không dễ.
Để người ta tin chuyện đó, cần phải minh chứng bằng hành động cụ thể,
như chữa lành bệnh hoạn và khử trừ thần ô uế.
Vào thời nay, rao giảng Tin Mừng Nước Trời lại càng không dễ.
Rao giảng vẫn phải đi kèm với các việc phục vụ con người.
Lập một bệnh xá, bắc một cây cầu, đào một giếng nước,
giúp trẻ em nghèo đến trường, đưa người cai nghiện về lại với cộng đoàn,
cho các cô gái lầm lỡ có chỗ sinh con và nuôi con…
Giáo Hội đã làm nhiều việc và vẫn còn bao nhu cầu mới mẻ.
Nhưng có một việc mà xã hội hôm nay không biết là mình đang cần,
đó là được giải phóng khỏi những thần ô uế mới đang ám ảnh con người.
Mười Hai tông đồ ngày xưa đã đi khắp mảnh đất Paléttin,
và đã đặt chân đến những vùng đất mới.
Thế giới hôm nay rộng hơn và phẳng hơn xưa.
Chúng ta được Đấng Phục sinh sai đến mọi dân tộc (Mt 28, 20).
Các phương tiện truyền thông ngày nay giúp ta dễ dàng làm chuyện đó.
Nhưng chúng ta vẫn không được quên, trên quê hương Việt Nam
gần 80 triệu đồng bào chưa đón nhận Tin Mừng.
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: TÌNH THƯƠNG DIỆU KỲ
Thật diệu kỳ tình thương của Thiên Chúa. Chúa đã chúc phúc cho nhà Gia-cóp. Nhưng các con ông bất hoà vì ghen ghét đã bán Giu-se sang Ai-cập. Ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Giu-se trở thành tể tướng nước Ai-cập, chuyên lo cấp phát lúa gạo cho dân trong thời đói kém. “Cứ đến với Giu-se”. Đó là chính là Chúa chăm lo cho dân. Con cái ông Gia-cóp cũng phải sang Ai-cập mua thóc lúa. Giu-se thử lòng và thấy họ đã biết sám hối tội lỗi. “Họ bảo nhau: “Than ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đã thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đã năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính vì thế mà chúng ta gặp cảnh ngặt nghèo này”. Vì thế, Chúa tha tội, và ông Giu-se đã cấp phát lúa gạo cho họ (năm lẻ).
Hô-sê vừa trách móc dân bội bạc vừa hiểu biết tình thương vô bờ của Thiên Chúa và thấy trước Thiên Chúa sẽ cứu độ dân Người. Tình thương Thiên Chúa thật lớn lao. Đã vun trồng Ít-ra-en thành cây nho “sum suê, trái trăng thật dồi dào phong phú. Nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng…” Chúa trừng phạt họ: “Thế là Sa-ma-ri tiêu tùng”. Ông khuyên nhủ dân chúng hãy ăn năn sám hối. “Hãy gieo công chính, rồi sẽ gặt được tình thương. Hãy khai khẩn đất hoang; đây là thời kiếm tìm Đức Chúa”. Và ông tiên báo Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ: “Cho đến khi Người đến làm mưa công chính trên các ngươi” (năm chẵn).
Đến thời đến buổi Thiên Chúa sai chính Con Một xuống trần cứu độ trần gian. Thật là một tình yêu lớn lao. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Thật là một sáng kiến vượt trí tưởng tượng của loài người. Dân cũ đã hư hỏng. Nên Chúa Giê-su lập ra một dân mới. Dân cũ phát sinh từ 12 chi tộc dòng dõi Gia-cóp. Dân mới cũng có 12 cột trụ là 12 tông đồ được Chúa tuyển chọn. Dân cũ bị những thần tượng ngoại lai cám dỗ. Bị ma quỉ khống chế. Dân mới được Chúa cứu khỏi ách nô lệ ma quỉ, xác thịt, thế gian. Đi đến đâu Người xua trừ ma quỉ đến đó. Các tông đồ tiếp tục công việc của Chúa. Vì Chúa “ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. Đi khắp nơi các ông rao giảng: “Nước Trời đã đến gần”.
Thật cao cả tình thương của Thiên Chúa. Thật lạ lùng sáng kiến của Thiên Chúa. Hôm nay Chúa cũng mời gọi tôi hãy giúp Chúa mở rộng Nước Thiên Chúa. Hãy xua trừ thần ô uế. Và chữa lành mọi bệnh tật. Vì thế giới hôm nay còn nhiều thần dữ thống trị. Và có rất nhiều chứng bệnh đo thần dữ và thế gian gây ra.
Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt
Suy Niệm 3: Chọn các Tông Ðồ
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta trở về cội nguồn của Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô, Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Kitô. Ðể thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để rao giảng Tin Mừng. Trong số các môn đệ ấy, Ngài đã chọn mười hai người làm Tông Ðồ và trở thành cột trụ của Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Nếu Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô, thì Giám mục đoàn mà đứng đầu là Ðấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là những người tiếp tục làm cột trụ của Giáo Hội.
Chúa Kitô quả thật đã thành lập một Giáo Hội hữu hình có phẩm trật, phẩm trật ấy hiện hữu không ngoài mục đích tiếp tục sứ mệnh Ngài đã ủy thác cho các Tông Ðồ. Do đó, tiếp nhận quyền bính trong Giáo Hội cũng chính là chấp nhận quyền bính mà Chúa Giêsu đã trao cho các Tông Ðồ. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Giáo Hội tông truyền, điều đó không chỉ có nghĩa là Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Ðồ, mà còn có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận quyền bính mà các Tông Ðồ đã truyền lại cho các đấng kế vị, tức Giám mục đoàn mà thủ lãnh là Ðức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô. Ðây chính là nền tảng sự hiệp thông trong Giáo Hội. Không thể nói đến hiệp thông khi một Giám mục đứng riêng rẽ bên ngoài Giám mục đoàn để truyền dạy những điều nghịch đức tin và luân lý của Giáo Hội, và cũng không còn là hiệp thông khi một tín hữu không tuân giữ quyền giáo huấn của Giám mục đoàn và của thủ lãnh Giám mục đoàn là Ðức Giáo Hoàng.
Dân chủ vốn là một phạm trù dễ bị lạm dụng. Ngay tại những nước có dân chủ thực sự, thì hai chữ "dân chủ" cũng bị lạm dụng không kém. Khi một luật pháp bất công như luật cho phép phá thai chẳng hạn được số đông bỏ phiếu tán thành, phải chăng đây không phải là một lạm dụng của trò chơi dân chủ. Giáo Hội luôn đề cao tinh thần dân chủ đích thực, nhưng Giáo Hội không hề là một chế độ dân chủ, trong đó các thành phần có thể bỏ phiếu chọn người lãnh đạo hoặc tán thành một khoản luật. Giáo Hội cũng chẳng là một tổ chức mà người ta có thể xếp vào bất cứ chế độ nào. Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Kitô, chân lý chúng ta phải tuyên xưng là do Chúa Kitô mạc khải và ủy thác cho các Tông Ðồ, và truyền lại cho các đấng kế vị các ngài. Luật phải giữ cũng chính là luật của Chúa Kitô đã ủy thác cho các Tông Ðồ và các đấng kế vị các ngài. Tiêu chuẩn cho biết một thành phần Giáo Hội có hiệp thông với Giáo Hội hay không, là tinh thần tuân phục đối với quyền bính của những đấng kế vị các Tông Ðồ.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta tinh thần khiêm tốn, để luôn luôn biết đón nhận và tuân phục giáo huấn của Ngài được ủy thác cho các Tông Ðồ và Giáo Hội. Xin Chúa gìn giữ Giáo Hội được hiệp thông quanh đấng kế vị thánh Phêrô mà Chúa đã đặt làm thủ lãnh Giáo Hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Một Hội Thánh bên ngoài Hội Thánh
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Dọc đường hãy rao giảng rằng: “Nước Trời đã đến gần.” (Mt. 10, 1. 7)
Sai đi truyền giáo
Khi Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo, Chúa cho các ông một chỉ thị rất rõ ràng: “Tốt hơn là anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà It-ra-en”. Vậy là có những người mà các tông đồ phải ưu tiên đến với họ. Họ không phải là dân ngoại, cũng không phải là những người xa xăm chưa biết Chúa. Những người đầu tiên mà các môn đệ phải đi tới, đó là những đồng bào của các ông đang sống bất trung và tội lỗi. Các ông phải đến với họ. Các ông phải ra đi tiếp xúc gặp gỡ để loan báo cho họ biết rằng Nước Trời đã đến gần.
Hãy đi ra bên ngoài giáo hội
Chỉ thị trên đây của Chúa, ta hãy đem ra áp dụng đúng vào hoàn cảnh hôm nay của ta. Những người mà ta phải nói cho họ biết về Chúa, lại đang ở rất gần ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những người bà con lối xóm của ta. Họ là những người cùn nghề cùng sở làm với ta. Nhưng ta phải đến với họ nhân danh Chúa Giêsu, có nghĩa là vì hạnh phúc đời đời của họ mà ta phải đi bước trước, phải tới gõ cửa nhà họ để giới thiệu cho họ biết có một đấng luôn yêu thương họ, và quan tâm đến vận mệnh đời đời của họ. Bởi vì rất có thể là họ sẽ không đến với ta và Giáo hội.
Có một thời Giáo hội đã quá quen với nếp sống ù lì là thích tiếp nhận những kẻ đến với mình hơn là ra đi đến với họ. Thời đó nay đã qua rồi. Giáo hội không thể là một biệt khu khép kín. Các linh mục không thể chỉ luẩn quẩn làm việc trong nhà xứ. Các tín hữu không thể chỉ coi mình là những nhà truyền giáo cho những người đang sống trong lòng Giáo hội mà thôi. Đã đến lúc phải vượt ra bên ngoài Giáo hội, phải ra khỏi các phòng hội họp của giáo xứ để đi đến những nơi công cộng, để thâm nhập vào mọi nơi, mọi tầng lớp xã hội. Để chu toàn sứ mệnh của mình, Giáo hội phải tỏ mình ra và hành động ở bên ngoài các nhà thờ. Nếu chỉ có ở tại nhà thờ, ta mới biết làm chứng lòng tin của mình, thì thiết tưởng ta vẫn chưa phải là những chứng nhân theo như Chúa muốn.
Suy Niệm 5: “PHẢI TRUYỀN GIÁO” (Mt 10, 1-7)
Xem lại CN 11 TN A, thứ Sáu tuần 2 TN và thứ Tư tuần 25 TN
Truyền Giáo là bản chất của Giáo Hội. Nếu không truyền giáo, chúng ta đánh mất bản chất của mình. Vì thế, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II khẳng định “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, số 57). Bởi vì Giáo Hội coi: “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14).
Hôm nay, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ chung chia sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Sứ mạng ấy là: hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi hầu cho “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Cùng một sứ mạng, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta, những Kitô hữu, mỗi người một cách, hãy loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi bằng nhiều cách thế khác nhau để cho muôn dân được nhận biết Đức Giêsu và ơn cứu độ của Ngài mang lại.
Mong sao, lệnh truyền của Đức Giêsu “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15), và thái độ, ý thức về truyền giáo của thánh Phaolô cũng là của chính chúng ta: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9, 16).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội, để các ngài chu toàn bổn phận đã được trao phó, đồng thời, xin cho chúng con được trở nên môn đệ và được tiếp bước với Chúa trên cánh đồng mênh mông bao la hiện nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
07/07 Cánh đồng truyền giáo
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Cánh đồng truyền giáo.
Thứ Ba tuần 14 thường niên.
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít".
Lời Chúa: Mt 9, 32-38
Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: "Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel". Nhưng các người biệt phái nói rằng: "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ".
Và Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn.
Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sai thợ ra gặt lúa
Suy niệm :
Phép lạ Đức Giêsu chữa người câm là phép lạ cuối
của chuỗi mười phép lạ trong hai chương 8 và 9 của Tin Mừng Mátthêu.
Mátthêu đã kể lại phép lạ này với rất ít chi tiết.
Người ta coi bệnh câm của anh này là do quỷ ám.
Khi quỷ bị trục xuất thì người câm nói được.
Không thấy Đức Giêsu đã làm gì hay nói gì để trừ quỷ.
Nhưng quyền năng của Ngài được lộ ra khi người câm cất tiếng nói.
Có hai phản ứng ngược nhau trước phép lạ.
Đám đông thì kinh ngạc và nói: “Ở Israel, chưa hề thấy thế bao giờ.”
Họ đứng trước một điều hết sức mới mẻ khiến họ ngỡ ngàng (c. 33).
Người câm nói được là một dấu chỉ cho thấy Nước Trời đã gần,
thời đại thiên sai đã đến, Đấng Thiên sai đã ở kề bên.
Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia tiên báo:
“miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (35, 6).
Nhưng những người Pharisêu lại nghĩ khác.
Họ không phủ nhận quyền năng trừ quỷ của Đức Giêsu,
nhưng họ lại cho rằng Ngài đã bắt tay với quỷ vương để trừ quỷ (c. 34).
Đây là phản ứng đầu tiên có tính thù nghịch công khai của người Pharisêu.
Phần còn lại của bài Tin Mừng là một bản tóm lược
về các hoạt động của Đức Giêsu: dạy dỗ, rao giảng, và chữa bệnh (c. 35).
Tất cả cuộc sống của Ngài như dành trọn cho đám đông.
Đôi chân Ngài đi khắp các thành thị, làng mạc và hội đường.
Đôi môi Ngài không ngớt đem tin vui đến cho những người mong đợi.
Đôi tay Ngài chạm đến những bệnh tật yếu đau của con người.
Nhưng trên hết vẫn là chuyện Đức Giêsu chạnh lòng thương (c. 36).
Chạnh lòng thương là nhói đau ở chỗ sâu bên trong của ruột gan mình.
Thấy thì thương: đó luôn là cái nhìn của Đức Giêsu trước đám đông.
Ngài thấy họ như chiên không có người chăn dắt, lãnh đạo.
Chính vì thế họ bị rơi vào tình cảnh vất vưởng lầm than.
Đức Giêsu không đau xót về chuyện bệnh tật thân xác của đám đông.
Ngài quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu tâm linh của con người.
Con người đánh mất ý nghĩa cuộc sống, thấy bơ vơ, cô độc, tuyệt vọng.
Con người loại trừ Thiên Chúa, để rồi rơi vào sa đọa, chán chường.
Đức Giêsu đến như người mục tử chăm sóc mọi mặt cho đoàn dân.
Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã than về chuyện ơn gọi.
Đồng lúa thì bao la mênh mông, mà thợ gặt thì ít.
Ngài mời các môn đệ của mình cầu nguyện nài xin với Thiên Chúa.
Đồng lúa là của Thiên Chúa, thợ gặt cũng là của Thiên Chúa sai đến.
Nước Việt Nam chúng ta cũng cần bao thợ gặt.
Có bao nhiêu tỉnh thành làng mạc còn thiếu linh mục, thiếu nữ tu.
Số linh mục mới chịu chức không đủ bù cho các vị về hưu và qua đời.
Làm sao để các bạn trẻ thấy con người hôm nay và chạnh lòng thương?
Làm sao để họ muốn dấn bước lo cho đám đông như Giêsu?
Cầu nguyện :
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,
đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy
đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay
những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ
biết quên hạnh phúc và tương lai của mình
để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.
Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,
cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương,
thấy được những mất mát của bao người đau khổ,
và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.
Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ
để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu,
sống như Ngài đã sống
và tiếp tục làm những gì
Ngài đã làm trên trần gian.
Cũng xin Cha
gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con,
thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội,
để tất cả trở thành những môi trường tốt
giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG
Thế gian đau khổ vì chống lại Thiên Chúa. Dân Ít-ra-en có nhiều kinh nghiệm về điều này. Khi vâng nghe Lời Chúa, họ được hạnh phúc. Khi phản bội Chúa, họ lâm vào cảnh nô lệ lầm than khốn khổ. “Con cái Ít-ra-en phong vương người mà Ta không chọn, tôn làm lãnh tụ kẻ Ta không biết, dùng bạc vàng làm ra ngẫu tượng, để rồi bị đập tan”. Từ bỏ Chúa thì họ sẽ phải chịu nô lệ các thế lực ma quỉ, xác thịt, thế gian: “Giờ đây, Người sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng, chúng đã phạm tội, thì chúng sẽ phải đền: chúng sẽ phải trở về Ai-cập” (năm chẵn).
Chúa Giê-su xuống trần để giải thoát con người khỏi ách nô lệ. Chúa xua trừ ma quỷ để con người được sống tự do: “Khi ấy, người ta đem đến cho Đức Giê-su một người câm bị quỷ ám. Khi quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói được”. Chúa rao giảng cho mọi người biết Nước Trời. Chúa cứu họ khỏi mọi bệnh hoạn tật nguyền: “Đức Giê-su…rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. Chúa đến để đưa mọi người vào Nước Trời. Toàn dân là những bông lúa chín cần được đưa vào kho Nước Trời: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gựt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.
Chúa muốn có người cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời. Nhưng việc xây dựng Nước Trời là của Chúa. Vì thế người cộng tác phải có lòng khiêm tốn. Phải cầu nguyện và được sai đi. Đó chính là thái độ của tổ phụ Gia-cóp. Khi từ nơi lưu lạc trở về, ông đắc thắng như một người thành công nhờ sức mình. Có hai bà vợ. Mười một đứa con trai. Còn gia súc thì hàng ngàn hàng vạn. Nhưng đêm trước khi bước vào Đất Hứa, ông phải trải qua một cuộc chiến đấu với Thiên Chúa. Ông phải cầu nguyện xin Chúa chúc phúc: “Tôi sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi…Và người đó chúc phúc cho ông tại đấy”. Để tổ phụ Gia-cóp khiêm tốn, Chúa đã cho ngài bị thọt chân: “người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp xương hông của ông Gia-cóp bị trật”. Nhờ đó ông được đổi tên và trở tổ phụ dân riêng được Chúa chọn: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng là Ít-ra-en”. Đó chính là tên của dân tộc mới được Chúa thành lập (năm lẻ).
Xin cho con biết khiêm tốn cầu nguyện để được Chúa sai đến nơi Chúa muốn và làm việc Chúa cần.
(Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt)
Suy Niệm 3: Nhu cầu truyền giáo
Nhờ tiếp xúc với người dân, Chúa Giêsu có thể nhận thấy đời sống thực tế của họ. Thánh sử Mátthêu nói rõ: "Thấy dân chúng đông đảo, Ngài chạnh lòng thương, vì họ lầm than, vất vưởng, như chiên không người chăn dắt". Ðứng trước thảm trạng này, Chúa Giêsu gợi ý để các môn đệ của Ngài suy tư: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít".
Quan niệm Cựu Ước về các chủ chăn của dân là quan niệm rộng rãi và ám chỉ vừa các thẩm phán, vừa các tư tế và tiên tri. Hình ảnh rất quen thuộc với nền văn hóa của các dân du mục. Chính tổ tiên của họ cũng là những người chăn chiên, như Môsê, Ðavít. Yêrêmia và Êzêkiel đã báo trước là chính Thiên Chúa sẽ trở nên người chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Lời tiên tri này đã được thực hiện đầy đủ nơi Chúa Giêsu, vị Mục Tử nhân lành chạnh thương và chăm sóc các con chiên của Ngài, đến nỗi hy sinh cả mạng sống cho chúng. Như vậy, các Kitô hữu có thể tin tưởng tiến bước, bởi vì họ biết rằng Chúa là mục tử của họ.
Hình ảnh về mùa gặt hái đã được các Tiên Tri dùng để chỉ Nước Chúa Cứu Thế sau này. Thời kỳ sau cùng là thời kỳ gặt hái thu lượm, nghĩa là lúc Thiên Chúa đến phán xét trong ngày tận thế. Chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa. Giai đoạn sau cùng của lịch sử đã bắt đầu với việc Nước Thiên Chúa đến; tất cả đều sẵn sàng, nhưng thiếu thợ gặt. Thế giới ngày nay như một cánh đồng mênh mông, nơi có rất nhiều linh hồn sẵn sàng đón nhận Nước Trời nhưng phải có người chỉ đường cho họ. Chúa muốn cứu thế gian và Ngài kêu gọi sự cộng tác của con người. Lời kêu gọi của Ngài vẫn có giá trị và khẩn cấp trong mọi thời đại.
Là người Kitô hữu, chúng ta có lo lắng để Nước Chúa được lan rộng tới các tâm hồn không? Ðức tin của chúng ta có sống động bằng việc làm cụ thể hay chỉ là đức tin chết?
Xin Chúa đổ tràn tâm hồn chúng ta lửa nhiệt tâm truyền giáo. Xin cho chúng ta thực sự trở nên chứng nhân của Chúa bằng lời nói, việc làm, nhất là bằng lời cầu nguyện và gương sáng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chúng ta đều là thợ gặt
Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không có người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với các môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt. 9, 36-39)
Một mùa gặt bội thu
Nếu hôm nay Chúa Giêsu đi trên những con đường hiện đại của chúng ta, chắc chắn Chúa cũng sẽ cảm nghĩ như xưa cách đây gần 2000 năm. Người sẽ nói: “Những con người nam nữ của thế kỷ 20 này, ta không thể không quan tâm tới họ. Ta thấy họ lo âu và chẳng sung sướng gì. Ta thấy họ đang đi tìm ánh sang và chân lý. Ta biết họ muốn được sống hạnh phúc, nhưng lại chẳng biết đường đi. Thiếu người dẫn dắt họ tới ấnh sáng và nguồn vui. Không đủ thợ gặt. Anh em hãy cầu xin Cha tôi để có được nhiều người biết dẫn dắt người ta đến với Ngài.
Không phải chỉ có các linh mục, các tu sĩ nam nữ là những người phải nói về Chúa, phải giới thiệu Chúa cho người ta, mà là tất cả những ai đã hưởng ánh sáng và niềm vui mà Chúa ban cho kẻ sống mật thiết với Người.
Ta không thể đã được gặp Chúa rồi mà lại sống ích kỷ. Người Kitô hữu chính cống là người biết chia sẻ cho người khác điều mình đã thấy, đã biết, đã trải qua.
Mỗi người đều có phần trách nhiệm
Phải cần đến nhiều tay thợ, để những con người thời nay nam cũng như nữ biết đối diện với Chúa và sống sự sống của Người. Mỗi tín hữu dù nam hay nữ đều phải là thợ gặt trong cánh đồng mênh mông của Chúa. Mỗi người đều có trách nhiệm góp phần lớn nhỏ của mình.
Đừng đẩy trách nhiệm của mình cho người khác. Không phải chỉ cầu nguyện cho thêm đông số các người chuyên lo việc truyền giáo, cho có nhiều linh mục tu sĩ nam nữ dấn thân hết mình cho Giáo hội mà thôi. Tốt hơn ta hãy cầu xin cho chính chúng ta để biết làm gì hơn trong phần trách nhiệm của mình, cụ thể là cầu nguyện cho ta được ơn can đảm và niềm vui để hoàn thành tốt trách nhiệm Chúa trao.
Suy Niệm 5: XIN MỞ MIỆNG CON (Mt 9, 32-38)
Hôm nay, Đức Giêsu đã chữa lành một người bị quỷ câm ám. Khi đã được thoát khỏi quỷ câm, người đó liền nói được.
Sau đó, Đức Giêsu còn đi khắp các làng mạc giảng dạy, chữa lành các bệnh tật.
Tiếp theo, Ngài đã mời gọi các môn đệ hãy đi để loan báo về tình thương của Thiên Chúa cho mọi người.
Khi nói đến câm, chúng ta thấy có hai dạng: một là câm ngoài ý muốn, tức là câm từ lúc mới sinh, hay bị một sự cố nào đó mà ảnh hưởng đến thanh quản, khiến bệnh nhân không nói được; hai là câm tự ý muốn, tức là đương sự không muốn nói.
Giữa hai dạng, câm ngoài ý muốn, tự bản chất, không ảnh hưởng đến ơn cứu độ. Tuy nhiên, dạng thứ hai, tức là câm tự ý muốn thì nguy hiểm, và có thể mất ơn cứu độ! Họ là những người mê tiền tài, danh vọng, dâm dục... nên mọi hành vi, cử chỉ đều hướng chiều về nó, khiếm người đó bị câm không nói được về Chúa cho anh chị em mình.
Thật vậy, nói về sự thanh thoát làm sao được khi chính mình ham tiền, hám bạc! Nói về sự từ bỏ sao được khi chính mình ham quyền, cố vị! Nói về khiết tịnh sao được khi chính mình khoái danh, sắc, dục...! Và, nói về đạo đức, bác ái, dấn thân, phục vụ... làm sao khi chính tôi còn đang tham sân si! Hay không thể nói về tha thứ được, vì tôi còn đang nuôi hận thù!
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy nên ngôn sứ của Đức Giêsu và thuộc về Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, chứ không chỉ như cái xác vô hồn hay chiếc bóng trong cuộc sống, để rồi sống buông tha, suy đồi và không dám làm chứng cho Tin Mừng. Bên cạnh đó, sứ điệp Lời Chúa cũng nhắc cho mỗi người chúng ta cần loại bỏ những hệ quả của ma quỷ như: độc địa, ích kỷ, gian tham, hận thù, rượu chè, cờ bạc… và không được đứng về phía sự ác để thành kiến, ghen tương, đố kỵ mà trà đạp người anh chị em chúng ta để đưa mình lên như những người Pharisiêu khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp sức cho chúng con, để chúng con không bị câm về phần hồn. Xin cho chúng con can đảm nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em. Và, xin cho chúng con đừng vì miếng cơm manh áo mà chà đạp anh chị em mình xuống để vươn lên trong sự bất chính. Amen.
Ngọc Biển SSP
06/07 Chạm đến
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Chạm đến.
Thứ Hai tuần 14 thường niên.
"Con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến, nó sẽ sống lại".
Lời Chúa: Mt 9, 18-26
Khi ấy, Chúa Giêsu đang nói, thì có một vị kỳ mục kia đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại".
Chúa Giêsu chỗi dậy, và cùng với các môn đệ, đi theo ông ấy.
Và này có người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm, tiến lại đàng sau Người và chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi. Chúa Giêsu ngoảnh lại, trông thấy bà ta, liền phán rằng: "Này con, hãy vững lòng. Đức tin của con đã cứu thoát con". Và người đàn bà được khỏi bệnh.
Khi Chúa Giêsu đến nhà vị kỳ mục, và thấy những người thổi kèn và đám đông đang xôn xao, thì bảo rằng: "Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi". Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy. Tin này đồn đi khắp cả miền ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Cầm lấy tay
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện của những bàn tay.
Vị thủ lãnh của hội đường có cô con gái mới chết,
nhờ ai đó giới thiệu, ông lật đật chạy đến với Đức Giêsu.
Lòng tin của ông thật là mạnh, diễn tả qua câu nói:
“Xin Ngài đến đặt bàn tay lên cháu, là nó sẽ sống” (c. 18).
Ông tin Đức Giêsu có thể cho con ông được hoàn sinh.
Ông mời Ngài đến nhà mình chỉ để làm một chuyện là đặt bàn tay.
Đặt bàn tay trên một xác chết còn ấm để làm cho nó sống lại.
Như thế ông tin vào uy quyền của Đức Giêsu, thể hiện qua bàn tay.
Ngài cũng là một ngôn sứ như Êlia hay Êlisa trong Kinh Thánh.
Các vị này đều có khả năng hoàn sinh kẻ chết (1V 17, 17-24; 2V 4, 32-37).
Đức Giêsu đã mau mắn nhận lời đến nhà ông.
Ngài hiểu được nỗi đau của một người cha khi mất đứa con gái nhỏ.
Khi đến nhà thì đám tang đã bắt đầu với những người thổi kèn,
và một đám đông hiếu kỳ gây ồn ào náo động.
Đức Giêsu tiến vào nhà và bảo người ta lui ra khỏi phòng của cô bé:
“Con bé có chết đâu, nó đang ngủ đấy !” (c. 24).
Khi đám đông bị tống ra rồi, thì Ngài đi vào nơi cô bé nằm.
Ngài không đặt bàn tay trên cô như yêu cầu của người cha.
Nhưng Ngài cầm lấy bàn tay cô bé, và cô bé đã trỗi dậy (c. 25).
Ngài đã đụng đến một xác chết và Ngài đã làm cho nó phục sinh.
Đám tang trở thành đám tiệc, làm sao cảm được niềm vui của người cha?
Đức Giêsu đem sự sống trở lại, để sự sống thắng cái chết.
Trên đường đến nhà vị thủ lãnh, một phụ nữ bị băng huyết đến gặp Ngài.
Không gặp diện đối diện, nhưng bà lén đến từ phía sau lưng,
bởi lẽ căn bệnh lâu năm này đã làm cho bà ra ô uế, không được đụng đến ai.
Cũng như vị thủ lãnh, bà có một niềm tin sắt đá:
“Tôi chỉ cần sờ được vào áo choàng của Ngài thôi, là sẽ được cứu” (c. 21).
Chẳng phải bà tin vào sức mạnh của cái áo choàng như một thứ ma thuật,
nhưng bà tin vào quyền năng của người mặc chiếc áo đó.
Bà đã dám đưa tay ra và sờ vào tua áo choàng của Ngài (c. 20).
Đức Giêsu nhận ra cái đụng chạm đầy lòng tin của bà.
Chính Ngài quay lại, thấy bà và bắt đầu trò chuyện.
“Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu con” (c. 22).
Lòng tin của bà đã được nhìn nhận, và bà được cứu từ giờ ấy.
Ơn chữa lành đến từ một bàn tay dám đưa ra chạm đến Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay là về chuyện của những bàn tay.
Bàn tay quyền năng của Đức Giêsu, bàn tay lạnh giá của cô bé nằm đó,
bàn tay rụt rè, e ngại, nhưng cũng rất quả quyết của người phụ nữ ốm đau.
Bàn tay là điều kỳ diệu Thiên Chúa tặng ban cho con người.
Bao ân sủng đến với tôi qua bàn tay đón lấy Mình Thánh Chúa.
Bao điều tốt đẹp tôi trao cho tha nhân qua bàn tay bé nhỏ.
Chỉ mong tay tôi đừng bị ô nhơ và đừng khép lại trước người đang xin.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: ĐỤNG CHẠM ĐẾN THIÊN CHÚA
Hai phép lạ đều phát xuất từ việc đụng chạm. Thiên Chúa có sức mạnh thần linh. Ai đụng chạm đến Thiên Chúa sẽ được tiếp xúc với sức mạnh vô địch này. Tuy nhiên để tiếp xúc được sức mạnh thần linh không thể dùng phương tiện nhân loại mà phải dùng phương tiện thần linh, đó là đức tin. Biết bao người chen lấn đụng chạm vào Chúa. Nhưng chỉ người phụ nữ này chạm đến mầu nhiệm vì bà có đức tin mạnh mẽ. Đức tin hiệu nghiệm lạ lùng. Chính đức tin của người cha ngoại đạo cũng làm cho cô gái bé nhỏ múc được ân sủng thần linh của Thiên Chúa.
Thực ra Thiên Chúa luôn yêu thương, muốn gặp gỡ con người. Hô-sê cảm nhận được tình yêu đến say mê của Thiên Chúa, Đấng muốn gặp gỡ con người. Muốn tình yêu của Người đụng chạm đến con người “Này Ta sẽ quyến rũ dân Ta, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình”(năm chẵn).
Trong thanh vắng giữa thiên nhiên, sẽ thuận lợi để gặp Thiên Chúa. Như Gia-cóp ngủ giữa trời sao và thấy được cửa trời. Chính Thiên Chúa yêu thương tỏ mình cho ông. Tiếp nối tình thương dành cho Áp-ra-ham và I-xa-ác (năm lẻ).
Việc gặp gỡ Thiên Chúa đem lại cho ta sự sống. Như người phụ nữ bị cái chết rình rập được Chúa cho hoàn toàn bình phục. Như cô gái đã bị tử thần cướp đi và Chúa trả lại sự sống.
Việc gặp gỡ Thiên Chúa nâng cao phẩm giá con người. Ta không còn phải là tôi tớ nhưng trở nên bạn hữu, được Thiên Chúa yêu thương nâng lên ngang hàng, ký kết hôn ước. “Người sẽ gọi Ta: “Mình ơi” chứ không còn gọi ‘Ông Chủ ơi’ nữa”.
Việc gặp gỡ Thiên Chúa cho ta được một cuộc sống sung mãn. Gia-cóp được hưởng ân phúc dư tràn cho đến suốt đời. Ông trở thành phúc lành cho mọi người. “Dòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất…Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (năm lẻ)
Việc gặp gỡ Thiên Chúa đem đến cho ta hạnh phúc vô biên trong tình yêu thương thắm thiết của Chúa, trong mối tình bằng hữu thâm sâu và nhất là trong Chúa ta đạt được tất cả mọi ước mơ, đạt đến cứu cánh và ý nghĩa cuộc đời.
Lạy Chúa xin ban thêm đức tin để con có thể đụng chạm được đến Chúa và đáp lại lòng Chúa mong chờ con.
(Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt)
Suy Niệm 3: Thiên Chúa yêu thương con người
Với tựa đề: "Nơi Chúa, họ tin tưởng", tuần báo Kinh Tế Viễn Ðông số tháng 6/1996 dành hai trang để nói về sự hồi sinh tôn giáo tại Việt Nam. Tựa đề của bài báo lấy lại dòng chữ mà người Mỹ vốn cho in trên đồng tiền của họ: "Nơi Chúa, chúng tôi đặt tin tưởng".
Nếu với người Mỹ, Chúa là một ngôi vị cá biệt, thì Chúa theo tạp chí Kinh Tế Viễn Ðông lại là thể hiện của một nhu cầu tôn giáo cơ bản nhất của con người, không gì có thể dập tắt nổi.
Con người khao khát Thiên Chúa, hay đúng hơn Thiên Chúa đã tạo dựng con người, với nỗi khao khát vô biên ấy. Con người không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, hay đúng hơn chính Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài. Thiên Chúa yêu thương con người, tình yêu của Ngài vượt trên mọi thước đo, mọi dự đoán, mọi tưởng tượng của con người, đó là tất cả những gì Chúa Giêsu đã đến để mạc khải cho con người.
Tin Mừng hôm nay ghi lại một vài cử chỉ của Chúa Giêsu đối với con người: một vị kỳ mục đến xin Ngài cứu đứa con vừa chết, người đàn bà mắc bệnh loạn huyết chi khấn thầm và sờ đến gấu áo của Ngài, cả hai đại diện của đủ mọi tầng lớp mà Chúa Giêsu gặp gỡ hàng ngày. Ngài không loại trừ bất cứ hạng người nào, bất cứ giai cấp nào trong xã hội, bởi vì tất cả đều là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Vị kỳ mục đã tìm đến với Chúa, người đàn bà đã len lỏi giữa đám đông để sờ vào Ngài, đó là hình ảnh của sự tìm kiếm mà con người không ngừng thực hiện để đến với Chúa. Nhưng thật ra, chính Thiên Chúa mới là Ðấng đi bước trước để đến với con người. Phép lạ đã diễn ra như một kết quả của lòng tin: "Ðức tin của con đã cứu chữa con", nhưng cũng chính niềm tin đã giúp con người khám phá ra phép lạ Thiên Chúa không ngừng thực hiện vì yêu thương con người.
Qua một cơn hải trình cam go, những người có niềm tin đã nhìn vào sự sống sót của mình như một phép lạ của tình thương. Những giờ phút hãi hùng trong cuộc sống, những thử thách phải trải qua, những đau khổ phải gánh chịu, đó là những phách mạnh trong bản trường ca về tình yêu Thiên Chúa. Có trải qua những giờ phút ấy, chúng ta mới nhận ra được cánh tay đỡ nâng của Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta một đức tin sáng suốt để chúng ta không ngừng nhận ra tình yêu của Chúa và dâng lời cảm tạ Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Cầu xin liền đấy… mà đâu có được ngay
Người còn đang nói với họ như thế, thì kìa, một vị thủ lãnh đến gần bái lạy Người và nói: “Con gái tôi vừa chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ sống lại.” Đức Giêsu đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ cũng đi với Người. (Mt. 9, 18-19)
Từ lòng tin… đến phép lạ
Đọc các sách Phúc âm, đôi khi người ta có cảm tưởng rằng mọi chuyện xảy ra như do phép mầu vậy. Có những người có lòng tin Chúa Giêsu rất mạnh. Họ ngỏ lời thỉnh cầu Chúa, và hầu như điều họ ước muốn đều được thực hiện liền. Điển hình như hai trường hợp được kể lại trong Phúc âm hôm nay.
Khi nghe những câu chuyện tương tự như trên, có thể là chúng ta đã muốn mơ tưởng đến một thời mà kẻ có lòng tin chân thành đều mau chóng được tưởng thưởng. Nhưng ta đừng quá mơ mộng. Không phải cứ có được lòng tin thật tinh tuyền là nhất thiết được ơn phép lạ đâu. Lòng tin không luôn luôn dẫn đến phép lạ. Phúc âm tuy có kể lại nhiều trường hợp kẻ xin được ban ơn ngay do lòng họ tin. Nhưng ai có thể kể được là bao nhiêu những con người mà Phúc âm đã không nói đến, họ là những kẻ đã trong chờ từ lâu, rất lâu, thế mà Chúa vẫn chưa đáp lời họ kêu xin? Ai có thể đếm được là bao nhiêu số người chưa bao giờ được lành bệnh, dầu rằng họ đã thiết tha van xin Chúa với lòng tin sâu xa?
Tin không cần phép lạ
Ta đừng sợ phải cầu xin nhiều, thật nhiều với Chúa. Phải dám cầu xin cả những sự không thể được nữa. Nhưng đừng nghĩ rằng ngay khi ta vừa có lòng tin thực là phép lạ sẽ xảy ra đâu. Chúa đáp lại lời ta cầu xin khi nào và như thế nào là thuộc quyền Chúa. Người nhận lời kẻ này mà không đáp lời người kia. Chỉ có những lời cầu nguyện này mà Chúa luôn luôn đáp lại; đó là những lời cầu nguyện giúp mở lòng ta ra hơn với Chúa, giúp ta biết đón nhận và thực hành ý Chúa hoàn toàn hơn; đó là những lời cầu nguyện cho Nước Chúa trị đến ở trần gian. Đức tin tinh tuyền không phải là đức tin trông mong có phép lạ, đó là lòng tin đưa đến kính mến Chúa nhiều hơn và yêu thương anh em nhiều hơn.
Suy Niệm 5: BÀN TAY CỦA NIỀM TIN VÀ QUYỀN NĂNG (Mt 9, 18-26)
Xem lại CN 13 TN B // và Thứ hai tuần 4 TN
Chúng ta vẫn thường nghe đến câu nói: “Con đường dài nhất là con đường từ miệng đến tay”. Thoạt nghe xem ra có vẻ khó tin, nhưng thực tế là vậy. Bởi lẽ vẫn còn đó những người chỉ thích nói mà không làm; chỉ thích nghe mà không muốn hành động. Vì thế, họ nói rất hay, khẩu lệnh rất kêu, nhưng làm thì không đáng gì!
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thánh Mátthêu đã rất tinh tế khi tập chung đến hành động của bàn tay:
Trước tiên là lời van xin của vị kỳ mục: “Xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại";
Tiếp theo là hành động tin tưởng của người phụ nữ bị bệnh, bà tìm mọi cách để chạm tay vào gấu áo của Đức Giêsu để mong được khỏi bệnh;
Cuối cùng là hành động nhân ái của chính Đức Giêsu khi Ngài “... vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy".
Với ba hình ảnh khác nhau về cử chỉ bàn tay, thánh sử Mátthêu đã dệt nên một bức tranh diễn tả niềm tin của vị kỳ mục và người phụ nữ bị bệnh, đồng thời cũng làm toát lên quyền năng và ân sủng của Thiên Chúa qua bàn tay của Đức Giêsu.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một niềm tin mãnh liệt như vị kỳ mục và người đàn bà. Không được buông trôi, thất vọng khi những khó khăn, bệnh tật xảy đến trong đời. Những lúc như thế, hãy vững tin tuyệt đối vào Chúa. Mặt khác, noi gương Đức Gêsu, luôn dùng bàn tay của mình để hành động vì đức ái, luôn giúp đỡ và làm ơn cho tha nhân, nhất là những anh chị em kém may mắn hơn chúng ta.
Mong thay, Lời Chúa mà chúng ta vẫn lắng nghe hằng ngày sẽ được hiện tại hóa cách sống động nơi đời sống đức tin của chúng ta, để “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày hôm nay cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của người môn đệ Đức Kitô”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin giúp chúng con biết sống liên đới và yêu thương mọi người như Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
05/07 Ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng
- Viết bởi Mt 11, 25-30
Ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng.
Chúa Nhật 14 Thường Niên năm A.
"Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng".
Lời Chúa: Mt 11, 25-30
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.
Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Dcr. 9, 9-10; Rm. 8, 9.11-13; Mt. 11, 25-30
1. Ách của Tôi êm ái
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Khi quy hoạch thành phố tương lai,
người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng
cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc.
Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh
giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống.
Đức Giêsu mời chúng ta đến với Ngài,
tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì người khác...
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu, chán chường và mệt mỏi.
Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi.
Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
Hãy mang lấy ách của tôi.
Đức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài
mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc,
về con đường hẹp mà ít người muốn đi,
về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban
đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Đó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương,
vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ,
thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
"Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả;
mà giả như có vất vả đi nữa thì người ta cũng thích cái vất vả đó" (thánh Âutinh)
Hãy học với tôi.
Đức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài:
"Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu."
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu
thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời,
cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái,
cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải,
và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những gánh nặng mà con người hôm nay phải mang vác? Đâu là gánh nặng của người nghèo và của người giàu? Đâu là nỗi vất vả và gánh nặng của người trẻ hôm nay?
Bạn thấy theo đạo có phải là một gánh nặng không? Giữ đạo nặng nề ở điểm nào? Có cách nào làm cho nó nhẹ nhàng hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
2. Hãy học cùng Ta: hiền lành và khiêm cung - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Có lần báo chí đăng tin: Một anh tài xế khốn nạn, chịu không nổi vợ, đã mướn ba tên chuyên môn sát nhân để thủ tiêu vợ. Anh bị bắt và điều tra. Anh đáp: “Nó cằn nhằn tôi suốt ngày, làm cho đời tôi thành địa ngục”.
Biết bao kẻ phạm tội ác như thế, chỉ vì không sống hiền lành và khiêm tốn. Chị vợ nóng nảy gắt gỏng đã biến gia đình thành địa ngục, đã biến anh chồng thành kẻ sát nhân.
Vua Salômon đã nói: “Thà phải sống trong lẫm lúa nóng hừng hực còn hơn là sống trong ngôi nhà xinh đẹp với một bà vợ gắt gỏng” (Nguyễn hiến Lê dịch: Carnegie - Giúp chồng thành công trang. 128)
Nhiều gia đình không đến nỗi khủng khiếp như thế; nhưng cũng chất đầy những đau khổ để giết nhau dần dần bằng lối sống bẳn gắt, từ giận chửi nhau đến đánh nhau. Hết chiến tranh nóng lại tới chiến tranh lạnh, buồn bực, âm ỉ, mặt nặng mặt nhẹ, rêu rao bêu xấu, thù vặt.
Muốn sống bình an thật sự, muốn được sống êm ấm, an vui, phải sống theo lời Chúa kêu gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ mát bồi dưỡng”.
Học cùng Đức Giêsu hiền lành và khiêm tốn như thế nào?
Trong vườn cây Dầu, quân dữ hùng hổ kéo đến tìm bắt Chúa Giêsu. Phêrô giật mình thức dậy, rút gươm đột xuất chém đứt tai tên đầy tớ thầy cả thượng phẩm. Đức Giêsu hiền từ bảo Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”, rồi Người thương lấy tai đứt ráp lại cho anh được lành. Có ai hiền lành chịu nhục như thế không? Không tức giận, mắng chửi, không đánh phạt quân dữ hung hăng, mà còn thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ thù.
Đang cơn đau đớn quằn quại trên thập giá, Đức Giêsu vẫn nhớ cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết”. Người không xin Thiên Chúa toàn năng công thẳng kết án, trả thù, giáng phạt quân dữ chết tươi. Người không đe dọa báo oán, không kêu xin cứu mình, nhưng kêu xin Chúa Cha nhân từ tha thứ cứu chữa kẻ giết mình; khác hẳn những nạn nhân loài người thường chửi rủa đe dọa kẻ làm hại mình. Lòng Đức Giêsu rộng rãi bao la vô bờ: che chở bênh vực kẻ thù, cầu khẩn ân xá cho kẻ giết mình. Không thể tìm thấy đâu trên khắp mặt đất, hay dưới gầm trời bốn bể có người nào khoan nhân, dung thứ như Người. Chẳng bao giờ, từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, tìm được ai thương yêu kẻ thù như Người, may ra chỉ có những người theo gương Người, được một phần nào thôi, như Thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi.
Sự hiền lành của Đức Giêsu không phải là thứ hiền lành nhu nhược, nhút nhát hèn hạ; mà là thứ hiền lành cứu nhân độ thế, hiền lành của tình thương vô cùng: Xin tha cho họ để họ khỏi bị phạt đời đời, xin tha cho họ để họ được cứu độ trở nên con Thiên Chúa, như Người đã tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình, tha cho viên sĩ quan đã đâm thấu qua Trái tim Người.
Sự hiền hậu của Đức Giêsu không phải là thứ hiền mù quáng, lầm lạc, mà là thứ hiền lành thẳng thắn, minh chính để trừ khử, sữa sai tội lỗi và sự dữ. Thấy quỷ ác hãm hại người ta, Người đã nghiêm khắc truyền lệnh: “Hãy ra khỏi người này”. Một lệnh truyền dứt khoát, ngắn gọn, mạnh mẽ.
Khi biệt phái chụp mũ Người lấy quyền tướng quỷ mà trừ quỷ. Người vạch rõ ác ý, sai lầm của họ: “Nếu Ta dùng tướng quỷ mà trừ quỷ, thì con cháu các người nhờ ai mà trừ quỷ. Nếu Ta dùng ngón tay Thiên Chúa, thì đó là nước Trời đã đến giữa các ngươi”
Sự hiền lành của Đức Giêsu là thứ hiền lành hạ mình xuống, chứ không phải nâng mình lên; thắng mình chứ không khuất phục người; sẵn sàng chịu nhục, chịu vả má, chứ không vả lại, chịu đánh chứ không đánh lại, chịu chết chứ không giết lại.
Đó là sự hiền lành anh hùng hạ mình xuống như những kẻ bé mọn và được Thiên Chúa như Mẹ Hiền luôn luôn thương giúp những đứa con thơ mọn. Còn những đứa lớn mạnh cậy mình khôn ngoan, thông thái không nhờ đến Mẹ, bất chấp lời Mẹ, nhưng tâm hồn chúng lại đầy mặc cảm, cô đơn, băn khoăn, lo lắng, buồn rầu.
Thánh Matthêu cho thấy Tin mừng của Đức Giêsu bị thất bại đối với các thầy tiến sĩ, luật sĩ, và biệt phái, nhưng lại được đông đảo dân chúng nồng nhiệt đón nhận. Vì thế, Đức Giêsu đã cảm tạ ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương mặc khải cho những kẻ bé mọn. Họ đã học được sự hiền lành và khiêm nhường của Người và sống theo lời Người dậy. Tâm hồn họ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, trở nên êm ái nhẹ nhàng trước những ách nặng và gồng gánh đầy khổ đau của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, Chúa đã ưu đãi những kẻ bé mọn thấp hèn. Xin làm cho trái tim con đừng bao giờ kiêu ngạo, trương phình lên như con bò, nhưng hãy vui vẻ sống nhỏ bé như con nhái để mong có thể chui qua lỗ kim mà vào ở nhà tình thương êm ái, ấm cúng của Chúa muôn đời.
3. Hiền lành và khiêm nhường - Huệ Minh
Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai khiến người khác theo ý mình. Con người có khuynh hướng trở nên kiêu ngạo. Người ta còn dị ứng khi nói đến lời dạy “ hiền lành khiêm nhường “của Đức Kitô, nhất là khuyên chúng ta hãy thực hiện đức tính này.
Chúa mời gọi tất cả chúng ta: hãy đến với Ngài. Chúa hiểu rõ chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình.Ngài muốn cất nhẹ gánh lo cho chúng ta, để chúng ta được thanh thản, phó thác và cậy trông Ngài. Ngài sẵn sàng chia sẻ và đồng hành để chúng ta được vơi nhẹ bao nỗi lo toan chất chồng.
Chúa muốn tất cả chúng ta hãy trút tất cả gánh lo đời người vào Ngài, bởi những lo toan có thể làm cho cuộc đời chúng ta “bị tràn ngập” và không có lối thoát. Người ta vẫn luận “Cuộc đời là bể khổ”, mà khổ thật. Bởi chẳng có gì là hạnh phúc thật,mà chỉ là sự lừa dối và bất ổn.Tìm cho mình một chỗ dựa, kiếm cho mình một lối thóat,chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy vơi nhẹ gánh lo và tìm gặp được bình an.
Đức Giêsu khẳng định rằng “ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Tin Mừng có những yêu sách rất mạnh mẽ. Điều quan trọng là không nên giản lược những yêu sách ấy. Nhưng Đức Giêsu tự giới thiệu như đầy sự hiền hậu và khiêm nhường: Người là lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhập thể. Lúc đó có thể nói sự hoàn thành những yêu sách ấy xuất phát tự bản chất của hữu thể. Rõ ràng Người đến đề nghị một cách sống mới cho những người không thể mạng gánh nặng của Luật pháp; tức những người nghèo và những người tội lỗi
Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta trở nên môn đệ Ngài, bởi vì Ngài “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất ghi nhận tấm lòng dịu dàng này của Đức Giêsu, như thánh nhân là thánh ký duy nhất trích dẫn bức chân dung của Người Tôi Trung của I-sai-a“Người không lên tiếng giữa phố phường, không đành bẻ gảy cây lau bị giập, chẳng nở tắt đi tim đèn leo lét” và áp dụng vào Đức Ki-tô (Mt 12: 18).
Ngài mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài, bởi Ngài muốn tham dự , đồng hành và chia sẻ với cuộc đời mỗi người. Thực thế, Ngài là chỗ dựa an toàn và bình an nhất cho chúng ta. Chẳng ai thương và bảo vệ chúng ta, ngay cả cha mẹ hay người thân ở trần gian, ngoại trừ Chúa
Ngài muốn chúng ta hãy học với Ngài bởi Ngài hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng. Với giáo lý yêu thương của Ngài, Chúa muốn chúng ta hãy học tha thứ, đón nhận anh em, sống khiêm nhường và phó thác. Học với Ngài để chúng ta đón nhận và làm cho cuộc sống mình hài hòa với mọi người, sống hiệp nhất và nên giống Ngài.
Trong tình thương Thiên Chúa, chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc thật mà trên trần gian không ai có thể ban tặng. Đón nhận tình thương của Thiên Chúa, được học nơi trường: khiêm nhường và hiền lành của Ngài, tâm hồn chúng ta như được yên nghỉ an toàn và tìm được con đường dẫn đến sự sống.
Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta biết chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ anh em như Chúa, bởi tình thương của Ngài không loại trừ hay xua đuổi ai, và để xây dựng sự hiệp nhất trong anh em.
Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta không cướp công của người khác mà biết trân trọng và đánh gía đúng công sức của anh em mình, để tránh được căn bệnh ung thư di căn “cả vú lấp miệng em”, phí phạm hoặc đối xử kiểu “vắt chanh bỏ vỏ” trên chính anh em hoặc cộng sự mình
Khiêm nhường và hiền lành thật cũng chính là biết phục vụ với hết khả năng và biết tự ẩn mình như người đầy tớ bé nhỏ,để ngăn ngừa phần nào căn bệnh “say mê quyền lực,đánh bóng tên tuổi”bằng chính công sức của người khác, nhưng biết cảm thông và chia sẻ với những yếu đuối của anh em như của chính mình.
Khiêm nhường và hiền lành thật là không khoe khoang hay lên mặt với anh em mình dẫu rằng mình có hơn họ một mặt nào đó, bởi “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì !”
Khiêm nhường và hiền lành thật còn là sẵn sàng chịu phần thiệt về mình để anh em được chia sẻ,được hạnh phúc. Có mất mát, có đau đớn, có chịu thiệt thòi mới hiểu và thương xót được anh em mình .Bởi trước mặt Chúa, chúng ta đã chẳng là gì và sẽ mãi mãi chẳng là ai cả !
Ta thấy cái hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô không là một sự nhu nhược nhát đảm, nhưng đó là đức tính của những vĩ nhân, của những bậc đại thánh. Bởi vì chính tính khí kiêu căng đã làm cho thế giới bị đảo lộn, hận thù ghen ghét, chiến tranh. Những kẻ kiêu căng tự mãn là những tiểu nhân, hèn mọn, còn những tâm hồn hiền lành khiêm nhường là bậc anh hùng vì họ đã anh dũng chiến thắng được bản thân với những tính tự ái ích kỷ hẹp hòi. Đó mới là cuộc chiến quan trọng, và cái chiến thắng của cuộc chiến đó mới đáng kể.
Khiêm nhường là thái độ nhún nhường không thích khoe khoang thành tích, luôn sẵn sàng hạ mình một chút. Căn bản của khiêm nhường là tôn trọng sự thật về mình: nhận thức đúng mình là người xấu tốt như thế nào để không muốn nổi trội hơn người khác. Giả như người khác có coi thường mình thì cũng không tức giận trả thù. Nhờ “biết mình biết người” như vậy nên người khiêm nhường sẽ luôn thành công trong mọi việc., sẽ không cảm thấy quá buồn phiền chán nản khi sự thể xảy ra không như ý của mình. Người khiêm nhường dễ gây được thiện cảm với người khác và nhận được sự hợp tác của nhiều người.
Chính sự khiêm nhường thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.
“Những người bé mọn” trước tiên chỉ ra các môn đệ của Chúa Giêsu – sau này Ngài sẽ gọi họ như vậy nhiều lần – nhưng cũng chỉ những người khiêm hạ trong đám đông. Họ là những người lắng nghe lời Ngài với ý thức thân phận hèn mọn của mình, vì thế, họ hoàn toàn đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa thường ưu ái tỏ mình ra cho họ.
Còn nhiều dịp khác nữa, Chúa Giêsu sẽ ca ngợi tinh thần trẻ thơ. Có một lần, thánh Mát-thêu thuật lại một sự cố có ý nghĩa. Trong khi lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: “Hoan hô con vua Đa-vít”, thì các thượng tế và kinh sư tức tối. Đức Giêsu trích dẫn Tv 8: 2 để trả lời cho họ: “Lời này các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21: 14-16).
Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”. (Mt 11, 29-30). Và rồi, ta hãy năng chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn.
4. Khiêm nhu
Một vị quan tể tướng đời Đường rất lừng danh và có lòng mộ đạo chân thành. Thầy của ông là một bậc cao tăng. Hai thầy trò rất tâm đồng ý hiệp với nhau, không phân biệt địa vị hay chức quyền. Ngày kia quan tể tướng bèn hỏi: Xin thầy giải thích kiêu căng nghĩa là gì? Thầy liền đổi sắc mặt, trợn mắt hỏi với một giọng khinh miệt: Mi hỏi ta gì đó, đồ ngu. Cử chỉ và lời nói bất ngờ ấy làm cho gương mặt quan tể tưởng đỏ bừng lên. Bấy giờ vị cao tăng mới ôn tồn nói: Thưa, đó chính là sự kiêu căng đấy.
Câu chuyện trên như muốn vạch trần cái gốc rễ của tính kiêu căng. Đó là không chấp nhận những giới hạn của mình, không sẵn sàng đón nhận sự thật. Và tệ hơn nữa, sự kiêu căng còn là nguyên nhân làm cho con người không còn biết mở rộng cõi lòng để đón nhận Thiên Chúa. Chính vì thế mà Kinh Thánh đã xác quyết: Chúa hạ bệ những kẻ quyền hành và nâng cao những người khiêm nhu. Hay nói một cách khác, Chúa chán ghét những kẻ kiêu căng và yêu thương những người khiêm nhường.
Thực vậy, một Lucifer kiêu căng, dám ngang nhiên tuyên bố: Tôi không phục tùng Thiên Chúa nữa. Một Adong Eva kiêu căng muốn trở nên bằng Thiên Chúa, số phận họ như thế nào hẳn chúng ta cũng đã biết: Lucifer và các thần dữ thì lãnh nhận bản án lưu đày hoả ngục. Còn Adong Eva thì bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng với cảnh khổ đau và chết chóc.
Trong khi đó, một David khiêm nhường sám hối đã được Thiên Chúa tha thứ và chọn dòng dõi ông làm nơi phát sinh Đấng Cứu Thế. Một Maria khiêm nhường với thân phận người tôi tá Chúa nên đã được đặt làm Mẹ Ngôi Hai giáng trần. Một Gioan khiêm nhường không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài, đã được khen ngợi là cao trong hơn hết mọi người nam.
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu lại xác quyết như thế: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xưng tụng Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những mầu nhiệm Nước Trời, mà lại mạc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là sở thích của Cha.
Từ đó chúng ta có thể kết luận, Chúa yêu thương những người khiêm nhu. Đó là một sự thật, một chân lý, một kinh nghiệm sống ngàn đời không hề đổi thay. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự sống tinh thần đơn sơ bé nhỏ và khiêm cung như Chúa mong muốn hay chưa?
5. Hiền lành
Mặt trời và gió luôn tranh cãi xem ai mạnh hơn ai. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đi trên con đường vắng. Mặt trời nói với gió:
- Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng mau hơn thì sẽ thắng cuộc.
Gió đồng ý và ra tay trước. Chàng ta càng thổi thì người kia lại càng giữ chặt lấy chiếc áo. Cuối cùng chàng gió kiệt sức và đành chịu thua.
Lúc đó mặt trời mới ra tay. Bác ta toả xuống những tia nắng khiến người kia cảm thấy nóng bức. Và thế là người ấy phải cởi áo ra.
Tác giả câu chuyện trên đã kết luận như sau: Bạn có thể thành công nhờ sự hiền lành dễ thương hơn là nhờ bạo lực.
Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước, bởi vì ngày nay bạo lực được phổ biến và có mặt khắp nơi, trên báo chí cũng như trên phim ảnh và truyền hình.
Thật khác xa với lời Chúa dạy: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Tiên tri Isaia đã nói trước về sự hiền lành của Đức Kitô như sau: Ngài không la hét, không to tiếng hoặc ăn nói ồn ào ngoài đường phố. Người không bẻ gẫy cây sậy bị giập, không thổi tắt ngọn đèn còn leo loét.
Một thí dụ tuyệt hảo về sự hiền lành dễ thương của Chúa là cách thức Ngài xử lư đối với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài chẳng những dễ thương đối với người phụ nữ, mà còn dễ thương với cả những kẻ tố cáo chị ta, vốn tự cho mình là công chính. Chúa Giêsu không la hét, không quát mắng, nhưng Ngài chỉ cúi xuống và viết trên cát.
Ngài khuyên chúng ta bắt chước người mục tử hiền lành trong dụ ngôn con chiên lạc. Người ấy không hề đánh đập hay lôi kéo con chiên về nhà, trái lại đã vác nó trên vai. Ngài cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Ông ta đã không quở mắng đánh đập, trái lại đã ôm hôn cậu và mở tiệc ăn mừng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay chứa đứng một lời mời gọi quan trọng, đó là hãy noi gương bắt chước Chúa sống hiền lành và khiêm nhường. Cố gắng đối xử với mọi người bằng sự nồng thắm chân tình. Tiếp đến là hãy đối xử với những kẻ làm hại chúng ta theo cách đối xử của Chúa đối với người phụ nữ ngoại tình, của người cha đối với đứa con hoang đàng, của người mục tử đối với con chiên lạc. Nghĩa là hãy cảm thông hơn là kết án.
Và sau cùng là hãy đối xử với những người đang phải mang lấy gánh nặng của khổ đau, của bất hạnh một cách khéo léo và tế nhị, hầu đem lại cho họ sự an ủi và khích lệ. Tóm lại, chúng ta hãy thực thi lời khuyên nhủ của Chúa: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
6. Ách là hiền lành và khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Jos. Quang Nguyễn)
Tục ngữ Việt nam có câu: ách giữa đàng mang vào cổ. Như thế người ta quan niệm cái ách như cái gông, tượng trưng cho cái gì gánh nặng đè nén, làm cho con người mất tự do. Vậy mà hôm nay Chúa Giêsu nói hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường trong lòng. Thế nhưng chúng ta hiểu thế nào là ách của Chúa và thế nào là hiền hậu và khiêm nhường của Chúa chưa? Trước hết, cái ách mà Chúa Giêsu nói ở đây có phải là cái ách của con bò được làm bằng gỗ không? Trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ Giáo Hoàng, Đức Bênêđitô XVI nói rằng ách của Chúa chính là thánh ý mà chúng ta đón nhận. Và thánh ý Chúa chúng ta đón nhận không phải là gánh nặng bề ngoài đè nén và tước đọat quyền tự do của chúng ta. Trái lại, ách của Chúa nhẹ nhàng, bởi thánh ý của Chúa không làm chúng ta bị tha hóa nhưng thanh tẩy chúng ta dù phải đau khổ, đau thương hay súng sướng. Qủa thế, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính”.
Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay nói hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành. Nhưng thử nhìn lại cuộc đời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu có hiền thiệt không? Đọc Tin Mừng chúng ta thấy các Thánh sử kể Chúa tức giận quát mắng quỷ dữ cũng như con người. Thánh Máccô kể rằng “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: "Ông Giêsu Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" (Mc 1,21-24). Hay là: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giêsu lên thành Giê-ru-sa-lem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ” (Ga 2,13-15). Như vậy, Chúa Giêsu hiền lành cỡ nào? Như thế mình học nỗi không, theo nỗi không? Có lẽ chúng ta hiểu sai về sự hiền lành của Chúa rồi, bởi vì chúng ta đồng hóa sự hiền lành với nhu nhược. Hiền lành của Chúa Giêsu không phải là như nhược mà có lập trường, lập trường của chân lý. Cụ thể, Chúng ta nhớ lại đi, khi có một anh lính vả vào mặt Chúa Giêsu, Chúa không vả lại, dù Ngài chỉ cần thổi một phát anh đó bay xuống chín tầng đại ngục. Nhưng Ngài không vả, không thổi không phạt gì cả, mà Ngài cũng không im lặng, Ngài hỏi lại anh ta: nếu tôi nói phải sao anh đánh tôi, nếu tôi nói sai thì anh chỉ tôi sai chỗ nào. Rồi trong công cuộc rao giảng, Chúa Giêsu rao giảng giáo lý một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức hay phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Như vậy sự hiền lành của Chúa Giêsu là sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng hầu cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn.
Bên cạnh nhân đức hiền lành, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta học nơi Ngài gương khiêm nhường. Vâng, nói đến sự khiêm nhường chúng ta nghĩ ngay đến sự khiêm nhường của Con Một Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng Messia khiêm nhường mà Dacaria đã loan báo rằng: “Hãy báo thiếu nữ Xion: kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Mt 21,5). Qủa thế, Đức Giêsu Kitô không phải chỉ là một người phàm, mà còn là Chúa (Rm 8,3) Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã huỷ mình ra không đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta (Pl 2,6tt) nhờ đó chúng ta khỏi hư mất (Lc 19,10).
Lão Tử dạy quân tử trong phép xử thế rằng “Bậc thượng thiện giống như nước; nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh, ở chỗ nào mà người ta đều ghét, nên gần với đạo. Ở thì hay lựa chỗ thấp; lòng thì chịu chỗ thâm sâu, xử thế thích dùng đến lòng nhân” (Đạo Đức Kinh, chương 66), vì vậy, “hãy lấy nhu thắng cương, nhược thấy cường. Lấy cường xử hạ, nhu nhược xử thượng” (Đạo Đức Kinh, chương 76). Qủa thật, khiêm nhường một đức tính không thể thiếu trong mọi tương giao và xử thế bởi; nếu “Tôi kiêu căng sắc xảo, tôi thành tôi sắc tối; mà huênh hoang huyền hoặc tôi thành tôi huyền tồi; tự ái tôi nặng nề tôi thành tôi huyền tội” (Cha Quang Uy, bài hát “đơn giản tôi là”), như thế đời tôi còn ý nghĩa gì? Chẳng đẹp như ước mơ!
Chúa Giêsu mục tử nhân lành, hiền hậu và khiêm nhường đã nêu gương cho chúng ta trước và “Người để lại mẫu gương cho chúng ta dõi bước theo, vì Người không hề phạm tội, chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà không hề ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công minh” (1Pr 2,21-23). Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có lòng khiêm nhường thẳm sâu nhất, đó là phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, dùng tình yêu mà hạ mình xuống để tôn vinh Thiên Chúa và cứu vớt mọi người. Cho nên, Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô khẳng định rằng: “Tình yêu trong sự thuần khiết và vô tư là chứng cớ tốt nhất về Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tin và thúc đẩy chúng ta yêu thương” (Thông Điệp, Thiên Chúa là Tình Yêu, số 31).
Qủa vậy, tình thương của Kitô giáo được xây dựng trên nền tảng sự khiêm nhường, vì chưng, Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”. Cho nên, có khiêm nhường, chúng ta mới nhận được tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta phục vụ yêu thương tha nhân một cách dễ dàng và thanh thản, không so đo tính toán và không vụ lợi. Vì vậy, Thánh Phaolô nói: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương, nên anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm cung, hiền hòa và nhẫn nại để dạy bảo nhau” (Cl 3,12) và “Hãy biểu lộ cho mọi người biết tình yêu Thiên Chúa giữa lòng thế giới, nhờ chứng tá đặc biệt trong sứ mạng của Đức Kitô được hoàn tất khi chúng ta tận hiến hoàn toàn cho Chúa; hãy nêu gương sáng cho mọi người cả Kitô hữu lẫn ngoài Kitô hữu; hãy khiêm tốn, hiền lành và yêu thương phục vụ, nhất là những người bé nhỏ” (Tông huấn Á Châu, số 44) ngõ hầu tất cả mọi người trên mặt đất hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa nhờ giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Vậy, Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta sống nhân đức của Chúa đó là ách của Chúa, chính là sống thánh ý Ngài giữa cuộc sống dù có gian nan, dù khi sung sướng hãy luôn để Thánh ý Chúa được thực hiện nơi chúng ta hầu chúng ta sống dồi dào và bình an. Thứ hai đó là hãy tập sống hiền như Chúa Giêsu hầu tạo nên trong gia đình một bầu khí hòa thuận và êm ấm. Và cũng chính sự hiền lành sẽ bắt được một nhịp cầu cảm thông sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa chúng ta với nhau bởi vì: - Giận quá thì mất khôn. Sự nóng giận là như dầu đổ vào lửa, làm cho lửa bùng cháy lên. Trong khi đó, sự hiền lành bao giờ cũng xoa dịu, cũng hàn gắn.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết sẵn sàng mang lấy ách của Chúa và sống hiền như Chúa hầu chúng con càng ngày càng giống Chúa. Amen.
7. Suy niệm của Lm Trầm Phúc
Một đôi khi trong các sách Tin Mừng, các thánh sử ghi lại những lúc Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Thường thì các ngài nói vắn tắt rằng, Ngài lên núi cầu nguyện thâu đêm, nhưng trong một vài trường hợp, các ngài ghi lại cả những lời cầu nguyện của Chúa, nhất là trong những lúc ở giữa các môn đệ. Những lời cầu nguyện này thường cho thấy mối liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha, một mới liên hệ mật thiết mà chúng ta không thể hiểu được, chứng tỏ rằng Chúa Giêsu với Cha Ngài là một. Ngài không làm gì ngoài ý Chúa Cha. Hôm nay Ngài cầu nguyện và ngợi khen Cha vì đã không cho những người khôn ngoan theo thế gian biết, mầu nhiệm Nước Trời, mà chỉ mạc khải cho những người hèn mọn. Vì sao? Vì những người khôn ngoan theo thế gian thường tự phụ, tưởng rằng mình đã khôn ngoan đủ và không muốn theo ý của ai khác. Họ khép kín trong sự hiểu biết của họ. Chúa chỉ yêu thích những tâm hồn bé mọn luôn rộng mở đón tiếp những gì tốt đẹp của tha nhân mà không đòi hỏi vòng vo. Thánh Phêrô khi tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu đã nói gì? “Phêrô, anh có phúc vì không phải thế gian hay xác thịt đã cho anh biết điều đó, mà Cha trên trời đã cho anh biết. Phêrô chính là một tâm hồn bé mọn mà Chúa chấp nhận. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những người nghèo khó. Theo tiếng Do Thái, nghèo khó có nghĩa là thấp hèn, đơn sơ, không tự ái xét nét. Tâm hồn nghèo khó như một trang giấy trắng, luôn sẵn sàng đón nhận nét bút của Chúa. Họ vẫn giữ được nét ngây thơ của tuổi thơ, vì thế, Chúa cũng bảo chúng ta trở nên như trẻ thơ, hồn nhiên và trong sáng, và như thế Chúa Cha mới in lên đó những nét bút của Ngài, vẽ lên nét đáng yêu của Mầu Nhiệm Nước Trời. Mầu Nhiệm đó chính là Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, vì không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; cũng không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ người Con mạc khải cho. Chúa Con chính là hiện thân hữu hình của Chúa Cha. Vì thế, muốn hiểu biết Mầu Nhiệm Nước Trời, phải trở nên hèn mọn như Chúa Giêsu, vì Ngài đến trong thế gian trong thân phận một con người hèn mọn, mặc dù Cha tôi giao phó mọi sự cho tôi.
Tiên tri Dacaria đã nhấn mạnh đến sự thấp hèn của Chúa khi đến với con người. Ngay cả những lúc được tung hô vạn tuế, Ngài chỉ vào thành thánh ngồi trên lưng một con lừa con, vì Ngài đến thực hiện sứ mệnh cứu rỗi của Ngài trong khiêm hạ và nghèo khó. Tất cả những ai muốn bước vào Nước Trời phải đi vào con đường khiêm nhu và hèn mọn đó.
Vì thế, Chúa Giêsu lên tiếng kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, vì tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Chúng ta có nghe tiếng Chúa kêu mời không? Ai trong chúng ta không mang gánh nặng nề, lao đao trong cuộc sống? Ai trong chúng ta luôn sống trong bình an và hạnh phúc? Ngày nào mà không lo toan tính toán đủ mọi thứ? Hãy đến với Chúa, vì Chúa sẽ cùng với chúng ta vượt lên trên mọi khó khăn cực nhọc, thắng vượt những nặng nề của xác thịt, của đam mê vật chất, cho chúng ta được sống trong Thánh Thần là nguồn suối bình an và hoan lạc. Chúa không hứa sẽ cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài chỉ hứa cho chúng ta được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Những ai đã nghe lời Ngài, đến với Ngài, đều đã cảm nghiệm được niềm hoan lạc của Thánh Thần, dù sống trong những hoàn cảnh hết sức cùng cực và nguy hiểm. Trong thế gian không có gì bảo đảm cho chúng ta cả. Một cơn bệnh hiểm nghèo, một tai nạn bất thần có thể phá đổ tất cả. Chúa Giêsu mới là nơi an toàn duy nhất thôi. Dù mọi sự quanh ta có thay biến thế nào, Chúa vẫn là nơi ẩn náu duy nhất. Chúa vẫn là thuẫn đỡ khiên che. Và những ai trông cậy vào Chúa sẽ không bao giờ thất vọng.
Chúng ta vẫn được vinh dự ăn lấy Chúa, có thể là mỗi ngày, thì chúng ta còn sợ gì những lao nhọc cực khổ? Chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng mình và máu Chúa, đã mang Chúa trong con người thì có gì mà phải e sợ lo lắng? Chỉ khi nào chúng ta tách rời ra khỏi tình yêu Chúa, chúng ta mới sợ, vì lúc đó chúng ta chỉ còn là yếu đuối và mong manh. Tiền bạc và quyền lực thế gian không thể bảo đảm hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có Chúa thôi.
Nhưng đến với Chúa, không chỉ là lo hạnh phúc cho chính mình, mà là để đến với anh em. Nếu Chúa là nơi nương ẩn cho chúng ta, chúng ta cũng có thể là nơi nương ẩn cho những người anh em khốn khổ khác, những người chưa biết Chúa là nguồn bình an của họ. Khi đã mang Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ là sứ gỉả của tình yêu Chúa cho mọi người chung quanh. Đó là điều Chúa mong muốn. Vì Chúa đã thương chúng ta, chúng ta phải yêu thương anh em, đó là lời khuyên nhủ của thánh Gioan. Mầu Nhiệm Nước Trời chính là mầu nhiệm của tình yêu muôn thuở của Chúa đối với nhân loại. Những người hèn mọn đã được mạc khải Mầu Nhiệm Nước Trời, phải dấn thân yêu thương như Chúa đã yêu, nếu không, giữ đạo là một điều vô ích. Người ta sẽ không thể hiểu một người Kitô hữu mà không biết yêu thương. Thánh Gioan cũng nói: “Ai nói mình yêu mến Chúa mà không thương yêu anh em là kẻ nói dối”… Vì Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Chúa Giêsu lại buộc chúng ta học một bài học duy nhất mà chúng ta có thể tìm thấy, đó là: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng”. Một bài học duy nhất. Trong Tin Mừng, chỉ có một lần duy nhất Chúa bảo chúng ta phải học với Ngài. Chúng ta có thực sự học bài học đó không? Hiền lành và khiêm nhượng là hai đức tính hiếm hoi trong xã hội loài người. Ai cũng muốn được một chỗ đứng trong mặt trời. Ai cũng muốn danh giá, quyền lực. Ai cũng muốn “có danh gì với núi sông”. Chỉ có Chúa Giêsu dạy chúng ta khiêm tốn và hiền lành. Điều kiện tất yếu của tình yêu. Yêu mà không khiêm nhường là tình yêu giả hiệu, và yêu mà không hiền lành là tình yêu dối trá. Chúng ta đến với anh em không phải để đòi hỏi mà để cho đi. Và cho đi thì phải hiền lành và khiêm tốn, thì việc cho đi mới trọn vẹn. Đó mới là tình yêu đích thực. Hãy nhìn Chúa Giêsu hiền lành và khiêm tốn, chúng ta mới hiểu thế nào là yêu thương.
8. Thiên Chúa yêu thương người nghèo
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người đời thường coi trọng người khôn ngoan giầu sang quyền quý, nhưng Tin Mừng hôm nay cho thấy Thiên Chúa yêu thương người nghèo, và mặc khải những gì kín ẩn cho những người bé nhỏ nghèo hèn.
1. Thiên Chúa yêu thương cả những người khôn ngoan
Những người khôn ngoan thông thái, học cao hiểu rộng, thường được mọi người tôn trọng. Người ta thường hiểu rằng những người này dễ dàng đón nhận chân lý, và hiểu biết những điều mà những người bình dân ít học không hiểu được. Tuy vậy, Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Yêsu tạ ơn Thiên Chúa Cha, vì Ngài đã dấu những điều kín ẩn với những người khôn ngoan quyền thế, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn.
Người “bé nhỏ” được Thiên Chúa mặc khải ở đây, là những người có tinh thần mở rộng, sẵn sàng đón nhận sự thật, sẵn sàng để được dạy dỗ từ bất cứ ai, sẵn sàng đón nhận chân lý từ bất cứ người nào. Những người “khôn ngoan thông thái” là những người cho mình là người hiểu biết, không sẵn sàng mở lòng học nơi người khác vì họ cho rằng họ hơn người khác, được học hơn người khác, hiểu biết hơn người khác, thông minh hơn người khác. “Tạ ơn Cha vì Cha đã che dấu những người khôn ngoan thông thái nhưng mặc khải cho những người bé mọn nghèo hèn”. Không phải Thiên Chúa không yêu thương và không mặc khải cho những người khôn ngoan giầu sang, nhưng vì những người này không thể đón nhận những gì Thiên Chúa mặc khải khi họ cho rằng họ không có gì để học nơi những người “bình thường” như Đức Yêsu.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ngài yêu thương cả người khôn ngoan giầu có quyền năng cũng như những người nghèo. Ngài làm mặt trời mọc trên kẻ dữ lẫn người lành. Đức Yêsu tạ ơn Cha, vì những người nghèo đã mở lòng đón nhận điều Thiên Chúa mặc khải qua Ngài.
2. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa
Theo kinh nghiệm, không phải những người “có học” lập gia đình với nhau là có lối sống văn minh và đời sống hạnh phúc. Kiến thức và mức độ trưởng thành về đời sống nhân bản là hai lãnh vực khác nhau. Kinh nghiệm cho thấy có những người có bằng cấp, ăn nói rất giỏi, lý luận vững chắc nhưng lại có đời sống nhân bản không cao lắm. Với những người “hữu tài mà vô đức”, ai sống với họ quả là một bất hạnh. Một người có tài mà không có đức là một mối họa cho xã hội nhiều hơn là một người vô đức nhưng bất tài.
Một người có học, có thể học biết nhiều để nói về Thiên Chúa, học biết những điều những người khác hiểu về Thiên Chúa. Tuy vậy, không phải tất cả những người có học đều là những người hiểu biết và gặp gỡ Thiên Chúa hơn những người ít học. Lời Chúa viết trong thư thứ nhất của thánh Yoan: “Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. Một người có học thường nói giỏi về điều mình học, nhưng không hàm chứa sống điều đó hơn người khác. Một người học thần học, không luôn luôn hàm chứa người đó yêu mến Thiên Chúa hơn những người bình dân không được học nhiều về thần học; một người học về tâm lý, không luôn luôn hàm chứa người đó có cách cư xử đẹp lòng người hơn người không học tâm lý.
Biết và sống là hai lãnh vực khác nhau. Một người có thể biết hay nói giỏi nhưng lại sống rất dở. Một người có thể có bằng cấp thần học, nhưng lại “mất đức tin”. Một người có thể có tiếng là Kitô-hữu nhưng lại sống không giống như một Kitô-hữu: “không phải tất cả những kẻ nói Lạy Chúa Lạy Chúa là được vào nước Thiên Chúa, nhưng là kẻ làm theo ý Thiên Chúa.”
3. Hãy mang lấy ách của Ta
Có một số người cho rằng “là Kitô-hữu” là một bất lợi, vì họ phải giữ mười giới răn nên không được ăn trộm ăn cắp, không được lang chạ vợ chồng, phải đi lễ ngày Chúa Nhật, phải sống lương thiện, không được thù ghét nhưng phải sống yêu thương. Tuy nhiên, suy nghĩ của những người này không đúng, vì lối sống của Kitô-hữu là lối sống mang lại cho người ta hạnh phúc đích thực. Người ta không thể sống hạnh phúc, nếu người ta không sống theo lương tâm, không ăn ngay ở lành, không sống yêu thương.
Cái ách của Đức Yêsu, chính là lề luật của Thiên Chúa, là những điều Đức Yêsu dạy. Sống theo điều Đức Yêsu dạy, theo lề luật của Thiên Chúa, cũng đòi người ta phải hy sinh, phải chống lại những xu hướng bình thường của xác thịt. Tuy nhiên, khi làm như vậy, người ta sẽ sống bình an; những người sống bên cạnh người đó cũng cảm thấy an toàn hơn; và người ta sẽ hạnh phúc hơn.
Lý tưởng mỗi người, là chính Đức Yêsu Kitô. Đức Yêsu đã sống an bình, Ngài đã chỉ cho con người cách sống đem lại hạnh phúc đích thực. Lối sống của Ngài, làm con người sống hạnh phúc không chỉ ở đời sau, nhưng ngay ở đời này nữa. Lối sống của Ngài, không chỉ làm Ngài sống an bình hạnh phúc, nhưng giúp người khác sống an bình và hạnh phúc nữa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo đạo, có là một gánh nặng đối với bạn không? Tại sao?
2. Đâu là điều tuyệt nhất của đạo đối với bạn?
3. Xin bạn so sánh cuộc sống của bạn và cuộc sống của Đức Yêsu về khía cạnh kinh tế, tương quan xã hội, cảm nghiệm hạnh phúc, và ao ước làm cho thế giới này tươi đẹp hơn.
9. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh
“Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn”
I. Dẫn vào phụng vụ lời Chúa:
Sau khi khiển trách những thành ven biển hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình, Chúa Giêsu lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha đã mặc khải mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn, tức là những người “nghèo trong tinh thần” mà Ngài đã nói trong bát phúc: những người tội lỗi, những kẻ ít học.
Ngài còn nói: “vì ý Cha muốn an bài như vậy”. Nghĩa là thái độ hoặc tin hoặc cứng tin mà Chúa Giêsu gặp chẳng phải là chuyện may rủi, cũng chẳng phải do tài năng hoặc bất tài của Ngài, mà là chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa: Ngài luôn ưu ái những kẻ bé mọn và hạ bệ những hạng khôn ngoan thông thái tự cao.
Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người: Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự sống của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người không phân biệt, nhưng để đáp trả con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái tự cao, cho mình là nhóm nhỏ tách khỏi đại đa số dân chúng. Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm biệt phái đang đứng trong hàng lãnh đạo sinh hoạt Tôn Giáo và chống đối Chúa. Họ cho rằng chỉ cần am tường luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như những tập tục truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.
Kinh Thánh, nhất là Tân ước hay đối lập kẻ nghèo hèn bé nhỏ với người giàu sang quyền thế, và người nghèo hèn bé mọn thường được đề cao. Chính Đức Maria trong bài ca “Magnificat” cũng đã thốt lên: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52-53).
II. Đức Giêsu hân hoan dâng lời tạ ơn và ca tụng Chúa Cha
Hôm nay, Chúa lại nói trong bài Tin Mừng: con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm nước trời, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn (Mt 11,25).
Người bé mọn là người sống khiêm tốn đơn sơ chất phác, dễ dàng tin vào lời dạy dỗ khôn ngoan vì hứa hẹn thành tín của Thiên Chúa, không thắc mắc nghi nan, không kiêu hãnh tự mãn mà biết tìm tới chân lý và thuận phục ý Chúa.
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc âm, để cảm mến tin theo và sống hiệp thông với Thiên Chúa. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Đức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người. Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quí báu giúp mọi thành phần Giáo hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý loại trừ những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái của họ mà tự mãn chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô sẽ không gặp được Thiên Chúa, không thể đạt được tới sự hiệp thông với Thiên Chúa và được cứu rỗi.
Nói chung con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là tâm hồn đơn sơ khiêm tốn.
III. Đức Giêsu mời gọi lắng nghe sứ điệp của Người (c.28-30)
Một tư tưởng nữa của Tin mừng hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” và “anh em hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”
- Trong ngôn ngữ Thánh Kinh “gánh” chỉ lề luật.
- “Mang lấy ách” là một kiểu nói bóng của các Thầy Rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhận ai làm Thầy.
- Ách và gánh của Chúa Giêsu là đạo lý Tin Mừng, đạo lý này bao gồm 3 điểm:
* Tin: Thụ giáo để trở thành môn đệ.
* Khiêm nhường: là thái độ của người môn đệ đối với Chúa.
* Hiền lành: là thái độ của người môn đệ đối với tha nhân.
- Học với Chúa Giêsu là học được tính hiền lành và khiêm tốn.
- Luật của Ngài là luật yêu thương.
- Bởi thế ai mang lấy ách của Ngài và học với Ngài thì tâm hồn người đó sẽ gặp được bình an.
Những kẻ vất vả mang gánh nặng mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó.
Tâm hồn họ đã sẵn sàng, giờ đây Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho, để Ngài giải thoát khỏi gánh nặng – Gánh nặng nào? Đó là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông luật chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Họ bó gánh nặng lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người biệt phái, tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn có quả tim thông cảm nữa.
Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người biệt phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài. Đây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng điều làm cho luật của Chúa trở thành êm ái đó là tình yêu, và những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ an ủi, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người tín hữu không lẻ loi một mình, không tự sức mình tuân giữ luật Chúa. Hàng ngày họ được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh Ngài và được ban cho tràn đầy Thánh Thần. Sống theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, họ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ lụy, những đòi buộc của nó sẽ không còn là gánh nặng, mà là niềm tin và sức mạnh trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe lời mời gọi đến với Chúa, tin tưởng vào Chúa và lấy tình yêu đáp trả tình yêu để “ách Chúa trở nên êm ái và gánh Chúa trở nên nhẹ nhàng cho chúng con”. Vì chỉ nơi Chúa, chúng con mới kín múc được niềm vui và sự bình an đích thực.
10. Sống theo tinh thần - Lm Minh Vận, CRM
Có cặp vợ chồng trẻ kia thường hay gây lộn với nhau theo tính nóng nảy của bản năng tự nhiên. Một hôm, người vợ không còn cầm hãm được lòng tức bực muốn trả thù, nên cô ta đã lên xe hơi, rồ ga lái một vòng lả lướt trêu ngươi trước xe chồng, khiến anh ta nổi xung cũng rồ máy tông luôn vào xe vợ cho hả dạ. Thế là hai chiếc xe mới của vợ, cũ của chồng bị tan tành; đồng thời, chẳng may lại còn đâm luôn vào xe hơi của một ông bạn Mỹ ở nhà bên cạnh nữa. Kết quả, anh chồng bị cảnh sát tống giam và bị tòa kết án là tội cố sát.
I. SỐNG THEO XÁC THỊT SẼ PHẢI CHẾT
Theo y khoa ngày nay những người mắc các chứng bệnh sau đây: Nghiện thuốc hút bị ung thư phổi. Say sưa bia rượu nhậu nhẹt quá trớn bị bệnh đau dạ dầy, lở loét, hư thận, da vàng. Ăn đồ ngọt quá nhiều cũng bị bệnh tiểu đường. Nghiện xì ke ma túy sẽ bị bệnh thần kinh, khiến con người mất quân bình, mát mát, khùng khùng. Nóng giận khiến con người mất khôn, làm tan cửa nát nhà, gia đình ly tán. Dâm ô xác thịt mê đắm sinh bệnh Aids, là thứ bệnh ghê tởm vô phương chữa trị của thời đại hôm nay, chỉ còn đợi thần chết. Đó cũng là thứ tội dân thành Sodoma và Gomora xưa, bị Chúa sai Thiên Sứ khiến lửa bởi trời xuống thiêu rụi bọn họ. Đúng theo lời Thánh Phaolô: "Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết" (Rom 8:13).
II. SỐNG THEO TINH THẦN SẼ ĐƯỢC VĨNH SINH
Còn chúng ta là con cái Chúa, Thánh Phaolô dạy: "Chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để sống theo tính hư nết xấu của xác thịt" (xem Rom 8). Nhưng: "Nhờ tinh thần, chúng ta đã giết chết được các hành động lố lăng của xác thịt, của đam mê, của thú tính và dục vọng lăng loàn" (xem Rom 13).
Thực nghiệm trong cuộc sống, nếu chúng ta được giải thoát khỏi những đam mê của thân xác, khỏi những ràng buộc của tội lỗi, khỏi những kìm hãm của dục vọng; chúng ta sẽ thấy lương tâm an vui, tâm hồn thoái mái; được hưởng an bình hạnh phúc và hoan lạc vô tận... tâm hồn chúng ta sẽ vươn lên cao cả, trải rộng bao la, hiếu hòa, an vui với mọi người.
Bao lâu bị những đam mê vây bọc, chúng ta thấy con người trở nên tối tăm, trí khôn ra u mê, lương tâm mất sáng suốt để phân biệt phải trái, khiến linh hồn trở thành nô lệ cho thân xác, thân xác trở thành bày tôi cho thú tính, thú tính xúi dục làm những điều xằng bật đồi tệ, mất hết cả nhân phẩm, hạ thấp và làm ô danh cho chức vị, tuổi tác... Vua Salomon là một vị vua được Chúa ban ơn khôn ngoan nhất trần gian đến nỗi đã được Chúa khen: "Chưa hề có ai được trí khôn ngoan như ông và sau này cũng sẽ không có ai hơn ông". Thế mà chỉ vì mê sắc dục, chiều theo thú tính, vua đã trở nên đồi bại, thờ ngẫu tượng, xúc phạm tới Thiên Chúa. Như vậy, cần phải thoát ly những đam mê thú tính, những dục vọng lăng loàn, chúng ta sẽ được tự do tận hưởng hạnh phúc chân thật của Chúa.
III. HẠNH PHÚC THẬT CỦA CON CÁI CHÚA
Là con cái yêu dấu, sống theo tinh thần Chúa, chúng ta sẽ thấy mình vượt lên trên trần thế, thưởng nếm được an bình hạnh phúc và hương vị siêu nhiên Thiên Đàng ngay trên trần gian này, vì chính Chúa sẽ ban cho chúng ta được hiểu biết và cảm nghiệm được chính Chúa là Nguồn Hạnh Phúc chân thật. Chúa Giêsu đã tỏ cho chúng ta thấy hạnh phúc cao cả vĩ đại đó qua lời nguyện Ngài dâng lên Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho những bậc hiền triết, khôn ngoan thông thái hiểu biết những mầu nhiệm đó, mà lại mặc khải cho những kẻ khiêm nhu bé mọn" (Mt 11:25).
Nhưng điều kiện để đạt được hạnh phúc đó, Chúa kêu gọi chúng ta: "Hãy đến với Cha, vì Cha nhân từ và khiêm nhu, các con sẽ được an bình tâm hồn" (Mt 11:29). Nhân từ và khiêm nhu là điều kiện Chúa đòi, để chúng ta được hưởng hạnh phúc chân thật. Nhân từ và khiêm nhu là bài học Chúa truyền chúng ta phải học nơi Chúa. Nếu bài học đó khó khăn, gương mẫu đó khó noi theo bắt chước thì Chúa mới kêu gọi chúng ta: "Hãy đến với Cha, hỡi các con là những kẻ gánh vác nặng nề, Cha sẽ bổ sức cho các con. Các con hãy mang lấy ách của Cha, hãy học cùng Cha vì Cha nhân từ và khiêm nhu thành tâm, rồi các con sẽ chiếm được sự an bình chân thật trong tâm hồn; vì ách của Cha thì êm ái và gánh của Cha thì nhẹ nhàng" (Mt 11:28-30). Nếu chúng ta biết học nơi Chúa bài học khiêm nhu và sống theo mẫu gương khiêm nhu của Chúa, chúng ta sẽ được nếm hưởng nguồn an bình hạnh phúc ngay trên trần gian này, và còn được sự sống đời đời trong hạnh phúc vĩnh cửu.
KẾT LUẬN
Xin Mẹ giúp chúng con biết học nơi Chúa bài học khiêm nhu và sống theo tinh thần khiêm nhu của Chúa như Mẹ, để Chúa cũng được hài lòng với chúng con như đã hài lòng với Mẹ, và được cùng Mẹ tận hưởng Chúa là chính nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu.
11. Mối liên lạc giữa trời và đất
(Suy niệm của Br Nguyễn Kim Thanh, CRM)
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Sau khi chuẩn bị dụng cụ phẫu thuật đầy đủ, trước khi chính thức bắt tay vào việc. Bác sĩ nói với cháu bé: “Công việc làm cho cháu đầu tiên bây giờ là phải chích thuốc để cháu ngủ mê". Cháu gái dịu dàng thưa bác sỹ: “Cháu xin phép bác sỹ trước khi cháu đi ngủ, cháu cần ít phút cầu nguyện với Chúa của cháu, vì đây là thói quen mà má cháu đã dạy cháu phải cầu nguyện trước lúc đi ngủ". Thế rồi em bé quỳ gối lên, cầu nguyện một cách thật sốt sắng, cầu nguyện xong, em nói với bác sỹ:"Thưa bác sỹ, bây giờ cháu đi ngủ được rồi".
Sau đó, chính lúc em bé được giải phẫu thì vị bác sỹ cũng trong tư thế tâm sự và cầu nguyện với Thiên Chúa của ông, đây cũng là lần đầu tiên ông cầu nguyện sau hơn 30 năm tỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với Chúa chẳng khác một người vô đạo.
Cầu nguyện chính là sức mạnh, là mối giây liên lạc mật thiết giữa Thiên Chúa và chúng ta. Sự đơn sơ, chân thành qua việc cầu nguyện của cháu bé bệnh nhân đã không chỉ đem lại cho em niềm vững tin chịu đựng, chấp nhận đau khổ, mà còn phát sáng niềm tin, thu hút đánh động lòng người khác trở lại sau một thời gian dài" lãng quên" Thiên Chúa.
Kinh nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Chúa Cứu Thế. Thánh Kinh đã nhiều lần ghi lại. Thánh sử Luca đề cập đến 11 lần. Thánh Matthêu kể đến 3 lần, Thánh Maccô và Gioan ghi lại 4 lần việc Chúa cầu nguyện. Nếu chúng ta so sánh việc cầu nguyện của Chúa Kitô với loài người chúng ta, thì có chút khác nhau. Khác nhau ở chỗ là khi Chúa cầu nguyện không có tâm tình sám hối, tâm tình nhận mình là hèn hạ, bất lực, vì Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa. Mà tâm tình cầu nguyện của Chúa là tạ ơn, ngợi khen qua công trình cứu độ của Ngài được uỷ thác bởi Chúa Cha.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy việc cầu nguyện của Chúa Kitô. Thánh Matthêu ghi lại thật chi tiết: “Vâng lạy Cha, ý Cha muốn như vậy, mọi sự đã được Cha trao phó cho Con, không ai biết Cha trừ ra Con, không ai biết Con trừ Cha và những kẻ Cha muốn mạc khải cho".
Chúa Giêsu ngước mặt lên trời và đối thoại với Cha trên trời. Một cuộc đối thoại thần linh giữa Cha và Con. Cha Con thật sự hiện diện, trao đổi, lắng nghe, luận bàn. So sánh cuộc sống thường hằng trong ngành bưu chính viễn thông, chúng ta thấy mỗi ngày, không biết cơ man nào là thư từ được gởi đi cũng như nhận vào. Những cuộc trao đổi chuyện trò trên điện thoại cũng như những hình thức khác qua mạng thông tin đã đem lại cho con người biết bao là tiện lợi. Trên lãnh vực tinh thần cũng thế, cầu nguyện chính là đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất. Nguyên nhân cầu nguyện chính là một nhu cầu, được phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa là chính. Cầu nguyện cũng đôi khi còn là một lời cầu cứu van xin. Hiệu quả sau khi cầu nguyện, người thành tâm sẽ có một tâm hồn an bình, biết tin tưởng và phó thác. Đôi lúc niềm đau và sự hụt hẫng vẫn còn trong thực tế, nhưng sau khi cầu nguyện họ sẽ trở nên kiên vững và biết chấp nhận. Giả sử như chúng ta vô ý, bất cẩn bị gãy chân trong tai nạn xe hơi, chúng ta rất lo lắng khi đang một mình trong hiện trường tai nạn. Sự đau đớn càng tăng khi nhận thấy máu chưa được cầm, có thể đưa đến mất mạng. Thế rồi sau khi được băng bó và chữa trị, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm ngay khi biết sự thật tình trạng thương tích và nhất là sự còn sống của mình. Cầu nguyện cũng tương tự như thế, được Thiên Chúa quan tâm và cứu vớt khiến ta trở nên an tâm và tin tưởng.
Cầu nguyện còn là một mạc khải của trời cao. Mạc khải này chỉ phát đúng sóng và trao đúng nguồn cho ai muốn nhận. " Cha đã dấu những bậc khôn ngoan thông thái điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26).
"Kẻ bé mọn" chính là sắc phục riêng làm cho " Vị Chỉ Huy" của họ nhận ra họ trong trận chiến. Vậy kẻ bé mọn là ai?
Họ chính là những hạng đói khó được no đầy ơn phúc.
Họ là chú chiên đi lạc được chủ tìm về hội tụ với bầy đàn.
Họ là những diễn viên trên sân khấu trần gian, mà vai diễn của họ gắn liền với cuộc sống.
Đại diện họ là người mang tên Laziarô lở loét, đói meo, mon men đến bàn ăn của người phú hộ nhà giầu để được sự nguyền rủa, chửi mắng chứ đâu được no bụng dầu chỉ là xương thừa, canh cặn! Họ cũng còn là những người núp ẩn dưới hình ảnh người phụ nữ ngoại tình bị cộng đoàn lôi ra ngoài ném đá. Họ cũng là đứa con hoang đàng phung phá hết gia tài của cha già, nhưng đã biết hồi tâm, sám hối trở về với cha.Họ cũng là dáng dấp của kẻ tội lỗi nhưng sau khi nhận ra thì quyết tâm chừa cải như Madalena, như người trộm lành cùng đóng đinh với Đức Giêsu trên thập giá... Và còn rất nhiều những kẻ bé mọn khác chúng ta có thể gặp họ cách thường xuyên trong cuộc sống thường hằng. Nhưng, chỉ có điều chúng ta tìm gặp họ để làm gì?
Tìm gặp họ để chúng ta cảm thông như Đức Kitô đã cảm thông với người trộm lành trên thập tự giá.
Tìm gặp họ để cho họ thực sự trở về như trường hợp của ông Giakêu đã trở về với Chúa sau khi được Chúa đến nhà thăm ông.
Tìm gặp họ để họ được trở lại con đường ánh sáng mà họ đang tránh lẩn như trường hợp của ông Sao lô tức Thánh Phaolô trở lại sau này.
Tìm gặp họ ở những nơi, những chốn mà tình đời cũng như trường đời cho là trái nghịch, dở hơi. Đó lại là những yêu sách của tình yêu là đem yêu thương vào nơi oán thù, đem hoà bình vào nơi chinh chiến...
Tất cả những điều trên một khi nhận ra được tính xác thực của chúng qua cầu nguyện, Thiên Chúa sẽ tăng thiện chí cho những ai thành tâm, rồi cứ như cơn gió tạt vào đám cháy cũng sẽ thiêu rụi tất cả những phiền toái, những phức tạp, những nguy hiểm để thực hành đức ái. Người biết cầu nguyện cũng là người biết nhận ra tình yêu Thiên Chúa thể hiện qua cuộc sống thực tế thường ngày.
Chúng ta hãy cùng nhìn xem, một người bị cụt cả hai chân, hầu như cưa hết cả hai bắp đùi, hằng ngày ngồi trên một tấm gỗ, tấm gỗ này được đóng phía dưới năm bánh xe nhỏ. Phía trước mặt đặt một cái nón cói rách đang gò lưng bò về phía trước giữa phố chợ đông người hầu để kiếm sống qua ngày nhờ lòng hảo tâm bố thí của mọi người. Vậy mỗi khi gặp cảnh này, chúng ta có thái độ thế nào? Có khi nào chúng ta vẫn tỉnh bơ như không có gì xảy ra, vì chúng ta cho rằng đây là việc tất nhiên, xui ai, nấy chịu? Chúng ta chỉ có được sự thương cảm thật sự khi việc cầu nguyện giữa ta và Thiên Chúa gắn liền nhau cả trong tư tưởng và hành động.
Cầu nguyện là mối giây liên kết giữa Chúa và loài người. Thực hành cầu nguyện là loài người biết yêu thương nhau, chia sẻ và thông cảm cho nhau như chính Chúa đã làm cho loài người.
Lạy Mẹ Maria, chúng con khẩn nài Mẹ ban cho chúng con tình mến của Mẹ trong sự hợp nhất và mật thiết kết hợp với Thiên Chúa. Mẹ đã có một đời sống cầu nguyện vững vàng. Trái tim Mẹ luôn mãi thuộc về chỉ một mình Thiên Chúa. Và kết quả của sự cầu nguyện liên lỷ trong Mẹ là một hành trình đức ái yêu thương. Việc Mẹ đến thăm Bà Isave là một hiệu quả của cầu nguyện. Xin Mẹ ban cho chúng con mau chóng trở nên giống Mẹ trong cầu nguyện và thực hành việc cầu nguyện.
12. Ngược đời
Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu hay dạy những điều ngược đời. Thực vậy, đang khi thiên hạ tranh nhau ngồi chỗ nhất nơi đám tiệc, hay chiếm lấy một địa vị cao nơi một tập thể, thì Chúa Giêsu lại dạy chúng ta phải tìm chỗ rốt hết: ai muốn cầm đầu thì hãy làm kẻ đầy tớ. Đang khi thiên hạ tìm đủ mọi cách để trưng ra nào bằng cấp, nào địa vị, nào chức tước thì Chúa Giêsu lại cho chúng ta hiểu rằng những kẻ bé mọn là những người chiếm ưu thế nơi tình thương của Thiên Chúa: Con xưng tụng Cha vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.
Về những điều ngược đời ấy Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc đời của Ngài. Từ trời cao Ngài đã xuống thế làm người. Khi mở mắt chào đời, Ngài có thể sinh ra nơi đền hờ, vì đền thờ vốn được coi là nhà của Ngài, thế nhưng Ngài đã chọn máng cỏ hang đá Bêlem. Ngài đến trong cương vị của Đấng cứu thế, nhưng Ngài lại bị Hêrôđê tìm giết. Trên đường Ngài đi không có thảm đỏ, không có binh lính dàn chào, cũng không có các tư tế nghinh đón. Những người bạn của Ngài và ngay cả những người Ngài đã chọn để tiếp nối sứ mạng của Ngài đều là những kẻ quê mùa dốt nát, những kẻ thu thuế bị đồng hoá với phường tội lỗi. Cả một thế giới những con người không có chỗ đứng trong xã hội bấy giờ.
Và cuối cùng, bản thân Ngài đã bị treo trên thập giá, một án phát cho hạng người nô lệ. Ngài đã ở vào chỗ rốt hết, chẳng có chi là danh giá.
Trở lại đoạn Tin Mừng, những kẻ bé mọn trước tiên là các tông đồ, rồi đến những kẻ nghèo túng, yếu thế, những kẻ chẳng mấy được quan tâm. Vậy thì họ được Chúa mạc khải cho những gì? Tôi xin thưa họ được Chúa mạc khải cho biết chương trình cứu độ mà Ngài thực hiện. Đồng thời bản thân họ cũng đã đón nhận và tin vào Ngài như vị cứu tinh của họ.
Đứng trước ơn cứu độ Thiên Chúa trao ban, hoàn toàn do sáng kiến tình thương của Ngài, những kẻ không có gì để bám víu, để tự mãn, lại là những kẻ có ưu thế nhất. Và như vậy, kẻ rốt hết lại là kẻ đầu hết. Còn chúng ta thì sao, mặc dù đã nghe và đã biết chủ trương ngược đời của Chúa Giêsu như thế, nhưng trong thực tế chúng ta lại muốn xử sự theo sự khôn ngoan của người đời, bởi vì nhiều khi chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng bằng uy quyền, bằng sự phô trương giàu sang và thanh thế, bằng sự xa lánh tất cả những gì mang dấu vết của thập giá, thành thử chúng ta không còn những người môn đệ đích thực của Đức Kitô nữa.
13. Khiêm nhường – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúng ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang quyền thế, xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiếm rất nhiều không gian của người khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự hiện diện của họ khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải nhìn trước nhìn sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chúng ta. Chắc hẳn chúng ta chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ. Trái lại chúng ta sẽ quì sụp xuống, gục đầu, đấm ngực ăn năn. Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người ẩn mình trong vô hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị người đời quên lãng.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều. Người nhỏ phải nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi. Thiên Chúa đã tự trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người lắng nghe con người cả khi họ chỉ trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên một Đấng bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế giới ồn ào của loài người.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chúa vẫn thương. Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ lên. Khi người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng nghi ngờ. Nhưng khi người ta cúi xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn, sự khiêm nhường ấy rất chân thực.
Chính sự khiêm nhường thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.
Thiên Chúa vô hình. Có lẽ ta sẽ khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta không nhìn thấy sự khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng đi xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên Chúa Người đã hạ mình xuống làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã tự nguyện chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là trong bữa tiệc ly, Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã hạ mình xuống tận cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa.
Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường nhỏ bé mới gặp được Người.
Hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy ghi danh vào học trường Chúa Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài học Giêsu. Hãy học với Thầy Giêsu. Hãy bước theo Thầy Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường thẳm sâu. Ở bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người. Ta sẽ kết hiệp với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Những dấu nào cho thấy sự khiêm nhường của Chúa?
2. Có quyền ăn nói, nhưng im lặng nhường lời cho người khác. Có vị thế cao, nhưng ẩn mình nhường chỗ cho người khác. Có dễ không?
3. Sức mạnh bùng nổ trên người khác. Và sức mạnh chế ngự chính mình. Đàng nào mạnh hơn?
4. Thiên Chúa tuyệt đối khiêm nhường. Khám phá này có tác động gì trên bạn không?
14. Gió và mặt trời
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong tập “Những ngụ ngôn của Ê-xốp”có một câu chuyện ngụ ngôn kể về cuộc tranh cãi giữa mặt trời và gió. Hai nguồn năng lượng này cãi nhau xem ai mạnh hơn ai.
Ngày nọ, một cơ hội xảy đến giúp cả hai dàn xếp được cuộc tranh cãi. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đang đi trên một con đường quê hoang vắng. Mặt trời liền thách thức với gió: “Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng ra mau hơn thì người ấy là người thắng cuộc”. Gió ta chẳng những đồng ý mà con quyết định ra tay trước. Chàng gió bèn thổi tới tập, nhưng càng thổi thì người kia càng giữ chặt lấy chiếc áo choàng, sợ nó tung bay mất. Cuối cùng, kiệt sức, gió ta đành phải chịu thua. Lúc đó mặt trời mới ra tay. Ông mặt trời chiếu toả hết vinh quang của mình ra. Chỉ trong mấy phút, người nọ nóng quá phải cởi bỏ chiếc áo choàng ra.
Cuối câu chuyện ngụ ngôn, Ê-xốp bàn luận: “Bạn có thể thành công nhờ sự dịu hiền dễ thương hơn là nhờ bạo lực”.
Anh chị em thân mến,
Trong một thế giới mà những quy luật “mạnh được yếu thua”, “lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”, hoặc “được làm vua thua làm giặc”, gần như là tất yếu và phổ biến, thì lời giảng dạy của Chúa Giêsu về đức hiền lành và khiêm nhường, quả thực rất khó được chấp nhận và xác tín, nếu không muốn nói là chướng tai và ngược đời.
Hôm nay, Lời Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính đặc biệt nhất ở nơi Chúa Giêsu. Thánh Phaolô đã nói: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Phải chăng đó là một sự khiêm nhường tột cùng của một Thiên Chúa làm người; hạ mình xuống rốt chót mọi người, lãnh nhận cái chết của tên nô lệ bị đóng đinh thập giá.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu còn cho biết: những người có tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhường là những người được Chúa yêu thương đặc biệt và được Chúa tỏ ra cho biết những Mầu nhiệm Nước Trời. Vì chỉ những ai có tâm hồn bé nhỏ mới có tinh thần và trái tim rộng mở đón nhận Lời Chúa. trong lời cảm tạ Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói: “Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, mà lại mạc khải cho người bé mọn”.
Nhưng ai là những kẻ bé mọn?
Theo Tin Mừng Thánh Matthêu, những kẻ bé mọn là những người nghèo khổ, những người yếu thế, những kẻ đang vất vả và phải mang gánh nặng. Trong Do Thái giáo, cái ách hay là gánh nặng thường là hình ảnh của những luật lệ. Các thầy thông luật tự cho mình là khôn ngoan thông thái, thường hay bày vẽ ra đủ thứ luật lệ mà những kẻ đơn sơ, bé mọn dù cố gắng đến đâu cũng chẳng thể nào tuân giữ trọn vẹn được. Làm sao đầu óc đơn sơ chất phác của họ phân biệt nổi cái gì chính yếu, cái gì thứ yếu trong những luật lệ chi li lắt léo mà đầu óc mấy ông Pharisêu, những kẻ có tinh thần nệ luật, chỉ biết sống nô lệ, như cái máy, đã chỉ có khả năng là giăng lưới gài bẫy, khiến những kẻ đơn sơ chất phác không thể nào lọt vào được bên trong cái thế giới thánh thiêng cao cả mà họ đã dựng lên. Chúa Giêsu không thể chấp nhận một thứ vương quốc của Thiên Chúa chỉ dành riêng cho những kẻ khôn ngoan thông thái và những kẻ đạo đức giả chỉ biết cậy vào thành tích giữ luật của mình. Ngài đã đến như một người nghèo sống giữa người nghèo và loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Nước Trời mà Ngài loan báo là một vương quốc mở ra cho những người bé mọn, nghèo hèn, nghèo về thể chất đã đành, nhưng cũng nghèo về tinh thần nữa, nghĩa là những người tội lỗi.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là người chủ trương vô luật lệ. Ngài cũng có những đòi hỏi của Ngài. Nhưng luật lệ của Ngài là “cái ách êm ái”, “cái gánh nhẹ nhàng”. Vì ách đó, gánh đó chính là lòng yêu thương. Lòng yêu thương này Ngài mời gọi chúng ta cùng chia sẻ với Ngài. Nhưng để có thể yêu thương, con người phải biết sống hiền từ và khiêm tốn. Bởi vì kẻ kiêu ngạo không thể biết yêu thương: họ chỉ biết chiếm đoạt và thống trị. Họ cũng không thể hiền từ với tha nhân, trái lại, luôn luôn là những kẻ độc ác.
Thưa anh chị em,
Cuộc đời của Chúa Giêsu thật đơn sơ giản dị. Ngài sống giữa loài người như một người anh em nhỏ bé nghèo hèn, không thích giàu sang, chẳng muốn dùng quyền để thống trị và cũng chẳng tỏ ra khinh khi chê ghét một người nào, cho dù là kẻ tội lỗi. Trái lại Ngài đã đặc biệt ưu ái những người này, tới mức bị thiên hạ dị nghị, coi Ngài là bạn thân của những người tội lỗi. Sở dĩ như thế là vì chân lý Ngài mặc khải không phải là thứ chân lý trừu tượng cao siêu mà những bậc khôn ngoan thông thái của trần gian ưa suy luận, nhưng chân lý của Chúa là chân lý của tình thương mà tình thương là ngôn ngữ mà cả trẻ thơ măng sữa cũng hiểu được.
Nhân loại chúng ta có quá nhiều những nhà bác học, những nhà hiền triết thông hiểu những điều cao siêu huyền bí. Và trong Giáo Hội chúng ta cũng không thiếu những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng có lẽ chúng ta hơn bao giờ hết lại cần đến thứ ngôn ngữ giản dị nhất, đó là tình thương, một thứ ngôn ngữ có khả năng tuyệt vời để mặc khải chân lý của Chúa, bởi vì Thiên Chúa là tình thương và chỉ có ai yêu thương mới biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Ngài. Mà đã không biết Thiên Chúa thì làm thế nào có thể rao giảng hay làm chứng về Ngài được?
Là con cái của Chúa và là anh chị em của nhau, chúng ta hãy lấy tình thương, lòng hiền hoà mà đối xử với nhau, thay vì tàn nhẫn, xâu xé lẫn nhau. Hãy khiêm tốn phục vụ nhau, thay vì tự tôn, tự phụ mà đè đầu cỡi cổ người khác. Chính tình yêu làm cho con người trở nên đơn sơ, hiền hoà và khiêm tốn. Cũng chính tình yêu làm cho con người sẵn sàng nâng đỡ gánh nặng cho người khác, hơn làm khổ cho người mình yêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu, Đấng là hiện thân của chân lý tình thương lại sống đơn sơ, hiền từ, khiêm tốn và đã mời gọi chúng ta hãy đến học với Ngài.
Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng sự dịu hiền của Chúa Kitô và tình yêu của Ngài cuối cùng sẽ thắng được bạo lực và áp bức.
15. Ở hiền gặp lành – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cha ông ta vẫn thường dạy con cái: "Ở hiền gặp lành". Người ăn ở hiền lành, người sống có nhân, có nghĩa ắt trời sẽ ban cho nhiều phúc lộc dư tràn. Ngược lại, nếu sống ác nhân ác đức, trời sẽ quả báo những tai hoạ khó lường.
Thế nhưng, hiền lành có phải là "tĩnh tọa như Bụt"? Ai muốn làm gì thì làm hay không? Thưa không, mà hiền lành ở đây là biết sống đúng với vị trí của mình. Là biết sống đúng với phẩm giá của mình. Là biết tôn trọng phẩm giá của mình. Một con người có phẩm giá cao đẹp là một con người có lý trí đủ để suy biết điều hay lẽ phải, có ý chí vững mạnh để không bị sự gian ác làm hại bản thân và tha nhân, có sự chọn lựa đúng đắn và chuẩn mực về cái hay, cái đẹp, cái phải, cái trái. Là người phải biết phân biệt phải quấy. Biết nói không với điều ác. Không thỏa hiệp với gian tà. Vì "im lặng là đồng lõa" và hùa theo là "đồng phạm". Người không có trí khôn, làm theo lời người khác thì không có tội, nhưng người hiền lành không thể làm chuyện ác, chuyện lừa dối để rồi đổ lỗi cho hoàn cảnh. Nếu đổ lỗi cho hoàn cảnh thì trên đời này ai phạm tội cũng vì hoàn cảnh mà ra. "Túng quá hóa liều", "Nóng mất khôn", "Tức nước vỡ bờ". Trong một phân tích về lý do phạm tội của các tù nhân thì có 80% tội nhân cho rằng mình phạm tội là do hoàn cảnh. Như vậy, sự hiền lành là một thái độ sống dung hoà với mọi người. Sự hiền lành sẽ giúp cho con người hành xử theo tình, theo lý và theo lẽ phải nhưng với một thái độ ôn hoà với đầy lòng bác ái bao dung.
Hôm nay Chúa nói: "hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Sự hiền lành của Chúa không phải là đi tìm sự thỏa hiệp với thế gian. Chúa không im lặng trước sự dữ. Chúa đã từng lên án gắt gao thói giả hình và gian tà của những kẻ biệt phái. Chúa đã từng xô đuổi con buôn ra khỏi đền thờ. Chính vì những điều Chúa làm, những lời Chúa nói đã ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo, đến địa vị, chỗ đứng của các biệt phái mà người ta tìm cách giết Chúa. Sự hiền lành của Chúa là vì công lý mà chịu nhiều thiệt thòi không kháng cự. Vì dám nói sự thật mà phải chết nhục nhã trên cây thập giá, nhưng Ngài không oán hận, và còn xin cùng Chúa Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Chúa đấu tranh nhưng bất bạo động, vì "ai dùng gươm sẽ chết vì gươm", "oán báo oán, oán chập chùng" và còn tha thứ cho sự xúc phạm của tha nhân không chỉ "7 lần mà là 70 lần bảy".
Trong tám mối phúc, Chúa đã chúc phúc những cho ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nườc Trời là của họ. Như thế hiền lành ở đây là sống thật và làm chứng cho sự thật. Không nhượng bộ, không thỏa hiệp với dối gian. Cho dù vì lẽ công chính mà mình bị bách hại, bị thiệt thòi vẫn chấp nhận, vì phần thưởng của chúng ta là Nước trời.
Sự hiền lành của Chúa còn hệ tại ở sự cảm thông với lỗi lầm của người khác. Không thành kiến đối với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ngài yêu thương họ. Ngài đến để đối thoại với họ. Ngài mở cho họ một con đường mới. Ngài giúp họ làm lại cuộc đời như Madalena, như Giakêu, hay như người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp.
Sự hiền lành thường đi song song với khiêm tốn. Hiền lành để tha nhân dễ gần chúng ta và khiêm tốn để ta dễ hòa đồng với tha nhân. Tuy hai nhưng là một mục đích. Tạo cơ hội cho chúng ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta. Kẻ kiêu căng thường phân loại để chơi. Người khiêm nhường thì đối xử mọi người như nhau. Người hiền lành ai cũng muốn tới gần. Kẻ gian ác ai cũng chạy xa. Chúa Giêsu Ngài hiền lành và khiêm nhường nên ai cũng có thể tiếp xúc với Ngài, và Ngài cũng có thể gặp gỡ trao đổi với mọi người. Từ em bé đến người già. Từ người giầu có đến kẻ hèn. Từ người công chính đến tội lỗi.
Xin Chúa giúp chúng ta biết học nơi trái tim yêu thương của Chúa: "sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Ngài không ở trên cao nhưng tự hạ mặc lấy thân phận con người. Ngài còn dạy chúng ta bài học khiêm tốn khi quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Một cử chỉ khiêm tốn đến nỗi Phêrô đã bộc trực thốt lên: "Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con sao?". Đó là một sự tự hạ không ủy mị hay luồn cúi mà là bài giáo huấn sống động về tinh thần hy sinh phục vụ lẫn nhau. Ngài đã dạy chúng ta hãy sống đúng với thân phận con người là lệ thuộc vào Chúa. Ngài đã dạy chúng ta hãy hạ mình để sống hòa hợp với tha nhân. Đừng tự cao tự đại để gạt Thiên Chúa ra bên ngoài như Adam - Evà năm xưa chỉ dẫn tới diệt vong. Đừng tự cao tự đại đến nỗi đè bẹp người khác để mình được tôn vinh. Đừng khinh bỉ người tội lỗi, bất hạnh nhưng yêu thương và tôn trọng họ. Và trên hết, hãy mang lấy tâm hồn trẻ thơ để luôn đơn sơ và bé nhỏ trước mặt Chúa, trước mặt tha nhân. Vì sự đơn sơ và bé nhỏ là dấu chỉ đặc thù của sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Đây cũng là phương thế để chúng ta đón nhận mạc khải Nước Trời và đón nhận tình thương của Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Amen.
16. Dịu hiền – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Thánh Jean Vianney, lúc còn là chủng sinh học hành rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học thừa lệnh Đức giám mục, đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không. Vianney không thể trả lời xuông sẻ câu hỏi nào cả. Vị giáo sư nổi nóng đập bàn nói: Vianney, anh dốt đặc như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì? Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: Thưa Thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương con lừa mà đánh bại 3 ngàn quân Philistin. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?
Sách tiên tri Giacaria được xếp vào áp cuối của bộ sách Cựu Ước. Giacaria sinh sống tại Giêrusalem và thi hành sứ vụ tiên tri vào khoảng năm 520-518 trước Công nguyên. Với việc lên ngôi của Zerubbabel, dòng dõi vua Đavid, Thiên Chúa khai mở triều đại mới trong vinh quang và sang giầu cho Giêrusalem. Thiên Chúa muốn Zerubbabel và Joshua xây dựng lại Đền Thờ và lập lại hàng giáo sĩ giữ việc thờ phượng và dâng hương tại đó. Giacaria cũng là một trong những người Do-thái bị lưu đầy được trở về Giêrusalem. Ông cùng được dự phần trong nhóm các tiên tri Do-thái. Ông phấn chấn lòng dân về tin mừng của Đấng cứu độ: Đây Chúa phán: Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng: Nầy vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ. Người khiêm tốn ngồi trên lừa con của lừa mẹ (Zach 9, 9). Tiên báo về Đấng công chính ngồi trên lưng lừa con bước vào thành thánh Giêrusalem với lời tung hô vạn tuế. Con cái Sion tung hô nhảy mừng ca hát: Vạn tuế, tung hô Đấng nhân danh Chúa mà đến.
Người đời hãnh diện với danh vọng và quyền lực để cai trị nhân dân. Có nhiều người tự cao tự đại làm như họ sở hữu mọi gia sản trên đời. Sự khôn ngoan, tài trí, sức mạnh và cả sự sống đều là ân huệ được trao ban. Mỗi người có khả năng để phát triển tất cả kho tàng qúi báu được ẩn dấu và phú bẩm. Không có sự gì chúng ta sở hữu mà không do ơn trên ban cho. Cho dù có thông giỏi, quyền thế và uy lực, con người cũng không thể hiểu thấu chính mình và vũ trụ chung quanh. Chúa Giêsu Đấng trung gian vạn vật đã lên tiếng nói rằng: Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã dấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn (Mt 11, 25). Thiên Chúa mạc khải nước trời cho những tâm hồn đơn sơ và chân thành. Không phải cứ thông minh hiền triết là nắm giữ được chìa khóa của sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan gắn liền với sự đơn sơ khiêm tốn.
Sau khi chịu chức linh mục, cha Jean Vianney vì nổi tiếng nhân đức, giáo dân các giáo họ lân cận tuôn đến tham dự thánh lễ, nghe giảng và xưng tội. Một cha sở kia tức giận vì tín hữu bỏ mình đến với cha Vianney. Ông cha này đã viết thơ nhục mạ cha Vianney. Cha Vianney nhận thơ, vội tìm tới xin cha sở kia tha lỗi và khẩn khoản xin cha sở kia giúp trình Đức giám mục đổi Vianney đi vùng khác hay tốt hơn cho nhập dòng nào đó để khỏi làm phiền các cha lân cận. Trước thái độ khiêm hạ đó, cha sở kia quì mọp xuống xin lỗi và từ đó chọn cha Vianney là cha linh hướng.
Hãy tìm học với Chúa Kitô: Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an (Mt 11, 29). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa toàn năng toàn mỹ. Chúa cư ngụ giữa xã hội con người đầy tội lỗi, yếu đuối và mỏng dòn. Dù tình trạng con người xấu xa đến mức nào đi nữa, Chúa vẫn yêu thương, chữa lành và cứu độ. Chúa không loại trừ sự dơ dáy tanh hôi của bệnh tật và tội lỗi. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại phải đối đầu với sự tà tâm của con người. Chúa đã nhiều lần tranh luận, thuyết phục, răn dậy, sửa sai, hướng dẫn và dậy dỗ cả các Thượng tế, Tư tế, Biệt Phái, Luật sĩ, các Đầu mục các phái, các vị lãnh đạo và toàn dân. Với lòng thương xót tuyệt đối, ánh sáng của Chúa chiếu dọi vào từng tâm hồn. Chúa muốn chúng ta hãy học nơi Chúa sự dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng.
Trong khi loài người, gọi là đồng loại, thì phân biệt và cách biệt. Phân biệt chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống, mầu da, sắc tộc, giầu nghèo, học thức, chức vị và muôn ngàn cách thế dị biệt. Hình như nhiều người luôn tìm cách đánh giá sự hơn thua và vinh nhục ở đời như là cùng đích. Dân tộc nào cũng muốn trội hơn. Người nào cũng muốn khoe tài, khoe của. Đâu mấy ai khoe sự khó nghèo, khiêm nhường hay hiền lành. Nếu cứ mải mê chạy đua tìm kiếm những triều thiên giả tạo, chúng ta sẽ bị chìm đắm trong vòng xoáy tục lụy trần đời. Biết rằng, sống là phải vươn lên và phấn đấu không ngừng. Cho dù đứng trong bất cứ địa vị nào trong xã hội, chúng ta cũng chỉ là một con người đầy khuyết điểm và yếu đuối. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đấng kế vị thánh Phêrô, đã tiếp nhận được bài học qúi giá của sự dịu hiền và khiêm hạ. Từng việc cụ thể ngài thực hiện trong những ngày tháng qua đã làm nổi bật sứ vụ của đấng thay mặt Chúa. Đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ.
Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt đối cho mọi người trong mọi thời. Là môn đệ của Chúa, chúng ta cần suy tư sâu lắng tất cả những lời chỉ dậy và hành động gương sáng của Chúa. Chúa giảng về sự tha thứ, thương xót, bác ái, khó nghèo, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, chịu đựng, hy sinh và ngay cả chết cho bạn hữu. Chúa đã giảng và đã thực hành. Trong khi chúng ta thích khoe mẽ, nói nhiều mà chẳng muốn áp dụng. Lời nói chẳng đi đôi với việc làm, đôi khi còn ngược lại, nói một đường, làm một nẻo. Khuyên dậy, giảng giải, trình bầy và thuyết phục điều hay lẽ phải thì ai cũng có thể làm được, nhưng thực hành những điều này cần có một ý chí và quyết tâm cao. Thực hành sống đạo cũng thế, chúng ta cần có thái độ chọn lựa dứt khoát bước theo lề phải. Tu thân tích đức từng bước mỗi ngày. Các thói quen tốt lành sẽ trở thành các nhân đức. Nhân đức dẫn chúng ta tiến gần trên con đường trọn lành.
Thánh Phaolô khuyên dậy: Vì chưng, nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống (Rm 8, 13). Thân xác con người vốn có bản năng yếu đuối. Các cơn cám dỗ luôn rình rập kéo lôi chúng ta trở lại tình trạng man rợ xa Chúa. Nhờ thần trí hướng dẫn, chúng ta có thể thắng vượt những cạm bẫy giăng mắc quanh môi trường cuộc sống. Xác thịt thì nặng nề yếu đuối nhưng thần trí cần phải dũng mạnh và cương trực. Thân xác là máng chuyển các ơn huệ vào tâm hồn. Chúng ta cần bồi dưỡng sức mạnh cho cả xác lẫn hồn để có hồn trong, xác mạnh. Sứ mệnh và cùng đích của toàn diện cuộc sống con người là sự sống viên mãn ngày sau.
Lạy Chúa, dòng nước sẽ tuôn chảy về chỗ thấp trũng. Ơn sủng của Chúa cũng tuôn đổ vào những tâm hồn biết khiêm nhượng đón nhận. Xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân của Chúa.
17. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Với bản tình loài người, Ngài có đầy đủ mọi đức tính mà người đời cần học hỏi. Nhưng ít khi Ngài mời gọi con người học theo các đức tính của Ngài, có chăng cũng chỉ là gián tiếp thôi. Vậy mà, Tin mừng hôm nay lại cho chúng ta biết, Ngài trực tiếp mời gọi các môn đệ và mỗi người chúng ta hãy học theo Ngài để sống hiền lành và khiêm nhường. Điều đó, chứng tỏ, đức tính hiền lành và khiêm nhường hết sức quan trọng trong đời sống chúng ta.
Vậy, Đức Giêsu sống hiền lành và khiêm nhường như thế nào?
Trước hết, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã tự hạ mình xuống, làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Như thế, Đức Giêsu cũng chấp nhận mang nơi mình sự thấp hèn, yếu đuối, đau khổ của con người. Cụ thể, Tin Mừng cho biết Đức Mẹ sinh Ngài trong hoàn cảnh thiếu thốn, rét mướt, bị người đời từ chối (x. Mt 2,7). Sau đó, Ngài sống với Thánh Giuse và Mẹ Maria trong tinh thần khiêm nhường vâng phục (x. Mt 2,51).
Khi ra giảng đạo, Ngài nêu cao tinh thần hiền lành và khiêm nhường. Ngài dạy các môn đệ hãy trở nên như trẻ nhỏ: “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ, các con không được vào nước trời.” (Mt 18,3). Trong bài giảng về hiến chương nước trời, Ngài tuyên bố: “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.” (Mt 5,4). Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, Đức Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người đã quý chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi lại giấu không cho kẻ khôn ngoan và thông thái biết những điều ấy (x. Mt 11,25). Rồi, Ngài mời gọi mọi người sống hiền lành và khiêm nhường như Ngài: “Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Khi dân chúng tôn Ngài lên làm vua, Ngài khiêm nhường không đón nhận như họ tưởng mà trái lại, Ngài lánh lên núi cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha (x. Ga 6,15). Trong bữa tiệc ly, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã thể hiện sự khiêm nhường cách tột cùng khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Đồng thời, Ngài dạy các môn đệ hãy rửa chân cho nhau (x. Ga 13,14). Trong ngày khải hoàn vào Thành Giê-ru-sa-lem, mặc dầu được dân chúng tung hô, nhưng Ngài vẫn khiêm nhường ngồi trên lưng lừa. Cử chỉ đó đã được tiên tri Isaia báo trước mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất: “Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ép-ra-im, và ngựa khỏi Giê-ru-sa-lem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc” (Dcr 9,9-10). Ngài hiền lành khi không kết án người phụ nhữ ngoại tình (x. Ga 8,2-11). Ngài hiền lành như người mục tử đi tìm con chiên lạc (x. Lc 15,3-7). Ngài hiền lành như người cha đợi chờ đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15,1-32). Ngài hiền lành khi để cho Giuđa, kẻ phản bội hôn lên má mình và để cho quân dữ bắt trói đem đi (x. Mc 14: 43 -50; Lc 22: 47 -53; Ga 18: 3-11 ). Ngài hiền lành khi không có một phản ứng gì trước cảnh dân chúng nhạo cười hay bị kết án bất công. Đặc biệt, Ngài chấp nhận những đòn roi, chịu đội mạo gai, chịu đóng đinh trên thập giá… tất cả đều thể hiện sự hiền lành và khiêm nhường của Ngài.
Chúng ta không chỉ thấy đức tính hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Giêsu mà còn thấy đức tính hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Maria và các Thánh.
Nơi Đức Maria: Khi được Thiên thần Gabriel chào “Bà đầy ơn phúc” và cho Mẹ biết Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã thưa với Thiên Thần rằng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”(Lc 1,38). Rồi Mẹ quy hướng tất cả những gì mình có được về cho Thiên Chúa bằng lời kinh Magnificat (x. Lc 1, 46-55). Từ đó, Mẹ sống một cuộc sống phó thác trọn vẹn trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa bằng việc khiêm nhường chấp nhận mọi đau khổ sẽ đến với mình: sinh con trong hang đá nghèo hèn; đem con trốn sang Ai-cập; lạc mất con trong đền thờ; thấy con vác thập giá và cuối cùng là chấp nhận đứng nhìn Con yêu dấu chết tất tưởi trên thập giá trước những kẻ nhạo báng Người.
Hầu hết các thánh cũng đã sống hiền lành và khiêm nhường. Xin được đơn cử một số các thánh sau đây:
Thánh Giuse: Khi biết Mẹ có thai, nhưng vì bản tính hiền lành và khiêm nhường nên Ngài không tố cáo Mẹ mà dự định âm thầm bỏ trốn. Ngài khiêm nhường vâng lời đón Đức Mẹ về nhà làm vợ mình, đưa Đức Giêsu trốn sang Ai-cập và lại đưa Mẹ con về cho dù lệnh truyền đó chỉ là lời của Thiên thần trong giấc mơ. Suốt cuộc đời của Thánh Giuse, Ngài đã sống hiền lành và khiêm nhường trong tinh thần phục vụ chương trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và Chúa Giêsu một cách âm thầm.
Thánh Gioan Tẩy Giả: Khi được dân chúng ca tụng vì tưởng Ngài là Đấng Cứu Thế, là Đấng phải đến, thì Gioan đã khiêm nhường giải thích rằng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa… Đấng đến sau tôi cao trọng hơn tôi, tôi không xứng đáng để xách dép cho Người” (Lc 1,23-27). Vì biết sứ mạng của mình chỉ là người dọn đường, nên khi Đức Giêsu đến, Thánh Gioan đã âm thầm rút lui: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).
Thánh Phêrô cũng đã sống rất khiêm nhường. Sự khiêm nhường đó được thể hiện qua những hành động sau đây: Khi Ngài vâng lời thả lưới và đánh bắt được rất nhiều cá (x. Lc 5, 1-11). Khi thấy “mẻ cá lạ lùng”, Phêrô đến sụp lạy dưới chân Chúa và thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Khi lún xuống nước, ông kêu xin Chúa rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con” (Lc 14,30). Sau khi chối Thầy ba lần, ông đã ra ngoài ăn năn khóc lóc (x. Lc 22,62). Khi chịu chết tử đạo, ông xin được đóng đinh đầu lộn ngược xuống đất vì nghĩ mình không xứng đáng để nên giống Thầy mình. Như vậy, Phêrô là một vị thánh hết sức khiêm nhường.
Thực tế trong xã hội hôm nay, chúng ta thấy đâu đâu cũng có bạo lực xảy ra: nơi gia đình, nơi trường học, nơi các cơ quan công quyền, ngoài xã hội. Người ta vẫn cứ muốn giải quyết mọi thứ bằng bạo lực. Vì thế, đức tính hiền lành và khiêm nhường hầu như vắng bóng, không được chú trọng, không được để ý lưu tâm. Không những thế, nhiều khi người ta còn cho rằng: người sống hiền lành là người đần độn, hèn nhát; người sống khiêm nhường thì được được coi là tự ti, rụt rè, biếng nhác.
Nhưng xét về phương diện tu đức và dưới nhãn quan của Kitô giáo, thì hiền lành và khiêm nhường luôn là hai đức tính nền tảng cần thiết cho bản thân, gia đình, Giáo hội và xã hội. Vì khiêm nhường là mẹ của các nhân đức khác, là nền móng để xây dựng đời sống thiêng liêng. Người sống hiền lành thường để lại nhiều điều tốt cho hậu thế, như người ta nói: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con.” Người hiền lành và khiêm nhường luôn biết sống hoà thuận với tất cả mọi người, coi trọng mọi người, không phân biệt sang hèn giàu nghèo. Người khiêm nhường và hiền lành thì không làm hại người khác. Người hiền lành và khiêm nhường luôn đem lại niềm vui và bình an cho mọi người. Không những thế, người hiền lành và khiêm nhường luôn được Chúa ban ơn (x. 1 Pr 5,5). Trong cuốn Nhật Ký về Lòng Thương Xót của Thánh Nữ Faustina Kowalska, Chúa Giêsu nói với Thánh Nữ về nhân đức hiền lành và khiêm nhường rằng: “Con hãy đem đến Ta các tâm hồn hiền hòa, khiêm tốn và những tâm hồn trẻ thơ. Hãy nhận chìm họ vào đại dương Thương Xót của Ta. Những tâm hồn này giống Trái Tim hơn hết. Họ tăng nghị lực cho Ta để Ta bước vào cơn hấp hối đau thương. Ta thấy họ như những Thiên Thần trần thế, chầu chực quanh các bàn thờ của Ta. Ta đổ tràn trên họ những dòng thác lũ ân sủng. Duy chỉ những tâm hồn khiêm nhường mới có khả năng đón nhận ân huệ của Ta. Ta đặc biệt tín nhiệm nơi những tâm hồn đó.”
Qua những trình bày trên đây chúng ta thấy Đức Giêsu, Đức Mẹ và các thánh đã quý trọng đức hiền lành và khiêm nhường. Mặt khác, người hiền lành và khiêm nhường mang lại nhiều lợi ích cho gia đình, xã hội và được Chúa thương ban ơn. Vậy, chúng ta hãy cố gắng học tập đức tính hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu, Đức Mẹ và các thánh. Để được như vậy, trong những sinh hoạt thường ngày, qua các mối tương quan trong gia đình, ngoài xã hội chúng ta hãy dẹp bỏ tính nóng nảy để tập sống hiền lành và khiêm nhường.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết thực hiện lời dạy và gương sáng của Chúa để sống hiền lành và khiêm nhường, hầu mang lại sự bình an cho gia đình, Giáo hội và xã hôi. Amen.
18. Hãy đến với Ta - Ts. Trần Quang Huy Khanh
“Tất cả hãy đến với ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách ta và hãy học cùng ta, vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ được bình an. Vì ách của ta êm ái, gánh của ta nhẹ nhàng” (Mt 11:30).
Ôi! Còn lời êm ái, dịu ngọt, và thân tình nào hơn những lời mà Chúa đã nói với con hôm nay? Còn tấm lòng nào yêu thương và quan tâm lo lắng cho con hơn tấm lòng Chúa đang dành để yêu thương và quan tâm lo lắng cho con? Những gì mà Chúa nói hôm nay, nếu đem kết hợp lại với những gì mà Chúa đã nói ở nhiều trường hợp khác như việc biết con được dệt trong lòng mẹ lúc nào và bằng những chất liệu nào. Việc đếm những sợi tóc của con, và biết sợi nào ngày nào đang đen hóa trắng, sợi nào rụng xuống vì lý do gì, sẽ là một bài ca tuyệt mỹ ru con vào lòng thương xót Chúa.
Trấn an con lúc con gặp sầu buồn, lo lắng chưa đủ: “Sự khó ngày nào để cho ngày nấy, ngày mai mai lo”. Hôm nay, Chúa còn tình nguyện mang vác những gánh nặng của cuộc đời con. Chúa muốn đổi những gánh nặng cồng kềnh con đang mang bằng gánh nặng nhẹ nhàng, êm ái của Chúa. Chúa còn hứa ban bình an cho con nữa. Con dâm ra ngờ vực Chúa:
- Chúa ơi! Nhưng sao con thấy hơi ngại ngùng quá. Nghi ngờ quá. Con đến với Chúa cả mấy năm nay, tốn bao nhiêu tiền xin lễ mà bệnh cao máu, đau dạ dầy và mất ngủ của con vẫn y nguyên.
Con đau khổ, khóc lóc mấy chục năm mà người chồng bê bối, rượu chè, cờ bạc, bê tha, người vợ lăng loàn, se xua vẫn không thấy quay về với bổ phận gia đình, chăm lo con cái. Đứa con trai, con gái của con vẫn tiếp tục lang thang với chúng bạn, nghiện hút, và băng đảng. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu lời cầu, hết đền thánh này đến vương cung thánh đường khác, mà chưa thấy Chúa nghe.
Con lao đao, xuôi ngược, chạy hết hãng xưởng này đến hãng xưởng khác mà vẫn không có việc làm. Gia đình con vẫn lâm vào cảnh thiếu thốn, chật vật. Còn Chúa, Chúa vẫn lặng thinh.
Nước mắt, than van, và đau khổ. Con đến với Chúa, con cầu xin Chúa vậy mà Chúa vẫn làm thinh. Chúa vẫn chẳng trả lời con. Vậy thì làm sao con tin được Chúa muốn đỡ gánh nặng của con. Làm sao con tin được rằng Chúa sẽ nâng đỡ con. Chúa ơi! Con nghi ngờ quá, phân vân quá.
Không giận hờn, và không chấp nhất, Chúa chỉ nhỏ nhẹ nói với con:
- Này con. Con không tin rằng cha thương con và yêu con vì con quá khổ sở, vì con quá buồn phiền, và vì cha không trả lời con, không cho con những gì con xin. Nhưng con có bao giờ nghĩ rằng, chính cha đây trước cơn hấp hối kinh hoàng tại vườn Cây Dầu, cũng phải đau khổ thốt lên: “Lậy cha nếu có thể được, xin cất chén này cho con”. Vậy mà sau đó, cha cũng phải lủi thủi một mình chuốc lấy đau khổ, vác thập giá một mình lên núi Sọ. Chúa Cha xử với cha như thế đó. Con trả lời cha đi, trường hợp ấy, con sẽ cư xử ra sao?!
Ngay hôm nay, cha vẫn lủi thủi một mình trong các nhà tạm. Ở đó để chờ dịp gần gũi với chúng con. Ở đó để sẵn sàng chia sẻ với chúng con những khó khăn cuộc đời. Nhưng có được mấy người đáp lại.
Ngay cả con nữa. Có mấy lần con đến thăm cha?! Và những lần như vậy, con đến với cha như thế nào, và với tâm tình gì? Hay như con vừa kể lể cũng với tâm tình đòi hỏi, xin xỏ, và rầy rà?! Và khi không được như ý thì con đau khổ, chán nản, và bực bội. Rồi từ chán nản, buồn bực, con đâm ra nghi ngờ tình thương cha, nghĩ rằng cha không thương con.
Từ bình minh sáng tạo, con đã có trong thượng trí của cha. Con đã hiện hữu trước mắt cha. Con làm gì, đi đâu, và như thế nào thì cha đã biết rõ hết. Và trong cái biết ấy, cha đã dành cho con một sự săn sóc hết sức đặc biệt mà cha chỉ dành cho một mình con. Chỉ có con, trong những bối cảnh riêng mới có những săn đón ấy, mới có những yêu thương, chiều chuộng ấy. Một sự yêu thương và săn sóc đặc thù, riêng tư nhưng rất mực thiết tha.
Và tâm hồn con đã ngập tràn hạnh phúc, và để lòng mình trào lên lời tri ân mối tình bao la của Thiên Chúa:
- Vâng!. Lậy Chúa. Từ hôm nay, Chúa cứ việc tự tiện làm chủ và hướng dẫn đời con đi. Chúa làm gì mặc ý, con không dám phàn nàn, không dám cự nự nữa. Con sẽ mang ách của Chúa, và con sẽ cố học bài học hiền lành và khiêm nhường để thấy rằng ách Chúa êm và gánh Chúa nhẹ, và để con cảm được cái bình an tâm hồn.
Cái ách. Vâng, mỗi chiếc xe phải có một cỗ máy, tuy nặng, nhưng nhờ đầu máy ấy mà chiếc xe chạy như bay trên xa lộ, tưởng chừng như cái đầu máy không có và không phải là khối sắt nặng nề. Nhưng hơn thế nữa, tất cả sức mạnh, lực đẩy, và khả năng hoạt động của chiếc xe lại hoàn toàn tùy thuộc vào cái đầu máy, đến nỗi thiếu nó, hoặc nếu nó bị hư là cả chiếc xe nằm ụ.
Cái đầu máy xe kia chính là ách của Chúa, là luật Chúa, là sự tin tưởng, phó thác, và chấp nhận. Mới nghe ra, con tưởng như nặng nề, và khó khăn, vất vả. Nhưng nếu có nó, nếu giữ nó, và nếu thực hành nó, thì cả gánh nặng cuộc đời con dù có chất đầy chiếc xe khổ ải, thì nó vẫn cảm thấy nhẹ tâng, và chạy nhanh trên hành trình cuộc sống.
Sự bình an của Chúa, như lực đẩy của chiếc đầu máy, sẽ làm cho mọi nặng nề, bế tắc, và khó khăn trở nên dễ dãi. Với nó, con không phải lê bước một mình, và không phải tự mình mang vác lấy cái nhọc nhằn, vất vả, mà là chính Chúa, vì Chúa đã tình nguyện đỡ nâng, mang vác lấy thay cho con. Vậy lậy Chúa, này con xin đến với Chúa.
19. Nép mình bên Chúa
Một người quá thông minh và nhiều kiến thức có thể trở thành kiêu căng về những gì mình đạt được. Người Hy lạp vốn nổi tiếng về khôn ngoan và thông biết đã coi việc giảng dạy của Phaolô về Thập giá của Đức Giêsu Kitô là sự điên rồ. Nhà du hành vũ trụ người Nga Gadadin đã kiêu căng nói rằng: "Tôi đã bay khắp cùng trái đất mà chẳng thấy bóng dáng của Thiên Chúa ở đâu cả". Quả thật, sự hiểu biết của những con người kiêu căng đã làm cho họ xa rời Thiên Chúa vốn là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan. Triết gia Bacon đã nói: "Kiến thức nông cạn đưa con người xa rời tôn giáo, ngược lại kiến thức sâu xa dẫn đưa con người lại gần Tôn giáo". Như thế, những hiểu biết của con người dù có uyên thâm cỡ nào đi nữa mà làm cho họ trở nên xa cách tôn giáo hay xa cách Thiên Chúa thì chỉ là những kiến thức hàm hồ và nông cạn theo nghĩa sâu xa nhất của nó.
Tin mừng hôm nay chó chúng ta thấy được rằng: Những con người đơn sơ và khiêm tốn sẽ được hiểu biết về Thiên Chúa nhờ họ biết đón nhận Đức Giêsu Kitô và những lời giảng dạy của Ngài. Trong khi đó, những con người tự kiêu, tự phụ về sự thông hiểu của mình đã khước từ Đức Giêsu Kitô và cho Ngài là kẻ mất trí và bị quỷ ám.
Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô là một mầu nhiệm, một siêu lý đối với con người, nên con người không thể biết rõ về Ngài nếu không được Thiên Chúa ban ơn hiểu biết ấy. Mầu nhiệm nơi Đức Giêsu Kitô "không phải là một vách tường chận đứng trí óc của chúng ta, nhưng là một biển cả, trong đó trí óc chúng ta chìm đắm" (Gustave Thibon). Chính sự khiêm nhường sẽ đưa dẫn con người đến với Thiên Chúa. Khuôn mẫu của sự khiêm nhường ấy chính là Đức Giêsu Kitô "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" Chính Ngài là vị Vua Messia hiền lành và khiêm nhu mà sách tiên tri Dacaria nói đến trong bài đọc một hôm nay.
Đức Giêsu Kitô đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha bởi lẽ Ngài biết rõ về Cha và Cha cũng biết rõ Ngài. Chữ "biết" trong Thánh kinh có nghĩa là có sự liên hệ cá nhân với người mình biết và có sự tiếp xúc thân mật với người đó. Như thế, biết Thiên Chúa chính là nhập vào sức sống lớn lao và một dòng ánh sáng vĩ đại phát ra từ trái tim Thiên Chúa và trở lại với Ngài.
Nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta biết được Thiên Chúa Cha. Đây là một hồng ân cao vời mà con người đã đón nhận một cách nhưng không. Ân ban này hoàn toàn miễn phí, chỉ cần người nhận biết mở lòng mình ra và đơn sơ đón nhận. Nhưng đây không phải là chuyện dễ dàng đối với những người quá thông minh và hiểu biết! Bởi đó, rất có thể sự khôn ngoan của loài người là nguyên cớ cản trở lớn nhất cho việc họ tìm đến với Thiên Chúa. Khi thấy mình quá giỏi, quá tài, con người chỉ lo củng cố mình và coi mình quá lớn lao đến nỗi không còn chỗ cho Thiên Chúa trong cuộc đời của họ nữa. Họ thấy mình quá quan trọng đối với nhân loại và nghĩ rằng mình có thể cứu nhân loại khỏi những đau khổ trong cuộc đời này. Sai lầm này xem ra chẳng tốt đẹp cho tha nhân mà cũng chẳng tốt lành gì cho bản thân của họ nữa.
Chuyện kể rằng: "Có một máy bay nhỏ chở hành khách đang bay ở độ cao trung bình và với vận tốc vừa phải. Hành khách trên máy bay gồm một vị giáo sĩ, một hướng đạo sinh, một giám đốc sản xuất điện toán. Đang bay trên bầu trời thì bỗng nhiên động cơ của máy bay không hoạt động nữa. Gió rít mạnh làm chiếc máy bay rơi nhanh. Ba chiếc dù được đưa ra, nhưng trên máy bay có tất cả bốn người. Làm sao đây?
Viên phi công khóc và nói: "Tôi phải có một cây dù, vì tôi có vợ và ba đứa con thơ." Nói đoạn, viên phi công nhanh tay chộp lấy một cái dù và nhảy vội ra khỏi máy bay. Ba người còn lại nhìn nhau. Ông Giám độc điện toán kêu lên: "Ồ, chắc là tôi phải cần một cái dù. Tôi là người thông minh nhất thế giới và thế giới đang cần tôi". Nói chưa dứt lời, ông nhanh tay luồn dây vào vai rồi vội nhảy ra ngoài.
Vị giáo sĩ thở dài buồn bã, quay sang nói với anh hướng đạo sinh: "Này con, con hãy lấy chiếc dù cuối cùng và nhảy ra đi. Cha đã già rồi, cha sẵn sàng để đi gặp Chúa. Con còn trẻ, tương lai huy hoàng đang chờ đợi con. Con không thể chết được". Nhưng người hướng đạo sinh mỉm cười nói: "Cha già đáng kính và dễ thương của con ơi. Cha hãy yên tâm. Vẫn còn đủ dù cho hai cha con mình. Người tự hào là thông minh nhất thế giới vừa nhảy ra khỏi bằng chiếc ba lô của con".
Hãy tự khiêm tự hạ trước mặt Thiên Chúa để chính Ngài sẽ hành động trên chúng ta. Hạnh phúc cho những ai biết nép mình bên Chúa như đứa con thơ trong tay người mẹ hiền của mình.
Hãy học biết Thiên Chúa theo ơn Ngài ban cho chúng ta và theo những gì Đức Giêsu Kitô đã dạy chúng ta. Biết Thiên Chúa chính là sống thân tình với Ngài, là bơi lội trong biển tình thương và ân sủng của Ngài. Đừng đòi hỏi Thiên Chúa bất cứ điều gì chỉ nhằm làm thoả mãn tình hiếu kỳ và kiêu căng của chúng ta. Chúa luôn ở gần những tâm hồn đơn sơ, khiêm hạ và không ngừng ban ơn cho họ.
20. Trở nên hèn mọn – AM Trần Bình An
Năm 1979, trên đường trở về từ Oslo, sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình, mẹ Têrêsa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêsa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:
- "Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?" Mẹ Têrêsa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:
- "Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít sao?" Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêsa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:
- "Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?".
- “Dạ rồi,” chàng ký giả đáp.
- "Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?"
- Thưa mẹ, ba đứa!
- "Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong! (Sr Jean Berchmans Minh Nguyệt. Mẹ Têrêsa Calcutta)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cảm tạ, ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương yêu mặc khải cho những kẻ bé mọn mầu nhiệm Nước Trời. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng tự nhận mình bé mọn, chỉ là một giọt nước trong, một giọt nước long lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, dù Mẹ đã làm biết bao kỳ công giúp đỡ người nghèo khổ tại Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới.
Hèn mọn bản thân
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem với dáng dấp hài nhi bé bỏng yếu đuối, thì những kẻ chăn chiên, những mục đồng bé mọn lại là những người đầu tiên được vinh dự đến thăm Hài Nhi. Đến khi đi rao giảng, Người mời gọi mọi người hãy sống đơn sơ, ngây thơ, trong trắng, chân chất, thật thà, thân thiện, hòa nhã như trẻ em, để được Ơn Cứu Độ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại, mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”(Mt 18, 3)
Bí quyết cải lão hoàn đồng không phải trẻ lại thân xác mau hư nát, mà canh tân, đổi mới tâm hồn, bỏ đi những thói hư tật xấu, toan tính, lọc lừa, tất cả cái khôn ngoan thế gian, mà sống vô tư, phó thác hoàn toàn vào Chúa Quan Phòng, như em bé âu yếm nép vào lòng mẹ che chở.
Trở nên hèn mọn như Mẹ Maria tự cảm nhận qua Kinh Maginificat: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới,” chính là gương mẫu hoàn hảo cho toàn thể Kitô hữu noi theo, để xứng đáng ân hưởng tình yêu Chúa.
Hèn mọn với tha nhân
Trở nên bé mọn với tha nhân là khiêm nhường, hạ mình xuống, nhu mì, nhân ái, xóa tan đi cái tôi tự cao, tự đại, mà tình nguyện coi mình là người đầy tớ phục vụ tha nhân, như Đức Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 14)
Trở nên bé mọn là hiền lành và nhẫn nhục, nhường nhịn, nhân ái, không còn kiêu căng, ngạo mạn, củng cố địa vị, chỗ đứng, so đo, ganh đua, kèn cựa với bất kỳ ai. “Ai muốn kiện tụng hầu đoạt chiếc áo cánh của ngươi, hãy nhường cả áo ngoài cho họ. Ai bắt ngươi đi một dặm đường, ngưoi hãy đi với nó hai dặm nữa. Ai xin ngươi cứ cho, họ muốn vay mượn ngươi đừng từ chối.” (Mt 6, 40-42)
Trở nên hèn mọn là vui lòng chịu đựng những sự khốn khổ do cường quyền, ác nhân áp bức, hành hạ, tra tấn, bỏ tù, sát hại, bức tử vì danh Chúa. “Đừng chống cự với người ác. Trái lại, nếu ai tát má bên phải ngươi, hãy đưa má kia cho họ nữa.” (Mt 6, 39)
Thánh Phaolô cũng hết lòng khuyên nhủ sống khiêm hạ: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.” (Pl 2,3)
Hèn mọn với Thiên Chúa
Noi gương Đức Giêsu, Người trở nên hèn mọn trước mặt Đức Chúa Cha, hóa thân làm phàm nhân, người Kitô hữu cũng nhìn nhận mình là tạo vật hèn mọn, chẳng là chi cả trước Thiên Chúa, như bắt chước người thu thuế đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:” Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.“ ( Lc 18, 13 )
Hoặc khi làm được bất cứ việc chi tốt lành, hãy nhận lấy thân phận hèn mọn, đầy tớ bất xứng mà thưa cùng Chúa, như Người đã từng dạy: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm."(Lc 17, 10)
Thánh Phêrô còn minh định thêm về đức khiêm nhường: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định.” (1Pr 5, 5-6)
Khi một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ chúc mừng Mẹ Têrêsa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979, thì Mẹ vui vẻ đáp lại: “Tất cả vì vinh quang Chúa!”
“Người khiêm nhượng như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp.” (Đường Hy Vọng, số 517)
Lạy Chúa Giêsu, luôn hiền hậu và khiêm nhường, xin ban cho chúng con biết sống hèn mọn ngay với bản thân, với tha nhân và nhất là với Thiên Chúa cao cả, để có hiệp thông vào mầu nhiệm Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, trở nên đầy tớ hèn mọn, để được Chúa đoái thương nhìn đến. Amen.
21. Ai vất vả mang gánh nặng nề
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Hãy đến với ta….!” Đối tượng của lời kêu mời tâm tình nhất Đức Giêsu từng làm là ‘những ai đang vất vả mang gánh nặng nề’. Nhưng họ là những ai? Câu trả lời không viển vông chút nào và rất cần thiết, vì nếu không xác định rõ, rất có thể chính tôi sẽ tự loại mình ra khỏi số đối tượng được Chúa kêu mời cách khẩn thiết nhất.
Tra cứu một số nhà chú giải kinh thánh để tìm đáp án, tôi đã khám phá ra điều đáng kinh ngạc. Ngoài ý nghĩa gánh nặng luật pháp mà người Do Thái thời đó phải gánh chịu, với vô vàn các nghi lễ và qui định đè nặng trên đầu trên cổ, căn cứ vào đoạn sách Công Vụ Tông Đồ 15,10, phần đa các tác giả, dựa vào Thánh Vịnh 38 (37), nhất trí coi ‘ai mang gánh nặng nề’ là những kẻ tội lỗi “Tội chồng chất ngập đầu ngập cổ, như gánh nặng vượt quá sức con (câu 5). Xin đan cử ra đây lời chú giải tiêu biểu của Barnes: ‘Không còn nghi ngờ gì nữa, đối tượng Ngài kêu mời chủ yếu là các tội nhân đáng thương, lầm lạc và quị ngã: những con người bị đè bẹp dưới gánh nặng của ý thức những lỗi lầm đã phạm, run rẩy trước hiểm nguy bị luận phạt, và tìm mọi cách để được giải cứu. Trước tình trạng đó, một lối thoát đã được mở ra. Đức Ki-tô kêu mời họ tới với Ngài, tin vào Ngài, và phó thác cho Ngài, và chỉ mình Ngài mà thôi, hầu được giải thoát và cứu rỗi. Thực hành điều này, Ngài sẽ cho họ an nghỉ - an nghỉ khỏi tội lỗi mình phạm, an nghỉ khỏi lương tâm cắn rứt, an nghỉ khỏi các luật pháp đáng khiếp sợ, và an nghỉ khỏi nỗi sợ hãi phải trầm luân muôn đời.’
Cuộc thổ lộ tâm tình nhất của Thánh tâm Giêsu (Thánh Phanxicô Sa-lê gọi là ‘heart speaks to hearts’) có đối tượng duy nhất là các tội nhân. Ai tự cho mình là thánh thiện, là đạo đức, là khôn ngoan thông thái… đều tự tách mình ra khỏi lời mời gọi này. Quả không sai khi Người dâng lời tạ ơn lên Chúa Cha vì ‘… đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn!’ Điều này hoàn toàn ăn khớp với lời Người từng tuyên bố ngay từ thời gian đầu của sứ vụ rao giảng: ‘Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năm’ (Lc 5, 31-32). Trong thổ lộ tâm tình này, tầng số mà hai con tim cùng rung lên, cùng đập để rồi gắn chặt lại với nhau là cực thấp cực trầm. Tầng số đó không gì khác hơn là khiêm hạ, khiêm nhường thẳm sâu. “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Về phía Thiên Chúa, khiêm hạ có vẻ là điều không tưởng vì địa vị quyền uy tột bậc của ngài, nhưng qua Đức Giêsu trong việc nhập thể trở nên giống chúng ta mọi đàng, nó đã trở thành nét đặc sắc nhất của Thiên Chúa. Còn lại là phía chúng ta. Vẫn tưởng rằng khiêm nhường sẽ dễ lắm, nhưng thực tế không phải vậy. Kinh nghiệm cho thấy, gợi nhớ sự thấp hèn và tội lỗi của thân phận mình vẫn là điều cực kỳ khó khăn, kinh tởm, hầu như không thể vượt qua nổi đối với phần đa mọi người chúng ta. Thậm chí ngay trong nỗ lực sống lành thánh, nhiều khi ta vẫn còn thấy lởn vởn đâu đó nỗi sợ hãi phải nhìn nhận thân phận tội lỗi và thấp hèn của mình.
Lòng tôn sùng Thánh Tâm vì thế đòi nơi tôi điều kiện sine qua non là đi sâu vào con người vất vả gánh nặng của mình. Con tim tôi càng nặng nề, Trái Tim Chúa càng dễ dàng tiếp nhận và bao bọc lấy; đồng thời, trong cái lỗ vết thương sâu hoắm của tội lỗi và luận phạt, nó càng có khả năng đón nhận trọn vẹn lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa. Vinh quang lớn nhất của Thánh Tâm Chúa chính là đây, “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen cha!”
Lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa được phổ biến sâu rộng trong thế kỷ 17 với thánh nữ Magarita A-la-cốc (1647-1690) đã dẫn tới tôn sùng lòng thương xót Chúa vào thế kỷ 20 với thánh nữ Faustina (1905-1938). Mong rằng hai ‘tôn sùng’ này không dừng lại ở một vài việc đạo đức, mà sớm trở thành nét nổi bật nhất của Tin Mừng (cả trong suy tư thần học nữa), để giúp Ki-tô hữu chúng ta khám phá ra dung mạo đích thực nhất của Thiên Chúa.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, qua vết thương do lưỡi đòng khoét sâu nơi con tim Chúa, thánh Gioan đã nhận ra tình yêu ‘làm của lễ đền tội’ (1Ga 4,10). Con biết mình chỉ có thể vào sâu trong Trái Tim Chúa khi chân thành thú nhận tội lỗi mình đã phạm. Xin cho con học thuộc bài học khiêm nhường mà Thánh Tâm Chúa là thày dạy lỗi lạc nhất. Xin dìm con ngập sâu trong tội lỗi mình để con suy tôn và thờ lạy Thánh Tâm Giêsu Tình Yêu cách chân thật nhất. Amen.
22. Hãy đến cùng Ta
Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần đi xa cùng với cái cảm giác quay trở về. Trên chặng đường vất vả, với sự chờ đợi cho đến nơi.
Khi đến nơi thì bao nhiêu nhọc nhằn vất vả không còn nữa. Sự mệt nhọc của con đường đi, với những nắng mưa của thời tiếc, những cơn nóng bức, những làn gió mạnh, những bụi bẩn hoà lẫn với khói xe, tất cả những thứ dường như không tồn tại trên đời. Không phải vì chúng ta đã đến được nơi an toàn, nhưng vì chúng ta đã về bên những người thân yêu của mình. Ở bên cạnh những người thân yêu để tận hưởng cuộc sống với họ thì còn hơn cảm giác bình an của riêng mình. Cũng chính vì đến được bên cạnh những người thân yêu, nên bao nhiêu sự mệt nhọc, lo sợ đều tan biến đi. Giờ đây chỉ còn cảm giác êm ái nhẹ nhàng. Tình yêu thương làm cho cuộc sống con người trở nên nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn.
Chúa Giêsu kêu mời: "Hãy đến với Ta, tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho".
Ngài nhìn thấy con người bị biết bao sức nặng của trần thế chồng chất trên đôi vai nhỏ bé của họ. Ngài nhìn thấy những người đang gục ngã thảm hại, trước những khó khăn nhọc nhằn mà họ không thể nào vượt qua được. Ngài cũng nhìn thấy có những người đang lê lết, bước đi nặng nề, nhưng họ không muốn cho gánh nặng của mình nhẹ đi, nên họ đang chết dần chết mòn trong những gì mà họ mang lấy. Họ tưởng rằng như thế là vinh quang, như thế là hạnh phúc, họ chỉ bám vào những gì mình suy tưởng, chính vì thế họ không còn nhìn thấy gì ngoài bản thân mình. Họ không còn biết lắng nghe, không tiếng nói nào có thể thâm nhập được vào trong con người của họ. Họ tưởng mình tài năng, tưởng mình đạo đức thánh thiện, họ sống bám vào những ý tưởng đó, họ cũng sẽ chết với những gì họ suy nghĩ, vì không chịu vượt ra khỏi chính mình để biết nhìn, biết lắng nghe và thay đổi cách sống mà chạy đến với Chúa để Ngài nâng đỡ bổ sức cho. Họ là những người khôn ngoan mà Chúa Cha đã không cho nhìn thấy những ý định của Thiên Chúa.
Nếu giờ nầy Chúa Giêsu hiện diện trước mặt mỗi người chúng ta, Ngài sẽ cám ơn Chúa Cha như thế nào về mỗi người trong chúng ta? Ngài cám ơn vì chúng ta là những người bé mọn biết chạy đến với Thiên Chúa, biết mang lấy gánh nhẹ nhàng của Ngài vì chúng ta nhìn thấy, nhận biết thánh ý Chúa để tuân giữ và thi hành trong cuộc sống. Hay Ngài cám ơn vì mọi việc không cho chúng ta nhìn thấy, không cho chúng ta nhận biết, bởi chúng ta chỉ biết có chính mình mà không còn lắng nghe, không còn nhìn thấy gì ngoài con người ích kỷ của chúng ta. Như vậy thì Hồng Ân cứu rỗi của Ngôi Hai Thiên Chúa có ích lợi cho biết bao người, còn bản thân chúng ta thì không được gì hết sao?
Chúng ta để ra một ít phút nhìn lại đời sống, nhìn vào những việc làm đã qua: chúng ta không có thời gian đủ để lo cho công việc cứ bao vây, chìm ngặp trong những tính toán cùng với biết bao dự án cho tương lai. Chúng ta cũng nhìn thấy những người chung quanh mình sao quá tệ, họ không biết làm ăn, không biết toan tính cho cuộc sống, không nhìn thấy những lợi lộc, không biết nhanh nhạy để chộp lấy thời cơ, họ không đủ khôn ngoan. Những lúc đó, là sự khôn ngoan của con người, sự khôn ngoan để tìm những lợi lộc trần thế, sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết Mầu Nhiệm về Thiên Chúa, vì mãi đi tìm những điều không thuộc về Thiên Chúa.
Nếu chúng ta cũng sống với tất cả những gì của trần thế để lo cho cuộc sống của mình và cho nhiều người khác, đồng thời chúng ta dâng lên Chúa những lo toan, những tính toán của mình, xin Chúa hướng dẫn để biết sống theo thánh ý Chúa. Chúng ta cũng nếm trải những khó khăn vất vả, những khổ nhọc của con người và vượt qua cách tốt đẹp vì có Chúa ở cùng. Đó là chúng ta biết đến với Chúa, cùng làm việc với Chúa, cùng mang những gánh của Chúa, nên chúng ta đã vuợt qua thật êm ái và nhẹ nhàng. Ở bên Chúa mọi khổ nhọc như tan biến đi, chỉ còn tình yêu ngự trị.
Xin Chúa ban thêm đức tin cho mỗi người để biết siêng năng chạy đến với Chúa trong từng giây phút của cuộc đời.
23. Học trường Giêsu - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay là lời chúc tụng tạ ơn của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha. Khi Chúa cầm lấy chén, tạ ơn (x. Mt 26,27); Lời tạ ơn diễn tả tâm tình của tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa. Chúa Kitô thường quen tạ ơn. Người tạ ơn vì biết trước rằng Chúa Cha đã nhận lời. Người tạ ơn vì sức mạnh uy quyền toàn năng của Thiên Chúa hiển hiện nơi Người để Người tỏ uy quyền toàn năng của Đấng Tạo Hóa ra trước mặt thiên hạ. Người tạ ơn vì công trình cứu chuộc Người đã hoàn tất, và Người tạ ơn vì việc Người làm để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.
Như vậy, hiện tại hóa hy tế đời đời của Chúa Kitô trên thập giá trong Thánh Lễ được hiểu như là một hành động tạ ơn cao cả nhất. Chính trong nghĩa đó mà từ "Thánh Thể" là hành động tạ ơn được nên trọn vẹn. Chúa Giêsu đã dâng hiến thân mình thay cho mọi tạo vật trên thế giới. Người cũng mời gọi các tạo vật phải tạ ơn Đấng Tạo Hóa cho xứng.
Tiếp theo hành động tạ ơn là lời Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến trường Giêsu và học bài “Hiền Lành Và Khiêm Nhường”. Bài đọc I cho thấy, Đấng Messia mà Giacaria nói tới trong Cựu Ước, Đấng ấy không đến trong quyền uy với vũ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ vũ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”. Vua hòa bình ngồi trên lưng lừa, không đến để giết chết mà để cứu sống (x. Dcr 9,8-10).
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Ngài quí chuộng những kẻ bé mọn, hiền lành và khiêm nhường. Chính Ngài đã mạc khải cho họ, trong khi lại giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy (x. Mt 11,25-30).
Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Chúa” và “hãy học cùng Chúa” bài học: “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.
Hiền lành, theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh Thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo. Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Hiền lành hay hiền hậu là đức tính tốt lành của người có lòng thương người, không độc ác, nhưng có đức hạnh và hay làm điều thiện.
Lịch sử minh chứng, con người ở mọi nơi mọi thời thường say mê quyền lực và muốn thống trị, sai khiến người khác theo ý mình, nên theo một số người thì hiền lành và khiêm nhường có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Trái lại, cũng có rất nhiều người cho rằng, người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được nhân đức khiêm nhường và hiền lành, họ đáng được ca tụng.
Hiền lành và khiêm nhường ngày nay không còn được đánh giá cao như xưa. Trước kia, lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho người khác khi gọi họ là “người hiền lành khiêm nhường”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương.
Người hiền triết và khôn ngoan, thường khó đi vào trong các mầu nhiệm Nước Trời, vì họ không mở lòng mình ra để đón nhận các mạc khải của Thiên Chúa; Thiên Chúa không ngừng mạc khải chính mình, nhưng họ thì lại tự tin vào hiểu biết của chính mình; vì thế, mạc khải của Thiên Chúa không làm họ ngỡ ngàng được. Trái lại, người đơn sơ như trẻ nhỏ lại đón nhận được mạc khải của Thiên Chúa; họ giống như tấm bọt biển khô hấp thấm nước vậy, họ ngỡ ngàng và thán phục trước mạc khải của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp, họ là học giả khôn ngoan, nhưng khiêm tốn trước Thiên Chúa, họ có thể hiểu biết về Thiên Chúa.
Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc hiền nhân quân tử có cái nhìn khác. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.
Thánh Francois de Sales nói: “Tất cả đều được chinh phục bởi hiền lành chớ không phải bạo lực”.
Nhà hiền triết Mạnh Tử nói: “Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân (Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành).
Ông Gandhi nói: “… Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.
“Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” là thông điệp Đức Giêsu gửi đến mỗi người chúng ta. Người đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Người thôi.
Vậy, chúng ta hãy thực hiện được lời Chúa dạy, cố gắng vượt thắng tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hung.
Trong bài giảng “Tám Mối Phúc Thật” (Mt 5,1-12). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Chỉ có người theo học trường Giêsu, quyết học bài học hiền lành và khiêm nhường cả đời, chỉ có người biết cư xử với lòng khoan nhân, mới tìm được an bình và hạnh phúc trên cõi đời nầy cùng sự nghỉ ngơi miên viễn khi đã ‘ra trường’.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời. Amen.
24. Mang ách của Chúa, sẽ gặp được bình an
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sống trong một thế giới mà người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với cuộc sống đầy vất vả. Không những thế, họ còn bị đồng loại chất lên vai những gánh nặng trong khi những người kia lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy đến với Ta” thật ý nghĩa và đầy nguồn an ủi cho những ai vất vả mang gánh nặng nề. Đến với Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ vơi đi, mang ách của Người ta sẽ cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, vì ách của Chúa là ách của tình yêu và tha thứ.
Lời Chúa Giêsu thân thưa với Cha Người: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25). Chúa Giêsu hứa ban cho tất cả “sự bổ sức”, nhưng đặt một điều kiện, đó là: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29). Cái “ách đó” là gì, mà thay vì đè nặng thì lại làm vơi nhẹ, thay vì nghiền nát thì lại nâng lên?” Ách của Chúa Giêsu là luật của tình yêu thương, là giới răn mà Người đã để lại cho các môn đệ Người (x. Ga 13, 34; 15, 12).
Nói đến cái “ách”, luật Do thái được xem như đặc quyền của họ, vì sự khôn ngoan là hồng ân của Thiên Chúa thể hiện trong sống hàng ngày. Chúa Giêsu coi mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Chúa Giêsu chính là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho con người. Người mời gọi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” hãy đến với Người, hãy tin vào Người, “Người sẽ nâng đỡ bổ sức cho” (Mt 11, 28).
Ách, với mục đích là giúp con vật kéo cầy, kéo xe một cách dễ dàng. Cũng thế, khi chúng ta mang ách của Chúa Giêsu, Người không làm gì khác hơn là giúp đỡ chúng ta bớt đi những gánh nặng. Người mời gọi chúng ta đến mang lấy ách của Người, Người cùng vác ách với chúng ta. Chúa Giêsu mang ách ấy trước hết và đứng bên cạnh chúng ta. Khi hai người cộng tác với nhau kéo chung một cái ách, chắc chắn hơn một khỏe mạnh. Đó chính là điều Chúa Giêsu làm cho mỗi người trong chúng ta.
Thật là lạ, Chúa Giêsu mời gọi kẻ khó nhọc đến với Người để được nghỉ ngơi dưỡng sức, nay Người lại trao thêm ách. Ách là một công cụ để làm việc. Ách là để thi hành một tác vụ, phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Ách của Người không phải là gánh nặng nhưng là êm ái và nhẹ nhàng (x. Mt 11, 30). Thánh Phaolô nói cái ách này sẽ dẫn chúng ta đến tự do, nên khi đón nhận cái ách của Đức Giêsu là chúng ta cũng đón nhận một người “cùng mang ách” với chúng ta.
Ở đoạn trước trong Tin mừng Matthêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai “có tinh thần nghèo khó” (Mt 5,3) như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Hôm nay, Đức Giêsu nói đến “những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25) nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Theo nghĩa Kinh Thánh, họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang, chẳng có gì để có thể khoe khoang. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.
Tiên tri Dacaria nói đến Vị vua Mêssia lên Giêrusalem cưỡi trên con lười con là con của lừa mẹ, nhắc lại rằng Chúa Giêsu liên kết với chúng ta, dưới ách nặng của sự khiêm nhường và dịu dàng, Người đã mang thân phận người như chúng ta, chịu khổ nạn để cứu chuộc chúng ta. Từ trên nơi cao thẳm, Người đã cúi xuống đất để nghe tiếng van nài, Người đã hạ mình xuống để giải thoát chúng ta khỏi chết.
Chúa Giêsu đề nghị chúng ta mang lấy ách của sự khiêm nhường và hiền hầu, của niềm tin vào tình thương Thiên Chúa và phó thác trong tay Người, xin Người cứu giúp: “Trẻ trung thì mệt, thì mỏi, tráng đinh nghiêng ngả bổ nhào, song những ai trông vào Thiên Chúa, sẽ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà không mệt” (Is 40, 30-31). Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta đón nhận vào lòng sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy liều thuốc bổ sức như lời Người hứa; và giảm bớt gánh nặng đè trên chúng ta, vì có Chúa vác đỡ chúng ta.
Có người viện cớ hỏi: Vậy tại sao Thiên Chúa không cất đi gánh nặng nơi con người, giải thoát con người một lần cho tất cả các gánh nặng? Thưa là vì Ngài không muốn cứu chúng ta mà không có chúng ta. Thiên Chúa dành cho chúng sự tôn trọng và yêu thương trong lúc ấy.
Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này là chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn nghĩa là những người không cậy dựa và sức riêng mình để tự cứu mình mà chỉ cậy dựa vào Chúa, những người không đặt an toàn vào sự hiểu biết nhân loại nhưng trong Người Con đã được mạc khải cho họ, bởi vì họ biết ngoài Người ra, họ không thể làm gì được.
Niềm vui cả thể của con người là được gắn bó với Đức Kitô và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Biết được Chúa Cha yêu mến, kết hợp với Ngài và tin tưởng vào Ngài như người con bé nhỏ đặt an toàn trong tay bố của mình.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của lòng từ mẫu, xin giúp chúng con “ học” nơi Chúa Giêsu sự khiêm nhường thật, cương quyết mang lấy ách êm ái Người trao, để sống an bình nội tâm, và giúp chúng con an ủi các anh chi em khác đang mệt nhọc bước đi trên con đường cuộc sống. Amen.
25. Cha đã mặc khải cho kẻ bé mọn
(Suy niệm của Lm. Gioan Trần Khả)
"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những ngưòi hiền triết khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn."
Một nguời giầu kia luôn luôn đầy nỗi lo lắng. Tuy ông có tất cả mọi cái mà những nguời trên thế gian này muốn có, lòng của ông vẫn không đuợc vui. Ngược lại, ông có một nguời đầy tớ biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Một hôm, khi nguời đầy tớ này thấy chủ mình qúa lo lắng buồn rầu tuởng chừng chết đi được, anh liền đến nói với ông chủ, "Thưa ông, có phải Thiên Chúa đã là người cai quản cái thế giới này trước khi ông được sinh ra không ạ?"
"Đúng như thế!" Ông chủ đáp.
Nguời đầy tớ lại hỏi tiếp, "Thưa ông, có phải chính Thiên Chúa sẽ tiếp tục cai quản thế giới này sau khi ông qua đi không ạ?"
Ông chủ lại trả lời, "Đúng như thế!"
Người đầy tớ hỏi lại, "Như vậy không lẽ không thể để cho Thiên Chúa cai quản cái thế giới này trong khi ông đang sống hay sao?" (Vaswani, "The Good You Do Return", 58).
Thánh Matthêu liệt kê thứ tự lời của Đức Giêsu trong bài phúc âm:
Ngợi khen Thiên Chúa Cha (25-26).
Nhận diện danh tánh cuả Đức Giêsu (27).
Lời kêu mời đến với Đức Giêsu (28-30).
Ngợi Khen Thiên Chúa Cha
Bắt đầu bằng công thức cầu nguyện theo truyền thống của Do Thái giáo, Đức Giêsu ca ngợi Thiên Chúa Cha vì Ngài đã không tỏ lộ chân lý cho những nguời thông thái học cao hiểu rộng, nhưng cho những kẻ bé mọn, đơn sơ. Chính những nguời bình dân, bé mọn, đơn sơ, thiếu học thức lại là những nguời đã theo Đức Giêsu ngày này qua ngày khác để nghe những lời giảng dạy của Ngài. Họ đã nhận biết Đức Giêsu là ai để rồi đặt niềm tin tuởng nơi Ngài. Còn những nguời thông thái như Pharisiêu và các luật sỹ thì lại ngày đêm lo lắng bày mưu tìm kế bắt bẻ Đức Giêsu và tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn phạm thượng. Họ đã dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian, và kết qủa là không biết Đức Giêsu là ai. Nguời đầy tớ đơn sơ và khiêm tốn trong câu truyện trên đây đã dạy cho ông chủ của anh một bài học thật đáng gía giống như tinh thần của lời Chúa. Sự giầu sang, quyền qúy khôn ngoan ở đời này không thể dạy và đưa chúng ta đến với Thiên Chúa.
Nhận diện Danh Tánh Đức Giêsu
Nhiều nguời thời nay cũng không khác gì những nguời trong thời của Đức Giêsu. Trong các giáo xứ chúng ta thâý không thiếu bóng dáng những ngừời giáo dân đơn sơ chân thành qùy gối tôn thờ trưóc Thánh Thể hoặc mân mê chuỗi mân côi lâm râm cầu kinh trưóc toà Đức Mẹ với tấm lòng thành kính tin yêu. Trong khi đó chúng ta cũng không thiếu những nguời dành thời giờ đọc sách, đọc báo và tìm những lý lẽ để bắt bẻ đạo lý của Giáo Hội. Có những nguời đã cho mình là khôn ngoan hiểu biết, bận rộn trích dẫn kinh thánh cách sai lạc, thâu băng, viết thư để bài bác bôi nhọ những lời giảng dạy của các linh mục. Họ đã quên không dành thời giờ để tạo cho mình một lối sống gần gũi với Thiên Chúa và tha nhân. Gần đây nhất, là trong khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II và các Hồng Y Hoa Kỳ hội họp để tìm ra giải pháp đối phó với vấn đề tội phạm lạm dụng tình dục đối với trẻ vị thành niên của một số linh mục theo tinh thần của Lời Chúa, thì thay vì xây dựng thêm, nhiều nguời lại tìm mọi lý lẽ để bài bác, phê bình chỉ trích tinh thần phục vụ cuả các vị lãnh đạo trong Giáo Hội Công Giáo. Họ cho rằng các ngài tiếp tục bưng bít và bao che sự xấu xa. Nhiều nguời đã về hùa với báo chí để mạnh lời chỉ trích hàng linh mục và coi như lối sống độc thân của hàng linh mục Công Giáo là lỗi thời. Nhiều nguời đã hiểu lầm cho là tại vì Giáo Hội đòi buộc các linh mục sống độc thân cho nên mới gây nên những tội trạng xúc phạm tới trẻ em như thế. Nguời ta đã không hiểu được lời của Đức Giêsu, "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. Qủa vậy, có những nguời không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những nguời không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những nguời tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu" (Mt 19:11-12). Nguời ta đã quên đi tinh thần tha thứ, nhân từ và thương yêu để rồi nặng lời chỉ trích Giáo Hội và không còn tình thương xót khi lên án những nguời đã phạm tội. Nguời ta đã không hiểu rằng Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi nguời công chính, nhưng là để kêu gọi những nguời tội lỗi biết ăn năn xám hối. Ngài đến để cứu chữa những nguời yếu đau bệnh tật. Cũng chính vì tinh thần của Đức Giêsu mà nhiều nguời trẻ thay vì muốn tiến thân làm giầu ở xã hội, đã dấn thân dâng hiến đời mình trong đời sống tu trì để phục vụ tha nhân, chăm lo cho những nguời yếu đau bệnh tật, và thăm hỏi những tội phạm trong các nhà giam. Lời cuả Đức Giêsu hôm nay lại là một thách đố cho chúng ta luợng định xem mình thuộc hạng nguời nào? Khôn ngoan thông thái, hay khiêm nhường bé mọn? Thực sự hiểu lời Chúa hay không hiểu lời Chúa? Biết Thiên Chúa hay không biết Thiên Chúa?
Đến Với Đức Giêsu
Để hiểu đưọc lời Chúa và biết Thiên Chúa, phuơng tiện duy nhất là đến với Đức Giêsu. Không ai biết đưọc Thiên Chúa Cha trừ ra Đức Giêsu, và những nguời được Đức Giêsu chỉ dạy cho. Báo chí và các nhà bình luận muốn nói gì thì nói, nhưng chúng ta chỉ có thể hiểu biết Thiên Chúa qua Tin Mừng của Đức Giêsu và các lời giảng dạy, giáo huấn của Giáo Hội mà thôi. Thêm nữa có thể vì nghe biết về tội lỗi của một số linh mục và cả giám mục xẩy ra trong Giáo Hội làm cho chúng ta phần nào cảm thấy mệt mỏi, buồn nản và chán chường. Đây cũng là lý do và là thời điểm để chúng ta lắng nghe lời mời gọi của Đức Giêsu, "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các nguơi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhưòng trong lòng, và tâm hồn các nguơi sẽ gặp được bình an" (Mt 11:28-30). Ách của Đức Giêsu là ách của tinh thần hiền lành và khiêm tốn, chứ không phải ách của tôị lỗi, của thù hận, của nguyền rủa và lên án.
26. "Hãy học cùng Ta..." – PM. Cao Huy Hoàng
Cuối mỗi cấp, học sinh hoặc sinh viên phải thi lấy bằng tốt nghiệp ra trường, gọi là tốt nghiệp trung học, tốt nghiệp đại học. Không biết có ai đã dùng từ tốt nghiệp cho những người học Giáo Lý, Giáo Lý Dự Tòng, Giáo Lý Hôn Nhân không, nhưng hình như mới đây, hai từ “tốt nghiệp” cũng dành cho những Đại Chủng Sinh hoàn tất chương trình Đào Tạo Linh Mục tại các Đại Chủng Viện.
Thiết tưởng, ấy cũng chỉ là chuyện từ ngữ theo cách của xã hội mà thôi.
Điều quan trọng ở chỗ: học không phải chỉ để tốt nghiệp, càng không phải để lấy bằng tốt nghiệp, nhưng là để có một cuộc biển đổi nên người trưởng thành. Học sinh nên người trưởng thành là có ý thức và trách nhiệm về tư tưởng, lời nói việc làm của mình. Cũng vậy, người học Giáo Lý nên người trưởng thành, ấy là có ý thức chuẩn xác về ơn gọi được làm con cái Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và có trách nhiệm sống cho ra người con của Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến chữ “học”: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.
Trong Tin Mừng, tất cả những câu mệnh lệnh của Chúa Giêsu đều nói đến việc “làm”, như: “Hãy tin”, “hãy từ bỏ”, “hãy cầu nguyện”, “hãy tha thứ”, “hãy yêu nhau”... “Đừng thù oán”, “đừng lên án”… Và chỉ có một câu duy nhất này, Chúa bảo “hãy học”.
Như vậy, hẳn là môn học mà Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy học, ấy là môn học quan trọng lắm. Đã vậy Chúa lại bảo “hãy học cùng Ta”, không học ở nơi thầy nào khác, cho thấy rằng chỉ có Chúa Giêsu mới xứng đáng là thầy dạy môn học nầy. Môn học đó là “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.
Hãy học cùng Chúa Giêsu, vì Chúa hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Quả thật, chỉ có Chúa Giêsu mới là người hiền lành kiểu mẫu, hiền lành đến mức chấp nhận thương tích mà không đánh trả, hay báo thù; hiền lành vì yêu và yêu cả người phản bội, sỉ nhục, thóa mạ hay hành hung tàn nhẫn… đúng như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Người hiến thân vì Người tình nguyện và không mở miệng như con chiên hiền lành bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, Người thinh lặng chẳng hé môi” (Is 53, 7). Và Thánh Vịnh 30 mô tả chân dung của Chúa Giêsu: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa” (Tv 30).
Sự hiền lành ấy còn mang nét đẹp trung tín đến ngàn đời, không có gì thay đổi được bản tính “hiền lành, hay thương xót” của Thiên Chúa Cha, phản chiếu nơi Chúa Giêsu, Người Con chí ái. Ấy vậy, Ngôn Sứ Giêrêmia nói: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi” (Gr 11, 19).
Chỉ có Chúa Giêsu mới là người khiêm tốn, như Ngôn Sứ Dacaria ca tụng: “Này vua ngươi đến với ngươi. Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ” (Dcr 9, 9).
Và Thánh Tông Đồ Phaolô còn khẳng định lòng khiêm nhượng của Chúa Giêsu sâu thẳm đến mức không giữ cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng lại khiêm hạ vâng phục Thiên Chúa Cha mọi đàng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)
Bài học “hiền lành và khiêm nhượng” của Chúa Giêsu quả là một bài học khó nuốt, vì có vẻ như bài học ấy muốn dẫn học viên đến cái chết vì yêu, như Ngài đã chết vì yêu vậy. Hơn nữa, lại không thấy Chúa nói gì đến lễ tốt nghiệp, hay được vinh quang gì khi tốt nghiệp.
Thực ra, Chúa đã nói đến lễ tốt nghiệp ấy rồi: “và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.
Chúa muốn chúng ta được bình an trong cuộc đời. Bình an có một giá trị lớn lao trong đời sống con người, vì khi có bình an hồn xác, ta mới có được hạnh phúc. Bình an là kết quả của lòng hiền lành khiêm nhượng, vì Chúa biết khi không có lòng hiền lành và khiêm nhượng thì chỉ chuốc lấy đau khổ, khó nhọc và gánh nặng.
Vì muốn chúng ta được bình an, Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta đến và học cùng Ngài: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Nhìn lại cuộc sống chúng ta, quả là đang khó nhọc và gánh nặng.
Khó nhọc, gánh nặng là vì chưa khiêm nhượng trong lòng đủ để có thể ký thác đường đời cho Chúa, lại ảo tưởng với trí tuệ, khả năng, sự khôn khéo của mình có thể giải quyết mọi vấn đề để mang lại cho mình bình an hạnh phúc.
Khó nhọc và gánh nặng là vì không đủ hiền lành nhẫn nhịn chấp nhận sự thua kém, lại nông nổi lao mình vào chỗ tranh chấp hơn thua để chuốc lấy cái mất bình an cứ dày vò, đày đọa tâm hồn.
Khó nhọc và gánh nặng cho nhau trong cuộc đời, là vì không đủ hiền lành và khiêm tốn nhìn nhận mỗi sự hiện diện của người bạn đời, của tha nhân, kể cả của người nghèo hèn thấp kém, mất tư cách, mất phẩm hạnh… đều có thể mang lại cho ta một hồng ân quí giá của Thiên Chúa.
Khó nhọc và gánh nặng vì lòng tự phụ, vì tính chủ quan của người lớn hoặc tự cho mình là lớn, hoặc chỉ thích “chức” quyền, mà không chấp nhận thi hành nhiệm “vụ”, chắc chắn sẽ có lúc vấp ngã trên đường đời, để lộ chân tướng dối trá của lòng mình ra cho thiên hạ đàm tiếu.
Khó nhọc và gánh nặng là vì mình đành lòng chấp nhận làm nô lệ cho những đam mê xác thịt hay hư nát này: hư danh, lạc thú, giàu sang, hưởng thụ…dẫn đến sự suy sụp tinh thần, kiệt quệ sức lực, mất cả ý chí nghị lực trong cuộc đời.
Thánh Phaolô khuyến cáo: “Chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động xấu xa của thân xác, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8, 11 – 13).
Vâng, chính những món nợ xác thịt làm cho chúng ta ra khó nhọc và gánh nặng, ra đau khổ và mất bình an. Món nợ hư danh, món nợ nhục dục, món nợ của cải phù vân, món nợ hưởng thụ. Như tâm sự của một tác giả:
...Tôi đã vay của trần gian,
mấy ngàn mảnh hữu danh vô thực
Tôi đã mượn của thân xác phù vân,
những thoáng mơ màng hạnh phúc
Tôi phải trả cho người,
bằng sự nô lệ cả đời tôi
Tôi phải trả cho phù vân,
bằng sự chết nghìn thu tan tác.
Có còn được nghe niềm bình an ca hát
Nơi vực thẳm lòng kiêu ngạo của tôi?
Ôi! Đức Khiêm Hạ trên cao vời
Hãy nhỏ xuống lòng tôi,
mấy giọt ân tình lòng thứ tha, thương xót
một kiếp đời không chịu học Chúa Giêsu.
(Tuyết Mai Texas)
Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta sống “hiền lành và khiêm nhượng” theo gương Ngài, không phải để chúng ta phải chết, nhưng là để chúng ta được vinh dự chết cái tôi kiêu hãnh, cái tôi mặt dày mặt dạn của mình, cái tôi khó từ bỏ của mình để sống cho người khác được sống; để chúng ta cất được những khó nhọc, những gánh nặng do làm nô lệ tính xác thịt của mình; và cuối cùng, là để tâm hồn chúng ta được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng trong lòng, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, tin tưởng Chúa và học cùng Chúa sự hiền lành khiêm nhượng, để chúng con được thanh thản, bình an, hạnh phúc trong Chúa luôn. Amen.
27. Suy niệm của Lm. Trần Ngà
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học rất quý báu. Xét về mặt tâm linh hay tu đức thì đây là một bài học có tác dụng giúp ta có những phẩm chất đạo đức đáng quý; xét về mặt đối nhân xử thế thì bài học nầy cống hiến cho ta bí quyết thu phục nhân tâm.
Bài học nầy được Chúa Giêsu rút ra từ kinh nghiệm cuộc sống của Ngài và truyền dạy lại cho chúng ta, đó là:
"Hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng."
Người dịu hiền khiêm nhường là người nhận ra thân phận mình vốn thấp hèn yếu đuối nên biết hạ mình xuống thấp.
Nước lúc nào cũng chảy về chỗ trũng; cũng thế, tình thương và ân sủng của Thiên Chúa cùng với tình thương và lòng quý mến của mọi người thường tuôn về với những người có đức tính dịu hiền và khiêm nhượng.
Vậy ai học được tâm tình dịu hiền và khiêm nhượng như Chúa Giêsu, người ấy sẽ được đón nhận tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa cũng như của mọi người chung quanh. Ay là người thành đạt nhất, hạnh phúc nhất.
Tôi xin mượn lại hai câu chuyện sau đây để làm sáng tỏ chân lý nầy.
Chuyện ngụ ngôn của Esop: gió và mặt trời.
Ngày nọ, thần gió gặp thần Mặt Trời và hai bên muốn so tài hơn thua. Mặt trời nói với gió:
- Ai trong chúng ta lột được áo choàng của người bộ hành đang đi kia được là người chiến thắng.
Gió chấp nhận ngay cuộc so tài và đòi ra tay trước. Nó thổi tới tấp, cát bụi tung bay mịt mù, nhưng càng thổi mạnh bao nhiêu thì người bộ hành càng ghì chặt chiếc áo choàng của mình bấy nhiêu. Cuối cùng gió kiệt sức và nhường lại cho Mặt Trời thi thố tài năng.
Mặt trời từ từ chiếu dọi ánh sáng của nó xuống, cách nhẹ nhàng nhưng tạo nên sức nóng hầm hập, khiến người bộ hành không chịu nổi hơi nóng đành phải cởi áo khoác ra.
Thế là mặc dù Gió hung bạo mạnh mẽ nhưng đành thua cuộc; còn Mặt Trời dùng đường lối êm dịu nhẹ nhàng mà dành được chiến thắng.
Đó mới là chuyện ngụ ngôn tây phương, có tính cách sáng tạo để răn đời, còn đây mới là chuyện thực, vào đời chiến quốc bên Trung quốc.
Liêm Pha và Lạn Tương Như
Vua Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có công hơn mà lại đứng dưới nên tức giận, hăm hễ gặp mặt Lạn Tương Như là giết.
Tương Như nghe nói thế thì tìm cách lánh mặt Liêm Pha mãi.
Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra.
Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn họp nhau hỏi Tương Như:
"Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên yêu mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm tướng quân doạ ngài, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thể vậy? Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi, không ở nữa."
Tương Như nói: "Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn được vua Tần không?"
Bọn xa nhân thưa: "Không".
Tương Như nói: "Lấy như cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, Tương Như nầy một mình dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất thừa cơ đánh Trịêu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ vậy thôi".
Bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: "Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao độ nổi đại chí của tướng công".
Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: "Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm", bèn trần vai áo đến trước cửa Tương Như tạ tội: "Tính tôi thô bạo, đội ân tương quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!"
Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết bạn sống chết có nhau.
(Trích lại của Thu Giang Nguyễn Duy Cần, trong cuốn: ‘Thuật xử thế của người xưa’)
Thế là bằng đường lối nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn Liêm Pha.
Đúng như Pascal nhận xét: "Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi biết quỳ gối xuống...."
Người tự cao tự đại cho mình là giỏi, cho mình là đúng, không cần học ai, nên không bao giờ giỏi, không bao giờ thành công trên đường đời; trái lại chỉ thu tích thêm căm ghét của người khác.
Người khiêm tốn là người thấy được mình còn nhiều mặt yếu kém, nên sẵn sàng nghe người khác chỉ giáo cho và nhờ đó sẽ trở thành người khôn ngoan và giành được thắng lợi.
Nhưng nói cho cùng, cái thắng lợi lớn nhất đời người là được mọi người chung quanh yêu thương quý mến và chỉ có những ai có tâm hồn dịu hiền khiêm nhượng mới đón nhận được diễm phúc nầy.
28. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU
Nhiều người cho rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù... Nhưng suy nghĩ như thế là thiển cận và sai lầm.
Lịch sử loài người cho thấy những bạo chúa hung tàn bậc nhất như Nê-rô thời xưa, Hitler, Polpot thời nay hay bất kỳ một thế lực bạo tàn nào… tuy họ nắm được quyền lực trong tay và dùng bạo lực cường quyền để uy hiếp người khác, nhưng rốt cuộc, họ đều bị hạ bệ, bị người đời lên án và chuốc lấy thất bại não nề.
Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King và nhiều hiền nhân khác đã biết dùng sự hiền hậu, dịu dàng để chiến thắng sự hung bạo một cách hiệu quả và vẻ vang. Nhân loại qua bao thời vẫn nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng “nhu để thắng cương”, biết “dụng nhược để thắng cường” (Lão Tử).
Thế nên, mặc dù Chúa Giêsu có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Ngài kêu gọi mọi người nên học với Ngài là đức tính hiền hậu và khiêm nhường. Qua Tin mừng Mát-thêu chương 11 câu 29, Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp” (Mt 5, 4).
Hiền hậu là lợi khí của người khôn
Trong vườn Dầu, khi Phê-rô tuốt gươm ra để bảo vệ Chúa trước đám đông binh lính xông đến bắt Ngài, Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy xỏ gươm vào bao. Ai dùng gươm sẽ phải chết vì gươm.” (Mt 26,52)
Bạo lực không là giải pháp khôn ngoan, nên người khôn không bao giờ dùng bạo lực để kháng cự bạo lực, không dùng hận thù để trả đũa hận thù, nhưng biết dùng tính khiêm nhường hiền hậu để ứng xử với mọi người, ngay cả khi bị người khác đối xử tàn ác, thô bạo với mình.
Khi búa tạ tấn công vào đá; đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Đá thất bại hoàn toàn.
Khi búa tấn công nước; nước sẽ dùng sự mềm mại dịu hiền của mình để đối lại. Bằng cách nầy, nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn! Thế là nước thắng lớn, búa thua to.
Khi búa hung hăng đập vào tường; bức tường sẽ dùng sự cứng rắn của mình chống lại sự thô bạo của búa; thế là bức tường cao sẽ bị sập xuống. Tường thất bại.
Thế nhưng, khi búa đập vào bức màn; tấm màn sẽ dùng sự dịu dàng của mình né tránh sự thô bạo của búa. Màn bình yên vô sự, còn búa sẽ bị mất thăng bằng và bị lao vào khoảng không. Thế là màn chiến thắng.
Như thế, với tấm lòng hiền hậu, khiêm nhường, dịu dàng, mềm mại… người ta có thể thắng được sự thô bạo, hung hăng của người khác.
Ngoài ra, với đức tính khiêm nhường hiền hậu, người ta không chỉ thắng được những lực đối kháng bên ngoài mà còn chinh phục được lòng người. Như nước luôn luôn chảy về chỗ trũng, thì lòng yêu thương quý mến của nhiều người khác cũng dồn về cho những người có tâm hồn hiền hậu, khiêm nhường.
Gương hiền hậu, khiêm nhường của Chúa Giêsu
Trong cuộc khổ nạn, tấm gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa đã được nêu cao: Mặc dù là Thiên Chúa quyền năng cao cả, là Con Một của Thiên Chúa Cha, Ngài đã chấp nhận cho người đời hèn mọn nhạo cười, phỉ báng, lăng nhục, khạc nhổ vào mặt, đánh đập tơi bời, lại còn chịu vác thập giá, chịu đóng đinh và chết ô nhục trên thập giá… mà vẫn không oán hờn hay kháng cự; hơn nữa, còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ cho mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Khiêm nhường và hiền hậu là tính cách nổi bật nhất nơi con người và cuộc đời của Chúa.
Khiêm nhường và hiền hậu là nhân đức được toả sáng trong cuộc thương khó của Ngài.
Khiêm nhường và hiền hậu là một trong những bài học quan trọng nhất mà Chúa kêu mời chúng con phải học với Chúa từng ngày.
Lẽ nào chúng con là những môn đệ đã chọn Chúa làm Thầy và là mẫu mực cho mình, lại gạt bỏ ra khỏi tâm hồn mình bài học quý báu nầy sao!
Xin cho chúng con luôn noi gương bắt chước Chúa để sống khiêm nhường hiền hậu như Chúa đã nêu gương.
29. Hãy cầm lấy và đọc!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy về đời sống đức tin và siêu nhiên mà còn dạy cách sống nhân bản. Những ai học theo giáo huấn của Người sẽ trở thành con người sống dễ thương, dễ mến và do đó sẽ thành công trong cuộc đời.
Sứ điệp Chúa Giêsu gởi đến Chúa nhật hôm nay là: “Anh em hãy học với Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29).
- Hiền lành là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, không cứng cỏi. Hiền lành là nhân đức bao gồm tâm thế bên trong và phản ứng bên ngoài. Tâm thế bên trong luôn êm ái, hoà nhã, nghĩ tốt về người khác, yêu thương, khoan dung, thông cảm; phản ứng bên ngoài luôn nhẹ nhàng, tôn trọng.
- Khiêm tốn là chấp nhận đứng thấp, ở dưới như Gioan Tẩy Giả khiêm tốn “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”.
Chúa Giêsu hiền lành, dễ thương trong lòng. Người luôn yêu thương người khác. Đặc biệt là những người bé mọn. Người luôn muốn và làm điều tốt cho mọi người. Người không lên án, không thành kiến với những người mà xã hội coi là xấu xa, tội lỗi. Lời nói và hành động của Người luôn toả ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Người không nặng lời, không kết án, Người sống bằng tình thương. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với người phụ nữ mà còn dễ thương đối với những người đã tố cáo chị ta. Những người này tự cho mình là công chính. Chúa Giêsu không la, không quát, không hét, không hò, Người chỉ thinh lặng cúi xuống hiền từ dùng ngón tay viết lên cát. Bị hỏi mãi Chúa mới trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước đi”. Họ rút lui bắt đầu từ những người lớn tuổi. “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa” (x.Ga 8,1-11).
Chúa Giêsu dạy chúng ta sống hiền lành, dễ thương. Người khuyên chúng ta bắt chước người mục tử trong dụ ngôn “Con chiên lạc” (Lc 15, 4-7). Người mục tử không hề đánh đập, giận dữ, quát tháo, hay kéo lê con chiên lạc về mà lại tử tế đặt nó lên vai mình, vác về đàn. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” (Lc 15,11-32). Người cha không mắng chửi đứa con đầy lầm lỗi trở về, cũng không cãi cọ, không xua đuổi mà lại ôm hôn và dọn tiệc ăn mừng. Chúng ta có thể kể rất nhiều ví dụ trong Phúc âm về sự hiền lành, dễ thương của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Người không ngừng đi xuống. Từ trời cao, Người đã hạ mình xuống trần thế. Từ thân phận là Thiên Chúa, Người đã hạ mình xuống làm một người lao động bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là Đấng thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tôi đòi. Là Đấng Hằng Sống, Người đã tự nguyện chết khổ đau. Suốt cuộc đời, Người không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại, Thiên Chúa rửa chân cho con người. Ôi lạ lùng thay! sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa. Trong khi con người kiêu ngạo, muốn vươn lên làm Chúa thì Thiên Chúa lại hạ mình xuống làm người. Trong khi con người thấp hèn, muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác thì Thiên Chúa cao cả lại hạ mình xuống nâng con người lên. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát mà trái lại là dũng mãnh cam đảm, hạ mình để phục vụ. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, nhưng trái lại là một cử chỉ đầy tình yêu. Hạ mình là con đường của Thiên Chúa. Khiêm tốn là khuôn mặt của Thiên Chúa. (ĐTGM Ngô Quang Kiệt).Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống nên những ai kiêu căng, tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường, nhỏ bé mới gặp được Người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp lòng Cha” (Mt 11,25-26).
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: Hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng. (Mt 11,29).
Vậy hãy ghi danh vào học trường Giêsu. Hãy học bài học hiền lành, dễ thương, không những chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ rũ sạch mọi vất vả, âu lo và chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an cho tâm hồn (Mt 11,28). Hãy học bài học Giêsu, hãy học với Thầy Giêsu.
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông thả theo những đòi hỏi của xác thịt, kết quả là một cuộc sống tội lỗi. Thế rồi một hôm, trong lúc tâm hồn đang trống rỗng, vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng nói từ đâu đó vang lên: “Tolle et lege” (hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một cuốn Kinh Thánh, Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Đừng sống theo xác thịt nữa, mà hãy sống theo Thánh Thần”. Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và hãm mình của mẹ Ngài là thánh Monica, nhưng chính câu Thánh kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Thánh nhân. Trở nên một giáo phụ, một triết gia, một thần học gia, một vị thánh lỗi lạc, rất mực thánh thiện của Giáo hội, Augustinô nhờ việc học hỏi về Chúa Giêsu qua Thánh kinh.
Chúng ta cũng hãy học với Thầy Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời Chúa để Lời Chúa biến đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy học hỏi Tin mừng và hãy để Tin Mừng soi sáng lòng trí của mình. Hãy múc lấy sức mạnh từ ân sủng của Bí tích Hoà Giải và Bí tích Thánh Thể. Hãy siêng năng Chầu Thánh Thể. Đó là sứ điệp Lời Chúa gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật này.
Học với Thầy Giêsu suốt đời, lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ, đó là điều cần thiết để mỗi người được Thầy Giêsu mạc khải và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
30. Gạn sạch tâm hồn – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Bấy giờ, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.”
Thoạt nghe câu nói trên, có người tưởng rằng Thiên Chúa phân biệt đối xử, bạc đãi những người khôn ngoan thông thái và ưu ái những người bé mọn.
Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, của người giàu cũng như kẻ nghèo, của người khôn cũng như kẻ dại… Mọi người đều được yêu thương và đối xử như nhau. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại che giấu “kho tàng” của Ngài đối với những bậc khôn ngoan thông thái mà lại mạc khải cho những người bé mọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa đối xử bất công với con cái Ngài sao?
Chắc chắn Thiên Chúa không thiên vị ai, nhưng sở dĩ có người được nhận nhiều hồng phúc của Chúa, kẻ khác không được gì, là do con người chứ không phải do Thiên Chúa.
Hai hình ảnh sau đây giúp ta hiểu rõ điều này:
Hình ảnh thứ nhất:
Có hai chiếc ly được đặt cạnh nhau, ly lớn chứa đầy cát còn ly nhỏ thì rỗng không. Nếu ta muốn rót sữa hay một thức uống bổ dưỡng cho đầy hai chiếc ly đó thì chỉ có chiếc ly nhỏ nhận được đầy tràn chất dinh dưỡng, còn chiếc ly lớn thì chẳng được chút nào. Như thế, không phải vì người rót thiên vị, nhưng là vì chiếc ly lớn đã đầy cát thì không thể đón nhận thêm bất cứ thứ gì.
Những người tự cao tự đại, tự cho mình khôn ngoan thông thái, học rộng tài cao… lẽ ra phải nhận được nhiều điều khôn ngoan của Thiên Chúa, thế nhưng, vì tâm hồn họ tràn đầy kiêu căng tự phụ, giống như những chiếc ly đầy cát, nên Thiên Chúa không thể rót gì thêm vào tâm trí họ được.
Trong khi đó, tâm hồn những người bé mọn, khiêm nhu, chất phác… giống như những chiếc ly rỗng, sẵn sàng đón nhận thiên ân, nên được Thiên Chúa đong đầy.
Hình ảnh thứ hai:
Một ao nước có đầy dẫy rác rến cũng như rong rêu sinh trưởng dày đặc trong đó, khiến nước ao trở nên dơ bẩn, đen ngòm… nên không thể in bóng những cụm mây lướt qua bầu trời bên trên mặt nước.
Trái lại, một ao nước khác rất trong lành, không bị vẩn đục vì rác rưởi, không bị các thứ rong, tảo hoặc các loại bèo… xâm chiếm, chắc chắn sẽ in được cả những gợn mây rất mỏng, cả những cánh én nhỏ bé bay qua vòm trời và mỗi khi đêm về, có thể in bóng vô số vì sao trên bầu trời khuya.
Tương tự như thế, những tâm hồn bị vẩn đục bởi tính tự mãn tự kiêu, tự cho mình là khôn ngoan thông thái… thì không thể đón nhận chân lý do Thiên Chúa mặc khải được. Còn tâm hồn của người người đơn sơ khiêm tốn… như một hồ nước trong veo, sẽ dễ dàng đón nhận sự khôn ngoan đích thực do Thiên Chúa thông ban.
Hãy làm rỗng chiếc ly của mình
Vào thời Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật (1860-1912), có một vị thiền sư tên là Nan-in đón tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về thiền. Nan-in mang trà đãi khách. Ông rót trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm. Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách trà tràn ra cho đến khi không kìm mình được nữa nên thốt lên: “Thưa thầy, tách trà đầy quá rồi, xin đừng rót nữa.”
Vị thiền sư trả lời: “Thưa ngài, đầu óc của ngài cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng… làm sao tôi có thể bày tỏ thiền cho ngài được, trừ phi ngài làm cạn cái tách của ngài trước đã.”
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu tâm hồn chúng con như chiếc ly đầy cát, đó là tính kiêu căng tự phụ, tự cho mình khôn ngoan thông thái, thì xin giúp chúng con đổ hết thứ cát bẩn này ra, để được Chúa đong đầy ân phúc.
Nếu tâm hồn chúng con như ao nước đục ngầu vì bị ô nhiễm bởi nhiều loại rác rến như đam mê tội lỗi, ước vọng thấp hèn… thì xin giúp chúng con gạn sạch tâm hồn để hình bóng Chúa được in sâu.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con dứt khoát trút bỏ tất cả những gì làm cho tâm hồn trở nên hẹp hòi, khô cứng… để tâm hồn chúng con như chiếc ly rỗng, như tách trà không… nhờ đó, được Chúa rót đầy ân sủng và tình yêu.
31. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU
Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng (Mt 11, 29-30).
Người đời tưởng rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải tôn mình lên và hạ bệ người khác xuống, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù... Nhưng nghĩ như vậy là thiển cận và sai lầm.
Lịch sử loài người đã tỏ cho thấy cho dù những bạo chúa hung tàn nhất như Nê-rô hay Tần Thuỷ Hoàng chẳng hạn, cũng chỉ có thể dùng cường quyền và bạo lực để chiếm lấy ngai vàng trong một thời gian nhưng không thể chinh phục được lòng người. Những nhân vật nầy cũng chưa hề được xem là hùng mạnh, là anh dũng. Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King... Lịch sử nhân loại nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng sự hiền hoà, bất bạo động để chiến thắng bạo tàn, biết "dùng nhu để thắng cương, biết dụng nhược để thắng cường" (Lão Tử).
Thế nên, mặc dù Chúa Giêsu có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Người kêu gọi mọi người nên học nơi Người là đức tính hiền hậu và khiêm nhường. "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng." (Mt 11, 29) và "phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp" (Mt 5, 4)
Câu chuyện sau đây minh chứng cho thấy sự hiền lành khiêm nhu có thể chiến thắng hung hăng và thô bạo.
Thời chiến quốc, vua nước Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Tướng Liêm Pha cậy mình có công lớn hơn mà lại bị đặt dưới quyền Tương Như nên đâm ra căm tức, thề rằng nếu gặp mặt Lạn Tương Như là giết.
Tương Như nghe nói thế bèn tìm cách lánh mặt Liêm Pha hoài. Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha đi tới, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra tiếp tục hành trình.
Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn hỏi Tương Như: "Chúng tôi tưởng ngài là bậc đại trượng phu nên đem lòng quý trọng, từ bỏ nhà cửa, xa lìa thân thích để đến đây hầu ngài. Nay thấy ngài là tướng quốc, thứ hạng còn cao hơn Liêm tướng quân, lại để Liêm tướng quân doạ giết mà không đáp lại; ngài đã tránh mặt Liêm tướng quân ở triều đình, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ Liêm tướng quân quá vậy? Chúng tôi rất lấy làm xấu hổ, vậy chúng tôi xin rút lui, không theo hầu ngài nữa."
Tương Như nói: "Các ngươi xem Liêm tướng quân có oai phong, cao trọng bằng vua Tần không?" Bọn xa nhân thưa: "Không".
Tương Như nói: "Uy danh của vua Tần, thiên hạ đều kinh sợ không ai dám chống, vậy mà một mình Tương Như nầy dám mắng nhà vua giữa triều đình, lại dám làm nhục cả đám quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ sở dĩ Tần không dám đánh nước ta là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất sẽ thừa cơ tiến đánh nước ta. Sở dĩ ta chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ đó thôi".
Nghe vậy, bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: "Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao hiểu được đại chí của tướng công".
Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: "Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm", rồi trần vai áo đến trước cửa nhà Tương Như tạ tội: "Tính tôi thô bạo, đội ơn tướng quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!"
Tương Như đỡ Liêm Pha dậy, hai người nắm tay nhau khóc và thề nguyền kết bạn suốt đời sống chết có nhau.
(Trích "Thuật xử thế của người xưa" của Thu Giang Nguyễn Duy Cần).
Thế là bằng đường lối nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn của Liêm Pha. Đúng như Pascal nhận xét: "Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi hạ mình quỳ xuống."
Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả sự khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước luôn tỏ ra mềm mỏng, dịu dàng, tránh va chạm và xô xát. Cho dù nước có bị tấn công thô bạo, nước cũng không hề kháng cự bao giờ.
Khi người ta dùng búa tạ đập vào khối đá rắn chắc, đá dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Khi người ta dùng búa tạ giáng vào nước, nước dùng sự mềm mại dịu hiền của mình đối lại, thế là nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn!
Nước luôn luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao, nên nước luôn được bảo toàn.
Tuy mềm mại và luôn tìm chỗ thấp hèn như thế, nhưng nước lại có sức mạnh phi thường.
Khi có một đám cháy rừng bộc phát thiêu rụi hàng ngàn mẫu rừng nguyên sinh và trong khi bao nhiêu nỗ lực của con người với những phương tiện hiện đại nhất không tài nào dập tắt được, thì người ta chỉ còn biết cầu mưa! Khi mưa trút xuống hàng tỉ mét khối nước thì thần hỏa mới chịu bó tay và rừng xanh mới có thể phục hồi.
Nước tuy mềm mại dịu dàng nhưng có thể bào mòn đá cứng. Nước tuy không cánh nhưng có thể bay tới mây trời; nước không có mũi dùi mũi khoan nhưng có thể thấm nhập đến tầng sâu nhất trong lòng đất. Nước đi đến đâu thì đem lại sự sống dồi dào cho nơi đó.
Như thế, nước tuy thấp kém, mềm mỏng, dịu hiền nhưng lại có sức mạnh vô song.
Những minh hoạ trên đây giúp chúng ta xác tín hơn vào lời dạy đầy khôn ngoan của Chúa Giêsu được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay: "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng." (Mt 11, 29) và "phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp" (Mt 5, 4).
32. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
KHI CÁI ÁCH MANG TÊN TÌNH YÊU
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong những tuần lễ qua, cả hành tinh đang nóng lên cùng với quả bóng đang lăn trên các sân vận động tại quốc gia Brazil. Nước mắt và nụ cười, thành công hay thất bại, ở lại hay ra đi…tất cả đã làm nên một bức tranh tuyệt vời của cuộc sống, của xã hội, của kiếp người.
Có một điều không ai phủ nhận là, nét đặc trưng của kỳ world cup nầy chính là hình ảnh của bức tượng Chúa Cứu Thế, một biểu tượng của thành phố lớn Rio de janeiro, luôn thấp thoáng trên màn ảnh tv trong các chương trình world cup. Đó là chưa kể, trong mọi cuộc thi đấu bóng đá, hầu hết các cầu thủ của vùng Nam Mỹ, Trung Mỹ và một số các nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nhà, Croatia, Ý…mỗi khi ra sân hay rời sân, họ đều làm Dấu Thánh Giá, một cử chỉ, một biểu tượng của niềm tin vào Chúa Giêsu…
Mà không chỉ biểu tượng thôi đâu! Cả câu chuyện của Thánh Kinh cũng được nhắc đến. Chẳng hạn như trong trận Hà Lan gặp Costa Rica, một bình luận viên trên kênh VTV3 đã ví von rằng: đội Costa Rica như một chàng Đa-vít tí hon đang chiến đấu với gã khổng lồ Goliat Hòa Lan…
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chàng chăn chiên Đa-vít, con út của Giê-sê, thuộc dân Ít-ra-en chiến đấu tay đôi với đại tướng Goliat của dân Philitinh, và đã chiến thắng ngoạn mục chỉ với vài viên đá cuội và chiếc ná. Tuy nhiên, trước đó, khi đối diện với tên Goliat, Đa-vít đã mạnh mẽ và xác tín tuyên bố rằng: “Mầy mang gươm, mang giáo, cầm lao đến với tao. Còn tao, tao đến với mầy nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mầy thách thức…” (1 Sm 17,45).
Có lẽ đây là mô hình mẫu cho mọi cuộc chiến đấu của niềm tin mà Thiên Chúa đã vạch ra trên suốt chiều dài của lịch sử cứu độ. Ngài đã sử dụng những con người, những phương tiện xem ra bé nhỏ, giản đơn, nghèo hèn, để chiến thắng những đầu óc ngông cuồng, những trái tim kiêu căng hợm hĩnh. Một Môsê bé bỏng trôi nổi bồng bềnh trong cái thúng đã vươn lên chiến thắng Pharaô kiêu hùng…; một Juđitha liễu yếu đào tơ đã chặt đầu đại tướng Hôlôphecnê (Gđt 13, 1-17), một Esther hoàng hậu cùng với dân tộc Ít-ra-en đứng bên bờ vực thẳm của sự tiêu diệt, đã quật ngược thế cờ (Et 7, 1-10)… Và đến thời Tân ước, lại những chuyện lạ lụng, vĩ đại vẫn cứ được ký thác nơi những thân phận bé nhỏ nghèo hèn: Đức Maria, Thánh Giuse, các anh dân chài chất phác, thất học bên bờ hồ Gailiê, cô gái làng chơi Maria Mađalêna…Vâng, chính những con người bé mọn ấy, những thân phận khiêm tốn ấy đã làm cho công trình cứu độ vĩ đại của Thiên Chúa từng bước hiện thực trong lịch sử trần gian, đã mang Tin Mừng Cứu Độ giải sáng khắp thế giới.
Và trên hết, như cách diễn tả của sứ ngôn Gia-ca-ri-a trong Bài đọc 1 hôm nay, Đấng Cứu Thế là “Đấng chính trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ…”. Nhưng lại là Đấng “quét sạch chiến xa khỏi Ep-ra-im và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem…”. Đó chính là hình ảnh tiên trưng về Chúa Giêsu, Đấng đã tiến vào Giê-ru-sa-lem cũng trong cung cách hiền lành như thế để hoàn tất sứ mệnh cứu thế bằng cái chết tủi nhục thương đau trên thập giá, một sự hạ mình khiêm nhượng thẳm sâu, một sự hiền lành cho đến mức cuối cùng.
Chắc chắn, chính trong cái trực cảm sâu sắc và đầy xác tín nầy, Chúa Cứu Thế đã thốt lên lời nguyện tạ ơn sốt sắng với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn…”.
Và như thế, bài học đầu tiên, xuyên suốt và cuối cùng mà Đức Ki-tô đề nghị với chúng ta hôm nay vẫn là hoán cải để trở nên khiêm hạ, bé nhỏ: “hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường”.
Thế nhưng, đối với nhiều người, chấp nhận đi con đường của Đức Ki-tô, chấp nhận thực hành bài học khiêm nhường và hiền lành của Chúa Cứu Thế, con đường của Tám Mối Phước Thật…vẫn luôn là một cái “ách”, một “gánh nặng” mà họ không thể mang nổi, hay nếu có mang, thì cũng trầy trật, dở dang, chẳng đem lại ích lợi gì. Bằng chứng là đã có biết bao người đã ra đi khỏi mái nhà Hội Thánh, đã chọn những bước chân tự do của Giu-đa Is-ca-ri-ốt ra đi trong “bóng tối” với 30 đồng bạc phản bội, thay vì ở lại nơi Bàn Tiệc Lý với Thầy và anh em.
Cũng y chang như thế, ngày hôm nay, có biết bao đôi vợ chồng đã vất đi cái “ách của bí tích Hôn Phối” mà họ đã long trọng cử hành để được được tự do chạy theo những xúc cảm và đam mê của riêng mình; đối với họ đã “xưa rồi diễm ơi cái thứ hôn nhân một túp lều tranh hai trái tim vàng”, còn chăng chỉ là một “của nợ” phải thanh toán, một địa ngục phải thoát ra…. Biết bao bạn trẻ đã khức từ cái “gánh nặng của nhân đức khiết tịnh, trong sạch” để được tự do luyến ái trước hoặc ngoài hôn nhân; biết bao những người mẹ, ông cha sẵn sàng vất đi mạng sống của chính con mình vì sợ “gánh nặng phải đẻ đau, nuôi dạy hay những phiền phức khác cho hạnh phúc cá nhân…”…
Nói chung, vẫn còn biết bao người Ki-tô hữu vẫn xem các giá trị của Tin Mừng và bao lề luật khác của Chúa và Hội Thánh như một cái “ách khó chịu” chẳng cần phải giữ, và mọi cuộc dấn thân để phục vụ cho Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh như một “gánh nặng nề” chẳng đáng để dấn thân…Bởi vì trên đôi vai và cái cỗ của họ không bao giờ xuất hiện một bóng dáng tình yêu như trên vai và trên cỗ của người cha Lê Văn Hồng, đã cõng người con là Lê Xuân Bách suốt 18 năm[1], hay đã lâu rồi, như trên cuộc đời thủy chung, tha thiết của tình yêu nơi người chồng Trương Văn Chín và người vợ tật nguyền đi xe lăn Nguyễn Thị Phương[2]…
Và như thế, với sứ điệp lời Chúa được đề nghị hôm nay, chúng ta lại được dẫn tới một bài học thứ hai: để học được với Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng thì trước hết và trên hết, chúng ta phải đón nhận tất cả trong tình yêu, phải nhận ra cái “ách” và cái “gánh nặng” trên đôi vai cuộc đời chính là “tình yêu”.
Thế nhưng, muốn được như thế, Lời Chúa hôm nay lại đề nghị: phải cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Bởi vì, chỉ có những ai mang Thần Khí của Đức Ki-tô thì mới thuộc về Ngài và mới có cuộc sống mới để bước đi trên những nẻo đường của Ngài (Bđ 2). Nói cách khác, chính Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi con tim và cuộc sống để từ hôm nay, cái “ách” và “gánh nặng” của Tin Mừng, của Chúa Giêsu sẽ mang một tên mới, đó là “Tình Yêu”. Amen.
--------------------------------
[1] Ông Lê Văn Hồng cõng con là thí sinh Lê Xuân Bách, bị teo cơ, lên Hà Nội thi vào Đại học. Ông đã cõng con như thế suốt từ 18 năm nay, kể từ Lê Xuân bách lên 4 tuổi. bản tin của trang mang vnExpress đăng ngày 5/7/2014.
[2] Chị Nguyễn Thị Phương, người phụ nữ nằm liệt giường suốt 9 năm trời, và anh Trương Văn Chín, một người đàn ông khỏe mạnh bình thường, đã vì tình yêu cũng như tình thương sâu sắc mà hy sinh cuộc đời, chấp nhận làm chồng của chị mặc dầu chị bị tật nguyền.
33. Khiêm nhường
Nếu phải kể ra những điều chúng ta cần học hỏi nơi Chúa Giêsu, thì hẳn là nhiều lắm. Tuy nhiên, cái khó là phải bắt đầu từ đâu? May thay chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta bài học đầu tiên và cần thiết nhất, đó là lòng khiêm tốn, đức từ bi và nhân hậu. Chính Người đã nói: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Khi xây một căn nhà, thì trước hết chúng ta phải làm nền, phải xuống móng. Nền móng càng sâu, càng chắc thì ngôi nhà càng có thể xây lên cao. Nền móng đâu có phải được làm bằng những vật liệu quí giá và đẹp đẽ, nó chỉ là đá cát, đôi khi cả xà bần, gạch vụn được nện sâu và nện thật chắc. Nó là cái phải không phải để khoe khoang, nhưng luôn bị chôn vùi, bị che đậy và bị người ta chà đạp lên trên. Quả thế, khi chúng ta bước vào bên trong một tòa lâu đài, một hoàng cung hay một ngôi nhà tầm thường nào cũng vậy, chẳng ai để ý đến cái nền, chẳng ai thắc mắ xem nó được làm bằng gì, và chứa đựng những cái chi ở bên trong, nhưng chúng ta sẽ dẫm bước lên nó mà đi.
Con người xét về phương diện cá nhân cũng như tập thể, cũng là một công trình xây dựng, mà nền móng phải là lòng khiêm tốn. Không có nền móng này, không sớm thì muộn chúng ta cũng sẽ bị sụp đổ, bởi vì ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xống, thì sẽ được nâng lên. Hơn thế nữa, trong lời kinh Ngợi Khen, Mẹ Maria đã xác quyết: Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhau.
Lão Tử ngày xưa cũng đã nói: Giàu sang mà kiêu căng là tự rước lấy họa vào thân. Kẻ tự cao tự đại giống như kẻ nhón gót chân để cao hơn người, xoạc chân ra để lớn hơn người. Như vậy sẽ chẳng thể đứng vững và tiến bước. Trái lại bậc thánh nhân cho đến ngày cùng, vẫn không cho mình là lớn, nên mới thành được việc to.
Lịch sử cho chúng ta đầy rẫy những mẫu gương về những cá nhân cũng những tập thể, đặc biệt là những đế quốc hùng mạnh, nhưng kiêu căng, đã bị sụp đổ như thế nào. Những con người như Néron, Napoléon, Hitler…Nhưng đế quốc như Rôma, Mông Cổ…ngày xưa đã thảm bại ra sao, thì ai cũng đều biết. Sự tự cao tự đại thường đi đôi với lòng tạn bạo và bất nhân. Bởi vì kẻ kiêu căng thường bắt mọi người phải khuất phục mình, làm nô lệ cho mình và không ngần ngại dùng bạo lực để đàn áp, chế ngự và tiêu diệt những ai không chịu khuất phục.
Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Người đã dạy chúng ta: Ai muốn làm đầu, thì phải trở nên rốt hết và hầu hạ mọi người. Chính Người, trong suốt cả cuộc đời, đã sống khiêm nhu và trong giờ từ biệt các môn đệ, để ra đi chịu chết, Người đã không ngần ngại quì xuống rửa chân cho các ông, để nêu gương khiêm nhường, dồng thời kèm theo đó là bài học bác ái yêu thương, như lời Người đã phán: Con người đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Xưa nay trong Hội Thánh vãn có thói quen đề cao đức khiêm nhường. Nhưng đức khiêm nhường ấy thường được ghép đôi với sự vâng phục. Như vậy xem ra khiêm nhường chỉ là nhân đức của kẻ bề dưới. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã liên kết đức khiêm nhương với lòng bác ái và tinh thần phục vụ. Người coi đó là đức tính của người lãnh đạo, của bậc bề trên. Bởi vì chỉ kẻ khiêm nhường mới có khả năng yêu thương thực sự. Và chỉ kẻ yêu thương thực sự mới thích phục vụ người khác.
Như thế, khiêm nhương không phải là thái độ của kẻ hèn nhát, sẵn sàng chịu khuất phục, nhưng là đức tính của bậc anh hùng, của người đã làm chủ được bản thân mình.
34. Mạc khải cho kẻ bé mọn – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Bài Phúc Âm của Chúa nhật XIV Mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của thánh Matthêu, người ta gọi đoạn văn này là “Hạt Ngọc Quý Nhất” của Thánh Matthêu. Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta thấy ngay về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được thốt ra khi Chúa Giêsu nghe các Tông đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho Chúa các điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ mệnh cứu rỗi làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các mầu nhiệm Nước Trời.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được mạc khải này cho chính mình và cho các Tông đồ: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng…” Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây là những người Do thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của những biệt phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ thảnh thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải được ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.
Đoạn văn này rất súc tích tư tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận thấy chính những tư tưởng sau:
Trước hết là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài trên trời vì đã mạc khải những điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những kẻ thông thái và quân tử biết. Những nhà thông thái tự cao tự đại thường cho rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn những bậc quân tử thì lại tự mãn về lối sống của mình, tự cho mình là chân chính và không cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết rằng mình dốt nát trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn, và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần Chúa: “Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao và nâng người hèn mọn lên”.
Chúa Giêsu tự mạc khải Ngài: “Sự thực đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và cũng không ai biết Ta trừ ra Cha” (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu, Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha đã sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con mới biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng, ý nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho chúng ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng ta: “Mọi sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con muốn mạc khải cho”.
Một tư tưởng nữa của Phúc Âm hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại cho”.
Lời kêu gọi đầy lòng nhân hậu và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai mệt nhọc, Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài. Qua mọi thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng trĩu tội lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian”, (Ga 16,33) và “Ách Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng”, (Mt 11,30).
Chúng ta hết thảy đều phải mang gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những gánh nặng bên ngoài đè trên vai của mình. Như khốn nỗi, chính trong lãnh vực của tâem linh, thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng, các ham muốn của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và sức nặng nào đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta để chúng ta được đi theo Chúa một cách an vui.
Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”. (Mt 11, 29-30).
Vậy chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.
35. Gánh nặng của Chúa Giêsu
Chưa bao giờ Chúa Giêsu nói về Cha Ngài một cách long trọng như vậy: “Lạy Cha là Chúa trời đất”. Đây là một trong những lúc mãnh liệt nhất của Tin Mừng. Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài biết rõ vị Chúa tể trời đất đến nỗi chúng ta ngạc nhiên về những ánh sáng đầu tiên của mầu nhiệm khôn lường này: nơi Thiên Chuá duy nhất có những động thái tình yêu, những mối “quan hệ” mà chúng ta trình bày bằng những tiếng: Cha, Con và Thánh Thần. Tôi nghĩ rằng phải dành ra một lúc để chiêm ngắm và cảm tạ vì những ánh sáng đã không thể đến với chúng ta được: “Con chúc tụng Ngài, lạy Cha, Đấng mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Có lúc chúng ta nghĩ rằng chúng ta không là gì cả. Điều này không đúng. Thiên Chúa không yêu thương cái không là gì cả. Chúng ta là một cái gì đó và thậm chí vĩ đại bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Đến sống cuộc sống của chúng ta và biết rõ cuộc sống đó, nhất là cuộc sống của những người bé mọn, Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những ai mỏi mệt và gánh nặng”.
Gánh nặng nào? Gánh nặng của cuộc đời hết sức khó khăn và đôi khi người ta còn chất thêm luật lệ tôn giáo quá đáng hay được chỉ dẫn không đúng. Thế là người ta cảm thấy sợ hãi không thể tuân giữ các giới răn, không bao giờ có thể làm vui lòng Chúa. Điều đó lấy mất tự do nội tâm và niềm vui của chúng ta, tước mất Thiên Chúa khỏi chúng ta. Nếu Ngài là Đấng làm cuộc sống chúng ta nặng nề, thế thì Ngài đâu phải là Thiên Chúa Tình yêu?
Chúa Giêsu đã mạnh mẽ tố giác những kẻ làm gương xấu cho những người bé mọn: “Các luật sĩ và Pharisêu nói mà không làm: họ đặt những gánh nặng lên vai những người khác trong khi họ không muốn đụng ngón tay vào: (Mt 23,3-4).
Có lẽ chúng ta đã bị chấn thương do những kẻ ra sức làm cho chúng ta trở thành những người luôn luôn có mặc cảm tội lỗi. Thật rất khó mà thoát ra được một sự giáo dục vụng về. Tôi chỉ biết có mỗi một cách là không ngừng đến với Chúa Giêsu, chiêm ngắm Ngài, lắng nghe Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài là Đấng đã nói: “Ta, Ta có thể cho người nghỉ ngơi an bình cùng với Chúa”.
Đó không phải là một an bình với một Thiên Chúa giả hiệu là Đấng luôn luôn bằng lòng với chúng ta theo giá rẻ mạt, Chúa Giêsu nói: “Hãy mang lấy ách của Ta”. Đây thật là một cái ách bởi vì đây là một điều luật. Không ai có thể bỏ qua điều luật, và luật của Chúa Giêsu, tức luật tình yêu, cho dầu bó buộc nhất, vẫn là một sự đòi hỏi vô cùng. Nhưng đây là một sự nghịch lý được Chúa Giêsu khẳng định nếu không thì chúng ta khó mà chấp nhận: “Ách ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng”. Luật của Chúa Giêsu duy trì chúng ta trong sự cố gắng nhưng để cho chúng ta được an bình. Nếu một gánh nặng làm tê liệt chúng ta và làm cho chúng ta buồn khổ thì chắc hẳn đó không phải là gánh nặng của Chúa Giêsu.
36. Hiền lành và khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Lời Chúa hôm nay thật là phong phú, mỗi câu là một đề tài đáng suy nghĩ. Chúng ta chỉ tập trung suy niệm một câu thôi: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).
Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính căn bản và nền tảng mà mỗi người chúng ta phải có để làm người.
1. Người hiền lành (meek)
Vậy người hiền lành là ai? Trước hết người hiền lành là người có đức độ, lương thiện (good); có lòng thương người (helpful); người tỏ ra kiên nhẫn (patient), dễ tùng phục (submissive), tử tế và hòa nhã với người khác (kind). Người ở hiền thì sẽ có hậu: “Ở hiền gặp lành”, “Cha mẹ hiền lành thì để đức cho con” (ngạn ngữ Việt nam).
Trái nghịch với hiền lành là người độc ác, ích kỷ, nóng tính (nóng tính thì hỏng việc!); người thích mệnh lệnh, ưa “ăn trên ngồi trốc”; người “giận cá bằm thớt”; người hay gây lộn “thượng cảng chân hạ cẳng tay!”; người hay “bới lông tìm vết”; người hay nói xiên nói xỏ, nói móc nói me, gây chia rẽ trong gia đình, cộng đoàn, xã hội, vv và vv…!
2. Người khiêm nhường (humble)
Còn người khiêm nhường là ai? Người khiêm nhường là người biết mình, biết người, biết sự vật đúng như nó là; người không khoe khoang, không phô trương, dù có thành công (not proud or arrogant although successful); người biết tôn trọng người khác và nhường - nhận người khác hơn mình.
Ngược với khiêm tốn là người kiêu ngạo: người tự coi mình là hơn người, khoe khang, nói quá sự thật, hay “vơ đũa cả nắm”, kiểu “cả vú lấp miệng em!”, lúc nào cũng cho mình đúng còn người khác thì sai vv…!
3. Gương khiêm nhường
Đức Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy học cùng Người, hãy học trường Giêsu. Bởi nơi Người, chúng ta gặp một mẫu gương đích thực về sự hiền lành và khiêm nhường: Người là Thiên Chúa nhưng đã hạ mình mặc lấy thân phận tôi đòi (Phil 2,6), là vị Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, Người hiền lành như chiên con bị xén lông mà chẳng mở miệng (Is 53,5-7), và Người đã sống sự khiêm tốn tới tột cùng là cái chết nhục nhã trên thập giá. Nhưng sự hiền lành và khiêm tốn đó lại trở thành dũng lực, là sức mạnh của Tình Yêu và ơn cứu độ cho chúng ta. Người được Thiên Chúa tôn vinh với danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (Phil 2,9). Đúng là “ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên” (Lc 18,14)!
Khi nói về những vị thánh đã học được gương của Chúa Giêsu, ta nhớ tới câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII: Tên thật ngài Roncalli, trước khi làm giáo hoàng, ngài là khâm sứ ở Bungari và Thổ. Trong khi thi hành công vụ, ngài nhận được một bức thư của một linh mục chỉ trích ngài đủ mọi thứ. Ngài đọc thư và không nói gì. Sau đó ngài làm Hồng Y, rồi làm Giáo Hoàng (1958). Về sau vị linh mục đó cùng với giáo dân sang Rôma để yết kiến Đức Giáo Hoàng. Vị linh mục này kể lại buổi yết kiến này: trong khi đứng chờ, đầu óc của ngài cứ nghĩ tới bức thư đó và vừa hối hận vừa lo sợ. Thời gian lâu rồi chắc Đức Thánh Cha đã quên. Không ngờ tới liền, Đức Thánh Cha kéo lá thư trong cuốn sách kinh ra. Cha hoảng sợ, chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi? Nhưng Đức Giáo Hoàng ôn tồn nói: “Con đừng sợ, Cha cám ơn Con. Cha để lá thư trong sách để mỗi ngày đọc và xét mình. Hầu dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại và tránh những lầm lỡ có thể xảy ra trong tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
Các thánh thật hiền lành và khiêm tốn như Chúa Giêsu! Chúng ta chưa giống Chúa vì chúng ta chưa học và sống sự hiền lành và khiêm nhường Người. Nên hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy đến với Người và học nơi Người. Khi chúng ta học được sự hiền lành và khiêm nhường thì lòng chúng ta, gia đình và xã hội sẽ có bình an. Amen!
37. Ai là người mở mắt?
Ba chương 11, 12 và 13 của thánh Matthêu xoay chung quanh các chủ đề ‘dấu kín’ và ‘tỏ bày’. Chúa tỏ bày một giáo huấn và tự tỏ bày chính mình. Giáo huấn không phải là hoàn toàn mới lạ vì dân Do thái đã được Thiên Chúa dậy dỗ nhiều. Nhưng Đức Kitô mở những viễn ảnh mới cho những chân lý cũ và có được điều ấy là vì Ngài liên kết những chân lý ấy với con người của Ngài. Mục đích của Ngài là hướng dẫn các tâm trí khám ra bản tính con Thiên Chúa của Ngài. Vì vậy ở đây chân lý không phải là sự khám phá của trí khôn sau những cố gắng học hỏi cho bằng là một cuộc gặp gỡ của toàn thể con người đáp lại một sự sẵn sàng thâm sâu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài vì Chân Lý được tỏ ra như một cuộc gặp gỡ cho những ai có tâm trí không chất chứa và tấm lòng sẵn sàng đón nhận. Đáng lẽ những kẻ đầu tiên đón nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô của Thiên Chúa phải là các vị tiến sĩ luật pháp, vì Lề Luật và các tiên tri loan báo Đức Kitô. Rủi thay, cái học tinh thần quá họ chất chứa nặng nề những lý luận tinh tế, những ý niệm trí thức, những tranh luận diễn giải. Mọi thứ ấy sinh ra tri thức tự mãn và bởi nó sinh ra kiêu ngạo. Vô tình họ đã dựng nên trước tâm trí một bức màn chắn. Trên đó họ thích thú nhìn ngắm hình dáng chính mình và do đó không còn có thể nhận ra lối Chúa đi qua, ở bên kia bức màn. Ý thích của Chúa Cha không phải là muốn các người khôn ngoan và tài khéo dựng nên một màn chắn trước họ, điều này thật tai hại, nhưng là muốn cho các người hèn kém và nhỏ bé có khả năng nhận diện Đấng yêu mến và giải thoát họ.
1) Cho người ‘nhỏ bé’ Chúa ban khả năng nhận biết Chúa Cha qua Chúa Giêsu. Qua các lời nói, việc làm và con người Chúa Giêsu, họ thấy được rằng giữa Đấng tỏ lộ trước mắt họ và Thiên Chúa có một tương quan đặc biệt tạo bằng gắn bó mật thiết và sanh thành như Cha với Con. Tư tưởng Do thái không quan niệm Thiên Chúa như là Cha, nhưng chỉ theo nghĩa Thiên Chúa tốt lành, chăm sóc và tạo thành. Quan niệm Thiên Chúa là Cha đến mức độ con người mang tên Giêsu lại là con đồng bản tính với Ngài, quả thật quá đáng và phạm thượng. Thực ra, mặc khải một việc như thế vượt quá những khả năng nhân loại, đó là một ơn Thiên Chúa ban. Những kẻ được lãnh nhận ơn ấy là các tâm trí hèn kém, đơn giản, cởi mở, ‘nhỏ bé’.
2) Đức Giêsu mà Chúa Cha dùng làm trung gian để tự biểu lộ, Người là ai? Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Chúa Giêsu sống tận cùng mầu nhiệm nhập thể. Đến chia sẻ thân phận làm người. Người muốn xuống tận kinh nghiệm nhân loại của kẻ hèn kém, nhỏ bé nhất và kẻ ấy phải có được một lối đi đến Người. Hơn nữa, vì những kẻ sẵn sàng đón nhận Chân lý, nhất là những tâm trí giản đơn và tình nguyện, vì những kẻ dễ dàng cảm nhận nhu cầu đến Chúa Cha nhiều nhất (ngay cả qua những thái độ phản kháng tiêu cực) là những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn nhất, cho nên Chúa Giêsu thích mặc khải Chúa Cha cho những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn.
38. Lòng khiêm hạ - Lm. Vũ Quốc Thịnh CSsR
Trang tin mừng thật ngắn mà chúng ta vừa nghe để lại một bài học dài, bài học lớn, bài học hay, bài học hết sức ý nghĩa của cuộc đời con người: "Anh em hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường". Bài học này quả là một bài học khó đối với mỗi người chúng ta vì lẽ chúng ta đã "lỡ" mang trong mình dòng máu của kiêu ngạo, của bất tuân từ ông bà nguyên tổ.
Nhìn một chút lại hình ảnh đẹp của vườn địa đàng ngày xưa chúng ta sẽ thấy chiều chiều gió thổi hiu hiu, Giavê Thiên Chúa cùng đi dạo với ông Ađam và bà Evà trong vườn Địa Đàng. Thiên Chúa yêu thương ông bà bằng một mối tình hết sức nồng thắm. Thiên Chúa chỉ có một điều quy ước với ông bà là đừng ăn cái trây ở cái cây giữa vườn. Thế nhưng, nghe lời xúi giục của con rắn hay nói đúng hơn phát xuất từ chính lòng kiêu ngạo của con người để rồi con người đã đánh mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa và Thiên Chúa đã đuổi khỏi vườn Địa Đàng.
Cái máu kiêu ngạo của ông bà nguyên tổ hình như đã truyền vào máu mỗi người chúng ta để rồi bài học khiêm nhường mà Thiên Chúa dạy cho ông bà ở cái thời xa xưa ấy không hề vô giá trị mà rồi ngày hôm nay, Giêsu - Con Thiên Chúa - đã phải lập lại cái bài học quý báu ấy.
Chúa Giêsu - con Thiên Chúa - đã vâng phục Chúa Cha, vì yêu thương, vì muốn cứu con người khỏi sự hư mất do sự kiêu căng. Thánh Phaolô đã viết nên điều ấy trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip:
"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mëc lấy thân nô lệ
tở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế
Người lại còn hạ mình
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
cết trên cây thập tự,
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt muôn ngàn danh hiệu
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ
muôn vật phải bái quý
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
"Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Pl 2,6-11)
Thiên Chúa, là một vị Chúa, vậy mà Ngài đã trút bỏ vinh quang, Ngài trút bỏ địa vị của một vị Thiên Chúa và mặc lấy thân phận của Người tôi trung có sứ mạng cứu chuộc.
Ở vùng biển, người đi mò ngọc trai lặn xuống nước để tìm ngọc quý, có một kinh nghiệm đặc biệt. Anh cố lặn sâu xuống, nhưng nước lại đẩy anh lên. Chúng ta biết định luật Archimède về sức đẩy của nước từ dưới lên. Vật thể càng nặng, khối càng to, thì lượng nước tách ra càng lớn. Vì vậy, sức đẩy lên trên càng mạnh, như thể muốn đưa anh ta lên lại mặt nước. Nhưng anh vẫn cố lặn xuống vì sinh kế. Quả là vất vả. Nhưng anh sẽ vui mừng biết bao khi nhìn thấy hạt ngọc trong vỏ trai dưới đáy biển.
Việc tìm kiếm sự khiêm tốn cũng giống như việc tìm kiếm của người mò ngọc trai. Phải lặn xuống dưới, xuống mãi tới đáy, tới chỗ mà sự thật về con người của chúng ta nằm ở đó. Và cũng có một sức mạnh, mạnh hơn sức nước biển, sức mạnh của kiêu căng, tìm cách đẩy chúng ta trồi lên, đưa chúng ta lên trên chính mình và trên người khác. Thế nhưng hạt ngọc ở dưới đáy, nằm trong vỏ trai của tâm hồn ta, lại quá quý giá, khiến ta không bỏ cuộc, nếu không muốn thất bại.
Phải vượt qua khu vực ảo tưởng cho mình là lớn, để đi tới hữu thể đích thực của ta, con người thật của ta. Vì, như thánh Phanxicô Assisi nói, "con người trước mặt Thiên Chúa như thế nào, thì thực sự là thế ấy, không hơn"
Con người có hai cuộc đời, một cuộc đời thật, một cuộc đời tưởng tượng. Cuộc đời tưởng tượng xây dựng bằng ý kiến của mình hay dư luận của người khác. Chúng ta thường cố làm đẹp và gìn giữ con người tưởng tượng của ta, và làm ngơ với con người thật. Có được một nhân đức hay một công trạng nào, thì tìm hết cách này cách khác làm cho người ta biết đến, càng sớm càng tốt, để được ca ngợi, để trở thành có giá trước mặt người khác. Chúng ta dùng nhân đức hay công trạng đó để làm phong phú cho con người tưởng tượng của ta.
Thế nên, tìm kiếm sự khiêm tốn là tìm kiếm cho chính hữu thể, tìm kiếm sự trung thực. Đây là điều liên hệ đến con người nói chung, chứ không riêng gì cho người kitô hữu. Khiêm tốn là điều có tính cách nhân vi. Những từ la-tinh để chỉ về con người và khiêm tốn phát xuất từ một gốc có nghĩa là đất (humus). Con người được tạo dựng bởi đất, phải biết hạ mình xuống đất. Phải biết khiêm tốn.
Triết gia Nietzsche, người Đức, hăng hái đả kích luân lý kitô giáo, vì luân lý này rao giảng sự khiêm tốn. Ông đã đụng chạm đến một trong những ân huệ đẹp nhất mà luân lý kitô giáo đem đến cho thế giới.
Phần chúng ta, hãy tin tưởng vào người hướng dẫn bảo đảm nhất là lời Chúa. Nhờ quyền năng của Thần Khí, lời Chúa giúp ta trở thành những người mò ngọc trai. Chúng ta không thể và không muốn điều gì khác hơn là tìm viên ngọc quý trong vỏ trai.
Theo Thánh Phaolô, người nào hiểu khiêm tốn là sự thật, người đó là người khôn ngoan, biết chừng mực. Phaolô cũng khuyên các tín hữu đừng có một ý tưởng sai lầm và phóng đại về mình, phải biết đánh giá đúng về mình. Kiểu nói "hãy đánh giá mình cho đúng mức" cũng tương đương với kiểu nói "ham thích những gì hèn mọn". Qua đó, Thánh Phaolô muốn nói: người ta khôn khi khiêm tốn, và người ta khiêm tốn khi khôn. Biết hạ mình là tiến đến gần sự thật.
Thánh nữ Têrêxa Giêsu viết: "Một ngày nọ, tôi đã tự hỏi vì sao Chúa yêu thích sự khiêm tốn đến thế. Bất chợt, không cần suy nghĩ, tôi có ý tưởng này: đó là vì Ngài là Chân lý tối cao và vì sự khiêm tốn là chân lý". Vậy là thánh nữ cũng đi đến kết luận như Thánh Phaolô. Thiên Chúa đã thông truyền cho thánh nữ chân lý lời Ngài không bằng con đường chú giải suy luận, nhưng bằng con đường minh chiếu bên trong.
Kinh Thánh cho chúng ta thấy một mẫu gương tuyệt vời về sự khiêm tốn: Đức Maria. Trong lời kinh Magnificat, Đức Maria ca ngợi Thiên Chúa đã nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn. Khi nói về sự hèn mọn của mình, Người không có ý nói về sự khiêm nhường của mình đâu, nhưng là nói đến thân phận thực sự hèn mọn của mình, thuộc vào số những người hèn mọn nghèo khó trong Kinh Thánh. Việc Người minh nhiên nhắc đến bài ca của bà Anna, mẹ Samuel (1Sm 1,11), cho thấy điều đó (Đức Maria sử dụng cùng một từ có nghĩa là lầm than, son sẻ, thân phận thấp hèn). Chứ ở đây không phải Người ý thức về sự khiêm tốn của mình. Làm sao Người dám ca ngợi sự khiêm tốn của mình? Tự cho mình là khiêm tốn thì còn khiêm tốn nỗi gì? Đó là kiêu ngạo. Và làm sao ta dám nghĩ Người coi việc Thiên Chúa tuyển chọn mình là do mình khiêm tốn? Việc tuyển chọn hoàn toàn là do ý Thiên Chúa, là ơn nhưng không của Thiên Chúa, chứ đâu phải vì Mẹ khiêm tốn. Hơn nữa, nghĩ như thế là không hiểu được cả cuộc đời của Mẹ.
Đức Maria khiêm tốn trong cả cuộc đời, cho dù gặp bao nhiêu khó khăn thử thách. Ta có thể nhận ra điều này trong cách Người theo dõi con mình: yên lặng, xa xa vậy. Thậm chí không muốn đứng ở hàng đầu để nghe Đức Giêsu giảng cho dân, mà còn đứng ở ngoài nữa, đến nỗi phải nhờ người khác xin với Chúa để được gặp (Mt 12,46tt).
Dù là Mẹ Chúa, Đức Maria không coi việc ở gần Chúa như ở gần một kho tàng dành riêng cho mình. Người từ bỏ mình, nhận thân phận một nữ tỳ, giống mọi phụ nữ khác. Lời khuyên của Phaolô được áp dụng cách hoàn hảo nơi Mẹ. Mẹ không ước vọng những điều cao sang, chỉ hài lòng với những gì hèn mọn.
Chúng ta cũng có thể thấy sự khiêm tốn kiểu trên trong cuộc đời của nhiều vị thánh. Một hôm, có một người bạn hỏi Phanxicô Assisi xem làm sao mà mọi người đều chạy theo ngài, và muốn thấy ngài như vậy. Phanxicô trả lời: đó là vì Thiên Chúa không thấy ai xấu xa hơn ngài, không ai tội lỗi hơn ngài. Đấng thánh nghĩ rằng người ta tò mò muốn xem một tội nhân, nhưng dân chúng lại tò mò muốn xem một thánh nhân. Thánh Bênađô thì nói đơn sơ như sau: "Người thực sự khiêm tốn luôn muốn được coi là xấu xa, chứ không muốn được tuyên dương là khiêm tốn".
Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta thấy có cái gì đó không ổn. Tất cả mạng sống, của cải, tiền bạc, địa vị, danh vọng của chúng ta đều thuộc về Chúa. Chúa là chủ, chúng ta chỉ là người quản lý nhưng chúng ta lại đánh đổi cái vị trí tuyệt vời ấy. Chúng ta có cái gì đó giống giống ông bà nguyên tổ. Ông bà được Thiên Chúa mời gọi trông nom, quản lý, giữ gìn và Thiên Chúa ưu đãi nhưng không chịu. Muốn làm chủ Thiên Chúa nên đã gây ra biết bao nhiêu chuyện đổ nát trong hành trình đời người. Chúng ta là người quản lý, người đầy tớ của Chúa vậy mà chúng ta không biết, chúng ta đánh tráo vị trí ấy nên rồi cuộc đời của chúng ta cũng giống như cuộc đời của ông bà nguyên tổ. Suốt cuộc đời phải vất vả lầm than do sự cao ngạo của mình. Lời thánh vịnh 130 thật hay:
Lòng con chẳng dám tự cao
Mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi
Đường cao vọng chẳng đời nào bước
Việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu
Hồn con con vẫn trước sau
Giữ cho thinh lặng giữ sao an bình
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
Trông con hồn lặng lẽ an vui
Cậy vào Chúa Israel ơi
Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm (Tv 130,1-3)
Vâng! Như Thánh Phaolô tông đồ nói có cái gì mà chúng ta không lãnh nhận từ Chúa đâu mà chúng ta vênh vang? Tốt hơn hết là chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm tình khiêm hạ.
Khi và chỉ khi chúng ta nép mình vào lòng Chúa như trẻ thơ nép mình vào lòng mẹ chúng ta mới bình an thật sự. Nép mình vào vật chất, vào của cải, vào dục tình, vào địa vị đến một lúc nào đó chúng ta sẽ điên đảo, quay cuồng với vật chất, của cải, dục tình, địa vị và bi đát cuối cùng là chúng ta sẽ bị tất cả những thứ ấy đè bẹp cuộc đời chúng ta và chúng ta sẽ đánh mất đi ân phúc mà Thiên Chúa dành cho ta như thuở ban đầu Thiên Chúa dành cho ông bà nguyên tổ.
Một chuyện vô cùng nghịch lý mà chúng ta vui vẻ sống cái nghịch lý ấy giữa đời thường. Thử hỏi mỗi người chúng ta có thích sống với những người kiêu ngạo hay không? Vậy mà nhiều lần nhiều lúc vô thức hay hữu thức chúng ta lại cư xử một cách quá kiêu ngạo với anh chị em đồng loại. Chính từ sự kiêu ngạo, cái tôi qúa lớn của mỗi người chúng ta đã bây biết bao nhiêu tổn thương, bao nhiêu đổ nát cho anh chị em đồng loại. Chẳng nói gì xa đến anh chị em đồng loại, chúng ta thử xét ngay trong mái ấm, trong gia đình của chúng ta xem, chúng ta sống như thế nào, có khiêm hạ như Chúa, như Mẹ, như các thánh đã sống hay không? Hay là chúng ta lên mày lên mặt với những người kém may mắn hơn chúng ta?
Điều chúng ta không thích, chúng ta đừng làm cho người khác. Chúng ta không thích người khác kiêu ngạo với chúng ta thì chúng ta đừng kiêu ngạo với người khác.
Muốn như thế, không còn cách nào khác hơn cái cách mà Chúa mời gọi mỗi người chúng ta. Thật tuyệt vời, Chúa nói: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng..."
Cuộc đời của mỗi người chúng ta, ít nhiều trong chúng ta, ai ai cũng mang những gánh, những vác thật nặng nề để rồi nghe lời Chúa nói với chúng ta hôm nay, chúng ta lại hoàn toàn yên tâm đến với Chúa để chúng ta trút nhẹ gánh lo vào tay Chúa.
Chúa vẫn ở đó để chờ chúng ta, còn chúng ta thì sao?
Đó là câu trả lời của mỗi người chúng ta sau khi tham dự Thánh lễ, sau những lần cầu nguyện và nhất là những lần phải đối diện với những lo âu vất vả của cuộc đời.
Nguyện xin Chúa là thầy dạy lòng khiêm nhường đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài dạy chúng ta ngày mỗi ngày biết cách sống khiêm nhường hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta sau những vất vả lo toan của cuộc đời không đi tìm nơi nào khác vì chỉ nơi Chúa chúng ta mới được nghỉ ngơi, được bồi dưỡng và được bình an đích thực.
39. Thiên Chúa của chúng ta khiêm hạ thế nào.
Mọi tôn giáo trên thế giới đều đòi hỏi những tín hữu phải tự hạ trước vị thần linh của họ, nhưng tôn giáo của chúng ta là tôn giáo duy nhất mà Con Thiên Chúa đã tự hạ trước dân của Người.
Chúa Cha đã sống với Chúa Con trong tình âu yếm của Chúa Thánh Thần tự đời đời. Đời sống của Thiên Chúa là một đời sống vinh quang và hoàn hảo, nhưng đến khi thời gian viên mãn Thiên Chúa đã sai Con của Người làm Đấng Cứu Độ chúng ta, làm con người giống như chúng ta mọi đàng ngoại từ tội lỗi. Một lời kinh của Giáo hội đã dâng lên Chúa Giêsu: “Khi Người trở nên con người để giải thoát chúng ta, Người đã không khinh chê lòng dạ của Đức Nữ Trinh” (Te Deum). Sự Nhập Thể là một hành động cao cả của sự khiêm nhượng.
Một số người nói rằng nếu chúng ta có thể thấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể với tất cả sự rực rỡ vinh quang thần tính của Người, chúng ta sẽ sấp mình thờ lạy trong sự sợ hãi, không dám đưa mắt nhìn lên vẻ mặt huy hoàng của Người. Nhưng đó không phải là mối quan hệ mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có với Người. Chúa Giêsu hiến tặng cho chúng ta một sự mời gọi nồng ấm, hãy sống thân mật với Người trong tin tưởng và yêu mến mà không có sợ hãi. Người đã không thể nói thẳng cách rõ ràng hơn. Người nói: “Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Kể từ khi chúng ta không còn sợ hãi Chúa Giêsu, nhưng là thân mật với Người. Chúng ta đừng bao giờ ngần ngại mang đến cho Người những gánh nặng của chúng ta để Người nâng đỡ cho. Chúa Giêsu đã nói về ách của Người. Ách là một cái cày bằng gỗ nặng, nó được đóng để đặt lên cổ của đôi bò, để giữ chúng lại và để chúng kéo xe. Có lẽ khi còn nhỏ, Chúa Giêsu đã thấy thánh Giuse đóng những cái ách như vậy và đã biết nó nặng như thế nào rồi. Người quyết định sẽ dạy cho mọi người biết tôn giáo của Người không giống như cái ách nặng nề bằng gỗ đó. Đó là lý do vì sao Người phán: “Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.
Tiên tri Zacaria, được linh ứng bởi Thánh Thần đã thấy một hình ảnh Đấng Mêsia ngự đến. Ông tuyên bố với toàn dân: “Hãy nhìn xem Vua ngươi đang đến”. Và vụ Vua này không đến với hoàng bào vương giả và không cỡi trên một con ngựa chiến. Đúng hơn Người hiền lành, cỡi trên một con lừa non nớt, con lừa con của lừa mẹ. Người đã đến không phải cỡi trên mình ngựa như một vị vua oai nghi tiến vào cuộc chiến nhưng trên một con vật chậm chạp mà người nông dân dùng để dọn đất.
Chúa Giêsu đã làm viên mãn hình ảnh này bằng việc Người tiến vào thành phố Giêrusalem vào Chúa Nhật Lễ Lá. Nơi đó, Người đã trải qua hành vi lớn lao nhất của sự khiêm nhượng: ấy là cuộc thương khó và cái chết của Người trên thánh giá để cứu chuộc chúng ta. Ý tưởng về một Thiên Chúa khiêm hạ như vậy khiến cho không một trí tưởng tượng của con người nào có thể nghĩ tới. Chỉ khi Thiên Chúa mạc khải, tư tưởng chúng ta mới có thể nghĩ tới và tình yêu của người dành cho chúng ta trở thành một thực tại trong đời sống của chúng ta.
Trong mỗi thánh lễ chúng ta lắng nghe trong lòng chúng ta lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ đến bổ sức cho các ngươi”. Khi đi đến với Chúa Giêsu là chúng ta xếp hàng đi hướng về vị chủ tế để rước lễ, vị chủ tế hành sự như Chúa Giêsu, giới thiệu với chúng ta Mình và Máu Thánh của Người, làm của nuôi thiêng liêng bổ sức thần linh cho chúng ta. Chúng ta đến với Chúa Giêsu bởi vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Trong Người, linh hồn của chúng ta tìm thấy sự nghỉ ngơi vì ách của Người thì êm ái và gánh của Người thì nhẹ nhàng.
40. Chúa Nhật 14 Thường Niên
Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian để mạc khải tình thương của Thiên Chúa cho con người và mời gọi con người trở về với tình thương ấy. Hôm nay, Ngài mạc khải cho chúng ta về chính Ngài: "hiền lành và khiêm nhường". Ngài mời gọi ta hãy đến với Ngài, học với Ngài và mang lấy ách của Ngài: "Hãy đến cùng ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng... hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng" (Mt 11, 28 - 29).
Mang thân phận con người, người ta phải chấp nhận sống khổ đau, khổ cực, khổ luỵ; cuộc đời con người bấp bênh, dường như không có gì là bền vững, là đảm bảo,.. Hơn nữa người ta phải chấp nhận quy luật " mạnh được yếu thua" hoặc "được làm Vua thua làm giặc"...gần như là tất yếu và phổ biến. Thấu hiểu kiếp người như thế nên Chúa Giêsu đã mời gọi "hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng" (Mt 11, 29). Hiền lành và khiêm nhượng là hai đức tính đặc biệt nổi bật nhất nơi Chúa Giêsu. Thánh Phaolo đã nói: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2, 6 - 8). Như thế, Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường đến nỗi đã tự nguyện vâng lời chết trên thập giá vì tội lỗi nhân loại. Điều đó cho thấy sự hiền lành và khiêm nhường tột cùng của một Vì Thiên Chúa yêu thương nhân loại.
Mang thân phận loài người, Chúa Giêsu được sinh ra trong chuồng súc vật, lớn lên trong một gia đình nghèo nàn nơi làng quê Nagiareth không có gì tiếng tăm, đi giảng đạo cũng nghèo đến nỗi "không có chỗ gối đầu" và cuối cùng chết cũng trần trụi trên thập giá cho thấy sự nghèo nàn tột cùng. Ngài mốn đón nhận tất cả mọi người không loại trừ ai, kể cả những người Pharisêu ương ngạnh vì muốn họ thay đổi cái nhìn và lối sống thích hợp với thời đại Tân ước nên Ngài không ngừng dạy dỗ thậm chí là bề ngoài Ngài nói có vẻ cứng rắn và thẳng thắn nhưng bên trong lòng Ngài vẫn dành cho họ một chỗ yêu thương: Ngài làm bạn và cùng đồng bàn với người thu thuế và người tội lỗi.
Như thế, Chúa Giêsu thật là Đấng hiền lành và khiêm nhường. Ngài yêu thương và luôn bênh vực những tâm hồn bé nhỏ và khiêm nhường. Những người có tâm hồn như thế dễ dàng đón nhận chân lý mạc khải của Ngài. Trong lời cảm tạ Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói: "Lạy Cha, con ngợi khen Cha vì đã giấu không cho nhữn bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời mà lại mạc khải cho người bé mọn". Trang Phúc âm còn cho chúng ta biết những kẻ bé mọn là những người nghèo khổ, những kẻ đang vất vả và mang gánh nặng. Người ta mang ách nặng của công việc làm ăn, người ta còn mang ách nặng nề của lề luật Do Thái lúc bấy giờ mà cụ thể là do các kinh sư và Pharisêu đang chất lên vai người ta. Thấy điều đó là bất công, Chúa Giêsu không thể chấp nhận những kẻ thông thái đạo đức giả chỉ cậy dựa vào thành tích giữ luật của mình để rồi sống bất công với người ta. Ngài loan bào Tin Mừng và cho người ta biết về luật lệ trong Vương quốc của Ngài: "ách êm ái và gánh nhẹ nhàng". Ví đó là gánh đó và ách yêu thương.
Là người Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi bước theoi Chúa Giêsu, mang lấy ách êm ái yêu thương của Ngài. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng muốn mời gọi chúng ta hãy dành cho tha nhân ách yêu thương đó. Có thể trong gia đình chúng ta con cái là một gánh nặng nhưng dạy dỗ cho chúng nên người càng trở nên là gánh nặng hơn, vợ chồng là gánh nặng của nhau vì những điều trái ý bất đồng đôi chút, công ăn việc làm là một gánh nặng, việc đi lễ giữ đạo là một gánh nặng. Thế nhưng, sống trong thế trần, làm sao con người có thể thoát ra cảnh "đời là bể khổ". Có thể có đôi lần chúng ta muốn tháo chạy, muốn buông xuôi mặc kệ dòng đời trôi dạt. Hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài đớn tột cùng. Ngài đau khổ gấp ngàn lần. Tình yêu của Ngài đã bị thất đoạt, đã bị từ chối và thậm chí đã bị phản bội. Dù vậy, Ngài không thể tránh né, không thể bỏ cuộc. Ngài vẫn phó thác cuộc đời trong tay Cha. Ngài đi trọn con đường của mình. Hãy nhìn lên Ngài. Hãy bước đi theo Ngài. Hãy phó thác cuộc đời mình cho Ngài. Hãy dâng những đau buồn, sướng khổ, lo âu..tất cả cho Ngài. Hãy cùng với Ngài đọc lại những dấu chỉ trong cuộc đời mình: con cái là hồng ân, dạy chúng nên người theo ý Chúa là chia sẻ trách nhiệm với Chúa; vợ chồng là món quà tuyệt vời của Đấng Tạo Hoá, những cái bất thường, trái ý làm cho cuộc đời này thêm phong phú và nhờ đó người t khám phá và thể hiện tinh thần đùm bọc, chở che. Cuộc sống lao động là vất vả nhưng đó lại là một quyền lợi mà Thiên Chua 1trao ban cho con người cộng tác với Ngài trong việc "làm bá chủ thiên nhiên", lao động sáng tạo, con người giúp cho mình và thiên nhiên vạn vật về cùng đích là Chúa Kitô. Do đó, chúng ta hãy để Chúa Giêsu chia sẻ và cùng đồng hành với chúng ta. Chúng ta hãy an tâm vì "Thầt đây, đừng sợ" và " ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng"
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm Chúa yêu thương chúng con để chúng con theo Chúa, sống giữa thế trần nhưng biết khao khát Chúa, cảm nhận Chúa luôn yêu thương luôn ở ngay bên chúng con. Ngài sẽ giúp chúng con sống vui, sống tốt và sống thành công giữ luật êm ái yêu thương của Chúa và cũng biết đối xử êm ái yêu thương cho tha nhân. Amen.
41. Hiền lành
Ngài sẽ chẳng bẻ gãy cây sậy đã dập nát, cũng chẳng thổi tắt tim đèn còn khói. Đó là những lời tiên tri Isaia đã loan báo về Đấng Cứu Thế, qua đó chúng ta thấy được khuôn mặt của Ngài. Một khuôn mặt hiền hòa khả ái.
Thực vậy, Ngài đã không đến trong sấm chớp mưa dông, nhưng đến trong một đêm đông lạnh giá. Ngài không phải là một vị tướng lãnh oai hùng trong chiến trận, nhưng là một người cha giàu lòng thương xót.
Khí giới của Ngài không phải là gươm giáo và súng đạn, nhưng là giới luật yêu thương. Đúng thế, Ngài đã xác quyết:
- Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau.
Và Ngài còn nhấn mạnh hơn nữa:
- Nếu ai tát má bên phải của con, thì hãy đưa cả má bên trái cho nó nữa.
Đồng thời, Ngài đã khuyến khích chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài. Thế nhưng noi gương bắt chước Ngài ở điểm nào, nếu không phải như Ngài đã khẳng định:
- Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhưỡng trong lòng.
Ngài là Thiên Chúa quyền năng, thế mà đã trở nên như một con chiên hiền lành trước người thợ xén lông.. Vì thế, hiền lành chính nhân đức của người mạnh và phải có bản lãnh mới kiềm chế nổi sự nóng giận của mình. Vậy nhân đức hiền lành nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta?
Kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn phiền, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi, khuyết điểm của mình. Hơn thế nữa, bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng.
Bởi đó, chúng ta cần phải biết quên đi và tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng, vì một sự nhịn là chín sự lành.
Chính sự hiền lành sẽ tạo nên trong gia đình một bầu khí hòa thuận và êm ấm:
- Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa, chẳng đời nào khê.
Chính sự hịền lành sẽ bắc được một nhịp cầu cảm thông và sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa chúng ta với nhau, bởi vì:
- Già néo thì đứt giây.
- Bên thẳng thì bên phải chùng,
Cả hai đều thẳng, thì cùng đứt dây.
Kinh nghiệm cũng cho thấy những đổ vỡ xảy ra phần lớn chỉ vì sự nóng giận, nhiều khi rất vô lý của chúng ta.
Thực vậy, quan sát một con sư tử mắc bẫy. Bẫy chỉ là những sợi dây. Thế nhưng, nếu con sư tử càng lồng gầm gừ, càng dãy dụa thì những sợi dây lại càng xiết chặt. Còn nếu nó bình tĩnh, dùng hàm răng nhọn hoắt mà cắn dần những sợi dây, thì chẳng mấy chốc, nó sẽ được giải thóat.
Bởi đó, người ta thường bảo:
- Giận quá thì mất khôn.
Sự nóng giận là như dầu đổ vào lửa, làm cho lửa bùng cháy lên. Trong khi đó, sự hiền lành là như thùng nước dập tắt ngọn lửa. Đúng thế, sự hiền lành bao giờ cũng xoa dịu, cũng hàn gắn. Một thanh sắt nóng đỏ, nếu đem ngâm trong nước, nó sẽ nguội ngay lập tức.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẫu gương của thánh Phanxicô Salêsiô. Thời còn trai trẻ, ngài là một người có tính nóng như lửa đốt, hơi một chút là nổi sùng, hơi một chút là quát tháo. Phải mất hơn hai mươi năm tập luyện. ngài mới trở thành một vị thánh hiền dịu và dễ thương.
Ngày kia, có một người đang tức giận đối với ngài. Ông ta xua bày chó sang tòa giám mục để chúng sủa vang. Còn ông ta và đám gia nhân thì bước vào phòng ngài và chửi bới om xòm. Chính ông ta đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Thế nhưng, ngài vẫn yên lặng, bình tĩnh rút khăn ra lau. Chính thái độ hiền hòa khả ái này đã cảm hóa được ông ta, khiến ông ta sám hối và quay trở về cùng Chúa.
Như vậy, hiền lành không phải là hèn nhát, nhưng là anh hùng. Kẻ khác đánh chúng ta và chúng ta đánh trả lại, thì đó chỉ lả phản ứng thông thường của loài vật. Trái lại, kẻ khác đánh chúng ta mà chúng ta vẫn tha thứ, vẫn cầu nguyện cho họ, thì đó mới là thái độ anh hùng, xứng đáng với địa vị của con người.
Hơn thế nữa. sự hiển lành còn là một phương tiện hữu hiệu nhất để cảm hóa người khác, bởi vì chỉ với một giọt mật, người ta có thể bắt được nhiều ruồi hơn cả một thùng dấm chua.
42. Mang lấy ách
Báo Văn Học số 193 tháng 5 năm 2002, trong mục Tin Văn do Thế Quân phụ trách, đăng tin về em bé Mattie Stepanek 11 tuổi, hiện sống với mẹ ở Upper Marlboro, bang Maryland. “Mới sinh ra, em đã mang một căn bệnh di truyền quái ác có tên là “dysautonomic mitochondrial myopathy”, một hình thức khá hiếm hoi của bệnh yếu cơ – muscular dystrophy. Bệnh này đã giết chết ba anh chị em của Mattie, còn bản thân em thì đời sống bị dính liền vào chiếc xe lăn với một bình ốcxy thường xuyên bên cạnh. Nhỏ nhắn, yếu ớt, thiếu sức khỏe và mang một căn bệnh vô phương cứu chữa như thế, nhưng em luôn vui vẻ, lạc quan. Em rất ham học và sáng tạo. Em bắt đầu làm thơ và viết văn vào lúc 3 tuổi. Em đọc và mẹ em đánh máy lại. Lúc 5 tuổi, em đã có mấy trăm bài thơ và đến nay đã có hàng ngàn bài thơ”.
“Em có ba ước mơ: thứ nhất là xuất bản một tập thơ của riêng em, thứ hai là được diện kiến với “model” của em là cựu tổng thống Jimmy Carter và cuối cùng là được xuất hiện trong chương trình truyền hình của Oprah. Năm 2001, cả ba ước mơ của em không những đã thành đạt mà còn thành đạt ngoài ý muốn. Tháng 7 năm 2001, hai nhà xuất bản “VPS Books” và “Hyperion Books” hợp tác nhau xuất bản thi tập đầu tiên của em, tựa đề là “Heartsongs”. Ngay lập tức, nó trở thành “bestseller” trên toàn quốc. Tháng 10 năm 2001, em được diện kiến cựu tổng thống Carter trong chương trình truyền hình “Good Morning America”. Và ngày 19 tháng 10 năm 2001, em xuất hiện trong chương trình truyền hình Oprah.
Tối ngày 17 tháng 4 năm 2002, Mattie xuất hiện trong chương trình “Lary King Live” của hệ thống truyền hình CNN. Trong cuộc trò chuyện này, bằng một giọng nói lưu loát, cử chỉ sống động, em trả lời nhiều câu hỏi về cuộc sống, việc học, việc làm thơ và những mơ ước của em một cách thông minh, chân thành và đôi khi còn pha chút dí dỏm. Trả lời câu hỏi liên quan đến căn bệnh nan y của em, Mattie nói: “Các bác sĩ không tin rằng cháu sẽ sống nổi một ngày. Nhưng cháu đã sống được. Rồi họ lại bảo “OK, thằng nhỏ sống đến 6 tháng là cùng”. Cháu đã sống… Khi cháu lên 2, họ nói “OK, 10 tuổi thôi”. Bây giờ đây cháu đã được 11 tuổi. Họ sẽ có thể nói “đến mười mấy thôi, quá lắm là đến hết tuổi thiếu niên, nhưng cháu dự tính sẽ sống đến 101 tuổi lận”.
Đề cập đến sự kiên trì phấn đấu của mình để tồn tại và sáng tác, em phát biểu: “Đôi khi, cháu tự hỏi: Tại sao lại là cháu? Tại sao cháu lại có một đời sống khó khăn như thế này? Tại sao mấy anh chị em của cháu lại chết? Tại sao bệnh không lành? Nhưng rồi cháu nghĩ lại và tự hỏi: Tại sao không phải là cháu chứ? Cháu có thể chịu đựng được tốt hơn một đứa trẻ khác đã phải chịu những khó khăn trong đời của nó. Hoặc là cháu có thể chịu đựng tốt hơn một đứa nhỏ chẳng hiểu gì chuyện đó cả và có thể còn đau khổ hơn”.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người trên đôi vai chúng ta. Phải chấp nhận những nhọc nhằn vất vả, bệnh tật ốm yếu, khổ đau buồn sầu, và tất cả những ngang trái ngoài ý muốn như là cái ách phải mang lấy trong cuộc đời.
Người Do Thái dùng thành ngữ cái ách để chỉ sự vâng phục, phục tùng. Họ nói về cái ách của lề luật, cái ách của các giới răn, cái ách của Vương Quốc, và cái ách của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cụ thể này để diễn tả lời mời gọi của Người.
Theo William Barclay, Chúa Giêsu nói, “Ach của Ta thì êm ái”. Chữ “êm ái”, tiếng Hy Lạp là “chrestos” có nghĩa là vừa vặn. Trong xứ Palestine những cái ách của con bò được làm bằng gỗ; con bò phải được dẫn đến tiệm thợ mộc để đo kích thước phù hợp với từng con. Sau đó cái ách phải được thợ mộc đẽo gọt, điều chỉnh, sửa chữa cẩn thận cho thật vừa vặn để không làm trầy da hay tổn thương đến con vật.
Có một huyền thoại cổ kể lại rằng Chúa Giêsu là người thợ mộc sản xuất ra những cái ách vừa vặn vào loại hạng nhất ở xứ Galilêa, và trong khắp cả nước người ta ùn ùn kéo đến với Người để mua những cái ách hạng nhất do Người làm ra. Thời ấy, các cửa tiệm cũng có những nhãn hiệu dán trên cửa, và cái nhãn hiệu của tiệm thợ mộc ở Nagiarét nổi tiếng với hàng chữ: “My yokes fit well” – “Ach Ta rất vừa vặn”.
Chúa Giêsu nói: “Ach của Ta thì êm ái”, có nghĩa là: “Cuộc sống Ta ban cho con không phải là gánh nặng làm tổn hại đến con; bổn phận của con đã được đo lường thích hợp với con rồi”. Bất cứ điều gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta đã được làm để phù hợp chính xác với những nhu cầu và khả năng của chúng ta.
Chúa Giêsu nói: “Gánh của Ta thì nhẹ nhàng”. Đúng như lời của một thầy Rabbi đã nói: “Gánh của tôi đã trở nên bài ca của tôi”. Điều này không có nghĩa là gánh nặng thì dễ dàng mang vác; nhưng có nghĩa rằng nó được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu. Nó sẽ được mang vác trong tình yêu. Và tình yêu sẽ làm cho những gánh nặng nề nhất cũng trở nên nhẹ nhàng như thánh Augustinô đã nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó hết khó nhọc”.
43. Khiêm nhường
Trong quyển đời sống nhân bản và đôi nét về tâm lí chiều sâu định nghĩa người kiêu ngạo là người đánh giá khả năng mình quá cao (về khả năng thực hoặc tưởng tượng).Tính kiêu ngạo đặt trên một cơ sở tự tôn vượt trội nào đó. Người ta tự kiêu về tên tuổi, về tài sản của mình, hoặc về sự nghèo khó của mình. Có một số người lại tự kiêu về việc mình biết im lặng. Cũng có những người lại tự kiêu về việc mình biết tự kiêu, đây là một loại quá cỡ. Con người ta thường cố tự kiêu bất cứ khi nào có thể.... Có thể nói kiêu căng là tự đề cao mình quá sức, và tự đặt mình lên trên người khác, hoặc không cho người khác ngang hàng với mình. Người nào đã mang trong mình sự kiêu ngạo sẽ có rất ít bạn thân, và không còn ai muốn đến gần họ. Có một nhân vật đến trần gian hơn hai ngàn năm nay, toàn tài toàn đức, cao sang hiển vang, không có một từ ngữ nào có thể diễn tả hết về Ngài, trên trời Ngài là Con Chúa, dưới đất là cháu vua, nhưng suốt cuộc đời Ngài là một chuỗi khiêm nhường, sống và nâng đỡ những người "thấp cổ bé họng". Ngày ngày Ngài không ngừng kêu gọi hãy đến "học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường". Người đó chính là Đức Giêsu, Người đã được Phêrô tuyên xưng "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống". Tuy là Con Chúa nhưng Ngài lại rất khiêm nhường với chúng sinh qua con đường:
1. Tự hạ
Tự hạ là hành động của người ở địa vị cao lại hạ mình xuống với một người dưới thấp, giống vua tôi lại hạ mình xuống với thần dân. Hay trong cuốc sống, cũng có rất nhiều trường hợp hạ mình như thế! Nhưng nêu so sánh với Con Thiên Chúa xuống thế làm người thì việc vua hạ xuống với thần dân vẫn còn kém xa. Đó chỉ là hành động của con người hạ mình xuống với con người, còn Đức Giêsu là Con Chúa hạ mình xuống thế làm con người. Vì người ta cho dù ở địa vị nào thông thái tài giỏi đến đâu, đối với Ngài vẫn chưa bằng một hạt cát ở sa mạc, nhưng nơi Ngài tuyệt nhiên không có một tí gì là kiêu căng. Trái lại, Ngài vẫn là một tấm gương trên con đường khiêm nhường, hạ mình sâu thẳm lạ lùng, làm con của một người thợ mộc âm thầm nghèo nàn, khoảng cách giữa Ngài với nhân loại như không còn nữa, gần gũi thân thiết như một người cha luôn cảm thông nâng đỡ con mình.
2. Đồng hành với người nghèo hèn
Mới đây người ta thống kê cho thấy tài sản thế giới dần dần thâu tóm vào một số đại gia giàu có, chỉ hai trăm năm mươi người giàu nhất thế giới đã chiếm bốn mươi phần trăm tài sản thế giới. Cho thấy xã hội ngày càng phân ra hai " chiến tuyến" rõ rệt, một bên là những người có thế lực giàu có, còn một bên là những người nghèo khổ, thiếu ăn. Nếu có lựa chọn thì không ai chọn cảnh sống nghèo khổ, thiếu ăn. Nhưng Con Thiên Chúa lại làm thế! Ngài muốn đồng hành chia sẻ đau khổ và cảm thông. Do đó, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong chốn cơ hàn, nơi hang lừa máng cỏ, sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo nàn, dưới mái nhà thợ mộc âm thầm, khi lớn lên thì lại làm bạn với những người thuyền chài thất học, gần gũi với những người "tay lấm chân bùn". Khi từ giã cõi đời lại chấp nhận cho quân lính hành hạ, sỉ nhục rồi chịu tử hình trên cây thập giá giữa hai tên trộm cướp...
3. Chấp nhận sống thanh bần.
Nhờ đức thanh bần mà người ta có thể sống giản dị, dễ hoà đồng với mọi người, nhất là những người nghèo khổ, biết sống cho họ vì họ. Chính vì sống thanh bần mà Đức Giêsu đã chấp nhận thái độ khiêm tốn tự hạ. Khi chịu phép rửa ở sống Giodan, Chúa Cha đã mặc khải cho biết "đây là Con Ta yêu dấu", Ngài cũng không có một thái độ cử chỉ nào khác người thường. Hơn nữa, Ngài vẫn chấp nhận cho người Do Thái nhắc đến gia đình bà con dưới đất của Ngài, là những người hạ lưu tầm thường... Chính cuộc sống thanh bần trong tâm hồn chúng ta cũng sẽ làm cho mình dễ gần, dễ đến.
Lạy Chúa, Xin cho con biết ý thức mình là công cụ của Chúa, để con biết khiêm nhường trong mọi công việc. Và khi con càng khiêm nhường thì càng trở nên giống Chúa, lại càng có khả năng thi hành cách hữu hiệu như Chúa muốn. Amen.
44. Mang lấy ách
Có một câu chuyện cổ kể về một người đàn ông đang đi trên đường, tình cờ gặp một em bé trai đang cõng một em bé trai khác nhỏ hơn nhưng đã bị cụt hai chân trên lưng. Người đàn ông đó nói với bé trai rằng: “Đó quả thật là một gánh nặng cho em phải mang”. Nhưng em bé trai đã trả lời rằng: “Đó không phải là một gánh nặng. Đó là đứa em nhỏ của cháu”. Gánh nặng được trao ban trong tình yêu và mang lấy bằng tình yêu sẽ luôn nhẹ nhàng!
Trong chuyện “Ngụ ngôn về những con chim” kể rằng thuở sáng tạo trời đất và các loài súc vật, tất cả đều bước đi bằng chân loanh quanh trên mặt đất, trừ những con chim! Nhưng những con chim này chẳng chịu làm gì hết mà chỉ phàn nàn về gánh nặng Thiên Chúa bắt chúng phải mang trên vai, trong khi đó chẳng có một loài vật nào phải mang cả. Thoạt đầu, đối với loài chim, đôi cánh là những bộ phận xấu xí và luộm thuộm nhất chúng phải mang. Chúng nghĩ rằng đó là cách chúng đã bị Thiên Chúa phạt vì một lý do nào đó. Tại sao cứ phải mang lấy những cái cánh vướng vít gây cản trở và khó khăn mỗi khi cất bước? Tại sao? Tại sao lại là chúng mình? Sau cùng có hai hay ba con chim mạo hiểm hơn bắt đầu tập cử động những bộ phận phụ thuộc này. Chúng bắt đầu chớp cánh phất phơ, và sớm khám phá ra rằng cái mà chúng coi như một gánh nặng trên vai thực ra đã làm cho chúng có thể cất cánh bay lên cao được. Cái “gánh nặng” đã biến thành một món quà đẹp đẽ.
Con người sinh ra đời kèm theo với cái ách, gánh nặng và trách nhiệm. Đó là cuộc đời! Và chúng ta cũng không thể tránh được lòng mong ước thoát khỏi chúng. Đó cũng là cuộc đời! Chúng ta muốn được giải thoát, nhưng tự sức chúng ta không làm nổi. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người”. Chúng ta không mang vác một mình, nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, cái ách sẽ trở nên êm ái và gánh nặng sẽ nên nhẹ nhàng. Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, cái ách trở nên giống như đôi cánh chim giúp ta bay lên cao hơn trong đời sống tinh thần.
Trong tiểu sử cuộc đời thánh nữ Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa Giêsu sống lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó đi ngay. Trước khi ra đi, Satan hỏi: “Làm thế nào bà đã biết được tôi là một người mạo nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi vì mày không có những vết thương”. Trong bài suy niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm – thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô chịu đau khổ đến hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau khổ là vì, đối với thánh nữ, hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với chúng ta trong chính thương tích của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng liêng. Chúng ta có một Thiên Chúa cùng đồng hành với chúng ta. Ngài biết sự phấn đấu và hiểu nỗi đau khổ của chúng ta.
Cái ách ở thế kỷ thứ nhất thường được mang bởi hai con vật cùng kéo cày hay kéo xe chung với nhau. Khi chúng ta mang lấy trách nhiệm phục vụ Chúa Kitô, chúng ta cũng mang lấy ân sủng và sức mạnh của Chúa Kitô. Thiên Chúa là Đấng đã ra lệnh cho chúng ta phải cúi xuống để Người đặt lên chúng ta cái ách của Người, cũng sẽ ở bên cạnh chúng ta để cùng mang vác với chúng ta.
45. Học hiền lành và khiêm nhường nơi Chúa Giêsu
Chúng ta thường nghe nói: "Học ăn, học nói, học gói, học mở" hay "Học, học nữa, học mãi". Thật vậy, ai trong chúng ta từ nhỏ đến lớn không nhiều thì ít đều phải học. Học về mọi phương diện và mọi lĩnh vực. Hôm nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy học nơi Người: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mt 11, 29b)
Càng sống hiền lành và khiêm nhường chúng ta sẽ càng nên giống Chúa Giêsu hơn. Vả lại đó cũng là mối phúc mà Chúa Giêsu đã nói trong bài giảng trên núi: "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp" (Mt 5, 4). Thế nào là hiền lành và khiêm nhường như Chúa Giêsu?
Hiền lành khác với nhu nhược hay xu hướng. Người hiền lành chắc chắn không phải là người hay tranh giành, ghen tỵ, ganh ghét ham thích ăn thua đủ với người khác. Người hiền lành chính là người biết sống hoà nhã và tôn trọng người khác. Chúa Giêsu luôn tiếp xúc với mọi hạng người từ những trẻ nhỏ đến người lớn, từ người tự cho là công chính đến những người được coi là tội lỗi công khai.
Khiêm nhượng là sống thật với con người của mình. Mỗi người chúng ta đều có cái hay cái dở khác nhau. Với cái hay thì chúng ta cố gắng phát huy còn cái dở thì cố gắng khắc phục. Thậm chí khi cần chúng ta còn cần nên hạ mình xuống trước người khác. Hạ mình không phải là mình chịu thua nhưng hạ mình như thế là mình đang chiến thắng. Chiến thắng chính mình. Bởi lẽ, khuynh hướng kiêu ngạo và ích kỷ luôn ngự trị trong mỗi người chúng ta. Người khiêm nhường luôn được mọi người yêu thương. Chính Chúa Giêsu từ một vị Thiên Chúa mà đã hạ mình xuống để sống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Thánh Phaolô đã nói trong thư gởi cho tín hữu Philipphê: "Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2, 6 - 8)
Phải nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Vị Thầy rất đáng để chúng ta học đòi bắt chước. Thầy Giêsu không dạy bằng lời nói suông nhưng luôn dạy bằng gương sống. Hãy tiếp tục chiêm ngắm Chúa Giêsu nhiều hơn. Đồng thời hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta khi chiêm ngắm Người thì cũng biết tập sống hiền lành và khiêm nhường như Người. Đó là điều mà Người đang tha thiết mong mỏi nơi từng người chúng ta.
46. Hãy mang lấy ách của Ta
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Quang Hiền)
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người trên đôi vai chúng ta. Phải chấp nhận những lao nhọc, vất vả, bệnh tật, khổ đau và tất cả những ngang trái ngoài ý muốn như là cái ách phải mang lấy trong cuộc đời.
Người Do Thái dùng thành ngữ cái ách để chỉ sự vâng phục, phục tùng. Họ nói về cái ách của lề luật, cái ách của các giới răn, cái ách của Vương Quốc và cái ách của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cụ thể này để diễn tả lời mời gọi của Người.
Ai trong chúng ta cũng phải mang nhiều cái ách trong cuộc sống của mình, dù nặng hay nhẹ đều phải vác cả. Cái ách gánh nặng của chồng, vợ, con cái, cái ách của công ăn việc làm, cái ách của nghèo khổ, của bệnh tật, của thử thách.... Có những lúc chúng ta chán chường và mệt mỏi, có những lúc chúng ta muốn bỏ hết tất cả cho yên thân vì không muốn đối diện với nó. Có những lúc chúng ta quá căng thẳng, bị stress vì áp lực của cuộc sống. Cái ách trở nên quá nặng nề, vì thế chúng ta thường trách Chúa tại sao Ngài gởi quá nhiều thánh giá, nhiều cái ách nặng nề quá sức chịu đựng cho chúng ta thế. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài vì ách của Ngài thì êm ái, gánh của Ngài thì nhẹ nhàng. Không phải Chúa Giêsu cất hết tất cả những cái ách nặng nề của chúng ta, mà Chúa Giêsu sẽ nâng đỡ và dạy chúng ta biết cách đón nhận và vác cái ách của chúng ta như thế nào cho nhẹ nhàng. Chúa không muốn chúng ta phải trốn tránh cái ách của mình cho dẫu nó có nặng nề và đòi hỏi chúng ta phải trả giá rất đắt. Chúa Giêsu đã làm gương trước cho mỗi người chúng ta, Ngài đã mang lấy ách của chúng ta là tội lỗi của chúng ta trên vai của Ngài và Ngài đã vác hết chặng đường khổ nạn của mình, cho đến chết trên thập giá.
Là người kitô hữu, chúng ta cũng phải mang lấy ách của mình và bước đi trên con đường thập giá mà Chúa đã đi xưa kia. Chúa Giêsu sẽ không bỏ rơi chúng ta, Ngài vác cái ách cùng đi với chúng ta, Ngài không để chúng ta vác một mình, Ngài không để chúng ta quá sức chịu đựng.
Cùng mang lấy ách và vác đi cùng với Chúa Giêsu chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và được an ủi biết chừng nào.
Cái ách sẽ trở thành nhẹ nhàng khi chúng ta vác nó với một niềm tin tưởng, phó thác vào tình yêu thương của Thiên Chúa, Ngài là người Cha luôn muốn điều tốt lành cho mỗi người chúng ta, không bao giờ muốn những điều đau khổ cho chúng ta. Cái ách và đau khổ là thước đo cho lòng mến của chúng ta đối với Chúa, cho sự kiên trung trong tình yêu mến, vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa. Cái ách cũng là cơ hội để chúng ta biết kết hiệp vào mầu nhiệm khổ nạn đang còn dở dang của Đức Kitô.
Trong tiểu sử cuộc đời thánh nữ Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa Giêsu sống lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó đi ngay. Trước khi ra đi, Satan hỏi: “Làm thế nào bà đã biết được tôi là một người mạo nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi vì mày không có những vết thương”. Trong bài suy niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm – thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô chịu đau khổ đến hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau khổ là vì, đối với thánh nữ, hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với chúng ta trong chính thương tích của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng liêng.
Mầu nhiệm đau khổ là mầu nhiệm mà mỗi người kitô hữu được mời gọi thông phần, suy niệm và sống trong mọi giây phút của cuộc sống mình. Cuộc đời kitô hữu của chúng ta không thể nào vắng bóng cái ách, đau khổ, thập giá... đó chính là một phần trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và là con đường dẫn chúng ta đến mầu nhiệm phục sinh. Phải qua thập giá mới đến vinh quang.
47. Hãy mang lấy ách của Chúa
Anh chị em thân mến,
Một giáo dân hỏi một vị linh mục: Thưa cha, sao Chúa khó quá? Sao Hội thánh mình cũng khó nữa? Chúa Nhật không đi lễ thì có tội. Chỉ được một vợ một chồng mà thôi; ngoài đời người ta vợ nhóc luôn. Rồi, sao không cho các linh mục có vợ nữa? Con nghĩ cấm chuyện này là không đúng, vì là trái với tự nhiên. Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ mà; đâu phải dựng nên đàn ông không đâu? Chúa nói ách Chúa êm ái, gánh của Chúa nhẹ nhàng, con thấy không nhẹ chút nào cả! Ông cha sở nghe nói cười xòa, trả lời: Mà ông coi, Hội thánh đâu cấm người đi tu không được có vợ! Linh mục không có vợ chính là: tự nguyện sống độc thân vì Chúa và vì Nước Trời. Nếu linh mục không sống độc thân được, nên chọn đời sống gia đình, đừng nên bắt cá hai tay. Ông thấy có phải không? - Dạ dạ... Cha sở nói tiếp: Mà nè, nếu ông muốn, hãy làm đơn xin Tòa Thánh cho phép các linh mục được cưới vợ đi; nhưng họ nên nhớ, khi Tòa Thánh chưa chấp thuận, phải tuân phục Hội thánh, không được xé rào đấy nhé! Mọi người xung quanh nghe câu nói đều cười ầm lên....
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có hai điều chúng ta cần suy niệm:
a/ Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn. Có người sẽ nói: Không lẽ Chúa ghét người khôn ngoan, cao trọng hay sao? Sao Chúa lại yêu thương trẻ nhỏ mà không phải người lớn? Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã nói: Nước Trời là của trẻ nhỏ và của những người giống như chúng. Có người sẽ hỏi: Tại sao phải ưu tiên cho trẻ nhỏ? Có phải đây là một định kiến để lật đổ phẩm trật đã có sẵn không? - Thưa không. Chúa Giêsu yêu trẻ nhỏ không phải vì chúng dễ thương hơn người lớn. Người không yêu thương ai bằng tình cảm bên ngoài. Đứa trẻ được Chúa yêu thương, là hình ảnh trẻ con luôn tin tưởng, trông cậy vào cha mẹ. Trẻ con không trông cậy vào mình; chúng chỉ trông cậy vào người lớn. Tâm hồn chúng hoàn toàn trống rỗng cần được lấp đầy. Chính vì thế Chúa luôn sẵn sàng lấp đầy tâm hồn trẻ thơ ơn sủng sung mãn của Người, vì Người luôn muốn ở trong tâm hồn của trẻ thơ; nơi đây cũng là đền thờ tốt lành của Chúa Thánh Thần...
b/ Ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến, Ta sẽ thêm sức cho... Hãy mang lấy ách của Ta... vì ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng. Chúa Giêsu nói, ách Chúa êm ái, gánh Chúa nhẹ nhàng, Chúa có mâu thuẫn không? Đã là ách và gánh làm sao nhẹ nhàng được?
Một bà nhân đức trong họ đạo, một hôm đến gặp cha sở và nói: thưa Cha, bà bạn của con vừa nói với con: khi tôi dâng mình cho Chúa rồi, y như là Chúa để cho gặp tai ương, giống như Chúa "chơi" tôi vậy. Bà nên nhớ, bà đừng có dâng mình, vì dâng mình xong, Chúa phát cho bà một gánh nặng là bà phải chạy dài ngay... Thưa cha, con thấy bà bạn con hiểu biết về Chúa sai lạc quá! Dù vậy con ít lời lắm. Con không biết nói sao cho bà hiểu; nên con muốn trình cha, để cha biết, có dịp cha giải thích lại cho bà ta....
Rõ ràng câu chuyện trên đây cho ta thấy, ngay cả người có đạo lâu năm cũng không hiểu mấy về Chúa. Ách của Chúa chính là đạo lý của Tin mừng; ai muốn theo Chúa phải tuân giữ đạo lý này; đó là: tin tưởng - khiêm tốn - vâng phục. Ách của Chúa êm ái nhẹ nhàng, không phải là vì đó là gánh nặng dễ dàng mang trên vai. Đó chính là gánh nặng được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu và nó cũng được chúng ta vác trong tin yêu nữa. Thử hỏi có ai vác gánh nặng của mình mà bước đi trong vui vẻ, hăng hái, lại cảm thấy gánh đó quá nặng không thể mang nổi không? Hay là chúng ta phải nói ngược lại?
c/ Gợi ý sống và chia sẻ:
Nước Trời dành cho kẻ bé mọn, chính là những người luôn cần đến, những người sẵn sàng thành tâm đón nhận. Mỗi người Kitô hữu chúng ta có phải là kẻ bé mọn, đáng được nhận lãnh Nước Trời không? Hãy đến với Ta, những ai vất vả mang gánh nặng nề: Chúa mời ta đến để Chúa chia sớt gánh nặng cuộc đời cho chúng ta. Ta có tin không? Ta có sẵn sàng đến với Chúa không?
48. Nghịch lý thập giá Chúa Kitô -Lm Phêrô Hồng Phúc
Thập giá Đức Giêsu Kitô là một cớ vấp phạm cho người Do Thái và điên rồ đối với dân ngoại (x. 1Cr 1,23). Tức là một nghịch lý của cuộc đời, cho đến bây giờ vẫn thế và còn cho đến tận thế. Lúc nào Thập giá cũng là một thách đố rất lớn đối với mọi thời đại. Thập giá cũng là một chướng ngại rất lớn đến với từng con người. Đức Giêsu đã khẳng định ngay từ đầu rằng, Ngài là một viên đá - một viên đá làm cớ vấp phạm đối với những ai không nhận ra Ngài, không nhận ra chương trình cứu độ của Ngài.
Khi chỉ nhìn nhận những thực tại bên ngoài mà thôi, Thập giá là một hình phạt nặng nề của những người Roma dành cho những người tử tội. Đức Giêsu đã nhận cho mình hình phạt này. Đó không phải là một sự tôn vinh, bởi vì, Thập giá là biểu hiện của sự chết. Thập giá chỉ được tôn vinh sau khi Đức Giêsu Kitô hoàn tất chương trình cứu độ. Ngay khi Ngài ở trên Thập giá, chính Ngài cũng đã bị lời sỉ nhục của những kẻ qua đường chế nhạo, thậm chí Ngài còn bị những lời sỉ nhục của những kẻ cùng đóng đinh với Ngài trên Thập giá. Như vậy, Thập giá vẫn là một sỉ nhục, một cực hình dành cho những ai bị kết án. Đức Giêsu cũng là người bị kết án, Ngài bị kết án do tòa án của nhân loại, mà Philato tuyên án. Ngài là người bị kết án do chính những người con cái trong nhà: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!". Thập giá mãi mãi vẫn là một bản án, một bản án đóng trên đầu Đức Giêsu Kitô: "Đức Giêsu Nadaret, Vua dân Do Thái". Như vậy, Thập giá không có gì đáng để tôn vinh: Thập giá là đau khổ; là kết án; là sự chết.
Vậy tại sao chúng ta suy tôn Thập giá Đức Giêsu Kitô như vậy?
Vâng! Đúng là chúng ta suy tôn Thập giá Đức Giêsu Kitô vì Đức Giêsu Kitô đã dùng Thánh giá mà cứu chuộc nhân loại. Đó là ý nghĩa mà chúng ta đang đi sâu vào tìm hiểu. Nếu Thập giá chỉ là một bản án tử hình, chỉ là một huyền thoại, một sự kết án thì mãi mãi Thập giá là một sự hổ ngươi cho tất cả những người Kitô hữu. Nhưng nếu Đức Giêsu Kitô đã dùng Thánh giá mà cứu chuộc thế gian thì đây chính là triết lý của sự khôn ngoan; triết lý của sự sống. Như vậy, trong nghịch lý hàm chứa một chân lý; ở trong bản kết án ấy lại chính là một sự xóa án. Tất cả diễn ra nơi Thập giá Đức Giêsu Kitô. Chúng ta nhìn thấy sự sống và sự chết ở cùng trên Thập giá Đức Giêsu Kitô, Ngài đã nói những lời cuối cùng, Ngài phó linh hồn cho Đức Chúa Cha. Sự sống của Đức Giêsu Kitô trên Thập giá và sự chết của Đức Giêsu Kitô cũng trên Thập giá. Sự sống và sự chết gặp nhau trên Thập giá của Đức Giêsu Kitô. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng sự sống và sự chết của Đức Giêsu trên Thập giá cũng chính là sự sống và sự chết của chúng ta. Bởi lẽ từ cạnh sườn bị đâm thâu, máu và nước chảy ra, từ đó phát sinh ra Bí tích của Hội Thánh như trong Kinh Tiền Tụng chúng ta đọc. Vậy từ Thập giá Đức Giêsu Kitô, máu và nước chảy ra: nước tượng trưng cho Bí tích Rửa Tội. Nhờ đó mà chúng ta được đi từ cõi chết đến cõi sống. Và máu, tượng trưng cho các Bí tích, những Bí tích của tình yêu thương, để tha tội, để thêm sức, để thánh hóa những tâm hồn. Chúng ta hình dung một Đức Giêsu Kitô hiến mạng sống của mình để hướng tới cái chết. Và từ cái chết ấy, mà chúng ta bắt đầu nhận được trở lại sự sống của Thiên Chúa, sự sống thật của con người theo thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tạo dựng con người.
Cái sống và cái chết không chỉ đấu tranh trong con người Đức Giêsu Kitô mà trong toàn thể Hội Thánh, là nhiệm thể của Đức Kitô. Nếu Đức Giêsu Kitô không chết trên Thập giá thì không có sự hoàn tất chương trình cứu độ của Ngài. Nếu Đức Giê su Kitô không chấp nhận cái chết trên Thập giá thì bản án của nhân loại mãi mãi vẫn còn. Vì vậy trong bản án được treo trên đầu Đức Giêsu Kitô đã nói rõ vương quyền của dân Thiên Chúa: Tiên tri, Tư tế, Vương giả. Chúng ta, những người Kitô hữu cũng mang trong mình một danh Kitô, mà danh ấy là Vua Do Thái. Như vậy, trong bản án mà Đức Giêsu phải chịu bao hàm cả chức vụ Tư tế, Tiên tri, Vương đế của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Nếu không có Thập giá thì những danh hiệu ấy không có ý nghĩa gì. Cho nên, người Kitô hữu chúng ta hôm nay, đứng trước Thập giá Đức Giê su Kitô là đối diện với một mầu nhiệm, một mầu nhiệm hàm chứa nghịch lý, chân lý đan xen nhau. Không phải ai cũng nhận ra chân lý của Thập giá. Vì thế, thánh Phaolo đã diễn tả những cách thức mà mỗi một thời đại, mỗi một dân tộc tượng trưng cho một ý thức hệ, một quan điểm khác nhau, rằng: Thập giá Đức Giêsu Kitô là cớ vấp phạm cho người Do Thái và là sự điên rồ đối với dân ngoại; hoặc là sự khôn ngoan cho những người được tuyển chọn, vì đó chính là những gì mà con người được sàng lọc, được trắc nghiệm đi sâu vào tâm hồn mình để nhận ra Thập giá. Người đời đã biết áp dụng nguyên tắc Thập giá theo triết lý "Lửa thử vàng, gian nan thử đức", rằng "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay". Đó là triết lý của Thập giá áp dụng trong cuộc sống, vì ai cũng sợ đau khổ, ai cũng sợ sự chết. Nhưng "Lửa thử vàng, gian nan thử đức" và "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay" nghĩa là những người có ở trong tình trạng đau khổ (đoạn trường = đứt ruột) mới hiểu được,và trong đau khổ ấy người ta mới tìm được giá trị của Thập giá. Cho nên ngay ở trường đời, cũng có giá trị thập giá và người ta đã tìm ra triết lý khôn ngoan của nó. Các thánh mô tả Thập giá là sự khôn ngoan. Bởi vì Thập giá Đức Giêsu hiện nguyên hình là sự chết, vì khi không qua đau khổ và sự chết con người sẽ không đạt tới đích thật sự sống của mình.
Vì vậy, chúng ta nói về Thập giá, suy tôn Thánh giá là chúng ta đang nói tới tình yêu thương và chân lý mà Thiên Chúa muốn chúng ta đi qua sự chết để vào cõi sống; để nhìn qua những đau khổ, sự chết của Đức Giêsu Kitô nhận ra chương trình cứu độ. Vì vậy, đối với những người được tuyển chọn, Thập giá là ơn cứu độ, còn mãi mãi vẫn là cớ vấp phạm và sự điên rồ đối với những kẻ không tin hay với người quá khích.
Hôm nay và mãi mãi cho đến tận thế, Thập giá dạy chúng ta những bài học khôn ngoan để chúng ta nhận ra chân giá trị của cuộc đời. Thập giá mãi mãi vẫn là trường dạy chúng ta sự khiêm tốn, sự khôn ngoan và cho chúng ta hiểu tình yêu - một tình yêu đích thật.
Những người Kitô hữu hôm nay, đeo Thánh giá trên cổ, lần tràng hạt trên tay có Thánh giá và đặt Thánh giá trên nóc đỉnh cao của tháp Nhà thờ; Thánh giá ngày xưa còn dùng làm dấu hiệu của những người theo Đạo hay không theo Đạo, sống hay là chết: bước qua Thập giá là bỏ Đạo, là sự sống trước con mắt thế gian, còn không bước qua Thập giá là chết trước con mắt thế gian. Nhưng đó lại là các Thánh Tử Đạo!
Thập giá như là một đường ngang, đường xích đạo phân đôi địa cầu của chúng ta; đường dọc như là trục giữ cho trái đất giữ của chúng ta định vị trong vũ trụ. Đường dọc, đường ngang ấy đã tạo nên Thập giá. Đường dọc đi tới tận Thiên Chúa để Ngài tuôn đổ ơn lành xuống cho trái đất của chúng ta, không bị sai lạc vị trí của mình. Đường ngang ôm chặt lấy trục để cho chúng ta hiểu biết là: trong Thập giá, chúng ta có tình huynh đệ, tình yêu thương và chúng ta gặp gỡ nhau trong Đức Kitô.
49. Gánh nặng
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đó là một lời kêu gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa Giêsu nói với tất cả và từng người chúng ta.
Theo nguyên nghĩa Hy Lạp, thì chữ “vất vả mang gánh nặng nề” Chúa Giêsu nói ở đây được hiểu là cái bao đựng vật dụng cá nhân như cái ba-lô người ta đeo trên lưng, còn theo nghĩa thông thường, đó là những vất vả, khó khăn, trách nhiệm mà người ta phải chấp nhận. Dù theo nghĩa nào thì chúng ta cũng hiểu ngay là mỗi người đều có những vất vả và đau khổ, được gọi chung là gánh nặng riêng cho đời mình.
Thực vậy, đời người giỏi lắm là được trăm năm trần thế. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Trăm năm nào có gì đâu? Nhưng từ lúc trắng răng đến lúc bạc đầu, không lúc nào vất vả, đau khổ không theo đuổi chúng ta, đến nỗi ca dao tục ngữ đã nói: “Gánh khổ mà đổ lên non. Còng lưng mà chạy khổ còn chạy theo”. Đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt, không ai chối cãi, không ai phủ nhận, sinh ra và có mặt trên đời là khổ: “Hữu sinh hữu khổ” là thế. Với thời gian, lớn lên, đau khổ, vất vả hằng theo sát gót con người, dù ở đâu và làm gì, ai cũng có những vất vả và đau khổ của riêng mình.
Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó, Chúa đã hình dung bằng hai tiếng “vất vả và gánh nặng”, và Chúa động viên, khích lệ, kêu gọi: “Hãy đến với Chúa” để Chúa an ủi, nâng đỡ. Thực vậy, ở đời này có nhiều gánh nặng: gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gánh nặng xã hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người và tình đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác: vất vả với cuộc mưu sinh, vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có khi vẫn không đủ sống; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé, vất vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng, quậy phá.
Ngoài ra, “gánh nặng” còn được hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm năm, nhưng thử hỏi có ai là không đau khổ chăng? Ai cũng có những đau khổ riêng mình: người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể xác, người đi tu hay sống đời gia đình… không ai dám nói đời mình không có đau khổ. Cuộc đời trần gian là thế.
Như vậy, chúng ta dễ dàng chấp nhận: vất vả và gánh nặng đời này thì nhiều thứ, nhiều cỡ, nhiều kiểu và chúng ta cũng nhìn nhận rằng: trước những gánh nặng đó, nhiều khi tự sức chúng ta, chúng ta không làm gì được, chúng ta buông xuôi, chán nản ư? Thậm chí có những người khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì bỏ cả việc đạo đức và chán cả cầu nguyện, như vậy là sai lầm lớn. Những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng nhiều và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy đến với Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa nói Ngài nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta thôi chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài làm cho nhẹ gánh chứ không cất gánh nặng đi. Có nghĩa là chính chúng ta phải cố gắng làm việc và tìm mọi cách để giải tỏa gánh nặng đời mình rồi Chúa sẽ giúp sức thêm, chứ đừng ngồi mà than thân trách phận, hoặc chỉ cầu xin, khấn vái thôi thì chưa đủ.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết những khó khăn. Nếu trong cuộc sống chúng ta còn biết nhờ vả vào những người quyền thế hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là những khi vất vả hay khổ đau, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.
50. Vượt qua khổ đau
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Người ta luôn không hài lòng về số phận của mình (On n’est pas toujours content de son sort). Câu ngạn ngữ trên đây một cách nào đó nói lên thực trạng của con người trong kiếp nhân sinh lữ thứ. Đời là một bể trời khổ dâu. “Thoặt sinh ra thì đà khóc chóe. Trần có vui sao chẳng cười khì?” Lời than của một thi nhân Việt Nam như chứng thực điều này. Hết chuyện ngày ngày lo kế sinh nhai “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, thì lại đến chuyện gia thất “con là nợ, vợ (chồng) là oan gia, cửa nhà là nghiệp chướng! Những cảnh vui, cảnh an bình thì thấp thoáng như vó câu qua cửa, còn các chuyện buồn, cảnh khổ thì cứ đằng đẵng tiếp nối dù lòng chẳng mong, chẳng đợi bao giờ.
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi,tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Một lời mời gọi vừa đượm tình vừa rất hiện sinh. Hiện sinh vì nó nó đáp ứng nhu cầu của mọi người mọi thời và mọi nơi. Ngoại trừ các em bé còn trong nôi hay các bé thơ chưa biết nhìn đời với con mắt phản tỉnh, hầu như khi đã biết nghĩ suy một cách nào đó thì ngay cả các bé thiếu nhi, thiếu niên cũng không thoát được sự “bể dâu” của cuộc đời. Nó đượm tình vì nó nói lên việc Đức Kitô đã chung thân, đồng phận với nhân trần chúng ta khi làm người, đặc biệt trong mọi cảnh tình khốn khó.
Cũng có thể như lời Đức Phật dạy: vì quá ham muốn (dục), mà không toại nguyện thì chuốc lấy sự khổ đau. Nhưng đã là người thì tránh sao được cái sự muốn. Ý chí tự do là một trong nhữg ưu phẩm của con người trổi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Khi anh không muốn cũng là lúc anh muốn cái sự không muốn. Để giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, Đức Phật đề ra con đường “tri –kiến” là nhận thức sự vô thường của vạn vật để rồi tạo lập một thái độ tạm gọi là “dửng dưng” vô niệm, vô úy, vô chấp. Đây là một trong những con đường tự giải thoát bản thân khỏi cái vòng lẫn quẩn của vô minh. Thế nhưng, dù sao đó cũng là một kiểu “giác ngộ” của con người, là sản phẩm của loài thụ tạo. Đức Khổng Tử thì đề ra con đường “trung dung”, chính danh, chính phận. Tức là sống đúng danh phận của mình cách hài hòa cân đối, không bất cập mà cũng chẳng thái quá. Khi mọi sự ở trong trật tự của chúng thì cái sự khổ sẽ dần mất đi. Lão Tử thì vẽ ra con đường “vô vi”: Làm mà như không làm… Mỗi hiền nhân mỗi con đường, nhưng thảy đếu là những con đường xuất phát từ người trần gian.
Để vượt qua bao khổ lụy kiếp người, Chúa Kitô mời gọi nhân trần chúng ta hãy mang lấy ách của Người, tức là hãy làm môn đệ của Người. Làm môn đệ của Người là bước đi theo con đường Người đã đi. Để có thể tiếp bước theo Người thì Người mời gọi chúng ta là hãy học cùng Người sự hiền lành và khiêm nhượng. “Hãy học cùng tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).
Hai từ khiêm nhu rất dễ khiến chúng ta liên tưởng đến thái độ, cung cách hạ mình. Thế nhưng, thái độ khiêm nhường đích thực là nhìn nhận bản thân đúng như mình là trong các mối tương quan với tha nhân, với các loài thụ tạo và với Thiên Chúa, Đấng Tạo thành mọi sự. Người khiêm nhu là người trên hết, trước hết, biết nhìn nhận mình là loài được tạo nên và vì thế, mình chỉ là mình, khi sống, hoạt động theo ý muốn của Đấng dựng nên mình. Ý thức được điều này và tin nhận sự thật này, đồng thời tin nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa thật thì việc bước theo Đức Kitô, làm môn đệ của Người, là lẽ tất yếu đương nhiên.
Hai từ hiền lành cũng đễ làm ta liên tưởng đến một thái độ sống mềm mại, dịu dàng. Thế nhưng sự hiền lành đích thực là một thái độ sống vuông tròn bổn phận trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch. Hình ảnh người mẹ hiền, cô dâu hiền minh chứng cho sự thật này. Học ở Đức Kitô sự hiền lành là biết đi đến cùng trong bổn phận của “người tôi tớ vô dụng” (x. Lc 177-10) chỉ làm những gì phải làm. Và điều chúng ta cần phải làm xuyên suốt mọi hoạt động đó là trả món nợ yêu thương. Bởi tình yêu, ta được chào đời, thì cho tình yêu ta sống kiếp người.
Khi đã tự nguyện làm môn đệ Đức Kitô thì chúng ta cần phải bước đi trên con đường đạo lý yêu thương Người đã đi. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Đây chính là giới răn mới, giới răn mà Chúa Kitô truyền lại khi Người sắp từ bỏ trần gian mà về cùng Chúa Cha. Sự êm ái ngọt ngào khi mang lấy ách của Chúa Kitô đó là biết sống yêu thương như Người đã yêu.
Thánh giáo phụ Âugustinô đã nói: “ Hãy yêu đi, rồi làm gì thì làm”. Khi đã yêu thì sẽ không còn đau khổ. Dù cho đau khổ vẫn có đó, còn đó, nhưng nó đã được yêu rồi. Với thánh Tông Đồ dân ngoại thì khi đã được yêu rồi thì thập giá không còn là sự điên rồ hay nổi ô nhục mà trở thành niềm vinh dự.
Đau khổ phát sinh, có thể là do lỗi hay tội của bản thân hay của tha nhân. Nhưng dù sao đi nữa vẫn có đó nhiều nổi khổ đau thật khó tìm ra nguyên do, căn cớ. Đau khổ là một huyền nhiệm. Chúa Kitô đã không đưa ra một lời giải đáp rạch ròi về nguyên nhân của khổ đau, nhưng Người đã tự nguyện mang nó vào chính bản thân mình để thể hiện tình yêu. Đó là mầu nhiệm thập giá. Đau khổ quả là một sự dữ, nhưng nó sẽ chẳng là gì trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Kitô đã biến khổ đau thành ân phúc.
Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng… Nếu ta vẫn đang ngụp lặn trong bao đau khổ, chắc hẳn vì ta chưa đáp lại lời mời của Đấng Cứu Độ là hãy đến với Người. Đến với Người ta sẽ gặp “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…, Đấng bẻ gãy mọi cung nỏ của chiến tranh, Đấng công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9,9-10). Đến với Đấng Cứu độ, ta sẽ được Thần Khí của Người đổi mới và “chúng ta sẽ diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta và chúng ta sẽ được sống, sống trong an bình.” (x. Rm 8,13).
51. Suy niệm của JKN
TRÁNH TỰ MÃN ĐỂ HIỂU BIẾT VÀ KINH NGHIỆM VỀ THIÊN CHÚA HƠN
Câu hỏi gợi ý:
1. Người tự mãn với những gì mình đang có, đang biết, thì có thể có thêm, biết thêm nhiều hơn không? Tại sao?
2. Trong đời sống tâm linh, nếu ta tự mãn với những hiểu biết hay trình độ tâm linh mình đang có, thì có thể tiến bộ về tâm linh hơn không? Tại sao?
3. Mang lấy ách của Đức Giêsu nghĩa là gì? Tại sao ách Ngài lại nhẹ nhàng?
Suy tư gợi ý:
1. Muốn đạt chân lý, phải dấn thân trọn vẹn cho chân lý
Một nhà thông thái nọ đến xin một đạo sư truyền đạo cho mình. Đạo sư bèn lấy trà ra để tiếp khách. Nhưng ông làm một điều rất kỳ lạ: nước đã đầy và tràn ra mà ông vẫn cứ rót tiếp. Người khách ngạc nhiên hỏi ông tại sao lại làm như vậy. Đạo sư đáp: «Tâm hồn và lòng trí ông cũng đầy ắp như tách trà này rồi, làm sao chứa thêm những chân lý về đạo được nữa?»
Kinh nghiệm cho tôi thấy: một khi lòng trí tôi mải miết lo chuyện gì, thì tôi không thể mải miết với chuyện khác được, nhất là những chuyện có tính chất trái ngược với chuyện tôi đang mải miết say mê. Đó là một định luật tâm lý rất phổ quát. Cũng vậy, một người đang say mê những chuyện trần tục, những chuyện tầm thường, người ấy khó có thể nhập tâm và hiểu được những chân lý siêu việt của tôn giáo. Vì muốn hiểu và cảm nghiệm được những chân lý này, con người phải dấn thân trọn vẹn cho chân lý. Chân lý tôn giáo giống như viên ngọc quý hay kho báu dấu trong ruộng, phải bán hết tất cả những gì mình có mới mua được (x. Mt 13,44-46). Đối với những ai trong lòng đang đầy ắp «cái tôi» vị kỷ của mình cũng vậy, lòng trí họ không còn chỗ nào cho Thiên Chúa hay Đức Giêsu sống và hoạt động trong họ nữa.
2. Phá chấp, phá «sở tri chướng»
Học sinh cấp một được cô giáo dạy: không được lấy số nhỏ trừ số lớn, vì không thể có 3 trái cam mà lại ăn hết 5 trái được. Với trí óc của em, điều đó hoàn toàn hợp lý, không thể khác được. Nhưng nếu em cứ cố chấp với kiến thức hạn hẹp ấy, em sẽ không thể chấp nhận khái niệm về số âm khi em bắt đầu học cấp 2, coi việc lấy số nhỏ trừ số lớn là chuyện bình thường.
Cũng vậy với các học sinh cấp hai. Các em được dạy rằng trong căn hiệu bậc hai không thể có số âm, vì số trong căn hiệu được giả thiết là bình phương của một số, mà đã là bình phương thì không thể là số âm được. Đối với trình độ cấp 2 của các em, điều đó thật hợp lý, và không thể khác hơn được. Nhưng nếu các em cứ cố chấp với kiến thức cố hữu này, các em sẽ không thể chấp nhận được khái niệm về số ảo được dạy trong chương trình giải tích ở đại học, cho phép có số âm trong căn hiệu bậc chẵn.
Còn nhiều thí dụ khác tương tự trong lãnh vực toán học, vật lý, hóa học, sinh học… Tương tự, với những kinh nghiệm và kiến thức trần gian, nếu cứ chấp vào đó, người ta không thể hiểu được những chân lý cao sâu về tâm linh trong tôn giáo. Cứ chấp cứng vào những quan niệm hay lề lối suy tư của tôn giáo này, ta sẽ vô phương hiểu được quan niệm hay lề lối suy tư của các tôn giáo khác. Hoặc cố chấp vào những điều mà ta cho là chân lý bất biến ở trình độ này, ta không thể tiếp thu được những chân lý ở trình độ cao hơn.
3. Ai tự mãn với những gì mình đã biết sẽ không thể biết thêm
Cái lý tất yếu ấy, Đức Giêsu đã nói đến: «Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn» (Mt 11,25). «Các bậc khôn ngoan thông thái» ở đây không có nghĩa là những người khôn ngoan thông thái đích thực, mà đúng hơn là những kẻ tự mãn với sự thông thái của mình, cho rằng sự hiểu biết của mình đã viên mãn, tràn đầy, không cần phải học hay tìm hiểu thêm gì nữa. Một người tuy dốt nát hiểu biết không hơn ai, nhưng lại tự mãn về sự hiểu biết của mình, cũng được liệt vào hạng này. Họ giống như tách trà đã đầy ắp tới miệng, không thể chứa thêm giọt nước nào nữa. Còn «những người bé mọn» ở đây không có nghĩa là những người nhỏ bé, địa vị thấp kém, ít học hành, ít kiến thức, mà có nghĩa là những người tự cho mình là còn biết rất ít, hoặc chưa biết gì cả. Những người này bao gồm cả những người hết sức thông thái nhưng không cho rằng mình biết tất cả, vẫn sẵn sàng lắng nghe và học hỏi nơi người khác. Tâm hồn họ như một ly chưa đầy, sẵn sàng đón nhận những gì từ ngoài vào.
Hai hạng người trên, với thời gian, hạng thứ nhất – tự mãn với những hiểu biết của mình – sẽ không tiếp nhận thêm được gì nữa, nên dần dần sẽ bị lạc hậu khi sống trong một thế giới hay xã hội ngày càng tân tiến. Họ cho rằng những điều họ từng tiếp thu được đã viên mãn, trọn vẹn, là những chân lý bất biến rồi, nên không thể chấp nhận điều gì khác hay ngược với những kiến thức ấy. Họ cố chấp với những hiểu biết ấy, nên không thể tiến xa và lên cao hơn được nữa. Họ như một học sinh cấp một, cứ nhất định rằng không thể lấy số nhỏ trừ số lớn được, nên từ chối không học cấp hai, vì không chấp nhận được khái niệm về số âm. Phật giáo gọi sự cố chấp này là «sở tri chướng», nghĩa là chính sự hiểu biết của mình là chướng ngại cản trở mình hiểu biết thêm. Còn hạng thứ hai, cho dù hiểu biết nhiều tới đâu, vẫn cảm thấy mình còn rất nhiều điều chưa biết, và những gì mình đã biết còn rất phiến diện, thiếu sót, nên không tự mãn mà khao khát và sẵn sàng học hỏi thêm. Vì thế, họ vẫn còn khả năng tiếp thu thêm những điều mới lạ. Socrate, một triết gia lỗi lạc thời thượng cổ, nói: «Điều tôi biết chắc chắn là: tôi không biết gì cả». Những người có thái độ như ông, cho dù có thông thái tới đâu, cũng là «những kẻ bé mọn» mà như Đức Giêsu nói, sẽ được Chúa Cha mặc khải cho những chân lý quan trọng.
4. Bé mọn trong đời sống tâm linh
Để hiểu biết về thế giới vật chất hữu hạn này mà người ta đã phải phá chấp không biết bao nhiêu lần mới có thể tiến bộ và lên cao hơn cấp độ mình đang có. Để hiểu được một giả thuyết khoa học mới, phải chấp nhận giả thuyết cũ là còn thiếu sót. Vật chất hữu hạn mà còn vậy, huống hồ Thiên Chúa vô hạn, siêu việt, siêu nghiệm, không bao giờ hiểu cho hết được! Vì thế, để hiểu biết về Thiên Chúa, nếu ta cứ tự mãn hay cố chấp vào những hiểu biết cũ thì ta sẽ ở mãi trong trình độ thấp kém của mình, không thể tiến xa hơn được. Đúng ra càng sống đạo lâu, sự hiểu biết, khám phá và kinh nghiệm về Thiên Chúa của ta càng phải mới lạ, sâu xa và phong phú hơn. Thánh Phaolô viết: «Với thời gian, lẽ ra anh em phải là những bậc thầy, thế mà anh em lại cần phải để cho người ta dạy anh em những điều sơ đẳng về các sấm ngôn của Thiên Chúa: thay vì thức ăn đặc, anh em vẫn còn phải dùng sữa. Thật vậy, phàm ai còn phải dùng sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính, vì người ấy vẫn là trẻ con. Thức ăn đặc thì dành cho những người đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ» (Dt 5,12-14). Khi còn nhỏ, ta chỉ có thể ăn sữa, và ăn sữa là đủ để ta sống. Nhưng khi lớn lên, thức ăn lỏng như sữa không cung cấp đủ năng lượng cần thiết để ta sống và sinh hoạt.
Cũng vậy đối với đời sống tâm linh. Khi mới bước vào đời sống tâm linh, ta cần dùng một thức ăn tâm linh sơ đẳng: chẳng hạn ta cầu nguyện bằng những lời kinh đã dọn sẵn, nhờ đó ta tập nói chuyện với Chúa. Và lúc đó thức ăn tâm linh đó đủ cho sự sống tâm linh còn non nớt của ta. Nhưng nếu ta không nâng cấp cách cầu nguyện ấy lên, tâm linh ta không thể lớn lên được. Cách cầu nguyện đơn giản ấy không đem lại đủ sức mạnh để ta chu toàn những phận sự ngày càng khó khăn và nặng nề hơn của ta, không giúp ta vượt qua được những trở ngại lớn lao mà ta gặp trên đường đời, và thắng được những cơn cám dỗ mạnh mẽ. Ta cần thực tập những cách cầu nguyện cao hơn: cầu nguyện tự phát bằng chính những tâm tình có thật, những nhu cầu có thật của ta. Hoặc cao hơn nữa, cầu nguyện bằng cách ý thức sâu xa sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta, bằng cách lắng nghe Chúa nói trong đáy lòng ta, bằng sự kết hiệp thân mật với Thiên Chúa… Những cách cầu nguyện cao cấp đem lại cho ta nhiều sức mạnh, nhiều niềm vui hơn, nhờ đó ta có nhiều kinh nghiệm về Thiên Chúa hơn…
Nếu ta tự mãn với tình trạng tâm linh hiện tại của ta, đời sống tâm linh của ta không thể lớn lên và mạnh mẽ được. Trái lại, nếu ta nhìn nhận rằng ta cần phải tiến bộ nhiều hơn, sẵn sàng đón nhận những hiểu biết và kinh nghiệm mới mẻ về Thiên Chúa, những cách thức sống đạo mới hơn, cao hơn, thực tế hơn, bớt hình thức mà đi vào chiều sâu hơn, thì ta sẽ thấy mình dần dần tiến cao hơn, và dễ dàng sống thánh thiện, vị tha, hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân hơn. Nếu cá nhân cần phải loại trừ tính tự mãn mới tiến bộ được, thì các tập thể, kể cả quốc gia, tôn giáo, cũng phải như vậy.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, tâm hồn con nặng trĩu những âu lo, phiền muộn, chỉ vì con đã đặt nặng «cái tôi» của mình nhiều quá. «Cái tôi» của con đã chiếm hết không gian tâm thức của con, và gây ra biết bao xáo trộn, xung đột với tha nhân, với lương tâm, với bổn phận, tạo nên bao phiền muộn, lo lắng, sợ hãi… Cái ách của «cái tôi» thật nặng nề. Xin cho con biết mang lấy ách nhẹ nhàng của Đức Giêsu, bằng cách «từ bỏ mình», là điều kiện đầu tiên mà Ngài đòi buộc những ai theo Ngài phải thực hiện. Từ xưa đến nay, con chỉ mang danh theo Chúa thôi, chứ thực tế con chưa hề theo Ngài bao giờ, vì con chưa hề «từ bỏ mình». Con vẫn coi «cái tôi» của mình quan trọng quá mức! Ai nói động đến con là con nổi tam bành lên. Xin cho con hiểu rằng điều kiện tiên quyết để theo Chúa là từ bỏ chính «cái tôi» của mình. Nhờ thế, những ai theo Chúa đích thực luôn luôn được bình an, hạnh phúc và tràn đầy sức mạnh. (JK)
52. Hãy mang lấy ách của Tôi và hãy học cùng Tôi
Có lẽ chúng ta sẽ nghĩ rằng bài trích sách Dacaria nên đọc vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Thực ra, bài này đã được thánh Mathêu trích dẫn (Mt 21,1-11) và được đọc ngay khi bắt đầu cuộc rước. "Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ"
Dacaria không chỉ nói mơ hồ. Ông cho biết rõ ràng Đấng Messia thuộc Dòng Đavit sẽ như thế nào. Dacaria đã mong một Đấng Mesia như một thủ lãnh không dùng bạo lực. Chỉ cần liếc qua những đầu báo hôm nay cũng thấy những đàn áp vũ lực đối với các cuộc biểu tình ở Syri và Liby. Nhưng ngay cả các nước dân chủ cũng chưa chắc không dính đến bạo lực. Ngược với những kinh nghiệm thông thường của chúng ta. Dacaria mời gọi thính giả của mình chiêm ngưỡng một đấng cứu thế hiền lành, cưỡi trên lưng một con lừa, loài súc vật chở đồ cho người nghèo, chứ không phải chiến mã của các bậc đế vương.
Dacaria chờ mong đấng Messia sẽ chấm dứt các quốc gia hùng mạnh tự mãn về chính mình. Ngài sẽ không phải là một chiến binh, nhưng dẹp qua một bên những vũ khí, chiến xa, chiến mã, cung tên để loan báo hòa bình. Được một người không có đất đai, chư hầu, Đấng không muốn làm người điều khiển cỗ máy chiến tranh đứng ra lãnh đạo - đối với ngày nay có lẽ đó là kiểu lãnh đạo hoàn toàn khác biệt! Chúng ta đã từng nghe những bài phát biểu của các ứng cử viên tổng thống tiềm năng sẵn sàng cho cuộc đua đến chức tổng thống. Cái nhìn của Dacaria chắc chắn thách thức công tác lãnh đạo hiện nay và tiềm năng của đất nước chúng ta, cũng như nhận thức của chúng ta về việc lãnh đạo.
Nơi Đức Giêsu, chúng ta bắt gặp một Đấng cứu thế mà Dacaria đã tiên đoán, trong Bài Giảng Trên Núi, chúng ta nghe Người công bố luật của sự sống cho những ai đón nhận Người. Hôm nay, chúng ta được mời gọi đi vào lời cầu nguyện của Đức Giêsu, tạ ơn Chúa Cha vì đã ban cho Người các môn đệ, những kẻ bé mọn, hiền lành và khiêm nhường.
Thế giới của chúng ta không xem hiền lành và hèn mọn như những lối sống. Thực ra, đó chính là "những kẻ bé nhỏ" bị thế giới quyền lực gạt qua một bên. Người hiền lành không chỉ bị hãm hại, họ còn bị miệt thị, lợi dụng và thậm chí bị giết. Vì thế, sức mạnh và sự quả quyết thì cần thiết để chống lại sự bóc lột những kẻ cô thế cô thân để họ có thể sống trọn vẹn cuộc sống nhân loại. Làm thế nào chúng ta có thể cân bằng giữa việc làm "những kẻ bé mọn" như Đức Giêsu tán dương với Chúa Cha với nhu cầu của chúng ta hiện nay phải dùng sức mạnh để giúp con người thôi bị áp bức? Đó là một vấn đề nan giải. Làm thế nào kẻ mạnh mẽ cũng có thể hiền lành và nhẹ nhàng, thành một trong những "kẻ bé mọn" của Đức Giêsu? Sức mạnh và quyền lực không xóa bỏ sự ôn hòa, hiền lành và phó thác nơi Thiên Chúa.
Ngay trong đoạn trước của bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu bị các Pharisêu cũng như những người trong các thành Người đến rao giảng tẩy chay Người (11,20-24). Ngay cả lúc bị loại trừ, Đức Giêsu vẫn tạ ơn Thiên Chúa vì đã mạc khải sự khôn ngoan cho "những kẻ bé nhỏ". Trong bài đọc hôm nay, một lần nữa Người trình bày cho các môn đệ biết những phẩm cách của những ai là thành viên của Thiên Quốc.
Cái "ách" của luật Dothái được xem như đặc quyền của những người Dothái nhiệt thành, vì nó cho thấy hồng ân của sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏ ra trong sống hàng ngày. Giờ đây, Đức Giêsu xem mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Con người có thể học từ luật lệ, phong tục và giáo huấn của đạo, nhưng nguồn mạch căn bản giúp chúng ta hiểu đường lối của Thiên Chúa thì không hệ tại nơi những kến thức đó. Nhưng là nơi việc đón nhận Đức Giêsu và sứ điệp của Người. Thực ra, việc tuân giữ lề luật cách tỉ mỉ có thể khiến cho cho người ta ra tối tăm trước tự do của Thần Khí mà Đức Giêsu ban tặngcho chúng ta. Đức Giêsu cho rằng hiểu biết về Thiên Chúa thì không phải chỉ nhờ vào những theo đuổi của con người - dù là với ý hướng tôn giáo tốt nhất. Người nói, "Cha đã giao phó mọi sự cho tôi". "Mọi sự" - mạc khải trọn vẹn về Thiên Chúa mà chúng ta tìm thấy nơi Đức Giêsu. Người sẵn sàng bày tỏ "mọi sự" về Thiên Chúa cho chúng ta.
Đức Giêsu nói cho những người nghèo, kẻ dốt nát và những ai bị áp bức. Họ phải lo lắng, vật lộn để sống qua ngày. Họ không có nhiều thời gian và cũng chẳng được đi học để mà nghiên cứu những luật lệ, truyền thống về niềm tin của họ như cách các Pharisêu thường làm. Đức Giêsu kết án các Pharisêu chất những gánh nặng lên vai người nghèo còn bản thân họ lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Những người phải bươn trải kiếm sống không thể đọc hay nghiên cứu luật, vì thế họ vô tình phạm luật, và kết quả là bị những kẻ thông luật kết án.
Đức Giêsu mời gọi những người bị xem như "kẻ phạm luật", "hãy theo Tôi". Người ban cho họ một cái ách, là sự đón nhận tình yêu và ơn tha thứ của Thiên Chúa mà Người ra giảng. Chẳng phải họ thấy nhẹ hơn khi biết rằng mình không phải là những tội nhân, những kẻ bên ngoài như họ từng bị cáo buộc sao? Nay, qua Đức Giêsu, họ cảm nhận được lòng tha thứ của Thiên Chúa và lối sống của Đức Giêsu. Chúng ta cũng nên tắc mắc: chẳng phải sứ điệp của Đức Giêsu về tình yêu của Thiên Chúa và sự sẵn sàng tha thứ mang lại cho chúng ta một gánh nhẹ nhàng hơn và cảm nhận đến gần Thiên Chúa khi chúng ta cần đó sao?
Trong đoạn văn này của Mathêu, chúng ta có hai chọn lựa - tin hay không tin. Nhưng việc tin tưởng vào Thiên Chúa thì không hê tại ở nỗ lực của chúng ta. Nhưng, tin là hồng ân của Thiên Chúa và không tin là vì sự ngạo mạn và kiêu hãnh của những người từ chối tặng phẩm của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Hôm nay, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết Người chính là mặc khải về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho chúng ta. Người mời gọi những ai bị áp bức hãy tin vào người. Vì họ, "những kẻ bé mọn", sẽ không phải mang những gánh nặng hay trói buộc tôn giáo nào. Những "kẻ bé mọn" là những người xuất hiện trong toàn bộ Tin mừng, chẳng hạn như những người thu thuế, gái điếm và những người tội lỗi, những người đã lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giêsu. Giờ đây, Đức Giêsu mang lại sự nghỉ ngơi lâu dài và mãi mãi của thời đại Messia, là thành quả của việc Người đến thế gian.
Chẳng phải lạ lắm sao khi mà vừa nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi lại vừa nghĩ đến chuyện mang ách?Ách là một công cụ để làm việc, cho cả con người và súc vật. Cái ách là để thi hành một tác vụ. Đối với chúng ta, đó là để phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Một điều chúng ta thấy được từ Đức Giêsu là cái ách của Người không phải là gánh nặng; thánh Phaolô nói cái ách đó dẫn chúng ta đến tự do. Khi chúng ta đón nhận cái ách của Đức Giêsu thì chúng ta cũng đón nhận Ngài như người luôn trợ giúp chúng ta, một người "cùng mang ách" với chúng ta. Điều đó giải thích việc làm thế nào người Kitô hữu có thể hoàn thành được những nhiệm vụ hết sức khó khăn và thậm chí bất khả thi, cho dù là tử đạo, nhờ Danh Đức Giêsu.
Chúng ta đã cố hết sức để có được nền giáo dục đào tạo mà chúng ta cần để sống nốt cuộc đời này. Chúng ta muốn sự yên ổn cho chính chúng ta và gia đình mình. Chúng ta có lẽ cũng đã tăng cường vốn kiến thức và kỹ năng cho mình bằng những khóa học thêm, cố gắng hơn và tốn kém hơn. Chúng ta có lý do chính đáng để thu thập được càng nhiều kiến tthức càng tốt. Đó không phải là những gì Đức Giêsu phê phán khi người đề cập đến những kẻ "khôn ngoan và thông thái" - trừ khi việc "khôn ngoan và thông thái" ấy che đậy bản chất mỏng dòn của chúng ta và cho chúng ta cảm giác sai lầm về sự an toàn ở ngoài Thiên Chúa. Chúng ta có thể vừa "khôn ngoan và thông thái" vừa ở trong số "những kẻ bé mọn" mà hôm nay Đức Giêsu đã dâng lời cầu nguyện và tạ ơn cho.
Ở đoạn trước trong Tin mừng Mathêu, Đức Giêsu chúc phúc cho những ai "có tinh thần nghèo khó" (Mt 5,3) như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Những người đọc Sách Thánh sẽ nhận ra rằng khi Đức Giêsu nói đến "những kẻ bé mọn" là người đang lấy lại hình ảnh của Kinh Thánh bản Hippri, từ "anawim" - có nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang. Họ chẳng có gì để có thể khoe khoang thế giới. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.
Trong Thánh lễ này, giống như những "anawin", chúng ta đón nhận sự khao khát Thiên Chúa của chúng ta và khiêm tốn nài xin: "Con chẳng có gì để kiêu hãnh trước mặt Chúa, lạy Thiên Chúa Chí Thánh. Con hoàn toàn phụ thuộc vào ân sủng của Người". Thiên Chúa thấy được sự trống trải của chúng ta và đổ đầy trong chúng ta nguồn lương thực tốt nhất, là Mình và Máu của Đấng đang mời gọi chúng ta hôm nay, "Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường".
53. Xin chậm lại để có thể nhanh chóng học hỏi.
Có một câu chuyện về một nhóm người đang bay trên một chiếc phi cơ quân đội đến Âu Châu. Cùng với hai phi công, còn có một nhà ngoại giao lừng danh đang ôm lấy một chiếc cặp tài liệu cồng kềnh; một vị tướng ngực đầy chịt những huy chương; và một anh binh nhì đang ôm lấy ba-lô của anh. Chiếc phi cơ bị trục trặc máy móc và phi công loan báo là không thể bay được nữa. "Chúng ta cần phải bỏ máy bay," anh nói. Trong khi anh phát những chiếc dù ra, thì sự kiện xảy ra là chỉ có bốn chiếc dù; thiếu một chiếc. Ngay lập tức, một cuộc tranh luận xảy ra xem coi ai sẽ bị bỏ lại. Ông phi công nói: "Bây giờ đang trong lúc thiếu hụt phi công và như thế tôi rất là cần thiết. Một chiếc dù phải thuộc về tôi." Trong lúc ông mang dù vào và nhảy thì ông phi công phụ cũng nói: "Tôi cũng rất là cần thiết với cùng một lý do." Trong lúc ông mang dù vào và nhảy thì ông tướng nói: "Qua kinh nghiệm luyện tập và chiến đấu, tôi có thể thống lĩnh toàn thể cả Quân Đội hầu sẽ bảo an cho nhiều người." Trong khi ông tướng màng dù và nhảy thì nhà ngoại giao lừng danh lên tiếng: "Tôi thường được coi như là người thông minh nhất trên thế giới này. Sự sống của tôi cần phải được bảo toàn cho phần tốt của mọi người." Trong khi ông mang dù và nhảy thì anh binh nhì nói với chính mình: "Cho chết ông thông minh nhất thế giới -- lại đi mang ba-lô của tôi."
Nhìn vào xã hội hỗn loạn ngày nay, chúng ta có thể đưa ra những lý do để mà tự hỏi nếu quyền thống trị thế giới đang trong tay những người thông minh thế giới. Đấy chính là một lý do tại sao thật là an ủi khi nghe Lời cam đoan của Chúa Giêsu trong Bài Tin Mừng hôm nay: "Hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học cùng Ta" (Mt 11:29). Cố nhiên, chúng ta còn có nhiều điều để mà học hỏi. Thế nhưng hãy ca khen Thiên Chúa vì đang dẫn đưa chúng ta hôm nay đến một Nguồn rất chắc chắn của mọi sự khôn ngoan chân thật.
Thư của Thánh Giacôbê chỉ bảo cho chúng ta "hãy mau nghe, đừng vội nói, và đừng vội giận. Vì khi giận, người ta không thực hiện được sự công chính của Thiên Chúa" (Jas 1:19-20). Không hiểu tại sao, chúng ta như đi ngược lại phương thức đó, trở nên chậm nghe, mau nói, và dễ tức giận. Chúng ta có thể nhìn thấy sự thể này trên phương diện thế giới nơi mà đang có khoảng bốn mươi hai cuộc chiến tranh đang xảy ra, và trên phương diện cá nhân nơi mà hạnh phúc được mưu cầu trong sự khác nhau của những khu vực tác chiến.
Một người phụ nữ, đời sống thật là đầy những căng thẳng, di chuyển với gia đình từ thành thị về nơi thôn quê. Cả nhà quyết tâm giảm bớt đi những căng thẳng và lo lắng mà họ đã sống qua hầu sống một đời sống mới an nhàn thoải mái hơn. Một người hàng xóm đến thăm người mẹ trong gia đình thì thấy trên bảng nhắc nhở có cắm một cái gì đó. Bà liền hỏi nó là gì thì người mẹ trả lời, "Ồ, đấy chính là bài thơ tượng trưng cho những gì mà chúng tôi di chuyển đến đây. Bài thơ này mở đầu rằng, 'Lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con chậm lại...' Thế nhưng, tôi vẫn chưa có đủ thì giờ để đọc phần còn lại."
Chúng ta hãy chậm lại hầu chúng ta có thể mau mắn lắng nghe Lời Ngài về an bình và tình huynh đệ. Chúng ta hãy chậm lại hầu chúng ta có thể mau mắn lắng nghe rằng đời sống của chúng ta không phải là đi ra khỏi trần thế này mà là đi nhập vào trong chính thế gian này để chăm nom. Chúng ta hãy chậm lại hầu chúng ta có thể mau mắn học biết "tốt đẹp dường nào và dịu ngọt dường nào khi anh em sum vầy với nhau" (Ps 133:1). Cộng đồng dân Chúa cùng tụ họp lại để trở nên gương mẫu của sự bình an, hiệp nhất và tình huynh đệ.
Trong một mẫu chuyện hoạt hình, "Kudu", có một người đàn ông tên "Thầy Giảng Dunn" tiến đến bục giảng và nói với cộng đồng rằng: "Anh chị em thân mến, hôm nay tôi muốn làm một bài kiểm tra -- kiểm tra tinh thần. Bài kiểm tra này sẽ đánh giá cấp bật phát triển tinh thần của toàn thể cộng đồng. Sửa soạn! Câu đầu tiên! Hãy làm hoàn tất câu: 'Ai vả má phải các ngươi...'" Ngay lập tức, có nhiều lời xì xào trong cộng đồng: "Trói hắn lại!... thanh toán nó đi!" Sau đó, thầy giảng Dunn nói, "Tôi buộc phải chấm theo tinh thần Chúa Kitô."
Chúng ta cho điểm mình không đến nỗi tệ trong việc theo Đức Kitô. Chúng ta có đủ tín nhiệm vào Chúa Giêsu để thực thi sứ mệnh được phát thảo để đối đầu với sự dữ với quyền lực của tình yêu không? Chúng ta có đủ tin cậy để dám liều trở nên những sứ giả bị xiềng xích không?
Lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con chậm lại hầu chúng con có thể mau mắn học biết chương trình Thiên Chúa cho an bình và tình huynh đệ, hoà hợp và công bình. Lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con chậm lại hầu chúng con có thể mau mắn học biết làm thế nào ôm ấp thế giới trong tình yêu.
54. Con số không
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Truyện Tây Du Ký kể lại cuộc hành trình của thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh Kinh, đem về phổ biến cho dân gian.
Trên cuộc ra ra đi đầy gian nan thử thách của thầy Tam Tạng, không chỉ là núi rừng hiểm trở với yêu ma quỷ quái, mà còn là những tật xấu của ba người đồ đệ thân tín. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa tăng, ba tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Đường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt chánh quả. Đó là tính kiêu căng, lòng ham vật dục và sự lười biếng.
***
Trên cuộc hành trình về quê trời, mỗi người tín hữu cũng phải vượt qua bao gian nan thử thách, pải chiến đấu với những cơn cám dỗ triền miên. Thấu hiểu nỗi truân chuyên của con người, hôm nay Đức Giêsu đã kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồ dưỡng” (Mt 11,28).
Hãy đến với Người, tất cả những ai đang phải “bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, những ai “đầu tắt mặt tối” để kiếm sống, những ai “thấp cổ bé miệng”, Người sẽ ủi an bổ sức, sẽ cho họ được an dưỡng nghỉ ngơi.
Hãy đến với Người, tất cả những ai đang mang gánh nặng của quá khứ tội lỗi, của hiện tại yếu hèn, của tương lai chống chênh, Người sẽ xoa dịu vỗ về, sẽ ban cho họ sự bình an thanh thản.
Đức Giêsu còn tha thiết mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi… Vì ách của tôi êm ái, và gánh tội nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Nếu bất ngờ chúng ta bị một “cái ách giữa đàng mà quàng vào cổ” thì thật là gay go. Nhưng nếu chúng ta tình nguyện đón nhận cái ách của Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hàng ngày, thì cái ách của Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hàng ngày, thì cái ách kia sẽ trở nên êm ái, và gánh kia sẽ nhẹ nhàng. Vì chính con đường chúng ta đang tiến bước là con đường tình yêu, hành trình mà chúng ta đi tới là hành trình Nước Trời.
Chính trong tình yêu mà chúng ta cảm thấy bình an giữa cơn giông tố, niềm hân hoan trong lúc khổ đau.
Chính trong tình yêu mà cái ách sần sùi trở nên êm ái, và cái gánh nặng nề hóa ra nhẹ nhàng.
Thánh Augustine nói: “Nơi đâu có tình yêu thì không có vất vả, mà nếu như có vất vả thì người ta cũng yêu cả nỗi vất vả ấy”.
Để có được thanh thản giữa bao lo toan của cuộc sống, để có được bình an giữa muôn bão tố cuộc đời, để có được thư thái giữa bao gánh nặng chồng chất, chúng ta hãy học nơi Thầy Giêsu: “Hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).
Kẻ kiêu ngạo phô trương, cậy mình khôn ngoan tài đức, nên chẳng mấy ai ưa, mà Thiên Chúa cũng khinh chê loại bỏ. Còn người hiền hậu khiêm tốn nhận mình bé mọn, chỉ biết cậy dựa vào Chúa, nên được mọi người quí mến, mà Thiên Chúa lại yêu thương và ban cho Nước Trời, Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Một ly nước đầy không thể đổ thêm thứ gì vào đó. Cũng vậy, một kẻ chất đầy kiêu căng tự mãn thì không còn chỗ cho Thiên Chúa dạy dỗ và ban ơn. Chỉ có những tâm hồn nhận mình bé mọn, nhận mình là con số không, là trống rỗng thì lại có đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng.
Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy chúng ta này sống “hiền lành và khiêm nhường”.
Là Thiên Chúa cao cả quyền năng, nhưng Người lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân để yêu thương và cứu chộc con người (Pl 2,7-8).
Người không lên án người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang mà còn cứu bà khỏi trận mưa đá hãi hùng.
Người không khiến lửa trời xuống đốt cả làng Samari theo đề nghị của hai môn đệ háo thắng.
Người ví mình như người cha nhân hậu tha thứ cho đứa con hoang đàng.
Người xem mình như mục tử nhân lành chăm sóc từng con chiên.
Người xin Cha tha thứ cho những kẻ lăng nhục, hành hạ, và đóng đinh Người.
Tột đỉnh của sự “hiền lành và khiêm nhường” nơi Đức Giêsu chính là Người đã hạ mình, vâng lời cho đến chết, và chết trên cây thập tự mây cứ thong thả bay, suối cứ lững lờ trôi. Và lời kinh cứ tiếp tục xuôi thời gian gởi vào cuộc đời: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Trong cõi lòng hiền lành và khiêm nhường bao giờ cũng gói trọn con tim bao dung độ lượng.
***
Lạy Chúa, xin dạy chúng con sự hiền lành , để chúng con có được tất cả thế giới là anh em. Xin dạy chúng con sự khiêm nhường, để chúng con có Chúa là tất cả cho cuộc đời chúng con. Amen.
55. Chướng ngại
Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong việc cầu nguyện.
Anh sinh viên nhìn cụ già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: - Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?
Cụ già thản nhiên đáp:
- Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Anh sinh viên cười ngạo nghễ rồi nói:
- Lúc còn con nít tôi có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa. Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già khiêm tốn hỏi:
- Cậu vừa nói về những khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?
Anh sinh viên hăng hái trả lời:
- Được chứ. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự phong phú kỳ diệu của nó.
Cụ già rút trong túi ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh thiếp có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế, nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón nhận được những mặc khải của Người.
Còn anh sinh viên kia khả năng và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ về sự hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên Chúa, đã làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã không thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người trong cuộc đời mình.
Thời đại hôm nay nền khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày càng phát triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những tiến bộ và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám phá của mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã che mờ đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho họ.
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta chọn thái độ của nhà bác học Louis Pateur hay của anh sinh viên trong câu chuyện trên?
56. Sự khiêm nhường của Thiên Chúa
Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng nhưng cũng là Đấng khiêm tốn và quảng đại vô cùng. Ba Ngôi cho đi tất cả, không hướng về bản thân mình nhưng hướng về hai Ngôi kia trong một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn lực và là mẫu mực về tình yêu thương phục vụ cho loài người chúng ta.
Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc loài người. Ngài là Tạo Hoá mà lại rất mực quan tâm đến loài thụ tạo chúng ta. Ngài biết rõ mọi sự và có dư khả năng để bắt loài người luôn vâng lệnh Ngài. Tuy nhiên, khi đến với loài người, Ngài tỏ lòng từ bi, nhân ái đối với loài người. Ngài là Tạo hóa mà lại chấp nhận ban cho loài người quyền tự do: tự do vâng phục và tự do... chống đối Ngài, có khả năng xúc phạm đến Ngài. Thiên Chúa vẫn một lòng thương cho dù con người có lỗi phạm nặng nề. Điều đó biểu hiện nơi Chúa Giêsu, nơi lòng thương xót của Ngài. Trên Thánh giá, Chúa Giêsu còn nói lời tha thứ cho những kẻ giết hại mình: xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết. Từ lúc chưa nhập thể thì Ngôi Hai đã biết mình sẽ nhập thế cứu chuộc cho ai rồi: những người tội lỗi, đang xa lìa Chúa và thường xuyên lỗi lời Chúa dạy. Dầu con người hay lỗi phạm đến thế, Chúa vẫn tìm dịp cho con người hoán cải. Có lúc Chúa cảnh cáo và đe phạt nặng nề, nhưng không tiêu diệt. Khi con người hoán cải thì Ngài lại thương tiếp tục ban ơn, thể hiện lòng nhân từ đối với loài người tội lỗi. (vd: Xh 33, 3t)
Sự khiêm nhường của Thiên Chúa biểu lộ rõ nơi Chúa Giêsu, một tấm gương khiêm nhường tuyệt hảo. Từ khi nhập thể, Ngài đã biểu lộ rõ sự khiêm nhường: đến ở trong một gia đình nghèo, trong một làng nghèo miền Galilê xa thủ đô. Ngài sinh trong dòng tộc vua Đavid nhưng là một dòng tộc lúc đó đã hết quyền và nghèo khổ. Ngài còn chấp nhận sinh ra trong hang chiên lừa, bị bắt bớ, bị coi thường. Lúc đi giảng đạo, chắc Chúa phải nghe nhiều lần câu: Ông ấy là con bác thợ mộc Giuse, ở Nazarét nào có cái chi hay, còn ông này chúng ta biết rõ từ đâu tới... (x.Mt 13,55). Chúa Giêsu đã khiêm tốn chịu sự hiểu lầm đó và phó thác hoàn toàn cho Chúa Cha định liệu. Ngài đi rao giảng nhưng kết quả trước mắt không được mỹ mãn, Ngài lại bị kết án oan do sự phạm thượng của con người. Ngài lại chẳng oán phạt. Ngài trở nên con chiên hiền lành trong tay Chúa Cha và để cho loài thụ tạo mặc sức hành xử! Đó không phải là gương khiêm tốn và phó thác vô cùng của Thiên Chúa sao?
Noi gương Chúa, chúng con sẽ sống đạo trong tinh thần khiêm hạ và nhận ra sự thật về chính mình. Chúng con chỉ là loài hay chết, đầy giới hạn và yếu đuối. Tất cả là nhờ ơn Chúa. Do đó, chúng con cần hạ mình, chấp nhận cuộc sống nghèo, biết cộng tác với ơn Chúa và nổ lực đáp trả lời Ngài mời gọi. Chúng con xin cám ơn Chúa đã hiện diện và ban ơn từng giây phút trong cuộc sống của mỗi người chúng con. Chúng con là loài thụ tạo, chẳng đáng là gì trước mặt Chúa vậy mà nhiều lúc lại quá ngạo mạn khi cho rằng Chúa phải cho mình điều này điều kia. Chúng con thật quá vô tình khi đi lễ và giữ điều luật cách bó buộc: để khỏi bị phạt chứ không vì thương mến Chúa. Chúng con chưa biết học hỏi sự khiêm tốn và tình thương Chúa biểu hiện nơi Đức Kitô mà chỉ biết có mình! Chúa đã yêu thương hết mình vì chúng con, chẳng tiếc gì kể cả Người Con Một, vậy mà khi làm được chút việc lành (mà nhiệm vụ chúng con phải làm), chúng con đòi Chúa phải đáp ứng những yêu sách của chúng con; khi Chúa nhờ vác chút thập giá, chúng con đôi co với Chúa và tìm cách thoái thác dù biết rằng điều chúa muốn là tốt cho chúng con.
Lạy Chúa, rất nhiều khi chúng con tỏ ra nông nổi, không biết nhận ra và đáp trả tiếng Chúa, xin Chúa thứ tha và ban ơn trợ giúp cho đức tin yếu hèn của chúng con. Chúng con sẽ noi theo tinh thần khiêm tốn của Người mà phục vụ và chu toàn trách nhiệm được giao trong tình yêu Chúa.
57. Hiền lành
Trước hết, chúng ta biết hiền lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám mối phúc: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Rồi hôm nay, chúng ta lại thấy Chúa nói: “Hãy học với tôi vì tôi hiền lành”. Có lẽ không ai dám khuyên một lời như thế. Chúa Giêsu đả đưa ra lời khuyên đó, vì chính Ngài đã sống gương mẫu và kêu mời mọi người hãy sống như thế để chính mình được an bình, hạnh phúc, và đồng thời cũng đem lại bình an và phúc lộc cho những người chung quanh.
Quả thực, Chúa Giêsu đã sống hiền lành và làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta có thể nêu ra một số trường hợp cụ thể: Chẳng hạn, khi những người Pharisêu nhục mạ Ngài là bị quỉ ám, Ngài vẫn bình thản và nhắc nhở họ: “Đừng xét đoán theo bề ngoài. Hãy xét đoán cho công minh”. Chúa rao giảng giáo lý của Chúa một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Nhiều khi thấy đương đầu với họ không có lợi, Ngài tự ý lánh đi, để cho sự tức giận hay ghen ghét của họ dần dần lắng xuống. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức, phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài đã tắt thở và an nghỉ trong sự suy phục sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài một cách toàn vẹn: “Mọi sự đã hoàn tất”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.
Đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã sống hiền lành một cách trọn vẹn, nên Ngài dám nói, dám kêu gọi chúng ta hãy học, hãy sống như Ngài. Ngài thực sự là mẫu gương cho mọi người. Qua mẫu gương hiền lành của Chúa, chúng ta rút ra được ý nghĩa của sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng.
Người hiền lành là người làm chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được cái tôi kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình. Trong mỗi người có hai phần: phần thượng là ơn thánh, lý trí và ý chí. Còn phần hạ là cái dục vọng. Chiến thắng được chính mình là biết dùng ơn Chúa, dùng lý trí và ý chí điều khiển các dục vọng của mình, không để ngoại cảnh hoặc người khác chi phối, không phản ứng theo niềm vui nỗi buồn để đưa mình lên hay hạ người khác xuống.
Cũng thế, người hiền lành thì kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc hay những điều ngoài ý muốn của mình. Không tự mãn hay phóng đại công việc của mình, khoe mã, cầu danh, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, bắt bẻ hay bực tức về chuyện sơ suất của người khác. Chúng ta mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi sở thích, và có những khả năng, tài năng khác nhau, không ai giống ai. Chúng ta sống với nhau, chúng ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng để hòa hợp với nhau, chia sẻ cho nhau. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau. Chịu đựng chấp nhận cái hay cái tốt của người khác thì dễ nhưng chấp nhận chịu đựng cái xấu cái dở của người khác mới khó và đó mới là nhân đức. Có những trường hợp chúng ta phải chịu đựng, chấp nhận không phải một hai lần mà rất nhiều lần. Chấp nhận và chịu đựng được mới thực sự là người hiền lành.
Lại nữa, bao lâu còn là người, chúng ta còn lỗi lầm, còn cần được sửa sai, còn cần được tha thứ, và tha thứ mãi. Tha thứ nhiều là dấu chúng ta chịu đựng nhiều. Tha thứ nhiều sẽ chứng tỏ được tấm lòng quảng đại bao dung làm cho thêm bạn bớt thù. Tha thứ không phải là yếu thế hơn người được tha thứ, nhưng chính là tấm lòng rộng lớn hơn họ. Càng tha thứ sẽ làm cho đối phương nhận ra lỗi lầm của họ và họ sẽ thấy cần được tha thứ hơn. Cho nên, người nào muốn tập đức tính hiền lành là phải tập tha thứ.
Có lẽ tất cả chúng ta đều phải thú nhận mình còn thiếu rất nhiều đức tính hiền lành. Sống trong gia đình và sống trong bất cứ tập thể nào, chúng ta vẫn còn nhiều lần tỏ ra thiếu hiền lành, chưa hiền lành hoặc không hiền lành. Cho nên, Lời Chúa hôm nay thực là một bài học hữu ích, một lời kêu gọi chúng ta hãy sửa chữa hoặc cố gắng hơn nữa, để sống hiền lành. Nếu lịch sự được coi là bông hoa của đức ái, thì huống nữa là hiền lành. Vì thế, Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy sống theo gương mẫu hiền lành của Ngài.
58. Chúa Cha
Biết được một người quan trọng đem lại niềm vui cho chúng ta. Tuy nhiên, biết thường chỉ có nghĩa là biết những sự kiện về người đó. Không biết một người khác theo cách đó chỉ có được một kiến thức nông cạn về người ấy.
Thật sự biết một người là phải có một quan hệ với người ấy, một quan hệ có nền tảng là yêu thương và tin cậy. Và cũng thế khi chúng ta muốn biết mình có được người khác hiểu biết và yêu thương không.
Trong cuốn sách viết về tiểu sử của George Washington, Richard Brookhiser nói:
“George Washington ở nơi chúng ta mỗi ngày, trên những tờ đô la và các khu phố. Từ núi Rushmore, ông nhìn xuống chúng ta. Trong thủ đô mang tên ông, ông có một đài tưởng niệm nổi tiếng nhất. Hơn bất kỳ người Mỹ nào, tên ông được dùng để đặt tên cho các trường học, đường phố, thành phố. Các nhà sử học xếp ông vào số những Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ”.
“Tuy nhiên, sự hiện diện của Washington không biến thành sự thân mật. Ông có mặt trong sách giáo khoa, trong ví tiền, nhưng không hiện diện trong tâm hồn chúng ta. Khuyết điểm này một phần do Washington, khi ông có khuynh hướng giữ khoảng cách giữa mình với dân chúng”.
Một số người coi Thiên Chúa như xa xôi cách biệt, không thật sự liên quan đến chúng ta và những đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, những người khác coi Thiên Chúa như một quan tòa, hoặc một thám tử sẵn sàng tóm lấy chúng ta để trừng phạt.
Đức Giêsu biết Chúa Cha và Chúa Cha biết Người. Điều này làm Người đầy tràn niềm vui. Vì Đức Giêsu biết Chúa Cha nên Người có thể mạc khải Chúa Cha cho người khác, đặc biệt cho những ai sẵn sàng cởi mở và đón nhận như con cái. Đức Giêsu mạc khải Chúa Cha như một người Cha yêu thương, từ bi hay tha thứ. Một Thiên Chúa âu yếm, quan tâm đến chúng ta. Người quan tâm đến chúng ta không phải để xét đoán và lên án chúng ta nhưng để chữa lành và cứu chuộc.
Nhiều người được gọi là thông thái đã từ bỏ Đức Giêsu, nhưng những người đơn sơ đã chấp nhận Người. Những người trí thức không cần đến Người, nhưng Người khiêm nhu lại chấp nhận Người. Sự kiêu ngạo trí thức là một điều nguy hiểm. Người đơn sơ gần gũi Thiên Chúa hơn người thông thái.
Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”.
Đức Giêsu không lên án khả năng trí thức nhưng tính kiêu ngạo tri thức. Không thể gọi là thông minh, sáng suốt khi khước từ Thiên Chúa, đó là lòng kiêu ngạo. Và không phải ngốc nghếch khi để cho Thiên Chúa bước vào đời sống mình. Đó là sự khiêm nhu.
Vì Đức Giêsu đã đến với chúng ta nên chúng ta không còn coi Thiên Chúa như một Đấng xa vời. Chúng ta nhìn thấy Người như một Đấng rất gần với chúng ta, biết rõ mỗi người chúng ta và quan tâm đến từng người một, vì chúng ta là con cái của Người. Người là Thiên Chúa đặc biệt cho người yếu đuối, nghèo khó và gánh vác nặng nề.
Khi đức tin là vấn đề của chỉ cái đầu, đức tin trở thành một việc lạnh lùng tri thức. Kết quả là Thiên Chúa vẫn ở bên ngoài chúng ta, một hình ảnh xa xôi, cách biệt. Nhưng đức tin không phải là vấn đề của cái đầu. Đúng ra nó là vấn đề của tâm hồn. Khi đức tin cắm rễ trong tâm hồn, Thiên Chúa trở nên gần gũi và âu yếm. Như thế đức tin trở thành một quan hệ ấm cúng với Thiên Chúa. Biết Thiên Chúa theo cách này, và có một liên hệ thương yêu với Người, sẽ tạo ra cho chúng ta một niềm vui cao cả. Thiên Chúa giống như một mùa xuân ở giữa chúng ta để mọi người trở nên tươi tỉnh và nâng ly chúc tụng.
59. Mang lấy ách của Chúa
Cuộc sống nơi miền quê cho chúng ta kinh nghiệm về làm đồng, nơi đó chúng ta chúng kiến cảnh những con trâu, bò mang lấy ách để cày những thửa ruộng, liếp vườn. Nên ngay khi chúng ta nghe Chúa Giêsu kêu gọi: "Hãy mang lấy ách của Ta,... vì ách của Ta thì êm ái, còn gánh của Ta thì nhẹ nhàng". Đã là ách thì làm sao mà êm ái, đã là gánh thì làm sao mà có thể nhẹ nhàng được. Kinh nghiệm trong thực tế cuộc sống không dễ cho con người chúng ta cảm nhận được lời nầy của Chúa Kitô.
Theo truyền thống Do thái, lề luật được xem như là một cái ách đè nặng trên dân chúng mà họ không thể thoát ra được. Thiết tưởng chúng ta cũng nên biết, Lề Luật của Thiên Chúa ban cho dân Do thái là vì tình thương họ, hướng dẫn họ sống đẹp lòng Chúa. Nhưng qua dòng lịch sử, người ta đã thêm vào đó những giải thích theo ý con người làm cho lề luật trở thành một gánh nặng mà người theo đạo khó gánh vác nổi. Như thế ách là một cái gì đang đè nặng là cho phải nặng nhọc hơn cho những ai phải vác lấy nó.
Tuy nhiên chúng ta cũng nên biết rằng cái ách không chỉ là một cái gì đè nặng mà còn là cái gì đó để liên kết và chia sẻ. Hai con trâu, hai con bò cần có cái ách để nó chia sẻ nỗi khổ nhọc. Trong chiều hướng này chúng ta sẽ thấy và hiểu rõ hơn câu nói của Chúa Giêsu: "Hãy mang lấy ách của Ta,... vì ách của Ta thì êm ái, còn gánh của Ta thì nhẹ nhàng". Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải vất vả gánh nặng thêm mà Ngài muốn chúng ta hãy để cho Ngài cùng chung vai sát cánh với chúng ta, chia sẻ nỗi vất vả của chúng ta. Lời Chúa dạy là những giới răn mới không phải để trói buộc con người trong sự nô lệ của tội lỗi, của lề luật mà là nô lệ trong tình yêu Thiên Chúa, mà nô lệ trong tình yêu thì chính là sống và chết cho tình yêu Thiên Chúa để đáp lại tình Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta. Vậy ách của Chúa quả là nhẹ nhàng thực sự vì nó mang lại cho ta sự tự do thực sự, tự do trong tinh thần nghĩa tử. Mang lấy ách của Chúa là để Chúa nâng đỡ bổ sức cho chúng ta.
Trong cuộc sống con người ai ai cũng sẽ gặp những khốn khó vất vả trong cuộc sống. Vì thế, người ta thường ví đời là bể khổ, đời là vũng nước mắt.... Nhưng làm sao có thể vượt qua những vất vả này. Thưa là hãy cùng Chúa vượt qua và Ngài mời gọi chúng ta. Ngài là vua hoà bình, vua bình an. Ngài sẽ quét sạch mọi đau thương khốn khó, Ngài sẽ làm khô những giọt lệ trên khoé mắt chúng ta.
Muốn được như thế mỗi người chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để Chúa cùng hành động với Chúa, chẳng những Chúa bằng lòng mà lại vui lòng nữa khi ta biết để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta cảm nhận được sức mạnh của Chúa trong cuộc sống để chúng ta biết phó thác cho Chúa cuộc đời chúng ta, để Chúa hướng dẫn chúng ta và để Chúa hoàn thành tất cả những gì là đẹp lòng Chúa.
60. Hãy đến với Ta
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe lời kêu mời tha thiết của Chúa Giêsu: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi". Mỗi người chúng ta có lẽ giờ phút này cũng mang đến đây một gánh nặng, gánh nặng của những âu lo trong cuộc sống và nhất là gánh nặng của tội lỗi đang đè nặng trong lương tâm của ta.
Tin ở tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mang những gánh nặng đó cho Chúa Giêsu để xin Ngài tiếp tục độ trì, nâng đỡ chúng ta và tin ở tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta cũng mang đến cho Ngài những gánh nặng tội lỗi của mình để xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Người đã làm một cử chỉ mang nhiều ý nghĩa cao cả, đó là Ngài đã tuyên bố phục hồi danh dự cho ông Galilê, người đã bị Giáo Hội ở thế kỷ XVII kết án là lạc đạo, vì ông cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời.
Từ hàng bao thế kỷ qua, nhiều người xem ông Galilê như là nạn nhân của một Giáo Hội độc đoán, áp bức đối với con người. Và hiện nay không thiếu những người vẫn tiếp tục nhìn vào Giáo Hội như một sức kéo trì trệ, ngăn cản bước tiến của nhân loại. Với việc phục hồi danh dự cho ông Galilê, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không những nhìn nhận một lỗi tầm của quá khứ, mà Ngài còn khẳng định một nguyên tắc nền tảng về sự tự trị của tôn giáo và khoa học.
Trong sứ điệp gởi cho vị giám đốc của đài thiên văn Vatican năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định như sau: "Tôn giáo không xây dựng trên khoa học, và khoa học cũng không là một nối dài của tôn giáo". Mỗi bên có một phương pháp, một nguyên tắc, một cách giải thích và những kết luận riêng của mình. Vì thế, Kitô giáo tự biện minh cho mình mà không dựa vào khoa học.
Lời tuyên bố trên đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đưa chúng ta vào một trong những chân lý nền tảng của Kitô giáo, chân lý đó là: “Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho con người". Điều đó có nghĩa là không phải tìm kiếm, lý giải uyên bác thì con người mới đạt được đức tin. Nói như triết gia kiêm nhà toán học người Pháp là Pascal: "Muốn có đức tin thì người ta phải quì gối xuống mà van xin".
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nêu bật tính cách nhưng không ấy của đức tin. Chúa Giêsu đã cảm lạ Thiên Chúa Cha vì đã giấu ẩn không cho những nhà hiền triết và khôn ngoan thông thái biết những chân lý về mầu nhiệm Nước Trời, mà chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn đơn sơ.
Lời cầu nguyện này được Chúa Giêsu thốt lên cho một loạt những thất bại của Ngài lại Bethsaida cũng như một số thành phố khác lại Galilêa, quê hương của Ngài. Cho dẫu Chúa Giêsu đã làm được rất nhiều phép lạ, nhưng nhiều người vẫn không tin Ngài, và một số thì chống đối ra mặt. Điển hình và gay gắt nhất chính là thái độ cứng lòng tin của các luật sĩ và biệt phái, tức là những hạng người được xem là khôn ngoan và trí thức trong dân. Họ dựa vào những hiểu biết uyên thâm của mình để khước từ sứ điệp của Chúa Giêsu.
Vì vậy, chỉ còn lại những dân chài lưới dốt nát được Chúa Giêsu chọn làm môn đệ, chỉ còn lại một số nhỏ những người thất học nghèo hèn bị xã hội đẩy ra bên lề, và Chúa Giêsu gọi họ là những kẻ bé mọn. Họ là những người đã đón nhận tinh thần "Tám Mối Phúc Thật". Họ là những con người nghèo khó, hiền lành và nhất là có tâm hồn trong sạcho Họ là những người có tinh thần trẻ thơ mà Chúa Giêsu đã đề ra: "Nếu các con không giống như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Trời".
Thật vậy, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho, nhưng chỉ có những ai biết mở rộng tâm hồn, biết dốc cạn chính mình, biết chối từ những chỗ dựa của trần thế như tiền bạc, danh vọng, quyền bính, chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, đơn sơ như thế mới cảm nhận được đức tin, mới hiểu biết được mầu nhiệm Nước Trời.
Lý luận của đức tin, của luân lý và khoa học: Luận lý của đức tin là luận lý của lình yêu. Trong tình yêu người ta không lý luận, tình yêu không là số thành của một mớ những cộng trừ nhân chia. Tình yêu không là kết luận của một sự lý giải. Tình yêu là trao ban và trao ban nhưng không, trao ban không tính toán, không so đo hơn thiệt.
Kitô giáo chúng ta không chỉ là một hệ thống gồm những điều phải tin và phải giữ. Kitô giáo chúng ta thiết yếu là một con người, con người ấy chính là Chúa Giêsu Kitô. Con người ấy không ngừng mời gọi chúng ta đi vào quan hệ mật thiết với Ngài. Con người ấy không ngừng nói với mỗi người chúng ta: "Hãy đi theo Ta". Đi theo Ngài tứ là tiếp nhận sức sống củaNgài, là mặc lấy tâm tư, suy nghĩ hành động và nhất là cái nhìn của Ngài.
Thánh Phaolô đã diễn tả một cách chính xác cái nhìn ấy của Chúa Giêsu như sau: "Những gì con người cho là yếu nhược thì lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Những gì con người cho là ngu dại thì đó lại chính là lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa". Tựu trung đó chính là lý luận và lẽ khôn ngoan của Thập giá. Lý luận và khôn ngoan ấy cũng là lý luận của tình yêu. Bởi vì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một cái chết của tình yêu.
Chúng ta đang tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Chúa Giêsu, khi Ngài đã đoan hứa với chúng ta: "Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức nâng đỡ các ngươi".
Nguyện xin sức sống của Ngài mà chúng ta tiếp nhận trong Thánh lễ mỗi ngày bổ sức cho chúng ta, để chúng ta bước đi theo Ngài và mãi mãi được thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
61. Chú giải và suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Chúa Nhật 14 Thường Niên năm A này trổi lên cung giọng hân hoan. Bài Đọc I và Tin Mừng ca ngợi giá trị cao cả của con người. Bài Đọc II ca mừng cuộc chiến thắng của Thần Khí trên xác thịt, sự sống trên sự chết.
Dcr 9, 9-10
Bài Đọc I, được trích từ sách Da-ca-ri-a, là một lời mời gọi hãy vui lên, được gởi đến dân thành Giê-ru-sa-lem, vì Vua của họ sẽ trở lại viếng thăm họ, cỡi trên một con lừa con: Vua Mê-si-a là một vị vua khiêm tốn và hòa bình.
Rm 8, 9. 11-13
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người Ki-tô hữu sống theo Thần Khí thì chiến thắng tính xác thịt và tội lỗi, vì Thần Khí là sự sống và là sự sống lại.
Mt 11, 25-30
Đoạn Tin Mừng Mát-thêu là bài “thánh thi ngợi ca”. Đức Giêsu vui mừng vì Cha Ngài mặc khải những điều bí nhiệm của mình cho những người bé mọn và khiêm hạ.
BÀI ĐỌC I (Dcr 9, 9-10)
Bản văn này được trích dẫn từ phần thứ hai của sách Da-ca-ri-a, nhưng tác giả không phải là ngôn sứ Da-ca-ri-a. Ngôn sứ Da-ca-ri-a thật sự sống vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên vào thời kỳ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết (521-515 trước Công Nguyên) sau thời lưu đày Ba-by-lon. Trong khi phần thứ hai của sách mang tên của vị ngôn sứ thì khoảng hai thế kỷ sau đó. Phần này bao gồm từ chương 9 đến chương 14 được gán đúng hơn cho nhiều tác giả dưới danh xưng là Da-ca-ri-a đệ nhị. Tác phẩm hỗn hợp này quy tụ nhiều mảnh văn khác nhau, vô danh và không có niên biểu. Nó được định vị vào thời kỳ giữa truyền thống ngôn sứ biến mất và sự khai sinh các sách khải huyền. Vào lúc đó, người ta đọc lại những tác giả thời quá khứ, giải thích và làm mới lại sứ điệp của họ. Bản văn mà chúng ta đọc thì đầy những hồi ức của I-sai-a, Xô-phô-ni-a, Mi-kha, hai sách Các Vua, vân vân.
Đề tài về Đấng Thiên Sai nối kết những yếu tố rời rạc giữa chúng. Đấng Thiên Sai được tuyên sấm qua ba dung mạo, cả ba dung mạo này đều có âm vang lớn lao mà các tác giả Tin Mừng: 1- dung mạo vị vua thiên sai, khiêm hạ và hòa bình; 2- dung mạo người mục tử nhân lành bị các lãnh tụ của dân Ngài loại bỏ; 3- sau cùng dung mạo của một Đấng Bị Đâm Thâu mầu nhiệm.
Trong phần thứ nhất này, bản văn gợi lên cho chúng ta dung mạo của Vua Thiên Sai:
1. Vua Thiên Sai tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem:
“Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng rao hò!
Vì kìa Đức Vua đến với ngươi” (Dcr 9: 9)
“Thiếu nữ Xi-on” và “thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” là hai diễn ngữ Do thái được dùng để chỉ dân cư thành thánh Giê-ru-sa-lem và ngọn đồi Xi-on.
Bài hoan ca, loan báo Vua Thiên Sai ngự đến, được gợi hứng bởi những tiếng hoan hô phụng vụ tán dương vương quyền của Đức Chúa. Các Thánh Vịnh cung cấp nhiều ví dụ như Tv 47: 2:
“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy,
là Vua Cả thống trị địa cầu”.
Hay Tv 95: 1-3:
“Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa,
tung hô Người là Núi Đá độ trì ta,
vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ,
cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.
Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả,
là Đại Vương trổi vượt chư thần”.
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a cũng đã tán dương các thánh thi phụng vụ này như vậy rồi:
“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on,
hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.
….
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3: 14-15).
2. Ngài là Vua khiêm tốn:
Vị vua tương lai này sẽ là “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng”. Tác giả lấy lại những phẩm chất quen thuộc trong truyền thống thuần túy về trào lưu Vua Thiên Sai (x. I s 9: 6; 11: 4; 16: 5; Gr 23: 5; vân vân). Tuy nhiên, danh xưng “Đấng Chính Trực” gợi lên sự thánh thiện của Ngài hơn là phẩm chất của Đấng Thiên Sai Thẩm Phán; còn về danh xưng được dịch “Đấng Toàn Năng”, theo nguyên ngữ có nghĩa “được giải thoát khỏi những thù địch của Ngài”. Tác giả ghi nhận sự toàn năng, vì ông muốn nhấn mạnh một phẩm chất cốt yếu khác của Vua Thiên Sai: đức khiêm tốn.
“Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa hãy còn theo mẹ” (Dcr 9: 9)
Con lừa là con vật mà các vị lãnh tụ thời xưa của dân Ít-ra-en cỡi, sau đó được thay thế bởi con ngựa vì cần thiết cho chiến binh xung trận. Thường dân vẫn cỡi lừa.
Bản văn của Da-ca-ri-a đệ nhị này là bản văn Cựu Ước duy nhất – không kể đến những gợi ý của Người Tôi Trung – trình bày Đấng Thiên Sai ngự đến dưới những đường nét của một nhân vật rất mực khiêm tốn. Sấm ngôn này sẽ được thực hiện bởi Đức Giêsu, Ngài tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên một con lừa con trong tiếng reo mừng hân hoan của đám đông.
3. Ngài là Vua bình an:
“Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im,
và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem;
cung nỏ chiến tranh sẽ bị bẻ gãy” (Dcr 9: 10).
Tác giả muốn nói rằng kỷ nguyên Mê-si-a sẽ là kỷ nguyên của sự thống nhất hai vương quốc. Ngài là Vua đem lại bình an, vì thế, tất cả bộ máy chiến tranh sẽ bị hủy bỏ. Nhiều ngôn từ nhắc nhớ nhiều bản văn Kinh Thánh: ngôn sứ Hô-sê đã loan báo:
“Trong ngày đó, vì dân Ta,
….
Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ gươm đao,
chấm dứt chiến tranh trên toàn xứ sở,
và Ta sẽ cho chúng được sống yên hàn” (Hs 2: 20).
Chúng ta cũng đọc thấy tại Mi-kha:
“Ta sẽ cho ngựa của ngươi biến khỏi xứ,
sẽ hủy diệt xe trận của ngươi” (Mk 5: 9).
Hòa bình phải là điều thiện hảo tuyệt mức của thời Thiên Sai. Vua Thiên Sai “sẽ công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9: 10). Diễn ngữ này hoàn toàn kinh điển như Is 57: 19: “Bình an! Bình an cho khắp xa gần!” (x. Tv 46 và 72), tức là bình an cho cả dân Do thái (dân ở gần) lẫn muôn dân (dân ở xa). Đó cũng là vai trò của Người Tôi Trung là trở nên ánh sáng muôn dân và đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.
Bất chấp cái mâu thuẫn bên ngoài, Đấng Thiên Sai hòa bình sẽ mở rộng vương quyền của Ngài trên một lãnh địa rộng lớn:
“Người thống trị từ biển này qua biển nọ,
và từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Dcr 9: 10).
Được hiểu sát từ, những lời tiên báo này đặt nền tảng trên những niềm hy vọng của dân Chúa chọn vào sự khôi phục nền quân chủ thời Đấng Thiên Sai. Đây là niềm mơ ước bền bỉ mà Chúa Giêsu sẽ còn gặp phải khi các môn đệ hỏi Ngài sau biến cố Phục Sinh: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1: 6). Nhưng đó không là viễn cảnh của vị ngôn sứ, ông đã để cho hiểu rằng “sự thống trị” của vị vua hòa bình sẽ không thuộc lãnh vực trần thế.
BÀI ĐỌC II (Rm 8, 9. 11-13)
Với một lập luận vững chắc, thánh Phao-lô đã cho thấy rằng Thần Khí đang hoạt động ở nơi biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, bởi vì Thần Khí là nguồn sống, Ngài bảo đảm cùng một sự sống lại cho con người phải chết của chúng ta, ở đó Ngài thiết lập chỗ ở của Ngài.
Sau khi đã gợi lên sự nghèo nàn về phương diện luân lý của nhân loại dưới quyền lực của tội lỗi, khởi đi từ chương 8 của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô phác họa đời sống mới của người Ki-tô hữu: được Chúa Ki-tô công chính hóa, từ nay họ sống dưới quyền lực của Chúa Thánh Thần.
Trong một phản đề mạnh mẽ, thánh Phao-lô đối lập bản tính yếu đuối và tội lỗi của con người mà thánh nhân gọi “tính xác thịt” với bản tính được ân sủng đổi mới thì sống theo tác động của Thần Khí. Ở đây chúng ta nên lưu ý rằng thánh Phao-lô liên tục nói về Thần Khí của Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Ki-tô trong một phương trình hoàn hảo.
Dưới sức mạnh của Thần Khí này, từ nay chúng ta có thể chiến thắng những sức mạnh của sự dữ, “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta”. Thần Khí ở trong con người phải chết của chúng ta, chính Ngài thanh tẩy, thánh hóa và thần hóa chúng ta; chính Ngài bảo đảm sự phục sinh của chúng ta.
TIN MỪNG (Mt 11, 25-30)
Lời cầu nguyện tạ ơn này Chúa Giêsu ngỏ lời với Chúa Cha đều được thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca ghi lại. Thánh Lu-ca đặt lời cầu nguyện này vào lúc bảy mươi hai môn đệ hoan hỷ trở về từ sứ mạng của mình, vào lúc đó Chúa Giêsu cùng vui với họ và tạ ơn Cha Ngài về sứ mạng thành công. Lời cầu nguyện này xem ra được đặt vào trong bối cảnh này (Lc 10, 21-22).
Khi trình bày lời cầu nguyện này trong một bối cảnh khác, thánh Mát-thêu cho nó một chiều kích thần học có lẽ sâu xa hơn. Đức Giêsu vừa chịu những thất bại: sự chống đối của những người Pha-ri-sêu càng tăng lên, nhất là trong ba thành phố miền Ga-li-lê: Ca-phác-na-um, Bết-sai-đa và Khơ-ra-din. Chúa Giêsu báo trước án phạt đối với các thành này: chúng sẽ bị triệt hạ.
1. Thánh thi chúc tụng:
Ấy vậy, thay vì cảm thấy sự cay đắng, Chúa Giêsu lại chúc tụng Cha Ngài. Lời cầu nguyện của Ngài theo thể văn xuôi Hy-lạp có vần có điệu, cũng được gọi là “thánh thi chuc tụng”. Nên nghĩ rằng những lời nói của Đức Giêsu, được thốt lên bằng tiếng A-ram, bao gồm một sự cấu trúc tương tự, theo văn phong nói thông thường của người Do thái, ở đó vần điệu giúp cho việc ghi nhớ được dễ dàng.
2. Tán dương “những người bé mọn”:
Chúa Giêsu ngợi khen Cha Ngài vì đã khai lòng mở trí cho “những người bé mọn” hiểu, trong khi lại giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời. Chúa Giêsu chủ yếu nhắm đến những giới kinh sư và nhóm Pha-ri-sêu, họ tự phụ về sự hiểu biết của mình và giam hãm mình vào trong sự khôn ngoan nhân loại. Các ngôn sứ đã loan báo điều này, như I-sai-a:
“Vì thế, Ta sẽ tiếp tục làm cho dân này phải sững sờ kinh ngạc
vì bao nhiêu dấu lạ điềm thiêng.
Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy thất bại,
và trí thông minh của người thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14)
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã ngỏ lời với các kinh sư Giê-ru-sa-lem:
“Những hạng khôn ngoan ấy
sẽ thẹn thùng, run sợ, và sa vào cạm bẫy.
Này, lời Đức Chúa thì chúng khinh miệt,
chúng khôn ngoan nỗi gì?” (Gr 8: 9).
“Những người bé mọn” trước tiên chỉ ra các môn đệ của Chúa Giêsu - sau này Ngài sẽ gọi họ như vậy nhiều lần - nhưng cũng những người khiêm hạ trong đám đông lắng nghe lời Ngài, vì họ không bị bối rối bởi tính tự hào tự phụ về sự hiểu biết của mình.
Chúa Giêsu còn nhiều lần khác sẽ ca ngợi tinh thần trẻ thơ. Chính xác thánh Mát-thêu thuật lại một sự cố có ý nghĩa. Trong khi lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: “Hoan hô con vua Đa-vít”, thì các thượng tế và kinh sư tức tối. Đức Giêsu trích dẫn Tv 8: 2 nói với họ: “Lời này các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21: 14-16).
3. Chúa Cha và Chúa Con:
Qua lời thân thưa này: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất”, Chúa Giêsu không còn có thể khẳng định địa vị Con Thiên Chúa của Ngài rõ ràng hơn nữa.
“Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha: cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con, và người mà Chúa Con muốn mặc khải cho”. Cung giọng của đoạn văn rất gần với cung giọng của Tin Mừng Gioan, ở đó, thánh Gioan nhắc đi nhắc lại nhiều lần những mối liên hệ mật thiết hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trong sự hiểu biết và tình yêu.
Khi khẳng định: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi”, Chúa Giêsu xem ra nói trước lời khẳng định mà Ngài sẽ công bố sau khi Ngài sống lại: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18). Trong bối cảnh định vị những lời này, chắc hẳn Chúa Giêsu gợi lên công trình cứu độ mà Ngài có sứ mạng thực hiện và nay các môn đệ được mặc khải cho biết. Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian duy nhất. Về vấn đề này Tin Mừng Gioan cung cấp sự bổ túc tốt nhất, như “Thật vậy, Chúa Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17: 2).
4. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi”:
Trong Tin Mừng Mát-thêu chứ không Tin Mừng Lu-ca, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được theo với một bản văn được liệt vào trong số những hạt ngọc Tin Mừng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Gánh nặng và cái ách là hai hình ảnh rất nổi tiếng của đạo Do Thái để chỉ Lề Luật. Thánh Vịnh 19 công bố rằng:
“Luật Pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19: 8-9).
Nhưng vì phó mặc cho các nhà lãnh đạo Do thái quá chi ly, Lề Luật đã bị chất quá tải với những tuân giữ nặng nề. Luật của Đức Giêsu, Luật yêu thương, mang sức mạnh giải thoát:
“Quả thật, yêu mến Thiên Chúa
là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người
có nặng nề gì đâu” (1Ga 5: 3).
Khi tuyên bố: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học gương tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”, Chúa Giêsu mượn cách nói của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
“Hãy dừng lại trên các nẻo đường mà coi,
hãy tìm hiểu những đường xưa lối cũ
cho biết đâu là đường ngay nẻo chính, rồi cứ đó mà đi:
tâm hồn các ngươi sẽ bình an thư thái” (Gr 6: 16).
Đức Giêsu, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, kêu gọi chúng ta trở nên môn đệ Ngài. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất ghi nhận tấm lòng dịu dàng này của Đức Giêsu, cũng như thánh nhân là thánh ký duy nhất trích dẫn bức chân dung Người Tôi Trung của I-sai-a: “Người không lên tiếng giữa phố phường, không đành bẻ gảy cây lau bị giập, chẳng nở tắt đi tim đèn leo lét”, và áp dụng vào Đức Ki-tô (Mt 12: 18).
62. Suy niệm của John Nguyễn
1. Giải thích một vài từ ngữ khó hiểu trong bài Tin Mừng
Đức Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Ngài "đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Trong câu Kinh Thánh này, có ba điều ta cần tìm hiểu: (a) "Những bậc khôn ngoan thông thái" là những ai? (b) "Những người bé mọn" là những ai? (c) "Biết những điều này" là biết những gì?
a) "Những bậc khôn ngoan thông thái": Không nên hiểu từ ngữ này theo nghĩa đen. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, nó có nghĩa là những người tự cho mình là khôn ngoan thông thái, là hơn người, là vĩ đại, những người thích tự đề cao mình, thích được coi là quan trọng. Nói chung nó ám chỉ những người coi "cái tôi" của mình quá lớn, muốn "cái tôi" của mình là trung tâm của vũ trụ, được mọi người coi trọng, qui phục, muốn ý kiến và ý muốn của mình được mọi người luôn tôn trọng, chấp hành. Từ khuynh hướng "qui kỷ" ấy, họ dễ trở nên coi thường và khinh chê người khác. Nhiều khi tệ hơn nữa, họ muốn đạp trên đầu trên cổ người khác để tiến lên, sẵn sàng bắt người khác phải hy sinh cho mình.
b) "Những người bé mọn": Từ ngữ này cũng không nên hiểu theo nghĩa đen là những kẻ nghèo, còn nhỏ tuổi, thuộc hạng cùng đinh trong xã hội. Nhiều người tuy nhỏ bé trong xã hội, nhưng lại rất cao ngạo và coi "cái tôi" của mình to lớn không kém gì "nhưng người khôn ngoan thông thái" kể trên. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, "những người bé mọn" ám chỉ những người tự coi mình là nhỏ bé, coi "cái tôi" của mình không là gì cả, không đáng kể, không khao khát được mọi người quan tâm hay chú ý tới mình, không coi ý kiến hay ý riêng mình là quan trọng. Đó là những người sống tinh thần tự hủy theo gương Đức Giêsu (x. Pl 2,6-8), biết "lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình, không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác" (Pl 2,3-4), sẵn sàng chịu thiệt thòi mất mát vì yêu thương tha nhân.
Muốn biết ta thuộc hạng người nào, hãy xét xem phản ứng của ta thế nào khi ta bị xúc phạm, bị chạm tự ái, bị trái ý. Nếu ta tỏ ra bực bội, tức tối, có phản ứng mạnh, đồng thời cảm thấy đau khổ, muốn trả thù, muốn làm to chuyện, đó là dấu chứng ta thuộc hạng người trước, là hạng coi "cái tôi" của mình quá lớn. Trái lại, nếu ta cảm thấy đó là chuyện bình thường, chuyện nhỏ, không làm mình khó chịu, bực tức hay đau khổ, thì ta thuộc hạng người sau.
c) "Biết những điều này" là biết những gì? Chữ "biết" trong Kinh Thánh thường có nghĩa là cảm nghiệm chứ không chỉ là có kiến thức hay hiểu biết xuông. Người ăn trái táo thì có cảm nghiệm về mùi vị của trái táo, khác với người được học hỏi về trái táo một cách tỉ mỉ, khoa học, nhưng chưa hề được cầm trái táo trong tay mà ăn. "Những điều này" trong ngữ cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là những bí nhiệm về Thiên Chúa, về Chân Lý Tối Hậu. "Biết những điều này" là cảm nghiệm về Thiên Chúa, nếm được sự ngọt ngào êm dịu của Thiên Chúa, nhờ đó cảm thấy hạnh phúc, tràn đầy sự sống và sức mạnh của Thiên Chúa.
2. "Những người bé mọn" dễ cảm nghiệm về Thiên Chúa
"Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8). Vì là tình yêu, nên Ngài sẵn sàng tự hủy, hy sinh, phục vụ, quên mình, vì thế, Ngài mới chính là "Người Bé Mọn" tuyệt hảo nhất, là gương mẫu tuyệt vời cho tất cả "những người bé mọn". Vì "những người bé mọn" của Tin Mừng giống Thiên Chúa ở điểm căn bản này là sự yêu thương, nên họ hiểu Ngài và cảm nghiệm được Ngài dễ dàng hơn ai hết theo định luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Chính Ngài cũng dễ dàng tỏ mình ra cho hạng người này nhiều hơn ai hết. Các vị thánh được Thiên Chúa tỏ mình ra đều là những người sống tinh thần yêu thương hay tinh thần "bé mọn" hơn ai hết.
3. Tính chất kỳ diệu và nghịch lý của "cái tôi"
"Cái tôi" là một hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người. Nó chính là bản thân ta, là cái ta yêu quí nhất trên đời. Nhưng vì chúng ta được tạo dựng nên giống Thiên Chúa là tình yêu, nên "cái tôi" ấy chỉ lớn mạnh, chỉ trưởng thành, chỉ đạt được giá trị hoàn hảo khi nó thật sự yêu thương, nghĩa là trở nên tình yêu như Thiên Chúa. Mà yêu thương chính là ra khỏi bản thân để hướng đến và sống cho một đối tượng khác. Điều đó đòi hỏi ta phải quên mình, từ bỏ mình, hy sinh chính mình, để chỉ lo cho hạnh phúc và lợi ích của đối tượng ta yêu. Vì thế, càng tự coi mình là nhỏ bé, là không quan trọng để coi đối tượng mình yêu thương là quan trọng, là lớn lao, thì càng thực hiện được khả năng yêu thương. Và như thế là thực hiện được chính bản thân mình, là làm cho "cái tôi" của mình trở nên cao cả, vĩ đại.
Do đó, có một nghịch lý kỳ diệu: ta càng quên "cái tôi" của mình đi, càng làm nó nhỏ bé lại, thì nó lại càng trở nên có giá trị và cao cả. Ngược lại, càng quan trọng hóa nó, càng tự đề cao nó, càng làm cho nó phình lớn, thì càng làm cho nó kém giá trị, càng làm nó nhỏ bé đi trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Sự nghịch lý này đã được thánh Phan-xi-cô Khó Khăn cảm nghiệm: "Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời" (Kinh Hòa Bình).
Đối với việc cảm nghiệm Thiên Chúa cũng có sự nghịch lý đó. Sự nghịch lý đó được thánh Gio-an Tẩy giả nói đến: "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi" (Ga 3,30). Nghĩa là muốn Ngài lớn lên ở trong tôi, thì tôi phải nhỏ đi; hay nếu tôi tự làm cho mình nhỏ bé lại thì Ngài sẽ tự động lớn lên trong tôi. Còn nếu tôi làm cho "cái tôi" của mình phình to ra, thì Ngài sẽ tự động nhỏ lại trong tôi. Ngài có lớn lên trong tôi, tôi mới cảm nghiệm được Ngài, mới hiểu được Ngài, mới cảm nhận được những chân lý của Ngài, mới hấp thụ được sự khôn ngoan của Ngài. Đó chính là ý nghĩa của câu: Thiên Chúa "giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Thực ra Thiên Chúa chẳng muốn giấu gì về Ngài, nhưng những kẻ coi "cái tôi" của mình quá lớn đã tự bịt mắt mình lại trước những chân lý hay sự khôn ngoan của Thiên Chúa, để chỉ nhìn thấy những "giả lý" hay sự khôn ngoan của thế gian.
4. "Hãy mang lấy ách của tôi", vì "ách tôi êm ái..."
Khi ta coi "cái tôi" của mình là không quan trọng, là thấp kém, ta sẽ cảm thấy mình có vẻ như bị thiệt thòi, bị mất mát đủ thứ, và như bị quàng vào cổ mình một cái ách. Nhưng ách ấy chính là ách của Đức Giêsu, là thứ ách mà chính Ngài đã mang lấy suốt cuộc đời Ngài. Đã là ách thì khi mang vào tất nhiên sẽ cảm thấy nặng và khó chịu. Nhưng không có ách nào nhẹ nhàng và êm ái cho bằng ách của Ngài.
Thật vậy, khi một người coi nhẹ "cái tôi" của mình, không coi nó là quan trọng, tự nhiên người ấy sẽ thấy cuộc sống trở nên rất nhẹ nhàng: vì không cảm thấy bị chạm tự ái, vì không hề tức tối hay đau khổ khi bị xúc phạm, vì sẵn sàng tha thứ không chấp chiếm ai. Nhờ thế, cuộc sống giữa mình với tha nhân không còn vấn đề gì đáng mình phải buồn phiền đau khổ.
Thử đưa ra một trường hợp cụ thể. Giả như có ai đó làm thiệt hại hay xúc phạm đến ta, đó là một sự thiệt hại khách quan, không do ta gây ra. Nếu ta coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ bực tức buồn phiền và tâm ta sẽ đau khổ. Thế là ta đã tự mình làm cho mình đau khổ và thiệt hại thêm. Nếu ta cứ nghĩ đến chuyện bị xúc phạm đó, ta sẽ đau khổ hoài, và rất có thể vì thế ta tự làm cho mình mắc một chứng bệnh nan y nào đó. Như thế, sự thiệt hại do chính ta tự gây ra cho mình do sự bực tức còn lớn hơn sự thiệt hại ban đầu do người khác gây cho ta. - Nhưng nếu ta không coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ tha thứ ngay cho người xúc phạm hay làm ta thiệt hại, rồi quên ngay đi. Như thế ta chỉ bị sự thiệt hại ban đầu do người khác gây ra mà thôi. Điều đó khó mà tránh được trong cuộc sống chung với mọi người. Nếu ta coi thật nhẹ "cái tôi", ta sẽ thấy sự xúc phạm hay thiệt hại chẳng đáng kể, tâm hồn ta lập tức được bình an, nhẹ nhàng, vui tươi. Như thế chẳng phải ta đã hành động một cách khôn ngoan hơn rất nhiều sao?
Cách sau chính là cách của Đức Giêsu, là "mang lấy ách" của Ngài. Ách đó là ách êm ái và nhẹ nhàng nhất mà người khôn ngoan tất nhiên sẽ chọn khi đứng trước hai thứ ách: ách của Ngài và ách của chính mình. Không có ách nào làm ta mệt mỏi và nặng nề cho bằng cái ách do chính "cái tôi phình to" của mình tạo ra, nó chính là nguồn gốc phát sinh nên muôn vàn tội lỗi và đau khổ ở trần gian này. Vì thế, Đức Giêsu khuyên ta: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề (vì "cái tôi" của mình), hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi (là cái ách của tình yêu, không có "cái tôi" nặng nề trong ấy), và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (nghĩa là tính coi nhẹ "cái tôi" của mình). Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng".
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Tình Yêu, xin cho con trở nên tình yêu giống như Cha, để con trở nên hình ảnh trung thực của Cha. Để được như thế, xin cho con biết coi nhẹ "cái tôi" của con, nhờ đó đời sống con trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp và hạnh phúc hơn bội phần. Amen.
63. Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
THIÊN CHÚA MẠC KHẢI CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN
1.- Ngữ cảnh
Vị Tẩy Giả đã sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không?” (Mt 11,3). Các đối thủ của Đức Giêsu thì đã tìm cách hạ giá Người (x. 11,18-19). Còn các thành miền Galilê thì đã không đón nhận sứ điệp của Người (x. 11,21-24). Vậy Người là ai? Tại sao lại phải tuyệt đối lắng nghe Người? Do đâu mà Người có thể đòi buộc như thế? Bản văn chúng ta sắp tìm hiểu sẽ cung cấp câu trả lời.
Đức Giêsu xác định lập trường của Người bằng những khẳng định hết sức đậm đặc và cũng vô cùng căn bản.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (11,25-26);
2) Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (11,27);
3) Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (11,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Lạy Cha (25): Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu thưa gửi với Thiên Chúa bằng danh xưng “Cha”, sau khi đã nhiều lần khuyến khích các môn đệ làm như thế (5,16.45.48; 6,1.4.8.14.15 …). Lời thưa này giống như câu đáp cho lời giới thiệu “Đây là Con yêu dấu của Ta” (3,17) mà Đức Giêsu đã nhận khi chịu phép rửa và chính Người sắp nhắc lại lúc này (x. 11,27).
- ngợi khen (25): Động từ Hy Lạp exomologoumai (praise) luôn mang những sắc thái ca ngợi chúc tụng, tôn kính, biết ơn, và hân hoan.
- bậc khôn ngoan thông thái … những người bé mọn (25): Trong ngữ cảnh Mt, “những bậc khôn ngoan thông thái” là các luật sĩ và Pharisêu, còn “những người bé mọn” (theo nghĩa chữ là “các em bé”) là đám đông dân chúng, các môn đệ, những đám thợ thuyền, những kẻ tội lỗi.
- những điều này (25): Đức Giêsu không nói rõ, nhưng dựa vào văn cảnh, có thể cho rằng “những điều này” chính là sứ mạng của Đức Giêsu, tức là mầu nhiệm bản thân Người và các hoạt động của Người.
- điều đẹp ý Cha (26): Đây là ý muốn của Chúa Cha. Ý muốn này chính là kế hoạch cứu độ.
- biết (27): Động từ Hy Lạp epigignôskein (know) dịch động từ Híp-ri yada diễn tả một quan hệ thâm sâu, một sự hiệp thông giữa hai bên; động từ này đồng nghĩa với “yêu mến”.
- trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (27): Sự hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Cha không phải là một vòng tròn khép kín, nhưng mở ra với loài người, vì họ cũng được phép gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 5,45-48).
- mang gánh nặng nề (28): Ở 23,4, Đức Giêsu trách người Pharisêu đã chất những “gánh” nặng lên vai người ta. Đây là gánh nặng vác không nổi gồm những truyền thống vị luật của các kinh sư, chứ không phải là các thử thách và vất vả của cuộc đời, hay gánh nặng tội lỗi... Truyền thống này cũng dùng công thức “mang ách”: ách của Nước Thiên Chúa, ách Luật Môsê, ách các điều buộc …
- hiền hậu và khiêm nhường (29): Hai từ ngữ này có ý nghĩa tương tự. Đây là Mối Phúc thứ hai. Đức Giêsu lại tự liên kết với những con người sầu khổ của Mối Phúc thứ ba.
- ách tôi êm ái (30): Đức Giêsu cũng đề nghị “ách” của Người, tức là các huấn lệnh của Người. Người không khẳng định rằng các huấn lệnh này ít quan trọng và ít đòi buộc hơn các điều luật của các kinh sư; trái lại Người đã cho thấy là Người đưa chúng đến để hoàn tất Luật cũ, chỉ có điều là con đường Người theo không có chuyện luật lệ chi li giáo điều phức tạp nặng nề của các kinh sư và Pharisêu. Nếu “ách” của Người “êm ái” là vì nó phát xuất từ toàn bộ Tin Mừng, tức là từ những tương quan mới mà Thiên Chúa cứu độ đã thiết lập với loài người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (25-26)
Đức Giêsu đã ngỏ lời với Chúa Cha trong mộtlời cầu nguyện tạ ơn và chúc tụng. Người gọi Thiên Chúa là Cha và Chúa tể trời đất. Người đã mạc khải cho thấy là Cha, vị Thiên Chúa mà lâu nay người ta chỉ biết là Đấng Tạo hóa và Chúa tể toàn thế giới. Thiên Chúa là Đấng mà Đức Giêsu nhận biết là Cha, nhờ tương quan con cái mà Người có với Thiên Chúa. Do ý muốn của Thiên Chúa mà sứ điệp của Đức Giêsu được đón nhận cách khác nhau: những bậc khôn ngoan thông thái thì không hiểu gì, còn những người bé mọn thì hiểu. Phải chăng sứ điệp của Người chỉ được dành cho những em bé hoặc những người đã lớn tuổi mà vẫn còn ấu trĩ và chưa chín chắn? Phải chăng Kitô giáo đi ngược lại với kiến thức và khoa học và khả năng tự quyết của con người? Phải chăng Kitô giáo chỉ phù hợp với tình trạng thiếu khả năng tự cáng đáng bản thân và chỉ hỗ trợ tình trạng lệ thuộc trong cách xử sự? Thật ra, với những con người nghĩ rằng mình hiểu biết mọi sự, Đức Giêsu chẳng có gì để nói với họ cả. Người không thể mạc khải cho họ biết Thiên Chúa là Cha và Chúa tể, bởi vì họ không thể nhận được, vì họ không cần Thiên Chúa. Con người cứ việc tận dụng trí thông minh và tất cả sức lực, và hành động với tự do và trách nhiệm, nhưng cần nhận biết những giới hạn của mình. Nếu chúng ta lương thiện và biết nhìn nhận hoàn cảnh thực sự của mình, chúng ta đang mở ra đón nhận mạc khải của Đức Giêsu. Những người có tinh thần nghèo khó (5,3) là những người bé mọn. Họ sống lệ thuộc Thiên Chúa và quy chiếu về Người, họ nhận biết Người là Chúa tể trời đất và vui hưởng mạc khải bởi vì họ biết ký thác bản thân cho tình yêu và sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
* Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (27)
Trung tâm của bản văn là những khẳng định của Đức Giêsu về tương quan của Người với Thiên Chúa. Giữa Thiên Chúa và Người có một quan hệ duy nhất Cha-Con: Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa. Chỉ duy có Thiên Chúa, trong tư cách là Cha, mới biết Đức Giêsu là ai, và chỉ duy Đức Giêsu, trong tư cách là Con, mới biết Thiên Chúa là ai. Hai Đấng hiểu biết lẫn nhau do có sự hiệp thông sâu xa và chan hòa sức sống. Những con người đang phê phán Đức Giêsu với tất cả sự trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng biết rõ Người, nhưng thật ra chẳng biết gì về Người cả. Chúa Cha đã giao phó tất cả, mọi quyền bính và uy quyền trên con người, cho Đức Giêsu. Duy mình Đức Giêsu có thể mạc khải Chúa Cha, giúp người ta thực sự biết Chúa Cha. Vị trí này của Người là do tương quan của Người với Chúa Cha: vì chỉ một mình Người biết Chúa Cha, do thực tại thâm sâu của Người là Con, thì cũng chỉ một mình Người có thể mạc khải Chúa Cha trong thực tại thâm sâu của Người là Cha. Do đó, loài người không thể tránh khỏi đối diện với ý muốn của Thiên Chúa, khi quan hệ với Đức Giêsu.
* Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (28-30)
Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai mệt mỏi chán chường và vất vả với những gánh nặng hãy đến với Người. Người ngỏ lời trực tiếp với những người đang nghe Người nói. Họ đang phải “gánh” 613 điều luật buọc mà các kinh sư đã bày ra khi giải thích Cựu Ước (23,4) và họ đang vất vưởng như đàn chiên không có người chăn dắt (x. 9,36). Người hứa ban cho họ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Phải chăng chúng ta ngạc nhiên và thất vọng vì Người cũng mời chúng ta nhận lấy ách của Người? Từ quan điểm của Đức Giêsu, con người không “tự do” theo kiểu hoàn toàn là mình, không mắc bất cứ ràng buộc nào. Trong tư cách là thọ tạo của Thiên Chúa, do chính bản tính của mình, con người luôn ở trong thế quy chiếu về với Thiên Chúa. Hỏi về sự tự do đích thực đúng ra là hỏi về mối dây ràng buộc đích thực. Chỉ khi chấp nhận được ràng buộc với vị Chúa tể đích thực, người ta mới được tự do thật, thoát khỏi ràng buộc với mọi chủ nhân khác. Vì thật sự biết Thiên Chúa nhờ hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa không phải cách méo mó giới hạn, nhưng trong thực tại đúng đắn của Thiên Chúa. Và Người ra sức dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha, đồng thời khuyến khích chúng ta tin tưởng tuyệt đối nơi Người và ký thác trọn vẹn nơi Người. Nhận lấy ách của Người chính là đón nhận tất cả sứ điệp của Người và sống như Người vẫn sống, đó là hết lòng yêu mến Chúa Cha và dấn thân phục vụ loài người.
+ Kết luận
Đức Giêsu tự giới thiệu là Đấng “hiền hậu và khiêm nhường trong lòng”: các từ ngữ này, chúng ta thấy có trong các Mối Phúc, không hề có nghĩa là những người nhút nhát, rụt rè, nhưng là những người nghèo và bị áp bức, những người đang chịu bất công và không sao đứng dậy được. Đây là những người nghèo mà Đức Giêsu bảo: Hãy nghe tôi, hãy tin tôi, vì tôi ở về phía các bạn, tôi là một người trong các bạn, tôi cũng nghèo và bị loại trừ!
Muốn học được sự khôn ngoan của Nước Trời, thì phải sống nghèo cùng với Đức Giêsu. Điều gây vấp phạm, chính là sự mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người: quyền năng được tỏ bày trong sự yếu đuối…
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những kẻ phê phán Đức Giêsu cách trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng là đã biết Đức Giêsu! Thật ra, chỉ có Thiên Chúa mới biết Đức Giêsu trong tư cách là Con, trong sự quy hướng hoàn toàn về Chúa Cha trong tình yêu trọn vẹn.
2. Đọc bản văn này trong liên hệ với đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng Mt (28,16-20), chúng ta sẽ thấy tất cả tầm mức sâu xa của các lời khẳng định của Đức Giêsu. Sau khi sống lại, Người chính là Đấng đã được Chúa Cha ban cho toàn quyền trên trời dưới đất. Chính Người hiện diện bên các môn đệ “mọi ngày cho đến tận thế” để nâng đỡ các ông trong nỗ lực chu toàn sứ mạng.
3. Hans Urs von Balthasar, một nhà thần học Thụy Sĩ, đã nói đến một thứ “thần học bàn quỳ”: chúng ta chỉ thật sự hiểu biết về Thiên Chúa không phải nhờ cứ khăng khăng dùng trí tuệ mà tìm tòi suy luận, nhưng nhờ biết quỳ xuống nhận biết quyền năng của Người trên chúng ta. Thánh Anselmô cũng nói: “Tôi tin để tôi có thể hiểu được Thiên Chúa”.
4. Thiên Chúa đã ban toàn quyền cho Đức Giêsu; do đó, trong khi hành động, loài người luôn phải đặt mình đối diện với ý muốn của Thiên Chúa về định mệnh của mình. Muốn cuộc đời mình đi đúng hướng, loài người phải quan tâm đến ý muốn này.
5. Chúng ta sẽ cảm thấy sứ điệp của Đức Giêsu về Chúa Cha và về ý muốn của Chúa Cha trở nên như một “cái ách”, khi các ước muốn, các tâm trạng và các ý tưởng của chúng ta đi ngược lại với sứ điệp ấy. Như thánh Âu-tinh đã nói: “Trái tim chúng con vẫn còn bồn chồn bất an, cho đến khi nó được nghỉ yên trong Chúa”, chúng ta chỉ được yên hàn, thanh thản, khi sống trong tình hiệp thông với Thiên Chúa.
64. “Hãy đến với Ta”
Chúa mời gọi tất cả chúng ta: hãy đến với Ngài. Chúa hiểu rõ chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình.Ngài muốn cất nhẹ gánh lo cho chúng ta, để chúng ta được thanh thản, phó thác và cậy trông Ngài. Ngài sẵn sàng chia sẻ và đồng hành để chúng ta được vơi nhẹ bao nỗi lo toan chất chồng.
Chúa muốn tất cả chúng ta hãy trút tất cả gánh lo đời người vào Ngài, bởi những lo toan có thể làm cho cuộc đời chúng ta “bị tràn ngập” và không có lối thoát. Người ta vẫn luận “Cuộc đời là bể khổ”, mà khổ thật. Bởi chẳng có gì là hạnh phúc thật, mà chỉ là sự lừa dối và bất ổn. Tìm cho mình một chỗ dựa, kiếm cho mình một lối thóat,chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy vơi nhẹ gánh lo và tìm gặp được bình an.
Ngài mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài, bởi Ngài muốn tham dự, đồng hành và chia sẻ với cuộc đời mỗi người. Thực thế, Ngài là chỗ dựa an toàn và bình an nhất cho chúng ta. Chẳng ai thương và bảo vệ chúng ta, ngay cả cha mẹ hay người thân ở trần gian, ngoại trừ Chúa
Ngài muốn chúng ta hãy học với Ngài bởi Ngài hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng. Với giáo lý yêu thương của Ngài, Chúa muốn chúng ta hãy học tha thứ, đón nhận anh em, sống khiêm nhường và phó thác. Học với Ngài để chúng ta đón nhận và làm cho cuộc sống mình hài hòa với mọi người, sống hiệp nhất và nên giống Ngài.
Trong tình thương Thiên Chúa, chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc thật mà trên trần gian không ai có thể ban tặng. Đón nhận tình thương của Thiên Chúa, được học nơi trường: khiêm nhường và hiền lành của Ngài, tâm hồn chúng ta như được yên nghỉ an toàn và tìm được con đường dẫn đến sự sống.
Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta biết chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ anh em như Chúa, bởi tình thương của Ngài không loại trừ hay xua đuổi ai, và để xây dựng sự hiệp nhất trong anh em.
Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta không cướp công của người khác mà biết trân trọng và đánh gía đúng công sức của anh em mình, để tránh được căn bệnh ung thư di căn “cả vú lấp miệng em”, phí phạm hoặc đối xử kiểu “vắt chanh bỏ vỏ” trên chính anh em hoặc cộng sự mình
Khiêm nhường và hiền lành thật cũng chính là biết phục vụ với hết khả năng và biết tự ẩn mình như người đầy tớ bé nhỏ,để ngăn ngừa phần nào căn bệnh “say mê quyền lực, đánh bóng tên tuổi” bằng chính công sức của người khác, nhưng biết cảm thông và chia sẻ với những yếu đuối của anh em như của chính mình.
Khiêm nhường và hiền lành thật là không khoe khoang hay lên mặt với anh em mình dẫu rằng mình có hơn họ một mặt nào đó, bởi “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì!”
Khiêm nhường và hiền lành thật còn là sẵn sàng chịu phần thiệt về mình để anh em được chia sẻ, được hạnh phúc. Có mất mát, có đau đớn, có chịu thiệt thòi mới hiểu và thương xót được anh em mình. Bởi trước mặt Chúa, chúng ta đã chẳng là gì và sẽ mãi mãi chẳng là ai cả!
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin dạy chúng con sống khiêm nhường và hiền lành trong trường học yêu thương của Chúa. Xin dạy chúng con luôn biết cho đi mà không tính toán và củng chẳng bao giờ đòi hỏi quyền lợi. Xin dạy chúng con biết quên mình khi phục vụ, để phần lợi luôn thuộc về anh em, để Chúa được biết đến và lớn lên; còn chính chúng con “phải nhỏ lại”. Amen.
65. Những kẻ bé mọn
Suy niệm:
Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin chúc tụng ngợi khen Cha... vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Chữ bé mọn đây không phải là dáng người thấp bé hay là trẻ con. Nhưng là người có tấm lòng đơn thành như trẻ con, một tấm lòng biết mình là nhỏ bé trước Nước trời bao la, biết mình túng thiếu đơn độc mà bám vào tay Thiên Chúa quan phòng. Là những ai tự hạ tự khiêm phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Đã có một lần nào Chúa xác nhận “nếu các ngươi không trở nên giống trẻ thơ, các ngươi sẽ không được vào nước trời” (Mt 18,3).”Ai trong các ngươi lớn nhất là người bé nhỏ nhất” (Lc 9,48). “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14)
Tại sao Chúa Giêsu cứ lấy mẫu mấy em bé làm gương vậy? Chúng ta có thấy và có biết cái gì đã từng làm những bậc cha mẹ không thể cầm lòng được trước một đứa con nhỏ. Cái gì đã làm Chúa những người lớn đều ưa thích trẻ nhỏ? Thưa, đó chính là sự yếu đuối nhỏ bé. Vâng, chính cái sự yếu đuối nhỏ bé đó làm cho mọi người dễ thương dễ mến. Chính cái yếu đuối ấy của chúng ta là sức mạnh của tuổi thơ măng sữa. Đúng như lời thánh Phaolô “Lúc tôi yếu đuối nhất là lúc tôi mạnh mẽ” (2C 12,9-10). Nếu chúng ta trao phó hoàn toàn cho Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lo trọn vẹn cho chúng ta như một người mẹ nuôi con thơ.
Con thơ còn trẻ chẳng biết gì. Chúng không biết ăn, chúng chẳng biết mặc, không biết đi, không biết nói. Các bà mẹ lành nghề đều công nhận các bà cưng chiều đứa con mình khi chúng nhỏ xíu “Nâng như trứng, hứng như hoa”. Khi chúng lớn lên, khi chúng càng có thể tự túc, thì các bà bớt quyến luyến, hoặc khi chúng tự cao khinh dể mình. Tình mẫu tử rất gần với tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Thật sự không gì làm cho Thiên Chúa xa lánh loài người, cho bằng tính kiêu ngạo, tự mãn, tự phụ. Tính này phá hủy các nhân đức. Những mẫu gương tự cao tự đại vẫn còn đó, với Adong, Eva, Luxife, babel, với các nền văn minh xa xưa còn đâu...
Trong Tân ước, đã mấy lần Chúa Giêsu phàn nàn về nhóm biệt phái cũng mắc bệnh này, là tự cho mình chữ nghĩa đầy mình, đầy dẫy sự khôn ngoan, cho mình là đủ và tự tạo ra ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu đã mấy lần cảnh cáo (Mt 23,13). Ai tin vào sức mạnh của mình sẽ bị Thiên Chúa để mặc và tất cả trở về hư vô cát bụi. Trái lại, kẻ tự khiêm sẽ được Thiên Chúa nhìn đến. Thánh Phaolô nói “Thiên Chúa thích dùng người khiêm nhường, bị thế gian bỏ chê để tỏ lộ mình ra” (1C 25,28t). Kẻ khiêm nhường được Thiên Chúa tha tội (Lc 18,14). Thánh nhân còn đặt khiêm nhường bên cạnh đức tin (Gal 5,22).
Thánh Augustinô nói “Đâu có khiêm nhường, đấy có đức ái”. Sự khiêm nhường là dấu chỉ thuộc về đức Kitô. Kinh thánh còn nói trong cơn thử thách ai hạ mình xuống dưới cánh tay toàn năng của Thiên Chúa thì đến bây giờ họ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh như Đức Kitô và được thông phần vinh quang của con Thiên Chúa. Gương khiêm nhường của David trước Goliath, của Mẹ Maria, của chính Chúa Giêsu (Mt 11,29) của Têrêsa hài đồng, của một Cha sở xứ Ars.
Chúng ta hãy suy niệm câu nói của thánh nữ Têrêsa Lixieux “Chính Chúa Giêsu đã làm hết tất cả trong tôi, tôi chỉ trở nên bé nhỏ và hèn yếu”.
“Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (c.28)
Câu nói này hiểu được trên hai phương diện. Trên phạm vi siêu nhiên, Chúa Giêsu nói đến những lề luật Cựu ước và luật lệ mới của biệt phái không giải thoát con người tội lỗi để được cứu rỗi. Cho nên cần phải đến với Ngài và qua Ngài. “Không ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Ngài”. Câu nói trên cũng hiểu được là những ai đau khổ bất an tinh thần vật chất cũng hãy đến để Ngài nâng đỡ.
Có một điều cần ghi nhận giữa những đau khổ ở đời, nếu chúng ta chỉ một mình loay hoay dậm chân tại chỗ, thì không giải quyết được gì. Một gánh nặng mà đã để xuống là khó mang đi nữa. Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: “Hãy vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Và Chúa kêu mời “hãy đến với Ta...” (c.28). Chúng ta hãy đến với Chúa hôm nay để thực sự cảm nghiệm được sức nâng đỡ đó. Có một điểm cần lưu ý trong câu trên là Chúa nói: Ngài bổ sức cho chúng ta thôi, chứ Ngài không cất hết gánh nặng đi cho đâu. Chắc chắn Chúa Giêsu xuống trần gian, không phải vì mục đích để làm cho hết khổ đâu. Ngài qủa quyết là quê trời mới hết khóc than. Mặc dầu đã nhiều phép lạ chữa bệnh tật đau khổ phần xác, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn đem lại cho đau khổ một giá trị thực tiễn của Nước trời.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa đã dâng lời ngợi khen Cha vì đã mặc khải cho những kẻ bé mọn. Tinh thần nhỏ bé khiêm tốn luôn được Chúa đề cao, được mọi người trân trọng. Biết thế, nhưng Chúa ơi! Ở đời chúng con vẫn ham danh vọng, trọng quyền lợi. Chỉ có tình yêu Chúa mới uốn mềm lòng chúng con nên khiêm nhường bé nhỏ. Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở nên nhỏ bé trước Thiên Chúa để chúng con được Ngài đổ đầy lòng chúng con hồng ân của Ngài.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các Linh mục. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ các Linh mục là những người Chúa chọn để chăm sóc đoàn chiên Chúa. Xin cho các Ngài ơn khôn ngoan thánh thiện. Một đời sống thánh đức sẽ toát lên qua việc cầu nguyện trong khiêm tốn. Để trong cầu nguyện, các Linh mục sẽ tiếp nhận được nguồn tình yêu và sức mạnh từ trái tim nhân hậu của Chúa hầu chuyển trao cho đoàn chiên sức sống dồi dào. Amen.
66. Chú giải của Noel Quesson.
Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói…
Thành ngữ. "vào lúc ấy” thường là công thức về văn phong mà các sách Kinh dùng làm lễ đã thêm vào để bắt đầu một đoạn Tin Mừng một cách tự nhiên hơn. Nhưng ở đây là môt ngoại lệ, nó có trong bản văn của Matthêu. Vậy trong bối cảnh nào mà lời cầu nguyện chúng ta sắp đọc được đưa vào?
“Lúc ấy" là một thời điểm bi đát. Đức Giêsu sống trong một bầu khí căng thẳng và thất bại. Ở chương 11 thánh Matthêu vừa mô tả sự "hoài nghi" của Gioan Tẩy trong nhà tù: "Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? "Đức Giêsu kế đó đã thuật lại cách thức mà những kẻ đồng thời với Người đã từ chối ông Gioan vị ẩn sĩ khổ hạnh và cả Đức Giêsu Đấng Hằng Sống nhân từ (11,16-19). Rồi Đức Giêsu lên án nghiêm khắc những thành phố bên bờ hồ Ti-bê-ri-a đã không đón nhận sứ điệp và các phép lạ của Người. Nhiều người trong hoàn cảnh thất bại này hẳn sẽ rơi vào sự thất vọng và chán nản. Vả lại, đây là một “bài ca vui mừng" trào dâng từ đôi môi Người. Vậy tâm tình thầm kín của Đức Giêsu là gì?
Lạy Cha là Chúa Tể trời đất...
Trong một vài dòng, chúng ta nghe Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là "Cha" năm lần. Chúng ta đã quá quen nên không nhận thấy rằng cách gọi Thiên Chúa này mở ra một cuộc cách mạng tôn giáo thật sự. Những nhà chú giải đã tìm trong toàn bộ Kinh Thánh và tất cả văn chương Do Thái trước Đức Giêsu chưa bao giờ từ ngữ ấy, "Cha” được dùng một cách tuyệt đối và dùng để cầu khẩn trực tiếp Thiên Chúa. Không một Thánh Vịnh nào dám gọi Thiên Chúa một cách thân mật.
Như thế, những người Do Thái, ngày nay cũng thế, bởi lòng tôn kính, không dám phát âm cái tên khôn tả của Thiên Chúa nhưng dùng mọi cách nói tránh, ví dụ như: "Đấng Hằng Hữu, xin chúc tụng..." Dường như các tông đồ không thể nghĩ ra một từ ngữ như thế, bởi họ cũng là người Do Thái, nếu như họ đã không nghe thấy trên đôi môi Đức Giêsu đang cầu nguyện. Và đàng sau từ ngữ ấy, ngày hôm nay đã trở thành thông thường, chúng ta nhận ra tiếng “Abba!" trong ngôn ngữ A-ra-men. Đây là một từ âu yếm của các con nhỏ dùng nói với cha chúng, tương đương với chữ Ba (Bố) của chúng ta..
Cha! Ba, Chúa của trời đất!
Sự đối chiếu của hai khía cạnh ấy của Thiên Chúa thật cảm động. Đây là Thiên Chúa cao cả, Tạo Hóa của toàn thể vũ trụ! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con theo gương Chúa có đủ hai thái độ cầu nguyện ấy: sự đơn sơ của tình cảm; sự tôn thờ chân chính.
Con xin ngợi khen Cha.
Động từ Hy Lạp dùng ở đây là "exomologeisthai" có nghĩa là "xưng thú”, "tuyên xưng công khai đức tin" "dâng lời ngợi khen", "cảm tạ". Như thế, giữa những thất bại trong việc rao giảng, đây là một lời cầu nguyện ngợi khen tràn ngập linh hồn; một thứ Thánh Thể ".
Và chúng ta không thể không ngạc nhiên bởi sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa lời Đức Giêsu cầu nguyện với bài ca ngợi khen (Magnificat) của Mẹ Người. "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng". Cả hai bài kinh này đều được cấu kết bằng những ẩn dụ trong Kinh Thánh (Cn 8,9; Xi-ra-cít 51,1-30; Kn 6,9; Đn 7,13-l4). Và cả hai ca hát niềm vui của những người nghèo khó mà Thiên Chúa ưa thích.
Vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng mạc khải cho người bé mọn.
Đức Giêsu cầu nguyện và đi từ đời sống cụ thể của Người. Người đi từ sự thất bại mà các kinh sư và các Thầy dạy Luật đã gây ra cho Người... từ sự tiếp đón mà Người đã nhận từ những người khiêm nhượng và nghèo khó. Còn tôi thì sao? Tôi có cầu nguyện từ' đời sống và những lo lắng của tôi? Tôi có dám thử tìm ra "lời để ngợi khen" giữa những hoàn cảnh bất lợi đang làm tổn thương tôi? Khi đọc lời kinh này của Đức Giêsu người ta có thể bị đụng chạm bởi cảm tưởng Thiên Chúa "giấu giếm" một điều gì đó cho một số người Và mạc khải điều đó cho những người khác! Trong toàn bộ Cựu ước, chúng ta tìm thấy ngôn ngữ Sê-mít này rất mạnh xem ra bất chấp tự do của con người. Ví dụ như, chính Thiên Chúa làm cho "lòng vua Pha-ra-on thành ra chai cứng" (Xh 9,12). Công thức này muốn diễn tả tất cả không ngoại trừ, hoàn toàn tất cả đều phụ thuộc vào Thiên Chúa, nhưng đúng là con người phải chịu trách nhiệm về những sự khước từ của mình, mà không phải là Thiên Chúa. Chính vì thế người ta tìm thấy công thức rõ ràng là trái ngược: "Vua Pha-ra-on làm cho lòng mình ra chai cứng (Xh 8,11). Dĩ nhiên ở đây vấn đề không phải là Đức Giêsu cám ơn Cha Người về việc truyền giảng thất bại và Người cũng không đổ cho Thiên Chúa sự thất bại ấy... Nhưng với sức mạnh trong ngôn ngữ mà chúng ta không còn sử dụng nhưng đã được điển hình hóa về mặt văn hóa, Người cám ơn Cha Người vì đám đông không học vấn đã tiếp đón Lời trong khi những người trí thức, than ôi lại tha hồ bị kẹt cứng trên sự chắc chắn của họ.. Chúng ta còn nhận thấy rằng đây không phải là một thứ kết án trí tuệ. Nhưng Đức Giêsu thừa nhận rằng thông thường trí tuệ quý báu của con người thực ra sẽ dẫn tới chỗ kiêu ngạo mù quáng vì tự phụ. Lý trí con người là khả năng phi thường để con người hiểu biết những sự vật của thế giới này và thiết lập những quy luật khoa học... nhưng lý trí bị giới hạn trong thế giới, và không thể nhận ra Nước Thiên Chúa bởi chỉ ánh sáng duy lý. Thánh Phaolô sẽ nói về đức tin như một thứ điên rồ": "Tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa" (1Cr 2,1). "Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ, nhưng cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (1Cr 1,18-30).
Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
Để giải thích sự tiếp nhận của những người bé mọn và nghèo khó, đối diện với sự khước từ của các người thông thái và tự mãn, Đức Giêsu không phân tích khuynh hướng tâm lý và đức hạnh của họ. Người lập tức cho rằng đặc quyền của- những kẻ bé mọn là "lòng nhân từ của Thiên Chúa". Họ không tốt hơn những người khác nhưng vì họ chịu thua thiệt, họ đặc biệt lôi kéo "lòng nhân hậu của Chúa Cha. Đó là một tư tưởng bền bỉ của Đức Giêsu: bạn là kẻ tội lỗi; bạn bị coi chẳng ra gì; bạn bị khinh bỉ bạn, bị đè bẹp... Cha của Đức Giêsu nhìn bạn với một tình yêu thương đặc biệt.
Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.
Một lần nữa, phải nhận thức về lòng tự hào không chịu nổi của ông Giêsu người Na-da-rét. Người khẳng định có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa và chính Người là một người nghèo giữa những người nghèo. Vả lại, Người dám nói rằng không một ai biết Người. Không một ai có thể thâm nhập vào căn tính sâu xa của Đức Giêsu trừ Chúa Cha! Và, ngược lại Đức Giêsu thực sự cho rằng chỉ có Người biết được Thiên Chúa!
Trong những công thức ấy, người ta nhận ra những tư tưởng thường được Thánh Gioan hòa điệu: "Không ai đến Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Khi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V định nghĩa Đức Giêsu như “Thiên Chúa thật, và người thật", khi các Công đồng ấy định nghĩa Ba Ngôi với sự bằng nhau về bản tính của Chúa Cha, Chúa Con và. Chúa Thánh Thần, thì các Công đồng ấy chỉ nói lại bằng những từ ngữ chính xác hơn điều mà các sách Tin Mừng và giáo lý tiên khởi đều đã khẳng định. Một bản văn nhân bản văn này, trong số nhiều bản văn khác, chứng tỏ rằng những giáo huấn về Chúa Giêsu đã đồng hóa "con người này" với "Đức Chúa Giavê. Phải, những người Do Thái đã gán cho con người Giêsu những câu nói chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa: "Không ai biết Tôi ngoài Thiên Chúa; và không ai biết Thiên Chúa ngoài Tôi. Vả lại, giả thuyết những người Do Thái "thần linh hóa" một người Do Thái quả là một điều không có thật.
Trong các tôn giáo khác của Đế quốc La Mã, có thể nghĩ đến những con người, ví dụ như những Hoàng đế đã được thần linh hóa. Nhưng điều này không thể nghĩ ra được trong môi trường Do Thái: họ thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất siêu việt không thể diễn tả, mà người ta không bao giờ đám gọi tên! Kết hợp Đức Chúa Giavê với một con người, dù người này là ai là một sự phạm thánh ghê tởm.
Để đi đến điều đó, cần phải có những sự bó buộc mạnh mẽ trên bình diện các "sự kiện" và những "lời" của Đức Giêsu; tác động đến những người đã là các chứng nhân.
Phần chúng ta, sau 2000 năm, chúng ta chiêm niệm mầu nhiệm kỳ diệu ấy với nhiều sự đơn sơ và tôn thờ? Con người mà người ta thấy ăn bánh và quả ô-liu là người nông dân bé mọn ở Na-da-rét đã từng đốt lửa trên bờ hồ, là người mà người ta đã thấy lúc khóc và lúc cười, lúc tức giận và lúc đói khát. Một con người mà ban đêm người ta nghe thấy tiếng ngáy trong những lúc cắm trại ở giữa cảnh trời sao diễm ảo; người ta đã nghe Người trong lúc cầu nguyện, đã gọi Thiên Chúa "'Abba?". Và, với một vẻ bề ngoài tầm thường nhất, người khẳng định: "Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho!". Mạc khải? Thật vậy, người ta chỉ biết Thiên Chúa qua điều mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta!
Mạc khải. Một cách hiểu biết khác với sự nhận thức duy lý Thiên Chúa không được chinh phục sau một quá trình suy luận thông thái. Thiên Chúa được tiếp đón trong một tấm lòng nghèo khó: "Thầy sẽ chỉ cho con bí mật của Thầy nếu con yêu mến Thầy Điều đã bị giấu đối với các bậc khôn ngoan và thông thái được mạc khải cho người bé mọn! Người ta không đổ đầy một cái chén đã đầy rồi phải có một tấm lòng trống trải để Thiên Chúa tìm được chỗ cho Người. Phải có một trí tuệ khiêm tốn để Thiên Chúa bày tỏ Người ra. Lạy Chúa, xin tạo ra trong chúng con sự sẵn sàng để đón nhận mạc khải.
Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi,.vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.
Đức Giêsu khẳng định rằng "ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Tin Mừng có những yêu sách rất mạnh mẽ. Điều quan trọng là không nên giản lược những yêu sách ấy. Nhưng Đức Giêsu tự giới thiệu như đầy sự hiền hậu và khiêm nhường: Người là lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhập thể. Lúc đó có thể nói sự hoàn thành những yêu sách ấy xuất phát tự bản chất của hữu thể. Rõ ràng Người đến đề nghị một cách sống mới cho những người không thể mạng gánh nặng của Luật pháp; tức những người nghèo và những người tội lỗi.
Các ngôn sứ đã loan báo rằng Thiên Chúa từ chối viết Luật trên các bảng đá, theo cách ở bên ngoài của con người, nhưng Người sẽ viết Luật trên lòng người: đó là sự loan báo của Tân ước (Gr 32,31-34). Chúng ta nhận thấy sự nhất quán của tư tưởng ấy. Luôn luôn là vấn đề những người "nhỏ bé", hèn mọn. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa cao cả, Con của Đức Chúa trời đất, đến chia sẻ sự đau khổ của những người nghèo, để giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy. Người đề nghị làm nhẹ bớt những gánh nặng của chúng ta. Phải luôn suy niệm thấu đáo hình ảnh này: người nào mang gánh nặng nề; dừng lại một giây lát để đặt gánh xuống! Và đây là điều Đức Giêsu đề nghị chúng ta: "Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi bồi dưỡng!".
67. Chú giải của Fiches Dominicales
KINH TẠ ƠN CỦA ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
+ Trong một bối cảnh đối nghịch và thất bại hiển nhiên sau những chỉ dẫn làm nòng cốt cho sứ mạng Kitô hữu (ở Chúa nhật 11, 12 và 13), ta chờ đợi được thấy 12 môn đệ lên đường sứ mạng. Nhưng hôm nay, ta gặp lại Đức Giêsu giữa bộn bề hoạt động truyền giáo, Matthêu viết: "Dạy bảo 12 môn đệ rồi, Đức Giêsu lên đường dạy dỗ và rao giảng tại các thành thị trong nước (11,1). Trong hoạt động truyền giáo ấy, Người phải trả lời những chất vấn của Gioan Tiền hô cũng như phải đương đầu với sự cứng lòng, sự chống đối của các đối thủ và sự bất tín của các thành thị xứ Galilê.
Đối diện với các sứ giả của Gioan Tiền hô. Gioan Tiền hô nhận thấy thái độ của Đức Giêsu không phù hợp với những lời rao giảng nghiêm khắc của ông, nên từ trong tù, ông sai người đến hỏi Đức Giêsu: "Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một người khác?”.
Để trả lời họ, Đức Giêsu đưa họ trở lại những lời tiên báo của Isaia: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ngươi đã nghe và đã thấy: người mù nhìn thấy, kẻ què đi được kẻ chết sống lại và người nghèo được nghe giảng Tin Mừng". Thời ứng nghiệm lời tiên tri đã tới. Phải biết nhận định những dấu chỉ loan báo về Nước Trời. Đức Giêsu nói với Gioan: "Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta". Khi "những sứ giả của Gioan đi rồi", Đức Giêsu tiếp tục liên hệ sứ mạng của Gioan với sứ mạng của Ngài và tố cáo những ai không đón tiếp sứ mạng của các Ngài. Vạch trần ý đồ xấu xa của các đối thủ, Đức Giêsu so sánh họ với đám trẻ con hư đốn muốn chơi trò đám tang khi ta đề nghị chúng chơi trò đám cưới, và đòi chơi trò đám cưới khi ta đề nghị chúng chơi trò đám tang. Vì thái độ bất tín của miền Galilê quê hương Ngài dù họ đã thấy biết bao phép lạ Người làm sau cùng Ngài đã phải thốt lên những lời đau đớn y hệt các tiên tri trong Cựu ước.
1. Kinh tạ ơn của Đức Giêsu.
Vậy mà Matthêu đã đặt lời kinh nguyện lạ lùng của Đức Giêsu vào trong cái bối cảnh chống đối và thất bại hiển nhiên của sứ vụ Galilê ấy. Lời kinh mà trong Phúc âm Luca 10,21-22, ta gặp thấy trong sứ mạng của các môn đệ.
Một lời cầu nguyện mang âm hưởng rất Do Thái, trong đó Đức Giêsu ngỏ lời với "Chúa trời đất". Một lời cầu nguyện mà tiếp theo đó, Đức Giêsu, trong tương quan với Đấng mà Ngài gọi là "Cha", đã tự nhận mình là "Con": một danh hiệu bất ngờ qua đó hiển lộ mối liên hệ duy nhất nối kết các Ngài: "Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự, không ai biết Con trừ ra Cha; cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và người mà Con muốn mạc khải cho”.
Một lời cầu nguyện còn vang âm lời phán ra từ đám mây, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan "Đây là Con Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người”.
Bây giờ Đức Giêsu cầu nguyện: "Điều Cha đã giấu những bậc khôn ngoan thông thái, Cha lại mạc khải cho những kẻ bé nhỏ. Vâng, lạy Cha, Cha đã muốn như vậy vì lòng nhân lành của Cha. Cha cũng dùng tình yêu thương ấy ấp ủ Đức Giêsu, Con rất yêu dấu, Tôi tớ của Người, và những kẻ bé nhỏ sẽ nhận biết Cha trong cảnh nghèo hèn của họ. Một kinh nguyện tạ ơn, một tiếng reo vui, một lời tuyên xưng đức tin, một "bài ca tán tụng". Tại sao lại tạ ơn? Vào đúng lúc khó khăn này? Không phải vì Ngài đã thất bại đối với những bậc khôn ngoan thông thái, những kẻ cho rằng họ nắm giữ đặc quyền hiểu biết, nhưng vì sự đón nhận mà đám đông những "người bé nhỏ", những kẻ khiêm nhường, những người có tâm hồn nghèo khó, dành cho Người. Những người ấy đã nhận ra nơi Người mầu nhiệm Thiên Chúa Cứu Độ bí mật tình yêu của Người đối với nhân loại. Họ đã nhận biết nơi Người Thiên Chúa tối cao đã tỏ ra gần gũi, Thiên Chúa vì đại đã tỏ ra ngang hàng với những kẻ bé nhỏ.
Cl Tassin ghi nhận: "Lời kinh này phản ánh đúng sự lượng giá của Đức Giêsu về sứ mạng của Người. Lời kinh cũng cho ta mẫu mực của mọi lời kinh tông đồ, lời kinh, biết nhìn lại những thành công và những thất bại, để khám phá ra ý định của Thiên Chúa với niềm hạnh phúc.
Trong lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu, những người bé nhỏ khám phá ra Thiên Chúa là một người Cha. Họ hiểu rằng giữa Thiên Chúa và con người ấy có một sự hỗ tương toàn vẹn, rằng Đức Giêsu muốn mạc khải Thiên Chúa và rằng, trong sứ mạng của Người, Thiên Chúa tỏ mình ra trong một ngôi vị.
2. …và lời mời gọi trở nên môn đệ Người.
Đối với những người được tỏ cho biết mối liên hệ duy nhất nối kết Người với Chúa Cha, Đức Giêsu kêu gọi hãy trở nên môn đệ của Người. Để qua Người đi sâu vào sự hiểu biết trừu tượng, nhưng trong một liên hệ sống động giữa các ngôi vị. "Gánh" mà Người gọi ra ở đây có lẽ là gánh của thói duy lề luật tỉ mỉ. Người là Đấng đến không phải để phá huỷ, nhưng"hoàn thành", Người "chống lại thói tục chính yếu của tôn giáo thời ấy là áp đặt một kỷ luật khắt khe trên con người mà không thông truyền cho họ niềm vui ơn cứu độ". Người đề nghị một sự công chính mới. Một sự công chính đòi hỏi hơn nhưng cũng nhẹ nhàng hơn, vì đó là sự gắn bó với cá nhân của Người, Đấng khai mở ra tình yêu của Chúa Cha. Một sự công chính mà bản thân Người rất "nhân lành và khiêm nhường trong lòng" đến hoàn tất trong những ai gắn bó với Lời Người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một lời nguyện không tách rời những câu Phúc Âm ở đoạn trước. (L. Monloubou, Evangile de Matthieu, Salvator). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu được trích dẫn ở đây không tách rời những câu Phúc âm ở đoạn trước. Vì quen chia cắt chương này, ta hay coi thường mối liên hệ chặt chẽ nối kết Lời của Đức Giêsu với sự thất bại khi Người rao giảng tại Galilê. Thất bại này giải thích tại sao Đức Giêsu kết án những thành thị bất tín. Điểm lý thú của lời kinh nguyện của Đức Giêsu là, sau khi cảm nhận sự thất bại trong chuyến đi vòng quanh Galilê, Đức Giêsu "chúc tụng” Chúa Cha. Trong Cựu ước không thiếu gì những bản văn miêu tả phản ứng hiếu chiến rất nhân loại của các ngôn sứ. Sau khi bị tổn thương vì gặp thất bại, họ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa về những thất bại đó. Bài tự thuật của Giêrêmia tường thuật lại mối thất vọng nặng chất người - trừ Đức Giêsu ai dám kết án một sự thất vọng như thế? của vị ngôn sứ bất hạnh, bị các thính giả mà ngài kết án vây hãm tứ bề. Những câu nói của một vị ngôn sứ tuyệt vọng vì thất bại, muốn nghi ngờ Thiên Chúa đã được Giêrêmia thuật lại (15,15-18 hoặc 15,19-21) có thể dùng trong bài đọc 1; những lời ấy cho thấy sự yếu đuối của tín hữu, và của chính vị ngôn sứ đã muốn nghi ngờ Thiên Chúa, chúng cho thấy sức mạnh vô song của Đức Giêsu, vì, thay vì phản loạn, nghi ngờ Ngài đã "chúc tụng" Ngài nói "Vâng, lạy Cha, đó là ý định của Cha: Đức Giêsu chúc tụng. chúc tụng phát xuất từ sự ngưỡng mộ. Ta chúc tụng vì ngưỡng mộ một tác phẩm, một nhân vật có những dấu hiệu của sự hoàn hảo, toàn bích. Như thế Đức Giêsu nghĩ rằng kết quả của chuyến rao giảng tại Galilê, tuy bề ngoài có vẻ bi quan, vẫn có cái gì tích cực. Để thẩm định sự vật như thế, phải vượt qua những lý do tự nhiên. Vì tiếng kêu thán phục thốt lên trong lời chúc tụng không chỉ phát xuất do sự vật mà ta nhìn ngắm, ngưỡng mộ, tiếng kêu ấy phát xuất từ việc đối chiếu với Thiên Chúa. Một... ngất ngây phát sinh khi ta thoáng thấy Thiên Chúa; tình trạng đó là kết quả của một hành vi của Thiên Chúa, như một tác phẩm thần linh. Vậy ta ngưỡng mộ Thiên Chúa hơn là tác phẩm của Người. Và ta chúc tụng. Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa vì, tuy không quên trách nhiệm đối với những kẻ bất tín trong thất bại của Ngài (sự kết án những thành thị minh chứng điều đó) Ngài đã nhận ra một mầu nhiệm thần linh; Ngài biết rằng Thiên Chúa có mặt trong tấn kịch. Nó đã hầu như phá huỷ nỗ lực rao giảng. Phúc âm của Ngài. Ngài ngưỡng mộ sự hiện diện này, công trình của Thiên Chúa này. Chính Thiên Chúa đã che mắt những kẻ bất tín, cũng chính Thiên Chúa mạc khải cho "những ai đơn sơ": vì tất cả những điều đó, Ngài phải được chúc tụng. Ngài tỏ ra là một Thiên Chúa hiện diện còn hơn cả hiện diện: một Thiên Chúa "là Cha" Đức Giêsu nói: "Lạy Cha, Con chúc tụng Cha".
2. Đức Giêsu, sự mạc khải của Chúa Cha cho những kẻ bé nhỏ. (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s'est approché, DDB).
Lời nguyện của Đức Giêsu: "Lạy Cha là Chúa trời đất Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết, nhưng Cha đã mạc khải cho những người hèn mọn...". Không có ý nói Thiên Chúa phân biệt đối xử; Đức Giêsu không tuyên bố cửa Nước Trời vĩnh viễn khép chặt đối với một vài loại người. Nhưng mỗi người chúng ta đều bị đe doạ vì thói tự mãn, kiêu căng về kiến thức, về sự khôn ngoan phàm trần... Để đón nhận Thiên Chúa và ơn cứu độ, con người phải diệt trừ thói tự mãn. Đó không phải là hạ mình. Ngược là đó là sự cao cả của con người: năng lực của họ mở ra vô biên và do đó đạt đến viên mãn. Vì thế Đức Giêsu có thể ca ngợi Chúa Cha đã ban cho con Người được đi vào mầu nhiệm của Ngài: "Con chúc tụng Cha...vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn". Đó không phải là một lựa chọn cứng ngắc, nhưng là sự quan tâm yêu thương của Ngài. "Vâng? lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”.
Điều mà Chúa Cha che giấu những người khôn ngoan thông thái, nhưng mạc khải cho những kẻ bé: mọn, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa, đời sống thân mật của Thiên Chúa. Thiên Chúa Tình Yêu tỏ mình ra trong mầu nhiệm đời sống của Ngài, mầu nhiệm sự thân mật của Ngài, là Thiên Chúa Ba Ngôi: -"Tất cả đã được ban cho Ta từ Cha. Không ai biết Con trừ ra Cha, cũng không ai biết Cha trừ ra con và những người mà Con muốn mạc khải cho? Vì đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, của tình yêu là sức sống Thiên Chúa mà Ngài muốn ta chia sẻ, sự khôn ngoan thông thái loài phàm trần chúng ta không tài nào hiểu được. Ta không thể phán đoán Thiên Chúa theo chuẩn mực nhân loại. Ta không thể tiến vào mối thân mật thâm sâu với Thiên Chúa bằng những nỗ lực hay bằng lý luận của loài người. Ta chỉ có thể mấp mé ở ngưỡng cửa nơi lý trí còn có thể phiêu lưu, nơi lòng muốn có thể vươn tới nhưng không bao giờ đạt được đối tượng. Các triết thuyết lý luận về Thiên Chúa, các nhà thần bí hướng dẫn cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng sau cùng Thiên Chúa vẫn là "Đấng vượt trên tất cả". Ta chỉ nhận biết Ngài nếu để Ngài dạy dỗ: Ta chỉ gặp được ngài nếu để Ngài dẫn ta đi. "Không ai biết được Chúa Cha trừ ra Con và những ai mà Con muốn mạc khải cho....Đức Giêsu là con đường duy nhất. Ngài là Con Thiên Chúa làm người để nói lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ loài người và để tỏ ra tình yêu Thiên Chúa trong cử chỉ của con người... Ngài đã trở nên anh em của ta, để dẫn đưa ta về với Cha qua những nẻo đường quanh co của hiện diện nhân loại. Mắt ta ngây ngất chiêm ngưỡng nơi Ngài một sự khôn ngoan và một tình yêu đích thực. Tim ta bốc lửa vì lời Ngài trao ban cho ta bí mật của bụi gai cháy đỏ. Ta chỉ biết được Chúa Cha và Chúa Con nhờ thờ lạy, chiêm ngắm trong ngọn lửa của Thánh Thần.
68. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TIN MỪNG MẶC KHẢI CHO NGƯỜI HÈN MỌN
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thuở ấy". Chi tiết xác định này có một giá trị thần học hơn là thời gian; nó nối kết câu 25 với cc. 20-24: dù quê hương của Chúa Giêsu (Capharnaum, c.23) có từ khước Người chăng nữa, thì những kẻ bé mọn vẫn hiệp lòng với lương dân (Tyr, Siđon c.21) để đón tiếp Người. Các thành, trung tâm của các trường giáo sĩ và của văn hóa tôn giáo đã chẳng biết Đấng mà những kẻ "đơn hèn" nhận ra vậy.
“Con xin ngợi khen Cha": Chúa Giêsu đội ơn hay xưng tụng Cha Người vì đã gặp thất bại nơi những kẻ khôn ngoan thông thái; không phải Người ưa thích đám hèn dân hơn hạng ưu tú vì tính khí hay là vì thiện cảm tự nhiên đâu; song Người nhận ra rằng thất bại ấy, và sự thành công đi kèm theo, đều tương ứng với chính bản chất của công cuộc Người thực hiện để phục vụ nhân loại là cứu kẻ nghèo, hạng người bị giới quyền cao khinh bỏ.
“Lạy Cha": Ở đây, Matthêu dùng hô cách (vocatif) patôr là hình thức đúng của tiếng kêu. Nhưng trong câu tiếp, cũng tiếng kêu ấy của Chúa Giêsu (Lạy Cha!) lại được diễn tả bằng chủ cách (nominatif) (ho patôr) là hình thức sai trong Hy ngữ. Việc chuyển từ hô cách sang chủ cách cho thấy từ ngữ Aram Chúa Giêsu dùng hẳn là Abba, tiếng mà vào thời Người, thường được sử dụng khi gọi (hô cách) cũng như khi nói về người cha (Hy ngữ ho patôr). Điều này thánh Phaolô đã xác nhận lúc bảo Kitô hữu cầu khẩn Thiên Chúa bằng mấy tiếng “Abba, ho patôr" (Rm 8,15 và Gl 4, 6). Thế mà, chữ Abba là một tiếng kêu thân mật dành cho việc xưng hô trong gia đình. Không bao giờ một người Do thái dám gọi Thiên Chúa bằng Abba tương đương với chữ ba ơi trong việt ngữ, papa trong Pháp ngữ. Người ta chẳng tìm thấy một lời khẩn cầu nào với Thiên Chúa bằng chữ Abba trong mọi kinh nguyện Do thái của 10 thế kỷ đầu trước Chúa Kitô, cũng như trong các kinh nguyện phụng vụ hoặc kinh nguyện riêng tư cả. Thành ra ngôn ngữ của Chúa Giêsu ở đây có một cái gì đó mới mẻ, độc đáo, lạ lùng: Người dám nói với Thiên Chúa như một đứa bé nói với cha nó cách đơn sơ, thân tình, không chút sợ hãi. Tiếng này mặc khải chính nền tảng của mối thông hiệp giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa vậy.
“Chúa trời đất": Đây là nơi duy nhất trong Tin Mừng mà chúng ta gặp tiếng xưng hô long trọng này. Công thức thật đặc biệt quan trọng ở đây vì cho phép ta thực sự lượng giá được tầm mức và ý nghĩa của những lời sắp nói.
"Đã che dấu ": Cặp động từ "che dấu-mặc khải" nổi bật lên trên toàn bộ các chương 11-13 và là chìa khóa giúp hiểu được chúng. Không phải loài người, cũng chẳng phải Chúa Giêsu, song chính Thiên Chúa là chủ từ của động từ ấy; câu 26 sẽ nhấn mạnh điều đó; sự cứng lòng và niềm tin mà Chúa Giêsu gặp không phải là những tai nạn, cũng chẳng phải là những kết quả tích cực hay tiêu cực, của các nguồn lực riêng của Người đâu; chính quyền bính và ý muốn Thiên Chúa điều khiển tất cả hoạt động của Người.
“Điều ấy": Không phải là những phương diện riêng biệt đặc biệt cao sâu của sứ vụ Chúa Giêsu, song là ý nghĩa tổng quát của toàn thể công trình mặc khải của Người. Các tiếng “Khôn ngoan" và “thông thái" cùng chỉ hạng học thức, chuyên môn, có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo (x. Is 29, 14 và 1Cr 1, 19); trong lúc tiếng bé mọn" chỉ những “người nghèo trong tinh thần” của Bát phúc (Tv 19, 8; 116, 6), chỉ đám cùng dân là những người "tội lỗi" mà Biệt phái bao giờ cũng khinh bỉ; lý tưởng của những kẻ sau này ngày càng thoái hóa sự hiểu biết có tính cách vật chất và thuần lý về Lề Luật các truyền thống giáo sĩ. Như vậy ở đây Chúa Giêsu vừa đối lập với ngộ đạo kiểu quý phái của Qumrân vừa sung khắc với các tôn giáo huyền bí của các nhóm người Hy lạp.
“Không ai biết được Cha trừ ra Con": Đối lại với tri thức thuần lý của các giáo sĩ, Chúa Giêsu đưa ra một tri thức diện hiện sinh, làm bằng sự thân mật và tình yêu. Ý chí, tình yêu, cảm giác, nghĩa là tất cả mọi hình thức của trí tuệ mến yêu (inteuigence aimnte) đều tham dự vào tri thức đó. Đàng khác, Kinh Thánh đã chẳng gọi cuộc gặp gỡ sâu xa nhất giữa hai vợ chồng trong tình yêu là sự "hiểu biết" đó sao (St 17, 25...)? Ở đây biết và yêu chỉ là một chuyện. Đây cũng là nơi duy nhất trong các trình thuật Nhất lãm phát biểu một cách rõ ràng và không chối cãi được mối tử hệ thần linh của Đấng Mê-si-a.
"Hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng". Cũng một tiếng Hy lạp có nghĩa "gánh nặng được dùng chỗ này và Mt 23, 4 nơi Chúa Giêsu quở trách Biệt phái đã đặt những “gánh nặng nề" lên vai người khác. Như vậy ở đây Chúa Giêsu chẳng nghe lời các thử thách và khó khăn của đời sống, sức nặng của tội lỗi v v nhưng đến gánh nặng không thể nào chịu đựng của tinh thần vụ luật giáo sĩ. Điều này được xác nhận trong các câu tiếp theo: "mang lấy ách" là một thành ngữ thông thường các giáo sĩ dùng để chỉ ách của nước Thiên Chúa, của Lề luật, của trời, của các huấn lệnh v.v... xem chú thích BJ). "Ta sẽ nâng đỡ các con": Hy ngữ: anapausô - dịch sát chữ là: "Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức".
"Hãy mang lấy ách của Ta": Chúa Giêsu không đến để miễn cho con người mọi bó buộc luân lý; Người thay thế các yêu sách Lề luật Do thái bằng những đòi hỏi của Người là những đòi hỏi, như đã thấy trong Diễn từ trên núi, cũng có tính cách nghiêm chỉnh, và còn triệt để hơn các đòi hỏi của luật Môisen. Chỉ có điều là vị Tôn sư đề nghị ra chúng thì hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, khác xa với các giáo sĩ. Và chẳng những Người ban cho môn đồ sức mạnh để mang ách đó trong vui tươi song còn làm gương cho họ bằng cách sống điều mình đòi hỏi: "Lịnh truyền của Người không nặng nề" (1Ga 5, 3) và "chỉ tóm lại nơi một lời này: Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình ngươi" (Rm 13, 9).
"Ta hiền lành": Nơi đây Mt dùng chữ praus (hiền lành) như ơ chân phúc thứ hai. Chúa Giêsu là kiểu mẫu của môn đồ vậy.
“Ach Ta thì êm ái và gánh Ta lại nhẹ nhàng": Điều này chẳng có nghĩa là Chúa Giêsu đòi hỏi ít thua các giáo sĩ đâu. Người đòi hỏi nhiều hơn nhưng cách khác. Tình yêu làm mọi gánh hoá ra nhẹ nhàng. "Nơi nào có tình yêu, nơi ấy chẳng có gian khổ" thánh Augustin đã nói như thế.
KẾT LUẬN
Học theo đức Khôn ngoan chân thật của Nước Trời là nên nghèo hèn với Chúa Giêsu. Cái thường gây vấp phạm, là cách thức Chúa mặc khải chính mình Người: quyền này tỏ trong sự yếu đuối!
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Giống hạng người "khôn ngoan, thông thái" mà Chúa Giêsu nhắm đến là những kẻ dùng trí tuệ riêng để xây cho mình một Thượng đế quan, một vũ trụ quan hoàn toàn đóng kín, cùng nhất định không muốn thay đổi chúng để học thêm điều gì mới lạ. Họ tưởng mình đã biết hết về Thiên Chúa, đã nắm trọn học thuyết đích thật về Ngài. Nhưng người ta có bao giờ mà nắm được chân lý, chính Chân lý luôn nắm chúng ta, và chỉ cần chúng ta để cho Ngài nắm lấy. Cơn cám dỗ ngàn đời của tâm trí con người, khởi từ câu chuyện biểu tượng của Adam và Eva, bao giờ cũng vẫn là một: Đó là tin rằng "mắt chúng ta sẽ mở ra" và "chúng ta sẽ nên giống Thiên Chúa" bằng cách ăn trái cây hiểu biết, bằng cách vận dụng trí tuệ của mình, thay vì chấp nhận rằng chính trong khi tự biến đi trong tình yêu Thiên Chúa mà chúng ta trở nên giống Ngài nhờ ân sủng.
2. Đức tin chúng ta đừng bao giờ biến thành một gánh nặng không thể vác nổi, một gánh nặng làm tróc thịt trầy da. Nếu nó trở thành một gánh nặng, hãy tin chắc rằng nó không chính thực đâu. Tình yêu chỉ biết mang lại tự do, ánh sáng và sự nâng đỡ cho những tâm hồn gặp gỡ được nó.
3. Trong đoạn này, Chúa Giêsu cho chúng ta một tấm gương cầu nguyện. Lời cầu nguyện ấy bắt đầu bằng một lời tạ ơn nói lên lòng chấp nhận thánh ý Chúa Cha và biết ơn Ngài vì đã cho gặp thử thách của thất bại. Nó tiếp tục bằng cách đi lên đến tận nguồn của lịch sử cứu rỗi, tức là mầu nhiệm Thiên Chúa trong chính mình Ngài. Sau cùng nó kết thúc bằng cách hứa ban cho ta ơn cứu rỗi ấy một cách cụ thể nếu chúng ta chấp nhận trở nên khó nghèo.
4. Ngày nay những kẻ "bé mọn" là ai? Phải chăng là một giai cấp xã hội? Có tương quan nào giữa lời nhận xét của Chúa Giêsu cách đây 2000 năm và cái chúng ta có thể nhận xét hôrn nay các tin hữu không? đâu là những kẻ khôn ngoan và thông thái của thời đại này? Phải hiểu thông thái và khôn ngoan theo nghĩa trần tục hay nghĩa tôn giáo? Ta có được đi đến chỗ bảo rằng các tín hữu tưởng mình biết mọi sự về Thiên Chúa những kẻ khôn ngoan và thông thái hiện thời mà ơn cứu rỗi bị che dấu đi không?
5. “Ach dịu dàng của Chúa Giêsu chỉ các đòi hỏi của đức tin Kitô giáo, chỉ bổn phận Kitô hữu: giữ mười giới răn, chống lại tính xấu thực hành luân lý Tin Mừng của Diễn từ trên núi, tuân phục các quyết nghị của Giáo Hội, chấp nhận bệnh tật, già nua, cái chết. Gánh này, thay vì đè nặng chúng ta, lại ban cho đời chúng ta một ý nghĩa. Như đôi cần chim, nó mang chúng ta lên trong lúc chúng ta tưởng phải mang nó.
6. Chúng ta sẽ học ở trường nào nếu không phải là trường của Chúa Giêsu Kitô? Xa Người, chúng ta chỉ có thể học đòi theo những thúc đẩy mù quáng và mâu thuẫn của đam mê, những cái nhìn thiển cận và tầm thường của tinh thần thế tục, học đòi … theo sự khôn ngoan nhân loại, thứ khôn ngoan tự biết mình không thể ban một ý nghĩa cho cuộc đời. Còn nơi trường Chúa Kitô, chúng ta học biết rằng mình là con cái được yêu đang tiến về Chúa Cha, dưới sự dẫn dắt của Chúa Con hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
69. Hãy mang lấy ''ách'' và ''gánh'' của Đức Giêsu
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong cuộc sống hiện nay, khoa học phát triển, con người được nhàn nhã hơn. Nhận định đó không sai. Tuy nhiên, nó chỉ đúng với những gì là thực dụng, hay đúng trong lãnh vực khoa học, còn trong lãnh vực tinh thần thì vẫn còn đó những buồn sầu, lo lắng; vẫn còn đó những đau khổ tinh thần; và vẫn còn đó những điều bất bình an khi con người có nhiều thứ phục vụ cho thân xác và chất lượng hiện sinh của cuộc sống. Câu hỏi được đặt ra là: làm sao cho cuộc sống này được hạnh phúc và bình an thực sự?
1. Những gánh nặng cuộc đời
Trước khi nói đến sự bình an, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những gánh nặng của con người trong cuộc sống hiện nay.
Những gánh nặng đó là:
Gánh nặng của những quá khứ với biết bao nhiêu điều chưa làm được;
Gánh nặng của hiện tại với biết bao bất công;
Gánh nặng của ham muốn, tham lam mà không đạt được;
Gánh nặng của những nghi ngờ, bon chen, hà tiện, ganh tỵ;
Gánh nặng của những khát vọng thống lĩnh xã hội bằng chiến tranh;
Gánh nặng của những người bị áp bức bạo tàn;
Gánh nặng của những kỳ thị chủng tộc và loại trừ;
Gánh nặng khi mang trên mình những căn bệnh nguy hiểm của thế kỷ;
Gánh nặng của những thất vọng, lo âu;
Khi mang trên mình những gánh nặng về thể lý hay tinh thần như thế, con người cần phải được nghỉ ngơi, bồi dưỡng để đem lại bình an. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, và hãy học cùng Đức Giêsu, vì Ngài “hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.
2. Ý nghĩa sự “hiền hậu” và “khiêm nhường” theo tinh thần Tin Mừng
Khi nói đến sự“hiền hậu”, người ta nghĩ ngay đến những đặc tính của nó như: dịu dàng, nhẹ nhàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi, cộc cằn...; "hiền hậu" còn có nghĩa là êm ái, hòa nhã, yêu thương, nhân hậu, thông cảm, tôn trọng và khoan dung; luôn nghĩ tốt và hành động tốt cho người khác. Sẵn sàng đối thoại, không đối đầu và chấp nhận sửa sai.
Còn khi nói đến sự "khiêm tốn”, chúng ta sẵn sàng xuống thấp, ở dưới hay chấp nhận bị hạ xuống, biết sự giới hạn của mình để sống khiêm tốn, sống thật với bản chất, khả năng của mình, không thêu dệt quá những gì mình có.
3. Hãy học với Đức Giêsu vì Ngài “hiền hậu” và “khiêm nhường”
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ hãy mang lấy "ách" và "gánh" của Ngài, bởi vì Ngài có lòng “hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.
Thật vậy, hễ mang “ách” của ai là học với người đó; còn mang "gánh" của ai thì được mời gọi giữ những điều luật của người đó đang giữ hay điều luật của chính người đó ban hành. Đức Giêsu mời gọi mang lấy "ách" và “gánh” của Mình, Ngài muốn chúng taphải sống“hiền hậu”, “khiêm nhường”, “êm ái”, “nhẹ nhàng” và giữ “luật yêu thương”.
Khi mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được hạnh phúc và bình an, vì “ách” của Đức Giêsu thì êm ái và “gánh ” của Ngài thì nhẹ nhàng. Đến với và mang lấy tinh thần của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì có ơn Chúa phù trợ, chở che. Khi ấy, tinh thần của chúng ta sẽ hạnh phúc và an vui, dẫu có gặp phải những điều khó khăn, thử thách.
Khi mang trong mình những “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, ấy là lúc chúng ta đang sống trong quỹ đạo của tình yêu và làm cho tình yêu đó được lên ngôi chứ không phải nhu nhược, nhát đảm, hèn hạ, mù quáng, hay lầm lạc...
Lạy Chúa, xin cho chúng con được kiên trì trung thành mang lấy “ách” và “gánh” của Chúa để chúng con được bình an. Amen.
70. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Học cùng Ðức Giêsu sự Hiền lành và Khiêm tốn
"Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm tốn"
(Mt 11,29)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu không những dạy chúng ta về đời sống đức tin, về những nhân đức siêu nhiên, mà còn dạy chúng ta cách sống nhân bản. Làm theo giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ trở thành những con người rất dễ thương dễ mến và do đó sẽ dễ thành công trong cuộc đời. Hôm nay Ðức Giêsu dạy ta học gương của Ngài sống hiền lành và khiêm tốn. Chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Ngài và xin Ngài giúp ta thực hành được giáo huấn ấy.
II. Gợi ý sám hối
Rất nhiều lần chúng ta nóng nảy, hung dữ với kẻ khác.
Rất nhiều lần chúng ta kiêu căng: coi trọng mình và coi khinh kẻ khác.
Rất ít khi chúng ta để ý xem Chúa đã sống như thế nào để tập sống theo gương Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Dcr 9,9-10)
Năm 333, Alexandre Ðại đế chiến thắng đế quốc Babylon và đưa đế quốc Hy lạp lên ngôi bá chủ. Nhiều người do thái tự hỏi "Phải chăng đó là Vua Messia mà Thiên Chúa gởi đến?", "Nếu không phải như thế thì phải chăng Vua Messia sẽ đến cũng giống như Alexandre hùng mạnh này?"
Ngôn sứ Dacaria trả lời: Ðấng Messia sẽ đến cũng là một vì Vua nhưng với nhiều khác biệt rất cơ bản:
Ngài không phải là một vị vua chiến tranh, mà là vua hòa bình.
Ngài không kiêu kỳ, mà rất khiêm tốn
Ngài rất hiền lành: không thích giết chết mà chỉ muốn cứu độ.
Hình ảnh tiêu biểu về Vua Messia là Ngài không cởi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
2. Ðáp ca (Tv 144)
Những đức tính của Vua Messia cũng chính là những đức tính của Thiên Chúa: "Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa".
3. Tin Mừng (Mt 11,25-30)
Văn mạch: Sau một thời gian rao giảng, Ðức Giêsu đã gặt hái được những thành công nhưng cũng gặp phải nhiều thất bại. Thất bại là nơi những người tự nghĩ mình là thông thái, như biệt phái, luật sĩ và gần đoạn Tin Mừng này nhất là dân ở các thành ven bờ Biển Hồ (Mt 11,20-24); còn thành công là nơi những người nghèo nàn, ít học, thu thuế, tội lỗi... Ngài gọi chung họ là "những kẻ bé mọn".
Phần đầu của đoạn Tin Mừng này ghi lại lời Ðức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Trước hết, Ngài nhìn nhận tất cả những thành công và thất bại ấy đều theo đúng kế hoạch của Chúa Cha. Kế đến, khi nhìn lại những thành công và thất bại ấy, Ðức Giêsu khám phá ra rằng chính Chúa Cha đã đặc biệt yêu thương những kẻ bé mọn nên đã cho họ đón nhận Tin Mừng của Ngài. Việc Chúa Cha yêu thương mặc khải cho những kẻ bé mọn khiến Ðức Giêsu cảm động và vui mừng, vì thế Ngài lớn tiếng cảm tạ và ca tụng Chúa Cha.
Sang phần thứ hai của đoạn Tin Mừng này, Ðức Giêsu kêu gọi mọi người hãy mang lấy "ách" và "gánh" của Ngài. Theo cách nói Do Thái, "mang ách của ai" là học với người đó; còn "gánh" thì ám chỉ lề luật. Nói tóm lại, Ðức Giêsu kêu mời mọi người hãy học với Ngài và đón nhận luật của Ngài:
Học với ngài: học gương hiền lành và khiêm tốn
Ðón nhận luật Ngài là luật yêu thương
4. Bài đọc II (Rm 8,9.11-13) (Chủ đề phụ)
Ðây là lập luận thứ ba cho luận đề "được công chính hóa nhờ đức tin".
Cốt tuỷ của lập luận: trong con người có hai khuynh hướng đối nghịch nhau, một muốn làm lành và một muốn làm ác. Con người chỉ có thể tìm được sự thống nhất nội tâm nhờ ơn của Thánh Thần.
Áp dụng: Kitô hữu đã được Chúa Thánh Thần đến ở trong mình cho nên đã có một cuộc sống mới, cho nên họ đừng sống theo cuộc sống cũ nữa:
Cuộc sống cũ là sống theo xác thịt. Cuộc sống đó sẽ dẫn đến cái chết.
Cuộc sống mới là sống theo Thánh Thần. Nó sẽ dẫn đến sự sống vĩnh cửu.
Thánh Augustinô đã tự thuật rằng chính đoạn thư này của Thánh Phaolô đã giúp Ngài hoán cải.
IV. Gợi ý giảng
1. Thế nào là "hiền lành?"
Trong nguyên bản Hy Lạp, thánh Matthêu dùng chữ praus. Chữ này có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế, "hiền lành" bao gồm một tâm thế bên trong và một cách phản ứng bên ngoài.
- Tâm thế bên trong là luôn êm ái hoà nhã: nghĩ về người khác thì nghĩ tốt, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Ðón nhận những lời nói và cách cư xử của người khác đối với mình thì không thành kiến, biết phải quấy, sẵn sàng đối thoại, chấp nhận sửa đổi.
- Phản ứng bên ngoài: nhẹ nhàng, tôn trọng, không thô bạo.
Chúa Giêsu hiền lành: trong lòng Ngài luôn yêu thương người khác (đặc biệt là những người khốn khổ hèn mọn), luôn muốn điều tốt cho người khác (nhất là muốn cứu độ người ta), không thành kiến đối với những người mà xã hội quen coi là xấu xa tội lỗi; lời nói và hành động của Ngài luôn tỏa ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Ngài không nặng lời, không lên án. Ngài chủ trương sống bằng tình thương, Ngài không bạo động.
2. Thế nào là "Khiêm tốn"?
Trong nguyên bản Hy Lạp, thánh Matthêu dùng chữ tapeinos. Chữ này có nghĩa là chấp nhận "đứng thấp", "ở dưới", "bị hạ xuống", hoặc tự ý xuống thấp, ở dưới.
Căn bản của khiêm tốn là biết mình "là" thế nào: từ đó không muốn tỏ ra hơn cái "là" ấy và giả như người khác có coi mình kém hơn cái "là" ấy thì mình cũng không màng tới. Ðiều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái "là" của mình.
Dụ ngôn của Ðức Giêsu về những chỗ ngồi (Lc 14,7-11) giúp ta hiểu rõ hơn về thái độ khiêm tốn đối với danh dự:
Danh dự của ta không phải do ta tranh dành mà có: Khi được mời đi ăn cưới thì đừng tự ý dành chỗ nhất.
Danh dự của ta là do chính cái "là" của ta tạo cho ta: chủ tiệc thấy ta xứng đáng chỗ nào thì sẽ đặt ta vào chỗ đó.
Nhất là danh dự của ta là do Thiên Chúa sắp xếp cho ta: chủ tiệc cưới trong dụ ngôn này là chính Thiên Chúa. Ngài sẽ mời ta vào chỗ Ngài xếp đặt.
3. Cuộc hoán cải của Augustinô
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông theo theo những đòi hỏi của xác thịt. Kết quả là một cuộc sống tội lỗi.
Một hôm, trong lúc tâm hồn trống rỗng vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng từ đâu đó vang lên "Tolle et lege" (Hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một quyển Thánh Kinh. Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư này của Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma: đừng sống theo xác thịt nữa mà hãy sống theo Thánh Thần.
Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và ăn chay hãm mình của mẹ ngài là bà Mônica. Nhưng chính câu Thánh Kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Augustinô.
4. "Hãy đến với Ta"
Hãy đến với Ta. Chúa bảo tôi như thế. Nhưng tôi đáp lại: Con không dám, vì con bất xứng.
Hãy đến với Ta. Chúa lặp lại. Tôi lại đáp: Con sợ.
Hãy đến với Ta - Nhưng con đâu có hẹn trước với Chúa.
Hãy đến với Ta - Hiện giờ con không rảnh.
Hãy đến với Ta - Tôi không còn lý do gì từ chối nữa.
Chúa nói tiếp:
Con hãy đến.. hãy ngồi xuống... hãy trút bỏ gánh nặng trên vai... Hãy ngồi dưới bóng cây im mát của Cha... Hãy giải khát bằng dòng nước trong lành của Cha... Ở bên Cha, con sẽ được nghỉ ngơi, sẽ thấy an bình.
Tôi thưa: "Ách của Cha thật là êm ái. Gánh của Cha thật là nhẹ nhàng". (Flot McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: "Anh em hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường". Với ước muốn nên giống Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Hội Thánh là một bà mẹ hiền / luôn hết lòng yêu thương và tận tình chăm sóc con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / cảm nghiệm được một cách rõ rệt tình thương bao la của Hội Thánh.
2. Chúa Giêsu nói / "Phúc thay ai xây dựng hòa bình / vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết sống tinh thần tám mối phúc thật / nhờ đó / họ có thể trở thành những người kiến tạo hòa bình.
3. Trong đời sống thường ngày / khi gặp buồn phiền hay đau khổ / nhiều người đã đặt niềm tin không đúng chỗ / do đó bị lừa bịp và bị thiệt hại hết sức nặng nề / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp thử thách / chỉ chạy đến cùng Chúa để được Người nâng đỡ ủi an.
4. Chúa ghét kẻ kiêu căng / nhưng thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết noi gương Chúa Giêsu / sống hiền hậu và khiêm nhường.
CT: Lạy Chúa Giêsu, để nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời theo lời mời gọi của Chúa, chúng con phải lắng nghe Lời Chúa dạy và thực thi mệnh lệnh Chúa truyền. Xin Chúa thương ban ơn trợ giúp, để chúng con làm trọn những gì Chúa đòi hỏi nơi chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu thường xuyên cầu nguyện với Chúa Cha và Ngài cầu nguyện rất sốt sắng. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh sau đây.
- Trước rước lễ: Ðức Giêsu đã mời gọi: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". "Ðây Chiên Thiên Chúa..."
VII. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay, Ðức Giêsu đã mời gọi chúng ta học gương hiền lành và khiêm tốn của Ngài. Trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng sống hiền lành và khiêm tốn theo gương Chúa.
71. Gánh nặng - Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
"Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". Đó là một lời kêu gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa Giêsu nói với tất cả và từng người chúng ta.
Theo nguyên nghĩa Hy lạp, thì chữ "vất vả mang gánh nặng nề" Chúa Giêsu nói ở đây được hiểu là cái bao đựng vật dụng cá nhân như cái ba-lô người ta đeo trên lưng, còn theo nghĩa thông thường, đó là những vất vả, khó khăn, trách nhiệm mà người ta phải chấp nhận. Dù theo nghĩa nào thì chúng ta cũng hiểu ngay là mỗi người đều có những vất vả và đau khổ, được gọi chung là gánh nặng riêng cho đời mình.
Thực vậy, đời người giỏi lắm là được trăm năm trần thế. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Trăm năm nào có gì đâu? Nhưng từ lúc trắng răng đến lúc bạc đầu, không lúc nào vất vả, đau khổ không theo đuổi chúng ta, đến nỗi ca dao tục ngữ đã nói: "Gánh khổ mà đổ lên non. Cong lưng mà chạy khổ còn chạy theo". Đời là một bể khổ, đời là thung lũng nước mắt, không ai chối cãi, không ai phủ nhận, sinh ra và có mặt trên đời là khổ: "Hữu sinh hữu khổ" là thế. Với thời gian, lớn lên, đau khổ, vất vả hàng theo sát gót con người, dù ở đâu và làm gì, ai cũng có những vất vả và đau khổ của riêng mình.
Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó, Chúa đã hình dung bằng hai tiếng "vất vả và gánh nặng", và Chúa động viên, khích lệ, kêu gọi: "Hãy đến với Chúa" để Chúa an ủi, nâng đỡ. Thực vậy, ở đời này có nhiều gánh nặng: gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gáng nặng xã hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người và tình đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác: vất vả với cuộc mưu sinh, vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có khi vẫn không đủ sống; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé, vất vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng, quậy phá.
Ngoài ra, "gánh nặng còn được hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm năm, nhưng thử hỏi có ai là không đau khổ chăng? Ai cũng có những đau khổ riêng mình: người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể xác, người đi tu hay sống đời gia đình...không ai dám nói đời mình không có đau khổ. Cuộc đời trần gian là thế.
Như vậy, chúng ta dễ dàng chấp nhận: vất vả và gánh nặng đời này thì nhiều thứ, nhiều cỡ, nhiều kiểu, và chúng ta cũng nhìn nhận rằng: trước những gánh nặng đó, nhiều khi tự sức chúng ta, chúng ta không làm gì được, chúng ta buông xuôi chán nản ư? Thậm chí có những người khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì bỏ cả việc đạo đức và chán cả cầu nguyện, như vậy là sai lầm lớn. Những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng nhiều và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy đến với Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa nói Ngài nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta thôi chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài làm cho nhẹ gánh chứ không cất gánh nặng đi. Có nghĩa là chính chúng ta phải cố gắng làm việc và tìm mọi cách để giải tỏa gánh nặng đời mình rồi Chúa sẽ giúp sức thêm, chứ đừng ngồi mà than.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: "Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao", bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết những khó khăn. Nếu trong cuộc sống chúng ta còn biết nhờ vả vào những người quyền thế hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là những khi vất vả hay đau khổ, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.
04/07 Ăn chay đẹp lòng Chúa
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Ăn chay đẹp lòng Chúa.
Thứ bảy đầu tháng, tuần 13 thường niên.
"Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".
Lời Chúa: Mt 9, 14-17
Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?"
Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Giữ được cả hai
Suy niệm:
Mỗi năm người Do thái dành một ngày chính thức để cả nước ăn chay.
Đó là ngày lễ Xá tội (Lv 23, 29).
Tuy nhiên cũng có những ngày ăn chay khác có tính tập thể
để kỷ niệm những biến cố đau buồn của dân tộc.
Ngôn sứ Giôen đã mời người ta ăn chay, khóc lóc và than van (Ge 2, 12).
Vào thời Đức Giêsu, các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và nhóm Pharisêu
còn ăn chay do lòng đạo đức riêng, có người hai lần một tuần (Lc 18, 12).
Nhìn chung bầu khí ăn chay không phải là bầu khí vui tươi phấn khởi.
Bởi đó có người cố mang bộ mặt rầu rĩ để khoe là mình đang ăn chay.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu bị các môn đệ của Gioan tra hỏi
về chuyện tại sao các môn đệ của Ngài lại không ăn chay như họ (c. 14).
Đối với họ ăn chay là một việc đạo đức quan trọng, không thể thiếu
trong đời sống của một nhóm như nhóm các môn đệ Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã trả lời họ bằng một câu hỏi khác.
Gián tiếp Ngài nhận mình là chàng rể, các môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Chính vì thế chuyện ăn chay than khóc hoàn toàn không hợp chút nào.
Bầu khí vui tươi là nét đặc trưng của thời kỳ Đấng Mêsia đến.
Đúng là cần phải sám hối, vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 4, 17),
nhưng Nước Trời được ví như một tiệc cưới lớn (Mt 22, 1-14; 25, 1-13),
nên phải đón lấy Nước này trong niềm vui của ngày hội.
Chỉ khi nào chàng rể Giêsu bị đem đi trong cuộc Khổ nạn,
khi ấy các môn đệ của Ngài mới ăn chay.
Các Kitô hữu sơ khai vẫn giữ việc ăn chay (Cv 13, 2; 14, 23; 2 Cr 6, 5)
đặc biệt vào những ngày thứ tư và thứ sáu (sách Điđakhê 8, 1),
thay vì thứ hai và thứ năm như người Do thái.
Nhưng họ ăn chay không phải để chờ một Đấng chưa đến,
mà để chuẩn bị lòng mình đón đợi một Đấng sắp lại đến trong vinh quang.
Đức Giêsu đem đến những giáo huấn và tinh thần mới mẻ.
Liệu có thể ghép những cái mới đó vào cái khung của lối sống cũ không?
Bằng hai ví dụ, Ngài cho thấy điều đó khó thực hiện và gây nguy hại.
Miếng vải mới được vá vào chiếc áo cũ, sẽ co lại và làm áo rách thêm.
Rượu mới được đổ vào bầu da cũ, thì bầu sẽ bị nứt mà rượu lại chảy ra.
Đối với Đức Giêsu, muốn giữ được cả bầu lẫn rượu mới, thì cần có bầu mới.
Bầu mới chính là cách sống mới Luật Tôra của Thiên Chúa
như đã được Ngài giải thích lại trong Bài Giảng trên núi.
Kitô hữu được định nghĩa là những người luôn sống trong niềm vui,
bất chấp những bách hại và giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Chàng rể đã bị đem đi, nhưng Chàng rể vẫn đang ở lại (Mt 28, 20).
Bầu khí của tiệc cưới và rượu mới
vẫn là bầu khí của mọi cộng đoàn Kitô hữu hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Thái độ dứt khoát
Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình". Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Mới và cũ
Chẳng ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu da sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.” (Mt. 9, 16-17)
Đức Giêsu, con người tự do
Chúa Giêsu yêu mến các truyền thống, nhưng Người không phải là con người bảo thủ. Người thông thạo Lề Luật, vàbiết cách tuân thủ, nhưng không làm nô lệ cho Luật. Người tôn trọng những cái cũ, nhưng không để cho những cái đó làm trở ngại cho đời sống được canh tân và được thể hiện vuông tròn.
Chúa Giêsu yêu thích cái mới, tạo nên cái mới, sống chết vì sự canh tân. Phúc âm của Người, chính là nguồn sinh lực mới mẻ và tươi mát. Không có chi lải nhải. Chúa Giêsu không chống lại việc giữ chay theo Luật truyền. Người thường ăn chay. Nhưng không ngại bãi bỏ việc giữ chay không có lý do thích hợp vì nó cản trở niềm vui chan hòa của con người. Chúa Giêsu nhìn nhận rằng người ta không thể suốt đời cứ huênh hoang tự đắc về những tập tục cũ kỹ và những cách suy nghĩ lỗi thời. Người đã rao giảng sự canh tân thường xuyên con người, việc làm và cách làm. Người luôn có những bước khởi đầu mới mẻ, với nhiệt tình hăng say luôn mới. Người là con người tự do, có khả năng xông pha mạo hiểm.
Chúng ta có là những con người tự do không?
Chúng ta có là những con người tự do như Chúa Giêsu không? Mặc dầu vẫn phải tôn trọng quá khứ, chúng ta có được khả năng sống luôn hướng về tương lai không? Dù ở tuổi nào, ta vẫn có được óc sáng kiến, tinh thần sáng tạo chứ? Có những ngày nào, ta thấy thích thú đoạn tuyệt với nhưng lề thói cũ, sẵn sàng hướng về những phiêu lưu mới mẻ, sẵn sàng đương đầu với những thách đố mới không?
Nếu cuộc sống của ta chẳng bao giờ có được điều chi mới mẻ, nếu lòng tin của ta không hề thúc đẩy ta làm được việc gì mới lạ, nếu ta chỉ sống với những gì đã cũ kỹ, dã qua, đã được làm rồi, nếu cuộc đời thường ngày của ta, mỗi ngày chỉ là rập theo vết xe lăn cũ, thế thì chúng ta đã tự giam hãm mình vào những bầu rượu cũ và chúng ta đang sống xa, rất xa tinh thần Phúc âm rồi đấy.
Suy Niệm 4: HÃY ĐỔI MỚI ( Mt 9, 14-17)
Xem lại CN 8 TN B, Thứ Hai tuần 2 TN, thứ Sáu sau lễ Tro, và thứ Sáu tuần 22 TN.
Đã nhiều lần Đức Giêsu bị những người Pharisêu cho rằng Ngài không giữ Lề Luật của Môsê. Họ kết án Đức Giêsu là người vô kỷ luật. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã phủ nhận chuyện đó và Ngài đã khẳng định: “Tôi đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn”. Thật vậy, Lề Luật Cựu Ước chỉ là một sự chuẩn bị cho Con Người và sứ vụ của Đức Giêsu đến mà thôi.
Nhưng nay, thời đã điểm và Đức Giêsu đã đến, Ngài hiện diện như những gì các tiên tri đã tiên báo và Lề Luật của Môsê hướng tới. Vì thế, giờ đây, chính Ngài là nội dung của Luật, nên hãy sống với một tinh thần mới chứ không phải mong đợi nữa, vì Chàng Rể là Đức Giêsu đã đến.
Tinh thần mới ở đây chính là lòng bao dung, tha thứ, hiền hòa, nhân hậu, từ bỏ con đường tội lỗi. Đổi mới bầu da cũ là bỏ đi nếp sống không còn phù hợp với Tin Mừng và thay vào đó là những cách sống mà Đức Giêsu đã vạch ra, đó là: “Mến Chúa và yêu người”. Thiên Chúa không thể đổ tràn ân sủng mới của Ngài vào trong một thân thể cũ với đầy những tội lỗi, những thù hằn, ghen ghét ...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức mình là người tội lỗi, để đáng được đón nhận
Ngọc Biển SSP