Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
28/06 Xứng đáng với Thầy
- Viết bởi Mt 10, 37-42
Xứng đáng với Thầy.
Chúa Nhật 13 Thường Niên năm A.
"Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy".
Lời Chúa: Mt 10, 37-42
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
"Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính.
Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM A
Lời Chúa: 2V 4, 8-11.14-16a; Rm. 6, 3-4.8-11; Mt. 10, 37-42
1. Xứng với Thầy – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Hai mươi sáu năm trời, vác một cây thánh giá gỗ, dài 3,6m, ngang 1,8m,
nặng 18 kg, vượt qua 50.140 km, 227 quốc gia, 7 lục địa:
đó là điều mục sư Arthur Blessit đã làm từ Noel 1969.
Ông là người giữ kỷ lục đi bộ quãng đường dài nhất.
"Tôi đã đi qua các sa mạc, rừng rậm, đã từng bị tấn công bởi voi, rắn, cá sấu.
Tôi đã bị bắt giam 21 lần và suýt bị hành hình..."
Chỉ còn 50 nước ông chưa đặt chân tới.
Ông hy vọng sẽ hoàn tất chuyến đi này trước năm 2000.
Như vậy ông sẽ là người đầu tiên đưa thánh giá đi khắp mọi nơi trên thế giới.
Cử chỉ của ông làm chúng ta suy nghĩ.
Vác thánh giá là chấp nhận nặng nề và bấp bênh,
nặng nề vì khúc gỗ trên vai, bấp bênh vì nguy hiểm.
Đức Giêsu mời gọi các môn đệ vác thánh giá của mình mà theo Ngài.
Chẳng có con đường nào tốt hơn con đường Ngài đã đi.
Con đường khó nghèo, khiêm hạ ở Bê-lem và Na-da-rét.
Con đường rao giảng trong nhọc nhằn ở phần đất xứ Galilê.
Con đường đầy đe dọa hiểm nghèo khi lên Giêrusalem.
Con đường hiến mình khi vác thánh giá lên Núi Sọ.
Chúng ta được mời gọi đi theo Ngài trên các con đường ấy,
hay đúng hơn đi theo Ngài trên nẻo đường của đời mình,
không cô đơn thất vọng, vì biết nơi mình sắp đến.
Thánh giá của chúng ta không phải là khúc gỗ,
nhưng là những gì ta phải từ bỏ, dù rất yêu mến,
những người ta phải yêu mến, dù rất muốn từ bỏ.
Chúng ta chỉ vác nổi thánh giá của mình nếu chúng ta dám yêu thực sự.
Chỉ khi yêu mến Thiên Chúa và tha nhân,
chúng ta mới dám quên mình, bỏ mình, mất mình, hiến mình.
Điểm mới mẻ của Tân Ước là tình yêu đối với Đức Giêsu.
Ngài đòi ta phải yêu Ngài hơn cha mẹ, hơn con cái.
Ngài còn đòi ta chịu mất mạng vì Ngài.
Nếu Đức Giêsu không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa,
nếu Ngài đã không chết vì chúng ta trước,
thì Ngài chẳng có quyền đòi hỏi những hy sinh như vậy.
Trải qua 20 thế kỷ, biết bao thế hệ Kitô hữu đã dám sống đến cùng tình yêu ấy.
Truyền giáo không phải chỉ là thông truyền đức tin
mà còn là thông truyền tình yêu, là làm cho Đức Giêsu được mọi người yêu mến.
Nhưng trước hết, chúng ta phải cảm nghiệm được Tình Yêu
để cả cuộc đời ta là lời đáp cho Tình Yêu, là cuộc sống sao cho xứng với Thầy (c.37.38).
Ước gì chúng ta yêu Đức Giêsu trên mọi sự,
yêu mọi sự trong Ngài và dưới Ngài,
chấp nhận mất cái tôi nhỏ mọn, để được cái tôi triển nở.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy chia sẻ một kinh nghiệm về mất để rồi được lại hay một kinh nghiệm về tưởng được mà lại mất.
Từ bỏ, hy sinh là những điều không hấp dẫn con người hôm nay, nhưng bạn có thấy chúng hết sức cần thiết không? Làm sao để dễ từ bỏ mình khi phải chung sống với người khác?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
1. Thí mạng sống vì Thầy - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Ngày 19/06/1988, tại đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Hiển Thánh 117 Đấng anh hùng Tử Đạo Việt Nam, trước sự tham dự của gần một trăm ngàn người Việt Nam đến từ khắp năm châu và hơn năm chục ngàn người Phi Luật Tân, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Đại lễ đã long trọng tuyên dương các Đấng đã thí mạng sống vì Đức Giêsu Kitô.
+ Các Ngài đã thí mạng sống vì Chúa bằng nhiều cách: bằng sống Tin mừng thương yêu, thân ái với mọi người, cả những kẻ thù bắt bớ làm hại mình; Thánh Linh mục Dụ nói: “Tôi kính mến Thiên Chúa như thượng phụ, kính Vua như trung phụ, và song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột mà hại Vua, tôi cũng không phải vì Vua mà phạm đến thượng phụ là Thiên Chúa”. Thánh Linh mục Dũng Lạc đã chia sẻ quà tiếp tế cho lính canh. Thánh y sĩ Phan Khắc Hòa đã rộng rãi giúp người nghèo khó, miễn phí cho các bệnh nhân túng thiếu. Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa”. Ông đã trồng dâu kiếm tiền giúp người nghèo. Thánh trùm Đính thường xuyên thăm viếng trại cùi, và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch trong nhà. Thánh Linh mục Triệu đã nhường tiền bữa ăn ân huệ trước giờ xử tử cho người nghèo: “xin cầm tiền và gửi cho người nghèo dùm tôi”.
+ Các Ngài đã thí mạng sống vì Thầy: bằng mặn nồng tình nghĩa gia đình. Thánh Đaminh Úy mạnh dạn tuyên bố giữ vững niềm tin của cha ông: “Nếu tôi cả gan bước lên Thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa, bất hiếu với cha mẹ; vì song thân sinh ra tôi đã dạy tôi trung thành với đức tin cho đến chết”
Thánh Martino Thọ căn dặn các con: “Các con thân mến, ý Chúa muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm chăm sóc các em mình. Các con phải nhớ kính trọng vâng lời anh chị. Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày, Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên tâm giữ đạo”.
Thánh Linh Mục Triệu vì thương mẹ, ở lại Huế ba tháng dựng nhà cho mẹ nên bị bắt.
Thánh Trùm Phụng tại pháp trường gặp lại con gái, cô Anna Nhiên, đã đeo ảnh Thánh giá vào cổ con và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ảnh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều, con nhé”.
Tình yêu thương của các thánh tử đạo đối với cha mẹ, vợ, con có phải mâu thuẫn với Tin mừng hôm nay chăng?
Tin mừng nói: “Ai yêu cha mẹ, con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”.
Phải quả quyết rằng tình yêu thương gia đình của các Ngài đã thể hiện đúng Tin mừng của Đức Giêsu, vì Người đã dạy ta phải giữ giới răn thảo kính với cha mẹ. Chính Người “hằng vâng phục các ngài” (Lc. 2, 51; Ga. 19, 26-27).
Sở dĩ các Ngài yêu mến Chúa hơn cha mẹ, con cái vì trung thành với đạo của cha mẹ, vì hiếu thảo với cha mẹ, nối chí của cha mẹ. Hơn nữa, các Ngài hiến mạng sống mình cho Chúa là để cho cha mẹ, vợ con được sống dồi dào trong ơn phúc của Thiên Chúa, đem lại sự sống muôn đời cho cha mẹ, vợ con và muôn người.
+ Các Thánh tử đạo đã thí mạng sống vì Thày bằng sẵn sàng hy sinh dâng hiến tình yêu cha mẹ, tình yêu phụ tử, tình yêu gia đình cho Chúa, còn hy sinh tình yêu mạng sống mình cho Chúa để chứng tỏ các ngài mến Chúa trên hết mọi sự, vì “mọi sự Chúa ban cho, bây giờ Chúa cất đi”, như Thánh Gióp đã nói. Chẳng những các ngài không mất gì mà còn được mạng sống đó đến muôn đời: “Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được, sẽ cứu được mạng sống ấy, cho đến đời đời” (Mt. 11, 39; Lc. 9, 24; Ga. 12, 25)
Như vậy, chúng ta thấy không còn mâu thuẫn giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với gia đình và chính bản thân mình nữa.
Các Thánh tử đạo hy sinh thí mạng sống mình, thí tình yêu gia đình, tình yêu mọi người chính là để cho mình, cho gia đình, cho mọi người được đón nhận tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, chúng ta sẽ thực hiện được tình yêu chân chính, tình yêu cao cả, tình yêu phục vụ mọi người, tiếp đón những bậc ngôn sứ, những bậc công chính vị vọng cũng như những kẻ bé mọn hèn kém và những kẻ thù nữa.
Đó mới thật là người thí mạng sống vì Thầy.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thúc giục chúng con thí mạng sống vì Chúa để mở rộng tâm hồn ra đón tiếp và phục vụ mọi người như Chúa đã hy sinh cứu độ chúng con. Xin cho chúng con biết noi gương các Thánh Tử Đạo cha ông chúng con, biết hiến thân làm chứng cho Tin mừng của Chúa.
3. Đòi hỏi người môn đệ - Huệ Minh
Trang Tin Mừng hôm nay nói rất rõ. Chúa Giêsu tuyên bố: ai yêu mến cha mẹ, con cái hơn Người thì không xứng đáng là môn đệ của Người. Và Người còn đòi hỏi hơn nữa khi tuyên bố tiếp theo: "Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta". Nếu được phép làm một phân tích văn chương nho nhỏ, chúng ta có thể nói các đòi hỏi đã được đưa ra càng ngày càng gắt gao hơn. Ðầu tiên Chúa chỉ đòi người môn đệ phải yêu Người hơn cha mẹ; rồi Người bảo họ phải yêu Người hơn cả con cái là những giọt máu của chính bản thân mình; cuối cùng Người lại buộc họ phải vác lấy khổ giá mà đi theo Người tức là phải yêu Người đến nỗi không sợ chết và dám bỏ mạng sống vì Người.
Ta thấy các tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn để trở nên những sứ giả của lòng thương xót Chúa. Họ còn được Chúa dặn dò phải vững tin ở sự quan phòng đầy tình thương và quyền năng của Chúa, để không sợ hãi trước bất cứ thế lực trần gian nào và kiên trung chu toàn sứ vụ đã được Chúa trao ban. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tỏ cho các tông đồ biết, vì được chính Chúa kêu gọi, tuyển chọn và sai đi để thực hiện sứ vụ của chính Ngài nên họ thực sự là những ngôn sứ của giao ước mới. Và vì thế, tiếp đón họ cũng là tiếp đón chính Chúa Kitô và tiếp đón chính Thiên Chúa.
Có thể nói nội dung bài Tin Mừng hôm nay xoay quanh một chữ YÊU. Và các môn đệ Đức Giêsu được mời gọi phải làm cho tình yêu mình dành cho Thầy sinh những quả ngọt trái lành như đã được liệt kê lần lượt trong bản văn.
Trước hết, tình yêu cho hoa trái đầu tiên của nó là sự phân rẽ xem ra cay nghiệt hơn cả việc đối đầu và loại trừ như đã thấy trong các cuộc xung đột hay chiến tranh, đó là sự phân rẽ giữa cha mẹ với con cái và với người thân trong nhà. Điều này đau đớn khác nào cắt từng khúc ruột mỗi người.
Ta thấy tình yêu đòi sự ưu tiên xem ra quá sức người, đó là phải đặt Chúa lên trên cả đấng sinh thành và dưỡng dục mình. Tiếp theo đó, tình yêu đòi phải mở cửa lòng tiếp nhận không chỉ chính Chúa, mà là những người được Chúa sai đến, rồi lại cả những người nghèo hèn bé nhỏ.
Người yêu cầu phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Chẳng phải là điều răn yêu thương người thân cận đã bị đảo lộn rồi sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự ghét bỏ đối với họ? Nhưng ý nghĩa của từ “ghét” ở đây được làm sáng tỏ nhờ Mt 10,37: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Điều này có nghĩa là ai muốn đi theo Đức Giêsu thì phải yêu mến Người hơn tất cả những người khác, kể cả những người gần gũi với mình nhất. Người ấy lại còn phải yêu mến Người hơn cả chính bản thân mình. Đức Giêsu yêu cầu người ta dành cho Người một vị trí đặc biệt và duy nhất. Vì thế, “ghét” đây cũng có thể phải hiểu là “dứt khoát” với những quan hệ nào đó nếu can, để có thể trung thành với Tin Mừng. Chính tương quan duy nhất với Đức Giêsu sẽ điều hành mọi tương quan của ta với những người khác.
Như lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ trong tin mừng hôm nay, khi chúng ta tiếp đón các tông đồ và các giáo huấn của các ngài, chúng ta tiếp đón chính Chúa Kitô và giáo huấn của Ngài. Các tông đồ của Chúa Kitô ngày nay chính là các giám mục--những người kế vị các tông đồ ngày xưa--có sự thông hiệp trọn vẹn với đức giáo hoàng, đấng kế vị Thánh Phêrô và là Vị Ðại Diện Chúa Kitô làm Ðầu Hữu Hình của Hội Thánh ở trần gian. Trong sự hiệp thông với đức thánh cha và các đức giám mục, tất cả các linh mục, phó tế vàø mọi tín hữu trong Hội Thánh cũng được thông dự vào sứ vụ của các tông đồ theo những mức độ và chiều kích khác nhau tùy đấng bậc mình để phục vụ và xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô.
Khi tỏ lòng kính yêu và vâng phục các vị thẩm quyền đang phục vụ Hội Thánh, chúng ta thực sự tỏ lòng kính yêu và vâng phục chính Chúa Kitô và được lãnh nhận tất cả những phúc lộc Thiên Chúa dành cho những tín hữu chân thực của Người. Trái lại, phủ nhận hay chống đối Huấn Quyền của Hội Thánh cũng là phủ nhận và chống đối Chúa Kitô và giáo huấn của Người. Ðây cũng là điều Ðức Cha Nguyễn Văn Thuận đã ân cần khuyên nhủ chúng ta trong tác phẩm Ðường Hy Vọng của ngài: "Suốt đời con hãy ghi lòng tạc dạ: luôn luôn kính trọng người của Hội Thánh, bí tích của Hội Thánh, chỉ thị của Hội Thánh, phụng vụ của Hội Thánh. Chúa sẽ chúc lành cho con" (# 266).
Nói cách khác, Chúa đòi người môn đệ phải từ bỏ tất cả, ngay cả mạng sống mình để đi theo và yêu mến Người. Người không cho phép môn đệ nào được lấy cớ yêu cha yêu mẹ, yêu con cái hay sự sống của mình mà từ chối với Người một điều gì khiến Người thấy tình yêu của môn đệ đối với Người chưa thật hoàn toàn và Người chưa là tất cả đối với họ. Người đòi hỏi tình yêu tuyệt đối, nên Người không nhận làm môn đệ những kẻ muốn đi theo Người nhưng lại còn xin phép về nhà lo an táng cha hay thu xếp những công việc khác. Người có thể đòi hỏi như thế bởi chính Người đã từ bỏ tất cả vì môn đệ và để cho người ta trở thành môn đệ. Chúng ta đã thấy Người đã nộp mình chịu chết cho những kẻ Người thương yêu như thế nào. Tình yêu lớn lao như vậy và tuyệt đối như thế chỉ thấy người môn đệ xứng đáng khi họ cũng yêu tuyệt đối và lớn lao như vậy.
Ai muốn đi theo Đức Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vì trân trọng ý muốn của Ngài, người ta phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, bị khinh bỉ và tất cả những gì đối lập lại với một cuộc đời thú vị, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Hẳn là chúng ta muốn tạo ra một hình thái Kitô giáo vừa tầm với chúng ta, làm chúng ta vui thích. Đức Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể bước theo Người theo những điều kiện của Người. Ai muốn thuộc về Đức Giêsu, thì phải quyết định theo Đức Giêsu toàn thể, với trọn con đường của Người.
Những đòi hỏi này của tình yêu dễ khiến tôi, bạn và anh chị mệt mỏi, dễ đặt ta vào tình cảnh nghi vấn, hoang mang không biết yêu như thế có ổn chăng, không biết mình có thể trung thành với đường yêu này đến bao giờ, dẫu rằng tâm ta vẫn thiện đủ để khát mong yêu Chúa, lòng ta vẫn sáng đủ để chọn cho mình một đối tượng và một cách yêu đúng đắn giữa muôn vàn sắc màu và cung bậc của tình yêu trong thời đại này.
Thật vậy, đáng lẽ ra, đã yêu thì phải nên một, đã thương thì phải đoàn kết. Đàng này, yêu lại gây chia lìa. Đơn giản là vì cách yêu của Chúa không như kiểu yêu phàm trần, vì lối yêu của Chúa là đường đẹp, đường thánh nhưng chẳng mấy ai thích đi. Đây chính là gốc rễ của chia rẽ và giáo gươm.
Thêm vào đó, còn những thách đố không hề nhỏ, đó là thách đố từ việc chỉ vì yêu Chúa mà nếu cần, ta lại phải sẵn sàng đặt tình cảm gia đình sang một bên mà dấn bước cho lòng mến Chúa, phải ngưng lo cho cha mẹ mà chu toàn bổn phận với Chúa.
Những nghịch lý trên khiến ta cảm nhận từ đáy lòng mình chút gì đó xót đau, khiếp khủng, thậm chí oan ngang mà không phải ai cũng có thể vượt qua.
Nếu yêu Chúa, ta có dám đứng một mình khi mọi người đứng ở phía đối diện chăng? Đó là lúc tất cả chọn oán thù mà ta lại muốn yêu thương. Đó là lúc ta muốn giữ lại bào thai trong bụng mình mà cha mẹ hoặc người chồng bắt ta phải phá. Đó là lúc ta chọn đến nhà thờ mà mọi người muốn ở nhà xem đá bóng. Đó là lúc ta muốn cất lên lời kinh tạ ơn sau một ngày mệt nhọc mà con cái ta lại muốn bật máy karaoke để giải trí.... Dám đứng một mình là đồng nghĩa với việc chấp nhận sự phân rẽ, chấp nhận sự đối đầu, chấp nhận bị loại trừ,...
Bước theo Đức Giêsu: hoặc là một cuộc bước theo trọn vẹn, hoặc chẳng phải là một cuộc bước theo. Người ta không được chỉ chọn ra một vài nét thuộc về hành trình của Đức Giêsu mà người ta thích. Hoặc là người ta sẵn sàng đi với Người trọn chuyến đi, hoặc có bắt đầu cũng chẳng ích gì. Thập giá của Đức Giêsu là dấu chỉ cụ thể về sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha, với định mệnh của Người và với sứ mạng của Người. Đối với Người, sự trung thành này còn quý giá hơn chính mạng sống Người.
4. Bước theo Chúa
“Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, kẻ ấy không xứng đáng làm môn đệ Ta”.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy nhiều người đã lên tiếng thán phục Chúa, nhưng lại không dám bước theo Người. Họ giống như một em bé ngồi xem xiếc. Em há hộc miệng ngạc nhiên và khâm phục người đi thăng bằng trên sợi dây mong manh. Khi người ấy nhìn xuống và hỏi:
- Em có tin rằng tôi có thể vác em mà đi trên sợi dây này không?
Em không ngần ngại trả lời:
- Chắc chắn là ông làm được.
Thế nhưng, khi người ấy nói với em:
- Vậy em hãy lên đây và tôi sẽ vác em mà đi trên dây.
Nghe vậy, em bé liền sợ hãi và từ chối lời mời gọi, mà theo em, thật là đầy nguy hiểm.
Với chúng ta cũng thế. Nhiều người trong chúng ta luôn nói rằng mình tin Chúa, nhưng lại không dám bước theo Người. Họ chỉ là những kẻ dám đốc, dám xúi mà lại chẳng dám làm. Và nếu có làm, có bước theo Chúa, thì chỉ làm, chỉ bước theo trong một mức độ nào đó mà thôi. Họ theo Người đến bên thập giá, chứ không dám theo Người đến độ đóng đinh mình vào thập giá.
Có những lúc trong cuộc sống, đau khổ và thử thách đã xảy ra như muốn vùi dập chúng ta, khiến chúng ta bị cám dỗ chối bỏ Chúa, khước từ thập giá và không bước theo Người nữa. Trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa:
- Chúng ta hãy thầm nhủ rằng chính Chúa đã từng có những lúc cảm thấy thập giá của mình như nặng quá sức. Chẳng hạn trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu, Người đã cầu nguyện: Xin Cha cất chén đắng này cho con, nhưng không theo ý Con, một theo ý Chúa mà thôi. Đề rồi cuối cùng Người đã chấp nhận thập giá, đồng thời cũng đã chấp nhận cho một kẻ xa lạ là ông Simong vác đỡ Ngài trên đường lên đỉnh Canvê.
Thực vậy, là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ trần gian, thế mà Người đành thú nhận với bản thân và với thế gian răng mình không đủ sức vác nồi thập giá, huống nữa là chúng ta. Bởi đó, phải khiên nhường noi gương Người, khi thập giá đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta.
Ngoài ra, chúng ta cũng hãy kêu xin Người giúp đỡ. Người đã biết tjhế nào là sức nặng của thập giá, thế nào là lảo đảo và té ngã khi vác thập giá, chắc hẳn Người sẽ hiều biết và thông cảm với chúng ta, vì “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”.
Đồng thời chúng ta cũng cần phải nhờ đến những người chung quanh, như cha mẹ, anh em và bè bạn, như Chúa Giêsu đã nhờ đến ông Simong ngày xưa.
Tin Mừng hôm nay mời hỏi chúng ta hãy kiểm điểm đời sống và tự vấn lương tâm xem chúng ta có khiêm nhường như Chúa Giêsu khi thập giá đổ xuống trên cuộc đời chúng ta hay không? Chúng ta có kêu cầu Chúa và những người thân yêu để giúp đỡ chúng ta khỏi thất vọng nản chí hay không?
Và cuối cùng, bản thấn chúng ta cần phải cố gắng để không trở nên một thập giá, một gắnh nặng cho người khác đã đành, mà hơn thế nữa, còn phải tích cực giúp đỡ họ vác lấy cây thập giá cuộc đời, là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Vì thế, chúng ta cũng phải kiểm điểm và tự vấn lương tâm xem chúng ta đã cư xử thế nào đối với những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Chúng ta đã sẵn sàng hay tứ chối, chúng ta đã giúp đỡ họ một cách vui vẻ hay miễn cưỡng.
Hãy bắt chước Chúa Giêsu mà vác lấy cây thập giá đời mình, đồng thời cũng hây bắt chước ông Simong, giúp đỡ người khác trong khi họ đang vác lấy thập giá mà bước theo Chúa.
5. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Vào một đêm mưa bão cách đây đã nhiều năm, có một cặp vợ chồng già bước vào gian tiền sảnh của một khách sạn nhỏ ở thành phố Philadelphia của Mỹ và hỏi thuê phòng. Họ ghé vào tránh bão và hy vọng có thể mướn được căn phòng trọ qua đêm.
Tiếp đón họ là một chàng trai có nụ cười rất dễ mến. Chàng trai giải thích rằng trong thành phố của họ đang có ba hội nghị lớn nên tất cả các phòng đều đã có người thuê. Chàng trai ngập ngừng một lát rồi nói tiếp:“Nếu thời tiết tốt, tôi sẽ gửi hai vị đến một khách sạn khác, nhưng làm sao tôi có thể để một đôi vợ chồng đáng mến như hai vị ra ngoài trong trời mưa gió như thế này vào lúc một giờ khuya được? Hai vị có thể ở tạm trong phòng của tôi được không? Nó không phải là phòng sang trọng gì cho lắm, nhưng nó cũng gọn gàng và sạch sẽ. Vì tôi phải trực vào khoảng thời gian này nên tôi có thể nghỉ ngơi ở đây cũng được. Xin ông bà đừng ngại.”
Cặp vợ chồng rất biết ơn và nhận lời trọ lại trong căn phòng đó của anh. Chàng nhân viên nhìn cặp vợ chồng già và mỉm cười với họ, và họ cũng mỉm cười lại với anh.
Nhiều năm sau đó, khi chàng trai trẻ dường như đã quên câu chuyện này, thì bất ngờ, anh nhận được một lá thư kèm cặp vé máy bay. Lá thư là từ cặp vợ chồng già. Họ nhắc lại đêm mưa bão hôm đó với lòng biết ơn sâu sắc cùng lời mời cậu đến thăm New York.
Chàng trai trẻ có đôi chút ngạc nhiên. Cả đêm đó, cậu không ngủ được và nằm suy nghĩ ngẩn ngơ: có lẽ ngày mai họ sẽ dẫn mình đi thăm thành phố một vòng và dùng bữa ở một nhà hàng sang trọng nào đó chăng? Nhưng nghĩ lại, cậu thấy mọi thứ có vẻ hơi quá, vì chỉ là một sự giúp đỡ nhỏ thôi, liệu có cần phải tới mức như vậy không?
Sáng hôm sau, cậu đáp máy bay xuống New York. Cặp vợ chồng già có vẻ như đã đứng đợi cậu ở đó từ lâu. Họ mỉm cười, vẫy tay chào từ xa và đón cậu lên một chiếc xe sang trọng. Sau khi đi qua vài con phố, cặp vợ chồng già đưa cậu tới góc ngã tư đại lộ Fifth Avenue, người chồng đưa tay chỉ tòa nhà tráng lệ mới xây ở đó – một cung điện toàn bằng đá đỏ với những ngọn tháp cao vươn thẳng trên nền trời xanh, rồi nói với chàng trai: “Đây là tòa khách sạn mà tôi xây cho cậu, và tôi hy vọng cậu có thể quản lý nó”.
“Ông không đùa đấy chứ?” – Cậu ngỡ ngàng.
“Không. Đây là một đề nghị hoàn toàn nghiêm túc”, người chồng già trả lời bằng một giọng chắc nịch với nụ cười thấp thoáng trên môi.
Công trình tráng lệ kia chính là khách sạn nổi tiếng Waldorf Astoria – nơi tụ họp của tầng lớp quý tộc lớn của New York vào thời điểm đó. Đây cũng là nơi mà các nhân vật cao cấp trên toàn thế giới thường xuyên lui tới để nghỉ ngơi, đặc biệt là các Tổng thống Mỹ khi họ đang còn tại chức.
Người đàn ông già trong câu chuyện này chính là William Waldorf Astor của dòng họ Astor, một trong những gia đình giàu có nhất ở New York vào thế kỉ đó. Còn chàng trai tốt bụng kia chính là George Charles Boldt – vị giám đốc đầu tiên của khách sạn này! (Nguồn: daikynguyenvn.com).
Thái độ đầy ắp tình người của chàng trai tốt bụng trong câu chuyện trên đây, phần nào giúp chúng ta hiểu sứ điệp của Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay. Ở bài đọc I, trích sách các vua quyển thứ hai kể lại rằng, trên con đường đi thi hành sứ mạng, tiên tri Êlisa đi ngang qua Su-nêm và được một phụ nữ sang trọng mời ở lại dùng bữa tại nhà bà. Mỗi lần lưu lại đây, tiên tri Êlisa được bà đón tiếp một cách chu đáo. Không những thế, bà còn coi vị Tiên tri như một Đấng Thánh đến từ Thiên Chúa và muốn dọn cho vị Tiên tri một nơi ở xứng đáng trong nhà của mình. Bà nói với chồng rằng: “Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó” (2V 4,9-10). Sự hiếu khách của bà đã làm cho tiên tri Êlisa hết sức cảm kích. Vì thế, khi biết vợ chồng bà đã già mà chưa có con, Êlisa đã khẩn cầu cùng Chúa, và lời khẩn cầu của Ngài đã được Thiên Chúa chấp nhận. Tiên tri Êlisa nói với bà rằng: “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai” (2V 4,16).
Cùng một sứ điệp ấy, sau khi đòi buộc các môn đệ và những ai muốn theo Ngài phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên cả cha mẹ và mạng sống của mình, bài Tin mừng hôm nay cũng đề cập tới việc Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta thể hiện lòng hiếu khách bằng sự đón tiếp và giúp đỡ. Chắc chắn, Ngài mong muốn chúng ta đón tiếp và giúp đỡ hết mọi thành phần trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, khỏe mạnh hay ốm đau, bạn hay thù, chủng tộc hay màu da. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu chỉ mời gọi chúng ta đón tiếp ba thành phần sau:
Thứ nhất, đón tiếp các môn đệ: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy.” (Mt 10,40). Chính Đức Giêsu đã đồng hóa mình với các môn đệ, cũng như Ngài tự đồng hóa mình với Chúa Cha. Có lẽ cũng vì sự đồng hóa đó mà trong thực tế chúng ta thấy, từ thời Đức Giêsu cho đến hôm nay, các môn đệ và các đấng kế vị Ngài đi đâu cũng được đón tiếp một cách trân quý. Đặc biệt, ở Việt Nam chúng ta, các Giám mục, linh mục, tu sĩ, những người làm việc nhà Chúa đi bất cứ nơi đâu cũng được người giáo dân yêu mến, và đón tiếp một cách trang trọng như là đón tiếp chính Chúa vậy. Ở cuối đoạn Tin mừng, Đức Giêsu còn cho biết: “Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”(Mt 10,42). Những kẻ bé mọn ở đây không chỉ hiểu là các môn đệ của Chúa, mà còn là những nạn nhân của cường quyền, bạo lực, những người đang phải chịu cảnh đói khát, trần truồng, bệnh tật, hay tù đày(x. Mt 25,35-36). Như vậy, giúp đỡ kẻ bé mọn chính là giúp đỡ các môn đệ, giúp đỡ kẻ bé mọn tức là giúp đỡ chính Đức Giêsu.
Thứ hai, đón tiếp các tiên tri: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri.”(Mt 10,42). Các “tiên tri” ở đây được hiểu là các kitô hữu. Đặc biệt là các kitô hữu được giao nhiệm vụ thi hành một tác vụ nào đó trong Giáo hội: nhiệm vụ dạy giáo lý; nhiệm vụ làm việc bác ái; nhiệm vụ loan báo Tin mừng cho dân ngoại…Họ có thể gặp khó khăn hay bị bách hại trong khi thi hành nhiệm vụ. Họ có thể phải chạy trốn “từ thành này qua thành khác”. Những lúc như thế, họ cần đến sự đón tiếp và chở che của mọi người. Vì vậy, nếu ai đón tiếp họ, nhất là trong những lức nguy hiểm như thế thì chắc chắn sẽ được Chúa ghi công, được Chúa trao “phần thưởng của tiên tri.”
Thứ ba, đón tiếp những người công chính: Đây là thành phần được tôn trọng trong cộng đoàn Giáo hội. Họ là những tấm gương phản chiếu lối sống mẫu mực: mẫu mực trong đời sống gia đình; mẫu mực trong đời sống cộng đoàn; mẫu mực trong đời sống bác ái yêu thương; mẫu mực trong đời sống đức tin... Vì vậy, họ xứng đáng để được mọi người đón tiếp và tôn trọng. Cho nên, Đức Giêsu mới nói: ai đón tiếp họ thì sẽ được đón nhận phần thưởng của người công chính (x. Mt 10, 41).
Như vậy, lòng hiếu khách không chỉ là một đức tính thiết yếu, một việc bổn phận “cho khách độ nhà” mà còn mang lại cho chúng ta những phần thưởng cao quý. Từ mẫu gương hiếu khách của chàng trai tốt bụng trong câu chuyện trên đây đến mẫu gương hiếu khách của người phụ nữ giàu sang tại Su-nêm và những giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính mình để xét xem: Tôi có lòng hiếu khách không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ những kẻ bé mọn là hiện thân của Chúa không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ những sứ giả của Chúa không?
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chu toàn bổn phận “cho khách độ nhà”, biết sống quảng đại, sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ các sứ giả của Chúa, nhất là những kẻ bé mọn. Nhưng trước hết, xin cho chúng con có lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Amen.
6. Làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một buổi tối, vừa khi từ Marốc trở về, Charles de Foucauld say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi Châu.Người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy mười tuổi.
Khi anh vừa chấm dứt thì cô bé đã bất thần hỏi:
- Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc lạ quá. Vậy cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?
Câu hỏi ấy như một luồng điện giựt, khiến anh bất động. Từ bao lâu nay, chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: “Anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”. Charles de Foucauld lục soát tâm hồn mình để chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh đã phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những danh vọng phù phiếm. Mắt anh bỗng mở ra để thấy được nỗi khốn khổ nghèo nàn của mình. Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một vị linh mục. Sau đó anh từ bỏ tất cả, xin vào dòng khổ tu. Rồi ít lâu sau, anh lại xin đến Nagiarét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu.
Một ngày nọ, giữa lúc đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh có tiếng rên của một người Hồi giáo. Nhớ đến gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi, anh có thể giam mình cầu nguyện giữa lúc có những người anh em đang rên rỉ trong đau thương, thất vọng được chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của nhưng người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn hơn cả.
Những năm cuối đời, Charles de Foucauld sống giữa sa mạc Sahara, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người cùng khổ. Và anh đã chia sẻ tới giọt máu cuối cùng của anh khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc anh đang cầu nguyện vào đầu tháng 12 năm 1916. Ngày nay, các Tiểu đệ và Tiểu muội của Chúa Giêsu tiếp tục lý tưởng sống của anh. Các anh chị ấy sống giữa người ngheo nhất trong xã hội. Tất cả cuộc sống và sự hiện diện âm thầm của họ là một cố gắng làm một cái gì cho Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Một Kitô hữu chân chính cũng đều phải tự hỏi: “Tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”. Không phải là cho Chúa Giêsu mãi đâu trên trời, nhưng cho Chúa Giêsu đang tiếp tục đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai thấp hèn, cùng khổ. Tôi tự hỏi, mà chính Chúa Giêsu cũng hỏi tôi mỗi ngày: “Con đã làm được gì cho những người anh em bé mọn nhất của Cha chưa?”. Bởi vì trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã nói: “Ai đón tiếp Đấng đã sai Thầy”… “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.
Người Kitô hữu chúng ta thường đề cao việc đọc kinh, cầu nguyện, những việc làm cho Chúa mà coi những việc làm cho tha nhân, nhất là những việc nhỏ nhặt tầm thường, như cho anh em một ly nước lã, là những việc làm chẳng có ý nghĩa và giá trị nào. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì không như vậy, đón tiếp một em nhỏ, cho người thấp kém trong xã hội dù chỉ một ly nước lã, cũng là một việc làm đáng được ân thưởng trên trời. Lý do giản dị là Chúa đã tự đồng hoá mình với những kẻ mọn hèn (x. Mt 25,40-45).
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ân cần tiếp đón anh em. Tin Mừng nói đến Chúa Giêsu như một người khách mà người ta niềm nở đón tiếp hay là thờ ơ xua đuổi. Ngài đến cách riêng với những người bị loại trừ, những người tội lỗi, để có dịp kêu gọi họ trở lại, như tại nhà ông Matthêu (Mt 9,10-18) và ông Giakêu (Lc 19,5-10). Ngài đến với gia đình quen thân của hai chị em Matta và Maria (Lc 10,38-42), cung chỉ để nói lên một điều cần thiết là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. ngài đến như một người khách lạ đến khuấy động lòng người, đặt lại mọi vấn đề. Vì thế, Thánh Gioan nói: “Ngài đến trong nhà Ngài mà các gia nhân Ngài đã không tiếp đón Ngài” (Ga 1,11). Vì thế chúng ta phải ân cần tiếp đón người anh em trong niềm tin, người hành khất đến gõ cửa, người hèn mọn không ai nghĩ tới, người lạc loài, không cửa không nhà, những người ấy chính là Ngài. Những người anh em ấy có thể là những người ở ngay đường phố, cùng chung cư, hàng xóm. Cũng có thể là những người trong gia đình, nhưng chúng ta đã cố tình quên họ trong cảnh sống cô đơn, goá bụa, già cả cua họ… Tiếp đón họ là tiếp đón Chúa.
Câu chuyện người thiếu phụ ở Sunêm được kể lại trong bài đọc thứ nhất là một mẫu gương tiếp đón niềm nở, vô vụ lợi. Bà đã tiếp đón Ngôn sứ Êlisê, người của Thiên Chúa, và đã tạo điều kiện cho ông thi hành sứ mạng. Vì thế, bà được Thiên Chúa thưởng công. “Ai tiếp đón một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lành phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính”.
Anh chị em thân mến,
Được mời gọi đi theo Chúa Giêsu, chúng ta phải quyết định chọn lựa. Chỉ có sự chọn lựa tình yêu Chúa Giêsu mới cho phép chúng ta xứng đáng được gọi là môn đệ của Ngài. Một khi đã chọn lựa Ngài thì phải đặt tất cả tình cảm gia đình, tình yêu tự nhiên tuỳ thuộc vào Ngài, đi sau tình yêu đối với Ngài. Khi chọn lựa như thế chúng ta sẽ khong tránh được các mất mát, từ bỏ, hy sinh. Tuy nhiên, Thiên Chúa không để cho những kẻ theo Chúa phải thiệt thòi. Ngài sẽ đền bù, một sự đền bù vượt quá sự mong đợi. Trước mặt Thiên Chúa không có gì bị bỏ quên, dù mot bát nước lã cũng được đền bù xứng đáng. Vì thế, chúng ta đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình không trung thành bước theo Chúa Giêsu.
Anh Charles de Foucauld đã từ bỏ tất cả để đi theo Chúa Giêsu và để làm một cai gì cho Chúa Giêsu, anh đã từ bỏ mình để sống cho anh em, nhất là cho những người nghèo hèn, nhỏ bé. Chúng ta hãy quan tâm làm một cái gì cho Chúa Giêsu bằng cách tiếp đón Ngài đang đến với chúng ta trong bí tích Thánh The để tình yêu của Ngài thúc đẩy chúng ta tiếp đón những người anh em nghèo hèn, nhỏ bé, cũng là những anh em của Chúa Giêsu và là hiện thân của Chúa Giêsu vậy.
7. Chỗ đứng của Thiên Chúa
Thiên Chúa có chỗ đứng nào trong cuộc đời chúng ta?
Đọc lại Kinh Thánh chúng ta thấy ngày xưa dân Do Thái rất nhiều lần đã quì gối thờ lạy con bò vàng. Họ chọn con bò vàng làm thần tượng thay cho Thiên Chúa. Còn ngày hôm nay, nhiều người trong chúng ta cũng đã chọn lầm thần tượng cho mình. Con bò vàng ngự trị trong thẳm sâu cõi lòng họ là tiền tài, là danh vọng, là lạc thú…
Còn chúng ta thì sao? Mang danh hiệu là Kitô hữu, rất nhiều lần chúng ta đã tuyên xưng đức tin, đã chọn lựa Đức Kitô và đã dành cho Ngài địa vị số một trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta liên tục thực hiện khẩu hiệu sau đây:
- Thiên Chúa là thứ nhất, tha nhân là thứ hai, còn tôi là thứ ba.
De Leo là một quân nhân Hoa Kỳ, sau khi từ giã chiến trường Việt Nam trở về, anh kiếm được một chân canh giữ tượng nữ thần tự do ở Nữu Ước. Công việc của anh là chăm sóc cho ngọn đuốc trong tay và chiếc mũ triều thiên trên đầu bức tượng.
Anh phải làm thế nào cho ngọn đuốc luôn cháy, những khung cửa sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng sạch sẽ. Chỉ vào ngọn đuốc, anh hãnh diện nói:
- Đó là ngôi nhà nguyện của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Chúa và tôi thường lên đó để cầu nguyện vào những lúc rảnh rỗi.
Đối với anh, Thiên Chúa là thứ nhất.
Tuy nhiên, anh còn làm được nhiều việc khác nữa. Hội Hồng thập tự đã cấp giấy khen cho anh sau khi anh hiến nửa lít máu lần thứ sáu mươi năm. Khi hay biết những công việc bác ái Mẹ Têrêsa đang làm bên Ấn Độ, anh đã gửi tặng Mẹ 12.000 đô la, ngòai ra anh còn bảo trợ cho sáu em bé mồ côi, thông qua các tổ chức từ thiện.
Và như thế, đối với anh, tha nhân là thứ hai.
Riêng bản thân anh thì như thế nào? Chính anh đã nói với phóng viên tờ Los Angeles Times như sau:
- Tôi chẳng giàu xã hội tính, cũng chẳng bận áo quần hợp thời trang, nhưng tôi có được tính khôi hài. Tuy nhiên vấn đề là tôi không có đủ tiền để cưới vợ, và cũng chả giữ lại được đồng nào làm của riêng.
Và như thế đối với anh, bản thân mình là thứ ba.
Lúc đầu mọi người đều nhìn anh bằng cặp mắt nghi ngờ và họ mỉm cười, nhưng giờ đây thì tất cả đều nhìn nhận anh một cách nghiêm chỉnh và anh thực xứng đáng với danh hiệu là người giữ ngọn lửa của nữ thần tự do.
Với chúng ta cũng vậy. Chúng ta phải đặt Chúa vào địa vị, vào chỗ đứng số một, đồng thời phải cố gắng thực thi sự lựa chọn ấy suốt dọc cuộc đời của mình. Như trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
- Tôi sống, những không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Nói cách khác, Đức Kitô chính là thần tượng số một của lòng chúng ta.
Có như vậy thì trong ngày sau hết, chúng ta mới được Ngài đón nhận vào quê hương nước trời.
8. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Đây là những lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi sai các môn đệ đi rao giảng. Và đây là đoạn cuối cùng. Nhưng đoạn này là một tổng hợp nhiều lời Chúa nói trong những hoàn cảnh khác nhau, được gom lại, vì thế không ăn khớp với nhau cho lắm, nhưng mỗi lời Chúa nói đều là những bài học cho chúng ta.
“Ai yêu mến cha mẹ… con cái hơn Thầy, người ấy không xứng đáng với Thầy”. Chúa muốn cho thấy rằng người môn đệ của Ngài phải dành trọn tình yêu của mình cho Ngài. Ngài phải là trung tâm của cuộc sống. Không thể so sánh với một ai ở trần gian. Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tuyệt đối, là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Chúng ta đọc đi đọc lại câu nói đó rất nhiều lần, nhưng chúng ta có để ý đến đó không? Yêu mến Chúa hết lòng là thế nào? Khi yêu nhau, chúng ta luôn nhớ nhau, nhớ không phút nào ngơi, lòng trí chúng ta luôn hướng tới người yêu. Yêu mến Chúa hết lòng thì lòng trí chúng ta chỉ nghĩ đến một mình Chúa. Chúa trở thành niềm thương nhớ không nguôi của chúng ta. Đi đâu cũng nhớ, làm gì cũng nhớ. Tình yêu của chúng ta được đo bằng thương nhớ. Chúng ta có nhớ Chúa không?
Yêu mến Chúa hết sức là gì? Nhìn vào thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy ngài yêu mến như thế nào. Ngài đã không ngơi nghỉ, loan báo Chúa Giêsu cho mọi người không mỏi mệt. Ngài chỉ sống cho một mình Chúa. Chúng ta không rao giảng như ngài, nhưng nếu chúng ta yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ làm gì cũng làm cho Chúa, làm vì yêu mến Chúa chứ không chỉ làm việc vì tiền, vì lợi lộc. Dùng tất cả sức lực để làm cho Chúa được yêu thương hơn.
Chúa không cấm chúng ta yêu thương con cái, bạn bè, trái lại Ngài dạy chúng ta phải yêu thương nhau nhưng không thể yêu hơn Chúa. Ngài phải là ưu tiên tuyệt đối. Tình yêu loài người chỉ là tạm thời, ngắn ngủi, tình yêu Chúa luôn bền vững muôn năm. Không thể nào so sánh Thiên Chúa với con người. Thế nhưng, chúng ta có yêu mến Chúa không? Chúa đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa trên hết mọi sự, không phải vì Ngài cần tình yêu của chúng ta. Tình yêu của chúng ta có lợi gì cho Chúa đâu! Chỉ vì Ngài quá yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta hạnh phúc, và chỉ có Ngài mới giúp chúng ta hạnh phúc và hạnh phúc thật, hạnh phúc muôn đời.
Muốn đạt đến hạnh phúc tuyệt vời đó, Chúa đòi hỏi chúng ta vác thập giá của mình. Chúa Giêsu đã vác thập giá của Ngài trước. Ngài chấp nhận vác thập giá và chết trên thập giá đó vì yêu thương chúng ta. Có ai đã dám yêu thương chúng ta như Ngài không? Đối với Ngài, thập giá là dấu hiệu của tình yêu tuyệt đối của Ngài. Ngài vác thập giá chính là gánh lấy tội lỗi của chúng ta, gánh lấy án phạt thay cho chúng ta. Chúng ta vác thập giá là để yêu mến Ngài, đáp trả lại tình yêu của Ngài. Thập giá của chúng ta là những lao nhọc hằng ngày, là gia đình, là bệnh hoạn, là tất cả cuộc sống vất vả nhọc mệt của chúng ta. Chúng ta chưa đến nỗi phải đổ máu. Hãy can đảm gánh lấy mọi cực phiền lao nhọc vì yêu mến Ngài chứ không chỉ là chịu đựng, rên siết. Vả lại, chúng ta không vác thập giá một mình đâu. Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối, mỏng giòn, Ngài đã hứa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, Ngài không để chúng ta mồ côi, Ngài đến với chúng ta. Ngài đến bằng một phương tiện rất nhỏ bé, là một tấm bánh. Ngài bảo chúng ta ăn lấy Ngài để Ngài có thể đồng hóa với chúng ta, trở thành một với chúng ta, lao nhọc với chúng ta, vui buồn với chúng ta. Ngài đến để biến tất cả cuộc sống chúng ta thành yêu thương như Ngài. Với Ngài, chúng ta dấn thân vào cuộc sống, không phải với sự chán buồn bi quan, nhưng với can đảm và niềm vui. Chúa đến đồng hành với chúng ta, chia sẻ mọi lao nhọc buồn lo cho chúng ta, chúng ta có chấp nhận đồng hành với Ngài không?
9. Sống xứng với Chúa - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa Giêsu hôm nay cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh và từ bỏ nữa. “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 37).
Nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Chúa Giêsu, với đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải yêu Chúa hơn cha mẹ, con cái.. Có người đặt câu hỏi: Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Chúa Giêsu, người ta phải dành hết tình yêu đối với Chúa, người theo phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Chúa Giêsu yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất.
Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải … mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Chúa Giêsu, nên Ngài thêm: “Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó” (Mt 10, 38-39).
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, đây là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận... chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo”t (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: "Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại" (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).
Người ta hỏi: Chúa Giêsu có thích khổ đau và thập giá không? Không, Chúa Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là hy sinh và từ bỏ để sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.
Không phải ngẫu nhiên Chúa Giêsu nói đến “Thập Giá”. Vác thập giá bước theo Chúa Giêsu không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giêsu có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Ngài đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Ngài đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Ngài nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.
Quyết định theo Chúa Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Chúa Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma: “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).
Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.
10. Đòi hỏi của Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)
“Ai không vác thập giá, thì không xứng với Thầy. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”
I. Ngữ cảnh Phụng vụ Lời Chúa
Cộng đoàn chúng ta đang suy niệm bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Matthêu nói đến vấn đề “Ra đi loan báo Tin Mừng” (Mt 10, 5-42). Sau khi tuyển chọn 12 Tông đồ, Đức Giêsu đào tạo rồi sai các ngài đi. Nhưng trước khi đi, Người dạy một số điều: các ngài ra đi phải nói những gì, và nhất là phải sống làm sao. Những cuộc bách hại sẽ đến, nhưng đừng sợ, và hơn nữa, phải chấp nhận những khó khăn đến từ nhiều phía, ngay cả trong gia đình.
Bài Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay (Mt 10, 37-42) là phần cuối của bài giảng về sứ mạng Tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó khăn của Tin Mừng. Do đó, người môn đệ phải từ bỏ mình vác thập giá đi theo Chúa và ai tiếp đón người môn đệ là tiếp đón Chúa.
1. Người môn đệ phải ưu tiên chọn lựa Đức Giêsu (10, 37-39)
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy hệ quả của bước đường đi theo Chúa. Theo Chúa người môn đệ phải chấp nhận thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp chống đối. Người nhận xét rằng người ta sẽ không đồng ý với nhau về Ngài: Kẻ theo, người chống, sẽ có những bất hòa, đoạn tuyệt, những đấu tranh khắp nơi trên thế giới và ngay cả bên trong các gia đình, vì Ngài và giáo huấn của Ngài.
Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa người môn đệ phải đích thân chọn lựa, và phải đặt tình yêu Chúa Kitô trên ngay cả những liên hệ, những tình cảm thân thiết nhất, trên mọi liên quan gia đình, trên chính mạng sống mình nữa: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy... Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được”.
Ở đây, Chúa Giêsu không có ý dạy sự bất hiếu, bất kính với cha mẹ trong gia đình. Người chỉ muốn nói rằng đứng trước ý muốn của Thiên Chúa, công việc của Thiên Chúa, bản thân Ngài, mọi giá trị khác và mọi người khác đều phải xuống hàng thứ yếu.
Khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng đáng với Thầy”.
Đây phải hiểu là sự xứng đáng hiện sinh. Ai không đoạn tuyệt với những liên hệ thân thương nhất để đi theo Chúa Giêsu thì đã tự làm cho mình nên bất xứng với Người.
2. Tiếp đón các Tông đồ là đón tiếp Đức Giêsu
Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để những môn đệ phải thất vọng. Chính Chúa Giêsu, kết thúc bài giảng thừa sai bằng một lời hứa khác thường cho những kẻ được sai đi cũng như những kẻ đón tiếp họ: “Ai đón tiếp một tiên tri sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; ai đón tiếp người công chính sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; ai đón tiếp kẻ rao giảng sẽ nhận được phần thưởng cho kẻ rao giảng”.
Ở đây, Chúa Giêsu đã dùng từ “ngôn sứ” và “người công chính” để ám chỉ các Tông đồ. Như vậy, các Tông đồ được coi là ngang hàng với các ngôn sứ và các người công chính thời Cựu ước.
Vì thế, tiếp đón các Tông đồ được coi như là tiếp đón Đức Giêsu, và đón tiếp Đức Giêsu thì cũng như tiếp đón chính Thiên Chúa, Đấng đã sai phái Đức Giêsu. Mười hai Tông đồ là những sứ giả của Đức Giêsu, còn Đức Giêsu thì được Thiên Chúa cử đi. Nguồn mạch tối hậu của mọi sứ vụ là chính Thiên Chúa, Đấng đồng thời là chủ mùa gặt, và là Đấng sai phái các thợ gặt.
Mặc dù, ra đi loan báo Tin Mừng, các môn đệ phải chấp nhận đời sống truyền giáo trong nếp sống nghèo khó và khiêm tốn, nhưng Đức Giêsu đã đồng hóa mình với họ, vì qua họ, Người đến với loài người và nói với loài người. Từ nay họ thực sự là người của Thiên Chúa. Ai đón nhận họ tức là đón nhận chính Đức Kitô. Cả phần thưởng cho việc đón tiếp cũng dựa trên sự liên kết ấy giữa các cuộc sai phái.
Người môn đệ đã vì Người mà chấp nhận những rạn nứt và thập giá thì cũng được đồng hóa với người trong ân thưởng.
II. Người Kitô hữu sống gắn bó với Đức Kitô
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lắng nghe tiếng Chúa hôm nay, nhớ lại hồng ân Chúa đã ban cho và đồng thời, vừa ý thức được trách nhiệm Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta, để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống như Chúa nhiều hơn.
Xin Chúa ban cho chúng ta tình thương, cho chúng ta được biết đặt Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người và cho chúng ta được càng ngày càng yêu mến Chúa nhiều hơn, để chúng ta được đồng hóa với Chúa: “Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Tất cả mỗi người chúng ta là con đường để giúp anh chị em đến với Chúa Giêsu Kitô và đến với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu thế nào là tình yêu tận hiến của Ngài, để luôn biết sống quảng đại dấn thân cứu sống anh em mình mà không sợ hy sinh hay hiểm nguy. Xin Chúa Thánh Thể bổ sức cho chúng con.
11. Sự hiếu khách và Con Thiên Chúa
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller, C.M.)
Sự hiếu khách là một đức tính tốt đẹp mà đôi khi nó dẫn đến nhiều ngạc nhiên và sinh ra những kết quả không ngờ. Trong bài đọc I, người đàn bà xứ Shunem chứ không phai người Israel. Dù người Shunem thường bị người Israel khinh miệt, coi họ như dân ngoại, bà ta đã nhận biết tiên tri Êlisêô là một vị thánh. Bà đã thuyết phục được chồng bà để tỏ lòng hiếu khách với người của Thiên Chúa, vị tiên tri đã chấp nhận sự hiếu khách này với một sự ngạc nhiên. Phần thưởng bất ngờ mà người đàn bà được là một năm sau bà hạ sinh được một cậu bé trai, và bà vui sướng với phần thưởng đó trong môt thời gian dài.
Đoạn văn này đã báo trước lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm: “Người nào tiếp đón một tiên tri mang danh là tiên tri thì nhận phần thưởng của một tiên tri”. Phần thưởng của người đàn bà xứ Shunem là đứa bé trai, đứa con do chính máu huyết bà sinh ra. Chúa Giêsu đã nói với mọi người: “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy”. Khi chúng ta tỏ ra hiếu khách với tha nhân, chúng ta cũng sẽ nhận được một bé trai, nhưng không phải do mau huyết của chúng ta sinh ra. Chúng ta lãnh nhận Người Con đời đời của Chúa Cha. Khi chúng ta đến với tha nhân là chúng ta đến với chính Đức Kitô.
Thánh Martin thành Tour là một mẫu gương. Ngài thường được xem là con người đầu tiên được tôn kính như một vị thánh mà không phải do tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp và lúc mà cuộc bách hại đạo đang đến hồi chấm dứt. Chưa có ai được những thiện nam tín nữ kính trọng như một vị thánh trong Giáo Hội sơ khai trước đó như ngài, những người đã chết giống như Đức Kitô và vì Đức Kitô. Bây giờ điều quan trọng là bắt đầu chuyển đến sống vì Đức Kitô và để yêu mến Đức Kitô.
Khoảng đời của Thánh Martin đã nêu cao chân lý yêu thương tha nhân là thật sự yêu thương Đức Kitô. Trong lúc Thánh Martin đang còn là một người đang học giáo lý theo đạo và đang phục vụ trong quân đội, ngài đang thi hành phiên gác trong một đêm đông giá lạnh thì gặp một người nghèo khổ đang run rẩy vì quần áo của ông ta như mớ giẻ rách, đứng trước mặt ngài. Thánh nhân liền cởi chiếc áo choàng của mình, rút gươm cắt chiếc áo choàng ra làm hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ đó. Sau đó, trong lúc ngủ, Martin nằm mơ thấy Đức Kitô khoác mảnh áo khoác mà ngài đã cho người ăn xin. Ngài nghe Đức Kitô nói; “Hỡi Martin, tuy con mới học giáo lý để theo đạo, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.
Đoạn văn trên đã minh họa phần cốt yếu của đức tin chúng ta về Đức Kitô. Là những người Công giáo, chúng ta tin rắng Đức Kitô hiện diện trong từng lời Thánh Kinh và Người nói với chúng ta khi Lời Chúa được tuyên đọc trong nghi thức phụng vụ. Chúng ta tin rằng Đức Kitô đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể và trên bàn thờ khi chúng ta cử hành sự chết và sự Phục Sinh của Người. Cùng với những xác tín trên chúng ta phải tin rằng Chúa Kitô đang hiện diện nơi mọi người, khi chúng ta phục vụ tha nhân là chúng ta phục vụ Người, và khi chúng ta phớt lờ người khác là chúng ta phớt lờ chính Người. Chúng ta phải có một đức tin bao gồm nơi thực tại của Đức Kitô, nơi Lơi Chúa, nơi bí tích Thánh Thể và nơi mọi người. Phụng vụ không phải là một sự sùng kính riêng tư, một quan hệ cá nhân giữa Thiên Chúa với một người nào đó. Đó là sự diễn tả của Giáo Hội, trong một thân xác và một tinh thần trong Đức Kitô. Sự hợp nhất trong Đức Kitô phải chuyển động cách sống của chúng ta.
Khi chúng ta đến với những người không nhà, những người đói khát, chúng ta phải nhận ra Đức Kitô ở trong họ. Khi chúng ta để ý đen những bà mẹ trẻ, cô độc đang mang thai, những người cần chúng ta chăm sóc, chúng ta phải thấy Đức Kitô trong họ. Khi chúng ta nhận ra những ngoại kiều, ủng hộ hay chống đối chúng ta đang ở giữa chúng ta, chúng ta phải biết rằng Đức Kitô cũng là một người ngoại quốc. Và chúng ta phải hành động theo lời dạy của Chúa. Chúng ta phải luôn luôn tiếp đón Đức Kitô và đừng ngoảnh mặt đi. Những người Công Giáo phải ngạc nhiên nếu mình không hiếu khách. Sự tử tế sẽ là một diễn tả đích thực của đức tin chúng ta.
12. Liều mạng sống
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chủ Nhật’)
Trong đoạn Phúc Âm này, chúng ta dừng lại câu: “Ai cố giữ sự sống mình sẽ bị mất, ai mất sự sống mình vì Ta, sẽ tìm thấy”. Các sách dậy khôn ngoan của Do Thái giáo vào thời Đức Kitô có chứa nhiều câu tương tự, nhưng Chúa thêm vào đó hai chữ mà đối với người Do Thái thật quá lẽ: “vì Ta”. Nói cách khác, Đức Kitô tự đặt mình làm giá trị tuyệt đối, xứng đáng cho người ta hy sinh mạng sống. Một cách điềm tĩnh, bằng những lời đơn giản và sáng sủa, Chúa Giêsu tự đặt làm mục đích đáng giá của đời sống. Người nào về Ngài, tức là quy hướng về Thiên Chúa. Theo ngôn ngữ thần học có thể nói, Chúa Giêsu ấn định sự đồng nhất giữa “quy hướng về Thiên Chúa” và “quy hướng về Chúa Kitô”. Có thể nói hơn nữa rằng: người Kitô hữu chỉ có thể chọn Thiên Chúa làm trung tâm cuộc sống của mình, nếu quyết định đặt Đức Kitô làm tâm điểm. Mất và tìm thấy ở đây có nghĩa gì?
1) Ai cố giữ sự sống mình sẽ bị mất. Tại sao? Sự sống ở đây là gì? Đó là sự sống của con người trong tình trạng tội lỗi đã phó mặc cho những khuynh hướng tự nhiên tách lìa khỏi Thiên Chúa, con người xa lìa suối nguồn tạo ra mình, làm cho mình nên có, ban sự sống cho mình. Con người mang trong mình một khuynh hướng ngược lại với sáng tạo và sự sống, nghĩa là quay về hư không và sự chết. Con người hướng dẫn đến đến chỗ đánh mất cả bản thể lẫn sự sống của mình. Nhưng con người không thể tự do sáng tạo nên bản thân. Vậy khi có theo những khuynh hướng của cuộc sống tách lìa khỏi Thiên Chúa có được hậu quả gì? Hậu quả là sự tàn phá các nối kết nội tâm đến độ sự đau khổ chính lại là ước ao vô vọng đạt đến một hư vô không thể đạt. Con người mất sự sống đáng lẽ mình được sống và không thể tiêu huỷ sự sống đang dày vò mình. Có lẽ ở đây phải nói đến chữ đáng sợ là hoả ngục. Dĩ nhiên những gì xảy ra trước đó nằm trong phạm vi một tự do hoàn toàn sáng suốt và những quyết định hoàn toàn hữu trách, nhưng hai điều kiện ấy mãi mãi là điều kiện của Thiên Chúa.
2) May thay Chúa cống hiến cho chúng ta một viễn ảnh tích cực. Ai mất sự sống mình vì Ta sẽ tìm thấy. Mất sự sống mình bắt đầu ở chỗ nào? Ở tác động tin vào Đức Kitô. Khi tự hiến lòng tin cho Đức Kitô, ta từ bỏ tiện nghi của những giới hạn thông thường của trí khôn, ta chấp nhận vượt quá, chịu lao mình và một khoảng trống trí thức. Nhưng trong khoảng trống ấy có ánh sáng hiểu biết chờ đợi chúng ta, tuy không phải là sự tỏ tường đối với trí khôn, nhưng vẫn là một gặp gỡ đối với “tấm lòng”, nghĩa là đối với khả năng cảm biết trong thâm sâu của bản thể chúng ta, nó giúp chúng ta có thể đón nhận Chân Lý vô biên. Đặt lòng tin vào Đức Kitô giả thiết là tự ý bỏ đi một số điều mà thánh Phaolô kể ra trong thơ gởi tín hữu Côlôsê: tính ích kỷ, tà dâm, tự phụ, kiêu ngạo, cuộc sống duy vật (Col 3,5-8). Mất sự sống mình vì Đức Kitô cũng có thể có nghĩa là các Kitô hữu thà từ bỏ của cải trần gian, còn hơn là chối bỏ Thiên Chúa, khi mà xã hội đối nghịch với Thiên Chúa ra tay bắt bớ họ. Việc ngày không phải chỉ xảy ra trong quá khứ, đó là một việc thời sự, một biến cố đương thời. Ngày nay có nhiều Kitô hữu chịu mất mát nhiều sự, có khi cả mạng sống mình, chứ không bỏ đức tin. Chúng ta chấp nhận “mất sự sống chúng ta” vì Đức Kitô ở điểm nào để tìm thấy sự sống ưu đẳng?
13. Thiên Chúa trên hết
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Con vật sống theo bản năng. Con người có lý trí, nên con người khác con vật khi sống theo lý trí hướng thiện. Trong cuộc sống, con người được mời gọi lựa chọn để sống tốt mỗi ngày; điều này hàm chứa quyết định chọn Thiên Chúa trên hết, dù rõ ràng hay mặc nhiên.
1. Chọn lựa giữa con người và Thiên Chúa
Đức Yêsu nói: “Ai yêu cha mẹ hay con cái hơn Ta thì không xứng với Ta. Ai không vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta thì không xứng với Ta”. Đức Yêsu đòi người ta phải chọn Ngài trên tất cả, cho dù người đó phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và cha mẹ, anh chị em, con cái, hay vợ chồng của họ. Hơn thế nữa, Đức Yêsu còn đòi người ta phải chọn Ngài trên cả chính bản thân và sự sống họ nữa: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai sẵn sàng mất sự sống vì Ngài thì sẽ tìm lại được”.
Giữa con người và Thiên Chúa, con người phải chọn Thiên Chúa. Điều răn thứ nhất dạy: “thờ phượng Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự”. Chọn tạo vật, cho dù tạo vật đó là chính mình, cũng là tôn thờ ngẫu tượng. Khi chọn Thiên Chúa trên tất cả, con người không đánh mất chính mình, nhưng là sống ơn gọi làm người trọn vẹn hơn. Thiên Chúa luôn luôn là Thiên Chúa Tình Yêu, Ngài luôn muốn điều tốt cho con người, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc thật. Chọn Ngài, là chọn sự sống đích thực, là chọn hạnh phúc đích thực.
Có những điều con người chủ quan thấy là tốt cho mình, nhưng khách quan điều đó không tốt thực cho con người. Trí khôn hữu hạn của con người làm sao so sánh với quyết định khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa!
2. Thiên Chúa yêu thương con người qua trung gian hữu hình
Ngay từ thuở tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã luôn ở với con người. Ngay khi con người phạm tội và trốn tránh Thiên Chúa, Ngài vẫn đi tìm và nối lại tương quan với con người bằng việc tra vấn họ. Trong dòng lịch sử, Thiên Chúa vẫn chọn một con người cụ thể để nói với con người, chẳng hạn qua các tiên tri. Bài đọc thứ nhất hôm nay cho thấy Thiên Chúa yêu thương bà Shumen và chồng bà qua tiên tri Elisha. Tiên tri báo trước bà sẽ có con vào “ngày này năm sau”. Hành vi của bà Shumen đối với tiên tri diễn tả tâm tình và thái độ của bà đối với Thiên Chúa. Bà đã dành phòng cho tiên tri, nuôi cơm tiên tri. Thiên Chúa qua tiên tri Elisha “đáp trả” tấm lòng chân thành của bà, bằng việc cho bà có con như bà ước nguyện.
Qua những cặp vợ chồng son, người ta nhận ra con cái là hồng ân của Thiên Chúa. Mỗi người được chào đời, hàm chứa người đó được cha mẹ chấp nhận và yêu thương. Những người con “chết trong dạ mẹ” do hành vi từ khước tình yêu của người cha người mẹ đối với người con đó, và cũng là hành vi từ khước tình yêu Thiên Chúa dành cho người người cha người mẹ đó. Đã đành nuôi dưỡng một người con tốn nhiều tiền của công sức, nhưng bù lại Thiên Chúa cũng cho người cha người mẹ được an ủi qua những người con. Ai không yêu thương cụ thể qua hy sinh chấp nhận con cái, người đó không yêu thương và cộng tác với Thiên Chúa trong hành vi tạo dựng.
Bài Tin Mừng hôm nay Đức Yêsu nói: “nếu một người giúp người nghèo chỉ một chén nước lã, họ cũng được thưởng công”. Ở một chỗ khác, tin mừng Matthêu cho thấy: ai làm cho một trong những người nghèo khó nhất, cũng là làm cho Thiên Chúa, và ai không làm cho những người nghèo khó là không làm cho Thiên Chúa. Không chỉ có các tiên tri là hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng cả những người nghèo đều là hiện diện của Thiên Chúa. Không yêu thương người nghèo, là không yêu thương Thiên Chúa. Không chấp nhận người con “còn trong bào thai trong dạ mình” là không chấp nhận Thiên Chúa.
3. Đức Yêsu Con Thiên Chúa
Đức Yêsu yêu thương con người. Ngài thương cảm dân chúng bơ vơ không người chăm sóc như chiên cừu không người chăn. Người chăn chiên có nhiệm vụ bảo vệ đàn chiên khỏi thú dữ và dẫn đàn chiên tới suối nước trong lành. Đức Yêsu yêu thương con người và là biểu hiện tình yêu Thiên Chúa cho con người.
Nếu chỉ là người như bao người khác, Đức Yêsu không được phép đòi người ta phải chọn Ngài trên những người thân yêu như cha mẹ, anh chị em, con cái. Thực sự Đức Yêsu đã đòi hỏi điều này, và như vậy, người ta hiểu Ngài là Đấng đặc biệt, hơn chỉ là một con người. Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, Ngài là Thiên Chúa theo một nghĩa nào đó, và các nhà thần học diễn tả Ngài là Thiên Chúa Con.
Đức Yêsu đã tới để làm chúng ta thành con người mới. Ngài tới mang niềm hy vọng cho con người trong cuộc đời dương thế nhiều phong ba bão tố. Ngài là nguồn hy vọng của Kitô-hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Trong cuộc sống hằng ngày, tiêu chuẩn lựa chọn của bạn là gì?
(Lợi: tiền bạc, công việc? Danh: tiếng khen, kính phục? Quyền lực? Điều thiện hảo: tốt lành cho người ta và cho mình?)
2. Bạn có đồng ý quan điểm chỉ cần làm việc thiện giúp người chứ không cần tham dự các bí tích không? Xin trình bày và bảo vệ quan điểm của bạn.
3. Phải chăng Thiên Chúa đòi con người chọn Ngài trên tất cả, là Ngài ích kỷ?
4. Chọn Thiên Chúa trên tất cả, có làm suy giảm hạnh phúc của con người không? Tại sao?
14. Yêu sách của tình yêu – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ - Suy Niệm và Giảng Lễ Chúa Nhật của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu Radio Veritas Asia)
Tại đảo Sycilia, dân chúng còn truyền miệng nhau câu chuyện về một họa sĩ tài danh trong vùng sống cách đây vài trăm năm trước và là tác giả của bức họa nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu hiện được trưng tại nhà thờ chánh tòa trong vùng.
Sau thời gian làm việc, họa sĩ này đã vẽ xong dung mạo các tông đồ, nhưng còn hai dung mạo không vẽ được, đó là dung mạo của Chúa Giêsu và dung mạo của Giuđa người môn đệ phản Thầy.
Ông phải đình lại công việc để đi tìm người mẫu cho dung mạo của Chúa Giêsu. Sau nhiều tháng đi tìm, ông chọn được một thanh niên làm mẫu cho dung mạo của Chúa Giêsu. Vấn đề khó khăn cuối cùng là đi tìm người làm mẫu cho dung mạo Giuđa. Ông đã phải đi tìm rất nhiều năm mà không gặp, đến lúc gần cuối đời tưởng mình sẽ không thể nào hoàn thành bức tranh được nữa, ông buồn bã đi dạo trên đường phố quanh đó, thì bỗng gặp một người hành khất rách rưới với dung mạo đầy khổ đau mà cũng vừa gian ác. Cho đây là mẫu người lý tưởng cho dung mạo của Giuđa, ông mời người hành khất về nhà làm mẫu cho bức tranh còn dang dở.
Nhìn thấy bức tranh Chúa Giêsu và các môn đệ được trình bày trong phòng, người hành khất bỗng biến sắc và càng lúc càng trở nên bối rối hơn.
Người họa sĩ hỏi lý do tại sao?
Người hành khất trả lời:
- Thưa ông, chính tôi đây là người đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ chân dung Chúa Giêsu trong bức tranh này cách đây vài chục năm về trước, và bây giờ cũng chính tôi là người làm mẫu cho ông vẽ chân dung của Giuđa, người phản bội Chúa. Thật tôi không ngờ là tôi đã trở nên tồi tệ như vậy.
Câu chuyện trên giúp chúng ta đi sâu hơn một chút vào ý nghĩa câu nói của Chúa Giêsu ghi lại nơi đoạn Phúc âm của Chúa nhật hôm nay: “Người nào đón tiếp chúng con là đón tiếp Thày, và người nào đón tiếp Thày là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Trên con đường trở về nhà Cha, đón tiếp Thiên Chúa và được Thiên Chúa đón tiếp, chúng ta cần đi qua một con đường duy nhất, đó là anh em, đó là mỗi người chúng ta cần trở nên giống Chúa Giêsu Kitô, trở nên một Chúa Giêsu Kitô khác, đến độ anh em có thể nhìn vào dung mạo tinh thần của chúng ta mà nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, để rồi từ đó mà lên gặp gỡ Thiên Chúa Cha, Đấng vô hình: “Người nào đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy”.
Kể từ giây phút Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người để con người có thể nhìn được Thiên Chúa vô hình nơi dung mạo hữu hình của Chúa Giêsu Kitô: “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”. Kể từ giây phút đó con người chúng ta, mỗi người chúng ta cũng được ban cho quyền năng để trở nên giống như Chúa Giêsu Kitô, để trở nên dấu chỉ hướng dẫn anh em đến cùng Thiên Chúa Cha: “Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy”. Và để chúng ta được trở nên một Chúa Giêsu khác, được giống như Chúa Giêsu thì dường như chỉ có một bí quyết duy nhất và bí quyết đó được Chúa Giêsu nhắc lại trong đoạn Phúc âm hôm nay, đó là tình yêu vô điều kiện. Đối với Chúa Giêsu, yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người, tình yêu sẽ làm cho hai người trở nên giống nhau.
Chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta đã được Chúa ban cho hồng ân để trở nên giống như Chúa từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa tội, như được thánh Phaolô đã nhắc lại trong bài đọc thứ hai hôm nay qua cách nói: “Chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, là chịu phép rửa trong sự chết với Người và cùng chịu mai táng với Người, để được thanh tẩy trong sự chết của Người và nhờ sức mạnh của Người, như Chúa Giêsu sống lại thế nào thì chúng ta cũng sẽ được sống lại như vậy”. Mỗi người chúng ta đã được đón nhận hồng ân trở nên giống như Chúa và hồng ân này cũng là trách nhiệm mỗi người chúng ta, mỗi người chúng ta cần phải thực hiện điều mà Chúa ban cho, là trở nên giống như Chúa. Hồng ân và trách nhiệm luôn đi đôi với nhau.
Thử hỏi tình yêu được Chúa đổ vào trong tâm hồn chúng ta hiện tại đã được phát triển như thế nào? Chúng ta có trở nên giống như Chúa hơn hay chúng ta đã phung phí tình yêu đó? Phung phí ân sủng Chúa ban cho để rồi chúng ta không còn thể hiện dung mạo của Chúa nữa mà thể hiện dung mạo của một người phản bội của Chúa, như dung mạo của Giuđa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lắng nghe tiếng Chúa hôm nay, nhớ lại hồng ân Chúa đã ban cho và đồng thời vừa ý thức được trách nhiệm Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta, để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống như Chúa nhiều hơn. Xin Chúa ban cho chúng ta tình thương, cho chúng ta được biết đặt Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người và cho chúng ta được càng ngày càng yêu mến Chúa nhiều hơn, để chúng ta được đồng hóa với Chúa: "Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy". Tất cả chúng ta, mỗi người chúng ta là con đường để giúp anh chị em đến với Chúa Giêsu Kitô và đến với Thiên Chúa.
15. Từ bỏ
Năm 1994 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi tang tóc, chỉ trong vòng một tháng, thần chết đã hai lần đến gõ cửa nhà chị và cướp mất hai cột trụ của gia đình: người cha và người chị cả, những ngày đen tối bắt đầu đè nặng trên vai bà quả phụ Cartarina với bốn đứa con thơ dại.
Hồi đó Mác-đa-la mới 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn, thấy mẹ đau buồn và khóc hoài, chị thường nói với mẹ: “Mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải tới lúc khôn lớn mà ngay từ bây giờ, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã ngồi xuống trước guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã để lại.
Một hôm, tình cờ cha Bandenla, người anh họ của mẹ đến chơi và biết Mác-đa-la không được đi học, cha hứa sẵn sàng phụ giúp thêm vào nhu cầu vật chất của gia đình và trả tiền học phí cũng như tiền sách vở cho Mác-đa-la đi học. Sau hơn mười năm chăm chỉ học tập, chị đã tốt nghiệp và trở thành một cô giáo trường làng, thế là Mác-đa-la đã bắt đầu làm việc để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, hơn nữa, chị biết mẹ luôn ấp ủ một ước muốn thầm kín là có được một căn nhà với mảnh vườn nho nhỏ, những luống rau và mấy giàn nho ngon ngọt. Vì thế, chị đã chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm, giảm bớt chi tiêu không cần thiết. Đến ngày sinh nhật thứ 30 của mình, Mác-đa-la dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn như mẹ mong ước, chị âu yếm nói với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con xin biếu tặng mẹ, con chỉ xin mẹ một điều là cho phép con tận hiến cuộc sống còn lại của con cho Chúa để đáp lại tiếng gọi của Ngài vẫn thúc giục con từ lâu rồi”.
Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Trái lại, trong tâm hồn chị trào dâng một niềm vui mừng, vì chị có thể thực hiện được ước mơ chị đã ấp ủ từ lâu.
Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời nói của Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em rõ, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến, trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi tại đảo Xixilia. Và Chúa đã thưởng cho chị qua việc Đức Giáo Hoàng tôn phong chị lên bậc chân phước để mọi người ngưỡng mộ và tôn kính.
Kể lại câu chuyện trên để minh họa cho bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này là đoạn cuối trong bài giảng dạy về truyền giáo của Chúa Giêsu. Ngài nói với các tông đồ, và qua các ông, nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả mọi sự để đi theo làm môn đệ Ngài và Ngài hứa ban thưởng bội hậu cho họ. Tại sao Chúa đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có nghịch lý không? Quả thực, con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý, một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn theo Chúa, phải từ bỏ hết, phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải coi Chúa hơn hết tất cả mọi người, hơn hết tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa thôi.
Có người cho rằng: những điều trên đây Chúa chỉ dạy riêng cho những người đi tu mà thôi, nói thế cũng đúng, nhưng những lời Chúa dạy đây không phải là không áp dụng được cho tất cả chúng ta, bởi vì với mỗi người, Chúa cũng đòi hỏi phải từ bỏ, không phải từ bỏ để đi tu hay để làm tông đồ cho Chúa, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều cái, nhiều điều và nhiều lần phải từ bỏ.
Tóm lại, trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng.
16. Ðòi hỏi và vinh dự của môn ðệ
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ - Những Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Với ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta có thể suy nghĩ nhiều điều về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa Yêsu. Ðó cũng là đời sống của chính chúng ta, xét về mặt đạo đức thiêng liêng. Chúng ta đã thực thụ trở thành môn đệ Chúa Yêsu khi cùng chịu mai táng và sống lại với Người trong bí tích Rửa tội, như bài Thánh thư hôm nay nói. Từ ngày đó chúng ta không ngừng phải vác Thập giá hàng ngày để đi theo Người, nhưng đồng thời cũng nhận được vinh dự của người môn đệ đi theo Thầy, như Người đã hứa trong bài Tin Mừng. Và trong Hội Thánh luôn có những Ngôn sứ muốn sống triệt để ơn gọi làm Môn đệ của Chúa như Êlisê ngày trước mà bài sách các Vua còn kể lại nhiều mẩu truyện rất ý nghĩa. Chúng ta thử đọc về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa, tức cũng là ơn gọi của chính chúng ta.
A. Chúng Ta Ðã Trở Thành Môn Ðệ
Ðoạn thư Rôma hôm nay được chọn để đọc một cách long trọng đặc biệt trong Canh thức Phục sinh. Chúng ta nên dùng để suy nghĩ mỗi khi có nghi thức Rửa tội. Nhưng bất cứ khi nào tự hỏi về ơn gọi Kitô hữu của mình, chúng ta cũng có thể đem đọc để thấy rõ mình đã trở nên môn đệ của Chúa như thế nào.
Vẫn biết ơn Chúa kèm theo lời rao giảng Tin Mừng đã ban nhân đức tin cho chúng ta. Chúng ta đã bắt đầu đi theo Chúa ngay từ khi chúng ta để Lời Chúa và tình yêu của Người lôi cuốn chúng ta. Có thể nói được chúng ta đã là tín hữu của Chúa vì chúng ta đã tin Người có lời ban sự sống cứu độ chúng ta. Một phần nào chúng ta đã là môn đệ của Chúa rồi, vì theo Thánh Kinh người môn đệ luôn để tai nghe Lời Chúa. Tuy nhiên, chưa có hành vi nào xác nhận chúng ta là tín hữu và môn đệ. Phải đợi đến ngày chúng ta chịu phép Rửa nhân Danh Chúa Yêsu Kitô.
Phép Rửa này độc nhất vô nhị. Không thể so sánh với một nghi lễ tôn giáo nào, kể cả phép rửa của Yoan Tẩy giả. Thánh Kinh nói rõ và chính Yoan đã khẳng định: "Tôi rửa trong nước; còn Người rửa trong Thánh Thần". Do đó đây không phải là biểu tượng và lễ nghi, nhưng là hoạt động của Thánh Linh. Sức mạnh của Thiên Chúa làm việc thật sự trong Hội Thánh dội nước trên con người. Nước chảy trên đầu không phải chỉ diễn tả ơn thanh tẩy tội lỗi. Và việc chịu phép Rửa không phải chỉ là một nghi lễ phải làm để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Có hoạt động thật sự của Thiên Chúa trong việc dội nước và làm nghi lễ này. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay nói: Chúng ta đã chịu phép Rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu mai táng với Người. Chúng ta cùng chết với Người trong cái chết xóa sạch tội lỗi mà Người đã chịu trên thập giá. Vì chấp nhận muốn cùng chết với Người cho tội lỗi như vậy mà chúng ta được tha tội và nước dội trên đầu chúng ta có sức mạnh thanh tẩy tâm hồn. Thế nên mọi người lớn, khi chịu phép Rửa tội, đều phải có lòng thống hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Và tất cả chúng ta, khi muốn ý thức lại ơn trở thành môn đệ và tín hữu của Chúa đều phải tuyên xưng lại ý chí muốn chết cho tội lỗi và các khuynh hướng xấu xa. Không có việc muốn kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm chết cho tội lỗi dù người ấy có lòng thống hối ăn năn và chịu rửa như nhiều người dưới thời ông Yoan Tẩy giả. Mọi hành vi thú nhận tội lỗi và ăn năn thống hối của con người đều không làm cho con người được khỏi tội. Chỉ có lòng từ bỏ tội lỗi trong tinh thần kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm tử nạn cứu thế của Người mới mang lại ơn thanh tẩy tâm hồn.
Vì sao vậy?
Vì mọi lễ đền tội mà loài người dâng lên đều bất xứng và không được chấp nhận nếu không tựa vào lễ hy sinh đền tội mà Người Con Chí Ái của Thiên Chúa đã dâng lên khi Người chịu chết trên Thập giá. Thiên Chúa đã tỏ ra ưng thuận lễ dâng này khi cho Con Người sống lại từ kẻ chết. Người đã chết vì tội lỗi loài người, thì khi phục sinh Người trong sự chết này, Thiên Chúa đã tỏ ra chấp nhận tha thứ hết mọi tội lỗi cho loài người chúng ta. Sự sống lại của Con Thiên Chúa là ơn tha thứ tội lỗi vậy. Người ta được ơn tha thứ tội lỗi không phải khi kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong sự chết của Người nhưng là khi được cùng Người sống lại trong sự phục sinh của Người. Không thể tách rời việc cùng chịu mai táng với Ðức Kitô và việc cùng Người sống lại, vì sự chết của Người chỉ có giá trị cứu thế khi Thiên Chúa phục sinh Người từ kẻ chết. Thế nên chết đi cho tội lỗi là việc của con người, nhưng ban ơn thanh tẩy đổi mới tâm hồn là ơn của Thiên Chúa ban cho. Thiên Chúa hoạt động và ban Thánh Thần cho con người khi họ chấp nhận chết đi cho tội lỗi trong mầu nhiệm Tử nạn cứu thế của Ðức Yêsu Kitô. Nhờ và trong bí tích Rửa tội, con người tội lỗi cũ kỹ đã chết đi để Thánh Thần tạo dựng con người mới sạch tội và thánh thiện trong Con Thiên Chúa.
Như vậy lễ nghi Rửa tội không phải chỉ là nghi thức phải làm để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Và Nước Rửa tội không phải chỉ diễn tả ơn thanh tẩy tâm hồn. Nhưng thật sự Thiên Chúa hành động trong lễ nghi này. Người dùng Thánh Thần để mai táng tội lỗi trong sự chết của Ðức Kitô và để tạo dựng con người mới trong sự phục sinh của Người. Có một biến đổi thật sự nơi người chịu phép Rửa. Từ thân phận một kẻ xa lạ thù địch với Thiên Chúa, con người nhờ ý chí kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Người, trở nên tạo vật mới đối với Thiên Chúa, không những sạch tội mà còn thánh thiện vì đã đồng hình, đồng dạng, đồng hóa với Con Thiên Chúa. Chúng ta không còn thuộc về thế giới tội lỗi nữa, nhưng đã được đưa sang Nước sáng láng của Chúa Yêsu Kitô phục sinh. Người đang sống sự sống mới và ban sự sống mới ấy cho hết thảy những ai sống trong Nước của Người.
Như vậy việc trở nên tín hữu và môn đệ của Người thật là vô thường, không thể dùng nghi thức xã hội nào để so sánh được. Trong mọi nghi thức xã hội công nhận một môn sinh hay môn đệ, chỉ có sự công nhận có thể nói là bề ngoài, không thay đổi gì bản chất con người môn đệ. Còn ở đây, trong bí tích Rửa tội, có sự biến đổi, tạo dựng thật sự, khiến một kẻ trước đây là tội nhân nay trở nên công chính; trước đây là xa lạ, thù địch, nay là nghĩa tử và là con cái Thiên Chúa; trước đây ở ngoài Ðức Kitô, nay là Kitô hưũ và kết hiệp với Người như cành với thân cây, như chi thể với thân thể.
Ai hiểu như vậy mà không quý trọng ơn của bí tích Rửa tội? Ai thấy như thế mà không xác tín về nội dung của ơn làm môn đệ của Ðức Kitô? Chúng ta hết thảy đã trở thành môn đệ của Người khi chịu phép Rửa tội. Chúng ta phải sống ơn gọi môn đệ ấy thế nào đây?
B. Ðòi Hỏi Và Vinh Dự Của Môn Ðệ
Bài Tin Mừng hôm nay nói rất rõ. Chúa Yêsu tuyên bố: ai yêu mến cha mẹ, con cái hơn Người thì không xứng đáng là môn đệ của Người. Và Người còn đòi hỏi hơn nữa khi tuyên bố tiếp theo: "Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta". Nếu được phép làm một phân tích văn chương nho nhỏ, chúng ta có thể nói các đòi hỏi đã được đưa ra càng ngày càng gắt gao hơn. Ðầu tiên Chúa chỉ đòi người môn đệ phải yêu Người hơn cha mẹ; rồi Người bảo họ phải yêu Người hơn cả con cái là những giọt máu của chính bản thân mình; cuối cùng Người lại buộc họ phải vác lấy khổ giá mà đi theo Người tức là phải yêu Người đến nỗi không sợ chết và dám bỏ mạng sống vì Người.
Nói cách khác, Chúa đòi người môn đệ phải từ bỏ tất cả, ngay cả mạng sống mình để đi theo và yêu mến Người. Người không cho phép môn đệ nào được lấy cớ yêu cha yêu mẹ, yêu con cái hay sự sống của mình mà từ chối với Người một điều gì khiến Người thấy tình yêu của môn đệ đối với Người chưa thật hoàn toàn và Người chưa là tất cả đối với họ. Người đòi hỏi tình yêu tuyệt đối, nên Người không nhận làm môn đệ những kẻ muốn đi theo Người nhưng lại còn xin phép về nhà lo an táng cha hay thu xếp những công việc khác. Người có thể đòi hỏi như thế bởi chính Người đã từ bỏ tất cả vì môn đệ và để cho người ta trở thành môn đệ. Chúng ta đã thấy Người đã nộp mình chịu chết cho những kẻ Người thương yêu như thế nào. Tình yêu lớn lao như vậy và tuyệt đối như thế chỉ thấy người môn đệ xứng đáng khi họ cũng yêu tuyệt đối và lớn lao như vậy.
Tuy nhiên luận lý như trên hãy còn quá đơn giản. Chúng ta chưa hiểu bản chất con người đòi hỏi như vậy là ai. Không phải Người đã yêu và làm cho môn đệ như vậy nên Người đòi môn đệ phải yêu và phải làm như thế. Thực ra khi tuyên bố những đòi hỏi kia, Ðức Yêsu Kitô chưa nộp mình chịu chết cho môn đệ và môn đệ chưa thấy Người vác Thập giá đi trước để bảo mình phải vác khổ giá đi sau. Ðức Yêsu đã đưa ra những đòi hỏi tuyệt đối, không phải nhân danh sự chết của mình cho những người mình yêu thương, nhưng nhân danh bản tính Thiên Chúa ở nơi mình và vì mình là Thiên Chúa. Và Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi một cách tuyệt đối như vậy. Mọi sự, mọi người và nhất là sự sống đều là của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người có quyền đòi chúng ta phải dâng tất cả lại cho Người, nhất là khi hiến dâng đây, chúng ta không những không mất mát mà còn được lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn.
Ðó là ý tưởng của Lời Chúa tiếp theo. Người tuyên bố: Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất, còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại. Ðừng vội kết luận rằng sự hy sinh của người Kitô hữu cuối cùng vẫn có tính cánh vụ lợi và tính toán. Vẫn biết có lần Chúa Yêsu đã trả lời cho Phêrô khi ông này lên tiếng: "Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy". "Qủa thật, Người nói, không ai bỏ nhà cửa, hay anh chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này... và sự sống đời đời trong thời sẽ đến" (Mc 10,28-31). Nhưng nếu đọc kỹ, đọc hết mọi lời của Chúa, chúng ta sẽ thấy Người đã mau lẹ chuyển từ bình diện tự nhiên sang bình diện siêu nhiên, từ những sự ở đời này sang những thực tại vô hình. Những hy sinh mà người môn đệ phải chịu rất là thực tế, còn phần thưởng dành cho họ vẫn đòi hỏi một niềm tin. Thế nên không thể nói đến sự hy sinh của họ không thoát khỏi vòng danh lợi. Ngược lại chính để thoát khỏi vòng danh lợi giam hãm con người trong vũ trụ vật chất chóng qua mà họ chấp nhận hy sinh để đạt được những giá trị và chân lý mà cùng lắm những giá trị đời này chỉ là hình ảnh.
Ở đây chúng ta không cần suy tư triết học. Chúng ta ý thức rõ ràng Chúa Yêsu Kitô đòi người môn đệ phải dám hy sinh tất cả cho Người để chứng tỏ tình yêu tuyệt đối đối với Người và để minh chứng Người thật là Thiên Chúa. Và khi hy sinh như vậy họ tìm được sự sống.
Trong khi ấy họ đẹp lòng Thiên Chúa đến nỗi Người sẵn sàng thưởng công cho những ai có một cử chỉ tốt lành nào đó đối với họ, dù chỉ cho họ một bát nước lã mà thôi. Với lời hứa này Người khuyến khích mọi người yêu mến các môn đệ của Người, cho dù họ thật bé mọn trước mặt thế gian. Và như thế chúng ta có thể tạm kết luận về bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Yêsu tuyên bố rõ ràng là người môn đệ đi theo Người phải có lòng yêu mến Người đến nỗi sẵn sàng hy sinh đến cả mạng sống vì Người. Và điều này phù hợp với lời thư Phaolô hôm nay nói: người môn đệ hãy tự kể mình như đã chết cho tội lỗi và nay sống cho Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Ðó là nếp sống mới, nếp sống của người môn đệ đối với Thiên Chúa. Còn đối với nhau họ được vinh dự như là "báu vật" của Người đến nỗi ai làm cho họ việc gì tốt đều không mất phần thưởng trên Nước Trời. Từ đó họ phải sống bác ái phục vụ nhau như thế nào!
C. Những Bậc Thang Giá Trị
Bài sách các Vua có thể dùng để nói về việc phục vụ này. Quả vậy, bà lớn ở thành Shunem nọ đúng là "người đã đón tiếp một vị tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, nên đã lãnh phần thưởng của nhà tiên tri". Bà là người sang trọng. Bà thấy tiên tri Êlisê đến thăm thành mình. Bà mời ông quá bộ đến ở tại nhà bà vì bà là con người đạo đức, nghĩ rằng Thiên Chúa đã cho mình có của thì mình phải phục vụ những "người của Thiên Chúa", tức là các môn đệ đặc biệt của Người. Và hiểu rằng nhà tiên tri có nhiều dịp qua lại Shunem, bà bàn với chồng phải trang bị cho người một phòng đặc biệt dành riêng và ở trên gác cao để người được tự do giao tiếp với Thiên Chúa. Bà ta thật tế nhị và am hiểu các đòi hỏi của đời sống một tiên tri: không thể để người chung đụng với phàm tục. Thái độ và cử chỉ của bà thật quý hóa. Nhà tiên tri mủi lòng, và muốn thưởng công. Ông hứa cho bà sẽ sinh con trong tuổi già của người chồng.
Chắc chắn đó là phần thưởng quá mức mong đợi đối với hai người. Nhưng câu nói của bài Tin Mừng hôm nay như muốn so sánh và bảo chúng ta rằng: đó chỉ là phần thưởng của một tiên tri cho một việc lành đối với nhà tiên tri. Còn phần thưởng của Thiên Chúa cho người làm phúc cho môn đệ của Người một bát nước lã, còn đáng trông đợi hơn nhiều!
Nhưng chúng ta cũng có thể đọc câu truyện trên về phía nhà tiên tri để thấy Êlisê cũng là hình ảnh người môn đệ đi theo Chúa. Ông như không có gia cư và không bám vào đâu cả. Ông sống cho Thiên Chúa và luôn đi làm theo ý của Người. Người ta thấy rõ ông đã thoát tục, chết cho thế gian này nên bà lớn kia khi rước ông vào nhà đã dọn cho ông một phòng riêng biệt và ở trên gác cao, để ông xa tránh phàm tục và sống cho Thiên Chúa. Chắc chắn ông thông thạo các việc của Người, nhưng khi muốn khen thưởng người đã có công đối với mình, ông phải nhờ đến ý kiến của người tiểu đồng đi theo. Anh này gần các thực tại thế gian này hơn. Anh biết gia đình chủ nhà đây đang cần gì hơn hết. Nhà tiên tri cho gọi bà chủ. Bà này lên đứng ở ngoài cửa để vẫn kính trọng nhà tiên tri là người đã thuộc về Thiên Chúa. Và nhà tiên tri đã thưởng công cho bà.
Như vậy, ngay từ thời Cựu Ước, người ta đã ý thức rằng đời sống của con người sống cho Thiên Chúa phải như đã chết đi cho thế gian và tội lỗi. Ðó là giáo lý của bài Thánh thư và của bài Tin Mừng. Tuy nhiên đây không phải là sự chết mất mát, từ bỏ và tiêu hủy những giá trị chân thật. Nhà tiên tri sống cho Thiên Chúa nhưng vẫn quan tâm đến hạnh phúc của người khác và nhất định muốn chu toàn nghĩa vụ đối với tha nhân. Khi nói chết cho thế gian, chúng ta chỉ có ý nói đến việc chết cho tội lỗi và những sự xấu xa, để tỉnh táo và đầy đủ hơn đối với những việc lành phải làm.
Vậy, nếu trong thánh lễ sắp cử hành đây chúng ta muốn nhắc lại việc Chúa Yêsu chịu chết để hủy diệt tội lỗi nơi chúng ta, thì chịu lấy Mình Thánh Người để nuôi sống mình chúng ta phải quyết tâm sống cho Thiên Chúa. Không những chúng ta phải tỏ ra muốn yêu mến Người trên hết mọi sự và trên hết mọi người; mà chúng ta cũng phải làm đầy đủ mọi nghĩa vụ đối với tha nhân và xã hội. Việc thi hành tốt mọi phận vụ ấy không bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa đâu. Chính những việc làm như vậy chứng tỏ chúng ta là môn đệ tốt của Người. Nhờ các bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta cứ suy nghĩ thêm về ơn gọi, đời sống, đòi hỏi cũng như vinh dự của người môn đệ đi theo Chúa, để đời sống chúng ta mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn.
17. Đón tiếp
Một số người nghĩ rằng Giáo Hội đã lỗi thời và không còn cần thiết nữa. Có người cho rằng giảng huấn của Tin Mừng là khùng điên. Trong số báo The World xuất bản tháng 11 năm 1989, Ted Turner chủ nhân của cơ quan truyền thông Turner Broadcasting đã tuyên bố: “Kitô giáo là một tôn giáo dành cho những kẻ thua cuộc”. Ngoài câu nói này, ông còn vung vít nhiều điều khác nữa, nhưng câu này gồm tóm điểm chính yếu những gì ông ta đã phát biểu.
Trước mặt người đời những người Kitô hữu là những người khùng điên, dại khờ, thua lỗ. Nhưng điều người đời nghĩ rằng điên dại thì thật ra lại là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Đây là điều thánh Phaolô đã nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa”.
Bài Phúc âm hôm nay, là phần kết luận của chương 10, “Bài giảng về những Sứ Mệnh Truyền Giáo”. Đây là những hướng dẫn của Chúa Giêsu ban cho các tông đồ trước khi sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Sau khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã ban quyền hành và sai họ ra đi thi hành mục vụ trong cánh đồng truyền giáo. Người ta chỉ thị cho họ phải chấp nhận cuộc sống hy sinh, khó nghèo, làm việc vất vả, gặp nhiều thử thách, bị bắt bớ hành hạ và bị giết chết. Đứng trước viễn tượng đó Người đã khuyên họ không nên vì sợ hãi mà thiếu lòng tự trọng, rồi mang mặc cảm tự ti làm hủy diệt nhân cách con người. Bởi, tuy không được tôn trọng trước mặt người đời, nhưng trước mặt Thiên Chúa họ rất quan trọng. Đây chính là Tin Mừng đối với các tông đồ.
“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Chúng ta có bao giờ thực sự nghĩ rằng khi một người nào đó đón tiếp chúng ta là họ đón tiếp Chúa Giêsu Kitô không?
Theo những cuộc thăm dò cho biết hai trong ba người có quan niệm rất thấp về bản thân mình. Các nhà tâm lý học gọi đó là sự tự đánh giá thấp về chính mình. Thiếu lòng tự trọng thường là nguyên do của nhiều vấn đề xã hội và tâm lý. Người có lòng tự trọng cao thường lành mạnh hơn là những người thiếu lòng tự trọng. Họ sống lâu và ít có tai nạn hơn. Họ tránh được những thái độ khiêm nhã. Họ không cần phải dùng đến thuốc kích thích hay bia rượu, và cũng không cần phải khoe khoang hay làm những sự liều lĩnh ngu xuẩn để gây sự chú ý. Những người có lòng tự trọng cao thường thành công và kiếm được những việc làm lương bổng cao hơn. Tại sao? Những nhà tâm lý học trả lời rằng vì họ có niềm hy vọng và tinh thần lạc quan. Đây chính là yếu tố tạo nên thành công.
Martin Seligman, giáo sư tâm lý học của trường đại học University of Pennsylvania đã làm cuộc thăm dò các nhân viên của một hãng bán bảo hiểm lớn. Kết quả cho thấy rằng những người mong mỏi thành công đã bán bảo hiểm được 37/o nhiều hơn những người không mong đợi gì. Điểm then chốt là khi một người tự coi mình là một người thất bại thì tương lai sẽ thể hiện đúng điều dự đoán đó!
Tôi nghĩ Chúa Giêsu cũng đã hiểu tâm trạng của các tông đồ khi bị hất hủi và bị bắt bớ, họ phải trải qua những thời gian khó khăn để kiến tạo sự tự trọng. Suy nghĩ tích cực về chính mình đang khi bị phê bình gay gắt là những thử thách tâm lý khó khăn nhất các môn đệ đang gặp phải
Những lời khích lệ của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta có giá trị vì được Thiên Chúa yêu thương. Giá trị của chúng ta không hệ tại ở lời phê bình của người đời, hay do tài năng khéo léo của chúng ta, nhưng vì chúng ta là môn đệ của Người, cho dù nam hay nữ, già hay trẻ, giáo dân hay tu sĩ, hay chỉ là một trong những con người “bé nhỏ”.
“Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần của tiên tri… Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy… người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Có khi nào chúng ta nghĩ rằng chúng ta đón tiếp một người nào đó là chúng ta đón tiếp chính Chúa Giêsu không? Những người Công giáo ở Ao Quốc thường treo khẩu hiệu này ở nhà mình: “Người khách là Chúa Kitô”.
Trong suốt 58 năm làm linh mục (1910-1968), thánh Padre Piô đã nghe hàng ngàn người xưng tội. Thế nhưng, hiều vị giáo sĩ lúc bấy giờ đã coi cha Padre Piô là kẻ dối trá. Từ những năm mới bắt đầu, dân chúng tung tin đồn ngài là nhà huyền bí giả hiệu với những vết thương tự làm khổ mình, và cả chuyện lăng nhăng về tình dục. Năm 1931 với sự đồng ý của Vatican, bề trên đã cấm ngài không được giải tội và dâng thánh lễ công khai. Phải mất 2 năm để điều tra và phục hồi năng quyền cho ngài được dâng thánh lễ. Mãi đến ngày 5 tháng 3 năm 1934 ngài mới được phép giải tội, nhưng chỉ ngồi tòa cho đàn ông mà thôi. Hai tháng sau đó, ngày 12 tháng 5, ngài mới được phép giải tội cho cả phụ nữ nữa. Vì sự nghi ngờ này, nhiều vị trong Giáo Hội tránh né cha Padre Piô. Nhưng vị giáo hoàng tương lai đã không thèm để ý tới những tin đồn. Ngài đã chỉ dựa vào cảm giác tốt lành của những người Công giáo bình thường: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần của tiên tri “.
Đức Giáo Hoàng đã đón nhận một phần thưởng tốt đẹp. Năm 1962, đang khi tham dự Công đồng Vatican II, ngài nghe tin một bè bạn đang hấp hối vì ung thư cổ họng. Ngài viết thư xin cha Padre Piô cầu nguyện cho bà. Dr Wanda Poltawka đã được khỏi bệnh và phục hồi sức khỏe. Và 40 năm sau, bà đã có mặt trong buổi lễ phong thánh của cha Padre Piô.
Chúng ta cầu xin Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta những vị thánh, giống như cha Padre Piô. Nhưng chúng ta cũng phải cầu xin cho chính chúng ta có sự khiêm tốn để đón nhận họ như một vị thánh nữa.
18. Theo Chúa
Nghe Chúa giảng, người ta đã trầm trồ khen ngợi:
- Chưa từng có ai nói hay như Ngài.
Hơn nữa Ngài còn đòi hỏi người ta phải hy sinh. Đúng thế, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự, kể cả những tình cảm vừa hợp pháp lại vừa thiêng liêng nhất:
- Ai yêu cha mẹ hơn ta, thì không xứng đáng với ta.
Có nghĩa là Ngài luôn luôn phải chiếm vị trí ưu tiên, phải chiếm chỗ nhất trong trái tim và cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Mặc dù chúng ta phải thảo kính cha mẹ, nhưng trong những trường hợp xung khắc, Đức Kitô phải luôn luôn phải là nhân vật số một.
Tiếp theo Chúa Giêsu đã xác định:
- “Ai không vác thập giá mà theo ta, thì cũng chẳng xứng đáng với ta”.
Thập giá mà chúng ta phải vác lấy trong cuộc sống, không chỉ là những bắt bớ, những cấm cách về đức tin, mà còn là tất cả những khổ đau, những buồn phiền chúng ta gặp phải . Ngài còn nói tiếp:
- “Ai tìm kiếm sự sống thì sẽ mất, còn ai vì ta mà mất sự sống thì sẽ tìm thấy được nó”.
Thoạt nghe qua, chúng ta thấy lời xác quyết ấy thực là vô lý, nhưng nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy nó thật sâu xa, thật thấm thúy… Sự sống ở đây bao gồm hai ý nghĩa, đó là sự sống phần xác, sự sống đời này và sự sống vĩnh cửu, sự sống đời sau.
Đây quả thực là một niềm an ủi khích lệ lớn cho chúng ta khi gặp phải những bắt bớ, những cấm cách, những khó khăn vì đức tin. Thực vậy, ai luôn chiều theo bản thân và miệt mài tìm kiếm những vui thú cho mình thì sẽ mất đi sự sống vĩnh cửu.
Trái lại, ai từ bỏ mình và những vui thú xác thịt, nghĩa là săn sàng chịu chết vì Đức Kitô thì sẽ tìm thấy được sự sống vĩnh cửu và niềm hạnh phúc nước trời ở đời sau, cũng như sẽ tìm thấy niềm vui mừng và sự bình an ngay từ đời này.
Không ai trên trần gian này hạnh phúc cho bằng các thánh, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:
- “Tôi ngập tràn niềm vui giữa những thử thách”.
Hãy vào những nhà dòng khổ tu với một nếp sống khắc khổ và chúng ta sẽ thấy được những khuôn mặt chan hòa niềm vui.
Trái lại, bước chân vào những chốn ăn chơi, chúng ta chỉ thấy những khuôn mặt thất vọng và trống rỗng. Có những người đã tự tử ngay trên tiền bạc và danh vọng của mình.
Trong khi đó, các thánh là những người đã chết với nụ cười bình an trong tình thương của Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã hy sinh cho Chúa những gì trong cuộc sống bình thường của chúng ta?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa đòi hỏi chúng con phải từ bỏ mình, có nghĩa là phtừ bỏ những tư tưởng, những lời nói và những việc làm, khi chúng đi ngược lại với những điều Chúa đã truyền dạy. Đồng thơi Chúa bảo chúng con phải vác thập giá mình hằng ngày. Thập giá đời thường của chúng con, đó chính là những hy sinh gian khổ, những bực bội buồn phiền, những mệt mỏi vất vả chúng con gặp phải trong cuộc sống. Tất cả đã kết thành cây thập giá đời thường Chúa muốn chúng con vác lấy để bước theo Chúa. Có từ bỏ mình và chấp nhận thập giá, chúng con mới thực sự trở thành những người môn đệ của Chúa.
19. Đón tiếp
Cách đây vài năm có dịp lên thăm người bạn ở tiểu bang Minnesota tôi nghe kể câu chuyện như sau. Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị vào gõ cửa khoảng trên một chục căn nhà nhưng chẳng có ai mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục ngã bên vệ đường bèn đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị được cứu sống, nhưng đã bị chết tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân vì giá lạnh.
Phần xấu nhất của câu chuyện là tại mỗi căn nhà nơi chị bước vào gõ cửa, mọi người đều ở trong nhà đêm hôm đó. Tất cả mọi người đều nghe tiếng gõ cửa. Tất cả mọi người đều là các Kitô hữu. Nhưng không một ai đã mở cửa, vì họ sợ trộm cướp sẽ đột nhập vào nhà giữa đêm bão tuyết. Câu chuyện bi thảm này đã xảy ra ở một vùng quê hiền hòa chứ không phải là ở Chicago hay New York, nơi mà thường xảy ra những vụ bắn nhau và giết người mỗi ngày!
Theo tự điển Webter’s, để định nghĩa chữ “hospitality”, “hiếu khách”, tác giả đã đặt nó nằm ở giữa hai chữ “hospice”, chỗ ở săn sóc cho người hấp hối, hay nhà nghỉ chân cho khách vãng lai, và chữ “hospital”, “bệnh viện”, nơi chữa lành. Ý nghĩa đích thực của sự hiếu khách là cái mà chúng ta ban tặng cho khách khi chúng ta mở cửa nhà ra trong tinh thần thực sự là cống hiến chỗ ở và chữa lành cho họ.
Sự tốt lành, tử tế, và cử chỉ bác ái yêu thương với tha nhân là một trong những hoa trái của Chúa Thánh Thần. Sách Giáo lý Công giáo số 901, đã trích dẫn lại tinh thần của Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Lumen Gentium – Anh sáng Muôn dân, đoạn 34 như sau:
“Nhân vì đã được thánh hiến cho Chúa Kitô và được Chúa Thánh Thần xức dầu, các giáo dân đã lãnh nhận ơn gọi kỳ diệu và những phương tiện giúp cho Chúa Thánh Thần sinh ra trong họ những hoa trái ngày càng dồi dào hơn. Đúng thế, tất cả các hoạt động của họ, những việc cầu nguyện và các việc tông đồ của họ, đời sống phu phụ và gia đình của họ, những lao nhọc hàng ngày của họ, những giải lao về tâm trí và thân thể của họ, nếu họ sống những điều này trong Thần Khí của Chúa, rồi cả những thử thách của cuộc đời, nếu được chịu đựng cách nhẫn nhục, thì tất cả mọi sự sẽ trở thành “lễ tiến dâng thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô”. Và trong việc cử hành Thánh thể, các lễ vật này sẽ hợp với sự hiến dâng Thân thể của Chúa để được dâng lên Chúa Cha với tất cả niềm kính thảo. Đó là cách giáo dân hiến dâng tất cả thế giới lên Thiên Chúa, bằng cách dâng lên Chúa từ khắp nơi một sự phụng tự tôn thờ do cuộc sống thánh thiện của họ”.
Nếu “Người khách là Chúa Kitô” thì cuộc sống thánh thiện là cuộc sống biết đón nhận “Người khách” đó.
20. Yêu Chúa hơn
Như chúng ta đã biết: Thiên Chúa hứa ban cho Abraham một dòng dõi đông như sao trên trời và nhiều như cát dưới biển. Thế nhưng, hai ông bà đã già mà vẫn còn son sẻ.
Đến khi có được một mụn con trai là Isaac, thì Thiên Chúa lại đòi ông phải đem lên núi, sát tế mà dâng kính Ngài.
Dầy vậy, ông vẫn không lùi bước trước đòi hỏi của Thiên Chúa, mặc dù đã phải trải qua những giây phút giằng co và xâu xé, băn khoăn và lo nghĩ.
Cuối cùng, ông đã dám tin và dám chấp nhận, cho dù ông không hiểu. Ông đã dám yêu mến Thiên Chúa hơn Isaac, vốn là lẽ sống và là niềm hy vọng của ông. Thiên Chúa đã thử thách để ông có dịp bày tỏ tình mến và làm cho tình mến nơi ông được liên tục phát triển.
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền đòi hỏi con người yêu mến Ngài trên hết mọi sự, bởi vì Ngài là Đấng sáng tạo. Ngài phải chiếm chỗ nhất trong trái tim cũng như trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài chính là giá trị tuyệt vời, vượt lên trên mọi giá trị khác.
Qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã đưa ra những đòi hỏi quyết liệt không kém.
Trước hết, Ngài đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hơn cả cha mẹ.
Thực vậy, đối với người Á đông, chữ hiếu vừa là một giá trị cao cả, lại vừa là một bổn phận quan trọng. Ngài không bao giờ đi ngược lại điều răn thứ tư về bổn phận thảo kính cha mẹ.
Thế nhưng, nếu có sự xung đột giữa tình yêu đối với cha mẹ và tình yêu đối với Thiên Chúa, thì Ngài đòi chúng ta phải đặt Thiên Chúa lên trên cả cha mẹ, không được vì cha mẹ mà trở nên thờ ơ trước lời mời gọi của Thiên Chúa.
Thực vậy, đã có người ngần ngại và do dự đối với lời mời gọi của Ngài, anh ta muốn trì hoãn một thời gian để chôn cất cha già, hay đúng hơn để lo phụng dưỡng cho đến khi cha già qua đời. Thế nhưng, Chúa đòi anh theo Ngài ngay lập tức, để lên đường đi loan báo Tin mừng.
Trường hợp thánh Phanxicô Assie là một thí dụ điển hình về thái độ siêu thoát đối với những tình cảm gia đình, để sống theo những thôi thúc của Chúa. Đúng thế, thánh nhân đã dám cởi bỏ cả bộ áo quần trên mình, trả lại cho cha mẹ, để đi ăn xin trong chính thành phố mà gia đình mình đang sống.
Mỗi người chúng ta đều có một cội nguồn. Cội nguồn ấy chính là ông bà cha mẹ. Ngoài ra, cội nguồn ấy còn là truyền thống dân tộc, được hình thành từ bao đời, và vẫn còn được tiếp tục trong thời buổi hiện nay.
Vì thế, cần phải mở rộng để đón nhận những giá trị quí báu của dĩ vãng và hiện tại, đồng thời cũng cần phải để thanh lọc những gì không phù hợp với giáo lý Đức Kitô. Điều quan trọng đó là phải làm sao để tinh thần của Đức Kitô trở thành tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra những giá trị đích thực, cần được gìn giữ và phát huy trong một thế giới đảo điên, vàng thau lẫn lộn.
Tiếp đến, Ngài đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hơn cả những đứa con mà chúng ta đã mang nặng đẻ đau.
Thực vậy, có cha mẹ nào mà lại không yêu thương con cái của mình. Tuy nhiên, hai chữ con cái ở đây còn được hiểu theo một nghĩa rộng, đó là tất cả những gì con người đã làm ra.
Nhân loại hôm nay không ngừng sáng tạo và phát minh. Thế nhưng, có những thứ sản phẩm, thay vì là phương tiện giúp đỡ con người, thì đã trở nên một thứ ông chủ, đẩy con người vào tình cảnh nô lệ cho chính những gì mình đã phát minh, đã làm ra.
Cuối cùng, con người chỉ biết cắm đầu chạy theo những lợi nhuận và những tiện nghi vật chất. Một xã hội chỉ biết hưởng thụ, chắc chắn sẽ không còn chỗ dành cho Đức Kitô.
Sau hết, Ngài đòi hỏi chúng taph vác thập giá mình mà bước theo Ngài.
Thực vậy, chúng ta không tìm kiếm đau khổ, nhưng luôn sẵn sàng chấp nhận để góp phần vào thập giá Chúa, cũng như cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Lúc đó thập giá sẽ trở thành dấu chỉ của tình yêu. Bởi vì không ai yêu mình hơn người hiếm mạng sống mình vì bạn hữu.
21. Ân tình
Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau “Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn du lịch qua miền núi Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.
Đang lúc “dầu sôi lửa bỏng” ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.
Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.
Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay.
Nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay:”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Ông bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mất mạng “Vì anh em” nên đã được sống. Một người không có khả năng từ bỏ mình “Vì anh em” thì họ cũng không có khả năng yêu thương. “Phải liều mất đi” để “tìm thấy lại”. Đó là nghịch lý mà Đức Giêsu đã trải qua để nêu gương cho chúng ta. Người đã sẵn lòng chịu chết ô nhục để rồi sống lại vinh quang, và cũng để nói lên lời yêu thương con người.
“Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy”. “Vì Thầy” cũng chính là “Vì anh em”. Biết bao lần, Đức Giêsu đã đồng hóa mình với tha nhân. Đó là sợi chỉ hồng xuyên suốt các Tin mừng. Người tuyên bố:”Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”. Đến ngày phán xét, Người cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta:”Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”.
“Người bé nhỏ nhất” không cần phải tìm đâu xa. Họ không ở tận Châu Mỹ, Châu Âu, cũng không sống nơi chân trời góc biển. Họ ở trước cửa nhà chúng ta, họ là những kẻ nghèo hèn khốn khổ, họ là những người cô thế cô thân, họ là những ai không cửa không nhà, họ là những người già cả cô đơn, họ là những kẻ nghiện ngập sa đọa, họ là những ai bị hất hủi lãng quên.
Đức Giêsu còn hứa: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì không mất phần thưởng đâu”. Cho “một chén nước lã” là cử chỉ nhỏ bé ai cũng có thể làm được, dù là một đứa trẻ.
“Một chén nước lã” đối với Chúa lại là “một chén ân tình”. Điều đó cho thấy, Thiên Chúa không hề bỏ sót một nghĩa cử yêu thương nào của chúng ta. Đồng thời Người cũng muốn nói, cho dù chỉ là nghĩa cử bé nhỏ âm thầm, một khi đã được khoác vào tấm áo tình yêu thì nó liền trở nên vô cùng cao cả. Tình yêu chính là trọng tâm của đời sống người tín hữu.
Tình yêu là chiếc đũa thần biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, vừa sức cho mỗi người.
Tình yêu là liều thần dược giúp người tín hữu dám liều mất mạng sống vì Thầy.
Tình yêu đã làm cho người tín hữu mến Chúa hơn cha mẹ, con cái, cũng sẽ giúp họ yêu thương phục vụ mọi người cách thiết thực, chân tình.
Sức mạnh phi thường khiến thánh Phaolô vượt qua bao gian nan thử thách trên đường truyền giáo chính là tình yêu. Ngài viết: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con dám sống chết cho tình yêu Chúa, cho chúng con biết: Chân thành hơn trong yêu thương, bác ái hơn trong lời nói, nhân từ hơn trong cách cư xử.
Xin cho cuộc đời chúng con mãi mãi là mùa hoa nhân ái.
22. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nếu chỉ nghe thoáng qua, chúng ta dễ có cảm tưởng là Chúa phế bỏ mọi giá trị đã làm nên con người tại thế. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng chỉ có thể xác định được chính mình khi quy chiếu với những tương quan thiết thân nhất: tương quan với cha mẹ, tương quan với con cái, tương quan với chính bản thân. Một khi tước bỏ hết những tương quan ấy, chúng ta còn là gì? Thực ra Lời Chúa không nhằm phế bỏ, nhưng là đặt mỗi tương quan vào đúng trật tự của nó.
Trong thực tế cuộc sống nhân sinh, tùy theo mỗi thời đại, mỗi nền văn hóa, mỗi thể chế, những tương quan này đã chịu biết bao thay đỗi. Trong bối cảnh văn hóa Á Đông xưa, người cha vẫn được nhìn nhận như là thay Trời, nắm toàn quyền trong gia đình, thậm chí có toàn quyền trên sự sống, sự chết của người con. Chúng ta cũng từng nghe câu chuyện Abraham sát tế con mình là Isaac. Một cái quyền mà ngày hôm nay hầu như mọi pháp luật đã đều bác bỏ. Đạo Hiếu là đạo khẳng định nhân tính con người. Kẻ bất hiếu vô đạo không được một nền văn hóa nào chấp nhận, và nó bị loại trừ khỏi cõi nhân sinh. Thế nhưng đạo hiếu cũng không thể miễn trừ cho con người phải coi xã tắc là trọng, phải coi đạo Trời là lớn, từ đó con người nhiều khi phải vị nghĩa diệt thân. Trong chừng mực nào đó, những quan niệm như vậy, tuy từng khống trị suy nghĩ và lối sống bao thời đại, nhưng vẫn chỉ là những nỗ lực nhằm thiết lập trật tự xã hội, gia đình và an sinh của mỗi con người. Và cũng chịu nhiều biến động, khủng hoảng, kéo theo biến động và khủng hoảng toàn xã hội. Ngày nay, với tuyên ngôn nhân quyền, với những thể chế dân chủ, một lần nữa những tương quan thiết thân ấy đã có những thay đổi tận căn: trong đăng ký kết hôn, ngày nay không thấy nói tới cha mẹ đôi bạn; trong giáo dục gia đình, cha mẹ không có quyền đánh con... quyền cá nhân trở thành trung tâm của mọi quyền lợi và nghĩa vụ.
Thực tế ấy, cho thấy những tương quan căn bản làm nên cuộc sống con người luôn luôn phải tự điều chỉnh. Và Lời Đức Giêsu phải được hiểu trong nỗ lực đem lại điểm quy chiếu chân thật nhất cho cuộc sống.
Trước khi nói tới chữ "Từ Bỏ", chúng ta cần phải nhắm thẳng tới đích điểm mà Chúa nêu lên như là đối tượng của hành vi "Từ Bỏ" này: "mà theo Thầy". "Theo Thầy" là đi trên con đường đồng hành với Thiên Chúa để "Yêu Thương", "Hiến dâng mạng sống vì anh em","Rửa chân cho nhau", "đón tiếp anh em", để "cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy"... "Từ Bỏ" là để có "Tình yêu" lớn hơn, "Tình Yêu" của chính Thiên Chúa "Đấng Sáng Tạo", và đấy là trở về với Tình Yêu mà con người đã được tạo dựng, đước trao ban, để là "Hình Ảnh" của Thiên Chúa. Tình Yêu "mà bởi đó người nam đã bỏ cha mẹ mình, để kết hợp với người nữ...". Thánh Phaolô đã nói về tình yêu ấy nơi người Kitô hữu như thế này "chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người." Đi theo Đức Giêsu, tuy là phải bỏ nhưng là để nhận lãnh gấp trăm "Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp." Đó là quy luật của Tình Yêu "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối rữa đi, nó chẳng sinh bông trái..." Người môn đệ sẽ đón nhận mọi tương quan thân thiết nhất của mình trong Đức Giêsu. Bài học này đã trở nên hiện thực dưới chân Thánh Giá: vào lúc đó cả người mẹ, lẫn người môn đệ đã nghe lời gọi "Người ấy là con bà" và "Người ấy là Mẹ con". Và chúng ta đã thấy ở đó Đức Giêsu đã đổi mới mọi tương quan, làm cho nó mang chiều kích siêu việt của Tình Yêu Thiên Chúa, trở nên nguồn sự sống và hạnh phúc thật cho nhân loại.
Quả thật, có thể con người vẫn cố chấp trong nỗi hoài nghi đối với Tình Yêu sáng tạo của Thiên Chúa. Câu chuyện người đàn bà giàu có Sunêm chỉ là trong muôn một. Nhưng Lời Chúa đã nên hiện thực nhờ niềm tin của Êlisa, và Lời Chúa cũng đã nên hiện thực nhờ niềm tin của Đức Maria, của mọi thế hệ môn đệ trong lòng Hội Thánh, mà gần đây nhất trong lòng tin của Cha Thánh Pio, con người tuy giam hãm mình trong 4 bức tường khổ tu, lại làm nên chung quanh mình một đại gia đình thân yêu, mà hằng triệu triệu con tim đã say mến đến với Ngài.
23. Bát nước lã - Ts. Trần Quang Huy Khanh
Nếu hôm nay có một linh mục, giám mục, hồng y, hay giáo hoàng đến thăm gia đình bạn trong tư cách một người thân, hoặc người bạn, thì tôi sẽ định cho những vị ấy uống gì? Rượu mạnh, rượu chát, trà quí, cà phê hảo hạng, nước ngọt, hoặc nước lọc. Tôi nghĩ là tất cả. Tất cả những gì là quí giá, đắt tiền, ngon, lành, và bổ. Lý do đơn giản, vì không những họ là một người bạn, người thân, mà còn là người bạn, người thân có địa vị cao cả trong giáo hội. Một cách tương tự, nếu một người bạn thân của gia đình tôi là bộ trưởng, tổng trưởng, thủ tướng, tổng thống, thì cách thức đón tiếp cũng mang một hình thức trang trọng như vậy.
Ngược lại, nếu cũng là một người bạn, mà là người tầm thường. nghèo khổ, và thường ngày vẫn quen nhau thì sao? Thì thế nào cũng xong, nước lã đun sôi, hoặc nước trà bình thường thôi. Ở đây, thì lý do đơn giản là, chỗ quen biết, và bạn bè bình dân lâu năm.
Cũng là một người bạn, cũng là một hình thức thăm viếng, nhưng có hai lối cư xử, đón tiếp, mà sự cách biệt ấy không gì khác, chỉ là vì cái địa vị của một người. Chính vì nhìn nhau bằng cặp mất “địa vị” như vậy, cho nên đức tin của tôi không trưởng thành, và không phát triển. Và cũng vì lối nhìn ấy, mà Chúa Giêsu cũng bị tôi đối xử một cách bất công, nếu không muốn nói là coi thường, và rẻ rúng. Vì có bao giờ “chúng tôi có bao giờ thấy Chúa khát mà cho uống đâu” (Mt 25:37). Nhưng rồi Chúa Giêsu đã trả lời cho những kẻ hỏi ngài, người lành cũng như kẻ dữ: “Khi các ngươi làm việc ấy cho một kẻ bé nhỏ trong anh em ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta” (Mt 25:40).
Những anh em bé nhỏ của Chúa. Thật khó mà tưởng tượng được, một người nghèo đói, tàng tật, vất vưởng đầu đường xó chợ kia lại là chính Chúa. Và cũng chính vì Chúa như thế, nên ít người đã nhận ra ngài. Vì chỉ có ngài mới có thể nói với tôi: “Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì qủa thật, thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42).
Thì ra thế, bát nước cho một người bé mọn vì Chúa sẽ chẳng mất phần thưởng. Và kẻ bé mọn thì chung quanh tôi có đầy: Những người tàng tật tinh thần và thể xác. Những người nghèo đói tình thương và cơm bánh. Những người bị bõ rơi và quên lãng. Những người bị hà hiếp và chèn ép. Những trẻ thơ không cha mẹ, không người thân thuộc. Những cô nhi và quả phụ. Những nạn nhân chiến tranh và lòng thù ghét của đồng loại. Tóm lại, những người mà Chúa Giêsu bảo là bạn hữu của Chúa thì không hiếm. Nhưng cái khó là làm sao nhận ra họ, nhận ra họ là chứng nhân, là kẻ được Chúa sai đến với mình. Vì bao lâu không nhìn ra cái ấn tín chứng nhân nơi họ, không nhìn ra ý nghĩa của lần gặp gỡ với họ, tôi sẽ không nhận ra họ, và cũng không bao giờ chấp nhận cái sứ vụ của người sai họ đến với mình.
Không nhận ra họ, và không nhận ra sứ vụ của họ, là chối bỏ người sai họ. Như việc người ta chối bỏ môn đệ của Chúa. Trường hợp ấy, làm gì có nước mà cho uống, vì đã không coi họ như những người thân thiện, những đại diện của đấng đã sai họ, làm gì tôi có thể vui lòng và tiếp đón họ.
Thật vậy, ai cũng biết rằng tự nó, bát nước lã không đem lại công trạng để được tưởng thưởng. Nó cũng chẳng có lý do được phần thưởng đời đời như thánh Mátthêu đã ghi trong bối cảnh của ngày chung thẩm, trong đó một trong những lý do người lành được thưởng vì đã cho một người bé mọn một bát nước lã. Cũng như một trong những lý do kẻ dữ phải đọa đầy, vì đã từ chối không cho anh chị em nhỏ bé mình một ly nước khi họ khát (xem Mt 25:46).
Nhưng lý do để người lãnh thưởng và kẻ bị chúc dữ vì những bát nước là vì đã cho “những kẻ bé nhỏ nhất trong anh em ta” và “vì họ là môn đệ ta”. Thái độ đón tiếp ấy, cái nhìn tâm linh ấy là những gì Chúa Giêsu muốn được nhìn thấy trong sinh hoạt của tôi, và trong cách cư xử, đối đãi hằng ngày với nhau của tôi. Đây là một cái nhìn xuyên thấu tâm hồn, phát xuất từ đức tin và đức mến hành động. Điều mà có thể làm cho chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu trong những anh chị em chung quanh mình. Không phải vì cái vỏ bên ngoài, hay địa vị xã hội, hoặc giáo hội, mà là người đó là hình ảnh, là hiện thân, là sứ giả của Chúa Giêsu. Cũng với lối nhìn ấy, chúng mới có thể tiếp đón mọi người đến với tôi thường ngày, và nhìn ra họ là “sứ giả”, là môn đệ được sai tới từ Thiên Chúa đến với tôi trong bối cảnh này, trong tình huống ấy, và trong thời điểm ấy. Nhận ra họ, và qua họ nhìn thấy Chúa, lúc ấy, tôi sẽ đón tiếp họ và qua họ, đón tiếp Chúa.
Như vậy, khi Chúa Giêsu lấy đơn vị một bát nước, và một người anh em hèn mọn nhất, để đo lường và cân nhắc thái độ đón tiếp của tôi dành cho nhau, cũng như tình cảm mà tôi dành cho anh chị em mình là như nhắn gửi tôi rằng, trong hoàn cảnh nào, và trong bất cứ ai, thì Chúa Giêsu vẫn có mặt, và đến với tôi. Ngài đến không chỉ để ban thưởng, mà còn để xin tôi, mong đón nhận nơi tôi một lời an ủi, một nụ cười thông cảm, và một ánh mắt yêu thương. Như một người đang đi đường nhận được bát nước giải khát vậy.
Chúa Giêsu cần an ủi không? Và Chúa Giêsu cần được khuyến khích không? Có chứ. Chúa Giêsu đã chẳng nói với các Tông Đồ trong vườn Cây Dầu: “Các con hãy ở đây và thức với thầy”. Và người nói với người thiếu phụ Samaritanô: “Cho tôi uống với” (Gioan 4:7). Đây là một mời mời gọi, lời mở ra từ cõi lòng Thiên Chúa, Ngài muốn trao ban cho nhân loại cái cơ hội để tiếp cận và gần gữi Ngài. Nước thì làm gì mà Ngài không có. Ngài muốn ăn gì, uống gì mà không có. Và điều này đã phản ảnh lời mà Ngài đã nói với thiếu phụ Samaritanô bên giếng nước Giacob: “Nếu chị biết ơn Thiên Chúa và người đang nói với chị là ai, hẳn chị sẽ xin người ban nước hằng sống cho” (Gioan 4:10).
Chúa xin mà là Chúa cho. Ngài chỉ muốn tạo cơ hội cho con người nhận ra Ngài, tiếp nhận Ngài, và đón Ngài vào nhà mình. Bằng mọi cách, Ngài muốn cho con người hiểu Ngài yêu thương con người, và chỉ cần một đáp trả rất nhỏ mọn thôi, như cho người bạn mình một bát nước vì Ngài, Ngài cũng mủi lòng, cũng cảm động, và cũng ghi ơn. Tiền bạc thì tôi không có. Hạt xoàn thì tôi không có. Vàng bạc thì tôi không có. Nhưng chẳng lẽ tôi không có lấy một bát nước cho người nghèo quang mình. Và chỉ cần bằng một lòng yêu mến, kính trọng, và thái độ khiêm nhường là tôi thấy Chúa ở ngay bên mình: “Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì qủa thật, thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 25:42).
24. Chọn lựa
Một trong những lý do khiến nhiều anh em lương dân không muốn gia nhập Kitô giáo, đó là vì họ nghĩ rằng nếu vào đạo họ sẽ phải bỏ ông bà, bỏ cha mẹ. Sẵn có một ý nghĩ như vậy, nếu họ lại được nghe lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay, họ sẽ càng tin chắc rằng suy nghĩ của họ về đạo Công giáo là đúng. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”. Thật rõ ràng và dứt khoát. Nhưng có thật là khi vào đạo Công giáo người ta sẽ phải từ bỏ cha mẹ của mình không?
Để trả lời cho câu hỏi trên, ta có thể nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói về đời sống vợ chồng: “Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ và luyến ái với vợ mình và cả hai sẽ nên một huyết nhục”.
Trong cuộc đời này có mối quan hệ nào thân thương, gắn bó mật thiết cho bằng mối tình của cha mẹ và con cái? Ta càng cảm nghiệm điều này rõ ràng hơn khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ qua đời là một mất mát to lớn không thể bù đắp được trong cuộc đời của những đứa con. Dù thân thương gắn bó như vậy, thế mà anh thanh niên vẫn có thể lìa bỏ cha mẹ để sống với một người thiếu nữ xa lạ nào đó mà anh đã chọn làm bạn đời. Thì ra có một cái gì đó thật mãnh liệt đã kéo anh thanh niên ra khỏi vòng tay yêu thương của cha mẹ để gắn bó với người bạn đời của mình. Điều mãnh liệt ấy là gì nếu không phải là tình yêu? Và thật ra, dù lìa bỏ cha mẹ để gắn bó với người bạn đời của mình, thì không phải anh thanh niên cắt đứt tình nghĩa với cha mẹ. Tình nghĩa vẫn còn đó, nhưng lìa bỏ cha mẹ là để cho cuộc sống mới được phát sinh và vươn cao.
Nếu chỉ có tình yêu mới lý giải được sức mạnh đã lôi kéo người thanh niên ra khỏi cuộc sống chung với cha mẹ để gắn bó với người yêu, thì cũng chỉ có tình yêu mới lý giải được lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy sẽ không xứng đáng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy sẽ lại tìm thấy”. Phải có lòng yêu mến Đức Giêsu mãnh liệt lắm người ta mới dám từ bỏ và đánh đổi mọi sự, kể cả mạng sống của mình. Và khi từ bỏ những mối liên hệ thân thương của đời mình, thì không phải là phủ nhận giá trị của những mối liên hệ ấy, lại càng không phải là hủy diệt đi, nhưng là để cho cuộc sống mới, cuộc sống của Đức Kitô được vươn cao trong lòng mình, trong đời mình.
Đi đạo, theo đạo là sống cuộc sống của Chúa Giêsu, là yêu mến và gắn bó với Người, là đi vào một cuộc tình với Người. Mà dấu chỉ cho thấy một người có lòng yêu mến Đức Kitô chính là người ấy biết yêu thương anh em mình. Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng điều ấy: “Bất cứ sự gì các ngươi làm cho một người trong các anh em bé mọn của Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta”. Và “Ai cho một trong những kẻ bé mọn này dù chỉ là một ly nước lã thôi sẽ không mất phần thưởng đâu”.
Nếu đối với những người khác mà Chúa Giêsu còn đòi ta phải quan tâm, phải đối xử tốt như vậy huống chi là tổ tiên, là ông bà, là cha mẹ của ta? Chỉ có điều là Người muốn chúng ta đừng để bất cứ mối liên hệ nào, bất cứ giá trị trần gian nào ngăn cản lòng yêu mến của ta đối với Người. Càng yêu mến Chúa nhiều ta càng được thôi thúc để yêu mến ông bà, cha mẹ và mọi người nhiều hơn. Thế thì đâu có phải khi theo Chúa là phải bỏ ông bà, cha mẹ.
25. Siêu thoát – Lm. Đỗ Vân Lực
Đức Giêsu có phải là một mâu thuẫn lớn nhất trong cuộc đời này không? Một đàng, Người nêu gương và kêu gọi mọi người hi sinh chính bản thân. Một đàng, Người lại muốn biến bản thân thành trung tâm cuộc sống con người. Thế nghĩa là gì?
THEO THẦY
Không gì thân thiết với con người bằng tương quan gia đình. Chính từ gia đình, con người hiện hữu và phát triển. Càng sống dưới mái ấm gia đình, con người càng đi sâu vào tương quan tình cảm và nội tâm. Thế nhưng trước những đòi hỏi Tin Mừng, các giá trị đó trở thành tương đối, vì “Nước Trời đã đến gần,” (Mt 10:7) và “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17:21) Không có gì cao trọng hơn Nước Trời. Nước Trời là một giá trị tuyệt đối, đến nỗi người ta phải “bán tất cả những gì mình có” (M6 13:44.46) mới mua sắm nổi. Nước Trời là tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc đời. Quả thực, “chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.” (1 Tx 1:5)
Để mua được một giá trị siêu việt đó, người ta phải hi sinh cả tương quan gia đình. Tương quan gia đình vượt lên trên “những gì mình có” và rất gần “những gì mình là”, tức là chính bản thân. So với Nước Trời, bản thân cũng là một giá trị quá nhỏ. Nhưng giá trị nhỏ bé này vẫn là một thực tại vô cùng quí giá không dễ gì đánh đổi. Chỉ đức tin mới thấy được chiều kích vĩ đại của Nước Trời và mới mạc khải cho ta biết Nước Trời chính là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16:16) “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh,” (Cl 1:18) và “chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người.” (Ep 5:30) Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10:39) Cái tôi nhỏ bé hòa nhập vào cái tôi vĩ đại. Không những không mất mát, mà còn tìm thấy chính mình trong một chiều kích lớn lao và một giá trị tuyệt vời hơn.
Nhưng trong cuộc sống, nhiều lúc hi sinh gần như đồng nghĩa với đổi chác. Người ta hi sinh là để tìm lại được cái gì cân xứng hoặc trổi vượt hơn. Thật vậy, những hi sinh của “một phụ nữ giàu sang” (2 V4:8) tại Sunêm cho ngôn sứ Eâlisa đã không uổng phí. Vì hiếu khách, vợ chồng đã đặc biệt dành nơi ăn chốn ở xứng đáng cho ngôn sứ Eâlisa, “là một người của Thiên Chúa, là một vị thánh.” (2 V4:9) Phần thưởng của ngôn sứ thật trọng hậu. Không những bà được ông bảo đảm có con trai (x. 2 V 4:8-17). Sau này, khi con bà chết, ông cũng đã làm cho cậu sống lại và trả lại cho bà (x. 2 V 4:31-37). Như thế, chính khi hi sinh thời giờ, sức lực và tiền của cho ngôn sứ, bà đã được đền bù cân xứng.
Nếu một ngôn sứ còn đem lại được phần thưởng lớn lao như thế, Đức Giêsu sẽ có phần thưởng nào cho người môn đệ? Khi chạm tới mạng sống, mọi hi sinh đều phải khựng lại, mọi tính toán đều phải chấm dứt. Thế mà Đức Giêsu dám đòi hỏi người môn đệ phải hi sinh chính bản thân là giá trị đáng quí nhất trên đời. Đó là một đòi hỏi tuyệt đối. Dĩ nhiên hi sinh đó sẽ được đền bù cân xứng. Đúng hơn còn vượt quá điều người ta mong đợi. Đức Giêsu khẳng quyết: “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gập bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” (Mt 19:29; Mc 10:28-30; Lc 18:28-30) Bỏ đi những liên hệ tình cảm để đi sâu vào nguồn mạch tình yêu vô cùng lớn lao là Thiên Chúa, còn gì lợi hơn? Một khi đã đón nhận được nguồn tình yêu đó, ngay từ đời này, người môn đệ đã được quan tâm và che chở. Thực tế, “khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm trong cái chết của Người,” (Rm 6:3) để “chúng ta cũng được sống một đời sống mới như Người nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha.” (Rm 6:7) Đời sống mới “đầy tràn ân sủng và sự thật.” (Ga 1:14) Nói khác, khi theo Đức Giêsu, người môn đệ sẽ “trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12), và hoàn toàn được giải thoát (x. Ga 8:36). Đó là phần thưởng dành cho những ai “theo Thầy” và “đón tiếp Thầy”. Từ đó, cuộc sống tự nhiên trở thành một chứng từ mãnh liệt trước mắt mọi người.
Thực ra, khi kêu gọi môn đệ “theo Thầy” và “liều mất mạng sống mình vì Thầy”, Đức Giêsu không có ý thổi phồng cái tôi của mình. Hi sinh cái tôi để đánh đổi lấy một cái tôi khác, dù cái tôi này có vĩ đại tới đâu, cũng chỉ là chuyện “đánh bùn sang ao”. Chính Đức Giêsu cũng phải hi sinh cái tôi để làm theo thánh ý Chúa Cha. “Thực vậy, Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình.” (Rm 15:3) Trong vườn Cây Dầu, Người đã “xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Ý Cha đã thực thi hoàn toàn trong cái chết của Đức Giêsu. Như vậy, Người đã từ bỏ chính mình. Muốn “theo Thầy”, môn đệ cũng “phải từ bỏ chính mình.” (Lc 9:23)
Xét cho cùng, khi sống kiếp phàm trần, Đức Giêsu cũng chấp nhận chỉ một mình Chúa Cha mới là nguyên ủy tuyệt đối. Từ lời nói tới việc làm, Đức Giêsu luôn qui hướng về Chúa Cha (x. Ga 14:10). Bởi đấy, nếu “vì yêu mến Thầy” (Ga 16:27) mà anh em đã “liều mất mạng sống mình vì Thầy” (Mt 10:39) thì “chính Chúa Cha sẽ yêu mến anh em.” (Ga 16:27) Nơi đỉnh cao tình yêu đó, con người có thể vượt lên trên tất cả để đạt tới “một cái gì tuyệt đối, tột đỉnh và nền tảng.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Như thế, “theo Thầy” không có nghĩa là đi từ hư vô này sang hư vô khác, nhưng tới một hiện hữu tuyệt đối là chính Thiên Chúa. Thực vậy, “ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10:40) Đức Giêsu còn nhấn mạnh: “Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10:30) Không những Người hiệp nhất với Chúa Cha, nhưng còn đồng hóa với các môn đệ (x. Mt 10:40) và người nghèo (x. Mt 26:40). Như vậy, khi “theo Thầy”, người môn đệ biết mình theo ai và phải làm gì.
SIÊU THOÁT
Càng từ bỏ càng siêu thoát. Nhân loại hôm nay đang cần những con người biết từ bỏ mọi sự để tìm chân lý. Nói khác, con người siêu thoát là một nhu cầu cấp thiết nhất cho sự sống còn của nhân loại. Nếu chết dí dưới đống dữ kiện khoa học và kỹ thuật, con người sẽ không tìm được hướng giải thoát cho chính cuộc sống. Nhân loại hôm nay đang căng thẳng vì lo âu mọi mặt. Chính vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thúc đẩy các Kitô hữu hãy cống hiến cho những người đang ưu tư đau khổ “những câu giải đáp của chân lý và hi vọng” bằng cách trình bày cho họ một triết lý siêu việt (Zenit 24/06/2002). Triết lý đó không đến với những con người suốt ngày cắm đầu vào những đống dữ kiện khổng lồ và chết ngộp trong đời sống dư thừa vật chất. “Song song với những khám phá khoa học lạ lùng và những tiến bộ kỹ thuật kỳ diệu, chúng ta đang chứng kiến hai mất mát lớn: mất mát Thiên Chúa và hiện hữu, mất mát linh hồn và nhân phẩm. Đôi khi sự kiện này sinh ra những hoàn cảnh khó khăn cần đến những câu trả lời trong chân lý và hi vọng.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Nếu không từ bỏ chính mình, con người sẽ không bao giờ tìm thấy những câu trả lời đó và sẽ không bao giờ khám phá thấy mình là ai. Quả thực, “văn hóa ngày nay nói và biết nhiều về con người, nhưng hình như không biết con người là ai. Thực vậy, con người chỉ có thể hiểu biết trọn vẹn về chính mình trong ánh sáng Thiên Chúa. Con người là “hình ảnh Thiên Chúa – được tình yêu tạo dựng và được an bài sống hiệp thông đời đời với Thiên Chúa.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Hình ảnh này chỉ tìm thấy nơi Đức Giêsu và những ai đang“theo Thầy”.
26. Vì người
Ông Inhac Pađêrốtki, nhạc sĩ người Ba Lan. Một hôm, sau khi trình diễn, người ta gặp thấy ông ngồi im lặng sau hậu trường, vẻ mặt thẩn thờ, mắt nhìn xa xăm. Người nhạc công phụ diễn với ông, ngạc nhiên hỏi ông có đau bệnh gì không? Pađêrốtki trả lời: “Tôi vẫn khỏe. Tôi chỉ buồn vì thiếu mất hai người bạn. Họ là đôi vợ chồng có mái tóc màu nâu. Hôm nay vắng mặt họ tại hàng ghế thứ tư, nơi họ thường ngồi”. Người bạn kinh ngạc thốt lên: “Không ngờ ông lại có bạn nơi thành phố này. Ông quen thân với họ chứ?”. Pađêrốtki đáp: “Tôi biết họ rất rõ, nhưng tôi chưa bao giờ gặp họ hai mươi năm nay, cứ mỗi lần tôi đến đây trình diễn, họ đều có mặt tại hàng ghế ấy. Tôi mến họ cách thưởng thức nhạc. Họ là tư duy của tôi. Và tất cả những bản nhạc tôi chơi đều dành riêng để tặng họ. Hôm nay tôi mất hết hứng thú vì vắng họ”. Ngừng một lát, rồi ông tiếp: “Mong sao không có gì xảy ra cho họ”.
Chỉ nhờ vào cách thưởng thức nhạc mà đôi vợ chồng thính giả ấy đã được nhạc sĩ Pađerốtki dành trọn tài năng âm nhạc của ông cho họ. Một sự đáp trả vượt quá tưởng tượng. Tuy nhiên, sự đáp trả mà Chúa Giêsu hứa cho những kẻ theo Ngài còn vượt xa hơn biết bao. Khi chọn lựa theo Chúa Giêsu, người môn đệ biết sẽ không tránh được nhiều mất mát. Nhưng Thiên Chúa không để cho họ thiệt thòi. Ngài sẽ đền bù, một sự đền bù vượt xa mọi chờ mong. Trước mặt Thiên Chúa, sẽ không có gì bị bỏ quên. Một bát nước lã thôi cũng sẽ được đền bù xứng đáng. Và cũng không có việc làm nào là kém giá trị.
Đón tiếp một ngôn sứ sẽ lãnh phần thưởng của ngôn sứ. Đón tiếp người công chính sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Đón tiếp người rao giảng sẽ lãnh phần thưởng của người rao giảng. Chúa Giêsu đã nói như thế trong Tin mừng hôm nay. Người môn đệ đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung thành thực thi bổn phận. Với Thiên Chúa, bổn phận, dù công khai hay âm thầm, cũng vẫn luôn cần thiết. Thiên Chúa cần những con người ngày đêm nhiệt thành rao giảng, làm chứng cho Ngài, thì Ngài cũng cần những tiếp tay âm thầm hỗ trợ cho những con người ấy. Đây chính là niềm phấn khởi, hi vọng cho mỗi Kitô hữu. Tài hèn,sức kém, chúng ta không thể làm ngôn sứ, làm người lãnh đạo, hoặc làm kẻ gánh vác những trách vụ nặng nề, nhưng chúng ta vẫn có thể đóng góp một vài giúp đỡ cho những con người ấy.
Dù là vĩ nhân, cũng cần đến những nhu cầu căn bản của đời sống. Công chúng sẽ chẳng bao giờ biết đến những con người đứng sau hậu trường. Nhưng nếu không có họ thì xã hội chẳng thể nào có được các vĩ nhân. Lịch sử chỉ nhớ đến các vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại những khuôn mặt đã góp phần vào đời sống của vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại nhớ tất cả, chẳng bỏ sót một khuôn mặt nào. Phần thưởng của họ cũng có giá trị như của các vĩ nhân. Cũng có thể là các việc đạo đức của chúng ta không đặc biệt sáng chói để được gọi là người công chính, là thánh nhân. Tuy nhiên, nếu chúng ta góp phần làm cho một người khác trở thành công chính, góp phần bằng cầu nguyện, hi sinh, thì chúng ta cũng lãnh nhận triều thiên của người công chính.
Tìm hiểu thêm một chút nữa, chúng ta sẽ ý thức hơn và hiểu rõ hơn điều ấy: Càng đi tìm chính mình, chúng ta càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc của mình, chúng ta càng chết dần trong nỗi cô đơn. Niềm khao khát hạnh phúc, chúng ta chỉ có thể lấp đầy khi đến với tha nhân mà thôi. Đó là chân lý nền tảng về con người. Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thực sự là người khi biết sống cho tha nhân.
Qua cuộc tử nạn và cái chết của Ngài, Chúa Giêsu cũng khẳng định chân lý ấy. Ngài bảo chúng ta: “Ai tìm mạng sống mình, sẽ mất. Ai đành mất mạng sống mình, sẽ gặp lại”. Đó là nghịch lý của Kitô giáo. Nhưng đó cũng là chân lý của cuộc đời. Thật thế, tất cả những ai miệt mài trong tiền của, danh lợi, chức quyền, lạc thú riêng mình, thì rồi cũng chỉ chuốc lấy đắng cay, chua xót, muộn phiền mà thôi. Trái lại, một cuộc sống tiêu hao vì người khác sẽ luôn là một cuộc sống tràn đầy, sung mãn. Chính trong phục vụ chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Chính qua những cử chỉ yêu thương chúng ta mới tìm được bản thân mình. Đó là chính là ý nghĩa của “Kinh Hòa Bình” mà chúng ta vẫn thường hát: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”
27. Thập giá
Một trong những điều dễ chịu, thú vị trong đời sống là gặp được một người cởi mở, thân thiện, nồng nhiệt và mến khách. Lòng mến khách là một dấu ấn xác nhận người môn đệ chân chính của Đức Kitô.
Khi mùa đông dài chấm dứt, thì mùa xuân trở lại. Dọc theo đường phố, người ta vui mừng. Họ kéo màn và mở các cửa sổ. Không khí mát, ánh sáng mặt trời và hơi ấm tràn vào nhà họ. Họ thốt lên “Cám ơn Thiên Chúa vì mùa xuân về, cám ơn Thiên Chúa vì ánh sáng mặt trời!”
Thế rồi đúng lúc ấy, một người ăn xin xuất hiện ở cuối đường. Anh ta bị phát hiện qua những cửa sổ mở rộng. Dọc theo chiều dài của con đường những cửa sổ đóng lại từng cái một các tấm màn cửa kéo kín lại, và các then cửa gài chặt lại. Người ăn xin gõ vào mỗi cánh cửa nhà trên đường, nhưng không có cánh cửa nào mở ra cho anh ta.
Một cách tuyệt vọng, anh ta rời bỏ con đường và hướng về một nơi nào khác. Không lâu sau khi anh ta đi khỏi, các màn cửa lại được kéo ra lại, các cánh cửa một lần nữa mở ra. Ánh sáng mặt trời và không khí trong lành lại ùa vào. Và mọi người lại vui mừng.
Điều lạ lùng là nhà chúng ta luôn mở rộng để đón nhận ánh sáng mặt trời và không khí trong lành của Thiên Chúa nhưng thường không mở ra để đón nhận con cái của Người, đặc biệt khi người này đến trong cảnh cơ hàn.
Đức Kitô khuyến khích chúng ta phải mến khách. Ngày nay lòng mến khách rất khác với ngày xưa khi không cần khóa chặt cửa nhà mình. Khổ nỗi, những ngày ấy đã qua rồi. Ngày nay là thời buổi ổ khóa, then cài, lỗ quan sát, nhìn qua cửa, hệ thống báo động, chó… Vì thế ngày nay hơn bao giờ hết, cần đến lòng mến khách thân thiện. Trong thế giới ngày nay, có rất nhiều cảnh cô đơn, nhiều người xa lạ, ngoại kiều, kẻ tha hương.
Lòng mến khách đối với một người bạn không có gì đáng kể. Nó không bao hàm nguy cơ, và xem ra ân nghĩa có thể được đáp trả. Nhưng lòng mến khách đối với một người xa lạ đến với mình. Lòng mến khách không có nghĩa làm họ giống mình. Nó có nghĩa chấp nhận những người khác như họ vẫn thế. Điều này làm họ tỏa sáng sự xa lạ của họ, đồng thời vẫn trở thành thành viên của cộng đoàn.
Nếu những người Kitô hữu sống thành những khu đặc biệt cứ trong đó họ củng cố và bảo đảm cho chính họ và những đặc tính của họ thì thế giới còn hy vọng được điều gì? Đức Kitô kêu gọi chúng ta phải đến với người xa lạ. Và phần thưởng sẽ rất lớn. Người nói rằng ngay cả một hành động nhân từ nhỏ bé như cho uống một chén nước lã thì hành động này cũng sẽ được thưởng công. Nhưng cũng có phần thưởng trần thế và là những phần thưởng lớn – Sự phát triển hiểu biết, tình thân hữu và hợp tác là những điều mà những người láng giềng của chúng ta đòi hỏi.
Đó là một loại mùa xuân mà chúng ta có thể làm cho nó đến nhà và khu phố của chúng ta, một mùa xuân sẽ xua đuổi mọi đám sương mù của sợ hãi, nghi kỵ, thù hận. Đối với những môn đệ của Đức Kitô, lòng mến khách không phải là điều phụ thuộc ngoại lệ. Nó là trung tâm của Tin mừng. Và động lực tối hậu của nó luôn sáng tỏ, đón tiếp người xa lạ là đón tiếp chính Đức Kitô.
Lòng mến khách không phải mở cửa nhà mình cho bằng mở cửa tâm hồn mình. Mở cửa tâm hồn mình thường gặp những nguy cơ. Người ta có thể bị tổn thương. Nhưng mở cửa tâm hồn mình là bắt đầu sống. Đóng cửa tâm hồn mình là bắt đầu chết.
28. Từ bỏ – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Năm 1994, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi tang tóc, chỉ trong vòng một tháng, thần chết đã hai lần đến gõ cửa nhà chị và cướp mất hai cột trụ của gia đình: người cha và người chị cả, những ngày đen tối bắt đầu đè nặng trên vai bà quả phụ Ca-ta-ri-na với bốn đứa con thơ dại.
Hồi đó Mác-đa-la mới 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn, thấy mẹ đau buồn và khóc hoài, chị thường nói với mẹ: “Mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phan-xi-ca đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải tới lúc khôn lớn mà ngay từ bây giờ, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã ngồi xuống trước guồng tơ dệt chỉ mà chị Phan-xi-ca đã để lại.
Một hôm, tình cờ cha Ban-den-la, người anh họ của mẹ đến chơi và biết Mác-đa-la không được đi học, cha hứa sẵn sàng phụ giúp thêm vào nhu cầu vật chất của gia đình và trả tiền học phí cũng như tiền sách vở cho Mác-đa-la đi học. Sau hơn 10 năm chăm chỉ học tập, chị đã tốt nghiệp và trở thành một cô giáo trường làng, thế là Mác-đa-la đã bắt đầu làm việc để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, hơn nữa, chị biết mẹ luôn ấp ủ một ước muốn thầm kín là có được một căn nhà với mảnh vườn nho nhỏ, những luống rau và mấy giàn nho ngon ngọt. Vì thế, chị đã chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm, giảm bớt chi tiêu không cần thiết. Đến ngày sinh nhật thứ 30 của mình, Mác-đa-la dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn như mẹ mong ước, chị âu yếm nói với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con xin biếu tặng mẹ, con chỉ xin mẹ một điều là cho phép con tận hiến cuộc sống còn lại của con cho Chúa để đáp lại tiếng gọi của Ngài vẫn thúc giục con từ lâu rồi”.
Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chi, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Trái lại, trong tâm hồn chị trào dâng một niềm vui mừng, vì chị có thể thực hiện được ước mơ chị đã ấp ủ từ lâu.
Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời nói của Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em rõ, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến, trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi tại đảo Xi-xi-li-a. Và Chúa đã thưởng cho chị qua việc Đức Giáo Hoàng tôn phong chị lên bậc chân phước để mọi người ngưỡng mộ và tôn kính.
Kể lại câu chuyện trên để minh họa cho bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này là đoạn cuối trong bài giảng dạy về truyền giáo của Chúa Giêsu. Ngài nói với các tông đồ, và qua các ông, nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả mọi sự để đi theo làm môn đệ Ngài và Ngài hứa ban thưởng bội hậu cho họ. Tại sao Chúa đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có nghịch lý không? Quả thực, con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý, một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn theo Chúa, phải từ bỏ hết, phải từ bỏ tất cả, nghĩa là coi Chúa hơn hết tất cả mọi người, hơn hết tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa thôi.
Có người cho rằng: những điều trên đây Chúa chỉ dạy riêng cho những người đi tu mà thôi, nói thế cũng đúng, nhưng những lời Chúa dạy đây không phải là không áp dụng được cho tất cả chúng ta, bởi vì với mỗi người, Chúa cũng đòi hỏi phải từ bỏ, không phải từ bỏ để đi tu hay để làm tông đồ cho Chúa, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều cái, nhiều điều và nhiều lần phải từ bỏ.
Tóm lại, trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng.
29. Chúa trong anh em
“Sự gì ngươi làm cho kẻ bé mọn”
Văn hào hiện sinh vô thần Jean Paul Sartres có nói: “Hỏa ngục là người khác!” Thật là câu nói quái gở, đi ngược lại hoàn toàn tinh thần Phúc Âm.
Đối với chúng ta, người khác là ai? Ta hãy nghe Chúa Giêsu trả lời: Người khác, chính là Ta: “Sự gì ngươi làm cho một kẻ bé nhỏ nhất vì danh Ta, là làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Người khác đó ở đâu? Làm sao tìm ra họ? Họ ở một thế giới khác? Họ ở chân trời góc biển, ở tận Châu Phi, Á châu xa lắc?
Không! Như Lazarô, họ ở ngoài cửa chúng ta. Họ là những người hèn mọn không ai nghĩ tới, những kẻ lạc loài, không cửa không nhà. Họ ở ngay đường phố, cùng chung cư hàng xóm chúng ta. Cũng có thể họ là những người trong gia đình, nhưng ta đã cố tình quên họ trong cảnh sống cô đơn, góa bụa, già cả của họ. Họ là “hỏa ngục của ta”, vì họ làm rầy ta trong cảnh sống “Thiên đàng” mà ta cho là đã tạo dựng được.
Hôm nay, qua bài Phúc Âm, Chúa dạy: “Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”.
Chúa dạy chúng ta ân cần tiếp đón anh em, một vấn đề được Kinh Thánh nhiều lần nhắc đến. Phúc Âm noái đến Chúa Kitô như một người khách mà người ta niềm nở đón tiếp hay là thờ ơ xua đuổi. Nên chú ý rằng Chúa Giêsu không bao giờ mời khách, nhưng Ngài luôn là khách được mời. Ngài đến cách riêng với người tội lỗi để có dịp gọi họ trở lại, như tại nhà Matthêô (Mt 9,10-18) và Giakêu (Lc 19,5-10). Ngài đến với gia đình quen thân của hai chị em Martha và Maria, cũng chỉ để nói lên một sự cần thiết nhất là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Ngài đến như một người khách lạ đến khuấy động lòng người, đặt lại mọi vấn đề. Vì thế, Gioan nói: “Người đến trong nhà Người và các gia nhân Người không tiếp nhận” (Ga 1,11)
Vì thế, chúng ta phải ân cần tiếp đón anh em trong niềm tin, vì người hành khất đến gõ cửa, người lao động đến xin việc làm, “người khách ấy chính là Ngài”.
Ở xứ Palestine, vấn đề nước là vấn đề sinh tử. Davit trong cánh đồng khô cháy Rơphaim (2 Samuel 23,15) đã kêu lên: “Chớ gì tôi được uống nước ở Belem!” Giọt nước ấy, Chúa Giêsu đã đến xin cùng thiếu nữ Samaria bên bờ giếng, giữa một trưa hè. Phải chăng nhiều lần Ngài cũng bị từ chối, nên Ngài hứa phần thưởng cho những ai cho kẻ khác chỉ một bát nước lã. Và phải chăng cách đón tiếp anh em ân cần hơn cả, là tìm cách cho họ được biết và sống với Chúa là “suối hằng sống”. “Ai tin Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông” (Ga 7,38).
Thánh Bác sĩ Giuseppe Mascatti lúc đậu bác sĩ lúc 22 tuổi. Cả cuộc đời chuyên lo cho người nghèo ở thành Naples. Bác sĩ luôn khuyên bảo các thanh thiếu niên mà ông gặp gỡ điều này: trước khi uống thuốc lo đi xưng tội rước lễ đã. Ngài được tôn phong Hiển Thánh vào Chúa nhật cuối tháng 10 năm 1987.
Lạy Chúa, xin cho con tìm thấy Chúa trong người anh em.
30. Thiên Chúa là khởi nguyên và tận cùng
(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Minh Đức)
“Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Lời của Đức Giêsu làm cho chúng ta cảm thấy sợ hãi, nóng lạnh, nổi da gà! Phải chăng chúng ta không nên nghĩ đến chuyện cải thiện, duy trì và bảo vệ cuộc sống của chúng ta? Đức Giêsu có dụng ý gì khi nói với chúng ta những lời lẽ như trên?
Khi nói về cuộc sống, chúng ta liên tưởng đến một cuộc sống bình nhật, một cuộc sống an lành, hạnh phúc dài lâu bên cạnh những người chúng ta thương mến. Đối với nhiều người thì thời gian khó khăn đen tối sau chiến tranh, sau những cơn bão lụt, hạn hán, là một cuộc đấu tranh để sinh tồn. Điều đáng ngạc nhiên là: tiềm lực nào đã giúp con người trở nên tháo vát, có đủ khả năng để bảo vệ và duy trì mạng sống của mình cũng như thân nhân của mình? Phải chăng là “cái khó bó cái khôn”?
Ở Tây Âu sau đệ nhị thế chiến con người đã ra công tái thiết, xậy dựng. Chính trong thời gian khó khăn này cũng làm nẩy sinh không biết bao nhiêu những bậc tài ba lỗi lạc trong mọi lãnh vực. Con người đổ dồn tất cả vốn liếng để đầu tư, để phát triển cũng như bảo đảm cuộc sống. Ai cũng ham sống sợ chết. Bởi vậy càng văn minh tiến bộ thì càng nảy sinh nhiều loại bảo hiểm: bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm mạng sống, bảo hiểm tai nạn lưu thông, bảo hiểm hưu dưỡng, … Tất cả đã trở thành chuyện tất nhiên và đáng mừng. Nhưng chúng ta phải tiép tục suy tư về hai chữ „bảo hiểm“. Phải chăng tất cả giúp con người bảo đảm cuộc sống? Dĩ nhiên là không rồi! Dù là bảo hiểm nào đi nữa cũng không giúp chúng ta trốn tránh cái chết. Tất cả đều biết: một ngày nào đó mình sẽ lìa đời. Nhưng hầu hết chẳng ai muốn nghĩ đến chuyện đó. Họ cho rằng, tôi còn trẻ, còn nhiều thời gian. Nhưng thần chết đôi lúc đến bất chợt. Đùng một cái con người phải đối diện với đống gạch vụn của những chương trình, kế hoạch cho cuộc sống của mình. Con người tự cảm thấy mình bất lực, không tài nào dựa vào khả năng mình để cứu vãn tình thế. Có lẽ chính tại đây họ phải tự hỏi: Đức Giêsu hiểu thế nào về cuộc sống?
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng Người cũng là con người như chúng ta. Lẽ dĩ nhiên Người cũng tha thiết muốn sống. Thực là kinh hãi khi Người phải chết trong lúc tuổi đời bước vào giai đoạn chín chắn, đầy hứa hẹn. Lời cầu nguyện của Người với Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu xin cho mình tránh khỏi đau khổ và sư chết là một lời cầu xin chân thật tận đáy lòng. Nhưng Người sẵn sàng vâng theo ý Chúa Cha. Người sẵn sàng tự hiến. Người sẵn sàng chết để đánh đổi cho chúng ta một cuộc sống vĩnh cửu. Người đành mất mạng sống để đạt được sự sống mới. Chính Người đã phục sinh, đã đi trước chúng ta tiến vào thiên đàng.
Con đường của Đức Giêsu cũng là con đường dành cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể hiểu được thế nào là mất hoặc tìm được sự sống khi chúng ta ngước mắt nhìn lên Đức Giêsu. Ai nghĩ rằng, chỉ có cuộc sống trần thế là quan trọng hơn cả, thì kẻ đó sẽ tìm đủ mọi phương tiện để chiếm hữu của cải và tìm cách hưởng thụ, nhưng kẻ đó sẽ phải đối diện với cái chết với hai bàn tay trắng. Tất cả đều phải để lại khi đã xuôi tay. Kẻ đó không hiểu đâu là ý nghĩa của cuộc sống con người. Ý nghĩa của cuộc sống con người chính là: Thiên Chúa là khởi nguyên, là trung điểm và tận cùng của cuộc sống con người. Do đó, ai đặt Thiên Chúa vào địa vị cao trọng nhất trong cuộc sống, kẻ đó hiểu giá trị đích thực của đời sống. Kẻ đó am hiểu những gì Thiên Chúa sẽ trọng đãi đối với kẻ mến yêu Ngài. Cho nên, dầu sống hay chết, dù sống an ninh hay trong nguy hiểm, tất cả đều nằm trong vòng tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Ai sống như thế, kẻ đó tìm được sự sống.
31. Để theo Chúa, phải ưu tiên chọn Ngài hơn tất cả
(Suy niệm của Nguyễn Chính Kết)
Câu hỏi gợi ý:
1. Một người từ bỏ mọi sự – những người thân yêu, tương lai sự nghiệp, của cải ruộng vườn – để theo Chúa, có phải người ấy coi rẻ những thực tại ấy không? Chúa có muốn ta khinh chê hay trân trọng những thực tại trần gian?
2. Chúa nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Phải chăng Ngài không muốn ta yêu thương cha mẹ ta? Như thế có bất hiếu không?
3. Trong thực tế đời thường, ưu tiên chọn lựa Thiên Chúa cụ thể là gì?
4. Giữa Thiên Chúa và nhân loại, Thiên Chúa và Giáo Hội, Thiên Chúa và tổ quốc, Thiên Chúa và những việc tốt đẹp ta đang làm cho Ngài, ta phải ưu tiên chọn ai? Bạn đã khi nào phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những đối tượng đặc biệt đó chưa? Bạn đã chọn lựa thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Chỉ khi chọn lựa, ta mới chứng tỏ mình quý cái nào hơn
Bình thường, tất cả mọi của cải, đồ đạc trong nhà, ta đều quý, đều coi là có ít nhiều giá trị khiến ta muốn giữ lại. Nếu bị mất, dù chỉ một cây kim, một cây viết, ta đều tiếc xót không nhiều thì ít, tùy theo giá trị của nó lớn hay nhỏ. Dù không khinh chê vật gì, nhưng khi cần phải bỏ nhà để di tản chẳng hạn, ta chỉ đem theo những gì cần thiết nhất, giá trị nhất, và bỏ lại tất cả những thứ khác. Những thứ phải bỏ lại ấy không phải là không có giá trị. Nhưng ta bắt buộc phải bỏ chúng lại vì không mang theo được.
Có những trường hợp thật ngặt nghèo buộc ta phải chọn lựa giữa hai thứ mà ta yêu hoặc quý nhất trên đời. Chẳng hạn giữa cha và mẹ, giữa vợ (hoặc chồng) và con, giữa đứa con này với đứa con kia, v.v… Cả hai đều vô cùng quý giá đối với ta. Nhưng nếu ta chỉ có thể chọn một, nghĩa là chọn cái này thì phải bỏ cái kia, thì từ bỏ bất kỳ cái nào trong hai cũng đều làm ta đau đớn, xót xa, đều tạo cho ta vết thương lòng… Chỉ khi thực tế phải chọn lựa như vậy, ta mới chứng tỏ ta quý cái nào hơn cái nào, coi cái nào quan trọng hơn cái nào. Nếu không, chẳng ai biết được giữa hai người hai vật mà ta đều yêu quý, ta quý người nào vật nào hơn.
2. Người theo Chúa, phải ưu tiên chọn Ngài hơn tất cả
Đối với với những ai thật sự muốn theo Đức Giêsu, Ngài đều đặt họ vào một chọn lựa giữa Ngài với những đối tượng mà họ yêu quý, trân trọng nhất trên đời. Chỉ khi ta sẵn sàng chọn Ngài và sẵn sàng chấp nhận mất hay từ bỏ đối tượng ta vô cùng yêu quý kia, thì ta mới thật sự xứng danh theo Ngài. Thật vậy, Ngài đòi hỏi ta phải quý Ngài hơn bất kỳ người nào, vật nào, cho dù ta có quý mến hay gắn bó người hay vật ấy tới đâu. Ngài nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37-38). Vì Ngài chính là kho báu hay viên ngọc quý mà Ngài nói đến trong dụ ngôn Mt 13,44-46: phải sẵn sàng bán hết tất cả mọi thứ mình có, thậm chí tới đồng xu cuối cùng, mới có thể mua được kho báu hay viên ngọc ấy. “Sẵn sàng” ở đây là một thái độ tâm linh mà Ngài đòi hỏi tuyệt đối phải có; chứ trong thực tế, chẳng mấy khi Ngài bắt ta phải thật sự “bán hết” tất cả rồi mới đạt được Ngài. Thật vậy, khi ta đã có được thái độ sẵn sàng tuyệt đối ấy, lắm khi Ngài còn cho ta thêm gấp bội những gì ta đã có nữa: “Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,29-30).
Câu Mt 10,37-38 vừa nêu – “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy…” – không có nghĩa là Ngài bảo ta không được yêu thương quý mến cha mẹ, con cái mình. Trái lại, qua giới răn của Ngài, ta thấy Ngài đòi hỏi ta phải yêu thương, trước hết là những người thân thuộc, rồi đến người ngoài, và thậm chí cả kẻ thù nữa. Để chứng tỏ ta đích thực yêu thương họ, Ngài muốn ta phải thật sự quên mình, sẵn sàng hy sinh cho họ. Ngài chỉ yêu cầu ta – những kẻ muốn thật sự theo Ngài – phải đặt Ngài lên trên tất cả những gì ta yêu quý nhất trên đời. Và nếu có yêu thương quý mến ai, thì đều phải vì Ngài mà yêu thương, vì nhận ra họ là hình ảnh hay hiện thân của Ngài.
Trong thực tế đời thường, ưu tiên chọn lựa Thiên Chúa là coi việc thực hiện thánh ý của Ngài quan trọng hơn làm theo ý riêng mình hoặc ý muốn hay lệnh truyền của bất kỳ ai khác, dù người ấy là cha mẹ, bề trên, vua chúa, chính quyền hay giáo quyền. Mà thánh ý Ngài chính là mọi người biết yêu thương và hy sinh cho nhau (x. Ga 13,34-35;15,12.17). Thánh ý Ngài cũng được phản ảnh qua tiếng lương tâm của ta khi lương tâm ấy được xây dựng trên nền tảng đức ái. Ngoài ra thánh ý Ngài còn được biểu lộ qua lệnh truyền của cha mẹ, bề trên, vua Chúa, chính quyền, giáo quyền khi lệnh truyền này không phản lại tinh thần yêu thương của Ngài. Thánh ý Ngài cũng đòi hỏi ta hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích chính đáng của tập thể, hoặc hy sinh lợi ích của tập thể nhỏ (chẳng hạn gia đình mình) cho lợi ích chính đáng của tập thể lớn (chẳng hạn xã hội, tổ quốc mình).
3. Những trường hợp chọn lựa đặc biệt
Trong đa số hay trong hầu hết các trường hợp, quan niệm hay lệnh truyền của cha mẹ, bề trên, vua chúa, chính quyền, giáo quyền thường được coi là phù hợp với quan niệm hay lệnh truyền của Thiên Chúa. Vì thế, ta phải vâng theo lời chỉ dạy và lệnh truyền của những người trên ấy, nhất là khi ta chưa xác định được quan niệm và ý muốn của Thiên Chúa thế nào. Tuy nhiên không phải quan niệm và ý muốn của họ luôn luôn phù hợp với quan niệm và ý muốn của Thiên Chúa. Khi ta biết rõ quan niệm hay lệnh truyền của những bậc bề trên ấy không phù hợp với quan niệm hay lệnh truyền của Thiên Chúa, thì ta “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Vâng lời các bậc bề trên trong trường hợp này không phải là đức vâng lời, nghĩa là không đẹp lòng Thiên Chúa.
Nếu không gặp những trường hợp ngặt nghèo khiến ta phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những gì ta yêu quý nhất, thì ta không biết được ta yêu mến Thiên Chúa đến mức nào, vì trên nguyên tắc, ta vẫn chủ trương phải yêu quý Ngài hơn hết mọi sự. Và ta tưởng mình thật sự yêu Ngài như vậy. Nhưng khi phải chọn lựa giữa Ngài với một người hay một vật nào đó mà ta yêu quý, ta mới thấy mình không yêu mến Thiên Chúa như mình tưởng. Rất có thể trong những trường hợp cụ thể nào đó, đối tượng ưu tiên ta chọn không phải là Thiên Chúa (hay Đức Giêsu), mà là một nhân vật, một tập thể, hay một thực tại nào đó. Có những trường hợp đặc biệt mà ta phải chọn một trong hai, như:
• Giữa Thiên Chúa và người mình yêu thương nhất trên đời: Chẳng hạn có người được Chúa mời gọi hiến dâng trọn cuộc đời mình cho Chúa để làm tông đồ chuyên nghiệp cho Ngài, nhưng cha mẹ họ thì lại muốn họ lập gia đình để nối dõi tông đường, hay gia đình họ chỉ muốn họ dành trọn tình yêu, thì giờ, sức lực cho gia đình. Hoặc như đôi nam nữ kia yêu thương nhau thật chân thành và tha thiết, nhưng một người cảm thấy tiếng Chúa mời gọi hiến dâng cuộc đời mình cho Ngài, đang khi người mình yêu chỉ muốn mình dành cả cuộc đời mình cho họ.
• Giữa Thiên Chúa và sự nghiệp: Một thanh niên có tương lai thật tươi sáng, có thể tạo lập được một sự nghiệp lớn lao. Nhưng chàng lại nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi mình dấn thân phục vụ người nghèo, người bị áp bức, tranh đấu cho công lý trong một xã hội đầy bất công. Từ bỏ sự nghiệp để nghe theo tiếng Chúa trong trường hợp này là cả một hy sinh.
• Giữa Thiên Chúa và tổ quốc: Một người đang sống trong một đất nước có tham vọng chinh phục những nước chung quanh. Điều này nhiều khi buộc người dân phải hành động thất đức đối với những người thuộc các nước chung quanh. Nhiều người nhận ra làm như thế là đi ngược lại tinh thần yêu thương đồng loại của Thiên Chúa. Nhưng nếu mình không chấp hành lệnh của đất nước thì không khỏi gặp phiền nhiễu, bị tẩy chay, chụp mũ…
• Giữa Thiên Chúa và Giáo Hội: Trong những trường hợp bình thường, Thiên Chúa và Giáo Hội được đồng hóa với nhau: làm theo ý Giáo Hội cũng chính là làm theo ý Thiên Chúa. Nhưng không phải là luôn luôn như vậy. Những người có ơn gọi làm ngôn sứ đôi khi nhờ Thánh Thần soi sáng, có thể nhận ra rõ rệt Giáo Hội đang theo một quan niệm hay một con đường chưa đúng như đã từng xảy ra trong lịch sử. Tiếng Chúa thúc giục trong lòng họ phải làm một điều gì đó để giúp Giáo Hội đi đúng ý Thiên Chúa hơn. Nhưng lên tiếng theo như đòi hỏi của lương tâm mình thường rất dễ bị chụp mũ là chống phá Giáo Hội, có thể bị giáo quyền kết án, “dứt phép thông công”, bị đồng đạo tẩy chay, xa lánh, mất đi những quyền lợi tinh thần hay vật chất mà mình đang được hưởng từ Giáo Hội… Như trường hợp thầy dòng Galilê, nữ thánh Jeanne d’Arc, và mới đây là hai nhà thần học Karl Rahner và Yves Congar, v.v… Nếu cứ “mũ ni che tai, ai sai mặc kệ” thì cuộc đời sẽ thật an toàn và thuận lợi, còn làm theo lương tâm thì thật nguy hiểm và cuộc đời có thể sẽ gặp nhiều bất trắc. Vậy thì phải chọn lựa theo ai? Các ngôn sứ đều bị đồng đạo mình bách hại (x. Mt 5,12), “ném đá” (x. Mt 23,27) khi còn sống. Chờ đến lúc đồng đạo mình hiểu mình, nhận ra mình hoàn toàn đúng, thì mình đã hóa ra người thiên cổ (x. Mt 23,29-31). Số phận các ngôn sứ đích thực hầu hết đều như vậy. Trong những trường hợp này, có rất nhiều người lựa chọn: thà làm người của Giáo Hội thì có lợi cho mình hơn là làm người của Thiên Chúa, của sự thật, của công lý. Làm ngôn sứ đích thực quả thật không dễ!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nếu con không ưu tiên chọn Cha hay Đức Giêsu mà chọn một đối tượng nào khác, thì suy cho cùng, hóa ra con chỉ lựa chọn chính con, vì những lợi ích trần tục nào đó của con. Nhưng Đức Giêsu cho biết: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39). Nghĩa là kết cuộc kẻ chọn chính mình, vì lợi ích của mình, lại là kẻ mất mát và thiệt thòi nhiều nhất. Xin cho con biết khôn ngoan và can đảm dám coi nhẹ chính bản thân và lợi ích của con để luôn luôn dành mọi ưu tiên cho Cha hay Đức Giêsu. Amen.
32. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Yêu bản thân mình có phải là điều tốt hay chính đáng không? Tại sao? Nhưng tại sao Đức Giêsu lại nói: "Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được". Có gì mâu thuẫn và không hợp lý chăng?
2. Tại sao yêu Chúa và yêu tha nhân thì sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu, được sự sống đời đời? Có thể lý giải cách nào không?
Suy tư gợi ý:
1. "Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất"
Người ta ai cũng yêu mình. Đó là điều rất tự nhiên và chính đáng. Chính Đức Giêsu đã từng nói: "Hãy yêu đồng loại như yêu chính mình" (Mt 19,19). Thánh Phao-lô cũng nói: "Chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Không ai ghét thân mình bao giờ" (Ep 5,28-29). Chính vì yêu mình, nên ai cũng có bản năng tự vệ, tự giữ lấy mạng sống, và không ai chịu liều mất mạng sống mình nếu không phải vì những lý do rất đặc biệt. Thế mà Đức Giêsu lại nói: "Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được". Có gì mâu thuẫn và không hợp lý chăng?
Ai cũng yêu mình, nhưng có hai cách yêu: yêu mình cách sáng suốt, và yêu mình cách ngu xuẩn. Yêu mình cách sáng suốt là yêu làm sao để chính mình được hạnh phúc. Còn yêu mình cách ngu xuẩn là yêu mình nhưng lại làm cho mình đau khổ. Vấn đề mấu chốt của việc yêu mình sáng suốt là ở chỗ nhận định được mình là gì, và những gì là mình.
2. Yêu mình cách sáng suốt và yêu mình cách ngu xuẩn
a) Minh họa 1:
Một người thích uống rượu, thích ăn những đồ ăn nhiều chất mỡ. Nhưng bác sĩ khuyên anh ta đừng uống rượu kẻo hại gan, đừng ăn đồ nhiều mỡ kẻo hại mạch máu. Nhưng anh ta nghĩ: gan không phải là mình, mạch máu cũng không phải là mình, chúng làm sao thây kệ chúng, không liên quan gì tới mình cả. Mình thương mình thì mình cứ ăn uống cho thỏa thích: "Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau"! Chẳng bao lâu sau, anh bị viêm gan và cao huyết áp trầm trọng, phải đau đớn rất nhiều, và cuối cùng chết sớm.
Cái sai lầm của anh này là nghĩ gan của mình, dạ dày của mình, phổi của mình… không phải là mình, nên không thương chúng, bỏ mặc chúng không thèm chăm sóc, để rồi chúng bị thương tổn, bị bệnh. Khi chúng bị bệnh thì bản thân anh cũng bị bệnh theo. Lúc đó anh mới biết chúng cũng là mình, thương chúng chính là thương mình, chăm sóc chúng chính là chăm sóc mình. Còn thương mình kiểu cứ ăn uống cho mình được thỏa thích bất chấp chúng ra sao thì ra, chính là làm hại mình, là tự giết mình.
b) Minh họa 2:
Một anh có vợ và một bầy con, nhưng anh chẳng quan tâm gì tới vợ con, anh chỉ biết lo cho bản thân anh, thậm chí còn đánh đập vợ con không thương tiếc khi bị trái ý. Anh còn mèo chuột lăng nhăng làm vợ con rất đau khổ. Chẳng bao lâu sau anh bị bệnh, không còn làm được việc gì. Lúc này anh rất cần vợ con nuôi dưỡng, chăm sóc anh. Nhưng vì anh đã đối xử quá tệ với vợ con, nên bây giờ anh bị hất hủi và đau khổ. Bây giờ anh mới nhận ra thương vợ con là thương chính bản thân mình, và chăm sóc vợ con cũng là chăm sóc chính bản thân mình.
Chúng ta còn có thể đưa ra nhiều minh họa khác chứng tỏ quần áo ta mặc, đôi giày ta đi dưới chân cũng là bản thân ta, những người sống chung quanh ta cũng chính là bản thân ta, v.v… Bên Phật giáo, từ ngữ "tăng thân" có nghĩa là thân được thêm vào bản thân của ta, bao gồm tất cả mọi người, mọi vật trong vũ trụ mà ta có cảm tưởng là ở bên ngoài ta. Theo giáo lý Đức Phật, tất cả mọi chúng sinh và tất cả những vật vô tri trong vũ trụ cũng là bản thân ta. Ta yêu chúng cũng là yêu chính ta, ta ghét chúng cũng là ghét chính ta. Ta làm cho chúng tốt đẹp hạnh phúc cũng chính là làm cho ta nên tốt đẹp hạnh phúc. Ta làm cho chúng xấu xa đau khổ cũng chính là làm ta nên xấu xa đau khổ. Vì thế, yêu mình một cách sáng suốt chính là biết yêu thương tất cả mọi người, mọi vật. Yêu mình một cách ngu xuẩn là do quan niệm về mình một cách quá giới hạn, tưởng rằng mình chỉ là thân xác mình, và chỉ biết đối xử tốt với nó, còn mặc kệ không thèm quan tâm chăm sóc đến những gì không phải là thân xác mình.
3. Thiên Chúa chính là bản thân sâu thẳm nhất của ta
Thánh Âu Tinh nói: "Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính bản thân tôi thân mật với tôi" (Deus intimior intimo meo). Nói cách khác, Thiên Chúa còn là tôi hơn cả chính bản thân tôi, Thiên Chúa là "cái tôi" sâu xa nhất của tôi. Chính vì thế, yêu Chúa bao nhiêu thì cũng là yêu mình bấy nhiêu. Và tương tự, yêu tha nhân thế nào cũng chính là yêu mình thế nấy. Thiên Chúa, tha nhân, và bản thân ta, một cách nào đó chỉ là một. Theo triết lý nhất nguyên của Đông phương, thì toàn thể những gì hiện hữu chỉ là một bản thể duy nhất, được thể hiện thành muôn vật dưới muôn hình vạn trạng trong thế giới hiện tượng. Trong nhãn quan của triết lý này, ta cảm thấy rất dễ hiểu việc yêu Thiên Chúa, yêu tha nhân cũng là yêu chính bản thân ta.
Chỉ có một điều là ta có thể cảm nghiệm được thân xác ta là ta một cách trực tiếp, nhưng phải có trí tuệ cao mới có thể cảm nghiệm được Thiên Chúa hay tha nhân cũng chính là ta một cách gián tiếp. Thực ra, ta chỉ có thể cảm nhận một cách trực tiếp nhất ý nghĩ của ta là ta, rồi mới cảm nghiệm được thân xác ta với các cơ quan của nó là ta. Vì thế, những gì ta lo cho thân xác ta thì có hậu quả thấy được ngay trước mắt. Còn những gì ta lo cho Thiên Chúa, cho tha nhân thì phải một thời gian sau - nghĩa là lâu hơn ít nhiều - mới thấy được hậu quả nơi ta.
Điều ấy có khác gì hai cách dùng tiền: một đằng là dùng tiền để mua ngay những gì cần thiết hay ích lợi cho bản thân, một đằng là dùng tiền để kinh doanh hầu có lợi lâu dài về sau. Cách trước thì sự hưởng thụ ích lợi đến ngay với mình, nhưng chỉ một thời gian là hết. Cách sau thì sự hưởng thụ đến với mình có thể rất chậm, nhưng sẽ rất lâu dài, thậm chí không bao giờ hết. Từ đó ta hiểu được tại sao yêu Thiên Chúa và tha nhân thì có được sự sống đời đời hay hạnh phúc vĩnh cửu, còn lối sống ích kỷ thì chỉ có được sự sống hay hạnh phúc tạm bợ mà thôi, để rồi sau đó là sự chết hay đau khổ lâu dài.
4. Hãy yêu Thiên Chúa hơn cả cha mẹ, anh em, con cái mình
Như đã nói trên, Thiên Chúa và tha nhân một cách nào đấy cũng chính là bản thân mình, nên yêu Thiên Chúa và tha nhân cũng là yêu chính bản thân mình. Nhưng Thiên Chúa mới chính là bản thân mình một cách sâu xa nhất. Vì thế, để yêu mình một cách sáng suốt và đem lại hạnh phúc lâu dài, người ta nên hy sinh bản thân cho tha nhân và Thiên Chúa. Và yêu tha nhân cũng chính là yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa thì trừu tượng, không thấy được, nên yêu Chúa một cách cụ thể là yêu tha nhân, nhưng hãy ưu tiên yêu người gần gũi với mình nhất, rồi đến những người xa hơn, và phải yêu thương tất cả không trừ một ai, dù là kẻ thù. Thánh Gio-an viết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1Ga 4,20). Nhưng giả như có sự xung đột giữa việc yêu Chúa và yêu tha nhân, thì ta luôn luôn phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Nhưng một cách thực tế, yêu Thiên Chúa luôn luôn đồng nghĩa với yêu tha nhân, nên trong những trường hợp có sự xung đột này, ta thường phải hy sinh tình yêu tha nhân mang tính cá biệt cho tình yêu tha nhân mang tính đại đồng. Một cách cụ thể là phải đặt tình yêu chung
Trong một nhãn quan bao quát như trên, ta hãy đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, ta sẽ thấy bài Tin Mừng trở nên dễ hiểu hơn trước rất nhiều.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, bây giờ con mới hiểu rõ tại sao mà con phải yêu Cha và yêu tha nhân. Bây giờ con mới hiểu yêu Cha và yêu tha nhân chính là yêu bản thân con một cách sáng suốt nhất, là đem lại hạnh phúc lâu dài cho bản thân con. Bây giờ con mới hiểu câu nói của thánh Phan-xi-cô: "Chính lúc quên mình (để yêu Thiên Chúa và tha nhân) là lúc gặp lại bản thân". Xin cho con biết yêu con bằng cách yêu Thiên Chúa và tha nhân một cách tích cực và chân thành. Amen.
33. Phần thưởng
"Kẻ nào tiếp đón một tiên tri vì danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri" (Mt 10:41).
Thời nay, mỗi lần đi đâu xa, người ta có thể ghé vào quán cóc bên đường hay tiệm ăn trong phố để mua chút gì lót dạ; người ta cũng có thể thuê một quán trọ bình dân hay khách sạn hạng sang để trú ngụ qua đêm. Nhưng trong thời tiên tri Elisa, làm gì có được chuyện đó, dù rằng người du hành có nhiều tiền mấy chăng nữa, cũng khó kiếm được hàng quán để ăn uống và nghỉ ngơi. Thế nên ai khởi sự đi xa, ra khỏi phạm vi gia đình hoặc làng xóm là bắt đầu lệ thuộc vào lòng hiếu khách của những người xa lạ để sống còn.
Elisa vô cùng may mắn khi gặp được người phụ nữ ngoại bang ở thành Sunam đón tiếp và mời dùng bữa với danh nghĩa là một tiên tri, "vị thánh của Thiên Chúa." Người phụ nữ này vốn giàu có và đạo đức. Thấy Elisa thường qua lại thành Sunam nên bà mới bàn với chồng cất một căn phòng trên gác cao, có "một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cái đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó." Trước lòng hiếu khách cao quí đó, tiên tri Elisa muốn thưởng công cho hai vợ chồng. Thế rồi khi biết người chồng đã già mà vợ lại chưa con, Elisa liền hứa cho bà được "sinh một cậu con trai vào năm tới."
Đây quả là phần thưởng vượt quá ước mơ. Nhưng đó cũng mới chỉ là phần thưởng dành cho những người đón tiếp tiên tri. Còn phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những người xử tốt với chính môn đệ Ngài còn đáng mong đợi hơn nhiều.
Ngày xưa, khi dân chúng của một làng hay thành nào đón tiếp Đức Giêsu, lập tức nơi đó nhận được phần thưởng của Thiên Chúa: bệnh nhân được chữa lành, tội nhận được tha thứ, người nghèo được loan báo Tin Mừng. Còn với nơi nào từ chối đón tiếp Ngài hay các môn đệ, phần dành cho nơi đó chỉ là chút bụi bàn chân.
Người Do thái thường cảm nhận: khi tận tâm đón tiếp vị đại diện của ai là như chân thành đón tiếp chính người đó. Thành ra khi đón nhận các môn đệ Đức Kitô thì không khác gì đón nhận chính Ngài, mà đón nhận chính Ngài cũng có nghĩa là đón nhận chính Thiên Chúa.
Trong một thế giới, khi chủ nghĩa cá nhân ích kỷ khép kín lòng người, Tin Mừng của Đức Giêsu lại vang lên lời mời gọi mở lòng, hiếu khách. Nói đúng hơn, Ngài kêu mời con người bước vào hành trình yêu thương mà hình thức đơn giản nhất là việc đón tiếp. Một nhà tư tưởng đã viết: "Tiếp đón niềm nở chính là hình thức vui tươi của lòng yêu thương."
Lắm khi người ta dễ dàng tiếp đón các nhân vật nổi tiếng như các đấng tiên tri, người công chính, vị tư tế..., và chắc chắn họ sẽ nhận được ân phúc mà Thiên Chúa ban thưởng cho những con người dấn thân cao cả đó. Thế nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi mời gọi người ta nới rộng sự tiếp đón đến các kẻ bé mọn, người bị bỏ rơi, người già đau yếu, thai nhi vô tội.... Những con người này cũng cần được ân cần tiếp đón như sứ giả của Đức Kitô. Và chỉ "một bát nước lã" cho họ uống thôi cũng đủ cầm chắc phần thưởng Thiên Chúa trao ban rồi.
Tiếp đón không chỉ thuần túy là mở cửa nhà, mở hầu bao, mở chum nước, nhưng đúng hơn là mở rộng con tim. Chỉ khi rộng mở tâm hồn, con người mới thật sự lớn lên trong cảm thông, tương quan, tình thân, và hiệp nhất. Một tác giả đã nhận định: "Sống là phải mở ra. Như cánh hoa mở ra với mặt trời, như dòng sông mở ra với biển khơi, như cơ thể mở ra với khí trời và ánh nắng. Mở ra như thế là đòi hỏi thiết yếu của sự sống." Phương diện thể chất còn cần mở ra để được sống, huống chi là phương diện tâm linh.
Mở ra nào cũng có nguy cơ tiêu hao mất mát. Khi can đảm mở rộng con tim là sẵn sàng chấp nhận đau thương rướm máu. Thế nhưng nếu chỉ lo khép kín trong ích kỷ là tự đi vào huỷ diệt, còn khi biết rộng mở cho yêu thương là bắt đầu tìm gặp sự sống: "Ai cố giữ mạng sống mình thì sẽ mất. Ai dám mất mạng sống vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó" (Mt 10:39).
Yêu thương phải là nền tảng của mọi dâng hiến. Bởi vì nếu tôi đem cả gia tư vốn liếng mà phát chẩn; và nếu như tôi nộp mình chịu thiêu, nhưng lại không có lòng mến thì cũng hư không vô ích cho tôi (1 Cor 13:3).
Yêu thương làm nên sự sống, nhưng yêu thương nào cũng mời gọi hy sinh hiến dâng. Hy sinh không phá huỷ con người, cũng không là cách tự tử cuồng tín, song là lối đường tạo nên những người đàn ông và đàn bà cao cả nhất (Noel Question).
Yêu thương khiến người ta tha thiết mở cửa tâm hồn ra với thế giới (dù cửa nhà có đang khép kín) để dám đón nhận tất cả và hy sinh cho tất cả. Alain Cavalier, người thực hiện cuốn phim về Chị Thánh Têrêsa và được giải thưởng Cannes cao quí đã phát biểu như sau: "Rút mình khỏi thế giới, một mình trong phòng kín... đóng kín lại để mở ra nhiều hơn, tốt hơn." Và rồi, nhờ mở ra trong khát mong yêu thương tròn đầy, nên tuy không đi truyền giáo đâu xa hơn bốn bức tường tu viện, Têrêsa vẫn là quan thầy của các vùng truyền giáo, không làm linh mục để hoán đổi một linh hồn tội lỗi, nhưng đã vực dậy bao cõi lòng lao đao lạc lối, không giảng một bài nảy lửa làm rúng động tâm linh, nhưng lại là tiến sĩ của con đường thơ ấu dẫn bao tâm hồn đến với Tình Yêu.
Chị Thánh đã mở trái tim mình để đón tiếp Tình Yêu nên đã lãnh được phần thưởng của Tình Yêu.
Thế ra, tuy không phải là tiên tri hay nhà thừa sai truyền giáo, tuy không phải là linh mục hay thành viên trong các tu viện đó đây, nhưng nếu biết mở lòng cho yêu thương, kính trọng, cầu nguyện và đỡ nâng những bước chân rao giảng Tin Mừng, tôi sẽ có được phần thưởng mà Đức Kitô sẽ dành ban cho các sứ giả kiên trung của Người.
34. Theo Chúa
Thảo kính cha mẹ là một giới răn của Thiên Chúa và chúng ta không thể nghĩ rằng Đức Kitô lại chủ trương bất hiếu, đi ngược lại với đòi hỏi của Thiên Chúa. Chính Ngài cũng có một người cha, một người mẹ và Tin Mừng cho thấy Ngài luôn phục tùng cha mẹ Ngài. Tuy nhiên đoạn Phúc Âm vừa nghe muốn trình bày với chúng ta một bậc thang giá trị mới.
Thực vậy, Ngài không đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ cha mẹ hay con cái. Bởi vì việc theo Chúa tự nó không phải là một cái gì mâu thuẫn với tình thương yêu cha mẹ và con cái. Thế nhưng cũng có những lúc kẻ theo Chúa bị đặt trước sự lựa chọn: hoặc nghe lời những kẻ thân yêu nhất hoặc đi theo Đức Kitô. Những quan hệ gia đình có thể trở thành những cản trở trên bước đường theo Chúa, không phải chỉ một số người đã đi tu hay vào chủng viện mới có cơ hội trải qua những kinh nghiệm đau thương ấy. Một người con trai muốn làm linh mục để đáp lại lời mời gọi của Chúa: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Nhưng anh lại được cha mẹ coi như là cột trụ, là tương lai của gia đình. Các ngài mong anh có một nghề hái ra tiền để bảo đảm tuổi già của ông ba, hay lập gia đình để các cụ có tí cháu bế cho vui cũng như để nối dõi tông đường. Anh bị đặt trước một sự giằng co.
Nhưng theo Chúa ở đây không chỉ có nghĩa là đi tu hay vào chủng viện, mà còn phải hiểu là sống theo những đòi hỏi của Ngài, là thực hiện những điều Ngài truyền dạy. Đòi hỏi ấy phải vượt lên trên tất cả mọi thứ đòi hỏi khác. Không phải vì Chúa Giêsu là một con người độc đoán, mà bởi vì Ngài biết rõ Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Hẳn rằng mỗi người chúng ta cũng có dịp sống qua những lựa chọn này.
Một thanh niên làm ở sở thuế. Anh có một vợ và ba con. Vợ anh không có việc làm, còn 3 con anh thì phải đi học. Gia đình anh lại rất nghèo. Vợ anh nhiều lần khuyên anh hãy làm như người ta. Nếu anh nghe vợ, xiêu lòng trước những lời than khóc của cô ấy, thì anh quả thực không còn xứng đáng với Đức Kitô, anh đã từ khước cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đã thiết lập bằng giá máu của Ngài. Trong trường hợp của anh, thì chính những người thân yêu lại là một cản trở trên con đường anh bước theo Chúa.
Tuy nhiên không phải chỉ những người thân, mà còn cả bản thân chúng ta nữa, cũng có thể là những cám dỗ thúc đẩy chúng ta đi ngược lại với những đường lối của Chúa. Chẳng hạn như lòng tham lam, tính ích kỷ, những khát vọng về tiền tài và địa vị nhiều lúc làm cho chúng ta phản bội lại lý tưởng của mình. Thế nhưng, chúng ta có dám liều, dám hy sinh, dám từ bỏ tất cả để bước theo Chúa hay không?
35. Người môn đệ Đức Kitô
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 10, 37-42
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chuẩn bị nhân sự tiếp nối công việc truyền giáo ở trần gian, Chúa Giêsu đã tuyển chọn các môn đệ. Tuyển chọn rồi Chúa còn đào tạo để các ngài nên những chứng nhân trung thành của Chúa. Hôm nay, Chúa nêu lên những đức tính cần thiết của người môn đệ.
Người môn đệ của Chúa phải có tâm hồn quảng đại.
Tiên tri Elisêô đã hào phóng đối với gia đình tiếp đón Ngài. Tiên tri là hình ảnh đẹp về các môn đệ của Chúa. Người môn đệ là đại diện cho Đấng sai mình. Người đại diện tốt phải là người trình bày được dung mạo của Đấng sai mình. Chúa Giêsu, Đấng sai ta là người vô cùng rộng lượng. Người đến trần gian không phải để thu tích mà để ban phát. Trọn cuộc đời, Người ban phát không biết mệt mỏi. Người đến không phải để xét xử, luận phạt, nhưng để tha thứ. Người tha thứ một cách dễ dàng cho tất cả những tội nhân đến với Người. Người đến không phải để giết chết, nhưng là để cứu chữa. Người đến cho ta được sống và sống dồi dào. Người môn đệ của Chúa cũng phải có tâm hồn quảng đại, rộng lượng, bao dung như Chúa.
Người môn đệ của Chúa phải sống khiêm nhường.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là những người bé mọn. Chống lại những thói kiêu căng, phô trương, Chúa Giêsu luôn thao thức sao cho các môn đệ của Người trở nên bé nhỏ, khiêm nhường. Bé nhỏ trong tâm tình đạo đức để phó thác mọi sự trong tay Cha. Bé nhỏ về của cải, đừng mang “hai áo, mang theo túi tiền”. Bé nhỏ trong cách cư xử với nhau, đừng tranh giành chỗ nhất, nhưng hãy chọn chỗ chót. Bé nhỏ để quỳ xuống phục vụ: “như Thầy đã rửa chân cho các con, các con hãy rữa chân cho nhau”. Bé nhỏ để sau khi làm mọi việc rồi, hãy nhận mình là “tôi tớ vô duyên bất tài”.
Người môn đệ của Chúa phải biết tập trung vào Chúa Kitô.
Người môn đệ là người chọn Chúa Kitô làm lý tưởng. Người môn đệ cũng là người đi làm chứng về Chúa Kitô. Vì thế mọi lời ăn tiếng nói, cả đến tâm tư tình cảm phải qui hướng về Chúa Kitô. Chúa Kitô phải chiếm vị trí ưu việt trong tâm hồn người môn đệ. Nói thế không có nghĩa là người môn đệ chối bỏ mọi tình cảm chính đáng, dứt lìa những mối liên hệ gia đình. Nhưng có nghĩa là từ nay người môn đệ có yêu thương ai thì cũng là yêu thương trong tình yêu của Chúa Kitô và bằng tình yêu của Chúa Kitô.
Người môn đệ của Chúa sống cho Chúa và chết cho Chúa.
Chúa Giêsu không sống vì mình và cho mình. Người luôn sống vì và cho người khác. Người sống vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Nên mọi việc Người làm đều vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Người là tình yêu hoàn hảo dâng tặng Chúa Cha. Nên Người đã “vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá”. Người sống vì con người và cho con người. Nên người đã ban tặng chính sự sống của Người cho nhân loại, đã hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại.
Nên thánh Phalô khuyên người môn đệ của Chúa hãy bắt chước Chúa mà chịu phép rửa trong sự chết của Chúa Kitô. Hãy yêu mến, sống cho Chúa và chết cho Chúa. Chắc chắn ta không chết một lần, nhưng sẽ chết dần mòn. Chết cho tội lỗi để không bao giờ phạm tội nữa. Chết trong quên mình âm thầm. Chết trong những hy sinh nhỏ bé. Chết trong nhiệt thành phục vụ nước Chúa. Chính khi chết đi như vậy, ta lại được một sự sống mới tràn ngập tâm hồn, sự sống sung mãn, phong phú của Thiên Chúa. Chỉ có những ai đã trải qua cái chết, mới cảm nghiệm được sự sống ấy, Thánh Phanxicô chắc chắn đã trải qua cuộc lột xác ấy nên mới thốt ra được những lời bất hủ: “Chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời”. Vì thế thánh nhân đã trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Lạy Chúa, xin thanh luyện tâm hồn con, để con xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Chúa có những phẩm chất nào?
2- Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ, Người có thực hành không?
3- Đào tạo nhân sự cho Hội Thánh. Bạn nghĩ đến việc này thế nào? Quan tâm? Giúp đỡ? Đóng góp?.
36. Chú giải của Noel Quesson
Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu được cấu tạo trên năm bài giảng của Đức Gỉêsu, kết hợp với năm giai đoạn “Ký thuật”
Dĩ nhiên, đây là những tổng hợp mà Mát-thêu tập họp từ các yếu tố thường được tìm thấy trong các văn cảnh khác trong sách Luca và Mác-cô. Ngày hôm nay chúng ta đọc phần cuối của "Bai giảng về các Tông Đồ”, "bài giảng thứ hai trong soạn thảo của Mát-thêu. Ơ đây, Đức Giêsu cho các Tông Đồ mà Người đã bổ nhiệm" để thay thế Người. (Mt 10, 1.2.5-11,1) những chỉ thị cho việc tông đồ. Đó là những phán quyết theo mẫu câu nói, vô cùng mạnh mẽ... nghịch lý, gọt giũa nhu những câu châm ngôn, mà một khi đã nghe, người ta không còn quên được.
Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy.
Những lời này cứng rắn không thể trạng! Những lời thiếu tình người có thể bị hiểu sai, ở một thời đại mà cha mẹ rất khó chịu vì những quan hệ khó khăn với con cái như thời đại chúng ta. Có vẻ như Đức Giêsu khuyên con cái không yêu cha mẹ chúng! Giới răn thứ tư của Thiên Chúa vẫn là một giới răn thiêng liêng: "Thảo kính cha mẹ?". Chính Đức Giêsu đã làm gương về sự vâng lời và trung tín tế nhị đối với Mẹ Người (Lc 2,50; Ga 19,26). Người cũng nhắc lại rằng sự giúp đỡ cụ thể cha mẹ cũng vượt qua trước "của lễ dâng trong Đền Thờ" (Mt 15,3-6). Vậy Đức Giêsu muốn nói gì bằng những lời cứng rắn mà Người phát biểu ở đây? Một cách chính xác, Đức Giêsu quan niệm về bổn phận thiêng liêng nhất, và nói với chúng ta một cách mạnh mẽ nhất, rằng người ta phải yêu mến Người hơn tất cả những người đáng yêu nhất, những người mà chúng ta phải yêu nhiều nhất. Theo Đức Giêsu, trở thành tín hữu, đôi lúc có thể gấy ra sự chống đối của những người thân yêu nhất của chúng ta. Lúc đó, Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Người hơn. Và chúng ta biết rõ ở thời đại chúng ta điều đó rất thường xảy ra. Tin Mừng đề nghị chúng ta một sự chọn lựa dứt khoát dẫn đến sự dấn thân trọn vẹn cho một quan niệm sống. Vì sự chọn lựa ấy triệt để nên nó làm cho người ta không sống như trước đây, Đức Giêsu thường trở thành một nguyên nhân của những sự bất hòa ngay trong những gia đình đoàn kết nhất bởi tình cảm tự nhiên. Qua bản văn cổ này được viết ra từ 2000 năm nay, cuộc xung đột ấy không mới mẻ như người ta tưởng. Lạy Chúa, xin giúp chúng con trung tín với Chúa dù với giá máu của trái tim con.
Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.
Câu thứ hai này hoàn toàn song song với câu trên: sau mối quan hệ của con cái đối với cha mẹ... giờ đây là mối "quan hệ của cha mẹ đối với con cái...” Đức Giêsu đòi hỏi vị trí hàng đầu trong tình yêu của chúng tạ; Yêu sách này không thể chấp nhận được, không thể hiểu được, nếu Người không phải Thiên Chúa! Trong tất cả những vị sáng lập các tôn giáo, Đức Giêsu là người duy nhất nói như thế, những vị khác nói rằng: "phải yêu mến Thiên Chúa. Còn tôi, tôi chỉ là người phát ngôn của Thiên Chúa". phải, trong mọi tôn giáo, người ta đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự. Nhưng ở đây chính là Đức Giêsu. Táo bạo biết bao? Anh hãy ghi nhận chữ Thầy (Tôi) không ngừng được lặp lại trong các công thức đó: không xứng với Thầy"... "không xứng với Thầy" Vậy Thầy là ai?”
Vào thời đại chúng ta, chúng ta nhạy cảm với sự hiệp nhất của những tình yêu. Chúng ta thường nói rằng khi yêu thương những người khác là chúng ta yêu mến chính Thiên Chúa. Và thật vậy? Theo chiều hướng này, sự liên đới của chúng ta là chính và được Thiên Chúa mong muốn. Và thật thảm hại nếu chúng ta sử dụng những công thức của Tin Mừng ấy để biện minh cho sự thiếu tình yêu thương của chúng ta, sự co quắp của chúng ta trên những lợi ích cá nhân, sự bất lực ích kỷ của chúng ta không chịu đựng, dung thứ như những người thân yêu. Vả lại, yêu cha mẹ, yêu con cái còn đi xa hơn khung cảnh gia đình chật hẹp. Đó cũng là thừa nhận cội rễ di truyền, địa phương, văn hóa, xã hội: dù muốn hay không, chúng ta là con cái và cha mẹ… chúng ta phụ thuộc và chúng ta tạo ra sự phụ thuộc! Chúng ta là thành phẩm của một "môi trường", một "thời đại Nhưng các sự liên đới ấy dù rất quan trọng, không thể trở thành một cái cớ biện minh cho việc chúng ta không đi theo Đức Giêsu. Biết bao thanh niên hoặc biện minh sự bỏ đạo của họ, bằng sư bỏ đạo của mọi người xung quanh họ!
Ai yêu "môi trường" của mình hơn cả Thầy không xứng với Thầy.
Ai yêu bạn bè mình hơn chính Thầy không xứng với Thầy.
Ai yêu hoàn cảnh, nghề nghiệp của mình hơn chính Thầy không xứng đáng với Thầy.
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy.
Đó là cấp độ thứ ba của nấc thang từ bỏ: trên hết là phải từ bỏ chính mình. Sự ám chỉ thập giá ấy làm chúng ta nghĩ rằng hẳn Đức Giêsu không bao giờ đề nghị những sự hy sinh như thế nếu Người đã không sống chúng trước tiên. Mọi thập giá được chúng ta vác... là một thập giá "đi theo" Đức Giêsu. Bạn đang đau khổ... bạn đi theo sau thập giá của Người.
Vác thập giá của mình! Chúng ta có thể bị cám dỗ làm cho cách diễn đạt ấy mất hết sức mạnh và sự khốc liệt của nó. Đối với Mát-thêu, vấn đề không phải là một hình ảnh sùng đạo, một ngôn ngữ quy ước để nói về những hy sinh nho nhỏ của đới sống. Vào thời đại của Đức Giêsu, sự đóng đinh thập giá vẫn là hình phạt dành cho những kẻ nô lệ, hình phạt tàn ác và ô nhục nhất trong các cực hình Người bị kết án phải hứng chịu sự giận dữ của quần chúng, hấp hối trong sự đau đớn khủng khiếp dưới sự chứng kiến của đám đông. Xem ra Đức Giêsu có thể đã thấy những kẻ bị đóng đinh, trước khi chính Người cũng bị đóng đinh? Ở Pa-lét-tin, vùng đất mà người La Mã chiếm đóng đó là cách xử tử thông thường. Một sử gia của thời đó đã thuật lại rằng khi Hê-rô-đê cả chết, thủ lãnh của đạo quân La Mã, Varus đã ra lệnh đóng đinh cùng một lúc hai ngàn người Do Thái! Thập giá không còn là một vật để thờ phượng hay để điểm trang!
Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được.
Đây còn là một lời tuyên bố mà bề ngoài như nói ngược lại tất cả những gì thế giới hiện đại đòi hỏi: Ngày nay, sự tìm tòi cao nhất là để "tự thực hiện" bản thân, “phát triển mình", "tự thể hiện mình": Còn Đức Kitô đề nghị chúng ta "mất. mạng sống mình" để "theo Người"!
Tuy nhiên, nếu chúng ta chịu suy nghĩ một chút thì bên trên sự đụng chạm ban đầu, chúng ta khám phá trong tư tưởng của Đức Giêsu một trong những luật căn bản của đời sống chúng ta. Một người không có khả năng từ bỏ mình vì người khác thì người đó không có khả năng yêu thương. Kinh nghiệm hiện sinh hàng ngày của chúng ta cho chúng ta khám phá rằng "phải đánh mất mình đi" để thật sự phát triển trong tình yêu người khác. Vả lại, nghịch lý ấy chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng Phục Sinh, chính Đức Giêsu đã sống nghịch lý đó trước tiên. Đánh mất sự sống... để chiếm lấy sự sống!
Lời của Đức Giêsu không có đặc tính gì là thích tự hành hạ mình, tiêu cực, buồn bã; đó là một lời tích cực và vui tươi Vấn đề là phải chiếm lấy". Đức Giêsu đề nghị chết cho chính chúng ta để thật sự sống. "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10). Vậy, đây không phải là một sự bàng hoàng dũng cảm của thuyết hư vô và dù ít dù nhiều cũng là sự tự tử, mà đây là tình yêu thương mỗi ngày đòi hỏi chúng ta phải đánh mất mình vì những người khác... và là sự phát triển cao thượng nhất! Không hề phá hủy con người, sự hy sinh từ bỏ tạo thành những người đàn ông và đàn bà cao cả nhất. Chỉ cần nghĩ đến Charles de Foucault, Mẹ Têrêxa Can-quýt-ta, Martin Luther Kinh và nhiều người khác!
Còn nếu co quắp vào tính ích kỷ nhỏ bé của mình, sự phát triển của cá nhân mình thì như Đức Giêsu đã nói đó là phương tiện chắc chắn nhất làm hỏng cuộc đời mình. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được lời Chúa và ban cho chúng con sức mạnh để sống lời ấy. Thánh Phaolô đã nói "được rửa tội" chính là chịu đóng đinh với Đức Kitô để sống với Người" (Rôm 6,6-8) Và mỗi thánh thể nhắc chúng ta rằng Đức Giêsu đã "nộp sự sống của Người".
Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Đoạn văn bắt đầu bằng những lời này là phần kết luận của "Bài giảng về các Tông Đồ". Và thật ra chúng ta luôn ở trong cùng một luồng tư tưởng: luôn là vấn đề của lòng yêu thương... và yêu thương dưới hình thức đơn giản nhất là đón tiếp người khác.
Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì ngườ ấy là ngôn sứ thì sẽ được lãnh nhận phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ, ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.
Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
Thế giới hiện đại này có vẻ đề cao sự phát triển cá nhân kể cả bằng sự đè bẹp những người khác (ví dụ như trong việc phá thai và nhiều hoàn cảnh khác...) cũng thế giới ấy đã tìm thấy công thức tàn bạo: "Tha nhân là hỏa ngục!"
Còn Đức Giêsu đề cao lòng hiếu khách, cởi mở, đón tiếp chúng ta có dành cho người xa lạ một chỗ khiêm tốn nơi bàn ăn của chúng ta không? Người khách được đón tiếp vào nhà chúng ta là một sự hiện diện của Đức Chúa. Hỡi vị khách xa lạ, hãy nói cho chúng tôi nghe điều bí mật của bạn.
Tiếp đón niềm nở chính là hình thức vui tươi của lòng yêu thương.
Đó là một ơn thường gặp nhất mà người ta có thể thực hiện ở mọi lúc dù khi quá nghèo và người ta không có gì để cho ngoài tính cách của sự đón tiếp Đức Giêsu đã gợi ra ba loại thành viên của cộng đoàn:
Các ngôn sứ, các người công chính và các kẻ bé nhỏ! Hai loại người trên đã được tôn kính trong đạo Do Thái. Nhưng Đức Giêsu còn thêm những "kẻ bé nhỏ", những "môn đệ bình thường", những người mà người ta luôn -liều lĩnh bỏ quên họ để chỉ quan tâm đến các Kitô hữu siêu hạng các chiến sĩ đức tin, các người dấn thân cao cả? Trong một thế giới rất dễ dành mất tình người và lại luôn đi tìm những môi trường mới cho sự hiệp thông nhân loại, lời mời gọi Đức Giêsu luôn có giá trị. Các kỹ thuật viên của mọi hệ thống, các chuyên gia về "nhóm năng động", các người nhiệt thành truyền bá các ý thức hệ xứng đáng... đều phải tìm cách thực hiện động tác đơn giản cho người đang khát một chén nước: chỉ là một chén nước lã! Biểu tượng cho tương quan con người đơn giản nhất. Tin Mừng xem ra không đơn giản. Đức Giêsu cảnh báo sự dửng dưng và vô tâm của chúng ta. Tha nhân! Người khác! Kẻ bé nhỏ nhất.
37. Ai đón tiếp các con là đón tiếp Thầy
(Chú giải của Fiches Dominicales)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Với Chúa nhật XIII này, kết thúc bài "diễn từ sai đi truyền giáo".
1. Sẵn sàng để theo Đức Kitô.
Đức Giêsu nói với "mười hai môn đệ" thân thiết mà Người vừa phong làm tông đồ, tức là những kẻ "được sai đi, của Người. Bài diễn từ có chia làm phần rõ rệt: Phần thứ nhất tập trung vào SỰ SẴN SÀNG TRỌN VẸN và sự gắn bó triệt để của người môn đệ vào Đức Kitô. Đức Giêsu đòi người môn đệ yêu mến Người hơn những gì thân yêu nhất: "Ai yêu cha mẹ hơn Thầy không xứng đáng làm môn đệ Thầy. Ai yêu con cái hơn Thầy không xứng làm môn đệ Thầy. Những lời này không đi ngược với giới răn thảo kính cha mẹ. Trong thể văn khoa đại kiểu Sêmít, những lời này chỉ nhắm thiết lập một trật tự ưu tiên trong những lựa chọn. Những tình cảm gia đình, dù chính đáng, không thể kìm hãm, càng không thể ngăn chặn những môn đệ bước theo Đức Giêsu. Những mối dây liên hệ thiêng liêng này chỉ là tương đối so với mối liên hệ tuyệt đối: gắn bó vô điều kiện vào bản thân Đức Giêsu. Ở đoạn văn trước đó, cùng đậm đặc chất Sêmít, Đức Giêsu đã nói không úp mở cho những ai muốn theo Người biết những chọn lựa đau đớn mà họ sẽ phải trải qua: "Thầy đến để tách lìa con trai khỏi cha, con gái khỏi mẹ, con dâu khỏi mẹ chồng, người trong một nhà sẽ chống đối nhau. Claude Tassin gợi ý: "Hãy nghĩ tới nhũng người ngoại đạo mới trở lại, từ chối không thờ lạy thần của gia đình vì đức tin Kitô hữu... Giữa "ngôi nhà" của Thiên Chúa (câu 25) và ngôi nhà của riêng mình", người môn đệ luôn luôn bị đẩy vào cho phải lựa chọn giữa (nhà" của Thiên Chúa và "nhà của riêng mình”, Đức Giêsu sẽ đi xa hơn nữa: Người mời gọi môn đệ yêu mến Người hơn chính bản thân họ, hơn cả mạng sống của họ? Và vì người môn đệ đã chọn chia sẻ vận mệnh với Người, Đức Messia chọn đóng đinh, họ sẽ không ngại ngùng vác lấy "thập giá bản thân" mà theo Người". Nếu ta thường cho rằng kiểu nói "vác thánh giá" thuộc về một ngôn ngữ ước lệ thì các độc giả của Matthêu không nghĩ thế, vì họ phải sống trong một hoàn cảnh bắt bớ, đe doạ, nơi cái chết trên thập giá xảy ra rất thường và là hình khổ tàn bạo, nhục nhã hơn hết, hình khổ dành cho nô lệ. Thế nên ai chọn nối bước Đức Giêsu chắc chắn rồi sẽ như Thầy mình, gặp phải hiểu lầm, thù ghét, và cả bắt bớ nữa.
2. Đón tiếp các môn đệ của Đức Kitô.
Với 4 câu, phần thứ hai trở lại đề tài "ĐÓN TIẾP" môn đệ Đức Kitô.
Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng sai đi và người được sai đi: "Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy; ai tiếp đó Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Sau đó, để phân biệt chi tiết sự đón tiếp theo 3 mức độ giảm dần một cách nghịch lý: các "tiên tri", những "người công chính", nhưng "kẻ bé mọn", và long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc âm. Các "tiên tri" hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận trong Giáo Hội sơ khai. Những "người công chính có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu. Còn những kẻ "bé mọn" là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là "tin" vào Đức Giêsu. Họ cũng đáng được trân trọng và yêu mến đặc biệt.
J. Perron ghi nhận: "không ý nghĩa sao, chỉ "diễn từ tông đồ" này khởi đầu như chỉ nói riêng với nhóm 12, tách họ riêng ra, trao cho họ trách nhiệm và tư cách người được sai đi của Đức Kitô, lại kết thúc bằng trao ban cho cả những người bé nhỏ nhất sự cao trọng và trách nhiệm y như thế?”.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
(Mgr. L. Daloz, Le Règne descieux s 'est approché DDB).
1. Đức Giêsu không chỉ đồng hoá với các tông đồ mà Người sai đi loan báo Nước Thiên Chúa. Người còn đồng hoá với mỗi một môn đệ, nhất là với những người bé nhỏ nhất. Người sẽ nói: "Ai vì danh Thầy mà đón tiếp một trẻ nhỏ chính là đón tiếp chính Thầy" (l8,5). Đặc biệt, Người mời gọi ta nhận biết Người trong những kẻ túng cùng, khốn khổ: "Quả thực Thầy bảo anh em, mỗi lần anh em làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn này, là anh em làm cho chính Thầy" (25,40). Hôm nay, ngay khi nói với các tông đồ: "Ai tiếp đón anh em la tiếp đón Thầy". Người nói tiếp và cho biết Người gắn bó biết bao với từng người: cho một tiên tri vì họ là tiên tri, cho người công chính vì họ là người công chính, cho kẻ bé mọn nhát vì họ là môn đệ. Ai đón tiếp họ, Người hứa sẽ ban phần thưởng, khi đón tiếp họ, cũng là chọn đứng về phía Người. Giữa Đức Giêsu và các môn đệ có một dây hiệp thông sâu xa. Đôi khi ta nói về "bí tích huynh đệ". Các bí tích, trước hết là bí tích rửa tội, không biến anh em ta, một cách nào đó, thành những “bí tích" của Đức Giêsu Kitô mà họ đã được ghi đấu đó sao? Cái nhìn đức tin phải giúp ta nhận biết Đức Giêsu hiện diện trong anh em ta. Mỗi người chúng ta được sai đến với con người để cho họ biết Đức Giêsu đã đến gần...".
2. Điểm bình thường trở tàhnh nơi diễn ra lắm bất ngờ
Yêu thương, tiếp đón là những từ ngữ thuộc về ngôn từ và phong tục của Nước Trời. Cái bình thường, cái thường ngày trở thành ân sủng, khả năng, khám phá ra niềm vui Nước Trời. Điều bình thương nhất như cho một ly nước uống, bỗng trở thành nơi diễn ra sự bất ngờ, mạc khải. Có lẽ Thiên Chúa muốn thời gian nghỉ hè sắp tới sẽ giúp ta trở nên biết quan tâm tới người khác, tới Đấng khác. Như thế, chúng ta sẽ trở thành những con người của niềm tin, những tín hữu.
38. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
A. Hạt giống...
Phần cuối của bài giảng về sứ mạng tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó khăn của Tin Mừng: Vì Tin Mừng là giá trị cao quý nhất cho nên nếu cần thì người ta phải dám từ bỏ tất cả những thứ khác để đổi lấy nó.
Sau đó Chúa Giêsu khuyến khích người ta quảng đại tiếp đón những sứ giả của Tin Mừng, vì tiếp đón họ chính là tiếp đón Chúa và sẽ được Chúa trọng thưởng.
B.... nẩy mầm.
1. Thú thật Lời Chúa mấy ngày nay khiến con rất sợ: để đón nhận Tin Mừng của Chúa, con phải hy sinh và từ bỏ rất nhiều; khi làm tông đồ của Chúa, con cũng sẽ đương đầu với biết bao khó khăn và đau khổ. Con hiểu được tại sao nhiều người không kiên trì sống đức tin, và nhiều người ngại làm tông đồ cho Chúa. Con cũng sẽ đào ngũ chăng? Con cũng sẽ nản lòng chăng? Thật tình con không muốn thế bao giờ. Xin cho con được kiên trì và can đảm.
2. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”: hiện giờ con đang yêu những gì hơn Chúa? Xin cho con sức mạnh dám từ bỏ những thứ đó để con xứng đáng hơn với Chúa.
3. “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng đáng với Thầy”: xin cho con biết thập giá hiện nay của con là gì, và xin thêm sức để con vác nổi thập giá ấy.
4. Một thiếu nữ trẻ đẹp, con nhà quyền quý muốn nhập vào một dòng tu rất khắc khổ. Để thử thách ơn gọi của cô, Mẹ Bề trên vẽ lên một bức tranh đáng sợ về những đòi hỏi khắc khe của tu viện. Nghe xong, cô bé có vẻ lung lay và im lặng. Một lúc sau Mẹ bề trên hỏi:
- Con không nói gì ư?
- Thưa mẹ con chỉ có một câu hỏi: trong nhà dòng này có nhiều cây Thánh giá không?
- Ồ, khắp nơi trong nhà, chỗ nào cũng có cây Thánh giá.
- Vậy thì thưa mẹ, con hy vọng sẽ không gặp gì khó khăn cả, bởi vì ở mọi nơi và trong mọi giây phút, con đều có Thánh giá bên cạnh. Con có thể chịu đựng tất cả. (Góp nhặt)
5. “Ai giữ lấy mạng sống mình thì mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39)
Kìa một em bé! Đúng rồi, một em bé! Làm thế nào để cứu em bây giờ? Hàng chục cặp mắt đang dõi theo em với đầy vẻ lo lắng và thương xót. Bỗng từ trên thành cầu, một bóng người lao vội xuống cố nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của em đang quờ quạng giữa khoảng không tưởng như vô vọng… Em bé đã được cứu sống! khoảnh khắc quá mỏng manh giữa cái chết và sự sống.
Câu chuyện đã xảy ra vào một buổi chiều tháng năm cách đây gần một năm… như một luồng sáng chiếu vào cõi lòng vốn vị kỹ của tôi, và tôi đã hiểu một tình yêu cao cả đòi hỏi một sự dấn thân quên đi chính mạng sống mình để cứu lấy mạng sống người khác. Tình yêu đó chính là tình yêu mang tên Giêsu.
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu thế nào là mầu nhiệm “tự huỷ” của Ngài, để luôn biết quảng đại dấn thân cứu sống người anh em mà không sợ đau thương hay nguy hiểm. (Hosanna)
6. Trong cuốn phim “American Anthem” có hai cảnh trái ngược hẳn nhau như sau:
- một thanh niên kia bị tai nạn và phải cưa mất một chân. Anh không thể nào chấp nhận thực tế đó. Anh ở miết trong phòng, kéo rèm che kín các cửa sổ, cấm không cho ai vào phòng, và ở đó mà rầu rỉ.
- Còn Robert Bruce thì một hôm đang đi trên đường phố bỗng nghe ai đó cất tiếng hát vang rất vui vẻ. Khi nhìn kỹ thì ra đó là một người cụt hết cả hai đang ca hát trên chiếc xe lăn.
Trong hai người đó, một người không chấp nhận thập giá đời mình nên phải u sầu thất vọng, còn người kia biết chập nhận nên đã tìm thấy niềm vui.
Thập giá nào trong đời bạn mà bạn thấy không chấp nhận nhất? (Mark Link, Vision 2000)
7. “Con cám ơn Chúa vì sự tàn phế của con, vì nhờ đó con đã tìm gặp chính bản thân con, công việc của con và Đức Chúa của con” (Helen Keller)
39. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái – Sợi Chỉ Đỏ
Chủ đề: Chia xẻ thân phận của Đức Kitô - Thái độ tiếp đón
- Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18): "Người đến trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa"
- Đáp ca (Tv 88): "Tôi sẽ ca ngợi tình thương Chúa đến muôn đời"
- Tin Mừng (Mt 10,37-42): "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó" - "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"
- Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ): "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
Sợi chỉ đỏ:
Lời Chúa hôm nay có hai chủ đề:
1. Chủ đề tiếp đón: được diễn tả qua chuyện một gia đình miền Sunam cho ngôn sứ Êlisê đến trọ tại nhà (Bài đọc I), và phần thứ hai của bài Tin Mừng: "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"
2. Chủ đề chia xẻ thân phận của Đức Giêsu: được diễn tả qua phần đầu của bài Tin Mừng: "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó", và bài đọc II: "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
Minh họa
- "Ai cho một trong những kẻ bé mọn dù chỉ một ly nước lã, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mt 10,42)
I. Dẫn vào Thánh lễ
- (Nếu chọn chủ đề I): Anh chị em thân mến
Trong xã hội thời nay, người ta thường sống theo kiểu chủ nghĩa cá nhân: mạnh ai nấy lo, sống chết mặc bây, đèn nhà ai nhà nấy sáng. Kết quả của lối sống này là một xã hội thiếu vắng tình thương, ích kỷ, thờ ơ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta biết quan tâm tới người khác, yêu thương người khác và tiếp đón người khác như tiếp đón chính Chúa.
- (Nếu chọn chủ đề II): Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay trình bày một nghịch lý: "Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất; Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó".
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu được chân lý lạ lùng đó, và nhất là dám liều mạng sống vì Chúa, để được chia sẻ sự sống của chính Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta rất thờ ơ với những anh chị em sống chung quanh chúng ta.
- Chúng ta coi thường những người nghèo nàn, thất học và không có địa vị.
- Chúng ta ít khi hy sinh vì Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18)
Tường thuật câu chuyện giữa ngôn sứ Êlisê và một phụ nữ xứ Sunam:
- Trên đường sứ mạng, ngày kia Elisê đến vùng Sunam
- Ở đấy, một phụ nữ đã mời Ông vào nhà dùng bữa. Sau đó bà còn nói với chồng mình rằng Elisê là một vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà còn dọn sẵn cho Elisê một căn phòng có đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào ngôn sứ cũng có thể đến trú ngụ.
- Đáp lại lòng tốt của vợ chồng này, ngôn sứ Elisê đã làm phép lạ giúp họ đang son sẻ mà có được một đứa con trai đầu lòng. (Sau này đứa con ấy chết, Elisê lại làm phép lạ cho nó sống lại).
2. Đáp ca (Tv 88)
Tv này ca ngợi tình thương của Chúa. Tác giả còn nguyện sẽ ca ngợi như thế mãi tới muôn đời.
3. Tin Mừng (Mt 10,37-42)
Có thể chia đoạn Tin Mừng này thành 2 phần:
- Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ: Nếu muốn làm môn đệ xứng đáng của Ngài thì phải từ bỏ rất nhiều: tình yêu gia đình, mạng sống; và còn phải sẵn sàng vác thập giá mình mà đi theo Ngài.
- Phần sau (các câu 40-42) dạy về sự tiếp đón: ai tiếp đón các sứ giả Tin Mừng thì được coi như là tiếp đón chính Đức Giêsu, thậm chí là tiếp đón chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Đức Giêsu đến; ai tiếp đón một kẻ bé mọn thì cũng được phần thưởng.
4. Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ)
Văn mạch: Phaolô đang đưa ra những lập luận để chứng minh rằng người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Đoạn tuần trước là lập luận thứ nhất: con người đã mất ơn nghĩa với Thiên Chúa do tội của Adam, nhưng con người lại được ơn nghĩa nhờ cái chết của Đức Giêsu Kitô. Cho nên muốn được ơn nghĩa thì phải tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đoạn tuần này đưa ra lập luận thứ hai: muốn được ơn nghĩa với Thiên Chúa thì phải liên kết với Đức Giêsu bằng phép rửa:
- Chịu phép rửa nghĩa là cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
- Như thế, kẻ đã lãnh nhận phép rửa hãy dứt khoác chết cho tội lỗi để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Những nét đẹp của sự Tiếp đón
Thánh Kinh ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương: 1/ Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18); 2/ Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Elisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Elisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I); 3/ Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
Qua những chuyện trên, chúng ta hãy tìm hiểu thêm hai vấn đề:
1/ Tại sao những chủ nhà ấy quảng đại tiếp đón khách? Thưa vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác: Abraham lo cho 3 người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy lại sức; gia đình ở Sunam lo sợ ngôn sứ Elisê phải bơ vơ tứ cố vô thân ở một miền đất lạ; gia đình Bêthania thì muốn Đức Giêsu và các môn đệ được nghỉ ngơi sau một thời gian mệt mỏi vì công việc rao giảng Tin Mừng. Trong hai chuyện sau, còn một lý do nữa, là những chủ nhà ấy ý thức rằng những người khách mà mình tiếp đón là sứ giả của Thiên Chúa.
2/ Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì? Là sự sống: hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón:
- Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
- Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta: Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.
2. Chúa Giêsu là số mấy?
Phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay đặt vấn đề: người môn đệ của Đức Giêsu đặt Ngài ở số mấy trong đời họ?
Bình thường, người ta coi bản thân là số một, vợ chồng số hai, gia đình số ba, thân nhân số bốn… Chúa thì có lẽ cao lắm cũng chỉ từ số năm trở xuống.
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kể ra những người dành cho Chúa vị trí số hai:
- một là cha mẹ, hai là Chúa
- một là con cái, hai là Chúa
- một là mạng sống mình, hai là Chúa
Được xếp ở vị trí số hai như thế cũng là được coi trọng lắm rồi. Nhưng Đức Giêsu vẫn không chịu. Ngài nhất quyết đòi vị trí số một: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy; ai yêu mến con trai con gái hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy"; Ngài còn đòi chúng ta phải dám mất mạng sống vì Ngài nữa!
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: phần tôi, tôi xếp Chúa vào vị trí số mấy?
3. Nhiều loại từ bỏ
Có nhiều loại từ bỏ:
- Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.
- Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.
- Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.
Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào?
- Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.
- Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.
- Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như: tội lỗi, thói xấu, dịp tội.
4. Hai chi tiết quan trọng trong bài Tin Mừng
Trong bài Tin Mừng này, có hai chi tiết mà nếu ta không dừng lại tìm hiểu kỹ thì sẽ để vuột mất những ý nghĩa rất sâu sắc:
- Câu 38 (quyển Bài đọc ấn bản 1970 bỏ sót không in câu này) "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy": Theo cách xử tử của Rôma, người bị kết án tử đóng đinh thập giá phải tự vác lấy thập giá của mình (chỉ vác thanh ngang, còn thanh dọc để sẵn ở pháp trường) đi ra pháp trường. Vì thế, kiểu nói "vác thập giá mình" có nghĩa là bị kết án tử. Do đó, câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là ai muốn xứng đáng làm môn đệ đi theo Chúa thì phải chấp nhận thân phận mình như là người đã bị kết án tử.
- Câu 39 "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó": chữ hy lạp psyche có nghĩa rất rộng, chỉ "lòng", "trí", "tim", tổng quát là cả "cuộc sống", toàn thể "con người". Như thế, "đành mất mạng sống" có nghĩa là dám mất tất cả. Và như vậy thì kiểu nói này cũng đồng nghĩa với ý tưởng coi mình như người đã bị kết án tử mà ta vừa phân tích ở trên.
5. Những bài toán
Thông thường người ta thích làm toán cộng và toán nhân, nghĩa là cứ muốn có thêm và có thêm thật nhiều thật nhanh.
Nếu ta đọc kỹ lại những lời Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ thì thấy Ngài dạy ta làm hai bài toán khác, đó là toán trừ và toán chia: làm toán trừ là từ bỏ, làm toán chia là bố thí, chia xẻ, phân phát cho người khác.
Tuy làm toán trừ và toán chia thì ta sẽ bị mất mát. Nhưng chính Thiên Chúa sẽ đích thân làm toán cộng và toán nhân cho ta: "Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà bây giờ ngay ở đời này lại không nhận được… gấp trăm… và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" (Mc 10,29-30).
6. Chuyện minh họa
a/ Tiếp đón
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: "Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì". Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. "Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông". Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. "Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh". Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: "Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta".
b/ Mất và được
Tái ông thất mã: Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn nàn cho sự rủi ro. Ông đáp: "Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may." Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn. Ông nói: "Chưa hẳn được ngựa là may đâu." Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được. (Trích "Phúc")
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Muốn dấn thân theo Chúa Giêsu, người kitô hữu phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Người. Với quyết tâm bước theo Chúa đến cùng, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Hội Thánh dùng Lời Chúa để giáo dục đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết lắng nghe lời giáo huấn của Hội Thánh / để nhờ đó mà đức tin ngày càng trưởng thành hơn.
2. Đời sống thường ngày cho chúng ta thấy có một số người chỉ thích sống an nhàn / chỉ lo hưởng thụ mà không thích nghe đề cập đến hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lúc nào cũng có nhiều người quảng đại / sẵn sàng phục vụ những người bất hạnh nhất của xã hội.
3. Tận tình giúp đỡ những người đang gặp hoạn nạn / những nạn nhân của thiên tai / những người mắc bệnh nan y / những người mất hết niềm hy vọng để vui sống / là nghĩa vụ của những người tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu biết cố gắng thực hiện lời dạy của Thánh Phaolô / "vui với người vui, khóc cùng người khóc".
4. Hết lòng nâng đỡ / và chân thành cộng tác với các mục tử trong sinh hoạt của giáo xứ / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết rộng rãi giúp đỡ / và tích cực cộng tác với các Linh mục trong việc mục vụ thường ngày.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trải qua con đường đau khổ rồi mới bước vào vinh quang. Xin cho chúng con hiểu rằng: nếu muốn được chia xẻ vinh quang thiên quốc với Chúa, chúng con cũng phải đi qua con đường thập giá, con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ, nhưng chính là con đường dẫn đưa đến sự sống bất diệt. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy nhớ rằng những người sống chung quanh chúng ta cũng là anh chị em cùng một Thiên Chúa là Cha như chúng ta. Vậy chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta yêu thương và tiếp đón những anh chị em ấy.
VII. Giải tán
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta sống với người khác bằng thái độ tiếp đón, và sống với Chúa bằng cách coi Chúa trọng hơn tất cả mọi người và mọi sự. Chúng ta hãy ra về và cố gắng sống như thế.
40. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Thiên Chúa yêu thương ta nên trao nộp Con Một Người cho ta. Nhưng Người vẫn để cho ta được tự do đón nhận quà tặng vô giá ấy. “Khi thời gian tới hồi viên mãn”, Chúa Giêsu Kitô đến với ta như vị Ngôn Sứ tối cao của thời Tân Ước, chỉ dạy cho ta đường đi tới sự sống vĩnh cửu. Ta phải đón nhận Người như thế nào, đó là cốt lõi của đời sống Kitô hữu và cũng là đề tài của Lời Chúa hôm nay.
1. Tiếp đón “người của Thiên Chúa” (bài đọc Cựu Ước – 2 V 4:8-11.14-16a)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định: “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ” (Mt 10:41). Câu truyện người phụ nữ tại Su-nêm đón tiếp ngôn sứ Ê-li-sa đã minh chứng cho lời nói trên của Chúa. Bà là người giàu có trong thành. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhưng chỉ tiếc một điều là ông bà đã lớn tuổi mà không có con. Ngôn sứ Ê-li-sa đã được gia đình bà tiếp đãi ân cần và kính trọng, đến độ họ làm thêm một căn phòng đặc biệt để ngài có chỗ nghỉ ngơi mỗi lần đi qua Su-nêm. Trước lòng tốt của người phụ nữ ấy, ngôn sứ Ê-li-sa muốn làm một điều gì đó để trả ơn. Ngài hỏi bà muốn điều gì, nhưng bà đều từ chối. Đối với bà, đón tiếp vị ngôn sứ, người của Thiên Chúa, là một bổn phận và một vinh dự, chứ không phải là việc có qua có lại. Tiểu đồng Giê-kha-di đi theo ngôn sứ là người tinh tế, nhận ra được nỗi khổ tâm của bà vì không có con. Hai ông bà mong có được một đứa con trai, nhưng điều ấy chỉ có quyền năng Chúa mới giúp họ toại nguyện. Theo đề nghị của tiểu đồng, Ê-li-sa đã cầu xin Chúa ban cho bà một mụn con. Ngôn sứ nói với bà trước khi lên đường: “Vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”. Quả thực, bà đã sinh được một đứa con trai. Nhưng ít năm sau, đứa nhỏ bị bạo bệnh và chết. Nghe tin, ngôn sứ Ê-li-sa đã đến cầu nguyện và làm cho em được sống lại.
Lòng tốt và kính trọng của người phụ nữ Su-nêm đối với vị ngôn sứ đã được ân thưởng. Ân thưởng là việc Chúa làm. Người đã ban cho bà được thoát khỏi nỗi đau khổ ray rứt vì không có con trai. Đứa con là sự tiếp nối sự sống của bà mẹ, là đời sống mới phát sinh từ sự sống của người mẹ. Do đó, ngôn sứ Ê-li-sa cầu xin Chúa ban cho bà một đứa con là ngài giúp cho bà được tiếp tục sống và sống đời sống mới. Ý nghĩa này có thể giúp ta hiểu được lời Chúa hứa với những ai đón nhận Con Một Thiên Chúa: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người (Ngôi Lời), thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12).
2. “Ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (bài Tin Mừng – Mt 10:37-42)
Đón tiếp một vị ngôn sứ thôi mà người phụ nữ Su-nêm đã được ân thưởng hơn cả lòng mong ước của bà, huống chi là khi ta đón tiếp Đức Kitô, Đấng Cứu Độ được Chúa Cha sai đến trần gian. Ngôn sứ chỉ là vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để mang lời Người đến cho dân Chúa. Còn Đức Kitô, Người không chỉ nói thay cho Thiên Chúa, mà Người là chính Lời của Thiên Chúa nói với ta (Dt 1:1). Do đó, việc đón nhận Người mang tính cách tuyệt đối đến nỗi không những ta chủ động đón nhận Người, nhưng là ta còn phải bỏ mọi sự mà “theo Thầy” và sẵn sàng “liều mất mạng sống vì Thầy” (Mt 10:37-38).
Chúa Giêsu đặt việc “đón tiếp Thầy” vào một tương quan rộng lớn và trọn vẹn nhất, đó là tương quan “anh em – Thầy – và Đấng đã sai Thầy”. Thực vậy, Người được sai đến để làm Con Yêu Dấu liên kết tất cả nhân loại thành một đoàn em đông đúc của Người và đưa họ về với Chúa Cha. Người là gạch nối giữa mọi người với nhau và giữa mọi người với Thiên Chúa. Sự liên kết chặt chẽ ấy nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ trong một tương quan hoàn hảo giữa ba thành phần: Thiên Chúa, Đức Kitô và nhân loại. Nói khác đi, ta được Thiên Chúa cứu độ nhờ Đức Kitô và cùng với anh chị em. Ta đón nhận nhau là ta đón nhận Chúa, ta đón nhận nhau là ta được cùng một phần thưởng với anh chị em đón nhận ta. Như thế, dù ta là “ngôn sứ” hay ta là “người công chính”, thì ta cũng đều nhận được cùng một phần thưởng là ơn cứu độ. Ta là giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân thì hết thảy ta sẽ lãnh nhận cùng một phần thưởng là ơn cứu độ nếu ta biết đón nhận Đức Kitô.
Ta sẽ hỏi: vậy tôi đón nhận Chúa như thế nào? Câu trả lời của Chúa là ta đón nhận anh chị em là ta đón nhận chính Chúa. Chúa Giêsu đã nói lên tương quan đón nhận ấy qua một thí dụ cụ thể: là môn đệ Chúa, nếu ta chỉ cần cho một em nhỏ uống một chén nước lã thôi là ta làm cho chính Người và sẽ được ân thưởng. Thí dụ đơn sơ ấy cho thấy việc đón nhận Chúa cần phải được thể hiện cụ thể qua cuộc sống hằng ngày. Một em nhỏ và một chén nước lã biểu tượng cho những gì nhỏ bé tầm thường trong cuộc sống. Đón nhận Chúa là một hành vi đức tin được thực hiện qua những đối xử nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày. Nhưng nếu ta làm thì chắc chắn không mất phần thưởng và phần thưởng sẽ to lớn hơn cả điều ta mong ước, giống như người phụ nữ Su-nêm đã được vậy.
3. Sống đời sống mới: một phương thức đặc biệt để đón nhận Đức Kitô (bài đọc Tân Ước – Rm 6:3-4.8-11)
Đón nhận Chúa Kitô qua những hành vi nhỏ mọn trong cuộc sống hằng ngày là những cách cụ thể. Tuy nhiên, những cách này được thực hiện là nhờ ta có một nền tảng đón nhận được xây dựng trên tương quan giữa Chúa Kitô và ta, là sống chết với Người, “được mai táng với Người” và “sống một đời sống mới”. Thánh Phao-lô nhìn cuộc sống của ta dưới hai khía cạnh: chết đi đối với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên có không phải là hai điều khác biệt không ăn nhập với nhau, trái lại là hai điều ngược nhau của cùng một thực thể. Thí dụ ta có một bình đựng nước. Nếu ta bỏ đầy sỏi đá vào trong bình, bình sẽ chứa được ít nước thôi. Nhưng nếu bình hoàn toàn rỗng, bình sẽ chứa được đầy nước. Đời sống đức tin của ta cũng vậy. Nếu ta càng loại trừ đi tội lỗi thì Chúa càng đầy ắp trong linh hồn ta. Sau khi ta “được dìm vào trong cái chết của Chúa Kitô và được mai táng với Người”, nghĩa là sau khi ta được chịu phép Rửa tội, ta liền có được một đời sống mới. Bí tích Rửa tội là dấu chỉ của khởi đầu một cuộc sống mới. Nhưng muốn làm phát triển đời sống mới này, ta phải tiếp tục tiến trình chết đi cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
Chết đi cho tội lỗi là lối sống đi ngược lại lối sống của người đời, tức lối sống cho tội lỗi. Đúng vậy, người đời sống cho tham vọng, cho thù hận, cho tiền của và nhục dục. Đó là những lẽ sống của họ nên họ làm đủ cách để đạt được những thứ ấy, kể cả việc sử dụng những phương tiện xấu xa như lừa gạt hay bạo lực. Tội lỗi chỉ lôi kéo được những ai muốn sống cho nó mà thôi. Còn những ai đã chết rồi đối với nó, tức là không đi theo con đường của nó, thì nó chẳng thiết tha gì.
Sống cho Thiên Chúa trong Đức Kitô là sống theo đúng gương mẫu của Đức Kitô. Vậy Đức Kitô đã sống cho Thiên Chúa như thế nào? Lẽ sống của Người là “thi hành thánh ý Chúa Cha”, chu toàn sứ mệnh cứu độ trần gian. Người thực hiện tất cả những gì Kinh Thánh đã nói về Người. Người hoàn tất sứ vụ rao giảng Tin Mừng, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau hết, Người chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá để đền tội nhân loại. Lối sống cho Chúa của Đức Kitô là sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ nhân loại. Tình yêu là động lực của mọi hoạt động, cho nên Người mới làm được cả những việc sức loài người không làm nổi, thí dụ yêu thương và tha thứ kẻ thù, chấp nhận chết thay cho ta là những kẻ tội lỗi. Hơn thế nữa, vì thực hiện lý tưởng sống cho Chúa, Đức Kitô đã được sống lại từ cõi chết để đem lại sự sống đời đời cho tất cả những ai theo gót Người mà phụng thờ Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.
4. Sống Lời Chúa
Đón nhận Chúa Kitô là việc đưa ta vào một hành trình đức tin với những hy sinh và mất mát đời này. Đón nhận Chúa Kitô không chỉ dừng lại ở việc ta lãnh Bí tích Rửa tội làm con cái Chúa, nhưng đưa ta vào một cuộc sống mới theo khuôn mẫu Đức Kitô. Người là Thầy, còn ta là môn đệ. Kim chỉ nam để ta sống cuộc sống mới cho đúng nghĩa, đó là ta luôn nhớ mình phải làm mọi sự với danh nghĩa là môn đệ đích thực của Đức Kitô. Do đó, nếu ta nói một đàng làm một nẻo là ta đã phản bội danh nghĩa môn đệ đích thực mất rồi. Đời sống mới của ta có hai mặt, một đàng là mến Chúa và đàng khác là yêu người. Quả thực, không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn trên!
Suy nghĩ: Lý tưởng sống đức tin của tôi không đòi phải làm những điều trọng đại, nhưng là những việc làm nhỏ nhặt hằng ngày, thí dụ “cho một trong những kẻ bé nhỏ uống một chén nước lã”. Vậy đối với cuộc sống tôi, ai là “những kẻ bé nhỏ” tôi phải phục vụ và “chén nước lã” tôi phải cho là những gì? Tôi có đón nhận Chúa theo phương cách đó không? Tại sao?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dủ lòng thương nhận chúng con làm nghĩa tử để chúng con trở thành con cái ánh sáng; xin đừng để chúng con sa vào cảnh tối tăm lầm lạc, nhưng gìn giữ chúng con luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 13 mùa Thường niên).
41. Sự hiếu khách và con Thiên Chúa
Sự hiếu khách là một đức tính tốt đẹp mà đôi khi nó dẫn đến nhiều ngạc nhiên và sinh ra những kết quả không ngờ. Trong bài đọc I, người đàn bà xứ Shunem chứ không phải người Israel. Dù người Shunem thường bị người Israel khinh miệt, coi họ như dân ngoại, bà ta đã nhận biết tiên tri Êlisêô là một vị thánh. Bà đã thuyết phục được chồng bà để tỏ lòng hiếu khách với người của Thiên Chúa, vị tiên tri đã chấp nhận sự hiếu khách này với một sự ngạc nhiên. Phần thưởng bất ngờ mà người đàn bà được là một năm sau bà hạ sinh được một cậu bé trai, và bà vui sướng với phần thưởng đó trong một thời gian dài.
Đoạn văn này đã báo trước lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc âm: “Người nào tiếp đón một tiên tri mang danh là tiên tri thì nhận phần thưởng của một tiên tri”. Phần thưởng của người đàn bà xứ Shunem là đứa bé trai, đứa con do chính máu huyết của bà sinh ra. Chúa Giêsu đã nói với mọi người: “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy”. Khi chúng ta tỏ ra hiếu khách với tha nhân, chúng ta cũng sẽ nhận được một bé trai, nhưng không phải do máu huyết của chúng ta sinh ra. Chúng ta lãnh nhận người Con đời đời của Chúa Cha. Khi chúng ta đến với tha nhân là chúng ta đến với chính Đức Kitô.
Thánh Martin thành Tour là một mẫu gương. Ngài thường được xem là con người đầu tiên được tôn kính như một vị thánh mà không phải do tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc mà cuộc bách hại đạo đang đến hồi chấm dứt. Chưa có ai được những thiện nam tín nữ kính trọng như một vị thánh trong Giáo hội sơ khai trước đó như ngài, những người đã chết giống như Đức Kitô và vì Đức Kitô. Bây giờ điều quan trọng là bắt đầu chuyển đến sống vì Đức Kitô và để yêu mến Đức Kitô.
Khoảng đời của thánh Martin đã nêu cao chân lý yêu thương tha nhân là thật sự yêu thương Đức Kitô. Trong lúc thánh Martin đang còn là một người đang học giáo lý theo đạo và đang phục vụ trong quân đội, ngài đang thi hành phiên gác trong một đêm đông giá lạnh thì gặp một người nghèo khổ đang run rẩy vì quần áo của ông ta như một mớ giẻ rách, đứng trước mặt ngài. Thánh nhân liền cởi chiếc áo choàng của mình, rút gươm cắt chiếc áo choàng ra làm hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ đó. Sau đó, trong lúc ngủ, Martin nằm mơ thấy Đức Kitô khoác mảnh áo khoác mà ngài đã cho người ăn xin. Ngài nghe Đức Kitô nói: “Hỡi Martin, tuy con mới học giáo lý để theo đạo, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.
Đoạn văn trên đã minh họa phần cốt yếu của đức tin chúng ta về Đức Kitô. Là những người công giáo, chúng ta tin rằng Đức Kitô hiện diện trong từng lời Thánh Kinh và Người nói với chúng ta khi Lời Chúa được tuyên đọc trong nghi thức phụng vụ. Chúng ta tin rằng Đức Kitô đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể và trên bàn thờ khi chúng ta cử hành sự chết và sự phục sinh của Người. Cùng với những xác tín trên chúng ta phải tin rằng Chúa Kitô đang hiện diện nơi mọi người, khi chúng ta phục vụ tha nhân là chúng ta phục vụ Người, và khi chúng ta phớt lờ người khác là chúng ta phớt lờ chính người. Chúng ta phải có một đức tin bao gồm nơi thực tại của Đức Kitô, nơi Lời Chúa, nơi bí tích Thánh Thể và nơi mọi người. Phụng vụ không phải là một sự sùng kính riêng tư, một quan hệ cá nhân giữa Thiên Chúa với một người nào đó. Đó là sự diễn tả của Giáo hội, trong một thân xác và một tinh thần trong Đức Kitô. Sự hợp nhất trong Đức Kitô phải chuyển động cách sống của chúng ta.
Khi chúng ta đến với những người không nhà, những người đói khát, chúng ta phải nhận ra Đức Kitô ở trong họ. Khi chúng ta để ý đến những bà mẹ trẻ, cô độc đang mang thai, những người cần chúng ta chăm sóc, chúng ta phải thấy Đức Kitô trong họ. Khi chúng ta nhận ra những ngoại kiều, ủng hộ hay chống đối chúng ta đang ở giữa chúng ta, chúng ta phải biết rằng Đức Kitô cũng là một người ngoại quốc. Và chúng ta phải hành động theo lời dạy của Chúa. Chúng ta phải luôn luôn tiếp đón Đức Kitô và đừng ngoảnh mặt đi. Những người công giáo phải ngạc nhiên nếu mình không hiếu khách. Sự tử tế sẽ là một diễn tả đích thực của đức tin chúng ta.
42. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
THIÊN CHÚA KHÔNG THUA LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA CON NGƯỜI
Tại một Tòa Giám Mục miền bắc Việt Nam, trong khuôn viên Tòa Giám mục, có một khẩu hiệu rất đặc biệt, đó là: “Mỗi vị khách là một Đức Giêsu”. Ấn tượng hơn nữa là cung cách của vị Giám Mục và nhiều nhân viên trong đó đã để lại cho người đến thăm nhiều cảm xúc qua cách đón tiếp mang đậm chất Kitô.
Khi ra về, nhiều người đã không ngớt lời khen ngợi tấm lòng hiếu khách, chân tình và đơn sơ của Đức Giám Mục và những người ở nơi đây.
Tại sao nơi đó lại có cung cách đối đãi tốt như vậy? Thưa, bởi vì nơi đó đã thấm đượm bài học của chính Đức Giêsu dạy: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay sẽ lần lượt làm sáng tỏ nhằm giúp chúng ta hiểu tâm tình trên.
1. Lời Chúa
Khởi đi từ bài đọc 1, tác giả sách các Vua kể về sự kiện tiên tri Êlisê được một phụ nữ người Sunam đón tiếp rất thịnh tình khi ông và tiểu đồng đi ngang qua đây.
Người phụ nữ này là người thuộc giới thượng lưu trong thành. Gia đình giàu có. Đời sống vợ chồng rất ấm êm. Tuy nhiên, có một nỗi khổ tâm quá lớn đối với vợ chồng bà, đó là ông bà đã lớn tuổi mà không có con.
Nguyện vọng của ông bà là mong sao được Chúa thương nhận lời cho mình mụn con để nối dòng.
Được tiếp đãi tử tế và rất thân tình, tiên tri Êlisê nghĩ đến ân nghĩa, nên trước khi rời khỏi nơi ấy, ông đã ngỏ ý muốn trả ơn vì những điều mà gia đình đã làm cho ông cũng như tiểu đồng.
Tuy nhiên, bà chủ đã hoàn toàn khước từ, bởi bà luôn nghĩ rằng: “Người đến trọ nhà mình là một vị thánh”. Vì thế, khi đón tiếp Ngài là đón tiếp người của Thiên Chúa. Vì thế, không lẽ lại sòng phẳng như “hòn đất ném đi, hòn trì ném lại???” Vì thế, dù nói thế nào, bà đều từ chối không hề nhận bất cứ thứ gì mà vị tiên tri đáp lễ.
Thấy được tấm lòng chân thành ấy, Êlisê cũng áy náy! Tuy nhiên, khi được tiểu đồng mách cho biết nguyện vọng của ông bà là muốn có một người con để nối dõi tông đường cũng như tránh đi sự tủi nhục.
Thấy được sự khao khát chính đáng, Êlisê đã cầu nguyện và chúc phúc cho hai ông bà và nói tiên tri: “Vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”. Sau đó tiên tri Êlisê lên đường. Đúng như điều đã nói, bằng rầy sang năm, ông bà đã có một người con trai.
Tuy nhiên, niềm vui chỉ được ít lâu, vì chỉ vài năm sau, thằng bé bị bệnh và qua đời.
Khi nghe tin ấy, tiên tri Êlisê đã không ngớt cầu xin Chúa cho con bà được sống lại, và Chúa đã nhận lời. Đứa trẻ đã sống lại để sống một cuộc sống mới trong ân sủng và tình thương của Thiên Chúa.
Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy: Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của con người. Nếu chúng ta rộng tay làm phúc cho Chúa hay những người cần đến sự giúp đỡ của chúng ta với lòng mến, thì chắc chắn Chúa sẽ trả ơn gấp bội.
Sang bài đọc 2, thánh Phaolô đi xa hơn để cho thấy nền tảng và nguồn gốc của sự sống mới chính là Đức Giêsu, Đấng đã sống cuộc sống như ta, đã chết và đã sống lại vì nhân loại. Ngài nói: “Nếu ta cùng chết, cùng được mai táng với Ngài, thì ta cũng có được một đời sống mới như Ngài”.
Nếu trước kia, tâm hồn chúng ta đầy rãy những tội lỗi, bon chen, ích kỷ, hận thù, kiêu ngạo và thiếu tinh thần bác ái, thì khi ta được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, nghĩa là ta được dìm mình vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của Đức Giêsu Kitô. Từ đó, con người của ta được biến đổi và được mặc lấy sự sống mới trong Ngài.
Thật vậy, nếu chết đi cho tội là loại bỏ những ích kỷ, tham vọng, nhục dục, thù hận, ghét ghen, vô cảm, vô tâm, dửng dưng, thì sống một đời sống mới trong Đức Giêsu Kitô là biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; biết yêu thương, tha thứ, nhân từ, cảm thông, liên đới, quảng đại, dấn thân vì người nghèo…, bởi vì những thứ đó thuộc về phẩm chất của Thiên Chúa và chúng ta được mời gọi loan truyền tình thương của Ngài qua những hành vi đó.
Đỉnh cao của phụng vụ Lời Chúa hôm nay là bài Tin Mừng.
Như một lời hiệu triệu, Đức Giêsu đã nói về sự liên đới giữa Ngài với ta, giữa ta với Ngài và Thiên Chúa Cha trong một đường dây bác ái. Ngài nói: “Ai đón tiếp một trẻ nhỏ…là đón tiếp Thầy…ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy…”. Mối liên hệ này cho thấy sự khăng khít và giao hảo giữa ba thành phần: Thiên Chúa - Đức Kitô và nhân loại. Nói khác đi, ta được Thiên Chúa cứu độ nhờ Đức Kitô và cùng với anh chị em.
Chính vì thế mà Đức Giêsu đã đặt trọng tâm của sự liên kết này qua người nghèo và mời gọi người môn đệ hãy làm cho mối liên hệ này được trở nên sống động hơn.
Như vậy, qua 3 bài đọc, chúng ta thấy có một chủ đề xuyên suốt, đó là: nếu ta rộng lòng quảng đại giúp đỡ những người khó khăn, bần cùng trong tâm tình mến yêu Chúa và anh chị em, ta sẽ được Thiên Chúa trọng thưởng ở ngay đời này và cả đời sau. Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của chúng ta. Ngược lại, Người sẽ trả công hậu hĩnh đến không ngờ.
2. Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan với Thiên Chúa cách sống động.
Hành trình này có thể được ví như một hành trình đức tin. Đức tin ấy được chứng minh bằng những việc thực thi đức ái, từ bỏ tội lỗi để sống cho Thiên Chúa.
Chúng ta không thể nói rằng: đức tin của tôi chỉ cần được ghi trong sổ Rửa Tội; đức tin của tôi cũng chỉ cần ở trong nhà thờ; hay đức tin của tôi chẳng cần phải tỏ lộ ra bên ngoài.
Không! Nói như thế là tự mâu thuẫn, không nền tảng và vu vơ, chẳng khác gì người xây nhà mình trên nền cát, bởi vì: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 26. ); hay như thánh Gioan nói: “Người anh em chúng ta nhìn thấy mà không yêu mến, thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Đấng ta không thấy?” (x. 1 Ga 4, 20)
Đức tin mà chúng ta được đón nhận phải đưa chúng ta vào trong sự sống mới của Đức Kitô, mà sự sống mới của Đức Kitô chính là vâng lời Chúa Cha tuyệt đối và yêu con người đến cùng.
Như vậy, nếu ta nói mình là môn đệ, là người thuộc về Đức Kitô mà ta không lắng nghe Lời Chúa, hay lắng nghe xong rồi bỏ, hoặc nghe một đàng làm một nẻo… thì chúng ta không khác gì hạt giống gieo bên vệ đường, bụi gai, sỏi đá.
Hay nếu nói là người đi theo Chúa, mà ta không mang trong mình tâm tư của Chúa, đó là từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, liên đới, nhất là thi hành bác ái dối với người nghèo, bảo vệ người cô thế cô thân, bênh vực cho công bằng, sống sự thật… thì chúng ta có khác gì những Pharisêu giả hình thời xưa đâu?
Mong sao, Lời Đức Giêsu dạy khi xưa: "Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40), sẽ được chúng ta ý thức và mau mắn thi hành trong lòng mến, để sau này, chúng ta được Thiên Chúa trọng thưởng trên Thiên Đàng.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương anh chị em chúng con bằng tình yêu chân thành và đầy lòng mến. Xin cũng ban cho chúng con biết sống xứng đáng là con cái Chúa khi chúng con biết đi theo đường lối của Thiên Chúa trong ánh sáng và chân lý. Amen.
43. Suy niệm của Lm Augustine, SJ.
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Lũ trẻ từ bỏ mình vì yêu Hài Nhi Giêsu
Ðó là một buổi chiều mùa đông tuyết phủ đầy mặt đất, bốn đứa trẻ của gia đình ông bà Mặc Ðăng Nghinh (Mc Donald) bị bó cẳng, không ra ngoài chơi được, nên cãi lộn, trêu chọc và phá hỏng đồ chơi của nhau. Chúng làm thế chỉ vì hiếu động nhưng cũng có màn gay cấn. Chẳng hạn, từ phòng khách bà mẹ nghe rõ mồn một:
- Con mụ kia! Của tôi mà!
- Không phải đâu anh "phệ"! Tôi dành được trước mà.
Giáng sinh mới qua có mấy ngày mà lũ trẻ đã om sòm cãi nhau về những đồ chơi chúng nhận được vào dịp lễ.
Bà Nghinh sực nghĩ tới một sáng kiến để giúp bọn trẻ thực sự sống ơn bình an và hoà giải mà Chúa Giáng sinh mang lại. Nhiều năm trước, bà nội có kể cho bà nghe về một phong tục Giáng sinh cổ truyền. Người ta đã giúp trẻ em khám phá ra ý nghĩa đích thực của Giáng sinh qua một trò chơi độc đáo.
Vậy người mẹ đã tập hợp bốn đứa nhóc lại và hỏi: các con có muốn chơi trò chơi Giáng sinh mới không? Ðiều cần thiết là phải giữ bí mật. Ai có thể chơi môn chơi bí mật này?
- Con! Ðức (Eric) mau miệng nói trước.
- Con có thể giữ bí mật hơn anh ấy, Bé Hiền cướp lời anh. Nó tên là Hiền mà chẳng hiền chút nào. Lúc nào cũng muốn gây gỗ với anh lớn hơn nó một tuổi.
Hai đứa nhỏ nhất cũng huà theo tuy chưa rõ chuyện ất giáp ra sao: Con cũng làm được - Con cũng làm được.
Người mẹ giải thích:
- Ðược rồi, đây là nội dung trò chơi: chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh lại vào ngày 25 tháng Giêng sắp tới, và sẽ chuẩn bị cho Hài Nhi Giêsu một máng cỏ êm ái nhất thế giới để Hài Nhi Giêsu ngủ ngay ở đây trong căn nhà của chúng ta. Chúng ta sẽ chất rơm đầy máng cỏ giúp tạo hơi ấm để Hài Nhi có thể ngủ ngon. Và đây là ý nghĩa của trò chơi. Mỗi cọng rơm đặt vào máng cỏ tượng trưng cho một việc tốt chúng ta làm cho một người nào đó, từ bây giờ đến lễ Giáng sinh. Càng nhiều việc tốt, máng cỏ càng có nhiều cọng rơm và Hài Nhi Giêsu càng được êm ấm. Ðiều phải giữ kín là: chúng ta không được kể cho ai biết việc tốt đó được thực hiện cho bất cứ ai.
Bé Hiền là người đầu tiên thắc mắc: "Làm thế nào mà Chúa Hài Ðồng Giêsu biết đó là giường của Ngài?"
Người mẹ trả lời: Ngài sẽ biết thôi, Ngài sẽ nhận ra tình yêu chúng ta đặt nơi máng cỏ nhờ sự êm ái máng cỏ.
- Nhưng chúng ta sẽ làm việc tốt cho ai? Ðó là thắc mắc của Ðức, đứa lớn nhất.
Người mẹ trả lời: Ðơn giản thôi, chúng ta sẽ thực hiện việc tốt cho nhau. Mỗi tuần, từ bây giờ đến lễ Giáng sinh đó, chúng ta sẽ để tất cả tên chúng ta trong chiếc mũ này, cả tên của mẹ và tên của bố. Rồi mỗi người sẽ rút một tên và làm việc tốt cho người đó trong cả tuần.
Nhưng đây mới là điều khó: Chúng ta không được cho ai biết tên người rút được và phải cố gắng làm nhiều điều tốt cho người mình rút được tên. Mỗi khi làm một việc tốt, chúng ta sẽ đặt một cọng rơm vào máng cỏ.
Bé Hiền cau mày nói: Nhưng nếu con rút phải tên người con không thích thì sao?
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy
thì không xứng với Thầy
Người mẹ suy nghĩ một chút rồi nói: Con có thể dùng những cọng rơm lớn hơn dành cho việc việc tốt con làm cho người đó, vì việc tốt loại đó được thực hiện cách khó khăn. Dĩ nhiên những cọng rơm lớn sẽ mau làm đầy máng cỏ. Thế rồi vào đêm Giáng sinh, Hài Nhi Giêsu sẽ cảm thấy êm ái biết bao khi Ngài nằm trên máng cỏ với những cọng rơm bự chất chứa nhiều tình yêu loại đó! Mẹ cho rằng Chúa Hài Ðồng sẽ rất vui vẻ khi ta bày tỏ tình yêu dành cho Ngài.
Vấn đề được nêu lên là "Ai sẽ làm máng cỏ?" Vì Ðức lớn nhất và là đứa duy nhất được phép sử dụng dụng cụ, nên nó xuống ngay nhà hầm và hí hoáy thực hiện công trình mà nó lấy làm hãnh diện. Trong hai giờ đồng hồ từ nhà hầm vang lên tiếng lưỡi cưa xèn xẹt, rồi tiếng búa đập trên đinh. Một lúc lâu, tất cả đều im bặt không còn tiếng động nữa. Cuối cùng, Ðức trèo lên nhà với chiếc máng cỏ trong tay. Nó cười toe:
- Ðây rồi, chiếc máng cỏ đẹp nhất thế giới! Con làm có một mình đấy nhé!
Mọi người đều đồng ý và bà Nghinh có thể tiến hành trình bày trò chơi Giáng sinh của bà: Bây giờ chúng ta cần những cọng rơm.
Thế là năm mẹ con lên xe. Bà Nghinh lái xe tới một mảnh đất bỏ hoang đầy cỏ dại. Bây giờ là cuối tháng mười hai, cỏ đã khô và ngả sang màu vàng trông giống như rơm. Chỉ trong chốc lát chiếc hộp bằng các tông nơi thùng xe chứa đầy cọng cỏ khô giống như rơm.
Sau bữa cơm tối, ai nấy trong bàn ăn đều rút thăm lấy một mảnh giấy đã gập lại trong đó có ghi tên một người trong gia đình gồm hai bố mẹ và bốn con.
Bé Hiền rút trước, lập tức nó khúc khích cười. Tiếp theo là Lan rút ngay miếng giấy bố nó đã viết khiến bố nó che miệng tủm tỉm cười. Ðến lượt hai ông bà rút thì cả hai đều nghiêm túc không tỏ thái độ. Út Minh là người duy nhất chưa biết đọc, nên bố nó phải đọc thầm lá thăm vào tai nó. Ðức là người rút thăm cuối cùng. Người ta thấy rõ nét mặt nó tỏ ra không hài lòng. Nó nhét cái tên vào túi áo, không nói gì.
Tuần lễ sau, nhiều bất ngờ xảy ra. Dưới nhà hầm, có người đã quét sạch mạt cưa thay cho Ðức. Còn bé Hiền đánh răng rồi về phòng thì thấy phòng mình đã được dọn dẹp tươm tất. Nơi nhà bếp có ai đã lau quét tươm tất khi bà Nghinh ra cổng lấy thư về. Mỗi buổi sáng bố hỏi: Giày của bố đâu rồi? Không ai trả lời cả, nhưng trước khi đi làm, bố lại thấy đôi giầy của mình đã được đánh bóng và để vào chỗ cũ.
Dáng dấp của phần thưởng không bị mất
Bà Nghinh để ý thì thấy những thay đổi quan trọng hơn xảy ra trong tuần: Lũ trẻ không trêu chọc nhau hoặc đánh lộn nhau nhiều như trước. Ðôi khi có nổ ra cuộc tranh cãi, nhưng bỗng im bặt không vì một lý do rõ ràng. Ngay cả bé Hiền và Ðức cũng tỏ ra hoà hoãn với nhau hơn. Thực ra, lũ trẻ đều có những nụ cười bí mật và đôi khi bật thành tiếng khúc khích.
Bốn tuần lễ "Mùa Vọng" (theo trò chơi) đầy những bất ngờ mà bất ngời cuối cùng là do bé Ðức. Nó liên tục rút phải tên bé Hiền nên nó dứt khoát muốn bỏ nhà ra đi để cho mọi người ăn lễ Giáng sinh đó xong mới về. Mẹ phải tìm đủ cách thuyết phục, Ðức mới đổi ý. Ðức đã đặt nơi máng cỏ cọng rơm cuối cùng, loại bự!
Câu chuyện vừa kể giúp làm sáng tỏ phần chót của bài giảng về sứ mạng truyền giáo (Mt 10,1-42). Ở phần chót của bài giảng này, điều được nhấn mạnh là từ bỏ (cc 37-39) và phần thưởng (cc 40-42).
Bài giảng về sứ mạng truyền giáo đã lần lượt dạy các môn đệ về việc phải làm (cc 5-15) về tình hình thù địch phải đối phó (cc. 16-25) về niềm tin tưởng vào Thiên Chúa cần được duy trì (cc. 26-33).
Bây giờ để kết thúc, Ðức Giêsu đòi các môn đệ trong bối cảnh tình yêu mà ai cũng dễ dàng nghiệm thấy được, đó là bối cảnh gia đình. Nhưng ở phần cuối này, Ðức Giêsu còn đòi các môn đệ phải xác định rõ mối tình lớn lao hơn mối tình đối với cha, với mẹ, với con trai, con gái của mình (c.37). Ở đây Ðức Giêsu chỉ nhẹ nhàng ám chỉ về tình yêu của "Ðấng đã sai Thầy" (c.40). Ðó là Ðấng không xa lạ với các môn đệ vì Ngài ở thâm sâu nơi cõi lòng họ: chính Ngài dạy họ phải nói gì khi bị điệu ra trước vua chúa quan quyền (c.18). Thực ra chính "Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em" (c.20). Thiên Chúa đã yêu ta trước (x. 1Ga 4,10). Trước khi ta biết yêu thương là gì thì Thiên Chúa đã lo để ta có cha có mẹ luôn ứng trực săn sóc và vỗ về, để ta tồn tại và nên người. Nay Thiên Chúa còn phái Ðức Kitô, Con của Người đến cứu ta khỏi tội (Mt 1,21). Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Ðức Kitô, Ðấng hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu (x. Ga 13,13). Nào Ngài chẳng có quyền đòi ta phải yêu Ngài hơn cha mẹ và con cái ta sao?
Phần chót của bài giảng về sứ mạng truyền giáo nhắc nhở ta về điều cơ bản của bài giảng, đó là niềm tin. Các môn đệ đại diện cho chính Ðức Giêsu, nên đón nhận họ không những là đón nhận chính Ðức Giêsu, nhưng còn là đón nhận Ðấng phái Ðức Giêsu đến trần gian để cứu chuộc muôn người. Sẽ có phần thưởng xứng hợp dành cho những ai đón nhận các ngôn sứ, các thánh nhân và cả các tín hữu Kitô bình thường.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ vì ai mà bọn trẻ của gia đình bà Nghinh từ bỏ mình? Bạn có thấy dáng dấp về phần thưởng chúng nhận được ngay trong bầu khí bình an của gia đình chăng? Phần thưởng ấy sẽ như thế nào sau này theo niềm tin của bạn?
2. Bạn hiểu thế nào về câu nói "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được? (c.39). Bạn có thấy các thánh tử đạo minh hoạ điều vừa nói chăng?
44. Chấp nhận vác thập giá theo Chúa để sống vui
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
CHÚ THÍCH:
- C 37: + Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy…: Ở đây Đức Giê-su tỏ ý “ghen tương” giống như sự ghen yêu của Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en trong thời Cựu Ước (x. Đnl 29,17-19; 32,16-21). Đức Giê-su không chấp nhận bất cứ tình yêu nào cạnh tranh với tình yêu phải được dành riêng cho Người. Kẻ nào muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su mà còn quá quyến luyến với gia đình, thì chẳng xứng đáng với tình yêu của Người. Kẻ nào không nhìn nhận sự tối thượng của Người cũng không thể làm môn đệ của Người được. Sở dĩ Người đòi hỏi trung thành tuyệt đối như vậy, vì Người chính là Thiên Chúa làm người, đến để chịu chết đền tội thay cho loài người.
HỎI: Với đòi hỏi như thế, phải chăng đi theo Chúa là phải hoàn toàn từ bỏ mọi liên hệ gia đình ruột thịt, có thể bị người đời kết tội là bất hiếu?
ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. Vì chính Đức Giê-su là một người con hiếu thảo: Người vâng lời cha mẹ trong suốt thời gian ẩn dật tại Na-da-rét (x. Lc 2,51). Dù “giờ” chưa tới, nhưng Người sẵn sàng nghe lời cầu bầu của Đức Mẹ, để làm phép lạ đầu tiên giúp đỡ đôi tân hôn là hóa nước thành rượu ngon (x. Ga 2,4.5-8). Trước khi tắt thở trên cây thập giá, Người trối Đức Mẹ làm Mẹ của môn đệ Gio-an, để ông đem ngài về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Người (x. Ga 19,25-27). Người dạy người ta về sự thực hành cách cụ thể giới răn “Phải thảo kính cha mẹ”, trái với lời dạy lỗi bổn phận hiếu thảo của các luật sĩ (x. Mc 7,10-13). Nhưng đối với Đức Giê-su, sự vâng lời cha mẹ phải được đặt sau Thánh Ý Chúa Cha (x. Lc 2,49). Mẹ và anh em của Người chính là những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa (x. Mc 3,33-35). Trong câu này, Đức Giê-su chỉ muốn nói rằng: khi cần phải chọn một trong hai tình yêu dành cho cha mẹ và dành cho Đức Giê-su, thì môn đệ phải biết đặt tình yêu trung thành với Người trên tình yêu dành cho cha mẹ.
- C 38: + Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy: Lúc đầu có lẽ các môn đệ đi theo Đức Giê-su do muốn được lợi lộc vật chất (x. Mt 19,27-30), được địa vị cao khi Người lên làm vua (x. Mt 18,1-4). Nhưng Người lại không chiều theo ý họ, mà đòi họ phải đi con đường hẹp, leo dốc và đầy gai chông, ít người chịu theo (x. Mt 7,13-14). Đó là đường “từ bỏ mình, vác thập gia mình hàng ngày mà theo chân Người” (x. Mt 16,24).
- C 39: + Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất…: Giữa hai sự sống tự nhiên và siêu nhiên, thì môn đồ phải biết chọn sự sống siêu nhiên. Nếu họ chỉ lo tìm sự sống thân xác, đến nỗi từ chối Chúa để khỏi bị giết chết, thì họ sẽ bị mất sự sống siêu nhiên ở đời sau. Ngược lại, nếu họ bằng lòng chịu chết vì đức tin, thì sẽ được Chúa ban lại sự sống siêu nhiên sau này.
- C 40: + Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy…: Ở đây Đức Giê-su áp dụng một nguyên tắc thông thường về ngoại giao là: “Kẻ được sai đi đồng hóa với người đã sai mình”. Đón tiếp môn đệ là đón tiếp Đức Giê-su, cũng là đón tiếp chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Người. Sự đón tiếp ở đây là phải sẵn sàng đón nhận Tin Mừng do các tông đồ thừa sai rao giảng.
- C 41: + Ai đón tiếp một ngôn sứ… một người công chính: Có người nghĩ rằng: Ngôn sứ và công chính đồng nghĩa với tông đồ, nên ai tiếp đón các tông đồ với danh nghĩa là ngôn sứ và người công chính, thì sẽ được phần thưởng của các ngài. Nhưng một số các nhà chú giải hiện nay lại cho rằng: Thời Giáo hội sơ khai, chức vụ ngôn sứ khác với chức vụ tông đồ, còn người công chính thì không phải chức vụ, nhưng là người có lối sống công bình và ngay chính, được cộng đoàn kính trọng, như ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a người công chính (x. Mt 1,19), ông Giu-se hay Ba-sáp-ba, biệt danh Rô-ma là Gút-tô, nghĩa là công chính (x. Cv 1,23). + Thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ… cho bậc công chính: Đức Giêsu áp dụng nguyên tắc: “Người được sai đi đồng hóa với Đấng sai mình”, để nói rằng: kẻ đón tiếp các ngôn sứ và người công chính cũng sẽ được phần thưởng giống như phần thưởng mà các bậc ngôn sứ và người công chính sẽ được, là sự sống và được sự sống đời đời.
- C 42: + Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này…: Kẻ bé nhỏ đây ám chỉ các môn đệ của Đức Giê-su là tông đồ thừa sai. + Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu: Đức Giê-su hứa sẽ ban thưởng Nước Trời cho những ai thành tâm cộng tác vào sứ mệnh truyền giáo của các môn đệ, thì cũng sẽ được thưởng giống như các ngài sẽ được ở đời sau.
SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy (Mt 10,38).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Chấp nhận thập giá để sống vui.
Có một thiếu nữ kia trẻ đẹp và là con một gia đình quý tộc ở Ái Nhĩ Lan. Tuy sống trong cảnh giàu sang, nhưng cô lại muốn sống đời thánh hiến cho Chúa. Khi tới tuổi trưởng thành, cô từ chối khi các chàng trai quý tộc đến dạm hỏi, và được cha mẹ cho phép, cô tìm đến một đan viện có lối sống nhiệm nhặt khắc khổ để xin được dâng mình cho Chúa. Mẹ bề trên thấy cô vừa trẻ đẹp, lại vừa là con nhà quyền quý giàu có, nên chưa dám nhận ngay. Bà muốn thử thách ơn gọi của cô nên đã cố ý trình bày những luật lệ khắt khe của đan viện về nhiệm vụ cầu nguyện và lao động nhiều giờ mỗi ngày. Nghe xong, cô gái giữ im lặng như suy nghĩ. Một lát sau, bà bề trên hỏi tiếp: “Bây giờ con còn muốn dâng mình cho Chúa nữa thôi?”. Cô đáp: “Thưa mẹ, con chỉ còn một thắc mắc này là: Không biết trong tu viện có nhiều cây thánh giá không?”. Mẹ bề trên trả lời: “Con đừng lo. Khắp nơi trong nhà, không chỗ nào là không có thánh giá cả”. Bấy giờ cô gái tươi nét mặt và nói: “Thế thì thưa mẹ, con sẵn sàng xin vào tu viện, vì con chắc sẽ không gặp gì khó khăn cả. Bởi vì theo con nghĩ: Nếu mọi nơi mọi lúc con đều nhìn thấy thánh giá Chúa, đều thấy Người đang cùng chịu đau khổ với con, thì con hy vọng có thể chịu đựng được mọi đau khổ”.
2) Chu toàn bổn phận đối với gia đình trước khi đi theo Chúa:
Vào năm 1994 Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi đau khổ: Chỉ trong một tháng, người cha và chị cả trụ cột nuôi gia đình lần lượt bị chết, khiến cho bà mẹ và bốn đứa con thơ dại hết sức lo lắng cho tương lai gia đình.
Lúc đó em Mác-đa-la mới được 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn. Thấy mẹ lo buồn, em thường an ủi mẹ: “Mẹ đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải đợi tới lúc khôn lớn mà ngay từ lúc đó, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã bỏ học để ngồi vào guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã làm để kiếm tiền hằng ngày nuôi gia đình.
Một hôm, tình cờ người bác họ là cha Bandenla đến chơi và khi biết hoàn cảnh của Mác-đa-la, cha đã hứa phụ giúp nhu cầu vật chất của gia đình và giúp học phí sách vở cho Mác-đa-la đến trường học. Sau hơn mười năm chăm chỉ đèn sách, chị đã tốt nghiệp và trở thành một giáo viên giỏi dạy ở trường làng để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm. Đến ngày sinh nhật thứ 30, Mác-đa-la đã dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn mà mẹ hằng mong ước. Chị âu yếm thưa với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con tặng mẹ, con chỉ xin mẹ cho phép con được tận hiến cuộc đời còn lại để theo ơn Chúa kêu gọi phụng sự Người”.
Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời Chúa phán: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến mà trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ và bị bỏ rơi tại đảo Xi-xi-li-a. Cuối cùng chị đã được Hội Thánh tôn phong lên bậc chân phước để mọi người tôn kính và học tập noi gương.
3) Ai không đón tiếp tha nhân là đã từ chối đón chính chúa Giêsu:
Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị đã đến gõ cửa lần lượt hơn một chục căn nhà, nhưng chẳng có ai chịu ra mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục bên vệ đường bèn xuống xe đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị đã được cứu sống, nhưng tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân đã bị hoại tử vì chịu giá lạnh trong một thời gian quá lâu.
Có điều đáng nói là các căn nhà chị đến gõ cửa đêm hôm ấy, mọi người đều ở trong nhà và đều nghe có tiếng gõ cửa. Mọi người đều là các tín hữu sống tại vùng quê hiền hòa, nhưng không một ai chịu ra mở cửa, vì sợ có thể sẽ bị kẻ cướp vào nhà trấn lột!
4) Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được:
Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, SADHU và một người bạn cùng nhau đi du lịch qua một miền núi phía Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến họ phải rất vất vả để chống trả với cơn bão tuyết.
Bấy giờ họ thấy một người đàn ông bị lạnh cóng đang nằm thoi thóp bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại cứu giúp người gặp nạn, nhưng anh bạn kia lại không đồng ý vì cho rằng nguyên việc làm sao để cứu mạng mình lúc này cũng đã khó khăn vất vả lắm rồi, và anh ta cương quyết bỏ đi. Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân cho người sống dở chết dở ấy. Sau đó với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và tiếp tục đi qua vùng bị bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia dần hồi sinh và cả hai dìu nhau đi tiếp. Đi khoảng mươi dặm, cả hai kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết vì bị lạnh cóng đang nằm bên vệ đường. Họ càng ngạc nhiên hơn khi nhận ra đó không ai khác hơn là anh bạn đã cùng đi với Sadhu trước đó.
Hành động yêu thương xả thân cứu người của Sadhu đã minh chứng cho lời Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: ”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Anh bạn của Sadhu do đã cố giữ mạng sống của mình nên cuối cùng đã bị mất mạng, còn Sadhu do liều mất mạng vì tha nhân nên đã được cứu. Đó là điều nghịch lý mà Đức Giêsu đã trải qua và dạy các tín hữu noi theo. Người đã sẵn lòng chịu chết thập giá rồi sống lại vinh quang, để dạy chúng ta hãy đi con đường yêu thương: hy sinh mạng sống mình vì lòng mến Chúa yêu người, và chắc ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa.
5) Chia sẻ giúp đỡ người nghèo là làm cho chính Chúa:
Mác-tanh thành Tua (Martin de Tour) là một mẫu gương về đức bác ái cụ thể. Bấy giờ Mác-tanh là người đầu tiên được Hội Thánh tôn kính như một vị thánh mà không do chịu tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc cuộc bách hại đạo sắp chấm dứt. Trước đó chưa có người nào được các tín hữu tôn kính như một vị thánh giống như ngài.
Mác-tanh đã nêu cao chân lý: yêu thương tha nhân là yêu chính Chúa Giê-su. Trong lúc Mác-tanh đang học giáo lý dự tòng thì ngài đã ở trong quân đội. Vào một đêm đông giá rét, khi Mác-tanh đang ngồi trên lưng ngựa đi tuần tra thì gặp một người ăn xin nghèo khổ đang đi trên đường. Ông ta bị rét run vì quần áo ông đang mặc chỉ là một mớ giẻ rách. Mác-tanh liền thương cảm cởi chiếc áo choàng bằng dạ đang mặc, rút gươm cắt thành hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ kia. Sau đó, trong giấc ngủ, Mác-tanh đã nằm mơ thấy Chúa Giê-su trên cây thập giá đang khoác mảnh áo mà ông mới cắt cho người ăn xin. Mác-tanh nghe Người phán: “Hỡi Mác-tanh, tuy đang học giáo lý, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.
3. SUY NIỆM:
1) Đón tiếp tha nhân là đón tiếp chính Đức Giêsu.
“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
- Người khác là ai?: Giăng Pôn Sát (Jean Paul Sartres) một triết gia hiện sinh vô thần đã nói: “Hỏa ngục chính là người khác!”. Đây là một câu nói hận đời, trái ngược với tinh thần yêu thương của Đức Giê-su. Vì đối với các tín hữu chúng ta thì người khác chính là hiện thân của Đức Giê-su như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Nhưng người khác là ai? Họ không phải là một người trừu tượng, nhưng là những người sống bên chúng ta. Họ là La-da-rô nghèo đói đang ở cửa nhà chúng ta. Họ là những người yếu đuối, già cả neo đơn, là những người vô gia cư, vô nghề nghiệp. Có thể họ cũng là một người trong gia đình ta, một người hàng xóm hay ở cùng một đường phố với chúng ta. Họ có thể là hỏa ngục hay là thiên đàng của ta tùy theo cái nhìn của ta đối với họ.
- Lòng hiếu khách: Trong một xóm đạo nọ, vào buổi sáng khi ánh mặt trời vừa ló rạng, cánh cửa mọi nhà trong xóm đều được mở ra đón ánh nắng ban mai. Rồi từ đầu xóm, một gã hành khất đeo bị và tay chống gậy xuất hiện. Qua các cánh cửa, người ta phát hiện ra gã. Thế là từng nhà dọc theo xóm, vội vã đóng và chốt cửa lại, kéo rèm che cửa sổ. Bấy giờ gã hành khất đến từng nhà gõ cửa, nhưng không ai ra mở cửa. Cảm thấy nhục nhã buồn tủi, gã lặng lẽ đi ra khỏi xóm. Khi gã vừa khuất dạng, các rèm cửa lại được kéo lên, mọi cửa nhà lại được mở toang đón nhận nắng ấm tràn vào trong nhà. Mọi người trong xóm đều vui vẻ ra mặt vì như vừa thoát khỏi sự quấy rầy của một kẻ không mời mà đến.
Hoạt cảnh trên đây vẫn thuờng xảy ra đó đây là do lòng ích kỷ của con người. Người ta thường chỉ mở cửa nhà và cửa lòng để đón mời một số người nào đó trong gia đình ruột thịt, các người bạn thân quen, đồng nghiệp, hay những kẻ mà họ hy vọng sẽ đem lại cho mình lợi lộc… và họ sẵn sàng khép cửa lại khi gặp một người lạ, nhất là những kẻ dáng vẻ nghèo nàn.
- Chúng ta phải làm gì đối với họ?: Đức Giê-su dạy chúng ta hãy ân cần tiếp đón tha nhân. Tùy theo thái độ của chúng ta mà họ sẽ thành niềm vui mang lại hạnh phúc hay trở nên nỗi bất hạnh của chúng ta: các chủ quán ở Bê-lem xưa đã từ chối đôi vợ chồng nhà quê nghèo khó là Giu-se và Ma-ri-a, nhưng họ lại không ngờ mình đã từ chối đón nhận Đấng Cứu Thế trong đêm Người giáng sinh (x. Lc 2,7); Hai người thu thuế trong Tin Mừng là Mát-thêu và Da-kêu đã mở rộng cửa nhà đón tiếp Đức Giê-su và đã được ơn cứu độ (x. Mt 9,10; Lc 19,5-10); Gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su và đã được Người dạy cho biết điều cần thiết nhất (x. Lc 10,39-42). Hai môn đệ làng Em-mau nhờ mời vị khách bộ hành vào tạm trú trong nhà, mà các ông đã nhận ra Đức Giê-su phục sinh (x. Lc 24,29-31). Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang hiện thân trong những người đau khổ nghèo đói, những kẻ đứng ngoài cửa nhà chúng ta và gõ. Ai mở cửa đón rước Người, thì Người sẽ vào trong nhà linh hồn của họ và ngồi vào bàn dùng bữa tối thân tình với họ.
XÉT MÌNH: Tôi thường có thái độ thế nào đối với những kẻ mình không ưa hay những khách lạ không mời mà đến? Tại sao người ta đóng cửa nhà hay cửa lòng với những người nghèo đói ăn xin? Khi các người làm tông đồ đến nhà, tôi có niềm nở đón tiếp và cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng của họ hay không?
2) Tình yêu đối với Đức Giêsu.
- Gương vác Thánh Giá:
Từ lễ Giáng Sinh năm 1969, mục sư ÁC-THƠ BƠ-LÉT-SÍT (Arthur Blessit) đã khởi đầu một cuộc hành trình đi bộ vòng quanh thế giới. Trên vai vác một cây thập giá dài 3,6m, ngang 1,8m nặng 18 ki-lô. Sau 26 năm vất vả, ông đã lập được một kỷ lục thế giới về đi bộ, khi vượt qua một quãng đường dài tới hơn 50 ngàn cây số, ngang qua nhiều quốc gia. Sau này ông đã thuật lại chuyến đi ấy như sau: “Tôi đã đi qua nhiều sa mạc và rừng già, đã từng bị dã thú như voi, rắn, cá sấu tấn công. Tôi bị bắt giam 21 lần vì bị nghi là làm gián điệp và có lần suýt bị dân da đỏ hành hình…” Động lực thúc đẩy ông làm được việc phi thường ấy là tình yêu mến Chúa Giê-su. Ông muốn mang thánh giá đến mọi nơi trên thế giới, như lệnh Người truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).
- Phải vác thập giá nào?
Đức Giê-su mời mọi người hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Người (x. Mt 16,24). Đường thập giá là con đường chính Đức Giê-su đã đi chịu chết. Đây là con đường khó nghèo khiêm hạ ở Bê-lem, lao động vất vả ở Na-da-rét, là đường rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu nhân độ thế từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, là đường lo buồn trong vườn Cây Dầu, bị xét xử bất công, chịu đánh đòn, đội mão gai, vác thập giá lên đồi Can-vê; là đường chịu đóng đinh và chết nhục nhã như một tên đại gian ác. Nhưng con đường đó lại là điều kiện để vào vinh quang phục sinh, như ba lần Người đã báo trước (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19).
Các tín hữu chúng ta cũng được Đức Giê-su mời gọi đi con đường thập giá của Người. Thập giá mà chúng ta vác không phải là cây gỗ thập giá của Đức Giê-su, nhưng là những gánh nặng việc bổn phận đối với gia đình xã hội và Giáo hội, là đòi hỏi phải từ bỏ của cải vật chất, quyền hành, là những người mà chúng ta tuy không ưa, nhưng vẫn phải sống chung một nhà. Đức Giê-su đã làm gương cho chúng ta khi với tính tự nhiên, Người bị lo buồn sợ hãi trước Giờ Tử Nạn, nhưng Người đã can đảm chấp nhận vâng theo ý Chúa Cha (Mt 26,39). Chỉ vì yêu mến Cha mà Người sẵn sàng từ bỏ ý riêng để chấp nhận khổ hình thập giá. Cũng vậy, chỉ khi nào ta thực sự yêu mến Chúa Giê-su thì ta mới dám hy sinh quên mình, dấn thân theo Chúa trên con đường thánh giá, và mới dám hiến mạng sống mình vì mến Chúa và yêu tha nhân.
- Phải yêu Chúa thế nào?
Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ Người phải dành trọn tình yêu cho Người: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Nếu Đức Giê-su không phải là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và nếu Người đã không chịu chết vì yêu loài người trước, thì chắc Người không dám đòi môn đệ phải hy sinh như vậy. Từ ngày Đức Giê-su về trời đến nay, có biết bao vị thừa sai tông đồ đã dám sống đến cùng tình yêu mà Đức Giê-su đòi hỏi ấy. Truyền giáo không phải chỉ là rao giảng Lời Chúa, nhưng còn là thông truyền đức tin và tình yêu Chúa cho người khác; Là giới thiệu Đức Giê-su cho tha nhân nhận biết, tôn thờ, yêu mến cậy trông vào Người. Muốn làm được điều này thì chính chúng ta phải cảm nghiệm được tình yêu của Chúa nơi bản thân và sẵn sàng dâng cả cuộc đời để đáp lại tình yêu ấy. Ước gì chúng ta yêu mến Đức Giê-su trên hết mọi người, mọi vật, chấp nhận bỏ đi cái tôi ích kỷ hẹp hòi, để tình yêu Chúa ngày một lớn lên khi ta biết khiêm tốn phục vụ tha nhân.
4. THẢO LUẬN: 1) Ta cần từ bỏ những gì và phải vác thập giá nào để nên môn đệ của Chúa? 2) Theo kinh Cải Tội Bảy Mối, muốn bỏ một tật xấu như tự kiêu, bủn xỉn, mê đắm xác thịt, hay giận hờn, say xỉn, ghen ghét, lười biếng… Ta phải tập những nhân đức đối nghịch nào?
5. LỜI CẦU
- Lạy Chúa Giêsu. Xin dạy con biết yêu mến Chúa cho xứng đáng: biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết xả thân mà không cần một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo thánh ý Chúa (Thánh I-NHA-XI-Ô).
- Lạy Chúa. Xin nhận lấy tất cả tâm tư tình cảm và ước muốn của con, tất cả những gì con có và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy đều do Chúa đã ban cho con, thì hôm nay con lại xin dâng chúng cho Chúa. Tất cả là của Chúa. Xin hãy sử dụng theo ý Chúa muốn. Con chỉ xin Chúa ban cho con lòng yêu mến Chúa nồng nàn và sau này được Chúa ban ơn cứu độ. Được như vậy là con đã thỏa mãn lắm rồi.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
27/06 Đầy tớ đại đội trưởng
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Đầy tớ đại đội trưởng.
Thứ Bảy tuần 12 thường niên.
"Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".
Lời Chúa: Mt 8, 5-17
Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!".
Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin". Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.
Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài. Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Từ phương đông phương Tây
Suy niệm:
Đức Giêsu mới chữa cho một người phong bằng một tiếp xúc gần,
nay Ngài lại chữa lành cho một người bị đau liệt ở xa.
Người được khỏi chính là đầy tớ thân tín của viên đại đội trưởng.
Con người sống gắn bó với nhau bằng những mối dây.
Viên đại đội trưởng là chủ, nhưng ông cảm được nỗi đau của anh đầy tớ:
“Đầy tớ của tôi bị liệt nằm ở nhà, đau đớn kinh khủng” (c. 6).
Người đầy tớ được khỏi là nhờ tình thương của chủ đối với anh,
chính ông đã đi gặp Đức Giêsu và xin Ngài chữa cho anh đầy tớ (c. 5).
Và chính lòng tin của ông đối với Đức Giêsu đã khiến anh được khỏi (c. 10).
Những điều tốt lành của Thiên Chúa vẫn đến với ta qua người khác.
Khi Đức Giêsu nghe lời kêu xin, thì Ngài sẵn sàng lên đường ngay (c. 7),
dù biết rằng nhà của viên đại đội trưởng là nhà dân ngoại, bị coi là ô uế.
Có thể vì sợ Ngài bị ô uế mà ông ta đã can ngăn bằng câu nói nổi tiếng :
“Tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời,
đầy tớ tôi sẽ được khỏi bệnh” (c. 8).
Ông ý thức về sự bất xứng của mình, của căn nhà mình ở.
Và ông xác tín vào sức mạnh của việc “Ngài chỉ nói một lời.”
Viên đại đội trưởng nhận mình là người có quyền.
Uy quyền của ông nằm trong lời ông ra lệnh cho cấp dưới (c. 9).
Ông tin lời của Đức Giêsu cũng có uy quyền như vậy.
Chỉ một lời ra lệnh của Ngài cũng đủ đẩy lui bệnh tật và thần dữ.
Đức Giêsu ngây ngất trước lòng tin của viên sĩ quan dân ngoại,
một lòng tin vừa mạnh mẽ, vừa khiêm tốn.
Một lòng tin như thế, Ngài chưa từng gặp nơi dân Ítraen (c. 10).
Đức Giêsu nghĩ đến ngày cánh chung, quanh bàn tiệc Nước Trời,
có bao người đến từ muôn phương, những kẻ không phải là người Do thái.
Họ làm nên một cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài.
Họ vui sướng được ngồi bên các tổ phụ và những người Ítraen chân chính.
Đức Giêsu cho thấy dòng lịch sử đang đi vào ngã rẽ quan trọng.
Ơn cứu độ phổ quát do Ngài đem lại được mở ra cho mọi người.
Chỉ ai cố tình chối từ Tin Mừng Nước Trời mới bị loại (c. 12).
Đức Giêsu không chỉ rao giảng Nước Trời bằng lời.
Ngài còn chứng minh Nước Trời đã đến bằng bao việc tốt lành, kỳ diệu.
Lời Ngài giảng cũng là lời chữa cho người phong, cho tên đầy tớ.
“Ngài nói một lời là trừ được các thần dữ” (c. 16).
Lời uy quyền khi giảng cũng là lời uy quyền khi chữa bệnh.
Nhưng Đức Giêsu cũng đụng chạm đến nỗi đau của con người.
Ngài đụng đến người phong, và đụng đến bàn tay mẹ vợ ông Phêrô (c. 15).
Hôm nay, Giáo Hội vẫn cần những người rao giảng như Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa
và dạy con bước đi
ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.
Xin truyền cho con sức mạnh của Người.
Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con
tìm lại được sức trẻ
để gieo trồng hàng ngàn cây xanh
cho một thế giới mới
Ước gì mồ hôi con
pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.
Ước gì máu con
hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ
để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn
vì bất công và ích kỷ.
Chúc tụng Chúa là Cha,
đã dẫn con đi đến cùng,
đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung
với tràn trề bình an và niềm vui. Amen. (ĐHY Roger Etchegaray)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Tuyên xưng niềm tin
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu truyện lòng tin của viên bách quản Rôma, một lòng tin đã khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên. Nếu Chúa Giêsu đã khen lòng tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết khi bà nghĩ rằng chỉ cần đụng vào gấu áo Ngài cũng đủ để được khỏi, thì lòng tin của viên bách quản này còn mạnh hơn nhiều: Ông tin rằng Chúa Giêsu chỉ cần nói một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giêsu đã thốt lên: "Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế".
Lời tuyên xưng của viên bách quản là kết quả hiểu biết đúng đắn về bản thân và quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Ðể có sự hiểu biết đúng đắn cần phải có thái độ khiêm nhường và thành thật. Vì con người là một tinh thần kết hợp với thể xác: thể xác bị ràng buộc bởi các điều kiện không gian và thời gian, còn tinh thần chẳng bị một ràng buộc nào; thể xác đang nằm sát đất, nhưng tinh thần có thể vươn tới trời cao; thể xác đang ở hiện tại, nhưng tinh thần có thể lùi lại quá khứ hoặc hướng tới tương lai rất xa.
Óc tưởng tượng đưa con người viễn du khắp nơi, cả những vùng không tưởng. Óc tưởng tượng vẽ ra cho con người muôn vàn hình ảnh, mà nếu không khiêm nhường trong hiểu biết, con người sẽ bám víu mãi vào đó. Khiêm nhường đem tinh thần con người trở về với thân xác hạn hẹp yếu đuối; khiêm nhường chỉ cho con người thấy thực tại của thân phận làm người, đó là hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa; tất cả những gì con người có đều là do Thiên Chúa ban. Nhận thức được chân lý này, nên niềm tin của viên bách quản được Chúa Giêsu khen thưởng, và Giáo Hội đã mượn lời tuyên xưng này để hằng ngày trong Thánh Lễ, người tín hữu có thể dâng lên Chúa tâm tình khiêm tốn, bất xứng của mình.
Ước gì lời Chúa hôm nay là một nhắc nhở chúng ta trong công việc hằng ngày, giúp chúng ta vững tin và nhận ra mọi ơn lành đến từ Chúa và dâng lời cảm tạ Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu ngạc nhiên
Khi Đức Giêsu vào thành Ca-phát-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.” Người nói “Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi khỏi bệnh.” (Mt. 8, 5-8)
Lòng tin của người ngoại giáo
Chúng ta hay có thói quen rất chú tâm đến những lời Chúa phán cùng những việc Chúa làm. Còn những tình cảm, những xúc động, những gì rung động trong con tim Người thường ít nhiều không được để ý đến. Có lẽ cũng vì các thánh sử dẫu sao cũng khá kín đáo về vấn đề này.
Trích đoạn Phúc âm chúng ta đọc lại sáng nay, nói rõ ràng rằng Chúa Giêsu đã ngạc nhiên, sửng sốt. Ta đừng vội vã và bỏ qua chi tiết có tính rất mạc khải này.
Điều gì đã khiến Chúa Giêsu có tâm tình ngạc nhiên như vậy? Không phải chỉ vì sự kiện là viên đại đội trưởng người Rôma này bộc lộ một lòng tin đầy kính trọng, thật sâu xa và khiêm tốn đối với Người mà thôi, nhưng còn bởi tại ông ta là một người ngoại giáo. Qua tai nghe mắt thấy, Chúa Giêsu chưa hề gặp một người dân It-ra-en nào bộc lộ được một lòng tin như ông này. Ông là một người ngoại, có nghĩa là một người đã không được giáo dục theo văn hóa và tín ngưỡng Do thái, một người không biết đến Kinh thánh, và tất nhiên không biết có Đức Gia-vê là Thiên Chúa chân thật. Chính ông ta là một con người như thế mà lại đã thẳng thắn bộc lộ lòng tin vào Đức Giêsu là một người Do thái!
Chúa Giêsu phải sững sờ và ngạc nhiên là vì thế.
Biết cảm phục
Có nhiều điều tốt và đẹp nơi những người không cùng niềm tin, không cùng giáo dục, không cùng tập quán với ta. Ta có biết nhận ra điều ấy không? Nhiều người tuy không phải là Kitô hữu, mà vẫn sống lòng tin vào Chúa, một lòng tin mạnh và chân thành hơn của ta. Dó không phải là động cơ thúc đẩy ta ngạc nhiên và cảm phục sao?
Chúa Giêsu đã có ý thức về tâm tình ngỡ ngàng cảm phục. Người đã biết cảm phục những gì là đẹp, là tốt, là thiện. Người đã tìm được những cái đó ở bất cứ nơi nào, nơi bất cứ con người nào; người ấy là ai và ở đâu, không thành vấn đề đối với Người. Ta phải bắt chước Người về điểm này cũng như về nhiều điều khác.
SUY NIỆM 4: ƠN CỨU ĐỘ DÀNH CHO MỌI NGƯỜI (Mt 8, 5-17)
Câu nói của Đức Giêsu hôm nay đã làm cho không biết bao nhiêu người sững sờ, chưng hửng: “... nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Đây là nỗi băn khoăn, lo lắng, thắc mắc của bao nhiêu người, đặc biệt dân Dothái thời đó.
Thật vậy: “... những người không do lỗi của mình mà không biết đến Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và nhờ ơn sủng của Ngài mà hành động để làm trọn thánh ý Ngài theo như lương tâm của họ mặc khải và truyền dạy cho họ, thì những người này có thể đạt tới ơn cứu độ muôn đời” (x. SGLGHCG, số 847; LG, số 16; DS 3866-3872).
Còn: “Những ai đã biết rằng Giáo Hội Công Giáo, được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giêsu-Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong đó thì không thể được cứu rỗi” (x. LG, số 14; SGLGHCG, số 846).
Như vậy, điều quan trọng là muốn được cứu hay không? Nếu muốn được hưởng ơn cứu độ của Chúa thì:
Trước tiên, “hãy phấn đấu qua cửa hẹp mà vào”. Cửa hẹp là những gian nan thử thách, dù gặp khổ cực đến đâu vẫn phải quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy. Phải chịu rèn luyện mới được gặt hái những hoa trái; phải “có công mài sắt mới có ngày nên kim”; phải chịu “lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
Thứ hai, hãy vào cho kịp thời: “Một khi chủ đã đứng dậy và khóa cửa lại mà anh còn đứng ngoài… thì chỉ còn ở đó, khóc lóc nghiến răng thôi”. Nước trời không dành cho những người khô khan lười biếng, thờ ơ, chểnh mảng, say sưa, ăn chơi, gian ác hay nước đến chân mới nhảy. Những người như thế, họ sẽ lãnh nhận lời than trách nặng nề của Đức Giêsu như xưa Ngài đã nói với dân chúng thời của Ngài: “Hỡi quân gian ác, đi cho khuất mắt Ta”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết làm theo ý Chúa muốn để được vào Nước Trời, chính là vào qua cửa hẹp và vào kịp thời để không bị loại ra ngoài. Amen.
Ngọc Biển SSP
26/06 Chữa người phong cùi
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Chữa người phong cùi.
Thứ Sáu tuần 12 thường niên.
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".
Lời Chúa: Mt 8, 1-4
Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người.
Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".
Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh".
Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi.
Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Nếu Ngài muốn
Suy niệm:
Sau Bài Giảng trên núi thì đây là phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu
trong chuỗi mười phép lạ ở chương 8 và 9 của Tin Mừng Mátthêu.
Người phong chẳng rõ từ đâu đã dám lại gần Đức Giêsu,
dù lẽ ra anh không được phép làm như thế (Lv 13, 45-46).
Ai đã nói cho anh về Ngài, ai đã dạy anh bái lạy và khấn xin ?
‘Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch” (c. 2).
Một lời cầu xin mẫu mực đáng chúng ta suy nghĩ.
“Nếu Ngài muốn” : anh đặt ý muốn của Đức Giêsu lên trên ý muốn của anh.
Dù rất muốn được khỏi, nhưng anh vẫn để Ngài tự do làm theo ý của Ngài.
Chữ “nếu” thật đơn sơ, nhưng nói lên sự phó thác trọn vẹn của anh
cho ý muốn tốt lành của Đức Giêsu.
Ngài được tự do muốn hay không muốn, làm hay không làm.
Đức Giêsu không thấy mình bị áp lực phải chiều theo ý muốn của anh.
Sau này trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng dùng chữ “nếu”
khi nài xin Cha cất chén đắng cho mình.
“Lạy Cha, nếu có thể được…” (Mt 26, 39. 42).
Nhưng trong trường hợp này, Cha đã không cất chén Khổ nạn của con.
“Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Anh tin vào quyền năng phi thường từ nơi Ngài,
quyền năng có thể làm cho những nhơ uế trên người anh biến mất,
và da thịt anh phút chốc được lành sạch.
Khi con người tin vào Thiên Chúa như một đứa con thơ phó thác,
Thiên Chúa sẽ chọn cho con người điều tốt nhất.
Thái độ phó thác, tuy có vẻ liều lĩnh, vì Thiên Chúa có thể nói không,
nhưng thật ra lại rất khôn ngoan, vì biết mình sẽ được điều tốt hơn cả.
“Tôi muốn, anh hãy được sạch” (c. 3).
Đức Giêsu được tự do để muốn, thoải mái để bày tỏ lòng quảng đại.
Ngài chẳng những chữa lành bằng ý muốn được nói ra lời,
Ngài còn làm một điều không cần thiết và bị cấm (Lv 5, 3),
đó là đưa tay đụng đến người phong.
Cả tình yêu của Ngài diễn tả qua cái đụng nhẹ đó.
Da thịt của Ngài chạm vào da thịt không lành lặn của anh.
Ngài không bị nhiễm uế, trái lại Ngài làm cho anh được sạch.
Rõ ràng người phong ở rất gần Đức Giêsu và không làm Ngài kinh tởm.
Đức Giêsu muốn anh trở về với đời sống bình thường,
hội nhập trở lại với Đền thờ, gia đình và xã hội.
Vì thế Ngài sai anh đi trình diện với các tư tế và dâng của lễ (c. 4).
Dù không là người phong, nhưng ai trong chúng ta tránh được ô nhơ?
Ai trong chúng ta lại không có lần xin Chúa tẩy mình cho sạch?
Thân xác người phong bị tàn phá và làm cho dị dạng, đáng sợ.
Chỉ mong tâm hồn chúng ta tránh được bệnh phong.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa
in ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu lời Chúa
những kẻ khát không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,
công bằng và tình thương
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương,
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính ta.” (Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Chữa người phong cùi
Cho đến thế kỷ 20, bệnh phong cùi vẫn còn là một huyền thoại đối với con người. Một bác sĩ làm việc tại một trại Y khoa bên Ấn Ðộ đã tình cờ khám phá ra rằng người mắc bệnh phong cùi không cảm thấy đau đớn trong những tế bào đã bị vi trùng xâm nhập. Ngày nọ, ông không thể mở được cửa phòng, ông mới trao chìa khóa cho cô bé 12 tuổi. Ông không ngờ nó đã vặn chìa khóa một cách dễ dàng. Xem xét những ngón tay của nó, ông nhận thấy chìa khóa đã làm mất đi một mảng thịt trong lòng bàn tay và chạm đến xương, thế mà nó không cảm thấy đau đớn.
Nhờ khám phá này, viên bác sĩ đã giúp cho những người phong cùi biết cách đề phòng để tránh gây thương tích cho thân thể của họ. Ông đã giải phẫu những giây thần kinh của bàn tay và dạy họ cách điều khiển các cơ bắp của bàn tay. Ông cũng giải phẫu mũi của bệnh nhân để mang lại cho họ một gương mặt dễ coi hơn. Ngoài ra, ông cũng khám phá ra rằng những người mắc bệnh phong cùi dễ bị mù mắt, lý do vì họ không còn cảm nhận được đau đớn khi những chất dơ bẩn xâm nhập vào mắt, nhờ đó ông cũng giúp họ lo vệ sinh mắt một cách chu đáo hơn. Với những khám phá này, ông đã đánh đổ được huyền thoại cho rằng phong cùi là căn bệnh bất trị.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Ngài về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối với tội lỗi của con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi, Chúa Giêsu muốn nói rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật cho con người.
Sứ điệp ấy của Chúa Giêsu, trải qua các thế hệ, đã có biết bao nhiêu người chuyển đạt và thực thi cho những người phong cùi trên khắp thế giới. Những bàn tay săn sóc, những lời nói an ủi, và nhất là sự hiện diện chia sẻ bên cạnh các người phong cùi. Tất cả những cử chỉ ấy là để khẳng định với những người phong cùi rằng Thiên Chúa yêu thương họ.
Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm được rằng những đau đớn thân xác không xâu xé và đè bẹp con người cho bằng nỗi cô đơn và bị bỏ rơi. Bệnh phong cùi là tột điểm của nỗi cô đơn mà con người có thể rơi vào. Tựu trung, cô đơn cũng đồng nghĩa với vắng bóng tình yêu.
Không có cơ hội hoặc không đủ can đảm để phục vụ những người phong cùi, thì ít ra chúng ta xin Chúa cho chúng ta có thể mang lại sứ điệp yêu thương của Chúa đến mọi người, nhất là những ai đang sống trong cô đơn thử thách.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Xin làm cho con được sạch!
Khi Đức Giêsu ở tên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa một người bị phong hủi tiến lại, bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mt. 8, 1-2)
Những lời nguyện đẹp
Thời ấy những người mắc bệnh phong hủi ý thức rất rõ về thân phận hẩm hiu của mình. Người phong hủi mắc một chứng bệnh nguy hiểm, nên không ai dám đụng chạm đến người họ. Phải mang chứng bệnh khốn khổ này, nên người phong hủi buộc phải sống biệt cư bên ngoài cộng đồng xã hội, điều này còn khiến họ phải đau xót và khổ tâm hơn. Bởi vậy lời người phong hủi ấy khẩn cầu Chúa Giêsu phải là lời cầu xin rất tha thiết và chân thành, phát ra tự đáy lòng anh. Lời ấy phải là một tiếng kêu van thật, một lời cầu nguyện thật.
Biết bao lần chúng ta cũng thưa với Chúa những lời nguyện xin tương tự như của người phong hủi. “Lạy Chúa, xin làm cho chúng con được sạch. Xin rửa chúng con sạch vết nhơ tội lỗi. Xin tha thứ cho chúng con. Xin cho chúng con được ơn sám hối. Xin thay đổi lòng chúng con.”. Chúng ta có biết bao những mẫu kinh thân quen như vậy. Phụng vụ còn không ngừng đặt trên môi miệng ta những lời kinh ấy để ta nói lên, để ta ca hát nữa.
Phải là những lời nguyện chân thành
Khi ngỏ lời với Chúa như vậy, lòng ta có hoàn toàn tha thiết và chân thành không? Đó có phải là những tiếng van xin phát ra tự lòng ta không? Ta có thật sự xác tín rằng mình cần được chữa lành, cần được thanh tẩy, cần được ơn sám hối?
Để cho mình mượn những mẫu kinh đẹp đẽ kia, cứ lặp đi lặp lại những lời của người khác mà không làm cho chúng thành lời của mình, thiết tưởng quá dễ dàng. Giả vờ hay có vẻ đóng kịch phần nào, cũng quá dễ thôi. Cầu nguyện liến thoắng như con vẹt, như cái máy, mà không đặt tâm trạng của mình vào đó, cũng là quá dễ dàng. Nên chăng đôi khi thà yên lặng còn hơn là nói đi nói lại những lời mà ta chỉ mới tin một nửa? Chúa không muốn nghe những lời không phát xuất từ nội tâm ta, những lời trống rỗng. Để gặp gỡ Chúa, ta không cần phải nhiều lời, không cần cả những lời hay ý đẹp. Mà phải có những lời thiết tha, những lời chân thực. Có thế thôi.
SUY NIỆM 4: LẠY NGÀI, XIN CHO TÔI ĐƯỢC SẠCH (Mt 8, 1-4)
Có một câu chuyện thật ấn tượng về một linh mục đã trọng tuổi thuộc dòng Phanxicô. Chuyện là thế này: ngài là một linh mục rất thương người, vì thế, sau lễ truyền chức linh mục cho ngài, có một người sẵn sàng tài trợ mọi mặt để tổ chức thánh lễ tạ ơn tại quê hương cho thật “hoành tráng”. Tuy nhiên, ngài đã từ chối, và không quên ngỏ lời xin toàn bộ số tiền đó để xây nhà, khoan giếng, thuốc thang cho anh chị em bị phong cùi mà ngài đã biết đến họ cách đó vài năm trong một khu rừng sâu thẳm không một bóng người qua lại.
Tại sao họ lại có một cuộc sống khổ đến vậy? Thưa! Chỉ vì bị kỳ thị và sợ liên lụy cũng như sợ bị lây nhiễm, nên người ta đã đẩy anh chị em đó vào trong một thế giới riêng, tách biệt khỏi xã hội bên ngoài.
Hôm nay, Đức Giêsu đã chữa lành cho người phong cùi vì anh ta có lòng tin: "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch".
Tưởng cũng nên nhắc thêm: bệnh phong hủi, vào thời ấy, là một thứ bệnh ghê tởm, không có thuốc chữa mà tác hại của nó lại quá lớn và mức độ lây lan nhanh. Ai mắc thứ bệnh đó là đã cầm trong tay án tử.
Bệnh thể xác rất đau đớn, nhưng có lẽ không đau đớn cho bằng tinh thần. Người bị bệnh phong hủi bị ruồng bỏ, bệnh nhân muốn đi lại phải hô to mình bị ô uế để người khác biết mà tránh xa. Họ bị bỏ rơi ngay từ những người thân, xóm làng, xã hội và ngay cả tôn giáo thời bấy giờ.
Tuy nhiên, hình ảnh hiền từ và cử chỉ giơ tay chạm vào anh ta của Đức Giêsu hôm nay đã làm cho người phong hủi thêm niềm hy vọng, cậy trông và ấm lòng. Vì thế, anh ta đã can đảm tiến lại gần Đức Giêsu, mặc cho mọi lời dèm pha, khinh khi, nhục mạ. Anh ta tin và đi đến với Đức Giêsu. Còn Đức Giêsu đã giơ tay và chạm vào anh ta, khiếm anh ta được sạch.
Hành động này của Đức Giêsu đã xóa tan đi biết bao ngăn cách, đã trả lại cho anh một chỗ đứng trong xã hội, đã phục hồi nhân phẩm cho anh trong cuộc sống còn lại.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, một mặt biết noi gương người phong cùi, can đảm, tin tưởng và bỏ qua mọi rào cản để đến với Chúa là mối lợi tuyệt đối và duy nhất của cuộc đời. Mặt khác, cũng mời gọi chúng ta hãy suy nghĩ đến bệnh cùi tâm linh của chúng ta là những ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và ham danh, trục lợi... Đồng thời, như một lời mời gọi hãy bước theo Đức Giêsu trên con đường yêu thương, xóa bỏ ngăn cách do kỳ thị ...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tin tưởng vào tình thương của Chúa. Biết yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa, nhất là những người thấp cổ, bé họng, khổ đau, nghèo đói chung quanh chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
25/06 Nhà xây trên đá
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Nhà xây trên đá.
Thứ Năm tuần 12 thường niên.
"Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát".
Lời Chúa: Mt 7, 21-29
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta".
"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Xây trên nền đá
Suy niệm :
Nếu ai trong cộng đoàn các Kitô hữu chúng ta
có khả năng nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là dùng quyền năng của Ngài,
để nói tiên tri, để trừ quỷ hay làm nhiều phép lạ (c. 22),
chắc chúng ta sẽ tin ngay người đó là môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
Người đó dĩ nhiên phải là người tốt lành, thánh thiện, đáng tin,
vì chỉ ai là người của Chúa mới làm được những điều lạ lùng đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng vội kết luận.
Làm được những điều Chúa đã làm như trừ quỷ hay chữa bệnh
chưa chắc chắn đã là người môn đệ chân chính.
Những kết quả hoành tráng trên vẫn chưa đủ để biết cây (Mt 7, 16).
Cả những ai thưa với Thầy Giêsu: Lạy Chúa! lạy Chúa!
cũng không hẳn sẽ được vào Nước Trời (c. 21).
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn quan trọng khác để nhận định.
Đó là chính cuộc sống của người môn đệ đó.
“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời…” (c. 21).
Ý muốn ấy được giải thích và diễn tả qua “những lời Thầy nói đây” (c. 24).
Vậy tiêu chuẩn chắc chắn để nhận ra người môn đệ thật
đó là xem người đó có sống đúng tinh thần của Đức Giêsu không,
có làm điều Ngài dạy qua Bài Giảng trên núi không.
“Những kẻ làm điều gian ác” ở đây là những người đã nghe và không làm.
Ngay cả những kẻ ấy cũng có thể làm được những điều kỳ diệu,
khiến chúng ta bị ngây ngất, say mê và ngộ nhận.
Nhưng vào ngày phán xét, mọi sự sẽ bị phanh phui.
Chúa sẽ nói với họ: “Ta không biết các ngươi. Xéo đi khỏi Ta” (c. 23).
Nước Trời không dành cho những ai bất tuân phục Ý Chúa.
Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa Cha,
nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung kính đón nhận
bằng cách sống trọn vẹn Ý Cha như một người con thảo hiền.
Không có thái độ này, thì quà có đó mà vẫn không đến tay.
Chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu quá nhiều, nhưng thực hành lại chưa đủ.
Chính vì thế khi mưa đổ xuống, gió giật, nước dâng,
ngôi nhà đời chúng ta sụp đổ dễ dàng.
Vấn đề không phải do cuồng phong và lũ lụt,
mà do nền móng của ngôi nhà, nền đá hay nền cát.
Sau một cơn bão, có những tòa nhà cổ vẫn đứng vững hiên ngang,
trong khi những ngôi nhà mới xây lại sụp đổ.
Cơn bão nói cho ta về chất lượng thật của ngôi nhà.
Có bao nhiêu cơn bão mà ngôi nhà mỗi người vẫn phải gánh chịu mỗi năm?
Có lẽ ta nên chọn một câu Tin Mừng làm nền đá cho ngôi nhà đời mình.
Và xây cả đời mình trên việc sống câu Tin Mừng ấy.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Thực thi ý Chúa
Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lần phát biểu: Tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi".
Mẹ Têrêsa quả đã sống cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng công việc mà Mẹ và các nữ tu của Mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội, mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống và rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan. Do đó, thật mâu thuẫn khi Tin Mừng được sống với bộ mặt ủ rũ, khi Tin Mừng được loan báo với cung giọng buồn thảm.
Tin Mừng phải được thể hiện trước tiên qua cuộc sống của người rao giảng Tin Mừng, đó là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu bật những đòi hỏi ấy qua dụ ngôn hai ngôi nhà: ngôi nhà xây trên đá thì vững chắc, dù mưa sa bão táp cũng không thể làm lay chuyển, đó là hình ảnh người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, họ không chỉ lắng nghe lời Ngài, mà còn đem áp dụng vào cuộc sống. Ngôi nhà xây trên cát, đó là hình ảnh của những người nghe lời Chúa, nhưng không đem ra thực hành.
Tin Mừng vốn không chỉ được lắng nghe cho vui tai, mà là để được thực thi; chân lý không chỉ được hiểu biết suông, mà để được thực thi; bác ái không chỉ trên môi miệng, nhưng phải được thực thi bằng những việc làm cụ thể. Tựu trung đây cũng là sự nối dài và đòi hỏi của mầu nhiệm Nhập Thể trong đời sống đức tin. Thiên Chúa Nhập Thể làm người không chỉ là một chân lý trừu tượng, Ngài đã trở thành con người bằng xương bằng thịt; Ngài không phải là khách bàng quan đứng ngắm nhìn lịch sử nhân loại, Ngài đã nhập cuộc làm một với nhân loại, Ngài không rao giảng Thập giá như một lý thuyết suông. Ngài đã thực sự vác lấy Thập giá và đón nhận mọi khổ đau của con người. Do đó, tuyên xưng Thiên Chúa Nhập Thể làm người không phải chỉ là tuyên xưng một chân lý, mà thiết yếu là đi vào con đường Nhập Thể của Ngài.
Không thể có Kitô giáo và niềm tin Kitô mà không có dấn thân; không thể là môn đệ Chúa Kitô mà không đi lại con đường của Ngài; không thể rao giảng Tin Mừng bằng những lời nói suông; không thể sống niềm tin Kitô mà không mỗi ngày cố gắng nên hoàn thiện như Cha trên trời. Chúng ta vốn thán phục những người làm nhiều, hơn là những kẻ nói nhiều. Nói mà không làm là kẻ dối trá, nói một đàng nhưng làm một nẻo là kẻ lừa gạt. Tất cả rồi cũng qua đi, chân lý chỉ thực sự chiếu tỏ bằng cuộc sống trung thực mà thôi.
Nguyện xin Chúa gia tăng ý thức ấy nơi chúng ta. Xin cho niềm tin chúng ta tuyên xưng trên môi miệng được diễn đạt một cách sống động qua cuộc sống mỗi ngày. Xin cho đức ái luôn chiếu tỏa bằng những hành động cụ thể, để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Những người không thực hành đạo
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt. 7, 21)
Để xứng đáng là một Kitô hữu đích thực, tin vào những điều Hội thánh dạy, không đủ. Đọc Phúc âm, cảm mến giáo huấn của Chúa, và tâm trí, ngay cả tự thâm tâm, vẫn thiết tha trìu mến Phúc âm và lời Chúa dạy, vẫn không đủ. Phải hơn thế nữa: thực hành điều mình tin, tức là đưa đạo vào cuộc sống, đó mới là điều căn bản. Thế mà có nhiều Kitô hữu vẫn vỗ ngực nói rằng mình tin Chúa, nhưng họ lại không sống đạo như vậy. Họ là những người không thực hành đạo.
Những người giữ đạo ngày Chủ nhật
Khi chúng tôi nói những người không sống đạo, chúng tôi nghĩ ngay đến những người không đi lễ ngày chủ nhật. Cách họ giữ đạo như vậy, rõ ràng là có vấn đè. Quả là điều bất thường, khi đã đi theo một Giáo hội, mà lại không hề tham dự một buổi hội họp nào của Giáo hội ấy. Nhưng trong số những người không đi lễ ngày chủ nhật này, còn có nhiều người vẫn thực hành đạo trong đời sống, và thực hành tốt. Họ yêu mến những người thân cận. Họ vẫn cầu nguyện Chúa; khi phải lựa chọn việc phải làm, thái độ phải cư xử, họ thường lấy Phúc âm để soi sáng cho những lựa chọn của mình, và đôi khi họ làm còn nhiều hơn và tốt hơn cả những người vốn thấy có mặt đều đặn ở nhà thờ.
Còn những người khác
Những người đến nhà thờ ngày chủ nhật, người ta gọi họ là những người còn giữ đạo. Đúng. Nhưng điều đáng nói ở đây là họ chỉ tới để dự lễ mà thôi. Chỉ có thế thôi. Ở bên ngoài nhà thờ, họ cũng chỉ hoàn toàn là những người không sống đạo vậy.
Những Kitô hữu đi lễ ngày chủ nhật mà không thực hành Phúc âm thì cùng chính là những người không sống đạo mà còn tệ hơn. Mỗi ngày chủ nhật, họ có kêu cầu Chúa “Lạy Chúa, lạy Chúa”, cũng sẽ vô ích thôi. Chúa sẽ không nhân từ với họ. Người sẽ nói với chính họ rằng: “Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!”.
Chúng ta vẫn thường đi lễ. Tốt lắm. Nhưng ta có phải là những người sống đạo thực sự không?
SUY NIỆM 4: NGƯỜI KHÔN XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ (Mt 7, 21-29)
Xem lại CN 9 TN A, thứ Năm tuần 1 MV.
Gần cầu Bình Triệu, quận Thủ Đức – Sài gòn, nơi ven sông có một căn nhà biệt thự rất đẹp. Người người nhìn thấy đã trầm trồ, khen ngợi công trình tuyệt mỹ này. Hai tháng sau, người dân thấy lạ kỳ đến ngỡ ngàng vì không còn thấy nó đâu nữa! Hóa ra, trong hai tháng vừa qua, căn nhà mà người ta đã từng thích thú, giờ đây, nó đã bị nước cuốn trôi ra xa bờ khoảng 15m. Phải chăng ngôi nhà này móng không vững, hay ở dưới đã có dòng nước xoáy ngầm lớn làm cho đất bị sụt?
Hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người xây nhà. Nếu người xây nhà khôn ngoan, kinh nghiệm thì sẽ xây nhà mình trên nền đá, còn nếu thiếu khôn ngoan và hiểu biết thì sẽ xây nhà trên những thứ tạm bợ. Tiếp theo, Ngài đưa ra hình ảnh của những trận mưa lớn và nước dâng. Hậu quả là những ai xây nhà trên nền đá sẽ vững vàng, còn xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành.
Hình ảnh của người xây nhà trên đá chính là hình ảnh của những người trung thành với giáo huấn của Chúa và tuân theo. Họ gắn bó ngôi nhà cuộc đời của họ trên nền tảng Lời Chúa, gắn bó trong Chúa, nên không có gì và không ai có thể phá đổ được họ.
Còn hình ảnh những người xây nhà trên cát, chính là những người làm việc đạo đức vì hình thức, chiếu lệ, chứ không dựa trên nền tảng Lời Chúa, vì thế họ là những người thất bại tan tành. Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng nói về những hạng người giả hình này như sau: "Ðường Hy vọng dài thăm thẳm, Con đừng làm ‘Thánh lâm thời’: Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ" (ÐHV. 44).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết gắn bó cuộc đời của mình trên nền tảng Lời Chúa chứ không phải thuần túy qua công việc của Chúa. Như thế, chúng con sẽ đứng vững ngay cả khi thử thách dồn dập đến với chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
24/06 Gioan Tiền Hô
- Viết bởi Lc 1, 57-66. 80
Gioan Tiền Hô.
Thứ Tư tuần 12 thường niên – SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ. Lễ Trọng.
“Nó sẽ gọi tên là Gioan”.
* Hội Thánh hân hoan mừng ngày thánh Gioan Tẩy Giả chào đời. Sứ mạng của người là “làm chứng cho ánh sáng” đang đến khai mạc thời đại mới: đó là Đức Giêsu Kitô. Khi đề cập đến vai trò có một không hai của vị tiền hô, chính Đức Giêsu đã nói: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả”.
Lời Chúa: Lc 1, 57-66. 80
Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan”. Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó”. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan”. Và mọi người đều bỡ ngỡ.
Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”. Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm LỄ SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ
Lời Chúa: Is. 49, 1-6; Cv. 13, 22-26; Lc. 1, 57-66.80
1. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm
Giới trẻ ngày nay xem ra thích mừng sinh nhật hơn mừng lễ bổn mạng.
Ngày vui ấy thường đi với quà, tiệc mừng và những lời cầu chúc.
Thật ra mừng sinh nhật có thể là một hành vi mang nhiều tính tôn giáo.
Tôi nhớ đến ngày tôi được sinh ra,
một sinh linh bé nhỏ chào đời,
mang hình ảnh của Thiên Chúa, mang khuôn mặt của Đức Giêsu.
Ngày ấy quan trọng và đáng nhớ ngay cả đối với chính Thiên Chúa.
Dù thế giới có hơn 6,7 tỷ người thì một hài nhi mới sinh
cũng có một chỗ đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa.
Thiên Chúa có những ước mơ và dự tính riêng về từng con người.
Chẳng ai chào đời một cách tình cờ và ngẫu nhiên.
Mỗi người đều cần cho kế hoạch lớn của Thiên Chúa.
Mừng sinh nhật một cách nghiêm túc lại trở thành một lễ tạ ơn.
Tạ ơn Chúa đã cho tôi được làm người ở đời.
Bất chấp những khổ đau vấp ngã, những thất bại đắng cay,
tôi vẫn xin được yêu mảnh đời Chúa dệt cho tôi.
Hôm nay Giáo Hội mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả.
Chỉ có Đức Giêsu và Mẹ Maria mới được mừng ngày sinh trong phụng vụ.
Điều đó cho thấy sinh nhật của Gioan là biến cố có ảnh hưởng lớn.
Bài Tin Mừng hôm nay nói vắn gọn về chuyện sinh hạ và cắt bì Gioan,
nhưng kể dài hơn về chuyện đặt tên cho em.
Chúng ta có thể cảm được niềm vui lớn lao của người mẹ là bà Êlisabét.
Niềm vui này đã bắt đầu từ khi bà có thai Gioan.
Chẳng biết bà bao nhiêu tuổi, chỉ biết là bà đã cao niên lại không sinh con.
Hiếm muộn thời xưa thường bị coi là do người vợ.
Đó là một sự sỉ nhục (St 30, 23) và là một hình phạt của Chúa (2 Sm 6, 23).
Nhưng bà Êlisabét lại là người công chính thuộc dòng tư tế Aharon,
“sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa,
không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6).
Bà đã sống với nỗi đau này trong nhiều năm, sau bao lần chờ đợi và thất vọng.
Khi biết mình có thai trong lúc tuổi già,
bà tự nhủ: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó,
khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước người đời (Lc 1,25).
Ngày sinh của Gioan là ngày vui đặc biệt cho bà, người làm mẹ lần đầu.
Niềm vui ấy còn được nhân lên vì bà sinh một cậu con trai.
Láng giềng, thân thích đến chung vui với bà vì bà được Chúa thương.
Chúng ta không rõ bởi đâu mà Êlisabét đòi phải đặt tên cho con mình là Gioan.
Chỉ biết bà đã phản ứng quyết liệt chuyện đặt tên con là Dacaria.
Nhưng quyết định của người cha mới là quan trọng,
vì người cha thường là người có quyền đặt tên cho con,
qua đó nhìn nhận người con ấy là của mình (x. Mt 1, 21).
Ông Dacaria chẳng những bị câm, lại còn điếc nữa,
nên người ta phải làm hiệu để hỏi ý ông.
Khi ông viết trên bảng tên “Gioan” thì mọi người chưng hửng.
Chính lúc ấy một phép lạ xảy ra: ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa.
Gioan là tên mà sứ thần đã dặn ông lúc dâng hương trong Đền thờ.
Gioan (Yôkhanan) có nghĩa là ĐỨC CHÚA thi ân.
Gioan thật là một ơn của Chúa và sẽ đóng một vai trò trong lịch sử cứu độ.
Chúng ta để ý đến vai trò của bà con láng giềng trong bài Tin Mừng này.
Họ đến chung vui, can thiệp ít nhiều vào chuyện đặt tên đứa trẻ.
Họ bỡ ngỡ với cái tên Gioan, và kinh sợ khi ông Dacaria nói lại được.
Việc sinh hạ Gioan quả đã được vây bọc bởi nhiều chuyện lạ lùng.
Tiếng vang không chỉ nơi láng giềng thân thích,
mà còn được loan truyền khắp vùng đồi núi xứ Giuđê (c. 65).
“Rồi đây đứa trẻ này sẽ ra thế nào?”
Đó là câu hỏi mà ai cũng để tâm suy nghĩ sau khi nghe câu chuyện.
Hẳn là em này sẽ có một định mệnh và ơn gọi đặc biệt.
Có thể sau đó mọi sự lại lắng xuống,
còn cậu Gioan thì vẫn lớn lên, tinh thần vững mạnh.
Cậu không lập gia đình và sống trong hoang địa, chờ ngày đến với Ítraen.
Mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả,
chúng ta thấy được sự khiêm tốn của Thiên Chúa.
Để giới thiệu Con của Người là Đức Giêsu cho dân Ítraen,
Thiên Chúa cần đến Gioan, một người dọn đường.
“Để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng
kêu gọi toàn dân Ítraen chịu phép rửa tỏ lòng sám hối” (Cv 13, 24).
Và Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc sinh hạ của con người này.
“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ,
lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi” (Is 49,1).
Hình ảnh người Tôi Trung trên đây trong Isaia khá hợp với Gioan.
“Người là đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ
để tôi trở thành người Tôi Trung đem nhà Giacóp về cho Người…” (Is 49,5).
Hóa ra việc Thiên Chúa chọn, gọi và giao sứ mạng
đã diễn ra ngay từ con người chỉ mới là phôi thai trong lòng mẹ.
Điều này đúng với Gioan:
“Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ.
Em sẽ đưa nhiều con cái Ít raen về với Đức Chúa…
và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1, 15-17).
Gioan đã được gọi để làm ngôn sứ cho dân tộc của ngài,
giúp cho dân Ítraen đón nhận Đấng đến sau ông nhưng lại có trước ông.
Ơn gọi ấy đã làm cho ông hiện hữu ở trên đời.
Cuộc sinh hạ của Gioan được coi là kỳ lạ.
Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng.
Khi rửa tội một em bé mới sinh,
chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi: Em này rồi sẽ ra sao?
Đâu là định mệnh tương lai của em?
Đâu là con đường riêng mà Chúa muốn em đi?
Chúng ta chỉ mong bàn tay Chúa ở với em (Lc 1, 66).
Những thai nhi, những hài nhi, những trẻ thơ hôm nay ở quanh ta
cũng được hiện hữu và được trao một sứ mạng.
Mừng sinh nhật một vị thánh, chúng ta thêm trân trọng sự sống nơi các em,
và thấy mình có bổn phận nâng đỡ để các em đi con đường Chúa muốn
và trở thành những người đưa dân tộc Việt Nam đến với Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
2. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
A. Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ; trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ…đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Nhưng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:
- “Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy”.
Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…
Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ”. Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ”.
Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ” (Mt 11,11)
Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành loan truyền của ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo ấy mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.
B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày tái sinh của chúng ta.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, người tín hữu Kitô chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài góm tọn trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại câu chuyện một cụ già An Đo như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả...nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “ Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.
C. Gioan còn có tước hiệu là Tẩy Giả. Ngài đã kêu gọi mọi người sám hối và làm phép rửa sám hối cho những kẻ thật lòng ăn năn.
Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn” của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán đang cần đến những cơn mưa tình thương và Ơn Cứu Độ của Chúa.
Có một lần ông Ra-un cùng vợ đến thăm một trại cùi. Ông bà thường vẫn có thói quen bắt tay các anh chị em phong cùi vì họ biết bệnh phong cùi khó lây lan.
Ông giám đốc trại cùi dẫn hai ông bà đi thăm trại và giới thiệu với họ trường hợp của một nữ bệnh nhân tên là Tella. Ông Ra-un giơ tay ra định bắt tay Tella, nhưng bà này vội giấu tay lại phía sau lưng nhanh như chớp rồi nói:
- Luật cấm bắt tay.
Thấy ông giám đốc có vẻ ngượng ngùng, ông Ra-un hỏi:
- Thế ở đây có cấm ôm hôn người cùi không?
Ông giám đốc bối rối trả lời:
- Luật của chúng tôi không dự trù trường hợp này.
Ông Ra-un liền kết luận:
- Như thế là được phép ôm hôn người bệnh phải không? Nói rồi ông Ra-un ôm và hôn bà Tella với tất cả lòng thương mến chân thành. Cử chỉ yêu thương bất ngờ ấy của ông Ra-un như một tiếng sét đập tan và tiêu hủy tất cả mọi ngăn cách sợ sệt giữa hàng trăm anh chị em phong cùi đứng chung quanh và sau đó người cùi nào cũng muốn ôm hôn ông Ra-un, người tông đồ nhiệt thành và là bạn đáng yêu của hàng triệu anh chị em phong cùi trên khắp thế giới.
Ông thường nói: Tôi không phải là bác sĩ nên tôi không thể chữa cho họ lành bệnh được. Tôi chỉ có thể thương họ thôi, bởi vì họ cũng là con cái của Chúa.
Xin nhắc lại ở nơi đây một lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã nói lời này để kết thúc một dụ ngôn nổi tiếng của Chúa. Đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu: “Anh hãy đi và làm như thế” Chúng ta hãy đi và làm như thế. Amen.
3. Tên là Gioan – J.M
GIOAN TẨY GIẢ
Ngay từ trong lòng mẹ, Ngài đã được đặc ân riêng biệt. Ngài mặc áo lông lạc đà. Một hình ảnh nổi bật được nhà điêu khắc Rôbin tạc về Gioan là vị Tiền Hô! Một người đầy nhiệt huyết, mạnh mẽ: xông pha làm chấn động như một lực sĩ vô địch chạy nước rút. Một hình ảnh cường tráng, nhưng dịu dàng. Một đời sống ngắn ngủi, vì bạo lực đã kết thúc đời Ngài. Nhưng Ngài coi bình thường, một đời sống không khoan nhượng!
Đàng khác Ngài rất khiêm nhường, cảm thương mọi người, được kính trọng đồng thời bị ghét bỏ! người ta không lạ gì khi nghe Ngài tuyên bố: “Tôi không đáng cởi dép cho Người!”
Gioan hẳn đã biết Đức Giêsu, người anh em bà con mình, là Thiên Chúa là tổ phụ Abraham, Isaác và Israel, mà Ngài được gặp hằng ngày trong kinh nguyện và trong lời rao giảng? Gioan không phải là Thánh tử đạo (Người ta không xử tử ông vì đức tin), Ngài không phải là chứng nhân của Thiên Chúa, chỉ là tiếng kêu trong Samạc...
Vì đó là người nhập cuộc hành trình trên con đường trong Samạc.
Con người sống ngoại lệ.
Từ rất sớm, Gioan phải kham khổ, vì do sinh ra khác thường, bởi cha mẹ già cả, mang một tên không theo dòng họ. Ông bố bị câm, được nói như trước. Tất cả những thứ đó đè trên vai đứa trẻ, đứa thanh niên. Tiểu sử đó đã lan ra khắp xứ ngay sau khi đứa trẻ ra đời, nó phải chịu cái nhìn tò mò của mọi người, của bạn bè, chắc chắn nó đã chế nhạo ông bạn ngây thơ của chúng. Câu cuối của đoạn Tin Mừng này nói lên sự đau khổ lớn lao của Gioan: “Cậu bé càng lớn lên tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel!”
Trong hoang địa...
Đó là một người được chiếu cố! không phải để trở nên ngôn sứ, không phải do Thiên Chúa lạm dụng, nhưng vì đồng hương từ chối cậu, cậu không được quyền sống như người khác! Họ muốn cậu phải trung thành với ơn gọi mình, họ không biết thánh ý Thiên Chúa, nhưng đẩy cậu đi vì sự tuyển chọn của Thiên Chúa....
4. Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo
Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày tử trần của vị ấy, quen gọi là "ngày sinh nhật trên trời" của người, ngày người sinh ra trên trời. Duy chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ thế. Tưởng không có gì lạ. Tất cả cuộc đời của thánh nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra, chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.
Con người của một sứ mạng
Có những người cho rằng người ta sinh ra ở đời là "bị vất vào đó”, một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa. Thông thường hơn, người ta nói mỗi người có một định mệnh. Trước định mệnh ấy con người đành bó tay chịu đựng, không cách nào thoát ra được. Người Công giáo thì tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa, rằng không phải một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó đã ném họ vào đời, nhưng chính tình Yêu của Chúa "gọi" họ vào cuộc sống và khi cho một con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định, một dự tính về người ấy, không phải như một kế hoạch áp đặt nhưng như một sứ mạng để hoàn thành trong tự do và trách nhiệm hầu cho con người được hạnh phúc và cuộc đời họ được thành tựu đích thực. Ta gọi sứ mạng đớ là một "ơn gọi". Về mặt này, trường hợp của ông Gioan Tấy Giả là tiêu biểu vả rõ ràng.
Qua tưởng thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ Chúa Cứu Thế gặp nhau vv..Trong các biến cố đó, ta thấy có sự can thiệp lạlùng của Chúa vào trong cuộc đời của Gioan để định hướng cho nó. Điều đáng nới hơn là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn vẹn, cho tới cùng. Ông rút lui sớm vào hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian là để được sống trọn vẹn hướng về Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ "dọn đường". Ông rao giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám hối đổi đời vì thời gian không còn nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới. Sau khi thiên hạ đã rời ông để quay sang Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi", ông tuyên bố như thế (Ga 3,30). Rồi cả cái chết của ông cũng là một phần không thể tách lìa của sứ mạng của một kẻ "dọn đường” và "làm chứng cho ánh sáng và sự thật”.
Gioan và Hêrôdê
Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và Vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại thích xa hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.
Một lời hứa bốc đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con gái hãy xin cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.
Vua Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp hèn.
Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những đỉnh cao.
Thánh Gioan Tẩy Giả và chúng ta.
Như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên "theo hình ảnh của Thiên Chúa", "có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa" và "chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa". Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: "Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu, (sđd, số 6).
Đó là ý định chung của Thiên Chúa là ơn gọi chung của chúng ta. Mỗi người sẽ phải thế hiện ơn gọi đó cho nên mình tùy theo diễn tiến cụ thể đời mình, theo những điều kiện và hoàn cảnh sống thực tế, khi ra sức tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong lề luật của Người và lời dạy của Giáo hội, trong việc bổn phận của bậc sống mình, trong lương tâm ngay thăng, trong luật lệ chính đáng của xã hội, trong các biến cố...
Không phải tự nhiên và dễ dàng mà chúng ta có thể thực hiện ý định của Chúa đối với chúng ta. Trong mỗi người đều có hai khuynh hướng: một nâng ta lên cao, một kéo ta đi xuống. Chúng ta thường xuyên kinh nghiệm rằng hai khuynh hướng thiện ác đó đấu tranh kịch liệt với nhau ngay trong ta. Muốn chiến thắng, phải tỉnh thức và cầu nguyện, phải tập nghe theo tiếng nói của lý trí, của lẽ phải và lương tâm, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; đồng thời cũng phải tập sống khổ chế, nghĩa là sông có kỷ luật, biết hy sinh và từ bỏ. Làm sao có thể có một đời sống tinh thần phong phú nếu lúc nào cũng tìm kiếm và chiều theo những sự dễ dãi, thoái mái, nêu lúc nào cũng chạy theo vui thú vật chất và xác thịt?
Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa. Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế mới. Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc đạo. Đặc biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980. Bây giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái. Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.
Theo "ơn gọi" và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương vị Tiền Hô.
5. Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ)
Ngoài Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, nghĩa là lễ Chúa Giáng Sinh, trong lịch phụng vụ của Giáo Hội, chỉ có hai ngày lễ mừng sinh nhật: sinh nhật của Đức Maria (ngày 8/9) và sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả (ngày 24/6). Chúng ta có thể hỏi: tại sao cùng với Giáo Hội chúng ta chỉ mừng lễ sinh nhật của Đức Maria và của thánh Gioan mà thôi, chứ không mừng sinh nhật của các vị thánh khác?
Đó là bởi vì, sự sinh ra của Đức Maria và của thánh Gioan có liên quan đặc biệt đến sự sinh ra của Đức Giêsu: Đức Maria được Thiên Chúa chuẩn bị cách đặc biệt, ngay trong lòng mẹ, để sau này cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế; còn sự sinh ra của thánh Gioan nhắc nhớ cách Thiên Chúa hành động trong lịch sử cứu độ, và cách hành động này sẽ trở nên viên mãn nơi Đức Kitô, ngay từ biến cố Giáng Sinh của Người.
1. Thánh Gio-an và lịch sử cứu độ
Như chúng ta đều biết, theo lời kể của thánh Lu-ca, thánh Gioan là ơn huệ Thiên Chúa ban, khởi đi từ cung lòng hiếm muộn và già cỗi của mẹ Elizabeth, như chính ông Zacharia thú nhận: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng cao niên” (Lc 1, 18); và chính sứ thần Gabriel loan báo cho Mẹ Maria: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng” (c. 36).
Sự kiện bà Elizabeth với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, đó là vì “Chúa đã rộng lòng thương xót bà” (c. 58). Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với bà Elizabeth nhắc nhớ lòng thương xót của Thiên Chúa trong toàn bộ lịch sử cứu độ: Thiên Chúa làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người vẫn chưa xuất hiện và ở những hoàn cảnh mà con người hoàn toàn bất lực. Thật vậy, trong công trình sáng tạo, từ mặt đất trinh nguyên, Thiên Chúa làm trào vọt ra sự sống, sự sống phong nhiêu của muôn loài muôn vật, và nhất là sự sống của con người, được hình thành theo hình ảnh của Thiên Chúa; và trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn làm trào vọt ra sự sống ở nơi không còn hi vọng gì: đó là cung lòng đã chết của tổ phụ Abraham và bà Sara, đó là biến cố Xuất Hành: “Đường của Chúa băng qua biển rộng, lối của Người rẽ nước mênh mông, mà chẳng ai nhận thấy vết chân Người” (Tv 77, 20), đó là sự sống, ngang qua ơn huệ lương thực, Chúa ban cho Israel trong hành trình trong sa mạc, đó là sự khai sinh ra vương quốc khởi từ những xung đột chết chóc, đó là niềm hi vọng, được nuôi dưỡng bằng lời ca tụng, khi không còn gì để hi vọng: “Tôi đã tin, cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề…”. Và Đức Kitô sẽ đến để lấp đầy niềm hi vọng này.
Bà Elizabeth vừa già cỗi và và hiếm muộn, không thể sinh con, là hình ảnh nói lên chính tình cảnh bi đát của Israen, của nhân loại và của từng người chúng ta, bất lực trong việc xây dựng sự sống của chúng ta trong hiệp nhất và tình yêu, và vì thế để cho bầu khí chết chóc làn tràn và để cho Sự Dữ ngự trị. Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót đối với bà Elizabeth, khi cho bà cưu mang và sinh con, người con mang tên Gioan, nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”, thì chắc chắn, Thiên Chúa cũng đã và đang thương xót nhân loại chúng ta, Hội Dòng và cộng đoàn chúng ta, gia đình chúng ta và từng người chúng ta.
2. Thánh Gioan và Đức Kitô
Sự sống của thánh Gioan là một tuyệt tác của Thiên Chúa, diễn tả quyền năng ban sự sống của Người; nhưng Đức Giêsu, sinh bởi Đức Maria, là tuyệt tác còn lớn hơn và là tuyệt tác duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi: đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, trong ngày sinh nhật của thánh Gioan và nhất là của Đức Giêsu, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Trong đời sống dâng hiến, các nam nữ tu sĩ được mời gọi sống “trinh nguyên” (trinh nguyên, tiên vàn không phải thể lý, nhưng là một con tim ước ao sống bởi và sống cho một Thiên Chúa), chính là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh, bền vững và phong phú, bằng quyền năng sáng tạo của Ngài.
Ngoài ra, tên gọi “Gioan” nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”; trong khi tên gọi “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ”, là Ơn Huệ của mọi ơn huệ, là Ơn Huệ mà mọi ân huệ khác hướng tới và chỉ là dấu chỉ, và là Ơn Huệ một lần cho tất cả. Như thế, thánh Gioan không chỉ loan báo Đức Giêsu bằng cuộc đời và cái chết của mình, nhưng còn bằng chính biến cố sinh ra và tên gọi nữa.
Xin cho chúng ta cũng hướng về Đức Kitô như thánh Gioan, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, ngang tất cả những gì chúng ta là, được chất chứa trong “tên gọi” của chúng ta; và xin cho Người nổi bật lên trong cuộc đời, ơn gọi và từng ngày sống của chúng ta.
3. “Chúc tụng Đức Chúa…”
Về chuyện ông Zacharia, cha của thánh Gioan, bị câm, nhưng ngay sau khi đặt tên cho con là “Gioan”, thì ông nói được, cũng rất có ý nghĩa. Bởi vì, sự kiện ông không nói được, là một dấu chỉ nhắc nhớ ông rằng, có một lúc ông đã không tin vào quyền năng Thiên Chúa có thể thi ân ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, có thể làm phát sinh sự sống nơi cung lòng hiếm hoi và già cỗi của bà Elizabeth.
“Không nói được”, không chỉ là không nói được ngôn ngữ, nhưng nhất là không thể ca tụng Chúa được. Thật vậy, khi người ta không tin, không nhận ra ơn Chúa ban cho mình và người khác, thì không thể ca tụng Chúa được. Chính khi ông đặt tên cho con là Gioan, “Thiên Chúa Thi Ân”, thì ông “lưỡi ông lại mở ra, ông nói được” và lời nói đầu tiên là lời chúc tụng Thiên Chúa: Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Đó là lời tán tụng Benedictus bất hủ, vang lên mỗi ngày trong Giờ Kinh Sáng của chúng ta. Ước gì, khi đọc hay hát lời chúc tụng này, chúng ta mặc lấy tâm tình của ông Zacharia, bố của thánh Gio-an. Xin cho chúng ta tin tưởng và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, để có thể cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”. Nếu không, dù chúng ta có nói bi bô suốt ngày, thì cũng như là “người câm” vậy thôi!
Nhưng chúng ta được mời gọi đi xa hơn, bằng cách định hướng đời mình và từng ngày sống theo năng động chúc tụng Thiên Chúa. Và để được như thế, chúng ta cần tín thác và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, cần đặt đời sống, ngày sống và hành động trên nền tảng tâm tình biết ơn đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa, được bày tỏ cho chúng ta một cách thật hữu hình, có thể nhìn thấy được, đó là Thánh Tâm của Chúa bị đâm thâu.
“Lạy Thiên Chúa, là Cha của chúng con, xin thương xót chúng con, để chúng con đón nhận và xây dựng sự sống của chúng con như ân huệ và theo ơn gọi Chúa ban, bằng cách gắn bó mật thiết và nên một với Đức Giêsu Kitô, Con của Cha, từ lúc chúng con sinh ra cho đến lúc chúng lìa bỏ cuộc đời này, theo gương thánh Gioan Baotixita. Amen”.
6. Có bàn tay Chúa phù hộ
Phải thú thật là Thiên Chúa của chúng ta hay làm những chuyện... “ngược đời”. Cứ sự thường thì phải thế này hoặc thế kia, nhưng Chúa lại chọn một cách khác, hoàn toàn theo ý định nhiệm màu của Người. Người đảo lộn mọi toan tính lập trình cho dẫu hợp lý và quy mô đến đâu đi nữa của trần gian. Như trong một trò chơi cút bắt, Người vuột thoát khỏi vòng vây của con người chỉ những mong chộp lấy Người để huy động” Người theo ý muốn ích kỷ của mình.
Chúng ta cứ xem cách thức Thiên Chúa chọn Đức Ma-ri-a để làm thân mẫu của Đức Giêsu Nhập Thể. Chỉ là một thôn nữ nghèo, vậy thôi! Đến nỗi Đức Ma-ri-a phải thốt lên: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...” Sao lại không chọn một mệnh phụ, một bà hoàng, một phu nhân tổng thống, một nữ viện sĩ Hàn Lâm, hay một siêu người mẫu? Vậy là tiêu chuẩn của Chúa trổi vượt mọi lượng giá tầm thường, thấp lè tè sát đất của con người.
Lại đến chuyện vợ chồng Da-ca-ri-a và Ê-li-da-bét. Dẫu ông cụ là một tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, dẫu bà cụ cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron (x. Lc 1, 5), nghĩa là cũng môn đăng hộ đối đấy chứ, nhưng đã đáng là gì đâu giữa một dân tộc Ít-ra-en chẳng thiếu gì kẻ vênh vang con ông cháu cha, em vua chị chúa? Lại còn thêm hiếm hoi son sẻ, gần đất xa trời rồi mà chẳng được một mụn con nối dõi tông đường! Vậy mà Thiên Chúa lại can thiệp để một Gioan Tẩy Giả vĩ đại sẽ được chào đời, “sẽ đi trước mặt Chúa,...để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. (Lc 1, 17) Đến phiên bà cụ Ê-li-da-bét tự nhủ lòng: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1, 25).
Rồi sau này, tới phiên Đức Giêsu, Người cũng sẽ có đường lối tuyển chọn “ngược đời” y như thế. Hóa ra Thiên Chúa chỉ muốn “chấm” những con người hiền lành, khiêm tốn, có tấm lòng chất phác mộc mạc, có một nỗi khao khát cháy bỏng, một ngong ngóng chờ đợi khôn nguôi hướng về Đấng Mê-si-a.
Trước sự kiện em bé Gioan Tẩy Giả chào đời, rồi ông Da-ca-ria mở miệng nói được mà chúc tụng Thiên Chúa, hàng xóm láng giềng và dân chúng khắp miền núi Giu-đê, ai cũng phải “kinh sợ”, “để tâm suy nghĩ và tự hỏi: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Còn tác giả sách Tin Mừng Lu-ca thì kết gọn một câu: “Quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em!” (Lc 1, 68)
Đối với chúng ta hôm nay thì sao nhỉ? Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả chung chung hời hợt như vậy rồi xong chuyện hay sao? Giáo Hội muốn gửi cho chúng ta thông điệp nào đây, khi mà một năm Phụng Vụ chỉ có 3 Lễ mừng Sinh Nhật của 3 người?
Với Đức Giêsu thì đương nhiên phải mừng trọng thể tưng bừng bằng cả một mùa Noel rồi.
Với Đức Ma-ri-a vào ngày 8.9 hằng năm cũng không lạ.
Nhưng với Gioan Tẩy Giả thì đáng cho chúng ta lắng lòng suy niệm.
Trong khả năng hạn hẹp của mình, chúng tôi chỉ xin đề nghị dừng lại ở xác quyết “Có bàn tay Chúa phù hộ” để tự mỗi người tự đặt ra cho mình một câu hỏi: “Ấy vậy, bản thân tôi, có bàn tay Chúa phù hộ đời tôi hay không?” Hỏi là đã có sẵn trả lời được rồi đó...
Lại một câu hỏi khác không thể không được đặt ra tiếp: “Về phần mình, chúng ta sẽ đáp trả như thế nào đây khi đã xác quyết mình luôn được bàn tay Chúa hộ phù?” Cần phải nói ngay rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ có ý đồ đầu tư trước mắt để sẽ trục lợi về lâu về dài, một vốn mà bốn lời. Tất cả chỉ là do lòng yêu thương: Người tuyển chọn, rồi không ngừng hộ phù gìn giữ để chúng ta cứ thế mà tăng trưởng, đi cho đúng tuyến, sống cho đúng đạo.
Mọi sự đã rõ, được sinh ra và lớn lên trong bàn tay hộ phù của Thiên Chúa, chúng ta cứ nghiệm xem: sau này Gioan Tẩy Giả sống vai trò Ngôn Sứ và chết vì Chân Lý như thế nào, để rồi chính Đức Giêsu đã phải khẳng định về ông anh họ của mình là: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan...” (x. Lc 7, 28).
Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn” của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán bằng những cơn mưa Ơn Cứu Độ.
Mà thôi, khoan hãy nói đến chuyện lớn lao cả thể mà chỉ cần nghiệm sinh về sự Quan Phòng của Thiên Chúa đối với những con người bé nhỏ nghèo hèn ngay trước mắt chúng ta đây cũng đã quá đủ.
Đã nhiều lần, ngồi trước computer, nhận về cho GOSPELNET những E-Mails từ khắp mọi nơi muốn chia sẻ trợ giúp bằng cả tấm lòng, scan những tấm ảnh chụp những em bé bị tim bẩm sinh, những em bé bị bại liệt, những học sinh nghèo ở nông thôn... và gõ lên bàn phím những giòng chữ thông tin về những thai nhi vừa được giành lại cho sự sống..., tự nhiên thấy thấm thía vô cùng, rằng: “Có bàn tay Chúa phù hộ!”
7. Sinh nhật Gioan
Mọi người ngạc nhiên và sợ hãi mà nói:
Thằng nhỏ này rồi sẽ ra sao, vì bàn tay Thiên Chúa ở cùng nó.
Bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, nghĩa là Thiên Chúa đã ban nhiều đặc ân cho Gioan:
- Đặc ân thứ nhất, là Thiên Chúa cho Gioan sinh ra bởi một người bà già, bà Elisabeth, mà bà già này lại mắc bệnh từ tuổi thanh xuân, đến nỗi chính ông Giacaria cũng không thể tin được là bà Elisabeth sẽ sinh con, nên ông đã bị Thiên Chúa phạt cho mắc bệnh câm.
- Đặc ân thứ hai: là chính Thiên Chúa đã đặt tên cho Gioan, mà thiên thần Gabriel đã phán với ông Giacaria tại bàn thờ dâng hương trong đền thánh Giêrusalem. Nhưng họ hàng lại nói với bà Elisabeth rằng: trong họ, có ai tên như thế đâu?
- Đặc ân thứ ba: đến khi Gioan sinh ra, đã được khỏi tội tổ tông ba tháng rồi. Vì thánh Ambrosiô giám mục thành Milan đã nói: các thánh khác chỉ được mừng lễ, sau khi đã lập nhiều công phúc ở thế gian mà về trời. Còn thánh Gioan lại được mừng lễ sinh nhật như Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria.
Vậy khi ban những đặc ân trên, Thiên Chúa cũng đòi Gioan phải đến đáp bằng cách chu toàn những nhiệm vụ Chúa đã trao phó
1. Nhiệm vụ thứ nhất là tiền hô, là người đi trước, loan báo cho dân chúng biết Chúa cứu thế sắp đến. Mà thực thế mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng nuí Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây da, lương thực là châu chấu nướng, chấm với mật rừng, tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Giodanô, nên hội đồng cộng tọa của người Do thái đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là đấng Kitô không?
Thày tu hành Gioan trả lời: tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ mạng dọn đường cho Chúa cứu thế đến. Rồi hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: đây là đấng cất tội thiên hạ, người này là con Thiên Chúa (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ bỏ thày mà theo Chúa Giêsu. Đó là Anrê và Gioan
Hôm nay mừng kính sinh nhật thánh Gioan, Chúa cũng muốn ta trở nên tiền hô cho Chúa: rao giảng Chúa Giêsu cho người khác, đem Chúa Giêsu cho người khác, và đem người khác đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là mục đích đời ta, Chúa Giêsu cũng là mục đích của người khác. Còn tôi chỉ là người môi giới, là phương tiện Chúa dùng, để đem người khác đến với Chúa chứ không phải đem người ta đến với tôi mà quên Chúa, cũng không phải đem người ta đến với tôi mà xa Chúa.
2. Nhiệm vụ thứ hai Chúa cậy nhờ Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho Chúa. Vậy theo Tin mừng thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mạng mạng dọn đàng cho Chúa cứu thế đến: là bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, uốn thẳng đường quanh co, nghĩa là Gioan dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái,
Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn độc, bò quanh co, không thể thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Với những người có lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, dùng việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội lỗi.
Với bọn thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, mà chỉ cần giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm hỗ.
Với quân nhân, Gioan kêu họ đừng hà hiếp bóc lột ai, đừng dọa nạt ai, nhưng phải bằng lòng về số lương của mình.
Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa tỏ lòng khiêm tốn ăn năn để được ơn tha thứ, được thấy ơn cứu độ.
Bởi thế, khi thấy Gioan làm phép rửa, những người biệt phái đã đến hỏi: Nếu không phải là đức Kitô, tại sao ông lại làm phép rửa? Thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy sẽ rửa các ông bằng nước và Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Thiên Chúa cũng muốn tôi trở nên những tẩy giả. Vậy những người đến với tôi, tôi có làm cho họ trở nên trong sạch hơn không? Tôi có làm cho họ tới gần Chúa hơn không? Hay tôi lại làm cho họ dơ bẩn hơn, mà không đáng đến gần Chúa.
3. Nhiệm vụ thứ ba, Chúa cậy nhờ Gioan là làm cho mình nhỏ bé lại, để cho Chúa lớn cao hơn. Thánh Gioan thực hiện khi Gioan nói: tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên. Nghĩa là Gioan phải bỏ mình, phải chịu thiệt thòi, để Chúa được vinh danh hơn. Gioan đã vui lòng mất hai môn đệ, để Anrê và Gioan theo Chúa.
Thánh Augustinô tiến sĩ, giám mục giáo phận Hippon còn thể tư tưởng này: Gioan phải thấp bé đi, là vui lòng chịu Herođê chặt đầu, để bắt chước Chúa Giêsu được lớn lên, là bị treo trên thánh giá. Còn tôi, tôi có sẵn sàng chịu nhục mạ để Chúa được vinh danh không? Tôi có sẵn sàng chịu tử đạo thiêng liêng bằng thiếu thốn về thể xác, bị hiểu lầm về phương diện tinh thần, để bắt chước Chúa đã được lớn lên bằng treo trên thập giá không?
Kết
Thằng nhỏ này sẽ ra thế nào, vì có bàn tay Thiên Chúa ở với nó. Lạy Chúa bàn tay Chúa đã ban đặc ân cho thánh Gioan tiền hô, thì bàn tay Chúa cũng đã nâng đỡ đời sống hy sinh của Gioan. Xin bàn tay Chúa cũng nâng đỡ chúng con như thế, vì xác thịt chúng con yếu đuối nặng nề.
8. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả
* LỊCH SỬ
Ngoại trừ Đức Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ còn có thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh được mừng vào ngày sinh nhật thật của mình, ngày sinh ra trong trần thế; các đấng thánh khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày chết. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24.6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh của Chúa Cứu Thế.
Theo tường trình của Phúc Âm thánh Luca, Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, khi Trinh Nữ Mẹ Chúa Cứu Thế chào bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan. Sự kiện đặc biệt ở ngày sinh ra hướng ý cho chúng ta thấy ý nghĩa của Gioan trong lịch sử cứu độ.
So với Tân Ước, Gioan vẫn còn thuộc về Cựu Ước; ngài được Thiên chúa gọi để chuẩn bị dân chúng đón Đức Giêsu đến bằng các bài giảng nói về nước Thiên Chúa và lời kêu gọi sám hối. Chính Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa thống hối từ tay ông ta và những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu cũng xuất thân từ đám môn đệ của Gioan. Chính Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang mạc, người Tiền Hô cho Đấng vĩ đại đang đến. Còn Đức Giêsu gọi ông là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14). (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Tường thuật Gioan Tẩy giả sinh ra nhấn mạnh đặc biệt vào việc đặt tên:
- Đây là một cái tên đặc biệt (c 61: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả”)
- Nhưng lại được cả bà Êlisabét và ông Dacaria nhất trí mặc dù trước đó Dacaria bị câm không nói chuyện được với vợ.
- Tên Gioan có nghĩa là “Chúa thương” và là tên do thiên thần bảo phải đặt (Lc 1,13).
Như thế, Gioan tẩy giả là kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ trong bụng mẹ, để trở thành ngôn sứ loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Khi cho một người sinh ra, Thiên Chúa đã có sẵn một sứ mạng dành cho người đó. Sứ mạng của Gioan là làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và Gioan đã làm tròn sứ mạng đó, cho nên dù chết sớm, Gioan cũng hoàn thành tốt đẹp ý nghĩa và sứ mạng của đời mình.
Còn tôi, sứ mạng của tôi là gì? Sống bao nhiêu năm nay, tôi có nghĩ đến đều đó không? Có quan tâm thi hành sứ mạng ấy không? Nhà thơ Nguyễn công Trứ viết: “Đã mang tiếng sống trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Tôi không màng đến “danh”, chỉ muốn chu toàn sứ mạng Chúa giao cho đời mình.
2. Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết. Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi.
Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.
3. “Khi con trẻ được 8 ngày, họ đến làm phép cắt bì (cho cậu)”: cắt bì là dấu chỉ từ nay đứa trẻ thuộc về Chúa và dân của Chúa. Hồi còn bé, mỗi người chúng ta cũng được lãnh nhận Phép Rửa và được dâng hiến cho Chúa, được thuộc về Giáo Hội. Hôm nay suy gẫm về phép cắt bì của Thánh Gioan, chúng ta hãy nhớ lại ngày mình được dâng hiến cho Chúa và Giáo Hội. Ngày ấy cha mẹ dâng hiến ta, hôm nay chúng ta hãy tự dâng hiến mình một cách ý thức và đầy lòng yêu mến.
4. Cô bé nói với anh trai: nhân ngày sinh nhật ba, em se tặng ba đôi dép. Người anh nói: “Nhưng em lấy tiền đâu mà mua?” Cô bé tròn mắt nhìn anh nói: “Ba cho em tiền mà!” Người anh lặng thinh nghĩ: ba cậu muốn có quà tặng trong ngày sinh nhật. Và vì yêu con gái, ông muốn nhận quà tặng từ tay đứa con yêu quí.
Chúng ta cũng chẳng có gì là của riêng mình để dâng cho Chúa. (Góp nhặt)
5. “Phải đặt tên cháu là Gioan” (Lc 1,60b)
Khi đặt tên cho con mình, bà Êlisabét và ông Dacaria đều muốn “đặt tên con là Gioan”. Cả hai đã chọn cho con một cái tên thật lạ trong họ hàng. Việc này cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa. Gia đình Dacaria đã đón nhận sự can thiệp này trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Chúa cũng can thiệp vào đời sống của tôi. Nhưng tôi đã không nhận ra ý Ngài; hoặc tôi đã gạt Chúa ra khỏi đời mình chỉ vì ý Ngài ngược lại ý của tôi và đảo lộn cả cuộc sống của tôi.
Lạy Chúa, xin cho con lòng tin vững mạnh, để con có thể nhận ra sự can thiệp của Chúa trong đời con (Hosanna)
6. “Ngay lúc ấy, miệng ông mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa”: Ông Dacaria đã bị phạt câm hơn 9 tháng. Hôm nay ông mở miệng, và lời đầu tiên của ông là chúc tụng Thiên Chúa. Ông chúc tụng vì ông hết câm, vì ông được có con, nhưng cũng còn vì Chúa đã sửa dạy ông, nhờ đó hôm nay ông không còn hồ nghi Chúa nữa nhưng vững tin hơn vào quyền năng Thiên Chúa.
Noi gương ông Dacaria, con cũng dâng lời chúc tụng Chúa vì những sự việc và biến cố Chúa dùng để sửa dạy con.
9. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
+ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II
1. "Thiên Chúa đa gọi tôi từ bụng mẹ, từ thân xác mẹ tôi, Người đa đặt tên cho tôi” (Is 49:1).
Hôm nay chúng ta mừng kính le sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Nhưng lời của tiên tri Isaia rất thích hợp để dien tả nhân vật trọng đại này của Thánh kinh, người là một gạch nối giưa Cựu Ước và Tân Ước. Trong hàng ngu các vị đại tiên tri và số nhưng người công chính thi Gioan “Phép Rửa” đa được sự quan phòng Thiên Chúa đặt để đi trước Đấng Thiên Sai (Messiah) hầu sửa soạn con đường trước cho Ngài bằng cách giảng dậy và làm chứng nhân cho cuộc sống của Đức Kitô.
Trong tất cả các thánh nhân, chỉ riêng có thánh Gioan Tẩy Giả mới được Lich Phụng Vụ của Giáo Hội mừng ngày sinh nhật mà thôi. Chúng ta nghe từ Sách Thánh, bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa kêu gọi Tôi Tớ của Ngài “từ trong bụng mẹ”. Lời xác nhận này trong ý nghĩa đầy đủ nhất nói về Chúa Kitô, nhưng trong một ý nghĩa rộng hơn cung có thể áp dụng vào trường hợp của Vi Tiền Hô đi trước Ngài. Cả hai đều được sinh ra do kết quả sự can thiệp từ Thiên Chúa: một Đấng được sinh ra bởi một Trinh Nư, Đấng khác sinh ra bởi một bà lao hiếm muộn. Ngay cả khi còn trong lòng mẹ, Gioan đa chỉ điểm cho thấy Đấng se mặc khải cho thế giới về chương trinh yêu thương của Thiên Chúa.
2. "Từ trong bụng mẹ Ngài đa kêu gọi tôi" (Thánh vinh đáp ca)
Hôm nay chúng ta có thể dùng câu của Thánh Vịnh này áp dụng vào chính chúng ta. Thiên Chúa biết và yêu thương chúng ta ngay cả trước khi chúng ta mở mắt chào đời để chiêm ngắm kỳ công của thọ tạo. Khi sinh ra con người nhận được một tên gọi trần gian. Nhưng ngay trước đó, moi người đa có một tên thần thánh: tên mà Thiên Chúa Cha biết và yêu thương họ từ thuở đời đời cho đến muôn thuở. Điều này đúng cho hết mọi người, không trừ ai cả. Không ai là người vô danh trước nhan Thiên Chúa! Tất cả đều có giá tri binh đẳng trước mắt Ngài: tất cả đều khác nhau, nhưng tất cả binh đẳng, và tất cả đều được gọi là con cái của Thiên Chúa.
"Tên con trẻ là Gioan" (Lk 1:63). Trước sự bơ ngơ và kinh ngạc của người thân và láng giềng, ông Zechariah xác nhận đây là tên con trai của ông ta, khi ông viết tên đó lên chiếc bảng nhỏ. Chính Thiên Chúa, qua trung gian thiên thần đa ban tên đó cho Gioan và tên đó theo nguyên nghĩa Do thái có nghĩa là: “Thiên Chúa có lòng từ tâm”. Thiên Chúa tốt lành với mọi người: Ngài muốn họ được sống; Ngài muốn họ được cứu chuộc. Thiên Chúa tốt với dân của Ngài: muốn họ trở nên sự chúc phúc cho toàn thể các quốc gia địa cầu. Thiên Chúa thương yêu nhân từ với nhân loại: Ngài hướng dan con cái Ngài trên con đường hành hương về đất hứa nơi mà hòa bình và công chính se thống trị. Tất cả nhưng điều này đều chứa trong tên của Gioan!
Anh chi em thân mến, thánh Gioan Tẩy Gỉa là một ‘người đưa tin’, một sứ giả, một người đi trước dọn đường: Người được sai đến để sửa soạn đường cho Đấng Kitô. Nhân vật Gioan Tẩy Gỉa se nói thế nào cho chúng ta tại đây, ở Kyiv này, ngay chính lúc khởi đầu của cuộc hành hương của tôi tới quê hương anh chi em? Đây lại không phải là do đường lối Chúa Quan Phòng mà nhân vật Gioan này nói với chúng ta đúng vào thời điểm hôm nay tại Kyiv này sao?
3. Chính Tại Kyiv mà phép Thanh Tẩy cho người Nga đa khởi điểm. Từ nơi này mà đời sống đức tin Kitô giáo đa bắt đầu lan tràn, Phúc Am đa được mang đến cho mảnh đất của Rus cổ xưa. Thế rồi nhưng lanh thổ của Đông Au và sau này qua vùng Urals, trong các lanh thổ của Châu Á. Trong một nghĩa nào đó, thi chính Kyiv đa đóng vai trò là “người tiền hô của Thiên Chúa” giưa nhiều dân tộc để rồi Phúc Am được tuyên giảng và phát xuất từ nơi đây.
Thánh Volodymyr và nhưng cư dân của nòi giống ‘Rus’ đa được rửa tội bởi các nhà truyền giáo từ thành Constantinople, một trung tâm vĩ đại nhất của thế giới Thiên Chúc giáo thuộc Đông phương thuở đó. Do vậy mà Giáo Hội mới khai sinh đa đi sâu và được sự che chở trong đức tin và văn hóa của Giáo Hội truyền thống Byzantine. Đó là thời kỳ cuối của thiên niên kỷ thứ nhất. Đang khi sống theo hai truyền thống khác nhau, Giáo Hội Constantinople và Giáo Hội Roma thời đó còn hiệp thông trọn vẹn. Như tôi đa viết trong tông thư “Đi vào thế giới” (Euntes in Mundum) rằng: "chúng ta phải cùng nhau cám tạ Thiên Chúa vi sự kiện này, mà hôm nay nó là một điềm báo tốt và là một hy vọng. Thiên Chúa đa muốn rằng Giáo Hội Mẹ, được hiệp nhất cách hưu hinh, cần chào đón vào lòng của Giáo hội người con mới sinh ra trên dòng bờ sông Dnieper đây, dù rằng Giáo Hội đa rất sung túc vi bao gồm rất nhiều quốc gia và dân tộc khắp nơi, và trong lúc mà sự lan rộng của cánh đồng tuyền giáo đang mở rộng tại Tây phương và Đông phương”. (No. 4).
Khi chúng ta cử hành Tiệc Thánh Thể hôm nay theo nghi thức truyền thống Roma, nếu chúng ta nhớ lại cái giây phút thật sâu đậm mà trước đây nó đa liên kết trước truyền thống Byzantine, nên chúng ta cử hành thánh le với lòng tri ân. Chúng ta hiện đang cử hành thánh le nhớ tới cùng một phép rửa, mà tất cả chúng ta đều chia sẻ, điều này se giúp chúng ta tái tạo trinh trạng thông công trước đây, khi đó dù có khác biệt truyền thống nhưng đa không là cản trở cho sự hiệp nhất đức tin và đời sống giáo hội.
4. Bí tích Rửa Tội đa xẩy ra tại Kyiv, đa khai mào lịch sử một ngàn năm Kitô giáo tại các lanh thổ mà ngày nay là quốc gia Ukraine và trong toàn vùng này. Hôm nay, có được ân huệ đi đến nơi lich sử này, tư tưởng của tôi đi ngược dòng về quá khứ hơn 10 thế kỷ, trong đó món quà mà Phép Rửa tiên khởi van còn tuôn chảy trên các thế hệ nối tiếp nhau, và trên con trai con gái nhưng người con của Đất Nước này. Thực là một cuộc sống tinh thần, phụng vụ và cuộc sống giáo hội cứ tiếp tục cuồn cuộn tuôn chảy biết bao! Nó đa hòa trộn từ nhưng nền văn hóa và truyền thống tín ngương khác biệt mà thành nên. Di sản sáng ngời này ngày nay đa được ký thác cho quí vi, các anh chi em thân yêu của Đất Nước này. Trong nhưng ngày tôi thăm viếng quí quốc, tôi cùng quí vi cầu nguyện cho thế hệ riêng của qúi vi hôm nay, từ khởi đầu của thiên niên kỷ mới này, quí vi se chứng tỏ xứng đáng với nhưng truyền thống vĩ đại của quá khứ.
Từ Thành Tri nôi sinh của đức tin Kitô giáo cho Ukraine và cho toàn vùng, tôi chúc mừng và với lòng quí yêu tôi ôm ấp mọi người đang sống trong giải đất này. Một cách đặc biệt tôi chào mừng các đức hồng y Marian Jaworski và Lubomyr Husar, cùng với đức giám mục quí yêu của Kyiv-Zhytomyr là đức cha Jan Purwiski, các huynh đệ đáng kính thuộc Hội Đồng Giám mục Ukrainia và Thượng Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukrainia. Tôi chào mừng hàng giáo sĩ, các nam nư tu sĩ và giáo dân thuộc các Giáo Hội đa trải qua nhiều thách đố và nay khải hoàn; với một lòng can trường họ đa có thể nêu cao ánh sáng đức tin ngay cả trong nhương giờ phút đen tối của bách hại.
5. Hỡi toàn thể Dân Chúa, anh chi em là nhưng người có đức tin, hy vọng và tinh yêu đối với mảnh đất Ukraine, anh chi em hay một lần nưa hay hân hoan làm sống lại món quà Phúc Am mà anh chi em đa nhận lanh từ một ngàn năm trước đây! Hôm nay hay nhin vào thánh Gioan Tẩy Gỉa, một mau gương trung thành kiên quyết đối với Chúa và Lề Luật của Ngài. Thánh Gioan đa sửa soạn con đường cho Đức Kitô bằng chứng tá lời nói và đời sống của ngài. Hay bắt chước ngài với một lòng quảng đại tin tưởng và vâng phục.
Trên hết thánh Gioan là mau mục đức tin. Theo gương của vi đại tiên tri Elia, hầu có thể lắng nghe lời của Đấng ban sự sống, Ngài đa từ bỏ tất cả mọi sự và rút lui vào hoang đia, từ đó ngài đưa ra lời kêu gọi vang vọng là sửa soạn đường cho Thiên Chúa (xem Mt 3:3).
Ngài là mậu guơng khiem cung, bởi vi đối với nhưng ai coi ngài không nhưng chỉ là một vi Tiên tri mà còn là Đấng Thiên Sai (Messiah), ngài đa trả lời họ rằng: “Các bạn nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Ngài. Không, Đấng mà đến sau tôi, ngay cả việc cởi giây giầy cho Ngài tôi cung không xứng đáng” (TĐCV 13:25).
Ngài là mậu gương chính trực và can đảm trong việc bảo vệ sự thật, và sẵn sàng trả giá bằng chính con người minh, ngay dù bi tù tội và chính cái chết của minh.
Hơi mảnh đất Ukraine, thấm máu đào của các vi tử đạo, cám tạ các vi vi mau gương trung thành đối với Phúc Am mà quí vi đa dâng hiến cho các Kitô hưu khắp nơi trên hoàn cầu! Đa có biết bao nhiêu người con yêu của Đất Nước này đa tiến đi trên con đường hoàn toàn trung thành với Chúa Kitô; nhiều người còn kiên quyết dầu phải hy sinh đến tận cùng. Ước chi chứng tá của họ là mau gương và là sự htôi thúc cho các Kitô hưu của thiên niêm kỷ thứ ba.
6. Trong trường đào luyện của Chúa Kitô, theo chân thánh Gioan Tẩy Gỉa, các vi thánh nhân và các thánh Tử đạo của quốc gia này, ước chi cả anh chi em yêu qúi nưa, cung có can trường đủ mà luôn luôn đặt ưu tiên cho các giá tri tinh thần trong cuộc sống.
Các hiền huynh giám mục, các linh mục, nam nư tu sĩ, quí hiền huynh là nhưng người đa từng hành trinh trung thành cùng với dân chúng ở đây và sẵn sàng trả bất cứ giá hy sinh nào, quí hiền huynh đa nâng đơ họ trong nhưng giờ phút đen tối nhất của cơn hai hùng Cộng sản, tôi cám ơn qúi hiền huynh, xin quí hiền huynh tiếp tục làm c hứng nhân nhiệt tinh cho Đức Kitô và là nhưng mục tử tốt lành cho đoàn chiên của Người trong quê hương quí yêu Ukraine.
Các bạn trẻ thân mến, hay can trường và tự do! Đừng để lòng các bạn bi nhưng hinh ảnh hỏa mù của một hạnh phúc de dàng chiếm mất. Hau đi theo con đường của Đức Kitô: Chắc chắn là Người đòi hỏi nơi bạn nhiều, thế nhưng cung chỉ có Người là người duy nhất có thể giúp bạn cho bạn ý nghĩa đầy đủ về cuộc sống và thỏa man ước nguyện sự binh an của con tim.
Hoi các bậc làm cha mẹ thân mến, hay sửa soạn đường nẻo của Thiên Chúa cho con cái. Hay nuôi chúng lớn lên với tinh yêu, và là nhưng tấm gương tốt bằng cách sống theo nhưng nguyên tắc mà chính quí vi dậy con cái minh. Quí vi là nhưng bậc thầy và là lanh đạo của xa hội, hay đào sâu thêm sự dấn thân hầu khích lệ sự phát triển hoàn toàn về con người nhân bản, khích lệ nơi giới trẻ ý nghĩa sâu sắc về công lý và tinh liên kết đối với nhưng người kém may mắn trong cuộc sống.
Ước chi từng người và tất cả là “ánh sáng của muôn dân” (Is 49:6)!
7. Hơi thành Kyiv, ước chi thành này là "ánh sáng cho Ukraine".
Vi từ đây mà các vi truyền bá Phúc Am qua các thế kỷ đả là nhưng “Gioan Tẩy Gỉa” cho các dân tộc sống trong các mảnh đất nơi đây. Có biết bao các vi đó, như thánh Gioan, đa chiụ khổ để làm chứng cho sự thật, và với máu đào của họ đa trở thành hạt giống cúc các Kitô hưu mới. Ước chi các thế hệ tương lai không bao giờ thiếu các nam thanh nư tú nối tiếp truyền thống hào hùng theo gương các tiền nhân vinh quang của anh chi em.
Xin Đức Trinh Nư rất thánh, Quan Thầy của Ukraine, Mẹ luôn luôn hướng dan con cái trên đường lư hanh trần thế. Xin Mẹ tiếp tục để mắt đoái nhin đoàn con Mẹ. Xin giúp họ đừng bao giờ quên “tên”, cái danh xưng tinh thần mà họ đa nhận được trong Bí tích Rửa Tội. Xin giúp họ biết vui mừng luôn mai trong an huệ vô giá là nhưng người theo chân Chúa Kitô (Jn 3:29). Uớc gi Mẹ là người dan lối cho từng người một. Oi, Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng con!
10. Bài giảng của Đức Cha JB. Bùi Tuần
CHỨNG NHÂN CỦA CÕI VĨNH HẰNG
Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gi hấp dẫn cả. Y phục thì khó nghèo. Ăn uống thi khổ cực. Cách sống thi khắc khổ. Cho ở thì thô sơ. Lúc thì ở rừng rú, lúc thì ở sa mạc, nay đây mai đó.
Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này.
Điều đó chứng tỏ nhưng vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá tri con người. Thước đo giá tri con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh nhưng chân thiện mỹ vĩnh hằng.
Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài.
Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân. Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu, để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ. Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường. Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc. Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa. Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế. Ngài mong muốn bước xuống thực thấp thực sâu, để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ.
Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay. Họ tu thân, mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vịi, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước.
Khi phong hoá bi suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao. Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc. Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn. Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng. Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ, nhưng rất căn bản. Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh.
Vì thế, đối với tôi,
Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài.
Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi. “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7). Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8). Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới. Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.
Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian... Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài... Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29-34).
Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối. Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế. Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi.
Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó. Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy. Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ. Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài. Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động. Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita.
Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách.
Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin. Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “ “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3). Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan. Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế. Mình đã giới thiệu Đấng đó. Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây? Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan. Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay. Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng.
Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa. Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô. Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô. Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế. Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu.
Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng. Ngài nhìn về phía trước. Ngài sống cho phía trước. Phía trước có cõi đời đời. Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người. Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách. Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay. Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người.
Xin thánh Gioan Baotixita cầu bầu cho chúng ta.
11. Sứ điệp cứu nguy phần rỗi
(Đức cha GB. Bùi Tuần – ‘Để mừng lễ Thánh Gioan Baotixita’)
1. Thánh Gioan Baotixita biết mình có liên hệ với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đến sau Ngài. Liên hệ đó là đi trước dọn đường. Trách nhiệm đó rất cao cả. Chính Thiên Chúa đã gọi Ngài, đã chọn Ngài, đã thánh hóa Ngài, đã sai Ngài, đã trao trách nhiệm cho Ngài. Mục đích để cứu nguy phần rỗi.
Gioan Baotixita vâng theo thánh ý Chúa. Nhưng Ngài nói: “Tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng Cứu Thế” (Ga 1,27).
2. Với lời trên đây, Gioan Baotixita muốn nói lên sự khó nghèo của Ngài.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết Chúa thì vô cùng cao sang, còn mình thì hết sức hèn hạ. Ngài cảm nhận mình không xứng đáng được Chúa chọn.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình sẽ phải giới thiệu một Đấng Cứu Thế yêu thương hết mực khiêm tốn. Hình ảnh đó khó được dân chúng chấp nhận. Chính Ngài cũng chẳng hiểu nổi. Ngài cảm nhận mình không có khả năng giới thiệu Đấng Cứu Thế như vậy.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình được sai đến với một xã hội tội lỗi cứng lòng. Mà Ngài thì không có chức tước địa vị, không có tiền bạc, không có hậu thuẫn. Ngài cảm nhận mình không có cơ may dọn đường cho Chúa.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình phải nói nhân danh Đấng thiêng liêng vô hình. Mà Ngài chỉ như là tiếng kêu trong sa mạc. Ngài cảm nhận mình không có tài đức.
Sự khó nghèo, mà Gioan Baotixita cảm nghiệm về mình, thực là sâu thẳm. Ngài nhận mình bất xứng khó nghèo, thế mà lại được Chúa yêu thương. Nên Ngài cảm tạ Chúa với tất cả lòng khiêm tốn.
Tuy nhiên, Chúa cho Ngài biết chính vì Ngài nghèo khó, nên Chúa đã chọn Ngài. Chúa dạy Ngài hãy thi hành ơn gọi một cách đơn giản, như một người nghèo khó.
3. Thi hành ơn gọi một cách đơn giản là đi vào những gì căn bản một cách đơn sơ.
Thực vậy, thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc giới thiệu con đường phần rỗi linh hồn. Ngài giới thiệu bằng chính cuộc sống của Ngài. Một cuộc sống nhấn mạnh đến căn bản tu đức dựa trên Lời Chúa. Ngài sống cầu nguyện, nghèo khó, khổ hạnh, gần gũi với mọi người, vâng phục thánh ý Chúa.
Thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Đối với Ngài, dọn đường là bỏ tội lỗi. Ngài cho biết tội là làm sai luật Chúa, nhất là trong lãnh vực công bình bác ái đối với tha nhân. Phải bỏ đường tội bằng sám hối và sửa lại nếp sống. Nếu không, sẽ bị Chúa phạt. Hình phạt nặng nhất là mất linh hồn, phải sa hỏa ngục đời đời. Ngài nói về cơn thịnh nộ của Chúa (x. Lc 3,7). Ngài đưa ra hình ảnh cây xấu bị chặt đi và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Những gì Ngài nói về tội, thì rất căn bản và dễ hiểu. Đối với Thánh Gioan, biết sợ Chúa phạt là khởi đầu tốt cho việc bỏ đàng tội lỗi.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong việc giới thiệu Chúa Giêsu. Ngài nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Ngài nhấn mạnh đến việc phải tin cậy vào Chúa Giêsu, để được cứu khỏi tội. Nói thế là rất căn bản và dễ hiểu.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong niềm tin. Ngài biết mình chẳng là gì, chẳng đáng gì. Ngài không bám vào điểm tựa nào nơi trần thế. Ngài chỉ cậy tin vào lòng Chúa xót thương mà thôi. Ngài vững tin vào sức mạnh ân sủng của Chúa. Vững tin như thế là rất đơn sơ mà cũng rất căn bản.
4. Tóm lại, đơn giản của Thánh Gioan Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng xa vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.
Tới đây, chúng ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một là khiêm nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những gì là căn bản nhất.
Với chân dung đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại nói chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.
Thánh Gioan Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi vào lịch sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.
Đức Mẹ tại Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những gì căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hỏa ngục.
5. Hôm nay, sứ điệp cứu nguy phần rỗi đang được Chúa gởi vào tình hình Việt Nam bằng nhiều cách. Vấn đề cần đặt ra là người ta có đón nhận sứ điệp đó hay không? Địa chỉ, mà câu hỏi quan trọng về sứ điệp cần gởi tới, không phải là người ta chung chung, mà là mỗi người con Chúa, nhất là mỗi người có trách nhiệm dẫn dắt cộng đoàn.
Có thể nói như Thánh Gioan Tiền Hô và như Đức Mẹ ở Fatima là: Tai họa khủng khiếp cho phần rỗi sẽ đổ xuống, nếu không sám hối, nếu không trở về với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót ban ơn cho chúng con biết đón nhận sứ điệp cứu nguy phần rỗi. Bởi vì phần rỗi của chúng con rất dễ bị lâm nguy. Cũng xin Chúa xót thương nâng đỡ những người được Chúa sai đi rao giảng sứ điệp cứu nguy phần rỗi tại Việt Nam hôm nay. Bởi vì trách nhiệm của họ rất nặng nề rất khó khăn, rất khẩn cấp.
12. Lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy giả là ai?
Ngài là con của thày tư tế Dacaria và bà Êlisabét, chị họ của Đức Maria. Hai ông bà đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có con. Cả hai không ngừng cầu khẩn xin Chúa ban cho một người con nối dõi tông đường. Nhận thấy lòng đạo đức của họ, Chúa dủ lòng thương sai sứ thần đến báo: "Này Dacaria! đừng sợ, Chúa đã nghe lời khẩn nguyện của ngươi. Vợ người sẽ sinh một con trai và người sẽ đặt tên là Gioan..."
Dacaria hoài nghi, vì thế Chúa để ông bị câm trong suốt 9 tháng trời, cho đến ngày đặt tên cho Gioan. Gioan lớn lên và được giáo dục trong bầu không khí đạo đức. Đến năm thứ 5 đời hoàng đế Tibêriô, tức năm 28 sau công nguyên, có tiếng Chúa gọi Gioan trong hoang địa, tức vùng đồi núi Giuđê Gioan sống khắc khổ: ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà và ngang lưng thất dây da. Cuộc đời Gioan thật gương mẫu.
Có lần Chúa Giêsu đã công khai nói với dân Do thái: "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả".
Gioan đã làm gì?
Ngài đi khắp vùng sông Giođan rao giảng và kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Lời nói và nếp sống khổ hạnh của ngài đã lay chuyển cả những tâm hồn cứng cỏi nhất. Họ đã đến với ngài thật đông đảo để được nghe giảng dạy và được nhận phép rửa. Có người đã lầm tưởng ngài là Đấng Thiên Sai mà dân Do thái hằng mong đợi, nhưng ngài khiêm tốn trả lời: "Phần tôi, tôi rửa anh em bằng nước, sẽ có một Đấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Ngài sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và lửa.
Thánh Gioan đã chết thế nào?
Trong khi ngài dang rao giảng sám hối thì một vụ tai liếng đã xảy ra tại cung điện Hêrôdê Antipa. Nhà vua đã cưới con gái của Arêta phương nam làm hoàng hậu. Thế nhưng, trong một chuyến đi Rôma, ghé thăm người em cùng cha khác mẹ là Hê-rô-đê Phi-lip-phê, nhà vua lại say mê sắc đẹp của Hêrôdia, người em dâu và tìm cách chiếm đoạt. Hêrôđia có một người con riêng là Salômê có tài múa hát. Câu chuyện tới tai vị Tẩy giả. Với tất cả lòng cương nghị của một người công chính, Gioan cảnh cáo Hêrôđê: "Nhà vua không được cướp vợ em mình” Câu nói đó đã khiến Hêrôđê phải giam Gioan vào ngục. Nhưng Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà. Bà lìm cách đế giết Gioan. Chính vì thế, trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê, lợi dụng khi nhà vua đã ngà ngà say, bà xúi Salômê xin chiếc đầu của Gioan.
Thế là Gioan đã phải chết.
Câu hỏi chia sẻ:
Anh chỉ em nghĩ gì về câu tin Mừng: "Cậu bé (Gioan) càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh?
Số phận của Gioan là số phận của các ngôn sứ, vì giảng dạy điều ngay chính mà phải chịu thiệt đến thân. Nhưng "Phúc cho ai phải chịu đau khổ vì sự công chính. Xin chia sẻ.
13. Thánh Gioan Tiền Hô- Tẩy Giả
1. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan sẽ là đấng tiền hô của Chúa cứu thế. Sứ mệnh tiền hô của Gioan, đã được Giáo hội nhắc đến trong kinh tiền tụng II của mùa vọng, bằng vài tư tưởng sau đây:
“Gioan là đấng tiền hô,
Loan tin về Chúa Kitô giáng trần,
Chúa khi truyền đạo xuất thân,
Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài”
“Gioan là tiếng dẻo dai,
“Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người,
Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi,
Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta
Vậy mà kẻ đứng gần xa
Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
Mà thực thế, mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng núi Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây đang, lương thực là châh chấu nướng, châm với mật rừng tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Gior-đa-nô, nên hội đồng công tọa của người Do thái, đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là Đấng Kitô không? Thày tu hành trả lời:
“Tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ nạng dọn đàng cho Chúa Kitô đến“.
Nhưng người biệt phái cũng hỏi: “Nếu không phải là đấng Kitô, tại sao ông làm phép rửa? thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi một tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài” (Gioan 1,19). Hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: “đây là chiên Thiên Chúa, đây là đấng cất tội thiên hạ”. “Người này là con Thiên Chúa” (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ đã xin phép bỏ thày là Gioan để đi theo Chúa Giêsu (Gioan 1,37). Vậy đọc lại những câu phúc âm trên đây, chúng ta thấy thánh Gioan đã chu toàn sứ mệnh tiền hô mà Thiên Chúa đã trao phó:
“Gioan là đấng tiền hô,
Loan tin về Chúa Kitô giáng trần,
Chúa khi truyền đạo xuất thân,
Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài.
Gioan là tiếng dẻo dai,
“Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người.
Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi,
Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta”
Vậy mà kẻ đứng gần xa,
Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
2. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan còn phải thi hành sứ mệnh tẩy giả nữa:
“Gioan cũng được gọi là tẩy giả,
Vì Ngài đã lấy nước sông Gio-dan,
Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian,
Những con người, đã thành tâm thống hối”
Vậy Gioan, đã biến người có tội,
Trở nên người công chính có đức nhân,
Biết mến Chúa bác ái với nhân dân,
Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Vậy theo Phúc âm thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mệnh dọn đường cho Chúa cứu thế đến: bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, nắn thẳng đường quanh co. Nghĩa là Gioan tẩy giả dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái. Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn lục, không thể thoát cơn thịnh nộ của Chúa, vì cái rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sinh hoa trái, sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Với những người lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, lấy việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội mình. Với bạn người thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, nhưng phải giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm bổ. Với quân nhân, Gioan khuyên họ đừng hà hiếp ai, đừng dọa nạt ai, nhưng bằng lòng về số lương của mình. Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa, để tỏ lòng khiêm tốn ăn năn được ơn tha thứ, được ơn sống một đời đạo đức bác ái hơn, và được thấy ơn cứu độ của Chúa cứu thế. Vậy
“Gioan cũng được gọi là tẩy giả,
Vì Ngài đã lấy nước sông Gior-dan
Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian
Những con người, đã thành tâm thống hối,
Vậy Gioan, đã biến người có tội,
Trở nên người công chính có đức nhân,
Biết mến Chúa, bác ái với nhân dân,
Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Kết
Theo cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo dân cho Chúa và các linh hồn. Nhưng rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ. Đêm hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông Jeannet. Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa, do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ. Vừa mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa. Thưa anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước thánh Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa.
Lời nguyện giáo dân
Thưa anh chị em, hôm nay dạy chúng ta tôn kính thánh Gioan tiền hô và tẩy giả của Chúa, Giáo hội có ý khuyên chúng ta biết trở nên tông đồ đem các linh hồn về cho Chúa.
1. Vậy xin Chúa cho chúng ta biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa, và Chúa cứu thế đã đến trong thế gian.
2. Xin Chúa cho chúng ta biết sốt sắng dự thánh lễ chủ nhật, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa và Chúa cứu thế đã đến chiụ tội loài người.
3. Xin Chúa cho chúng ta biết dâng lên Chúa những mồ hôi nước mắt của chúng ta khi lao động mà đền tội, để trở nên tẩy giả cầu cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
4. Xin Chúa cho chúng ta biết siêng năng chiụ phép giải tội, nhất là mùa phục sinh, để trở nên tẩy giả làm cho tâm hồn ta nên trong sạch để cầu nguyện cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện
Lạy Chúa trong ngày lễ hôm nay, Chúa đã đặt thánh Gioan tiền hô và tẩy giả làm gương mẫu cho chúng con bắt chước. Xin Chúa cho chúng con biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, biết vui lòng lao động nuôi sống gia đình, biết giữ luật xưng tội rước Chúa mùa phục sinh để trở nên Gioan tiền hô.
14. Sống lời Chúa- Nói và làm
Nhân ngày sinh của Gioan Tiền hô, tôi muốn chia sẻ một điểm nổi bật trong cuộc sống của thánh nhân, đó là Gioan Tiền hô đã nói và đã làm.
Thực vậy, cách đây hơn mười năm với phong trào đổi mới tại Việt Nam, người ta thấy trên báo chí xuất hiện những bài viết ký tên NVL. Người ta bảo đó là của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Nhưng đồng thời, người ta cũng suy diễn ba chữ viết tắt ấy là nói và làm, chứ không phải là nói và lờ hay nghe và lỉnh. Việc làm mới thực sự là quan trọng, hơn hẳn những lời nói suông bội phần.
Nhìn vào cuộc sống của Gioan tiền hô, chúng ta thấy lời nói của thánh nhân luôn đi đôi với việc làm. Thánh nhân luôn làm những điều mình nói, thực thi những điều mình dạy. Lời nói và việc làm của Gioan tiền hô luôn đi đôi với nhau, luôn ăn khớp với nhau, chứ không trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, đúng như người xưa đã bảo:
- Ngôn hành hợp nhất.
Đồng thời, thánh nhân còn luôn chịu trách nhiệm về những điều mình đã nói, cho dù có phải chết.
Thực vậy, trên bờ sông Giócđan, thánh nhân đã rao giảng một cuộc sống khắc khổ, để sám hối ăn năn, hầu dọn đường đón mừng Chúa đến. Và chính bản thân thánh nhân cũng đã sống khắc khổ và sám hối ăn năn như vậy.
Phúc âm đã ghi lại: thánh nhân vào trong hoang địa, mặc áo da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Chính vì thế, thánh nhân đã nhận ra Đấng Cứu Thế và giới thiệu Ngài cho mọi người.
Vai trò của thánh nhân là vai trò của một sứ giả, của một tiền hô chuẩn bị tâm hồn mọi người đón nhận Đấng Cứu thế và khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, thánh nhân đã không ngần ngại tuyên bố:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây đấng gánh tội trần gian…Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi…tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Kể từ tuyên bố ấy, thánh nhân đã chìm vào quên lãng, chìm vào bóng tối và để cho chính những môn đệ thân tín của mình bước theo Chúa Giêsu.
Thánh nhân cũng đã mạnh dạn tố giác tội lỗi của Hêrôđê. Chính vì những lời nói thẳng thắn ấy, thánh nhân đã bị tống ngục và đã bị chém đầu.
Còn với chúng ta thì sao?
Kinh nghiệm cho thấy:
- Nói thì dễ mà làm thì lại khó.
- Nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Chúng ta nói xong rồi lờ đi, hay nghe xong rồi lỉnh mất, chẳng đoái hoài chi đến những gì mình đã nói hay đã nghe, như tục ngữ đã diễn tả:
- Trăm voi không được một bát nước xáo.
Chẳng hạn mỗi khi giáo xứ có dịp bàu ban hành giáo, chúng ta nói thì rất hay, nào là người ấy phải thế nọ thế kia. Thế nhưng, khi phiên họp được triệu tập để đề bạt những ứng cử viên, thì chúng ta lại tính chuyện lờ, chuyện lỉnh, chuyện lặn.
Và khi phên họp kết thúc, một người nhiều thiện chí, nhưng hơi thiếu khả năng về mặt này mặt khác, được đề cử, thì chúng ta lại vội vã khua môi múa mỏ, phê bình thế này, chỉ trích thế nọ. Quả thực, chúng ta đáng được người đời diễn tả:
- Trùm khu, trùm giáp thì chúng ta không dám, chứ trùm chăn, trùm mền thì chúng ta lại ăn đứt thiên hạ.
Hãy ra tay xây dựng bằng hành động, chứ đừng chỉ xây dựng bằng nước bọt, có nghĩa là hãy biểu lộ thiện chí của chúng ta bằng những việc làm cụ thể, nhờ đó lời nói và việc làm của chúng ta luôn đi đôi với nhau, như lời thánh Giacôbê tông đồ đã xác quyết:
- Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.
Hay như thánh Gioan tông đồ cũng đã viết:
- Anh hãy chỉ cho tôi một tình yêu không việc làm. Còn tôi, tôi sẽ dùng những việc làm để chỉ cho anh thấy một tình yêu đậm đà thắm thiết như thế nào.
Ngôn hành phải hợp nhất. Lời nói phải đi đôi với việc làm, chứ không phải là trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nói một đằng làm quàng một nẻo. Thậm chí nói một chuyện, nhưng làm lại là chuyện khác. Nhiều khi còn làm ngược lại những điều mình đã nói. Nói vậy mà không phải vậy đâu.
Căn cứ vào những việc làm cụ thể ấy, người ta sẽ nhận biết thiện chí của chúng ta, cũng như đáng giá chúng ta có phải là những sứ giả, những tiền hô đích thực của Chúa hay không?
15. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
"Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa" (Ga 1, 6-7; Lc 1, 17).
Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng cứu thế.
Thánh Luca thuật lại cuộc truyền tin cho Dacaria trong Luca 1, 5-25 với đầy đủ chi tiết.
Kinh Thánh kể lại rằng ông Dacaria và bà Êlisabét, vợ của ông, sống công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng vợ ông lại son sẻ, vả lại cả hai ông bà đều cao niên (Lc 1, 5-7). Thánh Luca kể tiếp:" Dacaria là tư tế, đã rút trúng thăm để tế tự cho Thiên Chúa trong đền thờ "(Lc 1, 8-9). Trong khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, dân chúng tất cả đều đứng ở ngoài và cầu nguyện (Lc 1, 10). Sự lạ xẩy ra là có sứ thần của Chúa hiện ra với ông Dacaria,đứng bên phải hương án (Lc 1, 11). Dacaria bối rối, nỗi sợ hãi ập xuống trên ông (Lc 1,12) và sự việc đã xẩy ra là sứ thần trấn an Dacaria, bảo ông:" Này Ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời Ông cầu xin: bà Êlisabét, vợ Ông sẽ sinh cho Ông một đứa con trai, và Ông phải đặt tên cho con là Gioan (Lc 1, 13) và "Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời"(Lc 1, 14-15). Tin Mừng của thánh Luca và của thánh Gioan đã cho nhân loại thấy cái lạ lùng của con trẻ Gioan. Đây quả là ơn nhiệm lạ, hồng ân cao quí Chúa ban cho nhân loại vì ngay khi còn trong bụng mẹ, thánh Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng lúc Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Ngày chào đời, thánh nhân đã đem lại nhiều niềm vui. Thánh Gioan là vị ngôn sứ duy nhất đã chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian. Thánh Gioan và chỉ mình Người đã rửa tội cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giorđan và sau cùng chính thánh Gioan Tẩy Giả đã chịu chết để minh chứng cho Đấng Kitô, Đấng cứu độ (Lc 1, 39-79 và xem Kinh tiền tụng lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói lên điều đó vì Ngài hiểu rõ Ngài hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói:" Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói:" Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại ". Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng:"...Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi"(Ga 1, 15). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái:xin gì Ông cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không? Thánh Gioan đã viết:" Sự thật sẽ giải phóng con người ". Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
16. Một con trẻ lạ lùng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Việc lạ lùng của Gioan Tẩy Giả đã được đánh dấu ngay từ lúc cha mẹ của Gioan đặt tên cho ông. Thường dân Do Thái tên của người cha, tên của họ hàng nội phải được đặt tên cho đứa bé mới sinh ra. Ở đây, cái huyền diệu, linh thánh đã xẩy ra ngay lúc cắt bì cho con trẻ. Lúc cắt bì cũng là lúc đặt tên cho đứa bé. Mọi người cứ tưởng lấy tên cha Giacaria đặt tên cho bé, nhưng bà Êlisabét lên tiếng:" Không, phải đặt tên cháu là Gioan " (Lc 1, 60). Đây là cái tên do chính Thiên thần đã báo trước cho Giacaria biết ông và vợ ông sẽ sinh được một cháu trai dù hai ông bà đã luống tuổi, cao niên không thể nào sinh con nếu không có bàn tay Thiên Chúa can thiệp...
Mở đầu Tin Mừng thứ tư, thánh Gioan viết: "Có một người Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng cho ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa"(Ga 1, 6-7). Địa vị và vai trò của Gioan Tẩy Giả rất quan trọng và lớn lao trong hàng ngũ các ngôn sứ của lịch sử dân Chúa. Bởi vì việc mang thai con trong lúc tuổi già củavợ chồng ông Giacaria và Elisabét đã nói lên việc kỳ diệu của Thiên Chúa nơi con trẻ Gioan. Tên con trẻ trong ngôn ngữ Do Thái là "Jehohanan". Chữ này có nghĩa " Thiên Chúa là ân sủng ". Vì con trẻ là hồng ân nhưng không,cao vời Thiên Chúa dành cho Gioan Tẩy Giả, cho toàn dân và cho ông bà Giacaria, nên ai nấy đều bỡ ngỡ (Lc 1, 63). Sau khi đứa trẻ được đặt tên, Giacaria dâng lên Thiên Chúa một lời ngợi khen tuyệt vời, Ông đã dâng con ông cho Thiên Chúa và nói: " Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên"(Lc 1, 76-77). Tới tuổi trưởng thành, khôn lớn Gioan Tẩy Giả từ giã gia đình đi vào hoang địa, đi vào rừng vắng để ăn chay cầu nguyện, chuẩn bị sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tin Mừng thuật lại, đời sống của Gioan Tẩy Giả rất khổ hạnh: " Thức ăn của Người là châu chấu và mật ong rừng". Tuy thân xác khổ hạnh, nhưng tinh thần của Người tràn đầy niềm vui. Do đó, Gioan Tẩy Giả quả thực nắm một vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa.
Mình Gioan được đặc ân dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Gioan Tẩy Giả đã trình bầy và giới thiệu Chúa Cứu Thế như là hồng ân cao quí tuyệt vời Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho nhân lọai, cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa là chiên Thiên Chúa và là Đấng xóa tội gian trần. Tin Mừng viết:" Năm thứ mười lăm dưới triều Hòang Đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philipphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít...có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Giacaria là ông Gioan trong hoang địa...rao giảng,kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội và sửa sọan cho ngày Đấng Cứu Thế tới "(Lc 3, 1-6). Mọi người dân Do Thái tuôn đến để nghe Gioan rao giảng và tin vào Người nhưng Gioan đã vội minh xác:" Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, sẽ có một người đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giầy Người "(Lc 3, 16). Chính Chúa Giêsu cũng tới xin Gioan làm phép rửa cho mình. Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Chúa Giêsu và chỉ cho các môn đệ của mình biết Đấng Cứu Thế. Thánh nhân đã đề cao vai trò cứu thế của Chúa:" Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại"(Ga 3, 30). Thánh Gioan Tẩy Giả đã thi hành sứ mạng dọn đường rất nghiêm ngặt và công minh. Ngài không sợ thế gian, nên Ngài đã quở trách nặng lời Hêrôđê vì vua đã lấy vợ em mình. Ngài đã bị tống giam vào ngục và bị chém đầu vì một lời hứa khờ dại của vua Hêrôđê.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan Tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an. Người hằng sống và hiển trị muôn đời (Lời nguyện nhập lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả).
17. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả,
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
“Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa” (Ga 1, 6-7; Lc 1, 17). Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế.
TRUYỀN TIN CHO DACARIA LÀ MỘT SỰ LẠ LÙNG:
Thánh Luca thuật lại cuộc truyền tin cho Dacaria trong Luca 1, 5-25 với đầy đủ chi tiết.
Kinh Thánh kể lại rằng ông Dacaria và bà Êlisabét, vợ của ông, sống công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng vợ ông lại son sẻ, vả lại cả hai ông bà đều cao niên (Lc 1, 5-7). Thánh Luca kể tiếp: ”Dacaria là tư tế, đã rút trúng thăm để tế tự cho Thiên Chúa trong đền thờ“ (Lc 1, 8-9). Trong khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, dân chúng tất cả đều đứng ở ngoài và cầu nguyện (Lc 1, 10). Sự lạ xẩy ra là có sứ thần của Chúa hiện ra với ông Dacaria, đứng bên phải hương án (Lc 1, 11). Dacaria bối rối, nỗi sợ hãi ập xuống trên ông (Lc 1,12) và sự việc đã xẩy ra là sứ thần trấn an Dacaria, bảo ông: “Này Ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời Ông cầu xin: bà Êlisabét, vợ Ông sẽ sinh cho Ông một đứa con trai, và Ông phải đặt tên cho con là Gioan (Lc 1, 13) và “Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời” (Lc 1, 14-15). Tin Mừng của thánh Luca và của thánh Gioan đã cho nhân loại thấy cái lạ lùng của con trẻ Gioan. Đây quả là ơn nhiệm lạ, hồng ân cao quí Chúa ban cho nhân loại vì ngay khi còn trong bụng mẹ, thánh Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng lúc Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Ngày chào đời, thánh nhân đã đem lại nhiều niềm vui. Thánh Gioan là vị ngôn sứ duy nhất đã chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian. Thánh Gioan và chỉ mình Người đã rửa tội cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giorđan và sau cùng chính thánh Gioan Tẩy Giả đã chịu chết để minh chứng cho Đấng Kitô, Đấng cứu độ (Lc 1, 39-79 và xem Kinh tiền tụng lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
NGÀI PHẢI LỚN LÊN, CÒN TÔI PHẢI NHỎ LẠI:
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói lên điều đó vì Ngài hiểu rõ Ngài hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói: “Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại“. Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng: “...Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1, 15). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái: xin gì Ông cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.
THÁNH GIOAN TẨY GIẢ LÀM GƯƠNG CHO TA:
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không? Thánh Gioan đã viết: “Sự thật sẽ giải phóng con người“. Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
18. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm Đaminh Thiệu)
Ngoại trừ Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ còn có thánh Gioan Tẩy Giả là vị thánh được mừng ngày sinh nhật của mình, ngày sinh ra trong trần thế; các Đấng Thánh khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày qua đời. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24/6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh của Chúa Cứu Thế.
Gioan Tẩy giả là ai?
Thánh Gioan Tẩy Giả là một nhà giảng thuyết người Do-thái. Tin Mừng theo Thánh Lu-ca cho biết, Ngài là con của tư tế Da-ca-ri-a, thuộc nhóm A-vi-a, dòng tộc A-ha-ron, và chào đời tại vùng Judea, Do-thái, chỉ trước Chúa Giêsu chừng sáu tháng (xc. Lc 1,5-36; 1,39-80). Khoảng năm 28 sau Chúa Kitô, Thánh Gioan đã xuất hiện công khai tại Galilea và tại Judea để rao giảng và mời gọi người ta thống hối. Bên cạnh việc rao giảng sám hối, Ngài còn cử hành nghi thức Thanh Tẩy cho tất cả những ai đến với Ngài, bằng cách dìm họ xuống nước. Vì thế, Thánh Nhân được gọi là Gioan Tẩy Giả. Thánh Nhân hoạt động trong cả vùng Do-thái lẫn Palestina, và cũng đã có nhiều người nhận mình là môn sinh của Ngài. Lịch sử tính của Ngài đã được xác nhận bởi sử gia người Do-thái Flavius Josephus.
Các Kitô hữu nguyên thủy đã trình bày Thánh Gioan Tẩy Giả như là vị Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, và là người dọn đường cho Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, Ngài cũng còn được gọi là Gioan Tiền Hô, tức vị tiền trạm của Chúa Kitô. Thánh Nhân không chỉ được tôn kính bởi Giáo hội Công giáo, nhưng còn được tôn kính bởi nhiều Giáo hội khác. Người Hồi giáo coi Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong ba vị Ngôn Sứ cuối cùng, trước Chúa Giêsu và Mohammmed.
1. Các nguồn tài liệu xưa nhất về Thánh Gioan Tẩy Giả:
Các nguồn tài liệu xưa nhất cung cấp thông tin về Thánh Gioan Tẩy Giả, đó là 4 cuốn Tin Mừng của Tân Ước, sách Công Vụ Tông Đồ của Lu-ca, và chương XVIII 5, 2 trong tác phẩm Antiquitates Judaicae của sử gia người Do-thái Flavius Josephus. Các nguồn tài liệu này trình bày về Thánh Gioan theo những cách thức rất khác biệt, tùy theo quan điểm của mỗi tác giả.
Theo Mc 1,2-15, Thánh Gioan xuất hiện với tư cách là người tiền trạm cũng như là người dọn đường cho Chúa Giêsu.
Theo Mt 3,7 và Lc 3,7-9, Thánh Gioan xuất hiện với tư cách là nhà rao giảng sám hối.
Lc 1,5 – 2,29 đã trình bày một cách song song các biến cố trước hai cuộc sinh nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả lẫn của Chúa Giêsu. Cuộc sinh nhật của hai vị đều được công bố bởi một Thiên Thần; và cả hai vị đều được công bố như là những người được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi để giải phóng toàn bộ dân Israel một cách chung cuộc. Nhưng những sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu thì được trình bày là trổi vượt hơn hẳn so với những sự kiện liên quan đến Thánh Gioan Tẩy Giả.
Theo Ga 1,7-18.19-36, nói chung Thánh Gioan xuất hiện như là vị chứng nhân đầu tiên và quan trọng nhất của Chúa Giêsu – Ngôi Lời trở thành xác phàm.
Trong tác phẩm của sử gia Flavius Josephus, Thánh Gioan xuất hiện như một mẫu gương về đời sống khổ hạnh. Ông tuân giữ các mệnh lệnh của Kinh Tora dành cho một người Nasir, và là người chỉ cho người Do-thái cách thức thực hành nghi thức Thanh Tẩy.
2. Sinh nhật và thời niên thiếu của Thánh Gioan
Những trình thuật về cuộc sinh nhật và về thời niên thiếu của Thánh Gioan Tẩy Giả được tìm thấy trong chương 1 và chương 2 của Tin Mừng theo thánh Lu-ca không có trọng lượng lớn xét về khía cạnh sử tính. Một số chuyên gia giả định rằng, đó là những truyền thuyết xuất phát từ giới những người tôn sùng Thánh Gioan Tẩy Giả. Những người này muốn đặt tầm quan trọng của Thánh Nhân vào trong những biến cố xung quanh cuộc sinh nhật và thời niên thiếu của Ngài, cũng như muốn minh họa tầm quan trọng của Ngài bằng cách sử dụng các mô-típ của Cựu Ước để tô điểm thêm. Tuy nhiên, đối với một sự tái hiện lịch sử, những bản văn của Thánh Lu-ca vẫ có những giá trị hiển nhiên của chúng, tuyệt nhiên không bị coi là vô bổ. Có lẽ Thánh Gioan xuất thân từ giới tư tế. Theo cách trình bày của Tin Mừng theo Thánh Lu-ca, Ngài là con trai của tư tế Da-ca-ri-a, thuộc nhóm A-vi-a, cũng như là con của bà Elisabeth, thuộc dòng tộc A-ha-rôn (xc. Lc 1,5tt). Vì nhóm A-vi-a là một trong 24 nhóm tư tế không có tầm quan trọng (1 Sbn 24,19tt), nên những gì được công bố về Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca xem ra rất đáng tin cậy. Theo Lc 1,5tt, Thánh Gioan được sinh ra “dưới thời vua Hê-rô-đê, vua Giu-đa“. Vị vua này cai trị dân Do-thái từ năm 38 trước Chúa Kitô cho tới năm thứ 5 trước Chúa Kitô. Trong Lc 1,39, độc giả biết được nơi ở của bà Elisabeth: “Một thành miền núi thuộc chi tộc Giu-đa“. Dựa vào Lc 1,80: “Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Is-ra-el”, nhiều người đã suy đoán về một thời gian cư trú của Gioan lúc còn trẻ tại Qumran. Tuy nhiên, những suy đoán này không thể tự xác nhận về khía cạnh sử tính. Thực ra Lc 1,80 chỉ có ý trình bày Gioan như là một vị Ngôn Sứ đã từng cư ngụ và hoạt động tại sa mạc trong một thời gian trước khi Ngài được kêu gọi thực thi sứ vụ.
3. Thời gian và nơi hoạt động
Theo cách trình bày của Tin Mừng Lu-ca, hoạt động công khai của thánh Gioan bắt đầu vào “năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô“ (Lc 3,1tt), tức vào khoảng từ năm 26 tới năm 29 sau Chúa Kitô. Còn về nơi hoạt động của Thánh Gioan thì có nhiều công bố khác nhau. Theo Mc 1,3-5 thì Gioan hoạt động tại sa mạc Jordan. Nhưng theo Mt 3,1 thì Gioan lại hoạt động tại sa mạc Judea. Còn theo Ga 1,28 và 10,40, thì Gioan hoạt động tại Bê-ta-ni-a, phía bên kia sông Gio-đan; hay theo Ga 3,23 thì Gioan lại hoạt động tại Ê-nôm, gần Sa-lêm. Có lẽ lý chứng cho rằng, Gioan hoạt động ở phía Đông bờ sông Gio-đan là có lý hơn cả, vì Hê-rô-đê An-ti-pas – người đã ra lệnh tống giam Gioan vì bị Ngài chỉ trích cách dữ dội về lối sống – chỉ có quyền trên khu vực đó (xc. Mc 6,17–29; Jos Ant XVIII 5,2); truyền thống Cựu Ước xem ra cũng có vẻ ủng hộ việc Gioan hoạt động tại bờ Đông sông Gio-đan (xc. Gs 3 và 4; 2 V 2,1–18). Chỉ nhiều thế kỷ sau, nơi làm Phép Rửa của Gioan mới được xác định là thuộc bờ Tây sông Gio-đan; bằng chứng sớm nhất của truyền thống cho rằng, Gioan hoạt động tại bờ Tây sông Gio-đan, chính là bức tranh khảm nổi tiếng của Madaba (tk 6), nó được coi là bức bản đồ cổ nhất của Palestina.
4. Hoạt động công khai và bị hành quyết
a. Hoạt động công khai
Khoảng từ năm 26 tới năm 30 sau Chúa Kitô, Thánh Gioan Tẩy Giả đã bắt đầu những hoạt động công khai của mình. Khu vực hoạt động chính của Ngài là vùng Pê-rê hồi đó, tức bờ bên kia sông Gio-đan, nằm đối diện với Giê-ri-cô. Ngài thực hiện một cuộc sống đề cao sự khổ hạnh. Theo Mc 1,6tt, Thánh Gioan chỉ sống bằng châu chấu và mật ong rừng; còn theo Mt 11,18 thì Thánh Nhân không ăn và cũng chẳng uống gì cả. Thánh Nhân giảng dậy theo phong cách của các Ngôn Sứ Cựu Ước, và làm Phép Rửa. Trong các bài giảng của mình, Thánh Nhân kêu gọi người ta sám hối, và công bố cho mọi người biết rằng, Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, cũng như công bố “một Đấng Quyền Thế hơn“ sẽ đến để thực hiện cuộc phán xét cuối cùng (xc. Mt 3,1-12< Lc 3,4-17). Vì thế, trong Kitô giới, Ngài được coi là người dọn đường trực tiếp cho cuộc xuất hiện của Đấng Messias, và được ví như Ngôn Sứ Ê-li-a.
Những người đến với Gioan Tẩy Giả khá đông, trong đó cũng có cả Chúa Giêsu thành Nazareth. Chính Ngài đã để cho ông thực hiện Phép Rửa cho mình (Mt 3,13-15). Với sứ điệp về ngày phán xét do các Ngài loan báo, cả Chúa Giêsu lẫn Gioan tẩy Giả đều thuộc về truyền thống Ngôn Sứ của Israel, và đứng ngoài các nhóm Do-thái khác trong thời các Ngài. Những nhóm đó không nhìn nhận Phép Rửa. Có vẻ như chính Chúa Giêsu, sau khi được Gioan làm Phép Rửa cho, cũng thực hiện nghi thức này cho những người khác với sự tán thành của Gioan (xc. Ga 3,25-36). Trong các câu chuyện sau này, người ta lại thấy các môn đệ của Gioan dưới danh xưng Man-đê. Một phần trong số các môn đệ của Thánh Gioan đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu sau khi Thánh Nhân bị giết (xc. Cv 19,1-7).
Một số người lính Do-thái phục vụ trong triều đình vua Hê-rô-đê đã đến với Thánh Gioan và hỏi Ngài rằng: Chúng tôi phải làm gì? Thánh Nhân trả lời: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình“ (Lc 3,14). Nhiều trong số những người lính này đã trở thành môn đệ của Thánh Gioan.
b. Hê-rô-đê Antipas và Aretas
Vua Hê-rô-đê Antipas đã kết hôn với bà Phasaelis, công chúa của vua Aretas, nước Nabate. Sau này ông còn kết hôn với bà Herodias, vợ của Herode Boethos, tức người anh cùng cha khác mẹ với ông, mà Tân Ước gọi là “Philippus“ (có lẽ là một biệt danh). Theo sử gia Flavius Josephus thuật lại trong Jud. Alt. XVIII,5,1-2, thì Hê-rô-đê Antipas đã có nhiều căng thẳng với bà vợ đầu của mình, tức bà Phasaelis. Vì thế bà này đã dời nơi ở tới Machaerus, tức một pháo đài biên phòng của Antipas tại Biển Chết. Và từ đó, bà trốn về nhà thân phụ của mình. Mối tương quan giữa Hê-rô-đê Antipas và Aretas đã sẵn bị ảnh hưởng xấu bởi những tranh chấp về lãnh thổ, nên cuộc hôn nhân của Hê-rô-đê với Herodias càng gây thêm tổn thương cho Aretas. Và vì thế, một cuộc xung đột vũ trang đã không thể tránh khỏi.
c. Thánh Gioan bị bắt giam
Theo các sách Tin Mừng, Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị tống ngục chỉ một thời gian ngắn sau khi Ngài đã làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu, có nghĩa là sau khi Chúa Giêsu bắt đầu hoạt động công khai (Mt 4,12; Mc 1,14; Lc 3,19-20). Sở dĩ Ngài bị tống ngục, là vì – theo các sách Tin Mừng – Ngài đã chỉ trích Hê-rô-đê Antipas về việc đã cưới người vợ của anh trai ông ta (xc. Mt 14,4; Lc 3,19). Nhưng theo sử gia Flavius Josephus thì nguyên nhân nằm ở chỗ là, Hê-rô-đê lo sợ trước “uy tín của người mà lời khuyên của người ấy có vẻ như rất được nhiều người nghe theo, nên có thể vì ông ta mà dân chúng sẽ thực hiện một cuộc nổi dậy“ (Ant. Jud. 18,5,2). Hê-rô-đê đã nhốt Thánh Gioan Tẩy Giả trong pháo đài Machaerus nằm bên bờ Biển Chết. Sau một thời gian tù đầy lâu dài, Thánh Gioan đã bị Hê-rô-đê hành quyết trong lúc Chúa Giêsu còn sinh thời (xc. Mt 14,6-12; Mc 6,21-29). Nhiều sử gia cho rằng, Thánh Gioan đã bị nhốt tù vào khoảng những năm từ 28 tới 31 sau Chúa Kitô, và bị hành quyết vào khoảng những năm từ 28 tới 32. Giống như các tác giả Tin Mừng, sử gia Flavius Josephus kể lại rằng, Hê-rô-đê Antipas đã ly dị vợ của mình để cưới người vợ của anh trai ông ta, nhưng người vợ bị ly dị đã trốn về được với thân phụ mình, tức vua Aretas của Nabate. Vì sự nhục nhã của con gái mình, và cũng vì đang có sẵn những tranh chấp về lãnh thổ, nên Aretas đã phát động một cuộc chiến để chống lại Hê-rô-đê sau khi thủ hiến Philippus qua đời (vào khoảng năm 33 hoặc 34 sau Chúa Kitô). Trong cuộc chiến này, quân đội của Hê-rô-đê đã bị thua trận, và người Do-thái coi cuộc thua trận này là một hình phạt của Thiên Chúa giáng trên Hê-rô-đê vì đã dám hành quyết Gioan Tẩy Giả. Như vậy, lý do Thánh Gioan bị tống ngục và bị chém đầu vì dám chỉ trích vua Hê-rô-đê về lối sống vô luân của ông ta, như các sách Tin Mừng đưa ra, xem ra có vẻ hợp lý hơn.
d. Thánh Gioan bị hành quyết
Theo Mc 6,17-29 và Mt 14,3-12, sở dĩ Thánh Gioan đã bị chém đầu là vì cô con gái của Herodias – vợ vua Hê-rô-đê – muốn có được cái đầu của Ngài như là phần thưởng do cô đã trình diễn một điệu nhảy khiến cả vua Hê-rô-đê lẫn toàn bộ triều đình lấy làm mãn nhãn. Cô ta đã được đáp ứng ngay lập tức, vì trước đó, vua Hê-rô-đê đã thề nguyền trước bá quan văn võ rằng, sẽ tặng cho cô bất cứ điều gì cô muốn, dù là một nửa quốc gia. Các sách Tin Mừng không nhắc tới tên của cô gái nhảy này, nhưng sử gia Flavius Josephus cho biết, cô ta có tên là Salome (Jud. Alt. XVIII 5,4), nhưng ông lại không cho biết, Thánh Gioan đã bị hành quyết vào dịp cụ thể nào. Về phía mình, dù cho biết Thánh Gioan bị trảm quyết vào dịp nào, nhưng các sách Tin Mừng đã không nhắc tới địa điểm Thánh Nhân bị trảm quyết, mà chỉ nói một cách chung chung rằng, viên thị vệ đã đi vào ngục và chặt đầu Ngài ở đó. Còn theo Josephus, cuộc hành quyết đã diễn ra tại pháo đài Machaerus nằm bên bờ Biển Chết. Đó là pháo đài biên phòng nằm tại biên giới giữa lãnh thổ của Antipas và lãnh thổ Aretas (Jud. Alt. XVIII 5,2). Các sách Tin Mừng cho biết rằng, cuộc hành quyết Thánh Gioan Tẩy Giả đã diễn ra nhân dịp mừng sinh nhật của vua Hê-rô-đê Antipas, vào khoảng năm 28/29 hoặc năm 31/32. Tuy nhiên, ngày sinh nhật của ông ta là ngày nào thì cho tới tận ngày nay, cũng vẫn chưa ai biết. Giáo hội cử hành Lễ Kính Nhớ “Cuộc trảm quyết của Thánh Gioan Tẩy Giả“ vào ngày 29 tháng 08. Tuy nhiên, không rõ ngày này nên tương ứng với ngày chết có tính lịch sử của Thánh Gioan Tẩy Giả hay tương ứng với ngày cung hiến Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Tẩy Giả theo lối kiến trúc Byzantin tại Samaria, mà trong ngôi Thánh Đường này được cho là có ngôi mộ của Thánh Nhân.
5. Việc tôn kính Thánh Gioan Tẩy Giả
Thánh Gioan Tẩy Giả được coi là một trong những vị Thánh có tầm quan trọng nhất trong cả Giáo hội Công giáo lẫn Chính Thống giáo. Ngài cũng được coi là vị Ngôn Sứ cuối cùng cũng như là vị Ngôn Sứ lớn nhất của Cựu Ước. Bên cạnh đó, Ngài còn được coi là người dọn đường cho Chúa Giêsu và là mẫu gương của những người sống đời khổ hạnh. Mỗi khi Mùa Vọng đến, hình ảnh Thánh Nhân lại được làm nổi bật một cách đặc biệt bởi các bản văn Phụng Vụ.
6. Đại Lễ kính Thánh Gioan Tẩy Giả
Đại Lễ mừng Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả được cử hành vào ngày 24 tháng 06. Đây là Đại Lễ được cử hành trong hầu hết các Giáo hội Kitô, chứ không phải chỉ riêng Giáo hội Công giáo. Ngoài Chúa Giêsu và Đức Mẹ ra, Thánh Gioan là vị Thánh duy nhất được Giáo hội Công giáo cử hành ngày Sinh Nhật với bậc Lễ Trọng. Sở dĩ Giáo hội mừng Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan vào ngày 24 tháng 06, là vì, Lễ Sinh Nhật của Chúa Giêsu được cử hành vào ngày 25 tháng 12, mà theo Tin Mừng Lu-ca, Thánh Nhân lớn tuổi hơn Chúa Giêsu đúng sáu tháng.
Ngày kính Thánh Gioan bị trảm quyết cũng nằm trong lịch cố định của hầu hết các Giáo hội Kitô. Nhưng ngày Lễ này có tầm quan trọng ít hơn so với ngày Lễ Sinh Nhật của Ngài. Giáo hội Công giáo cử hành Lễ Kính Nhớ cuộc trảm quyết của Thánh Gioan Tẩy Giả ở bậc Lễ Nhớ buộc vào ngày 29 tháng 08.
19. Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Antôn Lương Văn Liêm)
Tháng sáu, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, Giáo Hội đã chọn ngày 24/6 hằng năm, để mừng kính một trong những biến cố quan trọng trong công cuộc cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. Đó là lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Nhân đã được Thiên Chúa sắp đặt sinh ra trước Chúa Giêsu 6 tháng để trở thành người dọn đường và giới thiệu cho dân Do Thái hình ảnh và vai trò của Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Quả thật, trong muôn vàn vị thánh được Giáo Hội tôn phong, mừng kính theo niên lịch phụng vụ. Như ta đã biết, ngoại trừ Đức Kitô và Mẹ Maria, chưa có thánh nhân nào có lễ mừng sinh nhật như thánh Gioan Tẩy Giả. Vì sao thế? Xin thưa rằng:
Thứ 1: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại, được khởi đi từ chương trình và LTX vô biên của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại của Ngài. Sau khi ông Adong và bà Eva nghe lời dụ dỗ đường mật của con rắn, hiện thân của quyền lực sự dữ lỗi nghịch cùng Thiên Chúa, từ sự lỗi nghịch ông Adong và bà Eva đã đánh mất đi mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa, đánh mất sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là đấng từ tâm, nhân hậu, Ngài không bỏ mặc con người do chính Ngài tác dựng, qua lời Ngài đã phán với con rắn: “ Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và giòng giống người ấy” (St.3,16). Thánh Gioan Tẩy Giả, một trong những thành viên sáng giá nhất, thuộc dòng giống người đàn bà là Đức Trinh Nữ Maria.
Thứ 2: Gia đình ông Dacaria và bà Êlisabét luôn sống trong sự tủi hổ với người cùng thời. Vì tuy đã cao niên, nhưng hai ông bà không có lấy một mụn con để “nối dõi tông đường”. Hai ông bà đã chuyên chăm cầu nguyện và luôn tín thác tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa. Vì thế, sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình ông Dacaria và bà Êlisabét, là niềm vui cho hai ông bà trong lúc tuổi già, và cho toàn nhân loại như lời truyền tin của Sứ Thần: “ Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” (Lc.1,13-14). Là dấu chỉ Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương và lắng nghe lời cầu nguyện, như lời bộc bạch của bà Êlisabét: “ Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi khổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc.1,25). Đây là bài học quý giá cho nhân loại nói chung và cho người Kitô hữu nói riêng, trong đời sống cầu nguyện, đời sống tín thác vào tình thương của Thiên Chúa.
Thứ 3: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại, ứng với lời tiên báo của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia về thánh Nhân: “Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi …” (Is. 49,1), và qua lời tiên tri của chính phụ thân ngài: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết, Người sẽ cứu độ và tha cho họ hết mọi tội khiên” (Lc.1, 76-77). Đây là dấu chỉ Thiên Chúa quan phòng, hoạch định chương trình cho mỗi cá nhân con người theo Thánh Ý của Ngài.
Thứ 4: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại. Thiên Chúa dần tỏ lộ cho nhân loại mầu nhiệm “Chúa Ba Ngôi” và mầu nhiệm “Nhập Thể và nhập Thế” của Đức Kitô qua bài ca “Chúc Tụng” (Benedittus) của phụ thân ngài là ông Dacaria: “Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Dacaria, được đầy Thánh Thần liền nói tiên tri rằng: Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ítraen đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần vua Đavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta…Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta…” (Lc.1,67-79).
Thứ 5: Sự hiện diện và đời sống khởi đầu của thánh Gioan Tẩy Giả như trình thuật của Tin Mừng của thánh sử Luca: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen” (Lc.1,80). Đây là hành trang giúp cho thánh Nhân chu toàn sứ vụ mà Thiên Chúa đã chọn và mời gọi trong đời sống chứng nhân, đời sống dọn đường, mở lối cho Đấng Cứu Thế. Đời sống của thánh Nhân đã được chính Đức Kitô giới thiệu: “Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em xem gì? Một người mặc gấm vóc lục là ư?.... Thế thì anh em xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này ta sẽ sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho con đến” (Mt.11,7-10).
Trong ngày cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioa Tẩy Giả. Ta cùng hiệp lòng dâng lời cảm tạ, tri ân Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi con người nhân loại cộng tác vào công cuộc sáng tạo và cứu độ của Ngài. Với truyền thống “ uống nước nhớ nguồn ”, ta tri ân thánh Dacaria và Êlisabét, các ngài đã hiến dâng cho Thiên Chúa người con duy nhất, niềm vui duy nhất, để chương trình của Thiên Chúa được thành sự. Đặc biệt, ta tri ân Thánh Gioan Tẩy Giả đã hy sinh và dành trọn cuộc đời trai trẻ của mình cho Thiên Chúa trong sứ vụ giới thiệu Chúa cho mọi người, hiến thân bảo vệ “luân thường, đạo lý”, bảo vệ sự thật, chấp nhận gian khó, hiểm nguy, không chùng bước trước những áp đặt của quyền lực sự dữ…. Ta cũng xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Nhân giúp ta:
- Giữa một thời đại đầy những cạm bẫy, cám dỗ; đầy những lạc thuyết chống đối Thiên Chúa và Giáo Hội; đầy những thử thách, lo âu, buồn phiền do bệnh tật, đói nghèo, nợ nần, thất nghiệp, bất hòa, chia rẽ… Ta luôn biết noi gương song thân của thánh Gioan Tẩy Giả trong đời sống cầu nguyện, để nhờ ơn Chúa giúp, ta có sức mạnh lướt thắng và vượt qua.
- Là những bậc làm cha, làm mẹ. Ta biết noi gương song thân của Thánh Gioan Tẩy Giả trong nhiệm vụ hướng dẫn, giáo dục con cái theo đường lối của Thiên Chúa và Giáo Hội, hy sinh và hướng ý cho con cái hiến thân phụng sự Chúa, phục vụ Giáo Hội và tha nhân. Đặc biệt luôn quan tâm và nhắc nhở con cái biết dùng thời sức khỏe, tài trí cộng tác vào những hoạt động, sinh hoạt của cộng đoàn, giáo xứ và Gióa Hội.
- Trong hoàn cảnh luôn khát khao, ước mong, chờ đợi hoa trái của tình yêu đôi lứa là những đứa con để trở thành cầu nối, để “ nối dõi tông đường”. Ta biết noi gương bà thánh Êlisabét luôn tín thác vào Chúa trong đời sống kiên nhẫn cầu nguyện.
- Ta đang sống trong một xã hội ồn ào, náo động, giữa một xã hội luôn chạy theo chủ nghĩa“ hưởng thụ, hiện sinh và vô thần”. Ta biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả lui vào hoang địa trong chay tịnh và cầu nguyện. Để trong cõi thinh lặng, gặp được Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, bình an và hạnh phúc. Nhất là ta nhận ra được lời mời gọi của Thiên Chúa.
- Hiện nay rất nhiều người chưa nhận biết, khước từ và chối bỏ Thiên Chúa. Ta biết noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả hy sinh, hiến thân, để trở thành những ngôn sứ, chứng nhân giới thiệu Chúa cho mọi người qua đời sống thường nhật bằng yêu thương, tha thứ, cảm thông và sẻ chia…
- Giữa một xã hội luôn nói sai sự thật, sống sai sự thật, khước từ và bưng bít sự thật, từ trong chính mái ấm gia đình trở đi. Ta noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả luôn sống và nói sự thật, mạnh dạn là chứng cho sự thật…
- Giữa một thời đại đạo đức, nhân bản bị xem thường, tệ nạn xã hội lan tràn, đưa đến việc tước đoạt mạng sống của nhau một cách dã man, nạn phá thai lan tràn, nhiều người coi việc phá thai là mối lợi, là sự tự do, là thành tích, để cân bằng dân số…Qua sự hiện diện của Thánh Gioa Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại. Ta nhận thức và ý thức sự sống là do Thiên Chúa an bài sắp đặt, là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Từ đó ta mạnh dạn lên tiếng, hành động một cách cụ thể, để bảo vệ sự sống của con người, nhất là các thai nhi.
Lời Nguyện:
Lạy Chúa! Trong ngày mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, con cảm tạ Chúa, vì Chúa đã yêu thương, an bài và sắp đặt ngài như một quà tặng và là tấm gương cho con và mọi người. Nhờ lời chuyển cầu của thánh Nhân, xin Chúa ban cho các chị em đang khao khát được làm mẹ được thỏa lòng ước mong, xin cho các cháu bé đã và sắp sinh ra được tràn đầy sức mạnh và tình yêu của Chúa. Xin Chúa cho con biết noi gương Thánh Nhân luôn hy sinh, khiêm nhường và hăng say trong sứ vụ loan báo tin Mừng mà Chúa đã yêu thương ban tặng và mời gọi. Amen.
20. Hãy trở nên lời chứng như Gioan
(Suy niệm của Huệ Minh)
Mỗi người chúng ta có cảm nghiệm khi gia đình, người thân của chúng ta có một trẻ thơ chào đời. Tiếng khóc oe oe của trẻ bao giờ cũng đem lại niềm vui lớn nhất định cho những ai có liên quan, dù đôi khi có thể niềm vui chen lẫn nỗi xót xa.
Được sinh ra, được cất tiếng khóc chào đời phải chăng đó là ân huệ lớn lao, và con người chào đón, nhận lãnh ân huệ này với tất cả sự trân trọng, nâng niu và lòng biết ơn. Chính vì lẽ đó, để kỷ niệm ngày sinh của mình, người thời nay thường thiết tiệc. Những bữa tiệc to có, nhỏ có, đơn sơ có, long trọng đình đám có... với mục đích ghi dấu ngày hồng phúc mình được hiện diện trong trần gian, được cái phúc làm người và với người Kitô hữu là được làm con Chúa.
Hôm nay, hết sức đặc biệt, Giáo hội mừng kính Trọng thể lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Ta có thể nói đây là một lễ của lòng từ bi thương xót chính là vì cuộc chào đời của Gioan loan báo cuộc chào đời của Đấng Mêsia, Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được sai phái đền trần gian để cứu chuộc con người sa đọa từ tội nguyên tổ!
Qua Trang Tin mừng hôm nay, ta cảm nhận được niềm vui lớn lao của gia đình Giacaria và láng giềng thân thích (c.58) – Bởi vì không những một trẻ thơ đã sinh ra cho một gia đình hiếm muộn mà còn vì có biết bao sự kiện lạ lùng đã xảy ra được đồn đại trong sự hạ sinh này. Và “Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? "Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.” (c.66).
Được sinh ra trong một gia đình danh giá, nhưng ta đã biết, Gioan không ham sống trong nhung gấm lụa là mà từ rất sớm “ngài đã chọn hoang địa làm nơi dung thân cho tới ngày ra mắt toàn dân Israel” (c.80) để dọn đường cho Đấng Cứu Thế - Đức Giêsu Kitô.
Vị thế cao trọng của thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của thánh Gioan. Cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Đức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Đấng Thiên Sai, nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Đức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Như Gioan, mỗi người trong chúng ta được sinh ra cũng có một sứ mạng. Sứ mạng đó được Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta qua những khả năng được phú bẩm và biết bao ân huệ. Sứ mạng đó được hoàn thành, kiện toàn nhờ biết bao những nâng niu, chăm sóc, vun đắp, xây dựng và yêu thương – Đó là sứ mạng dọn đường cho Đức Kitô ngự trị trong lòng con người, sứ mạng xây dựng nước Chúa – cho Vương Quốc của Cha được hiển trị, qua việc xây dựng làm cho thế giới ngày càng thêm đẹp, vũ trụ ngày càng thêm xinh, tình người mỗi ngày lan tỏa, con người ngày thêm hạnh phúc…
Gioan đã được sinh ra là con người bình thường như chúng ta. Nhưng “cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” – Tinh thần vững mạnh bởi Gioan đã được hưởng một nền giáo dục chân chính trong một gia đình biết kính sợ Thiên Chúa, biết lấy “Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118) được chứng minh qua thân thế cũng như qua bài ca “chúc tụng” của Giacaria. Nhờ đó, Gioan đã hoàn thành sứ vụ là “tiếng hô trong sa mạc mời gọi con người dọn đường cho Đấng Cứu Thế.”
Và vì vậy, trong sứ vụ cộng tác với Đấng Cứu Thế để cứu độ trần gian, gia đình Kitô hữu phải là chiếc nôi, là môi trường cho con cái được lớn lên bằng đời sống yêu mến, kính sợ, tôn thờ Thiên Chúa và tâm tình yêu thương, hiếu thảo, kính trên nhường dưới chan hòa với mọi người; mỗi Kitô hữu cần được dưỡng nuôi bằng Lời Chúa, bằng ân sủng của ngài qua các bí tích và đời sống Giáo hội; ngoài ra họ còn cần được huấn luyện giáo dục để phát triển những khả năng, năng khiếu phú bẩm để trở thành những con người hữu ích, có khả năng phục vụ và làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp theo ý Thiên Chúa. Có như thế thì việc mừng sinh nhật của chúng ta mới thật ý nghĩa, vì con người đã được sinh ra ấy thực sự đã là quà tặng cho mỗi người trong cuộc sống.
Cuộc chào đời của Gioan đầy những chuyện lạ lùng bao quanh: sứ thần Gabriel loan báo cho ông Dacaria; bà Êlisabét gặp Đức Maria là cơ hội để cho thai nhi nhảy mừng. Và Gioan ra đời đã sống xứng đáng với các phép lạ đó. Nghĩ đến cuộc sống mình, chúng ta hẳn cũng thấy đời của mình đầy ắp phép lạ, hay là cả cuộc đời mình là một phép lạ kéo dài, bởi vì chúng ta cũng là những tiền hô của Đấng cứu thế. Chúng ta đang sống thế nào?
Mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người chúng ta cũng sống tâm tình cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi chúng ta vào cuộc sống này, để cùng chung chia trách nhiệm dựng xây thế giới con người tươi đẹp. Chúng ta cũng xét lại thái độ sống của mình đối với sứ mạng Chúa trao để sống tích cực hơn trong sứ mạng ấy, hầu sau này xứng đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng với Thiên Chúa.
Xin cho mỗi người chúng ta biết noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả. Xin cho mỗi người chúng ta biết và sống sao trở nên chứng nhân của Lời, sẵn sàng đón nhận mọi gian nan thử thách cho Lời được tỏa sáng trong thế giới hôm nay và ngự trị mãi trong tâm hồn con người.
21. Lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Pt. Phêrô Đặng Phi Hùng)
Từ thế kỷ thứ 4 cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể vào 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin (Forerunner/Herald), người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là "ngày tái sinh trên trời." Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời, vào Chúa nhật như Chúa nhật tuần nầy vì cuộc đời Thánh Gioan gắn liền với cuộc đời Ngôi Hai Thiên Chúa: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giesu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giesu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.
Cuộc đời của Thánh Gioan và Chúa Giêsu rất lạ thường: Sự thụ thai của hai con trẻ được báo trước bởi cùng một Thiên Thần Gabriel; Cả hai được sinh ra bởi hai người nữ đáng lẽ không thể có con: bà Elizabeth tuổi đã già trong khi Đức Mẹ khấn trọn đời đồng trinh, không biết đến người nam; Cả hai con trẻ được đặt tên và trao nhiệm vụ từ lúc còn trong lòng mẹ: Gioan/Đấng Tiền Hô và Giêsu/Đấng Cứu Thế (Lk. 1:5 & 1:26); Cuối đời Thánh Gioan chịu chết vì đức tin và nhiệm vụ của Ông trước khi Chúa Giesu chịu chết vì tội nhân loại chúng ta trên Thánh Giá;
Chúa Giêsu cần Gioan loan báo trước khi đến như Thánh Gioan cần cha là Zachariah khỏi câm để xác nhận tên và nhiệm vụ Chúa giao phó cho mình (Lk. 1:64); Đức Mẹ cần thăm viếng bà Elizabeth để hài nhi Gioan giới thiệu hài nhi Giesu trong cung lòng các bà mẹ được chúc phúc.
Cuộc đời tiền hô và làm chứng của T. Gioan được tóm gọn lại trong 3 điểm:
1) Một Ngôn sứ đã làm phép rửa, rao giảng và giới thiệu Chúa Kitô đến với mọi người.
Sau khi xong nhiệm vụ giới thiệu, Ông tránh sang một bên để Chúa trực tiếp liên hệ với người ta.
2) Khiêm nhường nhưng cương quyết:
theo Phúc âm thuật lại sau khi làm phép rửa cho Chúa Giesu tại sông Jordan, chính mắt Ông đã thấy Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Con và nghe trên trời có tiếng phán: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài." (Mk. 1:9) Ông giới thiệu đến toàn dân: "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian....Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài." (Jn. 1:15) Lần kia khi đứng với hai môn đệ thì bắt gặp Chúa Giesu đi qua, Ông chỉ cho môn đệ: "Đây chính là Đấng Messiah-Thiên sai." Sau đó hai môn đệ đã bỏ Ông và theo làm môn đệ Chúa Giesu (Jn. 1:35). Lần khác Ông tuyên bố: "Chúa Kitô phải được nâng lên, còn tôi phải hạ xuống." (Jn. 3:30) Ông cương quyết nhất định không nhượng bộ hành động trái luân lý và luật Chúa của vua Hêrođê dù việc đó dẫn đến cái chết (Lk. 3:19).
3) Tính cách nhân bản rất người của Gioan:
Sinh ra bởi một cặp vợ chồng rất già là một sự lạ; Cha bị câm suốt thời gian mẹ mang thai cũng lạ; Nhảy mừng trong lòng khi được hài nhi Giesu trong cung lòng Đức Mẹ tới thăm càng lạ hơn; Lớn lên được tràn đầy Chúa Thánh Thần khi chứng kiến biến cố rửa tội ở sông Jordan với Chúa Ba Ngôi, thế nhưng không vì thế mà Gioan không có những thao thức, trăn trở về đức tin, về tâm linh theo Thánh ý Chúa. Một hôm lúc đang bị giam trong tù chỉ vì dám nói lên sự thật đã chỉ trích Vua Herode cướp vợ của anh mình, sống với chị dâu tên Herodia, Gioan đã phái môn đệ đến hỏi Chúa Giesu: "Thưa Thầy, Thầy chúng tôi muốn biết Thầy có phải là Đức Kitô Đấng đến để cứu nhân loại hay chúng tôi còn phải chờ một Đấng nào khác?" Chúa Giesu đáp: "Yes! Hãy về nói cho Gioan biết những điều mà các con thấy: người mù được thấy, người què được đi, người cùi được sạch, người điếc nghe được, người chết trỗi dậy, người nghèo được nghe tin mừng..." (Lk. 7:19)
Suy nghĩ về cuộc đời Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta tìm được 3 ý niệm để cùng nhau suy nghĩ trong những ngày tới:
1/ Sau khi được rửa tội, mỗi chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Kitô, phải nói sự thật và cương quyết sống sự thật, cho dù điều đó đôi khi làm chúng ta thiệt thòi, đau khổ hoặc dẫn đến cái chết như Gioan. Thánh Gioan chỉ vì nói lên sự thật, cố gắng giúp đỡ cho vua Hêrôđê tốt hơn, nhưng hậu quả dẫn đến cái chết tức tưởi trong tù vì bị bà Herodia chị dâu sống bất hợp pháp với Herođe hãm hại.
2/ Là Kitô hữu chúng ta phải sống khiêm nhường: "Chúa phải lớn lên trong ta và cái tôi trong ta phải hạ xuống." Sau khi giới thiệu Chúa cho người ta rồi thì đừng có nhận làm "tổng đại lý" của Chúa mà hỏng việc Chúa! Bổn phận chúng ta gieo còn Chúa cho ai gặt tuỳ Chúa, đừng thắc mắc, cũng đừng kể công mà mất phúc.
3/ Trong đời sống đức tin đôi lúc chúng ta có thể đặt câu hỏi nhưng đừng ngã lòng mất lòng trông cậy nơi Chúa. Phó thác không có nghĩa là gặp cái gì cũng tin, hoặc gặp cái gì cũng đòi phải được chứng minh. Đức tin và Đời sống người Kitô hữu là một bí nhiệm mà chỉ có Tình thương và lòng trông cậy vào Lời Chúa như Thánh Gioan Tẩy Giả mới giải đáp được.
Xin Thánh Gioan Tiền Hô giúp Kitô Hữu chúng con dám can đảm Tin và cương quyết Làm Chứng cho Chúa cho dù nơi trần thế chúng con chưa thấy được Chúa tỏ tường. Amen.
22. Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn)
Trong niên lịch Phụng vụ, nếu không nói đến ngày lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, thì chỉ có hai đấng được nhắc đến ngày sinh của mình: một là Mẹ Maria, được mừng sinh nhật vào ngày 8/9, và người thứ hai là thánh Gioan Tiền Hô được toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể ngày sinh nhật của ngài vào ngày hôm nay.
Tuy nhiên, không phải chỉ có Mẹ Maria và thánh Gioan mới có ngày sinh nhật, nhưng tất cả mỗi người trong chúng ta đây, ai cũng có một ngày sinh. Chúng ta đã được sinh ra và lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ và sự quan phòng của Thiên Chúa. Việc chúng ta xuất hiện trên cõi đời này không phải là một sự ngẫu nhiên, nhưng cũng giống như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa gọi vào đời và giao cho một nhiệm vụ phải chu toàn.
Do đó, nhân ngày lễ Sinh nhật của thánh Gioan Tiền Hô, chúng ta cùng suy nghĩ về hai điểm: bổn phận của cha mẹ trong việc giáo dục con cái, và ơn gọi của mỗi người kitô hữu.
1. Bổn phận giáo dục con cái của cha mẹ:
Điều đầu tiên mà các bậc làm cha mẹ là giúp cho con cái mình can đảm sống theo hướng dẫn của Lời Chúa, cho dù điều đó có đi ngược lại với thói quen của mình, đòi hỏi chúng ta một sự cố gắng hy sinh. Chúng ta phải can đảm sống đúng với giáo huấn của Chúa trong mọi việc lớn nhỏ.
Các bậc cha mẹ cần giáo dục cho con cái một lương tâm ngay thẳng, để rồi trong bất cứ hoàn cảnh nào, gặp bất cứ điều gì, cho dù là một việc nhỏ và có được sự ủng hộ của nhiều người, nhưng nếu không đúng với Lời Chúa thì chúng ta vẫn không làm.
Tất cả những điều trên, các bậc phụ huynh chỉ có thể làm được không phải bằng lời nói mà bằng chính đời sống gương mẫu của cha mẹ. Chúng ta có thể học được bài học này từ cha mẹ của thánh Gioan Tiền Hô. Tin mừng thuật lại, khi con trẻ đã được tám ngày, bà con đến để chúc mừng và “cắt bì cho con trẻ, và họ đã lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được tên nó là Gioan”. Cả ông Giacaria, dù không nói được, nhưng cũng đã ra hiệu đồng ý như vậy. Cả hai ông bà đã đặt tên con trẻ theo như ý của Thiên Chúa, chứ không phải theo phong tục tập quán hay ý riêng mình.
Sống đúng theo ý Chúa, chu toàn mọi bổn phận của mình, đó chính là lúc chúng ta đang sống trọn vẹn ơn gọi của người kitô hữu.
2. Ơn gọi của người kitô hữu
Trong nghi thức diễn giải sau khi đã được rửa tội, người đỡ đầu thay mặt cho em nhỏ đã nhận cây nến sáng được thắp lên từ cây nến Phục Sinh của Chúa Kitô, để rồi từ đây, theo dòng thời gian, em nhỏ này phải dùng chính cuộc sống của mình để chiếu toả ánh sáng Tin mừng của Chúa Kitô Phục Sinh cho mọi người. Trong bài đọc một, trích từ sách ngôn sứ Isaia nhắc lại lời của Giavê Thiên Chúa nói về người tôi tớ của Người rằng: “Con là tôi tớ Ta, để tái lập các chi họ Giacob, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; nầy đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc”.
Như thế, nhiệm vụ của mỗi người kitô hữu là phải trở nên ánh sáng để dẫn đưa mọi người đến với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta phải chiếu giãi ánh sáng của yêu thương và tha thứ vào trong thế giới đang đầy dẫy những hận thù, ganh tỵ. Thông thường, chúng ta vẫn thường thích để người khác đến với mình, khen ngợi mình, nhưng đây không phải là mục đích cuối cùng của người kitô hữu. Một người kitô hữu chân chính phải luôn ý thức mình chỉ là người dọn đường để dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa. Chúng ta phải hãm dẹp cái tôi ích kỷ, phải dùng chính cuộc sống tự hạ, khiêm tốn của mình để dẫn đưa mọi người đến gặp gỡ Thiên Chúa. Nhiệm vụ của chúng ta là dẫn đưa con người đến gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, chứ không phải dừng lại ở nơi chúng ta.
Về điều này, thánh Gioan Tiền Hô mà chúng ta mừng kính hôm nay là một mẫu guơng hết sức sống động cho chúng ta. Lúc ấy, sau khi bắt đầu cuộc rao giảng của mình, toàn dân đã kéo nhau đến với thánh nhân rất đông. Nhiều người trong số họ, kể cả Chúa Giêsu cũng đã bước vào dòng sông Giođan để được ngài thanh tẩy. Danh tiếng của ngài đã vang dội khắp nơi. Mọi người đều coi ngài là một vị ngôn sứ đến từ Thiên Chúa. Thậm chí, họ còn lầm tưởng thánh nhân chính là Đấng Messia mà Thiên Chúa đã báo trước. Lúc đó, thánh nhân chỉ cần im lặng thôi là có thể tận hưởng bao vinh dự dân chúng dành cho ngài. Thế nhưng, thánh nhân đã không làm như vậy. Ngài ý thức rõ vai trò của mình. Mình chỉ là người dọn đường, chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế. Thánh nhân đã can đảm nói lên sự thật: “Tôi không phải là người anh chị em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi, mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người”.
Đây quả là bài học hữu ích cho mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống thường ngày, nhiều khi chỉ vì để chứng tỏ mình, để biện hộ cho mình, chúng ta thường ngụy biện để che đậy lỗi lầm, lôi kéo mọi người về phe mình để chống đối người khác. Và chính những điều đó đã gây ra biết bao hiềm khích, chia rẽ trong cộng đoàn.
Bài học thánh Gioan để lại là mỗi người phải tự xoá mình, để cho Chúa lớn lên. Nhờ đó cộng đoàn được hiệp nhất. Thiên Chúa được tôn vinh. Hay nói theo cách nói của ngôn sứ Isaia trong bài đọc một, nhiệm vụ của người kitô hữu, đó là “đem Giacob về cho Người, và quy tụ Israel chung quanh Người” chứ không phải quy tụ mọi người chung quanh chúng ta. Chính vì sống như vậy, thánh Gioan đã được “vinh hiển trước mặt Chúa” và đã nhận được phần thưởng muôn đời “ở nơi Thiên Chúa”.
Thánh Gioan đã sinh ra trong niềm vui của cha mẹ và mọi người, thánh nhân đã sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để rồi lúc ra đi, thánh nhân đã để lại một mẫu gương khiêm nhường, thánh thiện cho muôn đời. Phần mình, mỗi người chúng ta đã có một ngày được sinh ra. Trong ngày đó, chúng ta khóc, còn mọi người cười vui. Vậy thì giờ đây, chúng ta hãy sống thế nào để khi Chúa gọi chúng ta về, chúng ta có thể hân hoan mỉm cười, còn mọi người phải khóc vì thương, vì nhớ chúng ta. Amen.
23. Gioan Tiền Hô
Gioan Tiền hô là người của Thiên Chúa. Ông đã được sinh ra một cách lạ lùng từ một người mẹ thuộc hàng son sẻ và đã cao niên. Son sẻ là một nỗi, tủi nhục đối với người phụ nữ Do Thái vào thời bấy giờ. Bởi vậy, bà Êlisabéth khi biết mình mang thai đã thốt lên:
- Chúa đã làm cho tôi như thế, vào thời Ngài cất nỗi khổ nhục của tôi giữa người đời. Bởi vì lòng dạ không mang thai là một lòng dạ đã chết. Nhưng chính nơi những cái chết ấy mà Thiên Chúa thi thố quyền năng của Ngài.
Lịch sử cũng cho thấy từ những người đàn bà hiếm muộn, Thiên Chúa đã cho trỗi dậy những khuôn mặt lỗi lạc.
Tư tưởng và đường nẻo của Thiên Chúa thì khác với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Chẳng hạn từ cung lòng Đức Trinh nữ Maria, vị cứu tinh muôn dân mong đợi sẽ ra đời. Và từ cái chết trên thập giá, Thiên Chúa đã làm nảy sinh sự sống mới. Công trình cứu chuộc hoàn toàn là một sáng kiến của Thiên Chúa xuất phát từ tình thương bao la của Ngài.
Ông Giacaria, cha của Gioan Tiền hô, trong lúc hứng khởi vì được chứng kiến những việc lạ lùng Thiên Chúa làm khi khởi đầu thời cứu độ, đã nói về vai trò của Gioan trong bài ca chúc tụng:
- Con sẽ là tiên tri của Đấng Tối cao. Con sẽ loan báo việc Thiên Chúa và dọn đường cho Ngài.
Dọn đường để chào đón một nhân vật quan trọng là một hình ảnh quen thuộc. Đường sá thì ghồ ghề khó đi, dân làng được huy động để san bằng những chỗ lồi lõm. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ đi trên những con đường xứ Palestine, mà Ngài còn muốn đến với cõi lòng của mỗi người. Và như thế, công việc dọn đường của Gioan có nghĩa là rao giảng sự hoán cải trong dân để được tha thứ: lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh hoa kết trái thì sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa.
Tin mừng đã mô tả Gioan như một vị tiên tri. Ông được xức dầu một cách thiêng liêng ngay từ trong lòng mẹ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Ông được đầy tràn Thánh Thần và có được những đặc điểm của một vị tiên tri. Và như các vị tiên tri khác, ông có nhiệm vụ rao giảng sự sám hối ăn năn. Và theo cái nhìn của Chúa Giêsu, ông còn hơn cả vị tiên tri nữa, bởi vì ông là sứ giả của Thiên Chúa:
- Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt ngươi.
Và Chúa Giêsu còn lớn tiếng khẳng định:
- Trong những kẻ bởi người nữ, thì không có ai lớn hơn Gioan. Nhưng người nhỏ hơn trong nước Thiên Chúa, lại lớn hơn ông.
Điều đó có nghĩa là Gioan thuộc về giai đoạn chuẩn bị và trong giai đoạn chuẩn bị này, thì ông là người lớn hơn cả. Nhưng người đến sau ông, tức là Đức Kitô Con Thiên Chúa làm người, vị cứu tinh của thời buổi sau hết, lại lớn hơn ông. Cái lớn lao của ông là cái lớn lao của công việc chuẩn bị, dẫn người ta đến với Đức Kitô, vì thế khi Đức Kitô bắt đầu xuất hiện trước công chúng để rao giảng Tin mừng, thì lập tức ông lui vào bóng tối vì vai trò của ông đã hoàn tất như lời ông đã nói:
- Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Còn chúng ta thì sao? Mỗi người chúng ta cũng phải là một Gioan Tiền hô giữa lòng cuộc đời, nghĩa là chúng ta cũng phải dẫn đưa mọi người đến tìm gặp Chúa. Bởi đó, với một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng ta cũng sẽ là những tiền hô, giới thiệu khuôn mặt đích thật của Đức Kitô cho những người chung quanh chúng ta.
24. Sống cao đẹp, chết hào hùng
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Giáo Hội thường mừng lễ các thánh vào ngày các ngài qua đời. Đó là ngày các ngài được về với Thiên Chúa Tình Yêu, ngày sinh nhật trên thiên quốc.
Đối với thánh Gioan Tẩy Giả, Giáo hội mừng kính cả ngày ngài sinh ra và cả ngày ngài tử đạo. Ngày qua đời mừng ở bậc lễ nhớ. Ngày sinh nhật với bậc lễ trọng.
Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12). Sinh nhật của Đức Maria (8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6). Như vậy trong hàng ngũ các thánh, chỉ có thánh Gioan được vinh dự lớn nhất là được mừng ngày chào đời của mình. Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt lễ mừng Sinh nhật Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.
Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Gioan ra đời là niềm hạnh phúc cho cha mẹ, người thân và láng giềng. Một niềm vui quá lớn vì ông bà son sẻ. Mọi người đến chúc mừng người mẹ sinh con lúc tuổi già mà được “mẹ tròn con vuông”. Ai cũng trầm trồ khen bé trai thật dễ thương thật đáng yêu. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Ông Bà Giacaria mong chờ con trai nối dõi tông đường và sẽ như cha, làm tư tế. Gioan có đủ điều kiện để tiến thân, giàu có, vinh dự thuộc giai cấp thượng lưu. Nhưng Gioan lại nghe tiếng gọi từ trời cao đi làm Ngôn sứ. Gioan vào hoang địa sống một mình. Cuộc sống khắc khổ, đơn sơ, nghèo nàn.
Từ đó, Gioan trở thành Ngôn sứ với đời sống cao đẹp và đã chết hào hùng.
1. Cuộc sống cao đẹp
Gioan sống đẹp trong cương vị sứ giả: “Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17), và là người tiên phong: “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76).
Sống đẹp vì Gioan đã từ bỏ đời sống giàu sang uy thế của gia đình, đi vào trong sa mạc hoang vắng sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện thánh ý Ngài.
Sống đẹp vì Gioan có một số môn đệ, nhưng khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã giới thiệu cho họ (Ga 1, 36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu.
Sống đẹp vì Gioan đã thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, nhưng Gioan chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài (Ga 1, 27).
Gioan sống đẹp vì đã luôn tâm niệm rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3, 30).
2. Cái chết hào hùng
Cái chết của Gioan đau thương mà rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.
Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua,kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu. Người theo Đạo Hồi giáo Islam rất sùng kính Thánh Gioan ở giáo đường bên Syria. Theo tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden có phần mộ chôn đầu của Gioan. Người Hồi giáo Syria gọi ngài bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với những người Hồi giáo tại đó.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù.Thế nhưng Chúa Giêsu đã nói về ông: “ Trong các con cái người nữ sinh ra,chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”(Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Chúa Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi,cũng gánh lấy tù tội và cái chết, bởi lẽ: “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” ( Ga 15,18 - 19 ).
3. Hồng ân ngày sinh nhật
Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa, Gioan đã sống vai trò Ngôn sứ, dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người nhớ đến ngày sinh nhật của mình. Ngày đó, cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc mừng vui. Ai cũng cười tươi nhìn trẻ thơ, ai cũng muốn bồng ẵm chúc lành và đặt nhiều hy vọng nơi con trẻ. Rồi mỗi người được cha mẹ đặt tên, được đưa đến Nhà thờ để nhận phép thanh tẩy với một tên Thánh và trở nên con của Thiên Chúa.Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, mỗi người nhớ đến bao nhiêu là hồng ân Thiên Chúa ban tặng để tạ ơn và sống xứng đáng hơn.
Ngày nay, nhiều gia đình có truyền thống kỷ niệm và mừng ngày sinh nhật của các thành viên trong gia đình. Đó là một việc làm thật ý nghĩa và nhiều niềm vui. Bởi vì, đã sinh ra trong đời, dù ở cảnh ngộ nào, ai cũng được Đấng Tạo Hóa ban tặng chức phận quý giá, đó là làm người. Qua mạc khải Kinh thánh và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta biết rằng, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu. Như vậy, mỗi người trong nhân loại đều được mời gọi theo một hướng đi nhất định để hoàn tất một định mệnh tươi đẹp và một cuộc sống cao cả.
Là Kitô hữu, chúng ta vui mừng tạ ơn và hy vọng về ơn gọi, định mệnh, hướng đi của mình.Thánh Gioan là một mẫu gương tuyệt vời, sống cao đẹp và chết hào hùng.
25. Thánh Gioan Tiền Hô
Suy nghĩ về thánh Gioan Tiền Hô, tôi nhận thấy Ngài có một chỗ đứng quan trọng, một vị trí đặc biệt trong Kinh Thánh cũng như trong phụng vụ.
Trước hết là trong Kinh Thánh.
Thực vậy, không có một vị thán nào mà cuộc đời được Kinh Thánh diễn tả một cách đầy đủ cho bằng thánh Gioan Tiền Hô. Kinh Thánh đã kể lại từ việc ông Giacaria dâng hương trong đền thờ đến việc bà Isave thụ thai. Từ việc Đức Maria tới thăm viếng đến việc bà Isave sinh nở. Từ ngày mở mắt chào đời với những sự việc kỳ diệu của Chúa, đến những năm tháng xuất hiện công khai với một cuộc sống khắc khổ. Từ những lời rao giảng gắt gao cho đến lúc bị tống nục và cái chết anh dũng dưới lưỡi gươm của Hêrôđê. Ngài là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, nhưng đồng thời lại là một vị thánh lớn của Tân Ước. Ngài chính là một nhịp cầu thông cảm nối liền Cựu Ước với Tân Ước, đến nỗi Chúa Giêsu đã phải lên tiếng ngợi khen: "Trong số những kẻ được sinh ra bởi người nữ, không có ai cao trọng hơn Gioan".
Tiếp đến là trong phụng vụ.
Đối với tất cả các thánh, chúng ta thường mừng kính vào ngày chết, tức là ngày các ngài được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu, được bước vào quê hương Nước Trời. Ngoài Chúa Giêsu, thì Giáo Hội chỉ mừng kính ngày sinh của Mẹ Maria và thánh Gioan Tiền Hô mà thôi. Bởi vì tất cả chúng ta, dù là các thánh thì khi mở mắt chào đời, cũng đã mang lấy dấu vết nhơ bẩn của tội nguyên tổ, cũng đã sống trong một tình trạng thù địch với Thiên Chúa. Trong khi đó thì Mẹ Maria được đặc ân vô nhiễm, còn thánh Gioan thì được tẩy sạch nhờ sự thăm viếng của Mẹ Maria, khi còn là một thai nhi trong lòng bà thánh Isave.
Như thế Gioan Tiền Hô đã là thánh kể từ khi lọt lòng mẹ, kể từ khi bắt đầu cuộc sống trần thế. Sở dĩ như vậy vì Chúa muốn cho Gioan được chuẩn bị để báo trước sự xuất hiện của Ngài.
Đúng thế vai trò của Gioan là vai trò của người tiền hô, chuẩn bị cõi lòng mọi người đón nhận Đấng cứu thế, vai trò của người đi trước dọn đường Chúa đến. Nếu Đức Kitô là mặt trời rực sáng thì Gioan Tiền Hô là hừng đông và một khi mặt trời đã xuất hiện ngày mới khởi đầu thì hừng đông không còn nữa. Ý thức được vai trò của mình nên Gioan đã xác quyết với đám đông: "Ngài cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi".
Với chúng ta cũng vậy ngay từ khi chúng ta mở mắt chào đời, Thiên Chúa cũng đã nhìn chúng ta bằng một ánh mắt trìu mến, và nhất là Ngài đã dành cho chúng ta một ơn gọi, ơn gọi ấy là trở nên như những vị tiền hô, chuẩn bị và dọn đường Chúa đến trong tâm hồn những người chung quanh. Thế nhưng chúng ta đã thực sự là những vị tiền hô của Chúa hay là bằng một đời sống bê tha và tội lỗi, gian tham và thù oán, chúng ta đã nhẫn tâm dập tắt ngọn lửa nhỏ bé của những tâm hồn thiện chí, đang muốn tìm gặp Chúa.
26. Cái bóng
(Trích 'Lẽ Sống' - Radio Veritas Asia)
Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn thì cái bóng càng đeo đuổi anh. Anh lăn lộn trên đất, anh đâm xuống nước, dù anh đi đâu, dù anh làm gì, cái bóng của anh vẫn còn đó.
Có một người khôn ngoan nghe chuyện mới đến cố vấn cho anh khờ. Người khôn ngoan ấy nói như sau: "Để thoát khỏi cái bóng của anh, anh chỉ cần đến đứng dưới bóng của một cây lớn".
Có nép mình dưới bóng cây Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của không biết bao nhiêu phù phiếm, hư ảo trong cuộc sống của chúng ta.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng nép bóng dưới cây Thập giá của Chúa Giêsu. Con người ấy chính là Goan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, nhưng đồng thời cũng là người luôn nép bóng trong Chúa Giêsu.
Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của Ngài trong câu nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại". Dưới cái nhìn của con người, như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của Ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của Ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị tiên tri được xem là là cao cả nhất trong lịch sử Isreal ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị tiên tri nào đã quy tụ được... Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.
Gioan nhỏ lại trong cái chết ấy, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong Mầu Nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về chính cái chết của Chúa Giêsu... Nhưng cũng chỉ trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa... Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là bước đi trong từng bước nhỏ lại của Ngài. Trong từng bước ấy, chúng ta hãy đặt mình dưới bóng vĩ đại của Thập giá Chúa Giêsu. Chỉ trong chiếc bóng vĩ đại ấy của Thập giá Chúa Giêsu, những nghịch cảnh, những đau thương, những nghi ngờ và ngay cả những cái chết từng ngày sẽ mang lấy ý nghĩa. Và ý nghĩa ấy là gì nếu không phải là sự lớn lên của Đức Kitô trong chúng ta?
Chúng ta có nhỏ lại trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong những ham muốn ganh tỵ bất chính của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong hận thù nhỏ nhen của chúng ta, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
27. Con mới là bào thai, mắt ngài đã thấy
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lễ Trọng Sinh Nhật Gioan Tẩy Giả là một lễ lâu đời từ Thế Kỷ thứ bốn. Câu hỏi "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào?" được những người đương để bụng suy nghĩ, ngày hôm nay, con trẻ này vẫn còn nhiều câu hỏi, cụ thể như: Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6? Và lý do gì mà Giáo hội lại mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan cách trọng thể làm vậy?
Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6?
Lý do tại sao lấy ngày 24 tháng 6 thay vì ngày 25 tháng 6 là vì theo cách tính ngày xưa, tức là theo calends( ngày mùng 1), ides(ngày 15) và nones(ngày thứ chín). Dĩ nhiên, những niên hiệu này có một giá trị phụng vụ và biểu trưng hơn là một giá trị lịch sử. Chúng ta không biết chính xác ngày và năm Chúa Giêsu sinh ra, nên khi nào Gioan sinh ra chúng ta cũng không hay.
Dựa vào trang Tin Mừng, thánh Luca cho biết, khi loan báo sự sinh của Chúa Kitô cho Đức Maria, thiên thần cho ngài biết bà Elizabeth chị họ của ngài đang có thai trong tháng thứ sáu. Cho nên, Gioan Tẩy Giả phải được sinh ra sáu tháng trước Chúa Giêsu và như vậy bảng niên đại được tôn trọng cho đến ngày nay.
Giáo hội mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan
Thánh Augustinô nói: Giáo hội có thói quen lấy ngày qua đời của các vị thánh để mừng kính, vì đó là ngày sinh nhật của các thánh trên nước Trời. Riêng thánh Gioan Baotixita được miễn trừ khỏi qui luật bình thường đó, vì ngài đã được thánh hiến ngày từ trong lòng mẹ trước khi sinh ra, nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, trong lòng Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh khi thăm Bà Thánh Isave, từ đó Giáo Hội tin rằng Gioan Tẩy Giả đã được thánh hoá trong bụng mẹ nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Đó là lý do Giáo Hội cử hành lễ sinh nhật của ngài.
Bài Tin Mừng chính ngày lễ nói về sự chọn tên Gioan. Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn Sứ Isaia và Thánh Vịnh nói về giá trị cao cả của con người trước mặt Thiên Chúa: "Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người." (Is 49, 1-3) Thánh vịnh trở lại với ý niệm này, tức là, Chúa biết chúng ta từ trong lòng mẹ: "Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con...Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. (Tv 138, 13). Như thế Thiên Chúa đã an bài sắp đặt mỗi người chúng ta ngay từ khi còn trong dạ mẹ.
Chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ sự sống các thai nhi
Theo Kinh Thánh, con người là kẻ được Thiên Chúa nhận biết, gọi tên; và Thiên Chúa biết chắc chúng ta từ lòng mẹ. Mắt Ngài thấy chúng ta: "Con mới là bao thai, mắt Ngài đã thấy." (Tv 138,16)
Chúng ta có một ý niệm rất hẹp hòi và có tính pháp lý về con người, gây nhiều hoang mang trong sự bàn cãi về nạn phá thai. Xem ra một đứa bé chỉ được sở hữu phẩm giá con người khi nó được các thẩm quyền con người thừa nhận.
Khoa học nói với chúng ta rằng trong phôi thai, toàn diện hữu thể nhân bản đang thành hình, được phản chiếu trong mỗi chi tiết rất nhỏ; đàng khác, đức tin chúng ta thêm rằng, điều chúng ta có không phải là công trình vô danh của tạo vật, nhưng một công trình tình yêu của đấng Sáng tạo. Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh ra: "Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người." (Lc 1, 76)
Vấn đề nghiêm trọng ngày nay là hàng triệu trẻ em chết vì phá thai mà không được rửa tội. Chúng ta phải nói gì về chúng? Chúng có được thánh hoá cách nào đó trong bụng mẹ chúng không? Chúng có được cứu rỗi không?
Câu trả lời không do dự: Chắc chắn chúng được cứu rỗi. Theo một ý kiến đã trở nên phổ thông từ Trung Cổ, những trẻ con không được rửa tội thì xuống lâm bô, một nơi trung gian trong đó không có đau khổ cũng không được thấy mặt Chúa.
Chúa Giêsu đã thiết lập các bì tích như những phương tiện bình thường của việc cứu rỗi. Do đó, các bí tích là cần thiết, và những ai dầu có khả năng nhận lãnh bí tích, mà từ chối hay biếng nhác nhận lãnh bí tích đi nghịch lại lương tâm của mình, gây lâm nguy trầm trọng cho sự rỗi muôn đời của mình. Nhưng Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi những phương tiện này. Ngài có thể cứu rỗi bằng những phương tiện bất thường, khi con người, không do lỗi mình, không được lãnh bí tích rửa tội. Chúa làm như vậy đối với các thánh Anh Hài, những em bé đã chết không được rửa tội.
Giáo Hội đã luôn luôn công nhận khả năng của một phép rửa tội bằng ý muốn và một phép rửa tội bằng máu, và nhiều em bé chắc chắn đã biết một phép rửa tội bằng máu, dầu thuộc về một bản tính khác.
Khi làm sáng tỏ vấn đề trên sẽ mang lại một sự thoải mái cho những kẻ tin, những kẻ mất bình thản trước số phận khủng khiếp của rất nhiều em bé trong thế giới ngày nay.
Chúng ta hãy trở lại ngày sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Khi loan báo sự sinh của con trẻ cho Giacaria, Thiên Thần nói với ông: " Elizabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai ông sẽ gọi là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời" (Lk 1:13-14). Quả thật, nhiều người đã hỷ hoan vui mừng khi con trẻ sinh ra, bước sang thế kỷ 21, chúng ta ở đây đang mừng vui nói về con trẻ này.
Xin Chúa cho tất cả những người cha và bà mẹ, như bà Elizabeth và ông Giacaria, đang chờ đợi hay kinh nghiệm sự sinh con, có được niềm vui và hớn hở trong đứa con Chúa đã trao ban, và niềm vui sinh con, vì sự sống đã bừng lên nơi con cái. Xin cho mọi người tôn trọng các thai nhi ngay từ trong lòng mẹ. Amen.
28. Sứ mạng Tiền Sứ của Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
1. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay tập trung vào lễ nghi cắt bì và đặt tên con trẻ Gioan. Khi được chứng kiến những sự lạ lùng, nhất là sự kiện Da-ca-ri-a được khỏi bệnh câm, mọi người đều bỡ ngỡ và thắc mắc về sứ mệnh của em nhỏ sau này. Về sau Gioan đã vào sống trong hoang địa cho đến trước khi Đức Giêsu ra giảng đạo, Gioan đã đến vùng sông Gio-đan thi hành sứ mệnh tiền sứ để giúp dân Ít-ra-en chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu sắp đến.
2. CHÚ THÍCH: Phép cắt bì trong đạo Do Thái
+ Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì: Cắt bì là một nghi lễ có từ lâu đời trong đạo Do thái, do lệnh Thiên Chúa truyền (x Gs 5,2). Đây còn là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (x Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (x Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ cắt bì và đặt tên (x Lc 2,21).
+ Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phao-lô, để các Kitô hữu gốc lương dân khỏi phải chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Mô-sê mà họ không chu tòan được (x Gal 6,12.15), thì Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết định như sau: Không buộc lương dân muốn gia nhập đạo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi được lãnh bí tích Rửa tội (x Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có một đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Kitô là đủ (x Gl 5,6).
3. CÂU HỎI:
1- Tại sao bà Êlisabét không đồng ý đặt tên cho con trẻ là Da-ca-ri-a mà là Gioan?
2- Hãy cho biết những sự lạ nào đã xảy ra trong nghi lễ cắt bì và đặt tên của Gioan Tẩy giả?
3- Cắt bì là gì? Những ai được chịu phép cắt bì? Phép cắt bì nhằm mục đích gì?
4- Tại sao ngày nay khi theo đạo công giáo, lương dân không còn phải chịu phép cắt bì trước khi chịu phép rửa tội để gia nhập vào Hội thánh?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: "Đức Kitô phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi" (Ga 3,30).
2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM: Cuộc đời của Gioan Tiền Sứ
Gioan là vị Tiền hô của Chúa Giêsu (x.Mt 3,3). Gioan là con của ông Da-ca-ri-a và bà Êlisabét. Cả hai thuộc dòng tộc tư tế. Bà Êlisabét là chị họ của Đức Maria, nên Gioan là anh bà con của Đức Giêsu. Cha mẹ của Gioan sống ở miền núi xứ Giu-đê (x Lc 1,39). Từ nhỏ, Gioan đã sống cuộc đời ẩn tu khổ hạnh trong sa mạc. Đến năm thứ 15 thời Hoàng đế Tibêria, Gioan mới xuất hiện tại vùng hoang địa miền Giuđê cạnh sông Giođan để rao giảng và làm phép rửa sám hối cầu ơn tha tội (x.Mt 3,1). Phép rửa của ông là một nghi thức thống hối kèm theo việc xưng thú tội lỗi (x. Mt 3,6). Gioan đã nhận biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai khi giới thiệu Người với các môn đệ: "Đây là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1,29). Có lần đức Giêsu gọi Gioan là Ê-li-a khác, là người lớn nhất trong Cựu ước, là tiên tri loan báo Nước Trời (x.Mt 11,2 -19; Lc 7,18-33).
Cuộc đời của Gioan kết thúc bằng hình khổ bị chém đầu trong nhà tù, do ông can đảm bênh vực cho công lý, dám lên tiếng can ngăn vua Hêrôđê không được lấy bà chị dâu Hêrôđiađê làm vợ. Do đó ông đã bị tống giam vào ngục và sau đó còn bị giết hại (x. Lc 9,7-9).
3. THẢO LUẬN: Chúng ta cần làm gì để noi gương các nhân đức của Gioan như: khiêm nhường (x Ga 3,30), khó nghèo (x Mc 1,6-8), vâng phục (x Mt 3,13-15), trung tín (x Ga 1,35-37), thật thà (x Ga 1,20-23), dũng cảm (x Mt 14,3-4; Lc 3,7-9).
IV. NGUYỆN CẦU
- Lạy Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã thực hiện sứ mệnh tiền hô kèm theo những dấu lạ, khiến mọi người phải bỡ ngỡ thán phục. Đời con chẳng có những dấu lạ như thánh Gioan. Cũng như bao người khác, Chúa muốn con trở thành chứng nhân cho tình thương của Chúa. Xin cho con trở thành dấu chỉ để người đời nhận biết Chúa, qua lối sống bác ái yêu thương tha nhân và khiêm nhường phục vụ, nhất là phục vụ những người nghèo đói noi gương Chúa xưa.
- LẠY CHÚA. Thánh Gioan Tẩy giả đã nêu gương khiêm tốn và làm chứng cho Chúa. Làm chứng trong cuộc sống hôm nay chính là: Tự làm mình lu mờ đi bằng việc ít nói về mình, không khoe khoang thành tích của mình, để Chúa được lớn lên nơi tha nhân. Làm chứng cho Chúa hôm nay cũng là: sống điều độ chừng mực, tránh thói tiêu xài xa hoa lãng phí và sự chè chén say sưa. Làm chứng cho Chúa hôm nay còn là chỉ đường giúp nhiều người nhận biết và theo làm môn đệ của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết sống đơn sơ khó nghèo, can đảm làm chứng cho sự thật và không bao giờ chịu lùi bước trước những khó khăn trở ngại gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria - Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
29. Suy niệm của Giuse Nguyễn Viết Tâm
Ý Nghĩa Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả:
Trong lịch Phụng Vụ, ngoài Chúa Giêsu và Đức Maria, thì chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được Giáo Hội mừng lễ Sinh Nhật; và đây là một vinh dự vô cùng to lớn mà Giáo Hội dành cho ngài.
Từ thế kỷ thứ 4 cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh, Lễ Sinh nhật sẽ rơi vào tháng 6, cụ thể 24/6. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin, người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế.
Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là “ngày tái sinh trên trời.” Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời,: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giêsu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giêsu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.
Riêng thánh Gioan Tẩy Giả có 2 ngày Lễ kính trong năm:
+ Ngày 24/6: Mừng Sinh nhật Gioan Tẩy Giả.
+ Ngày 29/8: Lễ kính Gioan Tầy Giả bị chém đầu.
Khi nhắc tới Thánh Gioan Tẩy Giả là nhắc tới “người dọn đường”: Dọn đường cho chính Chúa, dọn đường cho các tâm hồn đến với Chúa và dọn đường cho Chúa đến với các tâm hồn. Và ngài đã chu toàn sứ mạng này cho đến chết.
Nhìn về cuộc đời thánh Gioan, với con mắt phàm trần, có thể nói rằng, ngài đã thất bại, một thất bại chua chát, một cuộc đời kết thúc không có hậu. Thế nhưng với cái nhìn đức tin và theo chương trình và ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa thì đây là một kết thúc quá mỹ mãn.
Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên “theo hình ảnh của Thiên Chúa”, “có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa” và “chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa”. Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: “Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu.
Theo gương Gioan, ta hãy sống gắn chặt với sứ mạng của Chúa Giêsu, để làm cho sự kiện chào đời của mình trở thành thực sự là “hồng ân sự sống”. Amen.
LƯỚT QUA CÁC BÀI ĐỌC:
Các Bài Đọc trong ngày Sinh Nhật của Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy sự sắp xếp nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc sửa soạn cho nhân loại một Người Tôi Trung để chuộc tội và mang lại ơn cứu độ cho con người.
TRONG BÀI ĐỌC I Trích sách Tiên tri Isaia, Bài Ca Thứ Hai của Người Tôi Trung Thiên Chúa, tiên tri Isaia tường thuật việc Thiên Chúa chuẩn bị cho nhân loại một Người Tôi Trung và trao cho Ngài một sứ vụ gồm hai phần: mang vinh quang cho dân tộc Israel và trở nên ánh sáng cứu độ cho các dân tộc.
TRONG BÀI ĐỌC II Trích sách Tông đồ Công vụ, Sách CVTĐ tường thuật một phần Bài Giảng của Phaolô tại Antiokia, Pisidia. Phaolô muốn cho khán giả biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa đã được tường thuật bởi các tiên-tri và Thánh Vịnh: Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một Đấng Cứu Độ từ giòng dõi Vua David, và ông Gioan Tẩy Giả đã chuẩn bị, làm chứng, và chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô để lãnh nhận ơn cứu độ.
TRONG BÀI TIN MỪNG theo thánh Luca, thánh-sử Luca tường thuật những biến cố lạ lùng xảy ra chung quanh việc chào đời của Gioan Tẩy Giả. Tất cả những biến cố này chỉ cho thấy Thiên Chúa đã dùng ông để đi tiên phong dọn đường cho mọi người đón nhận Đức Kitô, và Gioan đã dùng cả cuộc đời ông để chu toàn sứ vụ và làm chứng cho Đức Kitô.
ĐI VÀO BÀI TIN MỪNG:
“KHI ĐẾN NGÀY SINH, BÀ ÊLISABETH SINH HẠ MỘT CON TRAI”
Vâng, mọi sự diễn ra đúng như lời Sứ thần Gabrien đã truyền tin. Kế hoạch của Thiên Chúa phải được thực hiện vì Giờ cứu độ đã đến. Chương trình Cứu độ của Thiên Chúa như một dòng chảy, nó phải được liên tục, không một lực nào có thể cản được. Luca viết: “Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai”.
Gioan là Vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, ông phải đi trước Đấng Cứu Thế, đi trước về nhiều mặt: đi trước sự kiện truyền tin, mang thai và hạ sinh. Trên thực tế, ngày Gioan sinh ra cách ngày sinh của Hài nhi Giêsu 06 tháng.
“LÁNG GIỀNG BÀ CON NGHE BIẾT CHÚA ĐÃ TỎ LÒNG NHÂN HẬU LỚN LAO ĐỐI VỚI BÀ LIỀN ĐẾN CHÚC MỪNG BÀ”.
“Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà” có nghĩa, người ta không bao nghĩ đến việc bà Êlisabth có thai trong lúc tuổi già và lại sinh đẻ mẹ tròn con vuông, vì ai cũng nghĩ số phận của bà đã được an bài, không còn hy vọng gì nữa. Người ta thương hại bà, chứ không dám chì chiết, vì 02 ông bà là người công chính, không ai chê trách được điều gì. Luca viết: “Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì.” (Lc 1, 5-6).
Như vậy việc bà Êlisabeth có thai và sinh con, đó là hồng ân Chúa ban. Ta hãy để ý cụm từ “TỎ LÒNG NHÂN HẬU LỚN LAO”, Luca muốn nhấn mạnh, không phải là Thiên Chúa thương, mà là quá thương. Vâng từ “lớn lao” muốn nói đến một hồng ân vĩ đại, nó đã vượt qua mọi giới hạn và tuôn đổ xuống cho một con người, giải tỏa tất cả mọi bế tắc vẫn tồn đọng bấy lâu.
“Láng giềng và thân thích liền đến chúc mừng bà”. Đứng trước hồng ân vĩ đại này, mọi người, vâng tất cả mọi người (láng giềng + thân thích) đều đến chia vui, chia vui có nghĩa họ cũng muốn vui với niềm vui của bà, như thánh Phaolô đã viết trong thư Rôma: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc.” (Rm 12, 15). Niềm vui của bà Êlisabeth đã lan tỏa cho mọi người, để ai cũng cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa ban cho mình.
“NGÀY THỨ TÁM, NGƯỜI TA ĐẾN LÀM PHÉP CẮT BÌ CHO CON TRẺ, VÀ HỌ LẤY TÊN DACARIA CỦA CHA NÓ MÀ ĐẶT CHO NÓ..”
PHÉP CẮT BÌ TRONG ĐẠO DO THÁI
+ Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì: Cắt bì là một nghi lễ có từ lâu đời trong đạo Do thái, do lệnh Thiên Chúa truyền (Gs 5,2). Đây còn là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ cắt bì và đặt tên (Lc 2,21).
+ Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phao-lô, để các Kitô hữu gốc lương dân khỏi phải chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Mô-sê mà họ không chu tòan được (Gal 6,12.15), thì Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết định như sau: Không buộc lương dân muốn gia nhập đạo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi được lãnh bí tích Rửa tội (x Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có một đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Kitô là đủ (x Gl 5,6).
“Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì”. Khi Gioan được 08 ngày, họ (những người thi hành phận sự) đến để cắt bì cho con trẻ theo luật định.
“HỌ LẤY TÊN DACARIA CỦA CHA NÓ MÀ ĐẶT CHO NÓ”.
Tại sao những người làm việc cắt bì này lại có quyền làm việc đặt tên cho em? Quyền đặt tên phải thuộc về người cha, ông Dacaria. Họ muốn qua mặt ông Dacaria sao? thưa: Không phải vậy, vì ông Dacaria lúc này đang bị câm không nói được, họ muốn làm luôn việc này và lấy tên cha đặt cho con là điều hết sức bình thường. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp qua người mẹ. Cho dù người cha vì khiếm khuyết không thực hiện được việc đặt tên, thì còn người mẹ.
“NHƯNG BÀ MẸ ĐÁP LẠI RẰNG: “KHÔNG ĐƯỢC, NÓ SẼ GỌI TÊN LÀ GIOAN.”
Bà Êlisabeth đã am tường sự kiện ông Dacaria được Sứ thần truyền tin và những gì Sứ thần đã nói với ông, nên bà phải làm theo lời Sứ thần truyền, bà lên tiếng không đồng ý việc này. “nó sẽ gọi tên là Gioan”, có nghĩa mặc dù bà chỉ là phụ nữ, không có quyền đặt tên cho con khi người cha còn sống, nhưng bà có quyền lên tiếng phản đối trong việc này và đòi phải đặt tên là Gioan.
“HỌ BẢO BÀ RẰNG: “KHÔNG AI TRONG HỌ HÀNG BÀ CÓ TÊN ĐÓ”.” RỒI HỌ LÀM HIỆU HỎI NGƯỜI CHA, XEM ÔNG MUỐN ĐẶT TÊN CHO EM BÉ LÀ GÌ.”
Cái tên Gioan, nghĩa là “Chúa thương”. Luca thật sâu sắc khi viết: “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy”, không ngờ cái tên Gioan lại nói lên tình thương của Thiên Chúa đã dành cho bà Êlisabeth, thật là sự trùng hợp có ý nghĩa.
Nhưng cái tên Gioan lại gây bất ngờ cho những người đang có mặt, nếu không lấy tên cha thì chí ít cũng phải lấy tên ai đó trong dòng họ, đàng này, cái tên Gioan rất xa lạ. Bây giờ tất cả sẽ do người cha quyết định, nhưng vì ông bị câm (có lẽ ông Dacaria cũng bị điếc luôn, vì thường câm đi với điếc) nên họ ra hiệu hỏi ông Dacaria.
“ÔNG XIN MỘT TẤM BẢNG VÀ VIẾT: “TÊN NÓ LÀ GIOAN”. VÀ MỌI NGƯỜI ĐỀU BỠ NGỠ.”
“Tên cháu là Gioan”, đó là quyết định cuối cùng và là quyết định của người cha. Ông đã đặt tên cho hài nhi đúng theo tên mà Sứ thần đã truyền cho ông. Như vậy, hài nhi Gioan là người Chúa thương.
Tên Gioan còn mang thêm một ý nghĩa nữa: Tên John (hay Gioan), là chữ viết tắt của tiếng kép Do-thái “Jeho-hannah;” có nghĩa “quà tặng của Jehovah,” hay “hồng ân Thiên Chúa.” Cả hai, ông Dacaria và bà Elisabeth, đều muốn đặt tên con như thế, vì ông bà biết đứa trẻ là quà tặng của Thiên Chúa ban cho họ.
TÊN LÀ NGƯỜI.
Tùy vào ước vọng cha mẹ muốn cho con ra sao, trở thành gì, hay kỷ niệm biến cố gì; họ sẽ đặt tên con như thế. Ngày xưa, người ta thường chọn tên cho con với cái tên khó nghe, vì họ quan niệm sai lầm và mê tín, tên càng xấu bao nhiêu thì thần thánh càng chê bấy nhiêu nên được sống lâu. Vấn đề có được sống lâu hay không, điều đó không thể khẳng định, nhưng rõ ràng nó có tác hại về mặt tâm lý, người ta sẽ không tự tin cho đủ khi bước vào đời sống xã hội với một cái tên khó nghe như vậy.
Ngày nay, người ta chú trọng việc đặt tên. Phần tên họ: thường có sự lắp ghép giữa họ cha và họ mẹ, còn tên gọi, người ta có khuynh hướng chọn tên nói lên: nhân nghĩa lễ trí tín, nói lên cái đẹp, hoặc hướng tới sự thành công. Dù là tên xấu hay tên đẹp, nguyên việc đặt tên, nó đã nói lên quyền của cha mẹ trên con cái. Đây là một trong những điều mà NGƯỜI CON KHÔNG CÓ QUYỀN CHỌN LỰA, cho dù xã hội có đề cao sự tự do đến đâu. Sau này người ta có thể chọn thêm cái tên khác cho mình, ví dụ bút hiệu, nickname (trên facebook) … nhưng cái tên cha mẹ đặt vẫn luôn đi với mình cho đến hết cuộc đời này, không ai có quyền thay đổi và cơ chế xã hội sẽ bảo vệ quyền hợp pháp của cha mẹ.
“AI NẤY ĐỀU BỠ NGỠ. NGAY LÚC ẤY, MIỆNG LƯỠI ÔNG LẠI MỞ RA, ÔNG NÓI ĐƯỢC, VÀ CHÚC TỤNG THIÊN CHÚA.”
“Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được”. Những người đang hiện diện muốn biết lý do ông Dacaria đặt tên con trẻ là Gioan, thì một sự lạ đã xảy ra trước mắt họ, ông Dacaria đã nói được. Ai nấy đều kinh ngạc..
Luca muốn lặp lại lời Sứ thần Gabrien đã nói với ông trong lúc truyền tin: “Sứ thần đáp: “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” (Lc 1, 19-20)
“Cho đến ngày các điều ấy xảy ra”, đó là ngày hài nhi được sinh ra và lúc Dacaria đặt tên cho con trẻ là Gioan. Như vậy, thời gian ấn định cho hình phạt của Sứ thần đã kết thúc.
“Và chúc tụng Thiên Chúa.” Khi ông Dacaria nói được, việc đầu tiên ông làm là chúc tụng Thiên Chúa, chứ không phải khoe khoang với mọi người. Luca không nói Dacaria đã chúc tụng những gì, nhưng ai cũng hiểu được: ông chúc tụng Thiên Chúa vì đã thương ông bà quá bội, Ngài đã ban cho 02 ông bà một người con trong lúc tuổi già, cất đi sự tủi nhục của họ, đàng khác đứa con này là sẽ là vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
Ông nhớ lại lời Sứ thần đã nói với ông: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” (Lc 1, 15-17).
Chúng ta cũng gặp nhiều ơn Chúa ban cho mình, ơn Chúa ban không thể nào kể hết, nhưng có bao giờ ta nhận ra chưa? Ơn Chúa rất nhiều và chúng đan xen vào nhau đến nỗi ta khó lòng nhận ra chúng. Chúa đâu có hiện ra để nói cho ta biết ơn này ơn nọ mà ta đã nhận. Chính vì Chúa không nói, nên Ta cứ nghĩ mình gặp may mắn. May mắn làm sao được, khi nó xảy ra quá trùng hợp và rất kịp lúc, phải có bàn tay vô hình nào đó nhúng vào. Nếu đời ta cứ cắt nghĩa là do may mắn, thì ta không thể tiến lên được trên đàng nhân đức, con người của ta cứ ì ạch, ẫu trĩ.
Có bao giờ ta biết chúc tụng Chúa chưa? Mà cứ ngửa tay xin hết ơn này đến ơn khác, cứ y như Chúa có bổn phận phải ban ơn cho ta. Ta hãy nhắm mắt lại để lắng đọng tâm tư mình, ta bất chợt nhớ lại những sự kiện xảy ra mà ta không thể nào cắt nghĩa được, cứ y như có bàn tay ai đó can thiệp vào đời ta vậy. Ta hãy học nơi ông Dacaria bài học hôm nay: “miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa.”
“LÁNG GIỀNG AI NẤY ĐỀU KINH SỢ. VÀ CÁC SỰ VIỆC ẤY ĐƯỢC ĐỒN RA KHẮP MIỀN NÚI GIU-ĐÊ. AI NGHE CŨNG ĐỂ TÂM SUY NGHĨ VÀ TỰ HỎI: “ĐỨA TRẺ NÀY RỒI RA SẼ THẾ NÀO ĐÂY?” VÀ QUẢ THẬT, CÓ BÀN TAY CHÚA PHÙ HỘ EM.”
“Láng giềng ai nấy đều kinh sợ”, vâng họ sợ vì chung quanh việc hài nhi Gioan sinh ra có quá nhiều sự lạ, liên kết nhau cách tuần tự, sự lạ này nối tiếp sự lạ kia. Trước hết là ông Dacaria bị câm khi từ Đền thờ bước ra khi xong việc tế tự. Không ai biết điều gì đã xảy ra vì ông bị câm (có lẽ cũng bị điếc luôn, vì câm và điếc là 02 bệnh phải đi với nhau do 02 dây thần kinh liên quan đến nhau). Thứ đến là việc bà Êlisabeth có thai trong lúc tuổi già. Thứ ba là việc đặt tên không theo truyền thống và cuối cùng ông Dacaria nói được sau khi đặt tên cho con là Gioan. Họ kinh sợ vì những sự lạ ấy không thể nào giải thích được.
Thử hỏi rằng có ai giải thích được việc Chúa làm chưa? Trước những sự lạ, hay còn gọi là phép lạ ta chỉ còn biết chiêm ngưỡng, chúc tụng, không giải thích. Vì khi giải thích, ta đã đưa mình vào chỗ kiêu ngạo và lố bịch. Ta chỉ còn biết kinh ngạc như những người trong nhà ông Dacaria hôm nay.
“Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê.” Nhà ông Dacari ở miền núi Giuđêa, nơi có Thành thánh Giêrusalem và Đền thờ Giêrusalem. Chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất lớn, và các phái lãnh đạo Do Thái: Kinh sư, Pharisêu sẽ để tâm đến.
“Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.” Vâng đã có nhiều sự lạ xảy ra cho hài nhi Gioan, nó cho phép người ta đặt dấu hỏi về tương lai của em. Chắc chắn em không thể là người bình thường được. Luca nhấn mạnh: “Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”, như vậy bàn tay Thiên Chúa sẽ dẫn dắt Gioan đi đúng hướng mà Thiên Chúa đã định. Tiền hô cho Đấng Cứu Thế.
Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng. Khi Rửa tội một em bé mới sinh, chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi: Em này rồi sẽ ra sao? Đâu là định mệnh tương lai của em?… Tất cả những câu hỏi đó đang nằm ở phía trước mà với thời gian sẽ lần lượt bóc trần thánh ý Chúa dành cho mỗi người.
Nhưng với Gioan Tảy Giả người ta đã thấy được phần nào trong ngày Sinh nhật này rồi, vì thế Luca viết: “Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Câu chuyện ngày Gioan chào đời bắt đầu bằng niềm vui của láng giềng và kết thúc bằng một dấu hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Dễ hiểu niềm vui này: vui vì một con người được sinh ra, hơn thế nữa, vui vì em bé này là đứa con của lòng dạ son sẻ. Và còn một niềm vui nữa mà láng giềng chỉ mới cảm nhận lờ mờ: Em bé này có một sứ mạng gắn liền với Đấng Mê-si-a, trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Thế nhưng nếu như biết trước được rằng Gioan sẽ kết thúc cuộc đời bằng những ngày tăm tối và cái chết bi thảm trong tù ngục, thì liệu niềm vui chào đời này có trở thành vô duyên, hụt hẫng không? Câu hỏi “đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây” đưa chúng ta đến chỗ cảm nghiệm đầy đủ ý nghĩa của niềm vui trong toàn bộ đời sống và sứ mạng của Gioan: đó là sinh ra để thi hành sứ mạng ngôn sứ dọn đường cho Đức Kitô và chết đi cũng là để hoàn thành sứ mạng ấy.
Những người đang hiện diện hôm nay, sẽ đáp ứng mau lẹ lời kêu gọi của Gioan trong hoang địa: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3, 4-6).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con chỉ biết sống và chết cho Chúa, vì đó là cách tốt nhất để con sống đời con. Amen.
30. Đứa trẻ này rồi sẽ thế nào đây
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Không những thánh Gioan sống đẹp mà chết cũng rất hào hùng...
Một người láng giềng của tôi thuật lại: Trong thời gian người vợ mang thai, anh cầu ngày cầu đêm cho được con trai. Tối 28 tết, anh chồng thấp thỏm chờ đợi thời khắc đứa con chào đời. Hy vọng sẽ là đứa con trai như lòng anh mong ước.
Thế rồi vào khoảng 10 giờ tối, khi nghe cô đỡ báo tin người vợ sinh con trai, anh quá đỗi vui mừng, vội chạy vào nhà lấy hai dây pháo thật dài, treo ngay dưới hai chuồng bồ câu giữa sân, bật quẹt châm ngòi. Hai tràng pháo nổ giòn vang dội cả xóm. Tất cả bồ câu đông đảo trong hai chuồng hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn không sót một con!
Niềm vui có đứa con chào đời quá lớn khiến người cha trót dại treo hai dây pháo ngay dưới chuồng bồ câu khiến chúng bay sạch, gây tổn thất không nhỏ cho kinh tế gia đình.
Một niềm vui còn lớn hơn nhiều đã đến với hai ông bà Da-ca-ri-a khi bé Gioan chào đời. Mọi người lân cận đến chúc mừng hai ông bà được Chúa thương cho sinh con trong tuổi già. Ai cũng chúc mừng mẹ tròn con vuông. Ai cũng trầm trồ khen đứa bé thật dễ thương đang nằm trong lòng mẹ. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em" (Lc 1,66).
Thế rồi cậu bé Gioan lớn dần lên theo năm tháng mà không để cho bất kỳ ai thất vọng. Người đã sống đẹp và đã chết hào hùng.
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi nơi gia đình lối xóm, rút vào trong hoang địa khô cằn để sống gắn bó với Thiên Chúa, chú tâm lắng nghe và thực hiện ý Người.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, thì người cũng không ngần ngại giới thiệu họ đến với Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa (Ga 1, 36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi được dân chúng ngưỡng mộ, xem mình như một ngôn sứ cao cả, thì Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cởi quai dép cho (Ga 1, 27), để cho đám đông thôi ngưỡng mộ Gioan mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: "Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).
Đời sống cao đẹp của thánh Gioan đã được Chúa Giêsu nhìn nhận: "Trong các phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan" (Mt 11, 11).
Không những thánh Gioan sống đẹp mà chết cũng rất hào hùng. Thời bấy giờ không ai dám đả động đến hành vi loạn luân của vua Hê-rô-đê với người chị dâu là Hê-rô-đi-a-đê. Chỉ mình Gioan dám đứng lên tố cáo tội lỗi nhà vua cho dù phải lãnh lấy án chết. Gioan anh dũng chấp nhận chết để bảo vệ giềng mối đạo đức cho tôn giáo và xã hội. Đó là cái chết đẹp vô cùng.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy nhớ lại ngày sinh nhật của chúng ta. Đó là giây phút lịch sử đáng ghi nhớ nhất đời. Ngày ấy, cha mẹ, ông bà, cô bác đều mừng vui vì ta được sinh ra đời. Ai cũng muốn nhìn ta, ai cũng mỉm cười với ta, ai cũng muốn bồng ẵm ta... và ai cũng đặt nơi ta một niềm hy vọng: "Trẻ nầy rồi sẽ nên như thế nào?" Cha mẹ và bà con hy vọng ta sẽ có tương lai xán lạn, hy vọng ta sẽ đem lại danh giá cho gia đình và họ hàng. Nhưng mãi cho đến hôm nay, chúng ta đã đáp ứng được niềm hy vọng đó chưa?
Nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta sống sao cho đẹp như Gioan để không làm cho gia đình họ hàng thất vọng đồng thời để dọn đường cho Chúa đến với mọi người.
Nguyện xin Thiên Chúa giúp ta chết sao cho đẹp, để lại tiếng thơm cho đời như thánh Gioan.
31. Sống đời công chính
“Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 1, 64).
Đời sống con người là một cuộc liên lỉ tìm kiếm sự thiện và quy hướng về sự thiện. Ai cũng muốn sự tốt lành và bình an trong đời. Mong ước đó luôn thôi thúc con người sống một đời tốt lành. Đối với người Kitô hữu, quy hướng về sự thiện là hướng về Thiên Chúa, Đấng là Sự Thiện Tuyệt đối, bằng một đời sống công chính và thánh thiện theo đường lối của Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một mẫu gương về đời sống công chính của ông Dacaria và bà Elisabeth.
Hai ông bà được Tin mừng thánh Luca nhắc đến như những người có đời sống công chính vì đã “sống đúng theo mọi giới răn và mệnh lệnh của Thiên Chúa, không ai chê trách được điều gì”(Lc 1, 6). Trong Cựu ước, người công chính là người luôn chu toàn luật Chúa và làm việc bác ái, là người sống đời phó thác, tin yêu dù cho những khó khăn thử thách có làm cho chao đảo. Suốt cuộc đời phải chịu nỗi tủi hổ vì son sẻ, cùng những ánh mắt dèm pha của người đời, hai ông bà vẫn luôn trung thành tuân giữ luật Chúa và không xao lãng việc phụng thờ Thiên Chúa. Ngay cả khi phải đối diện với những truyền thống khắt khe của người đời, hai ông bà luôn lấy sự trung thành với luật Chúa làm kim chỉ nam cho mình. Kết quả như chúng ta được biết: Chúa đã cất đi nỗi tủi nhục cho hai ông bà, khi Ngài ban cho bà Elisabeth được thụ thai và hạ sinh thánh Gioan Tẩy Giả.
Là những người Kitô hữu, sống đời công chính phải là mục tiêu hàng đầu mà chúng ta hướng tới. Chỉ khi sống kiên trì trong đức tin vào Đức Kitô, chúng ta mới trở nên những người công chính và được sống trong bình an của Người (x.Rm 5, 1). Nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tham dự vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô khi chết cho tội và được tham dự vào sự phục sinh của Người khi được sinh vào đời sống mới. Tất cả là do lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Chính vì thế, ơn công chính hoá đòi buộc nơi chúng ta sự tự do đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, qua việc tuân giữ những điều Chúa Giêsu đã dạy, hết lòng tôn thờ Thiên Chúa và yêu mến tha nhân, chu toàn tốt bổn phận của một Kitô hữu và bổn phận của công dân trần thế. Nếu chúng ta một lòng trung thành tuân giữ điều Chúa dạy, chắc chắn đời sống chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui và bình an. Đó chính là phần gia nghiệp Chúa hứa ban cho những ai sống công chính trước Thánh nhan Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã chết và đã phục sinh để chúng con được sống một đời sống mới. Xin ban thêm sức mạnh giúp chúng con luôn kiên tâm tuân giữ lời Chúa chỉ dạy, để đời sống chúng con được nên công chính mỗi ngày, hầu xứng đáng lãnh nhận phần thưởng cao quý mà Chúa đã dành cho chúng con trên thiên quốc. Amen.
32. Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
A. Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ.” (Mt 11,11)
Vâng! Một con người đã được sinh ra trên trần thế.
Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ, trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ… đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Bỗng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:
- Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy.
Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…
Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ.” Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa Kỳ”.
Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.
Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà già nua son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành thời của loan truyền ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.
B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày được tái sinh của mỗi người chúng ta.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, Kitô hữu chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài tóm góm trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.” (Ga 3,30)
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại câu chuyện một cụ già Ấn Độ như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả... nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều... Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với Kitô hữu chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với Kitô hữu chúng ta là không ngừng khước từ, từ bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với Kitô hữu chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.
33. Suy niệm của Lm. Hoàng Xô Băng
“... Được Tạo Thành Cách Lạ Lùng…” (Tv 138,14a).
Theo lời Chúa Giêsu, ông Gioan là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14).
LỊCH SỬ
Lễ kính thánh Gioan Tẩy Giả có từ thế kỷ thứ V, và được đặt vào ngày 24/6, 6 tháng trước lễ Giáng Sinh. Thánh Gioan là vị Thánh được đạc biệt mừng kính vào ngày sinh nhựt thực sự của mình. Toàn thể các Thánh khác đều được mừng vào ngày tứ trần, tức là ngày sinh nhựt trên nước trời.
Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, khi Trinh Nữ Mẹ Chúa Cứu Thế chào bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan. Sự kiện đặc biệt ở ngày sinh ra hướng ý cho chúng ta thấy ý nghĩa của Gioan trong lịch sử cứu độ.
So với Tân Ước, Gioan vẫn còn thuộc về Cựu Ước; ngài được Thiên chúa gọi để chuẩn bị dân chúng đón Đức Giêsu đến bằng các bài giảng nói về nước Thiên Chúa và lời kêu gọi sám hối.
Chính Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa thống hối từ tay ông ta và những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu cũng xuất thân từ đám môn đệ của Gioan.
Chính Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang mạc, người Tiền Hô cho Đấng vĩ đại đang đến.
Còn Đức Giêsu gọi ông là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14).
(Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
CHIA SẺ VÀ SUY NIỆM
Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Khi cậu bé Gioan Tẩy Giả chào đời, người ta cũng đã hỏi tương tự: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây?” ( Lc 1, 66 ). Với câu hỏi ấy chúng ta đã có câu trả lời. Cậu bé Gioan càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-el. Gioan đã đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái khi nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Thánh Gioan Tông Đồ đã tóm tắt cuộc sống của Thánh Gioan Tẩy Giả trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Dưới cái nhìn của con người, như có lần Chúa Giêsu đã khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị Ngôn Sứ được xem là cao cả nhất trong lịch sử Ít-ra-el ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị nào trước ngài đã quy tụ được… Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và chấp nhận bị chém đầu.
Gioan nhỏ lại trong cái chết, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong mầu nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về cái chết của Chúa Giêsu… Nhưng cũng trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa… Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào việc mạc khải diệu kỳ của tên Gioan và biến cố cắt bì đặt tên, hơn là biến cố chào đời của ông Gioan Tẩy Giả. “Yôhannan” ( Gioan ) có nghĩa là: “Đức Chúa tỏ lòng nhân hậu”; “Đức Chúa tỏ lòng xót thương”; “Đức Chúa ban ơn”. Ngang qua cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết Ngài là Đấng từ bi nhân hậu và giàu lòng xót thương. Thiên Chúa đã, đang và sẽ thi thố quyền năng của Ngài cho mọi người chúng ta.
Mỗi người chúng ta đều được cha mẹ đặt tên, khi đặt tên cho con cái cha mẹ nào cũng muốn qua cái tên ấy con cái mình được dễ nuôi, khi lớn lên có cuộc sống thành đạt. Ngày chúng ta chịu phép Rửa Tội, chúng ta lại có một tên mới, gọi là tên Thánh. Khi chọn một vị Thánh làm bổn mạng là ta muốn vị Thánh ấy cầu bầu và che chở chúng ta và chúng ta noi gương bắt chước vị Thánh ấy trên đường nhân đức để nên Thánh.
- Vậy sự hiện diện của chúng ta đã thực sự là “niềm vui và hy vọng” cho chính mình và cho người khác hay chưa?
- Con cái có là niềm vui và hy vọng cho bố mẹ hay không?
- Bố mẹ có là niềm vui và hy vọng cho con cái hay không? Hay là bố mẹ vẫn còn ích kỷ chỉ biết lo cho chính mình, vẫn biện minh cho những hành động sai trái và tội lỗi của mình, sống buông thả theo rượu chè, cờ bạc, ngoại tình và hưởng thủ và nhất là nạo phá thai, tức là nhẫn tâm giết con của mình khi chúng mới được hình thành trong dạ mẹ. Vợ chồng ly dị để con cái bơ vơ. Ai là vợ là chồng đã biết mang lại niềm vui và hy vọng cho người bạn đời của mình chưa? Hay là vợ chồng trở thành gánh nặng cho nhau, bạo hành trong gia đình, lừa dối và phản bội nhau, không còn thuỷ chung.
Chúng ta là con cái Chúa, chúng ta có tên Thánh, nhưng thực sự cuộc sống của chúng ta đã soi lấy tấm gương vị Thánh bổn mạng của mình hay chưa. Hay nói cách khác cuộc sống của chúng ta đã nói lên được rằng: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu, Thiên Chúa tỏ lòng xót thương và Thiên Chúa ban ơn hay chưa? Để rồi mỗi người chúng ta cũng là món quà để trao ban cho người khác và nhất là chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, ngõ hầu chúng ta là hiện thân của lòng nhân hậu, lòng xót thương của Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là “tôi phải nhỏ lại để Ngài được lớn lên”. Chúng ta có nhỏ đi trong khiêm tốn để tránh được cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chính mình, chúng ta có chấp nhận teo tóp lại tất cả những ham muốn ganh tỵ bất chính của chính mình, chúng ta có mong muốn vỡ vụn tan biến tất cả những hận thù nhỏ nhen của chính mình, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
Chúng ta cầu nguyện sao cho bản thân và cho mọi người được luôn là cầu nối giữa Thiên Chúa với con người, là cầu nối giữa con người với nhau, như một bài hát đã diễn tả: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô nẩy sinh tình đệ huynh”.
34. Gioan Tiền Hô
Thế nào là một người cao trọng? Để đánh giá sự cao trọng của bản thân, chúng ta thường có ba cách:
Cách thứ nhất là bằng cặp mắt của mình
Nghĩa là dựa trên những suy nghĩ và nhận định của chính con người chúng ta. Cách thức này thường không mấy xác thực, bởi vì cái nhìn của chúng ta thường chủ quan, chúng ta thường đưa ra 1001 lý do để biện minh cho những sai lỗi của chúng ta. Chúng ta thường rộng rãi với bản thân mà lại nghiêm khắc với những người chung quanh, vì tự thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng có một chút khuynh hướng kiêu căng, muốn được ca tụng, muốn được để ý tới. Đánh giá bản thân bằng chính cặp mắt của mình là cân đo bằng một loại thước bị thiếu hụt, không chính xác...
Cách thứ hai là bằng cặp mắt của người khác
Nghĩa là dựa trên dư luận, dựa trên những phán đoán của những người chung quanh. Cách thức này cũng thường không đem đến sự thật, vì dư luận là dư luận. Cùng một sự kiện mà mỗi người nhìn một cách thức tùy theo cảm tình của mình:
- Yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Chính vì thế mà dư luận thường thổi phồng và bóp méo, không mấy khi được thống nhất:
- Yêu nhau cau bảy bổ ba,
Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười.
Cách thứ ba là bằng cách nhìn của Chúa
Đây mới là một cách thức vừa cần thiết vừa trung thực nhất. Vậy thì ai là người cao trọng dưới mắt Chúa. Tôi xin thưa, đó là người khiêm nhường không chút kiêu căng.
Sự khiêm nhường ấy được biểu lộ trước hết là trong tư tưởng, nhận đúng thân phận của mình chỉ là tôi tá của Chúa. Đây cũng là điều chúng ta phải lưu ý bởi vì nhiều khi sự khiêm nhường của chúng ta chỉ là một thứ khiêm nhường giả hiệu, che lấp thói kiêu căng của chúng ta.
Tiếp đến là biểu lộ qua lời nói. Không đề cao bản thân, bởi vì chúng ta chỉ là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa, sở dĩ chúng ta làm được việc nọ việc kia, tất cả đều do ơn lành của Chúa.
Sau cùng, biểu lộ qua việc làm. Sẵn sàng chấp nhận những hy sinh gian khổ, những địa vị thấp kém, miễn sao phục vụ Chúa và anh em. Khiêm nhường như thế chính là mẹ của các nhân đức, chính là cội nguồn thánh thiện.
Với những tiêu chuẩn kể trên thánh Gioan Baotixita quả thực là một người khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù không làm được việc chi vĩ đại, nhưng Gioan đã được Chúa Giêsu khen tặng:
- Trong số những người nam không có ai cao trọng hơn Gioan.
Sở dĩ như vậy là vì Gioan đã sống tâm tình khiêm nhường. Mặc dù được mọi người ngưỡng mộ, ông đã hạ mình xuống và nói:
- Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế.
Ông đã làm mọi việc để cho Chúa được nhận biết và tôn vinh. Ông đã để cho các môn đệ thân yêu bước theo Chúa Giêsu và đã giới thiệu Chúa Giêsu cho đám đông:
- Đây Chiên Thiên Chúa, đây đấng gánh tội trần gian. Ngài cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi.
Thân phận của ông chỉ là thân phận của một tiếng kêu trong sa mạc. Gioan càng khiêm nhường thì lại càng được Chúa mến yêu như lời Mẹ Maria đã nói:
- Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao mọi người phận nhỏ.
35. Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Giuse Phạm Quốc Văn, OP.)
Chúng ta vừa được nghe những bài đọc lời Chúa. Những bài đọc đó xác tín về ơn gọi của vị ngôn sứ. Bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ Isaia. Qua bài đọc này, chúng ta bắt gặp cảm nhận cũng như kinh nghiệm về ơn gọi của Isaia. Isaia đã xác tín: Đức Chúa gọi tôi, từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời. Ơn gọi không phải là sự bất chợt nhưng là một sự xác tín sâu xa. Thiên Chúa đã chọn gọi vị ngôn sứ của Người, Thiên Chúa đã thánh hiến vị ngôn sứ bằng chính than hồng để ngôn sứ ra đi loan báo lời của Đức Chúa.
Chắc hẳn khi phụng vụ chọn lựa bài đọc này, muốn chúng ta nhìn về ơn gọi của vị tiền hô Gioan. Thánh Gioan cũng được chọn lựa ngay từ khi còn trong lòng mẹ để trở nên một đấng đi trước dọn lối cho Đấng Mesia. Thánh Gioan cũng xác tín vào ơn gọi của mình, để suốt cuộc đời của mình, Gioan đã trở nên tiếng hô loan báo Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan đã khắc họa hình ảnh của một vị ngôn sứ thật sống động trong lời nói và đặc biệt trong đời sống của mình. Ông đã giới thiệu Chúa Giêsu trong con người của mình. Qua cảm nhận về ơn gọi của Isaia, cảm nhận về ơn gọi của Gioan Tiền hô, mỗi chúng ta cũng được mời gọi để xác tín về ơn gọi của mỗi chúng ta trở thành nhân chứng của Lời. Để lời giảng của chúng ta có sức biến đổi, có sức diễn tả về Chúa cho anh chị em của mình. Xưa kia Isaia đã chuẩn bị những con đường cho Đức Chúa đến với dân. Hãy dọn con đường trong hoang địa, những con đường ấy dẫn Chúa đến với dân tộc lưu đầy.
Và rồi nếu ta đọc Tin Mừng Luca, ta cũng sẽ bắt gặp những lời như vậy được diễn tả cho Gioan. Trong hoang địa, có tiếng hô hay có tiếng người hô trong hoang địa hãy dọn con đường cho Đức Chúa. Thánh Gioan đã dọn con đường để giới thiệu Chúa Giêsu: đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Ngày hôm nay, chúng ta giới thiệu về Chúa như thế nào cho anh chị em của chúng ta? Làm sao ta có thể như Isaia, đem Chúa đến cho một dân tộc lưu đầy? Ngày hôm nay, chúng ta được mời gọi đến với anh chị em không phải trong hoàn cảnh lưu đầy về địa lý, mà có thể đang lưu đày trong những hoàn cảnh khác nhau: đang thiếu thốn tình thương, đang thiếu thốn sự công chính, đang thiếu thốn sự nhận biết Thiên Chúa. Đó phải là những biên cương mà ngôn sứ cần loan báo. Cũng như thánh Gioan đã chấp nhận trở nhận trở nên nhỏ bé, đã khiêm tốn:không đáng cởi dây dép cho Đấng Cứu Thế. Chính sự khiếm tốn ấy đã giúp Gioan hạ mình để cho Chúa được lớn lên.
Khi giới thiệu Chúa cho anh chị em của mình, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi mỗi ngày trở nên khí cụ sống động đẻ loan báo nước Chúa cho anh chị em. Xin Chúa củng cố lời giảng của mỗi người chúng ta bằng những chứng từ sống động. Amen.
36. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe tường thuật lại biến cố Thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra. Biến cố này không chỉ là niềm vui cho ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét, mà còn là niềm vui cho cả dòng tộc và làng xóm láng giềng xung quanh. Thánh sử Luca cho ta biết, khi Gioan được sinh ra,“láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà” (Lc 1,58). Đoạn Tin mừng hôm nay cũng kể lại việc đặt tên cho con trẻ sau biến cố Gioan được sinh ra tám ngày. Đây cũng là một việc lạ lùng và thể hiện sự quan tâm của ông bà và anh em họ hàng. Thánh Luca kể lại: “Họ lấy tên Da-ca-ri-a của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan. Họ bảo bà rằng: Không ai trong họ hàng bà có tên đó. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: Tên nó là Gioan. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó” (Lc 1,59-66). Sau đó, Thánh Luca tóm gọn cuộc sống ẩn dật của Thánh Gioan Tẩy Giả trong câu kết của đoạn Tin mừng: “Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel” (Lc 1, 80).
Cả hai biến cố trên đây (ngày sinh và ngày đặt tên) và việc “con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng” cho chúng ta thấy niềm vui mừng và sự quan tâm săn sóc không chỉ của vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét mà còn là niềm vui và sự quan tâm của cả dòng tộc, của láng giềng đối với sự chào đời và lớn lên của trẻ Gioan. Vậy, thử hỏi phải chăng con trẻ nào cũng được đón chào và quan tâm như thế không? Chắc chắn là không! Thời nào cũng vậy, chúng ta có thể thấy được điều này xuyên qua ba thái độ sau:
Thái độ vui mừng và đón nhận đầy tinh thần trách nhiệm: Mới đây có một đôi vợ chồng trẻ nói với tôi: Chúng con đã cưới nhau được mấy năm rồi mà chưa có “dấu hiệu” gì cả. Xin cha cầu nguyện cho vợ chồng con sớm có em bé. Ước mong của đôi vợ chồng trẻ trên đây cũng là mong ước của rất nhiều cặp vợ chồng khác. Khi mới cưới nhau họ mong muốn sớm có em bé. Vì thế, họ vui mừng khi biết có em bé đã hình thành trong lòng mẹ. Nhất là khi việc đó đến với những cặp vợ chồng hiếm muộn. Chính bà Ê-li-sa-bét, khi biết mình có thai đã vui mừng thốt lên rằng: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25). Tâm trạng của các bậc làm cha mẹ lúc này là: Họ vui mừng chờ đợi ngày em bé chào đời. Họ lo lắng làm thế nào để đứa trẻ chào đời được khỏe mạnh. Cũng vì thế, nên họ tạo mọi điều kiện cho đứa trẻ được lớn lên trong môi trường tốt nhất. Khi đứa trẻ được sinh ra, họ cho đứa trẻ được ăn uống điều độ. Họ giáo dục đứa trẻ một cách toàn diện: nhân bản, tri thức và đạo đức. Họ giúp đứa trẻ vui chơi lành mạnh. Nhờ thế, đứa trẻ lớn lên trở thành người tốt, có ích cho gia đình, cho Giáo hội và xã hội.
Thái độ vô trách nhiệm hoặc dửng dưng: Rất nhiều bậc cha mẹ thiếu trách nhiệm trong việc chuẩn bị cho đứa trẻ trước khi sinh ra. Vô trách nhiệm khi đứa trẻ được chào đời. Họ không sẵn sàng đón nhận đứa trẻ chào đời. Họ không quan tâm giáo dục đứa trẻ nên người. Họ không làm gương sáng. Thậm chí, họ còn làm gương mù gương xấu, đó là lối sống bất hòa, ly thân, ly dị…Để lại hậu quả là: có những đứa trẻ không được chào đời; có những đứa trẻ không được giáo dục về đời sống nhân bản, tri thức và đạo đức; có những đứa đứa trẻ phải trở thành bụi đời, bị băng hoại bởi môi trường xấu; có những đứa trẻ trở thành nạn nhân của sự lạm dụng: lạm dụng tính dục; lạm dụng sức lao động; lạm dụng để làm những điều bất chính. Cuối cùng, chúng trở nên ghánh nặng cho gia đình, Giáo hội và xã hội.
Thái độ khước từ sự sống: Nhiều cặp vợ chồng muốn hạn chế việc sinh con cái. Họ muốn theo chủ trương của xã hội là sinh 1 đến 2 con. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do trên hết là vì họ ích kỷ không muốn hy sinh. Vì thế, khi vỡ kế hoặch, họ quyết định phá thai. Ngoài ra, có những trường hợp phá thai vì hậu quả của những quan hệ bất chính. Theo thống kê của WHO mỗi năm trên thế giới có khoảng 46 triệu phụ nữ phải nạo phá thai, chỉ có 27 triệu ca nạo phá thai hợp pháp và số còn lại là 19 triệu ca bất hợp pháp. Riêng tại Việt Nam, tỷ lệ nạo phá thai đứng đầu Đông Nam Á và xếp thứ 5 trên Thế giới. Bình quân mỗi năm cả nước có khoảng 300.000 ca nạo phá thai, chủ yếu là ở độ tuổi từ 15 - 19, trong đó 60% - 70% là học sinh, sinh viên (Nguồn: internet). Thái độ của những người trên đây là thái độ từ chối sự sống. Thái độ của những người này cướp đi quyền sinh tử của Thượng Đế.
Thái độ của chúng ta thì sao? Giáo hội luôn mời gọi mọi người kitô hữu, nhất là những bậc làm cha mẹ phải biết tôn trọng sự sống ngay từ khi mới hình thành trong lòng mẹ. Không được phép phá thai dưới bất cứ hình thức nào. Vì phá thai là giết người và đó là một tội ác. Giáo luật dạy: “Ai thi hành việc phá thai, và việc phá thai có kết quả sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết” (Đ. 1398). Không chỉ tôn trọng sự sống ngay khi còn ở trong lòng mẹ, mà còn cần phải có trách nhiệm bảo vệ các trẻ em vị thành niên. Phải quan tâm giáo dục chúng nên người, không để chúng rơi vào các tệ nạn xã hội. Không để chúng bị lạm dụng tính dục, sức lao động hay bị lợi dụng để làm những điều bất chính. Thư chung của HĐGM Việt Nam năm 2013 dạy rằng: “Gia đình là cộng đoàn phục vụ sự sống, được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa Hằng Sống. Vợ chồng Kitô hữu yêu thương nhau bằng một tình yêu mở ra với sự sống, tôn trọng sự sống ngay từ lúc thụ thai, cộng tác với Thiên Chúa Tạo Hóa qua việc sinh con có trách nhiệm, giáo dục con cái nên người tốt và nên con cái Chúa. Gia đình phải là ngôi trường đầu tiên dạy các đức tính nhân bản và đức tin, là thành trì bảo vệ sự sống thể lý cũng như tinh thần của con cái trước sự tấn công của cái ác và cái xấu trong cuộc sống. Vì thế, các bậc cha mẹ phải ý thức trách nhiệm của mình là những nhà giáo dục đầu tiên và không thể thay thế, bằng chính gương sáng của mình”(x. số 6).
Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ.” Chúng ta có thể biến hóa câu nói trên thành: “Mỗi đứa trẻ sinh ra có thể là Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám Mục, Linh mục, thầy dòng, bà Sr…của Giáo hội hay trở thành người kitô hữu tốt, một công dân tốt.” Khi có cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng như thế, chắc hẳn ai cũng biết tôn trọng sự sống, biết bảo vệ và quan tâm săn sóc các trẻ em. Vì mỗi đứa con sinh ra không đơn giản chỉ là kết quả của tình yêu “tự nhiên”, nhưng là hoa trái, là món quà, và là tặng phẩm mà Thiên Chúa đã thương ban cho chúng ta trong đức tin. Mỗi đứa trẻ còn được Thiên Chúa giao phó cho một sứ mạng tương tự như trẻ Gioan mà chúng ta mừng sinh nhật hôm nay. Ước mong rằng, các bậc cha mẹ luôn biết tôn trọng sự sống của con cái ngay từ khi bắt đầu hình thành trong lòng mẹ. Đồng thời, tất cả các trẻ em ra đời được sự quan tâm và bảo vệ của mọi người.
Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cho mỗi người chúng con luôn biết tôn trọng sự sống, quan tâm bảo vệ các trẻ em và giúp chúng nên người. Amen.
37. Ngài phải lớn lên
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã được nghe câu chuyện ngụ ngôn của Lafontiane về con ếch và con bò. Câu chuyện ngụ ngôn ấy đại khái như thế này:
Ngày kia con ếch nhìn thấy một con bò thật to lớn và vĩ đại, thật cực kỳ và hết ý. Thế là con ếch liền mong sao cho mình cũng được to lớn và vĩ đại, cực kỳ và hết ý như vậy.
Từ tư tưởng biến thành hành động, từ ước muốn đi tới việc làm, con ếch bắt đầu uống nước cho bụng mình được phình to. Cứ thế, cứ thế, nó uống mãi uống hoài, nhưng vẫn chưa to được bằng con bò. Nó lại tiếp tục uống. Và rồi một tiếng nổ vang lên. Bụng nó vỡ tan thành từng mảnh nhỏ.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy tự thẳm sâu cõi lòng, ai cũng muốn được người khác để ý tới và lên tiếng ca tụng. Ai cũng muốn nâng mình lên chứ chẳng ai lại thích hạ mình xuống. Ai cũng ươm mơ giấc mộng của Adong Evà, đó là được trở nên bằng Thiên Chúa.
Có một câu danh ngôn đã xác quyết như sau:
- Tham vọng của các nhà chính trị là được để lại một vài dòng về mình trong lịch sử.
Nếu so sánh với Gioan Tiền hô, chúng ta thấy thái độ của chúng ta hoàn toàn trái ngược với thái độ của thánh nhân, bởi vì lập trường của thánh nhân đó là: Ngài cần phải lớn lên còn mình phải nhỏ đi.
Trong khi đó, chúng ta lại dồn mọi nỗi lực, mọi cố gắng vào việc làm cho bản thân mình được to lớn, được vĩ đại, được cực kỳ, được hết ý, còn Thiên Chúa thì bị nhỏ đi, bị cho ra rìa và bị đứng bên lề cuộc đời của chúng ta.
Thánh Gioan Tiền hô đã nói và đã làm. Trước hết, để Thiên Chúa được lớn lên trong tâm hồn mình, thì như Tin mừng đã ghi lại: ngay từ thời niên thiếu, thánh nhân đã vào trong hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ, ăn châu chấu với mật ong rừng, để có đủ thời gian và thinh lặng cần thiết hầu kiết hiệp với Thiên Chúa.
Một khi đã có Thiên Chúa ở trong lòng, thánh nhân còn đem Ngài đến cho người khác và muốn cho Ngài cũng được lớn lên trong tâm hồn của họ.
Chính vì thế, thánh nhân đã xuất hiện bên bờ sông Giócđan, rao giảng việc sám hối ăn năn, chỉ bảo cho dân chúng biết những sai lỗi và khuyết điểm của họ, để họ cố gắng uốn nắn sửa đổi, nhờ đó cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, cũng như nhờ đó dọn đường đón mừng Đấng Cứu Thế.
Và khi Đức Kitô đi ngang qua, thánh nhân đã long trọng giới thiệu Ngài cho đám đông:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian.
Mặc dù đã qui tụ được nhiều môn đệ và đông đảo dân chúng, thánh nhân cũng đã sẵn sàng để cho họ bước theo Đức Kitô, không hề ngăn cản, không hề buồn phiền, không hề tức tối.
Và khi Đức Kitô bắt đầu rao giảng Tin mừng, thì vai trò của thánh nhân thực sự nhỏ đi, bản thân của thánh nhân thực sự chìm vào kiếp sống tù dày và tăm tối, để rồi cuối cùng đã kết thúc bằng một cái chết đau đớn.
Còn chúng ta thì sao?
- Là người Kitô hữu, chúng ta có bổn phận phải có Chúa trong tâm hồn và phải mang Chúa đến cho người khác.
- Là người Kitô hữu, chúng ta phải trở nên những tiền hô, dọn đường Chúa đến trong cuộc đời mình, cũng như trong cuộc đời người khác.
Vì thế, mỗi người chúng ta hãy hồi tâm xét mình, hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để Đức Kitô thực sự lớn lên trong tâm hồn chúng ta cũng như thực sự lớn lên trong tâm hồn những người chung quanh?
38. Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Phêrô Dương Hải Văn SDB)
Chúa Giêsu đã gọi thánh Gioan Tẩy Giả là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến trước Ngài để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối: “Tôi nói cho anh em biết, trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông” (Lc 7:28).
Thánh Gioan Tẩy Giả là con ông Dacaria (tư tế Do Thái) và bà Êlisabet. Hai ông bà không có con cái dù đã cao niên và quá tuổi sinh con. Thế nhưng Thiên Chúa đã ra tay uy quyền và thương ban cho hai ông bà một người con trai, là chính Gioan. Trong phiên trực của ông Dacaria ở Đền thờ Giêrusalem, thì Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã hiện ra với ông và thông báo rằng vợ chồng ông sẽ sinh con trai, tên con trẻ đó sẽ là Gioan. Ông không tin sứ điệp của Sứ thần Gabriel là sự thật, thế nên ông bị câm cho tới khi Gioan ra đời (Lc 1:5-25). Lúc đó, mọi người trong gia tộc muốn đặt tên cho con trẻ theo tên cha, nhưng ông Dacaria xin tấm bảng và ghi: “Tên cháu là Gioan” (Lc 1:63). Ai cũng thấy lạ. Rồi ông nói được như trước. Mọi người lại càng kinh ngạc hơn. Ông Dacaria liền dâng lời chúc tụng Thiên Chúa bằng bài ca Chúc tụng (Benedictus), nói về thiên chức tiên tri, sứ giả và tiên phong của con trẻ Gioan (Lc 1:67-79).
Thời gian đầu của cuộc đời rao giảng, thánh Gioan sống khổ hạnh trong hoang địa, sau đó ngài bắt đầu rao giảng Nước Trời và kêu gọi mọi người canh tân đời sống. Ngài là người dọn đường cho Chúa Giêsu đến qua việc làm phép rửa bằng nước để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, còn Đấng sắp đến sẽ rửa với Thần Khí và lửa. Ngài tự nhận mình không đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau ngài, là chính Đức Giêsu. Đồng thời ngài cũng đã tỏ thái độ của mình đối với Chúa Giêsu khi nói rằng: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3:30).
Sự cao trọng của thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của thánh Gioan. Cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Đức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Đấng Thiên Sai, nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Đức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Khi còn ở trong tù, thánh nhân đã sai một số môn đệ đến hỏi xem Chúa Giêsu có phải là Đấng Thiên Sai hay không. Và ngài đã nhận được câu trả lời rằng Đấng Thiên Sai là Người Tôi Tớ Đau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Không chỉ vậy, chính thánh Gioan cũng đã thông phần đau khổ với Đức Giêsu khi ngài bị chém đầu vì sự trả thù của Hêrôđia.
Thánh Gioan sinh trước Chúa Giêsu khoảng 6 tháng, nên lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả vào ngày 24-6, trước lễ Giáng sinh đúng 6 tháng. Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong số ít các thánh được Giáo Hội mừng sinh nhật; không chỉ vậy, ngài còn được Giáo Hội nhớ giỗ vào ngày 29-8 hàng năm.
Lạy Thánh Gio-an Tẩy Giả, xin ban cho chúng con lòng can đảm để chỉ biết nói lên sự thật và làm chứng cho sự thật và sống theo sự thật. Xin ban cho chúng con cũng biết nhỏ lại với sự yếu hèn và tội lỗi của mình, để Chúa được lớn lên trong chúng con mỗi ngày. Cũng như xin ban cho chúng con tâm hồn và sức sống của các vị ngôn sứ để chúng con biết làm chứng về Chúa trong cuộc đời chúng con.
39. Hiện diện để trở nên chứng nhân
(Suy niệm của Tu Sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Trước lễ Chúa Giáng Sinh 6 tháng, tức ngày hôm nay, cả Giáo Hội hân hoan mừng kính sinh nhật vị thánh đặc biệt có tên là Gioan Tẩy Giả. Đây là điều ngoại lệ trong phụng vụ Giáo Hội, bởi lẽ, không có một vị thánh nào được mừng sinh nhật ngoại trừ Mẹ Maria và Đức Giêsu. Các vị thánh khác thường được mừng kính ngày sinh nhật của các ngài trên trời, tức là ngày mất. Sự kiện đặc biệt này cho thấy điều cao trọng nơi con trẻ có tên là Gioan. Bởi vì, chính con người, ơn gọi và sứ vụ của Gioan gắn liền với cuộc đời Chúa Cứu Thế, hay nói cách khác, sứ vụ ngôn sứ của ngài nối liền giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chính vì điều này mà Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ sinh nhật của ngài hôm nay.
Dấu gạch nối giữa Gioan và Đức Giêsu
Mang trong mình sứ vụ tiền hô, nên Gioan đã trở thành người loan tin, chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sứ vụ của ông gắn liền với sứ vụ Đức Giêsu. Vì thế, Gioan đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho nhân loại về Đức Giêsu, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài chính là nội dung Tin Mừng. Gioan là tiếng hô trong hoang địa, còn Đức Giêsu chính là Đấng hiện diện như những gì đã loan báo. Gioan chuẩn bị lòng dân nhớ lại lời hứa bằng việc nhắc cho biết những điều đã được tiên báo về Đấng Mêsia, Đức Giêsu đến đã làm cho những lời tiên trưng về Ngài được ứng nghiệm. Gioan kêu gọi sống công bằng bác ái, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực hiện rõ nét tình thương của Thiên Chúa trên dân của Ngài. Gioan làm phép rửa thống hối và kêu gọi người ta ăn năn, Đức Giêsu đến, Ngài ban ơn tha thứ và cứu chuộc hết mọi người bằng chính máu của Ngài đổ ra trên thập giá.
Tắt một lời, nếu Gioan là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài chính là con đường. Nếu Gioan là tiếng hô trong hoang địa, thì Đức Giêsu chính là nội dung tiếng hô đó.
Như vậy, cuộc đời và sứ vụ của Gioan gắn liền với con người và sứ vụ Đấng Cứu Thế. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi việc truyền tin cho Đức Maria và bà Êlisabét đều chung một sứ thần Gabriel; Gioan và Đức Giêsu là anh em họ hàng với nhau. Cả hai được sinh ra bởi những người phụ nữ rất đặc biệt đã được tiền định. Được đặt tên ngay khi mới truyền tin: Gioan, nghĩa là Tiền Hô; Giêsu nghĩa là Cứu Thế. Gioan chịu tử đạo vì sứ vụ làm chứng cho sự thật, công bằng. Đức Giêsu cũng chết vì lẽ công chính và sự thật để cứu chuộc nhân loại.
Tuy hai cuộc đời gắn liền với nhau, nhưng Gioan luôn ý thức mình chỉ là vai phụ trong một thước phim vĩ đại. Khi đã hoàn tất sứ vụ, ông đã khiêm nhường lui vào hậu trường để cho nhân vật chính xuất hiện.
Gioan là con người khiêm nhường
Chính vì sự khiêm nhường của Gioan đã làm cho ngài trở thành vĩ đại, bởi lẽ, nhân đức khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức. Nếu cuộc đời và sứ của Gioan luôn gắn liền với cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu, thì đức tính khiêm nhường cũng luôn theo sát Gioan an như hình với bóng.
Chính vì điều này, mà mỗi khi nói về Gioan, người ta không thể không nhắc đến sự khiêm nhường nơi ông.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể như:
Sau khi đã hoàn tất việc loan báo, Gioan đã: “Để Chúa lớn lên, còn ông nhỏ lại”; bởi vì ông luôn ý thức: “Tôi chỉ là tiếng hô…”.
Hay khi uy tín của ông nổi lên như cồn, nhiều người đã thầm nghĩ đây phải là Đấng Cứu Thế mà bấy lâu dân đang mong ngóng đợi chờ… Lẽ ra ông phải tự hào và khẳng định thân thế, vai trò của mình một cách “hoành tráng!”. Không! Với ông, điều này không thuộc bản chất, vì thế Gioan đã tìm dịp thuận tiện để hướng sự kính trọng của dân về Đức Giêsu, vì thế, khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông đã nói cho các môn đệ của mình về Đức Giêsu rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian….Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài” (Ga 1,15).
Cũng chính vì sự khiêm nhường thẳm sâu, nên Gioan đã không sử dụng uy tín của mình để phục vụ hay đứng về điều bất chính, vì thế, ngài đã sống một cuộc đời ngay thẳng, cương trực, không chấp nhận nhu nhược trước tội lỗi cho dù có được trọng thưởng tiền bạc và chức quyền. Vì thế, Gioan đã chấp nhận chết dưới lưỡi gươm của Hêrôđê khi dám đứng lên phản đối hành vi bất chính của vị vua này.
Với tất cả những ưu điểm ấy, nên Gioan đáng được Đức Giêsu trọng thưởng khi nói: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11, 11).
Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về bổn phận ngôn sứ của mình đã lãnh nhận ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Ngày ấy, chúng ta được mời gọi trở nên Ánh Sáng cho mọi người, tức là chiếu dọi Ánh Sáng của Đức Kitô cho anh chị em chúng ta.
Vì thế, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta đều được mời gọi trở nên sứ giả cho Đức Kitô.
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
Bên cạnh đó, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên sứ giả Tin Mừng trong sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, sứ vụ bị phá hoại.
Mỗi người cần thuộc nằm lòng và đem ra áp dụng trong cuộc sống câu nói và lựa chọn của Gioan khi xưa: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
Hơn nữa, Giáo Hội cũng nhắc lại cho chúng ta sứ điệp mà Gioan đã loan báo, đó là: sám hối. Hành vi sám hối là động thái cho mọi người mọi nơi. Không sám hối thì không được cứu độ.
Cuối cùng, noi gương Gioan, chúng ta không có con đường nào khác để trở nên chứng nhân cho Chúa thực sự nếu không sống sự thật. Bởi vì Tin Mừng và con người Đức Giêsu chính là sự thật toàn vẹn. Nếu không sống sự thật, chúng ta loan báo lệch lạc sứ vụ Tin Mừng nếu không muốn nói là phản bội sứ vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con ý thức được vai trò quan trọng của mỗi người khi được Chúa cho xuất hiện trên trần gian này. Xin cũng ban cho mỗi người chúng con biết chu toàn bổn phận trong lòng mến và khiêm nhường như Gioan khi xưa. Amen.
40. Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Gioakim Nguyễn Tấn Đạt)
Khi nhắc đến thánh Gioan Tẩy Giả, có thể điều đọng lại nơi tâm trí chúng ta là tâm tình của Mùa Vọng với tiếng kêu đầy chất vấn trong hoang địa và cuộc tử đạo hào hùng của một con người luôn đứng về phía chân lý.
***
Kính thưa cộng đoàn
Hai hình ảnh nhưng cùng một hướng đi và có cùng một điểm xuất phát. “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Is 1,5). Chúng ta đang muốn nói đến ngày sinh của Gioan Tẩy Giả, với bậc Lễ trọng mà hàng năm Giáo hội cử hành, bên cạnh lễ sinh nhật của Chúa Giêsu và Mẹ Maira.
Thưa cộng đoàn,
Không phải ngẫu nhiên mà Giáo hội lại cử hành trọng thể lễ sinh nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả. Bởi lẽ chính biến cố này đem lại cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta muôn hồng phúc phát xuất từ Thiên Chúa. Thánh nhân là vị ngôn sứ cuối cùng, đúng hơn là ngôn sứ “gạch nối” giữa Cựu ước và Tân ước, là người trực tiếp chỉ cho muôn dân nhận biết Đấng là Chiên Thiên Chúa (x Ga 1,29), để ai tin sẽ được cứu độ. Hơn nữa, Thánh nhân gợi lại trong mỗi một kitô hữu chúng ta điểm xuất phát và hướng đi của cuộc đời mình.
Cả ba bài đọc trong thánh lễ hôm nay như là sợi chỉ xuyên suốt, không những cùng hướng về ơn gọi của Gioan mà còn xuyên suốt từ thời của Ngài đến thời đại chúng ta hôm nay. Bài đọc thứ nhất nói về ánh sáng của người tôi tớ Thiên Chúa. Bài đọc thứ hai cho ta thấy hình ảnh của một ngôn sứ. Và bài Tin Mừng, thi vị hơn, gần gũi hơn, khi nhắc đến cái Tên. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đặt tên cho ai thì cuộc đời người đó gắn liền với một sứ mạng cao cả. Gioan là cái tên được Thiên Chúa đặt cho đứa trẻ được sinh ra trong một hoàn cảnh đặc biệt khi cha mẹ đã cao niên, tức ông Giacaria và bà Êlisabet. Từ đó một vị ngôn sứ cao cả xuất hiện, một ngọn đèn luôn tỏa sáng.
Trong sách tiên tri Amốt có lời chép:
“Sư tử đã gầm lên: ai mà không sợ hãi
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (Am 3,8)
Chúa đã đặt tên cho Gioan, cũng có nghĩa là Chúa mời gọi, Chúa đã phán. Và Gioan đã mở lời. Tiếng nói của Gioan không chỉ là tiếng nói của lương tâm cá nhân mà còn là tiếng nói của chính Thiên Chúa. Tiếng đó có thể kêu to như tiếng kêu trong hoang địa (x Lc 3, 4-5), nhưng cũng có thể âm thầm đi sâu, chạm thấu vào lòng người như cái ngày bên dòng sông Giođan (x Lc 3, 10-18). Tiếng đó có thể được mọi người kính trọng (x Mc 6, 17- 20; 11,32) mà cũng có thể đụng chạm đến sự ganh ghét, thù oán của người khác. Nhưng dẫu trong hoàn cảnh nào, tiếng đó phải được định hướng bởi một tiếng nói của ơn gọi, của cái tên: “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30). Đúng vậy, cũng như tiếng kêu, ngọn đèn mang tên Gioan không bao giờ tắt nhưng chiếu sáng mãi mãi dù xung quanh tiềm ẩn nhiều bóng tối, dù còn đó những ngọn gió muốn thổi tung tất cả từ tứ phía. Ánh sáng đó vẫn chiếu tỏa cho nhân loại nhưng vẫn luôn hạ mình trước quyền năng Thiên Chúa: “Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người”.
Con người và tiếng nói của Gioan trong ngày mừng sinh nhật cách trọng thể hôm nay, đã vang vọng và đụng chạm đến mọi thời của nhân loại, đến cuộc sống của từng người chúng ta hôm nay. Cũng như Gioan, ai trong chúng ta cũng đều có một điểm xuất phát với cái tên, và theo đó là một ơn gọi và một đích nhắm để bước đi. Cái tên không hẳn theo nghĩa đen như mong muốn của cha mẹ nhưng tên mỗi người được Thiên Chúa khắc ghi, gắn liền với con người độc đáo, với ơn gọi, từ trước khi được thành hình trong dạ mẹ, trước khi chúng ta chào đời. Điều quý giá nơi con người không hệ tại ở cái họ CÓ, cái họ LÀM mà chính yếu nơi cái họ LÀ. Chúng ta là ánh sáng, là phát ngôn của Thiên Chúa. Ánh sáng của chúng ta không phải là ánh sáng nhân tạo, do chính ta hay ai đó làm ra nhưng là ánh sáng phát xuất từ Thiên Chúa chân thật. Tính cách ngôn sứ nơi chúng ta không là sự tùy hứng, không lập lờ nước đôi theo kiểu gió hướng nào ngả về hướng đó, cũng càng không phải là cái cớ để trục lợi nhưng được gắn liền với công lý. Có như thế tên của chúng ta được tinh tuyền từ khởi sự cho đến hoàn thành và mãi mãi được khắc ghi trong tình yêu của Thiên Chúa. Dẫu cho “tôi đã vất vả mất công vô cớ, tôi đã phí sức vô ích; nhưng công lý của tôi ở nơi Chúa, và phần thưởng của tôi ở nơi Thiên Chúa”. (Is 49, 3)
41. Gioan Tiền Hô: Tên gọi
Mỗi người sinh ra, đều được cha mẹ đặt cho một tên gọi. Trong Kinh Thánh, tên gọi các nhân vật lớn thường rất giàu ý nghĩa, tên gọi ấy có khi phản ánh tình trạng của tập thể gia đình, hoặc phản ánh tình trạng của chính cá nhân đương sự, hoặc nói lên số phận hay hoạt động của người mang tên. Thế nên, cùng với tên gọi là hàm ý một dự phóng cho tương lại, có khi chỉ một ước vọng, đôi khi gợi lên tình cảm lúc sinh ra hoặc tương lai mà cha mẹ thấy được, và thường khi là cả một sứ mạng, sứ mạng đó nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa muốn thực hiện giữa dân Người. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả là một ví dụ, khi sinh ra được cha mẹ đặt tên theo lời Sứ thần đã loan báo. Danh xưng Gioan có nghĩa là Thiên Chúa biểu lộ tình thương.
Mừng lễ sinh nhật Gioan Tẩy Giả hôm nay, cũng là dịp đi từ tên gọi ấy, để mỗi người nhận ra hướng đi của tình thương Thiên Chúa, tình thương ấy bước xuống đời sống nhân loại, để rồi một khi con người nhận ra tình thương của Đấng đã yêu thương mình.
1. Tình thương Thiên Chúa bước xuống với con người. Nhìn vào lịch sử cứu độ, nhiều lần trong lịch sử, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Người qua những kỳ công sáng tạo hay những chiến tích lẫy lừng. Và hôm nay, Tin Mừng cho Chúng ta thấy tình thương ấy đã đi vào số phận đời thường của một con người để biến đổi họ nên dấu chỉ lạ thường cho ơn Cứu độ.
Tình thương ấy đã bước xuống nỗi sầu khổ của một gia đình, để biến nỗi tủi nhục ở đó trở thành niềm vui. Chính dấu ấn tình thương ấy đã biến đổi lòng dạ son sẻ của Elisabét thành tấm lòng hoan hỷ nhảy mừng của thai nhi ở tháng thứ sáu. Để rồi, cũng chính tình thương Thiên Chúa đã biến đổi gia đình Dacaria héo hon từ lâu, bổng trở nên rộn rã kẻ ra người vào với tiếng cười, lời chúc mừng ngày con trẻ cắt bì và đặt tên là Gioan, tên gọi ấy là dấu hiệu của tình thương Thiên Chúa.
Thế nhưng, tình thương Thiên Chúa không dừng lại, không chỉ bước xuống nơi gia đình Dacaria sầu khổ, mà còn đi xuống, xuống với một dân tộc và với toàn thể nhân loại. Có lẽ trong suốt thời gian câm lặng, ông Dacaria đã hiểu và khám phá ra được tình thương của Thiên Chúa muốn thực hiện nơi dân tộc của mình. Vì thế, khi người ta hỏi ông đặt tên cho con trẻ là gì, ông ra hiệu người ta mang bảng để ông viết, tên nó là Gioan. Khi ấy lưỡi ông mở ra và chúc tụng Thiên Chúa: "Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người". Như thế, chính trong tên gọi Gioan, tên gọi tình thương, cho ta thấy Thiên Chúa đã bước xuống với dân tộc và với toàn thể nhân loại.
2. Tình thương Thiên Chúa là sự sống con người. Thế nên, mừng ngày sinh nhật của Gioan Tẩy Giả hôm nay, không chỉ nhắc lại một khía cạnh quá khứ, mà còn là một lời mời gọi cho các thế hệ tương lai. Đây là dịp để mỗi Kitô hữu nhận ra mình đang sống trong tình thương của Thiên Chúa. Nhìn lại cuộc đời của mổi chúng ta, mỗi người từ khi hình thành dù mới ở dạng của một mầm sống, tất cả là ân huệ tình thương của Thiên Chúa.
Vả lại, trong ơn gọi làm người, mầm sống ấy có một vận mệnh, một sứ mạng dù không ai biết trước tương lai nó thế nào. Thế nhưng, nó cần được tôn trọng để sinh và sống trong những điều kiện phù hợp với phẩm giá con người. Do đó, bóp nghẹt một sự sống tự nhiên của một mầm sống đang hình thành là đi ngược lại với tình thương của Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, trong đời sống làm con Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được lãnh nhận sự sống siêu nhiên từ Thiên Chúa và cả sứ mạng mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người. Sự sống đó cần được bộc lộ ra trong cả cuộc đời; thế nên, sự sồng ấy cần phải được kính trọng và kiện toàn hơn nữa. Nếu ta từ chối, hay bóp nghẹt sự sống siêu nhiên là ta đi ngược lại tình thương của Thiên Chúa.
3. Hãy vun trồng tình thương Thiên Chúa nơi gia đình. Mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay là dịp để mỗi người chúng ta nhận ra rằng tình thương Thiên Chúa là sự sống con người. Đồng thời trang Tin Mừng hôm nay còn cho thấy khung cảnh gia đình đầm ấm, nơi đó mọi tương quan được thể hiện cách tích cực. Tương quan vợ chồng là một tình yêu chung thủy của hai ông là Dacaria và Elisabét, dù nhiều năm son sẻ vẫn trung tín sắt son. Tương quan cha mẹ con cái là một tình yêu biết trách nhiệm, để rồi, từ nơi đây sẽ tỏa ra môi trường lân cận, xóm giềng. Nên ở đó lộ ra một thông điệp về đời sống gia đình.
Gia đình như chúng ta vẫn thường nói là chiếc nôi của sự sống và tình yêu, nơi đó con người được sinh ra và lớn lên. Gia đình là một cộng đoàn, nơi đó mọi phần tử yêu thương tận hiến cho nhau. Gia đình là một trường học, nơi đó nhân cách được phát triển tự nhiên và lành mạnh nhất. Gia đình là nền tảng của xã hội, là nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ, và gia đình tín hữu còn là một Giáo hội thu nhỏ, khi biết sống những giá trị Tin mừng, qua việc thường xuyên chu toàn những nhiệm vụ bổn phận bậc sống của mình.
Thế nên, tìm lại ý nghĩa đời sống gia đình, chúng ta hiểu rằng đó không chỉ là một định chế xây dựng xã hội loài người, mà còn là một cộng đoàn mang lấy ơn gọi trong sứ mạng vui trồng tình thương Thiên Chúa.
Nhận ra giá trị của sự sống và gia đình nhân ngày lễ sinh nhật Gioan Tẩy Giả hôm nay, cũng chính là lúc mỗi Kitô hữu nhận ra sứ mạng của chính mình trong tình thương của Thiên Chúa. Một sứ mạng bảo vệ và phát triển sự sống có trách nhiệm. Một sứ mạng biết thể hiện tình thươmg của Thiên Chúa bằng sự trung tín trong đời sống gia đình...Đồng thời xây dựng một tình thương huynh đệ trong khu phố, nơi công sở, để mọi người luôn nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
42. Chăm chỉ làm việc để tôn vinh chủ mình
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trong ngôn ngữ phụng vụ, chữ sinh nhật có hai nghĩa trái ngược nhau. Dùng để nói về Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Gioan Tẩy giả, sinh nhật chỉ ngày các Ngài chào đời, tức là sinh ra ở trần gian. Còn khi nói về mọi thánh khác, sinh nhật lại là ngày các ngài ra khỏi đời này và sinh ra ở trên trời. Có sự phân biệt như vậy cũng là điều dễ hiểu. Vì có gì đáng mừng khi sinh ra trong tội lỗi; chính lúc chết đi cho thế gian mới là sinh ra cho sự sống muôn đời. Hết mọi thánh sinh ra ở đời đều mắc tội Ađam; nên ngày chào đời của các ngài không có gì đáng mừng. Ngược lại khi các ngài chết thánh thiện mới là lúc thật sự sinh ra cho hạnh phúc trường cửu và chúng ta phải vui mừng. Hội Thánh mừng ngày các ngài sinh ra ở thiên đàng chứ không tôn kính ngày các ngài sinh ra ở trần gian. Ngược lại, vì không dính bén nguyên tội hay vì được khỏi nguyên tội trước khi sinh ra, Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Gioan Tẩy giả là ba vị duy nhất được mừng ngày sinh ra ở đời, nên ngày đản sinh của các ngài là ngày đáng mừng vì nó tô đẹp cho thế giới và đem hân hoan cứu độ đến cho loài người. Nhất là khi chúng ta nghĩ đến vai trò đặc biệt của Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Gioan Tẩy giả trong mầu nhiệm cứu thế. Ngày các Ngài sinh ra đem hạnh phúc đến cho chúng ta nên chúng ta phải hân hoan.
Nhưng tại sao lại mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả vào ngày 24 tháng 6 này? Người ta có thể biết rõ ngày sinh tháng đẻ của người sao? Không phải như vậy! Ngày xửa ngày xưa mấy ai nhớ rõ được đúng ngày sinh của mình. Họa chăng một vài bậc quan vương nào đó sinh ra trong các đền vua đầy văn hào văn sĩ mới có người ngồi đó để ghi ngày sinh tháng đẻ. Chúa Giêsu, Đức Maria, thánh Gioan đều là dân nghèo về mặt xã hội làm sao có thể để lại ngày sinh rõ ràng. Chính việc các ngài đản sinh mới quan trọng. Còn các ngài sinh ra ngày nào, giờ nào thì hậu thế liệu mà đặt ra theo một vài tiêu chuẩn nào đó.
Đối với Gioan Tẩy giả, người ta đã căn cứ vào một câu người nói để tính ra ngày sinh của người. Người đã nói về Đức Giêsu rằng: "Ngài phải tiến lên; còn tôi phải suy đi". Vậy lúc Đức Giêsu tiến lên phải là lúc Gioan lui xuống. Đức Giêsu đã sinh ra ngày 25 tháng 12 là ngày Đông chí, ngày mặt trời bắt đầu tiến lên trong quỹ đạo của nó, thì tốt nhất nên đặt ngày sinh của Gioan vào ngày mặt trời bắt đầu đi xuống. Và đó là ngày 24 tháng 6, tức là nửa năm trước ngày Đông chí. Và hợp với lời sứ thần loan báo, bà Ysave thụ thai trước Đức Maria sáu tháng.
Những điều trên đây một đàng cho chúng ta thấy địa vị đặc biệt của Gioan Tẩy giả trong hàng ngũ các thánh. Nói đúng hơn người ở ngoài hàng ngũ này vì chỉ mình người khi sinh ra đã được khỏi tội Ađam (chỉ có Đức Giêsu và Đức Maria không mắc tội đó). Và đàng khác chúng ta được thấy cuộc đời của người gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu.
Ba bài Kinh Thánh hôm nay dường như muốn nhắc lại ba giai đoạn chính trong cuộc sống của Gioan. Bài sách Isaia gợi lên ơn gọi tiền định của người. Bài Tin Mừng nhắc đến hôm người sinh ra. Và bài sách Công vụ nói lên hoạt động chính Người đã làm theo sứ mạng.
A. Ơn gọi tiền định
Chúng ta đã biết truyện Gioan nên khi nghe đọc những câu: "Chúa đã gọi tôi từ dạ mẹ... Người đã nhắc đến tên tôi... Người nắn tôi từ dạ mẹ nên tôi tớ của Người...", chúng ta thấy dường như Isaia đã báo trước về việc sứ thần loan tin cho Zacarya biết ông bà sẽ có con và phải đặt tên con trẻ là Gioan; và con trẻ ấy khi còn ở trong dạ mẹ đã được ơn Chúa viếng thăm qua lời chào của Đức Maria; và đã được khỏi tội Ađam cùng trở nên tiên tri của Chúa. Chính Zacarya trong ngày sinh nhật của hài nhi đã được tháo gỡ miệng lưỡi để có thể nói được, cũng đã chúc tụng Gioan là tiên tri của Đấng Tối cao để làm cho Yacob và Israel trở lại với Chúa và để trở nên ánh sáng cho các dân tộc. Tức là Zacarya cũng đã lấy lại nhiều lời trong bài sách Isaia hôm nay để nói về Gioan.
Tuy nhiên chúng ta vẫn không được coi lời sấm của Isaia đã nhằm nói đến Gioan. Người ta có thể áp dụng những lời đó vào Gioan; nhưng Gioan không phải là đối tượng của những lời ấy. Và việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của những lời này còn làm tăng giá trị Gioan hơn nữa.
Thật vậy, đoạn tiên tri hôm nay nằm trong Isaia II (gồm các chương 40-55), là những lời của Chúa nói với Israel và nói về Israel Dân Chúa lúc được đưa ra khỏi cảnh lưu đày Babylon (năm 538). Chúa phán: mặc dầu Israel thất tín, Chúa vẫn trung thành với lời hứa. Người sẽ gửi đến một người Tôi tớ. Đoạn sách hôm nay nói đến ơn gọi của Người Tôi tớ đó. Nó là một trong bốn đoạn Isaia mà người ta quen gọi là bốn khúc ca về Người Tôi tớ. Và chúng ta biết chẳng ai trong lịch sử đã thể hiện những lời sấm về Người Tôi tớ này bằng chính Đức Giêsu Cứu thế. Chính Người sẽ là Người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa đến hy sinh cứu độ Dân Người. Do đó, lời sách Isaia hôm nay chủ yếu muốn nói về Đức Giêsu Kitô. Chỉ có Người mới thật là Vị Tiên tri của Đấng Tối cao sẽ làm cho Israel quay đầu về với Thiên Chúa; và Người sẽ là ánh sáng đích thực cho các dân tộc.
Nhưng Người đã được tất cả Cựu Ước chuẩn bị. Thành ra Người Tôi tớ đích thực cũng đã được nhiều người tôi tớ đi trước loan báo. Gioan là tiền hô của Đức Giêsu Kitô Cứu thế.
Người đáng được áp dụng những sấm ngôn kia. Và chúng ta đã thấy việc áp dụng này rất may mắn vì lời sách Isaia hôm nay quả thực có thể gợi lên nhiều sự kiện trong cuộc đời của Gioan: từ việc người được chọn từ trong lòng mẹ, đến việc được kêu tên từ ngày ấy và việc được chỉ định làm tiên tri.
Tuy nhiên, chính Isaia cũng đã không "dựng đứng" lên một hình ảnh về Người Tôi tớ từ hư vô, tức là không dựa vào các yếu tố đã có sẵn. Không, có thể nói ông đã dùng tất cả phần sách Cựu Ước có trước ông để xây dựng hình ảnh Người Tôi tớ này. Ông dùng những Lời Chúa nói về Israel và Yêrusalem tản mác trong tất cả các sách Cựu Ước để vẽ ra khuôn mặt Người Tôi tớ. Bởi vì Người Tôi tớ đầu tiên của Thiên Chúa chính là Israel Dân Người. Người đã gọi Israel từ trong dạ mẹ, đã đặt tên cho nó, đã săn sóc nó như mũi tên quý báu mà người chiến sĩ cẩn thận giữ gìn trong bao. Người dùng Israel để tỏ hiện vinh quang của Người. Người nhờ thánh điện Yêrusalem để quy tụ nhà Yacob. Người tỏa sáng vinh quang trên Dân Người để nó trở thành ánh sáng cho các dân tộc. Nói đúng ra, khi viết đoạn sách hôm nay, "Isaia" chỉ muốn nói đến Yêrusalem và Israel sắp được cứu độ để ra khỏi cảnh lưu đày, vì ơn gọi tiền định, để rồi nó sẽ chiếu tỏa ơn cứu độ của Chúa cho muôn dân. Có như vậy chúng ta mới hiểu được câu 4 ám chỉ đến thân phận lưu đày kiệt quệ... Và có như vậy chúng ta mới dễ được an ủi: bởi vì điều đã viết về Dân Chúa nói chung cũng có thể hiểu được về từng người con Chúa nói riêng, cho dù điều đó chỉ thể hiện hoàn toàn nơi Đức Giêsu Cứu thế là Dân Chúa đích thực và là Con Một Thiên Chúa. Và dĩ nhiên điều ấy áp dụng cho các thánh nhân sẽ đúng hơn khi áp dụng cho chúng ta. Nhưng chúng ta không được coi mình như đứng ở ngoài. Những lời nói về ơn gọi tiền định của Gioan cũng phải được hiểu về chúng ta để chúng ta tham dự hơn vào sự vui mừng trong ngày người đản sinh hôm nay.
B. Sinh Nhật Gioan
Tin Mừng theo thánh Luca viết rằng hôm Gioan chào đời, bà con láng giềng đã đến chung vui với ông bà Zacarya. Cả hai người đã già mà nay có con lại không đáng mừng sao? Lẽ ra chính hôm ấy người ta phải đặt tên ngay cho con trẻ (Kn 4,1; 21,3...). Nhưng từ thời sau Lưu đày, người ta bắt chước phong tục Hylạp để việc đó lại sau. Và như vậy cũng tôn vinh ngày làm lễ cắt bì hơn, cử hành 8 ngày sau sinh nhật.
Đó là ngày đánh dấu việc con trẻ từ nay thuộc Dân Chúa. Bạn hữu thân thích đến đông hơn. Người ta muốn gọi con trẻ bằng tên của cha nó để tôn trọng ông. Vì theo tục lệ, lẽ ra phải lấy tên của ông nội mà đặt cho đứa bé. Nhưng Zacarya cũng đã "lão rồi"; và nay ông mới có con; nên để ông vui, người ta muốn gọi đứa bé là Zacarya. Thế nhưng mẹ nó không chịu. Người ta nói thế nào bà cũng không nghe. Người ta phải nại đến cha nó. Nhưng ông lại câm. Phải lấy bút giấy cho ông. Ông viết: hãy đặt tên nó là Gioan. Thật là lạ lùng! Không ai bảo ai mà cả cha lẫn mẹ đều muốn gọi nó là Gioan, một tên không có trong họ hàng thân thuộc. Gioan có nghĩa là Chúa chạnh thương, Chúa đoái nhìn, Chúa muốn cứu độ. Cái tên thật hay, nhưng ai bảo hai ông bà biết mà chọn? Người ta chưa kịp hết ngạc nhiên thì Zacarya đã bật miệng hát lên bài ca chúc tụng. Phải chăng 9 tháng câm đã cho ông thời gian suy nghĩ về lòng Chúa nhân ái, chạnh thương, muốn nhìn lại Israel để ra tay cứu độ như lời đã hứa cùng tổ phụ Abraham và cho đến muôn đời?
Thánh Luca đã tỏ ra lỗi lạc trong bài tường thuật hôm nay. Người không chú ý đến ngày sinh nhật của Gioan. Người mời chúng ta tham dự nghi lễ cắt bì, tức là nghi thức tiến dâng hài nhi lên làm con Chúa. Nói đúng hơn, người chỉ nhắc đến tên lễ nghi này để đưa mắt chúng ta hướng về Chúa để thấy Chúa đang đoái nhìn, chiếu cố, chạnh thương và muốn cứu độ Dân Người. Thánh Luca dùng mọi yếu tố có thể tìm thấy để làm nổi bật tên Gioan khiến người ta thấy rõ Chúa đang thể hiện Lời hứa cho Israel và các dân tộc. Đó không phải là tên của ông nội đứa bé, cũng chẳng phải là tên của ai trong họ hàng thân thuộc. Làm sao cả cha lẫn mẹ không đồng ý trước mà lại nói ra cùng một tên? Và tên này chỉ có thể bắt nguồn từ mầu nhiệm Chúa đoái thương hai ông bà cũng như hài nhi và toàn dân.
Nếu được phép tìm hiểu thêm nữa, chúng ta hãy để ý: ở đây, chính uy quyền của người cha giải quyết vấn đề đặt tên cho con trẻ; còn trong trường hợp Hài nhi sẽ sinh ra ở Bêlem, chính Đức Maria là người trước hết có nghĩa vụ phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu. Phải chăng Gioan dù sao cũng còn là con cái của xác thịt nên thuộc quyền cha; còn Cha của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên quyền đặt tên cho Người tùy ở Đức Mẹ Đồng trinh?
Dù sao, hôm nay Giáo Hội rất vui mừng vì được Gioan, tức là được ơn Chúa chạnh thương, đoái nhìn, muốn cứu độ Dân Người. Chính người Dothái thời Gioan đã nghĩ như vậy, nên họ nóng lòng chờ đợi xem Chúa sẽ ra tay thế nào nơi hài nhi mới sinh.
C. Hành động của Gioan
Cũng một tác giả sách Tin Mừng thứ ba đã viết về Gioan như hôm nay chúng ta nghe đọc trong sách Công vụ các Tông đồ. Ông để cho Phaolô nói với những người kính giới Thiên Chúa và đang chờ đợi Lời cứu thoát. Dù không sống ở đất Dothái, nhưng họ chia sẻ mọi tâm tình tôn giáo của đồng bào nơi cố hương. Sống giữa dân ngoại và trong nền văn hóa Hylạp, những người Dothái "thiên cư" (diaspora) đang nghe Phaolô giảng trong hội đường vào ngày sabbat. Họ đã nghe biết về Gioan và đang chờ các hậu quả của việc người xuất hiện. Người đã rao giảng phép rửa thống hối. Nhưng nghe đâu người đã bị bắt và bị giết vì đã khẳng khái lên án tội loạn luân của vua Hêrôđê. Người là Đấng thánh chắc rồi. Các môn đệ của người đang hoạt động. Không biết rồi sẽ ra sao. Nay Phaolô đến cho họ biết: khi vận nghiệp gần mãn, Gioan đã nói: "Các người tưởng tôi là gì, thì không phải tôi đâu. Nhưng này đang đứng sau tôi, Đấng tôi không đáng cởi dép chân Người". Rồi Phaolô tiếp tục nói với người ta về Đức Giêsu. Người đã làm công việc của Gioan, vì tựu trung hoạt động của Gioan cũng là giới thiệu Đức Giêsu Cứu thế là tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Phép rửa mà Gioan đã làm, tuy quan trọng vì từ đó đã khiến người được mệnh danh là Tẩy giả, cũng chỉ nhằm mục đích giúp chúng ta thống hối tội lỗi để đón nhận Đức Giêsu Kitô. Gioan đúng thật là tôi tớ, khiêm tốn và chăm chỉ làm việc để tôn vinh Chủ mình. Ông không lợi dụng lòng phấn khởi lầm tưởng của người ta khi họ muốn coi ông như cứu thế. Ông công nhận không đáng cởi giầy cho Đấng ấy, tức là không đáng làm môn đệ của Người.
Chính vì Gioan đóng đúng vai trò của vị tiền hô mà ngày nay hơn hết mọi vị thánh, người còn sống động trong sinh hoạt của Hội Thánh. Hội Thánh không ngừng cử hành mầu nhiệm cứu độ, nên luôn luôn nhắc đến Gioan. Hội Thánh mừng sinh nhật của người để biết hừng đông ơn cứu thế đã nổi lên ở chân trời trong đời sống của Dân Chúa. Hội Thánh nghe tiếng người trong mùa vọng Phụng vụ để thanh tẩy tâm hồn và đời sống hầu chuẩn bị ngày Chúa đến. Hội Thánh kính nhớ sự chết của người để được báo tin về cuộc tử nạn cứu thế của Đức Kitô. Thánh Gioan là tiên tri được sai đi trước mặt Đức Giêsu Cứu thế thì người còn sống mãi trong tâm tư của Hội Thánh đang đi đón Đức Kitô trở lại. Có thể nói Hội Thánh phải gặp thánh Gioan trước, tức là phải thanh tẩy, chuẩn bị nên Dân tốt lành hầu đón nhận ơn Chúa đến viếng thăm. Và như vậy thiết tưởng đã đủ để nói lên điều này, là cho đến ngày Đức Giêsu Kitô trở lại, chúng ta phải nghe lời Gioan giảng, phải thi hành việc người truyền, phải hành động và trở nên như người.
Chúng ta hãy làm công việc này nhờ những bài Kinh Thánh hôm nay đã nói về thánh Gioan. Chúng ta luôn nhớ ơn gọi tiền định; chúng ta luôn suy ngày được hiến dâng cho Chúa và nhận tên là Kitô hữu, một danh hiệu nói lên tình thương cứu độ của Chúa. Nhất là chúng ta bắt chước thánh Gioan có đời sống thanh tẩy tội lỗi và luôn khiêm tốn giới thiệu Đức Giêsu Cứu thế cho mọi người.
Giờ đây chính Chúa sẽ đến gặp chúng ta trong thánh lễ. Chúng ta hãy có lòng thống hối như muốn cúi xuống cởi giầy cho Người... Chúng ta sẽ được Người nâng lên như có lần Người đã tôn vinh thánh Gioan trước mặt mọi người: Thầy bảo thật trong muôn vàn con cái mà đàn bà sinh ra không ai quý trọng hơn Gioan, nhưng kẻ bé nhất trong Nước Trời còn hơn ông. Vì Gioan chỉ là vị tiền hô, còn chúng ta từ nay là bạn hữu, là Kitô hữu. Ước gì chúng ta hiểu như vậy để từ nay sống xứng đáng hơn với danh hiệu này. Và như thế, chúng ta sẽ tôn vinh Chúa, sẽ tiếp tục làm công việc của thánh Gioan là giới thiệu Chúa cho mọi người.
43. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Vũ Phan Long)
Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót!
1.- Ngữ cảnh
Giống như Tin Mừng Mt nhưng không lệ thuộc vào Mt, tác giả Luca mở đầu Tin Mừng bằng một trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu. Nhưng ngài là tác giả duy nhất đề cập đến thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả.
Phần tường thuật về Thời thơ ấu có hai cánh:
- Cánh các lời loan báo (1,5-56),
- Cánh các cuộc chào đời (1,57-2,52).
Truyện Gioan chào đời được đặt song song với biến cố Đức Giêsu giáng sinh.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Gioan chào đời (1,57-58);
2) Gioan được cắt bì và đặt tên (1,59-66);
3) Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (1,80).
3.- Vài điểm chú giải
- Nghe biết (58): Khi biết mình có thai, bà Êlisabét đã ẩn mình (x. 1,24), nên láng giềng và những bà con khác (trừ Đức Maria) không biết gì về tình trạng của bà, cho đến khi đứa bé chào đời.
- cắt bì (59): Theo St 17,11, cắt bì là ghi "dấu giao ước" cho cậu bé trai. Thường người cha sẽ cắt bì cho con (x. St 21,4).
- lấy tên cha... mà đặt tên cho em (59): Theo bản văn Lc, em bé được đặt tên khi cắt bì. Tuy nhiên, người Do Thái Paléttina có thói quen đặt tên con ngay vào lúc chào đời (x. St 4,1; 21,3; 25,25-26), và thường do người mẹ (St 29,31-30,24; 1 Sm 1,20), đôi khi do người cha (x. St 16,15; Xh 2,22) (xem R. de Vaux). Do đó, có những nhà chú giải nghĩ rằng tác giả Lc đã đưa vào đây một cách thực hành của người Hy Lạp, bởi vì tại Hy Lạp cổ thời, người ta thường đặt tên cho con vào ngày thứ bảy hoặc thứ mười sau khi sinh.
- Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả (61): Tuy nhiên, "Gioan" đã từng là tên của các thành viên dòng họ tư tế thời hậu Lưu đày (x. Nkm 12,13.42; 1 Mcb 2,1-2).
- bàn tay Chúa (66): Đây là một kiểu nói như nhân của Cựu Ước (x. 1 Sb 28,19; 4,10) nhằm diễn tả rằng Thiên Chúa uy quyền che chở và hướng dẫn Gioan. Thế nhưng Ngài vẫn không tránh cho Gioan khỏi tù và khỏi chết bởi tay Hêrôđê Antipa (x. Lc 3,20; 9,8).
- lớn lên (80): Đây là một điệp khúc của tác giả Lc (x. 2,40.52). Câu văn được phỏng theo Tl 13,24-25 và 1 Sm 2,26.
- sống trong hoang địa (80): Dựa vào đây, các chuyên viên đề ra giả thuyết là Gioan đã qua thời trai trẻ tại cộng đoàn Êxêni tại Qumran. Đây là giả thuyết không bảo vệ được và cũng không phi bác được.
4.- Ý nghĩa bản văn
* Gioan chào đời (57-58)
Đoạn tường thuật ngắn ngủi này kể lại cuộc chào đời của Gioan và niềm vui do biến cố này đưa lại. Tác giả Lc kể lại truyện này với hai sắc thái. Trước tiên, biến cố cho thấy lòng từ bi thương xót của Đức Chúa đối với dân Ngài khi cất khỏi bà Êlisabét nỗi ô nhục son sẻ. Truyện cũng nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa tỏ lòng từ bi thương xót ra khi chơi chữ trên tên "Gioan". Ân huệ mà Ngài tỏ ra như thế không chỉ nhằm chiếu cố đến bà Êlisabét mà còn chiếu cố đến dân Ngài là Israel như một toàn thể. Đứa bé này, sinh ra từ những cha mẹ son sẻ, trở thành nguồn đưa lại niềm vui cho láng giềng và bà con thân thích, như sứ thần đã tiên báo.
* Gioan được cắt bì và đặt tên (59-66)
Đứa trẻ sinh ra được tám ngày thì phải làm phép cắt bì (x. Lv 12,3). Khi được cắt bì, em bé được ghi "dấu giao ước" (St 17,11) và được tháp nhập vào Israel (Gs 5,2-9). Từ nay, em được chia sẻ cách phúc lành Thiên Chúa hứa cho dân Ngài (Gs 5,6-7), nên có thể cử hành lễ Vượt Qua với họ (Xh 12,44-49). Cắt bì cũng có nghĩa là buộc phải tuân giữ Luật Môsê. Còn về việc đăt tên, đối với người Do Thái, cái tên rất quan trọng, vì nói lên tương lai của em bé. Có nhiều truyện trong Cựu Ước giải thích ý nghĩa của các tên: "Isaác", trong tiếng Híp-ri, có nghĩa là "sẽ cười / sẽ mỉm cười" và yếu tố "mỉm cười" này thường xảy ra: Sara mỉm cười trong lều; Isaác cười với Ítmaên. Tên "Giacóp" báo điềm gở là "sẽ hất cẳng", và sau này ông đã "hất cẳng" Exau. Khi Giacóp đã bỏ tính lọc lừa và trở nên đàng hoàng, Thiên Chúa đã cho ông một tên mới là "Israel", như một dấu chuẩn nhận và đón tiếp. Cũng thế, sau này Đức Giêsu đã cho Simôn một tên mới là "Phêrô", để dùng ông làm đá tảng xây dựng Hội Thánh.
Bà Êlisabét không đồng ý cho người ta lấy tên Dacaria mà đặt cho em bé, dù đây là tập tục; bà yêu cầu đặt là "Gioan". Người ta mới hỏi ý kiến ông Dacaria, lúc này vẫn bị câm. Ông "đã xin một tấm bảng nhỏ và viết" tên Gioan (1,63). Hai ông bà đang tỏ ra vâng lời sứ thần khi chọn một tên cho đứa con, bất chấp truyền thống của dòng họ. Sứ thần đã bảo tên bé là Gioan, thì bây giờ phải đặt tên bé là Gioan! Đây cũng là cách tác giả Lc cho thấy các lời ngôn sứ được hoàn tất: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Ngài sẽ thực hiện.
Tên "Gioan", Yơhô[k]anan (hoặc: Yô[k]hanan), có nghĩa là "Đức Chúa (ya = yhwh) đã tỏ lòng ưu ái (khanan = charis)" (x. 1,13). Tên này tạo thêm một đường nối giữa hai gia đình, vì nhắc lại lời sứ thần chào Maria, "bà được đẹp lòng (charis) Thiên Chúa" (1,30). Tên "Gioan" như thế có hiểu rằng Israel là đối tượng được Thiên Chúa đặc biệt chiếu cố, và Ngài có một sự quan tâm đặc biệt đến cũng như có một chương trình đặc biệt cho.
* Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (80)
Sau khi chấm dứt bài Benedictus (chúng ta không đọc), tác giả Lc kết thúc hoạt cảnh bằng một ghi nhận nói rằng cậu bé ngày càng lớn lên mọi mặt, và báo trước việc Gioan vào sống trong hoang địa (3,2), chờ ngày "ra mắt dân Israel".
+ Kết luận
Khi đặt bản văn này vào ngữ cảnh, ta thấy rõ ý hướng của Tin Mừng Lc. Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu được so sánh và đạt đối nhau, nhưng sự cao trọng của Đức Giêsu được nêu bật trong từng chi tiết. Rõ ràng Đức Maria cao trọng hơn ông Dacaria, và con của Đức Maria vô cùng cao trọng hơn con của ông Dacaria. Cốt lõi đầu tiên là thời thơ ấu của Đức Giêsu, và rõ hơn, là truyện Truyền Tin. Rất có thể câu truyện về thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả chỉ là một phần mở do tác giả Lc sáng tác ra để vị Tiền hô giới thiệu Đấng Mêsia.
Chương 1-2 Lc có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đn 9-10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Ml 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài Benedictus và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm "sự hoàn tất các ngày" (đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo, được viết theo ngôn ngữ Kinh Thánh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót! Bởi vì bà Êlisabét, mẹ của Gioan, bị hiếm muộn (x. Lc 1,7.36) và hoàn toàn nhưng-không - do ân sủng - mà bà đã được Chúa ban cho ơn phi thường là cưu mang một người con trong lúc tuổi già (x. Lc 1,36). "Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà".
Nhưng đây là một lễ của lòng từ bi thương xót chính là vì cuộc chào đời của Gioan loan báo cuộc chào đời của Đấng Mêsia, Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được sai phái đền trần gian để cứu chuộc con người sa đọa từ tội nguyên tổ!
2. Cuộc chào đời của Gioan đầy những chuyện lạ lùng bao quanh: sứ thần Gabriel loan báo cho ông Dacaria; bà Êlisabét gặp Đức Maria là cơ hội để cho thai nhi nhảy mừng. Và Gioan ra đời đã sống xứng đáng với các phép lạ đó. Nghĩ đến cuộc sống mình, chúng ta hẳn cũng thấy đời của mình đầy ắp phép lạ, hay là cả cuộc đời mình là một phép lạ kéo dài, bởi vì chúng ta cũng là những tiền hô của Đấng cứu thế. Chúng ta đang sống thế nào?
3. Chúng ta suy niệm về thánh Gioan dựa theo ý kiến của một vài vị thánh. Trước tiên, ta có ý kiến của linh mục Origiênê (Các bài giảng về Tin Mừng Luca, số 4,4-6): "Phần tôi, tôi nghĩ rằng mầu nhiệm Gioan đang được hoàn tất trong thế giới cho tới nay. Người nào được nhắm cho tin vào Đức Kitô Giêsu, thì trước đó tinh thần và sức mạnh của Gioan phải đến trong tâm hồn người ấy để "chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa" (Lc 1,17) và trong những nơi lồi lõm của con tim, "khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho bằng" (Lc 3,5). Không phải chỉ vào thời đó các "khúc quanh co, mới phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, mới phải san cho bằng", nhưng hôm nay cũng còn như thế. Tinh thần và sức mạnh của Gioan đi trước việc Chúa Cứu thế hiển ngự".
4. Thánh Ephrem đã dạy (Bài thánh ca được gán cho thánh Ephrem [khoảng 306-373]: "Chính là ngài, thánh Gioan, mà chúng con nhìn nhận như là một Môsê mới, bởi vì ngài đã thấy Thiên Chúa, không phải trong dạng biểu tượng, nhưng hoàn toàn rõ ràng. Chính ngài mà chúng con coi như là một Giôsuê mới: ngài không đi từ bờ này sang bờ bên kia của sông Giođan, nhưng, với nước sông Giođan, ngài đã đưa người ta đi từ thế giới này sang thế giới khác... Chính ngài là Samuen mới đã không xức dầu cho Đavít, nhưng đã ban phép rửa cho con Đavít. Chính Ngài là Đavít mới, đã không bị vua Saun xấu xa bách hại, nhưng đã bị Hêrôđê giết chết. Chính ngài là Êlia mới, được nuôi dưỡng trong hoang địa không phải bằng bánh một con quạ mang đến, nhưng bằng châu chấu và mật ong do Thiên Chúa ban cho. Chính ngài là Isaia mới đã không nói: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và sinh con" (7,14), nhưng đã công bố trước mặt mọi người: "Này đây bà đã sinh ra Con Chiên Thiên Chúa, Đấng mang tội trần gian" (Ga 1,29)...
"Lạy thánh Gioan, Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài thật có phúc, vì ngài đã đặt tay trên Chủ của ngài, ngài đã nắm lấy trong tay ngọn lửa có ánh sáng làm các thiên thần phải run sợ! Là ngôi sao mai, ngài cho thế gian thấy Buổi Ban mai chân thật; là bình minh tươi vui, ngài đã cho thấy ngày vinh quang; là ngọn đèn cháy sáng, ngài đã chỉ cho thấy Ánh sáng có một không hai! Là sứ giả mang ơn hòa giải của Chúa Cha, tổng lãnh thiên thần Gabriel đã được cử đến trước mặt ngài để loan báo cho Dacaria về ngài, như là một hoa quả vượt quá sự chờ đợi của ông... Là người cao trọng nhất trong số các con cái loài người (Mt 11,11), ngài đến đón trước Đấng Emmanuel, ngài đón trước Đấng vượt quá mọi thọ tạo; là con đầu lòng của bà Êlisabét, ngài đi trước Trưởng Tử của toàn thể thọ tạo!"
5. Mỗi người có ơn gọi của mình. Gioan có ơn gọi của riêng ông, ơn gọi không mấy thông thường. Cũng như mỗi người được Thiên Chúa kêu gọi, Gioan đã chuẩn bị trong lòng sứ mạng được ký thác cho ông. Ông chuẩn bị bằng đời sống ẩn dật. Đó chính là đời sống của ông với Thần Khí Đức Chúa. Đó chính là điều bí mật của ông. Phải chăng đây là một sự mô phỏng, khá mờ nhạt, của sự chuẩn bị của Đức Maria hầu đón tiếp Đức Chúa đến với Bà vào ngày Truyền tin? Bởi vì Đức Maria cũng đã nhận một tên mới do Thiên Chúa ban: thiên thần Gabriel đã gọi Bà bằng cái tên "Đấng đầy ân sủng" (Lc 1,28).
44. Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lưu Ly Thảo)
Người đời thường hay quan niệm rằng mỗi người đều có một số phận hay định mệnh. Trước định mệnh ấy, người ta đành bó tay, may nhờ rủi chịu. Quan niệm này đã ăn sâu vào não trạng nhiều người, đến nỗi họ thường lấy nó để tự an ủi mình trong những lúc gặp gian truân và an ủi những người kém may mắn trong cuộc sống.
“Đứa Trẻ này rồi sẽ thế nào đây?”
Câu chuyện minh họa: Còn nhớ lần đầu tiên vào thăm mấy người bạn ở Long Khánh (Xuân Lộc), tôi được họ dẫn đi tham quan vườn sầu riêng. Đứng giữa vườn sầu riêng mênh mông, ngước nhìn lên những thân cây sầu riêng cao lớn đang đeo những chùm trái to tướng và đầy gai nhọn, tôi thốt lên với nhóm bạn:
- Trái sầu riêng này mà lỡ rụng xuống trúng đầu ai thì chắc là người đó... chết tươi ăn năn tội chẳng kịp quá!
Mấy đứa bạn nhìn tôi cười và giải thích thế này:
- Bạn đừng lo! Khi dựng nên cây sầu riêng, Thiên Chúa đã tính toán kỹ rồi. Ngài trao cho nó sứ mạng dâng tặng vị ngọt thơm cho đời. Còn việc rụng, Ngài chỉ cho phép trái của nó được rụng vào ban đêm thôi, nếu rụng ban ngày thì chắc gì ông bà Adam - Eva còn sống mà sinh ra con cháu tụi mình bây giờ!
Câu trả lời dí dỏm này khiến tôi suy nghĩ: Dựng nên một cây ăn trái mà Chúa còn tính toán lợi hại kỹ như vậy, thì khi dựng nên con người, chắc chắn là Chúa phải có chương trình hẳn hoi!
Kính thưa cộng đoàn!
Người đời thường hay quan niệm rằng mỗi người đều có một số phận hay định mệnh. Trước định mệnh ấy, người ta đành bó tay, may nhờ rủi chịu. Quan niệm này đã ăn sâu vào não trạng nhiều người, đến nỗi họ thường lấy nó để tự an ủi mình trong những lúc gặp gian truân và an ủi những người kém may mắn trong cuộc sống.
Tuy nhiên, người Công Giáo chúng ta tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta vào cuộc sống, Ngài đã có ý định và chương trình cho từng người. Đây không phải là một kế hoạch để áp đặt, nhưng là một sứ mạng để mỗi người hoàn thành trong tự do và trách nhiệm, hầu được vui hưởng hạnh phúc. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả là một minh chứng điển hình.
Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Vì ý thức sứ mạng cao cả này, Gioan đã can đảm chu toàn để làm chứng cho Ánh Sáng và Sự Thật, dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Phần chúng ta, khi cho chúng ta được hiện diện trên cõi đời này, Thiên Chúa đặt hết niềm tin và sự kỳ vọng nơi chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy nhìn ngắm cuộc đời và cách sống của Gioan để noi theo trong việc thi hành sứ mạng của mình giữa cuộc sống hàng ngày.
- Thứ nhất là tinh thần can đảm: Thánh Gioan Tẩy Giả đã dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến bằng cách chuẩn bị tâm hồn mọi người cho xứng hợp để tin nhận Người. Trong hành trình rao giảng, Gioan đã không ngần ngại, không sợ sệt khi lên tiếng phản đối sự sai trái của kẻ cầm quyền lúc bấy giờ là vua Hêrôđê, dù biết rằng mình phải chuốc lấy những hậu quả khôn lường, thậm chí bị chém đầu.
Là những Gioan Tẩy Giả của thời đại hôm nay, chúng ta có bổn phận góp phần làm cho xã hội được phát triển, cuộc sống con người được thăng tiến, phẩm giá con người được tôn trọng, công bình và bác ái được thể hiện; chúng ta có trách nhiệm cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống, làm giảm bớt sự hận thù, chia rẽ, bạo lực và chà đạp nhân phẩm, ngay trong môi trường mình đang sống.
- Thứ hai là sự khiêm tốn: Khi thi hành sứ mạng, thánh Gioan được mọi người rất kính nể, đến nỗi người ta cứ lầm tưởng Gioan là Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, Gioan không lợi dụng sự tin tưởng của họ để mạo danh. Ngược lại, Gioan khiêm tốn bộc bạch với dân chúng: “Đấng đến sau tôi thì cao trọng hơn tôi. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Người”.
Phần chúng ta, vừa can đảm thực thi sứ mạng của người Công Giáo trong cuộc sống, nhưng chúng ta cũng cần phải khiêm tốn nhìn nhận mình là “đầy tớ vô dụng”, được Chúa sai đi làm công việc của Chúa. Nhờ đó, chúng ta vừa tránh được tính khoe khoang tự mãn với những thành quả đạt được, vừa luôn phấn đấu để hoàn thiện con người của mình, hầu chu toàn sứ mạng được tốt hơn.
Lạy Chúa, cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng như của mỗi người chúng con đều do bàn tay Chúa can thiệp, đưa dẫn và sai đi. Xin Chúa cho chúng con nên những chứng nhân Tin Mừng đích thực của Chúa giữa dòng đời, để những người chung quanh nhìn cách sống của chúng con mà tin vào Chúa. Amen.
45. “Tên nó là Gioan” (Lc 1:57-66)
(Suy niệm của Thế Tiến)
Hôm nay mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Bài Phúc Âm nói cho biết ngày thứ 8, làm lễ cắt bì và bà con lối xóm bàn định đặt tên cho em. Tên tuổi có gì quan trọng không? William Shakespear hỏi, nếu chúng ta gọi hoa hồng bằng một tên khác, hương hoa hồng có thay đổi không? Có lẽ nhiều người như Shakespear nghĩ rằng nội dung mới quan trọng chứ hình thức hay danh hiệu có gì quan trọng. Ngày nay nhất là tại Âu Mỹ, tên tuổi ít quan trọng và đôi khi chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Tên Bill hay tên Donald hay tên gì khác có gì khác biệt đâu. Quả thực, tên tiếng Tây thì rất ít ý nghĩa. Người ta bảo xưa Tây đâu có tên họ đâu. Đến khi nhà nước đòi phải có tên họ, thì đa số chọn ngay nghề nghiệp làm tên họ cho tiện lợi. Baker chỉ vì ông tổ nướng bánh mì, Farmer chỉ vì ông tổ làm nghề nông, Smith chỉ vì ông tổ làm các ổ khóa, Taylor có ông tổ làm thợ may. Muốn may quần áo thì cứ việc đến với ông Taylor là có ngay.
Tên tiếng Việt đôi khi còn có một ý nghĩa nào đó. Tôi nhớ hồi nhỏ có anh bạn mang họ Phạm. Anh ta thắc mắc tại sao lại họ Phạm bởi vì khi mang họ phạm tên càng hay, càng tốt đẹp lại càng xấu. Trung Thành là điều tốt nhưng Phạm Trung Thành là điều xấu rồi. Phạm chỉ có phạm tội trọng là nổi tiếng thôi …
Tên trong Thánh Kinh thường mang nhiều ý nghĩa hơn. Chúa nhấn mạnh con của ông Zacaria và bà Elizabeth phải được gọi là Gioan vì một lý do tốt lành dù điều này không đúng theo truyền thống gia đình, dù trong họ hàng chẳng có ai lấy tên Gioan đi nữa. “Gioan,” theo tiếng Do Thái Yohanan (hay y’hohanan), có nghĩa là “Đức Chúa khoan dung” “Thiên Chúa thương xót.” Gioan Tẩy Giả là Tiên Tri cuối cùng của Cựu Ước và theo một nghĩa ông tóm tắt trong mình mọi ơn lành Chúa dành cho dân riêng Do Thái. Mọi sự Chúa làm trong Cựu Ước hướng về Người mà Gioan làm tiền hô là Đức Giêsu. Gioan được thụ thai cách lạ và sinh ra là bước cuối cùng tiên báo Đức Kitô trong việc sửa dọn cho sứ mạng Cứu thế của Đức Kitô. Gioan với ý nghĩa cái tên là Chúa xót thương để loan báo Đấng Messia quả là hợp lý. Con trẻ Gioan là một biểu lộ lòng Chúa thương xót, cách riêng cho ông bà Zacharia và Elizabeth, vì Chúa đã cất đi sự tủi nhục cho người đàn bà son sẻ và cách chung cho toàn thể gia đình nhân loại. Ngay Việt Nam cũng có câu: “Cây khô không có lộc – Người độc không có con” hay” Cây khô không có trái – gái độc không có con.” Gioan xuất hiện để làm tiền hô dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến với dân Ngài, một niềm vui mà đã bao ngàn năm gia đình nhân loại ngóng chờ. Chẳng hồ nghi, những người có mặt bữa đó đều biết nghĩa chữ Gioan hay Yohanan có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.
Tuy nhiên thực tế, họ không nhìn ra lòng Chúa thương xót trong biến cố nên đã từ chối không chịu nhận tên Gioan cho con trẻ. Họ bị ràng buộc bởi những suy nghĩ trần tục, của các thói đời, của tập quán cổ xưa: “Không ai trong họ hàng bà có tên này”.
Chúng ta có nhìn ra lòng Chúa xót thương trong thực tại của cuộc sống không? Một niềm vui nho nhỏ, một chuyện buồn vô lý nhưng Chúa chất vào đấy nhiều ý nghĩa của lòng Chúa xót thương. Lạy Chúa xin giúp con nhìn ra lòng Chúa xót thương trong biến cố nho nhỏ của đời con hôm nay.
23/06 Thi hành điều muốn người khác làm cho mình
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Thi hành điều muốn người khác làm cho mình.
Thứ Ba tuần 12 thường niên.
"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".
Lời Chúa: Mt. 7, 6. 12-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Đừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.
"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.
"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cửa hẹp và đường chật
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay gồm những câu rời rạc.
Câu đầu tiên là một câu khó hiểu đối với chúng ta ngày nay (c.6),
tuy có thể rất dễ hiểu đối với những người trực tiếp nghe Đức Giêsu.
“Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai chớ liệng cho heo…”
Heo là con vật nhơ uế, chó thường được dùng để chỉ dân ngoại.
Vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai,
sách Điđakhê coi của thánh ở đây là Mình Thánh Chúa,
từ đó xác định rằng chỉ tín hữu mới được rước lễ (9, 5).
Tuy nhiên, có thể hiểu của thánh hay ngọc trai là Tin Mừng Nước Trời.
Tin Mừng này có thể được đón nhận hay bị từ chối một cách thô bạo.
Không hẳn chỉ dân ngoại mới có người từ chối và chà đạp viên ngọc quý.
Cả người Do thái cũng có kẻ bách hại những ai rao giảng (Mt 10, 17).
Thái độ của người môn đệ là không dừng lại, nản lòng khi bị chối từ.
nhưng là tiếp tục mang sứ điệp ấy đến cho người khác.
Câu 12 thường được coi là khuôn vàng thước ngọc.
Nó xuất hiện trong nhiều tôn giáo và văn hóa từ xưa.
“Làm cho người khác mọi điều mình muốn họ làm cho mình.”
Đây là một thái độ tích cực đòi chúng ta một chút tưởng tượng.
Tôi thử nghĩ xem mình muốn gì nơi người khác.
Cảm thông, bao dung, yêu mến, kính nể, trung thành, nâng đỡ…
Rồi tôi tìm cách trao cho họ những điều tốt lành mà tôi ước mong,
vì giữa con người với nhau, vẫn có chung những khát vọng.
Trong một thế giới mà người ta chỉ tìm làm điều tốt cho nhau,
thì thế giới đó là địa đàng, nơi sự dữ không còn đất đứng.
Như thế người Kitô hữu không chỉ yêu anh chị em trong cộng đoàn,
yêu người thân cận như chính mình (Mt 22, 39),
mà còn yêu mọi người đau khổ cơ nhỡ (Mt 25, 31-46),
thậm chí yêu cả kẻ thù (Mt 5, 44).
Cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn yêu bằng hành động tích cực :
“chính anh em hãy làm cho người ta” (c. 12).
Người ta ở đây là mọi người, vượt quá mọi thứ biên giới.
Con đường mà Đức Giêsu đã đi là con đường hẹp, khó đi.
Nó hẹp vì nó là con đường tình yêu, mà yêu thì không dễ.
Ít ai tìm thấy con đường này, mà cũng ít người muốn đi (c. 14).
Chúng ta được mời chọn đi con đường Giêsu,
con đường tình yêu đòi hy sinh mạng sống,
con đường đòi ra khỏi mình để sống cho và sống với tha nhân.
Và chúng ta tin mình sẽ gặp được hạnh phúc.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện. Amen.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Hãy qua cửa hẹp
Một cuốn phim Mỹ với nội dung như sau: Có đôi vợ chồng trẻ mới thành hôn đưa nhau đi nghỉ cuối tuần tại Las Vegas, một thành phố cờ bạc nổi tiếng nhất nước Mỹ. Ðang lúc thuận thời vận, hai người chia sẻ cho nhau ước muốn có được một căn nhà. Một nhà tỷ phú tình cờ theo dõi câu chuyện của đôi vợ chồng trẻ. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng cho họ một triệu Mỹ kim. Chỉ sau một đêm họ có thể trở thành triệu phú. Nghĩ thế, họ ra phòng luật sư để ký giao kèo. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỷ phú, người chồng cũng bắt đầu nghĩ lại, viễn ảnh mất vợ bỗng làm anh lo sợ. Thế nhưng đã quá muộn, sau một đêm để có được tất cả cũng chính là lúc họ mất nhau để rồi đi đến tan vỡ.
Câu chuyện phim trên đây có thể là một dụ ngôn cho chúng ta hiểu được giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: con đường dễ dãi là con đường dẫn đến hư mất, đó là định luật chung của cuộc sống. "Hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường rộng đưa đến diệt vong". Thái độ hững hờ không thể đi đôi với những đòi hỏi của Tin Mừng; cuộc sống dễ dãi, buông thả không có chỗ đứng trong nếp sống của những người theo Chúa. Ðã một thời cùng ăn, cùng uống, cùng nghe giảng dạy, chưa phải là giấy thông hành để vào Nước Trời: "Ai nghe những lời Ta dạy mà không đem ra thực hành, thì ví được như người ngu xây nhà trên cát". Nếu viện lý do mình là con dòng cháu giống, cũng chưa phải là lý do để được thâu nhận vào Nước Trời.
Trong lúc huấn đức cho đồ đệ, một người mới nhập viện lên tiếng hỏi vị Thiền sư:
- Thưa Thầy, con quyết chí tu cho đắc đạo dễ hay khó?
Thiên sư trả lời:
- Không dễ cũng không khó.
Người đồ đệ ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao lại không dễ cũng không khó? Con thật không hiểu, xin thầy giải thích.
Thiền sư dõng dạc trả lời:
- Vì tu đắc đạo không ở đó.
Người đồ đệ càng sửng sốt hơn:
- Con không thể nào hiểu được. Vậy làm sao để đạt đích?
Thiền sư trả lời:
- Vì đường tu không khoảng cách. Khi con ngưng bước là lúc con tới đích.
Xin Chúa cho chúng ta thực thi những gì Chúa đòi hỏi. Xin cho chúng ta luôn đi sát Chúa và hướng thẳng tới đích cao vời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Cửa hẹp
“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng là đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua cửa đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt. 7, 13-14)
Những cánh cửa khép kín
Ta nghĩ đến cái gì khi nghe Phúc âm nói về cửa hẹp? Có lẽ ta cho đó là chuyện chẳng có gì đáng “tếu”, đáng phấn khởi cả. Trong đầu óc ta, đó là những tiếng gợi nên cảnh nhiệm nhặt, khổ chế, những điều răn, thập giá và đau khổ. Trong tất cả những điều này, chẳng có gì làm cho ta ham sống cả. Một phần nào đó cũng giống như muốn qua cửa hẹp, thì trước tiên là phải lo đóng chặt các cửa chung quanh, phải bận tâm nhiều đến những điều cấm đoán, phải thường xuyên ở thế phòng thủ, phải luôn luôn canh chừng để khỏi rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Như vậy thiết tưởng cửa hẹp là một cái vòng xiềng cổ, là cái áo bó chặt vào người, là con đường khúc khuỷu gập ghềnh chẳng có nhiều ánh sáng, niềm vui sống và tự do.
Những cánh cửa mở rộng
Nghĩ tưởng như vậy đúng là không biết đánh giá cao điều Chúa Giêsu đề nghị cho ta. Để tỏ ra công bằng đối với Chúa, khĩ nghĩ đến cửa hẹp, thiết tưởng ta phải nghĩ nhiều đến những cánh cửa rộng mở hơn là những cánh cửa khép kín. Chúa Giêsu chẳng phải là con người dập tắt niềm vui, sự sống và tự do. Và chính cửa hẹp Chúa nói đến ở đây, sẽ đưa ta tới đó.
Nếu Chúa Giêsu có mời gọi ta sống nhiệm nhặt khắc khổ, chính là để nếp sống ấy đưa ta tới nguồn vui. Chúng ta sẽ phải đau khổ, nếu Chúa không giấu ta điều đó, chính là để nói với ta rằng hạnh phúc đang chờ ta ở cuối đoạn đường. Nếu Người thúc ép ta vác thập giá mình, chính la để dẫn ta đến sự sống.
Thế nên cửa hẹp được gọi là tình yêu thương, sự hiến thân, đức công bình, sự tha thứ lỗi lầm, lòng quảng đại, nhân từ, dịu hiền. Cửa hẹp này mở rất rộng rãi hướng về một thế giới tuyệt vời; thế giới chan hòa tự do và hoan lạc này chỉ mình Thiên Chúa mới có thể vun trồng ở thâm sâu của lòng ta.
SUY NIỆM 4: KHUÔN VÀNG THƯỚC NGỌC (Mt 7, 6. 12-14)
"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".
Đây là khuôn vàng thước ngọc để ta thi hành đức ái theo thánh ý Chúa.
Thật vậy, chẳng ai muốn điều xấu đến với mình bao giờ. Vì thế, không có lẽ gì lại mong muốn điều xấu đến với anh chị em mình. Chỉ có ai nuôi lòng hận thù, hay vì ích kỷ thì mới làm điều bất chính cho tha nhân và muốn điều tốt cho riêng mình mà thôi.
Hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra kim chỉ nam cho các môn đệ và cũng cho mỗi người chúng ta là: hãy muốn và làm điều tốt cho tha nhân trước khi thi hành điều tốt cho chính mình. Phải quên đi bản thân để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân trước. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh của anh chị em và hãy đối xử với họ như chính mình muốn được đối xử khi ở địa vị của họ.
Lời Chúa hôm nay không chỉ kêu mời chúng ta “hãy làm cho người khác những điều mình muốn họ làm cho mình” mà Ngài muốn chúng ta đi xa hơn nữa là hãy cư xử với tha nhân tốt hơn là họ đáng được cư xử. Không chỉ “yêu tha nhân như chính mình” mà hãy “yêu tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Đó là yêu vô điều kiện, yêu đến mức hy sinh cả mạng sống.
Khi yêu như thế, ấy là lúc chúng ta đang đi trên con đường hẹp, con đường của hy sinh, từ bỏ, của yêu thương, quảng đại và vô vị lợi. Sẵn sàng từ bỏ con đường thênh thang là con đường của kiêu ngạo, ích kỷ, nhỏ nhen, trục lợi cho cá nhân mình.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay vạch ra cho chúng con con đường về trời. Con đường đó là hy sinh, yêu thương và bác ái vô vị lợi.
Xin cho chúng con biết chọn con đường hẹp ấy để tiến bước trên hành trình sứ vụ của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
22/06 Phương thế tốt để tự biết mình
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Phương thế tốt để tự biết mình.
Thứ Hai tuần 12 thường niên.
“Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã”.
Lời Chúa: Mt 7, 1-5
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy.
Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy.
Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: “Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh”, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Lấy xà ra khỏi mắt
Suy niệm:
Mỗi ngày chúng ta đưa ra biết bao nhận xét về người khác.
Thầy cô phải nhận xét về học trò, cấp trên phải nhận xét về thuộc hạ.
Việc lượng giá về từng cá nhân thường rất cần thiết và hữu ích.
Trong đời sống tu trì, vẫn có chuyện anh em sửa lỗi cho nhau.
Nói chung, sống thì phải đưa ra những phán đoán về người khác.
Nhưng làm sao để phán đoán ấy không trở nên một xét đoán lệch lạc?
Đức Giêsu dạy ta biết cách xét đoán qua bài Tin Mừng hôm nay.
“Anh em đừng xét đoán”: thật ra Đức Giêsu không cấm mọi thứ xét đoán.
Ngài còn dạy các môn đệ biết cách phân biệt ngôn sứ giả và thật (Mt 7,15),
phân biệt người xứng đáng và người không xứng đáng (Mt 10, 11),
biết cách đề phòng thói xấu của nhóm Xađốc và Pharisêu (Mt 16, 6).
Đức Giêsu chỉ đòi các tín hữu sống trong cộng đoàn huynh đệ
phải tránh lối xét đoán thiếu bao dung, khắc nghiệt,
mà quên chính mình cũng có những lỗi lầm lớn hơn nhiều.
“Anh em xét đoán thế nào, thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (c. 2).
Ngài muốn ta nhẹ tay và nhân từ khi cần phải xét đoán người anh em.
Vì cái đấu ta dùng để đong cho họ, Thiên Chúa sẽ dùng để đong cho ta.
Đấu đong đi càng lớn, đấu đong lại càng đầy.
Chỉ cần thay đổi cái đấu ta vẫn quen dùng, là cuộc đời của ta thay đổi.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh liên quan đến nghề mộc của Ngài,
để nói về chuyện người đạo đức giả.
Đó là hình ảnh bụi mùn cưa trong mắt người khác và cái xà trong mắt mình.
Một cái thì thật bé, một cái thì to đến độ khó lòng ở trong mắt được.
Hình ảnh phóng đại này hẳn làm ai cũng phải buồn cười.
Tôi thấy lỗi bé nơi anh em, nhưng lại không để ý tới lỗi lớn nơi tôi.
Tôi hăng hái xin được lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em,
nhưng lại rất khoan dung với cái xà trong mắt mình.
Đức Giêsu hóm hỉnh khuyên chúng ta nên lấy xà ra khỏi mắt trước đã,
rồi mới thấy tỏ tường để lấy hạt bụi mùn cưa khỏi mắt anh em.
Điều khó vẫn là thấy được cái xà trong mắt mình.
Lẽ ra tôi phải thấy ngay vì nó quá lộ liễu, ai cũng thấy.
Nhưng nó khó thấy, vì tôi không muốn thấy cái xấu của mình.
Càng có quyền, có chức, có uy tín, có tuổi tác và kinh nghiệm,
càng khó chấp nhận nếp nhăn nơi khuôn mặt mình.
Giá mà tôi thấy được cái xà nơi mắt tôi,
chắc tôi đã không dám đòi lấy hạt bụi nơi mắt người khác,
hay nếu có được ai nhờ lấy đi nữa,
thì cũng chỉ lấy một cách khiêm hạ, nhẹ nhàng.
Trong bài hát “Chúa Hòa Bình” của Phạm Duy có câu:
“Nếu có ai lầm lỡ, rồi sinh ra khắt khe…”
Chỉ mong chúng ta, nhờ thấy mình lầm lỡ và đã được Chúa thứ tha,
nên sinh ra dễ cảm thông với lỗi lầm người khác.
Cầu nguyện :
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Một phương thế tốt để tự biết mình
Khi Chúa Giêsu bảo đừng xét đoán đó là một lệnh truyền khắt khe, có nghĩa: đừng bao giờ xét đoán không tốt cho kẻ khác, đừng kết án ai. Sự xét đoán này là công việc của một mình Thiên Chúa. Không ai được thay thế cho Thiên Chúa. Hơn nữa mỗi người phải xác tín rằng mình không được quyền lưu ý kẻ khác về tội của họ, vì ai nấy đều là kẻ có tội.
Chúng ta hãy đưa ra đây một nhận xét của khoa tâm lý cổ điển để làm sáng tỏ câu: người ta sẽ đong cho các ngươi đấu nào mà các ngươi đã đong cho họ. Lời nói này của Chúa vượt quá sự khôn ngoan của các giáo sĩ Do thái thời Ngài; chính họ cũng đã nói những điều tương tự. Người ta thấy trên kia lệnh truyền đặc biệt của Chúa là không được ‘đong đấu’ nào cả. Nhưng ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: kẻ khác sẽ ‘đong đấu’ cho chúng ta, xét đoán chúng ta về tật xấu này nọ mà chúng ta có, và họ xem thấy nhưng chúng ta lại là những người duy nhất không trông thấy. Thật vậy, đặc tính của khuynh hướng xét đoán kẻ khác là làm cho con người hóa ra mù quáng về mình. Người ta biết rằng: tật xấu nào ta ghét nơi kẻ khác, tật xấu đó đáng ghét, vì người ta cũng có nơi mình. Kẻ xét đoán không ý thức rằng người khác cũng sẽ xét đoán lại họ căn cứ trên việc xét đoán họ làm. Người khác thấy điều mà chính họ không thấy. Người ta cũng có thể lật ngược lời của Chúa và quả quyết như sau: hãy tự xét đoán mình theo cách thức mình xét đoán kẻ khác.
Việc cấm xét đoán kẻ khác và việc kêu mời hãy tự xét mình, hãy lấy cái xà nơi mắt mình, quả là chính yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Tại sao? Bởi vì khi ta xét đoán ai, ta tự tách lìa khỏi họ. Và tất cả chiều hướng của Phúc Âm là dẫn đến việc hợp nhất và thông hiệp. Hơn nữa, xét đoán là tự cướp đoạt cho mình cái thuộc về Chúa, điều này không chính trực.
Có những trường hợp người ta bị bó buộc phải phê phán về một người nào. Đó là vấn đề khác. Dầu sao đi nữa, sự phê phán này phải được lồng trong sự kính trọng và tình yêu.
Tôi có nghĩ tới cách tìm hiểu mình, căn cứ vào cái mà tôi chán ghét nơi kẻ khác không?
SUY NIỆM 3: Ðừng xét đoán
Augustin Goden trong khi còn là sinh viên trường nghệ thuật ở Paris đã nổi tiếng về tài điêu khắc. Có một người đàn bà giàu, nhưng chẳng biết gì về nghệ thuật đến nhờ Goden thiết kế một bức tượng để đặt ở giữa vườn nhà bà. Người đàn bà đến xem bức tượng nhằm lúc ông đang tiếp khách. Sau khi người đàn bà ra về, nhóm bạn hữu ra xưởng vẽ thấy Goden đang nhảy múa cuồng loạn trước bức tượng. Ðược hỏi tại sao, Goden trả lời: "Bởi vì người đàn bà không đồng ý về bức tượng, nên tôi vui mừng, vì biết rằng tác phẩm của tôi có giá trị".
Mỗi lần chấm thi một bộ môn nào đó, người ta thường mời những người chuyên môn về bộ môn ấy cho biết nhận xét. Phải biết rõ vấn đề, con người mới hy vọng có được nhận xét xác đáng, nếu không chỉ là những lời bâng quơ, thiên lệch. Chúa Giêsu đã không muốn những kẻ theo Ngài vấp phải sai lầm này. Tự bản thân, con người chưa hiểu được mình, vì con người có phần tinh thần ẩn khuất đằng sau thể xác. Những gì được phô diễn bên ngoài mới chỉ là hình thức. Không thiếu những trường hợp cái hình thức bên ngoài được dựng nên để che dấu cái sự thật bên trong, hoặc những tín hiệu gửi đi chỉ được đón nhận một cách sai lạc, do thành kiến và ác ý.
Bởi thế, con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Zakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải; Mađalêna dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu.
Ước chi lời cầu nguyện của thánh Augustinô: "Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con" cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết mình để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử các đại lượng với chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Cái xà và cọng rác
“Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. Sao anh thấy cái rác trong măt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình lại không để ý tới?” (Mt. 7, 1-3)
Không có những tiêu chuẩn
Chúa phán: “Đừng xét đoán”. Câu nói vắn gọn và rõ ràng. Câu nói có tính truyền lệnh. Câu nói không dành phần cho một tranh cãi nào hết. Ta không được xét đoán tha nhân về mặt luân lý. Định đọat ai tốt ai xấu không phải là việc của ta. Chuyện đó không liên hệ tới ta.
Lý do để biện minh rất đơn giản. Chúng ta không có được những tiêu chuẩn lẽ rá phải có để xét đoán. Chúng ta chỉ có những tiêu chuẩn yếu kém và ở mức thấp. Chỉ vì khi nói rằng: “Người này xấu. Điều anh đã làm là xấu”, ta chỉ có thể nói được cái bề ngoài mà thôi. Xét cho cùng, ta không biết rõ thật sự. Ta không thể nhìn thấy từ bên trong, nơi nội tâm con người. Ta không thể biết tại sao người ấy làm điều xấu; người ấy có làm điều xấu thật sự hay không, ta cũng chẳng biết được. Trước hết phải khẳng định rằng sự xấu tiềm ẩn trong lòng người. Và tim người ta rung động phập phồng điều gì, ta đâu có biết được. Chỉ mình Thiên Chúa biết được mà thôi. Thế nên chỉ mình Chúa mới có quyền xét đoán. Còn chúng ta thì không.
Trước khi xét đoán
Mặc dầu Chúa bảo ta “Đừng xét đoán”, Chúa biết rõ ta vẫn cứ xét đoán. Ta hay xét đoán người khác. Điều xấu có ở nơi người khác như cái gai đâm thẳng vào mắt ta và kích thích ta. Thế nên Chúa nói thêm: “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.
Ta chẳng mấy tin vào chuyện cái xà ở trong mắt ta và cái rác ở trong mắt người anh em. Mà ta lại tin điều ngược lại. Ta đâu đến nỗi xấu như vậy. Không kể một vài điều ngoại lệ, người khác vốn xấu hơn ta. Đúng là ta thường có suy nghĩ như vậy đó.
Chúa Giêsu nghĩ gì về điều ta suy nghĩ ấy? Người chỉ đơn giản nghĩ rằng cách ta suy nghĩ như vậy là dấu chứng tỏ rõ ràng rằng chính trong mắt ta đang có cái xà đấy.
SUY NIỆM 5: KHÔN NGOAN KHI SỬA LỖI (Mt 7, 1-5)
Ở một đền thờ Hy lạp, ngay lối cổng vào, có khắc câu: “Hãy tự biết mình”. Tại sao lại có câu nói đó? Thưa, bởi vì biết mình là một điều khó, nhưng nếu khó mà không làm được thì làm sao biết được người khác? Không biết mình thì không thể tồn tại theo hướng tích cực, mà nếu có tồn tại thì cũng trở thành trò cười cho thiên hạ, bởi vì nhiều khi: “Ngôn hành bất tất”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho thấy tác hại của việc kiêu ngạo, háo danh nên không biết mình. Vì không biết, nên đâu thấy nơi mình có khuyết điểm, lỗi lầm trầm trọng, vì thế mới thích “lên mặt dạy đời”.
Trong thực tế, có rất nhiều người hăng say, vội vã sửa lỗi cho anh em, dù là lỗi nhỏ, nhưng thực tế, lỗi mình thì lớn hơn rất nhiều mà không thấy hay cố tình che lấp để như một ngụy biện nhằm khẳng định mình là người đạo đức hơn người.
Đức Giêsu không có ý cấm chúng ta sửa lỗi cho anh em, bởi vì sửa lỗi cho anh em bằng việc nêu gương sáng và chân tình thì đây là đức ái. Tuy nhiên, vì hiềm khích thì lại trở thành gương mù và phản tác dụng.
Vì thế, nguyên tắc hữu lý và đạt tình chính là bao dung với tha nhân, và nghiêm khắc với chính mình. Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình. Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, theo Lời Chúa dạy hôm nay, chắc có lẽ chúng con sẽ bị xét đoán thật nhiều vì lối sống thiếu bác ái khi hay xét đoán anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con luôn biết thưa với Chúa: xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để yêu mến Chúa. Biết con để sống khiêm tốn. Chỉ khi nào chúng con biết sống như thế, chúng con mới yêu thương anh chị em cách thật lòng. Amen.
Ngọc Biển SSP
21/06 Tuyên xưng Chúa
- Viết bởi Mt 10, 26-33
Tuyên xưng Chúa.
Chúa Nhật 12 Thường Niên.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Lời Chúa: Mt 10, 26-33
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến.
Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần. "Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN A 2020
Lời Chúa: Gr. 20, 10-13; Rm. 5, 12-15; Mt. 10, 26-33
1. Anh em đừng sợ
Suy Niệm
Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người.
Đứa bé sợ xa mẹ, cô gái sợ già, người già sợ chết.
Nỗi sợ xuất hiện dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Sợ cô đơn, sợ bệnh tật, sợ phụ bạc, sợ tương lai.
Sợ thất nghiệp, sợ nghèo đói, sợ thất học, sợ chia ly...
Có những nỗi sợ mang tính đạo đức:
sợ phải sống theo lương tâm, phải làm chứng cho sự thật,
sợ trước sự ác đang hoành hành, sợ tôn giáo bị mai một...
Có khi người ta sợ nhau:
người da đen sợ người da trắng, nước nghèo sợ nước giàu,
bạn bè, anh em, hàng xóm cũng sợ nhau.
Lắm khi chúng ta sợ Chúa, không như con sợ cha,
nhưng như một nô lệ trước một ông chủ khó tính.
Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người.
Nỗi sợ làm người ta mất vui, mất bình an và tự do.
Bởi thế Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng sợ.
Đừng sợ người đời, cứ mạnh dạn nói Lời Chúa (c.27).
Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác thôi (c.28).
Đừng sợ vì chúng ta có giá trị trước mặt Chúa (c.23).
Lắm khi Đức Giêsu đến với các môn đệ mà họ lại sợ hãi, tưởng là ma (Mt 14,27; Lc 24,37).
Nhưng sợ hãi cũng là chuyện bình thường của phận người.
Có ai làm người mà không một lần sợ hãi.
Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng xao xuyến (Ga 14,1)
nhưng chính Ngài cũng xao xuyến trước cuộc khổ nạn.
Tin Mừng Gioan hai lần nhắc đến điều đó (Ga 12,27; 13,21).
Đức Giêsu xao xuyến đến tột cùng trong Vườn Dầu:
"Tâm hồn Thầy buồn đến chết được" (Mt 26,37-38),
và có lẽ Ngài cũng bị xao xuyến trên thập giá:
"Lạy Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?" (Mt 27,46).
Sợ hãi, xao xuyến không phải là một tội.
Kitô hữu không phải là người không biết sợ,
hay không dám khiêm tốn thú nhận là mình sợ.
Nhưng họ là người không để nỗi sợ chi phối đời mình,
không vì sợ mà không dám sống cho chân lý.
Đức Giêsu nói tiếng Xin Vâng ngay trong lúc sợ hãi
và đã uống cạn chén đắng Cha trao.
Con người hôm nay an toàn nhờ đủ thứ bảo hiểm,
nhưng bảo hiểm cũng bắt nguồn từ nỗi sợ cái bất trắc.
Mỗi người chúng ta đều có nỗi sợ riêng.
Cần đối diện và vượt qua bằng lòng tín thác, để rồi được an tĩnh và tự do.
Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ niềm tin vào Thiên Chúa.
Ngài là Cha chúng ta, chăm lo đến từng sợi tóc cho ta,
và chúng ta có giá trị lớn lao trước mặt Ngài.
Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào đời sau.
Cái chết thân xác không là dấu chấm hết của đời người.
Cuối cùng, chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào Đức Giêsu,
Đấng không bị sợ hãi nuốt chửng và đã đi tới cùng.
Đấng phục sinh vẫn mời gọi chúng ta hôm nay:
"Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16,33).
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn thấy người trẻ hôm nay sợ điều gì hơn cả? Để thắng vượt nỗi sợ cần làm gì? Cầu nguyện thôi, có đủ không? Cố gắng thôi, có đủ không?
Chấp nhận sống ơn gọi Kitô hữu là chấp nhận thiệt thòi ở đời này. Có khi nào bạn đã muốn chọn thiệt thòi để nói lên hay sống một chân lý của Đức Kitô không?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. (R. Tagore)
2. Tuyên xưng Thầy trước thiên hạ - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Bộ sách Thủy Hử Trung Quốc được chuyển thành phim nhiều tập. Các đài truyền hình Việt Nam đã trình chiếu nhiều lần. Tác phẩm bất hủ này đã tuyên dương 117 vị anh hùng hào kiệt Lương Sơn Bạc. Người anh hùng nổi tiếng nhất là Tống Giang, còn gọi là Tống Công Minh, xuất chúng về đạo đức, công minh, phục vụ chính nghĩa, nhưng bị nhiều quan lại tham ô, gian hùng, ghen ghét, hãm hại. Tống Giang võ nghệ cao cường, sức địch muôn người mà vẫn cam chịu cổ đeo gông, tay mang xiềng xích, đi theo lệnh hai tên công sai áp tải, giải đi lưu đầy. Ông đã chứng tỏ tinh thần thượng tôn pháp luật, dù đó là án lệnh bất công của kẻ nịnh thần bất chính của vua mù quáng nhu nhược.
Phải chăng, phải trải qua bao nhiêu cực hình bất công dưới thời nhà Tống, 117 vị anh hùng đã tuyên dương chính nghĩa thương dân, ái quốc và chứng tỏ chính nghĩa luôn luôn thắng gian tà. Kẻ công chính mãi mãi được lòng dân mên phục, dẫu không thành công, nhưng đã thành nhân, quân tử.
Trước Tống Giang gần ngàn năm, ngôn sứ Giêrêmia đã can đảm tuyên dương chính nghĩa cứu nhân độ thế của Thiên Chúa, bất chấp cực hình của bọn gian ác, tham quyền cố vị hãm hại ông. Suốt ngày, Giêrêmia bị coi là thứ trò hề cho họ nhạo báng, xỉ nhục, đến nỗi ông phải kêu lên: Ôi hành hung, ức hiếp… nhưng Thiên Chúa đã ở với ông như tướng quân oai hùng (Gr. 20, 7-8). Nhờ thế ông càng tin tưởng vững mạnh, cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa … Ông tiếp tục công bố sứ điệp của Thiên Chúa vừa bằng lời nói, vừa bằng đời sống.
+ Bằng lời nói: Ông nói những gì ông đã nghe Thiên Chúa phán, ông kêu gọi mọi tầng lớp Vua quan, đảng phái, dân chúng từ bỏ đường lối gây hấn, hận thù, từ bỏ liên minh với Ai Cập, với tà thần, trở về với Thiên Chúa thì mới được Thiên Chúa giải thoát dân tộc khỏi nô lệ diệt vong.
+ Bằng đời sống: Ông sống cô đơn, bị ruồng rẫy, bị bỏ rơi, một hình ảnh Thiên Chúa bị bỏ rơi. Ông tự đeo gông vào cổ, xiềng xích vào tay để cảnh giác họ đang bị gông cùm nô lệ của ngoại bang (Gr. 38, 6). Vì thế ông đã bị kết án bỏ tù xuống giếng, chìm sâu trong bùn lầy (Gr. 27, 2)
Dưới giếng sâu bùn lầy, ông còn loan báo cho dân tộc, nếu không bỏ đường lối lầm lạc đó, họ sẽ bị lưu đầy trong ô uế, nhơ bẩn hơn ông ở dưới giếng sâu. Còn ông, ông nói: “Thiên Chúa đã siêu độ tôi khỏi âm phủ, cứu sống tôi thoát phận những kẻ xuống mồ” (Tv. 30, 4)
Khi Đức Giêsu sai các môn đệ đi công bố những điều Người dạy, Người đã thấy những cực khốn mà những chứng nhân cho chính nghĩa phải chịu như Giêrêmia. Người đã khuyên các ông: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diêt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Đừng sợ vì Cha anh em đã lưu ý đến cả những con chim sẻ chẳng đáng giá gì, cả từng sợi tóc trên đầu anh em, Chúa đã dựng nên, săn sóc, nuôi dưỡng, bảo tồn mọi thứ hèn mọn, nhỏ bé như thế, huống chi đối với anh em, “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, lẽ nào Ngài không săn sóc, bảo vệ, hướng dẫn, lo lắng cho anh em sao?
Đức Giêsu đã đưa ra những chứng cứ cụ thể mà Thiên Chúa đã làm cho muôn loài, muôn vật được sinh sống tốt đẹp, để thúc đẩy các môn đệ và chúng ta tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Có lòng tin mạnh mẽ mới can đảm chiến thắng những đe dọa, những cực khổ tạm bợ ở đời này. Thiếu lòng tự tin vào Thiên Chúa sẽ không thể sống công minh, không thể hy sinh cho chính nghĩa, không thể tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, không dám rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân. Tin mừng của Thầy là sự thật, thế gian sống gian dối, không muốn sống trong sự thật. Tin mừng của Thầy là sự sáng, thế gian sống trong tối tăm, không tiếp nhận ánh sáng vì họ sợ những hành động đen tối bị phơi bày. Tin mừng của Thầy là tình yêu, thế gian sống chia rẽ hận thù, không thể yêu thương kẻ thù. Tin mừng của Thầy là cứu độ, thế gian lại chỉ muốn hãm hại, tranh dành nhau, chém giết nhau để chiếm của cải, danh vọng.
Ai cam đảm theo chính nghĩa, theo Thầy, “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Ai theo bất chính, bất nhân, sợ không dám theo Thầy, “chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Để giáo đoàn Rôma và chúng ta chọn lựa theo Đức Giêsu Kitô hay theo Adam, tuyên bố nhận Đức Kitô hay nhận Adam, Thánh Phaolô đã chỉ cho thấy: Ai theo Adam, tuyên nhận Adam kẻ bất chính, kẻ tội lỗi đã gây nên sự chết đã đem tội lỗi và sự chết xâm nhập vào trần gian, thì sẽ bị sự chết thống trị.
Ai theo Đức Giêsu Kitô, tuyên nhận Đức Kitô, thì nhờ Đức Kitô, được dồi dào ân sủng của Thiên Chúa ban biết mấy.
Mỗi khi được xem những trận bóng đá thế giới (World Cup), chúng ta thấy nhiều cầu thủ nổi tiếng làm dấu Thánh giá khi chạy vào sân banh và sau khi đá được trái banh vào lưới. Họ đã làm dấu Thánh giá để tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mặt thiên hạ. Còn chúng ta, chúng ta có mạnh mẽ tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mỗi việc làm, mỗi cuộc họp, mỗi bữa ăn trước mặt thiên hạ không?
“Lạy Chúa Giêsu, Người đã khuyến khích con đừng sợ khi phải tuyên xưng đức tin. Xin cho con can đảm không bao giờ đỏ mặt xấu hổ khi rao giảng Tin mừng. Xin giúp con vui vẻ chấp nhận những hiểu lầm, những thử thách, những cực khổ hãm hại vì danh Chúa. Amen”.
3. Đừng sợ - Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Đức Yêsu hôm nay dạy các tông đồ đừng sợ gì và đừng sợ ai. Đức Yêsu không chỉ dạy bằng lời, nhưng Ngài đã sống thái độ tự do này, Ngài không sợ gì ngay cả những người quyền thế muốn tiêu diệt Ngài. Đức Yêsu muốn Kitô-hữu có thái độ tự do của con cái Thiên Chúa như Ngài.
1. Trong cuộc sống người ta sợ nhiều điều
Sợ là một giữa những cảm xúc của con người, là một trong “thất tình”: hỉ (vui mừng), nộ (tức giận), ái (yêu thương), ố (ghét), ai (buồn sầu), dục (ham muốn), cụ (sợ).
Có người sợ sâu bọ, rắn rít, chim chuột. Có người sợ khổ, sợ nghèo, sợ vất vả, sợ chết, sợ bệnh tật. Có người sợ dư luận, sợ người ta nghĩ xấu về mình, sợ người ta chê mình dở, sợ bị tiết lộ tật xấu hay tội lỗi của mình. Có người sợ làm phiền người khác, sợ mang ơn người khác, sợ làm khổ người khác. Chưa hết, có người còn sợ bị tình phụ, sợ không còn được thương, không còn được kính trọng nữa. Có người sợ bị hiểu lầm mà mất tiếng tốt. Có những người sợ phạm tội, sợ sa hoả ngục, sợ ma qủy.
Lo sợ, cũng là chuyện “thế gian thường tình”. Tuy nhiên, có những người sợ điều này điều kia tới mức độ mất ăn mất ngủ, mất bình an, tới mức độ như thể bị tê liệt.
2. Chấp nhận sự thật giúp con người thoát sợ
Với những người sợ sâu bọ rắn rít, có thể có một lý do tâm lý nào đó. Nếu đúng như vậy, chuyên viên tâm lý có thể giúp người ta thoát khỏi điều này.
Về những người sợ ma qủy, sợ sa hoả ngục, sợ phạm tội một cách thái quá, một ý kiến cho rằng có lẽ những người này chưa biết và chưa cảm nhận sâu xa Thiên Chúa Tình Yêu. Dĩ nhiên là ma qủy uy lực hơn con người, nhưng Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng, Ngài không để ma qủy làm hại con người. “Nếu Thiên Chúa phò ta, ai còn chống lại được ta?” Một người quá sợ phạm tội và sa hoả ngục, là vì họ chưa hiểu biết và chưa tín thác vào Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng, Ngài tạo dựng con người để con người được chia sẻ hạnh phúc với Ngài. Chỉ khi con người cố tình từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa, họ mới phải sa hoả ngục. Hoả ngục là do họ cố tình chọn. Hoả ngục không là nơi con người lầm lỡ mà Thiên Chúa đẩy con người vào đó không thương xót. Phạm tội, là hành vi tự do của mỗi người. Nếu tôi không muốn, tôi không phạm tội. Nếu do yếu đuối, thì Thiên Chúa yêu thương cũng tha thứ lỗi lầm cho con người. Nếu con người cảm nhận Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng, con người sẽ sống trong an bình.
Có những người sợ nghèo khổ, sợ bệnh tật, sợ chết, sợ bị người ta hiểu lầm hoặc nghĩ xấu cho mình, sợ phải mang ơn người khác, sợ mất người yêu. Họ như vậy, có lẽ vì họ ích kỷ, họ nghĩ đến họ quá nhiều. Họ không dám sống cho tha nhân, ngay cả khi tha nhân là những người thân yêu của họ. “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống vì Đức Kitô, thì sẽ được lại sự sống”. Đây có thể là những người làm cha làm mẹ không sẵn sàng hy sinh cho con cái, nhưng lại bắt con cái hầu hạ mình; đây cũng có thể là những người chồng người vợ không biết sống vì người yêu mà bắt người kia phục vụ mình; đây cũng có thể là những người con “một mẹ nuôi được năm con, nhưng năm con không nuôi được một mẹ”.
“Không có gì kín mà không bị lộ”. Với những người lo sợ lỗi lầm của họ bị đưa ra ánh sáng, họ nên ý thức rằng dù che đậy đến thế nào, vào ngày phán xét, tất cả những gì con người làm cũng sẽ được phơi bày. “Ai trong các ngươi vô tội, hãy cầm đá mà ném chị này trước đi”. Nếu ai cảm thấy mình có tội, họ nên biết rằng, lòng thống hối thật, hàm chứa thái độ chấp nhận sự thật về chính mình, sẵn sàng chấp nhận việc đền tội “bị công khai hoá”, sẽ giúp người đó tìm được bình an. Không dám chấp nhận sự thật về con người của mình, sẽ làm người đó mất bình an, và đôi khi còn thúc đẩy người đó tội phạm lớn hơn. Thí dụ, vua David ngày xưa muốn phủ lấp tội lấy vợ của bầy tôi, và khi không thành công trong việc che đậy tội này bằng việc dụ Uria về nhà thăm vợ, David liền tìm cách giết Uria qua tay của quân thù. Chấp nhận sự thật về chính mình, là thái độ rất quan trọng để sống trong tình nghĩa với Chúa, để sống bình an và hạnh phúc với tha nhân. Trong mọi trường hợp, con người cần cảm nhận Thiên Chúa là tình yêu. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm của con người, và giúp con người sống bình an hạnh phúc trong tình yêu của Ngài.
3. Phó thác đời mình cho Thiên Chúa Tình Yêu
Tiên tri Yêrêmia được trao sứ mạng nói cho dân Chúa biết những gì sắp xảy tới, để họ thống hối và trở về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên điều tiên tri loan báo không phải là điều dân chúng thích nghe, vì đó là những tai họa sắp xảy tới. Tiên tri cũng lo sợ vì khi loan báo như vậy, tiên tri bị dân chúng ghét và có thể bị giết. Đã có lúc tiên tri bỏ cuộc vì sợ, nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành mời gọi, và cuối cùng tiên tri đã phó thác tất cả đời ngài trong tay Thiên Chúa. Yêrêmia trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng, trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân. Khi một người phó thác tất cả mạng sống và tương lai mình trong tay Thiên Chúa tình yêu và toàn năng, họ được tự do và bình an. Sự tự do và bình an này không ai có thể lấy mất được.
Để thi hành sứ mạng Đức Yêsu trao phó, các tông đồ cũng phải tin tưởng và phó thác tương lai đời mình cho Thiên Chúa. Quên mình, bỏ mình, để sống cho Thiên Chúa và tha nhân, sẽ làm con người vượt thắng được mọi sợ hãi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có sợ điều gì hoặc ai không? Nếu được xin chia sẻ.
2. Sâu xa trong lòng bạn, tại sao bạn sợ điều đó hoặc người đó?
3. Làm sao để hết sợ? Làm sao để an bình và hạnh phúc? Đức Yêsu giúp gì cho bạn?
4. Niềm tin vào Thiên Chúa giúp gì cho bạn?
4. Đừng sợ hãi
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một mục sư nọ có kể câu chuyện sau: hai người bộ đội chạy vào một giáo đường để trốn các cuộc truy lùng. Khi bước vào giáo đường, họ đe doạ: “Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn ngay tại chỗ, ai bỏ đạo đứng sang bên phải”. Có một số người đứng sang bên phải và được thả về nhà ngay. Những người còn lại vẫn hiên ngang chờ đợi cái chết. Khi những kẻ nhát đảm ra khỏi nhà thờ, hai người lính mới hạ súng xuống và ôn tồn nói: “Chúng tôi cùng là Kitô hữu, sở dĩ chúng tôi làm như thế là vì chúng tôi muốn biết ai là người thật sự sẵn sàng chết cho đức tin của mình. Vì chỉ có những người đó mới đáng tin cậy”.
Anh chị em thân mến,
Sống đức tin có nghĩa là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Đó là đức tin được minh chứng bằng cuộc sống can đảm, không sợ tuyên xưng trước mặt người đời, như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Anh em đừng sợ người ta… Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn… Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Tin Mừng hôm nay là một phần của diễn từ về sứ vụ truyền giáo, trong đó Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ về những bách hại đang chờ đợi. Chắc chắn các ông không tránh khỏi lo âu xao xuyến. Hiểu rõ tâm trạng của các ông, Chúa Giêsu đã đưa ra những hình ảnh để các ông so sánh: hình ảnh về người Thầy, Thầy đã bị ngược đãi, thì môn đệ cũng không tránh khỏi. Bị ngược đãi sẽ làm cho môn đệ khiếp sợ, nhưng cũng khiến họ vui mừng, vì là dấu cho thấy họ được nên giống Thầy, đang bước đi trên con đường của Thầy. Cũng vì thế, chẳng có gì khiến họ không dám rao giảng công khai: “điều nghe trong bóng tối, hãy nói ra nơi ánh sáng; điều nghe rỉ tai, hãy rao trên mái nhà”. Các môn đệ không phải sợ hãi, vì công việc họ làm đang được Đấng có quyền trên cả xác lẫn hồn quan tâm. Ngài còn để ý tới chim sẻ ngoài đồng, đến sợi tóc trên đầu, huống nữa là con người đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài.
Thưa anh chị em,
Hình ảnh được trưng dẫn cho các môn đệ cũng là hình ảnh Chúa Giêsu muốn gởi đến cho các kẻ tin theo Ngài ngày hôm nay. Ba lần Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Đừng sợ!”Ngài không nói đến cái sợ chung chung. Ngài nói về một loại sợ đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy khi được mời gọi nói hay làm điều gì tỏ ra mình là người tin theo Chúa Kitô. Chúng ta thường do dự nói những lời giống như Chúa Kitô, làm như Chúa Kitô, vì chúng ta sợ người khác chê cười, châm chọc, sợ bị gọi là người lên mặt đạo đức, sợ mất bạn bè, mất ghế ngồi, mất nồi cơm, thậm chí bị trù dập, bị ngược đãi. Nhìn vào hiện tình Giáo Hội, có lẽ nhiều người muốn thúc thủ an phận: bảo vệ ngọn đèn đức tin của bản thân còn khó khan, huống chi là nói đến chiếu giãi đức tin cho kẻ khác.
Sử gia Tertullianô đã viết: “Những người tin theo Chúa Kitô được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa Kitô. Lời Chúa nói: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Thầy”đã thấm nhập vào tâm hồn các Kitô hữu, nên mỗi khi phải đau khổ cũng như bị bách hãi, cấm cách, lời nói đó lại văng vẳng bên tai như chính Chúa Kitô hiện diện nói với họ. Vì thế, trên pháp trường, họ coi gươm giáo nhẹ như lông hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa, Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường, nếu họ chối bỏ Chúa. Họ đã hưởng ứng Lời Chúa: “Anh em đừng sợ kẻ chỉ giết chết thân xác, nhưng phải sợ Đấng có quyền giết chết cả xác lẫn hồn”.
Cái phi lý của con người ngày nay là chỉ sợ loài người mà không sợ Thiên Chúa. Người có đức tin vững mạnh có thể chấp nhận hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chấp nhận làm điều xấu, trái ngược lương tâm, hay phạm tội ác. Họ không sợ một thân xác tàn phế, họ chỉ sợ một lương tâm hoen ố, nhơ bản. Họ không sợ loài người trả thù, họ chỉ sợ Thiên Chúa trừng phạt. Ngày nay, tuy chúng ta không có dịp hy sinh mạng sống để chứng mình lòng tin như các Thánh Tử Đạo ngày xưa. Nhưng chúng ta có hàng trăm dịp để chúng ta liều mạng, bảo vệ lòng liêm khiết, thực thi công bằng và tình bác ái yêu thương.
Ngày nay, nhiều người Kitô hữu còn bị cám dỗ chối bỏ Chúa một cách tế nhị hơn: Phải chăng là một cách chối bỏ Chúa khi im lặng sống trong một xã hội đầy bất công, tham nhũng, hưởng thụ; một xã hội muốn loại bỏ tôn giáo ra ngoài hay lợi dụng tôn giáo để bênh vực một ý thức hệ phản lại Tin Mừng? Im lặng trong những trường hợp ấy là đồng loã. Hãy can đảm hành động. Vì mệnh lệnh của Chúa Giêsu không hạn chế trong bất cứ hoàn cảnh nào và lời hứa của Ngài cũng không gì làm thay đổi. Có mạnh dạn tuyên xưng Chúa trước mặt người đời, thì mới được Ngài tuyên xưng trước mặt Cha Ngài, Đấng ngự trên trời. Bách hại làm cho những kẻ theo Chúa Giêsu phải đau kho, nhưng đó lại là những cắt tỉa cần thiết để trổ sinh nhiều hoa trái.
Anh chị em thân mến, nếu có những lúc chúng ta lo sợ không muốn đón nhận sứ mạng Chúa trao, xin cho chúng ta biết rằng có thể chúng ta trốn chạy được lúc này, nhưng không thể trốn chạy luôn mãi. Đến lúc diện kiến Chúa, chúng ta sẽ trả lời thế nào về những lần đã chối bỏ Chúa trước mặt người đời? Xin cho chúng ta nhận ra dấu chỉ quan tâm của Chúa để vững mạnh tuyên xưng Danh Thánh Ngài.
Giờ đây, chúng ta sắp được hiệp thông với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể. Ngài là sự sống của chúng ta. Chúng ta không có gì phải sợ hãi những khó khăn và các vấn đề của cuộc sống hằng ngày. Chúa Kitô mạnh thế hơn, Ngài không bao giờ chối bỏ những kẻ nhận Ngài trước mặt người đời. Ngài cũng sẽ nhận chúng ta trước mặt Cha Ngài, Đấng ngự trên trời.
5. Đừng sợ
Có một y sĩ đã phát biểu rằng:”Lo sợ là một điều rất tai hại và phá hoại nhiều hơn cả”. Trong quan điểm của vị y sĩ này thì lo sợ là kẻ giết người. Bởi vì sợ hãi giết chết niềm tin, niềm hy vọng và sự lạc quan làm cho con người tê liệt và tự hủy hoại chính mình.
Các nhà tâm lý học đã nói nhiều về sự lo sợ, nhưng không ai tìm ra nguồn gốc của nó. Về điều này kinh thánh cho chúng ta biết: Khi Adong, con người đầu tiên lỗi lệnh truyền của Chúa, ông đã lo sợ và đi ẩn mình. Kể từ đó sự lo sợ cứ ám ảnh mãi trong dòng giống loài người. Nhưng thật vui mừng cho nhân loại là Adong thứ hai đã xuất hiện, đó là Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế. Thánh Phaolô đã viết:”Chúa Giêsu là Adong thứ hai, nghĩa là một khởi đầu mới. Nhân loại lầm lạc vì Adong thứ nhất. Nhưng Chúa Giêsu đến để cứu chuộc và lập lại một dòng giống mới. Và Chúa Giêsu không ngừng mời gọi mọi người “Đừng sợ”. Chẳng hạn như bài Tin mừng hôm nay, có tới ba lần Chúa nói đừng sợ.
Phản ứng tự nhiên của con người trước khó khăn, bách hại, là lo sợ. Chúa Giêsu khuyên các tông đồ can đảm làm chứng cho Ngài, và Ngài khuyên họ đừng sợ. Đừng sợ những kẻ vu oan, vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, trung thành với sự thật đôi khi cũng khiến chúng ta phải trả giá, có khi bằng chính mạng sống của mình, Chúa Giêsu cũng nhắc chúng ta đừng sợ những kẻ chỉ có thể làm hại thân xác, mà không thể giết được linh hồn. Thân xác có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn sẽ không hề hấn gì, nếu chúng ta vững tin vào Chúa. Lần thứ ba Chúa nhắc chúng ta đừng sợ là vì chúng ta quí trọng hơn nhiều, nếu Thiên Chúa đã chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng, thì huống hồ là con người. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, chúng ta sẽ dấn thân nhiều hơn để làm chứng cho Chúa.
Nếu chúng ta hỏi bất cứ ai: họ sợ gì? Hết thảy đều sẽ trả lời giống nhau: sợ bệnh tật, sợ mất tài sản hoặc việc làm, sợ sống một mình, sợ mất tiếng tốt, sợ gặp tai nạn, sợ bị xa cách người thân, sợ chết… Những mối lo sợ đó là chính đáng, bởi vì chúng ta có thể làm chúng ta bị tổn thương, hoặc cướp mất của chúng ta những gì chúng ta sở hữu, hoặc làm cho chúng ta nên yếu kém, tàn tật, hoặc làm chúng ta không còn sống ở trần gian nữa…
Nhưng có nhiều điều đáng lẽ phải làm cho người ta sợ, nhưng người ta lại không để ý hay không sợ, chẳng hạn chúng ta hỏi người ta: có sợ không mến Chúa yêu người đủ không? Có sợ không chia sẻ tài sản của mình đủ không? Có sợ đã không coi Tin mừng là quan trọng đủ, đã không cầu nguyện đủ, đã không nói đủ về Chúa Giêsu không?... Có lẽ những người được chúng ta hỏi như thế sẽ tỏ ra rất ngỡ ngàng. Thường những cái sợ như vậy không hề xảy ra trong tâm trí họ.
Chúng ta thường sợ những điều không đáng sợ và không sợ đủ những gì đáng lẽ thực sự phải làm cho chúng ta sợ. Làm cho chúng ta sợ! Nói như thế hẳn là không đúng, vì Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống trong sợ hãi, nhưng sống trong sự tin tưởng sâu xa vào tình thương của Ngài.
Có người đã cố công tìm những chi tiết trong Kinh thánh và đã đếm được 365 tiếng “đừng sợ” trong toàn bộ Kinh thánh. Như thế là mỗi ngày trong một năm chúng ta đều được kêu gọi và nhắc nhở đừng sợ. Sống ở đời có lẽ ai trong chúng ta cũng đã có nhiều lần trải qua một nỗi lo sợ nào đó hay kinh qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống. Bởi vì cuộc đời này luôn có những cam go, gian truân, thử thách, nguy hiểm, đau thương… Đứng trước những hoàn cảnh như thế, ai cũng lo lắng, sợ hãi. Lắm khi chúng ta giống như những con chim non, ngỡ ngàng sợ hãi trước bổn phận làm người, trước ơn gọi làm Kitô hữu. Nhưng Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta đừng sợ. Chúng ta không sợ vì chúng ta tin rằng bên cạnh chúng ta luôn có Đấng phù trợ che chở. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương luôn quan tâm săn sóc chúng ta. Với niềm tin đó sẽ giúp chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống và bình tĩnh để đối phó với những khó khăn thử thách. Nếu niềm tin không đem lại cho chúng ta sự an bình, thanh thản thì đó là dấu chỉ cho thấy niềm tin của chúng ta chưa mạnh mẽ đủ, chúng ta phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.
6. Đừng Sợ - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trên đời con người có nhiều thứ bủa vây, một trong những thứ đó là cái “sợ”. Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới. Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui… Nỗi sợ có vẻ gắn liền với sự mong manh của phận người. Người ta sợ nhiều thứ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết… Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và dù muốn dù không con người vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấu hiều điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu khuyên: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn... Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10, 28-31).
Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo Hội. Hai mươi thế kỷ sau, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã không ngừng kêu gọi toàn thể Hội Thánh và mọi người trên thế giới “Đừng sợ”:
“Anh chị em đừng sợ đón lấy Chúa Kitô và nhận lấy quyền năng của Người!”.
“Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.
“Đừng sợ! Chúa Kitô biết rõ “mọi điều trong lòng người”! Và chỉ một mình Người biết rõ” (Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).
Thái độ “không sợ” được Thánh Giáo hoàng Đức Gioan Phaolô II nói đến vượt trên ý nghĩa thông thường là sự bất khuất, không nao núng trước bạo lực, bạo quyền. Không sợ là thái độ vượt thắng sự thủ thế, co về mình, không dám mở ra đón lấy sự cao cả, siêu việt, linh thánh của Tin Mừng Cứu độ và cũng không đủ nghị lực và sự kiên trì đưa Tin Mừng trở thành hiện thực nơi trần gian, xây dựng Nước Chúa ngay trong thực tại trần thế.
Từ “Đừng sợ” lại vang lên trong bài giảng thứ hai trên cương vị giáo hoàng, khi cử hành việc tiếp nhận ngai tòa giám mục giáo phận Rôma, ngày Chúa nhật 12-11-1978, tại nhà thờ Chánh tòa Gioan Latêranô, Đức Gioan Phaolô nói rõ thêm về lời kêu gọi “Đừng sợ”.
Đừng sợ đón lấy và thực thi lối sống Tin Mừng. Đó là sống yêu thương, không hận thù, như chính Đức Kitô yêu thương và đã tha thứ cho kẻ bách hại mình: “Tình yêu thì kiến tạo. Chỉ có tình yêu mới có thể kiến tạo được. Còn thù hận thì phá hủy. Lòng hận thù không kiến tạo được gì hết. Nó chỉ gây đổ vỡ. Nó làm tan nát đời sống xã hội. Nó chỉ có thể gây sức ép đối với những người yếu đuối và chẳng xây dựng nổi một điều gì” (Gioan Phaolô II – Bài giảng lễ nhận nhà thờ Chánh tòa Gioan Latêranô của Giám mục Rôma)
Đừng sợ sống yêu thương trong thế giới còn đầy tràn lòng thù hận. Đó là tín thư của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Một tín thư xụất phát từ sứ điệp Tin Mừng Cứu độ của Đức Kitô. Sứ điệp của niềm Hy vọng:“Hãy làm cho những Lời hằng sống của Đức Kitô đến được với mọi người để họ nghe được Lời của Chúa, sứ điệp của niềm Hy vọng” (Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).
Tiếp nối đường hướng của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi, Đức Bênêđictô XVI đã thắp lên lời hy vọng: “Hãy tiến lên phía trước, vì có Chúa ở cùng”. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”. Và trong Sứ điệp nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVII, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết: “Các bạn trẻ thân mến, đừng sợ phải liều mạng mình cho Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Đó là phương cách tìm được bình an nội tâm và hạnh phúc đích thực”.
Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13-3-2013, Ngài đã là cho nhiều lần dùng kiểu nói “đừng sợ”.
“Thật vậy, sống ở đời làm sao tránh khỏi những căng thẳng, lo âu, sợ hãi khi gặp khó khăn, nguy hiểm. Chính Chúa Giêsu cũng có những lúc bàng hoàng xao xuyến. Khi bảo “anh em đừng sợ” Chúa Giêsu muốn ta đừng để cảm xúc sợ hãi làm tê liệt đời sống chúng ta. Người bảo chúng ta: đừng sợ”. “Đừng sợ” ngay trong mọi biến động, “đừng sợ”, vì “Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ” (Gr 20,13). “Đừng sợ”, khi phải đối diện với đau khổ hay sự chết bởi vì Thiên Chúa, Đấng yêu thương quan tâm chăm sóc chúng ta, vì Ngài là Cha nhân từ, trung tín, thấu hiểu chúng ta cần gì, vì đối với Ngài, chúng ta “quý hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10,31). Ta hãy sống như con thơ phó thác cách đơn sơ trọn vẹn cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, trong mọi công việc.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm sống thật, hành động thật và tin tưởng phó thác nơi Chúa. Đừng sợ những khó khăn thử thách trong đời sống đạo. Đón nhận con đường khổ giá như là điều kiện cần cho phần rỗi của mình. Luôn nhớ rằng khi chúng ta tin và sống đạo, hẳn chúng ta không thể thoát khỏi sự hiểu lầm, chống đối và đôi khi cả cái chết nữa. Tuy nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa của đau khổ và ngang qua đó, chúng ta sẽ thấy cùng đích của cuộc đời nằm ở nơi Thiên Chúa chứ không phải những thứ mau qua, chóng hết ở đời này.
Lạy Chúa, nỗi sợ làm cho con chùn bước, rụt rè trong đời sống đức tin của con, xin cho con thêm sức mạnh để con không còn sợ hãi Chúa ơi. Amen.
7. Sự hăm dọa gây ra sợ hãi - Charles E. Miller, C.M.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Sợ hãi có thể làm tê liệt chúng ta. Nó có thể làm cho chúng ta cứng đờ và trở nên bất động. Nó có thể ngăn cản cả việc suy nghĩ lẫn hành động theo niềm tin Công Giáo của chúng ta. Một hình thức thiệt hại nghiêm trọng của sợ hãi đến từ hăm dọa. Đo là một loại sợ hãi mà nó liên quan đến Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi Chúa Giêsu nói: “Đừng để cho người ta hăm dọa ngươi”, có lẽ Người đang nghĩ đến vị tiên tri cao cả là Giêrêmia. Con người của Thiên Chúa này bất chấp sự đe dọa bằng cách tấn công những âm mưu làm hại mạng sống của ông, vì thế ông không sợ phát ngôn nhân danh Thiên Chúa.
Giêrêmia tố cáo tội lỗi của dân tộc ông, cho biết họ đã chống lại Chúa đang ở trên họ. Ông nhấn mạnh rằng tội chống đối nhau giữa họ cũng là chống đối lại Thiên Chúa. Ông kết án việc trông cậy vào sức mạnh quân đội hơn là vào sức mạnh Thiên Chúa và ông tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị phá huy (điều này đã xảy ra vào năm 578 B.C).
Giêrêmia đã bị kẻ thù cưỡng bách đi lưu đày ở Ai Cập. Theo truyền thống, ông đã bị giết chết bởi chính những người đồng hương của mình. Những kẻ xấu thì không còn nhớ Giao Ước với Thiên Chúa nữa, nhưng Giêrêmia vẫn nhớ. Ông sống không phải chỉ trong những trang Thánh Kinh nhưng với Chúa Giêsu ở trên thiên đàng, Đấng Mêsia mà ông chưa hề biết khi ở trần gian này nhưng ông đã trung thành với Đấng ấy mặc dù không biết điều ấy.
Những người khác đến sau Giêrêmia đang hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu cũng đã đạt đến chiều cao lớn lao của hành động anh hùng là sinh lại trong niềm tin sâu xa. Chỉ trong một thế kỷ XX này ma thôi cũng có rất nhiều mẫu gương như thế. Tổng giám mục Oscar Romero ở E Salvador là một vị tử đạo vì sự công bình xã hội. Ngài đã bị những kẻ vô lương giết chết khi thấy sự bảo vệ người nghèo của vị Tổng giám mục là một đe dọa cho những tham vọng của họ. Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, thánh Maximilian Kolbe, một linh mục Balan bất chấp sự đe dọa của những người lính phát xít đã hiến mạng sống mình để đổi mạng cho một người bạn tù, là người chồng và là cha của nhiều đứa con, và người sĩ quan chỉ huy của trại tập trung đã cho thi hành án.
Một cô gái trẻ ở Ý đã bất chấp sự đe dọa của một người đàn ông, khi ông đe dọa sẽ giết cô ta nếu cô từ chối quan hệ tình dục với ông ta. Và ông đã giết cô vì cô đã chống cự mãnh liệt, hôm đó là ngày 6 tháng 6 năm 1902. Maria Goretti đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong thánh vào năm 1950. Mẹ của cô và Alexander Sereneli, người đàn ông đã giết thánh nhân, cùng hiện diện trong cuộc lễ tuyên phong hiển thánh này.
Những người dâng hiến và vô số những người nam và người nữ giống như họ đã có mặt suốt chiều dài của lịch sử, đã tin vào lơi của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta cũng sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời cũng như vậy”.
Ngày hôm nay chúng ta đang bị đe dọa bởi những phong trào trong xã hội chúng ta. Chọn trước những người ủng hộ sẽ làm cho chúng ta cảm thấy rằng chúng ta xâm phạm quyền bình đẳng của người phụ nữ khi chúng ta nhấn mạnh phá thai là một tội ác không thể nào chịu nổi. Chủ nghĩa cá nhân đang ăn mòn và là sưc mạnh chống lại sự quan tâm đến những người nghèo khổ, những người không nhà và những người đói khát. Chủ nghĩa bài ngoại và tham lam sẽ trút cơn giận dữ của họ lên những người nhập cư, chính vì những điều đó mà Giáo Hội luôn bênh vực cho những quyền lợi của con người.
Chúa Giêsu nói với chúng ta khi chúng ta họp nhau lại để thờ lạy Người: Thầy thấy các con đang hiện diện nơi đây trong nhà thờ này như là dân Thiên Chúa. Thầy sẽ tiep tục tuyên xưng các con trước mặt Cha Thầy trên trời bao lâu các con còn tiếp tục theo sát giáo huấn của Thầy, chứ không theo những người chống đối Phúc Âm. Cũng đừng để họ đe dọa các con.
8. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Đức Giêsu đã nhiều lần báo trước về cuộc khổ nạn của Ngài với các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Lc 9,22).
Ngài cũng báo cho các môn đệ và những người đi theo Ngài biết rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9,23); “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,23-24); “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16)… Nhìn lại lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy những lời loan báo của Đức Giêsu đã hoàn toàn ứng nghiệm. Chính Đức Giêsu đã bị bắt, chịu khổ hình, chịu đóng đinh và chịu chết trên thập giá. Các Tông đồ cũng đồng số phận với Đức Giêsu, đã chịu chết tử vì đạo (trừ Thánh Gioan). Giáo hội sơ khai bị bách hại liên tục 300 năm. Giáo hội Việt Nam cũng vậy. Và hằng ngày đây đó trên thế giới người kitô hữu vẫn bị bách hại. Tại Ba Lan, Giáo hội vừa phong thánh cho linh mục Jerzy Popiełuszko, người bị mật vụ cộng sản giết năm 1984. Gần đây, Đức Giám Mục Jean Marie Benoît Bala, giám mục Bafia, Camerun bị sát hại một cách dã man trước khi xác Ngài bị quăng xuống sông. Lý do các Ngài chịu đau khổ, chịu chết là vì các Ngài rao giảng chân lý, rao giảng Tin mừng.
Bài đọc I hôm nay, trích sách tiên tri Giê-rê-mi-a, cũng cho chúng ta biết: Vì rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa cho dân và vì thẳn thắng cảnh cáo dân về tội lỗi của họ sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt, mà tiên tri Giê-rê-mi-a đã bị dân chúng hãm hại. Nhưng Thiên Chúa luôn ở bên cạnh ông “như người lính chiến hùng dũng” (x. Gr 20,11). Nhờ thế, ông tin tưởng cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa. Đặc biệt, ông can đảm tiếp tục sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho ông.
Cũng thế, sỡ dĩ các Tông đồ và các thành phần trong giáo hội qua mọi thời đại vẫn can đảm chấp nhận đau khổ, tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng chính là nhờ vào sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, đi liền với những lời loan báo đau khổ, Đức Giêsu cũng thường trấn an các môn đệ bằng những lời lẽ hết sức thuyết phục như: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Chúa Cha nói trong anh em” (Mt 10,19-20); “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12); “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10,22); “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Đặc biệt bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ “đừng sợ” những người bách hại các con.
Tại sao Đức Giêsu bảo các môn đệ đừng sợ?
Lý do thứ nhất Ngài bảo đừng sợ: “Vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”(Mt 10,26-27). Ý Đức Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng: dù bị bách hại, giết chết thì cuối cùng sự thật cũng sẽ thắng “sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32). Biết bao nhiêu Kitô hữu đã bị giết chết vì Chúa, vì Tin mừng, vì sự thật…nhưng cuối cùng cũng được lịch sử ghi nhận, Giáo hội suy tôn. Vì thế, chúng ta đừng sợ khi phải dấn thân rao giảng Tin mừng, đừng sợ khi phải tranh đấu, đừng sợ khi phải lên tiếng đòi công lý cho người bị áp bực, lên án sự bất công.
Lý do thứ hai Ngài bảo đừng sợ: “Vì họ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn”(Mt 10,28). Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy, lời khẳng định này của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực. Bởi vì biết bao nhiêu thời kỳ bách hại đạo đã qua, biết bao nhiêu chế độ bách hại đạo không còn, biết bao nhiêu người giết các kitô hữu đã chết. Thế mà Giáo hội vẫn tồn tại và phát triển. Giáo phụ Tertuliên nói rằng: “Máu của các vị tử đạo là hạt giống sinh ra nhiều kitô hữu.” Và đa số những người bị giết chết trong các cuộc bách hại đó đã được Giáo hội tôn vinh. Con số các vị tử đạo trong Giáo hội, trong đó Việt Nam chúng ta có 118 vị cho chúng ta thấy điều đó.
Lý do thứ ba Ngài bảo đừng sợ: Vì “các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”(Mt 10,31). Ý Đức Giêsu muốn các môn đệ và mỗi người chúng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đưa ra ví dụ về con chim sẻ và sợi tóc trên đầu, mặc dầu không đáng giá gì nhưng vẫn được Thiên Chúa quan phòng chăm sóc giữ gìn: “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 29-31).
Không những Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta “đừng sợ” mà chính Giáo hội cũng luôn mời gọi chúng ta “đừng sợ” trước những bách hại, bắt bớ của những người ghét đạo, trước những bất công của xã hội, trước những bạo lực của cường quyền. Giáo hội còn mời gọi chúng ta hãy can đảm đi ngược lại với các trào lưu, các tệ nạn của xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi giới trẻ rằng: “Các con đừng sợ đi ngược dòng đời, khi mà các giá trị bày ra cho chúng ta là những giá trị xấu muốn cướp đi hy vọng của chúng ta.” Đi ngược dòng đời, tức là khước từ các nhu cầu ích kỷ, gọt bỏ các thói hư tật xấu…làm được như thế cũng đồng nghĩa với sống đạo hằng ngày, mà “sống đạo cũng cam go không khác gì chết vì đạo.”
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta không sợ bất cứ ai hay bất cứ điều gì. Trong cuộc sống có những cái sợ đến từ bản tính tự nhiên như sợ đói, sợ khát, sợ bệnh tật, sợ tai nạn, sợ chết, sợ ma…Những cái sợ này có thể không bao giờ đến. Còn trong đời sống đức tin, có một điều đáng sợ nhất đó là sợ phải sa hỏa ngục. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng: “Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục”(x. Mt 10,28). Thật vậy, không sợ Chúa khi chúng ta biết tuyên xưng Ngài: “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Đó là những khi chúng ta xưng mình là kitô hữu trước mặt mọi người bằng cả lời nói và cách sống. Đó là khi chúng ta sống đúng với giáo huấn của Tin mừng. Đó là khi chúng ta thà chết chứ không phạm tội, thà chết chứ không chối Chúa, không bước qua thập giá. Đó là khi người đời nhận ra chúng ta là người của Chúa của Giáo hội.
Còn chúng ta sợ Chúa khi cố tình từ chối Chúa trước mặt người đời: “Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33). Đó là khi chúng ta chối từ bản chất kitô hữu của mình như: không dám làm dấu thánh giá vì sợ người khác đạo, không sống đúng với giáo huấn của Tin mừng. Đó là khi chúng ta từ chối làm chứng cho Chúa cho Giáo hội…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa để trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng con vẫn không sợ, nhưng can đảm tuyên xưng và làm chứng cho Chúa. Amen.
9. Can đảm lên đường loan báo Tin Mừng - Huệ Minh
Sợ hãi là một trong những thất tình của con người. Có lẽ trong đời người, không ai mà không phải sợ hãi trước một điều gì. Vì vậy, để vượt lên trên nỗi sợ hãi luôn là một khát vọng của ý chí con người. Thế nhưng, trong thực tế ta thấy nếu bảo rằng rèn luyện ý chí đến độ không còn biết sợ bất cứ điều gì thì lại là hành vi thái quá, có khi dẫn đến thái độ ngang tàng, kiêu ngạo. Vậy, vấn đề là người ta phải biết sợ điều gì và không nên sợ điều gì.
Trang Tin Mừng hôm nay ở trong bối cảnh sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu.
Sau khi tuyển chọn các môn đệ, Chúa sai họ đi với định hướng duy nhất là loan báo Nước Trời đã đến gần trong thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chúa cũng tiên báo cho họ về những cuộc bách hại họ sẽ phải trải qua như bị nộp, bị thù ghét vì danh Chúa và họ sẽ đồng số phận bị loại bỏ như Chúa. Chúa biết điều đó làm cho các ông rất sợ hãi nên Chúa đã trấn an và khuyến khích: “Đừng sợ!” vì Chúa luôn hiện diện bên họ. Chúa trấn an họ: một khi đã đặt niềm tin vào Chúa, họ sẽ được yêu thương chăm sóc vì mạng sống con người còn quí hơn chim trời và hoa cỏ đồng nội.
“Đừng sợ!”, là lời Thiên Chúa đã nói hơn 365 lần trong Thánh Kinh để trấn an dân Chúa trong lịch sử cứu độ; và cũng là lời Chúa Giêsu liên tục củng cố niềm tin cho các môn đệ của Người. Vì thế, là những Kitô hữu trong ơn gọi bước theo sứ mạng của Chúa Giêsu giữa lòng thế giới đầy tràn những biến động hiện nay, chúng ta hãy tin rằng: Chúa Giêsu cũng đang nói với mỗi người chúng ta: Đừng sợ! “Lòng anh em đường xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14,1). Đây là một lời trấn an rất cần thiết và có sức nâng đỡ tuyệt vời nhất cho thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu tỏ lộ cho các môn đệ thấy những khốn khó các ông sẽ phải chịu, khi kiên vững tin vào giáo huấn của Người và thực thi sứ mệnh Người trao cho. Tuy nhiên Người cũng khích lệ các ông: “anh em đừng sợ …”; Người biết rõ những điều Người rao giảng và truyền cho các ông loan báo cho mọi người là Chân lý Cứu Độ mà Chúa Cha muốn con người đón nhận để được giải thoát; do đó, Đức Giêsu cũng muốn các ông phải mạnh dạn loan báo cho dân chúng nơi các thành thị, thôn làng được biết và các ông phải can đảm đương đầu với những gian truân và bách hại do những kẻ chống đối Tin Mừng gây ra, vì đó là diễm phúc của những người đặt trọn niềm tin vào Người, và nhờ đó các ông chứng thực đức tin và lòng yêu mến Thiên Chúa của mình.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến điểm yếu kém nhất nơi con người đó là sự sợ hãi: Sợ hãi trước quyền lực thế gian, ma quỷ và đam mê, hưởng thụ vật chất; sợ bị gian khổ, bị người đời chê cười, có người sẵn sàng đánh đổi lương tâm, đánh đổi sự công chính để chiều theo những điều độc ác, gian tà. Còn với các môn đệ, cũng có thể vì không vượt thắng được nỗi sợ hãi nên chần chừ, hoặc không dám thể hiện niềm tin của mình.
Chúa Giêsu một lần nữa nhấn mạnh đến đối tượng của đức tin nơi người môn đệ là: “Thiên Chúa”, Đấng luôn quan tâm bảo vệ, gìn giữ những kẻ Ngài yêu thương và trao ban hạnh phúc cho họ. Thiên Chúa quan phòng yêu thương những kẻ thuộc về Ngài vì Ngài nhân từ, độ lượng và hay thương xót; Ngài đòi hỏi những ai yêu mến Ngài phải hết lòng tin tưởng, cậy trông nơi quyền năng và tình thương của Ngài. Đồng thời Ngài mời gọi phải can đảm, mạnh mẽ tuyên xưng Con chí ái của Ngài là Đức Giêsu Kitô, dung mạo của lòng thương xót và thứ tha Ngài đã dành cho nhân loại.
Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Như vậy hạnh phúc Nước Trời hoàn toàn lệ thuộc vào lòng yêu mến “Con Thiên Chúa làm người” và những ai can đảm sống và thực thi giáo huấn của Người.
Hẳn mọi người con nhớ khi đăng quang trong ngôi vị giáo hoàng, cả hai Đức Thánh Cha: Gioan Phaolô II và Bênêđitô XVI đều nhận lãnh sứ vụ trong thái độ nương tựa vào lời Chúa: “Đừng sợ!”
Vâng, chính niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Giáo Hội như Đầu nhiệm thể của Người, mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trở nên một nhân vật xây dựng hòa bình được toàn thế giới mến phục và Đức Bênêđictô XVI mới dám can đảm nhận chức Giáo Hoàng khi đã cao niên. Từ kinh nghiệm này, trong vai trò đại diện cho Chúa Kitô, các ngài lại tiếp tục trấn an các tín hữu: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” (ĐTC GP II), và “Hãy mở rộng ra những cánh cửa cho Chúa Kitô, và các con sẽ tìm thấy sự sống thật.” (ĐTC Bênêđictô XVI).
Tâm tình này nhắc nhớ người tín hữu biết chắc chắn mình ở trong tay Chúa Cha và đừng sợ bất cứ điều gì. Người tín hữu cũng nên ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu, Đấng Mêsia. Chính xác tín này giúp họ chấp nhận mọi sự, kể cả việc tử đạo, một cách thanh thản.
Tin tưởng vào Thiên Chúa không phải là chắc chắn rằng mình sẽ được giải cứu khỏi thử thách, nhưng là biết vững vàng rằng chuyện mình bị kết án sẽ được biện minh và được đánh giá đúng mức. Ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu làm cho họ vững vàng và can đảm.
Ngày nay, người ta ít tin tưởng vào việc Chúa quan phòng, nên họ cũng không chấp nhận những giá trị và ý nghĩa của đau khổ. Họ mang tâm trạng bất mãn và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa.
Chúa Giêsu mong muốn nơi các môn đệ trong khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, là phải mạnh dạn can đảm trước những đe dọa của người đời. Phải tin tưởng vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Người hằng quan tâm săn sóc chúng ta. Chúng ta không sợ hãi, thất vọng trước những bắt bớ của người đời. Chỉ có Thiên Chúa là Ðấng chúng ta phải sợ vì Người có quyền lấy mất sự sống đời đời khỏi chúng ta. Nhưng Người cũng là người Cha đầy lòng nhân ái, thế nên chúng ta cứ an tâm.
Là những người tin và đi theo Chúa Giêsu, mỗi tín hữu chúng ta phải nối tiếp sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Cho dù cuộc sống còn nhiều khó khăn thử thách. Chúng ta hãy can đảm tin tưởng vì Chúa luôn ở bên chúng ta.
Ta cùng xin Chúa thêm ơn cho ta để ta can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô trong lời nói và trong mọi việc làm; và Loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho mọi người đang sống chung quanh ta.
10. Hãy ca tụng Chúa; hãy ngợi khen Người
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Suy Niệm:
Chúa nhật trước chúng ta đã thấy quá khứ, hiện tại, tương lai của Dân Chúa cũng như của từng người trong chúng ta được bao trùm trong lòng nhân nghĩa của Chúa. Người thương chúng ta vô vàn, đã giải thoát chúng ta trong quá khứ, đang phù trợ chúng ta trong hiện tại và sẽ làm cho tương lai chúng ta được hạnh phúc.
Nhưng đó là cái nhìn đức tin. Còn con mắt nông cạn và xác thịt có lẽ chỉ thấy đời nhiều đắng cay. Lời Chúa hôm nay muốn soi sáng chúng ta về phương diện này, để chúng ta thấy lòng nhân nghĩa Chúa bao trùm cả những nét buồn thảm bi đát trong cuộc đời chúng ta.
A. Trước Hết, Lời Chúa Chẳng Bao Giờ Che Giấu Các Ðau Khổ
Cựu Ước cũng như Tân Ước không những mô tả mà còn tìm hiểu khía cạnh cam go trong đời sống con người một cách sâu sắc.
Bài sách tiên tri Yêrêmya hôm nay tuy vắn tắt nhưng gợi lên hình ảnh của một đời người nhiều nước mắt. Vị ngôn sứ ấy đã được chọn ngay từ trước khi thành hình trong lòng mẹ để đảm nhiệm một sứ vụ gay go bạc bẽo. Yêrêmya đã muốn chối nhưng không được. Ông phải ra đi tiên báo những hoạn nạn sẽ xảy tới. Nghe ông nói nhiều, người ta đã dần dần đồng hóa ông với kẻ mang tai ương vạ gió. Người ta tránh ông như tránh dịch, Nhưng đâu được phép rút lui, ông phải theo lệnh Chúa đến phản đối thái độ bất trung của nhà cầm quyền đối với giao ước. Người ta bắt ông, nhốt ông, kết án ông là tên phản bội, bán nước. Ngay họ hàng thân thích cũng khử trừ ông. Vì ông thuộc dòng tư tế, mà muốn cải cách theo Yosyas, chủ trương hủy bỏ hết các nơi tế tự bất xứng ở địa phương để tập trung tất cả phụng vụ trang nghiêm về Yêrusalem.
Xã hội bắt bớ, họ hàng tẩy chay, ông một thân một mình chịu bao đau khổ. Những tiên tri khác còn được hạnh phúc có vợ có con, Yêrêmya được lệnh Chúa sống độc thân để tuyên sấm cho toàn dân biết: tai họa sắp giáng xuống, đừng dại gì mà dựng vợ gả chồng kẻo vợ con sẽ chết đói, chết chém và chẳng được chôn cất. Dân chưa bị chiến tranh và đi đày lê thê... nhưng vì là tiên tri của những biến cố đó, Yêrêmya đã phải sống trước ở nơi bản thân tất cả số phận cay đắng của dân bội bạc. Ông là vị ngôn sứ khổ sở, là hình ảnh của Ðấng sẽ đến gánh tội thiên hạ, là người được chọn để đi vào con đường hẹp. Ông là người đi trước chúng ta về phương diện đau khổ ở đời.
Vì đời chúng ta không phải chỉ mang theo những khổ đau như mọi người, nhưng còn có những gánh nặng khác mà ta có thể gọi chung là thánh giá. Ðó là những đau đớn vì Danh Chúa, dành cho chúng ta là những người được chọn. Ðức Kitô đã nói với các môn đệ của Người: vì Danh Thầy, thế gian sẽ ghét bỏ các con và người ta sẽ giải các con đến các tòa án. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay còn gợi lên cả nỗi lo sợ quằn quại không ngừng: tội lỗi chúng ta hằng phạm có khiến chúng ta mất tin tưởng vào hạnh phúc đời sau không? Ðây là lo sợ cuối cùng, lo sợ ở trước mặt Chúa, đang khi những tai họa và bất hạnh nói trên nằm trong tương quan đối với người khác, với gia đình và xã hội.
Thật, mọi vấn đề đau khổ ở đời đã được Sách Thánh liệt kê và nghiên cứu. Yêremya đã sống giữa cảnh thù nghịch. Ông tiên báo về con người đau khổ của Ðức Kitô; rồi Ðức Kitô lại báo trước cho chúng ta biết thân phận khổ sở của những người theo Chúa. Cuối cùng thánh Phaolô nói lên nỗi lo sợ phập phồng dày vò tâm trí những kẻ biết mình tội lỗi.
B. Nhưng Ðồng Thời Lời Chúa Cũng Dọi Sáng Trên Các Ðau Khổ
Yêrêmya bị ghét bỏ và tấn công tứ phía, nhưng không nao núng, vì như lời ông nói hôm nay: Chúa luôn luôn ở với ông như người chiến sĩ vô địch. Ông sống ở thời Cựu Ước, nên lối diễn tả niềm tin của ông chưa được tế nhị. Ông tin rằng kẻ thù của ông sẽ lao đao, thất bại; sẽ hổ ngươi và nhục nhã. Và niềm tin ấy đã biến thành lời cầu nguyện: xin cho con được thấy kẻ thù của con bị báo thù.
Ngày nay chúng ta không được cầu nguyện như thế vì Chúa Yêsu đã dạy chúng ta phải yêu mến kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ghét bỏ mình. Nhưng chúng ta phải có niềm tin chắc chắn như Yêrêmya. Giữa bao nghịch cảnh và mọi khổ đau, Chúa vẫn ở với chúng ta, không những như người chiến sĩ vô địch, nhưng hơn nữa như một người cha săn sóc đếm từng sợi tóc trên đầu người con, để không một cái tóc nào rụng xuống mà không có ý của Người. Hai con chim sẻ chỉ đáng giá một đồng xu thôi, thế mà Cha trên trời vẫn săn sóc đến chúng. Còn chúng con, chúng con đáng giá ngàn ngàn lần hơn tất cả loài chim sẻ. Nói một cách đơn sơ hơn, những đau khổ rủi ro ở đời không bao giờ được làm chúng ta quên lòng nhân nghĩa Chúa. Chúng ta phải nắm vững niềm tin đã trình bày Chúa nhật trước: quá khứ, hiện tại và tương lai chúng ta được bao bọc trong tình yêu trung tín của Cha trên trời. Yêrêmya đã thâm tín như vậy. Chúa Yêsu nhắc lại cho chúng ta nhớ. Và chân lý là ánh sáng chiếu soi vào các khổ đau mà chúng ta gặp để hiểu rõ chúng là gì.
Chúa Yêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nói: chúng không có gì đáng sợ. Thử thách và khổ đau ở đời thoạt nhìn vào thì thấy sợ, thấy ghê. Nhưng chiếu ánh sáng của Chúa vào, và nhìn chúng bằng con mắt đức tin, chúng ta dường như sẽ thấy chúng đang dần dần tan biến. Bản chất của chúng đâu có vững bền? Cuối cùng, tức là chung cuộc thử thách chỉ là những mây mù phải tan để làm tỏ hiện bộ mặt thật của thực tại. Có gì che giấu mà không bị bại lộ; có gì thầm kín mà lại không được công bố ra? Rồi đây Ðức Kitô sẽ ở trên Thánh giá, Người sẽ chiến thắng tử thần, dọi ánh sáng phục sinh vào việc làm của mọi kẻ thù địch Ngài; thế gian sẽ bẽ bàng trong tội lỗi và kẻ tin Ngài sẽ hân hoan. Rồi đây Ðức Kitô cũng sẽ lại xuống trong vinh quang. Ánh sáng vinh hiển Người sẽ phán xét hành động và ý nghĩ thâm sâu của mọi người; thử thách và đau khổ của những kẻ được Người chọn sẽ biến mất như đêm tối tan biến trước ánh sáng mặt trời. Thế nên, nếu con cái Chúa không có gì phải sợ khi đã tin ở sự săn sóc của Cha trên trời, thì các môn đệ của Người cũng chẳng có gì phải hãi khi bị bắt bớ vì tòa án loài người cũng sẽ qua đi khi ngày chung thẩm của Chúa đến. Người ta có thể giết các môn đệ của Chúa, nhưng có nên sợ những kẻ chỉ giết được xác mà không giết được hồn không? Dĩ nhiên người môn đệ muốn được sự bình tĩnh chắc chắn trong mọi thử thách, thì phải có sự tự tin ở trong hồn mình, tức là có thể tin vào giá trị đạo đức của mình ở trước tòa Chúa sau này và bây giờ nơi lương tâm của chính mình.
Nhưng ai dám tự hào thâm tín như vậy? Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay đoán được tâm trạng của chúng ta. Người sợ chúng ta nao núng khi nghĩ đến tội lỗi của mình. Và nguời chiếu ánh sáng tin tưởng vào lương tâm lo lắng ấy khi đề ra chân lý sau đây:
Phải, tất cả chúng ta đều đã phạm tội. Từ Ađam cho tới nay, tội lỗi đã thống trị và tràn ngập. Nhưng chính sự kiện phổ quát của chế độ tội lỗi khiến chúng ta suy đến thời đại phổ quát của ân sủng. Một người đã du nhập tội lỗi vào thế gian để đến nỗi không ai không tội lỗi; thì Thiên Chúa là Ðấng nhân nghĩa và trung tín đã mở màn thời đại ân sủng phổ quát khi ban Con Một Người đến chịu chết vì tội lỗi chúng ta.
Và không thể Ðức Yêsu chỉ giống như Ađam. Người phải trổi vượt ông vô vàn. Thế thì chế độ ân sủng mà Người đã khai mạc cho thời sau hết này phải vượt xa thời kỳ tội lỗi xưa đã bắt đầu với Ađam. Chúng ta có kinh nghiệm về thời đại tội lỗi xấu xa này, thì chúng ta càng phải có lòng tin sâu xa hơn nữa về thời kỳ ân sủng do Ðức Kitô sáng lập.
Tin như vậy, không ai còn có thể nghĩ mình không được chan chứa ân sủng. Và đời sống tuy nhiều khổ đau và tội lỗi, tuy nhiên nước mắt như đại dương và đầy bất công bất hạnh, đức tin bảo chúng ta phải quả quyết ân sủng của Ðức Kitô còn mênh mông dư đầy bội phần. Và những gì chúng ta đã nói về lòng nhân nghĩa của Chúa đối với con người, vẫn còn đúng mãi, mặc dầu đời người có thể là bể khổ.
C. Thế Thì, Thái Ðộ Của Chúng Ta Phải Thế Nào?
Yêrêmya đã kết thúc bài nói về đau khổ mình gặp bằng một lời kêu gọi tin tưởng. Ông nói: hãy ca tụng Chúa; hãy ngợi khen Người vì Người sẽ cứu mạng sống kẻ khó nghèo khỏi tay kẻ cường bạo. Lòng tin tưởng của ông không phải vô điều kiện. Chúa sẽ cứu người nghèo khổ. Tin Mừng của Người sẽ chỉ được rao giảng cho những con người ấy. Nói đúng ra, chỉ hạng khó nghèo mới đón nhận Tin Mừng của Chúa và do đó mới được cứu độ. Mà khó nghèo hay nghèo khó Phúc Âm, trước hết là tin tưởng tín nhiệm hoàn toàn vào Chúa và chỉ cậy dựa trông cậy vào Người mà thôi, tức là phải lấy nhân nghĩa đáp trả nhân nghĩa.
Và lòng tín nghĩa chân thật ấy phải được chứng tỏ rõ ràng, đặc biệt khi bị thử thách. Chính Chúa Yêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã tuyên bố rõ ràng: ai xưng Ta ra trước mặt người đời thì Ta cũng xưng kẻ ấy ra trước mặt Cha Ta; còn ai chối Ta trước mặt người đời thì Ta cũng chối kẻ ấy trước mặt Cha Ta.
Ðiều kiện này có thể khiến lòng nhiều người áy náy. Thế nào là xưng Chúa ra trước mặt người đời? Ðeo ảnh, làm dấu đọc kinh trước khi ăn cơm, đi dự lễ ngày Chúa nhật, là những hành vi tuyên xưng Chúa? Bao giờ cũng phải làm? Và có khi nào được miễn không?
Ở đây, không ai có thể đưa ra một câu trả lời gãy gọn áp dụng cho hết mọi trường hợp. Muốn có câu giải đáp phổ cập này, có lẽ chúng ta phải vươn lên trên mọi vấn nạn cụ thể. Và hãy hỏi thế nào là tuyên xưng Chúa ra trước mặt người đời?
Ảnh đeo nhắc người ta nhớ đến Chúa; nhưng chưa chắc người nào đeo ảnh cũng tuyên xưng Chúa ra. Ðã có những người đeo Thánh giá vàng để trang trí và có thể có những người mang thập tự lớn để phản chứng, không phải vì Danh Chúa nhưng vì mình và vì quan niệm của riêng mình. Và chúng ta cũng có thể nói tương tự về việc làm dấu, đọc kinh, đi lễ v.v… Nói tóm, giá trị không nằm ở việc làm, nhưng ở niềm tin. Thánh Phaolô đã nói như vậy. Ðiều quan trọng là mỗi người phải tự hỏi về niềm tin của mình. Và chính niềm tin ở trong mình sẽ phán đoán các hành vi của chúng ta. Và chắc chắn người có đức tin mạnh mẽ sẽ biết cư xử đúng với sự tự do của con cái Thiên Chúa, nghĩa là luôn luôn biết phải làm gì và không cần làm gì để tuyên xưng Chúa ra trước mặt người đời.
Giờ đây cũng vậy, Thánh lễ sẽ cử hành ở giữa chúng ta. Lẽ ra mọi người sẽ tuyên xưng niềm tin một cách hết sức chân thành. Nhưng biết đâu và không ý tứ thì sẽ có những kẻ xem lễ mà không dự lễ. Vì xem lễ thì chỉ cần mắt nhìn vào, nhưng dự phần thì phải dấn thân, đem tâm hồn mình đến thông phần Mình Máu Ðức Kitô.
Ai thật sự tham dự lễ tế này mà không thấy Thiên Chúa yêu thương mình, đến nỗi ban Thịt Máu Người cho chúng ta? Và ai thật sự đáp trả tình yêu của Người lại có thể lo sợ các thử thách trong đời sống? Vì cả khi sống giữa đau khổ, người yêu Chúa vẫn cảm thấy sâu xa mình được Chúa yêu. Và với tình yêu ấy Thánh Thần đã đổ được đổ xuống trong lòng chúng ta để một sự an ủi ngọt ngào vẫn tràn ngập tâm hồn của những thân xác đang bị đau khổ. Ðó là niềm tin, là lẽ sống của chúng ta. Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng.
11. Nhận & chối – Anmai.
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungary và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những người giàu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa”.
Vị mục sư cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”. “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, viên sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm doạ: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vi mục sư điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn nhà và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi đã không thể tin rằng có những người dám chết vì đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
“Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng sống niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu”.
Công đồng Vatican II đã mở ra một kỷ nguyên mới, đã mang đến cho Hội Thánh và mỗi tín hữu một mùa xuân mới, đã nêu bật và tạo cho mọi tín hữu nhiều cơ hội để biểu lộ niềm tin qua hành động sống đạo và hành đạo. Nhờ quan điểm nay. Đạo đã không bị giới hạn trong nhà thờ và trong những giờ kinh, nhưng đạo và niềm tin đã được đem ra sống và thực hành trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Nhưng câu vấn nạn thường gây nhiều thắc mắc vẫn là: sống niềm tin và thực hành niềm tin nào?
Quan trọng nhất có lẽ là tin vào Thiên Chúa tình yêu. Đối với mỗi người trong chúng ta Thiên Chúa tình yêu nào có một chương trình để dẵn dắt chúng ta đi trong tin yêu và đạt được tình yêu hoàn hảo. Rồi bước thứ hai là thực hành tình yêu với câu hỏi đơn sơ: nếu Chúa là tôi, thì trong hoàn cảnh cụ thể này, Ngài sẽ xử trí và hành động như thế nào?
Trang Tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta về vấn nạn niềm tin. Chúa hỏi chúng ta rằng chúng ta có can đảm tuyên tín, tuyên xưng Chúa trước mặt thiên hạ hay là chúng ta chối Chúa trước mặt thiên hạ?
Tưởng chừng vấn nạn này đơn giản nhưng phải nói là vấn nạn này là vấn nạn lớn của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Chưa đề cập đến lòng tin vào Thiên Chúa, chỉ đề cập đến đời sống thường nhật của chúng ta thôi chúng ta sẽ thấy một sự thật thật phũ phàng.
Phải nhìn nhận với nhau một điều là ngày hôm nay con người ta không biết do ảnh hưởng từ đâu mà người ta sống với nhau thật vô trách nhiệm, hay trốn tránh trách nhiệm. Nhan nhản các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, báo chí đưa tin đấy, quá nhiều, quá nhiều người đã không can đảm đón nhận sự thật, đón nhận trách nhiệm của mình và cứ cố đẩy đưa trách nhiệm cho người khác được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Không biết thời trước có vậy không nhưng thời này con người sống thiếu trách nhiệm quá! cái sự vô trách nhiệm hình như nó được luyện từ ngày còn bé thì phải. Nhiều và nhiều vị phụ huynh có con trẻ, khi cho chúng ăn, khi cho chúng chạy nhảy, khi cho chúng chơi … thế nào chúng cũng bị vấp té. Vấp té vì hấp tấp, vì lăng tăng, vì thiếu quan sát chướng ngại vật của trẻ vậy mà đa số các ông bố, các bà mẹ sau khi thấy con té thì vực con dậy và lấy tay đập vào cạnh bàn, đập vào cái ghế và dạy cho con trẻ biết rằng nó chính là thủ phạm gây cho con trẻ té chứ không phải là lỗi do chính con trẻ.
Tưởng chừng là chuyện nhỏ nhưng dần dần cái lối sống, lối nghĩ, lối hành động của trẻ nó sẽ in sâu vào tư tưởng của trẻ là vô trách nhiệm, chối bây bẩy những hành vi của mình. Từ những chuyện nhỏ đó nó vô tình đã dẫn đến cho con người tác hại vô cùng to lớn đó là trốn trách trách nhiệm.
Nhìn rộng hơn một chút chúng ta sẽ thấy ngay trong gia đình ngày hôm nay. Khi vui, khi hạnh phúc thì ai cũng giành phần của mình rằng mình là tác nhân mang đến hạnh phúc trong gia đình nhưng khi khốn khó một chút, khi gặp điều chẳng may chẳng lành thì từ chồng đến vợ đến con chẳng ai dám đứng ra lãnh cái trách nhiệm về mình cả. Vì trốn tránh trách nhiệm, từ chối bổn phận của mình trong gia đình nên rồi chuyện nhỏ nó xé ra thật to. Lỗ nó nhỏ vậy mà nó gây đắm thuyền ngày nào không hay. Mạnh chồng chồng chối, mạnh vợ vợ chối, mạnh con con chối bổn phận và trách nhiệm trong gia đình để rồi dẫn nhau ra toà. Ra đến toà cũng chẳng tránh khỏi cái kịch bản chối.
Ngày hôm nay, nhiều đôi hôn phối chia ly vì cái nguyên nhân căn bản đó là chẳng ai chịu nhìn vào bổn phận và vị trí phải có của mình trong gia đình. Vì chối từ đời sống gia đình thì chẳng chóng thì chày một ngày nào đó cũng chia tay.
Mở rộng ra một chút, khi sống trong xã hội, hoà nhập với xã hội trong công việc làm ăn. Thử hỏi mấy người trong công ty, trong xí nghiệp dám đứng ra lãnh phần trách nhiệm của mình sau khi để lại hậu quả không tốt. Buồn cười ở chỗ là khi có nguồn lợi, khi đạt thành tích thì ai ai cũng đua nhau chen vai vào giành một phần của mình đã đóng góp để được cái thành tích ấy. Để rồi cuối cùng con người cứ quấn quýt với nhau trong cái vòng xoắn của sự vô trách nhiệm.
Nhìn lên một chút nữa, những vị có trách nhiệm với nước với dân. Đã là người thì chẳng ai tránh khỏi thiếu sót, sơ xuất nhưng nhiều vụ án, nhiều sự việc xảy ra để lại những hậu quả khôn lường vậy mà người ta chỉ bị khiển trách vì vô ý đã gây hậu quả to lớn cho dân và cho nước.
Nhìn vào đời sống kitô hữu, lời Chúa trong trang Tin mừng hôm nay quả là một lời nhắc nhớ mỗi người chúng ta. Chúng ta là công dân Việt Nam: Đúng! nhưng thật sự nó chỉ đúng ở khía cạnh vật chất, khía cạnh con người còn khía cạnh tâm linh, thiêng liêng thì phải nói chúng ta là công dân nước trời. Nước Trời có Thiên Chúa làm chủ như Chúa Giêsu nói Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Chúng ta sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian vì nước của chúng ta không thuộc về thế gian này như Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta. Chúng ta được Chúa mời gọi là chúng ta phải tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này để mai kia Chúa cũng sẽ tuyên xưng chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha.
Quả thật, chuyện tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này không phải là chuyện đơn giản. Chúng ta phải làm chứng về Chúa như vị mục sư đã can đảm tuyên xưng lòng tin vào Chúa trước mặt thế gian dẫu rằng họng súng, cái chết gần kề với ông.
Chúa Giêsu không thử thách chúng ta nghiệt ngã như viên sĩ quan thử thách vị mục sư kia là phải chết nếu không tuyên xưng. Chúa mời gọi chúng ta tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Chúa ngay trong đời sống thường nhật nhỏ bé hằng ngày.
Có nhiều người ngày hôm nay không dám làm dấu Thánh giá trước khi ăn cơm vì ngại! Dấu Thánh Giá và lời tạ ơn trước khi ăn là một nghĩa cử đẹp của một người biết ơn và một người nhìn nhận Chúa là Chúa của đời mình. Biết ơn trước mỗi bữa ăn điều này thật đúng và phải đạo vì lẽ ta có bữa ăn tạm gọi là cũng chẳng cao lương mỹ vị gì nhưng nhiều người khó nghèo hơn chúng ta, những nạn nhân của những cơn bão lụt, những vụ động đất làm gì mà có như ta, họ nằm mơ cũng chẳng có được như ta để rồi ta cảm ơn cũng chẳng thừa. Khi làm dấu ta tuyên xưng Chúa là chủ đời ta cũng đúng thôi vì thật ra cuộc đời của ta có nằm ngoài bàn tay của Chúa đâu như Chúa nhắc chúng ta: “thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu của anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,30.31).
Có người thì tham dự Thánh lễ cắt đầu cắt đuôi. Có khi cha giảng mới đến và khi mọi người rước lễ thì kéo nhau về. Hành động như thế tự nó nó nói lên sự chối Chúa trước mặt người đời. Thử hỏi ai trong chúng ta đãi tiệc mà thực khách đến muộn về sớm không? Thử hỏi Chúa có buồn không khi con cái Chúa cư xử với Chúa như vậy?
Chưa hết, không phải đi lễ cắt trước cắt sau như thế mà thậm chí còn bỏ lễ Chúa nhật. Người ta vẫn thường nói “ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt” để rồi có những người vô tư bỏ lễ Chúa nhật. Vì lẽ thường thì bỏ một lần xong lại cứ bỏ tiếp thôi, dần dần cái thói quen xấu bỏ lễ nó thâm nhập vào người ta lúc nào mà người ta không biết. Giữ đạo như thế phải chăng là một cách chối Chúa trước mặt người đời.
Còn những người đi lễ, thật sự thì có đi lễ đấy nhưng có làm cho thánh lễ nối dài trong cuộc sống hay là bước chân ra khỏi nhà thờ thì mọi chuyện đâu vào đấy. Sống Thánh lễ nối dài đó chính là một cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Chắc có lẽ Chúa không đòi buộc con cái Chúa sau khi tham dự Thánh lễ ra khỏi cổng nhà thờ là hô hoán lên rằng tôi mới đi lễ xong, tôi là người Công Giáo. Ngày nay cũng chẳng còn cấm đạo như thời Minh Mạng hay những thời khó khăn để Chúa đòi hỏi kitô hữu phải đổ máu đào để minh chứng về Chúa.
Phải nhìn nhận thẳng rằng chính những lúc cấm đạo, những lúc bắt đạo thì đời sống đạo của Kitô hữu rất cao, không chỉ là đời sống đạo mà cách hành đạo rất tốt. Ngày xưa càng cấm đạo người ta càng giữ đạo và càng làm chứng về đạo. Ngày nay tình hình tự do tôn giáo được mở ra một chút thì đời sống đạo lại tụt dốc. Ngày hôm nay có nhiều phương tiện hơn, có nhiều cơ hội đến nhà thờ hơn nhưng người ta lại ít đến với nhà thờ hơn.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói rằng ngày nay người ta không cần thầy dạy nữa mà người ta cần chứng nhân! Chứng nhân của Chúa là gì? nhận Chúa là Chúa, là chủ tể đời mình là gì? Phải chăng đó chính là ăn tiếng nói, cư xử, hành vi của kitô hữu mới chính là cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Và Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc nhở các môn đệ, nhắc nhở mọi người chúng ta: “Cứ dấu này người ta nhận ra anh em là môn đệ của Thầy đó là anh em hãy yêu thương nhau”.
Chúa cũng sẽ chất vấn chúng ta về hành vi, về thái độ làm chứng hay chối Chúa trước mặt người đời trong ngày sau hết. Chắc có lẽ, tự vấn lòng mình, tự soi vào tận sâu thẳm lòng mình chúng ta chúng ta mới biết được là mối tình giữa chúng ta và Chúa nó được bao nhiêu hay là nó phai tàn theo năm tháng và sợ nó không còn nữa. Nếu nó mờ đi thì chúng ta phải tìm cách để cho nó sáng hơn để cho mọi người nhìn vào ta họ thấy có sự hiện diện của Chúa trong đời ta.
Làm chứng cho Chúa, làm chứng có Chúa chính là sống đời sống bác ái yêu thương.
Nguyện xin Chúa là chủ, là Chúa của Tình Yêu tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta tình yêu dạt dạo của Chúa và xin cho mỗi người chúng ta biết rộng mở tấm lòng để chia sẻ tình yêu mà chúng ta nhận được từ Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết làm chứng về Chúa trước mặt người đời bằng cách ăn nết ở của chúng ta để ngày kia trên Thiên quốc Chúa cũng làm chứng cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã hứa.
12. Đừng sợ
Có một cậu bé được cha mẹ gửi học trong một trường nội trú. Ngay buổi tối đầu tiên, trước khi lên giường đi ngủ, cậu bé đã quì gối xuống và cầu nguyện. Thế là một chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé và tiếp theo là những tiếng cười giễu cợt.
Tối hôm sau, cậu bé cũng lại quì gối và cầu nguyện. Những em khác trong phòng thì chờ đợi để chế nhạo. Thế nhưng khi nhìn thấy dáng bộ trang nghiêm và sốt sắng của cậu bé., các em khác tỏ vẻ dè dặt, rồi im lặng và thán phục. Sau cùng, những em khác cũng đã bắt chước, quì gối và cầu nguyện trước khi đi ngủ.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời nói của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay:
- Các con đừng sợ. (Mt 10,26).
Chúa Giêsu không nói tới một sự sợ hãi chung chung, nhưng Người nói rõ về một sự sợ hãi đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy trong việc sống đức tin của mình. Chúng ta thường e dè, thường do dự mỗi khi nói những lời giống lời của Chúa, làm những việc giống việc của Chúa, bởi vì chúng ta sợ người khác chê cười, châm chọc. Chúng ta sợ bị chê là quê một cục, bị gọi là kẻ lên mặt đạo đức, hay là bị ngược đãi, như chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé.
Chúa Giêsu không phải là không biết đến những lý do của sự sợ hãi. Bởi vì có những người đã phải mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị và rất có thể mất cả mạng sống vì niềm tin nơi Ngài. Thế nhưng, bên trên những thiệt hại tạm bợ này là niềm hạnh phúc vĩnh cửu Chúa đã hứa ban cho những ai trung thành với Ngài.
Trong cuộc sống, có những lúc hình như chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi. Sợ đọc kinh cầu nguyện trước mặt người khác. Sợ gặp phải những khó khăn khi trung thành sống đức tin của mình. Sợ làm dấu thánh giá trước bữa ăn. Sợ ngả mũ nón khi đi ngang qua nhà thờ. Sợ đổi đề tài khi có người kể những câu chuyện tầm phào và tục tĩu. Sợ không dám từ chối khi bè bạn rủ rê ăn nhậu và cờ bạc. Chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi khi Giáo hội bị nhạo cười, bị tấn công.
Trong tất cả những trường hợp ấy, chúng ta hãy nhớ tới lời khuyên của Chúa:
- Các con đừng sợ.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy khắc ghi lời Chúa đã nói: “Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Còn ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha ta ở trên trời” (Mt 10, 32-33).
Như thế có nghĩa là, nếu chúng ta chối bỏ Đức Kitô thì Ngài cũng sẽ chối bỏ chúng ta.
Ước mong rằng trong suốt cả cuộc đời, chúng ta sẽ trung thành với Chúa mãi mãi, bởi vì, “ai bền đỗ đến cùng, thì người đó sẽ được cứu thoát”.
13. Hãy là chứng nhân -Lm. Giuse Phạm Thanh Minh
“Điều Thầy nói với anh em trong bóng tối thì hãy nói ra giữa ánh sáng” (Mt 10,27)
I. Dẫn vào Phụng vụ Lời Chúa
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay nhắc nhở cộng đoàn chúng ta về sứ mạng loan báo Tin Mừng, tuyên xưng Đức Giêsu Kitô, bất chấp những trở ngại, bách hại và khổ đau.
1. Bài đọc 1 trích sách ngôn sứ Giêrêmia
Trước hết, trong bài đọc thứ 1 trích ngôn sứ Giêrêmia (Gr 20, 10-13), chúng ta đã nghe mô tả về cuộc đời của tiên tri Giêrêmia. Ông đã được Thiên Chúa tuyển chọn từ trong lòng mẹ để đảm nhận một sứ vụ đầy cam go, khó khăn và bạc bẽo. Mặc dù, ông không muốn, nhưng ông vẫn phải ra đi loan báo cho mọi người biết những tai ương mà Thiên Chúa sắp giáng xuống trên dân Người vì tội lỗi của họ. Vì vâng phục ý Chúa, ông đã bị mọi người ghét bỏ, bị xã hội bắt bớ, bị họ hàng tẩy chay và bị nhiều người chống đối. Họ đặt cho ông cái tên: “Lão tứ phía kinh hoàng”. Ông cảm thấy trơ trọi một mình trong đau khổ. Là tiên tri, ông sống trước nơi bản thân số phận cay đắng của dân bội bạc. Tất cả chỉ bởi một nguyên do, là trung thành với sứ vụ loan báo Lời Chúa.
Tuy bị ghét bỏ và tấn công tứ phía, nhưng Giêrêmia vẫn trung thành với sứ vụ, bởi vì như lời ông nói: “Chúa luôn ở với tôi như một trang chiến sĩ oai hùng”; hoặc bởi lý do sâu xa hơn như lời tâm sự của ông: “Tôi đã định không nghĩ đến Người nữa, không nhân danh Người mà nói nữa, nhưng Lời Ngài cứ như ngọn lửa bùng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt, khiến tôi không thể nén được”. Vì thế, sứ vụ loan báo Lời Chúa như một định mệnh phải thi hành, phải ưu tiên và Thần Khí Chúa ban bảo đảm cho việc hoàn thành.
2. Bài Tin Mừng hôm nay là diễn từ của Chúa Giêsu về Truyền giáo.
Trong Tin Mừng hôm nay (Mt 10, 26-33), Chúa Giêsu tiếp tục dạy các Tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng: “Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, các con hãy nói ra nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy công bố trên mái nhà”. Lý do cấp thiết là hiện nay nhân loại còn nhiều dân tộc chưa được đón nhận Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa. Như trường hợp, hiện nay Tin Mừng chưa đến được với 93% dân số Việt Nam, dù rằng Tin Mừng đã được khơi động từ 500 năm rồi. Nguyên nhân phải chăng vì người Công Giáo Việt Nam còn dửng dưng không bận tâm xem việc loan báo Tin Mừng như trách nhiệm của Kitô hữu, hoặc bởi ngại ngùng, bởi họ sợ hãi, không dám thực hiện lời dạy của Chúa.
Đức Giêsu báo trước các Tông đồ sẽ bị bách hại, nhưng Ngài khuyến khích họ đừng sợ chi cả. Bởi vì khi bị bách hại là họ được vinh dự chia sẻ thân phận của Thầy mình. Lý do khiến các môn đệ không phải sợ, đó là “sứ điệp vĩ đại về Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ”. Dù thế nào, Tin Mừng cứu độ cũng sẽ được tỏ hiện vinh hiển. Hơn nữa, những kẻ bách hại cũng chỉ có thể “giết được thân xác; còn duy mình Chúa mới có thể tiêu diệt trọn con người, cả thân xác và linh hồn”.
Người Tông đồ còn được Chúa bảo vệ. Bất cứ điều xảy đến cho họ cũng nằm trong kế hoạch quan phòng khôn ngoan và yêu thương của Thiên Chúa. Nếu họ tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, và trung thành làm chứng cho Chúa trước mặt người đời, thì Ngài cũng sẽ bênh đỡ họ trước tòa Thiên Chúa.
Từ khi đi rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy nhân loại: Thiên Chúa là Cha, Người luôn luôn chăm sóc và yêu thương chúng ta. Đúng vậy, Chúa quan phòng cai trị muôn loài muôn vật Chúa đã tạo nên, từ những cái vĩ đại cũng như những cái bé nhỏ. Chúa chăm sóc con người như thể người Cha nhân lành: “Nào người mẹ có thể quên con mình không? Và cho dù người mẹ có quên con mình đi nữa, Chúa cũng không quên chúng ta”; “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”; “Anh em cũng thế, sợi tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”; “Hãy xem chim trời, chúng không gieo vãi thế mà Cha anh em vẫn nuôi chúng; Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn mặc cho chúng đẹp đến thế, phương chi anh em Chúa còn săn sóc hơn nhiều”.
Thế nên, thái độ của người thừa sai trong khi thi hành sứ vụ là bất khuất trước những đe dọa của người đời, và phải hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài. Các ông phải chứng tỏ một cách vô điều kiện là các ông thuộc về Ngài, và tin vào sứ điệp của Ngài, cũng như hợp nhất với Ngài để được sự sống của Ngài.
II. Lời Chúa mời gọi người Kitô hữu sống chứng nhân Tin Mừng.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những khó khăn trong việc sống đạo; từ việc sợ bệnh tật, sợ mất tiếng tốt, sợ phải xa mất người thân... chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin Mừng, và chiếu dọi vào những thực tế ấy để chúng ta vừa tin tưởng và phó thác nơi tình yêu vô biên của Thiên Chúa, vừa quyết tâm chu toàn bổn phận hiện tại. Đó chính là “hành trang” cốt yếu của người Kitô hữu hôm nay.
Là môn đệ của Chúa, chúng ta luôn xác tín rằng “môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ”. Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, của tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài chính là con đường là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
Sau nữa, dầu muốn hay không, đã là môn đệ của Chúa Giêsu, người Kitô hữu còn phải làm chứng cho Tin Mừng. Làm chứng trong nhà thờ khi dâng lễ hay khi đọc kinh vẫn chưa đủ, mà còn phải làm chứng trong cuộc sống hằng ngày, mỗi lời nói, cử chỉ, hành động phải là những lời chứng, đan cử như đeo thánh giá trên ngực, buôn bán ngoài chợ, làm việc nơi công sở, nơi xí nghiệp, bất cứ ở môi trường nào cũng thực hiện công bằng bác ái, quảng đại yêu thương: tất cả những điều ấy là những lời chứng chứ không phải chỉ việc tử đạo mới là lời chứng. Và khi chúng ta làm chứng cho Chúa thì đây hẳn là mối lợi cho chúng ta, như Chúa đã đoan hứa: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng Ngự Trên Trời”.
Kết Luận:
Lạy Chúa, xin Chúa ban ơn đức tin cho chúng con, để chúng con biết an vui cậy trông nơi Chúa, dù đời chúng con luôn gặp nhiều thử thách gian lao, để chúng con trở thành nhân chứng cho tình yêu Chúa trước mặt mọi người. Xin cho chúng con luôn trung thành yêu Chúa cho dù chúng con phải chịu nhiều thiệt thòi và hy sinh, vì chúng con biết rằng Chúa luôn đồng hành với chung con trên đường đời. Amen.
14. Biết sợ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 10, 26-33
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Có những người quá nhát sợ. Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu. Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì. Coi mạng sống nhẹ như tơ. Lên xe là phóng như bay. Liều lĩnh thường thiệt mạng. Nhút nhát quá đâm hỏng việc. Một đàng bất cập, một đàng thái quá. Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ. Vấn đề là phải biết phân định. Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ. Hôm nay Chúa Giêsu giúp ta phân định để biết sợ và không biết sợ.
Trước hết, Người dạy ta biết phân định giá trị. Sự sống là quí giá ta phải trân trọng. Mất sự sống là mất tất cả. Tuy nhiên sự sống có nhiều cấp độ. Có sự sống thân xác nhưng cũng có sự sống linh hồn. Có sự sống đời này nhưng không có sự sống đời sau. Sự sống đời này là chóng qua. Sự sống đời sau vĩnh cửu. Sự sống thân xác mau tàn. Sự sống linh hồn bất diệt. Ta phải yêu quí cả hai sự sống. Nhưng khi không thể giữ gìn vẹn toàn cả hai thì phải biết chọn sự sống cao quí, vĩnh cửu, đó là linh hồn, là sự sống đời sau.
Người cũng dạy ta phân định thời cơ. Thời cơ chỉ đến một lần. Lỡ thời sẽ không bao giờ tìm lại được nữa. Lỡ thời có thể hỏng cả cuộc đời. Có thời cơ để rao giảng Lời Chúa. Hiện nay, Lời Chúabị che giấu, chỉ thì thầm bên tai, còn nhiều người chưa biết. Ta được cơ hội đóng góp phần mình vào việc rao truyền Lời Chúa. Nhưng sẽ đến ngày mọi sự kín đáo sẽ tỏ lộ. Lời Chúa sẽ được mọi người nhận biết. Bấy giờ cơ hội sẽ hết. Có thời cơ tuyên xưng danh Chúa. Khi còn ở trần gian, giữa những người chưa biết Chúa, giữa những thế lực thù địch, trong cơn gian nan, chính là cơ hội cho ta tuyên xưng danh Chúa. Khi cuộc đời trần gian chấm dứt, cơ hội đó sẽ không còn.
Và sau cùng là phân định nguyên lý. Thiên Chúa là chủ mọi loài. Thiên Chúa nắm quyền sinh tử. Thiên Chúa an bài mọi sự. Con người chỉ là quản lý của Chúa trong một thời gian, trong một vài lĩnh vực. Khi thời gian chấm dứt, chính Thiên Chúa xét xử và thưởng công, trừng phạt.
Khi đã có những phân định rõ ràng ta sẽ biết sợ và biết không sợ.
Biết sợ Chúa là Chủ tể mọi loài, mọi sự. Không những làm chủ thân xác mà còn làm chủ cả linh hồn. Không những làm chủ đời này mà còn làm chủ cả cuộc đời sau.
Biết sợ mất linh hồn. Linh hồn là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng cho con người. Sự sống của linh hồn là sự sống Thiên Chúa ban, hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Mất linh hồn là mất tất cả. Như Chúa Giêsu vẫn nhắc nhở: “Được lời lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn thì nào được ích gì?”.
Biết sợ lỡ thời cơ. Hãy biết làm việc khi còn ban ngày, khi trời còn sáng, khi ta còn sống. Thời cơ chỉ đến một lần, nếu ta không tận dụng sẽ lỡ cả một đời. Như những cô trinh nữ khờ dại chỉ còn đứng ngoài cửa Thiên đàng mà than khóc. Như người đầy tớ lười biếng chôn giấu nén bạc phải khóc lóc nghiến răng.
Khi đã biết sợ như thế, ta sẽ không sợ người đời, vì người đời chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ta sẽ không sợ mất mạng sống, vì sự sống thân xác nay còn mai mất, chẳng tồn tại lâu dài. Ta sẽ không sợ hình khổ hạ thân xác, vì khổ hình rồi cũng sẽ qua.
Nói không sợ cũng không đúng hẳn. Đau đớn khổ cực ai mà không sợ. Nhưng như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, dù sợ vẫn cứ bước vào cuộc khổ nạn, Người môn đệ vẫn can đảm tuyên xưng danh Chúa, vẫn kiên trì rao giảng Lời Chúa, chấp nhận tất cả những khó khăn hiểm nguy đe doạ, rình rập, chấp nhận những đau đớn thua thiệt chóng qua đời này, với niềm tin vững chắc rằng chính Thiên Chúa là Cha nhân lành an bài mọi sự, Người sẽ ban thưởng cho ta phần thưởng không gì so sánh được, đó là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1) Bạn đã từng bị những nỗi sợ nào đè nặng. Những nỗi sợ đó có chính đáng không?
2) Sống đạo là chấp nhận thiệt thòi. Bạn có dám chấp nhận thiệt thòi vì Chúa không?
3) Muốn trung thành với Chúa, bạn làm cách nào để tránh được những nỗi sợ do người đời đem đến?
15. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Những lời Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay thật mạnh mẽ và cương quyết. Ngài vẽ ra khuôn mặt của người môn đệ: phải công khai rao giảng những gì đã được nghe. Không sợ bị bách hại, nhưng tin cậy tràn đầy, vì Thiên Chúa vẫn kề cận bên chúng ta, giữ gìn mạng sống của chúng ta, và Ngài là Thiên Chúa toàn năng.
Chúng ta biết điều đó, nhưng chúng ta vẫn e sợ. Ai trong chúng ta vui mừng đi đến cái chết khốc liệt như thánh Inhaxiô Antiôkia đã vui mừng như đi vào lễ hội? Ngài mong ước được nghiền nát dưới hàm răng của thú dữ để được ở cùng Chúa Giêsu. Giáo dân muốn cứu ngài khỏi chết, nhưng ngài xin họ đừng làm gì cả, đừng ngăn cản ngài trở thành mồi cho thú dữ. Ngài chỉ mong được thành một với Chúa của ngài thôi. Đó là người môn đệ chân chính của Chúa Kitô. Còn chúng ta? Chúng ta có vui mừng chịu mọi sự khốn khổ vì Chúa không? Tại sao? Vì chúng ta không yêu mến Chúa. Yêu ai, người ta thường làm bất cứ điều gì để làm đẹp lòng người mình yêu, dù phải hi sinh, khổ cực. Nếu chúng ta thực tình yêu mến Chúa, thì chúng ta sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh vì Ngài. Chúng ta chưa phải là môn đệ của Chúa. Có lẽ Chúa phải hỗ thẹn vì chúng ta trước mặt Cha Ngài. Có lẽ nhiều người trong chúng ta có thiện chí nhưng không đủ can đảm.
Chúa Giêsu bảo chúng ta phải công bố trước mặt mọi người những gì anh em nghe Thầy nói lúc đêm hôm, hãy nói ra giữa ban ngày, những gì anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà mà rao giảng. Chúng ta đã làm như Chúa bảo chưa? Chúng ta đưa ra mọi lý do để thối thoát. Điều đó cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta muốn được bình an không có vấn đề rắc rối, chúng ta sợ người ta chê cười… Chúa cũng biết chúng ta là những con chiên ở giữa bầy sói. Nhưng Ngài vẫn bảo chúng ta đừng sợ: “Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Điều đó có nghĩa là linh hồn quan trọng, thân xác không thể so sánh với linh hồn. Hy sinh thân xác mà cứu được linh hồn thì quan trọng hơn. Chúng ta yêu thân xác đến độ không dám chịu đựng một vài cực nhọc bên ngoài: chúng ta ăn chay ngày lễ tro, chúng ta cũng ngại ngùng, rên siết, thánh lễ kéo dài một chút, chúng ta cũng phàn nàn… như thế chúng ta làm sao có thể làm chứng cho Chúa? Chúa muốn chúng ta là nhân chứng của Ngài, và chúng ta chỉ có thể làm chứng nhân cho Ngài khi chúng ta xem Ngài là tất cả, là tuyệt đối đáng yêu hơn cả bản thân chúng ta. Khi ấy, chúng ta mới có can đảm hiến dâng trọn vẹn. Rốt cùng chỉ có tình yêu chân thực, tình yêu “nguyên chất” mới có thể đưa đến sự hiến dâng trọn vẹn.
Có những sự hiến dâng để trục lợi, không có giá trị và đê hèn. Có những sự hiến dâng nửa vời, hời hợt, cũng chẳng mang lại lợi ích gì. Chúa Giêsu cho chúng ta tất cả, Chúa là Đấng tuyệt đối, Ngài đã cho đi tất cả, Ngài cũng đòi buộc tất cả. Ngài kịch liệt phản đối mấy ông Pharisêu vì họ chỉ là cái vỏ bên ngoài, những mã tô vôi. Họ làm méo mó hình ảnh của Thiên Chúa.
Chúa cũng là sự thật, Ngài không thể chấp nhận những gì là dối trá. Ngài chấp nhận tâm tình ăn năn của Maria Macđala, vì nàng thành thật. Ngài chấp nhận Phêrô sau khi chối Thầy, vì ông đã thành thật. Ngài đòi buộc chúng ta làm chứng nhân cho Ngài, thì chính chúng ta phải là bằng chứng sống động của Ngài. Ngài không hiện diện hữu hình, Ngài muốn chúng ta hiện diện cho Ngài giữa anh em chúng ta. Cái chết thảm thương của Ngài trên thập giá là một sự thật, rõ ràng, minh bạch, Ngài cũng muốn chúng ta thành sự thật hiển nhiên đó hôm nay, trong cái thế giới ích kỷ và man rợ của chúng ta. Phải dám dấn thân như Ngài, dám yêu thương như Ngài, nếu không, Ngài sẽ hổ thẹn vì chúng ta trước mặt Cha Ngài. Một lời nói nghiêm trọng chúng ta cần lưu ý.
Chúa Giêsu cũng là sự sống. Nhưng Ngài đến trong thế gian là để chết. Ngài chết vì chúng ta đã chết. Nhưng sự chết không thể thống trị Ngài, Ngài đã sống lại, chiến thắng sự chết để đưa chúng ta vào sự sống, sự sống thật, sự sống vĩnh cửu. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống hôm nay. Nếu chết là hết, thì cuộc sống này trở nên vô nghĩa. Vì thế, Chúa bảo chúng ta đừng sợ những ai chỉ giết được cái xác mà không thể giết được linh hồn. Vì chúng ta còn một cuộc sống mai sau trong hạnh phúc và vinh quang, nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô thì chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài. Và nếu sống, đối với chúng ta, là Chúa Kitô, thì cái chết phần xác này có nghĩa lý gì, mà ngược lại, nó lại là ngưỡng cửa đưa chúng ta vào hạnh phúc vĩnh cửu. Tại sao các thánh tử đạo không sợ chết? Vì các ngài tin rằng sau khổ nhục trần gian, các ngài sẽ được hạnh phúc với Đấng họ tôn thờ yêu mến.
Hơn nữa, mạng sống chúng ta vẫn quí trọng hơn mạng sống của những con chim nhỏ. Cha trên trời còn săn sóc chúng, thì chúng ta không được Cha trên trời săn sóc hay sao? Mọi sợi tóc trên đầu chúng ta, Cha trên trời đã đếm rồi. Như thế, chúng ta sợ gì? Tin cậy vào Cha và cứ vui sống hiên ngang, vì chúng ta vẫn được yêu thương. Những người dám tin thì cũng dám liều mạng. Cái chết sẽ trở nên nhẹ nhàng.
Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối, mong manh. Các tông đồ xưa kia đã yếu đuối, sợ sệt, đã chạy trốn và Phêrô chối Thầy, vì thế Ngài hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài không bỏ mặc đàn chiên nhỏ bé của Ngài giữa bầy sói dữ mà không lo chăm sóc. Ngài vẫn hiện diện giữa đàn chiên bé nhỏ của Ngài bằng tấm bánh hằng sống. Ngài vẫn tiếp tục nuôi dưỡng đàn chiên bằng chính thịt máu mình. Sống với Ngài là một bảo đảm, vì chính Ngài sống và hoạt động trong chúng ta nếu chúng ta không cản trở Ngài, nếu chúng ta hợp tác với Ngài. Niềm hy vọng của chúng ta không thể tàn lụi vì Ngài là Thiên Chúa, và Ngài luôn trung thành.
16. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hãy tin vào sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi
"Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào, phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." (Mt. 10, 29-31)
* * *
Một người mù dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ dài bắc ngang một con sông rộng. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh quơ tay vớ được sàn cầu và cố sức bám chặt vào đó. Thế là người anh đong đưa, lắc lư giữa chừng. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức.
Hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân. Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bịch xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.
Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay những mõm đá lởm chởm giữa dòng sông và tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá; người thân sẽ mất công tìm kiếm mà chẳng thấy xác anh đâu... Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.
Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: "Đừng sợ! Vì đây là mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà."
Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.
Cuối cùng kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.
Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ cao ngang đầu gối, cách chỗ anh đu đưa chừng hơn một mét. Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng đã chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình.
Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên.
Có người đang khoẻ thì sợ những chứng bệnh nan y có thể xảy đến trong tương lai; người đang có việc làm hẳn hoi thì sợ có ngày mất việc và đói khát; người đang còn trẻ thì sợ khi già yếu không ai phụng dưỡng chăm sóc; người đang yên ổn sống trong tiện nghi thì sợ mai đây khi thất cơ lỡ vận, không còn được thoải mái như hiện giờ...
Thế là con người tự tạo ra vô vàn nỗi sợ rồi để cho chúng đe doạ và khủng bố đời mình.
* * *
Nỗi sợ bom còn giết nhiều người hơn cả chính trái bom.
Ngày 30 tháng 8 năm 2005, ngay tại thủ đô Baghdad, giữa lúc có cả triệu người Hồi giáo I-rắc thuộc hệ phái Shiite trên đường hành hương, đang chen chúc nhau băng qua cây cầu Al A'ema bắc qua sông Tigris để tiến về ngôi đền Al-Kadhimiya, bỗng có ai đó la hoảng lên rằng: "có người sắp đánh bom tự sát!".
Thế là cả triệu người hành hương hoảng loạn xô lấn chà đạp nhau nhằm thoát ra khỏi cây cầu, khiến thành cầu gảy đổ làm cho rất nhiều người rơi xuống sông hàng loạt và chết đuối chồng chất trong dòng nước lạnh ngắt; một số khác bị chết ngạt do đám đông đè lên. Con số tử vong lên đến cả 1,000 người. Một tổn thất nhân mạng lớn lao khủng khiếp chỉ vì nỗi sợ bom! Nỗi sợ bom đã sát hại nhiều nhân mạng hơn cả những trái bom có sức công phá lớn nhất!
* * *
Chính vì nỗi sợ gây nên nhiều bất hạnh cho con người như thế, nên qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su ba lần nhắn nhủ chúng ta đừng sợ vì có sự quan phòng che chở của Thiên Chúa; nếu chúng ta có ngã, có rơi thì cũng chỉ ngã, chỉ rơi trong bàn tay êm ái của Người.
"Anh em đừng sợ người đời..." (Matthêu 10, 26)
"Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. (Matthêu 10, 28)
"Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." (Mt 10, 29-31)
Thế nhưng, như người mù ngu xuẩn kia, chúng ta không dám tin vào lời Chúa dạy, chúng ta vẫn cứ sợ, cứ lo và cứ để cho những nỗi sợ hãi đó đe doạ, khủng bố chúng ta suốt đời.
* * *
Lạy Chúa, xin cho con tin rằng Chúa là Đấng quyền năng hằng che chở gìn giữ chúng con và giúp chúng con vượt qua tất cả phong ba bão táp trên đường đời.
Xin cho con tin rằng dù chúng con có vấp ngã và rơi xuống, thì có bàn tay Chúa đỡ lấy chúng con. Và mai đây, khi phải từ giã đời nầy, chúng con sẽ không phải rơi vào cõi hư vô tăm tối nhưng là rơi vào lòng bàn tay nhân ái của Chúa mà thôi.
17. Chúa là sự sống - Lm. Minh Vận, CRM
Theo bản năng tự nhiên, ai trong chúng ta cũng đều sợ chết, nhưng ai lại cũng phải chấp nhận cái chết, mà không ai được quyền chọn cho mình cái chết vừa ý. Có nhiều cái chết khác nhau: Chết vì bệnh, chết vì tuổi già, chết vì tai nạn xe cộ, vì đắm tầu, vì bị chém đầu, vì bom đạn chiến tranh, vì dịch tễ, vì ăn no quá, vì đói khát, vì lạnh quá, vì nóng quá... Lại chết ở đâu vào bất cứ lúc nào, giờ nào, không ai biết trước được, có người đang khỏe cũng lăn ra chết, đang vui chơi cũng lăn ra chết, còn đang trẻ măng đầy sinh lực cũng lăn ra chết...
I. CHẾT PHẦN HỒN MỚI LÀ ĐÁNG SỢ
Cái chết đáng sợ thật, nhưng còn cái chết đáng sợ hơn gấp ngàn lần thì nhiều người lại không quan tâm đến. Đó là cái chết phần linh hồn, chết vì tội lỗi, vì đang ở trong tình trạng mất ơn nghĩa Chúa. Ai phạm tội trọng là chết về phần linh hồn, vì họ phản nghịch, chống đối Chúa, mất ơn nghĩa với Người. Người phạm tội trọng là giơ chân đạp Chúa, đóng đanh Chúa, tuyên án tử hình Chúa Kitô. Kẻ phản bội Chúa như thế là họ đã chết về phần hồn, họ đã trục xuất Chúa ra và đón rước Satan vào thống trị linh hồn mình, đáng Chúa trừng phạt đầy ải trong hoả ngục muôn đời.
II. CHÚA LUÔN BAN SỰ SỐNG CHO TA
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa làm phép lạ cho ông Nazarô chết 4 ngày được sống lại. Chúa đã ban lại cho ông sự sống tự nhiên, sự sống phần xác để ông làm tông đồ vinh danh Chúa. Ông được chọn làm Giám Mục, đi rao giảng danh Chúa khắp nơi, chinh phục muôn linh hồn về cho Chúa... Chúa cũng yêu thương chúng ta như ông Nazarô, Người luôn ban cho chúng ta sự sống, không phải chỉ là sự sống phần xác tự nhiên, những còn là sự sống phần hồn, sự sống chân thật và siêu nhiên, sự sống vĩnh cửu đời sau... Đó mới là sự sống chúng ta cần phải khao khát tìm kiếm và phải nỗ lực dùng mọi biện pháp để duy trì và làm phát triển thêm lên mãi. Sự sống đó chính là sự sống siêu nhiên, sự sống Chúa Kitô, sự sống ơn thánh. Sự sống đó làm cho chúng ta trở nên nghĩa thiết với Chúa, nên con ngoan thảo yêu dấu của Chúa và đáng được Chúa cho hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người trong tình yêu muôn thuở.
III. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC SỐNG THẬT
Để đáng được sự sống chân thật, sự sống siêu mhiên, chúng ta cần phải chết đi cho tội lỗi, chết cho các tính mê nết xấu và sống cho Chúa Kitô, sống trong ơn nghĩa thánh của Người, được hiệp nhất nên một với Người trong sự thánh thiện. Khi đó chúng ta thoát khỏi vòng nô lệ thú tính tự nhiên và quyền lực Satan hỏa ngục, cho chúng ta được hưởng niềm an bình hạnh phúc trong tâm hồn, là thứ hạnh phúc chân thật mà chỉ có những người con ngoan thảo của Chúa, mới được nếm hưởng ngay khi còn sống nơi trần gian này.
Chính Chúa đã phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và kẻ nào đang sống mà tin vào Ta sẽ không phải chết đời đời". Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Đức Kitô ở trong anh chị em thì dù thân xác anh chị em có chết, thì linh hồn anh chị em cũng vẫn sống luôn mãi".
Kết Luận
Cuộc đời chúng ta sẽ mất ý nghĩa, mất an bình hạnh phúc, nếu lương tâm chúng ta bị dầy vò bởi tội lỗi, tâm hồn chúng ta bị nặng trĩu vì bị ràng buộc và nô lệ bởi các tính mê tật xấu, bởi tội lỗi, khiến cho đời sống chúng ta phải rối loạn, mất bình an thư thái, dù bên ngoài chúng ta có sống trong giầu sang phú quí, quyền cao chức trọng, đầy đủ tiện nghi thế nào đi nữa.
Vậy để cuộc sống có ý nghĩa, có giá trị và hạnh phúc thật, chúng ta hãy sống với lương tâm luôn trong sạch, không vấn vương tội lỗi, không nô lệ thú tính. Chúng ta sẽ được bình an hạnh phúc thật ngay cả khi chúng ta gặp bất trắc nghịch cảnh, phải nghèo nàn thiếu thốn. Vì được Chúa luôn ngự trong tâm hồn chúng ta như Thiên Đàng của Người. Khi tâm hồn chúng ta có Chúa ẩn ngự, chiếm hữu được Chúa là chúng ta được hạnh phúc, và chỉ có Chúa mới là hạnh phúc chân thật làm thỏa mãn mọi khát vọng của chúng ta.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chỉ chuyên lo làm hài Chúa như Mẹ, luôn sống cho Chúa như Mẹ, sống vì Chúa như Mẹ, để chính Chúa nên sự sống chân thật và hạnh phúc của chúng ta.
18. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay thực sự là điểm quy chiếu cần thiết cho đời sống mỗi ngày trong một thời đại mà con người hầu như đã bị lạc lõng giữa muôn vàn giá trị. Chúng ta thử mường tượng khi lần đầu tiên bước vào một siêu thị, một hình ảnh của thế giới hiện đại, chúng ta thực sự bị hoa mắt, và bối rối biết bao?
Cuộc sống hôm nay với nền kinh tế thị trường, người ta quen dần với những khái niệm hàng hiệu, hàng nhái, hàng chất lượng cao... nhưng tất cả còn tùy thuộc khả năng tiếp thị: từ những thông tin, từ mẫu mã bao bì, từ cách tiếp cận. Nhưng vấn đề lớn hơn vẫn là sức mạnh của đồng tiền đã mở thông mọi cánh cửa cho cuộc sống, để rồi nó chế ngự mọi cách suy nghĩ, thậm chí còn là thước đo khả năng một con người, một tập thể. Nếu như còn một nhân tố đối trọng nào khác, có khả năng chi phối đồng tiền và sức mạnh của nó, thì có lẽ trong thực tế chỉ còn là bộ máy cơ cấu tổ chức xã hội. Đó là tất cả lối sống và làm việc của con người hôm nay. Trong cuộc sống này, ai ai cũng có thể thấy rằng thị trường và bộ máy cơ cấu thực ra mãi mãi là một biến động không ngừng, và nhiều khi đi từ thái cực này qua thái cực khác. Chính vì vậy, con người luôn bị giao động bất an. Càng làm lớn, càng phải lo sợ nhiều.
"Anh em đừng sợ" Chúa Giêsu nói với các Kitô hữu như thế. Lời mời gọi kèm theo một cách nhìn khác về cuộc sống: "những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn". Theo đó "kinh tế thị trường" có thể "giết được thân xác" với những quy luật phi nhân của nó. Và "kinh tế thị trường" tuy "không giết được linh hồn", nhưng trong thực tế của con người sau tội nguyên tổ, thì nó có thể giam hãm con người trong vòng tội lụy. Thánh Phaolô đã đặc biệt có những suy nghĩ về vấn đề này trong đoạn thư Roma hôm nay "Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết..." Chúng ta có thể thấy muôn vàn hệ lụy trong xã hội hôm nay: với thời mở cửa, thì cũng là lúc những tệ nạn xã hội: tham nhũng, hối lộ, đầu cơ trục lợi, lũng đoạn thị trường với những sản phẩm nhằm khích động bạo lực, dâm ô, xì ke, ma túy...làm tan nát nền móng đạo đức xã hội là gia đình. Người ta thừa nhận là hợp pháp việc "ly dị", "hôn nhân thử", "phá thai", "ngừa thai"... Hậu quả là xã hội bất ổn, con người càng ngày càng sống trong lo sợ hãi hùng, và nhất là giới thiếu nhi, bị khuôn đúc thành "sản phẩm phục vụ lợi ích kinh tế", không còn cơ hội đạt tới mức tự do tâm linh vốn là giá trị cao cả tối thượng của một con người. Đứng trước tình trạng ấy, sự khủng hoảng như một định kỳ không thể tránh, đã xảy ra trong mọi xã hội, cách riêng ở những xã hội phát triển cao, gây nên những đổ vỡ không lường.
Đức Giêsu không dừng lại ở mức độ một lời mời gọi, Ngài thúc bách môn đệ "Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng". Đó là phương thuốc duy nhất có thể tái lập lại trật tự cho xã hội, cho nhân loại. Thánh Phaolô đã đón nhận lệnh truyền này một cách đặc biệt, mà theo Ngài thì tất cả những gì môn đệ đã nghe biết tựu trung chính là Con Người Đức Giêsu Kitô vì "nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người." Chính vì thế "tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ" chính là nhiệm vụ và vinh dự của người môn đệ.
Có nhiều cách để tham gia vào sứ vụ loan báo Đức Kitô, nhưng cách thế căn bản nhất cho hết mọi người vẫn là một cuộc sống thể hiện niềm tin vào sự quan phòng yêu thương của Chúa Cha như chính Đức Giêsu. Nếp sống ấy đã được các tiên tri đặc biệt rao giảng, nhiều khi bằng chính đời sống của các Ngài, như trường hợp của tiên tri Giêrêmia làm chứng. Và cũng vì thế truyền thống vẫn nhìn nhận Giêrêmia như là hình ảnh loan báo Đức Kitô.
19. Các con đừng sợ
Đâu là những nỗi sợ của chúng ta? Đứng trước những lời “Các con đừng sợ, hãy sợ, chớ sợ” của bài học ngày hôm nay, làm sao không nghĩ đến những người anh em của chúng ta đang sống tại các nước độc tài hoặc tại Châu Mỹ La tinh đang bị đe dọa và bách hại? Hiện nay có nhiều vị tử đạo hơn là vào thời kỳ đầu của Giáo hội. Đây là một điều người ta cố quên tại những nước mà việc tỏ ra mình là người Kitô hữu không nguy hiểm bao nhiêu. Trước hết bài suy niệm của chúng ta phải hướng về những người có lý do để hết sức sợ hãi, và về những người có thể chế ngự nỗi sợ của mình, đó là những người rao giảng Tin Mừng một cách anh hùng.
Nhưng trong khi cầu nguyện cho những người anh em bị bách hại của chúng ta và trong khi ngưỡng mộ họ, chúng ta đừng từ chối một câu hỏi có thể là khó chịu: ‘tôi có sợ hãi không?’
Đây không phải là những nỗi sợ của “cá nhân” của chúng ta: sợ đau khổ, sợ già hoặc sợ bom hạt nhân. Tin Mừng nói về những nỗi sợ trước điều mà đức tin đòi hỏi: sợ di luỵ đến bản thân, sợ dấn thân trong việc dạy giáo lý hoặc trong việc tông đồ khó khăn, sợ mất thời giờ, tiền bạc hay có lẽ linh hồn của mình vào đó. Khi Matthêu viết những câu vừa đen tối vừa làm hứng khởi này, Giáo hội của ngài đã nếm trải đủ loại khó khăn ở bên trong và những bách hại ở bên ngoài. Ba ngọn cờ ngài giương lên rất cao, nếu cần, sẽ làm cho chúng ta can đảm.
Sự khuyến khích đầu tiên: các con đừng sợ rao giảng Tin Mừng. Trong cuộc sống công khai của mình, Chúa Giêsu không thể mạc khải tất cả. Người ta không hiểu đó là cái gì và sứ điệp của Ngài tiến triển trong bóng tối. Nhưng đã có lễ Phục sinh và lễ Hiện xuống. Những người sợ hãi của ngày thứ sáu tuần thánh đã trở thành những người linh hoạt các đám đông. Không có lời mời gọi can đảm nào mạnh mẽ cho bằng bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ. Chúng ta phải thường xuyên đi vào trong bầu không khí xác tín và can đảm của các Kitô hữu đầu tiên. Một sự sợ hãi kỳ lạ đã xâm chiếm chúng ta kể từ công đồng Vatican II, đó là sợ trở thành những kẻ “háo thắng”. Chắc chắn phải tìm lại sự đơn sơ và sự kín đáo, nhưng không phải để đắm chìm trong một Kitô giáo toàn những người câm. Giữa các tiếng la của thế giới, chúng ta phải nghe tiếng la của Tin Mừng: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng giữa ban ngày, trên mái nhà!”. Đó là một cuộc chiến tôn trọng con người. Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ đứng trước những kẻ tra tấn cương quyết bắt chúng ta chà đạp Thánh giá, nhưng khi chúng ta bị cám dỗ xấu hổ vì Chúa Kitô tại nơi làm việc chẳng hạn, thì ước gì lời cảnh báo của Ngài làm cho chúng ta trấn tỉnh đúng lúc: “Nếu các con nói về Thầy, Thầy cũng sẽ nói về các con; nếu các con chối Thầy, Thầy cũng sẽ chối các con”.
Sự khuyến khích thứ hai đối với những người anh em chúng ta bị đe doạ tra tấn và chết chóc: “Các con đừng sợ những kẻ giết hại thân xác các con, các con hãy sợ Đấng có thể giết chết linh hồn các con”. Đây là một nguyên tắc quan trọng và sáng chói để phân biệt giữa những nỗi sợ tốt và những nỗi sợ xấu. Cuối cùng chỉ có một điều cần phải sợ mà thôi, đó là người ta giật chúng ta ra khỏi Chúa Kitô, giật chúng ta ra khỏi sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Nhưng các bạn đã biết tiếng la chiến thắng chống lại mọi nỗi sợ hãi này rồi: “Nếu Thiên Chúa thân với ta, ai dám nghịch với ta?” (Rm 8,31). Không bị đe doạ lắm, có lẽ chúng ta cần phải xác minh những nỗi sợ hãi của chúng ta: chúng ta có sợ nhất những gì và những người có thể làm suy yếu đức tin của chúng ta hay không?
Sự khuyến khích thứ ba: chúng ta có một người Cha trên trời, Chúa Giêsu nói điều đó với những ẩn dụ dí dỏm Ngài dùng để truyền đạt một chân lý quan trọng: “Không có con chim sẻ đáng giá một xu nào rơi xuống đất mà không ngoài ý Cha các con trên trời, tóc trên đầu các con Ngài cũng đã đếm hết”.
Tốt hơn là người ta có thể nói đến sự quan phòng hay không? Đây không phải là sự siêu tổ chức của một Thiên Chúa có bộ óc điện toán. Đây là sự quan tâm chú ý của một người Cha nói với chúng ta qua Con của Ngài: “Con biết, đối với Ta Con đáng giá hơn tất cả các con chim sẻ trên thế giới này”.
20. Để giúp nhau đừng sợ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một trong những lời khuyên bảo của Chúa Kitô dành cho các môn đệ, trong thời gian ba năm rao giảng Tin Mừng lẫn sau khi từ cõi chết phục sinh, đó là “anh em đừng sợ!”. Bài Tin Mừng Chúa Nhật 12 Thường Niên A một lần nữa cho ta nghe sứ điệp này. Hẳn không là vô cớ khi Chúa Kitô thường lặp đi lặp lại sứ điệp ấy: Đừng sợ! Là con người, chúng ta khó tránh nhiều nổi sợ hãi, có nguyên nhân cũng nhiều mà vô cớ cũng không thiếu: sợ đói, sợ khát, sợ khổ, sợ thất bại, sợ thiên tai, sợ dịch bệnh, sợ gặp phải những điều xúi quẩy, không may… Phúc bất trùng lai mà họa vô đơn chí. Chính vì thế người ta thường hành xử kiểu khôn ngoan, tìm sự an toàn bằng cách không kiêng thì cũng dè. Những hình thức kiêng cử, úy kỵ trong dân gian là một minh chứng về nổi sợ hãi ít nhiều đã và đang hiển hiện. Là Kitô hữu, chúng ta có thoát ra ngoài cái vòng lẩn quẩn của sự bất an ấy không? Là Kitô hữu, hy vọng rằng ít có ai để cho nhiều nổi sợ hãi “vu vơ” khiến mình dây vào những chuyện mê tín. Tuy nhiên thử hỏi có ai dám vổ ngực xưng mình không hề sợ hãi bất cứ điều gì. Có nhiều nổi sợ như sợ đói, sợ khổ, sợ chết… mang tính tự nhiên dễ chấp nhận với kiếp nhân sinh. Tuy nhiên có những nổi sợ thiếu chính đáng cần loại bỏ. Được gợi ý từ ba bài đọc Lời Chúa ngày Chúa Nhật XII TN A, xin được chia sẽ một vài nổi sợ mà ta phải biết nói “không”hay là“ đừng sợ!”.
1. Đừng sợ sống trong sự thật: Xét về bình diện hữu thể, thì chỉ có một “sự thật” duy nhất đúng nghĩa đó là Đấng “có sao, có vậy” (Xh 3,14). Tất cả mọi sự hiện hữu khác khi chúng hiện hữu như chúng là, thì chúng chỉ tham gia hay thông phần vào “sự thật viên mãn” là chính Đấng sáng tạo. Xét về phưong diện luận lý hay tư duy thì sự thật là sự phù hợp giữa nhận thức với thực tại khách quan. Trên bình diện này thì nhận thức của “chiếc bình gốm” quả là có nhiều hạn chế về cả chính nó, đừng nói gì đến các chiếc bình khác hay đến người thợ gốm. Duy chỉ người thợ gốm mới hiểu rõ sản phẩm do mình làm nên.
Không sợ sai lầm khi khẳng định rằng duy chỉ có Thiên Chúa mới là sự thật viên mãn. Vì thế khi ở trong sự thật là ta đang ở trong Thiên Chúa, Đấng chăm sóc chúng ta từ đường đi nước bước đến cả số phận của từng sợi tóc trên đầu chúng ta (x.Mt 10,30). Xác tín được điều này thì lẽ nào ta lại sợ sống trong sự thật.
2. Đừng sợ đón nhận sự thật: Sự thật thì dễ mất lòng nhưng sự thật lại giải phóng chúng ta. Có nhiều khi ta biết sự thật nhưng không muốn đón nhận. Vì sự thật thường đòi hỏi ta phải thay đổi, thay đổi cái nhìn, thay đổi lối sống, đặc biệt khi sự thật lại đến từ những con người vai vế nhỏ hơn ta, chức vụ kém hơn ta. Hơn nữa, khi sự thật đòi hỏi ta phải từ bỏ một kiểu sống, một mối quan hệ hay một mối lợi nào đó. Có thể chần chừ, có thể lần lữa một thời gian, nhưng rồi sẽ có lúc ta phải trực diện với sự thật đó là lúc ta phải giả từ trần thế này.
Một trong những sự thật ta cần đón nhận đó là sự hiện hữu của tội và đầu mối của nó là thần dữ. Tội lỗi ở trong ta, ở giữa chúng ta. Thần dữ luôn rảo quanh ta như “sư tử rình mồi chờ cắn xé” (1P 5,8). Tuy nhiên Thánh Phaolô khẳng định: ở đâu tội lỗi càng lan tràn thì ở đó ân sủng càng chan chứa. Vì sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Đức Kitô (x. Rm 5,15). Đón nhận sự thật này thì thái độ của Kitô hữu chúng ta là sẽ không bi quan yếm thế và cũng không chểnh mảng coi thường nhưng sẽ luôn cẩn trong trong niềm hy vọng.
3. Đừng sợ công bố sự thật: “ Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không só gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27). Khi nói lên một sự thật là ta đã mặc nhiên nhìn nhận đồng thời đón nhận sự thật ấy. Và khi đã can đảm nói lên sự thật thì ta cũng đã chấp nhận nhữung hệ quả kéo theo. Ngôn sứ Giêrêmia là một trong những ngôn sứ cảm nhận điều này. Dù được đặt cho biệt danh “ Lão tứ phía kinh hoàng”, Giêrêmia vẫn trung kiên nói lời Chúa dạy. Giêrêmia đã phải gánh bao truân chuyên khốn khó vì đã công bố sự thật. Số phận của Vị Ngôn sứ trên các ngôn sứ là Đức Kitô còn bi thảm gấp bội. “Để làm chứng cho sự thật” (x.Ga 18,37), Đức Kitô đã phải gánh lấy án hình thập giá đau thương.
Cớ sao, đôi khi, đôi lần chúng ta ngại ngần nói lên sự thật? Dĩ nhiên là phải loại bỏ việc “không được nói” những gì theo luật dạy như những sự việc mang tính bí mật an ninh quốc gia, như bí mật tòa cáo giải, bí mật chuyện lương tâm cá nhân… hay “được nói không” tức là từ chối nói sự thật khi gây phương hại đến đức ái… Tuy nhiên, cần thú nhận rằng vẫn có không ít trường hợp “nói không được”, tức là không dám nói sự thật vì những nguyên cớ thiếu trong sáng và thậm chí là mờ ám, đen tối. Chúa Kitô đã tự xưng Người chính là Sự Thật (x.Ga 14,6). Và chúng ta đừng quên Người đã minh nhiên khẳng định: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thẩy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta, ai ai cũng dẫy đầy lầm lỗi với kiếp người “đa thọ đa nhục”, càng sống lâu càng nhiều tội lỗi. Một trong những chiêu bài của thần dữ và những người xấu, những thế lực đen tối, để kìm giữ con người trong sự nô lệ, đó là gieo rắc nổi sợ hãi bằng nhiều hình thức. Một vài hình thức thông dụng chúng thường dùng đó là trấn áp, lên án, kết án, loại trừ… Nếu như chúng ta tích cực cộng tác với ơn Chúa dệt xây một môi sinh ắp đầy tình khoan dung, sự tha thứ, ắp đầy tình yêu thương đón nhận nhau, thì chắc chắn ta đã giúp cho tha nhân và cả chính bản thân mình, thêm can đảm ở trong sự thật, đón nhận sự thật và loan báo sự thật. Chính lúc này vương quốc Nước Trời đang trị đến, một vương quốc không hề có bóng dáng của sự sợ hãi.
21. ''Đừng Sợ'' – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trên đời này có rất nhiều cái sợ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết.Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và con người dù muốn dù không vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấy rõ điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu cho thấy con đường theo Chúa là gian khổ,là vất vả, nhưng vượt thắng khó khăn thử thách thì mới đạt được vinh quang. "Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo". Con đường theo Chúa là con đường chông gai, thử thách, khó khăn. Lướt thắng những nghịch cảnh, những khó khăn thử thách, con người mới tới được vinh quang nhờ niềm tin và hy vọng “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Ga 14, 18). Trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh với các môn đệ ba điểm.
- Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy.
- Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
- Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh.hồn. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo hội. Hai mươi thế kỷ sau, Thánh Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Đức Gioan Phaolô II không ngừng lặp lại với cả Giáo Hội và cả thế giới rằng “Đừng sợ!”.
Sống trong thời nhiễu nhương, có nhiều biến động tại Ba Lan và Đông Âu; cuộc đời nếm trải bao nhiêu thăng trầm dâu bể để có thể sống, học hành, rồi làm chủng sinh, linh mục, giám mục, hồng y và giáo hoàng; Đức Gioan Phaolô II trải nghiệm qua những thách thức của nghịch cảnh, của khổ đau. Lập lại lời Chúa Giêsu, Ngài muốn nói lên tinh thần bất khuất, hiên ngang để trung thành với giáo lý Chúa Kitô, bảo vệ kỷ cương của Giáo Hội.
Đức Bênêđictô XVI tiếp nối đường hướng Đức Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi giáo hoàng, ngài đã thắp lên lời hy vọng: “Hãy tiến lên phía trước”. Lý do để “tiến lên” là bởi có Chúa ở cùng. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”.
Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13-3-2013, Ngài đã là cho nhiều người phải ngạc nhiên vì những hành động và các lời phát biểu của Ngài như là vị cha chung hiền lành và khiêm nhường. Nhiều lần ngài cũng dùng kiểu nói “đừng sợ”. “Rao giảng Tin Mừng là đích thân làm chứng về tình yêu Thiên Chúa, là vượt thắng sự ích kỷ của chúng ta, là phục vụ bằng cách cúi mình xuống rửa chân cho anh em chúng ta như Chúa Giêsu đã làm…Các con hãy ra đi, không sợ hãi, để phục vụ. Khi sống theo 3 điều này, các con sẽ cảm nghiệm được rằng người rao giảng Tin Mừng thì cũng được trở nên Tin Mừng. Ai thông truyền niềm vui đức tin, thì cũng nhận được niềm vui…Mang Tin Mừng là mang sức mạnh của Thiên Chúa để nhổ bỏ và phá hủy sự ác và bạo lực; để phá tan và đạp đổ những hàng rào ích kỷ, không bao dung và oán thù. Để kiến tạo một thế giới mới, Chúa Giêsu Kitô hy vọng nơi các bạn!..Đức tin hay đức cậy hoặc đức mến dĩ nhiên phải lấy Chúa Kitô làm trung tâm. Điều này đồng nghĩa với giáo huấn “Hãy mặc lấy Đức Kitô”, đặt niềm tin nơi Người, chứ không ở nơi ta, hay nơi của cải, tiền bạc, quyền lực.”
Nội dung lời phát biểu của các nhà lãnh đạo lớn của Giáo Hội chính là lời của đức tin và là lời của hy vọng.
Tin yêu và hy vọng sẽ lướt thắng mọi sợ hãi. Chúa Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên “đừng sợ”.
1. Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
"Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục"; "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy".
Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, luôn tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình. Người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.
Đức tin giúp con người nhận ra rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Chúa Giêsu khuyên: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Nhưng than ôi, biết bao người lại sẵn sàng chấp nhận bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ dại ngờ nhất.
2. Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
Con người - nhất là người Kitô hữu - là "con cái Thiên Chúa" (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên "giống như Ngài" (St 1,26), "theo hình ảnh của Ngài" (1,26.27), được "thông phần bản tính Thiên Chúa" (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). "Hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng", thế mà "không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa". Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, con người quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: "anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ", đến nỗi "tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi"!
Tình yêu giải phóng con người khỏi sợ hãi. Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1Ga 4,18). Tình yêu giúp chúng ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của chúng ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm.
Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà biết bao người dám chấp nhận tất cả cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che. Chúa Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng. Con người quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); và “Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi” (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài. Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.
3. Tin yêu và hy vọng
Trước nguy hiểm và thử thách, ai mà không sợ hãi. Chỉ có tin yêu và hy vọng mới giúp chúng ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12). Gian truân vẫn có thể xảy ra nhưng niềm hy vọng sẽ giúp chúng ta trung thành với Thiên Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22); “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17); “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). (NCK).
Nhờ tin yêu và hy vọng nên không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Kitô, dù cho đó là “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8, 35-39).Chính tình yêu Thiên Chúa cuốn hút con tim và làm cho người môn đệ “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ”, sống tương quan thiết thân với Người trong mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
22. Sự hăm dọa gây ra sợ hãi
Sợ hãi có thể làm tê liệt chúng ta. Nó có thể làm cho chúng ta cứng đờ và trở nên bất động. Nó có thể ngăn cản cả việc suy nghĩ lẫn hành động theo niềm tin Công giáo của chúng ta.
Một hình thức thiệt hại nghiêm trọng của sợ hãi đến từ sự hăm doạ. Đó là một loại sợ hãi mà nó có liên quan đến Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay. Khi Chúa Giêsu nói: “Đừng để cho người ta hăm dọa ngươi”, có lẽ người đang nghĩ đến vị tiên tri cao cả là Giêrêmia. Con người của Thiên Chúa này bất chấp sự đe doạ bằng cách tấn công những âm mưu làm hại mạng sống của ông, vì thế ông không sợ phát ngôn nhân danh Thiên Chúa.
Giêrêmia đã tố cáo tội lỗi của dân tộc ông, cho biết họ đã chống lại Chúa đang ở trên họ. Ông nhấn mạnh rằng tội chống đối nhau giữa họ cũng là chống đối lại Thiên Chúa. Ông kết án việc trông cậy vào sức mạnh quân đội hơn là vào sức mạnh Thiên Chúa và ông tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị phá huỷ (điều này đã xảy ta vào năm 587 BC).
Giêrêmia đã bị kẻ thù cưỡng bách đi lưu đày ở Ai Cập. Theo truyền thống, ông đã bị giết chết bởi chình những người đồng hương của mình. Những kẻ xấu thì không còn nhớ giao ước với Thiên Chúa nữa, nhưng Giêrêmia vẫn nhớ. Ông sống không phải chỉ trong những trang Thánh Kinh nhưng với Chúa Giêsu trên thiên đàng, Đấng Mêsia mà ông chưa hề biết khi ở trần gian này nhưng ông đã trung thành với Đấng ấy mặc dù không biết điều ấy.
Những người khác đến sau Giêtêmia đang hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu cũng đã đạt đến chiều cao lớn lao của hành động anh hùng là sinh lại trong niềm tin sâu xa. Chỉ trong một thế kỷ XX này mà thôi cũng có rất nhiều mẫu gương như thế. Tổng giám mục Oscar Romero ở El Salvador là một vị tử đạo vì sự công bình xã hội. Ngài đã bị những kẻ vô lương giết chết khi thấy sự bảo vệ người nghèo của vị Tổng giám mục là một đe dọa cho những tham vọng của họ. Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, thánh Maximilian Kolbe, một linh mục Balan bất chấp sự đe dọa của những người lính phát xít đã hiến mạng sống mình để đổi mạng cho một người bạn tù, là người chồng và là cha của nhiều đứa con, và người sĩ quan chỉ huy của trại tập trung đã cho thi hành án.
Một cô gái trẻ ở Ý đã bất chấp sự đe dọa của một người đàn ông, khi ông đe dọa sẽ giết cô ta nếu cô từ chối quan hệ tình dục với ông ta. Và ông đã giết cô vì cô đã chống cự mãnh liệt, hôm đó là ngày 6 tháng 6 năm 1902. Maria Goretti đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong thánh vào năm 1950. Mẹ của cô và Alexander Sereneli, người đàn ông đã giết thánh nhân, cùng hiện diện trong cuộc lễ tuyên phong hiển thánh này.
Những người đã dâng hiến và vô số những người nam và người nữ giống như họ đã có mặt suốt chiều dài của lịch sử, đã tin vào lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta cũng sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời cũng như vậy”.
Ngày hôm nay chúng ta đang bị đe dọa bởi những phong trào trong xã hội của chúng ta. Chọn trước những người ủng hộ sẽ làm cho chúng ta cảm thấy rằng chúng ta xâm phạm quyền bình đẳng của người phụ nữ khi chúng ta nhấn mạnh phá thai là một tội ác không thể nào chịu nổi. Chủ nghĩa cá nhân đang ăn mòn và là sức mạnh chống lại sự quan tâm đến những người nghèo khổ, những người không nhà và những người đói khát. Chủ nghĩa bài ngoại và tham lam sẽ trút cơn giận dữ của họ lên những người nhập cư, chính vì những điều đó mà Giáo hội luôn bênh vực cho những quyền lợi của con người.
Chúa Giêsu nói với chúng ta khi chúng ta họp nhau lại để thờ lạy Người: “Thầy thấy các con đang hiện diện nơi đây trong nhà thờ này như là dân Thiên Chúa. Thầy sẽ tiếp tục tuyên xưng các con trước mặt Cha Thầy trên trời bao lâu các con còn tiếp tục theo sát giáo huấn của Thầy, chứ không theo những người chống đối Phúc âm. Cũng đừng để họ đe dọa các con”.
23. Tình yêu giúp ta thắng vượt sợ hãi - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Cảm thấy sợ hãi khi gặp nguy hiểm là điều tốt hay xấu? Tại sao?
2. Trước hai tệ hại – cái lớn cái nhỏ – mà ta không thể tránh cả hai, thì ta nên đón nhận cái nào? Khi chịu cái hại nhỏ để tránh được cái hại lớn, thì ta nên vui lòng đón nhận hay miễn cưỡng chấp nhận?
3. Cái gì khiến cho một người mẹ xông vào đám cháy để cứu con mình? Tình yêu đối với Thiên Chúa và đồng loại có thể giúp ta thắng vượt sợ hãi không?
4. Thiên Chúa có quan tâm tới ta khi ta chấp nhận nguy hiểm vì tình yêu Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Biết sợ hãi là một ơn huệ của Thiên Chúa
Một trong những điều rất thông thường thuộc bản năng của con người là biết sợ hãi. Bản năng biết sợ hãi là do Thiên Chúa đặt để ngay trong bản tính con người, nhờ đó con người – và cả loài vật nữa – mới biết tự vệ và tránh được những khó khăn, bất lợi, tai nạn, đau khổ, chết chóc có thể xảy đến với mình. Bản năng biết sợ ấy là điều tốt lành: Thiên Chúa muốn con người biết sợ hãi, và có rất nhiều nỗi sợ hãi là tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi tạo dựng con người. Ngài đã nói với con người: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2,16-17). Qua câu Thánh Kinh này, ta thấy Thiên Chúa muốn con người biết sợ chết, và việc xa tránh cái chết bằng cách vâng lời Thiên Chúa là một sự khôn ngoan. Trong một số trường hợp nào đó, người không biết sợ có thể là do thiếu trí khôn, thiếu sáng suốt, không nhận ra những nguy hiểm đang xảy đến với mình. Người ta thường dùng từ ngữ “điếc không sợ súng” để chỉ những người này.
2. Phải sợ cái đáng sợ hơn, và chấp nhận cái tệ hại nhỏ hơn
Tuy nhiên giữa những điều tệ hại, có những tệ hại nhỏ hơn và có những tệ hại lớn hơn. Người khôn ngoan là người nhận định chính xác tệ hại nào lớn hơn, tệ hại nào nhỏ hơn. Khi có hai điều tệ hại mà ta không thể tránh được cả hai, thì người khôn ngoan phải biết sợ và tránh điều tệ hại lớn hơn cho dù chưa xảy đến, vì nó gây đau khổ nhiều hơn; đồng thời biết chấp nhận tệ hại nhỏ hơn cho dù nó sẽ xảy ra ngay trước mắt. Thật là ngu xuẩn năm ta tránh tệ hại nhỏ để phải chịu tệ hại lớn hơn.
Tuy nhiên, người có bản lãnh, có trí tuệ, mặc dù biết sợ, nhưng luôn luôn làm chủ được bản năng biết sợ của mình để can đảm chấp nhận những tệ hại nhỏ hơn trước mắt hầu tránh được những tệ hại lớn hơn; hoặc can đảm chấp nhận những tệ hại cho cá nhân mình hầu tránh những tệ hại lớn hơn cho tập thể hay xã hội. Một khi đã nhận thức và chấp nhận điều tệ hại nhỏ hơn, thì ta không còn sợ hãi nó nữa. Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, sẵn sàng tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình… Cũng cần phân biệt: người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.
Đức tin giúp chúng ta nhận ra được rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Đức Giêsu khuyên ta: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Nhưng than ôi, biết bao người lại sẵn sàng chấp nhận bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ ngu xuẩn nhất.
3. Tình yêu giải phóng khỏi sợ hãi
Tuy nhiên, chỉ biết so sánh giữa hai tệ hại để tránh tệ hại lớn và chấp nhận tệ hại nhỏ thì có vẻ tính toán quá. Thiên Chúa muốn ta hành động theo sự thúc đẩy của tình thương chứ không chỉ theo sự co cụm của sợ hãi, hay theo sự tính toán hơn thiệt. Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo (1Ga 4,18). Tình yêu giúp ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Hình ảnh một bà mẹ yếu ớt không ngần ngại xông vào căn nhà đang cháy để cứu đứa con của mình đang bị mắc kẹt trong đó là một minh họa sống động nói lên điều ấy. Chính khi thắng được sợ hãi để thể hiện tình yêu, ta mới chứng tỏ được tình yêu ấy là lớn lao và chần thật: “Friend in need, friend indeed” (bạn lúc cùng khốn là bạn thật). Tình yêu – đối với Thiên Chúa và tha nhân – có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu.
Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà ta dám chấp nhận tất cả. Nó giúp ta vượt được những nỗi sợ hãi mà thế gian có thể gây cho ta khi loan báo Tin Mùng, khi làm tông đồ, khi tranh đấu cho chân lý, công lý và tình thương. Càng sẵn sàng chấp nhận đau khổ, sẵn sàng “vác thánh giá” vì yêu thương, ta càng bớt sợ hãi. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm; do đó sở dĩ sợ hãi nhiều là do yêu thương ít.
4. Niềm tin vào sự quan phòng giúp ta bớt sợ hãi
Nhưng không phải là cứ chứng tỏ tình yêu bất chấp nguy hiểm thì chắc chắn ta sẽ gặp phải nguy hiểm và khốn khổ đâu. Vì Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che ta. Đức Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng. Chúng ta quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); và “đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài. Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.
5. Đừng quá sợ nguy hiểm khi làm việc cho Thiên Chúa
Khi sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã báo trước những khó khăn mà các ông sẽ gặp phải: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16); “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18). Nếu Đức Giêsu đã gặp nguy hiểm và bị bách hại, chắc chắn những người tiếp tục sứ mạng của Ngài cũng phải như vậy: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là quỉ vương Bendêbun, huống chi là người nhà” (Mt 10,24-25). Nhưng trong bài Tin Mừng này Đức Giêsu đã lập lại 3 lần câu “đừng sợ!” (Mt 10,26.28.31).
Trước nguy hiểm mà đừng sợ sao được? Chỉ có tình yêu và hạnh phúc do tình yêu ấy đem lại mới giúp ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12). Hoạn nạn vẫn có thể xảy ra để trắc nghiệm niềm tin và lòng trung thành của ta đối với Thiên Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22). Đau khổ vì Ngài, hay chết vì Ngài không bao giờ là vô ích: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17). Và “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Cha dành cho con. Cho con biết đáp lại tình yêu ấy một cách quảng đại bằng sự dấn thân không sợ hãi cho công việc của Cha, cho việc tạo bình an và hạnh phúc cho những người chung quanh con. Xin cho con dám chấp nhận mọi đau khổ có thể xảy đến vì sự dấn thân của con. Chỉ như thế con mới chứng tỏ được tình yêu của con đối với Cha và với mọi người là chân thực.
24. Suy niệm của JKN
CÂU HỎI GỢI Ý:
1) Phải can đảm thì mới làm ngôn sứ được, hay là phải quyết tâm làm ngôn sứ thì mới phát sinh lòng can đảm? Câu nào đúng hơn?
2) Bạn có quan tâm đến nghĩa vụ ngôn sứ (=làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Giêsu, cho chân lý, công lý và tình thương) trong đời sống không?
3) Làm sao để đừng sợ khi phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương?
SUY TƯ GỢI Ý:
Bài Tin Mừng hôm nay nói về đức "vô úy" (không sợ) hay "can đảm" mà người Kitô hữu sẽ có khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ vương đế (làm chủ) và ngôn sứ (làm chứng) mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội. Bài Tin Mừng hôm nay nói rất mạnh đến sứ mạng của chúng ta là làm chứng cho Đức Giêsu: "Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng". Sứ mạng ấy không phải là ta muốn làm hay không tùy ý ta, mà nó có thể đem đến những kết quả tốt: "Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy", hoặc hậu quả xấu: "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy".
1) Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời sống Kitô hữu
Đây là một nghĩa vụ quan trọng nhưng người Kitô hữu thường lãng quên, phần lớn là do những người có trách nhiệm giáo dục trong Giáo Hội chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ. Nói chung, người ta có khuynh hướng giản lược Kitô giáo vào nghĩa vụ tư tế (làm lễ, hay thờ phượng Chúa) mà bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là:
- vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội), và
- ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương bằng lời nói và nhất là bằng đời sống).
Thật vậy, người ta thường coi việc đọc kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng hơn cả việc sống cho có tình có nghĩa với người khác. Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, hơn cả nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị ức hiếp, đối xử bất công. Thậm chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là nghĩa vụ nữa. Hành xử như thế, người Kitô hữu đang trình bày cho thế giới bằng chính đời sống mình một thứ Kitô giáo què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Kitô giáo "thuốc phiện", đầy tính ru ngủ… Kitô giáo đó khác hẳn với thứ Kitô giáo do Đức Giêsu thiết lập, một Kitô giáo coi trọng sự thật, công lý, tình thương, mang nặng tính dấn thân và phục vụ.
Chúng ta cùng xét lại xem trong ba nghĩa vụ ấy Đức Giêsu coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài nói: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế" (Mt 9,13); "Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật" (Mt 23,23b); "Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 6,23-24); Ngài còn nhấn mạnh: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35), chứ không phải ở dấu thánh giá, hay việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ, mặc dù những việc này không được bỏ hay coi thường (Mt 23,23c).
Bổn phận ưu tiên phải làm chứng cho tình yêu, nghĩa là phải thật sự yêu thương anh chị em mình - là hiện thân của Đức Giêsu - cũng được Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: "Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói "Đây là mình Thầy" cũng chính là Đấng sẽ nói "Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!" (Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2). Có phải nhiều người chúng ta trong thực tế đã quan niệm và hành xử khác hẳn không?
Dù vô tình hay cố ý, sự giản lược hay bỏ quên hai nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất kỳ tôn giáo nào, việc thờ cúng hay cầu xin thần linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về thiêng liêng cũng như vật chất) cho người thi hành nó. Động lực thúc đẩy người ta thờ cúng hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và sự quan trọng hóa việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm mất mát gì cho giới tăng lữ mà còn đem lại cho họ rất nhiều quyền và lợi. Còn hai nghĩa vụ kia mang tính vị tha, đòi hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải xả thân, hy sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi. Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết cho quyền lợi chung của con người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành hai nghĩa vụ này, cần phải "dám", phải "vô úy", "không sợ", phải can đảm chấp nhận đau thương. Đừng nghĩ rằng có đức "vô úy" rồi thì ta mới thi hành được nghĩa vụ ngôn sứ, mà hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ ấy. Đừng sợ rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không muốn can đảm.
2. Tại sao lại "đừng sợ"?
Đức Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên ta đừng sợ:
a) Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
Ngài đã đưa ra một nỗi sợ lớn hơn để tiêu diệt nỗi sợ nhỏ hơn. Ngài nói: "Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục". Thật vậy, rất có thể một ngày nào đấy Vua Giêsu nói với ta: "Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn…" (Mt 25,41tt). Hoặc "Phường hèn nhát kia, hãy xéo khỏi mặt Ta, vì các ngươi đã không dám làm chứng, không dám nói sự thật để bênh vực công lý, bênh vực Ta khi Ta bị đàn áp, bách hại, hàm oan…". Bài Tin Mừng cũng nói: "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy". Nghĩ như thế, ta sẽ có thêm can đảm để nói và làm những gì cần phải nói phải làm. Không chịu chấp nhận tai họa nhỏ để rồi phải chấp nhận một tai họa lớn gấp bội thì thật là ngu xuẩn!
b) Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa
Con người - nhất là người Kitô hữu - là "con cái Thiên Chúa" (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên "giống như Ngài" (St 1,26), "theo hình ảnh của Ngài" (1,26.27), được "thông phần bản tính Thiên Chúa" (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). "Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào", thế mà "không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa". Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, ta quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: "anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ", đến nỗi "tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi"! Như vậy, có chuyện gì xảy đến với ta khi ta làm chứng cho Ngài lại không do thánh ý Ngài?
3. Xét mình
Như vậy, nếu có đức tin, ta sẽ không sợ. Nhưng liệu ta có đủ đức tin để không sợ hầu làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý chăng? Rất có thể ngoài miệng ta tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng kết án những kẻ tuyên xưng khác với ta. Nhưng nếu thành thực xét lại niềm tin của ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa để dám dấn thân thật sự, rất có thể ta lại thấy đức tin ta còn yếu kém hơn cả những kẻ ta kết án! Và để khỏi phải dấn thân như đức tin và lương tâm đòi hỏi, ta thường nại vào sự khôn ngoan và thận trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định được lằn ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể hèn nhát "một cách có lý" hầu không ai chê trách được! Và cũng như thầy tư tế, thầy Lê-vi và người Do Thái trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,30-37), ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ) để khỏi phải làm nghĩa vụ ngôn sứ (làm chứng) của mình. Đó quả là vấn đề tế nhị của lương tâm mà mỗi Kitô hữu cần năng tự vấn!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con là người nhút nhát, nhưng con lại không muốn sống hèn nhát, không muốn trở nên một thằng hèn. Xin ban cho con thật nhiều tình yêu đối với Cha và tha nhân, vì chỉ có tình yêu mới làm cho con can đảm thật sự. Cũng như người mẹ vì yêu thương con mà trở nên vô cùng can đảm, sẵn sàng chấp nhận đau khổ và cả cái chết khi con mình gặp nguy hiểm. Xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa!
25. Hãy sợ tội – Lm. Nguyễn Hùng
Vào một ngày đầu tháng Bảy, một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầu tẩu thuốc hút có vẻ nhàn hạ. Một người khách lạ qua đường hỏi thăm:
- Ruộng trồng bông gòn của ông có khá không?
Nông dân trả lời:
- Tôi không có trồng bông gòn vì sợ có nhiều cỏ dại.
Người kia hỏi tiếp:
- Vậy thì vườn bắp của ông ra sao?
- Tôi không trồng bắp vì sợ hạn hán.
- Vậy ông có trồng khoai tây không?
- Không có, vì sợ sâu đất.
Người khách lạ mở to đôi mắt ngạc nhiên hỏi:
- Vậy thì ông trồng cái quái gì?
- Hổng trồng gì ráo trọi để khỏi sợ gì hết.
Sợ là một yếu tố tâm lý có ảnh hưởng lớn trong đời sống con người. Bậc cha mẹ và giới giáo dục thường dùng hình phạt gây sợ hãi để huấn luyện con cái, học sinh khi còn nhỏ. Chính phủ và các thể chế điều hành nắm vào sự sợ hãi đến một mức nào đó để giữ kỷ luật, trật tự. Các hãng bảo hiểm xe cộ, nhà cửa, sức khoẻ, sinh mạng... cũng khai thác yếu điểm tâm lý này nơi con người để... phát tài. Vụ khủng bố lớn ngày 11/9/2001 và những vụ khủng bố gần đây tại Do Thái cho chúng ta thấy có những người quá khích dùng nỗi sợ hãi như võ khí để khống chế, gây áp lực trên những cường quốc như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu, Do Thái...
Sợ hãi quá mức làm cho con người bị tê liệt, không thể làm gì được giống như ông nông dân kể trên. Ngược lại không biết sợ là gì khiến con người trở nên điên cuồng, quá khích, mất quân bình như những tử sĩ Palestine ôm bom tự tử để giết người của phe Do Thái. Sợ đúng mức giúp con người xa tránh những điều nguy hiểm, bảo vệ an toàn bản thân, đem lại hạnh phúc cho cuộc sống. Vì thế sợ hãi không phải là điều hoàn toàn xấu. Nó là một phần trong bản năng tự vệ, sinh tồn của con người.
Thế nào là sợ hãi đúng mức? Đối tượng của sự sợ hãi chính đáng là những gì có thể gây tổn thương, nguy hại đến tính mạng của người ta. Khi đi vào rừng người ta sợ cọp từ trong bụi nhảy chồm ra xơi tái là điều chính đáng. Các cô nường khi thấy con gián, con chuột xuất hiện trong nhà vội vàng trèo lên bàn đứng hét không phải là nỗi sợ chính đáng.
Trong bài Phúc Âm Chúa Kitô dạy cho các môn đệ biết nỗi sợ chính đáng. Chúa nói đừng sợ những người bắt bớ ai theo Chúa Kitô vì họ chỉ có thể làm hại đến thân xác, cùng lắm giết chết phần xác. Cuộc sống ở trần gian này rồi cũng sẽ chấm dứt không sớm thì muộn. Nếu phải chết sớm để làm chứng cho Chúa Kitô thì điều đó là cách diễn tả tình yêu đến tột cùng mà Ngài đã làm gương. Đó là một vinh dự, không phải là điều đáng sợ. Điều đáng sợ Chúa muốn nói chính là tội lỗi, chống lại Thiên Chúa, cắt đứt mọi liên hệ với Ngài để tự đưa mình vào hoả ngục, nơi đoạ phạt đời đời.
Chúa muốn nhắc nhở rằng nguy hại đến thân xác không đáng sợ bằng những gì gây hại đến linh hồn. Chúng ta cần chú ý đến điểm này vì xã hội nặng vật chất này đang ru chúng ta vào cơn mê ngủ hưởng thụ, chôn vùi lương tâm mình trong vật chất. Có nhiều điều bệnh hoạn thông truyền qua phim ảnh, báo chí, Internet dưới danh hiệu "người lớn" (Adult) thật sự đang đầu độc cả người lớn và trẻ con. Có những cách gian lận chính phủ, hãng Satellite Disc, cable TV, sở làm... mà người Kitô hữu vướng vào và vẫn đi rước lễ tỉnh queo. Tất cả những điều đó đem lại cho con người thoải mái trong chốc lát, nhưng sẽ đưa linh hồn vào chốn đoạ phạt đời đời. Đó mới là điều đáng sợ và phải xa tránh.
26. Chờ đợi gì nơi cuộc sống?
Vào tuần thánh năm 1980, một đài phát thanh nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo. Cô phát biểu cảm nghĩ của mình như sau:
- Sau khi bác sĩ chuẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên, với đức tin tôi có cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy.
Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và một cây viết. Cô giải thích:
- Không ai có thể nói cho tôi biết chắc một trăm phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên, vẫn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa, nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa.
Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi:
- Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng, thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?
Cô mỉm cười nói:
- Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi. (Trích Món Quà Giáng Sinh)
"Anh em đừng sợ". Sợ hãi làm cho chúng ta ra tê liệt, làm cho chúng ta không còn là chính chúng ta nữa. Trong cuộc sống ngày nay, chúng ta có biết bao nhiêu là cái sợ: sợ gặp phải đau khổ, sợ mất việc làm, sợ cô đơn, sợ thất bại, sợ tai nạn, sợ chết... không phải riêng chúng ta. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chính các Tông đồ xưa cũng đã phải trải qua nhiều cái sợ: sợ địch thù, sợ nói trước công chúng, sợ bị bỏ rơi, và nhất là sợ chính Thiên Chúa bỏ rơi.
Tại sao lại có nhiều sự sợ hãi như thế? Phải chăng chúng ta chưa cảm nghiệm được ý nghĩa của cuộc sống đích thực, chưa thực sự đặt niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, chưa cảm nghiệm được tình yêu bao la của Ngài! Ngày nay chúng ta sợ không giám nói lên niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa trước thế giới đầy tân tiến. Nhiều người còn cho rằng một ngày nào đó, khoa học sẽ chứng minh cho chúng ta thấy đức tin vào Thiên Chúa của chúng ta sẽ vô ý nghĩa...
Không, dù tài ba mấy đi chăng nữa, dù tân tiến mấy chăng nữa con người khoa học vẫn "không một lời" trước cái chết của một người thân mình! Chỉ có đức tin vào Thiên Chúa mới có thể mang lại ý nghĩa và làm tan biến sự sợ hãi. Sức mạnh của khoa học không thể nào phá hủy được phẩm giá cao quí của con người: những người con đáng yêu của Thiên Chúa, và chỉ tình yêu Ngài mới xứng đáng. Đừng sợ, hãy sống như cô nữ sinh Áo: đi tìm cho mình một ý nghĩa cuộc sống đích thực trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ, và giám làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. "Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
27. Đừng sợ sống Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
Giêrêmia là vị tiên tri trong thời quân Babylon cai trị đất nước Giuđa. Năm 605 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, vua Nabucôđônôsor bành trướng đế quốc Canđê đến tận Palestine. Sang năm 597 B.C, nhà vua chiếm Giêrusalem và đưa một số đông người Do thái sang lưu đày bên đất Babylon. Đây là đợt lưu đày thứ nhất. Năm 587 B.C., do sự nổi dậy của dân cư Giêrusalem, đạo binh Canđê lại tiến đánh và tàn phá đền thờ. Đợt lưu đày thứ hai bắt đầu.
Giêrêmia trải qua gian đoạn thê lương đó trong lịch sử Do thái. Được linh ứng, ông lên tiếng báo trước các tai ương sẽ đổ xuống trên những kẻ phản bội Giavê, thành đô sẽ tan nát dưới bàn tay ngoại bang. Ông cũng răn đe sự lạm dụng nơi thờ phượng để trục lợi riêng tư và kêu gọi một cuộc cải cách phụng tự.
Thế nhưng chẳng ai nghe Giêrêmia, thậm chí còn tố cáo ông là kẻ gieo tai rắc vạ, là người chủ bại, là tên bán nước. Rốt cuộc ông bị bắt nhốt. Các đầu mục Do thái muốn giết ông. Người ta ném ông xuống giếng, nhưng một hoạn quan ngoại giáo đã cứu ông. Về sau, khi những người Do thái ám sát quan tổng trấn Gôđôlia, rồi vì sợ bị trả thù, nên họ đã trốn sang Ai cập, kéo theo Giêrêmia. Và trên vùng đất xa lạ này ông bị giết chết.
Phải đương đầu với bao gian khổ, bị tẩy chay và bắt bớ, nhưng Giêrêmia vẫn trung thành sống trọn vai trò người ngôn sứ của Giavê. Ông một thân một mình chấp nhận bao lăng nhục đoạ đày để Lời Chúa được công bố và rao truyền. Giêrêmia được mệnh danh là vị tiên tri khổ đau, người đã phải sống trước số phận đắng cay của một dân tộc bội bạc. Thế nhưng ông không sợ. Gian nan và cái chết không bịt miệng hay quật ngã được tâm hồn ngôn sứ của ông. Kết quả, Lời Chúa vẫn được nói lên; sứ điệp vẫn được loan truyền.
Trước khi sai các môn đệ lên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu cũng nhắn bảo các ông: "Đừng sợ chúng." Tức là đừng nhát đảm trước những kẻ gian dối và phủ nhận chân lý Phúc âm, nhưng hãy can đảm loan báo sự thật.
"Điều gì Thầy nói với anh em trong bóng tối, hãy nói ra nơi ánh sáng. Điều gì anh em nghe rỉ tai, hãy rao lên trên mái nhà" (Mt 10:27). Tin Mừng Đức Kitô phải được truyền rao cho hết mọi người. Thánh Phaolô từng quả quyết: "Quả như nơi tôi có sự thật của Đức Kitô thì sẽ không ai bịt miệng tôi được" (2 Cor 11:10).
Song trên hành trình loan báo chân lý, gieo rắc tin mừng sự sống, không phải là không có kẻ thù chống đối ngăm đe. Khó khăn, nhục nhằn, khổ đau, và cả cái chết đang chờ đợi bước chân của người ngôn sứ. Nhưng Đức Giêsu lại một lần nữa nhắc nhở: "Đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn."
Thử thách và khổ đau của thân xác không đáng là gì khi so với sự sống của tâm hồn có Đức Giêsu—Đấng là Đường, là sự Thật và là sự Sống. Thánh Phaolô đã không ngừng viết đi viết lại niềm xác tín của mình: "Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón, để lợi được Đức Kitô" (Pl 3:8). Có Đức Kitô là có tất cả. Mất Đức Kitô là mất tất cả.
Càng gắn bó với Thiên Chúa, càng yêu mến chân lý Phúc âm, thì càng dễ nhận biết giá trị linh hồn con người, và dù đang phải đứng trước khổ đau do kẻ thù mang lại, con người vẫn có thể nhìn ra tình thương quan phòng của Ngài trong cuộc đời. Người vững tin vào Đưc Giêsu sẽ khám phá ra rằng: "Tất cả mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa" (Rm 8:28).
Oscar Romero đã trở nên mẫu gương can đảm cho thời đại hôm nay khi không khiếp sợ khuất phục trước kẻ thù của Tin Mừng.
Khi mới được chọn làm Tổng Giám mục San Salvado năm 1977, Đức Cha Oscar là con người bảo thủ và trầm lặng. Nhưng ngài đã đổi thái độ khi chứng kiến những gì đang sảy ra trên quê hương đất nước. Các bài giảng của ngài đã vạch trần tội ác của chính quyền đương nhiệm và làm chấn động các thành phần liên hệ. Mặc dù tính mạng bị đe doạ thường xuyên, cũng như tận mắt nhìn thấy các thân hữu bị sát hại, ngài vẫn không khiếp sợ. Đức Cha khẳng định: "Khi gặp hiểm nguy người chủ chăn không thể nào trốn chạy hay rời bỏ đàn chiên để bảo đảm an toàn cá nhân. Thế nên, tôi cũng sẽ ở với đàn chiên của tôi cho đến cùng."
Hậu quả là ngài bị kẻ thù bắn chết lúc đang dâng Thánh lễ vào một sáng tháng Ba năm 1980.
Những kẻ sát hại Đức Cha tưởng bịt được miệng chân lý, nhưng càng bịt họ càng rơi vào tình trạng sợ hãi và thất bại. Riêng Đức Cha Oscar, mặc dầu thân xác bị ngã xuống vì hận thù, gian ác và bất công, nhưng linh hồn ngài vẫn tồn tại trong Thiên Chúa đến muôn đời.
"Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn. Nhưng hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn vào hoả ngục." Lời nhắc nhở đó không chỉ cho các môn đệ ngày xưa trước lúc lên đường rao truyền Chân lý Phúc âm, nhưng còn cho cả bạn và tôi hôm nay khi mà Chân lý đang bị xé mảnh và đóng đinh từng giây.
Ngày hôm nay có biết bao người chỉ thấy hưởng thụ thân xác là trên hết; có biết bao người cho luân lý làm cản bước tiến của nhân loại; có biết bao người sẵn sàng bóp chết kẻ khác vì tư lợi; có biết bao người đang đắm chìm trong ngoại tình, phá thai, li dị, gian tham, bất công... mà không hề mảy may giao động cõi lòng. Trước một thế giới đang làm tê liệt lương tâm con người như vậy, bạn và tôi được mời gọi: "Đừng sợ khi phải sống công chính, đạo đức. Đừng sợ khi phải yêu thương cách chân thành. Đừng sợ khó khăn đau khổ khi phải sống theo các giá trị Tin Mừng."
Chỉ khi không sợ như thế ta mới trở nên lời chứng cho niềm tin vào một sự sống thiêng liêng phong phú mà nhân loại phải tìm kiếm.
28. Sống trong tin tưởng
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chủ Nhật’)
Chúa đề ra một toàn bộ những giáo huấn mà các môn đệ phải dựa theo để đào tạo cá tính và hành động của mình: Có một lối xử sự của riêng Phúc âm. Người môn đệ cần thầm nhuần để nên giống Thày. Đàng khác gương mẫu sống động không ai ngoài chính Chúa. Vì thế như Chúa Giêsu đã gặp những chống đối, các môn đệ cũng sẽ bị chống đối nhưng họ không có gì phải sợ. Trước hết, họ hãy giữ niềm tin tưởng rằng chân lý cuối cùng sẽ tỏ rạng mặc dầu quyền lực của dối trá thống trị, họ chớ sợ tiếp nối công trình của Thày để loan truyền Tin Mừng. Chúa Giêsu nói rằng Ngài dạy trong bóng tối, điều ấy có nghĩa là Ngài trao truyền sứ điệp trong vòng các người thân tín, trong khung cảnh giới hạn và tối tăm của miền Galilêa. Ngài hành động như thế là vì thận trọng và vì muốn tôn trọng các dự định quan phòng giao phó việc rao truyền sứ điệp cho những vị khởi sự Giáo Hội. Những vị ấy sẽ phải nói trên mái nhà. Việc này nhắc đến một tập tục đặc biệt của miền Trung Đông. Buổi chiều, khi trời hạ cơn nóng, người ta hay tụ tập trên sân thượng. Nhà này nối qua nhà khác, cho nên các mái nhà làm thành một thứ công trường. Nói trên mái nhà tương đương với loan báo Tin Mừng sẽ gây ra nhiều chống đối hung bạo, Chúa dạy như thế. Từ lời cảnh cáo này, Ngài bảo các môn đệ cách thức định giá sự vật và phải đặt lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa ra sao.
1) Đừng sợ những kẻ giết được thân xác… Điều này có nghĩa là sự sống con người có những kích thước vượt quá phạm vi thể xác. Các quyền lực thế gian có thể làm hại thể xác nhưng đấy không phải là phần chính yếu của con người. Chúng không thể nào phá hủy con người trong những gì là nhân bản nhất, căn cốt nhất, những gì bất tử. Bản chất linh thiêng, nơi phát xuất những quyết định hữu trách và những khả năng chân chín hưởng nhận hạnh phục, đó mới là kho tàng đích thật của con người. Điểm thấm nhập của Phúc âm vào trong con người là linh hồn tự do, hữu trách, bất tử, được gọi tới hưởng hạnh phúc sung mãn. Người môn đệ của Đức Kitô phải biết rằng bản thể linh thiêng đáng cho ta hy sinh bản thể nhục phàm. Có thể xảy ra những trường hợp đặc biệt và các thánh tử đạo xưa và nay chứng tỏ điều ấy. Nhưng cũng có một vấn đề mà chúng ta phải nghĩ tới và có thể đặt ra bằng câu hỏi sau đây: trong cuộc sống thường ngày chúng ta có đặt vị trí ưu tiên cho các giá trị siêu nhiên không?
2) Không có một con chim sẽ nào rơi xuống ngoài ý Cha các ngươi. Các khó khăn, các cơn cám dỗ, các chướng ngại, các vấn đề, các sự trục trặc của chúng ta,… Thiên Chúa đều thấu tỏ. Giữa các khó khăn, dầu thế nào mặc lòng chúng ta luôn làm đúng khi quy hướng về Chúa Cha! Ngài canh phòng cho con cái Ngài và Ngài không để cho chúng chịu thử thách quá sức. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa cam kết sẽ can thiệp ngay trong mỗi trường hợp để giải thoát chúng ta. Chúng ta lệ thuộc vào thế giới như mắc cửi và Thiên Chúa là Đấng đã làm nên sẽ không phá bỏ đi. Nhưng chúng ta có được một phương kế phi thường: mọi khó khăn nhỏ nhặt nhất có thể làm đề tài nói chuyện riêng tư với Chúa vì Ngài biết sự khó khăn ấy. Không có gì xảy đến cho chúng ta mà Ngài không thấu tỏ. Mà Chúa Cha muốn điều tốt lành cho chúng ta. Do đó nếu chúng ta phó thác tất cả cho Thiên Chúa, mọi sự đều góp phần mưu ích cho chúng ta.
29. Can đảm, trung thành – Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong giây phút đầu tiên đăng quang ngôi Giáo Hoàng, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại lời hiệu triệu và có âm hưởng mạnh trên toàn thế giới, ngài nói: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Kitô”. Lời mời gọi này được gợi hứng từ chính lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe: “Vậy anh em đừng sợ người ta […] Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 26. 28).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách. Ngược lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đón nhận mọi hiểm nguy và ngay cả cái chết khi loan báo Tin Mừng Nước Chúa.
Đừng sợ!
Trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy có nhắc tới 365 từ ngữ “đừng sợ”. Như vậy, hàm ý cho thấy rằng: trong một năm với 365 ngày, tương ứng với 365 từ ngữ “đừng sợ”, tức là con người ngày nào cũng phải đối diện với sự sợ hãi. Vì thế, lời trấn an “đừng sợ” của Đức Giêsu chính là lời làm cho người môn đệ được an ủi trước những sợ hãi, thử thách, đau khổ trong cuộc đời.
Trang Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu tiên báo trước cho các môn đệ về những đau khổ và hệ lụy xảy đến khi các ông loan báo Tin Mừng: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10, 28).
Đi thêm một bước nữa, như một lời đảm bảo, Đức Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ biết trước những công khó của các ông sẽ không bị rơi vào quên lãng, ngược lại sẽ được Thiên Chúa ghi dấu và thưởng công xứng đáng, Ngài nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” (Mt 10, 29).
Tuy nhiên, như một điều kiện cần và đủ, đó là: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33).
Khi nói như thế, Đức Giêsu đã vạch ra con đường đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang của các Tông đồ và tất cả những ai tiếp bước trên con đường sứ vụ ấy.
Đặc tính của người môn đệ
Khi tiếp nhận lệnh truyền của Đức Giêsu về sứ vụ truyền giáo, Giáo Hội đã xác định rất rõ bản chất của mình, đó là truyền giáo. Vì vậy, là Kitô hữu, chúng ta không có lý do gì để khước từ sứ mạng cao quý này.
Tuy nhiên, nếu đã cùng một sứ vụ với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng cùng chung số phận với Thầy của mình. Nếu Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang, thì người môn đệ cũng không có con đường nào khác nếu muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong mọi hoàn cảnh.
Nếu đường của Thầy là đường của trò. Số phận của Thầy cũng là của trò. Và nếu Đức Giêsu trước kia đi đến đâu cũng có một số người ủng hộ; một số người dửng dưng; và một số người quyết giết chết Ngài cho bằng được, thì đến lượt chúng ta, con đường êm xuôi, bằng phẳng, nhưng lụa, hoa hồng chắn chắn là qua xa lạ. Ngược lại, thử thách, đau khổ, xỉ nhục, bắt bớ và giết chết lại là điều chắc chắn sẽ đến với những ai đi trên con đường ấy, bởi vì: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24).
Đứng trước những hệ lụy đó, để được thành công với sứ vụ, người môn đệ cần có những đặc tính sau:
Trước tiên là dấn thân:
Nếu vì sợ mà không dám dấn thân thì chưa phải là môn đệ. Đã là môn đệ thì phải dấn thân, mà dấn thân đồng nghĩa với cái chết.
Người đời thường nói: “Nếu sợ mà không dám vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con”; hay “ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai” (Nguyễn Bá Học).
Người môn đệ chân chính của Đức Giêsu chính là phải vượt ra khỏi sự an toàn, bảo đảm cho bản thân, để: “Như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Nên chúng ta chấp nhận ngay cả khi bị tổn thương, bắt bớ, tù đầy và cái chết, để miễn sao Tin Mừng được loan báo.
Thứ đến là không sợ hãi
Chúng ta cũng đọc thấy đây đó những câu chuyện nói về sự gương kiên trì hay vượt khó của các vĩ nhân. Có những người chấp nhận ngay cả cái chết để bảo vệ quan điểm, lý tưởng và lẽ sống của mình.
Cũng vậy, người môn đệ của Thầy Giêsu khi đã chọn Ngài làm chân lý, sự thật, lẽ sống và cùng đích cho cuộc đời, thì lẽ đương nhiên, chúng ta phải đánh đổi và chấp nhận mọi sự, để bảo vệ và đạt được mục đích ấy.
Cảm nghiệm về vấn đề này, Giáo Phụ Tertullianô đã viết như sau:
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. Câu:”Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình. Hèn gì mà trên pháp trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.
Cuối cùng là biết cậy trông vào Chúa
Thật là mầu nhiệm! Nếu bình thường, bản tính con người ai cũng rất sợ đau khổ và chết chóc, thế nhưng tại sao những môn đệ của Đức Giêsu lại vững tâm, can trường và liều mạng đến như vậy? Thưa đơn giản, đó là vì các ngài đã “Tín thác đường đời cho Chúa và tin tưởng vào Ngài” bởi vì: “Ơn ta đủ cho con” (2 Cr 12,9); và “ hằng ở với con” (Gr 1,10) “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 26,20).
Chính bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói đến sự an bài quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời của người môn đệ nếu biết cậy trông, phó thác nơi Chúa, Ngài nói: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30).
Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, dấn thân lên đường thi hành sứ vụ đến với muôn dân. Hãy đón nhận mọi thử thách gian khổ trong cuộc đời như một điều kiện cần để đạt được sự sống đời đời. Luôn biết phó thác và cậy trông nơi Chúa, vì chẳng lẽ chúng ta xin Chúa con cá mà Ngài lại cho con rắn, hay xin bánh lại cho đá? Không đời nào! Cũng vậy, những lúc nguy biến và khổ đau, Ngài thường vác chúng ta trên vai; hay trước những thử thách, bất trắc, thất bại trong cuộc đời, chúng ta luôn nhớ rằng: Chúa đóng của chính thì Ngài sẽ mở ra cho chúng ta cửa sổ; Chúa đóng đường chính, Ngài sẽ mở đường phụ, và biết đâu, cửa sổ hay đường phụ lại tốt đẹp hơn và an toàn hơn cho chúng ta???
Tin tưởng điều đó, chúng ta hãy can đảm làm chứng cho Chúa, nhất là trung thành với sự thật như lời Ngài đã phán: “Anh em đừng sợ người ta […]. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27).
Như vậy, không thể vì bất cứ mối lợi gì mà đánh đổi sự thật. Mất đi sự thật, ấy là chúng ta mất đi căn tính, bởi sự thật thuộc về Thiên Chúa, còn gian dối thuộc về ma quỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con trung thành với sứ vụ và đón nhận mọi thử thách đau thương trong cuộc đời. Amen.
30. Mạnh dạn tuyên xưng
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Vậy đừng sợ chúng": Chữ "vậy" liên kết cc. 26-27 với những gì đi trước. Tuy thế nó không loan báo một kết luận đương nhiên nhưng là khai mào cho một lời khích lệ mới dựa trên điều đã nói. Ý nghĩa chẳng phải như thế này: đừng sợ chúng vì chúng không làm gì chống lại các con được, song là: đừng sợ chúng vì các con không thể đòi hỏi một số phận ít đau khổ hơn số phận của Thầy các con (c. 24-25). Các kẻ bách hại thật đáng sợ đấy nhưng phải biết khắc phục nỗi sợ hãi này và tuyên xưng niềm tin mới. Thành ra các chữ đầu tiên đây có nghĩa: ước gì nỗi sợ hãi của các con (mà người đời có thể hiểu được cc 17-25) không ngăn cản việc các con làm chứng về Thầy.
"Bị bại lộ... bị thấu biết": Chủ từ không nói ra của hai động từ ở thể thụ động này là Thiên Chúa. Bây giờ Thiên Chúa muốn cho mọi người biết mầu nhiệm Nước Trời nhờ chứng tá các môn đồ. Lời khuyên đừng sợ hãi lần lượt dựa trên nhiều lý do. Trước tiên đừng sợ vì sứ điệp vĩ đại của Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ... Bước đầu của “các điều mới" do Chúa Giêsu đem đến thật khiêm tốn vô cùng. Ai nấy đều tưởng dễ nghiền nát hạt giống nhỏ bé đó. Nhưng cái hiện nay đang sống trong âm thầm và thinh lặng, ngày kia sẽ được tỏ lộ cách vinh quang. Chúa Giêsu thực hiện sự nghiệp Người trong tư thế một tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa... thế nhưng, Người sẽ tự mặc khải như niềm hy vọng của muôn dân (12, 17-21). Người nói trong bóng tối, nhưng đòi sứ đồ mình phải tuyên ra nơi ánh sáng. Điều Người rỉ bên tai, nghĩa là khuất mắt quần chúng (vì đám đônng không thể quán triệt sứ điệp Người trước cuộc Tử nạn Phục sinh và Hiện xuống), sứ đồ phải công khai loan báo trước mặt mọi người. Chúa Giêsu bất cần biết họ có được người chấp nhận hay không. Chính lời giảng dạy của họ sẽ luôn làm chứng về Tin Mừng cho Người; và Tin Mừng cuối cùng sẽ vinh thắng và chiếu sáng rạng ngời, như mặt trời buổi bình minh.
"Những kẻ giết được xác": Lý do đừng sợ thứ hai là sự sống đích thực của con người không thể bị xâm phạm. Các kẻ bách hại chỉ có thể giết (apokteinai) nhưng mình Thiên Chúa mới có thể diệt (apolosai) toàn thể con người. Sự sống thật (xác và hồn) thoát khỏi mọi cuộc tấn công. Nó được Thiên Chúa bảo đảm dứt khoát và không thể bị người đời giảm bớt hay cướp mất đi, ngay cả bằng việc tiêu trừ sự sống thân xác.
“Ngoài ý Cha các con": lý do đừng sợ thứ ba là: Thiên Chúa quan phòng hằng chăm sóc mọi tạo vật, kể cả những thứ vô nghĩa như loài chim sẻ. Nhưng sự quan phòng đó không phải là một định luật vô ngã của vũ trụ, song là sự trông coi có tính cách hữu ngã của Thiên Chúa hằng sống, Cha các con. Tuy nhiên, nếu chứng tá các môn đồ có thể đưa đến cái chết, thì đó không phải là ngoài ý muốn của Chúa Quan phòng, như thể Thiên Chúa, dầu âu yếm đứng bên giờ chết của vị tử đạo, vẫn không thể cứu thoát vị ấy được, nghĩa của đoạn này hoàn toàn khác. Matthêu muốn nhấn mạnh: dù đang chứng kiến cái chết của vị tử đạo? Thiên Chúa cũng không muốn tách cái chết đó ra khỏi thánh ý Ngài: sở dĩ Thiên Chúa phù giúp vị tử đạo chính là vì xét cho cùng, Ngài muốn cái chết đó. Hãy nói cho rõ hơn: Ngài không chấp nhận cái chết cách chung chung, lý thuyết, vì Ngài muốn con người sống và được cứu thoát; nhưng chính vì mong mọi người lắng nghe Tin Mừng, mà Ngài muốn có những Đấng tử đạo, là những kẻ Ngài hứa ban trong cùng một lúc cái chết bi thảm và ơn cứu rỗi.
"Ta cũng xưng kẻ ấy ra": Điểm đáng lưu ý là ở đây Chúa Giêsu không xuất hiện như là Thẩm Phán ngày sau hết, nhưng như Trạng sư biện hộ cho các tín hữu Người trước mặt Thiên Chúa Thẩm phán. Cả hai vai trò đều liên kết trong bản thân Người. Chúa Cha đã trao quyền xét xử cho Người (25, 31tt; 7, 23), nhưng chính Người lại đồng hóa với những kẻ tin tưởng cùng đi theo Người đến nỗi Người có thể đại diện cho họ (x. 10, 40; 18, 20; 25, 35tt).
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã hơn một lần dùng kiểu nói đề phòng sau đây: "Hãy coi chừng” (7, 15; 10, 17...). Nhưng Người cũng bảo, như trong các câu này (3 lần): “đáng sợ". Cả hai chuyện đều cần thiết phải sáng suốt và khôn ngoan để nhận ra đối phương, phải khách quan lượng giá nguy hiểm đang đến; nhưng sau đó đứng vững giữa mọi cám dỗ và mọi cuộc tấn công. Đức tin xua đuổi sợ hãi và niềm ý thức rằng mình thuộc về Đấng Messia, mình phải chịu đựng số phận của mình như Đấng Messia sẽ giúp ta can đảm và vững lòng.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trên đường đức tin, phải biết sẵn sàng đón nhận sự chống đối, phân rẽ, công kích, tố cáo. Phải biết thẳng tay loại bỏ những mộng ước dễ dãi về một công cuộc Phúc âm hóa đầy may mắn và tốt đẹp. Đừng sợ, nghĩa là phải chống đối, đấu tranh, kiếm tìm. Có trăm ngàn lý do để sợ: tiến bộ hay thủ cựu, khuynh hữu hay khuynh tá, bạo lực hay yếu hèn... Tất cả đều hợp lực làm lu mờ chân lý. Giữa bao cảnh bạo tàn và gian manh láo khoét ấy, vang dội lời này: “Các con đừng sợ chúng".
2) Người ta có thể chất vấn mọi Kitô hữu: bạn lo sợ cho Nước Trời hay lo sợ cho xác thân, cho cuộc sống bạn? Nỗi lo âu của bạn là lòng nhiệt thành nung nấu hay ưu tư về chính bản thân? Sau cùng bạn quan tâm lo lắng cho tha nhân hay băn khoăn về cuộc đời của bạn? Nói cách khác, bạn sợ hay tin. Vì ở đâu còn sợ, ở đấy chưa có đức tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đó còn có sự nghi ngờ triệt để này? Thiên Chúa có thể cứu ta thực không? Phải chăng Ngài đã chết? Chắc gì Ngài lưu tâm đến ta? Không sợ là vững tin giữa cơn nguy hiểm rằng ngay cả tóc trên đầu ta cũng được đếm cả rồi.
3) Trong cuộc sống cụ thể mà Kitô hữu phải làm chứng về niềm tin mình mỗi ngày, thật khó phân biệt giữa sự gan dạ cần thiết với sự táo bạo nguy hiểm vô ích. Ta quá biết rằng mọi thái độ, cử chỉ đều có thể bị chỉ trích vì không gì tốt hảo hoàn toàn. Có thể đôi khi nên thinh lặng hơn là tuyên bố chẳng đúng thời đúng lúc; nhưng đừng thinh lặng vì sợ cho bản thân, vì sợ nguy hiểm cho thanh danh mình hay cho sự thoải mái bên trong. Hôm nay được gặp Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, ta hãy xin Người giải thoát ta khỏi mọi sợ hãi và củng cố niềm tín thác cậy trông mà chỉ mình Người mới có thể ban được.
4) Việc Chúa quan phòng chăm sóc ta không có nghĩa là Ngài cất khỏi ta mọi khó khăn, nhưng là giúp đỡ ta qua mọi khó khăn gặp phải, để biến ngay cả cái chết thành một khúc ca tình yêu.
31. Đừng sợ
Khi Đức Giêsu sai các tông đồ đi loan báo công khai giáo huấn của Người và làm chứng cho Người trước thế giới Người biết rằng họ sợ hãi. Và họ có lý do để sợ hãi vì biết rằng họ phải đối đầu với khó khăn và bách hại. Vì thế, không chỉ một lần nhưng có đến ba lần, Người nói với họ anh em đừng sợ.
Một đôi khi, nếu chúng ta thiếu can đảm và cảm thấy sợ hãi thì đó là một việc bình thường và tự nhiên. Bất cứ người nào đã hoàn thành đại sự đều phải có lần biết đến sợ hãi. Chúng ta nghĩ đến tiên tri Giêrêmia (bài đọc một) đến Martin Luther King, và đến chính Đức Giêsu trong vườn Giệtsimani.
Sợ hãi không nhất thiết là một điều xấu. Đôi khi sợ hãi có chức năng bảo vệ, cảnh báo chúng ta về sự hiện diện của một nguy hiểm. Trong trường hợp này, sợ hãi là một ân huệ. Tuy nhiên, sợ hãi có thể là một dị tật. Nó có thể làm tê liệt mỗi con người. Nó làm cho một con người trở nên hèn nhát.
Ngày xưa có một con chuột rất sợ mèo. Một thày phù thủy thương hại nó và hóa phép cho nó thành một con mèo. Nhưng sau đó, nó lại sợ những con chó. Vì thế thày phù thủy đổi nó thành một con chó. Nhưng rồi nó lại sợ những con báo. Vì thế thày phù thủy hóa phép cho nó thành một con báo. Nhưng rồi nó lại sợ những thợ săn. Tới nước này, thày phù thủy bỏ cuộc. Ông đổi nó trở lại thành con chuột, và nói “Tao làm cho mày điều gì, cũng chẳng giúp được mày vì mày có tâm hồn của một con chuột”.
Đức Giêsu biết rằng các tông đồ sợ hãi. Người hiểu những nỗi sợ hãi của họ và xem xét một cách nghiêm túc. Khi Người nói với họ anh em đừng sợ hãi, Người nói với chính nỗi sợ của họ và làm cho chúng dịu bớt. Người cố gắng đem đến cho họ lòng can đảm. Người cố gắng động viên họ vượt qua sợ hãi, vì biết rằng sợ hãi có thể làm cho họ trở nên nhút nhát, không thể hoàn thành sứ vụ của mình.
Bằng cách nào, Người có thể giúp họ vượt qua những nỗi sợ hãi? Trên căn bản, qua sự tín thác và trông cậy vào Thiên Chúa. Người thúc giục họ hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã ưu ái chăm lo cho sự sống và sự chết của những thụ tạo dù nhỏ nhất và ít giá trị nhất như những con chim sẻ. Đức Giêsu bảo đảm với họ rằng Thiên Chúa biết từng chi tiết của đời họ, và sẽ nâng đỡ họ trong mỗi lần khủng hoảng.
Ngôn sứ Giêrêmia duy trì ơn gọi của ông trong suốt thời kỳ rối loạn. Thời kỳ này chứng kiến sự thất bại của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và đền thờ. Mạng sống của ông thường xuyên bị đe dọa. Tuy nhiên, dù sự gì xảy ra, ông luôn tin tưởng vào ơn gọi của mình. Vậy chính điều gì đã giúp ông có thể vượt qua những nỗi sợ hãi và luôn luôn trung thành với sứ mạng của mình? Đó là niềm xác tín rằng Thiên Chúa ở bên cạnh ông:”Đức Chúa ở bên cạnh tôi, một trang anh hùng dũng mãnh”.
Đức Chúa ở bên cạnh chúng ta. Và trong lúc cảm thấy sợ hãi, chúng ta không được để cho sự sợ hãi làm chúng ta tê liệt. Sống đời sống Kitô hữu đòi hỏi phải có lòng can đảm. Nhưng mặt khác cách sống có ý nghĩa nào cũng đòi hỏi lòng can đảm. Trong cuộc sống cái gì đòi hỏi nhiều tính anh hùng như sự can đảm thông thường.
Lòng can đảm là nhân đức quan trọng nhất, bởi vì nếu không có lòng can đảm bạn không thể thực hành bất cứ nhân đức nào với sự bền bỉ. Đức tin là một suối nguồn của lòng can đảm. Là những người sống đức tin, chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với bất cứ điều gì xảy đến.
Tự do lớn nhất là tự do thoát khỏi mọi sợ hãi, chúng ta không thể vượt qua sự sợ hãi, chúng ta không thể sống một đời sống có phẩm giá. Tuy nhiên, sợ hãi và can đảm không loại trừ nhau. Chúng có thể cùng tồn tại. Can đảm không phải là không bao giờ sợ. Nó sợ nhưng vượt qua nỗi sợ, hoặc nó tiến hành bất chấp nỗi sợ hãi. Là môn đệ của Đức Giêsu có tâm hồn của con chuột không đủ. Người ta cần có một trái tim can đảm. Xin Đức Giêsu ban cho mỗi người chúng ta trái tim can đảm đó.
32. Nhìn vào
Khi Đức Giêsu sai các tông đồ làm chứng cho Người trong thế gian, Người biết họ đặt đời sống họ trong sự nguy hiểm. Người biết rằng vì lẽ đó họ sợ. Người cũng đã biết những sợ hãi của họ và cố gắng nó giảm nhẹ nó, Người nói với họ đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Họ nên sợ Thiên Chúa, Đấng có thể bắt tội một người phải chịu số phận tệ nhất là hình phạt đời đời.
Đó là điều mà người ta gọi là sự sợ hãi lành thánh mà chúng ta phải có đối với Thiên Chúa. Kinh thánh nói “Sợ hãi Thiên Chúa là bắt đầu của sự khôn ngoan”. Điều đó có nghĩa là sợ làm mất lòng Thiên Chúa, sợ mất Thiên Chúa và sợ hình phạt đời đời. Nhưng nỗi sợ hãi này có thể là những sức mạnh thúc đẩy mạnh mẻ. Một đôi khi, sợ hãi có chức năng bảo vệ, cảnh báo sự hiện diện của một mối nguy hiểm. Trong trường hợp này, sợ hãi là một ân sủng.
Nhưng Đức Giêsu không nói với chúng ta rằng chúng ta phải đặt mối liên hệ với Thiên Chúa trên nền tảng của sự sợ hãi. Đúng ra, Người thúc giục chúng ta đặt mối liên hệ ấy trên nền tảng đức tin. Người nói: “Hai con chim sẽ có thể mua với một xu phải không? Thế mà không có một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em… Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Điều Đức Giêsu làm là cố gắng đưa chúng ta từ nỗi sợ hãi đến đức tin. Sợ hãi sinh ra hoài nghi, tạo ra khoảng cách để tự vệ và được an toàn. Đức tin dẫn đến sự gần gũi thân mật, và ý thức về sự an toàn. Một tôn giáo tốt làm cho người ta hết sợ. Một tôn giáo xấu tăng thêm nỗi sợ hãi trong lòng con người.
Khi Đức Giêsu nói “Không có một con chim sẻ nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”. Người muốn chúng ta hiểu rằng nhận thức và sự chăm sóc của Thiên Chúa bao trùm tất cả và đi xa đến mức nào. Bất cứ điều gì xảy ra cho một thụ tạo của người, dù là một thụ tạo vô nghĩa nhất, thì Thiên Chúa đều thấy và đối với người, đều quan trọng – vâng, cả trường hợp một con chim sẻ rơi xuống. Sự việc Người không ngăn cản nó rơi xuống, không có nghĩa là Người thờ ơ đối với nó. Thiên Chúa không bao giờ thờ ơ lãnh đạm về số phận của bất kỳ thụ tạo nào.
Vậy nếu Thiên Chúa quan tâm đến những con chim sẻ, chúng ta có thể tin chắc rằng Người quan tâm đến chúng ta là những con cái của Người. Dù chúng ta không có được sự bảo đảm rằng không có điều gì xấu sẽ xảy ra cho chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng cả khi phải chết, Thiên Chúa sẽ chăm sóc chúng ta.
Đức tin không phải là một ảo tưởng trấn an rằng mọi sự đều tốt đẹp. Đúng ra, nó có nghĩa là biết rõ đời sống có đầy những sự rủi ro, bất trắc, tuy nhiên vẫn vui mừng trong mọi biến cố – đó là yếu tính của đức tin.
Ngày nay, nhờ có máy Camêra an ninh, chúng ta thường hay bị nhìn, bị theo dõi bằng một con mắt lạnh lùng, vô cảm chỉ nhằm chụp lấy chúng ta khi chúng ta làm điều quấy. Cảm giác có người theo dõi chúng ta không phải là một cảm giác dễ chịu. Nhưng cảm giác có ai đó nhìn chúng ta để chăm sóc là một cảm giác yêu thương. Thiên Chúa không theo dõi chúng ta. Thiên Chúa chăm nom chúng ta. Niềm xác tín Thiên Chúa chăm nom chúng ta đem lại cho chúng ta niềm an ủi, sức mạnh và hy vọng, đặc biệt là trong những lúc khó khăn và nguy hiểm. Sau cùng chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm dịu đi những nỗi sợ hãi sâu xa nhất của chúng ta.
33. Đừng sợ
Trong Tin mừng, Đức Giêsu kêu gọi những người làm nhân chứng cho Người. Nhân chứng là những người không sợ thừa nhận mình là môn đệ của Người, sẵn sàng dấn thân vào giữa một thế giới hoài nghi và đôi khi thù địch. Sợ hãi là một điều làm cho các Kitô hữu không dũng cảm và quảng đại làm chứng cho Tin mừng. Ba lần, Đức Giêsu nói với các tông đồ anh em đừng sợ.
May mắn thay, trong Giáo Hội, luôn luôn có những người được ân sủng của Thiên Chúa, có thể vượt qua những nỗi sợ hãi và làm chứng cho Tin mừng trong những hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm.
Oscar Romero là một ví dụ đáng chú ý. Khi ông được phong làm Tổng Giám mục ở San Salvador năm 1977, ông là một người bảo thủ. Nhưng sau đó ít lâu, ông đã thay đổi khi ông thấy những điều đang xảy ra. Mỗi Chúa nhật, ông giảng tại nhà thờ lớn. Bài giảng của ông nảy lửa đến nỗi những công việc trong nước dừng lại khi ông cử hành thánh lễ. Ông đã công khai lên án những tội ác mà các nhân viên trong chính phủ đã gây ra và không ai có thể nói ra.
Ông luôn bị de dọa bị ám sát. Một vài người bạn tốt nhất của ông đã bị giết chết. Còn ông, ông không thể im lặng. Ông cũng không thể trốn tránh hoặc bỏ đi. “Khi thấy có sự nguy hiểm, người mục tử không thể bỏ chạy và để mặc cho bầy chiên chống đỡ. Tôi sẽ ở lại với giáo dân của tôi”, ông nói. Ông bị bắn chết vào tháng ba năm 1980 khi đang dâng thánh lễ. Theo Romero, không cần phải tỏ ra can đảm mà phải hiểu rằng những kẻ thù của ông muốn bắt ông phải sợ, và nếu ông không sợ họ thì họ không có quyền lực nào trên ông cả. Họ có thể giết chết thân xác ông, nhưng họ không thể giết được linh hồn ông.
Còn có câu chuyện của một linh mục, trong suốt thời kỳ diệt chủng ở Ruănđa (1994) đã cho người Tutsis ẩn náu trong nhà ông. Khi một bọn phiến loạn đến trước cửa nhà ông và ra lệnh ông đuổi họ đi, ông từ chối làm điều đó, chúng bắn ông và bắt những người Tutsis đi. Cho dù chúng ta không thể ao ước tính cách anh hùng ở mức độ cao như thế thì những người như thế là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Lời của Đức Kitô chắc chắn áp dụng cho họ:”Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Mỗi nơi đều cần chứng từ của người Kitô hữu. Đức Kitô nói: “Làm chứng cho Thầy trước mặt thiên hạ”. Chính trong thế giới chúng ta phải hoạt động tích cực và có ảnh hưởng. Làm những môn đệ bí mật của Đức Kitô không đủ. Chúng ta phải đem lại cho dân chúng chứng từ về đức tin Kitô giáo.
Trong một vài quốc gia làm chứng cho Đức Kitô là đặt đời sống mình vào nơi nguy hiểm. Nhưng trong phần lớn các quốc gia, sự việc không như thế. Nhưng những nước sau cũng cần phải có những nhân chính, bởi vì đức tin và những giá trị Kitô đã bị xói mòn. Trong những nước này, việc làm chứng có khi còn khó khăn hơn. Điều mà chúng ta có lẽ phải đối diện, không phải là sự thù nghịch hoặc chống đối, nhưng là một điều gì còn khó khăn hơn: sự lãnh đạm chết chóc. Làm chứng trong trường hợp này đòi hỏi một sự can đảm đặc biệt. Điều này có nghĩa là chúng ta phải vượt qua nỗi sợ hãi của chúng ta về điều người ta sẽ nghĩ về mình hoặc nói về mình, và nỗi sợ hãi về cái giá mà chúng ta phải trả trong những lời lẽ như “Hãy để mặc kệ chúng tôi”.
Khi Đức Giêsu nói với các tông đồ anh em đừng sợ, Người không nói rằng họ phải không bao giờ cảm thấy sợ hãi. Người biết rằng đôi khi họ phải sợ. Vấn đề là họ cảm thấy nỗi sợ hãi nào có thể là nỗi sợ hãi làm họ tê liệt hoặc trở nên quá nhút nhát khiến họ không thể làm tròn sứ mạng của họ. Đức Giêsu đã tìm cách động viên họ để họ có thể hoạt động giữa những nỗi sợ hãi.
Họ phải vượt qua sự sợ hãi như thế nào? Người thúc giục họ phải hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, Đấng chăm nom với lòng yêu thương sự sống và sự chết của họ những thụ tạo nhỏ bé nhất và ít có giá trị nhất, ví dụ như những con chim sẻ.
34. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài báo trước là người tông đồ sẽ bị bách hại nhưng khuyến khích họ đừng sợ, vì những lý do sau:
- Lý do thứ nhất: khi chịu bách hại là họ được vinh dự chia sẻ thân phận của Thầy mình (cc 24-25 đoạn phía trước).
- Lý do thứ hai: những kẻ bách hại chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn họ.
- Lý do thứ ba: người tông đồ còn được Chúa bảo vệ, bất cứ điều gì xảy đến cho họ cũng nằm sẵn trong kế hoạch quan phòng của Chúa.
- Lý do thứ tư: nếu họ vẫn trung thành và can đảm thì họ sẽ được phần thưởng là Chúa sẽ tuyên bố nhận họ là người của Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Khi thực sự yêu thương ai, người ta sẽ lấy làm sung sướng được chịu khổ vì người mình yêu. Các tông đồ đã sung sướng như thế (x. Cv 5,40-41). Xin cho con thêm tình yêu Chúa, đến độ cảm thấy vui mừng được chịu khổ vì Chúa.
2. “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy đấng ngự trên trời”: Ta tuyên bố nhận Chúa bằng một cuộc sống đạo mạnh dạn không sợ dư luận, bằng cách tận dụng những cơ hội tốt để nói về Chúa cho người khác hiểu, và bằng cách chọn lựa coi trọng những giá trị siêu nhiên hơn những giá trị tự nhiên.
3. Một người kia nói chuyện với Chúa về những giá trị. Anh hỏi Ngài:
- Giá trị một phút ở trên trời là bao nhiêu?
- Một tỷ năm.
- Giá trị một xu trên trời là bao nhiêu?
- Một tỷ đô la.
Anh liền xin: “Ngài có thể cho tôi một xu?”
Chúa nói: “Đợi một phút”. (Góp nhặt)
4. Một sĩ quan người Anh có đức tin mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, nhưng vợ viên sĩ quan sợ hơn cả, còn ông thì bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ ông trách là ông không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Ông không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt nhưng liền sau đó bỗng cười lớn tiếng không tỏ gì là sợ hãi nữa.
- Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em?
- Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương em!
- Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Cha anh là người hằng yêu mến anh? (Góp nhặt)
5. Nữ bác sĩ Sheila Cassidy đến nước Chilê làm việc phục vụ cho dân nghèo. Một hôm cô trị bệnh cho một lãnh tụ phe đối lập. Chính quyền biết chuyện nên bắt giam cô. Cô đã thuật lại như sau: “… Sau 4 ngày bị giam cầm và tra tấn, họ để tôi một mình trong phòng giam… Nhưng lạ thay, tôi không cảm thấy cô đơn và buồn chán, trái lại còn cảm thấy vui nữa, vì tôi biết có Chúa ở với tôi”. Bác sĩ Sheila đã cảm nghiệm được điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn chúng con”.
Hãy tự hỏi bạn sợ điều gì nhất trong đời? Và bạn sẽ nói gì với Chúa về nỗi sợ đó?
6. “Lạy Chúa, con không xin Chúa cho con khỏi bị đau khổ, mà chỉ xin Chúa đừng bỏ con một mình trong lúc khổ đau” (Thánh nữ Bernadette Soubirous)
35. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái – Sợi Chỉ Đỏ
Chủ đề: Vững lòng trông cậy Chúa dù đang sống giữa khó khăn
Sợi chỉ đỏ: Các bài đọc hôm nay nêu lên ba tình huống khó khăn khác nhau:
- Ngôn sứ Giêrêmia bị dân do thái tìm cách làm hại (Bài đọc I - Gr 20,10-13): "Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng"
- Tác giả Tv 68 bị những người thân thích bài xích (Đáp ca - Tv 68): "Chúa nghe những người cơ khổ"
- Các sứ giả Tin Mừng bị bách hại (Mt 10,26-33): "Tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi"
Những vai chính trong 3 bài đọc trên đều vững lòng trông cậy nơi Chúa, với niềm xác tín được Chúa bảo vệ và giải thoát.
- Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ): "Do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần"
Minh họa
"Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ" (Mt 10,31)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Cuộc sống của chúng ta trên dương thế này thường xuyên gặp phải biết bao khó khăn gian khổ. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác quyết rằng nếu chúng ta trông cậy vào Chúa thì Ngài sẽ bảo vệ và giải thoát chúng ta.
Trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa củng cố lòng trông cậy của chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
- Nhiều khi gặp đau khổ, chúng ta đã bỏ đọc kinh cầu nguyện.
- Nhiều khi vì quá khổ, chúng ta phiền trách Chúa.
- Nhiều khi trong lúc khó khăn, chúng ta mê tín dị đoan.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 20,10-13)
Giêrêmia là một ngôn sứ phải nhận lãnh một sứ mạng rất khó khăn và cay đắng, đó là vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
Nhưng giữa những khó khăn và khổ sở đó, Giêrêmia luôn trông cậy vào Chúa. Ông tin vững vàng rằng "Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".
2. Đáp ca (Tv 68)
Thánh vịnh này là lời cầu nguyện của một người công chính đáng bị kẻ ác hãm hại, cùng một tâm tình với ngôn sứ Giêrêmia. Giữa những lúc khó khăn như thế, tác giả vẫn ngợi khen Chúa và tin chắc rằng Ngài sẽ nhậm lời.
3. Tin Mừng (Mt 10,26-33)
Đoạn Tin Mừng này tiếp nối những lời Đức Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Ngài khuyến cáo họ rằng có thể họ sẽ gặp nhiều khó khăn và cả bách hại nữa. Nhưng Ngài bảo họ "Đừng sợ", bởi vì Chúa quan phòng luôn ở bên họ để che chở: "Tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả rồi"
4. Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ)
Văn mạch: Trong đoạn được trích đọc tuần trước, Phaolô đã bắt đầu luận đề người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà là nhờ đức tin.
Trong đoạn thư hôm nay, Phaolô đưa ra lập luận thứ nhất để chứng minh luận đề ấy:
- Do tội của Ađam mà tất cả loài người phải gánh hậu quả là cái chết.
- Do công của Đức Giêsu Ađam mới mà tất cả loài người được ơn nghĩa dư đầy của Thiên Chúa.
Như thế, con người được ơn nghĩa của Thiên Chúa là nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
1. Bàn về sự sợ
Con người có nhiều nỗi sợ: sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân v.v.
Cái sợ làm tê liệt con người: không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống v.v.
Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ: sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin Mừng v.v. Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo "đừng sợ". Ngài không chỉ cho chúng ta cách làm thế nào để khỏi sợ. Lý do duy nhất Ngài đưa ra là gương của Ngài:
- Chúng ta là môn đệ của Ngài. Vì thế việc chúng ta gặp khó khăn và bách hại không có gì lạ, vì Thầy của chúng ta cũng đã từng bị như thế và còn bị năng hơn chúng ta nhiều. Vì vậy, nếu là môn đệ Đức Giêsu thì đừng tìm cách trốn tránh khó khăn và bách hại.
- Hãy noi gương Đức Giêsu mà can đảm giữ vững lập trường của mình và tiếp tục sứ mạng của mình, không phải bận tâm về bất cứ điều gì khác: a/ không cần bận tâm đến mạng sống bởi vì ngay cả mạng sống một con chim sẻ nhỏ bé mà còn do Chúa định đoạt, huống chi mạng sống con người; b/ không cần bận tâm đến sự chống đối của người đời, vì "Ai tuyền xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy".
Cha Charles de Foucauld đã nói: "Cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là chúng ta không bao giờ sợ gì cả"
2. Suy nghĩ về Chúa Quan Phòng
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt: gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói "Đó là ý Chúa"; thành công hay thất bại, họ cũng nói "đó là ý Chúa"; trước mọi khó khăn, nguy hiểm, họ nói "Để Chúa lo"… Phải chăng thái độ đó là quá ngây thơ: đành rằng có Chúa đó, nhưng bản thân mình cũng phải xoay trở chứ! "Hãy tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ giúp thêm"!
Nhưng suy cho cùng, thái độ tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng có những cơ sở rất vững vàng:
- Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống. Tin như thế là rất đúng, vì Thánh Kinh hằng lặp đi lặp lại biết bao lần chân lý ấy: "Ta hằng ở với con" (Gr 1,10), "Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20)…
- Người phó thác vào Chúa cũng tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không điều gì xảy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa. Tin như thế cũng rất đúng: "Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi" (bài Tin Mừng hôm nay)
- Người phó thác vào Chúa còn xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và mình là con. Một người Cha toàn năng và hết sức yêu thương con như Thiên Chúa thì chắc chắn biết cách an bài cho con cái mình những điều tốt nhất: "Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì" (Mt 632).
3. Im hay nói?
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta "Hãy la lớn trên mái nhà" điều gì đã "thì thầm vào tai". Lời chúc dữ của Người: "Ai từ chối Ta trước mặt người đời, Ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời".
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc "không còn lời lẽ". Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: "Tất cả những gì che dấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì dấu diếm rồi mọi người sẽ biết". Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói "vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng viên đã nói: "Có thời để nói, có thời để im lặng". Những thời điểm này nối tiếp nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn "nói lên được điều gì nữa". Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, l61i suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt.
Mong sao kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong lòng họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ. (G. Bessière, Dieu si proche, DDB, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 211-212).
4. Chuyện minh họa
a/ Đức Giám mục Oscar Romero
Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe.
Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói: "Một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi". Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đang lúc dâng Thánh Lễ.
b/ Trái tim chuột
Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: "Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột".
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Tin tưởng mãnh liệt vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, và hân hoan sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận, phải là quyết tâm của từng người kitô hữu. Trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của người tín hữu trên toàn thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần chăm sóc giữ gìn Người / để nhờ Người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắc son.
2. Ngày nay / nhiều kitô hữu / nhất là các kitô hữu trẻ / mất đức tin chỉ vì vốn liếng giáo lý không đủ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dùng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng vững chắc và trưởng thành hơn.
3. Nhiều tín hữu hiểu một cách đơn giản rằng / tin là giữ một số lề luật của Chúa và Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu hiểu rằng / tin là gắn bó cùng Chúa và dấn thân theo Người đến cùng.
4. Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Chúa / và hiên ngang sống đức tin / phải là thái độ căn bản của mọi tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn khôn ngoan chỉ tin tưởng một mình Chúa / và mạnh dạn tuyên xưng đức tin trong đời sống thường ngày.
CT: Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn rất yếu kém, chúng con dễ hoang mang giao động trước mọi thử th1ch trong cuộc sống. Vậy, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ…
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc lời "Xin tha nợ chúng con", chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta không phó thác vào sự quan phòng của Chúa.
- Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Thánh lễ đã hết, anh chị em hãy mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa giữa đời.
36. Đừng sợ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1) Được tiếp đón hay bị từ chối như Thầy...
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, họ mệt mỏi rã rời như dẫn đàn chiên không người chăn người liền kêu gọi 12 môn đệ mà Người gọi là tông đồ (nghĩa là được sai đi).
Nhưng trước khi sai họ đi "đến với những chiên lạc là Israel", Người còn nói với họ một "diễn từ sai đi", là diễn từ thứ 2 trong số 5 diễn từ chính của Đức Chúa Giêsu trong Phúc Âm thứ nhất. Sách Bài đọc chia ra hai bài, hôm nay và Chúa nhật tuần tới, nhưng không chia ra hoạt những nhắn nhủ các nhà truyền giáo:
Một đàng là những nhắn nhủ về sự dứt bỏ vô vị mà họ phải làm chứng, về cách họ phải cư xử khi được đón tiếp hay bị chối từ khi loan Tin Mừng (câu 9-15).
Đàng khác là những cảnh báo liên hệ đến sự bắt bớ mà họ sẽ phải chọn (câu 16-23) vì Thầy, nếu họ trung thành với sứ điệp của Người (câu 24-25): "Nếu chủ nhà đã bị coi là Belzebu, thì những người trong nhà sẽ còn bị xử tệ hơn". Hai câu cuối cùng này là cao điểm của bài diễn từ Cl Tassin bình luận: "Hai câu này nhìn sứ mạng " Kitô hữu như đồng bộ với thái độ của Đức Giêsu: cũng Người hiến mình cho đoàn chiên mệt mỏi lang thang, và chấp nhận những thử thách như Người, đó là sứ mạng đích thực của mọi Kitô hữu. Mười hai tông đồ vẫn là những mẫu mực không so sánh được về truyền giáo, không phải do những thành công, nhưng do các Ngài đã cùng Đức Giêsu cảm nghiệm đến cùng cảm tính định mệnh của các ngài.
2) Những người được sai đi của Đức Giêsu không được sợ nói.
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết sự bắt bớ đang chờ họ và họ thấy rõ nguyên nhân của sự bắt bớ - căn tính sâu xa giữa Người và các môn đệ - Đức Giêsu hướng dẫn họ thái độ phải có khi gặp thử thách. Một tư tưởng hướng dẫn chạy xuyên suốt các lời Thầy, một điệp khúc tạo nên dấu chấm câu: “Các con đừng sợ!... Đừng sợ! Đừng sợ gì cả…”
Đừng sợ, dám nói, vì lời họ nói không phải là lời của riêng họ nhưng là lời Đức Giêsu, lời có hiệu quả của lời Thiên Chúa. Do đó, môn đệ đừng mất can đảm nếu thành công trong hiện tại còn mỏng manh, thậm chí còn chưa thấy; như mặt trời mọc lên chiến thắng đêm đen, sứ điệp rồi cũng sẽ xuyên thủng tăm tối. Đừng sợ khi bị bắt bớ, vì nếu những kẻ bắt bớ chỉ có quyền trên sự sống dương trần (thân xác) chỉ mình Thiên Chúa nắm giữ đời sống vĩnh cửu và phán quyết của Người có thể huỷ diệt trần thế con người (cả xác lẫn hồn). Đừng sợ, vì Thiên Chúa, Đấng xét xử ta cũng là "Người Cha" chăm sóc mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, và yêu thương từng người con bằng sự âu yếm của người mẹ: "Các con đáng giá hơn những con chim sẻ nhiều". Đối với những ai gắn bó sự nghiệp của họ với sự nghiệp của Người đến liều cả mạng sống, Đức Giêsu cũng hứa sẽ gắn bó với họ trong ngày phán xét. Người sẽ là luật sư biện hộ cho họ "Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, Ta sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Trong bàn tay Thiên Chúa. (Mgr. L. Daloz, Le Règne de Cieux Siest approehé, DDB).
Với môn đệ được sai đi, Đức Giêsu không hứa hẹn một đời sống dễ dãi. Nhưng Người cũng không để các ông trắng tay. Người bảo đảm cho các ông có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người cũng trấn an các ông rằng từ nay các ông được Chúa Cha gìn giữ nên họ sẽ không lo gặp sự dữ. Chúng ta sống trong bàn tay của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Loan báo Phúc âm đâu phải là của riêng của những bậc anh hùng, những con người có óc phiêu lưu mạo hiểm! Loan báo Phúc âm đòi có sự can đảm, có sức mạnh, nhưng không phải sự can đảm hay sức mạnh của riêng ta. Ta tìm thấy sự bảo đảm vẹn toàn ấy ở nơi Thiên Chúa. Dù bản chất ta yếu ớt, nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong việc truyền giáo. Các tông đồ đã chẳng nhát sợ đó sao? Chính Thánh Thần Thiên Chúa trong ngày Lễ Hiện xuống đã ban cho họ sức mạnh để họ ra khỏi nhà, đến với mọi người. Thánh Phaolô tự phụ vì những yếu đuối của Ngài, vì qua những yếu đuối ấy, quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. Ta là con của Người Cha trên trời, của Thiên Chúa sáng tạo và giữ gìn tạo vật của Người. Là con Thiên Chúa thì khác hẳn với chỉ là tạo vật "Người ta chẳng bán hai chim sẻ một đồng đó sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất là không do ý Cha. Còn các con, ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm rồi". Ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người yêu ta như cha, như mẹ ta. Vì thế, Đức Giêsu luôn khuyên ta đừng sợ hãi. "Đừng sợ, các con có giá trị hơn chim sẻ kia nhiều".
Tuyên xưng niềm tin khi ta sống giữa những người đồng đạo, trong một cộng đoàn Kitô giáo thì thật dễ. Cho dù ở trong cộng đoàn, ta vẫn có tự do. Nhưng điều tối quan trọng, cực kỳ khó khăn đó là ta dám hành xử, ăn nói theo đức tin giữa một thế giới lãnh đạm, nghi kỵ hoặc thù ghét. Đức Giêsu đòi hỏi ta điều đó. Đức Giêsu sai môn đệ để họ đi rao giảng Nước Trời cho thế gian, chứ đâu phải chỉ để họ rao giảng cho nhau. Không đủ nếu ta chỉ mời người khác đến tham dự các buổi họp, thánh lễ vì ở đó, ta vẫn thường nói về Đức Giêsu Kitô, ta chẳng phải liều lĩnh gì cả, ta vẫn ở "nhà" ta, trong khuôn viên của ta. Nhưng cũng không cần phải ra ngoài đường phố mà rao giảng. Tuy nhiên, khi dám nói một lời trong xã hội ta sống, trong gia đình, với các bạn bè, các đồng nghiệp, "tại nhà họ", không khiêu khích, nhưng cũng không sợ hãi, đó là gieo hạt giống Nước Trời vào thúng bột trần gian... Đó là một liều lĩnh, nhưng lười biếng, im lặng còn là một liều lĩnh lớn hơn...
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong trung tín với Chúa. Chúng con chỉ đứng vững nhờ sức mạnh Chúa ban. Chúa là sự vững mạnh, là tảng đá cho chúng con nương tựa. Xin cất khỏi chúng con mọi sợ hãi loài người. Xin hãy tuyên xưng chúng con trước mặt Cha để Người ban cho chúng con đủ sức tuyên xưng Chúa trước mặt người đời. Xin cho chứng từ của chúng con là một bằng chứng cho mọi người thấy rằng Chúa chính là bảo đảm cho chúng con trước mặt Chúa Cha. Xin cho lời tuyên xưng đức tin của chúng con cho mọi người biết Chúa là Con yêu dấu của Chúa Cha. Khi chúng con sợ chống đối hay chế diễu, không dám tuyên xưng danh Chúa, xin hãy tha thứ cho chúng con, như Chúa đã tha thứ cho Phêrô. Nếu chúng con phản bội, thì Chúa vẫn một mực trung tín. Xin nâng đỡ chúng con để dù chúng con sợ hãi, tình yêu của Chúa vẫn là mạnh nhất. Để qua sự yếu đuối của chúng con, chúng con biết làm chứng về sức mạnh của ơn Chúa tha thứ.
2) Im hay nói (G. Bessierè, Diêu si proche, DDB).
Ngày nay Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên, Đức Giêsu yêu cầu ta: "Hãy la lớn trên "mái nhà" điều gì đã "thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: "Ai từ chối Ta trước mặt người đời, ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời".
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc "Không còn lời lẽ". Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe thấy điều không diễn tả được. Làm sao trẻ em, và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: "Tất cả những gì che giấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói "vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng Viên đã nói: "Có thời đã nói, có thời để im lặng. Những thời điểm này tiếp nối nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn "nói lên được điều gì nữa". Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt. Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
37. Đừng sợ! – Lm. Nguyễn Khoa Toàn
It is not death that a man should fear, but he should fear never beginning to live.”
Marcus Aurelius, một điệp viên bị bắt và đuợc giải giao tới trước mặt một vị tướng. Ông này cho người tù do thám kia được chọn hoăc bị xử bắn hoặc phải đi qua một cửa đen. Người tù lưỡng lự một chút rồi chọn án tử hình. Khi bản án đuợc thi hành xong, vị tướng nói cùng những người hầu cận: “Người ta thường chọn những gì đã biết hơn là mạo hiểm phiêu lưu đến những gì chưa biết!” Một người liền hỏi: “Thế việc gì sẽ xảy ra sau cánh cửa đen kia?” “Tự do!” vị tướng lạnh lùng trả lời.
Đã có bao lần trong đời sống, khi phải diện đối diện với sự thật, chúng ta thường sợ. Không phải kính sợ Thiên Chúa mà là sợ hãi dư luận. Sợ người này buồn! Sợ người kia bối rối! Sợ ai đó ở gần ở xa suy nghĩ hoang mang. Và cái sợ vẫn vơ mơ hồ không tưởng ấy cứ vương vít. Cứ ám ảnh hằng hằng. Cứ xoáy vào óc. Cứ len lấn vào tim làm ngại bước chân đi. Rồi ngại không dám nhìn vào và nói lên sự thật. Cuối cùng, sự quẫn trí kia đã làm chúng ta sợ Sự Thật. Rồi lạc Đuờng. Và mất đi Sự Sống…
Thật thế, triết gia Bertrand Russell đã viết: “Sợ hãi là nguyên nhân đưa đến mê tín dị đoan và dã man tàn bạo.” Và theo Russell, “chế ngự sợ hãi là bước đầu đưa đến sự khôn ngoan.” Sợ đã làm con người cùn nhụt, bất toại về ý chí: thay vì giúp tiến bước thì kéo thụt lùi dần; chiến thắng trong tay thành chiến bại trong tim. Sợ như một vi khuẩn lan nhanh. Một người sợ thì cả nhà, cả xứ, cả xóm làng đều sợ, như Gilbert Murray nhận xét: “Nếu lao phổi là bệnh dịch trắng thì sợ hãi là bệnh dịch đen.”
Trong diễn văn nhậm chức năm 1933, Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt đã phát biểu: “Điều duy nhất mà chúng ta phải sợ chính là sự sợ hãi.” Nói một cách khác, điều mà chúng ta cần phải chế ngự là sự sợ hãi nếu không thì sự sợ hãi sẽ chế ngự chúng ta.
“Đừng Sợ!” Chúa Giêsu trấn an mỗi chúng ta khi Người đưa tay cho Phêrô run rẫy bấp bênh đi trên mặt nuớc. Và Người đã cảnh tỉnh những ai chỉ biết sợ loài nguời mà lại không mảy may sợ Đấng tạo dựng loài người, vì càng sợ hãi con người bao nhiêu, càng khinh dễ Con Người bấy nhiêu.
Như trong “Dead Man Walking” - một cuốn phim rất cảm động kể lại câu chuyện có thật về Sr Helen Prejean và công việc mục vụ cho những người chờ nhận bản án tử hình, trong đó có Matthew Poncelet. Một đoạn phim, theo tôi, có ý nghĩa nhất là mẫu đối thoại giữa hai người. Poncelet khăng khăng chối tội nhưng rồi lại nói: “Tôi biết Chúa thương và tha thứ cho tôi.” Sr Prejean liền thách thức Poncelet đối diện với sự thật: “Anh không thể cho rằng Chúa sẽ tha thứ khi anh không dám thú nhận tội mình làm!”Rõ ràng là Poncelet chỉ sợ chết chứ không một mảy may sợ Chúa. Nhưng rồi với sự can đảm kiên trì và với lòng nhân ái rất bao dung, Sr Prejean đã giúp Poncelet diện đối diện với sự thật để có thể vững bước chân trên Đường gặp Sự Thật. Và Sự Sống.
Cuốn phim chấm dứt và đã làm cho nhiều người xúc động đến rơi lệ khi Poncelet, ngay trước khi chết, đã thú nhận sự thật ghê tởm mình làm để có thể đạt đến Sự Thật một đời mong muốn. Nếu muốn bước đi trên con Đuờng để Sống và làm chứng nhân cho Sự Thật, chúng ta không nên chiều theo những thị hiếu tầm thường, những lời nói thiếu bề dày suy nghĩ và những cái nhìn thiếu chiều sâu toan tính. Chúng ta phải -ought to- luôn vững tin vào Chúa. Và vào chính chúng ta. Hãy đừng sợ người đời.
Hãy đừng ngại khó khăn. Và như Seneca đã nói, “không phải vì sự việc khó khăn mà chúng ta không dám; vì chúng ta không dám nên sự việc mới khó khăn.” Thuyền đời bé lắm nhưng đại dương thì cơ hồ như vô tận, nhưng không vì thế mà lại lỏng tay chèo vì Thần Linh Sự Thật đang thổi hơi giúp thuyền chúng ta luôn no gió căng buồm…
38. Đừng sợ – Fernandez
1) Dũng cảm trong đời thường
Trong bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay (Mt 10,26-33), Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta đừng sợ, nhưng hãy sống như con cái Thiên Chúa. Nhiều khi chúng ta tình cờ gặp những người luôn bị cuộc sống nhọc nhằn này đè nặng. Nghịch cảnh và trở ngại hình như cứ chực giăng mắc bủa vây những khi người ta chỉ dựa vào sức riêng con ngưới để thắng vượt chúng. Chúng ta cũng cũng thường gặp những Kitô hữu hay xấu hổ khi phải nói về Chúa hay phải nói không với cái xấu và trong những lúc cần phải xưng mình là những môn đệ trung thành của Đức Kitô. Họ sợ những lời người ta nói ra nói vào, sợ luôn những nhận xét phê bình, sợ phải lội ngược dòng đời hay bị nhòm ngó để ý. Chắng lẽ giữa môi trường ngoại giáo nơi mà người ta thường đề cao những giá trị tiền tài của cải một Kitô hữu lại không thể để cho người ta chú ý đến mình hay sao?
Chúa Giêsu nói chúng ta đừng quan tâm đến phê bình chỉ trích hay vu khống. "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết” (Mt 10 26-33). Thật là xấu hổ nếu như có ai khám phá ra chuyện chúng ta e ngại loan báo khắp năm châu bốn bể cho mọi người biết chân lý mà Thiên Chúa đã ký thác cho chúng ta! Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai thì hãy lên mái nhà rao giảng. Nhiều khi chúng ta giữ yên lặng vì đó là hành động tốt nhất phải làm, có thể là vì những lý do khôn ngoan siêu nhiên hay động cơ đức ái nhưng không bao giờ được viện cớ sợ hãi hay nhút nhát. Là những Kitô hữu, chúng ta không được làm bạn với bóng tối hay trở thành những xó xỉnh ẩn nấp; chúng ta là bạn hữu của ánh sáng, của công khai cởi mở trong ngôn từ và hành động. Thời đại chúng ta đang sống đây lại càng tới mức cần chúng ta công bố chân lý sự thật một cách rõ ràng minh bạch. Sự giả dối và ngộ nhận hiện đang dẫn đưa nhiều tâm hồn tới chỗ lầm đường lạc lối. Có vẻ là phi lý, nhưng nhiều khi ngay cả học thuyết đúng đắn, những quy tắc ưlng xử luân lý (vốn thường theo sát lương tâm người ta trong lao động và trong cuộc sống gia đình, là lẽ thường tình của lương tri) lại bị coi nhẹ kém cả học thuyết sai lầm kỳ quặc mà người ta coi là “tiên tiến” hay “tiến bộ”.
Chúng ta không nên sợ mất những uy tín hào nhoáng giả tạo, hay bị chỉ trích phê bình hay thậm chí có khi bị sát hại vì chúng ta lội ngược dòng hay đi ngược lại những gì đang được coi là thịnh hành. Chúa Giêsu quả quyết rằng: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thằy, Đấng ngự trên trời". Người vẫn hằng ban thưởng cho chúng ta một cách trọn vẹn cho tất cả những lần chúng ta bị người đời hiểu lầm vì chúng ta đã sống dũng cảm trong cuộc đời này, trong một thế gian thường xuyên mất khả năng hiểu biết mọi điều trừ ra những giá trị vật chất. Thánh Phaolô nói rằng: "Tôi coi mọi sự khổ đau đời này không ra gì so với vinh quang đã được tỏ hiện cho chúng ta" (Rm 8,18). Vì thế, thánh Gioan Kim khẩu chú giải thêm rằng, ai mà lại không ra sức đạt được vinh quang cao cả ấy, để sống thân thiết bằng hữu với Thiên Chúa, mang lấy Đức Kitô trong mình, nhận lãnh những phần thưởng từ Thiên Chúa ban sau bao nỗi đớn đau âu lo của trần thế. Nếu những người lính chiến trần gian này vinh quang trở về cố hương sau khi đã chiến thắng quân thù, thì còn gì vinh hiển và đáng ca ngợi hơn một khi chúng ta khải hoàn trở về thiên quốc sau khi đã chế ngự được quỷ dữ...; giương cao dấu hiệu chiến thắng...; được ngồi bên hữu Thiên Chúa khi Người đến xét xử, được đồng thừa tự với Đức Kitô; được xếp hàng với các thiên thần, với các Tổ Phụ, các Tông đồ và các tiên tri; được hân hoan vui mừng vì có Nước Trời là của mình.
2) Sức mạnh của chúng ta là biết mình trở nên con cái Thiên Chúa
Dù sống hay chết cũng không sợ, nhưng luôn luôn vui tươi khi phải giáp mặt với những khó khăn trầm trọng nhất, kiên trì đương đầu với những trở ngại đòi hỏi nhiều nỗ lực hy sinh, bình thản chịu đựng bệnh tật. Yên tâm trước một tương lai bấp bênh... Thiên Chúa muốn chúng ta sống như thế đó. Những khi có thể đươc, chúng ta nên thường xuyên mỗi ngày nhớ rằng chúng ta đã là con cái Thiên Chúa, đặc biệt là kẻ hi chúng ta bị những âu lo tương lai đen tối bủa vây tấn công. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
Như thế Thiên Chúa đã tỏ rõ tình cảm vĩ đại Ngài dành cho chúng ta và cái giá trị to lớn Ngài đã đặt nơi con người. Thánh Hiêrônimô đã chú giải đoạn Tin Mừng này như sau: Nẻo những con chim sẻ rê mạt kia vẫn luôn nhờ sự Quan Phòng của Thiên Chúa mà chẳng hề con nào rơi xuống, anh chị em là những thụ tạo đã được phú ban một định mệnh vĩnh cửu nhờ có linh hồn bất tử làm sao có thể lo sợ Đấng mà anh chị em tôn kính là Cha sẽ không chăm lo săn sóc cho anh chị em cách riêng hay sao?
Việc được làm con cái Thiên Chúa sẽ củng cố tăng cường sức mạnh cho chúng ta khi những yếu đuối bản thân bủa vây tư bề và những trở ngại giăng mắc trên đường đời; khi phải đương đầu với những khó khăn giữa một môi trường luôn luôn thù nghịch với Thiên Chúa và nhiều khi đối nghịch thô bạo với những lý tưởng Kitô giáo. Trong bài đọc thứ nhất tiên tri Giêrêmia ngỏ lời với chúng ta nhưng Đức Chúa ở bên tôi như người chiến binh oai hùng. Đây chính là tiếng kêu thống thiết của tiên tri trong cảnh lẻ loi bị quân thù bao vây tư bề. Những khi nguy hiểm cận kề, hay mây mù bão tố giăng kín, chúng ta có thể lập đi lặp lại những lời tự nhủ mình như thế này Thiên Chúa, là Cha tôi, Ngài luôn ở bên tôi như người chiến sĩ oai phong. Có Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ gì ai? Dominus, illuminatio mea et salus mea, quem timebo? (Tv 27,1)
Và đây là điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta (1Ga 5,4), Thánh Gioan tông đồ đã tuyên bố như thế giữa lúc bao nhiêu khó khăn đang ập tới ào ạt từ một thế giới ngoại giáo. Chính trong thế giới đó người Kitô hữu, vẫn là những công dân bình thường, đã lao động trong những ngành nghề khác nhau và thực hiện sứ vụ tông đồ một cách có hiệu quả. Và nền tảng vững chắc của một đức tin không hề lay chuyển tạo đà phát triển cho một niềm tin không mơ hồ hay ngây ngô chút nào, nhưng là một niềm kiên vững hân hoan của Kitô hữu, mặc dù có nhiều giới hạn và sự xấu xa bản thân, luôn biết rằng Đức Kitô đã nhờ Cây Thập Giá và Sự Sống lại của Người mà chiến thắng vinh quang. Có Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ gì ai? Lạy Chúa, con còn sợ gì nữa? Con còn sợ ai nữa? Vì Chúa là ngườl canh giữ bảo vệ của cuộc đời con.
3) Can đảm và tín thác vào Thiên Chúa giữa mọi thử thách lớn nhỏ trong đời sống thường ngày
Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng sợ gì cả, ngoại trừ tội lỗi là nguyên nhân phá hủy tình thân hữu với Thiên Chúa và dẫn chúng ta tới chỗ bị án phạt đời đời. Khi đối diện những khó khăn, chúng ta phải tỏ ra mạnh mẽ và can đảm, như những người con đích thực Thiên Chúa. Chúa Giêsu thường bảo chúng ta đừng sợ những ai chỉ giết được thân xác anh em nhưng không thể huỷ diệt linh hồn; anh em nên sợ người có thể hủy diệt cả hồn lẫn xác anh em trong hỏa ngục. Kính sợ Thiên Chúa là một trong bẩy ơn Chúa Thánh Thần, sẽ giúp chúng ta chiến đấu một cách kiên quyết hơn với tội lỗi, với tất cả những gì có thể chia rẽ chúng ta với Thiên Chúa. Đức kính sợ ấy sẽ nhắc nhở chúng ta xa tránh những dịp tội lỗi chớ quá tự tin vào chính mình, hãy luôn nhớ rằng bản thân chúng ta có một đôi chân đất sét, mỏng dòn dễ vỡ. Những sự dữ phần xác, ngay cả cái chết, cũng không thấm tháp gì khi so sánh với những sự dữ phần hồn, với tội lỗi.
Chúng ta không nên lo lắng bất cứ chuyện gì trừ ra lo sợ đánh mất Thiên Chúa. Nỗi lo sợ canh cánh này chính là tâm tình con thảo không muốn làm mất lòng Chúa. Nhiều lúc trong cuộc đời, chúng ta có thể trải qua nhiều thử thách lớn lao. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta nhiều ơn cần thiết để chúng ta chịu đựng vượt qua và lớn lên mãi trong đời sống nội tâm. Ơn của Ta đủ cho các con, Chúa Giêsu đã bảo chúng ta như thế.
Đấng đã giúp thánh Phaolô xưa kia thì nay cũng giúp đỡ chăm sóc chúng ta những khi chúng ta chạy đến kêu cầu Thiên Chúa, khiêm tốn và tin tưởng: Lạy Chúa, xin Chúa đừng tin con. … nhưng con đây, con đặt hết lòng tin vào Chúa. Rồi khi chúng ta cảm thấy trong trái tim này cái nhìn yêu thương cảm thông và dịu dàng của Đức Kitô - vì Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta – chúng ta sẽ hiểu ra đầy đủ ý nghĩa của những lời thánh Phaolô tâm sự: ‘virtus in infirmitate perficitur’. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh. (2Cor 12,9). Nếu chúng ta có đức tin vào Chúa Giêsu, mặc dù đã bao lần chúng ta làm lỡ - hay, đúng hơn, mặc dù chúng ta có biết bao lầm lỡ - chúng ta vẫn cứ trung thành với Thiên Chúa Cha chúng ta: quyền năng thần linh của Ngài sẽ chiếu sáng trên chúng ta, và luôn nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta.
Tuy nhiên, trong đời thường chúng ta sẽ phải sống mạnh mẽ và dũng cảm cả trong những chuyện nho nhỏ: những khi chúng ta lịch sự nhưng cương quyết từ chối một lời mời đi đến những chốn mà một Kitô hữu đàng hoàng sẽ cảm thấm bứt rứt khó chịu, những khi chúng ta phải mạnh dạn góp ý cho các giáo viên đang dậy dỗ con em chúng ta; những khi chúng ta phải cắt ngang câu chuyện nào đang đến hồi rẽ sang chuyện đáng ngờ hay những khi thấy có một cơ hội mời người bạn nào đó đi nghe hội thảo về đức tin, hay gợi chuyện dẫn tới cơ hội khéo léo khuyên nhủ ai đó đi xưng tội. Công việc tông đồ đầy tham vọng của chúng ta thường bị trì trệ hay đình đốn chỉ vì cái tính rụt rè nhút nhát trong những chuyện nho nhỏ như thế thôi. Và cũng chính nhờ những can đảm trong những việc nho nhỏ như thế mà cuộc sống chúng ta thêm nhiều hoa trái.
Trong giờ phút bị bỏ rơi bên thập giá, Đức Nữ Trinh Maria đã đứng đó bên Con mình, sẵn lòng cùng chung một số phận với con. Chúng ta hãy xua tan nỗi sợ sệt không dám sống như những Kitô hữu có trách nhiệm những lúc môi trường chúng ta đang sống không còn dễ dàng thuận lợi. Những lúc ấy Đức Maria sẽ đứng bên chúng ta, giúp đỡ chúng ta trong mọi cơn khốn khó.
39. Chứng nhân Tin Mừng
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu như muốn khuyên nhủ chúng ta rằng:
- Đừng sợ hãi khi phải nói lên sự thật. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và ngài sẽ ân thưởng cho chúng ta, nếu nếu chúng ta luôn trung thành với Ngài.
Đồng thời, Ngài cũng truyền dạy chúng ta:
- Đừng sợ hãi, trái lại hãy can đảm công bố Tin Mừng cho muôn dân. Hãy kêu to trên mái nhà và đừng giấu kín sự gì. Bởi vì một ngày kia, tất cả đều được bật mí, tất cả đều được phơi bày.
Đừng sợ hãi khi phải đứng trước mặt thiên hạ, bởi vì sự ác và đau khổ sẽ bị giới hạn trong thời gian và không thể nào giết hại được linh hồn chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta không trung thành với sứ mạng Chúa đã trao phó, thì chỉ nên sợ hãi trước Đấng có thể ném cả thân xác lẫn linh hồn chúng ta xuống hỏa ngục mà thôi, bởi vì những kẻ độc ác nhất trên trần gian cũng không thể nào sát hại được linh hồn chúng ta.
Đừng sợ hãi con người, bởi vì con người không thể nào cướp mất khỏi tâm hồn chúng ta niềm vui mừng và hy vọng.
Trong khi đó, Thiên Chúa luôn yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta. Ngài đã nuôi từng con chim sẽ và đã đếm từng sợi tóc trên đầu. Chúng ta còn cao trọng hơn những con chim sẻ và quí giá hơn những sợi tóc bội phần. Ngài đã dành cho mỗi người chúng ta một chỗ đứng đặc biệt trong trái tim của Ngài.
Bởi đó, hãy tin tưởng vào tình thương cũng như vào quyền năng của Ngài và đừng bao giờ chối bỏ Ngài. Vì chưng, tuyên xưng Ngài trước mặt người đời, thì sẽ được cứu thoát. Còn chối bỏ Ngài trước mặt người đời, thì sẽ bị trừng phạt.
Ngay trong lòng Giáo hội, cũng không thiếu gì những khuyết điểm, những sai lỗi, những lầm lạc, khiến cho chúng ta cảm thấy băn khoăn và bối rối.
Không phải chỉ có những kẻ thù đã tấn công Giáo hội, mà hơn thế nữa, nhiều lúc chính những người giáo dân hữu danh vô thực, mang tên gọi tín hữu, nghĩa là là có đức tin, hay mang tên gọi Kitô hữu, nghĩa là có Đức Kitô, nhưng lại chẳng bao giờ sống đạo, sống đức tin của mình. Hơn thế nữa, họ còn quay lưng chống lại Đức Kitô cũng như chống lại Giáo hội của Ngài, hay ít nữa là họ cũng đã chối bỏ Đức Kitô, chối bỏ Giáo hội từ thẳm sâu cõi lòng của mình.
Như thế, trong phạm vi đức tin, chúng ta thấy có hai loại nguy hiểm.
Loại thứ nhất, đó là những bắt bớ, cấm cách trực tiếp nhắm vào đức tin của chúng ta. Còn loại thứ hai, cũng không kém phần nguy hiểm, đó là những sự tấn công gián tiếp, vừa tinh vi lại vừa tế nhị, vốn thường được mặc lấy những hình thức, những lý do bên ngoài vừa hợp tình lại vừa hợp lý.
Chẳng hạn như để hoán cải thế gian, tôi phải đi sâu vào ngôn ngữ, vào tập tục, vào cách nhìn, vào cách nghĩ cũng như vào cách sống của thế gian, để rồi cuối cùng tôi đã bị nhận chìn lúc nào cũng không hay.
Trung thành gắn bó với Đức Kitô và Giáo hội bao giờ cũng đòi buộc chúng ta phải hy sinh, có khi phải hy sinh cả bản thân, cả mạng sống của mình, thế nhưng đó lại là điều kiện để được cứu độ, như lời Chúa đã phán:
- Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Còn ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
40. Quan phòng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Thời hoàng đế Vát-pa-si-a-nô, thượng viện Rôma đã bàn luận xem nên gọi vị thần tốt nhất và lớn nhất của họ là gì, người thì đề nghị nên gọi là “Thần giầu sang”, người thì cho rằng nên gọi là “Thần khôn ngoan”, người khác nữa đề nghị nên gọi là “Thần uy quyền”. Sau cùng, một ông nghị phát biểu: “Theo ý tôi, chúng ta nên gọi là “Thần nhân lành”, vì nếu chúng ta gọi là “Thần giầu sang” thì những người khó có gì? Nếu chúng ta gọi là “Thần khôn ngoan” thì những người bình dân, đơn sơ chất phác có gì? Và nếu chúng ta gọi là “Thần uy quyền” thì những người khiêm tốn có gì? Vậy chúng ta muốn vị thần ấy hợp với tất cả mọi người thì chúng ta chỉ có thể gọi là “Thần nhân lành”, mọi người đều hoan nghênh.
Đối với chúng ta, những người tin Chúa Kitô, thì hơn thế nữa, chúng ta sẽ có một ý tưởng tốt đẹp biết bao khi gọi Thiên Chúa là “Cha nhân lành” của chúng ta. Người Hy Lạp, Rôma ngày xưa đã không biết Chúa là Cha. Thích Ca Mâu Ni không thấy Chúa là Cha, Mahômét cũng không hề rao giảng Chúa là Cha, cả dân Do Thái trong Cựu Ước không bao giờ có ý tưởng xưng hô Chúa là Cha. Đối với họ, Thiên Chúa là ông chủ nghiêm khắc, Đấng đã ban truyền những điều răn trong sấm chớp và ánh sáng, Đấng thẩm phán sửa dạy họ nghiêm khắc mỗi khi họ bất tuân hay phản bội, nhưng từ khi rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy nhân loại: Chúa là Cha, Ngài nhắc đi nhắc lại nhiều lần: Thiên Chúa không phải là một ông chủ độc ác, nhìn chúng ta như bầy tôi, nô lệ, nhưng Chúa là Cha, Người luôn luôn săn sóc và yêu thương chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy rõ ý tưởng đó. Sau khi khuyến khích các môn đệ hãy can đảm và mạnh dạn công bố cho mọi người biết tất cả những điều Chúa đã dạy các ông trong nơi kín đáo, Chúa khích lệ các ông đừng sợ chi cả, hãy tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, vì Thiên Chúa là Cha, Đấng thông biết mọi sự và quan phòng tất cả.
Đúng vậy, Chúa quan phòng cai trị mọi vật. Chúa dựng nên những cái vĩ đại cũng như những cái bé nhỏ. Chúa săn sóc người này cũng như người kia: “Nào người mẹ có thể quên con mình không? Và cho dù người mẹ có quên con mình đi nữa, Chúa cũng không quên chúng ta”, “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”, “Hãy xem chim trời, Cha anh em vẫn nuôi chúng. Anh em lại không hơn chúng sao?”, “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn cho chúng đẹp đến thế, phương chi anh em, Chúa còn săn sóc hơn nhiều”. Thánh Âu Tinh nói: “Lo lắng cho cả vũ trụ còn vĩ đại hơn làm cho năm ngàn người no nê bằng năm chiếc bánh, vậy mà chẳng ai lạ lùng về chuyện đó. Chúa săn sóc mỗi người dường như chỉ có một người đó ở trên đời và Chúa săn sóc tất cả mọi người dường như Chúa săn sóc cho một người”.
Chính vì yêu thương săn sóc chúng ta như thế, nên nhiều lần Chúa Giêsu đã khích lệ chúng ta đừng sợ. Đừng sợ không có nghĩa là đừng làm gì, đừng lo đến sinh kế, đừng cố gắng nỗ lực. Không, ngàn lần không. Đừng sợ không phải là như vậy, nhưng có nghĩa là cứ làm, cứ lo sinh kế, cứ cố gắng nỗ lực, đồng thời phải tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Nhưng như vậy có phải là chúng ta tin chắc vào đôi tay rắn chắc khỏe mạnh chăng? Tin vào tuổi đang lên, đầy sức sống nghị lực chăng? Hoặc cậy dựa vào những người khác? Không, vì đôi tay khỏe mạnh này ngày mai sẽ yếu đi, tuổi đôi mươi sẽ chóng qua, còn nghị lực thì rất mỏng giòn, còn những người khác mà chúng ta cậy dựa vào hôm nay thì thường hay thay đổi, thiếu thiện chí và làm sao họ có thể bảo đảm cho chúng ta lâu dài được. Ngoài những điều trên, chúng ta phải trông cậy vào một sức mạnh khác, có thể bảo đảm cho chúng ta hôm nay và mãi mãi về phần hồn cũng như phần xác, sức mạnh đó chính là Thiên Chúa, vì Ngài là Cha của chúng ta, Người hoàn toàn hiểu những nhu cầu, những thiếu thốn, những ước mơ của chúng ta và Người biết những điều nào thích hợp và cần thiết cho chúng ta hơn. Cho dù một người mẹ trần gian chăm chỉ nhất, yêu thương con cái nhất, còn có thể không biết đến một vài nhu cầu của con mình, bà có thể quên sót, nhầm lẫn trong việc lo liệu hoặc lâm vào tình trạng không thể giúp đỡ con mình được. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ lâm vào tình trạng như thế. Do sự quan phòng, Ngài biết, Ngài thấy và Ngài có thể làm được tất cả.
Tuy nhiên, để được Thiên Chúa yêu thương săn sóc như thế, Chúa đòi chúng ta phải tin tưởng vào Chúa, tuyệt đối tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa, Người là Cha của chúng ta, Người luôn mong muốn điều tốt lành cho chúng ta.
41. Nỗi lòng – Trầm Thiên Thu
“Đừng sợ chi cả!”. Đó là một mệnh lệnh của Thiên Chúa – đơn giản và ngắn gọn, nhưng không dễ thể hiện, đồng thời là lời Ngài động viên mỗi chúng ta. Và đó cũng là nỗi lòng không của riêng ai!
Trong ca khúc “Hát Nữa Đi Em” (Thanh Sơn – Phố Thu) có một thực tế đơn giản mà thâm thúy: “Đời ai không có những tâm sự buồn?”. Dạng câu “phủ định nghi vấn” được sử dụng để làm mạnh nghĩa cách nói xác định, nghĩa là ai cũng có những nỗi lòng thầm kín “không biết tỏ cùng ai”. Chắc chắn nhứ thế! Chỉ có Thiên Chúa biết, bởi vì Ngài thấu suốt mọi sự (1Cr 12:4-6), và vì vậy, chúng ta đừng ngần ngại tâm sự với Ngài về khúc nhôi của riêng mình.
Trình thuật Gr 20:10-13 nói về tâm sự của ngôn sứ Giêrêmia. Ông bộc bạch: “Con nghe biết bao người vu cáo: ‘Kìa, lão Tứ-Phía-Kinh-Hoàng!, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!’. Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: “Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó!”. Ông Giêrêmia bị người ta ghét và đặt cho một nickname là “Tứ Phía Kinh Hoàng”. Cái lên nghe rất “kêu”, và nó cho thấy rằng thiên hạ ghét ông đữ lắm!
Tuy vậy, ông vẫn tin tưởng: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên”. Cây ngay không sợ chết đứng. Có ít xít ra nhiều, thậm chí người ta còn đặt điều, bịa chuyện để hại người khác. Có những người không ngại miệng “dựng đứng” câu chuyện gì đó, đúng là giết người không cần dao, cái lưỡi thật đáng sợ!
Với bản tính nhân loại, thấy mình bị người ta xa lánh thì ai cũng cảm thấy buồn, nhưng phải cố gắng vượt qua tất cả để có thể vẫn mãi là chính mình, và không thù hận kẻ đã ghét bỏ mình. Ông Giêrêmia cũng có cảm giác như vậy, nhưng ông đã chiến thắng và thành tín cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”. Giữ được niềm tin khi mọi người ủng hộ mình là điều không khó, nhưng giữ được niềm tin khi người khác ghen ghét mình là điều không dễ chút nào.
Với tâm trạng đau khổ, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Âu cũng vì Ngài, mà con bị người đời thoá mạ, chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày. Anh em nhà kể con như người dưng nước lã, hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi. Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân. Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu” (Tv 69:8-10). Độc ác bị hành, hiền lành bị ghét. Chẳng làm sao vừa lòng hết mọi người. Đời là thế! Chấp nhận thực tế đó để lòng mình thanh thản.
Hãy noi gương Thánh Vịnh gia tâm sự với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ” (Tv 69:14). Đừng lo sợ chi, bởi vì tất cả không ngoài ý Chúa: “Chính Người đánh phạt rồi lại xót thương, đẩy xuống tận âm ty trong lòng đất sâu thẳm, rồi kéo ra khỏi đại họa tiêu vong, chẳng có chi thoát khỏi tay Người” (Tb 13:2).
Thánh Vịnh gia tiếp tục cầu xin: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến” (Tv 69:17). Ai cũng là tội nhân nên luôn cần được tha thứ. Cứ kiên tâm cầu nguyện, Chúa vẫn lắng nghe, vẫn biết nỗi lòng của chúng ta, Ngài chưa ra tay vì “giờ Ngài chưa đến” đó thôi. Sự thật mãi mãi là sự thật, không thể khác hơn, bởi vì Thiên Chúa là chân lý, là nguồn sự thật: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm. Ca tụng Chúa đi, hỡi trời cao đất thấp, hỡi biển sâu cùng hải vật muôn vàn!” (Tv 69:33-35).
Thánh Phaolô đưa ra hai hình ảnh tương phản: Ông Ađam và Đức Kitô Giêsu – một vị gieo mầm tội, một vị diệt gốc tội. Hai hình ảnh tương phản nhưng vẫn cùng một tổng thể, như đầu mở và đầu khép của vòng tròn. Thật kỳ lạ, Tội Nguyên Tổ được Giáo Hội gọi là “Tội Hồng Phúc” (Felix Culpa – Happy Fault) khi công bố Tin Mừng Phục Sinh (Exultet).
Thánh Phaolô giải thích: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới” (Rm 5:12-14). Vì sai lầm mà sinh ra luật. Luật như dây cương cần thiết để kiềm chế con ngựa chứng. Tất cả chúng ta đều là những con ngựa bất kham đối với Thiên Chúa, cần phải được đóng hàm thiếc và cột dây cương trên đường đua về đích là Nước Trời.
Thánh Phaolô giải thích thêm: “Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5:15). Vẫn là hai hình ảnh tương phản – một bên sa ngã và phải chết, một bên giải thoát và cứu sinh.
Kiếp phàm nhân là những chuỗi giằng co giữa thiện và ác, lành và dữ, yêu và ghét, tội và phúc,… Sự giằng co đó liên tục xảy ra mọi nơi và mọi lúc, phải can đảm và mạnh mẽ mới khả dĩ vượt qua chính mình. Đó là nỗi niềm chung của chúng ta, những người mặc xác phàm trong cuộc lữ hành trần gian này. Không hề đơn giản, nghĩa là vô cùng nhiêu khê, vì thế mà chúng ta luôn phải cầu xin Thiên Chúa ban ơn để chúng ta chiến thắng mọi mưu ma chước quỷ – trước tiên là phải chiến thắng chính mình, vì chính mình là nội gián nguy hiểm nhất. Đúng như tiền nhân dạy: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Mọi thứ phải bắt đầu từ chính mình.
Cả trình thuật Mt 10:26-33 (tương đương Lc 12:2-9) là lời động viên của Chúa Giêsu, Ngài khuyến khích chúng ta can đảm nói sự thật và nói công khai, nghĩa là không sợ chi cả. Trong đó, Ngài đưa ra ba cái “đừng” và muốn chúng ta phải cố gắng thực hiện.
Cái “đừng” thứ nhất: “Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”.
Cây kim để trong bọc lâu ngày còn bị lòi ra kia mà. Thế thì chắc chắn chẳng có gì giấu nổi, mọi bí mật sẽ được bật mí – bằng cách này hay cách nọ. Thẳng thắn thì chẳng làm gì phải sợ ai, chỉ những ai “cong queo” thì mới lén lút vì sợ người khác biết. Không sợ người ta nên mới dám ăn to nói lớn, nói công khai, nói rõ ràng, nói huỵch toẹt. Có sao nói vậy là thượng sách, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Cái “đừng” thứ nhì: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Chúa Giêsu bảo “đừng sợ” những kẻ không đáng sợ, mà hãy sợ Đấng đáng sợ. Ngài giải thích rõ ràng, dẫn chứng cụ thể, so sánh thú vị. Con chim bé nhỏ có đáng chi mà Ngài còn lo cho nó sống thoải mái thì lẽ nào Ngài lại làm ngơ chúng ta, những người được tạo dựng giống hình ảnh Ngài (x. St 1:26-27) chứ? Sợi tóc mong manh còn được Ngài đếm rạch ròi trên đầu mỗi người kia mà! Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta tin tưởng và phó thác, bởi vì Thiên Chúa là Đấng quan phòng và tiền định mọi sự.
Cái “đừng” thứ ba: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Gọi là cái “đừng” thứ ba nhưng không thấy chữ “đừng”. Theo ý thì chúng ta thấy Chúa Giêsu bảo “đừng” chối Ngài. Ai không sợ thì mới không chối Ngài – tức là tuyên xưng Ngài, còn ai sợ thì chối ngay. Không hẳn là nói thẳng rằng “tôi không tin”, nhưng qua động thái có thể chứng tỏ sự chối bỏ Ngài.
Ai hèn nhát mà chối bỏ Thiên Chúa sẽ bị chết thêm lần thứ hai: “Những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai” (Kh 21:8). Đó là hồ lửa được mệnh danh là “cái chết thứ hai”, nơi dành cho Tử thần và những người không có tên trong Sổ Trường Sinh (x. Kh 20:14-15).
Nỗi lòng của tín nhân luôn được Thiên Chúa lắng nghe và thấu hiểu, còn nỗi lòng của kẻ bất tín thì bị lãng quên mãi mãi!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Ngài thấu suốt nỗi lòng của con, dẫu con ngồi hay đứng, con cười hay khóc. Xin thương cứu con thoát khỏi mọi mưu ma chước quỷ, dù đêm hay ngày. Xin hướng lòng con lên tới Ngài, mọi nơi và mọi lúc. Ngài tri thức siêu phàm, con không thể hiểu nổi, nhưng xin Ngài giúp con biết đón nhận mọi thứ theo Thánh Ý Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
42. Đừng sợ – Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
Con người chúng ta có bảy loại tình cảm gọi là thất tình, đó là: hỉ nộ ai cụ ái ố dục. Trong đó có thứ tình cảm sợ hãi. Như vậy, tự bản chất con người đã có sẵn tính sợ hãi. Ai cũng có nỗi sợ hãi. Còn sống trên đời là còn sợ. Không sợ cái này thì sợ cái khác. Không sợ người này thì sợ người kia. 'Trẻ sợ ma, già sợ chết'. Đàn bà con gái thì sợ xuống sắc lắm. Họ mong đến tuổi hồi xuân may ra còn cứu vãn được ít nữa!
Trong Kinh thánh có rất nhiều lần Thiên Chúa phán 'đừng sợ'. Thời cựu ước, nhiều vị ngôn sứ khi được Thiên Chúa chọn gọi cũng thoái thác vì sợ hãi, nhưng Thiên Chúa luôn bảo họ rằng: đừng sợ, vì có Ta ở với ngươi. Mẹ Maria khi được sứ thần báo tin sẽ mang thai Chúa Giêsu cũng sợ hãi, nhưng thiên thần trấn an: 'Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa"(Lc 1,30). Khi Chúa Giêsu hiện ra trên mặt biển, các tông đồ sợ hãi tưởng là ma, Chúa bảo: chính Thầy đây, đừng sợ!
Tin Mừng Mt 10,26-33 Chúa Giêsu nhắc tới ba lần "đừng sợ". Chúa Giêsu đã thấy trước những nỗi khó khăn, thử thách, gian truân bách hại mà các môn đệ sẽ phải đương đầu với những thế lực trần gian nên Ngài đã trấn an các môn đệ: "Anh em đừng sợ những kẻ giết giết thân xác mà không giết được linh hồn". Ngài đã từng cầu nguyện rất nhiều cho các môn đệ, vì Ngài biết giữa họ và thế gian trái ngược nhau cho nên thế gian sẽ ghen ghét, vu khống, đánh đòn và giết hại các môn đệ của Chúa. Nhưng nếu đã chấp nhận làm môn đệ Chúa thì không sợ chi cả.
Thấy trước sự bắt bớ các tông đồ sẽ phải đương đầu cho nên Chúa Giêsu trấn an: đừng sợ. Lời trấn an này không chỉ dừng lại là lời an ủi, động viên, khích lệ mang tính tâm lý giao tiếp mà là một lời có kèm theo sức mạnh đồng hành của Chúa 'vì có Ta ở với ngươi' mà. Đây là một loại sức mạnh sánh ngang tầm với vũ khỉ bảo hộ được trao gửi làm hành tranh khi các ông phải đơn thân độc mã chống chọi với mọi nghịch cảnh éo le. Chính vì thế, sau này, hầu như chẳng môn đệ nào sợ hãi trước sức mạnh của thế gian, của kẻ thù bách hại.
Ngày 22/10/1978, ĐTC Gioan Phaolô II khởi đầu sứ vụ Phêrô đã nói: 'đừng sợ'! Ngày 24/4/2005 ĐTC Bênêđictô XVI khởi đầu sứ vụ cũng nhắc lại và thêm: 'Tôi không cô đơn, tôi không phải gánh vác một mình, điều mà thực ra tôi không bao giờ gánh vác nổi. Và lời cầu nguyện của anh chị em, những bằng hữu thân mến của tôi; lòng sốt mến, đức ái đức tin đức cậy của anh chị em đồng hành với tôi'.
Đặc tính của người lãnh đạo là can đảm và bình tĩnh. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng thế. Nếu sợ hãi bỏ chạy thì đoàn chiên sẽ tan tác. Các giám mục, linh mục, cha ông chúng ta đã không sợ hãi bỏ chạy khi có lệnh cấm đạo.
Chúa Giêsu thấy chúng ta thường hay sợ hãi nên Ngài trấn an 'đừng sợ'. Chúng ta được cấp trên giao nhiệm vụ và bảo đừng sợ thì sẽ cảm thấy bình tĩnh, an vui, can đảm thi hành nhiệm vụ. Người môn đệ Chúa là người công bố niềm hy vọng và sự sống cho mọi người bằng lời nói và việc làm, cho nên phải can đảm: nếu thế gian, xã hội này sống gian dối, không muốn sống trong sự thật, chúng ta phải minh chứng về Tin mừng của Chúa là sự thật. Nếu thế gian tối tăm không muốn tiếp nhận ánh sáng, sợ những hành động đen tối bị phơi bày, chúng ta hãy minh chứng cho họ về Tin mừng là sự sáng thế gian. Nếu thế gian sống chia rẽ, hận thù, không yêu thương kẻ thù, chúng ta hãy minh chứng về Tin mừng là tình yêu. Nếu thế gian tranh giành nhau, đấu đá nhau thậm chí chém giết nhau để đạt của cải, danh vọng, chức quyền, chúng ta hãy minh chứng cho họ biết về Tin mừng cứu độ có sức giải phóng tất cả. Cha Charles de Foucauled nói: 'cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là không bao giờ sợ hãi gì cả'.
Đức Tổng giám mục giáo phận San Salvador - Oscar Rômêô không chấp nhận bất công xã hội, mỗi chủ nhật ngài giảng đều tố cáo tội ác mà đa số do các viên chức chính phủ. Lời của ngài ảnh hưởng rất lớn tới xã hội. Khi ngài giảng mọi người ngưng việc lắng nghe. Tính mạng của ngài bị đe doạ. Một vài người bạn bè của ngài bị giết. Ngài vẫn không im tiếng, không trốn đi nơi khác. Ngài nói: 'một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi'. Và ngài đã bị bắn chết dưới làn đạn vào tháng 3/1980 lúc đang dâng thánh lễ.
Số phận đời đời của chúng ta cũng tuỳ thuộc vào tư cách sống chứng nhân cho Lời Chúa, chứ không phải trên tư cách là một người mang một tên gọi cho dẫu tên gọi ấy hay lắm, đẹp lắm, xứng đáng lắm. Chúa đã từng từ chối dứt khoát những kẻ chỉ thờ kính Ngài bằng môi miệng còn lòng dạ thì xa Chúa. 'Hãy xéo đi hỡi quân làm điều gian ác. Ta không biết các ngươi là ai'.
'Vì phàm ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời'(Mt 10,33). Chắc chắn chúng ta phải sợ Đấng ấy.
Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: 'nhưng có Chúa ở với tôi như một chiến sĩ oai hùng, nên những kẻ tìm hại tôi sẽ phải lảo đảo và không thắng nổi tôi'. Đó là niềm xác tín của một ngôn sứ, một nhân chứng. Và không một nhân chứng nào thoát khỏi con đường gian nan, bấp bênh. Vậy nếu trong cuộc sống đề cao tình nghĩa yêu thương mà chúng ta gặp những gian nan thử thách, trù dập, vu cáo, chống đối...đó là những dấu chỉ chắc chắn nhất chúng ta đã đi đúng con đường của Chúa Kitô. Và nếu chúng ta đã không sợ hãi thì hãy can đảm rao giảng và làm chứng cho Chúa bằng lời nói cũng như việc làm ở tất cả mọi nơi mọi lúc.
43. Đừng sợ
Cuộc chiến tranh chủng tộc đẫm máu ở Sarajevo, Yugloslavia Nam Tư, đã để lại hàng trăm trẻ em với những rối loạn nghiêm trọng về tình cảm. Vào thập niên 1990 những y tá quân y Hoa Kỳ phục vụ tại Sarajevo đã báo cáo rằng các bệnh viện tràn ngập trẻ em cần phải được săn sóc về cả thể lý lẫn tinh thần. Trong một bệnh viện, vấn đề khó khăn hằng đêm là làm sao giúp các trẻ em ngủ yên giấc. Ngay khi bóng đêm vừa phủ xuống, các em bắt đầu khóc. Các y tá không thể tìm ra một phương thức nào an ủi được các em. Sau cùng, một người y tá đã đề nghị rằng nỗi sợ hãi của các em có thể liên hệ tới sự thiếu an ninh. Họ đã đưa ra một sáng kiến rất độc đáo là cho mỗi em một miếng bánh mì để giữ vào ban đêm. Bởi các em đã từng trải qua những cơn sợ hãi vì chết đói, miếng bánh mì tạo ra sự bảo đảm đối với các em. Đêm hôm đó, tất cả các em đã ngủ ngon lành, trong tay mỗi em nắm chặt miếng bánh mì của mình.
Sau trận tấn công của quân đội Nhật ở Trân Châu Cảng – Pearl Harbor – vào năm 1941, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã cảnh giác như sau: “Chúng ta không có gì để sợ ngoại trừ chính sự sợ hãi”. Tổng thống đã ngụ ý rằng kẻ thù xấu xa nhất của Hoa Kỳ trong cuộc đệ nhị thế chiến không phải là người Nhật, nhưng chính là sự sợ hãi.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã vạch ra đúng vấn đề của chúng ta khi nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Đúng hơn, các con hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Phúc âm hôm nay tiếp tục những hướng dẫn của Chúa Giêsu cho các tông đồ khi Ngài sai họ ra đi loan truyền Tin Mừng của Vương Quốc Thiên Chúa. Những giá trị của Tin Mừng rất khác biệt với những giá trị của trần thế. Do đó sứ điệp của Tin Mừng và ngay cả những người loan tin cũng thường bị người đời từ chối và chống báng. Lịch sử của Giáo Hội đã chứng minh rằng hầu như tất cả các tông đồ đã bị giết chết một cách thê thảm. Thánh Phêrô và Anrê đã bị đóng đinh trên thập giá. Thánh Gioan Tiền Hô, Giacôbê và Phaolô đã bị chặt đầu. Thánh Barthôlômêô đã bị lóc thịt lột da. Thánh Stêphanô bị ném đá chết… Vì thế, các tông đồ sợ hãi khi phải thi hành sứ mạng trong một thế giới thù nghịch là điều rất tự nhiên. Nhưng nếu vì sợ hãi để cứu lấy xác thịt mà bỏ rơi việc rao giảng Tin Mừng lại là một nguy hiểm nữa. Do đó Chúa Giêsu đã hướng dẫn họ làm thế nào chiến thắng nỗi sợ hãi này. Điều chính yếu là hãy nhìn vào chính Chúa Giêsu như một vị anh hùng gương mẫu như Ngài đã dạy: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ”.
Phúc âm đưa ra hai sự sợ hãi: sợ bị tố cáo gian, bị tuyên án, và sợ bị hại thân xác, bị chết. Trong bất cứ trường hợp nào, Chúa Giêsu dạy họ phải chiến thắng sự sợ hãi bằng cách tập trung tâm trí vào, không phải đời này và bây giờ, nhưng vào Vương Quốc Thiên Chúa sẽ đến mai sau. Phải có sự phó thác tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo số 303 đã nói: “Thánh Kinh nhất trí làm chứng rằng: sự ân cần chăm lo của Chúa quan phòng thì cụ thể và trực tiếp. Ngài chăm lo cho mọi sự vật, từ những sự vật bé nhỏ nhất đến những biến cố lớn lao nhất của vũ trụ và của lịch sử”. Đúng như lời Chúa phán: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”.
Một mục sư cùng với một nhóm học sinh từ Canađa đi sang Kenya – một quốc gia ở phía đông Phi Châu – theo chương trình huấn luyện về truyền giáo vào mùa hè. Họ sử dụng chiếc xe Jeep để có thể lái đến những vùng quê xa xôi hẻo lánh. Trong một chuyến viếng thăm nọ, chiếc xe Jeep bị hỏng và họ phải mướn những người thợ máy địa phương trong làng sửa chữa giùm. Người thợ máy đã tìm ra chỗ hỏng nhưng phải đi lên tỉnh để mua đồ phụ tùng về thay thế, rồi mới trở về để sửa xe được. Anh phải làm việc vất vả suốt ba ngày mới sửa được chiếc xe Jeep.
Mục sư kể rằng vì sợ công việc sửa chữa này quá tốn kém, ông tìm cách bắt ép anh thợ máy địa phương tính giá rẻ. Ông đã đi vào trong phòng vệ sinh, lấy gần hết số tiền đang có trong ví ra và dấu vào trong hai đôi vớ. Ông làm vậy với ý đồ là khi người thợ máy nói với ông số tiền phải trả, ông sẽ mở ví ra và nói: “Anh hãy nhìn xem, đây là tất cả số tiền của tôi có”. Sau đó, ông đi khỏi phòng vệ sinh và sẵn sàng lên đường. Ông nói với anh thợ máy,:Và bây giờ, anh tính bao nhiêu tiền công sửa xe?” Anh thợ máy nhìn mục sư và nói: “Thưa mục sư, ngài là người của Thiên Chúa. Tôi làm việc này cho Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ trả công cho tôi. Đối với ngài thì miễn phí, khỏi tính tiền”. Mục sư kết thúc câu chuyện với lời thú nhận rằng anh thợ máy, qua đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, đã chiến thắng được nỗi sợ hãi của sự nghèo nàn và sự dính bén tới tiền bạc, mà chính ông, một nhà truyền giáo đã không thể làm được việc đó.
Trong phần mở đầu của cuốn sách suy niệm có tựa đề là “St. Teresa’s bookmark”, “Cái đánh dấu trang sách của thánh têrêsa” đã ghi những lời sau đây: “Đừng để điều gì quấy rối bạn, đừng để điều gì làm bạn sợ hãi. Tất cả mọi sự sẽ qua đi, còn Thiên Chúa không bao giờ thay đổi. Kiên trì đạt được tất cả. Đối với người có Thiên Chúa thì chẳng thiếu gì – chỉ mình Thiên Chúa là đủ”.
Những lời này cũng tóm tắt đầy đủ ý nghĩa của những bài Thánh Kinh trong thánh lễ hôm nay dạy ta phải tin tưởng vào tình yêu, sự quan phòng và sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Ngài không bao giờ từ bỏ những ai trung thành với Ngài.
44. Đừng sợ
Thánh nữ Têrêsa Avila là một nhà thần học nổi tiếng, một vị cải cách của dòng Carmêlô, và là vị cố vấn tinh thần cho nhà thần bí vĩ đại người Tây Ban Nha thời Trung cổ, thánh Gioan Thánh giá. Nhưng công việc mục vụ của thánh nữ Têrêsa đã không được đón nhận trọn vẹn trong cộng đoàn thánh nữ yêu mến. Những nữ tu trong dòng đã chểnh mảng sống đức tin và thực hành đời sống tu đức. Do đó thánh nữ đã kêu gọi một cuộc cải cách. Và để đáp lại lời kêu gọi đó, họ đã tìm cơ hội để trục xuất thánh nữ ra khỏi tu viện mà chính thánh nữ đã thành lập.
Cơ hội đã đến, vào một đêm giông bão, thánh nữ đã bị đuổi ra khỏi tu viện. Đang khi cưỡi xe lừa ra đi với bộ áo dòng chùm kín mít từ đầu tới chân, thì hai chiếc bánh xe bị chui xuống đường mương, rồi cả chiếc xe bị lật úp, đổ thánh nữ xuống vũng bùn. Têrêsa đã ngồi yên ở đó, trong vũng bùn, nhìn lên bầu trời và cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu đây là cách Ngài đối xử với bạn bè của Ngài, thảo nào Ngài không có nhiều bạn được”.
Mặc dù chán nản, Têrêsa vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Thánh nữ đã viết: “Thiên Chúa dùng ma quỉ như một cục đá nhọn đâm vào những người Kitô hữu”. Têrêsa đã không chỉ dạy bài học này, mà chính bản thân thánh nữ đã sống. Thánh nữ đã không đầu hàng, ngay cả khi bị những nữ tu vây cánh với các linh mục và giám mục để gây khó khăn. Thánh nữ vẫn giữ vững đường ngay nẻo chính. Và sau cùng, thánh nữ đã chiến thắng bằng sự trung thành với Thiên Chúa. Và ngày nay, một nữ tu đã từng bị tống cổ ra khỏi tu viện đã trở thành thánh Tiến sĩ của Giáo Hội, một bậc thầy và tư tưởng gia mẫu mực, trong khi những nữ tu đã cư xử tệ bạc với thánh nữ đã chết từ lâu rồi mà vẫn chưa được ai biết đến.
Cũng giống như thánh nữ Têrêsa Avila, sự nghiệp của tiên tri Giêrêmia trong bài đọc thứ nhất, cũng bị sàng sẩy bởi vô số những kinh nghiệm ngập tràn sợ hãi. Khi được Thiên Chúa gọi, ông sợ mình còn quá trẻ. Ông sợ không biết phải nói gì và nói thế nào để dân chúng biết ông nói nhân danh Thiên Chúa. Ông sợ phải đối chọi với những người khác về sự thật tội lỗi của họ. Ông sợ phải nói lời của Thiên Chúa. Ông sợ vì không nói lời của Thiên Chúa và khi đã nói ra ông lại sợ những hậu quả của hành động của mình. Nhưng sau cùng nhờ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa tiên tri đã hát lên rằng: “Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ”.
Khi còn là một linh mục trẻ làm việc ở Bergamo, nước Ý, Angelo Roncalli – sau trở thành Giáo Hoàng lấy tên là Gioan XXIII – đã viết những dòng chữ về lòng tin tưởng và phó thác rất khiêm tốn của ngài như sau:
“Tôi sẽ cố gắng không để cảm giác lo âu về tương lai hay những ý kiến của bất cứ người nào, ngay cả vì lòng tốt của họ, dù có suy nghĩ và có nền tảng chắc chắn ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi. Tôi đã sinh ra trong sự nghèo nàn và tôi sẽ phải chết nghèo. Chắc chắn rằng vào đúng lúc Thiên Chúa quan phòng, cũng như trong quá khứ, sẽ lo liệu điều cần thiết cho tôi còn hơn điều tôi đã mong đợi. Điều rất xấu cho tôi nếu tôi trở nên dính bén với của cải thế gian, ngay cả trong cấp độ nhẹ nhất. Đối với những giấc mơ dị thường mà trong đó lòng kiêu hãnh của tôi có thể được vui thỏa bằng những tư tưởng đáng kính, những địa vị, v.v… tôi sẽ rất cẩn thận không để thỏa mãn chúng, nhưng phải khước từ ngay lập tức. Chúng làm cho tâm trí an bình của một người trở nên buồn thảm, làm hao tổn nghị lực và lấy đi tất cả nguồn vui thực sự, cùng những giá trị và phẩm giá của một người tốt có thể làm ra. Đối với tôi, tôi chỉ nghĩ đến điều duy nhất rất khiêm tốn, rất mực khiêm tốn, là từ bỏ mọi sự cho Thiên Chúa”.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã sống rất khiêm tốn và phó thác tất cả mọi sự trong bàn tay của Thiên Chúa quan phòng, là tấm gương sáng phản ảnh lời Chúa giảng dạy trong bài Phúc âm hôm nay: “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”.
45. Thân phận – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Đâu là thân phận con người giữa trời đất? Cao cả hay thấp hèn? Vĩ đại hay tầm thường? Sâu sắc hay hời hợt? Can đảm hay nhát sợ? Tất cả chỉ tìm được câu trả lời trong Đức Giêsu Kitô.
ĐỪNG SỢ!
Có nhiều mãnh lực đang đe dọa mạng sống con người. Thiên nhiên, muông thú v.v. đều dễ dàng áp đảo con người bé nhỏ và yếu đuối. Nhưng những mãnh lực đó không đáng sợ bằng chính con người. Vì sợ hãi có người chấp nhận mọi điều kiện để bảo toàn mạng sống, dù phải bán rẻ linh hồn, danh dự v.v. Vì sợ hãi, nhiều người không dám làm gì, chỉ khoanh tay nhìn thời sự xoay vần. Đúng là hạng chết nhát! Tệ hơn nữa, nỗi sợ còn đẩy nhiều người vào con đường gian ác, ngu xuẩn, phản bội. Trước những sợ hãi phi lý đó, Đức Giêsu trấn an: “anh em đừng sợ người ta.” (Mt 10:26) Người nhấn mạnh: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.” (Mt 10:28) Nếu có phải sợ, chỉ nên sợ một mình Thiên Chúa, vì Người là “Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10:28)
Nhưng Thiên Chúa không muốn đối xử với các tín hữu với bộ mặt ghê sợ đó. Trái lại, “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:16) Bằng chứng, “ngay tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” (Mt 10:30) Người săn sóc từng người. Người làm bá chủ chim trời cá biển, tới mức “không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em.” (Mt 10:29) Chính Thiên Chúa đã làm cho “anh em quí giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt 10:31) Thực ra, giá trị cuộc sống không đo bằng số lượng vật chất, nhưng bằng chính niềm tin nơi Thiên Chúa.
Nếu tất cả không xảy ra ngoài thánh ý Thiên Chúa, tại sao phải sợ hãi trước các mãnh lực đe dọa con người? Chính cái chết là đầu mối sinh ra mọi sợ hãi nơi con người. Thực vậy, “vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết.” (Rm 5:15) Nhưng “tử thần đã bị chôn vùi.” (1 Cr 15:54) “Thực vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết.” (1 Cr 15:25) Nếu tử thần không lướt thắng nổi Người, thì những người trông cậy Chúa còn phải sợ chi nữa? Nhưng nếu không sống trong nguồn ân sủng là Thiên Chúa, con người chỉ còn sợ hãi. Chẳng có sức mạnh nào lấn át được Thiên Chúa! Vậy mà Thiên Chúa dùng tất cả sức mạnh tình yêu nhằm bảo vệ con người. Vượt qua nỗi sợ hãi bình thường, các môn đệ sẽ can đảm dấn thân làm chứng cho Chúa trước muôn dân. Với cánh tay hùng mạnh, Thiên Chúa “đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo,” (Gr 20:13) để trở thành nguồn hi vọng độc nhất của toàn thể nhân loại.
Chỉ niềm tin mới mạc khải tất cả lý do tại sao có niềm hi vọng lớn lao. Càng tin tưởng vào Thiên Chúa càng không lo sợ. Thực vậy, “ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5:15) Chính nguồn ân sủng lớn lao đó khiến chứng nhân can đảm leo “lên mái nhà rao giảng điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm hay điều anh em nghe rỉ tai.” (Mt 10:27) Lời giảng phải bộc lộ tất cả niềm tin sâu xa nơi Thiên Chúa. Tất cả định mệnh con người tín hữu đều tùy thuộc vào sứ mệnh rao giảng. Thực vậy, công cuộc Phúc âm hóa nhân loại hôm nay không thể hoàn thành, nếu người tín hữu không dấn thân tích cực vào việc làm chứng cho Đức Kitô. Bởi thế, Chúa mới nói: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời,” (Mt 10:32) Nhờ những tiếng nói gan dạ đó, cả nhân loại sẽ bừng tỉnh trước Tin Mừng được các chứng nhân mạnh dạn “nói ra giữa ban ngày.” (Mt 10:27)
MỘT CHỨNG TỪ CAN ĐẢM
Càng suy nghĩ càng thấy các chứng nhân Tin Mừng có đủ lý do vượt lên trên mọi sợ hãi để “rao giảng lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.” (2 Tm 4:2) Mỗi thách đố đều thức tỉnh Giáo Hội và làm nảy sinh những phương pháp Phúc âm hóa mới lạ, phù hợp với các biến chuyển trên thế giới. Hôm nay, cuộc rao giảng Tin Mừng đang gặp thách đố lớn tại Hoa Kỳ vì vấn đề lạm dụng tình dục của một số giáo sĩ Hoa Kỳ. Đứng trước vấn đề đó, các vị lãnh đạo Giáo Hội Hoa Kỳ có đưa ra những giải pháp hợp tình hợp lý không? Giáo Hội đã làm gì trước sức tấn công như vũ bão của lực lượng truyền thông, mà không đánh mất nét Tin Mừng trên khuôn mặt của mình?
Như Đức Giêsu, Giáo Hội phải thể hiện được nét nhân từ ngay khi phải chiến đấu quyết liệt. Trước hết, ĐHY Oscar Rodriguez Maradiaga giáo phận Tegucigalpa, Honduras, đã lên tiếng tố cáo giới truyền thông Hoa Kỳ và nêu đích danh ông Ted Turner, người sáng lập đài CNN, “người công khai chống Công giáo.” Các tờ báo New York Times, Washington Post, và Boston Globe đang áp dụng các chiến thuật giống như các bạo chúa Diocletian, Neron, Stalin và Hitler để bách hại Giáo Hội (CWNews 11/06/02).
Trước cơn bách hại của giới truyền thông, các vị lãnh đạo Giáo Hội Hoa Kỳ kêu gọi giáo dân cầu nguyện. Trong suốt buổi họp tại Dallas, các ngài không ngừng khẩn nài Thánh Linh trợ giúp. Kết quả những biện pháp đã được công bố để đề phòng các vụ vi phạm tính dục trẻ em. Các ngài đã chính thức xin lỗi các nạn nhân và gia đình của họ. Một chính sách cấm các giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em thi hành công vụ, kể cả việc dâng lễ và phục vụ trong các hội từ thiện Công giáo. ĐGM Wilton Gregory nói: “Từ nay trở đi, những người bị phát giác vi phạm tính dục trẻ em sẽ không được làm việc trong Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ nữa.” (Zenit 14/06/02) Nhưng các giám mục quyết định các linh mục lạm dụng không tức khắc bị loại khỏi hàng ngũ linh mục như chính sách “bất khoan dung” đề ra. Các linh mục đó có thể bị đẩy về hàng ngũ giáo dân, nhưng tiến trình tùy thuộc vị giám mục chủ chăn, cùng với ban cố vấn chủ yếu là giáo dân. ĐHY Anthony Bevilacqua giáo phận Philadelphia đã trả lời Hội Nhà Báo: chính sách đó phản ánh nhu cầu tỏ bày “tấm lòng cảm thông của Đức Kitô” đối với các linh mục. (Zenit 14/06/02) Thế là giới truyền thông đã vô tình tạo cơ hội cho Tin Mừng được rao giảng qua thái độ bao dung và nhân hậu của Giáo Hội.
Phải chăng đây cũng là cơ hội cho các linh mục nhận thức rõ về chính mình như những “thừa tác viên của lòng nhân hậu” hay như “chứng nhân của lòng Thiên Chúa xót thương.” (Cipriani: Zenit 17/06/2002) ĐHY Cipriani kêu gọi các linh mục hãy phục hồi tất cả giá trị của bí tích giao hòa như tặng phẩm của lòng Thiên Chúa xót thương. Sứ mệnh và lẽ sống của linh mục “là một dụng cụ sống động của ân sủng Thiên Chúa.” (Zenit 17/06/2002) Giáo Hội là điểm qui tụ những “thừa tác viên phục vụ lòng tha thứ của Thiên Chúa.” (Cipriani: Zenit 17/06/2002) Có thể thấy rõ chứng từ ấy trong cách Giáo Hội Hoa Kỳ đối xử với các giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em.
46. Anh em đừng sợ
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Thánh Mátthêu ghi chép rất rõ, đây là Lời Chúa Giêsu dành cho Mười Hai Tông Đồ, bài học căn bản này là bài học để cho các Tông Đồ lo công việc sứ mạng Tin Mừng của Chúa trao cho. Ngài cho biết thời gian gian truân khổ ải còn trổi vượt hơn cực hình mà ngôn sứ Giêrêmia phải làm chứng thời xưa. Thiếu niềm tín thác, người được sai đi rao giảng Tin Mừng sẽ sống trong hồi hộp lo sợ không ngừng, sợ phải nói lên sự thật, sợ người có thế lực hành hạ: "Người ta sẽ nộp các con trước quan tòa, nơi đó tòa án sẽ xét xử, lúc ấy các con đừng lo, chính Thánh Thần Chúa sẽ soi dẫn các con".
Câu kết thúc bài học của Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay nghe như dễ, nhưng thực hành điều ấy không dễ: "Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ở trên trời. Ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời."
Các Tông Đồ Chúa đã vâng lệnh loan truyền Lời Chúa khắp nơi, không giấu diếm điều gì, các ngài loan truyền điều gì đã nghe và đã thấy khi thụ huấn nơi Chúa Giêsu. Bài học Phúc Âm hôm nay thực hành qua các thế hệ kế tiếp các Tông Đồ, không những hàng Giám Mục là những người thừa kế sứ mạng các Tông Đồ, mà cả đến những người thấp kém nhất trong Hội Thánh của Chúa Kitô. Nhớ lại lịch sử các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta sẽ cảm phục lòng tín thác anh dũng của các ngài, dù sống trong cơ cực, dù gông cùm, dù bị hành hình khủng khiếp, các ngài không hãi sợ nhưng vẫn một lòng cậy tin, và các ngài còn hát lên để ca khen Danh Chúa Kitô trước án tử hình của các ngài.
Nhưng nếu các bạn chưa tin yêu Ngài, chúng ta cũng đừng hãi sợ, vì Chúa Giêsu dặn như thế, vì chính sợ hãi sẽ làm cho chúng ta mất can đảm, mất bình tĩnh.
Đức Phật đã tu luyện cao thâm, một hôm có một tên cướp giết người đến hăm dọa mạng sống của ông, ông nói với tên cướp ấy rằng, khi anh giết tôi, xin anh thỏa mãn nguyện vọng cuối cùng đời tôi, là anh hãy chặt đứt cành cây kia đi.
Chỉ một lát gươm cành cây rơi xuống đất.
Tên cướp nạt lớn: “Còn gì nữa?”
Đức Phật bình tĩnh nói: “Bây giờ xin anh ráp cành cây ấy lại với thân cây như cũ”.
Tên cướp cười ngất: “Ông điên hả, chỉ có người điên mới làm như ông bảo”.
“Anh chính là người điên ấy, vì anh hành động ấu trĩ quá. Anh có biết rằng, người có thế lực là người biết xây dựng và là những người có thể chữa lành được”.
Thánh Kinh đồng hóa Thiên Chúa với sự khôn ngoan thượng trí, nếu chúng ta cầm, đọc và nghiền ngẫm Thánh Kinh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều hữu ích cho cách xử thế của chúng ta hằng ngày. Chúa Giêsu nhấn mạnh: "Đừng sợ hãi, hãy tín thác vào Chúa". Nếu bạn quá lo sợ, bạn sẽ làm hại chính bản thân.
Ngày nọ Dịch Tả vội vã đến làng Damas, dọc đường gặp nhóm người đi buôn bán, anh trưởng đoàn ấy hỏi:
- Anh đang tính làm kế hoạch gì vậy?
Dịch Tả đáp rằng:
- Tôi đi lấy một ngàn mạng sống tại làng Damas.
Xong việc Dịch Tả trở về, gặp lại nhóm trưởng giả ấy, họ cật vấn:
- Anh nói chỉ giết một ngàn người, nhưng sao đến mười ngàn người chết?
Dịch Tả mỉa mai:
- Tôi chỉ giết đúng một ngàn thôi, phần còn lại là do họ quá sợ hãi mà bị chết đó thôi.
Trong các cuộc di tản bởi chiến tranh, trong các biến cố do thiên tai khủng khiếp, kê ra số người chết vì sợ gấp nghìn lần số người chết vì bom đạn và thiên tai.
Chúa Giêsu hiểu rất rõ tâm trạng sợ sệt của chúng ta, đặc biệt của các đồ đệ của Ngài, nên khi vừa sống lại, Ngài đã đến đem bình an cho họ và đã trao ban Thánh Thần cho họ. Khi lãnh nhận Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống, Phêrô đã can đảm đứng lên rao giảng Tin Mừng và tiếp theo đó các sứ đồ đã hãnh diện vì được chịu khổ nhục và cực hình vì Danh Chúa.
Cọp chết để da, ta chết để sống. Người Kitô hữu chúng ta sống vì Tin Mừng của Chúa Kitô, và những ai tìm biết Chúa Kitô, sống Tin Mừng Chúa Kitô, chắc chắn Chúa Giêsu sẽ giữ lời hứa, Ngài sẽ giới thiệu chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha, để chúng ta được Chúa Cha nhìn nhận chúng ta và chúng ta được sống hạnh phúc.
47. Tuyên xưng đức tin
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh đến bổn phận phải làm chứng, phải tuyên xưng đức tin. Như chúng ta đã thấy: mỗi quốc gia đều có một lá quốc kỳ và người ta sẵn sáng hy sinh tất cả để bảo vệ màu cờ của đất nước.
Mỗi binh chủng có một lá cờ tiêu biểu cho tinh thần anh dũng của mình. Được cầu cờ đi đầu trong các trận đánh hay trong các cuộc diễn binh là một vinh dự lớn. Người ta sẵn sàng chết để nêu cao ngọn cờ, hay để cho ngọn cờ được phất phới tung bay trên phần đất thân yêu.
Một người lính chỉ chu toàn bổn phận khi hăng say chiến đấu. Trái lại, nếu gặp phải khó khăn, nguy hiểm người lính ấy liền chạy trốn, thì đó chỉ là một kẻ đào ngũ, hèn nhát mà thôi.
Chúng ta cũng thế. Trần gian này là một bãi chiến trường, ngọn cờ của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Mỗi người chúng ta là một chiến sĩ. Chúng ta không được phép đào ngũ, nghĩa là đầu hàng tội lỗi, bỏ mặc Đức Kitô để chay theo tiền bạc, danh vọng và lạc thú. Trái lại, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta phải nêu cao ngọn cờ thập giá cho mọi người nhận biết Đức Kitô. Mỗi người chúng ta phải là một chứng nhân kiên vững và sống động của Ngài.
Trong ngày chịu phép Rửa tội, hạt giống đức tin đã được Chúa gieo vào thửa đất là linh hồn chúng ta. Hạt giống ấy cần phải nảy mầm, đâm bông và đem lại hoa trái tốt tươi.
Đức tin không giống như một trái cóc mà chúng ta vội vã ăn ngấu nghiến cho riêng mình. Đức tin không giống như một đồ vật quí giá mà chúng ta phải cất giấu kỹ càng, kẻo người khác lấy mất đi hay mượn tạm xài đỡ. Đức tin phải là một cái gì mãnh liệt, làm nền tảng cho cuộc đời chúng ta, hướng dẫn từng bước đi của chúng ta. Vì thế, học biết một số kiến thức về đạo giáo, hay nói một cách nôm Ngài là có đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giữ đức tin, còn phải sống đức tin và còn phải làm chứng cho đức tin. Đức tin phải biến đổi cuộc đời chúng ta cũng như cuộc đời của những người chung quanh.
Giữa việc sống đức tin và việc làm chứng cho đức tin có một sự liên hệ mật thiết. Thực vậy, muốn làm chứng cho đức tin thì tiên vàn chúng ta phải sống đức tin, đồng thời khi sống đức tin thì chúng ta đã làm chứng cho đức tin rồi đó.
Một ngọn nến khi được thắp sáng, nó sẽ chiểu tỏa cho những người chung quanh, để rồi mỗi người đều được hưởng nhờ ánh sáng của nó. Một nhúm men trộn lẫn trong đấu bột, chắc chắn sẽ làm cho cả đấu bột dậy men. Một chút muối ướp vào thịt, nó sẽ làm cho thịt khỏi ươn thối.
Điều kiện quan trọng và cần thiết đầu tiên đó là chúng ta phải sống đức tin trước đã. Một khi đã sống đức tin thì chínhbản thân chúng ta cũng đã tuyên xưng đức tin và cuôc đời chúng ta đã là một chứng tá cho đức tin. Tuy nhiên, nói một cách cụ thể hơn, chúng ta phải tuyên xưng đức tin, nhưng bằng nhu cách nào?
Trước hết, đó là hãy tuyên xưng đức tin bằng lời nói. Hãy dùng miệng lưỡi để nói về Thiên Chúa, về những công việc tốt đẹp mà vì yêu thương Ngài đã thực hiện cho chúng ta, chứ đừng dùng nó để nói những lời cộc cằn, thô lỗ và xấu xa. Hãy dùng miệng lưỡi để ca tụng quyền năng và tình thương của Chúa cũng như để nhắc bảo hầu giúp nhau thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Có một câu chuyện kể lại rằng: Tuyến đường xe lửa vừa mới được hoàn thành. Sáng hôm ấy, chú bé con bác nông phu trong ấp lấy làm lạ vì thấy một chiếc xe hơi ngừng lại trước cửa nhà mình. Ông giám đốc sở hỏa xa bước xuống và bắt đầu xem xét cây cầu mới bắc. Chú bé tò mò đi theo. Một lúc sau, ông giám đốc quay lại và hỏi:
- Này em, em có biết tôi là ai không?
Chú bé trả lời:
- Chắc chắn ông là người của sở hỏa xa.
Ông giám đốc hỏi tiếp:
- Vậy em có biết tôi đang cần gì hay không?
Chú bé ngây thơ nói:
- Thưa ông, cháu nghĩ rằng ông cần phải xin Chúa tha tội, vì ông đã vi phạm ngày Chúa nhật, ngày của Chúa hôm nay.
Sững sờ nhìn chú bé, ông giám đốc bèn hỏi:
- Ai bảo em nói thế?
Chú bé thành thật trả lời:
- Chẳng ai bảo cháu cả. Cháu mới chợt nghĩ ra mà thôi.
Ông giám đốc ôn tồn nói:
- Cám ơn cháu đã nhắc cho tôi nhớ lại bổn phận của tôi đối với Chúa.
Tuy nhên, cách tuyên xưng quan trọng hơn cả đó là tuyên xưng bằng chính đời sống gương mẫu, bằng chính những việc làm cụ thể của mình, bởi vì: lời nói bay đi, gương bày lôi kéo. Chính gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp dẫn người khác đến với Chúa.
Tại một trường học ở Nagasaky bên Nhật, có tất cả 150 học sinh nội trú, thế nhưng chỉ có một em là công giáo. Trước và sau mỗi bữa ăn, em đều chắp tay cầu nguyện. Những em khác thấy thế liền chế diễu và mách với thày hiệu trưởng. Ngày kia, thày hiệu trưởng kêu em lên văn phòng và hỏi:
- Tại sao em làm như vậy? Em không sợ chúng bạn cười chê hay sao?
Em trả lời:
- Thưa thày, em là người Kitô hữu, em phải cầu nguyện với Chúa luôn. Em không được vô phép lãnh nhận thực phẩm Chúa ban mà không kêu cầu và cảm tạ Ngài.
Nghe lời ấy, thày hiệu trưởng bèn úp mặt xuống lòng bàn tay và khóc lên một cách hổ thẹn:
- Trời ơi, thày đây cũng là người tin Chúa, nhưng thày lại chẳng dám tỏ ra cho ai biết. Từ đây sắp tới, nhờ ơn Chúa, thày sẽ cố gắng làm tròn bổn phận của một người Kitô hữu.
Hãy tuyên xưng Chúa bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình, như lời Chúa đã truyền dạy: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
48. Thiên Chúa quan phòng
Đọc lại Phúc âm, hẳn chúng ta còn nhớ: khi sai các môn đệ đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu đã căn dặn các ông đừng mang theo bao bị, bạc tiền, nghĩa là Ngài đòi các ông phải ra đi trong một tình trạng bấp bênh nhất. Sở dĩ như vậy là để các ông tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Ngài.
Chúng ta cũng thế. Sống giữa những gian nan và thử thách, khổ đau và hiểm nguy, rất có thể chúng ta sẽ bị gục ngã. Tuy nhiên, nếu có chết, thì cũng chỉ là một cái chết về phần xác mà thôi.
Thế nhưng, đối với những người có đức tin, nhận biết giá trị đích thực của linh hồn, thì cái chết này không đáng sợ. Thân xác có chết nhưng giữ được linh hồn là giữ được tất cả. Trái lại, mất linh hồn là mất hết.
Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta thường có khuynh hướng để tâm lo lắng cho thân xác một cách thái quá, mà lãng quên phần linh hồn của mình, đúng như lời Chúa đã cảnh báo:
- Tinh thần thì mau lẹ, nhưng xác thịt lại yếu đuối.
Ngày nay, người ta ít tin tưởng vào việc Chúa quan phòng, nên họ cũng không chấp nhận những giá trị và ý nghĩa của đau khổ. Họ mang tâm trạng bất mãn và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Đối với chúng ta thì khác. Là người Kitô hữu, chúng ta tin tưởng vào việc quan phòng của Chúa. Chúng ta xác tín rằng Ngài hằng yêu thương và chăm sóc chúng ta.,
Đó không phải là một sự quan phòng yếu ớt đến độ Ngài không thể trợ giúp chúng ta được gì cả, nhưng là một màu nhiệm phong phú và ngập tràn tình thương. Chúng ta có một người Cha trên trời. Ngài là nguồn mọi tình phụ tử. Nếu một người cha phần xác mà còn biết yêu thương và chăm sóc cho con cái mình, thì huống nữa là Thiên Chúa, người Cha chúng ta ở trên trời, Ngài dư quyền năng và ngập tràn tình thương, lẽ nào Ngài lại chẳng đoái nhìn và chăm sóc cho con cái mình hay sao?
Là con Thiên Chúa, chúng ta có quyền được Ngài gìn giữ và chở che. Bởi đó, chúng ta phải biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian. Nước Thiên Chúa hay nói một cách mạnh mẽ hơn, chính Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta, rồi sau đó mới đến những tạo vật khác.
Và những thụ tạo ấy cũng phải được chúng ta nhìn dưới ánh sáng của Chúa. Chim trì không gieo không gặt, mà cũng được Thiên Chúa chăm sóc và nuôi ăn. Cánh hoa đồng nội không dệt không may mà cũng được Thiên Chúa chăm sóc và tô điểm bằng những màu sắc lộng lẫy. Vậy chúng ta lại chẳng đáng giá hơn chim trời và cánh hoa đồng nội đó sao?
Dù gặp phải cảnh nghèo túng hay gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vẫn có thể vui mừng cảm tạ Chúa vì Ngài biết những việc Ngài làm và những sự chúng ta cần đến.
Ngày kia, thánh Vianney tới thăm một em nhỏ nằm liệt trên giường bệnh, không còn cơ may được cứu sống. Cha hỏi em:
- Con có đau lắm không?
Em trả lời:
- Thưa cha, không ạ. Bởi vì cơn đau hôm qua, thì hôm nay con không còn cảm thấy nữa. Còn cơn đau hôm nay, thì ngày mai con cũng sẽ chẳng cảm thấy gì.
- Thế con có muốn được khỏi bệnh hay không?
- Thưa cha, không. Bởi vì trước kia con bị đau dữ lắm. Sợ rằng khỏi bệnh, con sẽ bị đau dữ hơn. Cứ thế này cũng được.
Và cha Vianney đã nhận xét:
- Chúng ta phải lấy làm xấu hổ khi so sánh mình với em nhỏ đầy lòng tin tưởng vào Chúa quan phòng. Hãy yêu mến thánh giá, vì đó là ơn lành Chúa ban cho những người bạn hữu nghĩa thiết, dưới ánh sáng đức tin, thì mọi sự đều là hồng ân của Chúa.
Riêng trong lãnh vực tông đồ truyền giáo, chúng ta hãy ý thức: Chúng ta là những thành viên trong “công ty” của Chúa. Việc chúng ta làm là việc của Chúa. Chính Chúa mới là Đấng quản trị mọi sự. Ngài là người đầu tiên bị thiệt thòi hay được hưởng lời. Ngài là người chịu trách nhiệm nhiều nhất.
Do đó, cuộc sống của chúng ta liên hệ tới Ngài nhiều hơn là liên hệ tới chính bản thân chúng ta. Không có điều gì xảy ra ngoài ý muốn của Ngài. Ngài điều khiển mọi việc chúng ta làm. Chúng ta thành công là chính Ngài thành công. Chúng ta thất bại là chính Ngài thất bại.
Từ đó, Chúa luôn đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta hai thái độ chính yếu:
- Thái độ thứ nhất, đó là phải thừa nhật quyền ưu tiên của Chúa, của Nước Trời. Đây phải là việc chúng ta lo liệu trước tiên vì chỉ có Ngài, chỉ có nước Ngài mới đáng kể. Giữ được linh hồn mình là giữ được tất cả. Còn mất linh hồn là mất hết.
- Thái độ thứ hai, đó là phải xác tin rằng Chúa sẽ không bao giờ để cho chúng ta phải thiếu những gì chính đáng và cần thiết. Và nếu có thiếu chăng nữa, thì ơn lành của Ngài cũng sẽ bù lại. Vậy hãy để cho Chúa hành động và hướng dẫn dòng đời chúng ta.
Với hai thái độ trên, chúng ta có thể mỉm cười và cảm tạ Chúa giữa những đau khổ và thử thách mình phải gánh chịu.
49. Sợ hãi
Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái phong cùi và chìa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến thiếu nữ bở ngỡ, và cô không dám đưa tay ra đáp lễ.
Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc trại phong bèn giải thích:
- Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách, vì nhiều người sợ lây bệnh.
- Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, chứ đâu cấm khách hôn bệnh nhân?
Vừa nói xong, ông Raoul liền tiến đến ôm hôn người cùi. Mọi người sững sờ trước cử chỉ đầy yêu thương và thân thiện ấy. Phút chốc, cả đám người cùi nhào đến ôm lấy ông. Và một giọng nói ngẹn ngào thốt lên:
- Hôm nay chúng tôi cảm thấy mình thực sự là con người.
Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”.
Vâng, chính tình yêu hoàn hảo dành cho những người phong cùi bất hạnh đã khiến ông Raoul Follereau không một chút sợ hãi vi trùng Hansen ghê rợn, không mảy may kinh khiếp máu mủ hôi tanh của bệnh nhân phong cùi.
Chính tình yêu hoàn hảo là tình yêu đã dẫn Đức Giêsu đến chân thập giá.
Chính tình yêu hoàn hảo đã thúc đẩy các tông đồ can đảm chịu bách hại và bình thản bước tới cái chết.
Chỉ trong một đoạn ngắn của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nhắc lại ba lần câu: “Anh em đừng sợ”. Con người có muôn vàn nỗi sợ; sợ bệnh tật, sợ già nua, sợ chết chóc. Sợ tai họa, sợ chiến tranh, sợ nghèo đói. Sợ bóng tối, sợ khổ đau, sợ ngu dốt… Danh sách các nỗi sợ của chúng ta còn rất dài, nhưng xem xét kỹ đa số đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, nó không có thật, nó chưa xảy ra, và rất nhiều khi chẳng bao giờ xảy ra. Nếu đem phơi trần các nỗi sợ hãi, có khi chúng ta phải phá lên cười... Không ít người để cho nỗi sợ hãi biến các buổi bình minh tươi sáng, an bình thành những chiều hoàng hôn ảm đạm, buồn thảm!
“Tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”. Một khi đã yêu Chúa rồi, chúng ta sẽ can đảm rao giảng lời Chúa, chúng ta chẳng còn sợ “những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Một khi đã yêu anh em rồi, chúng ta chẳng còn sợ ai đố kỵ, ghen ghét, hận thù; chẳng còn ghê tởm, kinh hãi những kẻ thấp kém, đốn mạt, hung hăng. Chính tình yêu là khí giới xua đuổi mọi sợ hãi đang dằn vặt con người, cho dù là cái chết. Vì chính tình yêu của Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta từ đêm dài tăm tối của tử thần đến bình minh sáng lạn của đời sống mới.
Nếu Thiên Chúa là đấng nhân ái đã lấy tình yêu rộng lớn của Người mà ôm ấp nhân loại vào lòng thì chúng ta hãy mạnh dạn mà đặt trọn niềm tin nơi Người. Thật vậy, hôm nay Đức Giêsu khẳng định: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Nếu Thiên Chúa là đấng độc nhất vĩnh cửu, đã dùng sự khôn ngoan mà hướng dẫn, dùng sức mạnh mà bảo vệ, dùng tình yêu mà giữ gìn con người, thì chúng ta còn chờ đợi gì nữa mà không tin cậy phó thác nơi Người.
Nếu Thiên Chúa là tình yêu, Người đã nâng đỡ chúng ta trên mọi nẻo đường, và luôn sẵn sàng ban cho chúng ta muôn vàn ân huệ trong mỗi thăng trầm của cuộc sống, thì chúng ta còn lý do gì để bi quan và sợ hãi.
Chính đức tin thắng vượt sợ hãi, đức tin là con đê vững chắc để chống lại những đợt sóng dữ dội là các nỗi sợ hãi. Đức tin đem lại sự an bình nội tâm để đối phó với căng thẳng và gánh nặng của cuộc đời. Đức tin biến cuồng phong thành gió mát, thất vọng thành hy vọng.
50. Chú giải và suy niệm của William Barclay
Mt 10, 26-31:
SỨ GIẢ ĐƯỢC GIẢI THOÁT KHỎI SỢ HÃI
Trong đoạn Kinh Thánh ngắn này, ba lần Chúa Giêsu truyền bảo các môn đệ Ngài đừng sợ. Sứ giả phải có lòng can đảm không hề sợ hãi, phải khác người thường.
1. Mệnh lệnh thứ nhất trong câu 26-27 nói lên sự không sợ trong hai phương diện:
a) Họ không phải sợ vì chẳng có gì che giấu mà sẽ không lộ ra và chẳng có gì kín mà sẽ không biết. Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ chiến thắng. Châm ngôn La tinh có câu: “Chân lý vĩ đại và chân lý sẽ thắng”. Khi James VI hăm dọa treo cổ hoặc lưu đày Andrew Melville, Melville đáp: “Vua không thể treo cổ hoặc lưu đày chân lý”. Khi Kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí tử đạo vì đức tin, ta phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự việc được phơi bày, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của Kitô hữu sẽ được minh giải và mỗi người sẽ nhận lãnh đúng phần thưởng của mình.
b) Họ không sợ hãi, nhưng can đảm rao giảng sứ điệp mình đã nhận. Những gì Chúa Giêsu truyền bảo, họ phải nói lại cho loài người. Câu này đủ nói lên chức năng thật của người truyền giáo.
Trước hết chính ta phải nghe, ta phải ở riêng với Chúa Giêsu để trong những giờ phút tăm tối, Ngài có thể phán dạy, và trong nơi cô quạnh, Ngài có thể thì thầm bên tai ta. Không ai có thể nói về Chúa Giêsu trừ người đã được Ngài nói với. Không ai có thể công bố chân lý trừ phi đã được nghe vì không ai có thể nói điều mà mình không biết. Khi những ngày trọng đại của cuộc cải chính sắp thành hình, Colet mời Erasmus đến Oxford để giảng loạt bài về Môsê hay Isaia, nhưng Erasmus biết mình chưa sẵn sàng. Ông viết thư phúc đáp: “Tôi là người học để sống với chính mình nên tự biết tôi thiếu chuẩn bị, không dám nhận mình có đủ tri thức cần cho công tác lớn như vậy, tôi cũng không nghĩ mình có đủ sức mạnh để chống chọi nổi với sự ghen ghét của nhiều người khi họ cương quyết giữ lập trường. Cuộc chiến đấu không cần người mới tập tễnh mà cần một tướng lãnh lão luyện. Chắc anh cũng không cho tôi là người khiếm nhã trong việc từ chối một địa vị mà nếu tôi nhận thì trở thành người vô cùng khiếm nhã. Anh Colet ơi, như Plautus đã nói, anh đòi nước nơi đá bọt là điều không khôn ngoan. Tôi quả là liều lĩnh nếu dạy điều mình chưa từng học. Làm sao tôi có thể sưởi ấm những tấm lòng lạnh lẽo khi chính tôi còn đang rét run cầm cập?” Người nào giảng và dạy trước hết phải ở trong nơi kín nhiệm để nghe và học.
Thứ hai, người truyền giáo nói điều mình đã nghe Chúa Kitô và phải nói dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể mất mạng. Người đời không ưa chân lý, như Diogenes nói: “Chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau”. Một lần Latimer đang giảng, có cả vua Henry dự, ông biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên tòa giảng, ông nói lớn như nói với chính mình: “Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có vua Henry đấy”. Kế đó ông nghỉ, rồi nói tiếp: “Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây”.
Người đem một sứ điệp nói cho loài người nhưng phải nói trong sự hiện diện của Chúa. Khi chôn John Knox, người ta nói về ông “Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người”. Chứng nhân là người không biết sợ, vì họ biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh mọi phán xét tạm thời. Người truyền giáo là người lắng nghe cách cung kính, và nói với lòng can đảm, vì biết rằng, dù nghe hay nói thì đều ở trong sự hiện diện của Chúa.
SỨ GIẢ KHÔNG SỢ HÃI
LÒNG CAN ĐẢM CỦA NGƯỜI NGAY THẲNG
2. Mệnh lệnh thứ hai ở trong câu 28. Một cách đơn giản, điều mà Chúa Giêsu nói là không có hình phạt nào của con người có thể so sánh được với số phận tối hậu của một người phạm tội bất trung và bất tuân Chúa. Con người có thể giết chết thể xác nhưng Chúa có thể lên án chết linh hồn. Ở đây có ba điều cần lưu ý:
a) Có người tin vào sự bất tử có điều kiện. Đó là niềm tin chủ trương rằng phần thưởng của nhân đức là linh hồn người lành sẽ thăng lên, lên mãi cho đến chừng người ấy hội nhập với sự bất diệt, với phúc lành của Thiên Chúa và hình phạt cho kẻ dữ vì nó không sửa chữa đường lối mình dù Chúa đã kêu gọi, linh hồn người ấy cứ đi xuống luôn cho đến cuối cùng là tiêu tan, chấm dứt hiện hữu. Chúng ta không thể dựng nên một giáo lý chỉ dựa trên một đoạn Kinh Thánh nhưng điều Chúa Giêsu phán ở đây lại giống như vậy.
Người Do Thái biết rõ sự kinh khủng về hình phạt của Chúa:
“Quả Ngài có quyền trên sự sống và sự chết, Ngài đưa xuống tận âm phủ rồi Ngài kéo lên. Còn người ta bởi lòng ác có thể giết chết, nhưng khi linh hồn xuất rồi, nó không tài nào dẫn về được cũng không giải thoát được linh hồn ra khỏi âm phủ” (Kn 16, 13-14)
Trong cuộc khởi nghĩa Macabêô, bảy anh em trong gia đình tử đạo đã khuyến khích nhau bằng cách nói rằng: “Đừng sợ kẻ tưởng có thể giết chúng ta, vì cực nhọc và đau đớn khủng khiếp của phần hồn trong khổ hình đời đời đang chờ những kẻ phạm giới luật của Chúa”.
Chúng ta nên nhớ rằng sự trừng phạt của loài người chẳng nghĩa lý gì đối với sự trừng phạt của Thiên Chúa và phần thưởng Ngài ban.
b) Điều thứ hai đoạn này dạy chúng ta là còn một chỗ trong đời sống mà chúng ta có thể gọi là sự kính sợ thánh. Người Do Thái biết rõ sự kính sợ này. Người ta kể một ngày kia rapbi Jochanan đau. Môn đệ đến thăm. Nhìn thấy họ, ông khóc. Các môn đệ thưa: “Ôi ngọn neon của Israel, trụ cột tay hữu, cái búa đại năng, tại sao người khóc?” Người đáp: “Nếu ta bị dẫn đến trước một vua trần gian là người nay còn mai mất, nếu có giận ta thì cơn giận của người ấy không phải là vĩnh viễn, nếu người ấy có bắt giam ta thì sự giam cầm cũng không phải là muôn đời, nếu có lên án tử hình thì sự chết không phải đời đời, người đó ta có thể làm nguôi cơn giận bằng lời nói hoặc bằng của hối lộ, vậy mà ta cũng còn khóc. Phương chi bây giờ được đưa đến trước Vua muôn vua, Đấng Thánh đáng chúc tụng, Đấng vẫn sống và còn mãi đến đời đời. Nếu Ngài nổi thịnh nộ cùng ta, cơn giận của Ngài là vĩnh viễn; nếu Ngài hạ ngục, sự tù đầy là vĩnh viễn; nếu Ngài lên án chết, sự chết đó là đời đời. Ngài là Đấng ta không thể làm nguôi cơn giận bằng lời nói hoặc bằng hối lộ. Hơn nữa, trước mặt ta có hai con đường, một dẫn đến thiên đàng, còn đường kia dẫn đến địa ngục, và ta không biết sẽ được dẫn đi đường nào, ta lại không khóc sao?”
Không phải tư tưởng gia Do Thái quên đi tình yêu. Tình yêu là điều trọng đại nhất. Người ta nói: “Phần thưởng cho người nào hành động vì tình yêu là gấp đôi hoặc gấp tư. Hãy hành động với lòng yêu thương, vì nơi nào có sợ hãi thì nơi đó không có tình yêu, và nơi có tình yêu thì nơi đó không có sợ hãi, ngoại trừ trong sự tương giao của Chúa”. Người Do Thái bao giờ cũng chắc chắn, trong liên hệ với Chúa, có cả yêu lẫn kính: “Kính sợ Chúa và yêu mến Ngài, luật dạy cả hai, hãy hành động với tình yêu và lòng kính sợ. Hành động bởi tình yêu, không ai yêu mà lại ghét. Hành động bởi kính sợ, vì không ai kính sợ mà dám chống nghịch”. Người Do Thái cũng không bao giờ quên sự thánh thiện của Chúa, chúng ta cũng phải vậy.
Đối với người tín hữu, vấn đề càng ràng buộc hơn, vì chúng ta không phải sợ Chúa phạt, nhưng sợ làm buồn lòng Ngài. Người Do Thái cũng như Chúa Giêsu không bao giờ phải đối diện với mối nguy tình cảm hóa tình yêu của Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, nhưng Ngài cũng thánh thiện vì Ngài là Chúa. Trong lòng và trong tư tưởng chúng ta phải có chỗ cho tình yêu để đáp ứng tình yêu của Thiên Chúa, cho sự tôn sùng, kính sợ để đáp ứng sự thánh thiện của Ngài.
c) Hơn nữa, đoạn này cho chúng ta biết có những điều tệ hại hơn cả sự chết, mà một trong đó là sự bất trung. Nếu một người phạm tội bất trung, nếu họ dùng danh dự đánh đổi lấy sự an thân thì không còn đáng sống nữa. Người ấy không thể đối diện với loài người và với chính mình, càng không thể đối diện với Chúa. Có lúc những tiện nghi, an toàn, dễ dãi và chính đời sống khiến chúng ta phải trả giá đắt.
SỰ GIẢI THOÁT KHỎI SỢ HÃI VÌ CHÚA CHĂM SÓC
3. Mệnh lệnh thứ ba ở trong câu 31, dựa vào sự chắc chắn được Chúa chăm lo từng li từng tí. Nếu Người chăm sóc chim sẻ thì chắc chắn Ngài chăm sóc con người.
Mátthêu nói rằng hai con chim sẻ bán đi để lấy 1 xu, ấy thế chẳng có con nào rơi xuống đất mà Chúa lại không biết. Luca cho ta biết lời Chúa Giêsu phán đó dưới một hình thức hơi khác: “Năm con chim sẻ há chẳng bán 2 đồng xu sao? Thế mà trước mặt Chúa không một con nào bị bỏ quên” (Lc 12,6). Điểm đáng lưu ý ở đây là: hai chim sẻ bán được 1 đồng xu (đồng xu là assarion, tức là 1/16 đơniê), nhưng người mua sẵn sàng trả 2 xu để được không phải bốn mà đến năm con chim sẻ. Con chim được thêm ở trong tình trạng mặc cả, không có giá trị gì. Cả đến con chim sẻ bị mặc cả Chúa cũng chăm sóc đến, mà theo sự tính toán của con người, nó chẳng đáng giá gì. Nhưng cả đến con chim sẻ cho thêm đó cũng đáng giá trước mặt Chúa.
“Chẳng một con chim nào rơi xuống đất mà Chúa không biết”. Theo văn mạch chữ “rơi” khiến ta tự nhiên nghĩ đến sự chết nhưng rất có thể tiếng Hy Lạp dịch từ một từ Aram có nghĩa là “đậu trên đất”. Không phải Chúa chỉ lưu ý đến con chim sẻ rơi xuống và chết, mà hơn nữa Ngài còn lưu ý mỗi lần nó đậu xuống và nhảy trên đất. Lý luận của Chúa Giêsu là nếu Thiên Chúa còn chăm lo đến một con chim sẻ như thế huống chi là chúng ta!
Người Do Thái cũng biết và hiểu rõ lời Chúa đang phán. Không một dân tộc nào có quan điểm như thế về sự chăm sóc tỉ mỉ của Chúa đối với thụ tạo của Ngài. Rapbi Chanina nói “Ở thế hệ này không ai làm tổn thương đến ngón tay mình, trừ phi Chúa đã định”. Các rapbi có câu “Chúa nuôi cả thế gian từ cái sừng trâu cho đến cái trứng của con rận”. Hillel có lời giải thích kỳ diệu về Thánh vịnh 136. Thánh vịnh ấy khởi đầu bằng câu chuyện về Chúa là Thiên Chúa sáng tạo, Chúa làm nên bầu trời, trái đất, mặt trời mặt trăng và các ngôi sao (câu 1-9), kế đến, mô tả Chúa của lịch sử và Chúa giải cứu Israel từ Ai Cập và chiến đấu cho dân này (câu 11-24), sau hết tiếp tục nói đến Chúa là Đấng ban đồ ăn cho mọi loài xác thịt (câu 25). Chúa dựng nên thế gian, Chúa kiểm soát lịch sử cũng chính là Chúa ban đồ ăn cho loài người. Bánh chúng ta ăn mỗi ngày cũng do một hành động của Chúa giống như hành động tạo thành vũ trụ và giải phóng khỏi thân phận nô lệ Ai Cập. Tình thương của Chúa không chỉ thấy trong sự toàn năng của cuộc tạo thành và trong những biến cố lớn của lịch sử, nhưng còn thấy trong việc chăm sóc thể xác con người hằng ngày. Sự can đảm của sứ giả vua dựa trên xác tín rằng dù việc gì xảy ra, sứ giả không bao giờ trôi dạt ra khỏi tình thương và sự chăm sóc của Chúa. Sứ giả biết thời giờ của mình vĩnh viễn ở trong tay Chúa, Ngài sẽ chẳng quên, chẳng bỏ con người, con người sẽ được sự chăm sóc của Ngài bao bọc. Nếu vậy, chúng ta còn sợ ai?
Mt. 10, 32-33
SỰ TRUNG TÍN VÀ BAN THƯỞNG
Đoạn Kinh Thánh này đề cập đến hai phương diện của người Kitô hữu trung thành. Nếu một người trung thành với Chúa Giêsu đời này, Ngài sẽ trung thành với người ấy ở đời sau của người ấy. Nếu một người hãnh diện nhận Chúa Giêsu là chủ, Ngài sẽ vui nhận người ấy là tôi tớ của Ngài.
Một sự kiện lịch sử rõ ràng là nếu trong Hội Thánh sơ khai không có những người khi đối diện với sự chết, khổ hình, đau đớn, đã không chịu chối bỏ Chúa Giêsu thì chắc không có Hội Thánh ngày nay. Hội Thánh ngày nay được xây dựng và thiết lập trên sự trung thành tuyệt đối của những người giữ vững lòng trung tín của họ.
Pliny, quan tổng đốc xứ Bithini viết cho hoàng đế Trajan về cách ông đối xử với người tín hữu trong tỉnh mình. Những điệp viên đã báo cáo cho ông về một số Kitô hữu. Pliny kể lại là đã cho những Kitô hữu này cơ hội để cầu khẩn các thần của Rôma, dâng hương và rượu lên ảnh tượng hoàng đế và cuối cùng là bắt buộc họ nguyền rủa danh Giêsu. Và ông thêm rằng: “Không thể bắt buộc những người thật sự là Kitô hữu làm những việc này”. Ngay cả đến các quan tổng đốc cũng thừa nhận sự bất lực của mình trong việc lay chuyển lòng trung thành của họ.
Dù vậy người ta vẫn có thể chối Chúa Giêsu:
1. Chúng ta có thể chối Chúa bằng lời nói. Người ta thuật chuyện về J. P. Mahaffy, một học giả nổi danh thế giới, xuất thân từ đại học Trinity, Dublin. Khi được hỏi ông có phải là Kitô hữu không thì ông đáp “Có, nhưng không tích cực như vậy”. Ông muốn nói rằng mình không để Kitô giáo xen vào xã hội mà ông đang giao du và những thú vui mà ông ưa thích. Đôi khi chúng ta nói với người khác rằng mình là thành viên Hội Thánh nhưng chẳng quan tâm gì đến sinh hoạt trong Hội Thánh. Chúng ta không có ý sống khác người thế gian. Chúng ta tham dự đầy đủ mọi vui chơi của thế gian, và ta lại trông mong người đời phải tôn trọng những nguyên tắc mơ hồ của chúng ta.
Người tín hữu không trốn tránh thế gian nhưng là biến đổi mình cho khác với thế gian.
2. Chúng ta có thể chối Chúa bằng sự im lặng. Một nhà văn Pháp thuật chuyện đem người vợ trẻ vào một gia đình cổ. Gia đình này không chấp nhận cuộc hôn nhân đó, dầu vậy họ rất lịch thiệp, không biểu lộ sự phản đối bằng lời nói hoặc chỉ trích. Nhưng về sau, người vợ trẻ thổ lộ rằng bà khốn khổ suốt đời vì “sự đe dọa của những cái không nói ra”.
Trong đời sống cũng có những đe dọa của những điều không được nói ra. Trong đời sống, nhiều lần chúng ta có cơ hội nói vài lời cho Chúa để phản đối điều ác, giữ lập trường và tỏ ra chúng ta ở bên nào. Trong những trường hợp đó, nhiều khi chúng ta thấy giữ im lặng dễ hơn là nói. Nhưng sự im lặng đó là sự chối bỏ Chúa. Thật vậy, rất có thể nhiều người đã chối Chúa Giêsu do sự im lặng hèn nhát của mình hơn là bởi những lời có chủ tâm.
3. Chúng ta có thể chối Chúa bằng hành động. Chúng ta có một lối sống biểu lộ một sự khước từ liên tục đức tin mà chúng ta đã xưng nhận. Có người đã tuyên thệ trung thành với Phúc Âm, mà vẫn có thể làm trái Phúc Âm. Người ta đã quyết định đi theo Thầy là Đấng bảo phải vác thập giá, lại sống cuộc đời chỉ chú ý đến tiện nghi và thoải mái: Người ta đã bước vào phục vụ Đấng tha thứ cho mình và được dạy bảo tha thứ cho anh em mình, lại vẫn sống giận dữ, cay đắng thù oán anh em mình. Người ta từng chăm nhìn lên Chúa Giêsu đã chịu chết vì tình thương nhân loại, lại vẫn có thể sống cuộc đời hoàn toàn không có chút ý niệm gì về phục vụ, tình yêu và quảng đại Chúa dạy.
51. Chú giải của Noel Quesson
Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.
Ngày nay, chúng ta thấy việc truyền bá Phúc âm trong thế giới sống theo vật chất của chúng ta thật khó khăn. Vào thời của Thánh Mátthêu, điều đó cũng đã khó khăn rồi. Người ta cảm thấy trong những câu này của Đức Giêsu một ý muốn khích lệ: Anh em chớ nản chí, hãy vượt lên trên sự sợ hãi để rao giảng! Không gì có thể ngăn cản sức mạnh truyền bá chân lý. Sự thuyết giáo của Đức Giêsu tự nó là một hành động rất khiêm nhường, một "sứ điệp được che giấu... nói lúc đêm hôm... nói nhỏ vào tai". Sau nhiều thế kỷ, chúng ta thấy rằng Tin Mừng đã đi giáp vòng trái đất và vượt qua mọi chướng ngại. Lạy Chúa, xin nhắc chúng con có lòng can đảm để nói về Lời Chúa.
“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.
“Anh em đừng sợ!”
Ba lần, điệp khúc này trở lại trong miệng Đức Giêsu (Mt 10, 26.28.31). Tôi tưởng tượng Đức Giêsu ngửng cao đầu một cách hiên ngang khi nói ra những lời đó. Chính Người chưa khi nào Người sợ hãi. Người biết Người sẽ bị giết chết bởi lẽ sự thù hận của các kẻ thù dâng cao lên xung quanh Người như một con sóng đáng sợ, ngay khi Người bắt đầu đi rao giảng. Nhưng Đức Giêsu biết những “giá trị thật”.
Đối với Người, đời sống trần gian ít giá trị so với sự sống đời đời mà Người biết từ bên trong như Con của Cha. Con người có thể tấn công sự sống của thân xác. Nhưng họ không có quyền gì trên “sự sống thật" hoàn toàn thoắt khỏi ảnh hưởng của họ. Thánh Vịnh 123,7 đã nói đến linh hồn thoát khói lưới của kẻ đánh lưới chim muốn bắt lấy nó”.
Người tử đạo biết điều đó và theo bước Đức Giêsu. Người bị bách hại cao cả hơn kẻ bách hại người ấy. Người bị hành hình cao cả hơn tên đao phủ. Bề ngoài, kẻ bách hại mạnh hơn: hắn có vũ khí, có quyền lực bạo tàn. Hắn chỉ mạnh trên bình diện của sự tàn ác... mạnh một cách thú vật!
Người bị bách hại mạnh bởi một sức mạnh nội tâm không thể đánh bại. Là một gói cơ bắp lớn hơn những cơ bắp của đối thủ thì không đáng kể. Là một lih hồn mạnh mẽ" hơn, đó mới là đáng kể.
Đúng hơn anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.
Hỏa ngục, tiếng Do Thái là "Gué-H.innum" là một thung lũng ở phía Nam Giêrusalem, được coi như một hình ảnh tượng trương của Hỏa Ngục. Thung lũng đó bị chúc dữ từ những thời xa xưa vì là nơi người ta đã sát tế nhiều người. Đó là nơi bi thảm dùng để thiêu sinh trẻ con, người ta đặt chúng trên những cánh tay đã nung nóng đỏ của thần Moloch. Vào thời của Đức Giêsu thung lũng hỏa ngục tộc ác đó luôn là một bãi rác tởm lợm mênh mông của thành Giêrusalem. Người ta thường xuyên đốt rác và xác người chết ở đó. Cách nay hai năm, tôi mạo hiểm đến đó một mình, giữa những tảng đá bị lửa làm cháy nám. Đây đó, một vài cuộn khói còn bốc lên... Than ôi, truyền thống nhân loại còn ghi nhớ mãi sự tàn bạo kinh hoàng ấy, và đâu phải chi có ở Giêrusalem!
Tuy nhiên Đức Giêsu lặp lại với chúng ta: "Đừng sợ những kẻ. giết thân xác... hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt linh hồn!". Công thức này đáng kinh ngạc và cũng nghịch lý “Linh hồn" không thể giết được!. Công thức đáng sợ? Vậy "giết một linh hồn" có nghĩa là gì?
Nỗi sợ hãi duy nhất của chúng ta, Đức Kitô khẳng định, chính là đánh mất đức tin…
Nỗi sợ hãi duy nhất của chúng ta phải là sợ không đủ can đảm để "tuyên xưng và sống đức tin của chúng ta".
Không phải những kẻ bách hại làm mất Giáo hội... mà là những kẻ bỏ đạo!
Điều làm Giáo Hội phải động viên toàn bộ lực lượng chính là sự đánh mất đức tin trong các linh hồn! Khi người ta nghĩ đến những chiến dịch của dư luận để cứu lấy các hải cẩu con, hoặc cá voi, hoặc những phong cảnh cần được bảo vệ, hoặc các di tích cổ... thì thử hỏi người ta làm gì để cứu lấy các linh hồn? Người ta phải làm gì để con người không bị hư mất, không bị phá bủy từ bên trong khi đánh mất hết mọi ý nghĩa của cuộc sống? Các cộng đoàn Kitô hữu sẽ bị phán xét sau này, về những "linh hồn" mà họ để cho mất đi, Đó là hoả ngục! Đó là điều Đức Giêsu sợ! Đó là điều chúng ta phải sợ!
Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em".
Một hình ảnh không thể nào quên được. Đối với Đức Giêsu, không gì thoát được sự chăm chút lạ lùng của Chúa Cha. Biến cố nhỏ nhất đã được Thiên Chúa muốn hoặc dự kiến. Ví dụ như một con chim rời khỏi tổ. Một hiện tượng vô nghĩa chăng? Không, Thiên Chúa chăm sóc mọi tạo vật của Người. Không có gì thoát khỏi Người. Những công thức triệt để này được đánh dấu bới tâm thất Sê-mít không nên làm cho chúng ta kết luận về một thứ thuyết định mệnh phải, quả thật không có gì thoát khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa dẫn đưa các sự vật theo bản chất của chúng: những con người tự do được Thiên Chúa hướng dẫn một cách tự do... Thiên Chúa chăm chút đến những hành động tự do của chúng ta: không một hành động nào thoát khỏi Người. Nhưng Người tôn trọng chúng... và có thể nói rằng, Người muốn chúng, khi chúng ta muốn chúng! Đó chính là trách nhiệm rất lớn của tự do con người.
“Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người chúng đếm cả rồii. Vậy anh em đừng sợ: anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ".
Thay vì làm chúng ta sợ, sự chăm chút của Thiên Chúa trên mỗi hành động của chúng ta phải làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui: tôi được yêu mến... yêu mến không chút xao nhãng... không một phút giây nào lơi lỏng. Đấng yêu tôi, biết tôi đến từng chi tiết nhỏ. Người biết tôi hơn cả tôi biết chính mình.
Sự cầu nguyện của tôi trong lúc này có thể có hình thức sau đây: tôi để cho Thiên Chúa nhìn tôi! Các bạn cố gắng nhận thức một cách cụ thể rằng sức mạnh sáng thế vĩ đại trong lúc này không bị vận hành của vũ trụ và lịch sử hoàn vũ làm cạn kiệt mà còn hoàn toàn lưu tâm đến "tôi": Dưới mắt Thiên Chúa, tôi "đáng giá" hơn tất cả chim chóc của thế gian! Và trên thế gian có nhiều tổ chim chóc? Cha Cardjin, người sáng lập J.O.C. (thanh lao công) đã nói: "Linh hồn của một công nhân trẻ còn đáng giá hơn tất cả vàng bạc của thế gian!".
Vậy thì, Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự xảy đến cho con? Chúa săn sóc trên mọi sự? Chúa yêu thương con? Quả thật, làm sao con có thể sợ? Điều gì xấu có thể đến với con, nếu con vẫn ở dưới ánh mắt của Chúa. Nhưng một cách chính xác, tất cả vấn đề là ở chỗ đó.
Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Phải vấn đề "linh hồn" vẫn luôn là điều chủ yếu. Một cách chính xác đây là sự tuyên xưng đức tin! Phải là một sự tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người... do đó không chỉ là, một. loại đức tin dưới tầng hầm mà không ai có thể xác nhận. Cũng không chỉ là tự nhủ mình là "tín hữu' khi nói ra điều đó, không gây mâu thuẫn cũng không gặp nguy hiểm nào... hoặc khi điều đó không đem lại sự cam kết nào..khi điều đó không thay đổi gì cho đời sống tôi. Vấn đề là “tuyên bố nhận Đức Giêsu”, trước một tòa án, trước một người nào đó không đồng ý, và đang cố làm cho các bạn nói điều ngược lại, trước một người nào đó sắp chế giễu các bạn, sắp hành hạ, tra khảo các bạn, hoặc gởi các bạn như một người điên đến bệnh viên tâm thần, như điều đã xảy ra trước đây ở Liên xô.
Có phải tôi tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mặt thiên hạ không?
Có phải tôi thực hành đức tin của tôi? tôi trả giá nào cho điều đó? Tôi hy sinh điều gì? Có phải tôi phục vụ Thiên Chúa và Đức Kitô của Người? Hoặc có phải tôi chỉ dùng thời gian để phục vụ chính mình? Tôi làm gì cho Thiên Chúa?
Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Một lần nữa, chúng ta thừa nhận rằng chính chúng ta tạo nên sự phán xét của chúng ta ngay từ bây giờ. Đức Giêsu chỉ chia ly với những người đã chia ly với Người, chỉ chối những người đã bắt đầu chối Người trước kia. Chối Đức Giêsu. Tôi nghĩ đến sự chối Chúa của Thánh Phêrô... mà Đức Giêsu đã tha thứ một cách tài tình sau ba lần tuyên xưng đức tin và tình yêu mến của Thánh Phêrô: "Phêrô, anh có yêu Thầy không?". Vậy không có sự chối Chúa nào là không tránh được. Và chung cuộc, không một tội lỗi nào, dù nặng nề nhất mà không thể tha thứ được.
Một cách chính xác là với điều kiện phải "tuyên bố nhận Đức Giêsu" và tin một cách chắc chắn rằng Đức Giêsu cứu độ và tha thứ.
Tất cả sự nghiêm túc của tự do chúng ta nằm trong khả năng mà chúng ta dùng để nói: "Tôi tin vào Chúa"...đến độ sẵn sàng chịu đổ máu nếu cần. Chúng ta chớ quên điều đó.
Đến độ chịu đổ máu! Điều này hiếm khi có hình thức của sự tử đạo. Nhưng điều đó thường mang khuôn mặt của sự trung tín anh hùng của chúng ta, của những bổn phận hàng ngày, của những can đảm trước điều xảy đến, của những thử thách…
52. Đừng sợ - Chú giải của Fiches Dominicales
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Được tiếp đón hay bị từ chối như Thầy...
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, họ mệt mỏi rã rời như dẫn đàn chiên không người chăn người liền kêu gọi 12 môn đệ mà Người gọi là tông đồ (nghĩa là được sai đi).
Nhưng trước khi sai họ đi "đến với những chiên lạc là Israel", Người còn nói với họ một "diễn từ sai đi", là diễn từ thứ 2 trong số 5 diễn từ chính của Đức Chúa Giêsu trong Phúc âm thứ nhất. Sách Bài đọc chia ra hai bài, hôm nay và Chúa nhật tuần tới, nhưng không chia ra hoạt những nhắn nhủ các nhà truyền giáo:
Một đàng là những nhắn nhủ về sự dứt bỏ vô vị mà họ phải làm chứng, về cách họ phải cư xử khi được đón tiếp hay bị chối từ khi loan Tin Mừng (câu 9-15).
Đàng khác là những cảnh báo liên hệ đến sự bắt bớ mà họ sẽ phải chọn (câu 16-23) vì Thầy, nếu họ trung thành với sứ điệp của Người (câu 24-25): "Nếu chủ nhà đã bị coi là Belzebu, thì những người trong nhà sẽ còn bị xử tệ hơn". Hai câu cuối cùng này là cao điểm của bài diễn từ Cl Tassin bình luận: "Hai câu này nhìn sứ mạng " Kitô hữu như đồng bộ với thái độ của Đức Giêsu: cũng Người hiến mình cho đoàn chiên mệt mỏi lang thang, và chấp nhận những thử thách như Người, đó là sứ mạng đích thực của mọi Kitô hữu. Mười hai tông đồ vẫn là những mẫu mực không so sánh được về truyền giáo, không phải do những thành công, nhưng do các Ngài đã cùng Đức Giêsu cảm nghiệm đến cùng cảm tính định mệnh của các ngài.
2. Những người được sai đi của Đức Giêsu không đượcc sợ nói.
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết sự bắt bớ đang chờ họ và họ thấy rõ nguyên nhân của sự bắt bớ - căn tính sâu xa giữa Người và các môn đệ - Đức Giêsu hướng dẫn họ thái độ phải có khi gặp thử thách. Một tư tưởng hướng dẫn chạy xuyên suốt các lời Thầy, một điệp khúc tạo nên dấu chấm câu: Các con đừng sợ!... Đừng sợ! Đừng sợ gì cả...”
Đừng sợ, dám nói, vì lời họ nói không phải là lời của riêng họ nhưng là lời Đức Giêsu, lời có hiệu quả của lời Thiên Chúa. Do đó, môn đệ đừng mất can đảm nếu thành công trong hiện tại còn mỏng manh, thậm chí còn chưa thấy; như mặt trời mọc lên chiến thắng đêm đen, sứ điệp rồi cũng sẽ xuyên thủng tăm tối. Đừng sợ khi bị bắt bớ, vì nếu những kẻ bắt bớ chỉ có quyền trên sự sống dương trần (thân xác) chỉ mình Thiên Chúa nắm giữ đời sống vĩnh cửu và phán quyết của Người có thể huỷ diệt trần thế con người (cả xác lẫn hồn). Đừng sợ, vì Thiên Chúa, Đấng xét xử ta cũng là "Người Cha" chăm sóc mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, và yêu thương từng người con bằng sự âu yếm của người mẹ: "Các con đáng giá hơn những con chim sẻ nhiều". Đối với những ai gắn bó sự nghiệp của họ với sự nghiệp của Người đến liều cả mạng sống, Đức Giêsu cũng hứa sẽ gắn bó với họ trong ngày phán xét. Người sẽ là luật sư biện hộ cho họ "Ai tuyên xưng ta trước mặt người đời, ta sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Ta trên trời.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Trong bàn tay Thiên Chúa. (Mgr. L. Daloz, Le Règne de Cieux Siest approehé, DDB).
Với môn đệ được sai đi, Đức Giêsu không hứa hẹn một đời sống dễ dãi. Nhưng Người cũng không để các ông trắng tay. Người bảo đảm cho các ông có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người cũng trấn an các ông rằng từ nay các ông được Chúa Cha gìn giữ nên họ sẽ không lo gặp sự dữ. Chúng ta sống trong bàn tay của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Loan báo Phúc âm đâu phải là của riêng của những bậc anh hùng, những con người có óc phiêu lưu mạo hiểm! Loan báo Phúc âm đòi có sự can đảm, có sức mạnh, nhưng không phải sự can đảm hay sức mạnh của riêng ta. Ta tìm thấy sự bảo đảm vẹn toàn ấy ở nơi Thiên Chúa. Dù bản chất ta yếu ớt, nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong việc truyền giáo. Các tông đồ đã chẳng nhát sợ đó sao? Chính Thánh Thần Thiên Chúa trong ngày Lễ Hiện xuống đã ban cho họ sức mạnh để họ ra khỏi nhà, đến với mọi người. Thánh Phaolô tự phụ vì những yếu đuối của Ngài, vì qua những yếu đuối ấy, quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. Ta là con của Người Cha trên trời, của Thiên Chúa sáng tạo và giữ gìn tạo vật của Người. Là con Thiên Chúa thì khác hẳn với chỉ là tạo vật "Người ta chẳng bán hai chim sẻ một đồng đó sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất là không do ý Cha. Còn các con, ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm rồi". Ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người yêu ta như cha, như mẹ ta. Vì thế, Đức Giêsu luôn khuyên ta đừng sợ hãi. "Đừng sợ, các con có giá trị hơn chim sẻ kia nhiều".
Tuyên xưng niềm tin khi ta sống giữa những người đồng đạo, trong một cộng đoàn Kitô giáo thì thật dễ. Cho dù ở trong cộng đoàn, ta vẫn có tự do. Nhưng điều tối quan trọng, cực kỳ khó khăn đó là ta dám hành xử, ăn nói theo đức tin giữa một thế giới lãnh đạm, nghi kỵ hoặc thù ghét. Đức Giêsu đòi hỏi ta điều đó. Đức Giêsu sai môn đệ để họ đi rao giảng Nước Trời cho thế gian, chứ đâu phải chỉ để họ rao giảng cho nhau. Không đủ nếu ta chỉ mời người khác đến tham dự các buổi họp, thánh lễ vì ở đó, ta vẫn thường nói về Đức Giêsu Kitô, ta chẳng phải liều lĩnh gì cả, ta vẫn ở "nhà" ta, trong khuôn viên của ta. Nhưng cũng không cần phải ra ngoài đường phố mà rao giảng. Tuy nhiên, khi dám nói một lời trong xã hội ta sống, trong gia đình, với các bạn bè, các đồng nghiệp, "tại nhà họ", không khiêu khích, nhưng cũng không sợ hãi, đó là gieo hạt giống Nước Trời vào thúng bột trần gian... Đó là một liều lĩnh, nhưng lười biếng, im lặng còn là một liều lĩnh lớn hơn...
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong trung tín với Chúa. Chúng con chỉ đứng vững nhờ sức mạnh Chúa ban. Chúa là sự vững mạnh, là tảng đá cho chúng con nương tựa. Xin cất khỏi chúng con mọi sợ hãi loài người. Xin hãy tuyên xưng chúng con trước mặt Cha để Người ban cho chúng con đủ sức tuyên xưng Chúa trước mặt người đời. Xin cho chứng từ của chúng con là một bằng chứng cho mọi người thấy rằng Chúa chính là bảo đảm cho chúng con trước mặt Chúa Cha. Xin cho lời tuyên xưng đức tin của chúng con cho mọi người biết Chúa là Con yêu dấu của Chúa Cha. Khi chúng con sợ chống đối hay chế diễu, không dám tuyên xưng danh Chúa, xin hãy tha thứ cho chúng con, như Chúa đã tha thứ cho Phêrô. Nếu chúng con phản bội, thì Chúa vẫn một mực trung tín. Xin nâng đỡ chúng con để dù chúng con sợ hãi, tình yêu của Chúa vẫn là mạnh nhất. Để qua sự yếu đuối của chúng con, chúng con biết làm chứng về sức mạnh của ơn Chúa tha thứ.
2. Im hay nói (G. Bessierè, Diêu si proche, DDB).
Ngày nay Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên, Đức Giêsu yêu cầu ta: "Hãy la lớn trên "mái nhà" điều gì đã "thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: "Ai từ chối Ta trước mặt người đời, ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời".
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc "Không còn lời lẽ". Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe thấy điều không diễn tả được. Làm sao trẻ em, và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: "Tất cả những gì che giấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói "vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng Viên đã nói: "Có thời đã nói, có thời để im lặng. Những thời điểm này tiếp nối nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn "nói lên được điều gì nữa". Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt. Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
53. Dũng cảm tuyên xưng
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta đang ở trong Bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Mt (Mt 9,36–11,1). Toàn bài có bố cục như sau:
1) Dẫn nhập (9,36–10,5a):
a) Các yếu tố xác định (9,36-38),
b) Việc trao ban quyền và các tên gọi (10,1-5a);
2) Phần chính (10,5b-42):
a) Nhiệm vụ của các tông đồ (cc. 5b-15),
b) Những khó khăn và cách thức thắng vượt (10,16-42);
3) Kết (11,1).
Riêng phân đoạn 10,16-42 có bố cục như sau (các đoạn in nghiêng thuộc về bài đọc phụng vụ):
1) Sự bách hại các tông đồ phải chịu (10,16-39):
a) Hoàn cảnh tởng quát của các sứ giả (10,16),
b) Loài người sẽ xử tệ với các ông (10,17-23),
c) Số phận chung của môn đệ và thầy (10,24-25),
d) Lý do khiến các ông không được nao núng (10,26-31),
e) Tương quan của các ông với Đức Giêsu (10,32-39);
2) Việc tiếp đón các tông đồ (10,40-42).
2.- Bố cục
Bản văn 10,26-33 có thể chia thành hai phần:
1) Lý do khiến các môn đệ không được nao núng (10,26-31);
2) Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu (10,32-33 [39]).
3.- Vài điểm chú giải
- Vậy anh em đừng sợ (26): Từ ngữ “vậy” nối cc. 26-27 với phần đi trước, nhưng không phải là để đưa tới một kết luận, mà là một lời khích lệ. Ý nghĩa không phải là” đừng sợ họ, bởi vì họ không thể làm gì anh em; nhưng là: đừng sợ họ, bởi vì anh em không được mong mình có một số phận bớt đau thương hơn Thầy (cc. 24-25). Như thế, dù vẫn sợ những người bách hại, anh em phải đảm nhận lấy nỗi sợ hãi ấy mà cứ tuyên xưng niềm tin. Anh em sợ hãi người ta là chuyện dễ hiểu (cc. 17-25), nhưng đừng vì thế mà thôi làm chứng.
- được tỏ lộ … được biết (26): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa, có nghĩa là: Thiên Chúa tỏ lộ … Thiên Chúa thấu biết. Lý do thứ nhất khiến môn đệ không phải sợ, đó là sứ điệp vĩ đại về Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ. Dù thế nào, Tin Mừng cuối cùng sẽ tỏa rạng vinh hiển.
- những kẻ giết thân xác (28): Lý do thứ hai khiến không phải sợ, đó là sự sống chân chính của con người được bảo vệ. Những kẻ bách hại chỉ có thể “giết” (apoktenai); duy mình Thiên Chúa mới có thể “tiêu diệt” (apolesai) trọn con người (“thân xác” và “linh hồn”).
- hỏa ngục (28): Từ Hy-lạp geenna (được dịch là “hỏa ngục”) phiên âm từ Híp-ri gê-Hinnôm. Gần cổng thành phía nam Giêrusalem, có thung lũng gọi là gê’-Hinnôm hoặc gê’ben-Hinnôm (“thung lũng của con cái Hinnôm”). Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc của người Ammôn) đã lên tới cực độ (Gr 7,30–8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những tác nhân xử lý các tử thi, đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (hp) 7,17; lửa: Mt 13,42.50…), nay trở thành biểu tượng của số phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi.
- Ngoài ý của Cha anh em (29): Lý do thứ ba khiến không phải sợ, đó là Thiên Chúa quan phòng trên toàn thể thọ tạo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lý do khiến các môn đệ không được nao núng (26-31)
Mt không kể cho biết cách nào và khi nào thì lời loan báo về số phận của các sứ giả được chứng thực. Nhưng tác giả mô tả nhiều lần các lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó (16,21; 17,22t; 20,18t) và ghi chi tiết cả diễn tiến thực hiện cuộc Thương Khó nữa (ch. 26–27). Như vậy, trước khi các môn đệ và tôi tớ rơi vào số phận này, Thầy và Chúa của họ đã phải chịu rồi.
Đoạn 10,26-31 nhắc các tông đồ nhớ lại nhiệm vụ trọng yếu của các ông là loan báo thẳng thắn và công khai sứ điệp đã nhận từ nơi Đức Giêsu (x. 10,7; 10,27). Đức Giêsu nhấn mạnh ở đấy: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (10,27) và kết thúc bằng “Vậy anh em đừng sợ” (10,31), và cả ở 10,28, Người nhắc lại “anh em đừng sợ”. Dù sợ hãi khi đứng trước những đe dọa của bạo lực loài người, các sứ giả không được để mình bị ngăn cản khiến không chu toàn được nhiệm vụ. Họ phải thắng vượt nỗi sợ hãi này và tiếp tục trung thành với nhiệm vụ. Để đạt được như thế, họ phải đừng để ý đến người ta, nhưng phải để ý đến Thiên Chúa. Quyền của Ngài là có thể “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (10,28) thì đáng sợ hơn nhiều, còn sự ân cần chăm sóc và sự quan phòng đầy tình phụ tử thì đáng họ tin tưởng hoàn toàn (10,29-31).
* Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu (32-33 [39])
Đoạn cuối cùng nhắm vào quan hệ với Đức Giêsu (10,32-39). Coi trọng Đức Giêsu hơn, duy trì bằng mọi giá sự hiệp nhất với Người, là con đường duy nhất để có sự hiệp nhất với Thiên Chúa và được sống. Ở đây vẫn là ý tưởng cần phải chọn giữa Thiên Chúa và loài người, như đã thấy ở 10,26-31. Những nhân vật liên hệ với nhau trong tương quan được mô tả ở 10,32-33, là: Cha trên trời của Đức Giêsu (ở 10,20.29: Cha anh em), Đức Giêsu, cá nhân, loài người. Cá nhân phải tự quyết định, phải chọn lấy sự hiệp thông công khai và được tuyên xưng thẳng thắn với Đức Giêsu để qua Đức Giêsu, đạt được sự hiệp thông với Thiên Chúa. Ngược lại, ai chối Đức Giêsu thì cũng tách khỏi Thiên Chúa. Một hình thái cho thấy là người ta nhìn nhận Đức Giêsu công khai, đó là loan báo không sợ hãi sứ điệp của Người (x. 10,27). Ở 10,34-39, tác giả không còn nói rõ ràng đến Thiên Chúa Cha nữa, cũng chẳng nói đến loài người cách tổng quát nữa. Tương quan được giới hạn lại với Đức Giêsu, với các thành viên của một gia đình và với từng cá nhân. Một lần nữa, lại cần phải chọn lựa rõ ràng. Đức Giêsu, sự hiệp nhất với Người, phải được coi trọng hơn mọi người, cho dù điều này tạo ra những mâu thuẫn với những thành phần của gia đình mình. Và cuối cùng, phải chọn đi theo Đức Giêsu trên con đường đưa tới thập giá; sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải là sự hiệp nhất trọn vẹn với bản thân Người và phải được coi trọng hơn cả chính mạng sống mình. Chỉ người nào chịu mất mạng vì Đức Giêsu, thì mới tìm được mạng sống (10,39). Điều được nói ở 10,32-39 là lý do quyết định khiến người ta loan báo không sợ hãi, nhưng còn đi xa hơn, nghĩa là nó xác định rằng trong mọi trường hợp, sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải được coi trọng hơn mọi sự và mọi người.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ can đảm loan báo sứ điệp của Người (10,27). Người cũng yêu cầu các ông phải tin tưởng hoàn toàn nơi Người (c. 32). Các ông phải chứng tỏ một cách vô điều kiện là cách ông thuộc về Người và tin vào sứ điệp của Người, mà trước tiên đây là sứ điệp của Cha trên trời. Một ngày nào đó, Đức Giêsu sẽ tuyên bố nhận hay từ khước các ông là tùy điểm này (c. 28). Một lần nữa Đức Giêsu lại tỏ cho thấy địa vị và uy quyền vô song của Người. Án xử của Thiên Chúa về chúng ta, cũng như số phận đời đời của chúng ta, tùy thuộc cách chúng ta đối xử với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sợ loài người mà không sợ Thiên Chúa, Đấng có thể “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”, là chuyện liều lĩnh. Tác giả ghi lại đây cả những lời đe dọa (về hỏa ngục), đây là dấu cho thấy rõ ràng là chỉ đưa những lời khuyến cáo mà thôi thì vẫn không cản được các tín hữu sa sút (x. 5,22.29; 23,15.33). Phải đe dọa để họ nhớ rõ giáo huấn của Đức Giêsu: nếu họ nhận Đức Giêsu trước mặt người đời, Đức Giêsu sẽ nhận họ trước mặt Thiên Chúa; nếu họ chối Đức Giêsu trước mặt người đời, Người cũng sẽ chối họ trước mặt Thiên Chúa.
2. Người tín hữu biết chắc chắn mình ở trong tay Chúa Cha. Họ cũng ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu, Đấng Mêsia. Chính xác tín này giúp họ chấp nhận mọi sự, kể cả việc tử đạo, một cách thanh thản. Tin tưởng vào Thiên Chúa không phải là chắc chắn rằng mình sẽ được giải cứu khỏi thử thách, nhưng là biết vững vàng rằng chuyện mình bị kết án sẽ được biện minh và được đánh giá đúng mức. Ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu làm cho họ vững vàng và can đảm.
3. Nếu việc làm chứng đôi khi đưa người môn đệ đến chỗ chết, thì không phải là mặc dù được Thiên Chúa là Cha quan phòng, người ấy vẫn phải chết! Y như thể Cha có mặt lúc vị tử đạo bị giết, nhưng không thể cứu được người ấy. Mt nhấn mạnh rằng, tuy có mặt vào lúc con cái mình bị giết, Thiên Chúa vẫn không muốn tách cái chết ấy ra khỏi ý muốn của Ngài: nếu Thiên Chúa giúp đỡ vị tử đạo chính là vì cuối cùng Ngài muốn vị ấy phải chết.
54. Vững lòng trông cậy Chúa
DÙ ĐANG SỐNG GIỮA KHÓ KHĂN
1. Bàn về sự sợ.
Con người có nhiều nỗi sợ: sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân v.v.
Cái sợ làm tê liệt con người: không có sức làm việc không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống v.v.
Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ: sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không: có thiện cảm với Tin Mừng v.v. Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo "đừng sợ". Ngài không chỉ cho chúng ta cách làm thế nào để khỏi sợ. Lý do duy nhất Ngài đưa ra là gương của Ngài:
- Chúng ta là môn đệ của Ngài. Vì thế việc chúng ta gặp khó khăn và bách hại không có gì lạ, vì Thầy của chúng ta cũng đã từng bị như thế và còn bị nặng hơn chúng ta nhiều. Vì vậy, nếu là môn đệ Đức Giêsu thì đừng tìm cách trốn tránh khó khăn và bách hại.
- Hãy noi gương Đức Giêsu mà can đảm giữ vững lập trường của mình và tiếp tục sứ mạng của mình, không phải bận tâm về bất cứ điều gì khác:
a/ không cần bận tâm đến mạng sống bởi vì ngay cả mạng sống một con chim sẻ nhỏ bé mà còn do Chúa định đoạt, huống chi mạng sống con người;
b/ không cần bận tâm đến sự chống đối của người đời, vì "Ai tuyền xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy".
Cha Charles de Foucauld đã nói: "Cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là chúng ta không bao giờ sợ gì cả"
2. Suy nghĩ về Chúa Quan Phòng
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt: gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói "Đó là ý Chúa"; thành công hay thất bại, họ cũng nói "đó là ý
Chúa"; trước mọi khó khăn, nguy hiểm, họ nói "Để Chúa lo Phải chăng thái độ đó là quá ngây thơ: đành rằng có Chúa đó, nhưng bản thân mình cũng phải xoay trở chứ! "Hãy tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ giúp thêm"!
Nhưng suy cho cùng, thái độ tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng có những cơ sở rất vững vàng: Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống. Tin như thế là rất đúng, vì Thánh Kinh hằng lặp đi lặp lại biết bao lần chân lý ấy: "Ta hằng ở với con", "Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”
- Người phó thác vào Chúa cũng tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không điều gì xảy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa. Tin như thế cũng rất đúng: "Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc tiên đầu các con đã được đếm cả rồi". (bài Tin Mừng hôm nay)
- Người phó thác vào Chúa còn xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và mình là con. Một người Cha toàn năng và hết sức yêu thương con như thiên Chúa thì chắc chắn biết cách an bài cho con cái mình những điều tốt nhất: "Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì"
3. Im hay nói?
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta "Hãy la lớn trên mái nhà" điều gì đã "thì thầm vào tai". Lời chúc dữ của Người: "Ai từ chối Ta trước mặt người đời, Ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời".
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc "không còn lời lẽ". Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: "Tất cả những gì che dấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì dấu diềm rồi mọi người sẽ biết". Phải chăng ta không cầll như thánh Phaolô, nói "vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng viên đã nói: "Có thời để nói, có thời để im lặng". Những thời điểm này nối tiếp nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn "nói lên được điều gì nữa". Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và, truyền đạt.
Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong lòng họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà khống bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
4. Chuyện minh họa
a/ Đức Giám mục Oscar Romero
Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã di diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội.
Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe. Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe đọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói: “một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi". Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đúng lúc dâng Thánh Lễ.
b/ Trái tim chuột
Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: "Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột".
55. Sứ giả
Không có chỗ nào sự chân thành của Chúa Giêsu được bộc lộ thật linh động bằng ở đây. Ngài phán với các môn đệ đúng điều họ sẽ gặp nếu họ chấp nhận chức năng làm sứ giả của Ngài. Tại đây Ngài đưa ra những đòi hỏi rất cao, rất mạnh và không thể dung hòa được, và cũng cho họ biết chẳng những được Thiên Chúa chăm sóc nhưng cũng được thiện cảm của loài người.
Trước hết Chúa Giêsu cho biết cái giá phải trả khi chấp nhận làm sứ giả:
1. Một lựa chọn quyết liệt:
khi một chính nghĩa xuất hiện, hậu quả tất nhiên là chia rẽ giữa con người, những kẻ đáp ứng và những kẻ chối từ chính nghĩa đó. Đối diện với Chúa Giêsu là phải đối diện với một chọn lựa, hoặc tiếp nhận hoặc chối bỏ Ngài. Thế gian bị chia đôi bởi những người thừa nhận Chúa Giêsu và những người không chấp nhận Ngài. Điều chua chát nhất trong cuộc chọn lựa này là kẻ phải loại bỏ lại chính là người thân. Có thể một người vì quá yêu gia đình đến nỗi không dám dấn thân phục vụ và hi sinh. Không dám theo Chúa vì không dám xa gia đình hoặc e ngại nguy hiểm.
Một người có thể đã từ chối phục vụ trong một sứ mạng nào đó vì người đó để tình cảm riêng làm tê liệt. Con người ít khi phải đối diện với sự lựa chọn này, có người suốt đời không hề gặp, nhưng sự thật vẫn là: những người thân yêu có thể trở thành kẻ cám dỗ nếu những lo nghĩ về họ có thể ngăn cản chúng ta làm theo điều Chúa muốn.
2. Chúa Giêsu hứa ban thập giá:
Người dân Galilê hiểu rất rõ thập giá. Khi tướng La mã Varus dẹp tan cuộc phản loạn của Giuđa ở Galilê, ông đóng đinh 2000 người Do thái vào thập giá trồng dọc hai bên đường cái xứ Galilê. Thời đó phạm nhân phải vác thập giá của mình đến chỗ hành hình. Những kẻ nghe Chúa nói đã từng thấy kẻ tử tội loạng choạng dưới sức nặng của cây gỗ và chết trong đau đớn cực độ. Những vĩ nhân của đức tin biết rõ điều họ đang làm. Khi một vị tử đạo bị dẫn đến trước quan tòa, ngài nói với quan tòa: "Thưa quan, luật pháp của Chúa chúng tôi đã dự bị hai cách tuân thủ: một là làm cách tích cực điều lương tâm tôi tin rằng buộc mình phải làm; hai là nơi nào mà tôi không thể tích cực vâng phục lương tâm tôi được, thì tôi sẵn lòng nằm xuống để chịu mọi đau khổ người ta đem tới cho tôi."
Kitô hữu có thể phải hy sinh những tham vọng riêng, sự thoải mái và tiện nghi mình được hưởng, hi sinh công trình mình đã thành đạt, cũng có thể dẹp bỏ mơ ước, phải biết rằng những cái huy hoàng mình thoáng thấy không phải là để cho mình. Sẽ phải hy sinh ý muốn mình, vì không có kitô hữu nào có thể làm điều mình muốn mà phải làm điều Chúa muốn. Trong Kitô giáo bao giờ cũng có thập giá vì Kitô giáo là Đạo thập giá.
3. Ngài ban cho một cuộc phiêu lưu:
Chúa bảo họ:"Ai giữ mạng sống thì mất, còn ai đành mất mạng sống vì Ngài sẽ giữ lại được". Nhiều lần điều đó đã được chứng minh cụ thể. Một điều luôn luôn đúng là nhiều người có thể cứu mạng sống mình cách dễ dàng, nhưng cứu được rồi thì lại mất, vì chẳng còn nghe ai nói đến nữa.
Epicteus nói về Socrates: "Bởi chịu chết mà ông được sống, vì ông không chạy trốn". Socrates có thể cứu mạng sống mình cách dễ dàng, nhưng làm thế con người Socrates rồi cũng sẽ chết và sẽ chẳng còn ai nghe thấy tên ông nữa.
Trong đời sống kitô hữu không có chỗ nào cho chính sách thủ thân. Người nào dành ưu tiên đi tìm sự thoải mái, yên ổn cùng sự thỏa mãn những khát vọng riêng, người đó có thể được tất cả những điều này, nhưng sẽ không bao giờ hạnh phúc, vì bạn đã được sai đến trần gian để phục vụ Chúa và anh chị em mình. Người ta có thể ôm giữ sự sống mình nếu muốn, nhưng bạn sẽ mất tất cả những gì làm cho cuộc đời đáng sống và có giá trị cho người khác. Con đường phục vụ Chúa và tha nhân, con đường làm trọn mục đích Chúa cho chúng ta, con đường dẫn đến chân phúc là dấn thân, sử dụng cuộc đời mình cách không ích kỷ, vì chỉ như thế mới tìm được sự sống trong đời này và cả trong cõi vĩnh cửu “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Người sứ giả đích thực được Thiên Chúa ân cần săn sóc và sẽ được dân chúng tôn trọng. Khi Chúa Giêsu phán những lời này thì Người cũng dùng lối nói thông thường của người Do thái. Bao giờ họ cũng cảm thấy đón tiếp sứ giả của ai là tiếp nhận chính người đó. Tỏ lòng tôn kính sứ giả là tôn kính nhà vua đã sai người đến. Hoan nghênh người đại diện bạn cũng chính là hoan nghênh chính bạn mình. Người Do thái bao giờ cũng cảm thấy tôn trọng người đại diện là tôn trọng chính người đã ủy thác. Điều này áp dụng cho những nhà thông thái, những người dạy chân lý của Thiên Chúa. Các rabi thường nói:"Kẻ nào tiếp đãi người khôn ngoan không khác gì đem trái đầu mùa dâng cho Thiên Chúa. Kẻ nào chào hỏi người học thức chẳng khác gì chào mừng Chúa". Nếu ta tiếp một người thật thuộc về Chúa tức là tiếp nhận Đấng đã sai người ấy.
Lời Chúa đây trình bày bốn mắc xích trong sợi dây cứu chuộc:
- Thiên Chúa yêu thương, từ đó khởi sự toàn thể tiến trình cứu chuộc.
- Chúa Giêsu đem sứ điệp yêu thương đến với loài người.
- Loài người làm sứ giả, các tiên tri rao giảng, các người tốt làm gương, các môn đệ học hỏi và truyền lại cho người khác Phúc Âm mà chính họ đã nhận.
- Người tiếp nhận sứ giả và sứ điệp của Thiên Chúa nhờ đó tìm được sự sống cho linh hồn mình.
Trong đoạn Lời Chúa này có một điều thật đẹp, thích hợp cho những tâm hồn đơn sơ khiêm cung.
a) Chúng ta không thể đều là tiên tri, giảng và rao truyền lời của Thiên Chúa, nhưng người nào tiếp đãi sứ giả của Chúa sẽ nhận phần thưởng không kém chính vị sứ giả đó. Có nhiều người đã từng làm nhân vật đối với công chúng, có nhiều người với tiếng nói có thể nhen lửa trong lòng hàng vạn con người, có những người đã từng mang một gánh nặng vô cùng lớn lao về trách nhiệm và sự phục vụ công chúng; tất cả những người đó đều vui mừng làm chứng rằng họ không bao giờ duy trì được nỗ lực và yêu cầu của công tác nếu không có tình thương và sự chăm sóc, thiện cảm và tâm tình phục vụ của những người ẩn tích ở nhà. Khi đó sự cao trọng thật trước mặt Chúa người ta sẽ rất thường thấy một người chuyển động thế gian mạnh mẽ hơn cả lại hoàn toàn tùy thuộc vào một người khác, một người ẩn danh không ai biết đến. Các tiên tri cũng phải có bữa ăn, phải có áo quần, tiên tri cũng có một gia đình. Mong những ai thường làm những công tác dẫu dễ bị quên ơn như dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn, giặt quần áo, coi em...đừng bao giờ suy nghĩ đó là những công việc chán ngắt và buồn tẻ mà là công tác cao trọng nhất của Chúa: và chắc sẽ được lãnh phần thưởng của tiên tri hơn là những người chỉ lo hội họp bỏ bê gia đình.
b) Tất cả chúng ta không thể đều là những gương sáng về việc lành, cũng không thể tất cả đều được cả thế giới biết là công chính, nhưng ai có thể giúp một người trở nên tốt sẽ nhận được phần thưởng của người tốt. G.H. Gee kể một câu truyện khá hay. Một cậu bé trong làng kia, sau nhiều gian nan, đã đạt đến chức mục sư. Người đã giúp cậu trong những ngày còn đi học là người thợ sửa giày trong làng. Ông này như nhiều đồng nghiệp khác, là người đọc nhiều, thấy xa và đã giúp cậu bé rất nhiều. Rồi đến ngày cậu được phép giảng dạy, ông thợ giày nói: "Mơ ước của tôi là được làm người rao giảng Phúc Âm, nhưng hoàn cảnh đời tôi không cho phép. Còn anh, anh đã đạt được điều mà tôi không thể đạt được. Tôi muốn anh hứa rằng sẽ để tôi đóng và sửa giày miễn phí cho anh. Tôi cũng muốn anh mang giày tôi đóng mỗi khi lên tòa giảng, như vậy tôi sẽ cảm thấy rằng anh đang đứng trên giày của tôi để giảng một Phúc Âm mà tôi mong muốn rao giảng". Bằng cách đó, người thợ giày đang phụng sự Chúa y như người truyền đạo và phần thưởng sau này của người thợ giày cũng y như vậy.
c) Không phải tất cả chúng ta đều dạy trẻ được, nhưng mỗi người đều có thể phục vụ trẻ. Có lẽ chúng ta không biết phương pháp dạy, nhưng buộc phải làm những nghĩa vụ đơn sơ mà nếu thiếu trẻ không sống được. Có lẽ trong đoạn này có ý không nói nhiều đến trẻ con về phương diện tuổi tác, nhưng nói về phương diện đức tin. Rất có thể các rabi thường gọi các môn sinh là bầy nhỏ. Có thể về phương diện kỹ thuật và văn hóa chúng không biết dạy, nhưng vẫn có thể dạy bằng đời sống và gương sáng mà một người đơn sơ nhất cũng có thể làm được.
Vẻ cao đẹp của giáo huấn này là nhấn mạnh đến sự vật đơn giản. Chúa và Hội Thánh bao giờ cũng cần đến những người hùng biện, những gương sáng của cuộc đời thánh thiện, các giáo sư lớn, những người mà tên tuổi thường được nhắc đến, nhưng Chúa và Hội Thánh cũng cần đến những người có một gia đình hiếu khách, những bàn tay săn sóc việc nhà, có tấm lòng quan tâm chăm sóc do tình yêu kitô hữu: "Tất cả mọi phục vụ đều bằng nhau trước mặt Thiên Chúa " (Browning) "hãy cám ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó, nhưng chớ quên người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm"(Tago).
56. Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Người có công khởi xướng công cuộc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc thiểu số vùng Cao Nguyên Việt Nam là Ðức Cha Thể (Théodore Cuénot sinh ngày 8 tháng 2, 1802; chết rũ tù ngày 14 tháng 11,1861; và được phong Thánh ngày 19 tháng 6, 1988).
Tư tưởng loài người không phải là tư tưởng Thiên Chúa
Nhiều lần Ðức Cha Thể đã căn dặn các vị thừa sai của ngài là phải hết sức né tránh viên thủ lãnh dân tộc Bana tên Khiêm. Danh tiếng ông Khiêm lẫy lừng khắp vùng. Ði đến đâu ông cũng được người ta tôn kính. Ông nói giỏi tiếng Kinh và buôn bán lớn với người Kinh nên họ kể ông như trọng tài khi có tranh chấp với thổ dân. Ông Khiêm còn được nhà nước An Nam thừa nhận: các quan ở đồng bằng muốn lấy lòng và lợi dụng uy tín của ông nên đã vận động triều đình Huế ân thưởng ông một bằng cấp, qua đó nhìn nhận ông là thủ lãnh của tất cả các dân tộc thiểu số và phong cho ông chức đại diện của vua An Nam vùng Cao Nguyên. Tước hiệu này vuốt ve lòng tự ái ông Khiêm khiến ông trở thành nhân vật tận tâm tận lực với công việc của triều đình Huế. Như vậy dễ hiểu lý do tại sao các vị thừa sai lén lút lên vùng cao nguyên giảng đạo ngược với ý muốn của Hoàng Ðế An Nam đang bắt bớ đạo, không sợ ai cho bằng sợ ông Khiêm.
Nhưng Thiên Chúa quan phòng có đường lối riêng của Người. Người sử dụng kẻ mà mọi thừa sai đều né tránh. Khi hai vị thừa sai là Cha Cung và Cha Phan Tần (Combes và Fontaine) cùng phái đoàn vào làng Kon Phar thì người đầu tiên họ gặp chính là ông Khiêm!
Một trong số nô lệ của ông, chán cảnh tôi đòi, đã bỏ trốn và đến trú ẩn ở Kon Phar, nơi cách xa làng ông đến ba ngày đường. Ông Khiêm đã vượt khoảng cách đó đến bắt tên nô lệ trở về. Cuộc gặp gỡ bất ngờ đã làm hai vị thừa sai sững sờ! Giá mà họ hay trước được vài tiếng đồng hồ về sự hiện diện của con người đáng sợ này ở Kon Phar, chắc không khi nào họ dám tới gần đó. Nhưng hai vị chỉ biết điều ấy vào đúng lúc hai vị đứng đối diện với ông Khiêm!
Nhìn những con người da trắng kỳ lạ đến từ một con đường rất ít sử dụng, ông Khiêm tin rằng họ chỉ có thể là những nhân vật quan trọng nào đó, lìa bỏ xứ sở mình vì mắc trọng tội. Diện mạo của hai cha với làn da trắng, sóng mũi cao, râu rậm, quá khác xa những người mà ông từng thấy từ trước đến nay, đã làm ông bối rối, đoán già đoán non. Sau một lúc ngập ngừng ban đầu, ông Khiêm lấy lại bình tĩnh và tới tấp nêu câu hỏi: "Các ông là ai? Các ông từ đâu đến? Các ông có vẻ là những nhân vật quan trọng, vậy lý do nào khiến các ông thực hiện cuộc hành trình vất vả như thế này? Hai ông có phải là những người Kinh từ một tỉnh rất xa? Tôi chưa bao giờ thấy người nào có làn da trắng như các ông! Thật tôi thấy thương hại các ông trong cái xứ khốn khổ này. Hãy thành thật cho tôi hay. Tôi cảm mến các ông. Mặc dầu các ông có chuyện gì ở đồng bằng đi nữa, tại xứ Bana này các ông không phải sợ chi cả. Tôi đây như là vua của vùng này, và người Kinh cũng sẽ không làm gì được các ông đâu."
Tiến thoái lưỡng nan
Các vị thừa sai thấy ngay hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan của mình. Dầu muốn dầu không, bắt buộc các vị phải đặt mình trong vòng tay ông Khiêm! Hai vị thầm cầu nguyện rồi phó dâng bản thân theo thánh ý Thiên Chúa.
Vào dịp này cha Cung có viết cho Ðức Cha Thể rằng: "Chúng con đã gắng hết sức và làm mọi cách để tránh gặp ông Khiêm. Nhưng trong khi cố né tránh thì chúng con lại rơi vào tay ông ta. Có khi Thiên Chúa nhân lành muốn dùng ông ta để làm sáng danh Người chăng!" Mấy giòng cha Cung viết đã làm cho Ðức Cha Thể lo âu không ít. Ðọc thư xong, im lặng một lát, rồi ngài nói với Linh Mục đang ở bên ngài rằng: "Dầu sao, đó là việc của Chúa, Người biết rõ điều phải xảy ra cho vinh danh Người. Về phần cha đây, cha đã cam kết xây dựng miền truyền giáo này. Cha mới dâng Chúa một lời khấn, lời khấn ấy sẽ trói buộc cha suốt đời."
Trở lại với phản ứng của ông Khiêm. Ông nhận ra ngay nỗi lo âu của những người Kinh đối diện với ông, nhất là hai người da trắng. Ông vội vỗ về họ bằng cách lập đi lặp lại rằng: "Ðừng sợ, tôi sẽ giúp đỡ các ông. Tôi sẽ làm cho các ông tất cả những điều các ông muốn. Ðể minh chứng rằng tôi không có ý lừa dối các ông và lưỡi tôi thực sự là thông ngôn của lòng dạ tôi, tôi muốn ngay hôm nay kết nghĩa anh em với các ông, nếu các ông không thấy tôi bất xứng." Ông dùng những từ trang trọng nhất trong thổ ngữ của ông mà nói: "Hai cha lớn này, tôi xin gọi là cha của tôi, còn hai chúng ta - ông thân thiết xích lại gần thầy sáu Do cùng đi với hai cha và nói - sẽ là anh em."
Kết nghĩa anh em với lãnh tụ dân tộc
Theo thủ tục kết nghĩa anh em, hai bên giao nộp một ghè rượu và một gà mái, các chú mai mối xẻ ra làm hai đều nhau, cả tim, gan và từng cái đùi cũng phân làm hai, rồi trao vào tay mỗi người sắp kết nghĩa. Hai ống trúc cùng được cắm một trật vào một trong hai ghè rượu, và trước khi hai đương sự bắt đầu uống rượu thì một chú mai mối, với giọng trịnh trọng đọc lên những lời có tính cách công thức như sau: "Các anh hãy nhớ và đừng bao giờ quên rằng hôm nay hai người đã trở nên anh em với nhau; bạn hữu của người này là bạn hữu của người kia; bà con thân tộc của người này là bà con thân tộc của người kia. Nếu vô phúc mà một trong hai anh, phản bội người anh em của mình thì sấm sét hãy nghiền nát nó đi! Nó phải bị bắt và bị làm nô lệ! Nó phải chết khốn nạn và xác nó không được chôn cất, trở nên mồi cho cá dưới nước hay quạ trên rừng"
Từ lúc đó, lòng thành tín của ông Khiêm không bao giờ phai mờ. Ông luôn là người bạn chí thiết với các thừa sai. Ông không hề ngần ngại cả trước những trợ giúp hết sức nguy hiểm. Chính ông với phương tiện nô lệ và voi của mình, đã đảm trách việc vận chuyển qua ngã An Sơn, tất cả những gì người ta phải gởi lên cho các thừa sai từ địa phận Ðàng Trong sau này. Các quan ở đồng bằng hay tin các thừa sai trú ẩn vùng Cao Nguyên đã chỉ thị cho ông bắt giữ các vị ấy, nhưng ông Khiêm đã biết xử lý khéo léo, vừa làm hài lòng các quan, vừa không lỗi phạm tình bạn đối với các thừa sai.
Câu chuyện vừa kể cho thấy quả thật các thừa sai của Chúa tuy phải khôn ngoan như con rắn nhưng tới mức nào đó lại phải hiền lành như và đơn sơ như chim bồ câu vì phải đặt mình để tay Chúa dẫn đưa, thâm tín rằng truyền giáo chính là công trình của Thiên Chúa.
Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ
Bài Tin Mừng hôm nay là một phần của bài giảng về truyền giáo trong đó các môn đệ được dạy cho biết họ phải hành xử như thế nào đúng theo tinh thần của Ðức Giêsu (Mt 10,5-15) và họ sẽ gặp phải những khó khăn nào (16-42). Lời dạy chủ yếu là "Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà." (cc.24-25).
Vậy các môn đệ đừng trông chờ những sứ vụ dễ dàng và xuôi chảy, Ðức Giêsu có ý chuẩn bị các ông đối phó với những tình huống thù địch và chống đối.
Ðiều quan trọng là các ông không được sợ (Mt 10,26-33). Phải can đảm tuyên xưng đức tin mà không được bỏ cuộc. Ðiều các ông cần phải thâm tín là Nước Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến và người chứng chính là Ðức Giêsu (cc.26-27): khi ấy sự giả hình của đối phương sẽ bị chính Chúa phanh phui. Các môn đệ cần phải tín thác vào Thiên Chúa (cc.28-30). Người ta chỉ có thể làm hại thân xác chứ không thể hủy hoại được linh hồn. Cuối cùng, cần phải nhắm thẳng cuộc phán xét trong ngày sau hết (cc.31-33). Giá trị tối hậu sẽ là lòng thành tín mà các ông duy trì đối với Ðức Giêsu, bởi lẽ kết quả cuộc chung thẩm sẽ dựa vào lòng thành tín đó.
Ðừng sợ, Hãy tin tưởng đối thoại
Dưới ánh sáng của Công Ðồng Vaticanô II, bổn phận truyền giáo bao hàm cuộc đối thoại trong tinh thần tôn trọng những ai chưa đón nhận Tin Mừng. Các tín hữu sẽ rút ra từ cuộc đối thoại này những lợi ích của chính họ. Họ sẽ học hỏi để "biết rõ tất cả những gì là chân lý và ân sủng có nơi các dân tộc, như nhờ một hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa." (AG 9). Nếu họ loan Tin Mừng cho những người không biết chính là để củng cố, kiện toàn, xây dựng chân lý và lòng thiện hảo được Thiên Chúa đổ tràn xuống giữa con người và giữa muôn dân, và để thanh luyện họ khỏi những lầm lạc và sự dữ "để Thiên Chúa được vinh quang, ma qủy phải xấu hổ, con người được hạnh phúc" (AG 9; xem Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 856).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về việc ông Khiêm kết nghĩa anh em với thầy sáu Do và tận tình giúp đỡ và che chở các vị thừa sai: Bạn thấy khó hiểu hoặc nghi ngờ? Bạn nghĩ xem ra có sự an bài của Thiên Chúa, vì truyền giáo là việc của Chúa? Bạn có ý nghĩ khác?
2. Bạn nghĩ gì về câu Tin Mừng "Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý muốn của Cha anh em, thì đối với anh em cũng vậy. Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi" (cc.29-30). Hai câu vừa trích cho thấy Thiên Chúa quan tâm đến bạn vì bạn có giá trị trước mặt Người? Hai câu ấy còn cho thấy Chúa biết bạn hơn bạn biết chính mình, vì bạn đâu biết được số tóc bạn có trên đầu? Hai câu ấy có giúp bạn tín thác vào Chúa chăng?
57. Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.
Lệnh lên đường
Bài Tin Mừng hôm nay là phần quan trọng của "Bài Giảng Về Sứ Mệnh Truyền Giáo" (Mt 10). Các môn đệ được Ðức Giêsu sai đi loan báo "Nước Trời đã đến gần" (Mt 10,7). Họ được Ngài cho biết trước những khó khăn trên đường thi hành sứ mạng của mình, một sứ mạng được so sánh với hình ảnh "chiên đi vào giữa bầy sói" (Mt 10,16). Do vậy, bị ngược đãi và bị bách hại là số phận thường tình của những môn đệ trung thành với sứ mạng được trao.
"Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian" (Ga 17,18). Sứ mạng của người môn đệ tiếp nối sứ mạng của Con Thiên Chúa đã lĩnh nhận từ Cha. Chính vì vậy, người môn đệ cũng có chung số phận của Thầy "Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Ga 15,20). Ðược sai đến thế gian, sống giữa thế gian (x. Ga 17,11) nhưng các môn đệ lại là những người không thuộc về thế gian (x. Ga 17,16) vì họ đã được tuyển chọn và được tách khỏi thế gian bởi Cha (x. Ga 17,6) và bởi Thầy Giêsu (Ga 15,19). Chính đây là lý do của việc họ bị thế gian thù ghét và bách hại (x. Ga 15,19).
Vinh Quang nơi Thập Giá
Ðức Giêsu đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng chính cuộc khổ hình Thập giá. Giờ tử nạn của Ngài cũng chính là giờ Cha tỏ bày vinh quang cho Con Người (x. Ga 17,1-2). Ngay giây phút chết bi thương trên khổ giá, Ðức Giêsu tỏ cho con người biết phẩm giá cao quí nhất của mình: Ðó là phẩm giá làm con Thiên Chúa: viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (Mc 15,39).
Vì Ðức Giêsu, người môn đệ sẽ bị mọi người thù ghét (Mt 10,22). Thế nhưng, những đau khổ mà người môn đệ phải chịu lại mang một ý nghĩa thật lớn lao, đó là "cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào Thập Giá" (Gl 2,19). Như thánh Phaolô xưa, người môn đệ của Ðức Kitô Giêsu qua bao đời vẫn có thể nói: "những gian nan thử thách Ðức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl 1,24).
Trong đức tin, người môn đệ vẫn hằng lấy mầu nhiệm Thập Giá của Thầy làm vinh quang của mình "Vinh quang của ta là Thập Giá Ðức Kitô. Nơi Ngài ơn cứu độ của ta, phục sinh của ta". Người môn đệ là người được chính Thầy tỏ lộ cho biết những mầu nhiệm Nước Trời (x. Mt 13,11), đó là mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho họ (x. Cl 1,26). Mầu nhiệm này đã được thánh Phaolô xác định cách rõ ràng, đó là mầu nhiệm "Ðức Kitô đang ở giữa nhân loại, Ðấng ban cho con người niềm hy vọng đạt tới vinh quang (x. Cl 1,27). Ðức Giêsu muốn cho người môn đệ tiếp tục công cuộc tỏ bày mầu nhiệm cứu độ ấy cho những ai chưa được nghe thấy: "Những điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng (Mt 10,27). Vì mục đích và sứ mạng rao giảng này, người môn đệ phải vất vả chiến đấu (x. Cl 1,29), nhưng chính Ðức Giêsu Phục Sinh vẫn hằng hoạt động mạnh mẽ nơi người môn đệ, khi họ thi hành sứ mạng được trao. Người môn đệ luôn cảm nhận một sức sống trào dâng nơi đời mình, một sự sống nhiệm mầu được diễn tả bằng câu nói: "Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20).
Có Ðấng Phục Sinh đồng hành
Vì có Ðức Kitô Phục Sinh đồng hành trên đường thi hành sứ mạng, nên người môn đệ vẫn hằng cảm thấy niềm vui khi bị bách hại và chịu thử thách trăm bề (x. Cl 1,24). Như Ðức Giêsu, Ðấng hằng vâng ý Cha, lấy ý Cha làm lương thực của mình (x. Ga 4,34), người môn đệ cũng được mọi người tín thác vào tình thương quan phòng của Cha để luôn vâng ý Cha.
Ngắm nhìn vũ trụ bao la, thế giới xinh đẹp, người môn đệ khắc ghi sâu đậm nơi lòng mình tình Cha vẫn hằng ấp ủ đỡ nâng tất cả mọi loài thọ sinh. Tuy là Ðấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn, nhưng Cha vẫn mãi mãi là Ðấng rất mực từ nhân. Cha hằng chăm sóc cho từng cánh hoa đồng nội, trang điểm cho đẹp xinh hơn cả vinh hoa tột bậc của vua Salomon quí phái (x. Mt 6,29). Cha giữ gìn từng cánh chim bé bỏng, nuôi chúng no đủ từng ngày (x. Mt 6,26) và không con nào phải rơi xuống đất ngoài ý Cha (Mt 10,29). Riêng đối với những môn đệ của Con Chí Ái, những người thuộc về Cha (x. Ga 17,6), Cha ân cần săn sóc đến nỗi biết đến từng sợi tóc trên đầu họ (x. Mt 10,30). Trong tình thương diệu vời của Cha, người môn đệ có cùng một lòng tri ân, thán phục của tác giả thánh vịnh 138:
"Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.
Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
Quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Ði mãi đâu cho thoát thần trí Ngài,
Lẫn nơi nào cho khuất Thánh Nhan?
Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
Nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.
Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện
Ðến ở nơi chân trời góc biển phương tây,
Tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn.
Cánh tay hùng mạnh giữ lấy con (câu 5-9)
Chẳng giết được linh hồn
Hãy noi gương thánh nữ tử đạo Anê Lê Thị Thành. Người phụ nữ này bị bắt chính vì bà đã cho các thừa sai trú ẩn nơi nhà mình. Bà đã hành xử giống như nhóm phụ nữ cùng với Nhóm Mười Hai theo chân Ðức Giêsu và đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Ðức Giêsu và các môn đệ (x. Lc 8,1-3).
Tại Nam Ðịnh, quan toà bắt bà Anê Thành chối đạo, bà đáp: "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời."
Các quan truyền đánh đòn bà, lúc đầu bằng roi, sau bằng thanh củi lớn quật vào chân bà. Dịp chồng bà đến thăm, bà đã giải thích lý do tại sao bà chịu đựng nổi cơn đánh đập hung bạo đó: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Ðức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn."
Dã man nhất là màn thả rắn độc vào trong áo bà Thành đang mặc. Họ đã túm lấy tay áo bà, có ý để rắn bị bức xúc sẽ cắn vào người bà. Nhưng bà Thành bình tĩnh lạ thường, không nhúc nhích, nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra.
Người con út của bà Thành là Luxia Nụ tới thăm mẹ và thấy y phục mẹ mình đầy vết máu, nên khóc nức nở. Bà Thành an ủi con: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"
Bà Thành còn nói với cô Nụ: "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Ðàng."
Trong thời gian ngồi tù, bà Thành không những chịu cực hình tra tấn, chịu đói, chịu khát, mà còn chịu khổ vì bệnh kiết lị hành hạ. Nhưng bà được an ủi nhiều vì có hai nữ tu cùng bị giam, săn sóc và giúp đỡ bà. Các linh mục cũng gởi thuốc, đến thăm và ban bí tích hoà giải, xức dầu .
Cuối cùng bà đã phó linh hồn trong tay Chúa theo gương Thầy Chí Thánh ngày 12 tháng 7, 1841, sau ba tháng bị giam, hưởng thọ 60 tuổi, và được Ðức Gioan Phaolô II phong hiển thánh năm 1998.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn được đánh động nhất về điều gì trong cuộc tử đạo của thánh Anê Lê Thị Thành? Bạn nghĩ thánh Anê Thành nêu gương sáng nào cho người môn đệ Chúa Giêsu?
2. Trong thế giới công nghiệp ta hiện đang sống, bạn thấy người Kitô hữu phải hy sinh từ bỏ đặc biệt về những khía cạnh nào trong cuộc sống để theo chân Chúa Giêsu?
58. Đừng sợ
Trong xã hội ngày nay, có người vì sợ nghèo đói, sợ lao động mà lao vào một cuộc sống phi đạo đức. Có người trái lại, vì muốn làm giàu nhanh chóng, cũng đã thẳng tay chà đạp nhân phẩm của người khác và của chính mình nữa. Cả hai loại người trên đều đánh mất giá trị làm người và đã gây ra những thiệt hại to lớn không chỉ về kinh tế, xã hội mà còn về tinh thần, đạo đức cho cộng đồng nhân loại. Trong đời sống tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, cũng luôn có mối đe doạ rình rập giết chết lòng tin của người có đạo. Đó là nỗi sợ hãi. Sợ không kiếm được hay mất việc làm, sợ bị người đời gièm pha, chê cười, khinh khi, sợ bị xã hội kết án và loại trừ chỉ vì họ muốn sống theo những giá trị của Tin Mừng. Không thiếu những Kitô hữu đã đầu hàng, đã thoả hiệp để được yên ổn, để được vinh thân phì da, để được chức tước, địa vị xã hội. Họ sợ những người, những thế lực có thể giết hại họ phần xác.
Tuy nhiên, cũng không thiếu những Kitô hữu, có khi rất bình thường, lại thắng vượt được nỗi sợ hãi ấy, để sống chết với niềm tin vào Thiên Chúa. Họ vững tin rằng mọi sự, mọi chuyện đều nằm trong bàn tay Thiên Chúa. Họ vững tin rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương mọi người. Họ tin vào lời của Thiên Chúa là Đức Kitô. Khi vượt thắng nỗi sợ hãi, họ thường phải chịu thiệt thòi cách này hay cách khác, có khi liên luỵ tới cả mạng sống, tài sản, danh dự và địa vị xã hội. Họ là những người mà ngay từ đầu, Hội Thánh đã dành cho một danh xưng đầy trân trọng: Martyrion, có nghĩa là các chứng nhân, các vị tử đạo.
Tôn giáo nào cũng có những chứng nhân đích thực của mình. Họ luôn được tôn kính và noi theo. Họ luôn là niềm vinh hạnh của cộng đồng tôn giáo. Nhìn sâu hơn nữa, chúng ta sẽ thấy được rằng: cuộc sống theo niềm tin Kitô giáo luôn là một sự chọn lựa. Trong mọi sinh hoạt như kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị, chúng ta đều được mời gọi sống tin vào Thiên Chúa và phó thác trong tay Ngài. Chúng ta đều được mời gọi chứng tỏ cho mọi người thấy chúng ta nhận ai, theo ai, tin ai, bằng lời nói và bằng việc làm một cách dứt khoát, không hèn nhát, không thoả hiệp, không đầu hàng.
Hơn bao giờ hết, trong lúc xã hội đang đi vào cái thế bất ổn, thì người tín hữu chúng ta nên tự kiểm điểm một cách bình tĩnh và khách quan, để thấy hết được những đòi hỏi của Tin Mừng trong cuộc sống hôm nay, hầu nhờ đó sống trung tín với những lựa chọn của mình. Có như thế, chúng ta mới không hổ thẹn với Thiên Chúa và với dân tộc như lời Ngài đã phán: “Ai xưng tụng Ta trước mặt thiên hạ thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta”.
59. Can đảm làm chứng cho Chúa - Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trước khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giê-su khích lệ các Tông đồ đừng sợ hãi, nhưng hãy mạnh dạn rao giảng Tin Mừng Nước Trời vì ba lý do như sau: Một là vì các ông đang nắm giữ chân lý; Hai là vì thế gian chỉ có thể làm hại được về phần thể xác. Ba là vì các ông có Thiên Chúa luôn an bài mọi sự. Đức Giê-su cũng hứa sẽ bênh vực những ai dám can đảm tuyên xưng Danh Người trước mặt người đời.
CHÚ THÍCH:
- C 26-27: + Anh em đừng sợ người ta: Đừng sợ là lời động viên và trấn an các môn đệ mà Đức Giê-su đã làm nhiều lần trong thời gian giảng đạo như: Khi dẹp yên sóng gió (x. Mt 8,26; Mc 4,41), khi tiên báo việc các ông sẽ bị bách hại (x. Mt 10,19-20), khi khuyên các ông vững tin vào Chúa quan phòng (x. Lc 12,22), khuyên đừng sợ trước những biến động của ngày tận thế (x. Mc 13,7), trước những thử thách về đức tin (x. Mt 10,26-33), khi đi trên mặt nước lúc đêm tối (x. Mt 14,27; Mc 6,50), khi hiện ra vào chiều ngày phục sinh (x. Ga 20,19-20). + Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ…: Chính Thiên Chúa sẽ thực hiện việc bày tỏ sự thật về Người cho loài người, mặc cho có những kẻ cố tình che giấu bưng bít. + Điều Thầy nói lúc đêm hôm…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông ở Ga-li-lê giống như nói trong đêm tối, thì các ông hãy can đảm rao giảng công khai giữa thanh thiên bạch nhật. + Hãy lên mái nhà rao giảng…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông như nói rỉ tai, thì hãy lên mái nhà tức là trên sân thượng giống như chiếc bục giảng, để nói to cho đám đông đứng dưới sân được nghe. Tương tự như trong thời đó, vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ Sáu hằng tuần, người có trách nhiệm sẽ phải lên trên sân thượng ngôi nhà cao nhất, thổi kèn để loan báo cho mọi người biết đã bắt đầu ngày Sa-bát là ngày người Do thái phải kiêng việc xác.
- C 28-31: + Anh em đừng sợ: Lời Đức Giê-su động viên các môn đệ khi sai họ đi truyền giáo. + Những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn: Sự sống của con người bao gồm cả thể xác lẫn linh hồn. Đừng sợ người đời vì cùng lắm họ cũng chỉ giết hại các ông về phần thể xác, chứ không thể giết hại được linh hồn vốn có đặc tính thiêng liêng bất tử. + Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục: Thiên Chúa là Cha nhân từ nhưng cũng là vị Thẩm Phán công minh uy quyền. Ngày tận thế, Người sẽ trừng phạt và tiêu diệt cả hồn lẫn xác những kẻ chống đối Người trong hỏa ngục muôn đời. + Hai con chim sẻ… Ngay đến tóc trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi: Không có gì xảy ra cho các Tông đồ mà nằm ngoài thánh ý Chúa Cha. Loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu, mà Chúa Cha cũng quan tâm gìn giữ không để con nào bị chết đói. Hoặc như những sợi tóc trên đầu chẳng mấy giá trị, thế mà Thiên Chúa cũng quan tâm đếm hết. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không quan tâm giúp đỡ các Tông đồ hay sao? + Anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ: Thái độ của người thừa sai, là phải tin cậy phó thác cuộc sống trong tay Thiên Chúa, Đấng đầy khôn ngoan và hằng yêu thương săn sóc họ hơn muôn ngàn con chim sẻ.
- C 32-33: + Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên ha…: Trong ngày cánh chung (x. Mt 25,31-46), thay vì xét xử, Đức Giê-su sẽ làm trạng sư bầu chữa cho các Tông đồ trước tòa Chúa Cha. + Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ…: Người môn đệ trung thành làm chứng cho Đức Giê-su trước mặt người đời như thế nào, thì sau này Người cũng sẽ bênh đỡ họ trước tòa phán xét của Thiên Chúa thế ấy. Do đó, các thừa sai cần phải can đảm trung thành làm chứng cho Chúa, dù có thể vì đó mà bị người đời thù ghét giết hại.
CÂU HỎI:
1) Trong thời gian giảng đạo Đức Giê-su đã trấn an các môn đệ là "Đừng sợ" khi nào? 2) Tại sao Đức Giê-su lại khuyên môn đệ phải leo lên mái nhà rao giảng Tin Mừng? 3) Đức Giê-su khuyên môn đệ không nên sợ những kẻ nào nhưng cần phải sợ ai? Tại sao? 4) Đức Giê-su nêu ra 2 ví dụ nào cho thấy sự quan phòng của Thiên Chúa để khuyên môn đệ hãy tín thác vào quyền năng và tình thương của Người? 5) Đức Giê-su hứa sẽ làm gì cho những ai trung thành làm chứng cho Người vào ngày phán xét sau này?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục... Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,28.32).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Trong đức tin không có chỗ cho sự sợ hãi
Một viên sĩ quan người Anh có một đức tin mạnh mẽ. Ông đang cùng vợ con đáp chuyến tàu đi sang thuộc địa Ấn Độ nhận nhiệm vụ mới. Khi tàu rời bến được hai ngày thì trời bắt đầu nổi cơn giông bão. Mọi người trên tàu đều lo sợ cuống cuồng mà vợ viên sĩ quan lại là người sợ hãi nhất. Đang khi đó, viên sĩ quan chồng bà vẫn tỏ vẻ bình thản như không có điều gì xảy ra. Thấy chồng có thái độ như thế, bà vợ khóc lóc và trách móc ông đã thờ ơ trước sự an nguy của vợ con. Bấy giờ viên sĩ quan chẳng nói chẳng rằng, đi vào phòng riêng lấy ra một thanh kiếm. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ như để đe dọa. Đầu tiên bà tái mặt đi vì sợ hãi nhưng ngay sau đó bà lại cười lên khanh khách, không tỏ vẻ gì là sợ hãi cả. Viên sĩ quan liền hỏi vợ: “Làm sao em lại có thể cười khi bị anh dí mũi kiếm vào ngực như thế?” Bà vợ trả lời: “Tại sao em phải sợ khi lưỡi kiếm ấy đang ở trong tay của người chồng rất thương yêu em?” Bấy giờ viên sĩ quan mới giải thích: “Vậy tại sao em lại muốn anh phải lo sợ khi anh xác tín rằng cơn bão này được đặt dưới quyền của Thiên Chúa, là Cha hằng thương yêu và muốn sự an lành cho con cái? Do đó, chúng ta không cần phải sợ. Ta chỉ cần làm hết sức mình, rồi phó thác vận mệnh cuộc đời ta trong tay Chúa quan phòng là đủ. Dù ta có phải chết hay được sống thì mọi sự cũng đều có ích cho phần rỗi đời đời của ta.
Vậy, mỗi lần gặp một tai nạn, hay một con bệnh hiểm nghèo, ta hãy cầu xin Thiên Chúa, noi gương Đức Giê-su trước cuộc tử nạn đã cầu xin Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đau khổ có giá trị giúp chúng ta lập công đền tội, làm cho đức tin chúng ta thêm vững mạnh, và làm cho ta trở nên con Thiên Chúa. Chính vì ý thức được giá trị của đau khổ như thế, nên thánh nữ Béc-na-đét Sô-bi-rớt (Bernadette Soubirous) đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con không xin Chúa cho con khỏi chịu đau khổ, mà chỉ xin Chúa đừng bỏ con một mình trong lúc con chịu khổ đau”.
2) Thái độ can đảm hay nhát sợ phát xuất từ trái tim:
Một câu chuyện ngụ ngôn được kể lại như sau: “Ngày xưa có một chú chuột nhắt rất sợ bị mèo vồ. Một vị thuật sĩ khi thấy thái độ sợ sệt của chú chuột liền thương hại và đã biến chú hóa thành một con mèo to lớn. Nhưng rồi chú mèo này khi thấy con chó sói tới gần lại leo vội lên cây vị sợ bị sói ăn thịt. Vị thuật sĩ thương hại nên lại biến chú mèo thành một con chó sói to lớn. Thế nhưng chú sói này khi thấy thợ săn đến gần lại sợ hãi và ba chân bốn cẳng chạy trốn. Bấy giờ, vị thuật sĩ đành chịu thua, và nói với chú sói rằng: “Ta không thể giúp gì được cho mi đâu, vì mi chỉ có trái tim của một con chuột nhắt mà thôi!”. Nói rồi vị thuật sĩ lại biến chú sói to kia trở lại thành một con chuột nhắt như cũ.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng CN hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách gặp phải. Trái lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đương đầu với mọi hiểm nguy và cả sự chết nữa trên bước đường loan báo Tin Vui Nước Trời.
1) Anh em đừng sợ:
- Sợ hãi là chuyện thường tình của kiếp người. Nỗi sợ hãi thường mang nhiều bộ mặt khác nhau: Sợ bệnh tật, sợ cô đơn, sợ bị lừa gạt, sợ bị phụ bạc, sợ chia ly, sợ bị kẻ thù làm hại… Dường như nỗi sợ luôn ám ảnh mọi người. Sợ hãi sẽ làm cho người ta trở nên khép kín, không dám tiếp xúc với người khác, không dám làm điều gì khác thường và luôn cảnh giác đề phòng tha nhân. Nếu cứ để nỗi sợ hãi ám ảnh lâu dài, chúng ta sẽ có nguy cơ bị đau bao tử, tinh thần rối loạn và sẽ mau già trước tuổi.
- Về phạm vi đức tin, sự sợ hãi làm cho các tín hữu trở thành nhát đảm, không dám công khai đến nhà thờ dự lễ cầu nguyện, không dám nói về Chúa và có thể chối Chúa khi phải kê khai lý lịch, khi cần tuyên xưng đức tin, giống như ông Phê-rô xưa đã chối Thầy ba lần do sợ hãi (x. Mt 26,69-75).
- Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su ba lần nhắc nhở các môn đệ đừng sợ:
Đừng sợ người đời, nhưng hãy mạnh dạn nói lời Chúa cách công khai (26-27);
Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà thôi (28);
Đừng sợ vì ta có Thiên Chúa là Cha đầy quyền năng, hằng thương yêu và quan phòng gìn giữ ta. Người luôn quan tâm đến từng con chim sẻ không mấy giá trị và nắm rõ có bao nhiêu sợi tóc trên đầu chúng ta (29-31).
2) Cần vượt qua nỗi sợ hãi thường tình:
- Thực ra cảm giác sợ hãi là điều tự nhiên và không xấu. Ngay Đức Giê-su tuy khuyên các môn đệ đừng xao xuyến (x. Ga 14,1), nhưng trước cuộc khổ nạn chính Người cũng có cảm giác sợ hãi (x. Ga 12,27; 13,21). Trong vườn cây Dầu, Đức Giê-su đã vô cùng xao xuyến và tâm sự với ba môn đệ thân tín như sau: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy” (Mt 28,37-38). Rồi khi bị treo trên thập giá, Đức Giê-su cũng có cảm tưởng như bị Chúa Cha bỏ rơi, nên đã sợ hãi và đã kêu lớn tiếng rằng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46).
- Tuy nhiên, Đức Giê-su đã chiến thắng nỗi sợ hãi ấy, khi Người quyết vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống, thì xin cho ý Cha được thể hiện” (Mt 26,42). Chính nhờ chiến thắng cảm giác sợ hãi và chấp nhận con đường "qua đau khổ vào trong vinh quang", mà nhân loại chúng ta mới nhận được hồng ân cứu độ. Hôm nay Chúa Giê-su Phục Sinh cũng động viên mỗi người chúng ta: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để anh em được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã chiến thắng thế gian” (Ga 16,33).
3) Hãy can đảm làm chứng cho Chúa:
- “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Anh em hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa về”. Mỗi người chúng ta khi chịu phép rửa tội là chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa. Khi đi theo làm môn đệ Chúa Giê-su, là chúng ta cũng như “Chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16), chúng ta cũng sẽ trải nghiệm các cơn thử thách, xỉ nhục, bắt bớ và giết hại giống như Thầy Giê-su, như lời Người dạy: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24).
- Khi chịu phép Thêm Sức là chúng ta được tăng thêm sức mạnh của Thánh Thần để nên tông đồ đem Chúa đến với mọi người chung quanh. Cần cầu xin ơn Thánh Thần để đón nhận được bảy ơn Thánh Thần, như Hội Thánh cầu xin trong khi ban phép Thêm sức: “Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức – xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa”. Hãy nghe lời Chúa dạy: “Anh em đừng sợ” giống như Hội Thánh sơ khai đã không khiếp nhược nhưng hăng say đi rao giảng Tin Mừng.
- Cần tín thác cậy trông tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Bình thường, ai cũng sợ bị bắt bớ đánh đòn và sợ bị giết chết. Nhưng chúng ta cần tín thác vào Chúa như lời Chúa Giê-su hôm nay: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30). Dù chúng ta đang gặp nhiều gian nguy đau khổ, nhưng chúng ta tin vững vào quyền năng và tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN:
1) Ngày nay chúng ta thường lo sợ về những điều gì? Để thắng được nỗi sợ hãi, chúng ta phải làm gì? 2) Chấp nhận theo Chúa đòi phải bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Vậy trong cuộc sống hôm nay, chúng ta phải từ bỏ những gì không phù hợp với đức tin và sứ mệnh làm chứng cho Chúa?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Cha từ bi nhân ái. Xin lắng nghe lời con cầu nguyện: Xin hãy ban cho con sức mạnh của ơn thánh, để con loại khỏi lòng trí những đam mê xấu xa tội lỗi. Xin hãy ban cho con sức mạnh của lòng can đảm, để con sẵn sàng chấp nhận mọi nỗi buồn vui xảy tới trong đời con. Xin hãy ban cho con sức mạnh hy sinh, để con quên mình dấn thân gánh vác thập giá đời con và những đau khổ của anh em gây ra cho con. Xin ban cho con một sức mạnh kiên cường, để con không chịu khuất phục trước cường quyền bạo lực và không làm ngơ trước gương xấu tội ác, nhưng sẵn sàng bênh vực công lý và hòa bình. Xin ban cho con một sức mạnh dẻo dai để con biết nâng cao tâm hồn khỏi những lo lắng cơm áo gạo tiền thường ngày. Và cuối cùng xin ban cho con một sức mạnh trổi vượt, để con luôn khiêm nhường, tin cậy chạy đến nép mình trong bàn tay âu yếm của Chúa, và dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa và tha nhân theo thánh ý Chúa.
- Lạy Chúa. Nhiều lần chúng con đã tỏ ra khiếp nhược sợ hãi khi giao tiếp với người khác, hoặc khi gặp phải những gian nan thử thách liên tiếp xảy đến. Trong những giờ phút đen tối đó, nhiều lần chúng con đã không dám biểu lộ đức tin, đã gián tiếp chối Chúa khi không dám khai tôn giáo của mình trong bản lý lịch; Nhiều khi chúng con không dám làm dấu thánh giá ở chỗ đông người, không dám đeo dây chuyền có hình Thánh giá Chúa, không dám trưng bày bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng nhất trong nhà, không dám mở miệng bênh vực Chúa và Hội Thánh khi nghe những kẻ vô tín phỉ báng bất công. Xin giúp con chăm chỉ học hỏi Lời Chúa để ngày một hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Xin cho con thêm can đảm để dám bênh vực công lý và làm chứng cho Chúa. Xin ban thêm đức tin cho con để nhìn thấy Chúa đang ở trong con, để cậy trông phó thác đời con cho Chúa. Xin cho con sự khôn ngoan, biết khi nào nên nói và nói về Chúa cách nào cho hiệu quả. Nhờ đó, con sẽ chu toàn được sứ mệnh làm tông đồ mở mang Nước Chúa, loan báo Tin Mừng giữa lòng xã hội hôm nay.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
20/06 Mẫu mực trong đời sống đức tin
- Viết bởi Phêrô Dương Hải Văn SDB
Mẫu mực trong đời sống đức tin.
Thứ Bảy tuần 11 thường niên – Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ.
"Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Lời Chúa: Lc 2, 41-52
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrsalem để tìm Người.
Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ tất cả những việc đó trong lòng.
Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Trái tim người Mẹ.
Suy niệm:
Nếu ai hỏi Mẹ Maria điều gì quý nhất trong đời Mẹ,
hẳn Mẹ sẽ trả lời đó là Giêsu, con của Mẹ.
Người con này Mẹ đã cưu mang, dưỡng dục, và bảo vệ giữ gìn.
Người con này đã đem lại cho Mẹ biết bao niềm vui và hãnh diện.
Nhưng Mẹ cũng chịu nhiều đau khổ vì người con ấy.
Bài Tin Mừng hôm nay vén mở một chút nỗi đau của Mẹ,
cho thấy một chút trái tim của Mẹ khi sống bên Giêsu.
Cậu Giêsu, mười hai tuổi, cùng với cha mẹ lên Đền thờ mừng lễ Vượt qua.
Kể cũng lạ khi cậu ở lại Giêrusalem mà không báo cho cha mẹ biết.
Hai ông bà đi một ngày đường mới nhận ra mình mất con,
vội vã đi tìm trong đám bà con thân thuộc,
nhưng không thấy, nên trở lại Giêrusalem mà tìm.
Phải qua ba ngày đầy lo âu và nước mắt mới tìm thấy con trong Đền thờ.
Kinh nghiệm mất- tìm kiếm- tìm thấy này thật đau đớn đối với người mẹ.
Mẹ Maria sợ mất con, mất điều rất quý đã được Thiên Chúa trao cho mình.
Nhưng khi thấy con mình ngồi giữa các vị thầy, rất bình an trò chuyện với họ,
thì Mẹ lại sửng sốt, ngỡ ngàng, thay vì vui sướng.
Như vậy là con không bị lạc, nhưng đã cố ý ở lại Đền thờ mà không báo.
Mẹ không nén được một lời trách móc: “Tại sao con làm thế với cha mẹ?
Cha con và mẹ đã khắc khoải tìm con” (c. 48).
Chuyện không ngờ là cậu Giêsu đã đáp lại câu hỏi của Mẹ bằng hai câu hỏi,
đầy vẻ sửng sốt và cũng là một lời trách: “Tại sao cha mẹ lại tìm con?
Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao ?” (c.49).
Cũng có thể hiểu là: cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?
Đức Giêsu, khi lên mười hai tuổi, đã bắt đầu có ý thức mình thuộc về Cha.
Người Cha trên trời này khác với người cha mà Ngài đang chung sống.
Ngài phải ở với và lo việc cho người Cha này, lẽ ra cha mẹ phải biết chuyện đó.
Dĩ nhiên hai ông bà chưng hửng, không hiểu được câu nói của cậu Giêsu (c.50).
Riêng Mẹ Maria có thói quen nghiền ngẫm về các biến cố khó hiểu.
Mẹ giữ kỹ trong trái tim mình những chuyện xảy ra (Lc 2, 19. 51b).
Chúng ta tưởng Mẹ Maria luôn luôn hiểu Con mình, hiểu ngay, hiểu trọn vẹn.
Chúng ta tưởng ai sống thánh thiện thì lúc nào cũng vui, chẳng bao giờ lo sợ.
Nhìn Mẹ Maria, chúng ta hiểu theo Chúa là bước vào một cuộc hành trình.
Có những lúc như đang chơi ú tim với Chúa, mất rồi lại tìm, tìm thấy rồi lại mất.
Chúng ta chẳng bao giờ nắm được Chúa, giữ chặt Chúa trong tay.
Chúa vẫn là Đấng không thể thấu hiểu được, và vẫn làm chúng ta sững sờ.
Mẹ Maria đã chứng kiến Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt (Lc 2, 40),
từ khi sinh ra đến khi mười hai tuổi,
và từ mười hai tuổi đến lúc trưởng thành (Lc 2, 52).
Ngài càng lúc càng ý thức mình thuộc về Cha và ý thức về sứ mạng.
Con của Mẹ là một mầu nhiệm khôn dò mà Mẹ phải tìm hiểu mỗi ngày.
Mẹ để cho Con tự do sống theo Ý Cha, dù điều đó đem lại nhiều đau khổ.
Chuyện mất Con hôm nay chuẩn bị cho việc Con sẽ chia tay Mẹ đi sứ vụ,
và chuẩn bị cho cuộc chia tay kinh hoàng trên thập giá.
Chúng ta cầu cho các bà mẹ đang đau khổ vì con.
Mong sự vâng phục của con cái làm tươi trái tim người mẹ.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm họa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
SUY NIỆM 2: LỄ KÍNH TRÁI TIM VẸN SẠCH ĐỨC MARIA
Lm HKT
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria. Lễ này được Giáo Hội mừng kính ngay sau lễ tôn kính Thánh tâm Chúa Giêsu. Điều đó giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa ngày lễ của Mẹ Maria hôm nay.
Thật vậy, nếu như Thánh tâm Chúa Giêsu là dấu chỉ tình thương vô hạn mà Thiên Chúa dành cho con người, thì Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria cũng thế, cũng là dấu chỉ của tình yêu, nhưng là tình yêu của Mẹ đối với Thiên Chúa và đối với Đức Giêsu Kitô, con yêu dấu của Mẹ. Tuy nhiên, một cách đặc biệt, khi tôn kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria, Giáo Hội cũng tôn kính tình yêu hiền mẫu của Mẹ đối với toàn thể nhân loại.
Thế nhưng, tình thương của Mẹ Maria đối với con người không ngừng bị xúc phạm. Hình ảnh trái tim của Mẹ bị lưỡi gươm đâm thấu mà cụ già Simêon đã cho thấy điều đó. Và trong sứ điệp Fatima, Mẹ Maria đã tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Mẹ đã bị tội lỗi của thế gian gây nên biết bao thương tích. Bởi đó, một trong ba mệnh lệnh Fatima là “Hãy đền tạ trái tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ Maria”.
Cũng như tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không thể hiểu thấu được tình yêu của Mẹ Maria đối với chúng ta. Thật thế, khi trao ban thánh Gioan cho Mẹ Maria, Đức Giêsu cũng trao ban mỗi người chúng ta cho Mẹ Maria. Bởi đó, dù thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay đần độn, khoẻ mạnh hay bệnh tật, mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria đón nhận như người con trọn vẹn của Mẹ. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria dành cho tất cả tâm tình và tình thương mà Mẹ đã dành cho Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Ma-ri-a dành cho một chỗ đặc biệt trong trái tim Mẹ.
Là con cái của Mẹ Maria, chúng ta hãy siêng năng chạy đến với Mẹ để được Mẹ ủi an nâng đỡ và nhất là chúng ta hãy thi hành những lời căn dặn của Mẹ:
- Cải thiện đời sống,
- Siêng năng lần hạt mân côi,
- Tôn sùng Trái tim Mẹ – Amen.
SUY NIỆM 3: Mẫu mực trong đời sống đức tin
Một người đàn bà Nigiêria bị tòa án Hồi Giáo kết án tử hình bằng cách ném đá về tội ngoại hôn đã được hoãn hành quyết hai năm để bà có thể cai sữa cho đứa con.
Hôm thứ Hai ngày 17/6/2002, tòa phá án thành phố Pontuar ở miền tây bắc Nigiêria vẫn duy trì cuộc hành quyết này sau khi xét đơn kháng cáo của bà Amila Nawanrami. Người phụ nữ này bị kết án tử hình hồi tháng 3/2002, sau khi bị tố cáo có thai với một người đàn ông không chính thức là chồng của chị. Kurami là người đàn bà thứ hai bị kết án tử hình vì có con ngoại hôn tại Nigiêria. Án tử hình của chị sẽ được thi hành vào năm 2004 sau khi đứa con của chị dứt sữa mẹ. Bản án thật bất công, nó ngược lại với mọi chuẩn mực văn minh của loài người. Tuy nhiên, vẫn còn thấy ở đây một giá trị mà cho dù có độc ác tới đâu loài người vẫn còn trân quí, đó là tình mẫu tử. Người mẹ Nawanrami sẽ chết đi nhưng ít ra đứa con của chị vẫn còn có được những giọt sữa mẹ nuôi dưỡng cho đến khi thôi bú.
Cho con bú mớm, đó là hình ảnh đẹp nhất mà người ta có thể nhìn thấy nơi bất cứ người mẹ nào. Hôm nay Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, có lẽ chúng ta cũng được mời gọi để suy niệm về tình mẫu tử của Mẹ. Mẹ đã sinh dưỡng Chúa Giêsu, Mẹ đã từng cho Ngài bú mớm. Một hôm, vào giữa lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy, có một người trong đám đông đã lên tiếng ca ngợi Mẹ: "Phúc cho kẻ đã cho Ngài bú mớm". Quả thật, cũng như bất cứ bà mẹ nào, Mẹ đã cho Chúa Giêsu bú mớm, Mẹ đã nhìn Ngài lớn lên từng ngày, Mẹ theo dõi và hân hoan với từng bước chân chập chững của Ngài, Mẹ vui với sự khôn lớn của Ngài, Mẹ buồn lo vì sự bất chấp xảy ra cho Ngài.
Câu chuyện Chúa Giêsu lạc mất trong đền thờ được thánh sử Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được trái tim hiền mẫu của Mẹ: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con?" Lời trách móc này bộc lộ tất cả trái tim con người của Mẹ. Mẹ đối xử với Chúa Giêsu với tất cả tình cảm của một con người và chính vì là một con người cho nên Mẹ trở thành mẫu mực cho chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin. Nơi Mẹ, chúng ta nhận ra được một người tín hữu tiến bước trong mò mẫm, trong chiến đấu, trong tin yêu và vâng phục. Nhưng Mẹ không chỉ là mẫu mực cho chúng ta trong đời sống đức tin. Mẹ là Mẹ của chúng ta. Mẹ đã yêu thương Chúa Giêsu với tất cả trái tim nhân loại của Mẹ. Ngày nay, Mẹ cũng tiếp tục dõi theo mỗi người chúng ta với trái tim hiền mẫu ấy. Mẹ đã trải qua thử thách, Mẹ hiểu được thế nào là khổ đau. Hơn ai hết, Mẹ đồng cảm với bao nỗi lo lắng và khổ đau của chúng ta. Mẹ hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Mẹ đã từng dõi theo từng bước trong tiến trình trưởng thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ suy niệm từng biến cố của cuộc sống.
Ngày nay cũng thế, không có giây phút nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta mà không được Mẹ ôm ấp trong lòng. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta phó thác cuộc sống cho Mẹ.
SUY NIỆM 4: Lễ Trái Tim Đức Mẹ
Có thứ nghệ thuật cho rằng đặt trái tim bốc lửa ra ngoài ngực của Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a là một gương mù. Thế mà chiêm ngưỡng lối cách mạng này là trình bày cho chúng ta thấy hai Đấng thương yêu chúng ta đậm đà nồng ấm biết chừng nào, và chúng ta thấy hai Đấng đáng mến vô cùng. Người ta cho đó là thứ đạo đức thời trang; lấy lý do đạo đức trong sáng, người ta chê thiếu sự liêm chính tri thức và tinh thần thối thiểu trong đức tin; Nhưng người ta không thấy chướng tai gai mắt của lối thương mại in đúc những trái tim to bự bằng nhiều kiểu để trao tặng cho nhau trong ngày lễ Va-lăng-tin;
Như thế người ta nghĩ sao?
Thói chỉ trích đó do thứ thông minh đáng nghi ngờ cho rằng lối nghệ thuật cơ bắp đó chỉ lôi cuốn sự sùng kính cảm tình. Tuy nhiên, nghệ thuật tạo hình để bày tỏ sự thực của Thiên Chúa, nó nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Đừng cười chê quá lố; chúng ta thích biểu lộ tình yêu của chúng ta thế nào: bằng phá bỏ tưởng tượng này chăng? Phải, nếu muốn làm cho lòng yêu mến biến mất và không còn gì để kính tôn nữa. Cần phải đến những nhà thờ để chiêm ngưỡng; tôi đã đến và thấy rằng: “Những tượng ảnh xưa đầy gợi cảm đang sống động tốt”. Chúng có giá trị kích thích lòng đạo đức, chúng không thể là thứ danh từ tân thời như ngày nay.
Đức Ma-ri-a yêu thương chúng ta
Trái tim cực sạch Đức Ma-ri-a thế nào? Ngài yêu thương chúng ta. Trái tim cực sạch của Ngài đồng nghĩa với tình yêu chân thật, giống như tình yêu Con Ngài đối với chúng ta. Dù cho chúng ta tan tành cũ rách, và chẳng đáng để ý chút gì.
Thi hào Claudel nói:“Lạy Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, con không đến cầu xin, con đến chỉ để nhìn ngắm Mẹ thôi. Nhìn ngắm Mẹ không chỉ để một lát, mà suốt mọi lúc...
Vì Mẹ là bà Mẹ sáng ngời vinh quang nguyên tuyền...chỉ vì mẹ là Ma-ri-a, Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, Xin đoái thương chúng con”.
SUY NIỆM 5: Tôi biết chạy đến với ai?
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuda cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng mình có thể được tha thứ nữa. Ông cầm 30 đồng bạc là giá của sự phản bội và đi vào Ðền thờ để trả lại cho các thượng tế và kỳ lão. Sau đó, ông ra ngoài lấy dây thắt cổ tự vận.
Câu chuyện ấy đã được xen vào vở tuồng thương khó nổi tiếng của dân làng Oberammergau bên Ðức. Cứ 10 năm một lần, theo một lời thề hứa mà ông cha đã để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn ra cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vở kịch thu hút khán giả từ khắp nơi trên thế giới.
Người ta kể lại rằng lần kia, một em bé gái 7 tuổi ngồi cạnh mẹ để xem vở tuồng. Người đóng vai Giuda, trong cơn thất vọng não nề đã thốt lên: "Tôi biết đi đến với ai bây giờ? Tôi đã phản bội Thầy tôi. Thế là hết; Tô không biết phải chạy đến với ai nữa".
Em bé ngồi bên cạnh mẹ cảm thông cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng. Em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em bèn quay sang mẹ và nói lớn đến độ tất cả mọi khán thính giả có mặt trong hội trường đều nghe được: "Má ơi, sao ông ta không chạy đến với Mẹ Maria?".
Chúa Giêsu cũng có một người Mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối Mẹ, những lần sà vào lòng Mẹ, những lần mếu máo khi lạc mất Mẹ, hay những lần vòi vĩnh Mẹ... hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm của bản thân ấy đã trở thành bài học về hồn nhiên trong trắng, tin tưởng, phó thác của tuổi thơ mà Chúa Giêsu luôn đề ra cho chúng ta khi Ngài nói: "Nếu các ngươi không nên giống như trẻ nhỏ, các ngươi không được vào nước Trời".
Tuổi thơ thường gắn liền với mẹ. Còn âm thanh nào bộc phát, tự nhiên, quen thuộc và êm dịu trên môi của trẻ thơ cho bằng tiếng "Mẹ". Khi vui, trẻ thơ kêu mẹ, lúc đói, trẻ thơ cũng kêu mẹ. Khi tỉnh thức, trẻ thơ cũng kêu mẹ, lúc ngái ngủ, trẻ thơ cũng kêu mẹ... Mẹ là tất cả của trẻ thơ.
Mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ để được vào nước Trời, hẳn Chúa Giêsu cũng muốn nhắn gửi chúng ta cho Mẹ của Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là biết chạy đến với Mẹ Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là mặc lấy tâm tình của chính Mẹ Ngài, bởi vì còn ai trong trắng, tin tưởng, phó thác cho bằng Mẹ.
(Trích sách ‘Lẽ Sống’)
SUY NIỆM 6: Suy niệm trong lòng
Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. (Lc 2,51)
Suy niệm: Nhiều lần Chúa Giêsu đã gián tiếp ca ngợi Mẹ: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời tôi và đem ra thực hành” (Mc 3,35; Lc 8,21) và “Phúc thay ai lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28). Các Phúc Âm đã thuật lại những biến cố trong cuộc đời của Người Con, nhất là những biến cố trong thời thơ ấu, đã đi vào cuộc đời của Mẹ và cho biết Mẹ “hằng ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51). Hẳn đối với Mẹ, Lời Chúa không chỉ được nghe tại các hội đường mà còn vang lên nơi các biến cố đời thường và nhất là nhập thể nơi Người Con duy nhất mà Mẹ được diễm phúc sinh ra. Mẹ đã thường xuyên “đọc” Lời Chúa và suy niệm trong lòng như thế nên những phản ứng của Mẹ luôn biểu lộ thái độ của một người có lòng tin sâu xa, thấm nhuần Lời Chúa.
Mời Bạn: Mẹ Maria là người đã trải qua nhiều “đêm tối đức tin” hơn ai hết, nhưng nhờ Mẹ năng lắng nghe và suy niệm Lời Chúa nên Mẹ có sức mạnh nội tâm vượt qua tất cả. Làm sao Mẹ có thể tin nổi lời sứ thần Gabriel, làm sao Mẹ có thể can đảm đi theo Chúa trọn con đường Thập giá nếu Mẹ không nhận ra và tin vào Lời Chúa? Giờ đây Mẹ vẫn chuyển cầu và dẫn chúng ta đến với Chúa mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thử thách: “Người bảo gì thì hãy làm theo” (Ga 2,3). Nhưng liệu tôi có nghe và làm theo không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày chọn một câu Lời Chúa để suy đi gẫm lại như Mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã vâng phục Mẹ vì Mẹ đã thấm nhuần Lời Chúa. Xin giúp con biết để Lời Chúa hướng dẫn bước đường con đi trong suốt cuộc lữ hành trần thế này.
(Trích trong ‘nguoitinhuu.com’)
SUY NIỆM 7: LỄ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ - JM Lam Thy ĐVD
Để nói lên vai trò quan trọng bậc nhất của người mẹ, tục ngữ Việt Nam có câu: “Mồ côi cha ăn cơm với cá; Mồ côi mẹ liếm lá đầu đình”. Ấy cũng bởi vì tình cảm mẹ con vô cùng thắm thiết. Ngôn ngữ loài người đã dùng 2 tiếng Mẹ và Con để tôn vinh tình cảm bất khả thay thế đó, đồng thời cũng dùng 2 tiếng ấy trong cách xưng hô giữa 2 ngôi vị đó trong gia đình. Đối chiếu tình cảm đó với Thánh Kinh, khi nhìn vào mầu nhiệm Cứu Chuộc thì Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể), khi nhìn vào mầu nhiệm Hội Thánh thì Đức Maria là Mẹ Giáo Hội (vì Người Con của Mẹ đã nhận Giáo Hội làm Hiền Thê và chính thức trao phó cho Mẹ trước khi sinh thì trên Thánh Giá). Quả thật tình Mẫu Tử giữa Mẹ Thiên Chúa và Người Con là cao vời tuyệt đỉnh, muôn vật thụ tạo khôn sánh bằng.
Tuy nhiên, khi suy niệm Thánh Kinh thì lại nảy sinh thắc mắc: Tại sao Người Con Chí Thánh Giê-su lại gọi Mẹ mình bằng tiếng Bà nghe có vẻ xa lạ như vậy (như trong tiệc cưới Ca-na, khi thấy thiếu rượu, Đức Maria nói với Đức Giê-su: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” – Ga 2, 4); thậm chí cả khi trối trăng dưới chân thập tự: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ Gio-an: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.” – Ga 19, 26-27). Phải chăng vì Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên Người không muốn gọi người sinh ra mình nơi trần gian là Mẹ? Thắc mắc thật khó lý giải, đành phải nhờ vào việc tìm hiểu danh thánh Maria qua cách giải thích của các Giáo phụ, mới hiểu rõ được vấn đề:
Qua hàng bao thế kỷ, nhờ lòng tôn sùng tuyệt đốiĐức Maria, các thánh Giáo phụ đã đề nghị nhiều cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của danh xưng “Maria”. Tựu trung, người ta đã có được một giàn ý nghĩa kỳ thú sau đây: Maria nghĩa là “Người Soi Sáng” bởi vì Người đã đem Ánh Sáng (Đức Giê-su Thiên Chúa – Nguồn Ánh Sáng Cứu Độ) đến cho thế gian; Maria nghĩa là “Sao Biển” vì những người đi biển được Sao Biển hướng dẫn về bến bờ như thế nào, thì Ki-tô hữu trong biển đời giông tố cũng đạt đến vinh quang nhờ sự soi đường chỉ lốicủa Đức Từ MẫuMaria như vậy; Maria còn có nghĩa là “Lệnh Bà” (là Đức Bà của nhân loại). Trước đây ở Việt Nam, trong các kinh nguyện về Đức Maria đều gọi là Đức Bà.Điều đó cho thấy khi Đức Giê-su gọi Đức Maria là Bà, là Người tôn vinh Người Mẹ chí ái của minh vậy.
Còn về ngày lễ “Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ”, thì Lịch sử Phụng Vụ của Giáo Hội cho biết: Năm 1787, Đức Giáo hoàng Pi-ô VI ban phép các nữ tu dòng Đức Mẹ Gabriel mừng lễ “Rất Thánh Trái Tim Mẹ Maria” vào ngày 22/8. Năm 1799, tất cả các nhà thờ giáo phận Palermô nước Ý được mừng lễ này. Năm 1805, tất cả các giáo phận và các dòng tu muốn mừng lễ này đều được Đức Pi-ô VII ban phép. Năm 1855, dưới triều đại Đức Pi-ô IX, giờ kinh và Thánh lễ đã được Thánh bộ Lễ nghi chấp thuận (1).
Từ sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima năm 1917 ban hành mệnh lệnh “Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ”, vào ngày mồng 8/12/1942, Đức Thánh Cha Pi-ô XII long trọng dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Tới tháng 5/1943, Đức Thánh Cha khuyến khích tín hữu Công Giáo kêu cầu sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Rất Thánh, nhất là bằng cách đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình đích thực. Ngài cũng kêu mời mọi người dâng mình cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Năm 1945, ngài chính thức thành lập lễ “Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ” vào ngày 22/8. Theo chiều hướng canh tân Phụng vụ, năm 1969, Đức Phao-lô VI đổi lễ này vào ngày thứ Bảy sau lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su (cuối tuần Chúa nhật II sau lễ Hiện Xuống) (2).
Thật vô cùng ý nghĩa khi ngày lễ kính Trái Tim Người Mẹ đi liền với ngày lễ kính Thánh Tâm Người Con. Ấy cũng bởi vì 2 Trái Tim ấy luôn gắn liền với nhau, ở trong nhau trong suốt thời Cứu Độ và mãi mãi cho đến vô cùng. Để được hòa chung Máu của Mẹ với Máu của Con làm của dưỡng nuôi những tín hữu, cùng đồng công cứu chuộc nhân loại thoát khỏi sự chết đời đời, hẳn nhiên Đức Mẹ phải có đầy đủ trong lòng (trong trái tim) nguồn ân sủng chan chứa làm nên những hình ảnh Trái Tim Từ Mẫu tuyệt vời: Trái Tim Tinh Tuyền, Trái Tim Tín Thác, Trái Tim Cay Đắng, Trái Tim Nhân Hậu.
Trái Tim Tinh Tuyền: Mẹ đã được tuyển chọn ngay từ khi Nguyên tổ phạm tội. Thiên Chúa đã tiền định một E-và Mới sẽ “đạp nát đầu con rắn (Xa-tan) đã cám dỗ E-và” (St 3, 1-15). E-và Mới đó chính là Đức Maria được hồng ân vô nhiễm nguyên tội ngay từ khi đầu thai trong lòng bà Anna. Đồng thời, trong suốt cuộc đời trần thế, Mẹ cộng tác mật thiết với Người Con (A-đam Mới) đồng công cứu chuộc loài người, gặp biết bao nghịch cảnh và cám dỗ của ba thù, Mẹ vẫn giữ nguyên tuyền vẻ đẹp trinh trong một Trái Tim Vẹn Sạch, không chút bợn nhơ trần thế.
Trái Tim Tín Thác: Sau khi nghe sứ thần truyền tin, Mẹ chẳng so đo ngần ngại, mà dứt khoát:“Xin Vâng”. Mẹ hoàn toàn vâng phục, phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng với tất cả tấm lòng tin, cậy, mến. Qua bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat), Mẹ cảm tạ, ca ngợi và tri ân Thiên Chúa đã đoái thương đến Mẹ và dân Chúa chọn. Vì nay lời Giao ước đã được thưc hiện, Mẹ phó thác vào Thiên Chúa, tuân phục theo những dấu chỉ, những mệnh lệnh của Người cách trực tiếp, hay gián tiếp qua người bạn trăm năm là Thánh Cả Giu-se. Dù bụng mang dạ chửa nặng nề, Mẹ vẫn vui lòng lên đường trở về Bê Lem cùng với Thánh Cả Giu-se, theo lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế Augusto. Sau khi sinh hạ Hài Nhi Giê-su nơi hang bò lừa Bê-lem lạnh lẽo, Mẹ lại tiếp tục vâng theo Thánh ý, đem Con sang Ai-cập lánh nạn Hê-rô-đê lung giết các hài nhi.
Trái Tim Cay Đắng: Ngày 13/6/1917, một trong ba thiếu nhi Fatima (Lucia, Jacinta và Francisco) là Lucia (được “Chúa Giê-su dùng để làm cho Mẹ được mọi người nhận biết và yêu mến”) đã trực tiếp nghe lời Đức Mẹ phán hứa: “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Chúa”. Thế rồi, trước khi biến đi, Đức Maria đã dùng tay phải chỉ vào ngực, cho 3 trẻ thấy một Trái Tim bị gai nhọn từ chung quanh đâm vào (3). Điều này cho thấy những gai nhọn, đinh sắc (tội lỗi loài người) không chỉ đâm vào Thánh Tâm Người Con mà còn đâm cả vào Trái Tim Mẹ. Trái Tim Mẹ khi còn tại thế đã đau đớn đúng như lời ngôn sứ Si-mê-on tiên báo (“Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” – Lc 2, 35). Thật không ngờ cho đến 20 thế kỷ sau, khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima (năm 1917), Trái Tim Mẹ vẫn tiếp tục bị gai nhọn, đinh sắc tội lỗi loài người đâm thâu. Danh thánh Maria với nghĩa là “Biển Đắng Cay” quả thật không sai.
Trái Tim Nhân Hậu: Nói về nhân hậu là nói về Đức Mến nền tảng của Ki-tô giáo. Đó chính là điều răn trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”. Với Đức Maria thì Trái Tim Mẹ đã vượt trên tất cả phàm nhân về đức tính nhân hậu. Vì “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, Đức Maria đã dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa (khấn giữ đồng trinh). Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ đã “xin vâng như lời sứ thần truyền” dù cho Mẹ “không hề biết đến người nam”. Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ chấp nhận mọi gian nan vất vả khi sinh con tại hang bò lửa Bê-lem, khi mang Con lánh nạn sang Ai-cập. Từ khi hạ sinh Trưởng Tử Giê-su, Mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc Con, không những thế, Mẹ còn dạy mọi người đức mến yêu, vâng phục tuyệt đối Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga 2, 5). Cho đến khi Con tử nạn trên Gôn-gô-tha thì Trái Tim tan nát của Mẹ vẫn mở ra đón nhận đàn con cái trần gian do Người Con trao phó. Trái Tim của Mẹ vì khiêm cung nhân hậu đã xin vâng nhận làm Mẹ Thiên Chúa, nay lại mở rộng lòng nhận hậu, nhận làm Mẹ Giáo Hội lữ hành.
Suy niệm về Trái Tim Từ Mẫu Maria thì vô cùng, không bút mực nào có thể diễn tả cho hết được về kỳ công Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một E-và Mới Maria, hạ sinh một Trưởng Tử A-đam Mới, cùng hiệp thông thi hành sứ vụ Cứu Độ nhân loại. Người Ki-tô hữu hãy chạy đến với Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, để được “Nhờ Mẹ, đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”, cầu xin Người ban cho một tâm hồn trong sạch, một trái tim tinh tuyền như Mẹ và như vua Đa-vit thủa xưa. Hãy tha thiết thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51, 12). Ôi! “Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn cao dâng tâm tình kính mến. Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn trung kiên vững một niềm tin.” (TCCĐ “Trái Tim Tinh Tuyền”).
SUY NIỆM 8: ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM, VÌ ĐƯỢC CHÚA Ở CÙNG
Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, thì Đức Ma-ri-a là Mẹ của Thiên Chúa (Hội Thánh kính ngày 1.1)
Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Hội Thánh, thì Đức Ma-ri-a là đấng Vô Nhiễm, vì là Hiền Thê của Tân Lang Giêsu mà Hội Thánh kính hôm nay.
Chính Đức Giê-su đã gọi Mẹ mình bằng danh hiệu Bà lúc khởi đầu và lúc kết thúc cuộc đời công khai của Ngài.
- Khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su, Ngài “thai nghén” Hội Thánh qua tiệc cưới Cana là dấu chỉ. Nơi đây Đức Giê-su nói với Mẹ: “Này Bà, giữa tôi và Bà nào có việc gì” (Ga 2,4a). Đức Giê-su gọi Mẹ mình là Bà,Ngài có ý xác nhận Đức Ma-ri-a là Eva mới, sẽ làm ứng nghiệm lời hứa tiền Tin Mừng Thiên Chúa cứu độ loài người: “Người phụ nữ sẽ đạp nát đầu rắn” (St 3,15 – Theo bản dịch Phổ Thông). Bà Eva mới này mới làm ứng nghiệm lời ông Adam nói với vợ: “Bà là mẹ các sinh linh” (St 3,20), nghĩa là mẹ của những người được Thiên Chúa cứu độ.
- Kết thúc đời công khai của Đức Giê-su, khi Ngài bị treo trên thập giá là thời điểm Ngài sinh ra Hội Thánh, là con của Bà Maria, Eva mới, như Lời Đức Giê-su nói về sự liên hệ giữa môn đệ của Ngài với Đức Ma-ri-a: “Hỡi Bà, này là con Bà”, đoạn Ngài nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”, và từ giờ đó môn đệ đã lĩnh lấy bà về nhà mình” (Ga 19,26-27).
Như thế hai lần Đức Giê-su gọi Mẹ bằng danh hiệu Bà mở đầu và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài, là Ngài có ý nhấn mạnh: Từ khởi sự cho đến hoàn tất, những công việc tôi đều có sự tham dự tích cực của bà Maria. Vì thế, thánh Phao-lô nói: “Cũng chỉ vì một người mà sự tội đã đột nhập vào thế gian, và vì tội, thì sự chết nữa và như vậy sự chết đã lan qua hết mọi người, một khi mọi người đều đã phạm tội… Ấy thế, mà sự chết đã ngự trị từ Adam cho đến ông Mô-sê, trên những kẻ không phạm tội (vì lúc đó chưa có Luật) bằng cách vi phạm giống như Adam phản ảnh của Đấng sẽ đến. Nhưng không phải sa ngã sao ơn huệ cũng vậy. Vì nếu bởi sự sa ngã của một người, nhiều người đã chết, thì còn dãy tràn hơn biết bao trên nhiều người, ơn của Thiên Chúa, lộc trong ơn của một người, Đức Giê-su Ki-tô”(Rm 5,12.14-15).
Bởi đó, Đức Ma-ri-a là tiền thân của các Ki-tô hữu, vì qua Bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu cũng là một trinh nữ thanh khiết, như Maria, Mẹ của mình, được đính hôn với Tân Lang Giêsu, (x 2Cr 11,2). Chính vì vậy mà Hội Thánh tuyên xưng Đức Ma-ri-a là một Trinh Nữ Vô Nhiễm Chúa chọn từ muôn thuở, để cùng với Adam cuối cùng (x 1Cr 15,45b) sinh ra dòng giống nhân loại mới là Hội Thánh. Do đó giáo huấn của Công Đồng Vat.II, trong Hiến Chế Hội Thánh số 56: “Vì Eva không vâng Lời Chúa, nên đã sinh ra nhân loại phải chết ; nhưng nhờ Đức Ma-ri-a, Eva mới cùng với Adam cuối cùng, sinh ra dòng giống nhân loại mới được sống muôn đời hạnh phúc dồi dào”, và như thế Đức Ma-ri-a đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời đại Thiên Chúa ra tay cứu độ: “Dòng giống chúng sẽ được biết đến trong các nước, và miêu duệ chúng lừng danh giữa muôn dân ; ai thấy chúng đều nhận biết đích thị là dòng giống được Thiên Chúa chúc lành” (Is 61,9: Bài đọc). Bởi đó, khi Đức Ma-ri-a vừa nghe bà Elyzabeth người chị họ chúc tụng: “Trong nữ giới có người là diễm phúc ! Vì đáng chúc tụng thay quả lòng Bà! Và bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa đến với tôi” (Lc 1,42-43). Vừa nghe lời chúc tụng ấy, Đức Ma-ri-a cất tiếng ca ngợi Chúa: “Tâm hồn con nhảy mừng trong Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,47: Đáp ca). Tâm tình ca tụng Chúa của Đức Ma-ri-a đã nối dài lời chúc tụng của bà Anna, dù hiếm hoi mà được Chúa cho sinh con trong tuổi già: “Tâm hồn con hỷ hoan vì Chúa, nhờ Chúa con ngẩng đầu hiên ngang, con mở miệng nhạo báng quân thù. Vâng con vui sướng vì được Ngài cứu độ” (1Sm 2,1). Và như thế, lời tạ ơn trên của Đức Ma-ri-a lại làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời Thiên Chúa ra tay cứu loài người khỏi án tử vì tội: “Tâm hồn con vui sướng trong Chúa, mạng con nhảy mừng trong Thiên Chúa con thờ, vì Người đã mặc cho con áo cứu độ. Chiến bào công chính, Người phủ lên con, như tân lang chỉnh tề đai mão và tân nương điểm trang phục sức” (Is 61,10: Bài đọc). Và như thế Đức Ma-ri-a đã xác nhận mình là Tân Nương đã được Chúa điểm trang phục sức đứng kề bên Adam cuối cùng chỉnh tề đai mão, vì Ngài là Vua.
Ơn huệ quý báu Chúa ban cho Đức Ma-ri-a chỉ có thể tồn tại nhờ Mẹ đến Nhà Chúa gặp thấy Con đang giảng dạy giáo lý. Quả thật, mầu nhiệm này Đức Giê-su hữu ý bắt cha mẹ Ngài phải đến Nhà Thờ, mới được bình an. Đó là lý do Ngài trốn cha mẹ ở lại Nhà Thờ, để từ đó Con Thiên Chúa đồng hành với cha mẹ trở về quê Nazareth (x Lc 2, 41-51: Tin Mừng). Sau này từ Nazareth Đức Giê-su bắt đầu đời sống công khai, đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân (x Lc 4,14t).
Vậy ta hãy bắt chước “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a ghi nhớ Lời Chúa và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19: Tung Hô Tin Mừng), để qua Phụng Vụ Thánh Lễ Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Ma-ri-a, Hội Thánh muốn nhắc nhở con cái mình: Người Công Giáo đã được trở nên con cái Mẹ, thì phải nên giống Mẹ năng đến Nhà Thờ gặp Chúa, vì mỗi khi phạm tội là ta lạc mất Chúa, hãy trở lại Đền Thờ để tham dự Thánh Lễ, nhờ Chúa ta được thanh tẩy, và cho ta tham dự vào ơn Vô Nhiễm của Mẹ. Như lời thánh Gioan nói: “Mầm giống của Đức Ki-tô lưu lại trong kẻ ấy, và kẻ ấy không thể phạm tội, bởi chưng đã được sinh bởi Thiên Chúa” (1Ga 3,9). Đó là hiệu quả chính của Bí tích Thánh Thể mà sách Giáo Lý Roma đã xác quyết:
--- Việc rước lễ giúp ta xa lánh tội lỗi, khi chúng ta rước Mình Chúa Ki-tô “đã phó nộp vì ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế Bí tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Chúa Ki-tô, nếu Chúa Ki-tô không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi (số 1393).
--- Nhờ tình yêu mà Bí tích Thánh Thể khơi dậy trong tâm hồn, chúng ta được gìn giữ khỏi phạm tội trọng, càng tham dự vào sự sống Chúa Ki-tô, chúng ta càng sống mật thiết với Người ; nhờ đó giảm bớt nguy cơ phạm tội trọng lìa xa Chúa (số 1395).
--- Nhờ tham dự Thánh Thể, ta được gắn bó với Chúa Giê-su Phục Sinh chặt chẽ hơn, vì Ngài đã tha các tội nhẹ của ta, và bảo vệ ta khỏi phạm tội trọng (số 1416).
THUỘC LÒNG: Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2Cr 11,2).
http://phaolomoi.net // LM. Giuse Đinh Quang Thịnh
SUY NIỆM 8: LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ (Lc 2, 41 – 51)
Xâm mình (xâm những hình ảnh trên thân thể) đang là mốt thời thượng của giới trẻ. Họ xâm trên mình nhiều hình ảnh hết sức lạ mắt và cho rằng xâm mình như vậy mới là “dân chơi”, mới là “sành điệu”. Có bạn trẻ xâm trên ngực hình trái tim bị một mũi tên xuyên qua đang rỉ máu với hàng chữ minh họa “hận tình đen bạc” hoặc “hận đời”…..
Khi nhìn trái tim rỉ máu ấy tôi liên tưởng đến 2 trái tim cũng bị đâm thâu: Một trái tim mà chúng ta mới mừng lễ hôm qua bị xé rách do lưỡi đòng của quân lính – Thánh Tâm CGS - và một trái tim bị đâm thâu do lưỡi gươm ác nghiệt mà Ông già Simêon đã tiên báo (Lc 2, 35b) – trái tim vô nhiễm Đức Mẹ mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Điểm khác biệt của 2 trái tim này với trái tim trên ở chỗ : 2 trái tim này bị đâm thâu và loang máu không phải vì “hận tình” và “hận đời” mà là vì “yêu Trời, yêu đời và yêu người”.
Sau khi Nguyên Tổ sa ngã, dù con người đã phạm tội chống lại Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương Ađam và Evà. Người muốn họ và tất cả loài người phát xuất từ hai ông bà được sống trong tình nghĩa với Người nên đã sai Đấng Cứu Chuộc đến để giao hòa con người với Thiên Chúa (St 3,15) và phục hồi tình trạng ơn thánh cho chúng ta (Sách GL của HTCG).
Thế là trái tim thứ I có sứ mạng tuân hành thánh ý Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên của lễ đền tội cho nhân loại: “Này con đây, con đến để thực thi ý ngài” (Dt 10, 8-9). Nhưng để có thể xuất hiện trong cuộc đời này, trái tim thứ I rất cần có sự cộng tác của trái tim thứ II để cho thánh ý được nên trọn. Thiên Chúa không phải chờ lâu, trái tim thứ II đã mau mắn đáp lại tiếng mời gọi của Sứ Thần Gabriel: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền” (Lc 1, 38).
Và bắt đầu từ đó, hai trái tim hòa quyện với nhau, trở nên một tâm tình, một ý chí và một lòng mến: yêu Trời (Chúa Cha), yêu đời (chấp nhận và thực thi sứ mạng của mình) và yêu người (vì yêu thương nhân loại), đến nỗi ta không bao giờ có thể tách biệt 2 trái tim ấy ra.
Có lẽ chính vì ý thức như vậy nên liền sau lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo Hội mừng lễ trái tim vô nhiễm Mẹ Maria để muốn nói lên rằng Mẹ và Con Yêu Dấu của Mẹ đã liên kết với nhau chặt chẽ, đã đồng tâm nhất trí với nhau, đã một lòng một ý vâng lời Thánh ý Thiên Chúa Cha và hoàn toàn dâng hiến cho nhân loại. Có lẽ không có hình ảnh nào cao cả cho bằng hình ảnh Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá. Chính lúc lưỡi đòng đâm thâu trái tim Con của Mẹ thì cũng là lúc trái tim Mẹ nát tan. Có lẽ để chứng thực điều đó nên vào ngày 13/6/1929, khi hiện ra với Chị Lucia, Mẹ đã cho Chị nhìn thấy trái tim của Mẹ bốc lửa và bị vòng gai quấn chung quanh, bên cạnh là Thánh Giá Chúa Giêsu lơ lửng trên trần nhà nguyện.
Bạn thân mến, Mẹ Maria đang mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy gắn chặt và liên kết trái tim chúng ta với Thánh Tâm Chúa qua trung gian trái tim vẹn sạch của Mẹ. Điều kiện để được liên kết đó là hãy yêu như Chúa và Mẹ yêu, hãy sống như Chúa và Mẹ sống, hãy hy sinh, dâng hiến trọn vẹn cho tha nhân như Chúa và Mẹ đã làm. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Đức Ngọc
SUY NIỆM 9: LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ
Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói ”trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc ”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria...
Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim được xem là biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Còn đối với nhân loại thì đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (Đnl 6,5). Trong Tin Mừng theo thánh Máccô thì khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào là trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mc 12, 29-33).
Chính Trái Tim Mẹ đã đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa khi được sứ thần Gabrien truyền tin. Do sự ưng thuận vì tình yêu, Mẹ Maria trước hết đã cưu mang Đức Giêsu trong trái tim mình và rồi cũng cưu mang trong cung lòng của Mẹ.
Theo lịch sử, việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ được tìm thấy đầu tiên vào thế kỷ 12 với nhiều sử gia như Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard thành Clairvaux (1153) là thánh viết rất tài tình về việc tôn sùng thánh thiện này. Thánh Bernadine thành Siena (1380-1444) đã được gọi là Tiến Sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ vì những trước tác về Trái Tim Mẹ. Ngài viết, “từ trái tim Mẹ, như lò lửa của Tình Yêu Rất Thánh, Đức Trinh Nữ Maria đã nói lên ngôn ngữ tuyệt vời nhất của một tình yêu mãnh liệt.” Thánh John Eudes (1601-1680) qua các bài viết của Ngài đã giúp khơi lại lòng sùng kính này. Đức Thánh Cha Lêô XIII và Piô X gọi ngài là “cha, thầy dạy và là tông đồ phụng vụ lòng sùng mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh John Eudes và những người theo ngài đã dành ngày 8 tháng 2 trong khoảng năm 1643 để kính nhớ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Về sau, Đức Piô VII cho mở rộng ngày mừng kính này để các giáo xứ hoặc hội đoàn nào muốn tôn sùng thì cũng được phép.
Việc tôn sùng Trái Tim Mẹ Maria có một truyền thống đẹp đẽ hơn nữa qua tấm ảnh đeo của Thánh Catarina Laboure năm 1830 và việc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima, Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng ''để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ''. Toàn bộ lời nhắn nhủ của Mẹ là một lời cầu nguyện, thống hối và bằng những việc hy sinh, đền bù phạt tạ Thiên Chúa về những xúc phạm đến Ngài.
Vào năm 1942, kỷ niệm 25 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Thánh Cha Piô XII đã dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Cũng vào năm ấy, ngài đã chọn mừng lễ này vào ngày 22 tháng 8, một tuần sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời. Ngày 4 tháng 5 năm 1944, ngài loan báo mở rộng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cho Giáo Hội hoàn vũ. Với những cải cách về phụng vụ trong Công Đồng Vatican II, lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ được dời về một ngày ngay sau Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chính là ngày thứ bảy sau chúa nhật thứ hai sau Lễ Hiện Xuống.
Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cưu mang Đấng Cứu Thế, để cộng tác cho công trình cứu chuộc của Người. Công trình này xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Đức Maria đã cộng tác với Thiên Chúa để mang tình yêu của Người cho nhân loại. Chúa cũng mời gọi sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có một vai trò và vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa cần nơi mỗi người chúng ta là noi gương Mẹ Maria, luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa.
Phêrô Dương Hải Văn SDB
19/06 Tình yêu
- Viết bởi Mt 11, 25-30
Tình yêu.
Thứ Sáu tuần 11 thường niên – THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU năm A. Lễ trọng.
Ngày thế giới xin ơn thánh hoá các linh mục.
"Tên lính đâm thủng cạnh sườn Người, và máu cùng nước chảy ra".
Lời Chúa: Mt 11, 25-30
Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mạc khải cho.
“Tất cả hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.
Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ách của tôi êm ái
Suy niệm:
Khi quy hoạch thành phố tương lai,
người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng
cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc.
Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh
giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống.
Ðức Giêsu mời chúng ta đến với Ngài,
tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì người khác…
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu,
chán chường và mệt mỏi.
Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi.
Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
Hãy mang lấy ách của tôi.
Ðức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài
mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc,
về con đường hẹp mà ít người muốn đi,
về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban
đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Ðó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương,
vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ,
thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
“Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả;
mà giả như có vất vả đi nữa
thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh)
Hãy học với tôi.
Ðức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài:
“Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu.”
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu
thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời,
cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái,
cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải,
và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: Thánh Tâm Chúa Giêsu
Như chúng ta đã biết vào chiều Thứ sáu Tuần Thánh, trên đỉnh đồi Canvê, có một người lính lấy lưỡi đòng đâm thủng cạnh sườn, trúng trái tim Chúa Giêsu, tức thì máu cùng nước chảy ra.
Tương truyền rằng kẻ đâm ngọn giáo ấy tên là Longinô. Anh đã được biết Chúa và trở lại cùng Chúa. Khi chết đi, anh được chôn cất tại Pháp và trên phần mộ của anh còn ghi những chữ như sau:
- Đây là nơi an nghỉ của Longinô, người đã đâm cây đòng vào cạnh sườn Đấng Cứu thế.
Chúa Giêsu đã đổ máu không phải riêng gì do lưỡi đòng của người lính này. Thực ra, cả nhân loại đã đứng lên giết Chúa. Trong đó có chính bản thân chúng ta nữa.
Tuy nhiên, cái chết của Chúa không phải là một vụ thảm sát, nhưng là một cuộc cách mạng. Cái chết của Chúa không phải là một sự thất bại, nhưng là một thành công to lớn, bởi vì máu Chúa đem lại sự sống, như hạt lúa phải mục nát để mầm sống xanh tươi được vươn lên.
Máu Chúa đem lại ơn tha thứ, như giòng nước tinh tuyền gột sạch tâm hồn chúng ta, đem lại sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau.
Nếu như tâm hồn chúng ta đang thất vọng chán nản vì tội lụy, nếu như tâm hồn chúng ta đang mang những vết thương cuộc đời, thì chúng ta hãy chạy đến với Chúa, để Người chăm sóc và băng bó, để Ngài chuyền máu mà cứu chữa. Bởi vì chỉ trong Người chúng ta mới biết được sống thực là gì.
Tiếp đến, chúng ta hãy nhìn vào trái tim Chúa để cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chảy sang tâm hồn chúng ta và để trái tim chúng ta có chung một nhịp đập với trái tim Chúa.
Thực vậy, dù là ai chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được chia sẻ với trái tim Chúa, chúng ta vẫn được nghe nhịp đập của trái tim Chúa thổn thức như Gioan thuở trước. Nhân loại ngày nay đang cố gắng thay tim và ghép tim. Chúng ta cũng hãy đến với Chúa để Ngài đổi cho chúng ta một trái tim mới.
Đúng thế, có khi con tim chúng ta đã già nua và bệnh hoạn, trong khi tuổi đời vẫn còn trẻ. Có khi con tim của chúng ta đã bị chia năm xẻ bảy, trong đó Thiên Chúa chưa chắc đã có lấy được một phần nhỏ nhoi. Có khi con tim của chúng ta đã mệt mỏi và trở nên băng giá, không còn hăng hái nhiệt thành như thuở chúng ta mới biết Chúa và yêu Chúa. Có khi con tim của chúng ta đã ngoại tình, đã lang chạ, nghĩa là không còn trung thành với Chúa, trái lại đã xé rào để chạy theo những thần tượng giả dối như tiền tài, lạc thú và danh vọng.
Hãy hồi tâm, xét mình và kiểm điểm lại đời sống để xem tình trạng con tim mình như thế nào. Bởi vì không ai muốn mang lấy một trái tim bệnh hoạn, không ai muốn chấp nhận một trái tim bị chia xẻ.
Cựu ước đã diễn tả Thiên Chúa là Đấng hay ghen, cho nên Ngài càng không thể chấp nhận bệnh hoạn, chia sẻ và chai đá. Ngài chỉ bằng lòng cư ngụ trong một trái tim trong sạch, và hoàn toàn trống không.
Tất cả những danh vọng, của cải và lạc thú phải được qua một bên để dành chỗ ưu tiên số một cho Chúa. Hãy dâng lên Chúa trái tim nhỏ bé của chúng ta, cùng với một tình yêu trọn vẹn, không chia năm xẻ bảy, để cuộc đời chúng ta được thuộc hẳn về Chúa.
SUY NIỆM 3: Thánh Tâm
Thế kỷ 16, Giáo Hội bị xâu xé bởi nhiều lạc giáo mệnh danh cải cách Giáo Hội. Luther chống lại tình thương tha thứ của Chúa đối với tội nhân. Chủ trương Thiên Chúa đã tiền định ai được lên thiên đàng, ai bị xuống hỏa ngục trước rồi, không còn phép tha tội nữa. Calvin chối phép Thánh Thể. Jensenis hạn chế rước lễ vì sợ Chúa phạt khi xúc phạm đến Chúa.
Giữa thời đại khủng hoảng về tình yêu Thiên Chúa, ngày 27 tháng 12 năm 1673 lễ thánh Gioan, người môn đệ dựa đầu vào Thánh Tâm Chúa trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hiện ra với thánh nữ Magarita giữa hào quang sáng láng như mặt trời, Chúa Giêsu đã phán: “Đây là Thánh Tâm Cha đã yêu thương loài người vô cùng … Con phải truyền bá việc tôn sùng Thánh Tâm Cha để làm phương thế kín múc kho tàng châu báu cho loài người”. Chúa cho thánh nữ thấy Thánh Tâm chứa đựng mọi ơn thánh hóa và ơn cứu độ cần thiết để kéo các linh hồn ra khỏi vực thẳm chết đời đời.
Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần kêu gọi thực hiện tôn sùng Thánh Tâm và đặc biệt năm 1675 Chúa đã dạy thánh nữ vận động lập lễ kính Thánh Tâm Chúa vào thứ sáu sau lễ Mình Máu Chúa. Tháng 7 năm 1685 lễ Thánh Tâm được mừng lần đầu tiên tại nhà dòng Đức Mẹ thăm viếng ở Paray le Monial. Đến năm 1765 Đức Thánh Cha Clêmentê 13 lập lễ và kinh nguyện Thánh Tâm mừng tại Rôma và các nơi.
Lễ Thánh Tâm nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa: “Thánh Tâm đã thương yêu loài người quá bội”.
Bài đọc I, tiên tri Ôsê đã mô tả tình yêu Thiên Chúa thương dân Người như tình yêu cha mẹ đối với con thơ, bồng bế, áp má, đút ăn, tập đi, săn sóc êm ái không ngơi: “Tim Ta thổn thức, ruột gan bồi hồi ở giữa các ngươi”.
Thánh Gioan còn mô tả tình yêu Thiên Chúa qua sự hy sinh chịu chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Thân xác chịu trăm ngàn đòn, bị đóng đinh chết treo lên, thế mà vẫn còn để cho tên lính lấy giáo thọc sâu vào Thánh Tâm, đổ hết máu và nước ra cho chúng nhìn thấu Thánh Tâm Chúa thương yêu chúng dường nào.
Không phải vô tình mà thánh Gioan nhấn mạnh đến cái nhìn vào Thánh Tâm Chúa. Chính Thánh Tâm đã mở ra cho Gioan nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa, cho những người lành và còn đặc biệt cho chúng ta, cho quân dữ, cho kẻ thù và cho kẻ tội lỗi: “Họ sẽ nhìn vào Đấng họ đã đâm thâu qua” (Ga. 19, 37).
Thực sự, chính quân dữ đã được ơn nhìn vào Thánh Tâm, nên đã đấm ngực ăn năn và tuyên xưng: “Thật người này là Con Thiên Chúa”.
Chính Phaolô khi đi lùng bắt các Kitô hữu, đã được nhìn vào Thánh Tâm Chúa mà được ơn trở lại, nên khi viết thư cho giáo đoàn Êphêsô, Phaolô đã quỳ gối xuống trước mặt Chúa Cha trên trời dưới đất, cầu khẩn cho anh em được hợp cùng các thánh mà nhận biết chiều rộng, dài, cao, sâu của tình yêu của Chúa Kitô vượt quá trí loài người. Như thế, anh em mới được sung mãn trong nguồn ơn vô biên của Thiên Chúa.
Tình yêu Chúa đã thắng kẻ thù. Chỉ có tình yêu đó mới chiến thắng thế gian.
Đại đế Napolêôn là anh hùng vô địch, bách chiến bách thắng khắp các nước Âu châu. Chỉ trong một tháng, ông kéo 500.000 quân tràn qua Đông Âu, chiếm thủ đô nước Nga dễ dàng. Nhưng đoàn quân chiến thắng trở thành quân cướp của, giết người và đâm chém giết lộn nhau. Trong cảnh chém giết hỗn loạn, Napolêôn mới hiểu sức mạnh binh hùng dũng tướng mà thiếu tình yêu, thì khốn nạn đến chừng nào! Nên ông đã tuyên bố: “Chỉ có tình yêu mới chiến thắng”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu đang bốc lửa yêu mến loài người chúng con quá bội, xin cho trái tim mỗi người chúng con được cháy lửa yêu mến Chúa nồng nàn, cho chúng con thương yêu nhau, hy sinh phục vụ nhau, tha thứ cho nhau, mới mong làm cho cuộc sống nơi trần gian trở nên êm ái, nhẹ nhàng.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
SUY NIỆM 4: Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu
Mùa thu năm 1978, người ta trưng bầy tấm khăn liệm Chúa để tôn kính công khai. Có thật là khăn liệm xác Chúa không? Không quan trọng! Điều tôi biết là những tấm ảnh mà tôi được trông thấy, đặc biệt in hình xác Người chết nằm trong khăn liệm, hình người này! “Đó là Người!” đẹp nhất trong con cái loài người! cũng là Người đẹp nhất của thời đại đó!
Tại sao không phải là Người? Tại sao Đức Ki-tô không phải là người có thể xác đẹp vô cùng để phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa!
Vẻ đẹp khêu gợi.
Người ta không thể lãnh đạm trước vẻ đẹp cường tráng này, trước vẻ đẹp của Thiên Chúa, không có chút gì là là thứ đẹp quyến rũ sắc dục. không phải là thứ vẻ đẹp đáng nghi ngờ. Người đẹp tinh toàn. Tại sao? vì Người hiền hậu, khiêm nhường trong lòng. Vì Người là hình ảnh của Chúa Cha!
Con Người này in lại trên tấm khăn liệm, chiếu tỏa sức mạnh này, tuyên dương sức hiền từ này, nói lên niềm trông cậy này vào Đức Ki-tô đang mời gọi chúng ta.
Mời hết mọi người, trẻ già nam nữ.
Những trẻ em, những trẻ nhỏ, cảm thấy an tâm đến với Đức Giê-su, Người không kinh ngạc, về những thói trẻ con của chúng. Thiên Chúa nói: “Không gì đẹp hơn một em bé ngủ say trong lời cầu nguyện của nó!”. (Péguy).
Các bà các cô thuộc đủ mọi tuổi yêu mến Người. Người kính trọng các bà các cô. Nếu chúng ta kể đến các tông đồ. Chúng ta cũng phải kể đến các bà trong Tin Mừng. Người ta biết rõ không chỉ có mấy bà trong số các môn đệ của Người đâu.
Các ông, các anh yêu mến Người, Người lôi cuốn, không để cảm phục những chiến công của Người, hay vì ham muốn những kết quả của Người. Họ chỉ vì yêu mến Người mà thôi! Họ không dám nghĩ bắt chước Người, nên giống Người. Nhưng chỉ mong tháp tùng Người, đi theo Người, khám phá trong đời sống mình con tim đã kêu gọi họ! không để sao y con tim Người, nhưng là để chúng ta trở nên những con tim Kitô khác.
SUY NIỆM 5: TÌNH YÊU SẮT SON
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn học Việt Nam qua mọi thời kỳ. Đặc biệt kho tàng văn học dân gian luôn dẫn chúng ta đến một tình yêu thanh khiết, bất tử vượt mọi thời gian.
Thanh khiết như câu thơ:
“Thuyền ai lơ lửng bên sông
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?”
Bất tử chung tình như lời thơ:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Lòng chung thuỷ của con người Việt Nam thật sắt son chung tình:
“Chừng nào cho sóng bỏ ghành
Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em”.
Chắc chắn con sóng không bao giờ bỏ gành. Cù lao thì luôn ở giữa biển hay gắn liền với biển. Tình yêu cao đẹp cũng phải sắt son thủy chung như thế! Tình yêu cao đẹp sẽ luôn ở cùng nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Bất chấp gian khổ vẫn chia ngọt sẻ bùi với nhau.
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
Chúng ta cũng được hưởng một tình yêu cao đẹp như thế! Một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Một tình yêu trung tín sắt son cho dẫu phải hy sinh cả tính mạng mình vẫn dâng hiến cho người mình yêu.
Đó là tình yêu của Đức Ky-tô yêu thương nhân loại. Tình yêu Ngài thật thanh khiết, cho đi mà không cần đền trả lại. Tình yêu Ngài thật vị tha đến nỗi vẫn yêu con người ngay khi còn là tội nhân. Tình yêu Ngài trung tín sắt son, cho dẫu con người có phản bội thì Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Vì yêu mà Ngài còn hiến trao mạng sống mình đền bù tội lỗi nhân gian.
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Tâm Chúa, là dịp để chúng ta tạ ơn tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Vì yêu mà Ngài đã dốc cạn giọt máu đào để cứu chuộc chúng ta. Ngài còn yêu là yêu cho đến cùng qua mỗi thánh lễ lại tái hiện tình yêu bất diệt mà Ngài dành cho chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt mọi thời gian để đến với con người qua muôn thế hệ. Và hôm nay Ngài vẫn đong đầy tình Ngài cho chúng ta qua muôn ơn lành hồn xác. Nhất là qua các bí tích nguồn ân sủng của Chúa luôn ban sức mạnh, chữa lành và thánh hóa chúng ta.
Tạ ơn tình Ngài cũng mời gọi chúng ta họa lại tình yêu ấy nơi chính bản thân chúng ta. Một tình yêu xóa bỏ mọi ngăn cách của văn hóa, của nghi kỵ, của hiểu lầm để sống hòa thuận yêu thương nhau. Một tình yêu dâng hiến điể quên mình phục vụ tha nhân trong khiêm cung âm thầm. Xin Chúa giúp chúng ta trở nên giống như Chúa luôn yêu thương và phục vụ anh em. Amen. [Mục Lục]
SUY NIỆM 6: TRÁI TIM THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT TỘI NHÂN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thứ Sáu sau lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu với lòng biết ơn sâu xa đối với Chúa là Đấng có Trái Tim đầy lòng thương xót đối với tội nhân. Chính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu khi còn trên Thánh Giá đã bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta (Ga 19, 31-37). Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thánh hóa các linh mục. Chúng ta hãy xin với Chúa Ba Ngôi, cho Giáo hội có thêm nhiều ơn gọi thánh thiện. Đời nọ tới đời kia, Thánh Tâm Chúa vẫn hằng nuôi dưỡng ý định cứu dân Người khỏi tay thần chết và nuôi sống trong cảnh cơ hàn. (Ca nhập lễ)
« Người ấy mừng rỡ, và vác chiên lên vai »
Đây là một hành động tuyệt đẹp phát xuất từ trái tim của người chăn chiên (mừng rỡ) khi tìm thấy chiên lạc và (vác chiên lên vai). Đoạn văn ngắn ngủi này (Lc 15, 3-7) không ngừng gây xúc động cho con người, và gợi lên nhiều ý nghĩa mới mỗi lần cho người đọc cũng như người nghe. Nó có sức nói về Thiên Chúa, đúng hơn, cho chúng ta biết khuôn mặt của Thiên Chúa là Cha Đấng giầu lòng thương xót, và hơn thế nữa, Trái Tim của Thiên Chúa nhân hiền, vì yêu thương đã tạo dựng nên chúng ta và cho chúng ta có trái tim, Người cũng đau khổ khi chúng ta lầm lạc và ăn mừng khi chúng ta trở về: « Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc! » (Lc 15, 6). Dựa vào lời Chúa Giêsu, ta thấy tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể hóa hơn: « Trên Trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải» (Lc 15, 7).
Quả thật, trái tim của Thiên Chúa rung động vì cảm thương! Tình thương ấy thể hiện qua sự sẵn sàng tha thứ, nhẫn nại đợi chờ tội nhân trở về, không khinh rể kẻ có tội, nhưng sẵn sàng hạ mình, cất công đi tìm kiếm, vui mừng khi tìm thấy, tha thứ và đưa chiên về đàn. Thiên Chúa đi tìm kiếm tội nhân không phải vì Thiên Chúa cần gì nơi họ, nhưng chỉ vì Thiên Chúa muốn ban phát một tình yêu vô điều kiện và chia sẻ hạnh phúc cho người Chúa yêu thương. Thiên Chúa muốn ôm ấp tội nhân vào lòng, để ngực áp ngực sao cho họ cảm nhận được nhịp đập yêu thương của Trái Tim Chúa. Một Trái Tim không đầu hàng trước sự vô ơn bạc nghĩa, kể cả từ chối lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Trong Trái Tim Chúa Giêsu chứa đựng nòng cốt của Kitô giáo.
Mỗi lần chiêm ngắm tượng, ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta thấy nổi bật hơn cả ngoài Trái Tim bị đâm thâu, là ngọn lửa bốc cháy, để « Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. » (Rm 5, 8). Còn có đôi bàn tay với những vết đanh. Chúng ta đặt mình trước Thánh Tâm Chúa và tự hỏi: Bàn tay con, lạy Chúa, đã làm những gì không phải, khiến bàn tay Chúa bị đanh đóng, và bàn chân con, đã bước đi những bước chẳng lành, để Chúa bị đóng đanh cả chân lẫn tay vào Thập giá? Câu trả lời, vì tội lỗi chúng ta, vì Chúa yêu thương loài người ta quá bội.
Biểu tượng tình yêu ấy đi xa hơn cái chết chính là cạnh sườn của Chúa bị một lưỡi đòng đâm thâu qua. Về điểm này, chứng nhân tận mắt là thánh Tông đồ Gioan đã quả quyết: « Một trong những người lính lấy đòng đâm vào cạnh sườn Người, và tức thì máu cùng nước chảy ra » (x. Ga 19,34). Lưỡi giáo của tên lính đã mở cạnh sườn Chúa, để từ vết thương máu cùng nước chảy ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi. Sau cùng, Chúa đã chết để cho chúng ta được sống, bị chôn vùi để chúng ta được phục sinh.
Còn tình yêu nào ngọt ngào êm dịu hơn, đã được trao cho Hiền Thê; đó chính là sự mở rộng vòng tay ôm chặt của tình yêu Chúa…Tình yêu tên trộm lành đã nhận được khi xưng thú tội lỗi; Phêrô đã nhận được khi liếc mắt nhìn Chúa và khóc lóc van xin sau khi chối Chúa, đúng là từ ánh mắt đến trái tim. Có nhiều kẻ đóng đinh Chúa đã trở lại với Chúa sau khi Chúa Phục sinh, họ đã giao ước với Chúa bằng tình yêu. Khi Chúa ôm hôn những người tội lỗi và thu thuế, Chúa đã trở thành bạn hữu của họ và khách họ mời dự tiệc…
Vậy, Chúa đã làm gì để đưa họ về với Chúa, nếu không phải là Trái tim Chúa lôi kéo? Trái tim Chúa Giêsu là Trái tim dịu hiền do Thần Linh ban tặng! Phúc cho những ai giữ kín trong lòng, họ được ấp ủ bởi Chúa, trong Trái tim Chúa, họ sẽ được Chúa vác trên vai, tránh khỏi những rắc rối ở đời này. Phúc cho những ai hy vọng vào sự ấm áp và chở che dưới cánh tay Chúa.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày cầu cho ơn thánh hóa các linh mục. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Chức linh mục là tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu” (số 1589).
Giáo Hội đang cần những linh mục thánh thiện; cần những thừa tác viên giúp các tín hữu cảm nghiệm lòng từ bi thương xót của Chúa và những chứng nhân đầy xác tín về tình yêu này. Xin Chúa làm cho con tim của mỗi linh mục được nồng cháy tình bác ái mục tử, có khả năng đồng hóa cái tôi của mình với cái tôi của Chúa Giêsu Linh Mục, để có thể noi gương Chúa trong sự tự hiến hoàn hảo nhất, xứng đáng là thừa tác viên của lòng thương xót Chúa. Amen.
SUY NIỆM 7: NGƯỜI CHA MIỆT MÀI TÌM CON
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Năm ngoái, trên facebook, nhiều người chia sẻ hình ảnh người cha chạy xe máy, sau xe gắn tấm biển có hình và dòng chữ “Tìm con bị bắt cóc”. Sau nhiều tháng rong ruổi tìm kiếm, thông tin về đứa con vẫn bặt vô âm tín. Người cha gầy và phờ phạc đi rất nhiều so với trước đây. Anh là Lương Thế Huynh (42 tuổi) tìm con trai út 3 tuổi tên là Lương Thế Vương bị mất tích sáng 21/6/2015, tại xã Tà Nùng, Tp. Đà Lạt. Lúc xảy ra vụ việc, anh Huynh đang lúi húi sau vườn, nghe tiếng con trai kêu la nhưng nghĩ con chơi đùa với mấy con chó nên không để ý. Sau khi xong việc, anh lên nhà thì không thấy cháu Vương đâu nữa. Đến nay đã hơn một năm, với chiếc xe gắn máy cũ, anh đi khắp nơi với hy vọng tìm ra dấu vết đứa con nhỏ của mình. Cho đến nay, hy vọng tìm thấy đứa con chỉ còn rất mong manh, nhưng người cha này vẫn cứ rong ruổi khắp nơi, vào các hang cùng ngõ hẻm để tìm lại đứa con mình.
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Tin Mừng Thánh Luca đã giới thiệu cho chúng ta hình ảnh một Thiên Chúa là Cha, vì yêu thương, Ngài đã lặn lội để tìm kiếm con người, bất chấp những gian nan khổ cực. Câu chuyện Chúa Giêsu kể cho các biệt phái và kinh sư hôm nay nói về tình thương của Thiên Chúa dành cho các tội nhân. Khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc, trò chuyện, đồng bàn với những người thu thuế và những người bị coi là tội lỗi, các luật sĩ và biệt phái tỏ ra khó chịu, họ chỉ trích Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã kể cho họ dụ ngôn để nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa: Ai trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng mà đi tìm cho bằng được con chiên bị mất? Chúa Giêsu muốn nói rằng: Ai trong các ông cũng sẽ hành xử như thế, huống nữa là Thiên Chúa. Việc đi tìm con chiên bị lạc là điều tất nhiên. Hiểu ngược lại, ai không hành động như thế, chắc chắn kẻ ấy là người vô cảm với chiên của mình.
Các luật sĩ và biệt phái đã để mình trở nên vô cảm trước đời sống của anh em. Họ là những người có trách nhiệm trong việc hướng dẫn người khác sống theo giới răn, lề luật của Thiên Chúa, như người mục tử chăm sóc, dẫn dắt đoàn chiên. Tuy nhiên, các luật sĩ và biệt phái chỉ lo chăm chút cho chiếc áo và những hình thức bên ngoài, họ đã để cho dân Chúa đi lạc đường, họ không cảm thấy áy náy và không cảm thấy bị thúc ép phải đi tìm đưa anh em mình trở về.
Chúa Giêsu cho thấy, việc Ngài tìm đến với những người thu thuế và những người bị coi là tội lỗi không chỉ là trách nhiệm mà là sự thúc đẩy bởi một trái tim xót thương. Dụ ngôn cho thấy, trong mắt Thiên Chúa, mỗi người đều có giá trị và có một vị trí riêng. Vì thế, dù chỉ một con chiên đi lạc thôi, Thiên Chúa cũng không thể làm ngơ, Ngài dám liều mình để lại chín mươi chín con khác trong hoang địa để đi tìm con chiên bị lạc. Như người mục tử, Thiên Chúa cất bước đi tìm con chiên bị lạc. Vì khi bị lạc như thế, nó vô cùng hoảng sợ và gặp nhiều nguy hiểm. Nó sẽ bị sa chân trật bước, có thể bị rơi xuống vực sâu hoặc kẹt trong vách đá, cũng có thể bị thú dữ bao vây cắn xé. Hình dung được nỗi sợ hãi và tâm trạng của con chiên đi lạc, mục tử Giêsu đã không quản ngại nắng gió vất vả, cũng không ngại đường xá cheo leo trắc trở để đi tìm con chiên như tìm chính đứa con bị thất lạc.
Lý do con chiên đi lạc, có thể vì nó la cà mải mê với những thú vui ven đường nên bị rớt lại khỏi đàn. Nhưng nhiều khi nó đi lạc là vì những con chiên khác trong đàn đã hắt hủi nó, loại trừ nó, coi nó như đồ thừa trong đàn. Vì thế, nó cứ lẽo đẽo theo đàn mà không được sự khích lệ của các con chiên khác, khiến nó ngày càng xa đàn rồi bị lạc đàn. Hiểu được tâm trạng con chiên đi lạc, trái tim của người mục tử Giêsu đã hết sức cảm thông với nó. Khi tìm được con chiên, Ngài không trách nó, cũng không hỏi nó tại sao. Ngài chỉ thấy điều nó cần lúc này là cái ôm nồng ấm cảm thông. Vì thế khi tìm được con chiên, người mục tử đã ôm nó vào lòng, vác nó trên vai và đưa nó trở về với đàn. Trái tim và tâm hồn của mục tử Giêsu đối với con người tội lỗi của chúng ta là như thế.
Lòng thương xót từ trái tim Chúa luôn tuôn trào sự cảm thông, tha thứ. Ngài chấp nhận bước trên gai góc, vượt qua dốc đá cheo leo, băng qua vực đèo nguy hiểm để tìm gặp chúng ta là con, là chiên của Chúa. Chúa Giêsu không hề đưa ra bất cứ điều kiện nào, cũng không đặt một tiêu chuẩn nào. Ngài yêu chúng ta hoàn toàn bằng sự thúc đẩy của trái tim, mà trái tim thì luôn có những lý lẽ riêng của nó, không thể hiểu hết được. Ngài chỉ mong đợi nơi chúng ta một điều, là hãy ngoan ngoãn để cho Ngài ôm vào lòng, để cho Ngài vác trên vai đem chúng ta trở về.
Chúa Giêsu còn diễn tả sự vui mừng của Ngài và của cả Triều thần Thiên quốc khi đón nhận một người tội lỗi hối cải. Người mục tử khi tìm được con chiên bị lạc, ông vui mừng về báo tin cho mọi người và mời mọi người đến dự tiệc: Xin hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Chúa Giêsu kết luận: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải. Trong trái tim của Thiên Chúa, không ai bị bỏ rơi, không ai bị loại ra ngoài, dù chỉ là một người, thì người ấy vẫn là con Thiên Chúa, vẫn được yêu thương và tôn trọng.
Thư Roma trình bày tình yêu của Thiên Chúa ở mức độ cao hơn, sâu hơn nữa. Thánh Phaolô diễn tả: Ngay khi chúng ta chưa tin Chúa, thì Thiên Chúa đã cho Con của Ngài là Chúa Giêsu chết để cứu chuộc chúng ta. Dù khi chúng ta chưa biết, chưa tin, chưa yêu Ngài, thì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Nay, Ngài đã cho Con của Ngài chết thay cho chúng ta. Đến con ruột của mình, Thiên Chúa đã không tiếc, đã trao tặng cho chúng ta, thì không có lẽ gì mà Ngài lại không yêu thương ta, là những kẻ được Ngài cứu chuộc, đem vào lòng và nhận làm con của Ngài.
Mừng lễ Trái tim Chúa Giêsu, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa tình yêu, tôn thờ một trái tim vĩ đại của một người cha, một tâm hồn chạnh thương của một mục tử, một trái tim bao dung và đầy tràn lòng thương xót của Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên ngoan ngoãn và sẵn sàng để cho mục tử Giêsu ôm ta vào lòng và vác ta trên vai. Chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương bao dung của Thiên Chúa để không bao giờ cố tìm cách trốn tránh ánh mắt yêu thương của Chúa, nhưng sẵn sàng mở tâm hồn và thành tâm để cho Chúa yêu thương, tha thứ và chữa lành vết thương trong tâm hồn ta.
Được Chúa xót thương tìm kiếm và tha thứ, được Chúa thông cảm và yêu thương, chúng cần phải mang trái tim của Chúa, biết chạnh thương với anh chị em chung quanh. Đừng bao giờ cố tình hay quá vô tình hắt hủi, xua đuổi, hoặc vì quá khắt khe, nghi kị, thiếu cảm thông khiến cho anh em mình phải xa đàn đến độ lạc đàn bỏ Chúa, bỏ Giáo hội. Hãy dùng ngôn ngữ và hành động do sự thúc đẩy của trái tim yêu thương để đối xử với nhau trong gia đình, với xóm giềng. Đừng để trái tim của mình trở lên lạnh lùng vô cảm hoặc khô cứng trước những nỗi đau của anh chị em.
Hôm nay cũng là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục. Ảnh hưởng của vật chất, khoa học công nghệ, đã biến một số linh mục trở nên như những người máy, vô hồn, vô cảm. Nếp sống tiêu cực của xã hội cũng đang ảnh hưởng trên các linh mục, khiến cho một số linh mục không còn là hình ảnh rõ nét của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chúng ta cầu nguyện thật nhiều cho các linh mục luôn biết để cho Chúa Giêsu huấn luyện, uốn nắn để các ngài trở nên giống Chúa Giêsu mục tử hơn. Xin cho các linh mục có được trái tim, đôi mắt và tâm hồn chạnh thương của Chúa, để các Ngài không mệt mỏi yêu thương, phục vụ và tìm kiếm dân Chúa. Amen.
SUY NIỆM 8: NGUỒN THƯƠNG XÓT
Trầm Thiên Thu
Trong thời gian từ 1968-1969 , Chúa Giêsu đã mặc khải cho Mẹ Carmel tại Milan (Ý). Ngày 20-4-1968, Mẹ Carmel hỏi Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa Giêsu nói: “Hỡi con gái của Cha, con hãy viết. Con sẽ làm Tông đồ Tình Yêu Đầy Thương Xót của Cha. Cha sẽ chúc lành cho con. Và Cha sẽ đổ xuống trên con muôn vàn ơn Thánh, và những ân thưởng lớn lao. Cha cám ơn con đã phổ biến Thánh Nhan của Ta. Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày hình ảnh của Ta, và Ta sẽ cải hoán những kẻ tội lỗi sống trong các gia đình đó. Ta sẽ giúp kẻ lành tự cải tiến thêm, và những kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng hơn. Ta sẽ để mắt đến các nhu cầu của họ, và sẽ giúp họ trong mọi sự cần thiết, vật chất cũng như siêu nhiên”. Rồi Ngài đã xác định: “TA LÀ GIÊSU ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT”.
Khi mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque (Marguerite Marie Alacoque, 1647-1690), một nữ tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial (Pháp quốc), Chúa Giêsu đã cho thánh nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy, bị vòng gai quấn quanh và bị lưỡi gươm đâm thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675 – có thể là ngày 16 tháng Sáu, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được lòng biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…”. Chúa Giêsu đã yêu cầu Thánh nữ vận động thiết lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Thương Xót, nơi tuôn chảy Nguồn Tình với hai dòng Máu và Nước – như đã được mặc khải cho Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (còn gọi là Thánh Faustina Thánh Thể, OLM, 1905-1938).
Ai cũng có tim nhưng không ai thấy tim. Mặc dù tim không nhìn thấy nhưng khả dĩ cảm nhận, và tim là một cơ phận rất quan trọng, vì tim là trung tâm phân phối sự sống. Tim còn đập là còn sống. Tim hoạt động âm thầm nhưng nuôi sống cả cơ thể. Mặc dù não là trung tâm điều khiển – ví như bộ tổng tham mưu, nhưng vẫn phải nhờ tim bơm máu. Người ta có thể chết lâm sàng chứ chưa chết thật bởi vì tim còn hoạt động, dù nhịp đập rất yếu. Những người bị chứng bại não, sống đời thực vật, không biết phân biệt điều gì, nhưng họ vẫn sống nhờ tim vẫn hoạt động. Chừng nào tim ngừng đập thì sự sống mới chấm dứt!
Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mọi hồng ân, là nguồn cứu độ, là mạch thương xót, là suối yêu thương, vì chính Thánh Tâm đã tuôn trào Nước và Máu để tẩy rửa và cứu độ các tội nhân – trong đó có mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30). Không ai lại không đau khổ, yếu đuối, mệt nhọc, tội lỗi,… thế nên không thể không cần Thánh Tâm Chúa Giêsu và Lòng Chúa Thương Xót.
Đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu luôn mong muốn chúng ta trú ngụ nơi Thánh Tâm Ngài, không chỉ ghé thăm mà ở lại đó mãi mãi: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Ước gì mỗi chúng ta biết tìm về nghỉ ngơi nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu – Cao Nguyên Yêu Thương và Đại Dương Thương Xót!
Ơn cha mẹ mà chúng ta đáp đền cả đời còn chưa cân xứng huống chi Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Nhưng thật là diễm phúc cho chúng ta vì Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32). Ngài đến thế gian để TÌM và CỨU những gì đã mất (Lc 19:10), chỉ cần chúng ta tin vào tình yêu cao cả của Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không thất vọng. Chỉ có chúng ta rời bỏ Chúa chứ Chúa không bao giờ rời xa chúng ta!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng miệng lưỡi ngôn sứ Êdêkien để mặc khải Thánh Ước: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Ít-ra-en, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được” (Ed 34:11-13). Đó là lời hứa chắc chắn, vì Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong mọi lời nói và mọi việc làm. Thật tuyệt vời!
Hồng ân nối tiếp hồng ân, Ngài lại tiếp tục thề hứa: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34:14-16). Thật hạnh phúc khi được nương bóng cánh của vị mục tử như vậy! Nhưng lại thật bất hạnh nếu chúng ta cố chấp, như Chúa đã cảnh báo: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu (Mt 23:37; Lc 13:34).
Nếu thực sự có niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, chúng ta khả dĩ tự nhủ và xác định với mọi người điều này: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23:1), và có thể tự hào nói: “Chúa là gia nghiệp đời tôi” (Tv 16:5). Đó cũng là một cách tuyên xưng Lòng Chúa Thương Xót.
Nói về đức tin, Thánh Phaolô giải thích rạch ròi: “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên thì có quyền trông cậy (Rm 5:2-4). Quả thật, đây là một chuỗi hệ lụy vô cùng kỳ diệu!
Còn nữa, và cũng để cho chúng ta an tâm, thánh nhân tiếp tục giải thích “dài hơi” thêm một chút: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ Máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (Rm 5:5-9).
Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, hết lòng yêu thương muôn loài, đặc biệt là những kẻ xấu xa nhất, thậm chí Ngài còn chết vì họ – tức là chúng ta. Theo thế gian, cách yêu như vậy bị coi là mù quáng, ngu xuẩn, điên rồ,… Chắc hẳn chỉ có người điên mới hành động như thế. Vậy mà Chúa Giêsu đã yêu như thế. Nếu Ngài không “yêu điên rồ” như vậy thì chúng ta làm sao có được ngày nay?
Quả nhiên là vậy, “nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Ngài, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” (Rm 5:10). Mà không phải chỉ có thế, Thánh Phaolô xác định: “Chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5:11).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Lc 15:3-7) khá ngắn gọn, chỉ có 128 từ (theo bản dịch Việt ngữ, bản của VietCatholic). Đoạn Tin Mừng này là một trong các dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót.
Một hôm, nhóm Pharisêu và các kinh sư xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Những người Pharisêu và các kinh sư là ai? Đó là những nhà thông luật, giữ luật nghiêm túc hơn người, giỏi giang hơn người, đạo đức hơn người, nói năng lưu loát hơn người, sang trọng hơn người, địa vị hơn người, quyền lực hơn người,… thậm chí có thể có ngoại hình “dễ nhìn” hơn người và giàu có hơn người, nhưng cũng hợm hĩnh, ỷ lại, hống hách và kiêu ngạo hơn người. Ngày nay người ta gọi dạng đó là “chảnh”. Nói chung, cái gì ở họ cũng hơn người ráo trọi!
Nhóm Pharisêu và các kinh sư kia cũng chẳng ai xa lạ, tức là chính chúng ta ngày nay, chứ chẳng ai trồng khoai đất này đâu!
Thấy vậy, Đức Giêsu mới kể cho dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Vậy, tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Người ta luôn thấy những “cái lạ” ở Chúa Giêsu, và người ta cảm thấy khó chịu. Vâng, Ngài lại gây “sốc” vì nói điều “nghịch nhĩ” quá! Ngài “điên” thật rồi! Có 99 con chiên béo tốt mà dám bỏ để cố gắng đi tìm duy nhất con chiên yếu đuối, bệnh hoạn, xấu xí,… Quả thật, chúng ta không thể nào hiểu nổi! Nhưng cũng chính nhờ cách “yêu điên” ấy của Chúa Giêsu mà chúng ta mới được phục hồi cương vị làm con và đồng hưởng thừa kế gia sản Nước Trời đấy!
Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997, MC – Missionaries of Charity, Thừa Sai Bác Ái, sẽ được tuyên hiển thánh ngày 4-9-2016) xác định “chuỗi hệ lụy” rất kỳ diệu: “Kết quả của IM LẶNG là CẦU NGUYỆN, kết quả của CẦU NGUYỆN là ĐỨC TIN, kết quả của ĐỨC TIN là TÌNH YÊU, kết quả của TÌNH YÊU là PHỤC VỤ, kết quả của PHỤC VỤ là BÌNH AN”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng, con thành tâm xin lỗi Ngài vì con đã thường xuyên quên Ngài, thế nhưng Ngài vẫn không ngừng thương xót con, mặc dù con chẳng là gì và hoàn toàn bất xứng. Xin giúp con nhận biết Chúa và nhận biết chính con, nhờ đó con có thể yêu mến Ngài trọn vẹn. Xin ân thương và tha thứ những thiếu sót của con, lạy Đấng giàu lòng thương xót, và xin dạy con biết cách “yêu điên” của Ngài. Xin Nước và Máu Thánh Ngài tẩy rửa cuộc đời con, và xin cho con cũng được vĩnh cư nơi Thánh Tâm Ngài, hôm nay và mãi mãi. Ngài là Đấng hằng sống, hiển trị cùng Chúa Cha và hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.
SUY NIỆM 9: SUY NIỆM LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU
Lm. Anthony Trung Thành
Đầu tháng 6 năm 1250, khi vua Louis IX đi kinh lý các miền trong nước Pháp, dân chúng tỉnh Maseilles bàn bạc với nhau để dâng cho nhà vua một lễ vật cho có ý nghĩa. Và hôm ấy, khi vua đến, dân chúng đều tụ tập đông đủ. Họ đề cử một cô thiếu nữ dâng lên nhà vua một quả tim bằng vàng. Bên trong quả tim có ngành bông huệ kết bằng kim cương rất quí, là biểu tượng của các vua nước Pháp, và có khắc mấy hằng chữ: “Đây là bằng chứng toàn dân tỉnh Marseilles yêu mến vua Louis, và họ luôn đặt vua trong trái tim họ”. Nhận lễ vật và đọc thấy dòng chữ trên, vua Louis hết sức cảm động. Nhà vua cũng đặt tay lên trái tim và nói: “Đây là bằng chứng vua Louis yêu thương Quốc dân Pháp, và luôn đặt họ trong trái tim vua”.
Câu chuyện trên rất ăn hợp với quan niệm người xưa rằng:
Trái tim biểu hiện tình yêu
Tình yêu phát xuất theo chiều trái tim
Người ta thường lấy trái tim để làm biểu tượng tình yêu. Tôi không biết nguồn gốc có từ bao giờ? Vì sao người ta lại lấy trái tim làm biểu hiện tình yêu? Có lẽ trái tim là trung tâm của cơ thể con người. Trái tim có nhiệm vụ cung cấp máu cho toàn bộ cơ thể. Trái tim không còn bơm máu, cơ thể sẽ khó thở. Trái tim ngừng đập, con người coi như đã chết. Vì vậy, trái tim có một tầm quan trọng đối với cơ thể con người. Từ đó, người ta thường dùng từ ngữ “Trái tim” để diễn tả tình yêu.
Có lẽ cũng vì lý do đó mà khi tỏ mình ta cho Thánh Margarita Maria Alacốc, Chúa Giêsu đã cho Thánh nữ được xem thấy Trái tim của Ngài. Và để diễn tả tình yêu, Chúa Giêsu đã nói với Thánh nữ rằng: “Đây là Trái tim đã thương yêu loài người vô cùng. Không tiếc gì với họ”.
Thật vậy, Trái tim Chúa Giêsu đã thương yêu chúng ta vô cùng. Đó là Trái tim nhân hậu, khiêm nhường, cảm thông, tha thứ và hy sinh tất cả không tiếc gì với chúng ta.
Trái tim nhân hậu. Ngài quan tâm hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Ngài quan tâm đám đông vì họ bơ vơ không có gì ăn nên đã hoá bánh ra nhiều nuôi họ(x. Mc 8,1-10). Ngài “chạnh lòng thương” trước đám tang người con trai duy nhất của bà goá thành Naim nên đã làm cho chàng sống lại(x. Lc 7,11-17). Ngài đã thổn thức trong lòng và xao xuyến khi thấy Maria khóc thương Lazarô nên Ngài đã cho Lazarô sống lại (x Ga 11,1-45). Ngài đã chữa lành nhiều bệnh tật, xua trừ ma quỷ: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế”(x. Cv 10,38).
Trái tim khiêm nhường. Chính Ngài đã tuyên bố: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29). Khi các tông đồ tranh luận xem ai là người lớn nhất. Chúa Giê-su biết điều các ông đang tự hỏi trong lòng, liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và dạy cho các ông bài học khiêm nhường: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.”(x. Lc 9,47-48). Nơi khác, trong một bữa tiệc, Chúa Giêsu thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, Ngài đã lên tiếng dạy họ rằng “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14,11). Sự khiêm nhường được thể hiện rõ ràng nhất khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong giờ tiệc ly (x. Ga 13,1-20).
Trái tim biết cảm thông và tha thứ. Ngài cảm thông sâu sắc với những người tội lỗi. Ngài đã đến cùng ăn cùng uống với họ để có thể cảm hoá họ trở về nẻo chính đường ngay.
Với Maria Mađalêna. Cuộc sống quá khứ đầy tội lỗi. Con một gia đình phú quý sang trọng. Sau khi Cha mẹ qua đời, cô được hưởng một gia tài kếch xù. Với gia tài lớn lao này, cô đã sống sa đoạ, truỵ lạc đến nỗi trở nên nô lệ cho ma quỷ. Mađalêna đã được Chúa cảm thông. Chúa chữa cô khỏi bảy quỷ. Chúa tha thứ tội lỗi cho cô. Sau khi sống lại, Chúa còn hiện ra với cô để trao sứ mệnh loan báo tin mừng phục sinh.
Với người phụ nữ ngoại tình. Chị bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Luật Môisê qui định tội này là tội chết. May mắn thay, chị gặp được Đức Giêsu. Ngài đã cứu chị một bàn thua trông thấy. Ngài tha thứ cho chị. Ngài không kết án: “Ta không kết án chị đâu” (Ga 8,11). Ngài muốn cho chị có cơ hội làm lại cuộc đời “chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với ông Giakêu, Mathêu là những người thu thuế. Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi người thu thuế là người phản đạo và phản quốc. Họ thuộc hạng tội lỗi ngang hàng với gái điếm, người ngoại và người Samari. Bốn hạng người này bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông và cách ly, không ai được phép quan hệ với họ. Thế mà, Chúa Giêsu đã kêu gọi Mathêu, chọn ông làm tông đồ. Mặc cho nhiều người chỉ trích “nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào”, Chúa Giêsu vẫn chủ động mời ông Giakêu xuống khỏi cây sung và đến viếng thăm nhà ông. Qua cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu đã tạo ra một sự biến chuyển lớn lao trong cuộc đời của Giakêu. Ông hoán cải và thay đồi toàn diện đời sống. Bằng chứng là ông đã đứng lên thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,.8).
Với Phêrô, vị tông đồ trưởng. Chúa gọi ông. Chúa ưu ái ông. Thế mà, Phêrô chối Chúa ba lần. Phêrô khóc vì hối hận. Chúa tha cho Phêrô. Chúa còn tín nhiệm trao phó cho Phêrô sứ mệnh “chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy” ( Ga 21, 15-16), tức là làm đầu Hội Thánh, vị giáo hoàng tiên khởi.
Với người trộm lành. Ông đã từng đi đàng tội lỗi lâu năm. Vì những trọng tội mà xã hội Do thái phải trừng phạt ông bằng cực hình đóng đinh. Nhưng ông đã nhận biết tội lỗi mình nên xin cùng Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của Ông xin nhớ đên tôi. Và Người nói với ông: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 42,43). Chúa đã tha thứ tội lỗi cho ông và cho ông vào thiên đàng ngay hôm đó.
Trái tim hy sinh. Chúng ta thấy rõ điều này nơi dụ ngôn người đàn bà bị mất đồng bạc và dụ ngôn con chiên đi lạc. Hình ảnh người đàn bà thắp đèn, quét nhà để tìm đồng tiền bị đánh mất, hình ảnh người chăn chiên trèo đồi lội suối đi tìm con chiên lạc nói lên sự hy sinh của Thiên Chúa đi tìm tội nhân. Dù chỉ một đồng bạc bị mất, dù chỉ một con chiên đi lạc thì Thiên Chúa vẫn cố tìm cho bằng được, Ngài không muốn một ai bị hư mất. Đó là bằng chứng nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể nơi Trái tim Chúa Giêsu. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu bằng việc hy sinh tính mạng của mình làm của lễ đền thay tội lỗi chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu vẫn tiếp tục được lan toả mỗi ngày trong Giáo hội nơi các Bí tích, đặc biệt là nơi Bí tích Giải tội và Thánh Thể. Vì yêu thương Chúa đã ẩn mình trong hình bánh rượu làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Vì yêu thương Chúa đã lập nên bí tích Giao hoà để tha tội cho chúng ta. Mỗi lần tội nhân đến với bí tích giao hoà với lòng thống hối ăn năn tội sẽ được tha thứ.
Tình yêu của Thánh Tâm Chúa vẫn được tiếp tục nơi các thành phần của Hội Thánh. Gương của Thánh Maximilianô Kolbe, chết thay cho người tử tù. Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho anh Agca. Gương hy sinh của Giám Mục Oscar Romero, vừa được Giáo hội phong chân phước ngày 23 tháng 05 vừa qua. Ngài đã lên tiếng tố cáo tội ác, bất công do giới cầm quyền gây nên. Ngài can đảm tìm mọi cách để đứng về những người vô gia cư, đói rách và bị hành hung. Thế rồi, Ngài luôn bị đe dọa, luôn phải đối diện với nguy hiểm. Biết vậy, ngài vẫn không im lặng, hay tìm một nơi khác an toàn. Chiều ngày 24/03/1980, Đức Cha Romero cử hành Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn tại nguyện đường của một bệnh viện ở thủ đô San Salvador. Ngài bị bắn chết ngay sau bài giảng nẩy lửa của mình. Cái chết của Ngài là cái chết vì tình yêu. Đó là một tình yêu hy sinh.
Trong chuyến viếng thăm Sarajevo, ở Bosnia, Đức Phanxicô nghiêng mình trước các chứng nhân bị bách hại vì đức tin. Đức Phanxicô đã không giấu được sự xúc động sâu xa của mình khi nghe các chứng nhân trình bày. Cha Zvonimir Matijević nói với Đức Giáo Hoàng rằng ngài bị bắt, bị tra tấn đến gần chết. Những trận đòn chí tử năm xưa giờ đây đã tiến triển sang nhiều hình thức bại liệt, như một thánh giá ngài sẽ mang hết cuộc đời. Tuy nhiên, ngài nói ngài cảm thấy hạnh phúc được là một linh mục của Giáo Hội Công Giáo và hết lòng tha thứ cho những ai làm hại ngài – với hy vọng họ sẽ hoán cải sang một con đường của lòng nhân hậu. Đây đúng là một tình yêu tha thứ.
Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta biến quả tim mình thành quả tim yêu thương, nhân hậu, khiêm nhường, cảm thông, hy sinh và tha thứ. Nhờ đó, tình yêu Thánh Tâm Chúa không chỉ được tiếp tục nơi một số người mà lan toả ra nơi mọi người. Để thế giới này không còn chỗ của ghen ghét oán thù nữa mà tràn ngập tình yêu thương như lời của Mẹ Têrêxa Calcutta: “Hãy phổ biến tình yêu khắp nơi bạn sinh sống, trước hết là trong gia đình: cha mẹ hãy yêu thương con cái, vợ chồng yêu thương nhau, mọi người yêu thương người thân cận, đừng để bất cứ ai đến với bạn mà lúc ra về lại không cảm thấy mình được trở thành tốt hơn, hạnh phúc hơn. Hãy biểu lộ hình ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa trong ánh mắt, nụ cười, trong lời nói việc làm”.
“Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim của Chúa!
Xin đừng để con khép kín tâm lòng mình bao giờ!
Xin cho con trái tim quảng đại như Chúa,
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường,
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con lướt thắng mọi oán hờn nhỏ nhen,
và mọi thù hằn ti tiện!
Xin cho con luôn luôn bình an tươi sáng,
không một biến cố nào làm con bất ổn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con!
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng bối rối khi bị chỉ trích chê bai.
Xin cho con trái tim đủ lớn để có thể yêu cả người thù địch.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm hết tất cả mọi người trong tình yêu Chúa. Amen!
(Rabbouni, Lời Kinh đẹp nhất Thiên Niên Kỷ, trang 94)
SUY NIỆM 10: TÌNH YÊU LỆ THUỘC
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa, thánh sử Lu-ca ghi nhận ba câu chuyện dụ ngôn Đức Giê-su đã kể: đi tìm chiên lạc, tìm kiếm đồng bạc bị mất, và chờ đón người con đi hoang trở về. Tôi trộm gọi ba dụ ngôn trên như thế (không theo lối gọi truyền thống) vì bị ấn tượng sâu sắc bởi lòng thương xót rất con người của Thiên Chúa, theo cách diễn tả của chính Đức Giê-su.
Thường thì khi nói tới lòng thương xót, ta vẫn ít nhiều có cảm nghĩ: đó là một thái độ nhân nhượng quan tâm của một kẻ bề trên, một hành vi thi ân ban phát ân huệ cho người bất hạnh, xấu số. Thế nhưng đọc kỹ ba câu chuyện dụ ngôn trên ta mới nhận ra cả ba đều có chung một nét: lòng thương xót có vẻ như đặt Thiên Chúa dưới cả con người tội lỗi: Thiên Chúa xót thương không những cần tới, mà còn gần như lệ thuộc vào các người tội lỗi nữa là đàng khác.
Từ trong đời thường ta cũng có thể suy ra: cuộc sống người chăn cừu ít nhiều lệ thuộc vào đàn vật của mình. Do đó hành động lên đường lặn lội đi tìm con chiên lạc của ông cũng dễ hiểu thôi: vì nhu cầu cuộc sống của chính ông. Ông cần tới con chiên đó, nói cách khác, đời sống của ông phần nào lệ thuộc vào con chiên đi lạc kia. Nếu đã dám nói như thế, ta cũng dám đi tới kết luận là: người chăn chiên đi tìm chiên lạc, không phải chỉ vì ‘thương’ nó, mà còn là vì nhu cầu sống của chính ông. Dụ ngôn về người đàn bà tìm kiếm đồng bạc bị mất càng cho thấy rõ hơn điều này: bà cần tiền chứ không thương đồng tiền… Tôi vẫn cảm thấy e dè khi dám có trong đầu tư tưởng rằng: chính Thiên Chúa cần tới con người tội lỗi trước cả khi người tội lỗi cần đến Người. Suy nghĩ thông thường vẫn là: nếu Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót thì con người tội lỗi phải chạy tới lòng thương xót đó. Rất ít ai dám nghĩ rằng: Chúa xót thương lại chủ động đi tìm kẻ tội lỗi trước để đưa họ về; thế nhưng đó lại chính là điều Tân Ước nhiều lần minh xác: ‘Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước’ (1 Ga 4:19). Tôi thấy sợ phải xác quyết điều này vì hình như nó quá xúc phạm tới sự cao cả, sung mãn của Thiên Chúa! Thần học kinh điển đã từng dạy tôi rằng: tình yêu của Thiên Chúa là hoàn toàn vô vị lợi (gratuitous) hiểu theo nghĩa Người ban phát mà không đòi hỏi bất cứ một điều kiện tiên quyết nào. Thế nhưng rõ ràng còn hơn cả thế nữa! Đức Giê-su cho thấy: tình yêu đó không đòi hỏi gì nơi con người nhưng lại đòi hỏi chính Thiên Chúa: người bệnh cần thầy thuốc là lẽ đương nhiên, nhưng chính thầy thuốc cũng cần tới bệnh nhân, vì nếu không có con bệnh, ông không thể là thầy thuốc. Trong tình yêu kể cả tình yêu nhân ái, lệ thuộc vào nhau là một yếu tính thực sự!
Hiểu như thế tôi mới thấy: các chi tiết dầu nhỏ nhất trong dụ ngôn đi tìm chiên lạc lại mang một ý nghĩa vô cùng to lớn: người mục tử tạm ‘bỏ 99 con chiên ngoài đồng hoang, để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Tìm được rồi người ấy mừng rỡ…’ Tìm cho bằng được và mừng rỡ khi tìm thấy, đó là thái độ tiêu biểu đối với những gì thiết thân hay thiết nghĩa! Đức Giê-su long trọng khảng định một điều không ai hiểu nổi: “tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” Phải, nếu thiên đàng, theo lối suy nghĩ tự nhiên, là phần thưởng dành riêng cho những người công chính và thánh thiện, nơi mà Thiên Chúa cao sang vinh hiển ân thưởng những người dầy công nghiệp, thì thiên quốc chắc hẳn phải hoan hỷ đón mừng chủ yếu các bậc thánh hiền, đạo sĩ. Hạng tội nhân sám hối may mắn lắm, thì cũng chỉ được dành cho một xó xỉnh nào đó là cùng. Nhưng huyền nhiệm thay! Nước Trời của Đức Giê-su lại là chốn Thiên Chúa nhân ái và thương xót ngự trị. Vì thế vinh quang Nước Trời sẽ gia tăng mỗi khi lòng thương xót được dịp tỏa sáng trên các tội nhân là hợp lý. Nói cách khác: nếu Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót thì vương quốc của Người lại cần tới, lại lệ thuộc vào số các tội nhân sám hối gia nhập để nhờ đó lòng thương xót càng được tỏ lộ. Và còn triệt để hơn nữa khi ta dám kết luận: sự thánh thiện trọn lành của Ki-tô hữu (hiểu theo nghĩa tu thân tích đức) sẽ không đóng góp gì nhiều cho vinh quang Thiên Chúa nếu như nó không phát xuất từ lòng khiêm nhường chân thành ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Người. Nói cách khác, sẽ không có sự thánh thiện Ki-tô hữu đích thực nếu thiếu khiêm cung đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa nhân ái trao ban trong Đức Ki-tô Giê-su.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su mời gọi tôi đi vào tương quan tình yêu quá thần linh mà cũng quá nhân loại này; thần linh: vì nét độc đáo (vượt quá mọi trí hiểu) mà chỉ có Đức Giê-su mới phác họa lên được, nhân loại: vì nó quá gần gũi với thân phận thấp hèn của con người. Thiên Chúa tình yêu mà lại lệ thuộc vào sự thấp hèn của kiếp sống con người sao? Phải! chính vì thế và điều duy nhất mà cuộc trao đổi tình yêu này đòi hỏi không gì khác hơn là lòng khiêm nhường sâu thẳm, khiêm tốn nhìn nhận thân phận thấp hèn của mình. Phải chăng chính Đức Giê-su đã mời gọi ta khai trác triệt để điều này, khi muốn ta hãy học cùng Người một bài học duy nhất: “Hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29)! Do đó, Thánh Tâm Chúa Giê-su mời gọi tôi khai thác triệt để các lỗi tội mình phạm, để biến nó thành vinh quang của lòng Chúa thương xót vô bờ bến.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giê-su, xin cho con được cảm nghiệm thứ tình yêu lệ thuộc mà Chúa đã mô tả. Xin cho con được cùng toàn thể thiên quốc vui mừng vì một tội nhân sám hối. Trước mắt, xin cho con biết vui mừng mỗi khi ban phát tình yêu tha thứ của Chúa, nhất là trong bí tích Giải Tội. Về phần mình, trước những lỗi phạm và yếu đuối riêng tư, xin cho con xác tín rằng: hơn bất cứ ai khác, Chúa đang khát khao được dịp thi thố lòng xót thương và thứ tha. Xin cho con được cảm nghiệm như Phao-lô, niềm tự hào chân chính về những yếu đuối, sa ngã của mình. A-men.
SUY NIỆM 11: “TÌM CHO KỲ ĐƯỢC CON CHIÊN BỊ MẤT”
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Trong Thánh Lễ kính trọng thể Thánh Tâm Chúa Giê-su, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại một dụ ngôn thật nhỏ bé do chính Người kể lại, dụ ngôn «Con chiên bị mất». Dụ ngôn thật «nhỏ bé» nhưng có năng lực diễn tả và đánh động lòng chúng ta, điều thật «lớn lao», đó là Thánh Tâm Chúa, là LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa, là tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giê-su Ki-tô, là tình yêu đến cùng mang lấy hình hài Đức Ki-tô chịu đóng đinh.
Đức Giê-su và những người tội lỗi
Vào thời của Đức Giê-su, có những người bị coi là tội nhân một cách công khai: vì họ có một thứ nghề nghiệp bị mọi người coi là xấu, chẳng hạn nghề thu thuế như ông Gia-kêu, hoặc vì họ có đời sống luân lí không tốt, chẳng hạn người phụ nữ bị mọi người coi là «người tội lỗi trong thành» (Lc 7, 37) hay vì họ không giữ những nghi thức hay qui định đạo đức, chẳng hạn các nghi thức thanh tẩy, ăn chay, ngày sa-bát…. Họ bị mọi người khinh chê, nhất là các người Pha-ri-sêu và luật sĩ.
Ngày nay, người ta không còn tùy tiện dán nhãn tội nhân vào người này người kia nữa, nhưng sự khinh chê vẫn còn nguyên, trong cung cách ứng xử giữa người với người. Thật vậy, chúng ta vẫn còn khinh chê nhau, vì sự yếu kém, nhỏ bé, giới hạn, thiếu khả năng, tuổi tác, hoàn cảnh gia đình xã hội, ngoại hình… Thân phận làm người tự nó đã nặng nề, nhưng thay vì gánh vác cho nhau hay làm cho nhẹ đi, chúng ta lại luôn tìm cách chồng chất thêm cho nhau hay tự làm cho thân phận của mình nặng thêm. Thánh Phao-lô trong thư Roma chấn vấn chúng ta: «Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa… Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em?» (Rm 14, 8.10).
Chúng ta hãy trở lại với bối cảnh của của dụ ngôn «Con chiên bị mất» (c. 1-2), nhìn ngắm cách Đức Giê-su đón tiếp những người tội lỗi, những người yếu kém, những người nhỏ bé: họ đến để lắng nghe Ngài; và Ngài không chỉ đón tiếp họ, nhưng còn dùng bữa với họ. Đón tiếp và dùng bữa với ai, đó chính là làm bạn, thậm chí trở nên một với người đó. Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh Đức Giê-su ở giữa những người tội lỗi, bởi vì hình ảnh này rất đánh động và an ủi đối với chúng ta.
Trong Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục ban lời của Ngài cho chúng ta, vốn là những người tội lỗi, yếu kém và nhỏ bé, và còn hơn cả việc dùng bữa với chúng ta, Ngài tự biến thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta cho sự sống hôm nay và sự sống muôn đời.
Kinh nghiệm được đón tiếp bởi Đức Giê-su, khi mà chúng ta vẫn còn là tội nhân, yếu kém và nhỏ bé, chính là động lực để chúng ta cũng có thể đón tiếp người khác, như họ là. Kinh nghiệm này cũng làm cho có thể ra khỏi chính mình để đi vào niềm vui lớn lao của Thiên Chúa và các Thiên Thần của Ngài trên trời.
«Con chiên bị mất»
Để thay đổi hình ảnh lệch lạc của chúng ta về thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân, và để giải thích tại sao Ngài không chỉ tiếp đón những người tội lỗi, mà con ăn uống với họ nữa, nghĩa là còn ngài kết bạn với họ, Đức Giê-su kể «một hơi» ba dụ ngôn: dụ ngôn con chiên, dụ ngôn đồng bạc và dụ ngôn người cha có hai người con (Lc 15, 4-32). Và trên Thập Giá, Ngài còn đi xa hơn, khi để cho mình bị bắt và bị lên án như là tội nhân và chịu chết giữa các tội nhân.
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ kính trọng thể Thánh Tâm Chúa hôm nay kể lại hai dụ ngôn đầu tiên, nhưng chúng ta nên hiểu cả ba dụ ngôn cùng nhau, vì các dụ ngôn soi sáng cho nhau và nêu bật khía cạnh đặc biệt của mỗi dụ ngôn. Thật vậy, ba dụ ngôn có một thứ tự đặc biệt khiến chúng ta phải chú ý: 100 con chiên trong đó có một con bị mất; 10 đồng quan, có một đồng bị mất, và 2 người con, một người bị hư mất. Như thế, xét về con số, sự mất mát càng lúc càng lớn: một trên một trăm, một trên mười và một trên hai; hơn nữa, xét về điều bị mất, ban đầu là con vật, sau đó là đồng tiền, và trường hợp thứ ba là một người con, mà người con thì vô giá.
Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này, giá trị mất mát càng lớn, thì niềm vui sẽ càng lớn, khi tìm lại được. Chính vì thế, người cha, khi mở rộng vòng tay đón nhận người con hư mất trở về, đã mở tiệc ăn mừng; trong khi với trường hợp con chiên và đồng tiền tìm lại được, người ta chỉ chia sẻ tin vui thôi, với bạn bè và hàng xóm.
Chính vì thế, logo của Năm Thánh Lòng Thương xót vừa đến từ dụ ngôn «Con chiên bị mất» qua hình ảnh vác trên vai, vừa đến từ dụ ngôn «Người con hoang đàng», qua hình ảnh con người được mang vác, thay vì con chiên, vừa diễn tả Đức Ki-tô, qua bàn tay in dấu đinh, vừa diễn tả căn tính thần linh của Đức Ki-tô «Ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha” (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót), qua lời mời gọi “THƯƠNG XÓT NHƯ CHÚA CHA”
Tuy nhiên, cả ba dụ ngôn có một sứ điệp khác đánh động chúng ta không kém: đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta, như thể, chúng ta là duy nhất, là quí nhất là yêu nhất, trong con mắt của Chúa. Và dụ ngôn đầu tiên làm bật lên sự điệp này một cách rạng ngời nhất: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. (c. 4)
Dụ ngôn đến từ đời thường, nhưng một khi thốt ra từ miệng Đức Giê-su, lại chứa đựng nhiều điều bất thường (tương tự như các dụ ngôn khác):
(1) Bỏ chín mươi chín con lại nơi đồng hoang; (2) Vác con chiên lạc trên vai, khi tìm thấy; (3) và niềm vui quá lớn và lan tỏa, so với con chiên nhỏ bé được tìm lại, như thể đó là con chiên duy nhất, và như thể chín mươi chín con kia không hiện hữu! Ba điểm bất thường diễn tả cho chúng ta một cách tuyệt vời về tình yêu Thiên Chúa mà Thánh Tâm Chúa Giê-su muốn diễn tả:
– Thiên Chúa quan tâm đến từng người chúng ta, như thể mỗi người chúng ta là duy nhất. Đó chính là đặc điểm của tình yêu, nghĩa là tương quan giữa một ngôi vị với một ngôi vị. Và chỉ khi, có một con chiên đi lạc, đặc điểm này mới được tỏ lộ ra. Vì thế, kinh nghiệm «đi lạc» sẽ là cơ hội giúp chúng ta nhận ra đặc điểm này của tình yêu Thiên Chúa!
– Người mục tử không trách móc, la mắng xử phạt, giống như người cha chạy ra ôm người con trở về «hôn lấy hôn để» (x. Lc 15, 20). Bởi vì sự hiện diện của người con «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy (c. 24), là tất cả và là dư đủ để lất át tất cả, bù đắp tất cả và làm cho hi vọng1. Đó là bởi vì, tình yêu luôn đi đôi với bao dung tha thứ. Đặt vào trong bối cảnh của dụ ngôn, người tội lỗi được tượng trưng bởi hình ảnh con chiên đi lạc. Điều này thật an ủi cho chúng ta, vì dưới mắt Chúa, chúng ta là những con chiên đi lạc, phải đi tìm về cho kì được, và Thiên chúa đi tìm mỗi người chúng ta nơi Đức Giê-su. Chúng ta hãy nhìn mình như là Chúa nhìn; và chúng ta hãy là con chiên đi lạc mong được tìm thấy và được mang về. Thay vì tự biến mình thành con dê nổi loạn, con sói phá hoại.
– Tình yêu bao dung tha thứ mang lại niềm vui, và niềm vui lan tỏa sang nhiều người, sang tất cả mọi người, trên trời cũng như dưới đất.
* * *
Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành đích thân cho từng người chúng ta như là « Đối Tượng Duy Nhất » trong Đức Ki-tô, để chúng ta có thể yêu mến Người như là « Đối Tượng Duy Nhất » của lòng trí chúng ta. Và thực vậy, dù chúng ta là ai, ở trong tình trạng nào, mỗi người chúng ta đều là:«Người môn đệ Đức Giê-su thương mến», vì chúng ta xác tín cùng với thánh Phao-lô rằng: Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. (Rm 8, 38-39)
Thánh Tâm Chúa Giê-su
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su có nguồn gốc nơi biến cố cạnh sườn của Đức Giê-su bị đâm thâu và từ đó, tuôn trao ra nước và máu (x. Ga 19, 34). Nhìn ngắm biến cố sau cùng này của cuộc Thương Khó, các Giáo Phụ nhận ra nơi đó sự khai sinh ra các bí tích của Hội thánh, nhất là bí tích rửa tội và Thánh Thể:
Lạy Chúa Ki-tô, … xin Máu thánh Chúa làm cho con say mến… Xin nước bởi cạnh sườn Chúa rửa con cho sạch… Xin cất dấu con trong các vết thương của Chúa. (Kinh Anima Christi)
Không có lòng sùng kính nào có tính cách bắt buộc, ngay cả khi được Giáo Hội khuyến khích. Chúng được đề nghị thực hành trong mức độ chúng giúp chúng ta hiểu biết, yêu mến và phục vụ Đức Ki-tô, Chúa chúng ta. Tuy nhiên, phải nói rằng, những hình vẽ “Trái Tim rất thánh”, có từ thế kỷ XVII, xem ra không còn phù hợp với cảm thức của chúng ta ngày này. Nhưng, chúng ta được mời gọi vượt qua hình vẽ nghệ thuật, để nhận ra rằng hình ảnh trái tim ngày nay vẫn còn mang nhiều ý nghĩa. Trong thân thể của chúng ta, trái tim đưa máu đi, ngang qua các động mạch, tưới gội khắp chi thể, để làm cho thân thể sống động. Trong đời sống tinh thần, trái tim được coi là trung tâm của nhân cách, nghĩa là nơi của những cảm xúc và những năng động hướng chúng ta đến với người khác; trái tim làm trào vọt ra trên môi miệng chúng ta những lời nồng thắm và yêu thương, bởi vì “tim có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12, 34). Chính vì thế mà, hình ảnh trái tim có mặt khắp nơi trong Kinh Thánh, mặc khải những gì trào vọt ra từ trái tim của Thiên Chúa và những gì trào vọt ra từ trái tim con người. Đó là hình ảnh trái tim rung cảm, hơn là trái tim lưu chuyển máu huyết.
Như thế, dấu chỉ tấm bánh và hình ảnh trái tim diễn tả cùng một thực tại, đó là Tình Yêu đi xuống đến cùng tận, nghĩa là LÒNG THƯƠNG XÓT, để làm cho thế giới đứng vững trong Đức Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa và để mang lại cho thế giới năng động trở về với Đấng Tạo Dựng.
SUY NIỆM 12: TRÁI TIM MỤC TỬ
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta đặc biệt suy tôn Tình Yêu của Chúa Giêsu đã thể hiện qua trái tim của Người. Phụng vụ Lời Chúa năm C không có một từ nào nói về trái tim Chúa Giêsu, nhưng lại nói đến Tình Yêu của một Thiên Chúa là Cha qua hình ảnh của một người mục tử hết mình yêu thương đàn chiên.
Cùng với khẩu hiệu ”Thương Xót như Chúa Cha” (Lc 6,36), huy hiệu Năm Thánh Lòng Thương Xót (do Cha Marko I. Rupknik SJ sáng tác) trình bày người Cha đang vác người con lầm lạc trên vai. Một hình ảnh rất được Giáo Hội cổ kính quí chuộng, vì diễn tả tình thương của Chúa Kitô hoàn tất mầu nhiệm nhập thể của Người bằng công trình cứu chuộc. Hình của huy hiệu làm nổi bật sự kiện Vị Mục Tử nhân lành đi sâu vào thân thể con người, với tình thương yêu đến độ thay đổi cuộc sống của con người.
Ngoài ra, một sự kiện này không thể bỏ qua, đó là Vị Mục Tử nhân lành, với lòng thương xót tột độ, vác nhân loại trên vai, nhưng đôi mắt của Vị Mục Tử hoàn toàn giống như đôi mắt của con người. Chúa Kitô nhìn với con mắt của Ađam và Ađam nhìn với con mắt của Chúa Kitô. Như thế mỗi người nhận ra nơi Chúa Kitô là Ađam mới, chính nhân tính của mình và tương lai đang chờ đợi mình, khi chiêm ngắm, trong cái nhìn của Chúa Kitô, tình thương của Chúa Cha. (theo vi.radiovaticana.va)
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho dân Do Thái qua ngôn sứ Êdêkien về một thời đại mới mà chính Thiên Chúa sẽ là mục tử chăn dắt dân của Người. Vị mục tử sẽ tìm kiếm những con chiên bị tản mác khắp nơi, tập hợp và đưa chúng vào đất của chúng. Chăn dắt trong những đồng cỏ tươi tốt, màu mỡ trên các núi cao, các thung lũng Ít-ra-en và tại mọi nơi trong xứ có thể được. Con nào bị mất, Người sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Người sẽ đưa về; con nào bị thương, Người sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Người sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Người sẽ canh chừng. Người sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. (x. Ed 34,11-16)
Trong những ngày nắng hạn khô cằn, vị mục tử là Thiên Chúa sẽ dẫn đưa đàn chiên chúng ta đến nơi đồng cỏ xanh tươi, chỗ suối nước mát lành để chúng ta được no nê bổ sức và yên tâm nghỉ ngơi. Không còn những lo lắng, buồn phiền, mệt mỏi …. vì “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” Và rồi bình an trong vòng tay yêu thương chăm sóc, chúng ta tin tưởng khẳng định: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm.”
Đối với Thiên Chúa, chúng ta là những người con yêu dấu. Trong đôi mắt Người, từng người chúng ta thật quý giá không trừ một ai. Tình Yêu xuất phát từ trái tim Người đã che chở chúng ta, đem lại cho chúng ta sự bình an. Thương lắm, quý lắm nên Thiên Chúa mới xức dầu thơm lên đầu chúng ta, châm rượu vào ly cuộc đời chúng ta với bao ân tình thương quý. “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa”. (TV 23,1-6)
Đức Giêsu chính là Vị Mục Tử Nhân Lành mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân và chính Người cũng xác nhận “Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Mục Tử Nhân Lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Không chỉ chăm sóc, bảo vệ, tình yêu của Đức Giêsu đối với chúng ta còn lên đến tột đỉnh khi Người hiến mạng sống mình cho chúng ta, như lời Thánh Phaolô: “Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5,5-11)
Tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành không dừng lại ở việc chăm sóc, giữ gìn chúng ta. Dụ ngôn con chiên lạc là một trong ba dụ ngôn Đức Giêsu nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa không bỏ rơi con người tội lỗi. Sự lo lắng của vị mục tử này xuất phát từ việc trống vắng con chiên lạc trong trái tim ông. Ông dám liều lĩnh bỏ 99 con trong hoang địa và chấp nhận tất cả những rủi ro sẽ xảy đến cho bản thân để cất bước lên đường tìm 1 con. Khi tìm được con chiên lạc, ông mừng rỡ ôm nó vào lòng, vác trên vai đưa nó trở và mời bạn hữu đến chia vui “vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên đã bị mất”. Vui mừng không phải vì con số 100 tròn đầy mà là vì con chiên lạc đã được tìm thấy!
Đức Giêsu còn nhấn mạnh: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”. Cần phải hiểu bối cảnh của dụ ngôn là sự bàn tán, xầm xì của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư khi thấy những người thu thuế và tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng dậy (x. Lc 15,1-7). Điều đó cho ta thấy sự khác nhau giữa lý luận của trí óc và cái lý lẽ của con tim. Chúa Giêsu muốn chúng ta phải nghe Lời Người bằng trái tim, để có thể hiểu được những hành động Người đã dành cho những người tội lỗi. Hơn thế, Người còn cho thấy, nếu một khi để cho trái tim thúc đẩy, thì ai cũng sẽ làm như Người đã làm.
Muốn cảm nghiệm được tình yêu, chúng ta cần phải biết nghe bằng trái tim, và để cho trái tim rung đập theo nhịp riêng của nó. Hãy suy ngẫm và cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, để rồi nghe theo sự mách bảo của trái tim, chúng ta hãy sống sao cho xứng đáng với tình yêu hy sinh quảng đại Thiên Chúa đã dành cho mỗi người. Hãy mang lấy trái tim và cách cư xứ của Chúa đến cho anh chị em chung quanh để bất cứ ai khi tìm đến với những Kitô hữu như chúng ta, đều tìm được một ốc đảo từ bi thương xót. (ĐTC Phanxicô)
Nguyện xin Thánh Tâm Chúa Giêsu tuôn đổ Tình Yêu của Người vào trong trái tim của để chúng con luôn biết lấy Tình Yêu đáp trả Tình Yêu, luôn nhìn đời với ánh mắt yêu thương, biết cảm thông trước những nỗi khổ của tha nhân. Luôn biết tìm đến với những người đang cần chúng con cho đi dù chỉ là một lời cầu nguyện, một chút yêu thương, một chút chia sẻ.
Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa bằng con tim rộng mở, để qua lời rao giảng của các vị mục tử chúng con kín múc được những nguồn mạch thâm sâu của Tin Mừng. Cho chúng con có một trái tim khiêm nhường để biết mở lòng mình ra đón nhận những phê bình, sai sót của anh em. Biết từ bỏ cái tôi để tiếp thu những điều chưa hay, chưa biết thay vì tranh cãi, lí luận đủ điều để bảo vệ những thiếu sót, khiếm khuyết của mình.
Xin Trái tim nhân từ của Chúa Giêsu giúp con biết cảm thông, chia sẻ, nâng đỡ và cư xử với những người trong gia đình, những người cùng làm việc trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày bằng sự hiền từ và tha thứ để cuộc sống ngày càng thêm thăng hoa và trổ sinh trái ngọt. Và khi trái tim con đã được đong đầy Tình Yêu Thiên Chúa, xin cho con vững bước đi làm chứng nhân cho cội nguồn Tình Yêu là Thánh Tâm Chúa Giêsu giữa lòng xã hội và thế giới hôm nay. Amen.
SUY NIỆM 13: TRÁI TIM THỔN THỨC
Dã Quỳ
Trái tim là phần quan trọng nhất và quí giá nhất của con người, là cơ quan sống động và chuyển động không ngừng trong con người. Đó là trái tim tự nhiên. Thế nhưng trong con người, còn có một trái tim thứ hai, mà chúng ta gọi là Tấm Lòng. Với ngôn ngữ Anh hay Pháp, người ta gọi chung một tên là Heart hay Coeur. Những ai có tấm lòng thì trái tim cũng sẽ thao thức, đau khổ và cũng sẽ yêu mãnh liệt. Vì Tình yêu và Trái tim đồng nghĩa.
Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô như là một sự kính nhớ Tình Yêu của Chúa và Tình yêu cụ thể đó là Cuộc Thương Khó của Người. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên khi yêu nhân loại, trái tim Chúa cũng đau khổ suốt cả cuộc đời nơi trần thế và mãi đau khổ vì sự vô ơn bội nghĩa của con người. Không có đau khổ nào sánh bằng đau khổ vì bị phản bội tình yêu. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta tha thiết và muốn yêu chúng ta đến cùng nên Người cũng phải đau khổ nhiều. Nhưng đau khổ vì yêu thương của Chúa thật cao đẹp và tuyệt vời vì chính Chúa chọn chết vì yêu chúng ta “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.”(Ga 10,18)
Trái Tim Chúa Giêsu yêu tất cả nhân loại nhưng Chúa yêu và quan tâm, chăm sóc từng người chúng ta cách cá nhân. Chính vì thế, Chúa đã không vì chín mươi chín chiên trong đàn mà bỏ một chiên lầm lạc nhưng trái lại, Người để chín mươi chín con kia ngoài đồng mà đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất.(x. Lc 15,4) Đối với Chúa, một bằng chín mươi chín, vì mỗi người có một giá trị cao quí. Trái tim của Mục Tử Giêsu không thể yên khi ở với đàn chiên trên cánh đồng an bình, trong khi đó còn có những chiên lạc, chiên xa đàn. Người dõi theo và thao thức khi những chiên đau bệnh, ngây ngô lầm lạc ấy bỏ đi. Lòng Thương Xót của Chúa đã muốn đếm hết mọi người chúng ta và lo lắng, đau khổ cho mỗi người “Chính Người đã mang lấy các bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta.“( Is 53,4)
Trái tim không đau khổ, không thổn thức đó là trái tim không yêu. Còn Trái Tim của Chúa chúng ta thì luôn luôn gắn liền với Thánh giá. Thế nên khi Chúa Giêsu hiện ra với Thánh nữ Margarita Alacoque, trên tay Người cầm trái tim quấn vòng gai với hai vết thương chiếu sáng hai tia lửa yêu và Chúa nói “Đây là Trái Tim đã yêu thương loài người quá đỗi.” Trái tim Chúa đã yêu nhiều nhưng chỉ nhận được sự xua đuổi, lạnh nhạt và vô ơn. Chính chúng ta, những Kitô hữu lẽ ra là những chiên tốt lành, ở bên cạnh và an ủi, đền tạ, yêu mến và làm vinh danh Người; nhưng ngược lại, đời sống của ta, tội lỗi của ta đã xúc phạm đến Chúa, nhất là những tội từ trái tim, từ tình yêu của ta đã như thêm gai nhọn, thêm giấm chua vào Thánh Tâm Chúa.
Mặc dù Tình yêu của Thiên Chúa không được đền đáp, nhưng Trái Tim Chúa vẫn tiếp tục yêu và nghĩ đến những ai rời bỏ Người. Chúa yêu những người không yêu Chúa và Chúa lên đường tìm kiếm con cái của Người đang tản mác khắp nơi, để chỉ mong chúng cảm nghiệm được tình trìu mến của Người mà hoán cải và trở về. Bởi vì đi tìm là đã yêu, đã tha thứ và thương xót vô hạn. Thế nên, khi tìm được rồi, bất chấp tất cả, Mục Tử rất đỗi vui mừng “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.”( Lc 15, 5) Không chỉ công kênh trên vai đưa về, mà còn mở tiệc mời hàng xóm ăn mừng chia vui. Ôi, một hình ảnh kỳ diệu mà chúng ta cần mãi chiêm ngắm. Chính Thiên Chúa, Cha của chúng ta, luôn đối xử với mỗi người chúng ta như vậy. Niềm vui của Chúa là tìm thấy chúng ta, những người con lạc lối.
Thiên Chúa và cả Nước Trời có chung một niềm vui. Niềm vui ấy bừng tỏa chỉ “Vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 15,7) Chỉ một người mà quan trọng hết sức đối với Thiên Chúa. Chính vì vậy, Người không an lòng ngồi đó chờ đợi chúng ta trở về nhưng là nóng lòng đi tìm. Đó là Trái Tim của Thiên Chúa- Trái tim thổn thức khôn nguôi.
+ Còn đối với chúng ta, chúng ta có quan tâm đến việc cứu độ con người, đến sứ mạng cứu rỗi mà Chúa cũng trao cho mỗi Kitô hữu tiếp nối cánh tay và chương trình Cứu độ của Người hay không? Trái tim của chúng ta có phần nào giống Trái Tim Chúa Giêsu, cùng nhịp đập yêu thương, thao thức khôn vơi khi còn biết bao anh chị em ta chưa biết Chúa hay còn đang lầm lạc bỏ Chúa? Chúng ta được trao sứ mệnh và được sai đi để tìm kiếm những ai bị mất. Vậy ta có nhiệt tâm tìm kiếm, tạo cơ hội và giúp đỡ anh chị em ta nhận ra tình yêu của Chúa và trở về với Người không?
Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ và xót thương bao la của Thiên Chúa “Trái Tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.”(Hs 11, 8) Người luôn tìm kiếm và cứu chữa bởi bản tính của Người là “Nhẫn Nại và Xót Thương.” Khi đến trần gian, mối bận tâm của Chúa Giêsu “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”( Lc 5,32). Chính vì thế, Chúa Giêsu – Mục Tử nhân lành đã hy sinh tính mạng cho đoàn chiên, chỉ mong cho chiên được sống và sống dồi dào bằng chính sự sống của Người.
Là chiên của Chúa, chúng ta được mời gọi ở lại trong tình yêu của Chúa và tin tưởng vào lòng xót thương chăm sóc của Chúa. Hãy tín thác cuộc đời ta trong cánh tay yêu thương của Mục Tử Giêsu và “Mọi lo âu, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em“(1Pr 5,7) Đồng thời ta hãy học nơi Thánh Tâm yêu thương nhân từ của Chúa, để chính ta cũng biết trao tặng tình yêu thương cho tha nhân cách cụ thể trong cuộc sống hằng ngày của ta bằng việc cầu nguyện cho người tội lỗi; bằng bác ái, chia sẻ, cảm thông, tha thứ… Vì tất cả những gì phát xuất từ con tim đong đầy tình yêu Chúa thì nhất định sẽ là men, muối và hấp dẫn, lôi kéo đem nhiều anh em trở về với đoàn chiên và với Thánh Tâm trìu mến dịu dàng của Chúa chúng ta.
Hôm nay, ngày thánh hóa các Linh Mục. Chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho các ngài được Thánh Tâm Chúa Giêsu yêu mến, che chở và biến đổi để các ngài thực sự là những Mục tử mang trọn vẹn hình ảnh, khuôn mặt, trái tim của Chúa Giêsu. Cầu mong cho từng lời rao giảng, mỗi lời nói và trong mọi hoạt động của các ngài luôn thấm đẫm tình yêu và lòng nhân hậu. Cầu xin cho các Linh Mục có trong mình trái tim thổn thức của Chúa với những chiên lạc, chiên xa đàn và lo lắng nhiệt thành đi tìm kiếm. Cầu khẩn cho các ngài luôn hết lòng chú ý đến những chiên đau bệnh, chiên nhỏ bé và những nỗi khốn cùng của họ.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin thương xót tất cả chúng con và xin đổ đầy tình yêu của Chúa vào mỗi con tim chúng con. Amen.
SUY NIỆM 14: Tình yêu
Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời năm 1912, chiếc tàu khổng lồ mang tên là Titanic được hạ thủy và khởi hành sang Mỹ. Trong chuyến đi đầu tiên này, chiếc tàu ấy chẳng may đụng phải băng sơn, khiến cho nước ùa tràn vào và con tàu bị chìm dần dưới lòng đại dương.
Hành khách hoảng hốt tìm cách cứu thoát lấy mình và những người thân yêu trên những chiếc thuyền cứu cấp. Giữa cảnh kinh hoàng ấy, bỗng người ta nghe thấy một giọng hát vang lên:
- Gần bên Chúa, linh hồn con sướng vui.
Với chúng ta cũng vậy, giữa lòng cuộc đời đầy sóng gió, khổ đau và thử thách, nếu chúng ta biết suy nghĩ về tình thương của Chúa và nhất là nếu chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Thánh Tâm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vui mừng và hạnh phúc.
Có lẽ không một lời nói nào của Chúa làm cho chúng ta xúc động bằng lời nói đầy yêu thương sau đây: - Này con, con hãy dâng lòng con cho Cha.
Khi nghe đọc những lời này, chúng ta dường như cảm thấy Chúa đang gõ cửa, đang dang tay van xin chút tình yêu thương của chúng ta.
Thực vậy, Ngài không phải chỉ van xin bằng lời nói, mà Ngài còn thực hiện sự van xin ấy bằng những việc làm cụ thể. Máng cỏ, Thập Giá và Thánh Thể đã chẳng phải là những bằng chứng hùng hồn nhất của một tình yêu điên khùng và mạnh mẽ đó sao?
Đúng thế, mỗi năm vào dịp lễ Giáng sinh, khi quì bên máng cỏ, chúng ta không bồi hồi xúc động sao được. Hài nhi Giêsu nằm trên lớp cỏ rơm, không nói với chúng ta bằng ngôn từ, nhưng nói với chúng ta bằng việc làm, bằng chứng tích cụ thể của tình yêu:
- Con thấy không Cha đã yêu thương con biết bao, chính vì yêu con mà Cha đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời xuống đất. Cha đã đến trong thế gian, chỉ vì yêu thương con mà thôi.
Rồi trong những phút giây thinh lặng ấy, chúng ta hãy ngước nhìn lên Thập Giá và tự hỏi:
- Ai đã chịu treo trên đó?
- Con Thiên Chúa.
- Tại sao Ngài lại chấp nhận một cái chết tủi nhục và đớn đau như thế?
- Chỉ vì yêu thương chúng ta mà thôi.
Thực vậy, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống nghèo túng và cực nhọc. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu đánh đòn, chịu đội mạo gai và sau cùng chịu đóng đinh vào Thập Giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu lưỡi đòng đâm qua trái tim.
Suy nghĩ về cực hình Thập Giá, chúng ta phải kêu lên như thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Sau cùng, hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã biết về hình ảnh người mục tử nhân lành. Đúng thế, người mục tử nhân lành dẫn đàn chiên tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói rừng. Và khi chiều xuống, người mục tử nhân lành đưa đàn chiên về chuồng để nghỉ qua đêm.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ về bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta sẽ thấy tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta còn trở vượt hơn tình yêu của người mục tử nhân lành rất nhiều.
Nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thấy được những gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu trao ban chính bản thân Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Cả Mình với Máu thánh. Cả thân xác với linh hồn. Cả bản tính nhân loại với bản tính Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta đừng đáp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Và sau cùng, tước tình yêu thương vô biên của Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời nguyện cầu chân thành:
- Lạy Chúa, xin cho con biết làm mọi sự vì lòng yêu mến Chúa.
SUY NIỆM 15: Nền văn minh tình thương – TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh tiến bộ. Trong vòng vài thập niên, khoa học kỹ thuật tiến nhanh tới mức không ngờ. Đời sống vật chất của con người được nâng cao rất nhiều. Nhà cao cửa rộng hơn. Ăn uống đầy đủ hơn. Có nhiều tiện nghi hơn. Có nhiều tiền bạc của cải hơn. Tuy nhiên con người vẫn không thấy hạnh phúc. Cuộc sống tiến bộ hơn nhưng lại làm con người cảm thấy mệt mỏi hơn. Cuộc sống trở nên như gánh nặng.
Cuộc sống trở nên một gánh nặng vì con người quá vất vả. Chưa bao giờ cuộc sống đầy đủ như hôm nay. Nhưng chưa bao giờ cuộc sống lại vất vả như hôm nay. Phải lo âu tính toán nhiều hơn. Phải bươn chải chạy vạy nhiều hơn. Phải cạnh tranh nhiều hơn. Chính vì thế mà phát sinh nhiều bệnh mới. “Stresss” là căn bệnh điển hình của thời đại. Hưởng thụ như một ảnh ảo, càng đuổi theo lại càng lùi xa.
Cuộc sống trở nên một gánh nặng vì con người đã đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Chưa bao giờ người ta giàu có như hôm nay. Nhưng chưa bao giờ người ta chán sống như hôm nay. Số người tự tử tăng một cách đáng sợ. Bi thảm là những người tự tử thường trẻ tuổi. Và những người chán sống lại là những người dư thừa vật chất.
Đứng trước những lo âu vất vả của con người. Chúa chạnh lòng thương, bày tỏ Trái Tim Chúa như phương thuốc chữa trị. Và Chúa ân đưa ra hai lời mời gọi.
Lời mời gọi thứ nhất: Hãy trở về với Trái Tim Chúa: “Hỡi những ai vất vả gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ bổ sức cho ngươi”. Con người được tạo dựng do tình yêu thương của Thiên Chúa. Nguồn gốc, con người lạc hướng, đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Muốn tìm lại ý nghĩa đời mình, phải quay về nguồn cội, nơi mình được phát sinh ra. Càng xa Chúa, càng khắc khoải băn khoăn. Càng về gần Chúa, càng bình an thư thái. Thánh Augustinô đã cảm nghiệm được chân lý này. Khi còn trẻ, Ngài đã tìm kiếm hạnh phúc qua hưởng thụ. Nhưng càng tìm kiếm càng thấy trống rỗng. Càng hưởng thụ càng thấy chán ngán. Sau cùng được ơn ăn năn trở lại, gặp được Chúa, ngài đã thốt lên một câu bất hủ: “Lạy Chúa, Chúa tạo dựng nên con cho Chúa. Nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Từ đó ngài tiến bước trong tình yêu Chúa, được rửa tội, dâng mình cho Chúa, làm linh mục, làm giám mục, và làm thánh. Ngài đã tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
Lời mời gọi thứ hai: Hãy học với Trái tim Chúa: “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hầu hết những xung đột trên thế giới đều phát xuất từ tính kiêu căng và lòng độc ác. Vì kiêu căng nên hay tự ái, cạnh tranh với người khác. Vì độc ác nên tàn nhẫn chà đạp người khác. Cuộc sống trở nên một bãi chiến trường. Người trở nên kẻ thù của người. Vì thế tâm hồn con người không lúc nào nghỉ yên. Muốn được bình an thư thái phải học nơi Trái Tim Chúa sự hiền lành và khiêm nhường. Người hiền lành khiêm nhường chiến đấu với chính mình chứ không chiến đấu với người khác. Người hiền lành khiêm nhường quên mình vì người khác chứ không quên người khác vì mình. Khi biết quên mình để nghĩ đến người khác, ta góp phần xây dựng hoà bình trên thế giới. Khi biết chiến đấu để thắng được chính mình, ta được bình an trong tâm hồn. Khi sống hiền lành khiêm nhường như thế ta xây dựng một nền văn minh mới. Không phải nền văn minh khoa học kỹ thuật mà là nền văn minh của trái tim. Không phải nền văn minh gây ra chán nản mệt mỏi, nhưng là nền văn minh đem hạnh phúc an vui. Đó chính là nền văn minh tình thương. Nền văn minh ấy ta chỉ xây dựng được trong Trái Tim Chúa.
Trong tháng sáu kinh Thánh Tâm Chúa, ta hãy siêng năng đến với Thánh Tâm Chúa, để tìm được ý nghĩa cuộc đời và để được Chúa dạy bảo ta con đường hiền lành khiêm nhường. Đó chính là con đường đưa ta đến sự thật và sự sống.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1- Lễ Thánh Tâm, Chúa Giêsu mời gọi bạn làm gì?
2- Hiền lành và khiêm nhường có quan trọng không? Bạn đã từng thực hành hiền lành và khiêm nhường nơi nào?
Sứ điệp của lễ Thánh Tâm có cần thiết cho thế giới hôm nay không?
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 16: Trái Tim bốc lửa
Hình ảnh Trái tim Chúa Giêsu bốc lửa đỏ rực giữa trước ngực, nổi bật lên tình yêu nồng nàn của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thánh Gioan đã quả quyết: “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa”.
Dấu chỉ tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa thể hiện rõ nơi tình mẹ con. Loài nào sinh con ra, mẹ cũng biết âu yếm, ấp ủ, nuôi dưỡng bảo vệ con. Đó là bản năng tự nhiên do Thiên Chúa ban phát cho chúng. Loài càng khôn càng tỏ ra yêu con hơn. Tình yêu như vậy là hướng về sự sinh tồn. Chỉ có Thiên Chúa mới ban cho tình yêu muôn loài được sinh tồn. Do đó phải hướng về Thiên Chúa thì mới được sinh tồn. Nhưng Thiên Chúa cho con người có tự do, nên con người lạm dụng tình yêu về những đối tượng bất chính.
Để phân biệt rõ rệt đâu là tình yêu của Thiên Chúa, đâu là tình yêu bất chính, lời Chúa hôm nay đã nêu ra hai tiêu chuẩn:
Tiêu chuẩn thứ nhất: Tình yêu bởi Thiên Chúa là tình yêu hiệp thông và thăng tiến những đối tượng không mấy hấp dẫn như những kẻ bé mọn và tội lỗi.
Bài đọc I nói Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn, thánh hiến và gắn bó với một dân tộc thiểu số, một dân nô lệ.
Bài đọc II cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vì chúng ta tội lỗi.
Trong bài Tin mừng Chúa Giêsu đã “cảm tạ Cha là Chúa tể trời đất” lại yêu thương mặc khải cho những kẻ bé mọn”. Chúa Giêsu dù là Con Chúa Cha và đã được Chúa Cha ban toàn quyền trên mọi sự, lại đánh bạn với những kẻ lao động vất vả, những phu khuân vác cực khổ, những người gồng gánh, bán rong nặng nề. Người kêu gọi họ đến hiệp thông với Người trong tình nghĩa êm ái, dịu dàng, trong trái tim hiền lành và khiêm nhu của Người.
Tiêu chuẩn thứ hai: Tình yêu bởi Thiên Chúa là tình yêu hy sinh cứu độ. Hy sinh của Thiên Chúa là giữ lời giao ước, lời tuyên thệ trung tín và tín nghĩa với một dân thiểu số. Thiên Chúa đã hy sinh hạ mình xuống ngang hàng với kẻ nhỏ bé nô lệ để thề ước với họ, phải hy sinh giữ tín trung với hạng người hay phản bội, phải ra tay làm việc nghĩa cứu họ khỏi tiêu diệt. Thiên Chúa phải hy sinh mặc khải cho kẻ bé mọn. Những kẻ khôn ngoan thông thái còn mù tịt về Thiên Chúa, thì làm sao những kẻ hèn mọn, dốt nát, ngu độn hiểu biết được Thiên Chúa cao siêu, huyền diệu? Thật là một công trình khó khăn như múc nước đại dương đổ vào lỗ cáy. Thế mà Thiên Chúa vẫn nhẫn nại chịu đựng làm một việc khó khăn đó.
Tình yêu hy sinh cứu độ của Thiên Chúa vô cùng lớn lao hơn nữa là đã sai Con Một đến nâng đỡ kẻ gánh vác nặng nề, bổ sức cho kẻ lao đao vất vả, làm cho cuộc đời họ trở nên êm ái, nhẹ nhàng. Tột đỉnh của tình yêu hy sinh đó là: “Con của Người đã hy sinh chịu chết làm của lễ đền tội vì tội lỗi của chúng ta”. (Ga. 4, 10).
Suy gẫm tình yêu tuyệt vời đó, thánh Phaolô đã đưa ra một so sánh cụ thể cho ta thấy rõ Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may mới có kẻ chết vì một người lương thiện. Không có ai chết cho kẻ tội lỗi, thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, là những kẻ tội lỗi” (Rm. 5, 7-8).
Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa mới có thể hy sinh cùng cực như vậy. Những thứ tình yêu khác chỉ bắt nguồn từ:
Tình dục:
“Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên vắng ngắt như Chùa Bà Đanh”
“Còn duyên anh cưới ba heo
Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi”
Từ tiền bạc, danh vọng:
“Thế gian chuộng của, chuộng công
Nào ai có chuộng người không bao giờ”
“Có ăn thiếp ở cùng chàng
Không ăn thiếp tếch, cơ hàn thiếp lui”
“Còn tiền kẻ rước người đưa
Hết tiền chẳng thấy một người nào ưa”
Đó là những thứ tình yêu bất chính, bất chính với Thiên Chúa và bất chính với cả con tim của họ.
Ai cũng cho rằng: trái tim chân chính là nơi phát xuất tình yêu, một thứ tình yêu hiệp thông và rung cảm, một thứ tình yêu hy sinh giải thoát sự chết.
Nhiệm vụ của con tim là phân phát dòng máu đỏ, dòng máu sống đi khắp cơ thể, cho tới kẽ tóc chân tơ, tới nơi bé nhỏ nhất trong cơ thể, con tim còn như cây đàn rung lên bảy nốt nhạc: Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, cụ tạo nên những âm thanh thông cảm với lòng người trong những khi gặp vui buồn, sướng khổ, giận hờn, yêu ghét, lo sợ, hồi hộp. Đó không phải là thứ tình yêu hiệp thông sự sống, chia sẻ tâm tình làm cho cuộc sống trở nên êm ái nhẹ nhàng đó sao?
Con tim còn là nơi thu hồi dòng máu đen, dòng máu lạnh của sự chết để cứu mọi chi thể khỏi chết đó sao?
Con tim xứng đáng là một hình ảnh của Đấng Cứu độ yêu thương để ban phát sự sống, hy sinh để lãnh lấy sự chết.
Lạy Chúa là nguồn yêu thương vô tận, Chúa đã tác tạo nên những trái tim nhỏ bé đang yêu thương chúng con, đã ban Thánh tâm Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu đến yêu thương chúng con hơn chính mạng sống của Người, xin cho mỗi người chúng con biết yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng con. Đó là hạnh phúc lớn nhất của chúng con mà văn hào Shakespeare đã cảm nghiệm rằng: “Yêu và được yêu là niềm hạnh phúc nhất trên đời”. “To love and to be loved is the happiest thing in the world”.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm VIKINI)
SUY NIỆM 17: Ðỉnh cao của tình yêu thương – Lm Trần Ngà
Một người mẹ bị chứng đau tim nặng và bác sĩ khuyến cáo rằng nếu bà không được giải phẩu thay tim ngay thì ngày sống còn lại của bà chỉ được đếm trên mấy đầu ngón tay. Thế rồi người ta đề nghị một trong các con của bà hiến tim cho mẹ để cứu lấy sinh mạng của bà.
Khi người anh cả được mời gọi hiến tim cho mẹ, thì dù rất thương mẹ, anh ta cũng lắc đầu từ chối với lý do: anh là con trai trưởng, là rường cột của gia đình, anh cần sống để chăm sóc đàn em, để trông coi nhà từ đường, để nối dõi tông đường, vân vân. Anh đề nghị đứa em gái nên hiến tim cho mẹ thì hợp lý hơn, vì theo anh nghĩ: tim người phụ nữ có lẽ thích hợp cho người phụ nữ hơn!
Ðứa em gái nghe vậy giẫy nẩy lên và quyết liệt từ chối với lý do cô là con gái duy nhất trong nhà và gia đình nào cũng cần có bàn tay người phụ nữ trông nom sắp xếp mới gọn gàng trật tự. Thiếu cô thì lấy ai đi chợ nấu ăn; thiếu cô thì lấy ai quét dọn nhà cửa, giặt giũ áo quần cũng như đảm đang nhiều việc nội trợ rất quan trọng khác... Vậy cô cần phải sống. Có lẽ đứa em trai út vốn hay lêu lỏng chơi bời, là người vô tích sự, chịu hiến tim chết thay cho mẹ thì phải lẽ hơn...
Ðến lượt mình, đứa em nầy cũng viện lý do là nó mới chỉ mười sáu tuổi tròn, chưa hưởng đời được bao nhiêu, lẽ nào lại từ giã cuộc đời quá sớm! Anh Hai hoặc Chị Ba đã hưởng được nhiều vui thú trên đời hơn nó cả chục năm rồi, nếu có phải giã từ đời nầy trước đứa em út, thì cũng không có gì để ân hận... Thôi, Anh Hai hoặc Chị Ba vui lòng hiến tim cho mẹ thì phải lẽ hơn.
Thế là, dù yêu thương mẹ vô vàn, nhưng không người con nào yêu đến nỗi dám hiến tặng trái tim cho người mẹ yêu quý của mình.
Thế nhưng có một Ðấng vô cùng cao cả và đầy quyền năng, không những đã hiến ban Trái Tim mà còn toàn cả thân xác và mạng sống của Người để cứu độ chúng ta. Ðó là Ngôi Hai Thiên Chúa. Người đã hạ mình xuống thế, mang lấy tội lỗi chúng ta và chết thay cho chúng ta.
“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (I Phêrô 2, 24)
Trước mặt Thiên Chúa toàn năng tốt lành cao cả thì loài người chúng ta chỉ là sâu bọ, chỉ là cỏ rác, cát bụi thấp hèn, thế mà Chúa Giêsu, là Chúa Tể càn khôn, là Vua của muôn vua, là Ðấng quyền năng và vô cùng cao cả đã vui lòng hiến ban thân xác và mạng sống cho loài người thấp hèn tội lỗi chúng ta.
Thật là điều nhiệm mầu của tình yêu mà trí khôn loài người không hiểu thấu được.
* * *
Trên thập giá, Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta không những Trái Tim bị đâm thủng mà còn cả sinh mạng của Người với trọn vẹn tình yêu và lòng tha thứ vô biên.
Từ đó, Thập giá Chúa Giêsu trở thành biểu tượng cao nhất của tình yêu.
Nơi đây vang lên sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Gioan 3, 16)
Nơi đây cũng vọng lên sứ điệp yêu thương của Chúa Con: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho bạn hữu mình.” (Gioan 15, 13)
Yêu thương đến nỗi hiến thân chịu chết cho người khác quả là một tình yêu hết sức cao vời và đó là tột đỉnh của tình yêu.
* * *
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta không tôn thờ hình ảnh trái tim rỉ máu của Chúa Giêsu nhưng tôn thờ Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa mà Thánh Tâm là biểu tượng.
Xin Thánh Tâm Chúa Giêsu dạy chúng ta bài học yêu thương cơ bản: yêu thương không phải là chiếm đoạt nhưng là trao ban.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một mình.” (Gioan 3, 16)
“Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho người mình yêu.” (Gioan 15, 13)
SUY NIỆM 18: TÌNH YÊU LINH THÁNH - Lm. GB Trần văn Hào
“Hãy học cùng ta, vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,29b)
Từ nguyên thủy, trước khi có thời gian và thế giới tạo thành, Thiên Chúa đã hiện hữu, và duy nhất chỉ có mình Ngài. Tình yêu Thiên Chúa cũng đã có từ đời đời, ngày hôm nay và cho đến mãi mãi, và cũng chỉ duy có tình yêu của Ngài hiện hữu mà thôi. Chúng ta là tạo vật, là người thụ lãnh và truyền tải tình yêu Chúa cho tha nhân. Nhưng chúng ta chỉ có thể thông truyền, bao lâu chúng ta biết đón nhận tình yêu đến từ Thiên Chúa. Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa đã sai Con một Ngài đến trần gian. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14). Đức Giêsu chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Chỉ nhờ Người, và trong Người, chúng ta mới có thể đáp trả tình yêu linh thánh ấy.
Đức Giêsu là con Thiên Chúa, là ngôi vị thần linh trong Ba Ngôi. Đồng thời, Ngài đã mang thân phận con người, sinh ra làm con Đức Maria, sống kiếp người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài chính là ‘Lời’ mà Thiên Chúa ngỏ trao cho chúng ta. Ngài nói như một Thiên Chúa quyền năng, nhưng lại sử dụng ngôn ngữ của loài người. Ngài đã ngỏ lời bằng những ngôn từ giản đơn của những cư dân bình thường giống chúng ta. Ngài sử dụng những hình ảnh đời thường rất dung dị để diễn bày những chân lý cao siêu về mầu nhiệm nước trời. Từ những cánh chim trên bầu trời cao xanh, những bông hoa ngoài đồng nội, những hạt giống được gieo vãi, những cây nho xum xuê trĩu quả.. Khi muốn truyền đạt những sứ điệp quan trọng cho các học trò và đám đông, Ngài vay mươn những hình ảnh rất mộc mạc và bình dân, ví dụ: “Anh em là muối ướp mặn cho đời, anh em là đèn sáng đặt trên đế cao…” Đặc biệt, khi muốn khải thị về mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, Ngài dùng hình tượng một trái tim nhân loại như một hình mẫu. Ngài nói: “Hãy học nơi ta, vì ta có một con tim hiền dịu và khiêm hạ. Anh em sẽ tìm được sự nghỉ ngơi và an bình”.
Những người đương thời của Đức Giêsu hiểu được những gì Ngài nói, đặc biệt nơi hình ảnh một trái tim yêu thương, một trái tim hiền dịu và khiêm tốn. Đó là một con tim nhân loại đã từng rung động trước cái chết của một thanh niên, con trai bà góa thành Naim, đã từng thổn thức và rơi lệ trước ngôi mộ của một người bạn thân, nhưng đồng thời cũng là một trái tim mang chở cả một bầu trời yêu thương cho đến vô tận. Hiểu được điều ấy, những chàng ngư phủ Galilê cho dù dốt nát và quê mùa nhưng đã dám bỏ lại tất cả, thuyền và lưới, cha mẹ và vợ con, để đi theo chúa. Các tiến sĩ luật thông thái đã ngồi lặng yên chăm chú để lắng nghe. Ngay cả một anh thu thuế oai vệ trước một núi tiền, đã dám quẳng lại tất cả để bước theo Ngài. Đám đông sau khi lắng nghe Ngài giảng đã quên đi tất cả mệt nhọc, gác lại những cơn đói cồn cào ruột gan, và bù lại, Đức Giêsu đã hóa bánh và cá ra nhiều để cho họ ăn. Những người đau yếu cố sức chen lấn để được sờ chạm đến Ngài, bởi vì tất cả những ai đến với Ngài đều có thể trải nghiệm sự bình an trong tâm hồn.
Ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta rất cần phải hướng về tình yêu cao cả và tuyệt vời ấy. Chúng ta đang sống trong một thế giới quá ồn ào, ồn ào vì những thông tin hổ lốn tràn ngập trên mạng của thời đại kỹ thuật số, ồn ào vì quá nhiều những tiếng động ầm ĩ của giết chóc và bạo lực, và nhất là ồn ào vì những tiếng xào xạc của tiền bạc kéo lôi con người vào một lối sống ích kỷ và hưởng thụ. Chúng ta cần sự tĩnh lặng và nghỉ ngơi. “Hãy học với Ta, vì Ta có một con tim hiền dịu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi an bình.” Trái tim Đức Giêsu chính là chân trời rộng mở của tình yêu, một tình yêu sâu xa và cao cả nhất mà Thiên Chúa đã hiến trao cho nhân loại.
Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo như nhiều người vẫn nghĩ tưởng. Ngài cũng không đến nhằm quảng bá một học thuyết hay cổ súy một chủ nghĩa. Ngài đến chỉ với một mục đích và một sứ mạng duy nhất mà Chúa Cha đã trao phó, đó là công bố cho nhân loại một Tin mừng : Thiên Chúa yêu thương loài người chúng ta. Cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá là cách diễn bày tình yêu Thiên Chúa một cách tròn đầy và hoàn hảo nhất. Trong cuộc sống tại thế, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, có tên gọi là ‘Mái trường tình yêu’. Ngài đã quy tập những người học trò để truyền thụ một môn học duy nhất, cũng chính là môn học về tình yêu. Ngài nhắc đi nhắc lại “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em. Cứ dấu này mọi người nhận biết anh em là môn sinh của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu ấy được phác vẽ nơi Trái tim của Ngài, một trái tim bị đâm thâu trên Thập giá, tuôn chảy cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng để trao ban đến vô tận. Trong bữa tiệc ly, môn đệ Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa để lắng nghe từng nhịp đập nơi trái tim yêu thương của vị tôn sư khả kính. Cũng dưới chân Thập giá khi đứng bên Đức Maria, Gioan đã chứng kiến trái tim Chúa mở toang khi bị người lính đâm thủng, để ông có thể chiêm ngắm một dòng suối yêu thương tuôn chảy cho đến bất tận. Vì thế, trong sách Tin Mừng thứ tư và trong cả ba lá thơ Gioan để lại, hầu như Ngài chỉ nói về một chủ đề duy nhất : Tình yêu.
Thiên Chúa yêu thương từng mỗi con người chúng ta không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay yêu thương của cha nó ôm đón khi trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình lặng ngồi bên chân Chúa để được Ngài đưa dẫn vào thế giới ngập tràn yêu thương. Thậm chí một tên cướp khét tiếng với quá khứ đan kín tội ác, vẫn có thể là một vị đại thánh, được Đức Giêsu mở cửa Thiên đàng trực tiếp đưa đón vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc con người.
Con người ngày hôm nay dễ bị chết vì đột quỵ gây nên bởi suy tim. Con tim bị suy yếu do căng thẳng, do sợ hãi, do chán chường hay tuyệt vọng. Nơi mỗi người chúng ta đều có một quả tim dễ mang những mầm bệnh chết người này. Đây là những căn bệnh thể lý, nhưng có những căn bệnh của tâm hồn còn nguy hiểm hơn rất nhiều. Nếu chúng ta sống với một trái tim bế tắc trong cô đơn hay tuyệt vọng, nếu chúng ta mang chở nơi mình một trái tim nhét đầy dao găm và lưu đạn của oán thù, một trái tim rỗng tuếch sự cảm thương nhưng lại nhét đầy tiền bạc của tham lam và ích kỷ, chúng ta sẽ chết với một quả tim như thế. Chúng ta sẽ ngã xuống không phải vì heart-attack, vì đột quỵ hay suy tim, nhưng sẽ chết trong vũng bùn nhớp nhúa của tội lỗi.
Để tinh luyện con tim mình, chúng ta hãy nhìn lên Thập giá Đức Giêsu, chiêm ngắm trái tim của Đấng bị đâm thâu để học nơi Ngài bài học căn bản nhất như Ngài đã nói : “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có một trái tim hiền dịu và khiêm hạ”. Chúng ta phải học, học mãi, và ngồi học nơi ngôi trường này, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp.
SUY NIỆM 19: CHÚA LÀ TÌNH YÊU - Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh tâm Chúa Giêsu. Mừng lễ Thánh Tâm là chúng ta nhớ đến Tình Yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu.
I. THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU.
Tình yêu của Thiên Chúa vô tượng vô hình vô thanh vô sú. Tình yêu không có hình tượng, chẳng có hình dáng, không có âm thanh, cũng chẳng có mùi vị nhưng Tình yêu là cái gì rất thật.
Trong Thánh kinh chúng ta thấy có rất nhiều nơi nói về lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta: Cựu ước cũng trong Tân ước.
* Trong sách Ôsê, Thiên Chúa tự ví mình như một người mẹ âu yếm con cái. Chăm sóc con, bồng con, bồng con trên tay, ấp ủ trong lòng. Tập cho con đi. Đút cơm cho con ăn. Đó là những cử chỉ quen thuộc của một người mẹ.
Thiên Chúa là một người cha, nhưng lại có tấm lòng của một người mẹ. Và lòng Ngài còn mênh mông hơn lòng một người mẹ. Ngài nói: “Dẫu người mẹ có quên con mình thì Ta cũng sẽ chẳng bao giờ quên các con. Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thếá đó.
* Thánh Phaolô trong thư Êphêsô xin Thiên Chúa mở lòng trí ta, giúp ta hiểu được phần nào tình yêu mênh mông vô tận của Chúa Kitô. Tình yêu đó vượt quá trí hiểu của chúng ta: nó vừa rộng vừa dài, vừa cao vừa sâu. Xin cho chúng ta hiểu để chúng ta được no thỏa và được tràn đầy sự viên mãn của Thiên Chúa.
* Và trong Tin Mừng của Gioan chúng ta thấy tình yêu thương đã được cụ thể một cách rõ rệt hơn cả bằng cái chết đau thương của Chúa Giêsu trên Thập giá. Sau khi chết, trái tim Chúa bị còn bị một lưỡi đòng đâm thâu qua. Từ đó nước và máu đã chảy ra cho tới giọt cuối cùng.
Trái tim đó bị đâm nát, đổ đến giọt máu cuối cùng có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương trọn vẹn, có thể thương bao nhiêu thì thương bấy nhiêu, cho đi tất cả, hiến dâng tất cả, không giữ gì lại cho mình.
Quả thật Thiên Chúa đã yêu thương ta như vậy nên dầu chúng ta có như thế nào đi nữa chúng ta cũng vẫn có một chỗ an nghỉ trong trái tim của Chúa. Chúng luôn được Thiên Chúa yêu thương tối đa. Và cái tối đa của Thiên Chúa thì thật vô cùng vô tận.
II. NHƯNG TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA LÀ TÌNH YÊU NHƯ THẾ NÀO?
* Thánh Phaolô khẳng định tình thương của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết của con người. Tình yêu giữa người với người còn không thế hiểu nổi huống chi tình yêu của Thiên Chúa. Phải cảm nghiệm trước đã mới có thể hiểu được phần nào.
* Còn theo Thánh Gioan thì cái không thế hiểu nổi nơi Thiên Chúa là vì Ngài yêu thương đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho trần gian. Còn gì quý hơn Con Một Ngài, thế mà lại ban cho thế giới. Và khi ban Con Một, Ngài ban cho ta tất cả những gì có thể ban được. Mọi hồng ân của Thiên Chúa đều được thâu gồm trong Chúa Giêsu. Được Chúa Giêsu là được tất cả.
* Để thực hiện ý định yêu thương của Chúa Cha, Người Con Một ấy đã hiến thân làm lễ vật thay cho chúng ta. Đó là tình yêu hiến dâng và cứu chuộc. Một tình yêu đi tới cùng, không nửa vời. Ỳinh yêu chấp nhận mọi hậu quả. Đã yêu thương như vậy thì giá nào cũng sẵn lòng trả. Trong Kinh cầu trái tim Chúa Giêsu có một câu có vẻ mộc mạc nhưng lại rất sâu sắc: “Trái tim Chúa Giêsu tan nát vì tội lỗi chúng tôi”. Đó là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả trên Thập giá vì quá yêu thương.
Thực ra chỉ có Thiên Chúa mới có thể yêu thương tới mức độ như thế. Còn loài người chúng ta dầu có thề thốt gì với nhau đi chăng nữa cũng rất mong manh, chứa đầy bất trắc. Hoặc do lòng người thay đổi, hoặc hoàn cảnh bên ngoài cản ngăn. Tình yêu của loài người dầu mãnh liệt khiến sông sâu cũng lội, núi cao cũng trèo, vẫn tương đối, có giới hạn, nhiều kẽ hở, lắm rủi ro, có lúc yếu đuối. Biết bao tình yêu tưởng chừng thách thức thời gian, nhưng lại bị thời gian làm sói mòn, phai nhạt, rồi đi tới tan vỡ. Một nhà văn đã nhận định một cách chua cay: tình yêu cứ nhạt dần, rồi vữa ra, chua như mồ hôi.
Cuối cùng chỉ còn có tình Thiên Chúa yêu thương ta. Tình thương của Ngài chỉ có đầy mà không có vơi và lúc nào cũng đầy.
III. KHI YÊU TA NHƯ VẬY CHÚA MUỐN GÌ NƠI TA?
Theo lời thánh Augustinô:
“Tình yêu kêu gọi tình yêu,
Tình thương Chúa kêu gọi tình yêu của loài người”
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 13,34)
Vâng phải tập cho mình biết yêu như Chúa. Chúa yêu như thế nào chúng ta hãy biết bắt chước yêu như vậy.
Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có một tỳ vết hay rạn nứt nào. Đám đông người hiếu kỳ đều đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ chưa từng thấy.
Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: “Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim của tôi !”.
Chàng trai cùng đám đông ngám nhìn trái tim của cụ già. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần trái tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào, nhưng không vừa khít, nên tạo ra một bề ngoài sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám vào để thay thế.
Chàng trai cười nói: “Chắc cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt”
Cụ già mới từ tốn nói: “Mọi vết sẹo trong trái tim tôi tượng trưng cho mỗi người mà tôi yêu. Người đó không chỉ là những cô gái, mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè . . . tôi xé một mẩu tim trao cho họ, thường thì họ cũng xé trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra của tôi. Thế nhưng những mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu của tôi trao cho các ngài, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi, chúng không bằng nhau nên chúng tạo ra những sần sùi nhưng tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hy vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ để lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi.
Nghe thế, chàng trai đứng lặng yên không nói lên một lời nào. Những giọt nước mắt chảy ra lăn trên má lúc nào mà anh cũng chẳng hay. Đột nhiên anh từ từ bước tới và xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho bà cụ: Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầy vết tích của cụ và trao cho chàng trai. Khi ráp lại thì chúng vừa với nhau, nhưng lại không hoàn toàn ăn khớp nhau, cho nên trên trái tim chàng trai xuất hiện một đường lởm chởm. Giờ đây trái tim của anh không còn hoàn hảo nữa nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết, vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh.
Vâng mỗi người chúng ta hãy để cho trái tim của Chúa chảy qua trái tim của chúng ta để biến trái tim của chúng ta trở nên giống trái tim của Người. Chỉ có con đường đó chúng ta mới có thể có được một tình yêu như Chúa.
Lạy Chúa xin cho con một trái tim biết mở rộng để thay vì chỉ đóng khung trong quan điểm của mình, con biết đón nhận những khuyết điểm nơi người khác, những anh em của con.
Xin hãy cung cấp máu cho con tim của chúng con để chúng con biết sống hy sinh quên mình mà không tính toán hơn thiệt.
Xin hãy cùng cảm xúc theo nhịp đập với trái tim của chúng con để chúng con biết “vui với người vui, khóc với người khóc”
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa khắp mọi nẻo đường chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng một cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa.
SUY NIỆM 20: TÌNH YÊU CỰC THÁNH - P. Trần Đình Phan Tiến
Vâng thưa quý vị, thưa các ban, đứng sau Thánh Thể là Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn mạch tình yêu bởi Thiên Chúa. Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. như chúng ta biết tình yêu là trạng thái siêu nhiên, vì không ai nắm bắt được tình yêu, nếu có biểu lộ tình yêu, hoặc trao ban tình yêu, cũng chỉ được bày tỏ qua cử chỉ, thái độ, hành động, biều tượng, chứ không ai có thể lấy tình yêu “ bỏ vào túi áo”, hay bỏ vào bàn tay. Vì vậy, tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại được cụ thể hóa, được trở nên hữu hình, được chứng kiến bằng xương bằng thịt qua Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô, qua cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ, và qua chính một biểu tượng hữu hình của Người là Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Nói đến “chữ Tâm” là nói đến tình yêu, như vậy, “Thánh Tâm” có nghĩa là tình yêu của Thiên Chúa. Vậy Thánh Tâm Chúa Giêsu không phải là tình yêu của riêng Chúa dành cho nhân thế, mà là tình yêu hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa trong Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng hữu hình một “ Trái Tim”.
Vâng, hình ảnh “Trái Tim” là biểu tượng của tình yêu, điều nầy quá quen thuộc, không ai mà không biết. Chức năng của trái tim là cơ quan ở giữa, khi nói đến “tâm” phải nhất định là ở giữa, như là tâm điểm. Người ta nói :” Vòng tròn có một cái tâm”, vâng, vì “cái tâm” ở giữa vòng tròn. Như vậy, cái tâm thật quan trọng, người ta muốn định vị hình tròn thì người ta phải tìm cái tâm của nó.
Vâng, một chút vòng vo để hiểu về “chữ tâm”, đại thi hào Nguyễn Du cũng đã nhận ra tầm quan trọng của “chữ tâm”. Cụ nói :” Chữ tâm bằng ba chữ tài”, tức là con người có lương tâm mới đáng quý hơn người có tài năng . Rõ ràng, nếu có “tài” mà không có ” tâm” rõ ràng là một tên cướp, còn có “tâm” dù chưa có “tài”, thì cũng được là một ông sư ( thầy tu). Nói vậy, không phải khinh thường tài năng, mà là so sánh giữa “tài “ và ”đức ”. Nếu có tâm, thì sẽ có đức, còn nếu có tài thì sẽ “tự cao”. Như vậy, “tài” và “ đức” phải song hành.
Trong xã hội, mọi ngành nghề, mọi công việc đều được phục vụ bằng “cái tâm”, thì xã hội ấy mới có “phúc”. Ví dụ: một người thẩm phán không có “ tâm”, chắc chắn sẽ có một bản án bất công. Một bản án bất công sẽ dẫn đến một cuộc đời bất hạnh, một cuộc đời bất hạnh là một nỗi đau cho xã hội, chứ không riêng cho người bất hạnh đó. Một xã hội có nhiều nỗi đau là một xã hội bại hoại, một xã hội không lành mạnh tất sẽ mất nước, dân lành oán thán. Ngoại bang xâm chiếm, đất nước bị nô lệ ngoại bang, như vậy, thật đáng sợ, theo đó, “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” là như vậy.
Theo đó, chữ “TÂM” trong xã hội là một nền tảng luân lý, đạo đức tối quan trọng.Vì thế, tất cả các tôn giáo trong xã hội luôn luôn đề cao chữ “ TÂM “. Chẳng hạn như Đạo Phật , họ cũng đề cao “chữ Tâm”, vì tâm không có thì làm sao “tu”. Vì, “Tu” thì giống như một cái vòng tròn, muốn cho tròn thì phải có tâm điểm, nếu không có tâm điểm thì làm sao định nghĩa được “đời tu” là cái vòng tròn. Vì rõ ràng, ai cũng biết “tu” là “sửa”, sửa lại cho đúng như thuở ban đầu, nhờ vào cái “tâm” thì ta mới sửa được đời tu là cái “vòng tròn”. Vì, tu là “ tâm”, cái tâm phải ở trong con người, vì vậy, người ta gọi là ”nhân tâm”, còn tài năng, thì phải do thực hành,mới có được, vì sự giỏi giang , thì gọi là “ nhân tài”.
Vâng, đó là “ chữ tâm “ trong đời sống con người thật quan trọng và cần thiết biết bao!
Theo đó, “cái tâm” trong đạo càng cao hơn, nhưng phải có người hướng dẫn, đó là :“ĐẠO“. Vâng, Đạo là con đường hướng đến điều trọn hảo, để “cái tâm” của nhân thế quay đúng tâm điểm của nó. Muốn vậy, “cái tâm” của người hướng dẫn phải cao cả , vĩ đại biết là dường nào, đó là ”TRÁI TIM” của Đức Kitô. Như vậy, Đức Kitô – Giêsu là Thiên Chúa, vì vậy, được gọi là “THÁNH TÂM”.
Vâng, Thánh Tâm là Trái Tim cực Thánh của Chúa Giêsu, đó là ý nghĩa thứ nhất, nhưng căn cứ vào Lời Chúa Giêsu hôm nay ( Mt 11, 25) :” Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói : Lạy Cha là Chúa tể Trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng , lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha “. ( c 25 -26), chúng ta cũng có thể hiểu “Thánh Tâm” là “Con Người” có Trái Tim của Thiên Chúa. vâng, một trái tim tốt lành, thánh thiện, thì được gọi là “Thánh Tâm”. Vậy, bất cứ ai, được Chúa Cha mặc khải cho biết những điều cao siêu từ trời và thực thi, thì người ấy có Trái Tim của Thiên Chúa. Vì , Thiên Chúa là Đấng siêu nhiên, vì vậy, không ai có thể nhìn thấy “Trái Tim” hữu hình của Thiên Chúa được. vì vậy, chỉ có Chúa Giêsu mới biểu lộ “Thánh Tâm” hữu hình của Người cho nhân thế.
Vậy, điều mà Chúa Cha mặc khải là cho những kẻ bé mọn chính là “Trái Tim “ của Thiên Chúa qua sự hữu hình của Chúa Giêsu. Từ đó, tất cả những ai có “Trái Tim” của Thiên Chúa qua nghĩa cử và hành động như Chúa Giêsu, thì người ấy cũng có một “Thánh Tâm”, nghĩa là “Trái Tim” của Thiên Chúa. Đó chính là những vị thánh, vì Chúa Giêsu khi biểu lộ Thánh Tâm của Người cho thánh nữ Magaritta vào thế kỷ 16 đã nói :“ Nầy là Trái Tim đã yêu dấu loài người quá bội, đến nỗi chẳng tiếc sự gì cùng nó”.
Vâng, để hiểu rõ hơn ý trên, chúng ta suy niệm tiếp câu 27: “Cha Ta đã giao phó mọi sự cho Ta. Và không ai biết rõ Người Con trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ Người Con, và những kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho”.
Như vậy, rõ ràng, dù Thánh Ý Chúa Cha muốn mặc khải cho những kẻ bé mọn biết những điều sâu kín, nhưng tất cả mọi điều mặc khải ấy, đều bày tỏ qua Chúa Giêsu, vì mọi điều mặc khải không có điều mặc khải nào lớn hơn chính “Người Con “, là Chúa Giêsu. Như vậy, ai nhận biết và tin vào Chúa Giêsu ,chính là điều được mặc khải của Chúa Cha.
Điều nầy có ý nghĩa với Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu như thế nào? Thưa, chính là mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Người. Vì, Chúa Cha đã mặc khải chính tình yêu của Người qua Đức Kitô, chính tình yêu ấy được mặc khải qua biểu tượng hữu hình là ”Trái Tim” của Chúa Giêsu.
Trái Tim ấy luôn yêu thương loài người hết sức, hết lòng, đến nỗi chẳng tiếc sự gì cùng nó.
Vậy, Đạo công giáo là một mầu nhiệm yêu thương từ siêu nhiên, từ Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu thương ấy qua biểu tượng hữu hình của Chúa Giêsu là THÁNH TÂM của Người . Theo đó, không thể có bất cứ thế lực chính trị nào đứng trên tình yêu thương của Thiên Chúa được.
Qua bài chia sẻ hôm nay, con xin quý vị góp lời cầu nguyện cho linh hồn cha cố Giuse Đinh Quang Thịnh, theo con, cha GIuse như một mẫu gương của Thánh Tâm Chúa Giêsu, hay ít ra cha cố cũng có lòng ước ao nên giống Thánh Tâm Chúa.
Kính lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đấng nhân từ và dịu dàng, xin hãy uốn lòng chúng con nên như Rất Thánh Trái Tim Chúa, để chúng con trở nên “lò lửa“ hằng hừng lên sự kính mến Chúa, cùng Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần./. Amen.
SUY NIỆM 21: LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU - Lm. Antôn Phạm Văn Tịnh
Nói về Thánh Tâm Chúa Giêsu là nói về Tình Yêu của Chúa Giêsu, Tình Yêu của Thiên Chúa, một tình yêu được thể hiện qua việc Thiên Chúa tuyển chọn dân, quyến luyến dân, không phải do ta tốt, ta hay, “không phải do anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân” {bđ1}, Thiên Chúa thương dân, thương anh em chỉ vì Ngài là Thiên Chúa {bđ2} “Thiên Chúa là tình yêu, ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. Lẽ ra khi nói “Thiên Chúa yêu thương chúng ta, chúng ta phải yêu Thiên Chúa”, đàng này Sách Thánh lại nói “Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, chúng ta phải yêu thương nhau”. Thiên Chúa coi việc chúng ta yêu thương nhau là thước đo việc chúng ta yêu Thiên Chúa. Trong 1Ga 4, 20 nói “nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”.
Hơn bao giờ hết, ngày nay chữ “Tình yêu” bị lạm dụng rất nhiều, người ta nói nhiều về tình yêu, chúng ta nói nhiều về tình yêu, nại vào tình yêu để giết nhau, để bớt người, bớt con cái, để loại trừ người không cùng phe, không cùng nhóm; bởi vì tình yêu của chúng ta chỉ là sự yêu mình: “tôi trên hết”, “tôi trước hết”, còn Thiên Chúa lại nói: Thiên Chúa trên hết, “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”.
Tình yêu như vậy, thế gian đã không hiểu, cũng chẳng muốn hiểu mà chỉ có những ai được Thiên Chúa tỏ ra, những ai khiêm tốn đón nhận mới hiểu, mới thấy nhẹ nhàng, êm ái. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh: “khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, vì một con người đã sinh ra trong thế gian” {Ga 16,21}.
Chính Tình yêu: tình yêu Thiên Chúa, tình yêu thương nhau, đã làm cho những gánh vất vả, những ách nặng nề lại trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin Chúa ban cho chúng con ơn huệ hiểu biết mầu nhiệm nước Trời, xin Chúa ban cho chúng con chính Chúa.
SUY NIỆM 22: LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU. NĂM A - Lm. Anthony Trung Thành
Một câu chuyện tình có thật đã được dựng thành phim và được chiếu trên đài truyền hình Pháp năm 1996, câu chuyện có nội dung như sau:
Có một chàng trai tên là Antôn người Phi châu, mồ côi mẹ, sống với cha trên đất Pháp. Không giấy tờ cũng chẳng có việc làm, nơi ở chỉ là một góc tối trên căn gác chật hẹp. Điều trớ trêu là Antôn lại yêu Valery, một cô gái người pháp thuộc gia đình giàu có, nặng óc kỳ thị. Tình yêu của hai người rất bấp bênh vì màu da chủng tộc. Nhiều lần cha mẹ của Valery đã đến nói rõ với cha của Antôn rằng, họ không bao giờ để cho con gái của họ sống chung với người da đen.
Đau khổ và tuyệt vọng, hai người đành quyết định đi tìm khung trời riêng cho chính họ. Thế là cô gái lấy cắp tiền của cha mẹ và lên đường đi xa, nhưng họ đã bị cảnh sát bắt ngay trong chính đêm họ muốn trốn đi. Quá xúc động bởi nhiều biến cố dồn dập, Valery bị nhồi máu cơ tim phải vào bệnh viện. Gia đình cô lợi dụng cơ hội này để cắt đứt mối liên lạc giữa hai người, và để ngăn ngừa hậu hoạ, cha mẹ Valery đã báo cho cảnh sát biết về tình trạng cư trú bất hợp pháp của hai cha con Antôn, nhưng cảnh sát đã không bắt được Antôn, vì hôm ấy chàng trai thất tình còn mãi lang thang ngoài đường phố. Nhiều tuần lễ sau, các bác sĩ cho biết Valery phải được thay tim mới có hy vọng sống còn. Tình cờ biết được tin này, Antôn đã ghé thăm người yêu đang đau nặng.
Trở về căn nhà của anh, vắng bóng cha chàng trai đau khổ khóc suốt đêm cho đến khi cảnh sát ập đến để bắt chàng, họ thấy chàng mê man bất tỉnh, thay vì đưa chàng vào nhà tù, họ đã chở chàng đến bệnh viện và chỉ vài tiếng sau Antôn tắt thở, trong túi áo của chàng người ta chỉ tìm thấy vỏn vẹn một tờ di chúc với dòng chữ: “Xin được trao tặng trái tim này cho Valery, người yêu của tôi” và Valery đã được cứu sống nhờ trái tim của người tình da đen bất hạnh và đau khổ ấy (nguồn: Internet).
Tình yêu của Antôn dành cho Valery trong câu chuyện trên đây phần nào phản ánh tình yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta mừng lễ trọng thể Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch của tình yêu. Tình yêu của Ngài được khởi đi từ việc vâng lời Đức Chúa Cha để sinh xuống làm người, sống cuộc đời ẩn dật đơn hèn ở Nazareth trong suốt 30 năm. Sau thời gian sống ẩn dật đó, Ngài bắt đầu ra đi thi thố tình yêu của mình cho nhân loại. Ngài rao truyền giáo huấn tình yêu của Ngài cho mọi người không phân biệt màu da chủng tộc. Ngài gặp gỡ hết mọi hạng người trong xã hội. Ai gặp được Ngài cũng được biến đổi, được chữa lành hay lãnh nhận một điều gì đó. Ngài hóa bánh ra nhiều cho dân chúng đang đói được ăn no nê. Ngài chữa lành người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã 12 năm. Ngài chữa lành người bất toại. Ngài chữa lành cho người bị câm, bị điếc, bị mù, bị què quặt…Người gặp gỡ và biến đổi những người tội lỗi như Lê-vi, Gia-kêu, Maria Madalena… Ngài tha thứ cho ông Phê-rô, kẻ trộm lành, ông Saolô…Vì yêu nhân loại nên Ngài đã lập các Bí tích, nhất là Bí tích Truyền chức và Bí tích Thánh Thể để ở lại cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Đúng như lời Thánh Gioan nói: “Ngài yêu thương họ cho đến cùng” (x. Ga 13,1), và chóp đỉnh của tình yêu đó là cái chết trên thập giá.
Khi cảm nghiệm được tình yêu của Thánh Tâm Đức Giêsu đối với nhân loại như thế, mỗi chúng ta được mời gọi đến với Ngài, nhất là những lúc gánh gồng của cuộc sống đè nặng, để múc lấy sức mạnh nơi suối nguồn yêu thương: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi trở nên chứng nhân tình yêu của Thánh Tâm Chúa trong thế giới hôm nay. Trong bài đọc II, Thánh Gioan Tông đồ đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-8). Chính Đức Giêsu cũng đã dạy: Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (x.Ga 15, 12). Để yêu thương, chúng ta hãy lấy lòng nhân từ biến đổi những người tội lỗi giúp họ trở về nẻo chính đường ngay. Để yêu thương chúng ta hãy tha thứ, làm ơn và cầu nguyện cho kẻ làm hại chúng ta. Để yêu thương, chúng ta hãy đóng góp phần mình để cứu chữa, hoặc làm giảm bớt những cơn đau của những người bệnh tật. Để yêu thương, chúng ta hãy sẵn sàng săn sóc và đóng góp công, của để cứu chữa những người gặp nạn như người Samaritanô nhân hậu.
Trong thực tế cuộc sống hôm nay, vẫn còn rất nhiều người sống thiếu yêu thương. Hằng ngày, chúng ta chứng kiến biết bao cảnh bạo lực xảy ra trong gia đình, nơi học đường, ngoài xã hội. Từ cảnh học sinh đánh nhau trước sự chứng kiến của bạn bè, thầy cô, đến cảnh vợ chồng “hạ cẳng tay, thượng cẳng chân” trước sự khóc lóc kêu la của con cái. Rồi, những cảnh bạo lực xảy ra nơi đường xá, chợ búa, thậm chí tại các cơ quan công quyền. Gần đây, theo dõi báo chí chúng ta biết, nhiều nạn nhân chết một cách đầy bí ẩn tại các trụ sở công an.
Bên cạnh đó, biết bao cảnh đời bất hạnh diễn ra hằng ngày trước mắt chúng ta: nghèo đói, bệnh tật, áp bức, tù tội, các nạn nhân của thảm họa môi trường, của bão lụt do thiên tai và nhân tai… Có thể người ta vẫn biết, vẫn thấy, vẫn nghe tiếng kêu gào đau đớn của họ. Nhưng người ta cứ làm ngơ, hoặc vì người ta bất lực, hoặc vì người ta sống vô cảm sợ liên lụy đến sự an toàn của bản thân. Như thế, người ta đang tiếp tay cho kẻ xấu, cấu kết và đồng lòng với họ như lời vua Napoleon I đã nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không chỉ vì tội ác của những kẻ xấu, mà còn là vì sự im lặng của những người tốt”. Vì vô cảm nên người ta vẫn chứng kiến cảnh đánh nhau nhưng không can ngăn. Vì vô cảm nên người ta vẫn thấy cảnh đói nghèo, bệnh tật nhưng không cứu giúp. Đó là hành động đi ngược lại với tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Xét mình lại, có lẽ nhiều lần chúng ta cũng đã trở thành những con người vô cảm như thế. Vì vậy, chúng ta hãy xin Thánh Tâm Chúa thứ tha và xin Ngài ban cho chúng ta một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương, biết thổn thức, biết rung động, biết đập với nhịp đập của Thánh Tâm Chúa.
Hôm nay cũng là ngày xin ơn thánh hóa các linh mục: Linh mục là hiện thân của Đức Kitô, là Alter Christus (Đức Kitô thứ hai hay Đức Kitô khác). Nên Linh mục phải có lòng thương xót như Đức Giêsu. Lòng thương xót đó được thể hiện qua việc rao giảng, qua việc cử hành các Bí tích nhất là Bí tích Giao Hòa. Lòng thương xót đó còn được thể hiện qua việc thăm viếng mục vụ, quan tâm đến những người nghèo khổ về vật chất cũng như tinh thần. Linh mục phải như chủ chiên đi tìm con chiên lạc, như người đàn bà tìm kiếm đồng tiền bị đánh mất, như người cha chờ đợi đứa con đi hoang trở về. Nhưng vì linh mục cũng là một con người với những yếu đuối, lầm lỗi và thiếu xót. Để thực hiện được vai trò “Kitô thứ hai”, và trở nên mục tử nhân lành, bản thân linh mục cần phải cố gắng không ngừng, đồng thời cần lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa. Cần sự cố gắng của bản thân để linh mục hoàn thiện mình, cần lời cầu nguyện của giáo dân để Chúa thánh hóa linh mục. Ước mong rằng, tất cả các linh mục trong Giáo Hội thực sự trở nên những linh mục như lòng Chúa mong muốn.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin uốn lòng chúng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
SUY NIỆM 23: TÌNH THA THIẾT - Trầm Thiên Thu
THÁNH TÂM CHÚA – CÕI AN BÌNH MIÊN VIỄN
LÒNG XÓT THƯƠNG – NƠI TÍN THÁC SUỐT ĐỜI
Thiên Chúa mời gọi và hứa: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh 22:17). Chúa Giêsu cũng nhắn nhủ và động viên: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Phàm nhân thật là hạnh phúc, bởi vì thân phận bụi tro chẳng đáng gì mà vẫn được Thiên Chúa ưu ái quá đỗi!
Thánh Tâm và Lòng Thương Xót không thể tách rời, vĩnh viễn chỉ là MỘT. Thánh Tâm chứa đựng Lòng Thương Xót, và Lòng Thương Xót là nhịp đập yêu thương của Thánh Tâm. Trái tim nằm trong cơ thể, vì thế mà Thánh Tâm cũng bất khả phân ly đối với Thánh Thể. Đó là mối liên kết mầu nhiệm trong mối tình tha thiết của Chúa Giêsu.
Cơ thể con người là một kỳ công của Thiên Chúa. Cả cơ thể con người là một khối tổng hòa kỳ diệu. Mỗi cơ phận đều là một thế giới diệu kỳ, nhưng trái tim là cơ phận đặc biệt nhất. Tim có nhiệm vụ phân phối máu đi khắp các mạch máu, kể cả trung tâm não bộ. Nếu mắc nối tiếp các mạch máu trong cơ thể sẽ thành một đường dài 96.559 km. Tim còn có điểm đặc biệt là tự đập nhịp, không nhờ sự giúp đỡ của não hoặc cột sống, vì khi lấy tim ra thì nó vẫn “nhảy nhịp”. Và mỗi cơ tim đều tự đập được.
Tim điều phối máu. Trong máu có sự sống. Máu còn được chia thành nhiều nhóm – dựa theo một số chất cacbohydrat và protein đặc thù trên hồng cầu. Có khoảng 46 nhóm khác nhau, nhưng các nhóm chính là O, A, B và yếu tố Rhesus (Rh). Máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Do đó, khi truyền máu khác nhóm vào, kháng thể của người nhận có thể phá hủy máu, gây tác hại cho cơ thể. Đặc biệt máu O có thể nhận thêm nhóm máu hiếm 2 là OA. Nghiên cứu thấy có 1-7 người trong nhóm này thuộc hệ nhóm máu người được ghi nhậnbởi Tổ chức Quốc tế về Truyền máu (ISBT – International Society of Blood Transfusion, thành lập năm 1935, có khoảng 1700 thành viên ở 97 quốc gia).
Trái tim đặc biệt cả về lý tính và hóa tính. Không chỉ vậy, tim còn là “trung tâm tình cảm” (đầy đủ thất tình của con người).Tim là trung tâm sự sống, tim chết thì người ta chết. Não chỉ là trung tâm điều khiển. Vì thế, tim rất quan trọng, nó cần duy trì khỏe mạnh ổn định chứ không thể yếu hoặc thất thường. Tim mà đau thì cả thân xác rời rã. Cơn đau tim có thể xảy ra với bất kỳ ai, dù già hay trẻ, dù nam hay nữ, và cơn đau tim thường xảy ra vào buổi sáng (từ khoảng 6 giờ tới trưa). Khi lên cơn đau tim, người ta có thể tử vong trong vòng bốn giờ.
Người ta thường dùng hình trái tim có lưỡi gươm đâm thâu để diễn tả tình yêu. Điều đó cho thấy “yêu là khổ”, vì yêu phải CHO nhiều hơn NHẬN. Như vậy, yêu không chỉ “khổ” mà còn “lỗ” to! Thế nhưng không ai lại không thích yêu. Đó là loại thuốc “đắng” vô cùng mà ai cũng thích sử dụng. Tim có lý lẽ riêng mà chính lý lẽ cũng không thể lý giải. Lạ quá chừng! Và quả thật, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban chính Con yêu dấu của Ngài là Đức Kitô (Ga 3:16), chính Chúa Giêsu cũng yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm 5:8), Ngài còn si tình đến mức chịu khổ nạn và chịu chết để chứng minh tình yêu Ngài dành trọn cho chúng ta.
Thế kỷ XVII, khi mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque, một nữ tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ởParay-le-Monial, Chúa Giêsu đã cho thánh nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy, bị vòng gai quấn quanh, và bị lưỡi gươm đâm thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675, có thể vào ngày 16 tháng 6, Chúa Giêsu nói: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…”. Ngài yêu cầu Thánh nữ vận động thành lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Tình Thương Tha Thiết, nơi tuôn chảy Nguồn Tình với hai dòng Máu và Nước. Dù chỉ là tội nhân, nhưng chúng ta được diễm phúc trở thành con cái của Thiên Chúa, là “dân riêng” của Ngài: “Anh em là một dân thánh hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã chọn anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người” (Đnl 7:6).
Chăc chắn nhân loại không thể nào hiểu thấuLòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đúng là Ngài si tình thực sự. Tại sao? Đây là lý do: “Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pharaô, vua Ai Cập” (Đnl 7:7-8).Thánh Vịnh gia đã cảm nghiệm: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, nhưng Chúa hằng nghĩ tới” (Tv 40:18). Còn chúng ta quá tệ bạc, vẫn không ngừng vô ơn bội nghĩa!
Phân tích tỉ mỉ hơn, Kinh Thánh nhắc nhở: “Anh em phải biết rằng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người. Còn ai thù ghét Người thì Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa, khiến nó phải chết; với kẻ thù ghét Người, Người không trì hoãn, Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa” (Đnl 7:9-10). Có lẽ chúng ta cảm thấy cách nói của Cựu Ước có “tính hù dọa”, nhưng thời đó là thời “mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, chỗ gãy đền chỗ gãy” (Xh 21:24; Lv 24:20; Đnl 19:21), nên ngôn ngữ diễn tả “thô” và thẳng thắn như vậy thôi. Ông Mô-sê kết luận rạch ròi: “Vậy anh em phải tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định mà hôm nay tôi truyền cho anh em đem ra thực hành” (Đnl 7:11). Và chắc chắn chúng ta không thể không thực hiện. Cựu Ước vẫn luôn cần cho thời đại ngày nay. Chúa Giêsu cũng không hủy bỏ luật Mô-sê, mà Ngài kiện toàn lề luật (Mt 5:17).
Được làm người, bổn phận của chúng ta không chỉ có vậy, một trong các bổn phận quan trọng khác là chúc tụng và tạ ơn Chúa. Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2).Đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta, nghĩa là chúng ta phải làm vậy vì nhiều lý do: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng. Chúa phân xử công minh,bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Mô-sê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện” (Tv 103:3-7). Chúng ta được chữa lành quá nhiều, thế thì lẽ nào lại vô ơn bạc nghĩa? Chắc chắn không tạ ơn là không thể được!
Tình yêu là bản chất Thiên Chúa. Ngài cũng là hiện thân của lòng thương xót, luôn chạnh lòng và động lòng trắc ẩn với những kẻ khốn cùng:“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm”(Tv 103:8 và 10).Kẻ khốn cùng đó là ai? Còn ai trồng khoai đất này ngoài chúng ta? Và rồi Ngài còn “chắc cú” để chúng ta được an toàn bằng cách “ném tội lỗi thật xa chúng ta” (x. Tv 103:12). Chúng ta sướng rơn rồi còn gì!
Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không chỉ mong muốn mà còn bắt buộc chúng ta phải yêu thương nhau. Cũng là điều hoàn toàn hợp lý thôi. Tông đồ Tình yêu Gioan lý luận: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thươngthì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai KHÔNG yêu thương thì KHÔNG biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7-8). Rất rõ ràng, rất rạch ròi!
Còn nữa, người-môn-đệ-Chúa-yêugiải thích: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10).
Và chính vị tông đồ trẻ này đã đưa ra cái “nếu” khiến chúng ta phải “đâu cái điền”, nhưng đây cũng là lời mời gọi: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. NẾU chúng ta yêu thương nhauthì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta. Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đếnlàm Đấng cứu độ thế gian” (1 Ga 4:11-14).
Thật là chí lý với hệ lụy lô-gích và minh nhiên: “Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy ở lại trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4:15-16). Tin vào tình yêu Thiên Chúa là tín thác vào lòng thương xót của Ngài, tin bằng cả con người của chúng ta chứ không bằng môi miệng hoặc theo phong trào – qua việc tham gia các hội đoàn.
Sau khi quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài đã làm mà không sám hối, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11:25). Và Ngài nói với họ: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27). Họ là ai? Là những người “chứng kiến phép lạ mà không sám hối”. Và họ cũng chính là chúng ta, vì chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều phép lạ trong đời thường mà đức tin vẫn xơ cứng, tệ hơn nữa là lại cứ “đua nhau” tìm kiếm các “sự lạ” ở nơi kia hoặc nơi nọ, còn chính mình hàng ngày vẫn nhận lãnh phép lạ mà lại coi như là chuyện tất nhiên. Hãy cẩn trọng!
Kiên trì, nhẫn nại và mong chờ mòn mỏi, Chúa Giêsu vẫn không ngừng mời gọi:“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30). Hiền hậu và khiêm nhường liên quan chặt chẽ với nhau, êm ái và nhẹ nhàng cũng có liên quan lẫn nhau. Lời mời gọi đó không chỉ dành cho ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hoặc tháng Sáu, mà dành cho mọi lúc với tần suất 24/7.
Thật vậy, từng giây từng phút,Chúa Giêsu vẫn tha thiết mời gọi mỗi chúng ta: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Về “tình trạng”ở-lại-trong-tình-thương đó, chính Ngài cũng đã giải thích: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15:10). Không còn mơ hồ, và cũng không thể hiểu theo cách khác. Yêu ai thì “chiều” theo người đó, muốn làm vừa lòng người đó và muốn nên giống người đó.
Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thấy có nhiều loại trung tâm để cứu vớt người ta về thể lý hoặc tinh thần. Các trung tâm đó được thành lập để “cấp cứu”. Nhưng có lẽ Trung Tâm Cấp Cứu thể lý được chú ý nhiều. Mỗi khi nghe tiếng còi hú của xe cứu thương, chúng ta cảm thấy có điều gì đó sâu lắng. Tuy nhiên, có một Trung Tâm Cấp Cứu quan trọng nhất và cần thiết nhất, độc nhất vô nhị, đó chính là Trung Tâm Thương Xót: Thánh Tâm Chúa Giêsu.Đến bất cứ trung tâm nào thì người ta cũng phải trả phí, nhưng người ta vẫn phải đến, còn ai đến Trung Tâm Thương Xót của Siêu Bác Sĩ Giêsu thì đều được miễn phí hoàn toàn – dù bệnh nhân giàu hay nghèo, già hay trẻ.Thế mà tại sao chúng ta lại ngại đến?
Ngày xưa, Thiên Chúa đã phải thốt lên: “Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín, chúng được kêu mời hãy vươn lên, mà chẳng một ai ngóc đầu dậy!” (Hs 11:7).Ôi, tình thương thật tha thiết. Và ngày nay, Ngài cũng vẫn đang nói với những con người của thế kỷ XXI như vậy.
Kính lạy Thiên Chúa Tình Yêu,Thánh Tâm Chúa Giêsu đã yêu thương chúng con đến cùng, được minh chứng quahai Dòng Tình là Máu và Nước tuôn trào từ vết thương nơi Thánh Tâm Ngài. Đólà vết đâm của lưỡi giáo, nhưng vết thương đó đã hóa nên Dấu Tình và Cửa Lòng Thương Xót dành cho chúng con. Xin giúp chúng con biết vào Cửa Lòng Thương Xót để được đóng Dấu Tình của Ngài,nhờ đó chúng con được sống dồi dào trong tình yêu vĩnh hằng. Ngài là Đấng cứu độ chúng con, là Đấng hằng sinh và hiển trị với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
SUY NIỆM 24: YÊU THƯƠNG NHƯ GIÊ-SU - Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
TIN MỪNG: Mt 11, 25-30
(25) Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (26) Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. (27) Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha. Cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. (28) Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (29) Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. (30) Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay gồm mấy ý tưởng chính sau đây:
Đức Giê-su nói mấy lời ngợi khen cảm tạ Chúa Cha, vì Người đã giấu không cho những kẻ học thức quyền thế biết chân lý, nhưng lại tỏ mình ra cho những người nghèo khó, yếu đuối và tội lỗi (25-26). Tiếp đến, Đức Giê-su bày tỏ về bản tính Thiên Chúa của Người ngang hàng với Chúa Cha (27), và mời gọi chúng ta hãy sống theo Luật tình yêu của Người, vừa nhẹ nhàng lại vừa mang lại sự sống muôn đời (28-30).
CHÚ THÍCH:
– C 25: + Lạy Cha: Khi cầu nguyện, Đức Giê-su thường xưng tụng Thiên Chúa là “Cha”, một tiếng gọi thân thương mới lạ đối với người Do thái, vì họ không bao giờ dám gọi Thiên Chúa là Cha. + “Chúa Tể trời đất”: là một lời xưng hô có tính trang trọng. + Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn:“Giấu” ở đây không phải vì Chúa Cha không muốn mặc khải, nhưng vì những người kia có thái độ tự mãn, cho mình là khôn ngoan thông thái, nên không muốn đón nhận chân lý mặc khải. Trái lại, những người bé mọn vì có tinh thần khó nghèo, nên được Thiên Chúa tỏ mình ra để họ biết Người, như Đức Giê-su đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39). Câu này gợi lại câu chuyện về các thiếu niên Do thái trong sách Đa-ni-en: Tất cả các bậc khôn ngoan thông thái Ba-by-lon không ai hiểu được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chỉ có các thiếu niên Do thái là được Thiên Chúa mặc khải cho (x. Đn 2,27.30). Cũng vậy, Đức Giê-su ngợi khen Thiên Chúa vì Người đã tỏ mầu nhiệm Nước trời cho những người bé mọn, tức là những kẻ tin cậy phó thác vào sự phù trì của Thiên Chúa.
– C 26-27: + Đó là điều đẹp ý Cha: Đức Giê-su luôn làm đẹp lòng Cha (x. Mt 3,17 ; 26,42 ; Ga 4,34). + Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi: Ngôn sứ Đa-ni-en được mặc khải cho biết chuyện Con Người được Đấng Cao Niên (Thiên Chúa) ban tặng tất cả mọi sự (x. Đn 7,14). Ở đây, Đức Giê-su cũng cho thấy Thiên Chúa đã giao phó mọi sự cho Người (x. Mt 28,18 ; Ga 5,22 ; 13,3). Nhất là cho Người biết rõ Cha để mặc khải cho lòai người, hầu ban cho lòai người được sống đời đời (x. Ga 17,2-3). + Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha. Cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho: “Biết” ở đây không phải là sự hiểu biết tri thức thông thường, nhưng là một sự hiểu biết thâm sâu. Là tình yêu bao gồm cả tâm hồn và thể xác.
– C 28: + Tất cả hãy đến với tôi: Đức Giê-su mời gọi mọi người hãy theo làm môn đệ của Người, tức là vâng nghe lời Người dạy và sống theo gương mẫu tốt lành của Người. + Những ai đang vất vả mang gánh nặng nề: Chính Đức Giê-su là Con Người được đề cập trong sách Đa-ni-en, ở đây lại xuất hiện dưới danh xưng Con Thiên Chúa, là Vua và là Đấng mặc khải Nước Trời cho những người bé mọn. Họ là những kẻ vất vả và mang gánh nặng nề mà Người kêu gọi hãy đến với Người. Đó là những người Do thái sống dưới ách của Luật cũ, và nhiều tập tục nặng nề (x. Mt 23,4). Đó còn là mọi người đang sống trên trần gian gặp nhiều gian nan thử thách.
– C 29-30: + Hãy mang lấy ách của tôi: “Ách” hay “gánh” của Đức Giê-su chính là đạo lý Tin Mừng mà Người rao giảng. + Vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường: Đạo lý của Đức Giê-su được tóm lại trong ba điều chính sau: Một là Tin, nghĩa là trở thành môn đệ của Người. Hai là khiêm nhường, nghĩa là hạ mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Ba là hiền lành, nghĩa là đối xử khoan dung nhân hậu đối với tha nhân. + Vì ách tôi êm ái: Câu này cho thấy Đức Giê-su đòi môn đệ phải giữ luật theo tinh thần Tám Mối Phúc Thật (x. Mt 5,17.20), thay cho thái độ vụ Lề Luật, và nặng hình thức (x. Mt 5,21-22 ; 6,1-18). Đức Giê-su cũng dạy môn đệ đừng bắt chước các đầu mục Do thái là các kinh sư và người Pha-ri-sêu, vì họ chỉ nói mà không làm (x. Mt 23,2-7). + Và gánh tôi nhẹ nhàng: Khi tuân giữ các điều Luật dạy với lòng yêu mến, thì bất cứ điều khoản nào dù khó giữ đến đâu đi nữa, cũng sẽ hóa nên nhẹ nhàng êm ái đối với những ai có lòng mến Chúa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
CÂU CHUYỆN:
– LUÔN VUI TƯƠI VÌ CÓ TÂM HỒN HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG:
Nhà văn TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu chuyện sau để khuyên người ta phải sống lạc quan:
Một hôm, một con chó sói kia gặp thấy con sóc có bộ lông màu nâu đang nhởn nhơ gặm củ cà rốt trên một cành cây gần mặt đất, sói liền nhe hàm răng nhọn hoắc ra, gầm gừ đe dọa và hỏi sóc nâu rằng: “Này tên sóc nâu khốn kiếp kia. Tại sao tao thấy họ hàng sóc bọn bay lúc nào cũng vui vẻ nhảy nhót ăn uống như thế ? Bộ chúng bay không thấy ông nội của chúng bay đang rầu thúi ruột ra đây hay sao ?” Bấy giờ chú sóc nâu kia vội leo lên cành cao hơn để đề phòng bất trắc. Sau khi ngồi an toàn trên cành, sóc nâu mới trả lời chó sói rằng: “Thưa ông sói. Sở dĩ ông luôn cảm thấy buồn thúi ruột vì ông là kẻ gian ác, lúc nào cũng để lòng giận hờn, luôn tìm cách bắt nạt và giết hại những kẻ yếu đuối hơn mình. Còn họ sóc nhà chúng tôi luôn cảm thấy vui tươi và nhảy nhót suốt ngày, vì chúng tôi sống hiền lành, hòa thuận với mọi loài vật khác và không làm hại bất cứ ai”.
Câu trả lời của chú sóc nâu rất phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su là một con người lạc quan. Dù vừa gặp phải thất bại ở các thành ven Biển Hồ (x. Mt 11,20-24), nhưng Người vẫn nhận ra thánh ý Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều mầu nhiệm này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26).
Còn chúng ta, sau khi gặp một vài sự chống đối hay thất bại trong việc truyền giáo, chúng ta thường cảm thấy chán nản và muốn buông xuôi. Chúng ta hãy xin Chúa ban tinh thần lạc quan của Đức Giê-su, để dù gặp phải đau khổ thất bại, vẫn dâng lời ngợi khen cảm tạ, vì biết rằng sự thất bại chỉ là nhất thời, là dịp để chúng ta học tập rút kinh nghiệm. Hy vọng sẽ tới ngày chúng ta sẽ trở thành thợ gặt mùa lúa bội thu của Thiên Chúa như lời Đức Giê-su tiên báo hôm nay.
– KINH NGHIỆM CỦA MỘT NGƯỜI GẶP CHÚA:
Một cô sinh viên Công giáo kia vừa bắt gặp quả tang người yêu lừa dối phản bội mình thì cảm thấy rất buồn chán. Rồi khi về đến nhà, cô lại bị mẹ rầy la vị sự ngây thơ khờ dại của mình. Cô chạy xe đến tìm mấy người bạn thân, để chia sẻ tâm sự mong được an ủi. Nhưng thật không may: đứa thì đi học, đứa thì đi làm, đứa khác đang đi chơi với bạn trai… Trời đã về chiều và đường phố đang giờ tan tầm, cô chạy lòng vòng ngoài đường đông đúc xe và bị mắc kẹt tại giao lộ, phải chịu đựng những tiếng ồn ào và hít mùi khói xăng mù mịt khó chịu. Gần đó có một thánh đường đang mở cửa, cô liền đem xe vào chỗ gửi và vào nhà thờ. Bầu khí nơi đây thật trang nghiêm yên tĩnh. Cô đến quỳ ở hàng ghế đầu sát gian cung thánh nhìn lên Chúa Giê-su và thầm thì kể lể tâm sự với Người. Nói đến đâu nước mắt tuôn trào đến đó. Sau một hồi lâu, cô cảm thấy tâm hồn thật nhẹ nhàng thanh thản. Hình như tâm tư của cô đã được Chúa nghe và cảm thông rồi. Cô đã tìm thấy bình an trong tâm hồn và sẵn sàng quên đi tất cả những gì đã gây ra đau khổ cho mình. Cô hy vọng một tương lai tốt đẹp đang chờ đón mình. Rồi cô ra lấy xe về nhà như không có chuyện gì xảy ra trước đó.
Thật đúng như lời Đức Giê-su kêu gọi trong Tin Mừng hôm nay: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được rằng: Chỉ nơi Chúa con mới được niềm vui và sự bình an.
– SỐNG VÌ YÊU THƯƠNG:
Trong quyển nhật ký, mục sư MÁC-TIN LU-THƠ KINH (Martin Luther King), người đã hy sinh mạng sống để đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da đen có đoạn viết như sau:
“Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi chết, được ai đó kể lại rằng: Lu-thơ Kinh là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong các bạn có thể nói rằng: tôi đã cố gắng sống cho công lý, rằng tôi đã đồng hành với những ai thực thi công bình, rằng tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói ăn, và kẻ rách rưới có đồ mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói rằng: Lu-thơ Kinh đã xả thân để thăm viếng những người tù tội, và yêu thương phục vụ hết mọi người, nhất là những nạn nhân của sự kỳ thị chủng tộc… Còn tất cả những thứ khác, như giải No-bel Hòa Bình 1964 không quan trọng nên chẳng cần phải nhắc lại…”
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con giống hình ảnh yêu thương của Chúa. Chúa đã phú ban cho con một trái tim biết yêu thương. Xin cho con biết luôn tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong sự hòa thuận tha thứ và khiêm nhường phục vụ. Nhất là xin cho con biết yêu thương những người nghèo khổ đang sống bên con, vì họ là hiện thân của Chúa.
– LỊCH SỬ LỄ THÁNH TÂM:
Khi Chúa Giê-su bị treo trên thập giá, thánh sử Gio-an đã nhấn mạnh tới vết thương ở cạnh sườn Người: “Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,33-34).
Trước thế kỷ 12, Hội Thánh có thói quen tôn kính các vết thương của Chúa Giê-su. Nhưng từ thế kỷ 13, Hội Thánh bắt đầu tôn kính Trái tim Chúa, là cơ quan biểu tượng cho Tình yêu của Người. Đến năm 1695, nữ tu Mác-ga-ri-ta thuộc dòng Đức Mẹ Thăm Viếng ở Pháp, đã được Chúa Giê-su hiện ra phán bảo rằng: “Đây là Trái Tim đã yêu mến loài người quá bội, mà loài người vô tình tệ bạc, lại còn khinh mạn dể duôi”. Rồi Chúa truyền phải phổ biến lòng tôn sùng Trái Tim Chúa trên khắp thế giới. Giáo Hội cổ động việc tôn sùng này như một phương tiện để chống lý thuyết sai lầm lan tràn vào thời đó, chủ trương Thiên Chúa là Đấng nghiêm minh công thẳng, không xót thương và sẽ trừng phạt các tội nhân. Vì thế Giáo Hội thấy càng phải đề cao lòng thương xót của Chúa. Nên đến cuối thế kỷ thứ 18, Giáo Hội đã thiết lập lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su.
Phương thế để tôn sùng Trái Tim Chúa Giê-su là siêng năng làm việc đền tạ. Việc đền tạ gồm hai phần chính: Một là giục lòng kính mến Chúa, thay cho những kẻ đã vô tình bạc nghĩa với Người. Hai là dâng những lời ngợi khen, ăn năn và cầu xin ơn tha thứ thay cho những kẻ đã dám cả lòng xúc phạm đến Thánh Tâm Chúa.
SUY NIỆM:
– Đức Giê-su mời gọi chúng ta đến với Người: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Gánh nặng ở đây là gánh nặng của đau khổ, hậu quả của những lần vấp ngã, của trách nhiệm, của sự chịu đựng tha nhân… Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu, chán chường và mệt mỏi, hãy đến với Đức Giê-su. Nhờ được gặp Người, họ sẽ tìm lại được sự bình an cho tâm hồn.
– Đức Giê-su còn nói: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29). Đức Giê-su không ngần ngại nói đến ách của Người, mà những ai đến với Người phải mang. Người không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc, về con đường chật hẹp leo dốc mà ít người muốn đi, về thập giá mà ta phải vác hàng ngày theo sau Người. Như thế, sự an bình thư thái Người hứa ban, không phải là thứ bình an dễ dãi, nhưng là bình an ngay khi đang chịu đau khổ, vì biết mình được Chúa yêu thương và xác tín mình đang làm theo thánh ý Chúa.
– Đức Giê-su cũng nói: “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Sở dĩ ách của Đức Giê-su êm ái và gánh của Người nhẹ nhàng, là do chúng được đón nhận trong tình yêu. Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ. Thánh Au-gút-ti-nô nói: “Nơi đâu có tình yêu, thì sẽ không có vất vả. Mà giả như có vất vả, thì người ta cũng thích sự vất vả đó”.
– Hãy học với tôi: Đức Giê-su kêu gọi chúng ta trở thành môn đệ của Người, học bài học yêu thương trong trái tim khiêm nhu hiền hòa của Người. Khi mang trong mình những tâm tình của Đức Giê-su, thì tâm hồn chúng ta sẽ được bình an. Cần từ bỏ những tự mãn về sự khôn ngoan của mình, cần sống khiêm nhu nhỏ bé như một trẻ thơ. Khi ấy chúng ta mới được Đức Giê-su mặc khải cho và sau này sẽ được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa.
THẢO LUẬN:
Theo bạn, ngày nay chúng ta thường mang những gánh nặng nào ? Luật đạo có phải là cái ách nặng đè lên chúng ta không ? Các việc bổn phận như dự lễ cầu nguyện sớm tối có phải là gánh nặng không ? Làm thế nào để các việc ấy trở thành ách êm ái và gánh nhẹ nhàng như lời Chúa hứa hôm nay ?
NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã đến và ban cho con muôn ngàn hồng ân cả về thể xác cũng như tâm hồn. Chúa lại muốn cho con quảng đại chia sẻ cho tha nhân những hồng ân ấy. LẠY CHÚA. Này thân xác con với đôi mắt, tay chân, tài năng, sắc đẹp… Này tâm hồn con với trí khôn hiểu biết, tình cảm yêu thương, ý muốn tự do… Con xin dâng tất cả cho Chúa. Nhiều khi con gặp thất bại là do lỗi của con thế mà con hay than thân trách phận, có khi còn xúc phạm khi đổ lỗi tại Chúa. Giờ đây, con xin lỗi Chúa và quyết tâm chỉ yêu mến và phụng sự một mình Chúa mà thôi. LẠY CHÚA. Đời con được bao phủ bằng biết bao hồng ân của Chúa. Cuộc đời con luôn có bàn tay Chúa dìu dắt hướng dẫn. Có Chúa đi với con, con nào có sợ chi ai ? Xin giúp con khám phá nơi con những khả năng Chúa ban, biết trân trọng những thứ của cải vật chất Chúa trao cho con quản lý, và xin cho con biết tận dụng những cơ hội, để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi các linh hồn.
– LẠY CHÚA. Xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, để con có thể nghe được tiếng Chúa phán dạy, để thấy Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi con. Con đang sống giữa một thế giới đầy những cạm bẫy và gian dối lừa lọc, xin cho trái tim con đừng hóa sơ cứng như đá, ích kỷ khép kín và nghi ngờ mọi người đến với con. Xin dạy con sống hiền hòa như Chúa, để con biết cảm thông nỗi đau của người khác và sẵn sàng bao dung tha thứ những xúc phạm của tha nhân. Xin dạy con sống khiêm nhu để luôn vâng theo ý Chúa qua ý bề trên và những góp ý xây dựng của những người chung quanh. Cuối cùng, xin giúp con tìm thấy sự bình an trong tâm hồn, và luôn vui vẻ dấn thân trên con đường chật hẹp, lên dốc với Chúa, chấp nhận những đau khổ thử thách với lòng tin cậy phó thác. Nhờ đó, con hy vọng sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc Thiên Đàng đới sau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
SUY NIỆM 25: TRÁI TIM TÌNH YÊU - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đúng 19 ngày sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ngày thứ Sáu sau lễ Mình Máu Thánh Chúa, ngày Chúa tỏ Trái Tim Tình Yêu của Người ra cho thánh nữ Maria Margarita Alacoque (16/6/1675), phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành với lòng biết ơn lễ Trái Tim Cực Thánh Đức Chúa Giêsu rất hay thương « dịu hiền và khiêm nhường » trong lòng.
Trái Tim Chúa đã yêu loài người ta quá bội
Trái Tim của Thiên Chúa rung động vì cảm thương loài người luôn đổ tràn tình thương xuống cho nhân loại. Trái Tim ấy không đầu hàng trước sự vô ơn bạc nghĩa, từ chối của con người. Vì yêu, Thiên Chúa đã muốn tên lính đâm thấu và mở cạnh sườn ; máu cùng nước chảy ra (x. Ga 19, 34). Từ nguồn suối thẳm sâu của trái tim mình, Chúa Giêsu đã ban cho Giáo hội các bí tích để có thể trao ban hồng ân sự sống… ; để ai uống nước này « thì từ họ sẽ vọt lên sự sống đời đời » (Ga 4,14).
Từ Trái Tim Chúa bị đâm thủng vì tội lỗi chúng ta, đã tuôn trào nguồn ơn cứu độ đời đời cho nhân loại. Trái Tim đó không đơn giản là trái tim bình thường mà là Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Trái Tim « yêu thương » dân, « Quả tim Ta thổn thức trong Ta … vì Ta là Thiên Chúa » (x. Hs 11, 1b, 3-4, 8c-9 ). Quả Tim ấy được cụ thể nơi Trái Tim Chúa Giêsu vượt quá sự hiểu biết của con người (x. Ep 3,8-12.14-19). Ấy vậy mà con người vẫn vô ơn bạc nghĩa trước sự hy sinh cao cả của Chúa Giêsu. Chẳng những thế, con người còn xúc phạm đến Trái Tim nhân lành của Chúa. Nhưng vì là Trái Tim Tình Yêu nên : « Đời nọ tới đời kia, Thánh Tâm Chúa vẫn hằng nuôi dưỡng ý định cứu dân Người khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn » (Ca nhập lễ). Lời thánh Gioan Maria Vianey là bằng chứng : « Linh mục là hồng ân của Thánh Tâm Chúa ban cho loại người » (GLHTCG số 1589). Làm sao ta không cảm động nhớ lại rằng chính từ Trái Tim Chúa đã trực tiếp nảy sinh hồng ân linh mục. Hôm nay chúng ta đừng quên cầu cùng Thiên Chúa Ba Ngôi cho các linh mục nhân ngày thánh hóa, để Giáo hội có được những cái máng tốt như lòng Chúa mong ước, thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho thế gian.
Trái Tim Đức Chúa Giêsu là mạch đầy mọi nhân đức
Những lời Kinh Cầu vang lên trong suốt tháng Sáu như muốn nói với chúng ta rằng, tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại, đều được gửi gắm và thể hiện nơi Trái Tim Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Thiên Chúa. Qua Trái Tim Chúa Giêsu, chúng ta thấy được sự quan phòng tình yêu từ đời đời của Thiên Chúa nhằm cứu độ thế gian. Đúng là mầu nhiệm tình yêu khôn hiểu thấu, nên chúng ta « hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người » (Tv 12, 5).
Nhìn ngắm Trái Tim Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha, trong sự viên mãn của Chúa Thánh Thần, chúng ta khám phá ra lòng nhân lành của Chúa Giêsu luôn yêu thương, ấp ủ chúng nhân, chứng tỏ Trái Tim Người là mạch đầy dẫy hằng sống và thánh thiện, là nguồn suối cứu chuộc chúng ta. Để hiểu sâu xa hơn, chúng ta phải trở về với cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ xứ Samariathành Sykar thuộc xứ Samaria. Cô ta đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: « Xin bà cho tôi uống nước ». Người đàn bà Samaria thưa lại: « Sao thế! Ông là người Do-thái màlại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria? » Thánh sử sau đó thêm rằng : (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Sa-maria). Sau đó, cô nhận được phản ứng của Chúa Giêsu: « Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: « Xin cho tôi uống nước », thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽcho bà nước hằng sống […]vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời » (Ga 4, 1-14). Đây là những lời nói bí ẩn.
Chúa Giêsu là nguồn suối; từ Người vọt lên sự sống thần linh. Gần Chúa, ở lại trong Chúa, chúng ta sẽ có sự sống. Nguồn suối ấy đem tưới vào đời mình ta sẽ có được sự bình an sâu thẳm và niềm hạnh phúc đích thực ở nơi Trái Tim Giêsu yêu thương.
Sùng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu
Thế giới ngày hôm nay xảy ra biết bao cuộc xung đột cam go đẫm máu, rất cần sứ điệp phát xuất từ Trái Tim Chúa, nguồn mạch duy nhất, nhân loại có thể múc lấy sự khiêm nhường và lòng tha thứ để chữa lành những thương tích. Lòng sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu có thể là nguồn mạch mọi ơn phúc cho thế giới này như lời Đức Piô X viết khi ban lệnh thi hành việc tôn sùng Trái Tim Chúa : « Việc tôn thờTrái Tim cực thánh Chúa Giêsu là trường học hữu hiệu nhất về Tình Yêu Thiên Chúa, bởi vì Tình Yêu, vốn là nền tảng của Nước Trời, phải được xây dựng trong các linh hồn, các gia đình và các quốc gia ». Đức Piô XI nhận định: « Lòng sùng kính Thánh Tâm là một phương dược phi thường cho những nhu cầu ngoại thường của thời đại chúng ta » (Caritate Christi compulsi). Trong tông huấn Tôn Sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, Chân phước Phaolô VI viết: « Sự tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu là phương thế hữu hiệu nhất để đóng góp vào việc canh tân tâm linh vàluân lý của thế giới ». Thánh Gioan Phaolô II Giáo hoàng nói : « Lòng sùng kính Thánh Tâm phù hợp hơn bao giờ hết với những mong đợi của thời đại chúng ta » (Diễn văn với Dòng Thừa Sai Thánh Tâm, 5-10-1987).
Nên giống Trái Tim Chúa
Người kitô hữu không chỉ được mời gọi chiêm ngắm, sùng kính, mà còn phải sống tình yêu ấy nữa. Chúa Giêsu đã nói, « Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ các điều răn của Thầy » (Ga 14, 15). Như thế, Người mời gọi chúng ta kèm theo điều kiện : nếu ta yêu mến Chúa, thì ta phải giữ các điều răn của Chúa, tuân giữ thánh chỉ của Chúa, và thực hành các giới răn mà Thiên Chúa đã chỉ cho ta, để chứng tỏ rằng ta yêu Chúa.
Chúa muốn chúng ta giữ các điều răn đã được Chúa ban cho Israel trên núi Sinai qua trung gian Môisen, nhiều người trong chúng ta lặp lại mỗi ngày trong kinh nguyện, một tập quán tốt đẹp và ngoan đạo. Chúng ta lặp lại những điều đã được viết trong Sách Xuất Hành, để tin nhận và làm mới lại những gì chúng ta nhớ.
Lạy Chúa Giêsu, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
SUY NIỆM 26: TRÁI TIM ĐẦY LÒNG XÓT THƯƠNG - Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
Nếu chọn một biểu tượng để diễn tả tình yêu, hẳn nhiều người sẽ chọn biểu tượng trái tim. Vì thế, khi yêu ai, người ta thường tặng cho nhau những hiện vật mang biểu tượng của trái tim, điều đó ngụ ý nói rằng: nếu trái tim là một cơ phận quan trọng trong toàn bộ sự sống của con người, vì nơi trái tim có chức năng sản sinh ra máu để nuôi các cơ phận khác, thì khi trao tặng biểu tượng trái tim, ấy là tôi có ý trao tặng cho bạn cả sự sống của tôi.
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, một trái tim con người của Đấng là Con Thiên Chúa, qua đó, Giáo Hội mời gọi con cái mình hướng về Thánh Tâm Chúa Giêsu, để chiêm ngưỡng dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Đồng thời, hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi nhìn ra thế giới để thấy được thực trạng vô cảm đáng báo động của nhân loại hiện nay, từ đó, người Kitô hữu sẽ trở nên chứng nhân của trái Tim nhân hậu Chúa Giêsu trong thế giới hôm nay.
Thế giới đang mất dần lòng thương xót
Các nhà khoa học hiện nay rất tự hào về những phát minh khoa học của mình. Người ta đã sáng chế thành công những chú Rôbốt trông rất đẹp và hấp dẫn về nhiều mặt. Nó có thể thay con người để làm một số thứ mà trước kia thuộc về khả năng của con người.
Thế nhưng, mặt trái của những chú Rôbốt này đang khiến nhiều người không khỏi bàng hoàng và khiếp đảm, bởi vì nó có thể bóp chết ngay cả người làm ra nó nếu vận hành sai quy trình. Nó hoàn toàn vô cảm bởi vì con chíp cảm xúc của những chú Rôbốt này chưa ai phát minh ra được. Đây chính là nguyên nhân khiến cho người ta sợ hãi những chú Rôbốt vô hồn.
Cũng thế, con người ngày nay đang bị cuốn hút vào lối sống hưởng thụ và tự do, từ đó dẫn đến việc người ta ưa lối sống hạt nhân hơn là tập thể. Chính vì vậy, thái độ vô hồn, vô cảm là điều đang rất thịnh hành trong xã hội hôm nay. Nhưng có ai ngờ rằng đây chính là căn bệnh quái ác đang ngày đêm giết chết cảm xúc của con người, khiến trái tim họ không còn rung động trước nỗi khổ đau của anh chị em đồng loại.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy rất nhiều cảnh tượng chém giết lẫn nhau nơi giới trẻ ngày nay, mà đối tượng để chúng hành hung chính là những người ruột thịt hay bạn bè thân thiết của mình. Người ta cũng chẳng quan tâm đủ đến những người cùng khổ, đói rách, bần hàn, nên vẫn sẵn sàng cướp đi miếng cơm manh áo của bà con đồng bào lũ lụt Miền Trung đang ngày đêm oằn mình đối chọi với cái rét và cái đói mỗi khi mùa lũ về.
Vô cảm rất nguy hiểm, bởi lẽ nó có thể làm cho con người mất đi sự nhạy bén với nhau, nó trở nên lạnh lùng và nhất là đánh mất giá trị lương tâm. Khiến con người dần dần trở thành “thú” hơn là “người”.
Ôi một sự băng giá tràn ngập trong những trái tim vô cảm. Đại văn hào Nga, Marsin Gorky đã từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu vắng tình thương”.
Nguyên nhân chính yếu dẫn đến sự vô cảm, dửng dưng này chính là con người đã không cảm nghiệm được lòng thương xót, nhân hậu của Thiên Chúa trên cuộc đời của mình, từ đó, họ cũng không biết xót thương ai…
Trái Tim Chúa Giêsu – một trái tim đầy nhân hậu
Vì thế, mỗi khi mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo Hội khao khát con cái của mình hãy có lòng thương xót như Thiên Chúa được cụ thể hóa qua cuộc đời của Chúa Giêsu.
Thật vậy, Trái tim của Chúa Giêsu đã không dửng dưng đối với những người đang khao khát Lời Chân Lý, thế nên, Ngài đã lên tiếng giảng dạy họ (x. Mt 5, 1-12). Ngài cũng không thể không rung động trước sự đói khát của đám dân bần hàn, nên đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Mc 8,1-10). Ngài cũng không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước cảnh đám đông đem chôn một người con trai duy nhất của bà hóa thành Naim, vì thế, Ngài đã cho anh ta sống lại (x. Lc 7,11-17). Ngài cũng đã rơi lệ khi thấy Mátta và Maria khóc thương Lazarô chết (x Ga 11,1-45).
Hơn nữa, trái tim của Chúa Giêsu luôn hướng tới những người tội lỗi để xót thương họ. Điều này đã được chính Chúa Giêsu minh định: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17). Thế nên, chúng ta không lạ gì khi Chúa Giêsu thể hiện hành động cảm thông cho người phụ nữ ngoại tình và nói: “Tôi không kết án chị đâu” . Ngài muốn cho chị có cơ hội làm lại cuộc đời “chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa” (x. Ga 8,11). Hay với Giakêu và Mátthêu, hai ông bị liệt vào tội bán nước hại dân ngang hang với giá điếm, ấy vậy mà trái tim của Ngài đã đoái thương, nên đã chọn và gọi họ làm môn đệ.
Tình thương ấy còn được biểu lộ qua ánh mắt đầy nhân từ dành cho Phêrô sau khi ông chối Chúa và người trộm lành sau khi đã thống hối ăn năn.
Đỉnh cao của trái tim nhân hậu ấy chính là sự độ lượng đến nỗi sẵn sàng tha cho kẻ làm hại mình: “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Tắt một lời: vì yêu nên Chúa Giêsu: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế”(x. Cv 10,38). Và cuối cùng là chết cho người mình yêu (Ga 15, 13). Ngày cả giọt nước và máu cuối cùng cũng được trao ban khi lưỡi đòng đâm cạnh nương long của Ngài trúng trái tim (x. Ga 19, 31-37).
Hãy xót thương như Trái Tim Chúa Giêsu
Giờ đây, hơn lúc nào hết, lời mời gọi của Chúa Giêsu lại vang lên rành rọt bên tai mỗi người chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương an hem” (Ga 15, 12). Thật vậy, chúng ta chỉ có thể trở nên bạn hữu của Chúa nếu chúng ta yêu thương nhau cách chân thành.
Chúng ta không thể sống như những cỗ máy vô tri. Không thể sống theo chế độ hạt nhân. Cũng thế, là người con Chúa, chúng ta không chấp nhận một người vô cảm, dửng dưng với những anh chị em đau khổ xung quanh. Chúng ta cũng không chấp nhận một người chỉ nói về tình thương mà không sống yêu thương, nhưng : “Hãy yêu rồi làm” (thánh Augustinô) là tiêu chí của người Kitô hữu mọi thời. Lời của thánh Têrêxa Calcutta nói với các nữ tu của ngài làm cho chúng ta không thể không suy nghĩ: “Chúng con đã được rước Chúa trong Thánh Thể, bây giờ hãy đi sờ đụng Chúa trong người nghèo”.
Một người môn đệ của Thánh Tâm Chúa Giêsu không thể đứng chỉ tay năm ngón, hay dửng dưng không can hệ đến nỗi đau khổ của con người, hoặc coi thường khinh bỉ những người tội lỗi. Không bao giờ chúng ta được phép tự cho mình có những hành vi ấy, mà ngược lại, phải hiểu rằng: “Vui mừng và hy vọng, ưu tư và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những người đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu tư và lo âu của cộng đồng môn đệ Đức Kitô” (Gaudium Et Spes, số 1).
Mong sao mỗi khi mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy học nơi Chúa vì Chúa Hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Hãy noi gương Chúa để sống sự liên đới với hết mọi người. Amen.
SUY NIỆM 27: Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người
Hình ảnh mục tử và đoàn chiên là một trong những biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu dùng hình ảnh này rất nhiều trong chương 10: Ngài vừa là Cửa chuồng chiên mà các người chăn chiên thật và các chiên phải ra vào, Ngài vừa là Mục Tử Tốt Lành vì Ngài biết tên và chăm sóc cho từng con một. Điểm đặc biệt chưa từng thấy là Người Mục Tử Tốt Lành này sẵn sàng hy sinh và hiến mạng mình để bảo vệ đoàn chiên, như Đức Kitô đã hiến mình để bảo vệ con người.
Các Bài Đọc trong ngày Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người, để chúng ta biết cách đáp trả cho cân xứng. Trong bài đọc I, khi nhìn thấy đoàn chiên tan tác như không người chăn, Thiên Chúa quyết định chính Ngài thân hành đến để chăn chiên. Ngài sẽ chăm sóc từng con chiên một và đưa tất cả trở về một đoàn. Trong bài đọc II, thánh Phaolô nêu bật tình thương Thiên Chúa qua biến cố Ngài chết cho con người ngay khi họ còn là tội nhân, để hòa giải con người với Thiên Chúa và ban ơn cứu độ cho con người. Trong Phúc Âm, tình yêu Thiên Chúa dành cho con người không phải như một tập thể, nhưng từng cá nhân một. Thiên Chúa sẽ thân hành đi tìm từng con chiên lạc trở về và vui vẻ ăn mừng khi kiếm thấy từng con một.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nỗi lo lắng của người Mục Tử khi thấy đoàn chiên tản mác khắp nơi.
1.1/ Hoàn cảnh và số phận đoàn chiên trước khi Đấng Thiên Sai tới.
Ngồi kiểm điểm đoàn chiên Israel sau gần 2000 năm trong tay những nhà lãnh đạo Israel, Đức Chúa nhận ra những điều sau đây:
(1) Sự bất toàn của các người chăn chiên:
+ Các vua chúa và những nhà lãnh đạo của Israel không quan tâm đến số phận của đòan chiên. Thỉnh thoảng tìm được một vài những người chăn chiên tốt; nhưng hầu hết họ chỉ biết quan tâm đến nhu cầu của họ.
+ Các nhà lãnh đạo tinh thần không biết giáo dục chiên theo đường lối của Thiên Chúa. Hậu quả là chiên dễ chạy theo cám dỗ của thế gian.
+ Vua chúa dễ nghe theo lời cám dỗ của các bà vợ Dân Ngoại để chạy theo và bắt chiên thờ các thần ngoại bang. Vua chúa cũng truy tố và hành hạ các người chăn chiên thật của Thiên Chúa gởi đến.
(2) Nỗi đau khổ của các con chiên:
+ Vì không được giáo dục theo đường lối Thiên Chúa, chiên không còn nhận biết Thiên Chúa của họ.
+ Chiên bị lưu đày và tha phương cầu thực nơi đất khách quê người.
+ Chiên làm mồi ngon cho vua chúa, các thú dữ và trộm cướp.
1.2/ Kế hoạch thu thập các chiên về của Đức Chúa.
(1) Chính Ta sẽ chăm sóc đoàn chiên Ta: Đã đến lúc phải có sự thay đổi, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm.
Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt... Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng... Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Israel. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Israel. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng.”
(2) Ta sẽ chăm sóc từng con chiên một: Những người chăn chiên đi trước thường chủ trương nhắm vào đám đông, nhưng cách chăn chiên của Đức Chúa sẽ nhắm vào từng con một: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.”
Người Mục Tử Tốt Lành được tiên báo bởi ngôn sứ Ezekiel chính là Đức Kitô của Tân Ước.
2/ Bài đọc II: Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi.
2.1/ Đức Kitô chết cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân. Điểm khác biệt giữa Đức Kitô với các người chăn chiên khác là Ngài thương tất cả chiên, chứ không chỉ những chiên khỏe mạnh, tốt lành. Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm cá nhân về tình thương cùa Đức Kitô, nên Ngài xác tín: “Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.”
2.2/ Đức Kitô hòa giải con người với Thiên Chúa.
Khi con người phạm tội, họ không thể giao hòa với Thiên Chúa và trở nên công chính. Đó là lý do xuất hiện của Đức Kitô. Ngài sẵn sàng đổ máu để rửa sạch tội lỗi cho con người. Một khi đã được rửa sạch khỏi tội, Đức Kitô giao hòa con người với Thiên Chúa. Đó là lý do con người được trở nên công chính.
Đức Kitô không chỉ rửa sạch tội cho chúng ta, Ngài còn ban Thánh Thần chính là sự sống thần linh của Ngài cho con người. Nhờ sự sống thần linh này, chúng ta có thể sống xứng đáng như những người con của Thiên Chúa và càng ngày càng trở nên toàn hảo giống như Ngài.
3/ Phúc Âm: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.”
3.1/ Để 99 con chiên lại và đi tìm con chiên lạc: Đức Giêsu kể cho họ dụ ngôn này: "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”
(1) Phản ứng khởi đầu: Có rất nhiều lý do con người vịn vào để không đi tìm con chiên lạc:
+ Ai dại gì để 99 con chiên để đi tìm một con?
+ Nếu tôi đi tìm và bị thiệt mạng, ai chăm sóc 99 con chiên còn lại?
+ Có nghĩa gì một con chiên, tương lai còn nhiều những con chiên khác nẩy sinh trong đàn?
+ Nếu nhìn một cách thống kê, 99% thành công là một kết quả quá tốt đẹp rồi, tội gì tự dằn vặt mình vì con chiên lạc?
(2) Mục đích của Chúa Giêsu: Ngài muốn khán giả phải suy nghĩ trước khi đưa đến sự kiện mà họ không thể chối bỏ được.
+ Nếu Chúa Giêsu thay chữ “chiên” bằng “con,” người được hỏi sẽ phải cẩn thận trả lời hơn. Ví dụ: “Ai trong các ông có 10 người con mà một con bị bệnh tật hay thất lạc, lại không để 9 con còn lại mà ra sức chữa trị cho đứa con bị bệnh hay tìm đứa con thất lạc đó?” Theo cách trình bày của Lucas, đây là dụ ngôn thứ nhất trong 3 dụ ngôn liên tiếp, hai dụ ngôn kia là bà góa có 10 đồng bạc và dụ ngôn tuyệt vời “Người Cha Nhân Hậu hay Đứa Con Hoang Đàng” sau cùng.
+ Con nào cũng là con, “dạ đau con xót.” Bổn phận cha mẹ nhiều khi phải thương những đứa con bệnh tật và đau khổ hơn.
+ Tôi sẵn sàng đi tìm đứa con thất lạc, vì đó là máu mủ của tôi.
+ Chúa Giêsu muốn nói Thiên Chúa thương con người như thế: Ngài không bằng lòng với biết bao đứa con công chính trên trời, nhưng sẵn sàng lặn lội đi tìm những con chiên lạc, cho đến khi tìm được.
+ Thiên Chúa thương con người khi họ vẫn còn là tội nhân, vì họ đều là con của Ngài. Đức Kitô lo lắng cho người tội lỗi hơn và tìm mọi dịp để đưa họ trở lại. Ngài sai Thánh Thần khơi dậy lương tâm để họ biết nhận ra điều phải và trở lại. Khi họ trở lại, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả tội lỗi và phục quyền làm con cho tội nhân. Tất cả những điều này, chúng ta đều nhận ra trong dụ ngôn “Người Cha nhân hậu.”
3.2/ Niềm vui khi tìm thấy con chiên lạc: Chúa Giêsu nói tiếp: “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.”
+ Như lòng cha mẹ vui dường nào khi con khỏi bệnh hay con hối hận trở về, Thiên Chúa cũng vui như thế khi con người tội lỗi ăn năn trở lại.
+ Mỗi đứa con hoang đàng là một gai nhọn đâm thâu trái tim Chúa. Chúng ta nỡ lòng nào để trái tim Cha chúng ta chảy máu mà không hồi tâm quay lại cho Người được cảm thấy niềm vui?
+ Nỗi đau của Cha cũng là nỗi đau của mọi người con, chúng ta cũng phải lên đường đi tìm và đưa về những người con của Cha, vì họ cũng là anh chị em của chúng ta.
+ Chúa Giêsu mở lòng và cung cấp tia hy vọng cho các kinh sư và biệt phái: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Ai là người mà chúng ta ký thác cuộc đời cho? Chúng ta có nhận Đức Kitô là Mục Tử Tốt Lành của đời mình không?
- Chúng ta cũng đang được trao trách nhiệm của người mục tử cho con cái hay cho giáo dân, chúng ta có biết noi gương Đức Kitô để yêu thương và chăm sóc cho từng người một trong số họ không?
- Chúng ta có khiêm nhường đủ để nhận ra chúng ta có thể là con chiên lạc mà Đức Kitô đang tìm kiếm không hay chúng ta kiêu hãnh nhận chúng ta là những con chiên tốt lành rồi.
- Trái tim của chúng ta có nhạy cảm và yêu thương như trái tim của Chúa Giêsu hay đã quá chai đá để đón nhận ơn Chúa và tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta.
SUY NIỆM 28: Tình yêu Thiên Chúa đối với loài người - Mục tử đi tìm con chiên lạc (Lc 15,3-7) - Sợi chỉ đỏ
- Bài đọc I (Êd 34,11-16) : Thiên Chúa âu yếm chăm sóc dân Ngài như người mục tử chăm sóc đoàn chiên.
- Đáp ca (Tv 22) : Chúa là mục tử.
- Tin Mừng (Lc 15,3-7) : Dụ ngôn người mục tử lặn lội đi tìm một con chiên lạc.
- Bài đọc II (Rm 5,5-15) : Vì yêu thương, Chúa Giêsu đã chịu chết vì chúng ta.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Hôm nay chúng ta cử hành Lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Lễ này chỉ mới có trong Giáo Hội từ thế kỷ 17, sau sự kiện Chúa Giêsu hiện ra với Thánh nữ Magarita và tỏ cho thánh nữ thấy trái tim Ngài.
Ai cũng hiểu trái tim là biểu tượng của Tình yêu. Vì thế kính Trái tim Chúa chính là tôn kính Tình yêu của Ngài. Qua Trái tim Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được mặc khải cốt yếu nhất của Tin Mừng "Thiên Chúa là Tình yêu".
Chúng ta hãy suy gẫm mặc khải cốt yếu này, và cố gắng sao cho trái tim chúng ta ngày càng nên giống trái tim Chúa Giêsu hơn.
II. Gợi ý sám hối
- Thiên Chúa là mục tử yêu thương luôn ưu ái chúng ta là những con chiên của Ngài. Nhưng nhiều khi chúng ta muốn rời đoàn chiên để đi hoang.
- Tình yêu phải được đáp lại bằng Tình yêu. Thế nhưng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta vô cùng, mà chúng ta lại không yêu mến Ngài.
- Chúa muốn tình yêu của chúng ta trải rộng bao la, yêu thương hết mọi người. Nhưng chúng ta chỉ yêu thương một số ít người thân thiết với mình và lãnh đạm với mọi người khác.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Êd 34,11-16)
Văn mạch : Chương 34 sách Êdêkiên bắt đầu bằng những lời Chúa khiển trách các mục tử Israel (các nhà lãnh đạo, các tư tế) đã không chu toàn nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên mà Ngài đã giao cho họ.
Tiếp theo, Thiên Chúa phán rằng Ngài sẽ lấy đoàn chiên lại và đích thân chăm sóc chúng. Tình thương của Ngài thể hiện:
- Qua việc tập họp chúng lại từ những nơi chúng bị tản lạc.
- Qua việc đưa chúng trở về đất của chúng (ám chỉ cuộc hồi hương từ chốn lưu đày)
- Qua việc lo cho chúng có đầy đủ thức ăn, nước uống, chỗ nghỉ ngơi
- Và qua việc chăm sóc đặc biệt cho những con chiên bị lạc, bị thương, ốm đau.
2. Đáp ca (Tv 22)
Hình ảnh người mục tử trong Thánh vịnh này áp dụng rất đúng vào Chúa Giêsu : Ngài chăm sóc từng người chúng ta, Ngài rửa sạch chúng ta trong nước bí tích Thanh Tẩy, Ngài cho ta uống no nê những ân huệ của Ngài, Ngài cho chúng ta dự tiệc Thánh Thể, và Ngài dẫn chúng ta tới với Chúa Cha. Ở bên Ngài chúng ta không thiếu thốn gì cả và chúng ta có thể luôn an lòng.
3. Tin Mừng (Lc 15,3-7)
Việc người mục tử bỏ 99 con chiên trong hoang địa để đi tìm một con chiên lạc xem ra không hợp với luận lý của việc làm ăn, nhưng rất hợp với luận lý của tình thương Thiên Chúa:
- Đối với Thiên Chúa, mỗi một con người, dù là tội lỗi xấu xa, cũng vẫn là một đối tượng để yêu thương.
- Con người càng yếu đuối tội lỗi thì càng được Thiên Chúa ưu ái hơn
- Thiên Chúa là Đấng cứu độ. Vì vậy mỗi khi cứu được một người, Thiên Chúa rất vui mừng.
4. Bài đọc II (Rm 5,5-11)
Thánh Phaolô viết đoạn thư này nhằm an ủi và khuyến khích các tín hữu đang gặp thử thách gian truân. Họ sẽ cảm thấy an ủi nếu họ ý thức tình yêu Thiên Chúa dành cho họ lớn lao dường nào : mặc dù loài người tội lỗi lẽ ra rất đáng ghét, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương ; Ngài còn ban cho họ Người Con Một của Ngài, đổ máu ra chịu chết để chuộc tội loài người, nhờ đó loài người được giao hòa với Thiên Chúa và còn được thông phần vinh hiển của Thiên Chúa nữa.
IV. Gợi ý giảng
1. Chúa là mục tử
Chúng ta thường xem Thiên Chúa như một vị thần uy nghi xa cách mà ta phải tôn thờ, hay một quan tòa thưởng phạt công minh mà ta phải sợ hãi…
Lời Chúa hôm nay cho ta một hình ảnh khác hẳn về Thiên Chúa : Ngài là một mục tử rất hiền từ và rất yêu thương các con chiên của Ngài.
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy các con chiên rất thảnh thơi, hồn nhiên, sung sướng… ngay cả khi chúng bệnh, chúng đi lạc thì chúng cũng sung sướng vì được người mục tử quan tâm lo lắng ân cần.
Người cực khổ lại chính là người mục tử : lo cho từng con chiên, lặn lội, lo lắng, tìm kiếm…
Thiên Chúa muốn chúng ta thương Ngài chứ không phải sợ Ngài. Ngài muốn chúng ta tin tưởng trông cậy Ngài chứ không phải e ngại trốn tránh Ngài.
2. Không cần đếm
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp:
- Không biết.
- Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết?
Câu trả lời thật ý nhị : "Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt."
3. Và Thiên Chúa đã làm nên trái tim
Nhiều lần ngạc nhiên tự hỏi, tại sao những bức tượng Thánh Tâm lại biểu lộ trái tim đặt bên ngoài lồng ngực. Một thắc mắc không yên nghỉ trong tôi. Tôi không rành về hội hoạ, điêu khắc, tôi không là bác sỹ, tôi là linh mục và tôi suy nghĩ theo cách thức của tôi. Với ba đề tài :
- Trái tim bằng thịt. Suy nghĩ từ hoạt động thể lý.
- Trái tim biểu lộ tâm hồn. Suy nghĩ từ hình ảnh trái tim đặt bên ngoài lồng ngực.
- Trái tim tình yêu. Suy nghĩ từ lưỡi đòng đâm thâu.
Trái tim, một công trình tạo dựng siêu bền. Rất nhỏ được đặt trong lồng ngực, nhưng hoạt động cách không thể ngờ : Mỗi ngày với 24 giờ, trái tim bơm và lọc được 20.000 lít máu. Thật bất ngờ khi biết được con số, điều bất ngờ không dừng ở đấy và tôi khám phá ra công việc bơm và lọc 20.000 lít máu của trái tim, cho tôi 24 giờ sống tinh tuyền nhất mặc dù rất nhiều bất toàn trong tôi. Tôi nhớ đến Lời Chúa nói qua tiên tri Êdêkien với toàn thể dân Do Thái : "Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Bên trong các ngươi Ta sẽ ban xuống một thần khí mới" (Ed 36, 26). Lời ấy như một Lời tái tạo con người cũ thành con người mới.
Như trái tim lọc những dòng máu dơ bẩn khi đi qua các ngõ ngách của cơ thể, để thay vào đó dòng máu tinh tuyền và mang sức sống nuôi dưỡng và làm phát triển toàn thân. Thiên Chúa đang từng giây phút thanh lọc tôi bằng Lời của Người qua dòng đời tôi đang sống. Lời đã sáng tạo và Lời hằng làm nên cái mới, Thiên Chúa đang làm nên những cái mới lưu chảy trong tim tôi. Từng phút giây, Người vẫn không ngừng đổ rót hồng ân Thánh Thần đổi mới cuộc sống trong tôi. Kìa cái cũ đang qua đi và cái mới đang thành sự.
Như công việc của trái tim, tôi không thấy cụ thể những điều trái tim đang làm việc, nhưng tôi biết trái tim vẫn không ngừng rung nhịp đập với trung bình 70 lần một phút trong tôi. Theo từng nhịp đập của trái tim ấy, Thiên Chúa đang hoạt động trong tôi, bởi vì tôi biết rằng Người đã dựng nên tôi cho tôi sự sống và sự sống ấy không ngừng lưu chuyển, cho đến khi tôi được yên nghỉ trong Người. Nếu một ngày kia trái tim này ngừng đập và tôi đã trở thành người của thiên cổ, nhưng trong lòng yêu thương của Thiên Chúa tôi đang an nghỉ. Hôm nay, lúc này, xin tạ ơn Chúa trái tim vẫn còn nhịp đập. Và như vậy là đang sống và như vậy là đang lặn ngụp trong tình yêu của Thiên Chúa. Khám phá ra điều này, tôi nhận thức rằng, mỗi ngày tôi có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa. Sự sống nào không phải là hồng ân Chúa ban tặng để tạ ơn Người luôn mãi.
Như chức năng lọc của trái tim, Thiên Chúa đang thanh luyện cuộc đời tôi bằng Thánh Thần của Người. Lọc những vị kỷ để còn vị tha, lọc hiềm thù để còn tha thứ, lọc giận dữ để còn hiền lành, lọc ghét bỏ để còn yêu thương, lọc những gì là ô uế để còn những gì tinh trong. Nếu trái tim không lọc rửa, dòng máu sẽ trở thành dòng sông đen và chết chóc. Nếu Thánh Thần không được ban xuống trong tôi, như trái tim không còn lọc tẩy, cuộc sống sẽ chết dần, chết mòn trong ô uế và tội lỗi. Thánh thần đang đổi mới cuộc đời tôi.
Như chức năng của máu là nuôi dưỡng những phần nhỏ nhất của cơ thể, Thiên Chúa Người đang tháp nhập toàn bộ cuộc sống này của tôi vào lòng yêu thương của Người bằng cách thẩm thấu. Nếu dòng máu bơm đi từ tim không tới được phần cơ thể nào, cơ thể ấy sẽ chết, và sớm cần được cắt rời khỏi thân thể. Thiên Chúa sống trong tôi và đó là điều tôi cảm nghiệm trong dòng máu lưu chuyển châu thân này, nên tôi biết trong thân thể mỏng dòn yếu đuối này, tôi cần có Chúa. Có Chúa để tôi được sống, có Chúa để tôi được tham dự vào sự sống của người.
Có một lần tại Huế, ghé thăm công viên điêu khắc, tôi chiêm ngưỡng một công trình mà tôi thấy là tuyệt. Trên một chu vi khoảng 2 mét chiều dài, 1 mét chiều rộng, như một tấm đan đặt trên ngôi mộ. Tác giả đặt những khối đá đứng như cõi hỗn mang, góc cạnh tấm đan một đôi giầy, giữa tấm đan là trái tim khắc nổi. Dưới chân khắc ghi 4 câu thơ:
"Hãy yêu như đang sống.
Hãy sống như đang yêu.
Yêu để sự sống tồn tại.
Sống để tình yêu có mặt"
Hình tượng cho tôi dòng suy nghĩ : Tình yêu làm hỗn mang trở nên màu nhiệm sự sống. Và cũng chính tình yêu ấy làm cho sự sống trường tồn bất diệt khi vượt qua sự chết. Thiên Chúa đã cởi giầy để bước vào mầu nhiệm con người bằng thân thể, bằng hình hài, và mang trái tim bằng thịt. Cuộc sống trở nên kỳ diệu khi Thiên Chúa biểu lộ bằng trái tim của nhân loại. Thiên Chúa, Người yêu thương tôi bằng trái tim con người và bằng trái tim của Thiên Chúa. Sự chết không thể chôn kín được tình yêu, bởi sức mạnh của tình yêu là làm cho sống.
Một trái tim bằng thịt, không phải là bằng kim khí hoạt động như chiếc động cơ do con người chế tạo. Bằng thịt nên trái tim dễ bị tổn thương, và trái tim được đặt vào lồng ngực được những hàng rào xương sườn che chắn. Người biết tôi mỏng dòn và là bình sành dễ vỡ nên Người yêu thương tôi, bao bọc tôi bằng ân sủng của Người. Và khiến đời tôi vẫn không ngừng tự hỏi : "Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm". Người yêu thương tôi nhưng sao Người lại đặt trái tim của Người bên ngoài lồng ngực của Người?
Lạy Chúa, hơi thở và sự sống này của con, ước gì đều trở thành lời tri ân Chúa. Vì cuộc sống này, Người vẫn không ngừng đổ rót. (Lm Giuse Hoàng Kim Toan, Vietcatholic).
4. Chuyện minh họa
a/ Chúa không dám giết
Một người vô thần ngày nọ đứng giữa công trường, ngửa mặt thách Chúa trong 5 phút xem có dám giết ông không. 5 phút trôi qua, chẳng có chuyện gì xảy ra. Anh ngạo nghễ ăn nói xúc phạm đến Chúa. Chợt một bà già hỏi :
- Này ông, ông có đứa con nào không?
- Ồ, sao bà lại hỏi thế?
- Nếu một đứa con anh cầm con dao đưa cho anh bảo anh giết nó, anh có làm không?
- Không, tôi thương chúng lắm.
- Chúa cũng vậy, Ngài thương anh lắm, đâu nỡ giết anh.
b/ Con tim rộng mở
Năm 1597 lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.
Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục : người gì mà để trái tim ra ngoài!
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ : "đối ngoại hữu kỳ tâm - đối nội vô tâm giả".
Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn tên Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi:
- Thế nào, bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao?
- Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rầt thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi : đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu Tâm", còn với bản thân mình thì "Vô Tâm". Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời ; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là ngay chính của Thiên hạ vậy. Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo công giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép rửa tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục... (Trích "Phúc").
c/ Chỉ cần mẹ
Tai nạn xảy ra cho cô gái 16 tuổi buộc cô phải nằm nhiều tháng trong bịnh viện. Mẹ cô lại là người đàn bà ham vui, chẳng nghĩ đến chuyện ở lại bên con. Trong khi đang đi du lịch bên Italia, bà nhớ đến sinh nhật của con, liền gửi cho con gái chiếc bình cắm hoa rất đẹp. Cô y tá đem chiếc bình đến, nói rằng mẹ em đã cẩn thận gửi quà vào đúng ngày sinh nhật của con. Cô gái dửng dưng nhìn chiếc bình, rồi hét : "Vứt đi ! Dẹp đi! Tôi không cần. Mẹ ơi, mẹ đừng gửi gì cho con nữa, đừng gửi sách vở, quà cáp, hình ảnh... Con chẳng cần những thứ đó. Con chỉ cần mẹ !".
Đức Giêsu cũng thế, Ngài chẳng cần gì vật chất. Ngài chỉ cần con tim rộng mở của bạn, tình yêu chân thành của bạn, niềm tin phó thác của bạn. Và Ngài muốn nên một với bạn.
d/ Trái tim rộng mở
Một nhà truyền giáo đến kiểm tra trình độ giáo lí một bà già 73 tuổi để được nhập đạo
- Đức Kitô là ai?
- Là người đã chết cho con.
- Người chết thế nào?
- Con không biết.
- Ai là môn đệ đức Kitô?
- Con không nhớ. Con không biết chữ.
- Bà có biết một cuốn sách Thánh Kinh nào không?
- Thưa không. Với người mù chữ thì…
- Đức Kitô sống ở nước nào?
Thinh lặng.
Nhà truyền giáo dừng lại. Bà già tỏ vẻ đau khổ vô cùng. Người hướng dẫn cho bà nói : "Bà này là người rất vững tin, luôn có mặt trong các buổi phụng vụ, dù ở cách xa đó 3 dặm. Bà luôn sẵn lòng cho đi những gì có thể. Trước đây tính khí thất thường, nhưng từ ngày học đạo, bà trở nên hiền hoà và rộng lượng. Mọi người đều thấy thế."
Nhà truyền giáo nhìn bà. 73 tuổi. Bà chẳng còn sống bao lâu nữa, một năm cũng khó. Và ngài quyết định tiếp tục.
- Thiên Chúa là ai?
- Thiên Chúa là Cha trên trời.
- Thiên Chúa ở đâu?
- Con ở đâu, Ngài ở đó.
- Bà có hay thưa chuyện với Ngài?
- Rất thường. Làm việc ngoài đồng hay làm bữa trong nhà, lúc vui cũng như lúc buồn, con đều thân thưa với Chúa. Lúc có nhiều chuyện, con nói lâu. Khi có ít, con nói vắn hơn. Có gì trong lòng, con đều trình bày với Ngài hết. Và lòng con thấy rộng mở.
e/ Trái tim Chúa Giêsu
Nhìn tượng Trái tim Chúa Giêsu, một người nói : "Có lẽ Chúa Giêsu là người duy nhất dám đưa trái tim bên trong của mình ra ngoài cho người ta thấy". Người thứ hai góp ý : "Ngài là người độc nhất trong lịch sử không cần che dấu gì về mình cả". (Onward)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, khi chịu đóng đinh trên thập giá, từ cạnh sườn bị đâm thủng, Chúa Giêsu đã để cho máu cùng nước chảy ra hầu khơi nguồn các bí tích của Hội thánh. chúng ta cùng cảm tạ Người và dâng lời cầu xin :
1. Hội thánh là hiện thân của Chúa Giêsu Kitô / Vị Mục tử nhân hậu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giám mục và linh mục / luôn là những người cha đầy lòng nhân ái và yêu thương hết thảy mọi người.
2. Trên thế giới ngày nay / tình yêu vẫn chưa thật sự ngự trị giữa cộng đồng nhân loại / vì người ta vẫn còn ghen ghét / kỳ thị / loại trừ nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người đang sống trên trái đất này / biết yêu thương và tôn trọng nhau.
3. Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang xả thân phục vụ những người bất hạnh / tìm được niềm vui trong công việc phục vụ của mình.
4. Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết / nhưng muốn họ ăn năn sám hối để được sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết ý thức thân phận tội lỗi của mình / và khiêm tốn thú nhận mọi lỗi lầm đã phạm / để được Chúa thứ tha và được sống dồi dào.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe lời Chúa dạy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
- 18/06 Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu
- 17/06 Đạo đức thực sự vì Chúa
- 16/06 Yêu thương kẻ thù, để nên trọn lành
- 15/06 Ðừng báo thù
- 14/06 Bánh hằng sống từ trời xuống
- 13/06 Có thì nói có, không thì nói không
- 12/06 Quyết liệt xa tội
- 11/06 Người con có biệt tài khuyên nhủ
- 10/06 Kiện toàn lề luật
- 09/06 Muối và Ánh Sáng